Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Đời người như một cành hoa mà Ái-Tình là một giọt mật.
Victor Hugo
Trang 2 / 3 ĐầuĐầu 123 Cuối Cuối
Results 11 to 20 of 27

Chủ Đề: Tơ Đồng Rỏ Máu

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Tơ Đồng Rỏ Máu

    Tơ Đồng Rỏ Máu

    Tác giả: Quỷ Cổ Nữ

    Dịch giả: Trần Hữu Nùng






    Giới thiệu

    Trăng sáng nơi đầu núi

    Cành lìa cây rụng rơi

    Chim hãi hùng im tiếng,

    Bên cầu dấu xương phơi…

    Lúa ngát hương mùa mới

    Át đi mùi thây trôi

    Ếch kêu đêm rộn rã

    Không xua được chơi vơi.

    Cách đây mấy trăm năm, dưới thời nhà Minh, ở một châu nọ liên tiếp xảy ra án mạng thế này. Các cô gái lần lượt mất tích, khi tìm được thi thể họ thì thấy cái xác nào cũng cụt mất một ngón tay. Một bộ khoái của Đông Xưởng dốc hết tâm huyết điều tra vụ án. Mấy chục năm trôi đi đều tốn công vô ích, đến một ngày nọ, sắp tới lúc rửa tay gác kiếm, đã quá tuyệt vọng, ông ta bèn thực hiện lần chót, bày một con mồi, giăng một cái bẫy, bẫy tên thủ phạm tới chặt tay giết người.

    Hung thủ vẫn thoát. Con mồi bị giết. Bộ khoái nhất thời phẫn uất, ngất lịm đi. Khi tỉnh lại, như bị quỷ ám, ông ta lê bước đến hốc nhà, lôi ra một cái tráp vẫn giấu kín, mở ra. Giữa mùi mốc hôi lưu cữu nhiều năm, lẫn vào mùi thịt đang bắt đầu phân hủy. Giữa những khúc xương ngón tay đã trắng khô, là một ngón tay gần đây mới chặt.

    Năm trăm năm sau, Giang Kinh lại nổi lên vụ án giết người hàng loạt có tên “ngón tay khăn máu”. Nhiều cô gái đáng thương bị mất tích, gia đình họ thoạt tiên nhận được bưu kiện, bên trong nhúm ngón tay đã bị chặt của họ. Nhưng vài năm, thậm chí vài chục năm trôi đi, vẫn chưa phát hiện hoặc thấy xác họ bị trả lại. Một nghi phạm bị bắt. Lão khẳng định vụ án sẽ vẫn tiếp diễn, nhưng không cho biết chi tiết, chỉ khăng khăng đòi gặp Na Lan. Và khi cô đến, lão đưa ra các câu đố khác nhau. Phải giải được loạt câu đố này, cô mới mong chặn được vụ án, tìm được xác những người bị hại bao nhiêu năm qua. Na Lan mù mờ đi theo chỉ dẫn, mỗi khám phá lại đẩy cô lên một mức độ bấn loạn và hiểm nguy mới, nhưng không bấn loạn và hiểm nguy nào sánh được với kết cục chờ cô phía cuối chặng đường.

    Là tập thứ ba trong series Hồ sơ tội ác, Tơ Đồng Rỏ Máu là một cao trào, một cục diện mới khẳng định bút lực hùng hậu của Quỷ Cổ Nữ. Trong tập này, người bí hiểm luôn theo dõi Na Lan từ Hồ tuyệt mệnh sang Tuyết đoạt hồn đã được hé lộ một phần trước bạn đọc. Nhưng bên cạnh người đó, còn ít nhất ba người bí hiểm nữa cũng tham gia vào trò theo dõi dai dẳng không thể chịu nổi ấy, phủ thêm lớp sương ngầu đục lên đất Giang Kinh vốn vẫn ẩn chứa vô vàn truyền thuyết và bão tố của lòng người này.

    Thông tin tác giả

    Quỷ Cổ Nữ là bút danh chung của một cặp vợ chồng người Trung Quốc đang sống ở Mỹ. Vợ là Dư Dương kỹ sư thâm niên về phần mềm máy tính. Chồng là Dị Minh chuyên gia y học nổi danh. Mùa xuân năm 2004, hai người dùng tên thật, cùng xuất bản cuốn tiểu thuyết dài Mùa xuân trên dòng sông băng, được giới chuyên môn đánh giá cao.

    Giữa năm 2004, bằng bút danh Quỷ Cổ Nữ, hai vợ chồng tung lên mạng một tiểu thuyết kinh dị nhan đề Kỳ án ánh trăng. Tác phẩm gây chấn động không ngờ, lôi cuốn hàng triệu độc giả chỉ trong vòng vài ba tháng, đăng tải nửa chừng thì nhận được lời đề nghị xuất bản từ Nhà xuất bản Nhân Dân Thượng Hải.


    Chương 1: Ác Mộng

    Ngày 19 tháng Mười hai năm 2000.

    Văn Nhược Phi công tác ở Sở Công nghiệp nhẹ, làm xong việc ra về. Mới 7 giờ rưỡi tối nhưng mùa đông ngắn ngày, khi xuống sân lấy xe đạp ra thì trời đã tối hẳn. Chẳng phải cô hăng hái xung phong làm muộn giờ thế này, mà là vì lãnh đạo tỉnh sắp xuống kiểm tra đột xuất, thực tập sinh như cô phải ra về sau tất cả mọi người. Lúc này bầu trời xám xịt, đèn đường mờ tối, cô ước gì mình đừng một thân một mình về Giang Kinh, cứ tìm một chỗ thực tập ở Thành Đô thì tốt biết mấy, ít ra hằng ngày còn được gặp bạn trai là Ba Du Sinh. Nếu trời xấu như hôm nay, chỉ cần phôn cho anh, anh sẽ phóng xe đến đón cô ngay.

    Tất cả đều tại cô, ban đầu vừa nghe tin Giang Kinh có cơ quan nhận thực tập sinh là cô ghi danh rồi đến đây luôn, cứ như chạy trốn Thành Đô vậy. Thực ra chỉ cô mới biết đúng là cô muốn tránh xa Thành Đô. Điều bí mật này, ngay Ba Du Sinh cũng không hay.

    Văn Nhược Phi sống trong ký túc xá Sở Công nghiệp nhẹ, cách văn phòng chừng hai mươi phút đạp xe. Khổ nỗi hôm nay cô vừa đạp được một quãnq thì tuyết bắt đầu rơi, đường trơn làm cô loạng choạng suýt ngã mấy lần. Có lẽ vì quá chú ý đến mặt đường, Văn Nhược Phi không nhìn thấy một người trong bóng tối phía trước.

    Xe văng sang bên, người thì ngã sóng soài.

    Nghe vọng lại tiếng rên rỉ cố nén, dù đang ê ẩm cả lưng lẫn chân, Văn Nhược Phi vẫn cắn răng đứng lên tiến về phía đó. Cô biết xe mình đã đâm người ta, chỉ mong sao hậu quả không đến nỗi bi đát.

    Nhưng tình hình nghiêm trọng ngoài sức tưởng tượng của cô. Đoạn đường này không rộng, xưa nay cũng chẳng tấp nập gì cho lắm, đèn đường trơ khấc phía xa, ánh sáng không thể xuyên qua màn tuyết đang rơi, xung quanh vắng người qua lại. Văn Nhược Phi lờ mờ trông thấy một khối đen nằm lù lù giữa đường, chưa xác định được có phải hình người hay không. Cô bước lại gần. Trên nền đường phủ trắng tuyết có một vệt máu đang loang dần.

    Cô rùng mình, suýt buột miệng kêu lên. Chỉ bị xe đạp đâm phải, sao có thể chảy nhiều máu thế này?

    Dưới ánh đèn nhợt nhạt, cuối cùng Văn Nhược Phi cũng đã nhìn rõ, trên mặt đất là một xác người không đầu!

    Vô lý! Xác không đầu sao có thể rên rỉ?

    Cô hét lên kêu cứu nhưng đã muộn, một chiếc găng tay từ đằng sau thò lên, bịt chặt miệng cô.

    Văn Nhược Phi tỉnh lại trong cơn đau dữ đội. Đây là đâu?

    Cô không nhận ra, chỉ biết đây không phải là nơi chốn đàng hoàng sáng sủa. Gió lạnh hun hút, một ngọn đèn nhỏ bằng hạt đậu rọi vào ngọn nguồn cơn đau kinh khủng của cô.

    Bàn tay.

    Dù là mơ hay tưởng tượng, thì cô vẫn nhớ ra rằng mình đã thoáng thấy ánh thép loáng lên.

    Và ánh máu.

    Ngón trỏ bàn tay phải của cô đã bị chặt cụt.

    Văn Nhược Phi rú lên xé ruột, nhưng tiếng kêu tắc nghẽn bởi chiếc khăn nhồi trong mồm, biến thành âm thanh ú ớ nơi cổ họng. Hai tay bị trói chặt, hai chân cũng không thể nhúc nhích. Cô cúi nhìn và lại kinh hãi rú không thành tiếng, hai chân cô đã bị chôn dưới đất!

    Những tảng đất lớn đang từ phía trên hất xuống tới tấp bên chân cô.

    Một giọng cười vang lên, nghe như phát ra từ lòng đất sâu, như hàng ngàn mũi kim li ti cày qua làn da mịn màng của cô, hết vòng này đến vòng khác, như con mãng xà quấn riết da thịt cô.

    “Tại sao cô lại bỏ Thành Đô?” Tiếng cười ngừng lại, thay vào đó là câu lục vấn bằng cái giọng ra vẻ quan tâm. “Tại sao vừa nghe nói ở Giang Kinh xa lắc xa lơ này có nơi cho thực tập, cô đã vội vàng xin đi ngay? Tại sao ngay người bạn trai mà cô định gửi gắm cuộc đời cũng không khuyên can nổi cô?”

    Văn Nhược Phi muốn nói, anh không hiểu đâu, không ai hiểu được, cả Ba Du Sinh cũng thế… Nhưng cô không thốt nên lời, không chỉ vì miệng bị nhét khăn mà còn vì tức ngực, không thể nào phát ra âm thanh. Chẳng mấy chốc, đất bùn tanh tưởi đã ngập đến ngực cô.

    Một bàn tay đi găng da đen thò tới, nắm khăn mặt rút ra khỏi miệng Văn Nhược Phi. Theo bản năng, cô liền rú lên thảm thiết. Cô đã kêu được thành tiếng! Hòa vào tiếng kêu kinh hãi của cô là một giọng cười ghê rợn, là thứ âm thanh khàn đục ma quỷ cũng phải choáng váng…

    Nếu chuông di động không vang lên giữa đêm khuya thì có lẽ giấc mơ tàn khốc nửa thực nửa hư này vẫn còn kéo dài cũng nên. Người yêu anh mất tích đã được mười ba năm, nhưng Ba Du Sinh rất hiểu tại sao gần đây mình thường xuyên gặp cơn ác mộng này.

    Anh vươn tay với chiếc di động đặt ở tủ đầu giường, bàn tay nhớp nháp vì mồ hôi toát ra trong cơn mơ. Đồng hồ trên di động báo 4 giờ 6 phút sáng. Ba Du Sinh là đội trưởng Đội Trinh sát Hình sự kiêm tổ trưởng Tổ Trọng án Sở Công an thành phố Giang Kinh. Chắc chỉ có anh mới đặt chuông di động ở mức lớn nhất trong khi ngủ, và cũng chỉ có anh mới không bực mình khó chịu bởi những cú phôn khiến người ta choàng tỉnh thế này.

    Ra khỏi cơn ác mộng ấy cũng tốt.

    Anh cầm di động lên, “Tôi nghe đây”. Im lặng nghe đầu kia nói xong, mồ hôi túa ra càng nhiều.

    Chuyện anh lo lắng nhất đã xảy ra.

    Trực ban ở Đội Trinh sát Hình sự gọi điện báo cáo, một cô gái 23 tuổi tên là Hàn Tây, đóng quầy thời trang của mình xong không thấy trở về nhà. Người bạn trai sống chung tên là Thẩm Đại Hổ không sao liên lạc được với cô.

    “Lần liên lạc cuối cùng với cô ta, là lúc nào?” Giọng Ba Du Sinh rất tỉnh táo, trầm tĩnh.

    “Hai người ấy nhắn tin cho nhau cách đây chừng năm tiếng đồng hồ. Kể từ lúc đó không ai liên lạc được với Hàn Tây.”

    Năm tiếng đồng hồ mất liên lạc với một ai đó thì chưa thể coi là mất tích, không lập hồ sơ được, dĩ nhiên Ba Du Sinh biết điều này, anh hỏi, “Cậu nói vậy, tức là đã có chứng cứ?”

    Hàn Tây không về nhà đúng giờ như mọi hôm, thoạt đầu Thẩm Đại Hổ chẳng lo lắng gì, vì còn chưa ra khỏi dư âm của những tin nhắn tình tứ giữa anh và cô, mặt khác, anh biết tình yêu của Hàn Tây đối với anh sâu đậm, cô không thể bỏ anh mà đi chẳng lời từ biệt. Chắc là lúc sắp đóng cửa hàng thì bỗng có khách vào, cô phải tiếp họ một lúc. Khi đi làm, Hàn Tây ăn mặc rực rỡ gợi cảm, nhưng đó là vì yêu cầu của công việc, chứ cô không thể và cũng không đủ gan dan díu với một gã nào đó.

    Hai tiếng đồng hồ trôi qua rất nhanh, Thẩm Đại Hổ bắt đầu sốt ruột, anh liên tục nhắn tin cho Hàn Tây nhưng không thấy trả lời; gọi điện thì tắt máy. Anh rời căn hộ chung xinh xắn của họ, ra cổng chính của khu nhà, đi đi lại lại. Chuyến xe buýt cuối cùng đã chạy qua cách đây hơn một giờ. Anh đốt liền hai điếu thuốc lá. Vài chiếc taxi đỗ rồi đi, vẫn không thấy bóng dáng Hàn Tây. Anh hiểu rằng đã xảy ra chuyện bất thường.

    Anh lại quay về nhà. Anh nhớ rằng Hàn Tây có cuốn sổ tay các thông tin lặt vặt, trong đó có số điện thoại của ông chủ và vài cô bạn đồng nghiệp, anh sẽ lần lượt gọi cho từng người. Nếu không có kết quả, anh sẽ phóng xe máy đến cửa hàng cô làm. Nếu cửa hàng đã đóng cửa… thì thế nào đây? Anh nghĩ đến vận đen của mình, một tên khốn nào nẫng mất Hàn Tây của anh, và cô đã đi với hắn. Thẩm Đại Hổ này không đời nào chấp nhận sự phản bội, Hàn Tây hiểu rõ điều đó hơn bất cứ ai.

    Lúc lấy chìa khóa để mở cửa nhà, Thẩm Đại Hổ nhìn thấy ngay cái ví đầm xinh xắn treo ở tay nắm cửa, đó là cái ví nhãn hiệu danh tiếng Hermès của Pháp mà anh tặng Hàn Tây nhân ngày sinh nhật cô năm ngoái. Anh mỉm cười, biết Hàn Tây không bao giờ làm chuyện dại dột kia mà! Nhưng anh lập tức kinh ngạc, vì sao cô lại treo cái ví ở cửa?

    Thẩm Đại Hổ cầm ví lên, mở khóa cửa, bật đèn, giọng anh hết sức dịu dàng, “Hàn Tây, sao về muộn mà cũng không gọi cho anh một câu? Muộn quá, có biết anh sốt ruột đến thế nào không?”

    Không thấy trả lời.

    “Tây Tây!” Giọng anh hơi xẵng. “Đừng đùa nữa! Dù im lặng là vàng thật thì cũng không có giá trị gì với anh!”

    Vẫn không một âm thanh.

    Căn hộ bé tẹo này đâu đủ chỗ chơi trốn tìm? Anh nhanh chóng nhận ra Hàn Tây không ở trong nhà. Nhưng tại sao cái ví của cô lại treo ở cửa?

    Thẩm Đại hổ đứng nghệt ra một lúc. Lẽ nào cô đã bỏ anh mà đi thật? Và, để thể hiện quan hệ hoàn toàn chấm hết, cô trả lại anh cả món quà “quý giá” mà anh đã tặng? Lửa giận trào lên tận cổ, tay nắm chặt, anh muốn đấm vào mặt ai đó, anh muốn nghe thấy tiếng rạn ở sống mũi, tiếng hàm răng va vào nhau… nhưng lúc này trước mặt anh chỉ là căn phòng trống trải. Anh ném mạnh cái ví đầm xuống đất.

    Ví đang mở nên các thứ bên trong văng tóe ra sàn, trong đó có cả chiếc iPhone hàng nhái mà anh tặng Hàn Tây. Thẩm Đại Hổ sinh nghi, khó mà tưởng tượng Hàn Tây có thể rời xa chiếc di động yêu thích. Nếu cô bỏ đi với gã nào đó mà lại không cầm theo điện thoại thì càng bất tiện. Thẩm Đại Hổ nhặt iPhone lên, nghĩ rằng nếu xem danh sách cuộc gọi thì có thể tìm ra manh mối. Anh kiểm tra di động của cô hầu như hằng ngày, ngoài các tin nhắn quảng cáo lừa đảo ra, anh chưa từng thấy có số máy nào đáng nghi, nếu Hàn Tây bỏ đi với trai thật thì phải công nhận rằng cô giấu giếm rất “có nghề”. Lần này cũng không ngoại lệ, trong vài giờ vừa qua chỉ có mấy tin nhắn do chính anh gửi đến máy của cô.

    Ánh mắt anh bị thu hút bởi một cái hộp nho nhỏ màu xanh nằm gần đó, “Bao cao su, sản xuất từ cao su thiên nhiên 100%, nhãn hiệu Durex. Anh quốc sản xuất”. Tay anh run run cầm cái hộp lên. Mẹ kiếp, bao cao su này rất đắt, đâu có rẻ như hàng rởm!

    Thẩm Đại Hổ bỗng cảm thấy hộp bao cao su trong tay nặng khác thường. Tạm gác nỗi uất hận mới trỗi dậy sang một bên, anh mở nắp cái hộp dèn dẹt, rút ra một mảnh vải trắng to bằng bàn tay, chất liệu hơi cứng, gần giống vải bò. Anh nhớ rằng hình như hôm nay Hàn Tây mặc chiếc quần bò màu trắng đi làm.

    Anh nhìn kỹ mảnh vải bò trắng. Chẳng thành hình thù gì, giống như là lấy kéo cắt bừa ra. Anh lật mặt sau mảnh vải, bỗng sửng sốt, trên mảnh vải trắng tinh có một vết máu đỏ tươi.

    Cái hộp Durex bỗng như nặng hơn, anh thọc ngón tay vào nhưng lập tức rút ra như bị điện giật, cái hộp rơi xuống đất. Một ngón tay nhợt nhạt văng ra.

    “Là ngón tay của Hàn Tây à?” Ba Du Sinh đã mặc xong chiếc áo gió.

    “Phòng kỹ thuật và phòng thí nghiệm đã bắt tay vào để xác định. Gã Thẩm Đại Hổ khăng khăng cho rằng đó là ngón tay của Hàn Tây, vì móng tay sơn hoa mai trên nền đỏ son, cuối tuần trước cô ta vừa đi hiệu vẽ lại.”

    “Mễ Trị Văn dậy chưa?”

    Đầu dây bên kia hơi chần chừ, Ba Du Sinh bỗng linh cảm điều chẳng lành. Theo linh cảm này, thường là các hậu quả khó mà chấp nhận nổi.

    Nghe đầu dây bên kia trả lời xong, mồ hôi từ trán Ba Du Sinh đã chảy xuống tận mắt, cay xè. Mễ Trị Văn, nghi phạm quan trọng đang bị giám sát, đã biến mất ngay trước mũi cảnh sát.

    Nếu lúc này bạn bè hoặc người thân của anh xuất hiện, họ sẽ nhìn thấy một Ba Du Sinh khác hẳn bình thường, nói cách khác là, họ sẽ nhìn thấy một người hao hao Ba Du Sinh nhưng nhợt nhạt, đầy vẻ mệt nhọc thậm chí già nua.

    “Đội trưởng?” Anh cảnh sát trực ban chưa bao giờ thấy sếp im lặng lâu đến thế.

    “Lập tức truyền lệnh tổng động viên cảnh sát các khu quận, huyện, thành phố hiệp đồng truy bắt. Tôi sẽ đến ngay?” Ba Du Sinh cố trấn tĩnh. Anh tắt máy, nhanh chóng mặc cảnh phục, rồi mở di động xem danh sách các cuộc gọi. Anh bắt đầu thấy hối hận, lẽ ra không nên để cho Na Lan tham gia vụ án.

    Nhưng cũng đúng lúc này linh cảm của anh càng mạnh mẽ, biết đâu, chỉ cô ấy mới có thể khiến cho bi kịch nhanh chóng kết thúc.

    Hoặc khiến bi kịch càng thê thảm hơn.

    Nhưng không còn lựa chọn nào khác, anh bấm số gọi cho Na Lan. Sau ba hồi chuông reo, đầu bên kia truyền đến một giọng nữ hơi ngái ngủ, “Anh Ba Du Sinh?”

    “Na Lan, tôi do dự mãi, không biết có nên để cô tham gia vụ này không… nhưng chẳng còn cách nào khác… vụ án ‘ngón tay khăn máu’ lại xảy ra, chúng ta lại có một nạn nhân nữa.”


    Chương 2: Viếng thăm ma quỷ

    Mười ba hôm trước.

    Qua khe mành mành cửa sổ, anh thoáng nhìn đã nhận ra Na Lan, đang băng qua làn mưa bụi giăng giăng.

    Trên con đường rộng rãi trước khu điều trị nội trú, người qua lại như mắc cửi, rất đông bác sĩ, y tá và người nhà vào thăm bệnh nhân, ai nấy giương ô màu đen, màu ghi, màu xanh… nhưng anh nhận ra Na Lan ngay!

    Với mỹ nữ, khuôn mặt và vóc dáng chỉ là hình ảnh hai chiều, chính phong độ và khí chất mới là nét đặc sắc khiến họ trở thành báu vật lập thể đa chiều.

    Nhờ nhạy cảm với khí chất của Na Lan, nên Ba Du Sinh đỡ được bao nhiêu mệt mỏi vất vả trong việc tìm cô giữa đám đông. Thiếu nữ thời nay cho rằng mình mặc áo mỏng hai dây, hở trên hở dưới hở lưng thì sẽ rất bắt mắt; đúng thế thật, không ai nghi ngờ gì, nó rất bắt mắt đàn ông nhưng đó chỉ là sức hút ở tầm thấp mang tính bản năng động vật, sự hấp dẫn mong manh ấy sẽ chỉ thoáng qua rồi tan nhanh.

    Trình độ và hiểu biết của Ba Du Sinh đã vượt trên mặt bằng thẩm mỹ của “số đông”. Cũng đừng hiểu lầm ánh mắt ngưỡng mộ của anh khi nhìn Na Lan là sự thèm khát trỗi dậy. Không còn bồng bột như thời trai trẻ nữa, anh đang đầy mình bệnh tật và chẳng biết lúc nào sẽ bị ông trời “gọi đi”; anh chỉ muốn hoàn thành tâm nguyện sau cùng, biểu diễn một lần cuối, để lại ấn tượng sâu sắc cho thế giới này.

    Sau đó, hạ màn, rời sân khấu.

    Cho nên lần trình diễn này anh không được phép đọc nhầm một lời thoại hay làm nhầm một động tác nào. Cũng may vì Ba Du Sinh xưa nay luôn theo đuổi sự hoàn mỹ cho nên sự tự tin của anh là có căn cứ, anh dường như đã nghe thấy tiếng vỗ tay nhiệt liệt của khán giả.

    Đúng giờ, Na Lan bước vào khu buồng bệnh. Tất cả đều diễn ra như sắp đặt của anh.

    Bệnh viện Phổ Nhân nằm ngay trung tâm thành phố, là một trong những bệnh viện hàng đầu trực thuộc Đại học Y khoa Số 2 Giang Kinh, khu buồng bệnh vừa được trùng tu năm kia, có mái vòm cong cong, thảm sàn và giấy dán tường dùng màu ấm áp, giúp bệnh nhân giảm bớt cảm giác nặng nề. Bên ngoài khu nhà, cuộc chiến giữa gió lạnh và khí ấm chưa phân thắng bại; nhưng trong nhà, nhờ hệ thống sưởi nên mùa xuân nhân tạo vẫn đang ngự trị..

    Thế mà khi bước vào khu buồng bệnh, Na Lan vẫn hơi rùng mình.

    Có phải do tác động tâm lý không?

    Na Lan là nghiên cứu sinh Khoa Tâm lý Đại học Giang Kinh, chính cô đã trải nghiệm và khám phá ra vụ án “năm xác chết”, vụ hung sát bằng ma túy trong khu nhà tuyết miền đông bắc[1], cô đã vận dụng hết mọi khả năng mà mình có, sau đó nhà trường và cảnh sát cùng ép cô chấp nhận mấy lần phỏng vấn. Nhà trường muốn xây dựng hình ảnh một trí thức trẻ tiêu biểu, cảnh sát thì muốn xây dựng hình ảnh một công dân tốt dũng cảm cộng tác với cảnh sát. Na Lan đã trả lời phóng viên nhiều lần, rằng tôi không phải đóa hồng bằng thép hay không biết sợ là gì; trái lại, cô rất sợ xem phim kinh dị, cô cực ghét ra đường một mình ban đêm.

    [1] Đã được miêu tả lần lượt trong Hồ tuyệt mệnh và Tuyết đoạt hồn.

    Lần đầu Na Lan tiếp xúc với tội ác là bảy năm về trước, khi cha cô bị hại. Kể từ lúc tận mắt nhìn thấy thi thể của cha, cảm giác sợ hãi luôn ám ảnh thậm chí bám riết lấy cô. Nhưng cảm giác sợ hãi cũng rèn luyện bồi đắp cho cô khả năng quan sát nhạy cảm đối với sự vật và con người.

    Hôm nay cô lại nắm tay nỗi sợ hãi, nắm tay “người bạn cũ” vẫn sáng chiều đeo bám ấy.

    Nguồn cơn của nỗi sợ hãi nằm ngay trong khu buồng bệnh đang cố trở nên đầm ấm này.

    Hiện đang là lúc vào thăm bệnh nhân tấp nập nhất, thang máy khá chật, có ba y tá hộ lý và năm sáu người nhà bệnh nhân mà vẻ mặt của họ nặng nề hơn cả trời mưa gió; đứng trước bệnh tật, họ phải chịu đựng tổn thất về sức khỏe, thời giờ, tiền bạc thậm chí cả người thân của mình.

    Na Lan hiểu hơn ai hết cảm giác bị mất người thân. Người cha thân yêu của cô sớm ra đi ở tuổi tráng niên, bạn trai mối tình đầu của cô vùi thây trong núi tuyết. Vết thương lòng của cô không những không lành mà ngày càng nhức nhối không biết khi nào mới nguôi.

    Cửa thang máy mở, tầng thứ 11. Trong vòng mấy phút mà như đã trải đủ mấy mùa nóng lạnh, Na Lan nhanh chóng gạt bỏ những ý nghĩ rối bời, mỉm cười, đưa tay chào Ba Du Sinh đang đứng ở hành lang đón cô.

    “Áy náy quá, hôm qua anh giao cho cô cả đống bài tập.” Ba Du Sinh nói. “Cô luôn là học trò giỏi, chắc cô đã xem hết rồi?”

    Ba Du Sinh thông minh, từng trải, nhiều chất thư sinh hơn là viên chức cảnh sát, là một trong những nguyên nhân khiến cô thích giao thiệp với anh. Cô mỉm cười, “Bài tập ở tổ trọng án của thầy Ba Du Sinh, em đâu dám lơ là? Nhưng em vẫn còn mấy vấn đề nhỏ muốn hỏi thêm.” Ba Du Sinh là một trong những người hướng dẫn luận văn tốt nghiệp cho Na Lan, mỗi lần gặp anh, cô cũng hay gọi là “thầy”.

    Không hiểu tại sao hôm nay vẻ mặt anh nặng nề khác hẳn mọi ngày, thậm chí nét lo âu hiện lên rất rõ. Anh gật đầu nói, “Ta cứ vào gặp lão đã. Có vấn đề gì cô để đấy hỏi anh sau.”

    Cả hai dừng chân trước căn phòng thuộc khu vực theo dõi bệnh nhân nặng. Tuy dành riêng cho bệnh nhân không còn khả năng chữa trị nữa nhưng cơ sở vật chất vẫn y hệt như các khu vực khác, vẫn giữ gam màu ấm, sáng sủa, tường dán giấy màu xanh da trời, treo những bức tranh sơn thủy êm đềm nhẹ nhõm, ánh sáng đầy đủ mà không chói mắt.

    Ba Du Sinh nhìn qua cửa kính, nói, “Lão ấy kia, giường giữa.”

    Trên cái giường trắng là một ông già vóc người khô héo đang nằm, cái chụp thở ô xi gắn vào mũi là sợi dây cuối cùng duy trì sự sống của ông ta.

    Na Lan nói nhỏ, “Thoáng nhìn, em đã có được câu trả lời đầu tiên.”

    “Thế à?”

    “Em vốn định đến để xác định bệnh nặng đến mức nào và có đủ tiêu chuẩn để được ra bệnh viện dân sự điều trị không, nhưng dù không có chuyên môn y khoa em cũng nhận ra rằng bệnh tình của ông ta đã rất nguy kịch.” Na Lan nói.

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tơ đồng rỏ máu


    phan 11

    Ra khỏi thành phố, tàu ngầm trườn lên mặt đất. Nhìn qua cửa sổ, sương mù đã loãng hơn, có thể nhìn thấy cột điện và nhà cửa đằng xa thấp thoáng trong sương. Rồi nhà cửa thưa dân, núi non thấp thoáng, Na Lan biết đã sắp đến dốc Mễ Lung.

    Ga tàu cách dốc Mễ Lung khoảng năm cây số, khách du lịch tham quan mọi ngày thường phải đi xe buýt hoặc taxi đến di tích. Cô gọi taxi của một công ty đáng tin cậy, đưa cho anh lái xe xem sơ đồ mà Sở Hoài Sơn gửi cho cô tối qua. Anh ta ngạc nhiên, “Chỗ đó hoang vu không người ở, cô đến làm gì?”

    Na Lan mỉm cười, “Khảo cổ!”

    Nếu không vì đúng hôm vắng khách thì có lẽ taxi đã từ chối cô. Lái xe đành lên đường, chạy chừng hai mươi phút thì đến một vùng nhà cửa đổ nát, xe dừng lại. “Đây rồi. Cô có cần tôi chờ không?”

    Na Lan đã tính sẵn, bèn nói, “Tôi chưa rõ mình sẽ nán lại đây bao lâu. Hay là anh cứ cho tôi số di động, khi nào tôi xong việc sẽ gọi, nhờ anh đến chở tôi quay lại.” Yêu cầu không có gì quá đáng, tất nhiên anh lái xe đồng ý.

    Hơn chục ngôi nhà gạch và gỗ kết hợp nằm rải rác trong khoảng một dặm vuông hợp thành cái xóm nhỏ này, Na Lan kết luận sau khi đi quanh khắp một lượt. Cỏ dại mọc um tùm, tuy đã lâu không có người ở nhưng nhà cửa vẫn khá vững chắc không có nguy cơ đổ sập. Chứng tỏ sau chiến loạn năm xưa, dân thôn Mễ Gia không hề sống tạm bợ, họ đã chăm chỉ vun đắp cho nơi này. Nếu không vì họ ở quá gần dốc Mễ Lung khiến chính phủ buộc phải di dời thì đến nay khung cảnh vẫn cứ như cũ.

    Mặt tiền các ngôi nhà không hề ghi tên chủ nhân, biết tìm “di tích” của Mễ Trị Văn ở đâu? Na Lan đã lường trước điều này nên chỉ còn cách tùy cơ ứng biến vậy.

    Ba mươi năm trước, khi các gia đình di chuyển, họ đã dọn sạch tất cả, chỉ còn lại nhà cửa sân vườn cùng vài đống gạch ngói vỡ. Tuy nhiên nó không sạch tuyệt đối vì vẫn có dấu vết con người trong những năm gần đây, những hộp cơm, túi nhựa, lon bia… vứt bừa bãi, thậm chí có cả quần lót chưa kịp mặc lại và những cái bao cao su không thèm xử lý. Na Lan đi khắp thôn khoảng một giờ, vào sáu bảy ngôi nhà, không phát hiện thấy điều gì đáng kể, cô thoáng nghĩ hôm nay có khi phải tay không trở về.

    Sau đó thì sao? Sẽ lại đến cầu khẩn Mễ Trị Văn và nghe lão cười chế nhạo?

    Cô lại vào một ngôi nhà hoang khác.

    Lúc nãy cô chú ý thấy nhà này không giống các nhà gần kề, tuy quy mô xấp xỉ nhau nhưng tình trạng rất xập xệ, xem chừng bỏ hoang lâu hơn. Bước vào trong thấy rất nham nhở, tường vữa lở lói tứ tung, nền nhà đầy bụi rác và gạch ngói vụn, đồ dùng cũ nát chất thành đống, tựa hồ vội vã tháo chạy khỏi thôn chứ không phải di chuyển một cách có trật tự như các hộ khác.

    Na Lan đương nhiên để ý quan sát nhà này rất tỉ mỉ.

    Tiếc rằng, sau nửa giờ cô lại dần thất vọng. Đồ đạc cũ nát không nói lên điều gì về chủ nhân. Trong ngôi nhà này cũng có một số rác mới, nhưng không thuộc loại Na Lan muốn tìm.

    Cô bỗng nảy ra một ý, đồ dùng cũ nát kia ít nhiều cũng phản ánh con người và cá tính của chủ nhân, cô bèn lấy đèn pin ra soi. Ở bếp, nhặt được vài mảnh bát đĩa vỡ, già nửa cái vung nồi gốm, đều có hoa văn, chứng tỏ gia đình này trước kia tương đối khá giả, chủ nhân thuộc loại tinh tế, có lối sống trang nhã. Trong buồng ngủ kê một cái bàn nhỏ rất tinh xảo, đã gãy hai chân nhưng chất gỗ còn tốt, mặt bàn và ngăn kéo mài xoa nhẵn nhụi, xem ra không phải nhà nông bình thường. Gầm bàn la liệt những mảnh gương vỡ. Đây chắc là cái bàn dùng cho việc trang điểm?

    Từ nhỏ tới lớn, Na Lan chưa từng nhìn thấy mẹ dùng bàn trang điểm, thế mà cách đây bao nhiêu năm, ở nơi này đã xuất hiện bàn trang điểm, chứng tỏ nữ chủ nhân có ý thức về khuôn mặt, da dẻ, đầu tóc.

    Nhưng những điều này liên quan gì đến Mễ Trị Văn? Mễ Trị Văn! Dấu vết của lão ở đâu?

    Một gian buồng ngủ khác, kê cái giường đơn cũ nát, các mảnh gỗ lả tả dưới đất.

    Và một mẩu vải trắng.

    Na Lan cúi xuống kéo mẩu vải ra. Vải trắng ố vàng, nhưng chưa thật cũ kỹ như các đồ vật khác trong nhà. Là một mảnh vải to.

    Mảnh vải trắng lốp, chưa có dấu vết của thời gian.

    Tim Na Lan đập nhanh dần. Cô nghĩ đến vụ án “ngón tay khăn máu”, nghĩ đến cái khăn dính máu, nghĩ đến vệt máu đỏ trên nền khăn trắng tinh. Và mím môi kéo thật mạnh, được cả một mảnh vải trắng khá lớn.

    Lật mảnh vải lên.

    Bên dưới không có gì.

    Đúng hơn là, không có thứ gì giá trị, chỉ có hai viên ngói dễ dàng bắt gặp ở bất cứ đâu trong thôn xóm bỏ hoang này.

    Giả sử có cặp trai gái lén lút làm tình thì họ sẽ mượn tạm tấm vải để hoàn thành cuộc khám phá tối nay, khỏi cần để ý hai viên ngói làm gì. Nhưng Na Lan chợt nghĩ, gạch ngói vỡ chỉ lăn lóc ngoài tường ngoài sân, trừ phi mái nhà sụp xuống thì trong nhà mới có ngói vỡ. Huống chi, đây lại không phải ngói vỡ mà là hai viên ngói nhỏ vuông vức hoàn chỉnh.

    Cô lật hai viên ngói lên, trên mỗi viên đều khắc một ký tự.

    Ký tự kỳ quái, cô từng trông thấy trong cuốn nhạc phổ của Mễ Trị Văn, là ký hiệu ghi nốt nhạc, âm giai và thế tay chơi đàn.

    Mễ Trị Văn! Vậy là đã tìm ra lão, tìm ra quá khứ của lão. Cô chực gọi điện đến buồng bệnh lão nằm, cười khẩy và hỏi, ông còn nhớ những nốt cổ cầm chứ? Còn nhớ thời niên thiếu trong sáng vô tư chứ? Nhưng sao suy nghĩ của mình lại ấu trĩ thế này? Có thể là muốn lục vấn, cũng có thể là muốn trả đũa.

    Na Lan mở di động ra chụp lại hai ký hiệu để gửi cho Sở Hoài Sơn và Ba Du Sinh. Ở đây còn nhiều điều bí mật cần cô khám phá.

    Một lát sau, cô lại nhìn thấy hai viên ngói quay ngược đầu ngoắc vào nhau. Chúng nằm bên cạnh cái tủ con cũ kỹ đã sập xuống. Bức tường phía sau cái tủ có một tấm ván dựng đứng, chân tấm ván kê một viên ngói. Chứng tỏ tấm ván này không bình thường. Na Lan nhích tấm ván ra, sau nó là một hốc tường cao tới thắt lưng người.

    Xem ra từ bé Mễ Trị Văn đã rất ham những trò bí hiểm.

    Na Lan cúi xuống chui vào cái hốc. Hang động bên trong quá chật và nông, cô chạm ngay một bức tường, bèn đưa tay đẩy mạnh, mấy viên gạch lập tức rơi ra bên ngoài. Mùi ải mốc xộc ngay lên mũi, ánh sáng lờ mờ hắt vào.

    Thì ra đây là một cái ngách bí mật thông ra thế giới bên ngoài. Na Lan tiếp tục đẩy, gạch lại rơi xuống. Mảnh tường độ một mét vuông thủng toác ra. Na Lan chui từ trong nhà ra ngoài, hơi sững sờ.

    Cứ coi đây là kiệt tác của Mễ Trị Văn hồi nhỏ đi, thì tại sao lão phải dỡ một hốc tường? Tự bố trí một lối đi bí mật để chuồn ra ngoài. Chứng tỏ lão bị mất tự do, không thể đàng hoàng đi ra khỏi nhà. Hoặc đây chỉ là một cuộc thử nghiệm mạo hiểm, nhằm ra khỏi nhà vào những lúc không nên ra, ví dụ đêm khuya… Cũng có thể, hồi nhỏ Mễ Trị Văn thích nhập bọn với bóng tối.

    Na Lan đang định quay trở vào thì bỗng nhìn thấy một viên ngói xám. Cô nhặt lên. Mặt trái của nó lại ghi một nốt nhạc cổ. Cô nhìn quanh. Trên bãi cỏ cách đó bốn năm mét có một viên ngói nữa. Cô bước đến. Đúng thế!

    Xa hơn lại thấy một viên ngói nhỏ với một ký hiệu kỳ quái.

    Cách vài mét là một viên ngói. Càng đi xa thì khoảng cách giữa hai viên ngói càng thưa, rồi thì cách hơn chục mét mới thấy một viên, tìm được nó không dễ. Cứ thế đi mãi chừng hai cây số… Na Lan kinh ngạc nhận ra mình đã đến chân dốc Mễ Lung!

    Các viên ngói mất tăm mất tích.

    Na Lan đi khắp hai bên chân dốc chừng mươi mét, không thấy viên ngói nào hết. Ngẩng đầu nhìn, thấy có một đường mòn nho nhỏ ngoằn nghèo chạy từ chân dốc lên sườn dốc và còn lên mãi. Cô đi theo. Quả nhiên lại nhìn thấy các viên ngói. Đầu tiên là vài viên nằm ở bên đường cách nhau vài mét, sau đó là các viên nằm rải rác trong bãi cỏ hoang mới mọc đầu xuân, rồi lại nằm sâu trong cỏ râm. Thình lình lại thấy hơn chục viên ngói nhỏ chất thành một đống.

    Nếu nối hết các nốt nhạc viết trên ngói lại, liệu có thành một bản nhạc cổ không?

    Mễ Trị Văn, lão chơi cái trò gì thế này?

    Na Lan bước đến chỗ đống ngói, định lấy di động chụp toàn bộ các ký hiệu, bỗng thấy dưới đất chân nhũn ra, hình như bãi cỏ biến thành đầm lầy, cô kinh hãi co chân nhưng đã quá muộn.

    Cô kêu thét lên rồi rơi xuống một cái hố sâu.

    Rơi huỵch xuống đáy. Xung quanh tối đen. Tiếp đó ý thức của cô cũng tối sầm, không biết đau đớn là gì nữa. Cô ngất lịm đi.

    Chương 17: Huyệt tối xương khô

    Trên đầu bỗng có tia sáng, mặt cô dính bùn ươn ướt.

    “Tỉnh lại đi!”

    Giọng ai thế này?

    Mễ Trị Văn? Không thể! Lão đang nằm trong buồng bệnh nan y, cách đây mấy chục cây số. Na Lan cố mở mắt, nhưng bị một nắm bùn hắt kín mặt luôn. Cô định nói nhưng không ra tiếng.

    “Ngươi khiến ta cảm động đấy! Ngươi ráo riết truy tìm bí mật của ta và đã có chút thu hoạch. Tiếc rằng, cũng như bí mật của ta, ngươi sẽ bị chôn vùi mãi mãi ở đây.” Giọng nói bên trên còn rùng rợn hơn cả hàn khí trong lòng đất này. Đất tiếp tục rơi xuống nhiều hơn.

    Na Lan định kêu lên “Dừng lại”.

    “Muốn ta dừng lại cũng được. Muốn giữ lại cái mạng như bông hoa nhỏ, không phải là không thể thương lượng.” Cái giọng ma quỷ cố ra vẻ dịu dàng. “Chỉ cần ngươi van xin ta, nói rằng ngươi đã sai, ta mới là người nắm vận mệnh ngươi, thậm chí nói rằng ngươi yêu ta, ta có thể vui lòng chấp nhận.”

    Na Lan nín lặng.

    “Thấy chưa, đây là cái tật đáng chết của ngươi. Ngươi quá kiêu kỳ, rất không linh hoạt, thì chắc chắn đời ngươi sẽ khốn đốn. Chi bằng để ta giúp ngươi siêu độ cho nhanh!”

    Na Lan kêu lên, “Dừng lại, dừng lại!”

    Rồi cô bừng tỉnh.

    Đúng là bên trên le lói ánh sáng. Đầu nhức như búa bổ. Cô lấy di động ra. 5 giờ 30 chiều. Trời hôm nay xám xịt, có lẽ chút ánh ngày cũng sắp hết. Cô không nhớ nổi lúc bị rơi xuống hố thì chỗ nào chạm đất trước, chỉ biết hiện giờ toàn thân đau nhức, xương cốt như đã giập hết, không chịu nghe lệnh bộ não nữa. Cô cố gắng ngồi dậy co duỗi chân tay. Cũng may, không bị gãy xương bong gân. Xem ra đã ngất được vài giờ, người bị va đập nhưng cơ thể vẫn có phản ứng đối phó với sự kiện bất ngờ.

    Na Lan sờ túi áo khoác lấy đèn pin ra chiếu lên trên. Dưới này cách mặt đất bao xa? 5 hay 6 mét? Soi nhìn xung quanh, hố không rộng nhưng cũng phải được 5-6 mét vuông, cỏ mọc tùm lum kín mít. Cô kiểm tra di động, thất vọng vì không hề có sóng. Đương nhiên rồi, dưới hố sâu ở nơi hoang vắng hẻo lánh, sóng di động không thể xuyên xuống. Cũng may không có cái âm thanh thâm hiểm kia uy hiếp, khiêu khích lòng tự trọng và kiêu hãnh của cô.

    Na Lan tìm cách trèo lên, nhưng xung quanh không có rễ cây hoặc dây leo, cũng không có những mỏm đá nhô ra để bám. Cô thử đến mười mấy phút, đều vô ích. Hy vọng tự lực thoát khỏi đây hầu như bằng không. Lúc này cô mới thực sự sợ hãi, thần chết đang tiến đến gần cô.

    Nếu không ai biết mình bị rơi xuống hố này thì cũng không ai cứu mình được.

    Phải nén ngay nỗi sợ hãi vừa dâng lên, Na Lan hít thở thật sâu, rồi vắt óc suy nghĩ, Sở Hoài Sơn biết mình đến thôn Mễ Gia để tìm dấu vết của Mễ Trị Văn. Nếu tối nay không thấy mình trên mạng thì anh ta sẽ sinh nghi, nhưng người không bước chân ra khỏi nhà bao giờ như thế thì đến khi nào mới biết mình không hề trở về ký túc xá, để gọi điện cho cảnh sát?

    Ký túc xá có Đào Tử, nhưng gần đây lại hay đi qua đêm, đâu thể ngẫu nhiên làm ầm lên vì mình vắng mặt một buổi?

    Còn anh lái xe taxi, mình đã hẹn cứ chờ điện thoại, nhưng anh ta có bận tâm vì mình thất hứa hay không? Khả năng này không cao.

    Có nghĩa là không hy vọng được ai biết chuyện đến cứu.

    Hoang mang.

    Ánh sáng le lói bên trên cũng không còn nữa.

    Phải trấn tĩnh! Na Lan liên tục tự nhắc nhở. Nếu Mễ Trị Văn ngay từ khi chỉ là quái con đã đào được cái hố sâu thế này thì người lớn như mình cũng có thể đào được một lối thoát.

    Cô lục cái ví cũng rơi theo xuống đây, lấy ra con dao nhỏ, bắt đầu đào một cái hốc trên vách để bám và tỳ chân trèo lên. Đào một chập, cô thấy nản, vách đất lẫn đá rất xốp, cái hốc không đủ độ cứng, vừa đặt chân vào đã lở hết cả, cô lại rơi xuống.

    Cô thử giẫm lên lần nữa. Trượt chân.

    Mễ Trị Văn nhóc con hồi xưa ra vào cái hố này bằng cách nào? Chắc là phải dùng thang dài, thang giấu ở bãi cỏ.

    Ngồi phệt một lúc, Na Lan đứng dậy thử lại. Đào hốc to và sâu thì giẫm được. Cô đào thêm một hốc bên trên để bám tay. Tay vừa co lên thì hốc chân lại lở ra, công cốc, cô ngã nhào xuống đáy.

    Thử mãi không biết bao nhiêu lần, tay chân vốn rã rời bây giờ lại càng tê dại. Lẽ nào nơi đây sẽ thành huyệt mộ chôn mình?

    Tâm trạng tuyệt vọng dần dần trỗi dậy, đúng lúc ấy, Na Lan chợt nghe tiếng còi hú của xe cảnh sát. Cô xem điện thoại. 11 giờ 42 phút. Vẫn không có sóng di động. Chắc là Sở Hoài Sơn hoặc Đào Tử đã phát hiện ra mình mất tích.

    Nhưng cơn phấn chấn lập tức bị thất vọng đè bẹp, thôn xóm vắng lặng hoang vu thế này, cảnh sát tìm thấy cô sao được? Sở Hoài Sơn và anh lái xe taxi chỉ biết mình đến thôn Mễ Gia chứ đâu có biết mình lại đi theo những nốt nhạc chết toi kia mà lên dốc Mễ Lung rồi rơi xuống hố sâu giữa đồng cỏ dại?

    Cô hét to, “Tôi là Na Lan! Tôi ở đây! Cứu tôi với…”

    Tiếng còi hú gay gắt vẫn vang vọng dưới dốc xa xa, cô biết tiếng gọi của mình không thể truyền lên mặt đất và xuyên qua màn sương mù. Thế thì bật đèn di động và chiếu hắt lên trên. Ánh sáng quá yếu, soi lên miệng hố chỉ nhờ nhờ. Vô ích!

    Na Lan lại gọi một chập nữa, khản cả cổ. Còi hú di chuyển ra xa.

    Cùng với tiếng gọi mỗi lúc một yếu dần, hai mắt Na Lan trào lệ tự lúc nào chẳng biết. Đúng là sự giễu cợt đỉnh cao dành cho cô. Tiếng cười chế nhạo thuộc về Mễ Trị Văn.

    Na Lan thân mến, đây là kết cục của trò chơi giữa cô và tôi.

    Na Lan cố tự trấn an, cố quên đi cơn đói và mệt mỏi đang hành hạ, tĩnh tâm nghĩ ngợi. Có lẽ đây là điểm mấu chốt của trò chơi mà Mễ Trị Văn đã thiết kế từ nhiều năm trước, bất kỳ ai định tìm hiểu về lão thì đều bắt tay xem xét thôn Mễ Gia và thời niên thiếu của lão. Người chơi đáng thương ấy biết lão có duyên nợ với các nốt nhạc cổ cầm, cho nên sau khi nhìn thấy các viên ngói thì sẽ đi theo tín hiệu chỉ đường, tìm đến dốc Mễ Lung, tìm ra cái huyệt này. Không cần nhiều may mắn lắm, kẻ đó cũng sẽ rơi xuống huyệt sâu chờ chết!

    Nếu người chơi đen đủi nọ không lên nổi thì coi như toi đời. Trong trò chơi điện tử, người chơi có vài mạng dự phòng, nhưng trong thực tế thì chỉ có một cơ hội. Mà cứ cho là sẽ sống sót, rồi sao nữa? Kẻ ấy sẽ được thêm máu ư? Hay thêm nhiều kiến thức về Mễ Trị Văn? Rồi tiếp cận, và bước vào… cái bẫy mà lão đã cài đặt?

    Ma quỷ khi lập trình trò chơi, có nhớ thiết kế cửa ra hay không?

    Lúc này Na Lan sực nghĩ đến một điều. Từ lúc bị rơi xuống huyệt rồi tỉnh lại, cô toàn bận tâm cách thoát hiểm mà không quan sát tỉ mỉ cái huyệt này, liệu nó có ẩn chứa những điều kỳ lạ về Mễ Trị Văn không? Nói theo lối tiêu cực tức là, dù mình chết thì cũng phải chết cho rõ ràng.

    Vì vẫn có ý thức tiết kiệm pin điện thoại và pin đèn, nên từ nãy đến giờ Na Lan chỉ đào các hốc đất bằng cách mò mẫm. Bây giờ tạm gác khát vọng sống lại, cô bật đèn pin quan sát kỹ càng tất cả.

    Thấy một tấm ván úp ở chân vách huyệt, khá bằng phẳng. Cô nhấc nó lên, bên dưới là một cái hố không lớn, tạm gọi là “huyệt trong huyệt”. Hố này có mấy cuốn sách và vài thứ lặt vặt, từa tựa một cái kho nhỏ. Cô cầm các cuốn sách lên, bộ sưu tập này thật quái gở. Một cuốn sách cổ có tên là Thanh Sơn cầm sao, chép các bản nhạc dân tộc kinh điển như Quảng Lăng tán, Tống Ngọc bi thu, Tiêu Dao du… tất nhiên đều dùng các ký hiệu âm nhạc lạ lùng. Một cuốn Tâm lý học thường thức in năm 1955, một cuốn Lịch sử Hội họa phương Tây xuất bản năm Dân quốc thứ 35 (tức 1946), một cuốn Giản lược về Lực học xuất bản năm 1952, một cuốn Giải phẫu cơ thể người xuất bản năm 1956, một cuốn Không dũ tùy đàm in và khâu theo lối cổ.

    Na Lan chưa bao giờ nghe nói về cuốn Không dũ tùy đàm bèn thử giở ra xem. Sách do một người đời Thanh soạn, tập hợp các truyện ký dưới hai triều Minh-Thanh, gồm các mẩu truyện dã sử, các truyện dân gian quái dị. Hai năm trước Na Lan bị cuốn vào một vụ án lớn, cô đã từng đọc loại sách này, đêm nay lại chạm trán, có lẽ đây là điềm gở? Lật thêm mấy trang, cô thấy một cái thẻ đánh dấu sách. Là một sợi dây đàn.

    Đúng là dấu ấn của Mễ Trị Văn.

    Ý nghĩ bi quan được chứng minh ngay, sau khi nhấc hết mấy cuốn sách, cô đánh rơi luôn cái đèn pin, và kêu thét lên!

    Bên dưới, là những khúc xương trắng hếu chồng chéo dày đặc!

    Các khúc xương, các bộ xương có nhiều kích cỡ, nhìn chung là nhỏ, không phải xương người. Các hộp sọ cho thấy đây là xương mèo, chó và chuột. Điều đáng sợ và rùng rợn nhất ở đám xương này là do bị vặt từ thân thể các con vật ra, chứ không phải tập hợp thành từng bộ xương động vật hoàn chỉnh. Chúng bị bẻ bị xé, chứ không phải bị phân hủy theo thời gian. Đa số các khúc xương nhỏ được buộc lại thành bó, mỗi bó có 4-5 khúc xương.

    Thì ra Mễ Trị Văn nhà ngươi lại có cái sở thích như thế này!

    Na Lan mường tượng lần sau gặp lão, cuộc đối thoại sẽ rất phong phú, nhưng một ý nghĩ khác chèn lên ngay, lần sau là bao giờ? Có phải lần đối thoại gần đây nhất, là lần cuối cùng không? Từ nhiều năm trước lão đã thiết kế ra cái bẫy này nhằm bảo đảm rằng đám xương khô và các bí mật liên quan không thể bị đưa ra ánh sáng, có phải thế không?

    Vì phát hiện được cái ổ này rồi, người ta dễ dàng liên tưởng đến thủ đoạn dùng trong các vụ án “ngón tay khăn máu”, xé xác phanh thây kẻ yếu, tàn khốc và vô nhân đạo.

    Mình phải ra khỏi chốn này!

    Cô lại bắt đầu đào hốc, thử hết lần này đến lần khác và liên tục thất bại.

    Cho đến lúc miệng hố trên kia có đất mới hắt xuống.

    “Kẻ không thể tự làm chủ số phận thì ít ra cũng nên biết điều! Chỗ đáng buồn nhất của ngươi là ngươi lại lửng lơ đứng giữa.” Vẫn là cái giọng vừa quen vừa lạ, nghe như từ địa ngục vọng về.

    Nếu âm thanh của địa ngục lại phát ra ở trên đầu, thì lúc này cô đang ở tầng thứ mấy?

    Đất cát rào rào trút xuống. Na Lan muốn né tránh nhưng không sao cựa quậy được. Đành mặc đất tạt vào mặt, trong đất mới này hình như có giun, chúng đang ngọ ngoạy trên mặt cô.

    “Cút đi!” Cô hét lên, nhưng âm thanh quá yếu, run run tắt ngấm trong cái lạnh mùa xuân.

    “Tự ngươi muốn vào, sao bây giờ lại giở quẻ?” Giọng kia rin rít như rắn phun. “Ngươi cũng chỉ biết kêu ‘cút đi, thả tôi ra’ như bọn đàn bà khác khi xuống đây, eo éo bất lực như bọn đạo sĩ niệm chú hy vọng có thể chặn được tà ma! Nhất là ngươi luôn kiêu kỳ nghĩ mình cứng cỏi, thực ra ngươi là kẻ đáng thương, sống như thế làm gì cho khổ? Hiếm thấy những kẻ thân làm tội đời như ngươi!”

    “Cảm ơn ngươi đã tư vấn tâm lý.” Na Lan cố trở lại bình tĩnh. “Ngươi có thể lừa ta rơi xuống đây nhưng đừng hòng đè bẹp ý thức của ta.”

    Đất lại hắt xuống càng nhiều. Chỉ một lát đã ngập đến đầu gối cô.

    “Nói gì đó có vẻ đáng thương đi chứ? Chưa chừng ta sẽ mủi lòng đổi ý cũng nên.” Kẻ ấy hỏi.

    Na Lan định nói… nhưng toàn thân cô lạnh run, bụng đói cồn cào không thể suy nghĩ được nữa, cô thấy khát nước.

    Cô im lặng. Ngươi có thể giành phần thắng trong trò chơi, nhưng không thể thắng nổi ta. Khi đất ngập lên đến ngực, Na Lan không thở được nữa.

    “Đây là cơ hội cuối cùng. Ngươi nói thật đi, nói là ngươi rất đáng thương, số ngươi khổ, sống chẳng thú vị gì nhưng vẫn muốn tiếp tục sống, nhằm chứng minh ngươi có thể sống tiếp.”

    Na Lan nhắm mắt lại.

    Nước, mình chỉ muốn uống nước.

    Sau khi bị rơi xuống hố này, đã bao lâu rồi mình không được uống một giọt nước? Tám? Mười? Hay mười hai tiếng đồng hồ?

    Đất rơi xuống, từng đám, từng tảng, từng hạt… đánh bại bản năng sinh tồn của Na Lan. Cô có thể tỏ ra cứng cỏi, nhưng không thể kìm được nước mắt. Vốn đã là thế rồi, cô bị sát hại, mẹ cô suy sụp, Cốc Y Dương ra đi, Tần Hoài xuất gia, đâu còn hứng thú để sống nữa?

    Nước mắt càng trào ra nhiều hơn.

    Nước! Hình như có giọt nước rơi vào má, đọng ở bên mép.

    Na Lan bỗng bừng tỉnh, lại có giọt nước rơi xuống mặt. Cô ngẩng đầu, toàn thân mềm nhũn không còn chút sức lực. Hình như có chút ánh sáng trên miệng hố. Trời đã sáng hay sao? Cô bỗng hiểu ra, giọt nước vừa rơi xuống là sương sớm đọng trên cỏ ở miệng hố rỏ xuống. Sương độc tích tụ của mấy hôm sương mù bao phủ. Đầu óc cô cứng đờ hỗn loạn nhưng vẫn nhớ ra mấy câu thơ cổ bi quan, “Kiếp người như sương sớm”, “Tựa như sương sớm, ngày trước bao khổ đau…” Hình như ác mộng vẫn tiếp tục.

    Cô nhìn di động. 5 giờ 34 phút sáng. Khi màn hình sáng lên, cô bỗng cảm thấy xung quanh khang khác, hình như ở đây không chỉ có mình cô!

    Cô quay người, nhưng không nhìn thấy gì hết. Cô sờ thấy chiếc đèn pin, tay run run chưa kịp bật thì một bóng đen bỗng xuất hiện trước mặt cô.

    Chương 18: Thiếu mẩu xương ngón

    Phản ứng đầu tiên của Na Lan, chắc đây vẫn là giấc mơ chưa tàn vì đói khát, mệt mỏi và sợ hãi, hoặc đây là ảo giác. Cô đã từng nếm trải những ảo giác như thật.

    Cô kêu lên kinh hãi.

    “Na Lan đừng sợ! Tôi đến cứu cô đây!”

    Chưa đầy mười phút sau, còi hú của xe cảnh sát vang lên. Na Lan biết mình đã thực sự được cứu.

    Chỉ trong mấy phút, Na Lan đã làm quen với vị cứu tinh. Một người đàn ông tuổi ngoài 60, gầy gò, râu bạc, tự giới thiệu mình họ Trần và nói có lẽ cô từng nghe nhắc đến. Ông đưa cho Na Lan chai nước khoáng và bánh quy đem theo. Nghe nói “họ Trần”, Na Lan liền đoán ra ngay, “Chú là… tiền bối Trần Ngọc Đống?”

    “Cứ gọi tôi ‘chú Đống’ là được.”

    Ba mươi năm trước, Trần Ngọc Đống là sĩ quan cảnh sát đã điều tra vụ án “ngón tay khăn máu” đầu tiên, cũng là chuyên gia tham gia trinh sát hầu hết các vụ án “ngón tay khăn máu” khác.

    “Chú đã về hưu… mà vẫn…” Nếu Mễ Trị Văn có mặt, chắc lão sẽ nói cô “Biết rồi còn cố hỏi…”

    “Đoán xem ai đã báo cho tôi biết?” Trần Ngọc Đống hỏi lại.

    “Sở Hoài Sơn?”

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tơ đồng rỏ máu


    phan 12

    “Cháu thông minh thật! Biết Ba Du Sinh không trực tiếp nhúng tay, anh chàng mới từ Bộ xuống lại càng không gọi tôi. Khi nhận được điện của Sở Hoài Sơn, tôi ngỡ gã nào đùa bỡn nói năng thì ấp úng lắp bắp, sau khi nghe ra anh ta biết rõ toàn bộ vụ án thì tôi mới hiểu tính chất nghiêm trọng của sự việc.”

    Sở Hoài Sơn là người nhanh chóng báo động cảnh sát về việc Na Lan mất tích. Anh liên tục chờ kết quả khảo cổ thôn Mễ Lung của Na Lan, nửa đêm lên mạng vẫn không thấy cô, gọi điện cũng không được, cuống lên bèn gọi cho Kim Thạc. Kim Thạc dù tức giận vì Na Lan tự tiện hành động nhưng dẫu sao vẫn là sĩ quan cảnh sát cẩn thận có thừa, lập tức điều động ngay hai xe cảnh sát đến thôn Mễ Gia sau dốc Mễ Lung để tìm kiếm. Nhưng đêm khuya sương mù dày đặc, tìm không ra.

    Kim Thạc cảm thấy sự việc nghiêm trọng, đành phải thông báo cho Ba Du Sinh. Ba Du Sinh và Kim Thạc bàn đến việc phải cho tìm kiếm quy mô toàn thành phố. Còn Sở Hoài Sơn thì nghĩ ngay đến Trần Ngọc Đống.

    Mễ Trị Văn cưỡng bức Đổng Bội Luân bất thành rồi bị bắt, là vụ án xảy ra vài tháng trước ngày nghỉ hưu của Trần Ngọc Đống. Xem tư liệu mà Ba Du Sinh gửi cho, Sở Hoài Sơn biết Trần Ngọc Đống cũng tham gia xử lý vụ án này và đã đi sâu tìm hiểu về Mễ Trị Văn.

    Về sau Sở Hoài Sơn kể với Na Lan rằng lúc đó anh bỗng sáng óc ra, chúng ta lâu nay muốn tìm hiểu kỹ về Mễ Trị Văn mà lại bỏ qua một cơ hội tốt, quên mất rằng không ai hiểu rõ vụ án “ngón tay khăn máu” và Mễ Trị Văn bằng Trần Ngọc Đống! Nhưng Trần Ngọc Đống đã nghỉ hưu…

    Vụ án “ngón tay khăn máu” hoành hành suốt ba mươi năm, gần như song song với sự nghiệp cảnh sát của Trần Ngọc Đống. Sự nghiệp của ông, đúc kết cô đọng thì, thành công hay thất bại đều gắn liền với vụ án “ngón tay khăn máu”. Khi ông nghỉ hưu, vụ án vẫn đang tiếp diễn, những ai có tâm với sự nghiệp thì đều khó mà phủi tay với tất cả. Huống chi, tư liệu mà Trần Ngọc Đống để lại cho thấy ông là con người rất nhiệt tình với công tác trinh sát phá án hình sự, không bao giờ qua loa cẩu thả. Sở Hoài Sơn bèn gọi điện cầu cứu ông. Lúc đó đã 1 giờ 30 phút sáng.

    Chỉ sau một hồi chuông reo, Trần Ngọc Đống đã nhấc máy, cứ như thức đêm để chờ điện thoại. Sở Hoài Sơn nói nhát gừng ngắt quãng, ông lại hỏi cụ thể nguyên do sự việc, sau đó lập tức đeo chiếc ba lô “tình trạng khẩn cấp” với đầy đủ dụng cụ rồi chạy ra khỏi nhà.

    Trần Ngọc Đống không có ô tô, sau nửa đêm lại càng không thể kiếm được taxi đi đến dốc Mễ Lung hoang vu. Ông sang khu bên cạnh, gõ cửa nhà người bạn làm lái xe đã về hưu, nhà vẫn có chiếc ô tô Santana bình dân cũng đã đến tuổi về hưu. Trần Ngọc Đống vốn biết lái xe, sau mấy phút nói chuyện ông đã mượn được xe rồi phóng như bay đến dốc Mễ Lung.

    Gọi là phóng như bay thì hơi quá, so với những chiếc Audi hay xe đua Lamborghini với chủ nhân phừng phừng men rượu, thì chiếc Santana già với bác tài cũng già này, chỉ như lững thững đi dạo phố. Khi chạy đến dốc Mễ Lung, đã gần 3 giờ sáng.

    “Chú cũng nhìn thấy những viên ngói và các nốt nhạc cổ à?”

    Trần Ngọc Đống nói, “Đầu tiên tôi nhìn thấy cái hốc tường.” Ông lầu bầu trách các nhân viên do Kim Thạc cử đến, chắc đều là lính mới nên không chú ý bảo vệ hiện trường, mặt đất lẽ ra phải có dấu chân mới của Na Lan, nhưng đã bị một lô dấu chân giẫm lên xóa hết. Ông đã vào gần chục ngôi nhà có hốc tường thủng thì ông liền chú ý, nhà hoang, đương nhiên là tường ngói lở lói cũ kỹ, nhưng hốc tường này thì khác, Gạch ngói lâu ngày dầm mưa dãi nắng, nhất là gần đây mưa xuân ẩm ướt, thì phải bị nham nhở gặm nhấm, cũng rất dễ bị rêu xanh phủ kín, nhưng đống gạch lộn xộn ở dưới chân tường này thì quá phẳng phiu sạch sẽ, hình như mới bị dỡ xuống.

    Trần Ngọc Đống bật chiếc đèn LED trong tay. “Chà! Hữu dụng quá, may mà có nó!” Ông nói, khi nhận ra các viên ngói vương vãi trong và ngoài nhà, bề mặt đều viết chữ rất kỳ quái.

    Và cả dấu chân của Na Lan.

    Sau khi ra khỏi thôn Mễ Gia, rất khó lần tìm dấu chân của Na Lan, nhưng những viên ngói đã chỉ đường cho ông.

    “Tôi gọi điện cho Kim Thạc, bảo anh đến đây mà xem, có lẽ cần các anh ứng cứu.” Trần Ngọc Đống soi đèn pin lên trên. “Tôi dùng nó để xuống đây. Già rồi, phải chấp nhận vậy. Nếu trẻ hơn thì tôi đã nhảy ào xuống, không vấn đề gì.”

    Na Lan nhìn thấy ở vách hố có sợi thừng nilon to bằng ngón tay cái.

    “Hễ ra khỏi nhà là chú vũ trang đầy đủ như thế này à?”

    Trần Ngọc Đống nói, “Thói quen hình thành từ hồi trẻ đi bộ đội, chuẩn bị kỹ thì đỡ lo, nếu không, lúc này cháu có gì mà ăn mà uống?”

    Tiếng còi hú của xe cảnh sát lại vang lên, chừng hơn mười phút sau, theo chỉ dẫn của Trần Ngọc Đống, cảnh sát cứu viện đã tìm đến miệng hố rồi thả thang dây xuống. Trần Ngọc Đống hỏi Na Lan, “Cháu trèo được không?”

    Na Lan đáp, “Cháu vừa được ăn, phải có ích chứ!” Trần Ngọc Đống đỡ Na Lan lên thang. Ông bật đèn pin rọi xuống, nhìn kỹ các “văn vật” vừa được khám phá. Na Lan sợ mình vẫn còn yếu, chỉ dám từ từ leo lên từng bậc. Lúc đến gần miệng hố bỗng nghe tiếng Trần Ngọc Đống, “Cháu có nhận ra chi trước của các động vật này đều thiếu một khúc xương ngón chân không?”

    Chương 18: Thiếu mẩu xương ngón

    Phản ứng đầu tiên của Na Lan, chắc đây vẫn là giấc mơ chưa tàn vì đói khát, mệt mỏi và sợ hãi, hoặc đây là ảo giác. Cô đã từng nếm trải những ảo giác như thật.

    Cô kêu lên kinh hãi.

    “Na Lan đừng sợ! Tôi đến cứu cô đây!”

    Chưa đầy mười phút sau, còi hú của xe cảnh sát vang lên. Na Lan biết mình đã thực sự được cứu.

    Chỉ trong mấy phút, Na Lan đã làm quen với vị cứu tinh. Một người đàn ông tuổi ngoài 60, gầy gò, râu bạc, tự giới thiệu mình họ Trần và nói có lẽ cô từng nghe nhắc đến. Ông đưa cho Na Lan chai nước khoáng và bánh quy đem theo. Nghe nói “họ Trần”, Na Lan liền đoán ra ngay, “Chú là… tiền bối Trần Ngọc Đống?”

    “Cứ gọi tôi ‘chú Đống’ là được.”

    Ba mươi năm trước, Trần Ngọc Đống là sĩ quan cảnh sát đã điều tra vụ án “ngón tay khăn máu” đầu tiên, cũng là chuyên gia tham gia trinh sát hầu hết các vụ án “ngón tay khăn máu” khác.

    “Chú đã về hưu… mà vẫn…” Nếu Mễ Trị Văn có mặt, chắc lão sẽ nói cô “Biết rồi còn cố hỏi…”

    “Đoán xem ai đã báo cho tôi biết?” Trần Ngọc Đống hỏi lại.

    “Sở Hoài Sơn?”

    “Cháu thông minh thật! Biết Ba Du Sinh không trực tiếp nhúng tay, anh chàng mới từ Bộ xuống lại càng không gọi tôi. Khi nhận được điện của Sở Hoài Sơn, tôi ngỡ gã nào đùa bỡn nói năng thì ấp úng lắp bắp, sau khi nghe ra anh ta biết rõ toàn bộ vụ án thì tôi mới hiểu tính chất nghiêm trọng của sự việc.”

    Sở Hoài Sơn là người nhanh chóng báo động cảnh sát về việc Na Lan mất tích. Anh liên tục chờ kết quả khảo cổ thôn Mễ Lung của Na Lan, nửa đêm lên mạng vẫn không thấy cô, gọi điện cũng không được, cuống lên bèn gọi cho Kim Thạc. Kim Thạc dù tức giận vì Na Lan tự tiện hành động nhưng dẫu sao vẫn là sĩ quan cảnh sát cẩn thận có thừa, lập tức điều động ngay hai xe cảnh sát đến thôn Mễ Gia sau dốc Mễ Lung để tìm kiếm. Nhưng đêm khuya sương mù dày đặc, tìm không ra.

    Kim Thạc cảm thấy sự việc nghiêm trọng, đành phải thông báo cho Ba Du Sinh. Ba Du Sinh và Kim Thạc bàn đến việc phải cho tìm kiếm quy mô toàn thành phố. Còn Sở Hoài Sơn thì nghĩ ngay đến Trần Ngọc Đống.

    Mễ Trị Văn cưỡng bức Đổng Bội Luân bất thành rồi bị bắt, là vụ án xảy ra vài tháng trước ngày nghỉ hưu của Trần Ngọc Đống. Xem tư liệu mà Ba Du Sinh gửi cho, Sở Hoài Sơn biết Trần Ngọc Đống cũng tham gia xử lý vụ án này và đã đi sâu tìm hiểu về Mễ Trị Văn.

    Về sau Sở Hoài Sơn kể với Na Lan rằng lúc đó anh bỗng sáng óc ra, chúng ta lâu nay muốn tìm hiểu kỹ về Mễ Trị Văn mà lại bỏ qua một cơ hội tốt, quên mất rằng không ai hiểu rõ vụ án “ngón tay khăn máu” và Mễ Trị Văn bằng Trần Ngọc Đống! Nhưng Trần Ngọc Đống đã nghỉ hưu…

    Vụ án “ngón tay khăn máu” hoành hành suốt ba mươi năm, gần như song song với sự nghiệp cảnh sát của Trần Ngọc Đống. Sự nghiệp của ông, đúc kết cô đọng thì, thành công hay thất bại đều gắn liền với vụ án “ngón tay khăn máu”. Khi ông nghỉ hưu, vụ án vẫn đang tiếp diễn, những ai có tâm với sự nghiệp thì đều khó mà phủi tay với tất cả. Huống chi, tư liệu mà Trần Ngọc Đống để lại cho thấy ông là con người rất nhiệt tình với công tác trinh sát phá án hình sự, không bao giờ qua loa cẩu thả. Sở Hoài Sơn bèn gọi điện cầu cứu ông. Lúc đó đã 1 giờ 30 phút sáng.

    Chỉ sau một hồi chuông reo, Trần Ngọc Đống đã nhấc máy, cứ như thức đêm để chờ điện thoại. Sở Hoài Sơn nói nhát gừng ngắt quãng, ông lại hỏi cụ thể nguyên do sự việc, sau đó lập tức đeo chiếc ba lô “tình trạng khẩn cấp” với đầy đủ dụng cụ rồi chạy ra khỏi nhà.

    Trần Ngọc Đống không có ô tô, sau nửa đêm lại càng không thể kiếm được taxi đi đến dốc Mễ Lung hoang vu. Ông sang khu bên cạnh, gõ cửa nhà người bạn làm lái xe đã về hưu, nhà vẫn có chiếc ô tô Santana bình dân cũng đã đến tuổi về hưu. Trần Ngọc Đống vốn biết lái xe, sau mấy phút nói chuyện ông đã mượn được xe rồi phóng như bay đến dốc Mễ Lung.

    Gọi là phóng như bay thì hơi quá, so với những chiếc Audi hay xe đua Lamborghini với chủ nhân phừng phừng men rượu, thì chiếc Santana già với bác tài cũng già này, chỉ như lững thững đi dạo phố. Khi chạy đến dốc Mễ Lung, đã gần 3 giờ sáng.

    “Chú cũng nhìn thấy những viên ngói và các nốt nhạc cổ à?”

    Trần Ngọc Đống nói, “Đầu tiên tôi nhìn thấy cái hốc tường.” Ông lầu bầu trách các nhân viên do Kim Thạc cử đến, chắc đều là lính mới nên không chú ý bảo vệ hiện trường, mặt đất lẽ ra phải có dấu chân mới của Na Lan, nhưng đã bị một lô dấu chân giẫm lên xóa hết. Ông đã vào gần chục ngôi nhà có hốc tường thủng thì ông liền chú ý, nhà hoang, đương nhiên là tường ngói lở lói cũ kỹ, nhưng hốc tường này thì khác, Gạch ngói lâu ngày dầm mưa dãi nắng, nhất là gần đây mưa xuân ẩm ướt, thì phải bị nham nhở gặm nhấm, cũng rất dễ bị rêu xanh phủ kín, nhưng đống gạch lộn xộn ở dưới chân tường này thì quá phẳng phiu sạch sẽ, hình như mới bị dỡ xuống.

    Trần Ngọc Đống bật chiếc đèn LED trong tay. “Chà! Hữu dụng quá, may mà có nó!” Ông nói, khi nhận ra các viên ngói vương vãi trong và ngoài nhà, bề mặt đều viết chữ rất kỳ quái.

    Và cả dấu chân của Na Lan.

    Sau khi ra khỏi thôn Mễ Gia, rất khó lần tìm dấu chân của Na Lan, nhưng những viên ngói đã chỉ đường cho ông.

    “Tôi gọi điện cho Kim Thạc, bảo anh đến đây mà xem, có lẽ cần các anh ứng cứu.” Trần Ngọc Đống soi đèn pin lên trên. “Tôi dùng nó để xuống đây. Già rồi, phải chấp nhận vậy. Nếu trẻ hơn thì tôi đã nhảy ào xuống, không vấn đề gì.”

    Na Lan nhìn thấy ở vách hố có sợi thừng nilon to bằng ngón tay cái.

    “Hễ ra khỏi nhà là chú vũ trang đầy đủ như thế này à?”

    Trần Ngọc Đống nói, “Thói quen hình thành từ hồi trẻ đi bộ đội, chuẩn bị kỹ thì đỡ lo, nếu không, lúc này cháu có gì mà ăn mà uống?”

    Tiếng còi hú của xe cảnh sát lại vang lên, chừng hơn mười phút sau, theo chỉ dẫn của Trần Ngọc Đống, cảnh sát cứu viện đã tìm đến miệng hố rồi thả thang dây xuống. Trần Ngọc Đống hỏi Na Lan, “Cháu trèo được không?”

    Na Lan đáp, “Cháu vừa được ăn, phải có ích chứ!” Trần Ngọc Đống đỡ Na Lan lên thang. Ông bật đèn pin rọi xuống, nhìn kỹ các “văn vật” vừa được khám phá. Na Lan sợ mình vẫn còn yếu, chỉ dám từ từ leo lên từng bậc. Lúc đến gần miệng hố bỗng nghe tiếng Trần Ngọc Đống, “Cháu có nhận ra chi trước của các động vật này đều thiếu một khúc xương ngón chân không?”

    Chương 19: Suy diễn

    Chân trước của mèo có 4 ngón, chân sau có 5 ngón. Chó cũng vậy, chuột cũng thế. Xương của các động vật vùi dưới hố này, bàn chân trước và sau đều được bó thành từng bó, mỗi bó 4 hoặc 5 cái xương, tức là chân trước và chân sau bó riêng. Có điều một nửa trong số đó, các bó xương chân trước, chỉ có 3 cái xương, đều thiếu một ngón.

    Nghe có vẻ quen quen?

    Vụ án “chặt ngón tay” hóa ra đã bắt đầu từ nửa thế kỷ trước. Địa điểm là một cái huyệt tối tăm.

    Kim Thạc đi theo xe cứu thương, đưa Na Lan vào phòng cấp cứu bệnh viện Phổ Nhân, trưởng ca trực vừa khéo là Chu Trường Lộ. Ông đích thân khám cho Na Lan, rồi cho truyền dung dịch, xong xuôi mới đi ra. Kim Thạc nói, “Kỹ thuật viên của phòng thí nghiệm trinh sát hình sự sẽ nhanh chóng xác định tuổi của các bộ xương động vật ấy. Khi nào bệnh viện cho về, thì cô cứ nghỉ ngơi mấy hôm. Tôi báo kết quả điều tra kịp thời.”

    Na Lan hỏi, “Có lẽ tòa nhà bên cạnh sẽ có câu trả lời, nhân khi tôi đang nằm viện, anh có thể cho phép tôi phỏng vấn ‘Thương Hiệt’ Mễ Trị Văn lần nữa không?”

    Kim Thạc cười nhạt, “Cô cho rằng lão sẽ cung khai à, vâng, hồi nhỏ đôi khi tôi thích hành hạ động vật, sau này lớn lên lại thích tra tấn con người. Hồi nhỏ tôi bẻ ngón tay mèo, chó, sau này tôi chặt ngón tay người… chứ gì? Cô khỏi cần bận tâm, chúng tôi nhất định sẽ thẩm vấn lão đến nơi đến chốn!”

    “Nhưng tôi quá sốt ruột, Mễ Trị Văn đưa cho chúng ta chữ thứ hai, đến nay vẫn chưa khám phá ra…”

    Kim Thạc đặt tay lên vai Na Lan, nói, “Bạn Na Lan ạ, hiện giờ bạn cần nghỉ ngơi để bình phục thể lực. Chữ này hay chữ nọ chỉ là trò chơi tâm lý do lão già khốn khiếp đó bày ra để bỡn cợt bạn, bạn càng cho là thật thì lão càng đắc ý!”

    “Vậy là anh từ chối yêu cầu của tôi.” Na Lan thở dài.

    “Chờ khi cô khỏe lại hãy hay.” Giọng Kim Thạc ngụ ý “khỏi cần nhiều lời”. Nói xong anh bước ra khỏi phòng hồi sức cấp cứu.

    “Chờ hai chúng ta nói chuyện đã rồi tính sau.” Trần Ngọc Đống lên tiếng.

    Na Lan ngạc nhiên, hóa ra từ nãy đến giờ Trần Ngọc Đống vẫn ở trong này! Phòng hồi sức cấp cứu có hơn chục cái giường, người nhà bệnh nhân không ngớt ra vào, chắc ông đã đi lẫn cùng họ. Kim Thạc chỉ mới gặp ông lần đầu, hỏi tỉ mỉ về việc giải cứu Na Lan là xong, chắc không ngờ ông lại theo vào tận đây.

    Trần Ngọc Đống bước đến bên giường Na Lan, kéo ghế ngồi xuống, “Tôi nán lại trò chuyện với cháu. Khi nào xuất viện, mời cháu đến nhà tôi chơi.”

    Hơn ba tiếng đồng hồ sau, Na Lan được ra viện. Chu Trường Lộ đích thân xem các xét nghiệm và chỉ số sức khỏe, nói rằng Na Lan đã ổn, nhờ kịp thời truyền dịch đã khắc phục được tình trạng mất nước, chỉ số điện giải của cơ thể đã cân bằng. Sau đây chỉ cần tĩnh dưỡng, ăn uống điều độ đúng giờ thì sẽ nhanh chóng bình phục hoàn toàn.

    Trần Ngọc Đống hỏi Na Lan, “Cháu định về ký túc xá nghỉ ngơi hay là đến chơi chỗ tôi?”

    Na Lan nói ngay, “Đến nhà chú!” Cô tin rằng ông muốn nói với cô nhiều điều liên quan mật thiết đến vụ án.

    Trần Ngọc Đống đã trả chiếc Santana cho ông hàng xóm, nên cả hai đi tàu điện ngầm, rồi lên xe buýt. Hai mươi phút sau họ rẽ vào một khu chung cư cũ kỹ lem nhem. Trần Ngọc Đống nói đây vốn là tập thể Bộ Công an, gần đây chuyển sang nhà ở thương mại, một nửa số hộ trong này vẫn là các cán bộ công an có tuổi.

    “Lớp trẻ như Ba Du Sinh thì không gặp may như thế, khi họ bắt đầu ra công tác thì không còn chế độ phân nhà nữa. Chỉ nhận tiền trợ cấp rồi mua nhà thu nhập thấp thì vẫn thua việc phân nhà.” Ông than thở.

    Na Lan bật cười, “Lớp trẻ à? Chú biết không, cháu vẫn gọi anh ấy là thầy, và là thầy thứ thiệt đấy!”

    “Vụ án thứ nhất mà Ba Du Sinh hợp tác với tôi, là vụ xảy ra ở khu Văn Viên, cách đây 7 năm. Hồi đó anh ta đã có mấy năm kinh nghiệm, nhưng vẫn là anh chàng láu táu, đến giờ thì già sao được?” Giọng ông dịu đi. “Ngay lần đó tôi thấy anh ta ham đi sâu nghiên cứu, tôi đã biết anh chàng này sẽ rất có tiền đồ, ý tôi nói là về mặt trinh sát hình sự chứ không phải việc thăng quan tiến chức.”

    Na Lan thừa nhận, “Vâng. Cho đến giờ cháu vẫn không hiểu tại sao anh ấy thình lình bị rút khỏi vụ án ‘ngón tay khăn máu’, thấy nói là để cách ly…”

    Trần Ngọc Đống toan nói lại thôi, ông dẫn Na Lan vào hành lang, đi đến căn hộ số 7 tòa nhà 3. “Nhà tôi bề bộn, cháu vào cũng không tiện… nhưng đành vậy, vì tôi cần nói vài điều với cháu.”

    Đúng là bề bộn chứ không phải ông nói khiêm tốn. Căn hộ ở tầng trệt, hành lang chất đủ thứ như các tòa nhà cũ vốn thấy, trong nhà càng lộn xộn hơn. Nhưng ngồi một lát, Na Lan lại nhận ra sự ngăn nắp trong hỗn loạn, chẳng qua là nhà chật, mà đồ đạc lại quá nhiều, xếp chật cứng. Chủ yếu là các chồng sách và tư liệu, chủ nhân kẹp mảnh bìa phân loại cho từng chồng, ghi “Mã Vân”, “Tiết Hồng Yến”, “Đường Tĩnh Phương”… đều là nạn nhân trong các vụ án “ngón tay khăn máu”. Đủ 12 người. Ba giá lớn chất đầy sách, dưới sàn cũng la liệt sách. Sách được phân nhóm rõ ràng, chuyên đề trinh sát hình sự, tâm lý học, pháp y, pháp luật, tiểu thuyết trinh thám…

    “Nhiều sách quá!” Na Lan trầm trồ.

    “Chúng rất hữu dụng, từ khi về hưu tôi lại có nhiều thì giờ để đọc thật kỹ. Tôi vốn là bộ đội chuyển ngành đi học hình sự, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và trực giác chứ ít khi nhờ đến lý luận. Tôi không bằng thế hệ như Ba Du Sinh mới vào nghề đã là cấp trưởng nhóm trưởng ban.” Ông chỉ vào cái ghế đệm da cũ kỹ, bảo cô ngồi, rồi đi pha trà.

    Na Lan nói, “Cháu uống nước trắng là được. Cháu chủ yếu muốn nghe cao kiến của chú.”

    Trần Ngọc Đống đáp, “Tôi đâu có cao kiến gì, nếu có thì đã phá được vụ án từ lâu.”

    “Xem ra, sau khi về hưu chú vẫn không rời ‘ngón tay khăn máu’.”

    “Đối với cảnh sát chúng tôi thì đây chỉ là một vụ án, nhưng với người đã khuất và thân nhân của họ, đây là một núi án mạng.” Giọng ông bức xúc xen lẫn tuyệt vọng. “Một núi án mạng không bao giờ khám phá ra được. Nửa đêm chúng bắt ta thức giấc rồi tiếp tục suy nghĩ…”

    Na Lan không biết nên an ủi người cảnh sát già như thế nào, chỉ khe khẽ nói, “Chú đã làm hết sức rồi…”

    “Cháu thử nói xem, những người bình thường như chúng ta, cả đời liệu làm được mấy việc lớn, việc có ý nghĩa, đáng để con cháu mình và lớp người sau cảm thấy tự hào?”

    “Đừng nói là mấy việc, ngay cả một việc cũng rất khó làm rồi.”

    “Chứ còn gì!” Trần Ngọc Đống đi đi lại lại trong khoảng trống chật hẹp của căn hộ. “Tôi không lập gia đình, không con cháu, chẳng hám để lại tiếng thơm, nhưng nghĩ đời người mấy chục năm ngắn ngủi, ít ra ta cũng nên làm được một số việc có tính thách thức và ý nghĩa một chút. Tôi là anh công an đã từng phá các vụ án lớn nhỏ, đã hết sức phục vụ nhân dân, chết cũng không có gì ân hận. Nhưng vụ án ‘ngón tay khăn máu’ này khiến tôi buồn nhất, già nửa đời người không lần ra manh mối! Hễ nghĩ đến hung thủ vẫn đang nhởn nhơ bên ngoài tự do hít thở như mọi người, thì tôi lại… cháu biết không… tôi lại có ham muốn mãnh liệt là muốn tóm cổ hắn đưa ra trước pháp luật. Cùng với thời gian, ham muốn ấy càng mạnh thêm. Cháu học về tâm lý, chắc hiểu được tâm trạng ấy của tôi?”

    Na Lan cười nói, “Không cần học tâm lý cũng có thể hiểu được. Cuốn sách sự nghiệp công an của chú gắn liền với vụ án ‘ngón tay khăn máu’, đến khi về hưu vẫn viết là ‘hãy đón đọc, còn nữa’. Nếu là người đã dứt đường tơ chẳng bận tâm nữa thì sẽ nghỉ ngơi khỏi mệt óc. Chú không phải con người như thế cho nên chú không thể mặc kệ. Cháu rất hiểu.”

    Trần Ngọc Đống gật đầu, “Được! Coi như chúng ta đã gạt bỏ trở ngại đầu tiên. Cháu đã hiểu tại sao tôi về hưu nhưng vẫn tham dự vào, đỡ công tôi phải thanh minh giải thích. Mong cháu thông cảm cho.”

    “Vâng. Chú đã có ba mươi năm kinh nghiệm nghiên cứu về vụ án này và hung thủ, chính chú đã là một kho báu rất phong phú.”

    Trần Ngọc Đống “hừ “một tiếng, không rõ có phải ông bất mãn với ai đó không. “Ba mươi năm, đúng thế. Nhưng ai mà chẳng có lúc đã phí hoài thời gian. Suốt ngần ấy năm chúng tôi toàn đi đường vòng, nếu không đã chẳng thành ra như thế. Thoạt đầu không có manh mối gì hết, lý luận không chỉ đạo được gì, chủ yếu là nghĩ đến đâu thì làm đến đó. Chúng tôi chưa từng gặp vụ nào vừa quái dị vừa kín kẽ như ‘ngón tay khăn máu’, cả tổ chuyên án đều như lần mò đi trong đêm. Có phát động quần chúng hẳn hoi, họ báo cho biết rất nhiều manh mối nhưng đều chẳng đâu vào đâu, thế là tinh lực của cả tổ bị phân tán. Về sau chúng tôi dần thay đổi sách lược, bắt đầu thu hẹp diện tình nghi và tổ chức giám sát một số người, rồi La Cường sa lưới.” Trần Ngọc Đống tiếp tục đi đi lại lại. “Thực tế chứng minh chúng tôi vẫn ở thế hạ phong, thậm chí ngờ rằng ngay từ khi hung thủ lựa chọn mục tiêu sát hại thì hắn đã an bài để chúng tôi dồn sự chú ý vào La Cường. La Cường chết rồi mà vụ án ‘ngón tay khăn máu’ vẫn xảy ra, làm tôi bàng hoàng, hung thủ thật tinh khôn! Bấy giờ tôi rất muốn biết về tên cao thủ súc sinh ấy, đầu óc tôi toàn miên man, hắn là ai, là kẻ như thế nào?” Trần Ngọc Đống đứng lại, nhìn Na Lan.

    Na Lan thấu hiểu trạng thái chuyên tâm ấy, cũng giống như cô “say” Mễ Trị Văn hiện giờ.

    Vẻ mặt Trần Ngọc Đống thể hiện rõ “Tôi biết cô đã đoán ra” đoạn nói tiếp, “Tôi bắt đầu đọc rất nhiều sách về tâm lý học tội phạm. Trình độ văn hóa của tôi vốn thấp, có nhiều nội dung khó, nhưng cố gắng miệt mài rồi cũng hiểu ra, muốn đi sâu tìm hiểu về hung thủ này, cách tốt nhất là ‘Suy diễn tâm lý học tội phạm’, điều này tôi không múa rìu qua mắt thợ nữa, chắc cháu hiểu hơn tôi nhiều. Có điều, hiện nay cháu bị đưa vào một tình thế kỳ lạ. Đối tượng của ‘Suy diễn tâm lý học tội phạm’ thường là chưa biết, nó trợ giúp cho công tác phá án, còn cháu đang đối diện với Mễ Trị Văn người thật việc thật với tính cách và các vụ án lão đã gây ra. Cho nên cháu không nghĩ đến ‘Suy diễn tâm lý học tội phạm’ cũng là điều bình thường thôi.”

    Na Lan biết, Suy diễn tâm lý học tội phạm là nòng cốt của Tâm lý học tội phạm, là một kỹ thuật hỗ trợ trinh sát hình sự tuy còn phải tranh luận thêm nhưng vẫn đang được áp dụng rộng rãi ở một số nước phương Tây, nhất là đối với dạng vụ án hàng loạt. Chuyên gia tâm lý có trình độ sẽ căn cứ vào hành vi gây án hàng loạt và một số ít manh mối, dùng kiến thức tâm lý học để suy đoán về con người, quá khứ và động cơ gây án. Kết quả suy luận sẽ giống như một bức tranh lập thể về hung thủ, phác họa về giới tính, tuổi tác, tầng lớp xã hội, hoàn cảnh sinh trưởng, từ đây thu hẹp diện tình nghi trong đám đông tội phạm. Sau đó, nhờ may mắn cộng với nỗ lực, có khả năng bắt đúng hung thủ.

    Trở thành một chuyên gia về Suy diễn tâm lý học tội phạm, hoặc gọi là họa sĩ tâm lý học tội phạm vẫn là niềm mơ ước nghề nghiệp của Na Lan!

    “Chú ạ, đúng là cháu đã quên mất việc tận dụng Suy diễn tâm lý học để hiểu vụ án này.” Na Lan thừa nhận, và cô tự hỏi tại sao mình lại quên nhỉ?

    “Cũng nên thấy rằng không thể trách gì cháu. Ngay từ đầu cháu đã bị cuốn vào vụ án từa tựa trò chơi này, đố chữ, tìm hài cốt, điều tra về xuất thân… nên rất dễ bỏ qua mục đích thực sự của Mễ Trị Văn khi yêu cầu gặp cháu.”

    Na Lan chưa hiểu. “Mục đích thật sự?”

    “Tôi có cảm giác trò chơi của lão dành cho cháu không phải là đố chữ hay tìm hài cốt, mà là trò chơi tâm lý, trò chơi giữa tìm hiểu và bị tìm hiệu, giữa thao túng và bị thao túng.”

    Na Lan đã hiểu ra, “Chú giữ thể diện cho cháu rồi, vì đã không chế nhạo ‘thảo nào mà cô luôn ở thế hạ phong’.”

    “Không đến nỗi là thế hạ phong. Mai kia nhìn lại sẽ thấy đây chỉ là một quá trình.”

    “Quá trình này suýt nữa biến thành chung kết. Nếu chú không kịp thời đến cứu thì cháu không thể tiếp tục chơi trò chơi tâm lý với Mễ Trị Văn nữa! Nhưng hiện giờ cháu càng cảm thấy mờ mịt, dù vận dụng Suy diễn tâm lý học để phân tích Mễ Trị Văn thì hình như vẫn không thể giải quyết được vấn đề then chốt, lão có phải hung thủ các vụ án ‘ngón tay khăn máu’ không? Hoặc, phải làm gì thì mới thông qua lão để tìm ra hung thủ?”

    Trần Ngọc Đống giơ hai bàn tay lên cao. Na Lan hiểu, chỉ còn cách thử phác họa nguyên hình của Mễ Trị Văn thì mới có được câu trả lời. Trần Ngọc Đống nghĩ ngợi rồi lại nói, “Có phải hung thủ không? Ta nên hiểu rằng Suy diễn tâm lý học tội phạm hiệu quả đến đâu đi nữa cũng chỉ có giá trị gợi ý hoặc đưa ra phương hướng cho trinh sát hình sự chứ không thể phán đoán kết luận. Từ khi nghiên cứu môn học này, tôi từng thỉnh giáo các chuyên gia trong nước, chuyên gia Mỹ, cháu đoán xem họ nói gì? Sau khi suy diễn xong, hầu như ai cũng xác định là La Cường!”

    Na Lan hết sức ngạc nhiên, nhưng nghĩ kỹ thì thấy không phải là không có lý. Kết quả Suy diễn tâm lý học tội phạm phác họa ra hung thủ, có thể phù hợp với nhiều đối tượng. “Tức là, chứng minh rằng không phải các chú ngẫu nhiên bắt La Cường, và càng không phải là bắt nhầm?”

    Trần Ngọc Đống thở dài, “Nhầm vẫn là nhầm. Tên La Cường đã gây nhiều tội ác, số nó đen nên gặp phải tôi bắt nhầm, lại đúng vào năm có chiến dịch ra quân càn quét tội phạm, nên bị tuyên tử hình nhanh chóng rồi thi hành án ngay, không có cơ hội phúc thẩm hoặc kháng cáo nữa. Nếu nói đời tôi có điều gì khiến tôi chết không thể nhắm mắt thì chính là trường hợp ấy.”

    Na Lan an ủi, “Chú đừng nói thế, chú tự làm khó cho mình nhiều quá.” Bỗng cảm thấy bức bối, cô đứng lên, “Mai kia cháu lại xin chú chỉ bảo cho, đặc biệt là cháu muốn xem chú và các chuyên gia đã suy diễn những gì về vụ ‘ngón tay khăn máu’.”

    “Được! Trước hết tôi cho cháu biết một nhận định chung của tất cả các chuyên gia.” Trần Ngọc Đống tiễn Na Lan ra, tay ông đặt lên khung cửa. Lúc này cô mới chú ý thấy lưng ông còng, trông già nua hơn nhiều so với tuổi của mình. “Tất cả các chuyên gia đều nhận định rằng, tên hung thủ này chưa gây án đến mức dữ dội kinh khủng thì còn chưa chịu dừng tay. Vụ án ‘ngón tay khăn máu’ sẽ còn tiếp tục.”

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tơ đồng rỏ máu


    phan 13

    Chương 20: Nói đúng tim đen

    Phải chờ mất hai hôm, cuối ngày làm việc, Kim Thạc mới cho phép Na Lan vào gặp Mễ Trị Văn.

    Vẫn như trước, lão nằm trên giường, mặt xám như tro, hai mắt nhắm nghiền, nghe tiếng động cũng chẳng buồn hé mắt. Na Lan đứng bên đầu giường lão một lúc, không biết nên đánh thức bằng cách nào, cho cái bạt tai hay là rút ống truyền dịch ra?

    “Bị ăn quả đắng nên tìm đến tôi xả giận hả?” Mễ Trị Văn chủ động mở miệng.

    Na Lan kinh ngạc, “Ai nói là tôi ăn quả đắng? Đồng bọn của ông chứ gì? Tại sao hắn không chôn sống tôi luôn để khỏi có người chạy đến trút giận lên ông?”

    Lão ho rũ rượi một hồi. “Cô có nghĩ rằng nếu Thương Hiệt có chiến hữu thì sẽ rối loạn không? Người muốn tạo chữ vuông, người muốn tạo chữ tròn, người khác lại thích chữ ngang bằng sổ thẳng, người nữa lại thích chữ ABC… thế hệ sau sẽ khổ lắm! Cô bị ăn quả đắng là tất nhiên, sau cuộc điện thoại lần trước tôi biết ngay cô đã lầm đường lạc lối, cô tò mò không hiểu tại sao nhân vật tập hợp trí tuệ của thiên hạ như Thương Hiệt bỗng chốc lại biến thành lão già lưu manh bỡn cợt các cô gái? Chắc chắn cô sẽ cố gắng tìm hiểu mọi mặt về tôi, sẽ đến dốc Mễ Lung, đến thôn Mễ Gia… Đó đâu phải là những bí mật ghê gớm? Điều tra suy đoán là ra ngay. Cô rất có đầu óc, rồi sẽ tìm được cả nhà cũ của tôi, cũng như… các nốt nhạc cổ mà tôi để lại… Ôi mệt quá, các chuyện tiếp theo…” Lão mở mắt, cựa quậy. “Cô biết rồi đấy.”

    Na Lan cảm thấy kinh hãi. Không phải vì giọng lưỡi ghê tởm mà vì các toan tính của lão già. Hình như từ nhiều năm trước lão đã biết chắc sẽ có người điều tra về thân thế lão, nên đã sớm để lại chỉ dẫn và giăng bẫy.

    “Đã khiến ông thất vọng rồi, vì tôi không bị vùi trong cái huyệt ông đào.”

    “Bị vùi sao được?” Lão lại ho dữ dội. “Mất em, anh được cả thế giới, để làm gì? Em bị vùi sâu thì ai sẽ cùng anh sống nốt kiếp sống thừa?” Chà! Lão Thương Hiệt còn nhớ cả câu hát từ đời nảo đời nào!

    Na Lan nói, “Cảm ơn ông đã sắp đặt cho tôi thăm viếng thánh địa thơ ấu, biết được ông có sở thích giết hại động vật. Đó là tâm ý của ông đúng không? Thậm chỉ còn để lại một sợi dây đàn, hình như để nhắc chúng tôi dây đàn có thể thít đứt ngón tay, nhằm chứng minh khả năng tàn độc của ông hay là nhằm bao che cho tên hung thủ của vụ án ‘ngón tay khăn máu’?”

    Mễ Trị Văn nhắm mắt, im lặng.

    Na Lan mỉm cười, dịu giọng, “Ông biết tôi có cảm giác gì không? Cảm giác rằng câu ông thừa nhận vào lần đầu chúng ta gặp nhau là không sai. Thực ra ông chẳng khác gì phần đông mọi người, hành vi của ông hiện nay chỉ là sự nối dài hành vi hồi nhỏ. Lúc qua đêm trong cái hố ông đào, tôi bỗng cảm thấy mình gần với tuổi thơ của ông hơn bao giờ hết.” Sau cuộc trao đổi với Trần Ngọc Đống, Na Lan rất ấn tượng với Suy diễn tâm lý học tội phạm, nên bắt đầu sơ bộ miêu tả Mễ Trị Văn, mỗi câu nói ra đều đã được suy tính kỹ và thêm thắt đôi chút. Đã là trò chơi tâm lý thì cô phải chơi cho hết mình.

    “Hồi nhỏ, ông có cá tính lập dị khác người, không có bạn bè, đúng không? Ông không cần trả lời vì tôi biết đáp án là khẳng định. Một đứa trẻ cởi mở, đông bạn bè, sẽ không trốn ra khỏi nhà lúc nửa đêm, tìm đến nơi hoang vắng đào hố làm vui. Hầu hết trẻ em không lập dị bẩm sinh, mà là do ảnh hưởng của môi trường sống sau này. Hồi nhỏ ông đã bị sốc bởi chuyện gì? Vì thân thể còm nhom rúm ró, gia cảnh tầm tầm nên bị chúng bạn bắt nạt hạ nhục? Hay là vì hoàn cảnh gia đình tồi tệ, thường bị cha mẹ đánh mắng? Cũng có thể là do tất cả các yếu tố trên cộng lại. Nhưng xét cái chuyện ông dám khoét tường, thì tôi cho rằng gia đình ông có vấn đề. Hành vi thì lén lút nhưng nó công khai phản ánh ông rất muốn bỏ nhà ra đi, song ông không thể làm thế được vì bị ràng buộc về tình cảm và nhu cầu thực tế. Ông đành khoét tường nhà để đêm khuya chạy đến cái nơi kín đáo của riêng mình, nơi cho ông cảm giác an toàn và sung sướng mà ông vẫn mong có được.”

    Na Lan dừng lại, cố ý dành cho Mễ Trị Văn cơ hội ngắt lời. Những lão vẫn như ngủ say, nằm yên không động đậy.

    Cô tiếp tục, “Đào hố chẳng có gì là quái dị, hầu như đứa trẻ nào cũng thích đào hố để chơi, nhưng đào cái hố sâu 5-6 mét thì xưa nay ít thấy, lại ngồi dưới đáy phanh thây bẻ chân những con vật nhỏ thì càng không có. Trốn vào hố sâu tách biệt, ông tìm thấy cảm giác an toàn, thứ thiếu hụt ở thế giới bên ngoài. Không hiếm trẻ con bẩm sinh thích ngược đãi động vật, nhưng tôi cho rằng ông không thuộc loại đó, ông không nuôi dã tâm tàn độc, ông phanh thây động vật chỉ nhằm giải tỏa sự bất mãn đối với thế giới ngoài hố. Thế giới bên ngoài, con người xung quanh, họ đã làm gì? Chắc chỉ bạo lực và tàn nhẫn mới khiến ông phát sinh hành vi xả giận theo kiểu bạo lực và tàn nhẫn…”

    “Đủ rồi đấy!” Mễ Trị Văn bỗng ngồi bật dậy, hai mắt đỏ quạch như lửa, máu và ma quỷ đang bao quanh, lão vung đôi tay gầy nhẳng ra bóp cổ Na Lan.

    Biết lời mình nói sẽ khiến lão già nổi giận nên Na Lan đã chuẩn bị tư tưởng, chỉ không ngờ lão tấn công nhanh thế này. Hai bàn tay khô đét nhưng đầy sức mạnh, Na Lan cảm thấy khí quản sắp bị bóp vỡ, cô nghẹt thở, đưa tay lên gỡ nhưng chỉ tóm được đôi càng cua cứng như sắt đang hăng máu.

    Cô muốn hét lên kêu cứu, nhưng cổ họng bị bóp chặt không thể phát ra tiếng.

    Phải tự cứu! Mình nên làm gì đây?

    Sờ được cái ví đầm đặt trên mặt tủ đầu giường, cô run run kéo phéc mơ tuya và lấy được con dao nhỏ vẫn mang theo.

    Ngoài cửa vang lên những tiếng bước chân.

    Mễ Trị Văn bỗng bỏ tay ra.

    Kim Thạc và hai cảnh sát nữa bước vào, nhìn thấy Na Lan tay cầm dao nhỏ đứng bên giường lão già không còn sinh khí!

    “Na Lan!” Kim Thạc sợ quá kêu lên.

    Na Lan đã hơi định thần, cổ họng vẫn rát như bị lửa đốt, cô định nói “Lão tấn công tôi, hãy gọi kỹ thuật viên đến khám nghiệm vết thương và vân tay trên cổ tôi…” nhưng không, cô lại quay sang hỏi Mễ Trị Văn đang nằm, “Đây cũng là một phần trong trò chơi của ông phải không?” Cô bỗng có cảm giác đáng buồn về “thành công”, phân tích của cô chạm đến chỗ nhạy cảm của lão, kích thích lão nảy sinh phản ứng quá khích.

    Hương vị của trả thù quả không hề ngọt ngào.

    Mễ Trị Văn bỗng phun ra một tràng cười hé hé hé rất quái dị, rồi thâm thúy nói, “Cô gái tự cho mình là thông minh, tôi chúc mừng cô, cô đã tiến đến gần tôi hơn nhưng vẫn cách quá xa sự thật.”

    “Tôi vẫn tưởng ông đang cho chúng tôi biết sự thật…”

    “Tôi cho cô biết toàn là sự thật nhưng cô không hề coi trọng, cô lãng phí thời gian để đuổi theo những cái bóng. Sự thật nằm trong con chữ trời ban cho của tôi, cô đã giải mã đến đâu rồi? Cô như con khỉ con trong truyện ngụ ngôn, nhìn thấy quả đào thì vứt bắp ngô đang cầm, nhìn thấy dưa hấu thì vứt quả đào đi, cuối cùng thì vứt dưa hấu để đuổi theo con thỏ không bao giờ đuổi được! Có vẻ như cô muốn đứng nhìn vụ ‘ngón tay khăn máu’ tiếp tục xảy ra? Mau mau giải cái chữ ấy đi, may ra còn kịp!” Giọng lão uốn éo như rắn bò, len lỏi khắp khu buồng bệnh trong buổi tối yên tĩnh.

    Có một người mặc áo blu trắng tự may theo kiểu của bệnh viện Phổ Nhân, ung dung ra vào khu buồng bệnh. Trong nhà vệ sinh chung có treo tấm gương, một mình người ấy đang tự đắc đứng trước gương, bất cứ ai nhìn thấy đều không mảy may nghi ngờ đây không phải là thầy thuốc. Ta phải thể hiện được vị trí của ta, vì những ngày gần đây Na Lan thường xuất hiện ở khu này và liên tiếp viếng thăm lão già biến thái đang ốm sắp chết đến nơi.

    Lẽ nào trên đời này còn có kẻ biến thái hơn “thánh” biến thái ta đây?

    Người ấy soi gương và mỉm cười, trông dáng vẻ này làm sao gọi là biến thái được chứ? Ta quan tâm đến Na Lan là vì tình cảm, không chỉ có thể, ta là người “nhìn” cô ta lớn lên, chứ đâu có như Mễ Trị Văn và mấy thằng nhãi con cô ta chẳng may gặp phải vài năm qua, chúng ở đâu ló mặt ra và còn giả bộ chín chắn lõi đời lắm!

    Rời khỏi nhà vệ sinh, đi đến trước cửa buồng bệnh nhân nặng, đúng lúc nghe thấy giọng nói rin rít ghê rợn của Mễ Trị Văn, “Mau mau giải cái chữ ấy đi, may ra còn kịp!”

    Lão già đang chơi cái trò gì thế? Lão lừa Na Lan vào cái hố ma quỷ ấy vẫn chưa đủ hay sao?

    Người ấy tận mắt nhìn thấy Na Lan rơi xuống hố sâu, do dự xem có nên cứu cô lên không, nhưng cuối cùng đưa ra quyết định thỏa đáng và sáng suốt là khoanh tay đứng nhìn. Cứ để cô ta rèn luyện thêm thì hơn. Con người không ăn uống hai ba ngày vẫn ổn, lo gì!

    Cho đến nay người ấy vẫn chưa đoán ra tại sao Mễ Trị Văn cứ bám riết Na Lan. Tất nhiên Na Lan đã vô tình đụng đến nhiều chuyện rắc rối, những kẻ tiếp cận cô là vì tình yêu, vì nhan sắc hoặc vì lai lịch của cô. Người ấy đã điều tra để thấy rằng Mễ Trị Văn và Na Lan không có quan hệ gì hết, cho nên lại càng nghi ngờ.

    Na Lan và ba cảnh sát cùng bước ra, người ấy tránh mặt, đứng nhìn theo bọn họ đi vào thang máy.

    Kim Thạc đề nghị dùng xe cảnh sát chở Na Lan về trường, nhưng cô từ chối, nói là từ bệnh viện về ký túc xá không xa, cô đi xe buýt là được. Thực ra cô sợ xe cảnh sát chở cô về trường sẽ lại gây ra bàn tán xôn xao, nếu ai đó quay clip tung lên mạng thì gay, và cũng vì cô sợ ngồi bên Kim Thạc nữa.

    Nhưng cô vẫn không thể thoát kiếp ngồi bên anh ta.

    Kim Thạc nói, “Không đưa về trường cũng được. Nhưng tôi có vài câu muốn nói với Na Lan.” Anh ra hiệu cho hai cảnh sát kia rút lui. “Ban nãy chúng tôi nhìn thấy cô cầm dao.”

    Na Lan nói, “Đang nói chuyện, lão bất ngờ bóp cổ tôi, anh có thể thấy vết tay vẫn còn trên cổ đây này.”

    “Tôi đã nghe băng ghi âm lần đầu cô nói chuyện với lão, lão đã nói toạc ra ý nghĩ của cô?”

    “Ý nghĩ gì?” Na Lan vờ như không hiểu.

    “Muốn rút ống truyền dịch hoặc ống thở ô xi.”

    Na Lan định nói, tại sao anh phải giả bộ như thế? Anh thừa biết dù tôi rút mấy cái ống đó ra thật thì lão cũng không thể chết ngay. Cô lắc đầu, “Anh cũng bắt đầu tin lão hay sao?”

    Giọng Kim Thạc dịu xuống, “Tất nhiên là không. Tôi chỉ cảm thấy… cô liên tiếp gặp nguy hiểm… thì nên nghỉ ngơi thực sự đi!

    “Được, bây giờ tôi về đi nghỉ.” Cô quay người bước đi.

    Na Lan tiến về phía nhà ga, đầu óc vẫn nghĩ ngợi, tiếp tục suy diễn tâm lý Mễ Trị Văn. Lão luôn thâm thúy, mưu trí và trấn tĩnh, tại sao hôm nay lão lại nổi khùng với mình? Lão muốn làm cho mình phải chú ý đến lão kia mà, tại sao khi nói đến điểm hệ trọng thì lão lại mất kiểm soát? Có phải điều trái ngược này thể hiện mâu thuẫn giữa tính cách và tâm lý của lão không? Lão muốn được giải thoát khỏi tội lỗi nhưng lại không đủ can đảm đối diện với sự tàn ác của mình, nên tung ra đủ thứ thông tin khiến cô phải đi đường vòng để từ từ phát hiện ra nguồn gốc tội lỗi của lão, rồi trở thành người phát ngôn cho lão? Nếu thế thì… đúng là lão đã gây ra các vụ án “ngón tay khăn máu” chứ gì?

    Hay là, lão nổi khùng chỉ vì cô nhắc đến thời niên thiếu, đến bóng đen của hoàn cảnh gia đình luôn ám ảnh lão?

    Bóng đen? Na Lan chợt linh cảm có một bóng đen thực sự đang bám theo cô từ một cự li vừa phải.

    Có lẽ vì hai năm qua phải trải qua quá nhiều nguy hiểm, có lẽ vì những sự kiện trong quá khứ không ngừng gõ vào dây thần kinh nhạy cảm trước sợ hãi, giác quan thứ sáu lặng lẽ nhắc nhở rằng có người đã bám theo từ lúc cô rời khỏi khu buồng bệnh rồi đi ra nhà ga.

    Cô dừng lại, lấy di động ra giả vờ loay hoay, mắt liếc trở lại. Một bóng người gầy nhỏ đang đứng dưới bóng cây xa xa. Không thể nhìn rõ mặt hoặc quần áo người ấy. Cô định quay từ từ trở lại, buộc người ấy phải ló mặt ra chỗ sáng, chí ít cũng nhìn được đại khái xem người ấy thế nào.

    Nhưng đúng lúc ấy di động réo vang. Đổng Bội Luân gọi.

    “Nghe nói em gặp bất trắc, vẫn ổn chứ?”

    Chu Trường Lộ biết Na Lan gặp nguy hiểm, chắc chắn là ông đã cho Đổng Bội Luân biết tin.

    “Vẫn ổn ạ, em cảm ơn cô quan tâm.”

    “Người không sao thì tôi yên tâm rồi. Giám đốc Chu nói ông ta trực tiếp khám cho em. Tôi chỉ lo em quá khiếp hãi.”

    Na Lan ngẩng nhìn bóng đen ở chỗ xa xa. Khỉ thật, không thấy người ấy đâu nữa!

    “Cũng không phải lần đầu em gặp nguy hiểm. Em đã quen rồi.” Cô nhớ đến hậu quả của lần gặp hiểm nguy trên núi tuyết cách đây một năm, suýt nữa phải đi viện tâm thần.

    “Tổ chức của chúng tôi có một hoạt động, em tham gia được không?” Đổng Bội Luân và Chu Trường Lộ thành lập một đoàn thể là Tiếng Lòng, chuyên giúp đỡ những phụ nữ nạn nhân của bạo lực.

    “Được ạ! Lần trước giám đốc Chu đã nhắc, em vẫn mong được tham gia một lần. Cô cứ cho em biết địa điểm và thời gian cụ thể đi!”

    “Ngay bây giờ, ở nghĩa trang Vạn Quốc.”

    Chương 21: Nhà họ Mễ

    Sau ngày tìm ra hài cốt của Nghê Phượng Anh, chưa quyết định được địa điểm an táng thì vợ chồng Nghê Bồi Trung đã đột ngột ra đi. Tin tức về việc tìm ra hài cốt Nghê Phượng Anh tuy được giữ kín, ngay tờ Tin chiều Tân Giang cũng chỉ lượm được chút ít thông tin, nhưng Đổng Bội Luân vẫn biết, vì từng bị Mễ Trị Văn làm hại nên chị rất quan tâm đến vụ án “ngón tay khăn máu”, gần như đọc hết các tư liệu bài viết về loạt vụ án này. Ba mươi năm trước rất ít người đổi họ tên đương sự khi viết bài đưa tin về trị an, cho nên sau khi xảy ra thảm án về vợ chồng Nghê Bồi Trung chị liền nghĩ ngay đến Nghê Phượng Anh. Cảnh sát có thể bảo mật tin tức nhưng dân gian thì không như thế. Đổng Bội Luân chẳng mất nhiều công sức đã tìm gặp được hai người con trai của vợ chồng Nghê Bồi Trung khi họ đến lo liệu đám tang, và nghe được tin động trời rằng đã tìm thấy hài cốt Nghê Phượng Anh!

    Trong nghĩa trang Vạn Quốc, Đổng Bội Luân khẽ giải thích với Na Lan, “Đoàn thể Tiếng Lòng đứng ra trang trải toàn bộ phí tổn an táng, chúng tôi cũng đã hứa với cảnh sát và họ hàng nhà họ Nghê là sẽ giữ kín danh phận của Nghê Phượng Anh. Trước khi tìm ra hung thủ, bia mộ của cô ấy cứ đề là vô danh, và né tránh giới truyền thông. Hứa như thế thật không dễ, vì đoàn thể mới thành lập, chúng tôi rất cần quảng bá mọi hoạt động, cần giới truyền thông mở rộng tầm ảnh hưởng và tiếng nói của mình.”

    Na Lan khâm phục bản lĩnh của Đổng Bội Luân và Chu Trường Lộ. Nghĩa trang Vạn Quốc thường đóng cửa lúc 6 giờ chiều, tối nay họ đặc cách dành thêm chút thời gian cho Tiếng Lòng.

    Cô hỏi, “Đã tổ chức lễ truy điệu cho Nghê Phượng Anh, sao còn phải giữ bí mật về danh phận cô ấy?”

    Đổng Bội Luân úp mở, “Ngoài khắc bia vô danh ra, lát nữa ông Chu phát biểu… thì em sẽ biết.”

    Na Lan nhìn quanh một lượt, hơn một trăm thành viên của Tiếng Lòng toàn là phụ nữ, chỉ có Chu Trường Lộ, Trần Ngọc Đống là hai nam giới. Na Lan thấy bất ngờ vì sự có mặt của Trần Ngọc Đống. Về sau cô mới biết là do Chu Trường Lộ mời. Có thể nói Trần Ngọc Đống, Đổng Bội Luân và Chu Trường Lộ là người quen cũ, khi xưa Mễ Trị Văn xâm hại Đổng Bội Luân rồi bị bắt, lão lập tức bị thẩm vấn coi như nghi phạm của vụ án “ngón tay khăn máu” thì Trần Ngọc Đống cũng tham gia điều tra, đã gặp nói chuyện với Đổng Bội Luân một số lần. Hồi đó Chu Trường Lộ phụ trách điều trị cho Đổng Bội Luân, cũng từng tiếp xúc với Trần Ngọc Đống. Về sau chính Trần Ngọc Đống lại hỗ trợ Đổng Bội Luân tìm hiểu vụ án “ngón tay khăn máu”. Cách đây mấy hôm Na Lan gặp nạn, Trần Ngọc Đống xuất hiện ở phòng cấp cứu cũng gặp Chu Trường Lộ.

    Các vụ án bạo lực làm cho xã hội thu gọn lại.

    Tay mọi người đều cầm cốc thủy tinh bên trong đặt một cây nến, những ngọn lửa nhỏ vàng hoe chập chờn lay động. Có tiếng nói, “Quý vị yên lặng! Giám đốc Chu sẽ phát biểu về hoạt động hôm nay.”

    Chu Trường Lộ nói, “Tối nay chúng ta có mặt ở đây vì một nạn nhân và cũng vì cả chúng ta, những người may mắn còn sống. Tôi sẽ không nói nhiều, không dài dòng chỉ xin mở đầu vài câu, mong quý vị sẽ phát biểu cởi mở nỗi lòng và những cảm nhận của mình.” Giọng ông không vang nhưng thu hút được sự chú ý của đám đông. “Cô gái nằm dưới tấm bia này, ngày trước cũng như rất nhiều người chúng ta, đã từng bị ngược đãi tàn nhẫn, rồi lại bị giết hại một cách dã man. Cuộc sống và cái chết của cô đều phản ánh một khía cạnh hết sức xấu xa của nhân tính, thấp kém hơn cả động vật. Khi còn sống và khi chết, cô đều là một nạn nhân.”

    Na Lan bỗng cảm thấy bất an, tại sao Tiếng Lòng lại biết Nghê Phượng Anh khi còn sống cũng là một nạn nhân của bạo lực gia đình?

    Hình như đoán ra sự nghi hoặc của Na Lan, Đổng Bội Luân khẽ bấm vào tay cô rồi trỏ một bóng người đứng xa xa trong ánh sáng của những ngọn nến.

    Mạc Lễ Nhã!

    Chu Trường Lộ nói tiếp, “Chúng ta ít nhiều cũng từng là người bị hại. Chị gái tôi là một phụ nữ luôn có nụ cười tươi vui, rồi đi lấy chồng – một kẻ luôn thượng cẳng chân hạ cẳng tay với vợ bất cứ lúc nào, chị ấy nhẫn nhịn. Cho rằng anh ta thô bạo chỉ là tạm thời mất kiểm soát, rồi anh ta sẽ khá lên. Khi tôi hỏi chị về các vết thương khắp người, chị chỉ lắc đầu nói là mình lỡ bị va đập. Chị tôi nhẫn nhịn một, hai, ba năm… cuối cùng chị tôi biến mất, người chồng cũng biến mất. Khi chị biến mất, và không bao giờ tôi được gặp chị nữa, tôi mới được hàng xóm của chị cho biết, chị thường xuyên bị đánh đập, trước khi mất tích, hai vợ chồng có lớn tiếng cãi cọ tranh chấp, nhưng quen nghe tiếng khóc lóc của chị nên chẳng ai lấy làm lạ nữa.” Chu Trường Lộ nghẹn ngào. “Khắp nhà bê bết máu chị tôi, cảnh sát lập tức ra lệnh truy nã nghi phạm chính, là chồng chị, nhưng bao năm nay không tìm thấy hắn. Xác chị tôi vẫn bặt tăm.” Chu Tưởng Lộ nói trong tiếng khóc nấc cố nén. Na Lan nhận ra ông không hề dùng từ “anh rể tôi” để gọi người chồng của chị mình – kẻ đã giết chị.

    “Người nằm dưới bia mộ này hôm nay là một cô gái chúng ta không hề quen biết, cô ấy mất tích ngay trước mắt bạn bè người thân, rồi nhiều năm sau mới tìm thấy hài cốt. Chúng ta không biết chi tiết vụ việc nhưng có thể khẳng định một điều, cô ấy bị giết hại rất tàn khốc. Hài cốt cô ấy xuất hiện, nhắc nhở chúng ta rằng bạo lực đối với phụ nữ xảy ra hết năm này sang năm khác, bạo lực gia đình, bạo lực tình dục, gây thương tích, sát hại… vẫn ngang nhiên tồn tại trong thời đại gọi là văn minh tiến hóa của chúng ta. Hình như hài cốt của cô ấy đang hỏi chúng ta câu này, đối mặt với bạo lực không ngớt như thế, phụ nữ chúng ta nên làm gì? Tiếp tục im lặng ráng chịu, dung túng cho cái ác hay là phải tranh đấu? Bao năm qua tôi thường nghĩ, dù tôi gắng làm một bác sĩ tài giỏi, làm việc quên mình thì cũng không thể chữa trị tất cả thương tổn cho mọi người bị hại. Chỉ có phụ nữ tự đứng lên liên kết hỗ trợ động viên nhau thì mới có cơ hội chống lại những thế lực tàn bạo đè nén phụ nữ. Chị tôi bị hại đến giờ vẫn chưa tìm thấy xác, hồi đó nhà chúng tôi nghèo nên chỉ có thể làm theo tập quán của dân thôn núi Huệ Sơn, đắp một nấm mồ tượng trưng chôn vài thứ mũ áo của chị trong một cái hang trên núi. Chúng ta có thể hình dung còn vô số phụ nữ bị hại, câu chuyện về họ bị chìm trong lịch sử và biến động xã hội, bị cuộc sống vất vả bận rộn lãng quên. Hôm nay chúng ta làm lễ truy điệu cô gái này, cũng nhằm nói với toàn xã hội rằng chúng ta quyết không khuất phục trước cái ác, chúng ta như một gia đình cùng chia sẻ nỗi đắng cay đau khổ của nạn nhân. Nhất định sẽ có ngày sức mạnh của tiếng nói và tình đoàn kết một lòng của chúng ta sẽ đè bẹp mọi tội ác.”

    Không vỗ tay, vỗ tay lúc này là thừa và giả tạo. Chỉ có tiếng khóc thút thít, và gật đầu tin tưởng.

    Một số phụ nữ lần lượt phát biểu. Nỗi bi phẫn lan tỏa trong khu nghĩa trang dưới màn đêm.

    Kết thúc nghi lễ, Na Lan nói với ông Chu Trường Lộ, “Cháu đã hiểu tại sao chú với cô Đổng Bội Luân lại cùng bảo lãnh cho Mễ Trị Văn được ra ngoài điều trị.”

    Ông nhìn sang Đổng Bội Luân, nói, “Từ lâu tôi có nghe nói cháu rất tinh ý thấu hiểu lòng người.”

    “Đâu có? Nghe chú phát biểu cháu mới hiểu ra, chú cũng như cô Đổng Bội Luân đều đoán rằng Mễ Trị Văn có thể liên quan đến vụ án ‘ngón tay khăn máu’, và muốn thông qua lão để tìm ra sự thật đằng sau việc các cô gái mất tích hoặc bị hại.”

    Chu Trường Lộ gật đầu, “Cháu đoán đúng. Tôi nói thật, khi nghe nói thông qua Mễ Trị Văn mà tìm ra được xác nạn nhân vụ án ‘ngón tay khăn máu’, người tôi bủn rủn kinh hãi.”

    Na Lan hiểu cả, cô cũng gật đầu.

    Chu Trường Lộ tiếp tục, “Các chuyện khác tôi không có quyền phát ngôn, nhưng tôi biết tình trạng của Mễ Trị Văn… Có thể là vài tháng, thậm chí chỉ vài tuần nữa thì lão phải xuống địa ngục trình diện. Về lịch sử phạm tội, lão chưa gây án nhiều lần, nếu lão chỉ biết về vụ án ‘ngón tay khăn máu’, tức là hung thủ đích thực vẫn đang nấp ở đâu đó cười khẩy nhìn chúng ta và chờ cơ hội để lại gây án. Chúng ta phải ngăn chặn để không có ai bị hại nữa. Muốn làm được thế, chúng ta đành trông chờ vào sự hợp tác của lão thì thực tế hơn.”

    Na Lan lại gật đầu, rồi quay sang chỗ Đổng Bội Luân, cúi xuống nói rất khẽ, “Chắc cảm giác của cô rất mâu thuẫn. Cô mong sao Mễ Trị Văn đúng là hung thủ tội ác đầy mình, như thế đơn giản hơn. Đồng thời thâm tâm cô lại không cho lão là hung thủ. Mễ Trị Văn cô từng yêu mến năm nào, tuy hơi bí hiểm nhưng lại rất trang nhã lịch sự, tài hoa ấy không thể là kẻ gây ra các vụ án ‘ngón tay khăn máu’ kinh khủng như vậy.”

    Dẫu trời đang tối, ánh nến chỉ lờ mờ, nhưng vẫn có thể thấy rõ sắc mặt Đổng Bội Luân bỗng thay đổi hẳn. Không phải vẻ mặt mơ hồ khó hiểu, mà là vẻ mặt của người bị đi guốc vào bụng.

    “Em giàu trí tưởng tượng đấy!” Đổng Bội Luân cố đưa ra một câu không đến nỗi nóng nảy.

    “Những nạn nhân bị lão xâm hại, kể cả cô, đều thuộc mẫu người ưa nghệ thuật, theo đuổi tình cảm, coi trọng tinh thần. Mễ Trị Văn tuy chưa được coi là hạng điển trai sáng ngời nhưng lại có biệt tài về nghệ thuật, dù hơi có tuổi thì vẫn khiến cho các cô gái cảm thấy tin cậy, giống như tình yêu đối với một bậc thầy. Nhưng khi phụ nữ thể hiện rõ tình cảm thân thiết thì lão lại để lộ chân tướng gớm ghiếc của lão. Có điều, lão…” Na Lan lúng túng chưa biết nói sao để không đến nỗi làm cho Đổng Bội Luân bị tổn thương nặng nề. Cô định nói, Mễ Trị Văn gây án đều không làm đến cùng, luôn ở mức “bất thành”, Đổng Bội Luân chỉ là nạn nhân bị trọng thương mà thôi.

    Đổng Bội Luân “đỡ lời” Na Lan, “Em định nói là hình như lão gây án đều không thành công lắm, đều chưa đẩy chúng tôi vào chỗ chết chứ gì?”

    “So với các vụ ‘ngón tay khăn máu’ thì hơi khác.” Na Lan khẽ thở dài.

    Đổng Bội Luân lạnh lùng hỏi, “Em còn nhớ lần trước hỏi tôi ‘Mễ Trị Văn có thể là hung thủ các vụ án ‘ngón tay khăn máu’ không’, tôi đã trả lời ra sao chứ?”

    “Nếu có cơ hội thoát khỏi sự trừng phạt của bệnh tật, trốn khỏi nhà tù, thì việc đầu tiên Mễ Trị Văn làm là tìm đến cô, để tiếp tục làm cái chuyện lão chưa hoàn tất trong đêm hôm đó…”

    “Cảm ơn em vẫn nhớ được. Nếu hôm nay em hỏi lại, tôi vẫn trả lời như vậy.”

    Na Lan bỗng rùng mình.

    Tuy các suy đoán không được Đổng Bội Luân khẳng định trực tiếp, Na Lan vẫn cho rằng mình đang đi đúng hướng. Từ miêu tả về quá khứ của Mễ Trị Văn cho đến hồi tưởng của bà mẹ Vu Ninh, rồi vẻ mặt kinh ngạc của Đổng Bội Luân, một phác họa đang dần hiện rõ, các cô gái yêu thích âm nhạc cổ truyền bị hấp dẫn bởi tài lẻ của Mễ Trị Văn và bộc lộ tình cảm mến mộ, sau đó bị Mễ Trị Văn làm hại. Lão là một cô hồn không thân thích không bè bạn, biển người thì mênh mông, các cô gái bị lão cưỡng bức là số rất ít người tiếp cận lão. Điều này lại chứng tỏ lão vốn dĩ sợ tiếp xúc thân mật, nhất là tiếp cận về tình cảm.

    Vì những người ngày xưa gần gũi lão về tình cảm đều làm hại lão.

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tơ đồng rỏ máu


    phan 14

    Nếu là một kẻ quá đau đớn thất tình, rồi trả thù người khác giới, thì hành vi của họ không khó dự đoán, họ thường gạ gẫm để được việc rồi phủi tay, chiếm đoạt thân xác người ta xong rồi vứt bỏ, chứ không hay tiến hóa thành bạo lực xâm hại như kiểu Mễ Trị Văn. Nếu Na Lan suy đoán đúng, thì việc Mễ Trị Văn bị hại từ sớm là rất nặng nề, đến nỗi nửa đêm là phải lủi ra hố sâu để hành hạ động vật cho hả dạ, và nhiều năm sau tiếp tục trả đũa các cô gái tiếp cận lão.

    Cái từ then chốt là sớm.

    Sớm bị tổn thương, thường thấm thía nhớ lâu.

    Sớm bị người thân cận bạo hành làm hại, lớn lên sẽ bạo hành với người thân cận.

    Điều này có thể giúp lý giải các vụ cưỡng dâm bất thành. Nhưng giải thích ra sao về các vụ “ngón tay khăn máu”?

    Với nhiều vụ án cưỡng dâm xong xuôi, nhiều vụ án bắt cóc giết người, thì sẽ giải thích ra sao ?

    Bắt đầu từ sự suy đoán bên trên, rồi đi sâu hơn. Giả sử suy đoán này là đúng, thì Mễ Trị Văn hồi niên thiếu đã bị người thân làm hại, anh ta phải đục thủng tường, trốn ra ngoài ngôi nhà ngục tù ấy nhưng lại không thể bỏ đi hẳn. Thế thì, kẻ gây nên tội ban đầu chỉ có thể là người nhà.

    Cha mẹ Mễ Trị Văn.

    Hôm nay, ngày cuối tuần trong một mùa xuân uể oải, sau mấy ngày sương mù khủng bố, mặt trời đã hiện ra, dân chúng liền hớn hở nhẹ nhõm, thậm chí không buồn tháo khẩu trang, cứ thế ào ra khỏi nhà đi chơi, đi mua sắm. Đại học Giang Kinh cũng không ngoại lệ, từ sáng sớm, các đôi nam nữ, các chàng trai cô gái ăn mặc sặc sỡ đã tràn ra kín khu Văn Viên rộng đến 12 héc ta, chưa đến 12 giờ trưa họ đã đi khắp thành phố tô điểm cho sắc xuân vừa quay trở lại.

    Na Lan ngưỡng mộ ngắm nhìn phong cảnh bên ngoài và những bóng người vui vẻ dưới nắng xuân, khẽ thở dài, cầm di động lên định gọi cho Sở Hoài Sơn thì nhận ra hai tin nhắn của anh ta gửi đến.

    Là hai cái tên. Mễ Trị Huân, Mễ Dũng Liên.

    Cô nhắn lại: Là người vốn ở thôn Mễ Gia?

    Sở Hoài Sơn: Đúng.

    Na Lan: Tìm họ như thế nào? Địa chỉ?

    Sở Hoài Sơn nhanh chóng nhắn hai địa chỉ đến.

    Bỗng có người gõ cửa ký túc xá.

    “Tôi, Trần Ngọc Đống đây!”

    Na Lan mở cửa, ngạc nhiên nhìn người đàn ông. Trần Ngọc Đống không định bước vào, nên nói luôn, “Nào, chúng ta đi tìm một người.”

    “Ai ạ?”

    “Dọc đường tôi sẽ nói.” Ông đã quay người bước đi.

    Na Lan hào hứng, “Vừa khéo, cháu cũng đang định đi tìm người. Có lẽ hai chú cháu cùng đường cũng nên.”

    Trần Ngọc Đống mở sổ tay. Quả nhiên, địa chỉ ông ghi cũng trùng với địa chỉ trong mẩu tin nhắn. Đó là nơi ở của một ông già tên là Mễ Dũng Liên.

    Trên xe buýt, Na Lan hỏi Trần Ngọc Đống, “Sở Hoài Sơn liên lạc với chú à?”

    “Không. Sao nào?”

    “Khéo quá! Chú và anh ta thần giao cách cảm thì phải? Sau khi xác định được Mễ Trị Văn là sản vật của thôn Mễ Lung thì chú và anh ấy cùng đi tìm người cũ của thôn, và cùng tìm đến ông Mễ Dũng Liên này.” Na Lan giải thích.

    Trần Ngọc Đống “Thế à?” Rồi nói, “Không chỉ một người, tôi còn tìm thấy một người nữa tên là Mễ Trị Huân.”

    “Sở Hoài Sơn cũng nhắc đến. Có cần đi gặp người này không?”

    “Cứ gặp Mễ Dũng Liên trước đã. Mễ Trị Huân kém Mễ Trị Văn hai tuổi, họ cùng trang lứa, chắc ông ta không nhớ nhiều về thôn Mễ Lung và cha mẹ của Mễ Trị Văn. Mễ Dũng Liên là thế hệ trên Mễ Trị Văn, năm nay đã 80 tuổi, hẳn ông ta hiểu rõ các chuyện ở thôn Mễ Lung.”

    Na Lan hỏi, “Sao chú tìm ra họ?” Cô đoán Sở Hoài Sơn không ra khỏi nhà nhưng anh ta hay tìm trên mạng, thư viện... cộng với các chiêu lạ của mình, còn Trần Ngọc Đống thì dùng các cách truyền thống.

    “Quả là không dễ. Thoạt đầu tôi nghĩ họ Mễ ở Giang Kinh và vùng lân cận không nhiều, bèn nhờ một học trò đang làm ở Phòng Hộ tịch thành phố tìm giúp. Cô ta lọc ra hơn bốn mươi người. Tiếp tục sàng sẩy, lựa lấy những người phù hợp, tức là độ tuổi trên 50, được 16 người. Sau đó tôi nảy ra sáng kiến, đến Phòng Hồ sơ, tra cứu danh sách dân chúng di dời sau khi dốc Mễ Lung trở thành di tích khảo cổ trọng điểm.”

    Na Lan đã hiểu ra, mỉm cười, “Xem ra, thôn Mễ Lung có di nhưng không dời!” Cái thôn bỏ hoang ấy không có tiềm lực khai thác thành nhà ở để bán, nên nó đã thoát khỏi vận hạn bị giải phóng mặt bằng. “Nghe nói dân chúng đều chuyển vào thành phố Giang Kinh.”

    “Đúng thế. Và họ dời đến thành một cụm tập trung, 19 hộ họ Mễ chuyển đến ba tòa nhà lớn ở khu Tân Giang, thuộc khu tập thể Sở Dân chính, Sở Y tế và Sở Thủy điện. Sau hơn ba mươi năm, già nửa số hộ họ Mễ đã chuyển đi, một số người cao tuổi đã qua đời. Xem xét các hộ ở ba tòa nhà và đối chiếu hộ tịch, chứng minh thư phù hợp với Mễ Trị Văn, thì chỉ còn hai người là Mễ Dũng Liên và Mễ Trị Huân.”

    “Gia đình Mễ Trị Văn thì sao ?”

    Trần Ngọc Đống lắc đầu, “Không có bất kỳ ghi chép nào về Mễ Trị Văn. Quản lý hộ tịch ngày xưa chưa có máy tính, nên cũng thường thất lạc tài liệu. Chứng minh thư lúc bị bắt của Mễ Trị Văn là đồ giả.”

    Na Lan kinh ngạc, “Thế thì... rất có thể lão không phải là Mễ Trị Văn?!”

    “Có thể.” Trần Ngọc Đống cười nhạt. “Chứng minh thư giả, họ tên cũng có thể là giả, nhưng hồ sơ bệnh án thì là thật, cháu cũng nhìn thấy rồi. Lão vào nhà đá nhiều lần, song vào bệnh viện còn nhiều hơn, cho nên hồ sơ y tế rất đầy đủ. Nếu là tên giả, thì cũng tức là mấy chục năm qua lão đều dùng tên giả này.”

    Nhà Mễ Dũng Liên ở gần khu tập thể cũ của Sở Y tế, gồm hai gian liền kề rộng chừng 60 mét vuông. Trần Ngọc Đống bước vào và nói rõ mục đích thăm viếng, câu đầu tiên Mễ Dũng Liên bật ra là, “Ngần ấy năm rồi, sao bây giờ các vị mới tìm đến tôi?”

    Trần Ngọc Đống hỏi thăm tuổi, ông già nói mình đã 83. Vóc người ông gầy mảnh, lại chịu khó tập dưỡng sinh nên trông chỉ như gần 70 tuổi. Nhà ông nuôi đủ thứ chim cảnh, cá vàng… trên bàn trải tấm giấy với hình vẽ dang dở, thoáng nhìn hình như là vẽ con ngỗng béo. Ông cho biết bà vợ sang câu lạc bộ người cao tuổi chơi mạt chược, và định pha trà mời khách.

    Trần Ngọc Đống nói, “Bác đừng bày vẽ. Chúng tôi chỉ nói ít phút rồi đi ngay. Bác định liên lạc với công an từ khi nào?”

    “Khoảng 13 năm trước.” Ông Mễ Dũng Liên nghiêng đầu nghĩ ngợi, “Có lẽ cách đây 12 hoặc 13 năm. Già rồi, năm này năm nọ không nhớ rõ được nữa. Nhưng đó là một lần Mễ Trị Văn giở trò lưu manh rồi bị bắt.” Xem ra, ông biết Mễ Trị Văn là kẻ phạm tội nhiều lần.

    Trần Ngọc Đống hỏi, “Sao hồi đó bác không tìm chúng tôi?”

    “Đến gặp các anh thì tôi biết nói gì nhỉ? Tôi quen thằng nhãi lưu manh ấy, đúng là ‘phúc ba đời!’” Ông ngồi xuống cái ghế mây.

    Na Lan mỉm cười, “Chắc lần trước gặp nhau, Mễ Trị Văn mới chỉ là một đứa trẻ con, nên ông vẫn quen gọi là thằng nhãi lưu manh! Bây giờ Mễ Trị Văn gần 60 rồi.”

    Ông già hơi kinh ngạc, “Phải đấy! Đúng, đúng là đã rất nhiều năm. Thực ra tôi vẫn đợi các vị đến tìm, tôi sẽ kể cho các vị nghe… thằng nhãi ấy đến nông nỗi như ngày nay, không ai ngờ và cũng không ai lấy làm lạ cả.”

    Na Lan biết, một tội phạm cưỡng dâm chưa “xong việc” nhu Mễ Trị Văn thì công an chưa cần đi sâu tìm hiểu kỹ làm gì. Nếu Mễ Trị Văn không ngỏ ý muốn gặp cô, không chủ động nói là có liên quan đến vụ án “ngón tay khăn máu” thì quá khứ quái dị thời niên thiếu của lão không bị khui ra.

    Trần Ngọc Đống nhắc, “Mong bác gợi mở cho chúng tôