Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Trên đời chỉ có một việc đáng nói là tình yêu vì nó là mầm mống của sung sướng và là nguyên nhân của đau khổ.
Ronsard
Trang 1 / 3 123 Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 23

Chủ Đề: Một Chủ Nhật Khác

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Một Chủ Nhật Khác

    Một Chủ Nhật Khác

    Thanh Tâm Tuyền



    Tuy mượn khung cảnh thật nhưng các sự vật và nhân vật trong truyện đều hoàn toàn bịa đặt. Mọi trùng hợp giữa việc và người trong tiểu thuyết với việc và người ngoài đời thật, nếu có, là ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của tác giả.

    Thời tiết đang độ giao mùa. Tháng Tư, mùa xuân rắc mưa bụi. Trời nguyên vẹn sắc xanh trong. Những đám mưa thưa, viển vông thoáng chốc. Nắng mát mẻ, tươi thắm ngay cả khi trời đang mưa.


    Những rừng cây biếc lục trên các triền núi cao phía Tây thành phố hiện rõ. Những đỉnh trọc phơi mầu đá. Đêm tỏ ngời.


    Cuối tháng tư, gió êm ngát trong ngày thỉnh thoảng nổi cơn lộng vào ban trưa hoặc ban chiều. Nắng reo vang trên đồi, trong các rừng thông, lá rộn rịp và trái khô rụng. Mầu nắng rực rỡ, chất nắng óng quyện như mật no ứ gió và phấn thông.


    Kiệt bị ho mất tuần lễ có lẽ vì không khí đầy phấn thông.


    Đầu tháng năm, đôi lúc ban ngày mưa rào nặng hạt, ngắn ngủi, báo hiệu mùa hè. Đã có sương mù ban đêm. Những buổi sáng trời quang tạnh, gió hẩy hẩy đón nắng. Từ đây cho đến ngày đổ những trận giông lấp kín trời đất, gió còn ngả ngớn giữa nắng , mưa êm dịu.


    Kiệt êm tĩnh lạ. Êm tĩnh đủ mọi thứ. Những ngày làm việc trôi chẩy. Thư từ tin tức gia đình đều đặn. Giấc ngủ không bị khuấy động. Mặc dù chung quanh không vậy.


    Cuối tháng ba bước sang tháng tư, trận chiến bùng nổ quy mô khốc liệt tại các vùng giới tuyến. Quảng Trị mất, Kontum, Bình Long bị uy hiếp. Đầu tháng năm ấy hoà đàm Ba Lê lại đình hoãn vô hạn định. Hoa Kỳ tái oanh tạc miền Bắc, dội bom Hà Nội, Hải Phòng, thả mìn phong toả các hải cảng Bắc Việt.


    Trong thị xã xuất hiện bóng dân chạy loạn từ Kontum đến, từ Huế vào. Lính tráng đi ngoài đường đội nón sắt, mang theo vũ khí. Quân trường, từng bị đột kích hồi năm Kiệt mới đổi lên, tăng cường bố phòng. Canh gác, tuần tiễu gia tăng. Báo động, phòng thủ nghiêm ngặt, có đêm hai ba lần. Các sĩ quan giáo sư đều bị huy động vào tiểu đoàn trợ chiến cho tiểu khu, các đại đội ứng chiến phân phối cho các cứ điểm thuộc phạm vi trường. Không khí căng thẳng, xớn xác.


    Vẫn giữ thói quen riêng lẻ, trong một tuần thế nào Kiệt cũng ngủ nhà một đêm. Giá của chút tự do ấy là những ngày phạt ghi vào hồ sơ.


    Nội trong tháng tư Kiệt ký lãnh mười sáu trọng cấm, trừ lương. Kiệt như quen với hình phạt và các thủ tục của nó. Hơn hai năm về quân trường này, Kiệt chưa hề thấy một ngày xả trại hoàn toàn. Bình thường là bẩy mươi lăm phần trăm, cứ ba đêm ngủ trại một đêm ngủ nhà, và lúc nào cũng sẵn sàng tăng lên trăm phầm trăm, hãn hữu lắm mới xuống năm mươi phần trăm và không bao giờ lệnh này kéo dài đến hai tuần lễ. Tổng cộng đến đầu tháng năm, số ngày thọ phạt của Kiệt khoảng từ bốn đến năm chục ngày.


    Kiệt lỳ.


    Mỗi lần bị gọi trình diện phải đứng nghiêm trang hay được mời ngồi, bị khiển trách nhiếc móc hay được bảo ban khuyến dụ, Kiệt đều nín lặng. Mặc. Kiệt mong được đổi đi thoát quân trường, đi thoát thành phố buồn tẻ phát ngấy. Nhưng có lẽ vì chàng là giáo sư, người ta còn cần và còn thương hại chưa nỡ thẳng tay.



    Vào đầu tháng năm Kiệt đã bỏ không đội nón sắt khi chạy ngoài phố.


    Các trường sắp sửa nghỉ hè. Ngoài những giờ trong quân trường, Kiệt dậy một số giờ sinh ngữ tại các lớp buổi tối của Hội Việt Mỹ và phụ trách giảng môn Quản Trị Sản Xuất tại Viện Đại Học. Kiệt nghe nhẹ mình khi bước vào các lớp trong những giờ cuối cùng của khóa học. Không còn chiếc nón sắt úp chụp, đỡ vẻ kỳ cục, và, đã trông thấy một thời gian thảnh thơi trước mắt, dù chưa biết sẽ làm gì.


    Trong tình thế nghiêm trọng, Kiệt không còn cách gì về Sàigòn thăm vợ con.


    Mỗi buổi chiều, Kiệt đều ra phố, uống cốc cà phê, ăn hai ba cái bánh cam, đọc tờ báo hàng ngày với mớ tin trễ hơn các đài phát thanh ngoại quốc ít nhất là 48 giờ. Những bạn đồng nghiệp đồng cảnh gặp nhau ngày một ngồi chung bàn bỏ mặc Kiệt trầm ngâm. Thường khi, nếu không bận đến lớp, Kiệt cùng vài ba người tản bộ quanh chợ, thẩn thơ bên bờ hồ, rộn ràng những chuyện lớn lao và vặt vãnh.


    Những buổi chiều thật đẹp. Gió thấp, gió cao, trùng trùng như nắng trên những quãng rộng. Kiệt bắt gặp mình mơ màng hắt hiu. Như thể gió cuốn bay mọi ý nghĩ ra ngoài trời. Kiệt húng hắng ho khi bất chợt hớp phải một ngụm gió lùa.


    Riêng chiều thứ năm và chiều thứ sáu, Kiệt ghé ty bưu điện.


    Kiệt không gửi và nhận thư qua khu bưu chính, tuy dùng địa chỉ này có thể tiện lợi. Kiệt không hẹn ai vào chỗ làm việc kiếm mình, trừ các bạn đồng đội. Kiệt không ở trong cư xá sĩ quan độc thân, cũng không xin nhà trong cư xá sĩ quan có gia đình.


    Từ ty bưu điện, Kiệt chạy về khách sạn P, nơi dành cho hạng du khách sang trọng.


    Mấy lúc này vắng du khách. Từ năm chiến tranh tái phát, thành phố trở nên bẩn thỉu. Trong gian phòng trà rộng thênh thang, kiến trúc có những cột lớn, Kiệt mặc sức ngồi suốt buổi không gặp một ai. Ngoài mặt tiền lắp kính trong là hàng hiên trồng hoa, dưới tầm mắt là hồ nước im và đồi cỏ. Khách sạn tọa lạc trên triền đồi có đường xe hơi lên tới trước cửa và một lối bực cấp bằng đá cho người đi bộ. Quang cảnh chỗ này còn giữ được vẻ thơ mộng.


    Ngồi ngả trong ghế bành mây, Kiệt đọc thư Thùy hoặc ngắm trời xa trên đồi. Chàng cũng có thể trông thấy bóng núi in hình khuôn mặt người đàn bà nằm ngửa. Khi mây mù giăng phủ những chỏm núi ấy, mưa sẽ đến. Cũng thường khi, Kiệt tới đây gọi điện thoại về Sàigòn.


    Tuần lễ đầu tiên của tháng năm, Kiệt mới nhận được thư Thùy viết từ giữa tháng tư. Trong thư Thùy nhắc hỏi Kiệt nhớ ngày gì sắp đến không. Kiệt nhớ vào cuối tháng tư là những ngày kỷ niệm hôn lễ của hai vợ chồng, sinh nhật đứa con đầu lòng và đứa con thứ ba. Đúng ngày kỷ niệm của hai vợ chồng, Kiệt đã gọi điện thoại cho Thùy, ngỏ ý tiếc không thể về với vợ con cũng không thể làm sao gửi quà. Thùy nói hôm trước đi phố nàng có mua một cái tẩu hút thuốc định gửi tặng Kiệt, sau nghĩ lại nàng đành cất ở nhà, sợ Kiệt ngậm ống điếu chọc cho chúng ghét thêm. Kiệt bảo vợ cứ gửi lên nhưng nàng không nghe.


    Trong một thư khác, Thùy hỏi ý kiến Kiệt định cho các con nghỉ hè ở đâu, về bên ngoại hay cùng mẹ lên thăm bố. Nàng sẽ xin nghỉ phép thường niên, đi thăm chàng. Kiệt đã trả lời vợ, trong tình hình này đi lại bất tiện, vả lại cơn bệnh xuyễn của nàng gặp khí lạnh phát tác sẽ làm khổ nàng, lý do nữa, chàng đang bị cấm trại nghiêm ngặt. Kiệt an ủi vợ ráng kiên tâm chịu đựng, trận chiến quyết định đang diễn tiến, ngày chàng cởi bỏ quân phục gần đến.


    Viết cho vợ nuôi hy vọng về trận chiến cuối cùng nhưng riêng Kiệt, chàng gạt bỏ ý tưởng ấy trong đầu mình. Bao nhiêu lần Kiệt trông thấy những cuộc chiến cuối cùng rồi? Chàng không thiết đến hy vọng.


    Kỷ niệm hôn lễ của hai vợ chồng năm nay là năm thứ tám. Thực ra đó chỉ là ngày hôn lễ chính thức. Trước ngày đó hai người đã sống chung với nhau.


    Kiệt và Thuỳ gặp nhau ở Âu Châu trong năm học cuối cùng của Thùy. Thùy bị gia đình gọi về khi bà mẹ ngã bệnh nặng hấp hối. Bà cụ qua khỏi nhưng lại bị bán thân bất toại và giữ Thùy ở nhà. Thùy gọi Kiệt về. Kiệt chần chừ: về để làm gì? Làm gì ở đấy? Em nhìn chung quanh em xem? Sang với anh. Thùy đáp: Em không thể bỏ má; anh không thể bỏ em; không phải anh chọn lý tưởng hay tổ quốc hay bất cứ thứ gì, anh chỉ chọn em, một mình em và đứa con sắp chào đời của chúng ta. Anh không nghe tiếng kêu xốn xang của em sao?


    Kiệt nghe tiếng kêu xốn xang của Thùy. Chàng trở về.


    Ban đầu Kiệt làm việc tại An Hoà Nông Sơn. Sau đó Kiệt bỏ Sàigòn làm cho một công ty ngoại quốc và rồi bị gọi vô Thủ Đức. Từ ngày ấy, đã sáu năm, Thùy thế chỗ Kiệt ở sở cũng như ở nhà. Ra trường Thủ Đức, Kiệt về quân nhu, làm trong phòng thí nghiệm tại một kho dầu. Ở trong quân đội, Kiệt thấy mình hao mòn sa sút, vô công rồi nghề, Kiệt quyết định với sự đồng thuận và khuyến khích của Thùy xin một học bổng du học của quân đội. Chàng được thuyên chuyển lên quân trường đợi ngày đi. Nhưng năm ngoái, phút chót đến ngày làm thủ tục xuất ngoại, Kiệt đổi ý. Khi có lệnh biệt phái, Kiệt được Bộ Kinh Tế xin, bị nhà trường ngăn chặn, trừng phạt tội cãi lệnh khước từ du học.


    Bây giờ Kiệt chỉ thấy con đường duy nhất của ngày về với gia đình: giải ngũ. Nhưng đến bao giờ?


    Gần đây Thùy báo tin cho Kiệt hay các bạn của chàng ở Bộ Kinh Tế lại làm thủ tục xin chàng lần nữa. Nàng cũng đã nhờ người thân trong gia đình vận động trên Bộ Quốc Phòng và Bộ Tổng Tham Mưu để lần này việc biệt phái được êm đẹp. Thùy rất hy vọng, nhưng Kiệt rửng rưng.


    Trong thời gian này, Kiệt cũng nghe mình hờ hững, lạnh nhạt với vợ con. Chàng vẫn nghĩ tới Thùy, tới ba đứa con nhưng không tha thiết buồn khổ lắm. Dường như chàng mải chú ý đến những điều gì mơ hồ đâu đâu. Nhiều khi dưng không chàng sực nhớ những chuyện vụn vặt, vô nghĩa, và những nhớ tưởng ấy ám ảnh chàng triền miên. Có lúc Kiệt ngỡ ngàng thấy mình đang sống như một cái máy. Đầu óc chàng lờ đờ, chậm chạp. Nhưng đồng thời vang vọng ở chàng một niềm hoan lạc thầm thì khó dứt. Chàng bắt gặp những phản ứng bất chợt, kinh ngạc. Những lúc ấy chàng như tỉnh táo hẳn thấy cảnh tượng trời đất chuếnh choáng trong gió hoặc bấp bênh nhẹ bỗng như thiếu khí thở.


    Những trận gió vẫn la đà, mông lung. Tâm trí Kiệt phiêu lãng quanh những mép vực thẳm, có thể say ngã không hay.


    Rồi cũng qua - Kiệt tự nhủ - cũng qua như lần trước. Chàng nghiệm hình như cứ đến mùa gió thần trí chàng lại bị lao đao, khốn đốn.


    Riết rồi cũng quen, Kiệt tưởng vậy.

    Lần trước còn học trong Thủ Đức, một chủ nhật được phép xuất trại, Kiệt không về nhà. Chàng thức giấc lúc trời tối mịt, không đợi xe buýt, ra khỏi doanh trại cùng vài người như những bóng ma. Một chuyến xe lam đưa chàng về Sàigòn còn đèn thắp ngoài đường. Trên phố vắng vẻ, gió không lộng như ngoài xa lộ, nhưng hun hút xào xạc. Kiệt đứng trên hè ngó dãy phố đóng ỉm cửa, và như bị nhiếp hồn. Chàng tới bến xe lục tỉnh, bước lên một chuyến xe lô sắp rời bến. Chuyến xe đưa chàng tới Mỹ Tho. Kiệt lang thang trong tỉnh lạ, mướn phòng ngủ, rỡn nghịch với một lưỡi dao cạo. Vết sẹo trắng, nhỏ như vết cào xước trên cườm tay. Sáng hôm sau, Kiệt ngơ ngác lên xe trở lại Sàigòn, bị quân cảnh bắt giữ trả về trường.


    Kiệt không sao giải thích được với vợ về sự mất tích trong suốt một ngày nghỉ của chàng. Sự thật quá kỳ quặc không cách nào bầy tỏ với người khác, dù người ấy là Thùy, mà không mang vẻ giả dối, trơ trẽn.


    Thùy tra vấn, Kiệt chối quanh, bịa đặt vụng về. Thùy ghen, nàng nghĩ Kiệt trốn đi với một người đàn bà.


    Cuối cùng Kiệt đành nhận tội lỗi theo ý muốn của vợ. Chàng đã gặp người tình cũ, người tình thuở mới lớn. Cô gái đã có gia đình, lập nghiệp tận bên Lào, nhân về thăm nhà tình cờ gặp Kiệt. Chủ nhật ấy là ngày cuối cùng của cô ở quê hương, sáng hôm sau cô đã lên máy bay rời Sàigòn. Chàng yếu lòng, sa ngã, bị quyến rũ. Và chàng thề trên đầu ba đứa con không bao giờ gặp lại cô ta nữa.


    Thùy chấp nhận chuyện đó như nàng hướng dẫn, sắp xếp bằng những câu gạn hỏi, ròng rã hàng tháng. Nàng bằng lòng tha thứ, lần đầu và cũng là lần cuối, với đôi chút rẻ rúng khinh nhờn trong thái độ mà Kiệt đành chịu.


    - Em trả tự do cho anh, anh chịu không?


    -Anh đã nói anh không thể thiếu em.


    -Nhưng anh cũng không thể thiếu cô ta. Tình đầu làm sao quên.


    -Anh đã chẳng kể cho em nghe rồi về cái mối tình ngu ngơ này của anh từ hồi ấy. Có gì đâu, em biết chứ.



  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    -Có gì đâu. Mới chỉ có một ngày một đêm em thất điên bát đảo lùng kiếm anh khắp nơi khắp chốn. Anh chỉ việc về bảo em một tiếng là anh cần đi, em sẵn sàng để anh đi. Em đỡ mất công lo lắng. Có gì đâu mà mới gặp lại đã quên cả vợ con ngong ngóng suốt tuần ở nhà chờ ngày chủ nhật. Lần sau gặp chắc anh đi luôn quá.


    -Anh đã bảo cô ta không còn ở đây. Không bao giờ anh còn gặp....


    -Nghĩa là nếu cô ta ở đây thì anh sẽ đi?


    -Không. Không bao giờ nữa. Lúc đó anh sa sút tinh thần. Em phải hiểu.... anh khổ tâm.


    -Anh sa sút thật. Anh sa sút đến em cũng không ngờ.


    Kiệt muốn sa nước mắt sau câu nói của Thùy.


    Rồi một bữa Thùy ngó thấy vết sẹo trên cổ tay trái Kiệt khi chàng cởi đồng hồ đeo tay.


    -Cái gì đây?


    -Em không biết ư? Kiệt đùa, tưởng chuyện đã xếp từ lâu - Dấu tích của người tình cũ đấy.


    -Sao? Trò gì vậy?


    -Cô ta vẫn còn hận anh, đòi tự tử chung cùng chết với nhau. Anh không chịu. Cô ta cầm lưỡi dao cạo cứa anh luôn... Em thấy anh yêu em biết là chừng nào.


    Mấy tháng qua, Kiệt vẫn chưa hoàn hồn hẳn. Kiệt cười hềnh hệch, ngu độn. Sau đó, chàng chợt nghe sự im lặng trầm trọng của Thùy. Chàng đành tiếp tục cười, giả dối.


    -Vui dữ hả? Em thật không ngờ.


    -Em không ngờ sao?


    -Mấy người không thấy là mấy người diễn trò dâm loàn, đồi bại...


    Thùy bật la lên, chụp lấy Kiệt xâu xé. Kiệt chết sững, không phản ứng. Thùy rít lên: Đồ tồi bại, đốn mạt, sadique... tu es sadique, không ngờ, không tưởng tượng nổi. Tởm, tởm quá. Kiệt chảy nước mắt những vẫn cười nôn.


    Khi nguôi ngoai, Thùy hỏi:


    -Có thật đàn ông các anh ngấm ngầm đều ưa những trò tồi bại? Có thật anh chán tôi, vì tôi không thể... bước vào khách sạn, hay nằm ngoài trời với anh như....


    -Đừng bậy. Anh không phải thế....


    -Thế anh là thế nào? Còn vết sẹo kia giải thích thế nào?...


    Kiệt nghẹn lời. Chàng không thể hé môi. Làm cách nào chàng có thể mở miệng giải thích?


    Rồi cũng qua.


    Bây giờ, Kiệt tự đùa mình: một hôm nào tình cờ người tình cũ của ta có thể đột ngột xuất hiện chăng? Chàng hơi trợn trước câu hỏi.


    Gió lởn vởn ngoài mặt kính lay những bông mồng gà đỏ trong khi những bông đại đoá mầu tím nhạt im lìm. Buổi chiều rực rỡ ngoài đồi. Nắng vắt ngang thân núi biếc.


    Kiệt ngồi trước cốc bia đã lắng bọt đợi điện thoại liên lạc Sàigòn.


    Chàng tưởng trước đến tiếng nói của Thùy sẽ nghe thấy. Tiếng nói điềm tĩnh, dịu dàng lan đến theo bước sóng không bị rối loạn. Trời thật cao trong.


    Chàng sẽ bảo Thùy: em lên với anh mau.


    Mỗi tối trước khi vào trại Kiệt ghé về qua nhà một lúc.

    Ngôi nhà Kiệt đang ở trong cư xá Hỏa Xa là của một người bạn làm ở Bộ Công Chánh cho ở nhờ. Nhà đủ đồ đạc, tiện nghi khóa cửa bỏ đấy, trong một năm chỉ vào dịp hè hoặc Giáng Sinh mới có người lên nghỉ lưu trú một hai tuần là cùng. Mặc dù được chủ nhân trao cho xâu chìa khóa toàn quyền sử dụng, Kiệt chỉ chiếm ngụ một phòng, với phòng tắm rửa phụ thuộc, có cửa vào riêng quay về hướng Đông. Khu cư xá cất trên đồi trông xuống nhà ga, nhà cửa rải rác cách nhau những đám cỏ hoang rậm bên những con đường đất đã hư hỏng hoặc bị cỏ lan phủ. Trên khoảng đồi trồng nhiều thông, lá xanh um.

    Chỗ ở tịch mịch hợp ý Kiệt. Nhiều nhà trong cư xá chẳng rõ có người trú ngụ hay không.

    Hồi mới đổi lên, Kiệt mướn phòng trong một nhà trọ. Phòng thuộc tầng dưới mặt đất, chật hẹp, ngộp thở. Thời ấy quân đội Đồng Minh còn nhiều. Khách ở phòng cho thuê hầu hết là các cô gái lấy Mỹ hoặc Đại Hàn, họ sống xô bồ, ồn ào vô tư nhiều lúc dễ ghét nhưng có lúc thấy tội. Thùy không bằng lòng cảnh chung đụng hỗn tạp. Nàng kiếm cho Kiệt một chỗ khác: gia đình người em họ xa Thùy bằng lòng nhường Kiệt một căn phòng trên lầu trong ngôi nhà của họ. Chỗ sau này bất tiện vì khuất nẻo, kém an ninh, nhà lại đông trẻ.

    Kiệt đến chỗ hiện nay đã trên một năm, cũng khoảng tháng tư tháng năm năm ngoái, su buổi tình cờ gặp người bạn cách mặt lâu ngày những vẫn còn giữ vẹn mối giao tình. Hắn thành thật mời chàng, rồi khi chàng nhận lời hắn đùa bảo:

    - Cũng là cách tôi lợi dụng bạn. Bạn trông nhà dùm tôi. Nhà có hơi người đỡ mốc hư. Gia đình tôi có kéo nhau lên nghỉ, tôi có bạn ở chung hoặc cả gia đình bạn thì tôi cũng được vui. Tình thực mà nói, mình đưa gia đình đi nghỉ là vì bổn phận, chứ cứ lên chơi trên này với bạn hay với người tình là nhất.

    Có lẽ Kiệt đã chú tâm nhiều đến điệu gió mỗi khi về ngôi nhà này.

    Mỗi tối Kiệt sung sướng bước vào gian nhà.

    Khu cư xá tối tăm lạnh lẽo. Vhàng bật ngọn đèn sáng ngắm khuôn phòng luôn luôn bề bộn. Chàng dọn dẹp bâng quơ, chồng sách, đống giấy trên bàn, những bộ quần áo bẩn treo máng trên mắc, trên thành giường, giấy dép, vỏ bao thuốc, mẩu tàn thuốc dưới gạch. Chàng thay quần áo hoặc mặc thêm áo, vào phòng tắm đánh răng rửa mặt như sửa soạn đi ngủ - mặc dù sau đó chàng lại đốt thuốc hút. Rồi nằm lăn trên chiếc giường sắt lò so kiểu cổ, rộng thênh - mùa lạnh bốn năm người nằm nagng cũng vừa - lơ mơ nhìn đèn hay đọc vài trang sách. Hoặc chàng ngồi ôn đàn tập dượt hát ngâm nga (trong những tháng học quân sự ở Thủ Đức, Kiệt đã mua cây Tây Ban Cầm và một quyển sách dạy đàn, tự học trong những buổi tối rảnh rang).

    Thảng hoặc Kiệt mở cánh cửa thông sang phòng khách, bước vào chỗ ngồi nhất định ở đầu ghế dài nhìn các đồ đạc thiết trí không phải của mình và cũng không có lấy một dấu tích rõ rệt nào là của mình, trừ hai ba dấu giầy trên thảm bụi, một vài mẩu thuốc trong gạt tàn và vết chũng trên ghế đã phủ vải che. Các phòng khác Kiệt không hề đụng tới.

    Kiệt vào trại trễ hơn mọi người, khi những con ngựa sắt, giấy kẽm gai đã kéo ngăn các cổng.

    Chàng chạy xe Lambretta trên đường vắng tanh âm u. Rời nhà vào trại, chàng nghĩ con người ta cũng chỉ là loài thú quen sống bầy. Chàng rời chốn ẩn núp lẻ loi đi tìm đồng loại để được che chở an toàn. Phóng xe qua những quãng thiếu ánh sáng, chàng thấp thoáng nghĩ mình có thể bị bắn hạ bất ngờ, té ngã giữa lộ đêm giống như con chó bị xe cán.

    Kiệt đã sống qua nỗi hoảng kinh của của con thú lạc bầy hồi Tết Mậu Thân khi bị kẹt trong vòng chiến hai ngày không vào được trại.

    Qua khỏi cổng, Kiệt chạy ngang khu cư xá sĩ quan. Đôi ba nhà còn ánh đèn sau các ô cửa kính. Những chiếc xe díp đậu ngoài sân đất trước các nhà đã vắng bóng. Kiệt còn phải ngừng xe cho lính gác nhận diện ở trạm gác đầu khúc quanh vào khu trường cũ. Khu này thiếu đèn đóm gồm những dãy nhà mái ngói vách ván sân xi măng, lập từ thời còn quân Pháp, bây giờ dùng làm chỗ trú đóng các đơn vị yểm trợ. Từ khu trường cũ sang khu trường mới xa lối hai cấy số. Để đi từ ngọn đồi bên này qua ngọn đồi bên kia phải chạy xuống một lũng thấp. Dưới lũng là trại gia binh, nhà cửa bằng gỗ lợp tôn lụp xụp. Vượt con dốc trại gia binh, đã nhìn thấy ánh điện lấp lánh của khu trường mới, trong gió hút tứ bề trông như một thành phố kỳ ảo. Còn chạy dọc theo vũ đình trường, một bên là mặt cỏ phẳng tối, một bên là lũng sâu thông mọc xít, Kiệt khoan khoái ngó những đốm đèn san sát nhiều tầng của những khối nhà hình vành cung.

    Mỗi khi vào đến bến đậu xe, bao giờ Kiệt cũng đưa mắt về hướng núi cao nhất của cao nguyên này, nhìn những ngọn điện phất phơ trên đỉnh. Hàng điện sáng rỡ, vẽ đường vòng cung giữa trời, hồi quân đội Mỹ còn đặt đài truyền tin ở đấy, nay đã lặn, chỉ rớt lại vài ba đốm xa xôi mờ nhạt.

    Kiệt không về phòng mình. Chàng không thể ngủ sớm, cũng không thể làm việc. Chàng có vài người bạn kết giao từ ngày lên đây. Chàng tìm gặp bạn để qua buổi tối.

    Những đêm cấm trại trong tình hình nghiêm trọng bày cảnh láo nháo. Bọn sĩ quan độc thân tụ tập ở Hội Quán đánh bi-a, đô-mi-nô, cờ tướng, hoặc tán gẫu tranh luận trên trời dưới biển, hoặc họp nhau tại các phòng khuất, ít bị dòm ngó, bài bạc đến sáng. Câu lạc bộ chật ních, muời một, muời hai giờ còn người ra vô. Đám sĩ quan cao cấp, già nua, đi lính từ thời Pháp, qua lại giữa các phòng, các dãy, thăm viếng nhau, cũng có khi gặp gỡ năm ba người trong một phòng, bàn tán chuyện công vụ, chuyện thời cuộc, nhân tình thế thái.... Trong hành lang, dưới chân cầu thang, binh sĩ, hạ sĩ quan trải áo mưa, giăng mùng nằm ngồi la liệt. Các toà nhà vang động đến khoảng muời giờ. Sau giờ ấy người ta nằm chờ giấc ngủ, phiên gác, phiên tuần tiễu, kiểm soát hoặc tiếng còi báo động hú gọi.

    Kiệt thường tìm Nghiên rủ đánh một vài ván cờ, nếu bạn không bận soạn bài, và yêu cầu bạn cho nghe nhạc trong khi chơi cờ.

    Nghiêm vốn dân địa phương, lấy vợ địa phương, chỉ rời tỉnh thời gian theo Đại Học. Đi lính mấy tháng, ra trường đổi ngay về tỉnh nhà. Nghiêm được trường gửi đi Mỹ học, mới về năm ngoái. Con người lặng thinh, chăm chỉ, thích làm việc, tận tâm vì tính tự nhiên như vậy. Phong thái điềm đạm, cung cách nhã nhặn. Cách sống bên ngoài của Nghiêm tầm thường, hiền hòa nhưng đó là cách của người có một vài ý sống bền chặt không dời đổi.

    Kiệt thân nhất với Nghiêm ở đây. Thỉnh thoảng, muốn ăn bữa cơm gia đình, Kiệt đến Nghiêm. Vợ Nghiêm nhỏ tuổi, học trường sơ và bây giờ dậy tại chính ngôi trường đã đào tạo ra mình. Nàng mặc đúng thời trang, không lòe loẹt, dáng vẻ nhu mì hơi khác thường giống như một cô tu xuất. Bên cạnh vợ chồng Nghiêm, Kiệt nhiều khi thấy mình bồng bột, nhộn nhạo quá.

    Buổi tối hôm ấy, đứng trên bãi đậu xe, mắt ngước về hướng núi, Kiệt bỗng nghe vẻ khác thường trên cảnh vật.

    Vẫn những ngọn điện thưa trên đỉnh núi lấp lánh cùng những đốm sao xanh của một vòm trời thượng tuần trong veo. Đám thông dưới triền lũng gần, trên ngọn đồi Bắc, khua rào rạt. Lảng vảng đâu đây trải một nền náu im thăm thẳm. Trên những con đường và sân cỏ chạy giữa hai dãy khối nhà không bóng người. Đèn trong các phòng vẫn chiếu qua các cửa sổ. Tại đầu hành lang vào các khối vắng bóng lính gác.

    Kiệt sực nhớ bữa nay là thứ sáu.

    Hàng tuần vào tối thứ sáu có buổi chiếu phim dành cho sĩ quan và gia đình. Hạ sĩ quan, binh sĩ không mắc trực gác và cả những đám trẻ dưới trại gia binh đổ xô vào chật phòng chiếu bóng. Những đêm chiếu bóng thường không có báo động. Dù sao người ta cũng không thể phá dịp vui hiếm hoi của gia đình vợ con. Và sau khi đã đưa vợ con về nhà rồi một mình trở vào trại giữa đêm khuya người ta không nghĩ gì khác hơn là được ngủ yên.

    Nhưng sau khi đã tự giải thích được vẻ bất thường ở xung quanh, Kiệt vẫn thấy vẻ ấy chưa tan nhòa trong tâm tưởng chàng. Kiệt đứng ngẩn ngơ bên cạnh chiếc xe đã dựng.

    Phải, đúng là thứ sáu. Hồi chiều chàng vừa dậy xong buổi chót tại Viện Đại Học. Chàng đã nói bài kết thúc và những lời cuối khoá với sinh viên. Khi dứt lời, chàng nghe sự nín khe trong đầu như thể chàng chưa nói gì. Có cái gì chưng hửng lan trong không khí của giảng đường. Chàng ngây người. Thông reo lùa từ xa tới gần ngay bên cửa.

    Lúc ấy, Kiệt cũng mất ý niệm về thời gian như lúc này.

    Sinh viên lục tục ra khỏi giảng đường. Một cô bé thường ngồi ở giữa những hàng ghế sau tiến trên lối giữa, gương mặt ngỏ ý muốn gặp chàng. Kiệt rời khỏi bục. Rồi chàng cùng bước song song với cô ra cửa.

    -Em muốn được hỏi thầy vài điều.

    Kiệt ngừng ở ngưỡng cửa. Cô bé thụt lui một bước, khuất bên mé tường.

    -Chuyện gì thế cô? Kiệt hỏi.

    -Thầy cho gặp riêng....

    -Cô nói bây giờ đi.

    -Em còn phải sửa soạn các câu hỏi.

    -Tôi đợi.

    -Em xin lại thăm thầy ở nhà.

    -Ở nhà tôi? Kiệt nhíu mày.

    Chàng nhìn cô bé khép nép cũng như chàng vẫn nhìn trong các buổi giảng, tìm một chỗ đậu cho tia mắt. Chàng trông thẳng vào gương mặt giống như khi ngắm một bông hoa cắm trong cốc đặt trên bàn viết.

    -Bao giờ cô đến tôi?

    -Em sẽ đến thầy sáng chủ nhật. Được không ạ?

    -Sáng chủ nhật.

    Kiệt nhắc thờ ơ rồi ngồi xuống bực cấp. Chàng mải ngơ ngác lắng theo hướng gió.

    Trời xẩm xẩm. Tiếng động rời rạc. Con đường nhựa trong Viện rợp cây. Các sinh viên ra về hết. Kiệt gặp họ tản mác trên đường dốc bao quanh đồi.

    Kiệt không quan tâm đến cô bé. Chàng không nhớ cô ăn mặc thế nào. Chàng cũng không biết tên nữa. Và bây giờ chàng hình dung cô bé trong buổi chiều như đã xa lắc.

    Trước khi đến lớp, Kiệt đã nói chuyện với Thùy, Chàng chưa kịp bảo Thùy lên với chàng thì nàng báo kỳ nghỉ phép phải tạm hoãn. Sở cử nàng đi công tác Thái Lan, rồi Nhật bản, vào cuối tháng. Trước khi đi thể nào nàng cũng lên với chàng một hai ngày. Kiệt nuốt luôn tiếng kêu gọi và hỏi han về ba đứa nhỏ. Chàng không nói được gì với Thùy ngoài những lời thông tin chiếu lệ.

    Kiệt đã cất bước rời bãi đậu xe bỗng chàng trông thấy một đốm lửa di động trên một triền núi gần hơn ngọn có điện mắc trên chóp. Thoạt tiên chàng nghĩ là ánh đèn xe, nhưng rồi mầu đỏ lập lòe giống như đầu điếu thuốc cháy khiến chàng nghĩ đến một ngọn đuốc thắp soi đường trong rừng. Chàng dừng chân đứng một chỗ nhìn chăm chú. Đốm lửa khuất thình lình rực soi những bóng cây trên núi. Đốm lửa không hề di động, chỉ bị gió lay chuyển rập rờn. Một chốc đám lửa lan thành đám cháy. Những cánh rừng bám triền núi chìm đắm trong đêm bật hiện. Lác đác trên thảm cây biếc xẫm vài ba đốm lửa ửng hồng.

    Kiệt buộc miệng kêu: A, cháy rừng. Chốc lát nữa, ngọn núi sẽ bốc lửa tỏa rực một vùng. Chàng ngây sững đón chờ cảnh tượng. Lửa thiêu hủy cây cối trong đêm sẽ soi tới chỗ chàng đứng. Tàn lửa và tro than, gió cũng thổi bay tới.

    Thêm những đám lửa nhỏ rải rác bập bùng nhưng đám lửa đầu tiên không lan rộng. Mặc dầu sự mong mỏi của Kiệt, đám cháy trên triền núi không xẩy ra. Đêm ít gió. Những chùm lửa cách biệt, lơ lửng rồi lụi tàn.

    Kiệt đứng như trời trồng.

    Hai người từ phòng chiếu bóng ra qua lưng Kiệt trên bãi cỏ. Họ không chú ý đến Kiệt, bàn tán chê bai cuốn phim xem bỏ dở nửa chừng.

    Kiệt tưởng tượng tiếng nổ lách tách của những thân cây khô già khi bị lửa bám đốt. Trong mắt Kiệt rập rờn bóng lửa trên núi.

    Chàng thật cô đơn.

    Kiệt sống lại đêm tháng sáu Bắc Âu, đêm mùa hè của miền lạnh lẽo với mặt trời cháy suốt đêm trên đầu núi. Người ta kéo nhau ra đồng, ăn uống, ca hát, khiêu vũ, ngắm mặt trời đêm nguyên hình một khối đỏ ối. Năm ấy Thùy tốt nghiệp, hai người rủ nhau sang chơi Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy trong dịp hè. Cả hai người đều còn trẻ. Đêm hội mùa hạ, họ nằm bên đống rơm, ngây ngất trước khối lửa lạ lùng, hôn nhau, và yêu nhau. Đó là đêm tân hôn.

  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Kiệt thấm thía nỗi cô đơn. Và Thùy hiểu lẽ yếu đuối cần được phủ ấp. Họ yêu nhau lần thứ hai lúc nửa đêm. Mặt trời đã lên đỉnh như chiếc bóng lửa tròn xoay. Hơi ấm gờn gợn giá. Văng vẳng bên tai Kiệt một khúc ca yêu đời của Grieg. Chàng ghé tai Thùy thì thào:

    Flamme seule, je suis seul. (1)

    Đêm nay chàng sống lại nỗi cô đơn, trong cảnh trơ trọi.

    Còn Thùy? Dường như nàng đã quên bặt khối lửa đêm ấy hoặc nàng chỉ còn thấy chiếc bóng của nó ghi trong ký ức như thấy hình chụp trên tấm bưu thiếp giữ làm kỷ niệm.

    Nàng quên bẵng sự yếu đuối, nhỏ nhoi, tuyệt vời của nàng.

    (1) Ngọn lửa cô đơn, tôi cô đơn.



    Toà nhà Khoa Công Chánh quạnh quẽ nhất trại vào buổi tối. Tiền sảnh không một ngọn điện. Cả hai tầng nhà, mặt trước đều là phòng học, phòng thí nghiệm tối om. Có phòng bật sáng chốc lát thì cũng chỉ soi hiện một không gian trống trải sau cửa kính, còn người lọt thỏm nơi đâu không thấy. Các phòng làm việc của khoa ở sâu mé trong chỉ chiếm một góc tầng dưới, cửa sổ mở ra mặt hậu. Bên dưới các cửa số ấy, và suốt mặt hậu, đặt một tuyến phòng thủ với những hầm hố cá nhân và cộng đồng. Tuyến phòng thủ trấn giữ quãng đường như khuỷu tay nằm chênh vênh sát lũng thông dốc. Dưới lũng thông có một tiền đồn. Mặt này từng bị địch xâm nhập trong cuộc đột kích năm kia. Giữa con đường và tòa nhà còn cách một hàng rào lưới sắt chống B.40 chạy dài đến nhà thí nghiệm nặng và bãi cỏ thoải.

    Lúc chạy dưới đường, Kiệt thấy cửa sổ phòng Nghiêm sáng. Khuôn cửa sổ duy nhất của tòa nhà cháy đèn, xa cách với những chốn đèn đóm giăng giăng.

    Kiệt vừa đặt chân vào trong hành lang sâu hoắm bít bùng như một đường hầm đã nghe văng vẳng tiếng nhạc từ phòng Nghiêm. Anh chàng có thói quen mở nhạc lúc làm việc. Nghiêm thu thập trong hai năm học ở Mỹ được một bộ băng nhạc quý. Những khúc nhạc vẳng trong trại binh buổi tối đã dẫn dụ Kiệt tới phòng Nghiêm gõ cửa làm quen.

    Vừa thoát cơn huyễn hoặc của bóng lửa trên núi, Kiệt lại bị xô ngụp vào cơn huyễn hoặc của những âm thanh thân thiết.

    Như đứng lạc giữa tòa nhà bí ẩn, ma quái, Kiệt lóng tai nghe Hòa Tấu Khúc Số 5. Những hòa tấu khúc của Beethoven Kiệt đều đã nghe nhiều lần đến độ thuộc lòng có thể hát theo từng đoạn. Đẩy cánh cửa khép hờ vào phòng, nằm trên giường Nghiêm, trong khi bạn cắm cúi ở bàn viết, Kiệt buông mặc cho khúc nhạc chiếm ngự.

    Nghiêm quay nghe cuộn băng hai lần. Và cả hai lần Kiệt đều tê điếng.

    Khi Nghiêm bầy bàn cờ, Kiệt không còn tâm trí để đấu. Chàng thua liên tiếp hai ván mau lẹ khiến Nghiêm ngạc nhiên:

    -Sao vậy chàng? Thả nhau chăng?

    Ván thứ ba Kiệt thua luôn. Đầu óc chàng mụ mẫm.

    Bấy giờ, buổi chiếu bóng đã tan. Từng đàn trẻ nít ở trại gia binh kéo nhau đi ngang ngoài đường bên dưới cửa sổ. Chúng la hét từng chập xin quá giang xe. Lát sau, tiếng chúng khuất xa ngoài vũ đình trường lộng gió.

    Kiệt rủ Nghiêm xuống Câu Lạc Bộ nhưng Nghiêm khước từ. Thường anh chiều bạn, nhưng bữa ấy cần ngủ sớm. Kiệt ưa sự mực thước của bạn nhưng không giữ nổi.

    -Cám ơn đã cho nghe nhạc, Kiệt nói.

    -Mai ra tôi ăn cơm nhé. Rồi mình cùng vào trường.

    -Để xem.

    Kiệt chưa thể về phòng. Chàng còn cần bạn. Chàng quá trống trải.

    Đứng trên thềm tòa nhà, Kiệt không biết đi đâu. Bình thường giờ này còn kịp lấy xe chuồn khỏi trại về nhà.

    Trời bạc đục. Con trăng khuất nấp. Không trung lất phất bụi nước, không rõ mưa hay sương. Kiệt ngoái trông về hướng núi. Những đám cháy đã tắt nhưng còn thoi thóp một hai đốm hồng mờ ảo.

    Kèn thổi mười một giờ đêm.

    Kiệt băng qua bãi cỏ trên quảng trường, sang nhà văn hóa mới. Khối nhà thấp so với những khối khác, xây sau này cùng với nhà thí nghiệm nặng bằng vật liệu và kỹ thuật tối tân của Mỹ. Dưới tầng hầm khối nhà có một câu lạc bộ.

    Bóng điện soi cầu thang xuống hầm bị hư. Kiệt vịn tay cầu thang gỗ trơn bóng dò bước. Một đám bốn năm người từ dưới ồn ào ngược lên. Kiệt nghe rõ tiếng cười của Duy.

    -Duy. Kiệt gọi.

    -Kiệt hả? Kiệt hả?

    Duy tách ra khỏi đám đang lên, trở xuống với Kiệt.

    Trái với Nghiêm, Duy cởi mở, vui nhộn, liến thoắng. Còn độc thân, hắn sống ào ào. Chỗ nào có mặt Duy, chỗ ấy cười đùa, trêu chọc. Dường như đối với Duy không có vấn đề gì gọi là quan trọng, đáng khổ sở, nhăn nhó, tất cả đưa đến hắn đều được đáp bằng câu: coi như xong và một tràng cười ròn. Bên cạnh Duy, Kiệt trở thành kẻ thâm trầm, đôi lúc chàng nhức óc trước sự lạc quan quá độ của bạn.

    Tiếng Duy oang oang trong khoang thang. Duy lia ngọn đèn bấm soi đường.

    -Tìm anh cả buổi để báo một tin vui. Có người hỏi thăm anh nghe.

    -Ai vậy?

    -Một người đàn bà. Người đẹp.

    -Mệt. Kiệt ngắt lời.

    -Thiệt không cha… Duy đứng lại kêu.

    Ngoài khoang thang là sân tráng xi măng. Giữa sân xây một bể nổi trồng bông. Cuối sân, đối diện với Câu Lạc Bộ, một khuôn hầm thông xuống con đường nhựa bao quanh doanh trại. Tầng trên là một sân dạo mát có những cột đèn giả, những băng đá - trống lủng một khoảnh chữ nhật ở ngay giữa bể trồng bông. Các giải sân tầng trên biến thành hàng hiên quanh sân dưới. Cầu thang hẹp nối liền hai sân nằm nép một góc.

    Câu Lạc Bộ còn đèn.

    Trong gian phòng cao, trần đắp xi măng từng tảng lớn, cao thấp chênh lệch, hai mặt lát kính trong, dầy, máy nhạc phát rỉ rả. Còn hai người tại một bàn. Duy tạt ghé nói chõ một câu thay lời chào. Trên những mặt tường lộ nguyên hình những viên gạch đẹp, đỏ đậm, dán những tấm thực đơn kẻ tay, và những bông hoa híp pi. Ở hai đầu chân quầy đặt hai chiếc độc bình, mỗi bình cắm một bông hoa giấy to.

    Không khí ngái ngủ. Những bài hát tiền chiến khê khê.

    -Này, anh nghe nói có người đẹp hỏi thăm mà không cảm động sao? Duy hỏi.

    -Cảm động. Cảm động chứ.

    -Nhất anh. Anh có nghĩ là ai không?

    -Không nghĩ ai cả. Đi lính là đồ bỏ. Anh từng nói thế, nhớ không.

    -Bậy. Bậy. Chủ bại quá.

    Nói chuyện với Duy có cái thú là khỏi đắn đo. Những lời đối đáp giao qua giao lại vun vút như thể trái banh ngoài sân quần. Duy có thói hay bịa chuyện xưng xưng để chọc bạn bè. Nhưng chuyện bịa vô thưởng vô phạt nhưng lắm lúc cũng dễ bực mình.

    Nhà bếp mang cà phê lên. Duy ngồi không. Từ chiều tới giờ Duy đã uống cà phê phình bụng, ứ cơm.

    -Nhảm. Thế anh không thèm hỏi tôi xem ai hỏi thăm à?

    -Ai? Anh cứ việc nói.

    -Một madame tên Hiền.

    -Hiền?

    -Phải. Hỏi thăm địa chỉ của anh.

    Kiệt nhíu mày, không nghĩ ra. Duy ngắm bạn cười cười, nhiều ẩn ý.

    -Ai nhỉ?

    -Không nhớ. Tệ quá. Bà ấy biết anh thật nhiều. Ráng nhớ coi.

    Kiệt moi lục ký ức vô hiệu. Duy nhái Kiệt hát: Păm, păm, păm, pằm… Păm, păm, păm, pằm, mấy tiếng gằn khai mở Hòa Tấu Khúc số 5. Mỗi lần thúc hối bạn bè phát biểu hoặc quyết định một chuyện gì, Kiệt thường hát dóng mấy âm thanh ấy, loan báo cho kẻ khác chú ý. Chàng giải: những bước trầm hung của Định Mệnh đang tới.

    -Ráng lên. Duy khuyến khích – Ráng nhớ coi. Đừng có làm bộ.

    Kiệt ngó vào mặt kính gần bên, chiếu hiện lờ mờ hình thể trong phòng. Bên ngoài, cánh rừng thông đen kịt chạy xuống theo một triền đồi và ngừng nơi con đường thông thủy sát bờ rào phòng thủ. Phiá trong rào, dải cỏ hoang bám dưới chân con đường nhựa.

    Kiệt mơ màng. Đầu óc chàng vắng tanh.

    Duy tiếp tục hát: Păm, păm, păm, pằm… mặt vênh váo như nắm giữa con bài tẩy của đối phương, khiến Kiệt phì cười.

    -Tôi không quen ai tên Hiền. Kiệt nói.

    -Nói lạ. Thật không?

    -Thật mà. Kiệt quả quyết.

    Duy cụt hứng, tỏ vẻ nghi hoặc, nhìn Kiệt dò đoán. Đúng lúc ấy, còi hụ vang. Duy nhảy chổm: Báo động. Điện phụt tắt, chỉ còn một ngọn chụp sau quầy. Hai người chạy vội ra khỏi Câu Lạc Bộ.

    Trong khoang thang tối mịt, Duy kêu toáng: Kỳ quá, kỳ quá. Kiệt cười hắc hắc: Kỳ cái gì, kỳ cái chi. Trên đầu thang, lính đã thức, nai nịt lách cách, chạy đi chạy lại.

    Đèn đuốc khắp nơi đều tắt. Trời nhàn nhạt. Kiệt cắm cổ chạy trên quảng trường. Duy bén gót. Từ nhà văn hóa mới về phòng độ trăm thước, Kiệt thấy mình thở dội. Không mở đèn, Kiệt mò lấy chiếc nón sắt trên đầu tủ úp vào đầu. Kiệt đã đeo sẵn giây nịt súng. Ngoài hành lang không còn ai. Chui qua một lỗ vuông dưới chân tường của gian phòng bỏ trống cuối hành lang, Kiệt thoát ra mặt hậu tòa nhà, bước vài bước vòng tới đầu cánh nơi có những hố phòng thủ đào gần chân lưới sắt.

    Mọi người hiện diện đầy đủ. Người ta điểm danh lẫn nhau, đùa chọc nhau, cằn nhằn vì giấc ngủ bị phá. Chỉ một thoáng hết chuyện. Mọi người cùng im, đứng ngồi lố nhố trải theo vách tường. Cách độ năm bước là dãy hố phòng thủ mới được phạt cỏ, tu bổ lại.

    Xe từ bộ chỉ huy, túa hai ba ngả đi kiểm soát các vị trí phòng thủ, phóng nhanh trên đường đêm.

    Kiệt ngồi trên chiếc nón sắt úp, tựa lưng vào tường. Gió lùa từ dưới lũng sâu vi vu. Kiệt thấm mệt, lành lạnh. Duy lò mò đến. Hai người đốt thuốc lá.

    Gió thổi lung lay vòm khuya.

    Kiệt bó gối, tỳ cằm, nhìn xuyên bóng tối chập chờn trước mặt, lặng im nghe Duy huyên thuyên về người đàn bà “biết nhiều về chàng” nhưng chàng lại không tài nào nhớ nổi.

    -Chàng thật vô tình. Duy lên án - Tệ bạc. Trình với anh, với tôi, từ nay anh mang họ Sở. Tôi là kẻ si tình, kẻ chung tình, tôi cương quyết chống thái độ của anh. Đâu có phải nhân danh lòng trung tín với bà ấy mà anh được phép quên người quen cũ. Phép lịch sự tối thiểu bắt anh phải nhận, huống hồ đằng này người ta nhận mình mà mình “phe lờ” thì quá tệ. Anh không xứng đáng là bạn tôi.

    -Tôi đã nói tôi không nhớ.

    -Không được phép không nhớ. Không nhớ cũng bắt buộc phải nhớ cho bằng được – Duy dở giọng gàn bướng.

    -Thì nhớ. Có sao.

    Duy gặp Hiền ở nhà Phương. Bà Hiền, như Duy gọi. Phương là người Duy theo đuổi, tỏ vẻ si mê ít lâu nay.

    Không ai hiểu rõ Duy thật hay là đùa đối với Phương. Lẽ giản dị chỉ vì cái miệng tía lia của anh chàng, thái độ vồn vã dễ dãi với hết thẩy mọi người, cử chỉ săn đón chiều chuộng đối với phái yếu. Duy ở đây đã hơn bốn năm, quen biết nhiều, dan díu lăng nhăng cũng nhiều và lần nào cứ đến hồi người ta tưởng câu chuyện sắp kết thúc theo thông lệ của một chuyện tình tốt đẹp là Duy buông lơi, lảng tránh, và đến khi quay trở lại thì Duy chỉ còn là một người quen biết chẳng có gì đặc biệt hơn kẻ khác. Cái hay là Duy chẳng hề bị điều tiếng.

    Phương không còn trẻ, nàng gần ba mươi. Nàng tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, rồi du học Anh Quốc. Nàng là giáo sư trường Nữ Trung Học, phụ trách một số giờ Văn Chương Anh tại Viện Đại Học, và dậy sinh ngữ trong quân trường. Nghề nghiệp, khung cảnh tỉnh lỵ, đời sống độc thân kéo dài khiến Phương có vẻ nghiêm khắc, khó tính. Bề ngoài, Duy quá non trẻ đối với nàng mặc dù Duy hơn tuổi.

    Bà Hiền là bạn học của Phương. Cởi mở, bặt thiệp, dễ gây thiện cảm, có vẻ Tây Phương. Duy mới gặp buổi chiều, chưa nói chuyện nhiều, nhưng thấy “được”. Phương cho biết, bà quen thân, và biết khá nhiều về Kiệt. Bà hiện ở nhà Phương.

    Rốt cuộc Duy chẳng cho Kiệt thêm mảy may ý niệm nào về người thăm hỏi. Tên của người ấy không hé lộ chút ánh sáng nào.

    Hiền.

    Kiệt triệu hồi những hình bóng dĩ vãng. Những người đàn bà từng gặp gỡ, lưu lại đôi ba kỷ niệm ngọt ngào hay cay đắng. Trước Thùy hay sau Thùy. Lòng chàng thật lạnh nhạt. Tất cả đến và đi cùng với ngày tháng. Chẳng một hình bóng nào đủ sức cuốn hút trí nhớ bỏ cuộc rong ruổi để lang thang theo bóng về một nẻo trời khuất.

    Có thật như Thùy vẫn bảo chàng bồng bột, tham lam, ích kỷ, mê say vẻ phù hoa? Chàng thiếu thành thật, thiếu chung thủy? Chàng không biết yêu và không biết sống như là một người lớn? Chàng là đứa con nít, gã thiếu niên mãi mãi, dù tuổi đời chồng chất? Có thật Thùy nhận rõ chân tướng của chàng? Nàng đi guốc trong bụng chàng?

    Hiền. Không một bóng ảnh rõ rệt nào hiện theo âm thanh ấy. Kiệt bị thả giữa mông lung.

    Những cuộc báo động phòng thủ bao giờ cũng giải tán trong lặng lẽ. Không có hiệu còi. Người ta ngồi đợi gần những miệng hố, chỉ nhẩy xuống vị trí khi toán kiểm soát tới, và leo lên khi toán ấy qua nơi khác. Rồi mọi người lại nhộn nhạo bàn tán một chập, nghe ngóng tình hình tính đường rút lui. Có khi lệnh miệng truyền đến. Có khi tự động tan hàng dần dần, theo ức đoán về vòng tuần sát hoặc theo những tiếng động cùng ánh đèn trong các tòa nhà.

    Kiệt chậm chạp đứng dậy sau Duy. Chiếc nón sắt máng trên cánh tay. Duy bảo:

    -Đúng phép nhất là mai mình tới thăm.

    -Cũng được.

    -Chiều mai. Chiều mai thứ bẩy, tôi có thể mời mọi người ăn bữa tối. Đêm qua mới được bạc. Đêm nay mình ngủ cho ăn chắc.

    -Càng không có gì trở ngại. Kiệt đùa, gạt những vướng mắc – Tuy nhiên, cô giáo của anh chấp nhận đề nghị chưa? Tôi e anh chơi kiểu bất tử, bị rầy la à….

    -Nhờ anh tí. Duy dừng lại trong khi đã chui nửa mình trong lỗ khoét đục vào tòa nhà. – Anh khinh bạn anh vừa vừa chứ. Đâu có phải là anh ăn khách hơn tôi. Họ không chịu thì hai đứa đi, chết ai. Lâu quá, tôi thèm rượu chat và một miếng thịt bò saignant. (1) Ăn mãi cơm hội quán tôi dám tự tử hồi nào không hay.

    -Nghe được. Đồng ý lắm.

    Duy tới trước cửa phòng hắn, xế phòng Kiệt. Hắn tông cẳng đạp cánh cửa.

    -Như thế là xong chương trình chiều thứ bẩy. OK? Chiều mai?

    Kiệt cười vui. Chàng không thầy bụ cười của mình. Duy cũng không trông thấy. Bóng tối trong hành lang đậm đặc.

    -OK. Mai.

    Tiếng nói dội trong đầu Kiệt khô khan tẻ ngắt.


    (1) Chảy máu. Thịt bò bít tếch để thật tái, còn chảy máu. [NQT]


    Nằm trong đêm, Kiệt chờ giấc ngủ.

    Chàng nghe lại những đoạn nhạc, nhìn lại những ảnh tượng. Chàng thấm nỗi tang thương vật vã của khúc nhạc ngoài mọi kỷ niệm. Chàng lặng trong ánh lửa bên triền núi tưởng đến một tảng đá bị nung đốt. Một lúc, những âm thanh tán loạn dượt đuổi nhau như những chấm sáng bay mù tít theo nhịp nở dãn riêng không sao kiềm chế, kết hợp. Để trấn áp, Kiệt tập trung tư tưởng, gợi nhắc một vài ảnh tượng liên quan đến Beethoven. Ngôi nhà ẩn náu lúc cuối đời của nhạc sĩ, chàng đã tới chiêm ngưỡng ở Heiligenstadt.

    Chàng tưởng tượng nếu như mình điếc đặc hay mù tịt. Rồi chàng mơ màng mường tượng ngọn đại thụ trơ vơ giữa cơn giông tố. Một con dị điểu tên găm đầy mình lao vút, ngã đâu trên chín tầng trời thanh thản. Và chàng hát trong đầu, đề nhạc thiết tha của Hòa Tấu Khúc số 9, những lời trào dâng không rứt của khúc Hoan Ca.

    Mắt Kiệt thao láo, tim nện thình thịch trong tai áp trên gối. Giây thần kinh căng thẳng, tê dại nửa thân. Kiệt nghĩ, chỉ vì cốc cà phê tai hại uống vào giờ chót. Chàng bấm nút đèn đọc sách đặt trên ghế sát đầu giường, nằm đợi cơn kích động trôi qua, Ánh đèn xoá dần những âm thanh, những hình bóng cuồng loạn.

    Kiệt rất sợ mất ngủ. Đêm ít ngủ là cả ngày sau không thể làm gì và ngại nhất là tâm thần bất an, vui buồn thất thường. Những ngày êm tĩnh khó tìm lại được. Biết thế, nhưng Kiệt không sao dỗ nổi giấc. Buổi tối vừa qua, và cả buồi chiều nữa, khuấy rộn những nghĩ tưởng không sao ngăn chặn, dập tắt.

    Chàng lại thấy mình ngồi trên tảng đá lớn bên sườn ngọn núi cao nhất vùng có hàng điện thu hút mắt chàng mỗi đêm. Chàng ngồi đó, buổi sáng mùa xuân năm ngoái, nhìn xuống thành phố nhỏ ly ty xa tít. Chàng cố tìm vị trí của ngôi trường, muốn thấy bãi đậu xe nơi chàng vẫn đứng. Nhưng chàng chỉ thấy gió lùa ướt díu mắt.

    Chỗ chàng ngồi là một quãng nghỉ trước khi lên đỉnh. Con đường mở cho xe hơi lên đến chỗ ấy ngoặt ngang, chạy một đoạn bằng, men theo khấc núi. Ngang tầm bãi cỏ nơi Kiệt ngồi, những thân cây khô bị hạ nằm ngổn ngang trên mặt đất bên kia con đường và bên này, những cây thông xanh và bờ bụi mọc bám trong các kẽ núi sâu. Ở đây có một đài tiếp nước bằng gỗ kẻ khẩu hiệu bằng sơn đen: Hãy ngơi nghỉ. Những chiếc xe lên đài viễn thông đến đây tắt máy đậu trước khi leo nốt đoạn dốc gay go cuối cùng. Trên vách đá nguệch ngoạc vài câu khẩu hiệu hòa bình. Một câu đặc biệt: Bạn sắp lên tới Thiên Đàng. Tất cả viết bằng tiếng Mỹ.

    Mùa xuân năm ngoái Kiệt theo chân lớp Tân Khóa Sinh trong cuộc chinh phục ngọn núi cao. Chàng rớt ở quãng ấy cùng một ông Trung Tá già. Trong khi Kiệt ngồi bệt trên tảng đá, ông Trung Tá xuống kẹt núi hái lan đất. Ông dùng tay cào bới, thở hì hụp mỗi lần leo lên leo xuống. Có lúc ông lẩn biệt trong các bụi rậm không nghe động tĩnh. Kiệt đi men bên trên kiếm ông, tưởng mình sẽ lạc lõng, một mình trên sườn núi, trên bãi cỏ, trong kẹt núi nếu như ông Trung Tá biến mất.

    Ý nghĩ dưng không biệt tích như một cánh chim nhào ngã, như cây cỏ bỗng bắt cháy, như đám sương tan dưới ánh mặt trời làm Kiệt sung sướng vô lý.

    Dạo Thùy đã về nước, mùa đông Kiệt theo bạn bè đi chơi núi. Một chiều đẹp, sắc, chàng cùng một cô bạn mới quen rủ nhau tách đoàn tìm lối lạ. Hai người lạc, muốn chết cóng, may mắn lần mò được xuống chân núi và đến một trang trại không người ngủ qua đêm. Khi đã mót lượm cây gỗ nhóm ngọn lửa sưởi trong ngôi nhà hoang, dọn một chỗ nằm sạch sẽ trên sàn, đã ủ người thiếu nữ xa lạ trong tay, Kiệt hỏi: Mình ở lại đây, Hélène? - Còn đi đâu nữa. Kiệt hôn nàng, cảm ơn. - Mãi mãi chớ Hélène? - Mãi mãi. Thiếu nữ nhắm mắt nói. Nàng nghe và đáp câu hỏi của Kiệt như một lời tán tỉnh vuốt ve. Kiệt rợn rùng trong cơn băng giá của ái ân và trông ngọn lửa lụi tàn, nghĩ mình lúc nào thình lình trở thành kẻ sát nhân hung bạo. Đó là bến bờ hạnh phúc chẳng khi nào chàng đặt chân lên dù chàng có bị xô táp tới. Một cô bạn viết thư mách Thùy về chuyến bỏ trốn của Kiệt. Thùy hiền hậu, trách thói ham hố của bọn đàn ông.

    Dưng không đêm nay Kiệt nhớ đến ông Trung Tá. Nhớ xóm làng Thượng tân tiến nằm dưới chân núi, tám giờ sáng còn chìm ngập trong màn sương trắng đục. Ở một bãi trống có xác chiếc trực thăng hai cánh quạt. Ông Trung Tá già và Kiệt đã chui vào trong khoang tầu hư nát quan sát các vật bỏ lại.

    Các khẩu đại bác của trung đội pháo binh bên khu trường cũ bắn những phát đạn khuấy rối đầu tiên trong đêm. Thường khi Kiệt đã ngủ được một giấc, có giật mình vì những tiếng nổ xong lại thiếp đi ngay.

    Ông Trung Tá mập có vẻ bệnh hoạn. Ông từng bị địch bắt hồi Mậu Thân khi về quê nhà ăn Tết và vượt ngục trốn thoát sau sáu tháng bị giam cầm trong rừng gần biên giới. Từ trại An Dưỡng ông được đưa lên làm việc tại trường và được giao giữ một chức vụ mới đặt riêng cho ông, không có trong bảng cấp số: thanh tra các lớp học. Ông ngụ trong cư xá độc thân mặc nhiên trở thành trưởng trại. Gia đình ông ở Sàigòn và ông lủi thủi một mình không có bạn.

    Tiếng ông nói nhanh nghe như lắp bắp, tiếng cười phát ra bất thường và ngắn ngủi. Nhìn nét mặt ông ngay sau khi tiếng cười vừa tắt, không ai có thể biết ông đã cười.

    Ông chết cách đây mấy tháng. Một trái lựu đạn nhỏ bằng trái chanh đã nổ trong gian phòng ông ngủ ban đêm. Gian phòng chếch với gian phòng của Kiệt thuộc khối nhà bên kia quảng trường. Nằm đây bên cạnh cửa sổ kính dầy, Kiệt chỉ ngó thấy được gian phòng ấy bằng tưởng tượng. Gian phòng không ai dám ở nữa, lỗ chỗ những mảnh lựu đạn trên cửa, trên tường, trên sàn.

  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Cuộc điều tra đưa đến kết luận tử nạn vì công vụ, giúp cho vợ con của ông được hưởng các quyền lợi của một tử sĩ . Cái chết phủ nhiều bí mật với nhiều dư luận đồn đãi. Đêm trái lựu đạn nổ trong phòng ngủ của ông, Kiệt có ngủ tại trại nhưng không hề hay biết. Chàng hoảng hồn ngơ ngác trong buổi sáng tinh mơ đứng trên bãi đậu xe nghe tiếng người la lớn đối đáp báo tin biến cố đêm hôm.

    Kiệt nhìn ánh điện vàng nhòe của ngọn đèn giữa quảng trường chiếu trên mặt kính. Đêm ấy, ngọn đèn này tắt, Kiệt nhớ.

    Chàng ngồi lên trong mùng, ngó quanh quất.

    Bữa leo núi, trong khoang chiếc trực thăng, lần duy nhất Kiệt nói chuyện với người đã chết. Chính ông gợi chuyện. Ông hỏi chàng ở ngoại quốc bao lâu? Chàng về nước năm nào? Cảm tưởng của chàng những ngày đầu mới trở về? Kiệt lịch sự trả lời vừa đủ, không dài dòng trong khi hai người cùng mầy mò quan sát những mối dây điện cao thế bị cắt rời khỏi các bộ phận đã tháo gỡ. Bỗng không ông nhận xét: buổi tối nằm lại trong khoang tầu này chắc rét chịu không thấu. Mùa đông vừa qua, ông sưởi bằng bóng đèn 500 [watts] ngay trong phòng làm việc, bóng đèn giấu dưới gầm bàn. Rồi ông hỏi: "Tại sao ông lên trên này?". Ngồi trên xe díp trước khi mở máy, ông ngó chiếc phi cơ nói: "Ông trông nó giống con voi không? Loài voi có đặc tính kỳ lạ là khi biết mình sắp chết thì tự động bỏ đàn lánh đến chỗ khuất nằm chờ chết? Các nhà thám hiểm Phi Châu thường gặp những nghĩa địa voi." Ngưng vài giây, ông nói tiếp bằng giọng bình thường: "Tôi mới đọc một quyển truyện về voi, thật thích. Tôi đang cố gắng dịch quyển sách ấy". Kiệt hỏi: "Trung Tá viết sách?" Ông vội vàng cải chính: "Đâu có. Tôi dịch để gửi về cho mấy đứa nhỏ ở nhà đọc. Chúng nó không đọc được sách ngoại quốc mà quyển này thì chắc chẳng có ai mất công dịch, in làm chi. Tại tôi thích... với lại viết thư cho tụi nhỏ tôi chẳng biết viết gì...". Về đến thành phố giữa buổi trưa ngà nắng, ông bảo: "Cũng có phần đúng, thành phố này là một nghĩa địa voi. Nhưng rừng ở đây tuyệt giống voi lâu rồi.... Cái ông bác sĩ tìm ra thành phố này là một con bệnh ông biết không? Ông ta mắc chứng kỳ quái...".

    Sau buổi ấy, Kiệt không còn dịp nào nói chuyện với ông. Gặp lại chào ông, được ông đáp bằng vẻ dửng dưng như với mọi người. Cái chết thình lình lấp kín ông. Đêm nay chàng sực nghĩ đến tập sách dịch của ông, muốn đọc, chàng quên không hỏi ông về nhan đề quyển sách, tự hỏi chẳng rõ ông dịch xong chưa, rồi tự đáp, cuốn sách dịch bỏ dở dang. Và không lý do, chàng kết luận ông tự vẫn.

    Xe xung kích tuần tiễu hàng đêm trở về. Những tiếng bước nặng nề qua ngoài hành lang, rồi khuất.

    Kiệt chui ra khỏi mùng, uống cốc nước dư nguội lạnh. Chàng ngồi vào bàn, châm thuốc, lật một quyển sách. Đêm đã thật khuya lắng. Đầu óc chàng tỉnh táo, khô ran như đất phơi dưới nắng. Chàng ngồi nghĩ, ngày hôm sau thứ bẩy, rảnh rang hoàn toàn, không sợ mất ngủ nữa, nhưng chàng lại sợ những ý nghĩ mê mê mờ mờ, những tư lự, thảng thốt, những giấc chiêm bao mở mắt.

    Kiệt sang phòng tắm, định đánh răng rửa mặt lần nữa. Nước khổng chẩy. Ống nước thường hư, nhiều khi cả tuần không nhỏ một giọt. Những lon sữa Guigoz trữ nước cũng cạn sạch. Trong hành lang gió lùa.

    Kiệt vào phòng khoác thêm áo, ra ngoài.

    Trời xanh mướt mầu trăng sương. Những bóng núi đen thẫm. Gió lan rì rào như đang đổ trận mưa bụi đâu xa. Lính gác trốn nép vào chỗ khuất, bó gối ôm súng, ngủ gục.

    Dòm trời đất một hồi hai bàn chân và hai bàn tay giá cóng, Kiệt quay vào. Bước trong hành lang chênh chao gió luồn, chàng còn hiểu mình chờ đợi, mong ước gì lúc này.

    Tại sao ở đây? Câu hỏi ấy chính Kiệt từng đặt cho mình nhiều lần. Làm thế nào trả lời xuôi. Phút này, Kiệt như người mắc chứng kiện vong như hồi mới về nước.

    Kiệt sống ở ngoại quốc trên mười năm. Mười tám tuổi đỗ tú tài, ông bố vận động cho đi du học. Bố Kiệt, một người thức thời, hồi cư về đến Hà Nội đã bán hết cơ nghiệp mấy đời tạo lập ở Hải Dương, đưa gia đình vào Sàigòn kinh doanh trước năm 54. Kiệt thật tâm không thích đi xa, mẹ chàng cũng không muốn rời đứa con độc nhất của bà. Nhưng cả hai không thể cưỡng ý ông bố. Ông không muốn con trai ông đi lính. Ngày Kiệt đi, hai mẹ con cùng khóc sụt sùi. Là con một nên từ bé đến năm mười tám tuổi (bình yên ở nhà quê đã có thể lấy vợ đẻ con rồi) Kiệt chỉ sống quẩn bên gấu quần mẹ.

    Kiệt học cơ khí ở Đức, học Quản Trị ở Mỹ. Việc học hành của chàng tuân theo sự chỉ dẫn của ông bố. Chàng không hề bầy tỏ ý kiến riêng. Kiệt là đứa con chí hiếu. Nếu được tự lựa chọn, chắc Kiệt học Canh Nông và Âm Nhạc. Trong những năm tản cư chạy loạn, chàng thích đời sống rẫy bái. Còn Âm Nhạc là mối đam mê suốt thời thơ ấu mà chàng phải giấu ông bố. Chỉ mẹ biết mà thôi. Nhưng người đàn bà ấy, bình lặng đơn sơ như chiếc bóng bên con, không hiểu gì về những cõi xa xôi ngoài thực tế. Yêu con nhưng sợ chồng, bà không dám chia sẻ mối đam mê của Kiệt. Ngày nhỏ, Kiệt chỉ hát khi nhà vắng bố. Kiệt có một cây kèn harmonica, thường thổi cho mẹ nghe những buổi chiều tối hiu quạnh thui thủi hai mẹ con với nhau.

    Ngày Kiệt đang ở Đức, mẹ chàng mất. Chàng chỉ được bố báo tin sau khi chôn cất bà xong xuôi. Ông không muốn chỉ vì những lễ nghi hình thức bắt Kiệt về chịu tang, và dù về cũng chẳng kịp - bà chết vì bệnh cảm mạo mau lẹ, bất ngờ. Kiệt thương mẹ, lòng cảm thấy bất nhẫn, nhưng chàng chẳng có lý lẽ nào để chê trách bố. Ông cũng đau khổ chứ?

    Ngày ấy, nơi xứ người, lần đầu trong đời, Kiệt một mình dến quán rượu uống say bí tỉ, khóc mẹ. Cũng lần đầu, trong cơn say, Kiệt thù hận những lo lắng, tính toán quá sáng suốt lạnh lùng của ông bố. Mẹ chàng đã đau khổ những năm chàng ở xa, đau khổ hơn nữa, lúc nhắm mắt lìa đời cũng không được nhìn mặt chàng. Nếu như Kiệt nhất định không chịu rời mẹ, chàng không đi học nước ngoài?

    Cánh cửa phòng Kiệt đã kéo khép, bây giờ gió xô hé. Ánh đèn rọi vệt sáng nghiêng trên hành lang.

    Kiệt mơ hồ thấy một cánh bướm đen bay lạc vào bóng tối cuối hành lang nơi có những phòng bỏ trống.

    Đáng lẽ Kiệt phải tức tốc bay về khi hay tin mẹ mất dù đã trễ muộn. Dù bà chẳng còn có thể nhìn thấy mặt chàng và chàng cũng chẳng còn nhìn thấy mặt bà. Dù chàng có bị giữ lại. Đáng lý chàng phải bay về nôn nả như sau này chàng đã đáp ứng lời gọi của Thùy. Chàng đã không làm, tại sao?

    Sau khi mẹ chết Kiệt quyết định vĩnh viễn không về nước. Thùy làm chàng thay đổi quyết định.

    Mấy tháng đầu trở lại quê hương, Kiệt lạc mất quá khứ. Đầu mối ràng buộc chàng với quãng đời mười tám năm ở xứ sở là mẹ chàng đã đứt. Chàng đến thăm ông bố. Ông đã lập gia đình, có ba đứa con với bà vợ sau. Hai bố con ngồi với nhau trong phòng khách. Ông mời chàng về ở trong nhà, chàng từ chối. Ông mời chàng lưu lại dùng cơm tối, giới thiệu chàng với vợ con ông và tiễn chân chàng tới tận cổng ngoài, bắt tay từ biệt hẹn tái ngộ. Chàng mời ông đứng chủ hôn lễ của chàng và cảm ơn ông về tất cả những nghi thức phiền toái ông phải làm vì chàng. Kiệt không hiểu tại sao bao nhiêu năm trời chàng đã tuân hành theo ý ông chẳng dám thốt một lời phàn nàn.

    Kiệt lạc lõng giữa những kỷ niệm hờ hững của mọi người và những kỷ niệm lác đác le lói nơi chàng. Chàng chẳng tìm thấy bóng chàng đâu cả. Mẹ chàng đã mang theo xuống mồ.

    Nếu Kiệt không về ngày ấy, chàng đã qua Phi Châu. Kiệt được tuyển làm chuyên viên trong một tổ chức của Liên Hiệp Quốc.

    Nhưng Kiệt đã về.

    Mấy đứa sang cùng chuyến với Kiệt biệt tăm luôn. Chúng sống dễ dàng. Có công ăn việc làm, lấy vợ đẻ con theo nền nếp dân bản xứ chính cống. Có đứa làm nên danh phận, có đứa đóng vai lưu vong. Có đứa lêu bêu khốn khổ. Chẳng đứa nào tơ tưởng đến quê hương, chốn ấy chỉ còn trong kỷ niệm để nhắc nhở khi gặp nhau. Đến một ngày rồi chúng cũng chẳng cần thiết nhắc nhở nữa.

    Kiệt nhớ đứa cháu họ như là bạn ở phương trời ấy. Hắn phá ngang sống đời nghệ sĩ. Vẽ tranh, tập sự nghề điện ảnh, làm bài hát, viết truyện trinh thám ký tên đặc Tây. Và chết vì bệnh lao phổi. Kiệt cũng có thể sống một đời như thế, tại sao không? Đó chẳng là cách biệt tích ư?

    Kiệt hết đứng lại ngồi. Vào giường nằm tắt đèn rồi mở đèn, lui tới trong khuôn buồng chật. Hút sạch bao thuốc lá. Nhặt những mẩu hút thừa, hút lại. Miệng khô đắng, ngực cồn cào.

    Đêm đứng im không trôi nữa. Nhạc vẳng lên trong đầu. Kiệt chấp chới bay trôi trên những đề nhạc bi thiết. Chàng như mảnh sao rớt trong cõi nhịp bất tận. Qua những lớp sóng. Cơn bão táp. Rừng gió mênh mang. Cao độ và thẳm cùng.

    Rồi Kiệt nghe tiếng nước giọt tí tách bên phòng rửa mặt. Chàng mở cửa bước sang. Qua mặt kính phòng vệ sinh vẫn chỉ có ánh đèn điện từ quảng trường rọi xuống. Đêm đang chuyển giấc nổi những tiếng động vu vơ. Kiệt đã mệt muốn nghẹt thở. Đến lúc này tắt lặng mọi âm thanh, mọi hình bóng, đầu Kiệt như một phòng vách thép đen đúa toả lạnh.

    Kiệt vào giường nằm co quắp.

    Những khẩu đại bác bên khu trường cũ bắn loạt đạn cuối đêm.



    Kiệt chấn động, chàng trố mắt. Chiếc lambretta dựng trên chân đứng, máy vẫn nổ.


    Kiệt vừa từ phố về. Chàng đã ngủ suốt buổi sáng qua buổi trưa bỏ bữa cơm. Buổi trưa gió lộng thổi tơi tả bạt hơi. Tỉnh giấc đã gần bốn giờ chiều, mặt mũi sần sượng như sau trận say nhừ, Kiệt chạy đi ăn bát phở, uống cốc cà phê, tắm nước nóng. Chàng trở về thay quần áo để rồi ra phố nữa.


    Một thiếu nữ ngồi trên lối bực đá từ dưới lộ dẫn lên cư xá ngay trước mặt nhà. Tóc ngắn lưng áo vàng. Chính mầu áo nổi rực giữa bờ cỏ rậm trên khu đồi chi chít những gốc thông già hoang tịch vào lúc nửa chiều đập mạnh mắt Kiệt. Mầu vàng tươi lóe trong đám xanh rối.


    Trong khoảnh khắc Kiệt choáng váng, lóng ngóng như hệt trong chuỗi ngày đông ảm đạm bỗng một buổi sáng trên đường đi mắt chàng bắt gặp những đóa hoa vàng dại lan tràn khắp bờ bụi. Mầu hoa giống như những tiếng chuông reo mừng giữa cơn buốt giá báo trước anh đào sắp nở. Bởi không lâu sau khi giống hoa dại biến trụi không sót cánh nào – cũng đột ngột như lúc xuất hiện thừa mứa - những đốm hồng quý phái bắt đầu trổ mọc trên các cành trơ trụi. Mầu hồng rập rờn trên những cây anh đào thấp bé giữa cảnh rừng núi xanh ngắt như khúc ru kín ẩn nồng nàn trong tiết đông hàn tê tái. Nhưng Kiệt vẫn ngoái tưởng đến mầu vàng của giống hoa dại, như đoạn khai mở rộn rã mê mẩn rồi chấm dứt mau lẹ.

    Lúc này Kiệt cũng nghe động hồi chuông vang lừng ngân nga.

    Thiếu nữ ngồi lọt giữa bờ cỏ bị cắt lìa một quãng. Cỏ cao hơn đầu nàng. Những cành thông giăng đan cao hơn. Nàng quay mặt xuống đường. Một cột đèn trồng bên rìa đường nhô ngang tầm đầu. Thấp hơn đường, xa hơn cột đèn hiện mảng mái ngói nơi nhà kho hoang phế của ga xe lửa.

    Kiệt ngờ ngợ, đứng trơ. Thiếu nữ cố tình bất động. Hoặc nàng cũng đang bị trói liệt trong giấc mộng riêng, không hay biết chung quanh. Từ chỗ nàng ngồi cách một đám cỏ hoang, có một lối mòn giữa những gốc thông.

    Tiếng máy xe tự động lặng tắt. Chiều còn sáng nắng qua khe lá. Khắp khu đồi chỉ còn những ngôi nhà im ắng.

    Kiệt thủng thẳng quay gót vào nhà. Chàng tỉnh hẳn giấc rã rượi nhưng dường như thấp thỏm. Chàng chậm chạp. Rồi nghe tiếng bước động lạt sạt trên cỏ.

    - A, cô bé. Kiệt không ngăn nổi tiếng kêu mừng - Cô ngồi dưới kia đấy hả. Sao tôi chạy ngang dưới đường không thấy há?

    Thái độ vồ vập khiến kẻ được hỏi không ngờ. Cô bé khựng, bối rối, mấp máy môi không thành tiếng. Gương mặt thất sắc, Kiệt ngó thấy.

    -Cô tên gì nhỉ? Kiệt cố dằn những chao động, dịu giọng - Cô đi đâu thế? Đến tôi hả?

    -Dạ. Oanh...

    -Cô hẹn chủ nhật cơ mà?

    -Cô hẹn chủ nhật cơ mà?

    Kiẹt rung rung xâu chìa khoá trong tay.

    Gương mặt đang biến đổi trong mắt chàng. Không phải khuôn mặt xa xôi ở những hàng ghế cuối giảng đường. Cũng không phải gương mặt khép nép chiều qua. Trên khuôn mặt ấy có vẻ rạng rỡ khác lạ, sự chuyển động mơ màng. Chàng cười. Nụ cười của chàng ánh trên khuôn mặt thiếu nữ.

    Oanh cười. Nàng nắm giữ vạt áo kấp phất. Kiệt tưởng chừng dải vàng thẫm sắp bay quấn chân chàng.

    Sau phút hoang mang, cô bé bạo dạn

    -Hôm nay không được sao thầy?

    -Hôm nay tôi bận.

    -Thầy có hẹn?

    Kiệt gật đầu.

    Kiệt không biết nói gì trước vẻ thất vọng của cô bé. Nàng đứng im trong thế tiến thoái lưỡng nan. Kiệt đành cười trừ. Oanh không cười.

    Kiệt không nhớ hai người đã đứng im bao lâu. Đó là quãng thời gian mù. Kiệt nôn nao nhưng tuyệt không một sáng kiến để lấp bằng vực trống cách. Chàng không hỏi cô bé cần việc gì vì tự nhiên chàng thấy câu hỏi thừa. Chàng cũng không mời khách vào nhà.

    Mãi sau Kiệt nói nhanh:

    -Tôi có hẹn ăn cơm với vợ chồng một người bạn.

    Cô bé liếc xéo, tỏ ý cám ơn lời giải thích. Sau câu nói, Kiệt thoải mái.

    Kiệt đưa mắt quanh chỗ cô bé đứng, ngắm mầu áo, mái tóc, sống mũi, đôi môi, và đồng thời bao quát toàn thể cảnh tượng của ngọn đồi và trông thấy cả những chốn nấp sau lưng chàng.

    Sau lưng là ngôi nhà. Con đường nhựa hẹp chạy suốt cư xá, một đầu vòng xuống con đường lộ bên dưới, nằm sát mép đồi phía trong. Dưới chân đồi mé ấy là một lòng chảo với những dẫy nhà gỗ lụp xụp. Từ dưới vọng lên tiếng xe máy nổ inh. Một người đang mở máy đẩy xe ngược lối dốc.

    Con chó của một nhà nào trong cư xá thả rong lấp ló trong bụi cỏ cao gần phía Oanh, hếch mõm nhìn Kiệt. Kiệt tiến một bước, cúi nhặt hòn gạch ném về phía con vật. Oanh hoảng hốt đi vội tới, và đứng vào phía trong chiếc xe lambretta. Con chó chạy tuôn trong cỏ sang góc khác, sủa vang. Kiệt chọi thêm một hòn gạch nữa. Con chó lảng xa hơn nhưng vẫn còn ẩn trong đám cỏ.

    -Nhà thầy ở chỗ dễ sợ.

    Kiệt ngoảnh lại. Oanh cũng đứng quay lưng vào nhà như Kiệt. Chàng trông thấy nửa mặt cô bé, hơi nghếch cao. Bây giờ rõ ràng Oanh biết mình đang bị ngắm và nàng thủ thế. Kiểu cách, cứng cỏi cố tình.

    -Em về.

    -Mai đến hả? Kiệt hấp tấp hỏi.

    -Dạ. Mai em đến.

    Oanh rời chân.

    -Oanh, đi lối này cho sạch.

    Kiệt khoát tay chỉ vào trong cư xá. Con đường xa gấp mười lối trước mặt. Kiệt dẫn đường, quanh co giữa những lối cỏ, tránh đường lầy.

    Ra đường nhựa, Kiệt thở phào đứng đợi. Bước chân cô bé dẫm trên rìa cỏ thận trọng, mắt nàng nghiêm nghị. Kiệt ngại không dám tỏ ý gì, chàng cũng chẳng có ý gì rõ.

    Hai người bước song song trên dải đường vắng.

    Lòng chảo kề bên mở thoáng. Mầu áo nhạt bớt giữa khoảng rộng thưa cây cối. Kiệt nín thinh, ho khục khặc, cuời riêng. Cô bé thu khép dáng điệu. Như cử động trong chiêm bao, Kiệt đưa tay choàng vai cô bé. Nàng khẽ giật mình, song vẫn giữ vững bước từ tốn làm như không hề có biến cố.

    Oanh thấp nhỏ. Cánh tay Kiệt dài. Giữa hai người còn một khe cách một đứa bé tinh nghịch có thể lách mình qua.

    Họ đều bước không nói năng.

    Bàn tay Kiệt nháp ẩm ôm gọn đầu xương vai tròn. Chàng nghe truyền qua mình nhịp khoan thai của bước di chuyển. Chàng không vội tưởng tới một điều gì khác ngoài sự thả nới hơi thở.

    Tới lối quanh xuống đường dốc ga, Kiệt kìm bước. Oanh ngước dòm lên. Nụ cười bâng khuâng trên khuôn mặt đăm chiêu. Kiệt bỗng nhớ vẻ thất sắc phút đầu tiên trước tiếng reo mừng của chàng.

    -Không nói gì hà? Kiệt nhìn chỗ khác - Nói gì đi.

    Kiệt nhấc bàn ta đặt trên vao Oanh, dừng chân đốt thuốc. Oanh như bị hụt bước, cũng dừng lại. Tới phiên Kiệt bị quan sát. Chàng ngửng lên, lúc lắc đầu, cười buồn. Oanh đứng trên lề cỏ quay mặt nhìn ngôi nhà kiến trúc theo lối Tây Ban Nha mầu trắng với hàng ba có mái hiên nối hai cánh. Sau lưng nàng mấy gốc liễu. Trên viền đồi cư xá một dẫy anh đào mùa này cây xanh lá.

    -Không nói gì hả? Kiệt nhắc - Nói gì đi.

    -Nói gì bây giờ? Em về.

    -Nói bất cứ điều gì cũng được.

    Oanh trông tới ngã ba cách độ năm mươi thước. Con đường từ ga lên chạy ngang dưới ấy. Chiều còn sớm nhưng tràn ngập vắng vẻ yên tĩnh. Oanh cười, như thoảng gió trên cành liễu và tóc nàng.

    -Em về. Thầy có hẹn mà.

    -Nói một điều rồi về.

    -Thầy nói hộ đi.

    -Tôi nói rồi: nói điều gì rồi về.

    Chuyến xe buýt nhấn kèn dưới đường ngang.

    -Cho em điếu thuốc.

    -Bậy. Tầm bậy. Con gái nhỏ mà hút thuốc.

    -Cho em điếu thuốc.

    Cô bé cố mở to mắt cầm cự với cái nhìn của Kiệt. Chàng cười xòa, thú vị.

    Đôi môi và hai ngón tay của nàng run lật bật trong khi Kiệt xòe diêm châm điếu thuốc cho nàng. Nàng ngửa cổ, khép mi mắt tránh hơi khói nhả bay. Nàng nín ngăn cơn sặc, mặt đỏ bừng. Một giọt nước mắt ứa lăn chảy trên gò má. Kiệt ngoảnh trông hướng khác. Oanh tiếp tục hút thuốc.

    Hai người ngược đường vào cư xá.

    Kiệt choàng đặt tay trên vai cô bé như cũ. Không còn khoảng cách giữa hai người. Càng vào sâu, quanh cảnh càng hoang vu hơn. Lần đầu tiên, Kiệt đi dọc suốt cư xá. Cuối đường một cánh rừng thông nhỏ men theo triền dốc. Dưới triền lọt hai ngôi nhà nữa của cư xá. Kiệt nhớ những khu rừng xa xăm chàng đã dạo chơi.

    Họ quay ra. Cô bé ném bỏ điếu thuốc. Kiệt vẫn đặt tay trên vai nàng và kéo giữ một cánh tay nàng choàng sau lưng mình. Mái tóc cô bé sát bên cằm Kiệt. Chàng sung sướng hát một vài nốt nhạc thánh thót trong trí. Chàng không cần thiết phải nói, được im lặng dẫn dắt. Hai người đàn bà ngược chiều nhìn họ bằng con mắt nào chàng không buồn lưu tâm.

    Oanh cắm cúi theo ý nghĩ riêng.

    -Không nói gì há? Cô bé bật nhái giọng - Nói gì đi.

    -Nói gì bây giờ?

    Kiệt cười thành tiếng. Chàng buông cô bé, đốt điếu thuốc khác.

    -Hút không?

    Oanh trề môi lắc đầu. Nàng đợi Kiệt châm thuốc. Xong họ cùng một lúc choàng tay qua lưng nhau.

    Kiệt nghĩ chàng có thể đi lui đi tới trên con đường mãi. Chàng muốn giữ cô bé trong tay.

    Cuối cùng Oanh quyết định. Nàng buông tay, tách rời khi đến chỗ quẹo xuống ngã ba.

    -Thôi em về.

    -Mai đến hả?

    -Lỡ không đến được?

    -Không thể có chuyện lỡ.

    -Sao không nhỉ?

    Kiệc có cảm tưởng như bị xập bẫy. Chàng nhíu mày. Chàng đọc được nét dữ dội, bất thường của mình qua nét hoảng sợ của người đối diện. Mặt nàng hơi tái, mắt chớp nhanh. Chàng không cố ý nhưng đầu chàng bây giờ nặng chĩu như cục đá.

    -Mai em đến.

    Kiệt cười gắng gượng.

    Tới ngã ba, họ đứng bên vệ đường đợi chiếc xe buýt xuôi chợ về. Kiệt nắm bàn tay cô bé, nhỏ nhắn, mềm mại. Lòng bàn tay của Kiệt toát đẫm mồ hôi, dấu hiệu của sự kích thích quá độ. Những lúc này bề ngoài Kiệt trầm tĩnh.

    -Bệnh tê thấp. Kiệt chối lảng, móc khăn chùi mồ hôi.

    Chiếc xe buýt chậm chạp đến. Kiệt đứng yên trước đầu xe trong khi Oanh hấp tấp đi về cuối xe. Cửa lên mở đằng sau. Một tên bạn đồng nghiệp ở quân trường ngồi cạnh tài xế cười toét miệng với Kiệt tỏ ý đã nhìn rõ tất cả. Kiệt không phản ứng. Chàng trơ trơ.

    Oanh ngồi ở băng quay lưng về phía vệ đường Kiệt đứng. Xe từ từ chạy qua chỗ Kiệt. Chàng trông thấy mái tóc và vai áo nàng. Xe qua khỏi, Kiệt thủng thỉnh bước, nhìn với vào khoang xe trống trải. Chàng có ý trở về nhà bằng lối bực đá.

    Quãng đường dốc, xe trôi không nhanh lắm. Kiệt lẽo đẽo đằng sau, tưởng chừng chân đang bị cuốn theo đà dốc và đà chạy của xe. Trên xe, Oanh nhô người ra khỏi băng. Mầu áo vàng vẫy gọi, Kiệt rảo cẳng dẫm theo nhịp chuông rung lắc inh ỏi bên tai. Xe chạy mau hơn, Kiệt thất kinh toan co giò đuổi theo, nhưng chàng kịp kìm bước. Chàng giơ tay đưa qua đưa lại làm hiệu.

    Kiệt buông rơi cánh tay khi chiếc xe buýt khuất dưới dốc. Chàng nhớ cảnh tượng vừa qua chàng đã sống một lần trong dĩ vãng nhưng không thể biết đích xác ở đâu, lúc nào. Đồng thời chàng cũng cảm thấy mình vừa trải qua cơn bấn loạn tâm thần vô lý.

    Nhẩy mỗi bước hai bực đá, Kiệt thấy cần khua động, trửng rỡn.

  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chừng hai mươi phút sau Kiệt gặp lại Oanh. Trong quãng thời gian ngắn ngủi, vừa đủ cho Kiệt vào nhà, thay quần áo, chạy xe vòng quanh hồ, lòng nô nức như đứa con trai mười bẩy tuổi được buổi hẹn hò đầu tiên trong đời. Vậy mà trông thấy Oanh, Kiệt có cảm tưởng như tình cờ run rủi gặp lại cô bé sau bao ngày mong mỏi tìm kiếm.

    Chạy quanh hồ lớn, Kiệt đánh nhịp chân, hát nghêu ngao, nhìn ngó lên những ngọn đồi, hy vọng thấy mầu áo vàng bay lượn. Bữa ấy chẳng ai mặc áo vàng trên đồi.

    Ngược dốc chợ, Kiệt vẫn đang hát. Trên đầu dốc, Oanh vừa leo hết những bực thang từ phố dưới lên. Nàng đi cùng với một cô bạn gái. Đám đông tấp nập. Một tốp bạn quen đang nhả dạo trên hè đã trông thấy Kiệt. Mặc. Kiệt hãm gấp xe gọi:

    -Oanh.

    Thiếu nữ bẽn lẽn, định làm ngơ. Người bạn gái giật giật tay khiến nàng ngượng thêm, trong khi Kiệt kêu tiếp: Oanh. Nàng đành tiến lên, bỏ bạn đứng tại chỗ đợi. Mặt Oanh đỏ vẻ giận dỗi. Kiệt nghĩ cô bé có thể mếu.

    -Mai đến anh hả? Kiệt dịu giọng.

    -Dạ.

    Kiệt không tìm thấy câu kế tiếp. Người qua lại như rối sau lưng Oanh. Nàng ngước mắt thúc giục.

    -Em đi với ai?

    -Bạn. Không có học anh đâu.

    Câu sau Oanh nói lẹ. Rồi nhoẻn miệng cười. Kiệt không chú ý đến lời. Chàng chỉ thấy nụ cười trên đôi môi lúc bấy giờ chàng ngắm kỹ hình như thoa một lớp son mỏng.

    -Mấy giờ em đến?

    -Chín giờ.

    -Muộn vậy?

    -Tám giờ.

    -Anh sẽ đợi cả buổi sáng.

    -Anh đợi em đến chin giờ thôi.

    Trong tầm mắt, Kiệt thấy Duy xớ rớ đấy.

    Bây giờ em về hả?

    -Dạ.

    Kiệt sang số xe. Oanh quay gót về chỗ bạn đứng. Hai người đi ngang đầu xe Kiệt, băng qua công trường trước rạp chiếu bóng. Hai cô gái nghiêng sát đầu nói chuyện. Duy đi đến, lên ngồi sau lưng Kiệt. Kiệt cho xe chạy, ngoảnh cười với bạn.

    -Uống cà phê chưa?

    -Mới hai tuần thôi.

    -Uống thêm tuần nữa cho đủ ba.

    Quán cà phê Kiệt ngồi mỗi ngày nằm trong dãy quán gạch do thị xã xây cất trong kế hoạch chỉnh trang ở trên đường phố cao phía sau chợ. Các quán cà phê và quán ăn ở đây thuộc hạng bình dân trước chỉ là những mái tôn lợp sơ sài trên những cột gỗ mỏng manh áp vào mặt hậu của một dẫy phố chính, trông sang bến xe chạy các vùng phụ cận dưới chân một vách đồi lở lói. Trên mép đồi cao, từ năm Kiệt mới mới lên đang thời cực thịnh của phong trào thương phế binh, mọc những ngôi nhà gỗ chênh vênh.

    Trong quán cóc bên đường hồi ấy, người bạn đầu tiên Kiệt gặp giữa những chiều co ro mưa bão đầu tháng tám là Duy. Trên cùng chiếc băng gỗ, Kiệt ngồi một đầu và anh chàng ngồi một đầu. Khi ba bốn người xen giữa đứng lên bỏ chiếc ghế dài trống lỏng, Duy quay ngó Kiệt cười cười và chào: Gutten Tag! Chưa quen, Kiệt nghĩ mình bị trêu cợt, hơi nhăn mặt. Anh chàng lết tới, mở lời tự nhiên như biết nhau rồi, mặt dầu hai người chỉ mới trông thấy nhau vài buổi chiều trong quá: Sao? Anh thấy cà phê đây trứ danh hơn trong mấy tiệm chứ? Kiệt nhận ngay Duy là người không bợn một chút mặc cảm, dễ chơi.

    Dãy quán hỗn tạp được gọi bằng tên chung Domino.

    Domino, bài hát gợi nhắc Kiệt buổi thiếu thời ở thành phố chẳng còn hy vọng trở lại. Bài hát quay quay điệu valse musette, rộn rịp bồi hồi, cùng tiếng harmonica của một đứa thiếu niên muời lăm tuổi ở thành phố đầy dấu hoang tàn, tiếng arcordéon lúc đêm đông giá trong quán rượu nơi hẻm nhỏ của thành phố phương Tây rực rỡ cảnh thái bình.

    Domino. Có lẽ danh hiệu ấy hấp dẫn Kiệt đến cái quán tầm thường này mỗi chiều. Đặc biệt những chiều rét muớt chàng không thể vắng mặt.

    Holé! Kiệt thắng gấp, xe đổ nghiêng, Duy nhẩy tụt hậu, la: có thể làm tài tử mô tô bay.

    Quán thưa khách. Vẫn cái bàn quầy hình thước thợ nơi pha cà phê, bầy bánh trái, một hộp kính đựng thuốc lá làm mặt hàng và những chiếc ghế đẩu, băng gỗ bao lấy quầy. Vào chỗ mới, quán thêm mấy chiếc bàn nhỏ, ghế lùn đặt sát tường và dưới lối hiên bên ngoài. Sau quầy thiếu phụ chủ quán tươi cười. Hai cô cháu gái thỉnh thoảng xuất hiện phụ giúp cùng có những nét lặng lẽ.

    Chiếc xe Dodge của Duy đậu nghênh ngang ngoài đường.

    -Hôm nay trông anh bảnh bao khác thường. Duy nhận xét sau lúc ngắm nghiá từ đầu đến chân - Đi với anh coi bộ tôi mất điểm quá.

    -Ờ. Tự nhiên trời đẹp thấy mình cũng cần ăn mặc cho chỉnh tề.

    -Chứ không phải vì người đẹp?

    -Người đẹp nào? Kiệt giật mình.

    -Anh có tài giả ngộ giỏi thiệt. Hình như hồi ở bên Tây anh học viện kịch nghệ thì phải.

    -Giả ngộ...

    Kiệt nhìn bạn trân trối. Duy mới cắt tóc, tắm rửa. Kiệt sực nhớ lời hẹn hồi đêm sau giờ báo động, phá lên cười: Ha ha... Duy làm mặt lạnh.

    -Xin lỗi. Kiệt nói. - OK, nhớ rồi. Đêm quá ít ngủ, đầu óc lú lẫn. Kỳ quá. Xin lỗi bạn.

    -Anh quên thật? Duy nghiêm nghị - Quên một cách tỉnh bơ vậy à? Tôi bắt đầu phục anh đó.

    -Quên chứ. Kiệt bông đùa – Quên là thường. Trí nhớ của tôi bị những lỗ thủng rách anh không biết hả? Vả lại, đêm qua trằn trọc nhớ nhiều quá nên sáng phải quên bớt cho nhẹ. Tại anh hại tôi. Suốt đêm tôi nhớ, sáng dậy quên luôn.

    -Thế anh tính đi đâu chiều nay với bộ quần áo này?

    -Định lên đồi. Xong đến nhà Nghiêm ăn ké.

    -Cha ơi! Tôi không hiểu anh hấp dẫn ở chỗ nào. Lên đồi, lên đồi, thiệt quá cỡ. C’est bizarre. (1)

    Kiệt cười trừ.

    Thái độ của Duy hơi lạ. Anh chàng coi thật quan trọng buổi dàn xếp gặp gỡ. Kiệt mong rốt cuộc chỉ là sự lầm lẫn để xem mặt mũi Duy. Anh chàng đã thấy người đàn bà đó ra sao? Anh chàng mưu tính sự gì? Tuy nhiên, Kiệt chẳng quan tâm lắm. Chàng còn trơn truồi trong cảm xúc.

    Bước ra khỏi quán, Kiệt bắt đầu ngần ngại. Chàng có cảm tưởng bị bạn thúc áp. Chàng khoá xe của mình, cầm xâu chìa khóa của Duy lên xe Dodge, ngồi vào tay lái.

    -Còn sớm. Mình chạy lên đồi chơi một chốc. Kiệt đề nghị.

    -Nên tới sớm. Lỡ người ta ăn cơm mất hỏng kiểu.

    Kiệt lái xe thong thả, hai tay khoanh trên bánh lái. Chàng tắt máy thả xe trôi xuống những con dốc, kể cả những con dốc ngắn. Duy lại chuyện cà kê dê ngỗng, nhưng không quên điều chỉnh xe theo lộ trình đã tính toán.

    Phương ở trên đường ra vào thị xã, khu vực hơi khuất nẻo. Ngôi biệt thự nằm thụt thấp dưới mặt đường gồm một nếp nhà chính vuông vức có khoảng bốn năm buồng, và một dẫy nhà ngang trên một khoảng đất rộng. Nhà làm bằng gỗ kiểu nhà sàn, chỉ chiếm một vị trí nhỏ so với sân và vườn. Vườn trồng hồng, thược dược, lan cúc và sân trồng trắc bách diệp. Ngôi biệt thự của một gia đình đã bỏ đi ngoại quốc sinh sống cho mướn trả tiền hàng năm.

    Phương sống một mình, nuôi một chị người làm và ba đứa con của chị ta. Phương còn gia đình ở Sàigòn. Có vẻ như Phương không hợp với gia đình, nàng ưa thú riêng rẽ. Chẳng khi nào nàng tỏ ý muốn đổi về làm việc gần nhà, nàng cũng ít về Sàigòn. Trừ dịp Tết, còn những dịp như hè hoặc Giáng Sinh, nàng vẫn chẳng bước đi đâu. Nàng sống như không cần ai khác, không biết những tiếng xầm xì quanh nàng. Bọn nữ sinh ngán Phương, đặt cho nàng biệt danh là “bà già cau có”. Thật sự, Phương chưa già, nàng không xấu. Với con mắt thẩm mỹ nào đó, nàng có vẻ đẹp riêng: người tầm thước, mặt tròn, mắt mở lớn, miệng hơi rộng, thân thể vững chãi. Phương giao thiệp rộng nhưng ít bạn bè. Ở Viện Đại Học, giữa những ông giáo sư đạo mạo, nàng là một cô giáo trung học trẻ. Ở trường Nữ Trung Học, nàng là một trong hai ba nữ giáo sư độc thân giữa những kẻ đã có gia đình con cái. Trong quân trường, giữa đám lính tráng, nàng là một người đàn bà khác thường. Kiệt vẫn đùa, bảo Phương là cô giáo của Duy, nàng là thầy Duy về mọi phương diện, trước tiên, về sự đứng đắn nghiêm túc.

    Khu vực Phương ở sau bốn giờ chiều không người lai vãng. Các chuyến xe lên thành phố giờ ấy đã hết. Những biệt thự hai bên đường quay lưng vào những lũng sâu chóng mặt, rải rác, biệt lập. Đi đến đây chỉ còn nghe tiếng thông reo trùng trùng và khí lạnh của ngọn đèo lan toả.

    Trên sườn đồi ở khúc quanh con đường, vẫn còn thấy những dẫy bạt của doanh trại bộ chỉ huy nhẹ của trung đoàn tăng phái trấn giữ thành phố nhưng quang cảnh có vẻ đìu hiu. Trung đoàn đã rút về quân khu. Trong những ngày ấy, thành phố yên tĩnh lặng tanh, giữa cảnh sôi sục ở các nơi khác, đầy vẻ khả nghi. Đến những tiếng nổ của pháo binh tiểu khu thường bắn đi yểm trợ trong vùng vào lúc chiều ngả cũng im luôn.

    -Mấy người đàn bà này thật phi thường. Kiệt nói.

    Chiếc xe Volkswagen mầu sữa của Phương đậu trong sân. Chủ nhân có lẽ vừa về nhà.

    Kiệt ngừng xe trên đường. Chàng ngồi lênh khêng trên ghế khoanh tay. Bờ rào quấn giăng dây tầm xuân. Ngôi biệt thự hồng nhạt. Duy vào đến cổng quay đầu ngoắc Kiệt. Kiệt bấy giờ mới khoá bánh lái, xuống xe.

    Ở đây nắng nhạt khuất lánh. Mầu xanh thẫm của rừng núi tràn lấn. Trời nghiêng dưới xa tít. Những lao xao của lá cỏ, rì rào của thông xanh tạo bầu im lặng chuếnh choáng. Dường như có tiếng ve kêu trên đồi. Lại dường như một trận mưa rào đổ chạy trên ngọn đèo.




    (1) Thật kỳ cục [NQT]


    Kiệt không ngờ tên thật của Ly là Hiền. Chàng quen gọi nàng là Ly, hoặc Ly Ly [Hello], hoặc những lúc đùa nghịch gọi là Ly Ty, Vy Ty, Ty Ty và đôi khi đùa nhả gọi là Ky Ky. Chàng cũng biết Ly chỉ là tên gọi trong gia đình giữa những người thân, nàng còn một tên khác ghi trong khai sinh trong căn cước, giấy thông hành nhưng chàng chẳng bao giờ chú ý tìm biết. Trong ký ức Kiệt chỉ có một thiếu nữ tên Ly, không có người đàn bà tên Hiền.

    Phải, đó là Ly. Kiệt mừng rỡ.

    Phút đầu, khi Ly xuất hiện trong khuôn cửa gần lò sưởi, Kiệt chưa nhìn ra. Chàng thấy một người đàn bà nhỏ nhắn như là một thiếu nữ, ăn vận theo thời trang, quần mầu caramel, áo ngắn tay mầu đỏ. Chàng lặng thinh, bỡ ngỡ. Sau khoảnh khắc, người đàn bà cười. Nụ cười thoạt đầu phảng phất, như một làn gió nhẹ thổi trên mắt lan trên vừng trán và gò má rồi bừng nở trên môi. Nụ cười tươi rạng nhưng vẫn không làm mờ hết nét u uẩn của một khuôn mặt khép kín. Mặc dù những thay đổi, nụ cười ấy đẩy tung cánh cửa một ngăn ký ức Kiệt.

    Chàng bật khỏi chỗ ngồi, kêu: Ly, Ly Ly, Ty Ty, Tu Ty… Một chuỗi âm vô nghĩa nhưng xao xuyến không ngờ. Thái độ của Kiệt bộp chộp, kỳ khôi, có vẻ sống sượng. Chàng biết.

    Phương từ nhà sau lên ở một lối cửa khác, ngẩn người. Duy đứng lên theo chàng. Lúc ấy Kiệt như người vừa được tháo gỡ chiếc khăn bít kín mắt và lại đứng ngay trước ánh sáng chói, tay chân lạng quạng. Chàng mất tự chủ.

    Ly giữ nguyên nụ cười. Nàng ngồi trên một khúc cây cưa ngang còn vỏ xù xì, đặt ở đầu bàn giữa các ghế da, dùng làm đôn. Trên mặt ruột cây bào nhẵn nổi vân đặt tấm nệm tròn nhung đỏ.

    -Anh Kiệt vẫn thế. Hệt như ngày xưa.

    Trong gian phòng khách trần thiết nhiều đồ mộc, Kiệt ngắm gương mặt người đàn bà như ngắm một pho tượng bầy trong bảo tàng viện.

    Những đường nét kết hợp không chút dấu tích của một thời gian cũ có Kiệt ở đấy. Hình dáng, thể cách tạo thành từ một đời sống hoàn toàn tách bạch với quãng đời đã chôn lấp. Hiền là môt người đàn bà không quen thuộc, không dính líu tới Ly. Nếu không được giới thiệu trước, chắc chắn Kiệt không thể nhớ.

    Có lẽ vì thời gian xa cách, Kiệt đã không còn nhớ rõ hình dung Ly? Hoặc chưa bao giờ, đã lâu lắm, trong trí tưởng Kiệt, Ly được gợi nhắc, theo dõi, nên sự biến đổi trở thành bất ngờ, lạ lùng? Kiệt không rõ. Nhưng hiển hiện trong mắt Kiệt, Ly và người đàn bà xuất hiện là hai ảnh tượng, biệt lập như hai bức chân dung của hai người khác nhau. Nếu không có nụ cười….

    Chiều chạng vạng ngoài ô kính. Trong phòng bật ngọn đèn điện đứng trong chụp hồng. Nụ cười như cây cầu treo giữa hai bờ vực sâu hun hút. Gió cuốn trong lòng vực tối nghe như thác dội.

    Qua những phút biểu lộ quá trớn, Kiệt nín lặng. Ly thủng thỉnh hỏi thăm những câu hỏi theo thông lệ của hai người quen cũ trong buổi tái ngộ. Kiệt ngây ngây.

    Duy hoạt bát, dẫn dắt câu chuyện lan man. Kiệt được bỏ quên với những tiếng vọng âm thầm. Chàng biết mình bị nhòm ngó. Thật tình chàng muốn bỏ chạy, núp trốn.

    Trong một lúc ngắt câu chuyện, Kiệt nhắm nghiền mắt. Mỗi lần như vậy, chàng chuẩn bị nhào tới như con thú tuôn phá vòng vây.

    Phương giữ kẽ không muốn nhận lời mời ăn tối. Kiệt thuyết phục:

    -Không phải Duy mời. Tôi mời. Tôi mời hai người mừng buổi tái ngộ của chúng tôi. Ly Ly mời cô Phương đi.

    Để đánh lạc xúc động, Kiệt thường liều lĩnh bướng bỉnh. Sau đó chàng sẽ hoảng kinh. Nhưng bây giờ chàng không suy tính.

    Trong khi hai người đàn bà vào trong sửa soạn để ra phố, Kiệt lắng dịu. Chàng ngắm các đồ vật. Duy loay hoay sắp xếp chương trình, mất bình tĩnh. Kiệt cười bảo bạn:

    -Đến đâu hay đến đấy, việc gì phải rối.

    Chàng ngồi xoải trong ghế ngơi nghỉ.

    Xe Dodge không thể để lại nhà Phương. Bốn người cũng không thể đi chung chiếc xe ấy. Kiệt đề nghị chàng lái xe Dodge, còn Duy lái xe của Phương.

    -Đàn ông có bổn phận lái xe cho các bà đi. Kiệt nói.

    Trời bắt đầu nhá nhem. Kiệt và Ly phải đi bộ lên đường. Chàng vẫy tay ra hiệu Duy chạy trước và la lớn nơi hẹn.

    -Quán S. nghe chưa.

    Ngồi trước tay lái, Kiệt lẩm bẩm: fausses notes. (1) Chiếc xe nhà binh quá cao đối với phụ nữ. Chàng ngắm Ly trèo lên vất vả. Xe không cửa và nệm ghế nổi vồng, nàng bấp bênh dễ té, tay níu dải dây treo bên mui phía trước kính. Trong bóng tối, gương mặt nhìn nghiêng chìm lẫn nhập nhòa trong mầu sáng quá khứ.

    -Kỳ khôi hả Ly?

    Kiệt tự nhiên hơn khi chỉ còn hai người.

    -Anh vẫn vậy. Không thay đổi. Ly nhắc câu nói phút đầu.

    -Khen hay chê?

    Ly không đáp. Kiệt mở máy xe.

    -Ly Ly, Ty Ty, U Ly, Tu Ty… Mình sẽ đến chậm trễ và người ta sẽ nghĩ…

    Nói xong, Kiệt cười, rồ xe vọt mau.

    Kiệt không dòm Ly, không hỏi han. Ly cũng vậy. Họ đang nghe ngóng. Xe chạy qua những đường vắng, Kiệt dần dần vơi nhẹ. Trong một lúc xe phóng nhanh rồi quẹo gấp, Ly chao nghiêng, Kiệt cười ròn.

    -Anh hết sợ cảnh sát rồi hả anh Kiệt? Ly quay mặt hỏi giọng chế nhạo.

    -Không biết nữa. Ở đây kiếm bẩy ngày không ra cảnh sát. Có lẽ hết mà có lẽ còn. Ly sợ không?

    -Có sợ thì cũng đành chịu. Ngồi lên xe rồi mà.

    -Tốt.

    Hồi ấy khi không Kiệt thấy bóng cảnh sát là sợ rúm người. Nguyên nhân có lẽ vì rượu. Suốt một năm sau ngày mẹ chết, Kiệt bén mùi rượu đêm nào cũng la cà say bét nhè rồi về đập cửa phòng Tân. Ly mỗi dịp nghỉ từ Luân Đôn sang chơi với ông anh đều phải mở cửa cho chàng. Nàng thường nhăn mũi kêu ca vì hơi rượu nồng nặc Kiệt mang về đầu độc không khí, nhiều khi nàng còn phải dọn dẹp những bãi nôn mửa hôi tanh trên sàn rửa mặt. Có bữa cùng đi chơi với Kiệt và Tân, Ly đã bỏ ra về khi chàng trổ mòi say, miệng bắt đầu lảm nhảm: Et, enfin… (2) tôi muốn được một mình. Tôi muốn được thả rông một mình… Hiểu chưa?

    Chưa bao giờ Kiệt nói yêu Ly, chàng cũng không nghĩ tới. Nhưng một hôm say mứa được Ly săn sóc, chàng đã cầm tay Ly bảo: Em giống như mẹ anh, anh thề anh sẽ lấy em. Rồi chàng khóc rưng rức. Ngày hôm sau mặc dầu gần Giáng Sinh, Ly bỏ về Luân Đôn không báo cho Tân hay. Kiệt đã viết thư xin lỗi nàng và nhận được câu trả lời: Em cũng thề không bao giờ làm vợ một kẻ say sưa.

    Sau đó Kiệt từ rượu và sợ cảnh sát. Chàng vào nằm dưỡng trí viện mất mấy tháng. Ra khỏi dưỡng trí viện chàng mắc cở không gặp lại Ly. Mối liên lạc gián đoạn từ đấy. Cũng từ đấy Kiệt trở lại bình thường như mọi người. Chẳng bao giờ chàng nhắc nhở với ai - kể cả Thùy - về một giai đoạn khủng hoảng trong đời chàng. Với chính mình, chàng cũng không muốn nhớ nữa. Trong trí tưởng Kiệt quãng thời gian ấy như căn hầm tối bỏ hoang trong một gian nhà Kiệt chẳng khi nào héo lánh đến, lỡ chẳng may đi ngang chàng né lảng không dừng bước ngó ngàng. Bóng Ly bị bỏ rơi ở đấy.

    Bây giờ Ly là Hiền ngồi cạnh Kiệt. Vực chia cách đã biến mất. Thời gian lúc này không phải là sự quy hồi dĩ vãng mà như thể tiếp tục theo một dòng trôi chẩy tiếp diễn sau quãng ngưng nghỉ không đáng kể.

    Phương và Duy đứng đón bên vệ đường trên đầu dốc xuống quán ăn. Hai người ngó bộ nghiêm trọng.

    Quán S. thuộc hạng dành cho du khách và người ngoại quốc. Cỡ lương Trung Uý như Kiệt trả được ba bữa ăn như tối nay. Kiệt chỉ bước chân tới quán đôi ba lần trong những dịp Thùy lên thăm. Khi Kiệt đề nghị, chàng nghĩ đến món tiền mới lãnh chiều hôm trước của Viện Đại Học. Chàng thèm một buổi tối tưng bừng hội họp, trò chuyện đùa nghịch, trưởng giả đua đòi cũng không sao, ngay từ lúc chàng khoác bộ quần áo tề chỉnh bấy lâu ít mặc. Đã lâu chàng sống thiếu thốn hết thẩy.

  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Cuối đường dẫn xuống quán tráng xi măng. Hai người đàn bà đi đôi đằng sau hai người đàn ông. Trời trong và trăng tỏ.

    Quán vắng, êm ả. Trên bàn trưng mấy bông hồng. Duy mất hẳn tính hoạt bát. Có lẽ anh chàng thấy thất bại trong việc sáp gần Phương. Bữa tiệc khởi đầu có vẻ lúng túng, rời rạc.

    Kiệt kêu một chai rượu chát.

    -Anh còn uống rượu nhiều không?

    -Bữa nay đặc biệt. Tất cả đều uống, không ai được phép từ chối. Kiệt nói.

    Nhìn Ly ngồi cạnh Phuơng trong bữa ăn, Kiệt không hiểu sao Duy gọi nàng là bà Hiền. Tuy nhỏ thó, tươi tắn hơn bạn, nhưng nàng lại có vẻ chững chạc, lịch lãm hơn. Phương vướng víu, nặng nề vì mặc cảm của một người đàn bà độc thân. Ngoài ra hình như Phương không thoải mái vì những chuyện khác nữa.

    Kiệt lại bỡ ngỡ trước người đàn bà, trước khuôn mặt xa lạ.

    Hai cốc rượu của Phương và của Duy pha thêm nước lã. Hai cốc của Kiệt và Ly nguyên chất. Kiệt chỉ phải rót thêm vào cốc của Ly và của mình thôi. Trong khi Phương ngà ngà, Ly vẫn tỉnh táo. Duy thì ngậm miệng như thấm mệt, nhường Kiệt.

    Chai rượu thứ hai mang đến bàn theo lệnh của Ly. Kiệt cười khoái trá. Ly đốt thuốc lá, tiếp rượu chàng. Mọi cử chỉ của nàng thành thạo, tự nhiên. Nàng không bận tâm đến ánh mắt của người bạn gái, thỉnh thoảng nàng quay ngó Phương điềm nhiên gợi chuyện với bạn làm như tất cả không đáng nên thắc mắc, làm cho trầm trọng. Nàng không hề biểu tỏ vẻ bất cần khiêu khích thường gặp ở các phụ nữ phá phách.

    Một lúc Kiệt nghe Ly ghé hỏi khẽ bạn: Ân hận hả? Nàng nói tiếp: Không ai trách nhiệm hết, khỏi lo, cưng. Phương ngượng. Rồi như được giải thoát, Phương bắt đầu vui hơn và kéo theo Duy.

    Không khí đậm đà vào cuối bữa.

    Kiệt đợi Ly say nhưng nàng vẫn giữ vẻ bình thường trước mắt mọi người. Chỉ có môi luôn đậu nụ cười, những câu hỏi mạnh bạo, gọn ngắn hơn, giọng nồng nàn mê hoặc hơn. Một lúc điện hư, Kiệt nghe tiếng cười của Ly, không trông thấy mặt. Chàng xính vính trong tiếng cười dội thật xa.

    Cuối cùng Kiệt say hơn cả.

    Chàng ngó lảng ra cửa sổ. Trời đất như sắp sáng. Một khuôn cửa sổ ở xa lấp ló ánh đèn. Nhạc trong phòng trổi lại. Dường như đó là một quatuor của Brahms. Chàng căng rung, như những dây đàn phát chuỗi âm thanh ráo riết.

    Kiệt quay vào, chàng nghe Ly nói với Duy:

    -Tôi sẽ bắt anh Kiệt ngồi làm mẫu.

    -Chuyện gì vậy? Kiệt sửng sốt.

    -Anh sẽ ngồi làm mẫu cho Ly vẽ.

    -Ly vẽ? Vẽ cái gì?

    -Anh không biết Hiền là một họa sĩ hả? Phương xen lời. - Họa sĩ trứ danh đó. Vẽ từ ngày bọn này còn đi học với nhau cơ mà. Hồi ở Anh, Hiền triển lãm bán tranh như điên.

    -Thật hả? Kiệt ngớ ngẩn – Lên đây để vẽ tranh?

    Ly lẳng lặng cười.

    -Hiền đang làm chuyến đi kiếm đề tài. Vừa ra đến Huế đã phải chạy tắp lên đây. Phương cười cười - Chứ không nàng còn ngao du sơn thủy đâu thèm tới chốn khỉ ho cò gáy này.

    -Phương nó nói rỡn đấy. Ly chậm rãi cải chính. – Đâu có vẽ vời họa sĩ họa xiếc gì. Vứt sơn vứt cọ từ lâu rồi. Tự nhiên lên đây thấy nhớ thôi, còn có vẽ hay không lại là chuyện khác. Nội cái bây giờ đi sắm đồ nghề đủ mệt, chừng có đủ đồ nghề thì đã hết muốn vẽ rồi. Anh khỏi lo…

    Kiệt chăm chú nhìn Ly.

    -Nhưng tôi có gì đáng vẽ? Nói thử xem.

    -Dưới mắt họa sĩ không có cái gì là không đáng vẽ cả.

    -OK, bây giờ vẽ ngay đi coi. Kiệt khật khừ.

    -Đây này. Duy chìa đưa Kiệt một mảnh giấy bé bằng bàn tay. - Họa sĩ đã vẽ trước cả lời yêu cầu của anh.

    Kiệt ngó thấy bóng người đàn ông đang trông về phía một bình hoa và khuôn cửa sổ. Ly ghi phác mau lẹ dáng dấp của chàng phút vừa qua. Cái dáng dấp trơ trọi trên một nền trắng với những món vật bầy không. Ly theo dõi phản ứng của Kiệt.

    -Xin lỗi. Chẳng giống tí nào. Kiệt nói, nhét tờ giấy vào túi áo.

    -Giống ai? Ly hơi lên giọng.

    -Giống tôi chứ giống ai. Hay là ông Duy?

    -Tôi nào? Ly tiếp tục truy.

    -Tôi là tôi đây. Kiệt nhún vai, nhăn mặt.

    -Ở đâu? Lúc nào? Thế nào? Tại sao?

    Dứt lời Ly cười xí xoá. Nàng trưởng thành quá thể, Kiệt nghĩ.

    Duy uống cà phê, Kiệt với tay cầm cốc rượu đỏ của mình uống nốt. Tiếng đàn dây trầm trồ, lấp lửng. Ly kín đáo đặt những cốc rượu vào giữa bàn. Kiệt uống luôn cốc của Duy rồi cầm cốc của Ly trút đổ vào cốc đã cạn:

    -Xin lỗi. Rượu mắc tiền, bỏ phí. Kiệt giơ cốc rượu nói trước khi nốc.

    -Et enfin… Miễn cải chính.

    Duy toan đứng lên, Kiệt níu tay bắt ngồi.

    --Để ‘moa’ thanh toán. Dù anh là người được bạc chăng nữa. Hôm nay là ngày của tôi…. Chưa enfin đâu. Kiệt cười bảo Ly

    -Anh Kiệt say. Phương nói.

    -Vâng. Có lẽ. Nhưng cô yên chí. Hai cô về với nhau và chúng tôi về với nhau.

    -Phải hộ tống chứ? Duy nhắc.

    -Hộ tống chứ. Coi như xong. Kiệt phái Duy – Nhưng này cái gì thế. Nghe coi…. Păm păm păm pằm. Păm păm păm pằm… Ly nhớ không?

    Hòa tấu khúc số 5. Kiệt gõ bàn gõ theo. Chàng vụt nhớ lần đưa Ly đi chơi chỉ có hai người dự một buổi hòa nhạc. Chương trình gồm mấy hòa tấu khúc thế kỷ 19 và Beethoven với khúc số 5. Lúc ra về tuyết rụng lả tả, hàn thử biểu 10 độ dưới số không. Ly nhất định đòi đi chân trở về trên quãng đường năm, sáu cây số. Nàng bảo nàng muốn được ngắm đêm, ngắm thành phố ban đêm, con gái chẳng bao giờ được hưởng thú vị ấy như đàn ông. Kiệt chiều ý cô em gái bạn. Chàng đã choàng vai Ly đi trong đêm. Chàng đã hát những đề nhạc của hòa tấu khúc ấy, cho đỡ lạnh, bước lâng lâng. Ly thỉnh thoảng hát theo, lắm lúc lập cập phải núp vào người chàng.

    Kiệt không thấy gì khác thường trong đêm ấy và cả những ngày sau. Nhưng lúc này chàng vụt rõ sự ngu muội vô tâm của chàng.

    Ly gật đầu. Nàng nhớ? Nhớ như Kiệt nhớ?


    (1) Những nốt nhạc sai, không đúng nhịp

    (2) Và, cuối cùng rồi thì.... [NQT]


    Bây giờ nhiều năm sau, tình thế coi mòi đảo nghịch. Bao nhiêu năm ? Mười năm ? Mười hai năm ? Kiệt không chăm chú đến sự kiện ấy. Chàng chỉ nghĩ chưa thể về, chàng muốn tiếp tục đi. Ly không đồng ý. Tuy nhiên nàng có vẻ muốn chiều Kiệt nhưng lại đợi quyết định của Phương.

    Đã gần mười giờ. Mười một giờ giới nghiêm. Ở thành phố này, trời xập tối mọi nhà đã cửa đóng then cài. Tám giờ không ai ló mặt ra ngoài. Một góc phố chợ với dẫy quán ăn đêm và những hàng rong ngồi lề đường là chỗ tấp nập nhất. Phần đông những kẻ còn ngoài đường là lính tráng và bọn thanh thiếu niên.

    -Cô giáo bớt nghiêm cho Duy nó vui với chứ. Kiệt nhả nhớt.

    Như lượt đi, hai người đàn ông lái xe. Khi chiếc xe Volkswagen quẹo lên một đường dốc về khu chợ, Kiệt tách ngõ khác. Chàng chạy men bọc chân đồi. Đường um tùm cây cối.-Để cho họ tự do. Kiệt nói.

    -Không nên. Họ sẽ hoảng hốt.

    -Để cho họ hoảng hốt.

    Trời thoáng mát. Kiệt loay hoay châm thuốc. Xe bị đảo.

    -Anh có say không?

    -Không. Còn Ly?

    Ly thở hắt.

    Hơi men không còn bốc bừng bừng như lúc ngồi trong quán ăn nhưng lại lắng ngấm một cách nguy hiểm. Trong tình trạng này, rượu có thể trút vào vô hồi kỳ trận, bao nhiêu cũng chưa vừa, cho tới lúc đổ kềnh bất tỉnh. Kiệt thèm uống thêm nữa, đi nữa tới tận cùng cơn say. Hầu như bẩy tám năm Kiệt chưa say trận nào. Thỉnh thoảng trong các dịp tiệc tùng, Kiệt cũng uống nhưng chẳng thấm tháp. Vui cười rỡn hớt chút xíu là men rượu đã nhạt thếch.

    Chàng đang bắt thèm uống đến nẫu ruột. Trong cơn lảo đảo chân không dính đất cật chẳng dính trời, chàng sẽ có cảm giác phi trọng lượng của các phi hành gia du hành ngoài không gian. Cơn say nửa vời thường xui chàng làm bậy.

    Chàng nắm bàn tay Ly. Cả hai đều nhoẻn miệng cười. Cả hai bàn tay đều se giá. Và không một gợn cảm xúc nào truyền thông. May mà chàng đã không nói: Em giống hệt mẹ anh, anh thề sẽ lấy em. Và liệu chàng có nghe đích tự miệng nàng thốt: Em cũng thề không bao giờ làm vợ một kẻ say sưa?

    Kiệt nghe đau nhói. Hồi ấy chàng đã không nhìn rõ nụ cười thấp thoáng sau câu viết trên tấm bưu thiếp. Nhưng rồi sao nữa? Trong cơn khật khừ này chàng thấy, thấy như một đốm sao cuối trời.

    Chàng buông bàn tay như thả một cánh lá lượm nhặt bâng quơ.

    -Tân sao?

    -Khùng khùng. Bây giờ giống như một ông Đạo. Ông ấy ở chùa.

    -Hắn sung sướng.

    -Còn anh? Anh có hạnh phúc không?

    Kiệt không đáp.

    Chàng không sao đáp. Câu hỏi không bao giờ chàng đặt ra. Chàng có những lời giải để nói chơi hoặc trình bầy trịnh trọng trong các cuộc đàm luận giữa bạn bè và chàng còn có những ý nghĩ không thể tỏ bầy. Chàng không có câu nào ứng vào cảnh đang diễn.

    Tân về nước sau Kiệt, mang theo người vợ Đức. Hắn may mắn thoát lính. Nhưng người vợ không thể chịu đựng nổi Việt Nam. Sau Mậu Thân, nàng đem con về nước, không sang nữa. Tân không thể đi theo vợ. Tân tuyệt vọng dần dà lặng lặng như cây trụi lá đợi ngày khô chết. Từ ngày Tân về Kiệt không gặp vì chàng đã mắc lính.

    Nghe Ly kể, Kiệt chậc chậc, phê bình:

    -Trop sensible, (1) tội, có dịp về anh sẽ đến thăm.

    -Anh sẽ tha hồ được nghe về Ba La Mật, về Tánh Không. Ông ấy đang học chữ Phạn.

    -Đã cạo đầu chưa?

    -Chưa, nhưng mấy hồi.

    Những ngọn điện bên bờ hồ hiện ra. Mặt hồ mờ ảo. Từ trên cầu nối hai mạn hồ, Kiệt phóng mắt tìm chiếc xe của Phương nhưng những bóng cây bên bờ hồ quá sẫm.

    -Còn em. Anh không thấy cần hỏi thăm? Ly hỏi như nhắc đến một người khác.

    -Ờ. Còn em? Em có hạnh phúc không?

    -Trả đũa hả?

    Kiệt cười nắm lại bàn tay Ly. Chàng siết nhẹ. Lần này lòng chàng gợn xót.

    Phương và Duy đậu xe nơi ngã ba dẫn lên những đồi cỏ. Chỗ trống lộng. Họ đứng quay lưng ra hồ. Họ di chuyển, vẫy gọi như sợ bị bỏ rơi. Kiệt nhấn ga chạy quá tới khúc quanh. Chàng định đi luôn

    -Thôi, anh. Đừng làm họ sợ.

    Kiệt đạp mạnh thắng, nô nghịch. Ly bị xô lắc nhưng lặng thinh. Chàng quàng tay kéo Ly nhưng nàng dịu dàng gỡ tay. Chàng mắc cở, nhẩy ra khỏi xe.

    Bốn người gặp nhau đi giăng hàng trở lại cầu dưới những bóng cây. Họ bông đùa lớn tiếng trên đường không người. Ly trêu chọc Phương và Duy bằng giọng kẻ cả. Nương lời Ly, Duy nói băng băng, cười hể hả. Anh chàng đề nghị một cuộc pinic và hôm sau chủ nhật. Hai người đàn bà không sốt sắng.

    -Ý kiến anh thế nào? Duy hỏi Kiệt.

    Kiệt nhớ cuộc hẹn với Oanh, hơi lúng túng, rồi chàng đáp:

    -Không phản đối.

    Duy phác họa chương trình buổi đi chơi xa. Họ sẽ đến cánh rừng thông ngoài thành phố, rừng đúng là rừng chưa bị phá hoại như mấy chốn loanh quanh gần thị xã. Cánh rừng quanh một ngọn đồi có một tu viện cổ kính trông giống như một tòa lâu đài trong tiểu thuyết lãng mạn của Anh. Chim chóc làm tổ dưới mái, trên những tường đá thẳng đứng. Họ sẽ thăm một vườn hồng có loại hồng tím, một trại gà tân tiến, rồi ăn đồ khô ngoài trời và nếu thích họ có thể mạo hiểm đến con Suối Vàng nơi thiên nhiên còn thực sự hoang vu.

    -Rồi ngày mốt? Ly hỏi. - Những ngày sau nữa còn chương trình gì nữa không?

    Duy bị bất ngờ. Kiệt cất tiếng cười.

    -Còn anh Kiệt? Anh không có chương trình nào ư? Giọng Ly khác thường. Nàng có vẻ nóng nẩy như sắp gây sự.

    -Chương trình? Ghê quá. Tôi lang thang theo gió. Kiệt đùa.

    -Anh Kiệt lãng mạn thật Phương nói. - Anh có biết đám nữ sinh nhận xét anh thế nào không? Họ bảo không hiểu sao anh lại đi dậy cái món Kinh Doanh Sản Xuất, anh phải dậy văn chương mới đúng kiểu.

    -Đúng kiểu nhất là chẳng dậy cái món gì. Túng thì làm càn thế thôi. Tôi đâu bao giờ ngờ có ngày mình lại phải làm cái nghề mô phạm.

    -Chính vì thế mà anh thành công, đặc biệt với nữ sinh viên. Phương trêu.

    -Succès fou. Duy phụ họa - Giáo sư Kiệt có một vẻ đẹp "tàn nhẫn", "đầy đực tính" không tưởng nổi. Tôi đã từng nghe một cô sinh viên phê bình. Nguyên văn đấy.

    -Có lẽ tại tôi cứ mặc đồ nhà binh, đeo súng, mấy bữa lại còn đội cả nón sắt vào lớp.

    Lúc ấy họ đang dừng nghỉ chân trên cầu. Mặt hồ bát ngát trải mờ. Thành phố cao lên ở một phía với những bóng cây xẫm nổi chạy dài. Đèn đóm đìu hiu. Không một tiếng động xung quanh.

    -Còn chương trình của Ly? Kiệt hỏi. - Định ở chơi trên này bao lâu?

    -Tùy.

    Câu đáp hổng, mệt mỏi.

    Ly nép bên Phương, dáng uể oải. Nàng như không thiết tha đến bất cứ điều gì lúc ấy. Kiệt nghĩ rằng nàng đang bị cảnh vật mê hoặc. Những người lên đây trong những ngày đầu tiên không ai là không bị nhuốm chứng bịnh thất thần vì những quãng im trống ghê gớm của đêm dấy động những thì thầm hay huyên náo của tạo vật. Rồi còn khí hậu thời tiết lúc nào cũng dầy đặc bao quanh luôn luôn bắt người ta phải chú ý và quên lãng mình.

    -Có ai dám nhẩy xuống hồ lội không? Ly hỏi lúc họ bắt đầu đi về xe.

    -Không có tôi. Duy nói. - Nhưng tôi đã trông thấy có người dám. Ghê gớm hơn nữa là lại vào hồi cuối năm. Mới cuối năm ngoái đây. Một bọn sinh viên Sàigòn lên chơi thách thức nhau và một cô đã phăng phăng mặc nguyên cả quần áo lội xuống hồ ngâm mình rồi leo lên. Hôm ấy trời cũng có trăng.

    -Chắc hôm sau cô ta đi nằm nhà thương. Phương nói.

    -Sau đó, họ đâu đã chịu về. Họ kéo nhau lên đồi mót giấy, mót củi đùa nghịch ca hát đến còi giới nghiêm mới ù té chạy về chợ.

    -Làm sao anh biết? Ly hỏi. - Anh theo dõi họ?

    -Hôm ấy tụi tôi rủ nhau lên đồi nằm. Có chai rượu chát thưởng trăng. Bữa ấy anh không đi. Duy phân trần với Kiệt. Tên Đăng mang đàn theo đánh cho nghe cũng đúng giới nhiêm bọn này mới về.

    -Thế anh không nhìn ra chính tôi lội xuống nước hôm ấy à? Ly cười khẽ hỏi.

    Duy quay nhìn Ly, không hiểu nàng nói thật hay đùa. Cả Kiệt nữa.

    -Có thể. Có thể. Duy gật gù nói. - Nhất bà.

    -Đúng. Chứ sao có thể. Anh tin không anh Kiệt? Phương tin không?

    Ly thích thú vì câu đố của mình đặt ra.

    Kiệt nhớ ngày trước Tân đã giới thiệu về cô em gái của mình: "Nó thông minh ngoại hạng. Thông minh chịu không nổi. Bởi nó thông minh đến cái độ nó biết sợ sự thông minh của nó, nó biết giả ngu, giả độn, tập quên sự thông minh đi. Ngày nhỏ tối ngày nó cứ lấy ngón tay ngồi đâu là khoa khoa vẽ trong không khí, giấy không đủ cho nó vẽ vả lại bà cụ cấm không cho con gái học cái trò lăng nhăng mà. Bà cụ cứ mắng nó là vẽ bùa trù ếm gia đình." Gặp Ly, Kiệt thực sự quý sự thông minh ở nàng. Nhưng ngấm ngầm chàng ngại. Người ta không sống bằng trí tuệ. Mọi trí tuệ thường đều là ngựa đã đóng yên cho một cuộc đăng trình. Sự thông minh như những ngọn roi quất lên lưng ngựa sải không dừng. Kiệt không muốn chạy. Chàng muốn đi. Tốt hơn nữa là dừng lại một chỗ. Lúc này cũng vậy. Cuối đường kia có gì khác?

    -Thật thì Ly khùng quá. Kiệt nói.

    -Còn hơn sợ cảnh sát. Ly đốp chát.

    Nàng còn định nói tiếp. Kiệt xụp buồn.

    Cơn buồn lẵng nhẵng suốt đường về khớp miệng Kiệt.

  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Để tránh gió máy, hai người đàn bà ngồi chung chiếc xe nhỏ quay kính do Kiệt lái. Duy lái xe Dodge đi hộ tống. Hơi men âm ỉ trong chiếc sọ trống rỗng của Kiệt. Đêm rộng khắp sừng sững và sâu thẳm của cây cỏ, núi đồi. Quãng đường gần tới nhà Phương có những khúc điện nhô khỏi lùm cây sáng quắc mặt nhựa. Ly ngồi sát Kiệt và Phương mé ngoài. Thỉnh thoảng Ly ngó ngang về phía Kiệt. Kiệt không ngó lại nhưng trong trí chàng gương mặt Hiền đã đậm nét, hết xa lạ. Tuy nhiên chàng vẫn chồng lên gương mặt ấy những nét còn ghi nhớ được của Ly ngày nào.

    Kiệt tự hỏi: cớ sao trong bấy nhiêu năm chưa khi nào chàng kể Ly vào trong đám hình bóng những người đàn bà đã từng ghé qua đời mình? Ly bị bỏ quên cùng với hỗn độn tâm trí? Thực sự chàng có quên không, hay chàng giam nhốt nàng trong ngăn hầm hắc ám đó?

    Kiệt nhấn kèn inh ỏi gọi cổng. Rồi chàng để hai người đàn bà xuống trên lối dẫn lên thang vào nhà và chạy xe vào trong gara cuối sân. Lúc ấy muời một giờ thiếu mười phút. Bọn chàng sẽ gặp còi giới nghiêm dọc đường.

    Phương mở cửa mời lên nhà. Kiệt xua tay.

    -Còn gặp nữa không? Ly hỏi.

    Kiệt hít một hơi luồng gió lạnh từ dưới lũng sau nhà ùa tới xào xạc cây lá. Chàng nghe và tự hỏi mình y như thế. Chàng ho rũ rượi.

    Còn gặp nữa không?

    Tiếng gió ào ạt bao kín chiếc Dodge chạy thục mạng. Hồi còi hụ rượt đuổi lồng lộng như muốn chắn lối. Kiệt ngồi giống như Ly bám chặt ghế mặc Duy nhân ga. Chàng hét to, đùa rỡn lấy lòng tên lính gác cổng, cười ngả nghiêng với bạn như thể một tên lính Lê Dương. Duy không khác.

    Họ kéo nhau lên Hội Quán.

    Kiệt đổ la de cho mình trong khi Duy chơi bi da. Chàng dự khán cuộc tranh tài giữa Duy và một tên lạ mặt, lớn tiếng cổ võ bạn. Rồi hai người đi bộ về phòng. Họ mặc y phục thường dân, thong thả giữa tòa nhà im ngủ như trong phố khuya.

    -Ngay mai sao? Duy hỏi

    -Sáng mai tôi bận. Anh nên đi một mình. Tới thật sớm, leo rào mà vào đứng trong vườn đợi. Đợi nàng mở cửa và bất chợt thấy anh đã đứng lù lù, tóc ướt đẫm sương. Kiệt cười. - Thế là ăn chết. Muốn chắc ăn nữa thì hái một bông hoa trong vườn cầm tay để sẵn sàng tặng nàng.

    -Ý kiến hay. Coi như xong.

    -Bạo phổi hơn thì đừng nói gì cả. Hôn nụ hoa xong trao cho nàng rồi lặng lẽ quay lưng. Hai tay đút túi quần, đầu cúi thấp, đếm bước mà đi.

    -Cũng coi như xong. Duy ngừng. - Nhưng liệu có bảo đảm không?

    -Trăm phần trăm, chắc thắng điểm như cái giò gà. Dám không?

    -Coi như xong.

    Họ cười ồn trong hành lang.

    May mắn đêm ấy không có điểm danh, không báo động. Và cũng may mắn chiếc xe lambretta của Kiệt khoá vứt trước quán cà phê suốt đêm không mất.




    (1) Nhạy cảm quá [NQT]


    Rất hiếm khi Kiệt thức giấc sáng chủ nhật ở trại. Chàng không thích bắt đầu ngày nghỉ từ trong trại nhà binh.

    Thường ngày, sau hồi kèn báo thức sáu giờ, hai chiếc loa sắt trên nóc tòa nhà Quân Sự Vụ phát oang oang các bài hùng ca xen những bài dân ca nhún nhẩy. Sinh viên sĩ quan tập thể dục chạy rầm rập hô đều. Muời đại đội chạy đi chạy lại trên quảng trường hai ba lượt. Kế tiếp những chiếc xe rống máy trên bãi đậu, hết chiếc này đến chiếc khác. Các sĩ quan ứng chiến ra về. Phòng Kiệt nằm, thấp, cách chân bãi xe đậu khoảng hai chục thước, chàng quen ngủ mở hé cửa sổ dù là mùa đông, và chàng thức cùng những tiếng động bên ngoài. Nhiều hôm chàng còn thức sớm hơn. Phòng đối diện của ông thượng sĩ già giữ chức thường vụ đại đội ứng chiến cứ điểm. Buổi tối, đó là nơi các toán gác, kích tới nhận lãnh súng ống đạn dược, máy truyền tin và các tiêu lệnh đặc biệt trong đêm. Sáng tinh mơ, đèn phòng thủ chưa tắt, lính đã lục tục kéo về trả súng ống, máy móc. Chưa dứt giới nghiêm, ông thượng sĩ đã thức truyền lệnh, thúc hối vang hành lang. Ông cần rời trại sớm hơn mọi người trên chiếc xe lambretta cọc cạch để chạy ra lò bánh mì ngoài chợ, chở mấy chục ổ bánh về cho bà vợ kịp bán buổi sáng. Vợ chồng ông thượng sĩ có gian hàng nằm trong khu chợ nhỏ dưới chân dốc của đường vào trại, mở quán nấu cơm tháng cho bọn lính độc thân vô gia đình.

    Chủ nhật, sinh viên sĩ quan không tập thể dục. Tiếng hát hò lải nhải trong loa sắt vắng bặt. Ông thượng sĩ và những chiếc xe trên bãi đậu về từ sớm, lúc Kiệt ngủ say. Tỉnh giấc, Kiệt gặp sự yên tĩnh bất ngờ.

    Hồi đêm về đến phòng, Kiệt lăn ra giường ngủ ngay lập tức chẳng kịp giăng mùng. Giấc ngủ đầy kín không mộng mị. Cơn say rượu còn mạnh hơn cả liều thuốc ngủ tốt.

    Buổi sáng thường đối với Kiệt là những giờ khắc quý nhất. Dù sau một đêm trắng, Kiệt vẫn thức dậy như thường lệ và chỉ ngủ bù khi đã qua những giờ đầu tiên của ngày. Không biết từ bao giờ Kiệt mắc tật thức sớm. Chàng không thể ngủ trễ. Không may hôm nào chàng thức dậy lúc trời đã nắng, nhất là ở thành phố nhiệt đới như Sàigòn, hôm ấy chàng chán đời, rũ rượi vô tả.

    Cùng với sự hồi sinh của tạo vật, Kiệt hồi sinh. Buổi sáng chàng ra khỏi những căn nhà, đi ngoài trời và thấy mình hoàn toàn phiêu diêu trống trải không bợn cặn. Thuở nhỏ chàng chạy ra đồng, lên bờ đê, sung sướng dẫm chân lên những đám cỏ ướt. Lớn hơn, chàng yêu phố xá quạnh quẽ với những chuyến tầu điện, những chuyến xe ra bến thắp đèn soi những khoang không người. Ở ngoại quốc, chàng đi trong những thành phố còn dơ bẩn xám ngoét chưa quét dọn. Không cần phải biển, phải núi, phải rừng, chỉ nội bầu trời lúc rạng ửng mới mẻ của bất cứ mùa tiết nào cũng đủ làm Kiệt ngây ngất thống khoái. Những lúc ấy chàng thật sống, đơn sơ trong máu chảy và hơi thở.

    Thú của Kiệt là thú không thể chia sẻ.

    Nhiều hôm ở Sàigòn, lòng đầy hứng khởi trong buổi mai, Kiệt phải mở cửa thoát ra sân trong khi Thùy và các con còn ngủ, bách bộ loanh quanh, ghé quán uống cốc cà phê rồi trở về nhà trước khi vợ con dậy. Chàng không thể đánh thức vợ rủ đi chơi cũng không thể đập cửa nhà bạn vào giờ ấy. Hồi mới sống với nhau ở Âu Châu, Kiệt thường phá giấc ngủ của Thùy, rủ xuống phố lúc mới năm giờ và nàng không thể hiểu những thú vị chàng mô tả để khuyến dụ nàng. Cuối cùng Kiệt đành ra khỏi phòng một mình, dù chỉ để đi một đoạn phố, mang bữa điểm tâm về. Hồi Mậu Thân, sáng mùng hai Tết, Kiệt còn bồng con ngồi ngoài cây đu trước sân, ngóng trời, và mãi khi đứng dậy trông thấy vết đạn xuyên thủng thành lưng đu chàng mới giật mình hiểu nơi chàng cư ngụ lọt trong vòng nguy biến.

    Mỗi buổi sáng Kiệt trông rõ mình lủi thủi, trơ trọi, nhưng vào những lúc ấy chàng không buồn bã. Trái lại.

    Ở đây, trong khi mọi người vội vàng tìm về ổ riêng, Kiệt thủng thỉnh thả bước trên một đoạn đường vòng, leo một con dốc đến Hội Quán. Cửa Hội Quán thường chưa kịp mở. Chàng đứng chờ ngoài sân. Dải sân viền quanh Hội Quán như dải bao lơn lớn rộng. Chàng tựa thành sắt ngắm phong cảnh mở rộng ra trước tầm mắt. Hoặc chàng lấy xe rời trại theo con đường chính quanh co dưới chân các ngọn đồi, con đường có khu xá của trường xây dở dang ở một bên.

    Suốt tháng này, Kiệt hay ngửa cổ theo dõi những vệt khói trắng vạch dài trên nền trời mai trong xanh. Hầu như sáng nào cũng xuất hiện ba chiếc oanh tạc cơ trắng bạc bay cao ngất từ hướng đông vào.

    Chủ nhật, Hội Quán tuy mở nhưng không hàng bán. Kiệt không muốn chui xuống hầm đến Câu Lạc Bộ. Hơn nữa, không khí lặng ngắt xung quanh khiến Kiệt chưa muốn ra khỏi giường. Chàng thèm tìm lại sự êm tĩnh của những ngày trước.

    Nhưng rồi chàng sực nhớ đến chiếc xe bỏ ngoài đường suốt đêm, vội vã đập cửa phòng Duy. Duy không khi nào dậy nổi trước bẩy giờ. Nhiều bữa, sinh viên bắt đầu tập họp đến lớp, anh chàng mới quáng quàng nhẩy khỏi giấc ngủ. Mỗi lần bị đánh thức, hắn lính quýnh như gà mắc đẻ.

    Trong lúc Duy làm công việc vệ sinh, Kiệt đứng ngoài thềm trông xuống Vũ Đình Trường. Dưới lũng, những vệt sương là là chưa tan hết. Gần, xa, tuyệt không tiếng động, không bóng người. Doanh trại bỏ trống, những người hạ phiên đã về và những người thượng phiên chưa tới.

    Ngày chủ nhật khô ráo, đẹp trời. Nắng tươi lan thả trải những tấm thảm vàng trên mầu xanh của cỏ lá. Các hồ nước trông lặng mơ màng.

    Khu trung tâm thị xã phô bầy quanh cảnh của một ngày nghỉ tỉnh lẻ. Trên đồi, người lớn chơi thả máy bay điện, đánh cù, tập lái xe, trẻ con cưỡi ngựa, chạy nhẩy nô dỡn dưới mắt trông nom của cha mẹ. Nhan nhản ở các triền bãi, sói con, hướng đạo họp đoàn, bọn thanh thiếu niên trổ tài cưõi xe gắn máy băng đồng. Trên các vỉa hè hẹp, ngắn, người tuôn nờm nợp, tất cả gần như quen biết nhau. Những khuôn mặt lạ hiếm hoi. Nội buổi sáng quanh quẩn khu chợ, người ta ít nhất đụng nhau dăm ba bận. Đụng đầu trong quán phở, ngoài vỉa hè, trước hàng bán đồ Mỹ, trước rạp chiếu bóng, trước chợ, tại những chỗ đậu xe.

    Từ các cư xá, các sĩ quan chở gia đình trên xe díp, xe Dodge, xe scooter, gắn máy ra phố ăn sáng, đi chợ. Người ta đi chợ mua ăn hai ba ngày có khi một tuần. Quãng chín muời giờ phần đông trở về họp quanh bàn mà chược, bàn chắn hay tổ tôm, hay xì phé. Những người có thú giải trí cờ bạc qua ngày chủ nhật mau chóng dễ dàng. Những người không ưa thú ấy chỉ còn mấy đường phố, bờ hồ và đồi cỏ. Đám này đến chiều phải trở ra thị xã thêm lần nữa trước khi về ăn cơm, đọc báo, nghe đài phát thanh, chờ giờ nhập trại.

    Ngày chủ nhật đối với Kiệt thật đáng ngại.

    Kể từ khi bị trộm mất hai cây vợt và chiếc Radio Zénith, Kiệt không còn ra sân quần và không còn nnhững giờ nhge nhạc một mình. Chàng có thể sắm lại những món đã mất nhưng không sắm. Chàng muốn tránh sân quần, tránh cái xã hội trưởng giả chật hẹp tỉnh lỵ. Chàng cũng thử tập quen sống cảnh bị tước đoạt, xem cuối cùng mình còn gì. Và trong hoàn cảnh độc thân bất đắc dĩ kéo dài, Kiệt thường chẳng biết làm gì cho hết ngày nghỉ. Chàng ngồi quán, đi phố, đọc sách, tập đàn, ngủ, rồi ngồi quán, đi phố....

    Thật sự, sáu năm trong quân ngũ, ngày nào đối với Kiệt cũng là ngày chủ nhật. Không công việc rõ rệt hoặc được giao những công việc bất ưng không đòi hỏi nỗ lực chuyên môn. Kiệt nhàn rỗi, long nhong trong trại hay ngoài trại đợi ngày qua. Lên đây, bận bịu một tuần muời giờ dạy học đỡ nản hơn thời ở phòng thí nghiệm kho dầu nhưng vẫn rhừa quá nhiều giờ trống. Việc dậy học không hợp với Kiệt, chàng ghét nói, ghét thuyết giảng. Chàng bị bắt buộc làm việc ấy chỉ vì sinh kế. Cho nên những ngày của Kiệt chẳng bao giờ đầy, tâm trí chàng chẳng bao giờ trụ. Giả như không được xếp vào thành phần chuyên viên, không phải làm việc văn phòng, sống hẳn cuộc đời võ biền có khi tốt hơn, nhiều lúc Kiệt nghĩ vậy. Sống xa lạ giữa một đời xa lạ cùng với cung cách đơn giản thụ động tùy phản ứng, chàng có khi đổi được tâm trí.

    Ở đây, Kiệt không quen biết nhiều như Duy để có chỗ lui tới. Vả lại, chàng không thích giao du.

    Ngày chủ nhật nào của Duy cũng đầy ắp chương trình, sẵn sàng hoán thế khi cần. Anh chàng có nhiều nơi để đến. Một gia đình gồm một bà mẹ goá và bốn cô con gái Duy đóng vai chú hờ. Một "người đẹp thôn dã" nhà có vườn mận bát ngát. Một "góa phụ vui tươi" có đứa con gái hai tuổi. Người đẹp ngân hàng, người đẹp xứ Thái, người đẹp lưu trú, người đẹp lò bánh mì, người đẹp mỹ viện... không kể những người đẹp từ phương xa ghé lại và những người đẹp của các quán hàng và những người không rõ xấu đẹp đến gõ cửa phòng Duy ở lại suốt đêm.

    Chủ nhật ấy trên xe Duy dự tính sẽ đến thăm mấy cô cháu. Bốn cô gái giống như bốn nhân vật tiểu thuyết theo lời Duy, mỗi người một cá tính. Tương tợ như Little Women. Duy mến cô bé thứ hai đang học năm cuối cùng bậc trung học. Cô ta biết viết văn và làm thơ. Đã lâu không đến, Duy chắc chắn sẽ được mời bữa trưa, như thế đỡ một khoản tiền cơm. Buổi chiều, Duy sẽ về thăm vườn mận. Thiếu nữ ở đây quê mùa, chất phác, nhưng lành mạnh. Nàng sẽ đưa chàng ra vườn, lượm mận rụng cho chàng ăn no bụng. Ăn mận trừ cơm. Khỏe ru. Duy không đả động đến cuộc đi chơi tối qua, anh chàng tỏ vẻ không hài lòng.

    Ra đến quán cà phê, chương trình của Duy thay đổi. Gặp người rủ đánh bài, Duy theo liền. Hắn chia tay Kiệt, hẹn chiều gặp lại ở phố với hy vọng sẽ gom tiền thiên hạ làm bữa thịnh soạn.

    Còn một mình, Kiệt bắt đầu mất bình tĩnh.

    Chàng gọi cốc cà phê thứ hai, ngồi nán thêm. Kiệt không rõ mình sắp đi đâu, đang sửa soạn trò gì trong lúc này. Chàng suy nghĩ nhưng vẫn biết mình rất dở suy nghĩ. Trí tuệ của chàng một khi điều động sẽ dần dần quay theo nhịp của riêng nó, thoát khỏi sự kiểm soát của ý lực. Chàng mất hút trong cuộc quay mù. Tốt nhất là không suy nghĩ, mở mắt bước theo dấy động tùy lúc của ý đột nhập. Như kẻ mộng du. Kiệt tự hỏi: mình đang tìm kiếm gì? Và người khác tìm kiếm gì ở mình?

    Bây giờ chàng ngạc nhiên về tình trạng giữa mình và người. Chàng không rõ gì cả về những người đang đến gần chàng và ngược lại cũng thế. Họ có hiểu được rằng chàng hiện như thế nào không? Chàng như một tảng đá cheo leo trong cơn lở núi đang bị rung chuyển tận gốc rễ. Họ phụ lực trong cuộc lay động chăng?


    Rồi lúc nào tảng đá bật tung, lao vút, vỡ nát?

    Thiệt chàng giống hệt một tảng đá. Je fus homme, je fus rocher. Je fus rocher dans l'homme, homme dans le rocher.... fraternellement seul, fraternellement libbre (1). Chàng lầm lì, thơ mộng hết sức khi lẫm bẩm nhớ mấy câu thơ Eluard của ngày còn đi học. Những người đàn bà đọc thấy câu thơ ấy khắc trên tảng đá là Kiệt chăng? Không biết. Làm sao biết. Lố bịch quá thể.

    Ngay năm đầu, đặt chân vào giảng đường, Kiệt đã trông thấy Oanh. Sinh viên đặt cho Kiệt biệt danh là "Ông ngưỡng thiên", theo nhận xét của chúng, khi chàng nói chàng không nhìn lớp mà ngước trông trần nhà. Chàng không rõ dáng vẻ của mình trong con mắt cùa chúng hiện ra như thế nào nhưng chàng biết khi nói chàng vẫn trông một vài khuôn mặt, trong ấy có Oanh. Chàng sẽ lúng túng, khổ sở, khó nói năng nếu vắng những khuôn mặt thân thuộc. Chàng cũng thỉnh thoảng gặp Oanh ngoài phố, một hai lần trước rạp chiếu bóng, nhưng chàng chưa bao giờ tỏ dấu muốn nói riêng với nàng lời nào. Oanh chỉ là gương mặt chàng gặp trong giảng đường, hiện lộ như như một mầu sáng giữa đám đông lố nhố Kiệt phải đương đầu hai giờ mỗi tuần.

    Đây không phải lần đầu Kiệt có mối liên hệ với một thiếu nữ nhỏ tuổi. Năm trước, khi tưởng mình chẳng ở đây lâu, như du khách muốn biết rõ thành phố, chàng lui tới những buổi hội hè tổ chức trong vòng thân mật kín đáo. Kiệt gặp gỡ bọn thiếu nữ mới lớn, học sinh có, sinh viên các phân khoa có, phần lớn con nhà khá giả trọ học tại các lưu xá. Chúng nhìn Kiệt như người đàn ông từng trải, du học ngoại quốc về, hợp jeu với lối sống buông thả, phóng túng. Quả như thế. Lúc ấy, Kiệt phô trương kiểu cách (một chút thơ mộng, một chút bất cần, một chút ngạo nghễ vân vân, thứ nào cũng một chút, tùy cảnh tùy người) và Kiệt thành công đến độ nhiều lúc chàng bắt sợ. Bọn thiếu nữ tưởng chừng non nớt thật sáng suốt, bình tĩnh trong cuộc đùa nghịch hơn cả đàn ông. Chúng thản nhiên kinh khủng, và Kiệt sống những ngày phù phiếm.

    Kiệt cũng tự hỏi, mình có hiểu lầm ý định đầu tiên của Oanh khi tìm đến? Chàng có lôi cuốn cô bé vào trong cơn lốc thổi qua tâm trí bất định của mình?

    Tất cả những câu hỏi, Kiệt đều không trả lời. Chàng phân vân ngần ngại không muốn gặp Oanh. Với đầu óc xáo trộn và lỳ lợm sau một cơn say chưa hả, chàng sẽ bậy bạ. Nhưng chàng không biết lùi theo ngả nào. Chẳng lẽ tới Ly? Câu hỏi của Ly chặn bước chàng: Còn gặp nữa không? Chàng có nên gặp lại Ly? Ly của thời mông lung xa tắp chàng cố quên.

    Rời quán cà phê, Kiệt đi phố. Chàng theo chân một tốp đồng nghiệp trong quân trường bước trên vỉa hè như một con hình trong đèn cù tháng tám. Xe cộ, người qua lại rối mắt. Các quán nhạc mở máy hát ầm ầm. Kiệt ghé các quán sách, dòm ngó các kệ. Chàng cố tình đắm vào quang cảnh ngày chủ nhật nhộn nhịp.

    Cuối cùng chịu không nổi sự bồn chồn, Kiệt hấp tấp về quán lấy xe. Chàng chạy chậm như vô mục đích, ngấm ngầm ước ao không ai tìm gặp chàng trong ngày hôm nay.

    Chàng thật tâm luyến tiếc những ngày lặng lờ bằn bặt vừa qua.


    (1) Je fus homme, je fus rocher. Je fus rocher dans l'homme, homme dans le rocher.... fraternellement seul, fraternellement libbre : Tôi là người đàn ông, tôi là tảng đá. Tôi là tảng đá trong người đàn ông... đàn ông trong tảng đá, một mình anh em, tự do anh em [NQT]


    Kiệt mở rộng cửa, đón nắng, khu cư xá trong ngày cũng giữ vẻ biệt tịch. Chỉ nghe tiếng xe chạy ngang dưới đường ga hoặc những tiếng động dưới lòng chảo, họa hoằn mới có tiếng xe hay tiếng người qua trên dải đường trong cư xá. Ở nhà, khi nào Kiệt cũng để ngỏ cửa, không ngại bị dòm ngó. Ánh trời, bóng nắng, gió, bóng cây lá - những trận mưa nữa – tuôn vào tới bàn lớn bề bộn sách vở, giấy má, vật dụng lặt vặt kê giáp hai cạnh vào tường. Chàng nằm dài trên giường, ngủ quên thoải mái như phơi mình ngoài trời. Một buổi sáng chủ nhật, chàng ngủ quên như thế, chừng tỉnh dậy thấy mất hai cây vợt và chiếc máy thâu thanh. Thủ phạm chắc là một kẻ trộm thời cơ, ngẫu nhiên lạc bước qua cửa, không trở lại lần thứ hai.


    Gian phòng nguyên như buổi tối thứ sáu trước khi Kiệt rời nhà vào trại. Cây đàn bỏ trên bàn. Tập sách nhạc mở ở bài Sonatine của Beethoven Kiệt đang tập. Tập sách có chữ của Thùy đề tặng sinh nhật chàng. Em mãi mãi ở bên anh, hãy bình tâm. Dấu vết ngày thứ bẩy là mặt nệm, chiếc gối xô lệch và bộ quần áo thay vắt cuối chân giường. Kiệt xoá các dấu vết trên mặt nệm, ném bộ binh phục vào trong phòng tắm. Như người xa lâu trở về nhà, Kiệt ngồi xoay ngang trên ghế ngó làm quen lại với nơi chốn.


    Đang lúc ấy Oanh nhô lên, giữa bờ cỏ cao, nàng vẫn theo lối cũ từ dưới đường thấp leo lên những bực đá.


    Oanh thắt tóc thành hai dải bím, mặc váy và áo chẽn bó mầu hồng đào. Cách trang phục làm nàng nhỏ bé thêm. Nàng như bị vây giữa đám lá cỏ, tàn cây cao và những hoa nắng ngả ngớn. Nàng ngỡ ngàng như lạc lối. Có vẻ như nàng không chủ tâm tới, nàng dạo chơi, vui chân bị cảnh vật dẫn dụ.


    Kiệt không hơn. Tuy chàng đã qua khỏi trạng thái mất bình tĩnh, nhưng bây giờ chàng bất động u ám. Sự xuất hiện của Oanh khuấy nhộn chàng quá lắm và chàng chống lại bằng vẻ điềm nhiên tọa thị.


    Oanh vào tới trước sân. Mặt đất đầy những cành lá và các quả thông khô. Nàng nhìn các phía, rồi chạy mau lọt vào trong cửa. Nàng đứng tựa lưng, ngả đầu vào tường, hai cánh tay xuôi thẳng, bàn tay áp trên mặt tường như chống đỡ cho khỏi khụy. Nàng khép mắt thở dồn, rồi từ từ hé mắt mỉm cười.


    Lúc ấy giống như thể một dàn nhạc đại hòa tấu ùa lên tở mở trong một ouverture. Ánh sáng tắt hết trong thính phòng và rực rỡ tụ hội trên sân khấu. Lúc ấy giống như Kiệt là một diễn viên phải ra sân khấu, trong một thoáng trút lốt hàng ngày, bước tới trong điệu bộ bị điều động bởi âm thanh, ánh sáng, và khán trường.


    Lúc ấy mọi thứ đều hư ảo, mờ nhạt. Chỉ có im lặng bao trùm hiển hiện.


    -Xin lỗi, em đến chậm.

  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Kiệt ôm đầu Oanh vào ngực. Hai người đứng thẳng cứng nhắc. Mặt Oanh cúi nấp, Kiệt tựa cằm trên tóc nàng, môi ngậm nhấm mấy sợi tóc phất phơ. Sau những dồn nén, thiếu nữ bắt đầu xúc động. Sự xúc động nhẹ nhàng dấy. Như một diễn viên vụng về, Kiệt không biết xoay xở ra sao, chàng vuốt ve mái tóc.


    -Em đi chân nên đến chậm.


    Nói xong, Oanh khẽ đẩy Kiệt lùi xa. Trán nàng lấm tấm mồ hôi. Nàng bước vào giữa phòng quay dòm phía sau. Cửa vẫn mở rộng. Nàng mỉm cười hỏi ý Kiệt, nàng không nhận thấy chỗ nào nàng có thể tới trong căn phòng.


    Kiệt đến bên và chàng lại ôm đầu Oanh vào ngực. Hai người đứng im tại chỗ. Kiệt ngó mông ra ngoài, tới tận những đám cây xa trên con đường còn cao hơn ngọn đồi cư xá. Con đường chạy ngang những dinh thự. Chàng trông thấy những dinh thự bám chênh vênh dưới chân con đường ấy. Dường như Kiệt không biết làm gì hơn là lập lại những cử động chàng đã làm. Oanh cũng vậy. Nàng vẫn cúi nấp đầu nhưng đã bớt hồi hộp. Nàng ở trong vòng tay Kiệt nhẹ như thỏi bông.


    Kiệt bắt đầu thấy mình kỳ cục, dị hợm.


    -Nói một câu gì đi. Kiệt nói.


    -Kỳ cục.


    Như được xô sau lưng trên dốc trượt, chàng bật cười vò đầu Oanh. Chàng nghiêng người, nâng mặt nàng ngửa lên nhìn vào. Không hiểu sao, chàng bỏ ý hôn nàng, chàng giữ im nụ cười soi trong đôi mắt thất lạc.


    -Kỳ cục thiệt. Kiệt lập lại. – Còn kỳ cục nữa. Anh đang trở về, đang trẻ lại. Giống như thể ngồi sau chiếc phi thuyền tốc độ hơn tốc độ ánh sáng…


    Oanh ngơ ngác. Kiệt giải thích thuyết tương đối của Einstein. Chàng nói trôi.


    -Em thấy không, anh chỉ muốn đứng, muốn đứng mãi một chỗ như thế…


    Oanh không thể hiểu ý và điều này thì chàng không giải thích. Làm sao giải thích những rung động? Muốn đứng mãi một chỗ như một thân cây, một tảng đá, một ngọn núi không chuyển. Và nghĩa là không muố nằm, không muốn tan chẩy, không muốn biến.


    Kiệt trẻ lại thật. Không tà ý, bay bổng, chênh chao và khờ khạo.


    Chàng bảo Oanh ngồi xuống chiếc ghế trống. Nhà có hai chiếc ghế, một cái vắt quần áo và xếp chồng giấy má. Chàng ngồi ghé mép giường, đánh đàn. Chàng cố gẩy một đoạn trong Liên Khúc Số 3 của Bach. Nhạc tràn trề sinh lực, cao sang, phúc hậu. Bị vấp, chàng hát nối. Hết Bach, đến Brahms, Saint Saens. Chàng mê man như hồi mới lớn buổi tối ngồi trên bao lơn thổi kèn, tưởng tượng cô gái nhỏ bên hàng xóm đang rình nghe.


    -Anh hát được vọng cổ. Lúc này anh có thể hát vọng cổ.


    Không biết từ lúc nào, mắt Oanh ướt lệ. Mặt nàng ửng hồng như tức thở. Kiệt đang vui, chàng không nén cơn vui và chàng tưởng Oanh cũng say trong niềm hoan lạc bất thường, quá độ.


    Hai người chẳng nói chuyện gì ra chuyện gì. Giống như buổi chiều hôm trước, họ biểu lộ những cử chỉ thân ái, nói những câu vô nghĩa đâu đâu. Những câu nói chỉ nhằm mục đích duy nhất giúp họ gần gũi thêm, kéo dài thời gian ở bên nhau.


    -Em phải về không?


    Oanh lắc đầu.


    -Mình ra ngoài cho thoáng.


    Buổi trưa đang tới. Nắng gió ào ào từng cơn như buổi trưa gần biển. Những buổi trưa như bữa nay khó ngủ. Gió mở trống Kiệt từng lúc, chàng cứ thấy mình bị thổi tung bay trên cảnh vật giống như nhân vật trong tranh Chagall.


    -Sợ không?


    -Sợ gì?


    -Đi với anh?


    Đầu tóc Oanh áp tựa lưng sau. Chiếc xe lao dốc cao, nổ ầm ĩ, chậm hẳn. Kiệt nghe vẳng một đề nhạc trong gió ngược. Một đề nhạc đơn sơ chính chàng bắt được. Chàng âm ư, sửa đi sửa lại tưởng mình như một nhạc sĩ tràn trề cảm hứng.


    Họ ghé một nhà hàng xập xệ.


    Dẫy quán làm bằng vật liệu chắp vá (gỗ thừng sữa, nhôm thiếc mỏng vỏ hộp lade Mỹ...), dựng mau chóng trong một đêm, trên vỉa hè nhỏ che dẫy nhà đã có trước cũng chẳng sang trọng hơn. Con phố hẹp, dốc, lồi lõm, trông như hàm răng khấp khểnh. Đến đây, thành phố hết nét cá biệt, nó giống bất cứ thành phố nào của một xứ đang chịu chiến tranh tàn phá. Cảnh sống chui rúc, bẩn chật, tạm bợ, lê lết. Khu vực của lính biệt kích, lính đào ngũ, du đãng, anh hùng nhất khoảnh, lúc nào súng cũng có thể nổ, lựu đạn có thể ném vì những chuyện không đâu: một cơn say, một cuộc cãi lẫy, một màn tranh giành, thanh toán…


    Quán bán những món bình dân, Kiệt ghé vào vì thuận đường và biết chắc không bị ai quấy nhiễu. Gian quán nín thinh. Bên kia ván vách, có tiếng chân bước lệt xệt, banh bi-a chạm đụng, phấn vạch trên bảng ghi. Không khí nghiêm trang buồn cười.


    -Em giống như một ả xẩm.


    Cả hai đều không đói. Tuy nhiên họ vẫn ăn thong thả, mỗi người một bát bún riêu lót dạ. Kiệt uống một chai bia.


    Trong khi ăn, Kiệt bỗng nhớ đến những ngọn gió bấc cắt da, những hạt mưa nhọn như kim châm, dúm ớt bột tê môi, chảy nước mắt, bát chè tươi bỏng rát lưỡi. Từ bát bún riêu, chàng nói về mùa màng thời tiết, về bầu trời sông nước, về đồng ruộng trái quả, về phố phường thắng cảnh và vô tình chàng tiết lộ những mảnh vụn của một thời ấu thơ và niên thiếu chẳng hề chàng nói với ai.


    Oanh mở mắt to chăm chú. Kiệt lại thấy những giọt nước mắt rơi. Chàng không còn tưởng là những giọt hoan lạc nữa, chàng nghĩ, đó là những giọt sầu. Những giọt sầu chung. Chàng cảm động. Tuy nhiên chàng nói:


    -Em dễ bị dụ quá há.


    -Em bị anh dụ từ lâu rồi. Oanh cười nhếch.


    -Sợ không? Hỏi vậy, nhưng chính Kiệt thoáng hãi.


    Oanh lắc đầu. Dáng nàng ảo não. Hoặc giả có thể là mầu mờ tối của của gian quán nhơ nhớp ánh trên mặt nàng.


    -Đến phiên em nói gì đi.


    -Anh muốn em nói gì?


    -Nói bất cứ chuyện gì em thích nói.


    Kiệt gọi thêm bia.


    Oanh im lặng lơ đãng. Chàng tưởng nàng đắn đo suy nghĩ. Chừng quay nhìn, nàng nở nụ cười, trong ánh mắt chiếu tỏ ý thoái thác.


    -Cười trừ hả?


    Tính Kiệt ghét bị truy nã, và cũng ghét truy nã kẻ khác. Vả lại sự im lặng của Oanh tràn đầy, không bắt Kiệt phải tưởng tượng đến gì khác. Nàng không còn là một cô bé dưới mắt Kiệt. Sự im lặng của nhạc. Sự im lặng như hạt nhân ở chàng ngay những lúc chàng ồn ào. Oanh ngồi thẳng trước món ăn bỏ dở, nhìn chàng và cười, như thế không đủ sao? Chàng đâu cần biết nàng từ đâu tới, nàng sẽ về đâu, trước kia nàng thế nào, sau này nàng sẽ ra sao. Ích gì? Nàng ngồi đó, nhả những sợi im lặng mềm mại bao bọc chàng, che chở chàng trong cơn lảo đảo không đủ sao? Khi mở bừng mắt, nàng biến mất như bóng chim, vừa làm xong chiếc tổ mong manh trên cành bão, vút bay theo cơn giông những ngày tới. Chắc thế.


    Trong thoáng, dồn ắp sự im lìm của Oanh biết bao nhiêu ngày qua trong giảng đường ở cuối tầm nhìn của chàng. Gương mặt thuôn thuôn ngước trông lờ lững trong nét cười không hé môi, luôn luôn phảng phất quấn quanh tia mắt giúp chàng nhẹ nhõm trôi đi trong tiếng nói của mình.


    Bây giờ, sự im lìm tách rời khung cảnh kề cận trước mắt, như một đốm sáng lập lòe giữa đêm mịt mùng gọi kẻ lữ hành nhắm hướng. Nơi đốm sáng chập chờn kia là gì?


    Sau bữa ăn, xong từ lâu nhưng còn kéo dài nữa nếu Kiệt cứ ngồi yên, Kiệt như đã vượt một chặng đường dài. Quay nhìn, chàng không còn thấy chốn đã khởi đi. Chàng chỉ thấy mình đang trên con đường, trước mặt sau lưng là lối trải dằng dặc.


    Gần qua buổi trưa trên đồng hồ khi hai người rời quán. Hai giờ hơn. Nhưng buổi trưa thực sự, buổi trưa của ngày chủ nhật ở thành phố nhỏ, chưa dứt. Người ta còn ở trong nhà, chỉ ra phố sau bốn giờ.


    Gió và nắng mướt vàng của ngày hè đang độ ửng.


    Kiệt rong xe trên con đường đẹp nhất thành phố, cao nhất thành phố. Hai bên dinh thự, biệt thự và sau lưng các dinh thự, biệt thự là lũng sâu. Một bên phố xá, một bên những làng ấp phụ cận. Kiệt thốt thành tiếng một ý tưởng thoáng hiện, rồi nghe Oanh hỏi tới từ phía sau:


    -Anh nói gì?


    -There will be time, there will be time… Em biết không?


    -Không.


    -The Love Song of J. Alfred Prufock. Bản tình ca của chàng…


    Kiệt rẽ vào con đường dẫn đến các vườn mận nằm trên doi đất cao lọt trong một thung lũng. Cuối đường, một ngôi chùa cất trên một đỉnh đồi.


    Đứng trên chùa trông xuống lũng xanh rờn. Mận trồng như rừng bám dài triền vách lũng. Thông rậm tối và cao hơn hơn bên phía thành phố. Chùa như dựng cất trên mỏm gió. Gió ào ạt từ dưới lũng sâu bao quanh thổi lên không lúc nào ngớt. Tiếng gió rộn ràng say sưa đến chóng mặt.


    Mặc dầu nắng sáng, Oanh có vẻ bị thấm lạnh khi vừa lên cổng tam quan. Nàng thu nhỏ mình trong vòng tay khoác của Kiệt. Còn Kiệt hoàn toàn nhẹ thênh. Chàng ở giữa trận gió rùng rùng, mê hoặc thính giác và thị giác. Mắt chàng hoen ướt lòa nhòa. Tai chàng lung bùng tưởng chừng đang nghe một dàn nhạc trổ đoạn Allegro.


    Ngồi trên bệ gạch trước chánh điện đóng kín, Kiệt định thần. Chàng lắng nghe gió dưới xa, xuyên qua những lớp gió gần vây bọc. Chàng nghe tiếng gió hòa ca bất tận mấy lời chàng thốt tình cờ trên đường, there will be time, there will be time… Rồi chàng nghe lại đề nhạc đơn sơ bắt gặp buổi trưa, đề nhạc triển khai bát ngát vọng dưới các đám rừng. Một lát, đề nhạc rậm rịt, lạc dần, nhập lẫn với những âm điệu trong ký ức, biến thành đoạn khai mở bi tráng của Wagner. Dường như Tristan và Isolde. Lúc ấy chàng biết rằng chẳng bao giờ là nhạc sĩ như mơ ước, chàng chẳng biết cách nào để ghi những tiếng, những nhịp đang bạo hành tâm trí. Chàng bất lực, thoáng buồn. Chàng chỉ là đứa trẻ thổi harmonica trong những chiều hiu quạnh, là người đàn ông mặc binh phục ôm Tây Ban Cầm dạo vài bài phổ thông trước khi vào trại.


    Oanh sáp lại bên Kiệt. Nàng cầm bàn tay Kiệt đang buông thõng. Lần đầu tiên nàng tỏ cử chỉ âu yếm, chủ động, Nàng bóp nhẹ bàn tay, gọi chàng tỉnh cơn lơ đãng.


    -Buồn không? Kiệt nói chẳng suy nghĩ.


    Oanh mỉm cười, lắc đầu.


    -Đố biết anh đang nghĩ gì?


    Oanh lại lắc đầu.


    -Anh muốn có một cây kèn thổi cho em nghe lúc này.


    Oanh ngó lảng ra gốc thông trong sân chùa. Mấy đứa trẻ từ dưới ngôi trường tiểu học còn đóng cửa nghỉ hè đang chạy đuổi nhau trên lối dốc.


    -Chốc nữa về phố anh sẽ mua cây kèn.


    -Để làm gì?


    -Để thổi cho em nghe. Một bài thật lãng mạn. Kiệt bắt đầu cười.


    -Khỏi. Em nghe thấy rồi.


    -Thật không?


    Oanh áp má xuống bàn tay nàng đang nắm giữ.


    Hai người đứng dậy khi mấy đứa trẻ lên đến trước tam quan. Kiệt cởi áo khoác của mình phủ lên vai Oanh. Họ bước sang mé gần bờ vực nơi trồng những gốc mận. Ở mép sân có một cây lựu thấp, những bụi hồng, cẩm chướng và một gốc hoàng lan.


    Suốt gần ba năm, mãi buổi chiều ấy, Kiệt mới cảm nhận được vẻ đẹp chìm đắm ngây ngất của thành phố. Chàng nghĩ mình có thể sống quây quần với gió núi, khí rừng một thời thong dong mà mộng ước không sao phá quấy, làm cho chộn rộn.


    Kiệt chui dưới những tàn cây lòa xòa, bứt trộm vài trái mận. Họ cùng nhấm nháp xuýt xoa. Kiệt kể cho Oanh nghe về vườn mận ở bên dưới, không rõ cánh vườn nào, có người thiếu nữ quen Duy. Theo Duy, cô bé đẹp và hiền hậu nhưng tàn tật. Cô bị xe nhà binh tông và bị cưa một bàn chân trái. Nhắc chuyện này, Kiệt sực nhận thấy điểm đặc biệt ở bạn mà từ trước đến nay chàng không chú ý: những người Duy quen thân đều không tật này cũng chứng nọ. Cô “cháu gái” thứ hai trong bốn chị em mắc bệnh phổi, gầy gò yếu ớt. “Góa phụ vui tươi” có đứa con trai mắc bệnh tê liệt. “Người đẹp xứ Thái” ngây ngô trẻ nít.


    -Anh ta không bao giờ mời được cô bạn đi dạo phố. Một hai tuần lóc cóc xuống đây thăm, đi dạo với cô ngoài vườn, lượm mận ăn. Trước kia anh cười anh ta lãng mạn lẩm cẩm. Nhưng anh ta thì hài lòng. Mỗi lần xuống đây về anh ấy hớn hở yêu đời lạ. Bây giờ anh hiểu. Vào không khí này chẳng còn cần đi đâu nữa, phải không?


    Khoảng gần bốn giờ nắng đã rút khỏi thung lũng. Phía thành phố cây xẫm đen. Trời như đã ngả chiều. Gió vẫn thổi miên man nhưng mang theo khí ẩm lạnh. Khu vực này đêm xuống, đàn ông bỏ nhà ra phố ngủ nhờ.

  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Rời chùa Oanh vẫn khoác chiếc áo ngoài của Kiệt. Gương mặt nàng thờ thẫn.


    -Có chuyện gì thế? Kiệt hỏi.


    -Anh có biết tại sao em đến tìm anh không? Oanh chậm rãi.


    Kiệt khó chịu vì câu hỏi. Chàng nín thinh.


    -Em đến để từ biệt anh. Oanh ngừng, đợi phản ứng của Kiệt - Trước khi không còn được gặp anh, em muốn…


    Kiệt lặng người. Chàng thủng thỉnh bước từng bực đất trên lối từ cổng chùa xuống. Quãng đường đến chỗ dựng xe còn lại quá ngắn không đủ để Kiệt tìm một câu hỏi. Bề ngoài Kiệt thản nhiên như không.


    -Mình đi đâu nữa? Kiệt hỏi khi đã đứng bên xe.


    -Tuỳ anh. Oanh cúi mặt như kẻ phạm lỗi.


    Từ đấy về khách sạn P. hai người không thốt một lời. Kiệt chăm chú lái xe. Đầu óc chàng tạnh ngắt, mờ tối như thể bị một tàn cây lớn che rợp. Gió thổi vù vù bên tai, phả trên mặt tê rát. Oanh ngồi thẳng không chạm chàng.


    Dựng xe trước bực thềm, Kiệt nói:


    -Còn sớm, mình lên đây một chút rồi về.


    Oanh tỏ vẻ ngần ngừ. Kiệt nói tiếp:


    -Đừng sợ.


    Kiệt không tiến vào lối chính qua phòng tiếp tân mà rẽ sang bên gõ cửa kính phòng trà kêu người bồi rượu. Chàng ngồi vào cái ghế quen thuộc của mình. Trên mấy ngọn đồi và mặt hồ nắng còn phơi. Trời bừng sáng hơn trong thung lũng.


    -Nào bây giờ em nói đi anh nghe.


    Oanh bối rối khốn khổ. Nàng quá nhỏ bé trong ghế.


    -Em hút thuốc nhé? Nàng khẽ hỏi.


    Điếu thuốc run trong tay nàng. Kiệt nhoài người đánh diêm cho Oanh, nhìn những sợi lông măng trên cánh tay, những đường nẻ trên vành môi của nàng. Chàng cười trấn an nàng, trấn an mình. Đợi thức uống mang ra đâu đấy, Oanh bắt đầu nói.


    Oanh tìm gặp Kiệt là để từ biệt, đúng hơn, vĩnh biệt. Niên học tới nàng không trở lên. Trước khi xa Kiệt, nàng muốn gặp chàng một lần, chỉ định gặp chàng một lần, cho tỏ rõ….


    --Hôm nay là lần thứ hai rồi. Kiệt đùa. – Không bao giờ có hai mà không có ba.


    -Không bao giờ có lần thứ ba nữa. Oanh quả quyết.


    -Em còn phải lên thi chứ


    -Em không thi.


    Oanh nói, nếu nàng còn trở lên, như những năm trước, nàng không khi nào đến Kiệt. Mai sáng nàng rời đây, đi chuyến bay sớm nhất. Oanh đưa Kiệt xem tấm vé hàng không đã mua. Nàng về Sàigòn lo thủ tục xuất ngoại. Khoảng cuối tháng tám đầu tháng chín, Oanh đi.


    -Từ giờ đến đó còn lâu. Em có thể trở lên biết đâu chừng.


    -Anh muốn em trở lên lắm sao? Oanh hỏi nhìn thẳng mắt Kiệt.


    Ở bàn xa đám khách lạ ồn ào. Một khách ngoại quốc râu tóc xồm xoàm ngồi đàn dương cầm phía trong hàng cột, sau lưng Kiệt. Những du khách hiếm hoi của thành phố, Kiệt nói. Chàng hỏi tên Oanh tên những bài hát quen tai đang được trình diễn.


    -Anh mời em đi ăn tối nay. Rồi anh đưa em về nhà em cho biết nhà. Mai anh sẽ đưa em ra phi trường. Đó là chương trình từ biệt.


    -Anh muốn đưa em đi đâu em cũng đi hết. Oanh nói vẻ cố hăng hái.


    -Thật không? Kiệt nheo mắt hỏi đùa đầy ngụ ý.


    -Thật. Oanh quyết liệt như thách thức.


    Kiệt cười xòa.


    Mặc dầu hơi rượu đã bốc nhưng Kiệt hiểu không thể có gì xẩy ra giữa hai người. Chàng thấy mình lố bịch quá sức, Lố bịch không tưởng. Chàng đang tự trói mình vào một ám ảnh vu vơ do trí tưởng tượng của gã thiếu niên mười sáu tuổi dựng lên. Cô bé hàng xóm thường nghe Kiệt thổi kèn mỗi chiều tối năm nào, ốm thương hàn chết một cách quá đột ngột với Kiệt: suốt tuần lễ Kiệt không thấy bóng cô nàng và một buổi trưa đi học về chàng nghe tiếng khóc bên hàng xóm. Kiệt không thổi kèn từ năm ấy.


    Ngày hè thật dài. Kiệt đã gọi cốc rượu thứ hai, uống cạn nửa, chiều vẫn còn huy hoắc. Oanh mệt mỏi tựa ghế, hơi thở nhịp nhàng trên ngực. Có lúc nàng khép mắt như chợp ngủ. Ly nước ngọt của nàng đá tan chẩy pha loãng.


    Họ lắng đợi buổi chiều qua.


    Một người trong đám khách lạ đi ngang tiến đến vỗ vai bắt tay Kiệt. Chàng ngước mắt vẫn dính trên ghế, nhớ mại mại một mặt quen ở đâu chẳng rõ. Anh chàng tay bắt mặt mừng chào hỏi mời mọc. Kiệt không muốn mở miệng chút nào.


    -Một người quen, quên mất tên. Kiệt nói với Oanh, dù nàng không hỏi, khi đã thoát nạn.


    -Em làm phiền anh không?


    -Không.


    Rồi Kiệt không thể cứ ngồi quên như chỉ có mình. Hơi rượu chất chứa đòi bay thoát. Chàng kiếm chuyện. Chàng nói tỉ mỉ về các thủ tục, giấy tờ Oanh sẽ phải làm trong những ngày tới. Oanh đáp mọi việc nàng không phải lo. Chàng mô tả lộ trình Oanh đi qua, các trạm ghé, các miền đất lạ, các loại phi cơ, các phi trường, nơi nàng đến, ngôn ngữ nàng dùng, ngành học nàng chọn… Chàng nói, không cần chú ý xem Oanh có theo dõi không. Những lời tào lao làm Kiệt vơi nhẹ, bay đi quên chốn đang ngồi và giúp Kiệt tưởng chàng đang quấn quýt Oanh ở chốn âm thầm sâu xa nhất trong nàng. Lời nói như những luồng gió thổi.


    Một lúc, không ngờ - chẳng nhớ đã nói gì trước đó - Kiệt nghe mình nói:


    -Em đến để em đi. Em đi như thể lúc em đến. Thật buồn, cũng thật vui – Mình đang nói xàm, Kiệt nghĩ - … Anh nhớ một câu chuyện của ông Khái Hưng đọc ngày nhỏ. Một người đàn ông ngày ngày phóng ngựa trong đồn điền của hắn, đón đợi người đàn bà trở lại. Người đàn bà một buổi trước tình cờ dừng chân ở đồn điền và chắc đã quên chẳng còn nhớ nơi chốn đã ghé. Nhưng người đàn ông vẫn cứ mong ngóng, vẫn hy vọng dù biết là hão huyền. Ngày trước đọc chuyện, anh thấy vô lý. Thường người đàn bà chờ đợi chứ sao lại là người đàn ông. Không phải phóng ngựa mà ngồi ì một chỗ chờ đợi.


    “Anh sẽ ngồi chỗ này trong mỗi buổi chiều từ giờ cho đến lúc em đi, nghĩa là hết mùa hè, đợi. Biết đâu ngày nào đó em trở lại”.


    Kiệt không nghe mình cười. Rõ ràng như vừa có trận gió lạnh từ đáy sâu thổi ào. Chàng rùng mình, uống cạn cốc rượu.


    -Trước khi đi em sẽ lên thăm anh. Oanh mím môi quyết định - Thế nào em cũng lên. Không bao giờ có hai mà không có ba.


    -Đừng hứa hẹn. Sự chờ đợi của anh mất lãng mạn đi.


    Lần này Kiệt cười nhẹ. Rồi chàng thấm thía như thấy chớm ngọn gió heo may trên đường phố. Chàng đứng dậy:


    … There will be time, there will time…


    …. “And indeed there will be time


    To wonder, “Do I dare ?" and “Do I dare ?”


    ….. Do I dare ?


    Disturb the universe ?


    In a minute there is time


    For decisions and revisions which a minute will


    reverse.”


    Kiệt không ngờ chàng đọc đoạn thơ của Eliot trơn tru tỉnh táo đến thế. Oanh chưa kịp thốt câu nói mấp máy trên môi, Kiệt đã xin lỗi vào phía trong.


    Phòng rửa mặt ở cuối hành lang tận góc trong. Kiệt phải đi hết phòng trà theo đường chéo. Chàng vẫn nhìn thấy sàn gạch ô vuông hai mầu, chiếc đàn dương cầm gỗ đen đậy nắp, những bộ ghế da đỏ quanh bàn thấp mầu đá đen bầy núp dưới các chân cột, mấy tấm sơn mài và sơn dầu rải rác trên cột tường. Chàng nhìn thấy quầy rượu, kệ rượu cũnb bằng gỗ bóng, chiếc máy điện thoại bỏ trên mặt quầy chàng vẫn dùng liên lạc với Thùy. Chàng nhìn thấy người bồi rượu đứng sau tủm tỉm cười với chàng và chàng tủm tỉm cười đáp lễ.


    Kiệt không hiểu mình nữa, cũng chẳng muốn hiểu.


    Lúc đi vào đi ra phòng rửa mặt, chàng bỗng nghĩ rằng một buổi sẽ tới rồi chàng cũng ngồi với Ly tại nơi này. Chàng chẳng rõ buổi ấy như thế nào nhưng chàng chắc chắn nó xẩy tới, đã hiển nhiên trong trí. Chàng lẩm bẩm there will time, there will be time… and indeed there will time, to wonder “Do I dare ?” and “Do I dare?”…

  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chiếc lambretta bỏ lại trước khách sạn. Oanh thích đi chân. Sau hồi nghỉ ngơi, nàng tỉnh táo. Những giây phút ngột ngạt tan. Chiều thoi thóp êm gió. Lúc hai người xuống đến bực cuối cùng, ngoảnh trông tòa khách sạn trên cao ánh điện đã bật trong cửa kính, nhưng bên kia hồ còn sáng và còn bóng người trên triền đồi.


    Bất giờ khoảng bẩy giờ hơn. Phố thưa vãn. Thời khắc khởi sự trôi nhanh. Trời sẽ tối xụp trong vài phút nữa. Tám giờ thành phố như đã khuya. Giờ này trong các nhà người ta đang theo dõi tin tức đài BBC sau đó bắt sang đài VOA. Tình hình chiến sự tại các mặt trận, nhất là mặt trận giới tuyến, vẫn là tin hàng đầu.


    Họ qua đường vào lúc bật mấy ngọn điện trên cột trồng ở bệ tròn, xây chỗ hai con phố dốc quanh khách sạn đổ xuống bờ hồ. Lối lát gạch trên vỉa hè không người đi dạo. Họ choàng lưng nhau bước thong thả, chưa có ý định dứt khoát về nơi ăn tối. Oanh không có ý kiến còn Kiệt ngà ngà buông trôi.


    Khi họ tới đầu cầu sang chợ, điện lấp lánh trên phố cao. Họ không qua cầu mà rẽ xuống con phố tối lác đác nhà cửa. Những vườn rau dưới thấp. Một bên đường, triền dốc đứng rậm rạp. Cây cối xào xạc. Cả hai ít nói. Tuy nhiên không khí không có vẻ trầm trọng. Họ tránh những phố nhiều đèn đóm. Sự trống trải, sáng sủa làm mất tự nhiên. Họ lẩn trong hiu quạnh bên những gốc cây, bãi cỏ. Họ lủi thủi bên nhau, đếm bước. Có lúc họ rời tay khoác, đi thong dong từng quãng dài. Kiệt bỏ tay trong túi, huýt sáo miệng khe khẽ, lông bông. Oanh nắm giữ hai vạt áo khoác của Kiệt trùm trên vai nàng. Những ngôi nhà họ đi ngang đều thụt sâu, phía trong những khoảng vườn rộng. Những con đường họ gặp dẫn tới các khu đèo heo hút gió, các ngọn thác và rừng.


    -Về già nghĩ đến những lúc này mình có kỷ niệm đẹp biết là chừng nào. Oanh nói khi họ bắt buộc phải rẽ, không thể đi thẳng mãi bởi con đường sẽ dẫn họ ra ngoài thành phố.


    -Em nghĩ thiệt giỏi. Kiệt chua chát, ngấm ngầm, cay đắng. Hơi rượu như được châm đốt bùng cháy.


    -Anh không chịu nghĩ như vậy sao? Giọng Oanh châm biếm, cười cợt.


    -Anh nghỉ dở lắm.


    Cuối cùng họ đến trước quán S.


    Quán đông hơn hôm qua. Người Mỹ, Phi Luật Tân, Đại Hàn đi cùng các nhân viên bản xứ của họ hoặc các thân hữu địa phương thường là sĩ quan hay thương gia. Trong một bàn đông người, Kiệt nhận thấy có một sĩ quan cấp tá cùng đơn vị. Có cả đám khách buổi chiều vừa gặp ở khách sạn P. Anh chàng quen mặt giơ tay chào Kiệt.


    Không chủ tâm, Kiệt chọn chiếc bàn hôm trước. Chàng ngồi xuống chỗ cũ cạnh cửa sổ và Oanh ngồi chỗ của Ly. Một bữa khác nếu cùng Ly hoặc Oanh trở lại, Kiệt sẽ lại ngồi đúng chỗ ấy, nếu chiếc bàn trống. Chàng lười biếng, thuận theo những thói quen vụn vặt. Trên bàn bình hoa mới. Chàng gọi rượu chát, hai cái ly, một chai nước lọc và những món ăn quen.


    -Em không mệt chứ?


    -Có thể đi hết đêm khỏi cần ăn. Mai sáng về Sàigòn sẽ ăn bù. Mấy thuở…. Oanh tươi tỉnh tự nhiên.


    Nàng không lộ gì vẻ bỡ ngỡ trong quán ăn hơi nhộn nhạo phần lớn là đàn ông đứng tuổi. Tới đây, cái cô gái của buổi chiều qua và sáng nay đã biến mất hẳn. Oanh ngồi trước mặt Kiệt đầy đủ dáng dấp một người đàn bà. Một người đàn bà nhỏ thó. Hai dải bím đã tháo gỡ. Mái tóc đen dầy chấm vai. Hai cánh tay trần khoanh trên bàn. Mắt long lanh ướt gió. Má ửng hồng vì đi bộ xa, leo nhiều dốc.


    -Em uống rượu được không?


    -Hôm nay em tập. Anh không định cho em uống tại sao gọi hai cái ly?


    -Em không uống, một mình anh sẽ uống hai ly.


    -Thôi để em đỡ. Không lát ai đưa em về.


    Oanh trở nên lém lình, không ngờ.


    Một ngày qua đã phá vỡ hàng rào phòng thủ ở nàng? Buổi tối khiến nàng thân mật dễ dàng? Hay nàng đang khỏa lấp những trống rỗng trong giờ khắc cuối cùng của cuộc gặp gỡ? Hay nàng đang trốn tránh những ý nghĩ về ngày sẽ tới? Kiệt không sao biết, cũng chẳng muốn biết. Chàng chỉ rót rượu đầy ly, nhìn Oanh, nghe Oanh, trả lời nàng, cười theo nàng vui thú. Tất cả hạnh phúc nằm trong hiện tại, tràn đầy, bấp bênh.


    Buổi tối bị phá đám hai lúc. Đầu tiên anh chàng quen mặt sang bàn nhắc một lời hẹn, biên một địa chỉ cho Kiệt. Kế đến ông Trung Tá Kiệt vốn không ưa tự cho phép ngồi vào bàn ngang nhiên. Ông ta khét tiếng là một nhân vật nham hiểm, lá mặt lá trái, nịnh trên nạt dưới, khó lường. Trong công việc Kiệt không liên hệ trực tiếp với ông ta nhưng cứ nhìn cách xun xoe, khệnh khạng, thái độ vồn vã, nói năng như xẻ cửa xẻ nhà, chàng cũng hiểu tiếng đồn không sai ngoa. Ông ta chưa lần trò chuyện với Kiệt nhưng bữa ấy ông làm như hai bên bấy lâu thân thiện tương đắc lắm. Miệng bác bác tôi tôi ngọt như mía lùi. Ông ta có bà vợ trẻ học ở Đại Học, ông nhờ cậy Kiệt gửi gấm cho bà vợ ông trong kỳ thi cuối năm. Thỉnh thoảng Kiệt có thấy hai vợ chồng nhân vật này dạo phố trên chiếc Peugeot 404, hoặc một mình bà vợ lái xe đến Viện Đại Học. Bà ta trông cũng có dáng mệnh phụ, kênh kiệu.


    Trong khi Kiệt bị quấy rầy, Oanh châm thuốc lá hút, nhấm nháp ly rượu hồng nhạt. Nàng đóng kiểu cách vênh váo lạ mắt, nghênh nghênh trông ra cửa sổ làm vẻ không chú ý đến kẻ nhiễu sự. Thái độ của nàng hơi quá đáng nhưng Kiệt thích.


    Oanh càng lúc càng vui vẻ, điệu bộ ngôn ngữ linh hoạt. Nhiều lúc nửa say nửa tỉnh, nàng bộp chộp gấp gáp khiến Kiệt phì cười. Đó là những phút vui thê thiết. Những lúc ấy Kiệt nắm tay Oanh, níu nàng lại, không cho tiến thêm. Chàng cũng có cảm tưởng hai người đang tựa nhau trong cơn lảo đảo để khỏi té nhào. Và Oanh cười long lanh nước mắt.


    Cuối bữa ăn, không khí bớt ồn tạp. Oanh bình tĩnh, thong thả hơn. Kiệt thấm rượu choáng váng. Họ ăn món tráng miệng đặt trên mặt bàn đã thay khăn trải, vẻ thật nghiêm chỉnh.


    Trong phòng nổi mấy khúc nhạc tối qua. Nhà hàng có lẽ chỉ có vài ba băng nhạc và mở lên theo một trật tự bất biến. Kiệt lại nghe Hòa Tấu Khúc số 5, nhưng chàng không hát theo vì còn gặm miếng bánh ngọt. Oanh khời khời từng muỗng nhỏ trái cây hộp. Hai người âm thầm ngắm lẫn nhau, cùng ngưng thần sửa soạn vượt chặng gian nan nhất của cuộc tình ngắn ngủi. Kiệt biết vậy. Và Kiệt biết, người thiếu nữ lạ lùng vừa sống trọn với mình một ngày chủ nhật, cũng biết thế.


    Tu es vraiment femme.


    Kiệt đã thốt câu ấy bao nhiêu lần? Với những ai? Hầu như với mọi người đã gặp. Và gần như lần nào cũng thất vọng. Tuy nhiên, lần này, chàng đầy hy vọng. Mối hy vọng đau nhói.


    Vẫn như hai đêm trước, trăng ngời xanh ngoài trời. Các con đường mờ bạc hiện những bóng cây và vệ cỏ đen thẫm. Kiệt đợi Oanh quyết định chương trình tiếp sau bữa ăn nhưng Oanh đều bước như thuận đà dốc. Rồi bất chợt nàng cất tiếng hát nho nhỏ:


    … C’est la flamme qui s’enflamme sans bruler


    C’est le rêve qu’on rêve sans dormir


    Un grand arbre qui se dresse


    Plein de force et de tendresse


    Vers le jour qui va venir


    C’est l’histoire d’un amour


    Eternelle et banale…


    Kiệt dìu Oanh. Nàng nhẹ nhàng như tiếng hát mỏng manh tưởng không phải của nàng. Nàng như ngọn lửa lạnh mát của con trăng đang chiếu ngời trên vùng đồi núi. Nàng quả là giấc mộng lang thang cùng chàng. Và Kiệt kết tụ, lơ lửng như trái lửa cô đơn đêm nào.


    -Em trở lên trước khi đi?


    -Em sẽ trở lên. Cũng có thể em không đi nữa.


    -Không nên. Chẳng đáng gì.


    -Anh không muốn? Mai em có thể cũng không về.


    -Anh không muốn gì cả.


    -Anh cũng không muốn em trở lên?


    Dường như Kiệt cố gắng ngăn chặn sự điên đảo kinh hồn. Cơn say bị nhận trầm. Chưa bao giờ như thế. Cơn say lục đục như bầu trời ầm ì sấm động, mây phủ gió thổi và cơn giông kéo đen kịt, nhưng không đổ. Chàng mê mẩn trong trạng thái sáng suốt kỳ dị.


    Không phải vẻ bi thảm đáng gìn giữ chau chuốt làm đẹp. Không phải. Họ, một đôi lứa giữa thời khắc tương hợp hoàn toàn, đang cố diễn sự bi thảm không thể tránh thành những vẻ đẹp khác để có thể sống nổi bây giờ và mãi mãi.


    Không thể khác.


    Gió lay những chòm cây khắp chốn. Mấy ngọn đồi, mặt hồ mờ ảo dưới đêm trăng sương như một bức họa. Ở đầu cầu nơi điếm gác, một đống lửa cháy bập bùng, lính đốt lửa sưởi. Khuya ngọn lửa tàn, nhưng những thanh củi lớn còn tỏa ấm. Oanh vẫn trùm chiếc áo khoác của Kiệt. Kiệt mặc chiếc sơ mi vải dầy. Họ bước đi, nương nhau, chống chỏi những xô đẩy của thời gian phân ly họ.


    Ngồi trên bực thềm của khách sạn P. sát mặt đường, Oanh nói:


    -Em không muốn về.


    -Đi đâu nữa?


    -Em không biết. Em không muốn về.


    -Tính ở ngoài trời cả đêm sao?


    -Nếu được….


    Kiệt lúc lắc xâu chìa khóa. Chàng ngồi xuống cạnh Oanh. Nàng đang run rẩy khiếp hãi. Chàng ôm vai nàng lắc ru. Rồi chàng cúi đầu tìm hôn nàng, nhưng nàng lẩn né. Chàng quay đi ngẩn ngơ.


    Trước mặt họ những bực cấp mập mờ chạy hút xuống đường, nơi những bóng điện soi một khoảnh tròn giữa vùng gió tối. Sau lưng những bực thềm dẫn lên lối cửa chính khách sạn sáng trơ. Xung quanh cây cối um tùm che giấu những ngọn đèn đường. Quang cảnh ấy giống như một sân khấu quá rộng rãi, trống trải khiến họ bị khớp.


    Kiệt đứng lên quyết định:


    -Thôi mình về.


    Oanh ngồi im bó gối. Nàng như không còn hơi sức. Kiệt kéo tay nàng.


    -Về nhà anh sẽ kể cho em nghe một câu chuyện cổ tích. Kiệt đột nhiên cười gằn, chàng ghê hãi tiếng cười ấy.


    Kiệt bắt đầu chóng mặt nôn nao. Chàng cũng đuối sức và men rượu như được thể, hực lên mặt, lên đầu. Et enfin… Tôi muốn được một mình. Để chống cơn tuyệt vọng, Kiệt lặp trong đầu nguyên tắc cố hữu của chàng: như mọi người, sống như mọi người sống, làm như mọi người làm, không có gì quan trọng hết. Mọi người đều như vậy, rồi sẽ qua, sẽ quên… Riêng chàng không quên là chuyện riêng của chàng. Kiệt chạy xe thận trọng. Mắt chàng chập chờn bóng ảnh, huyễn ảnh, ám ảnh.


    -Đi đâu vậy anh?


    -Về nhà anh.


    Oanh bắt được giọng lạ ở Kiệt. Có lẽ nàng hoảng tỉnh.


    -Em sẽ nhìn lại con đường trong cư xá? Giọng Oanh lạc sau hồi im lặng.


    -Em sẽ nhìn thấy nó dưới trăng.


    -Em sẽ trông thấy ngôi nhà anh ở?


    -Em sẽ trông thấy… Ngôi nhà sẽ bật sáng và mở hết các cửa buồng, đón em vào.


    -Rồi em về…


    -Rồi em về…


    -Rồi anh đưa em về. Mai sáng anh tới đón em đưa em ra phi trường.


    -Anh đưa em về. Mai sáng anh tới đón em đưa em ra phi trường.


    Kiệt thêm tay ga, xe vọt nhanh. Chàng sung sướng, tái tê. Những câu nói của Oanh giải thoát chàng. Chàng mường tượng vẻ rực rỡ chiêm bao quanh ngôi nhà chàng đang về tới.


    Đêm kỳ ảo, cửa ngõ của cõi mộng mị hoang đường, như phóng từ trí tưởng viển vông bị đầu độc bao giờ không hay, hiển hiện. Kiệt ở trong. Không phải một mình mà cùng với một người khác. Với Oanh. Cõi sáng láng và tối tăm, tưng bừng và lạnh vắng, huy hoàng và điêu tàn, gần gũi và vời vợi. Cõi hiện tại phù du vĩnh viễn bất tuyệt, người ta sống không kịp thấy mình đang sống. Thời gian núp ẩn đâu sau lưng hoặc đón đợi bên ngoài.


    Gọi đó là cơn huyễn hoặc của những tâm trí bất thường cũng đúng. Oanh rồi có thể lúc nào tỉnh táo sẽ bảo mình đã mê. Cả Kiệt nữa, sẽ giận dữ, cay đắng với mình nhiều lúc, coi mình là kẻ bệnh hoân khiếm khuyết tật nguyền. Nhưng lúc đó chưa tới.


    Une nuit merveilleuse, Kiệt kêu thầm với mình không ngớt. Chàng hiểu được rất nhiều điều nhưng chàng đã không hề đếm xỉa đến những điều hiểu biết. Chàng tự nhiên ngu tối. Chẳng hạn, chàng hiểu Oanh cũng chỉ là một thiếu nữ, muốn hay không, đã sống cùng chàng tới tận cuối ngày và theo chàng về nơi chàng cư ngụ, sẵn sang sống với chàng tới cuối đêm và sự e lệ sợ hãi của nàng là chuyện thông thường của mọi thiếu nữ, dù ngổ ngáo. Chàng còn có thể suy đoán – nhưng chàng không một giây lạc vào sự suy đoán chi ly – Oanh cũng thuộc đám nữ sinh viên trọ học, xa gia đình với nếp sống phóng túng, dư thừa kinh nghiệm để vượt trải những trận tình qua đường, Kiệt từng gặp, từng vui thú. Vả lại rồi Oanh sẽ rời xa, vĩnh biệt, chàng phủi tay vô trách nhiệm như nhiều lần.


    Những điều hiểu biết ấy Kiệt đâu cần. Nói giản dị, chàng lãng mạn, ngộ nghĩnh, lố lăng, ngốc nghếch như cậu con trai ồ ề vỡ tiếng.


    Bị Oanh khước từ cái hôn trước thềm khách sạn P. Kiệt cũng từ khước nó luôn trong ý mình. Sự từ khước ở chàng ban đầu mang vẻ hờn lẫy của trẻ con đòi quà không được, sau thấm thía như mối quạnh hiu của bóng lửa lạnh đầu non thẳm. Chàng nhất định không hôn Oanh, ủ ấp nụ hôn riêng mình, nhận rõ đôi lứa đứng hai bên mép vực sâu chỉ cách một bước nhẩy nhưng không ai còn sức hay có trớn. Thái độ thụ động của Kiệt trói nghiến luôn Oanh. Và họ sống một đêm kỳ ảo, phần đêm thôi, ngoài tưởng tượng của mọi người và của chính họ.


    Kiệt đưa Oanh đi trên dải đường trong cư xá, dưới bóng trăng xanh. Oanh hát cho chàng nghe lại: “Chuyện thiên thu làm nhàm..”. Chàng mở các cửa trong nhà, bật đèn khắp, đón Oanh. Chàng không cho Oanh vào theo lối phòng mình. Chàng vào trước theo lối ấy, chỉ nàng vòng sang lối cửa phòng khách. Chàng cuốn tất cả những tấm vải phủ bàn ghế trong phòng khách trước khi mở cửa. Đèn của ngôi nhà tỏa chiếu giữa cảnh hoang vu. Oanh đã bơ vơ, lạc lõng bên ngoài với bóng cây cỏ và trăng u. Nàng ngồi dưới ánh đèn sáng trưng, giữa gian phòng khách lạnh lẽo. Kiệt đứng ôm đầu Oanh như buổi sáng từng hồi lâu mỗi khi chàng không biết cư xử thế nào. Họ đứng lặng ngất, phập phồng giữa đồ đạc. Rồi Kiệt mở cửa tất cả các buồng, những căn buồng chính Kiệt chưa một lần ngó. Họ cùng nhau đi thăm phòng ngủ, phòng ăn, nhà bếp, phòng chứa vật dụng với các cửa thông, các hành lang loanh quanh. Họ nói với nhau về đồ đạc, về cảnh sống tưởng tượng diễn trong khunh cảnh, về các kiểu nhà, các khu vực, thành phố, miền, trời, thời tiết nếu như họ được chọn sống. Có một căn phòng hẹp gần bên phòng ngủ, chẳng hiểu dùng làm gì. Kiệt đã ôm Oanh đứng lặng trong ấy như hai kẻ bị săn đuổi núp trốn trong khi những kẻ lùng kiếm đang sục sạo. Họ nghe tiếng chó tru tận dưới lòng chảo, tiếng thông reo ngoài trời. Oanh thổn thức. Khi Kiệt sắp sửa định cúi hôn Oanh trong bóng tối, chàng quay ngang áp má vào má nàng, rồi đột ngột buông nàng đi ra. Oanh chưa thoát khỏi cơn điếng lặng, đứng chết trong phòng. Mới đầu Kiệt đùa khép hờ cánh cửa, rồi không thấy động tĩnh, chàng đứng tựa lưng chặn cửa hút thuốc. Chàng dọa nhốt Oanh, Oanh không về, không đi đâu hết, ở lại với chàng. Oanh sẽ nghẹt thở, chết mòn trong căn buồng. Và Kiệt sẽ khóa trái cửa, giữ luôn nàng vĩnh viễn.


    -Mở cửa em ra, anh. Em sợ mà.

Trang 1 / 3 123 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-30-2016, 03:51 AM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-10-2016, 03:05 AM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-31-2015, 01:08 PM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-20-2014, 02:42 PM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-08-2014, 01:01 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •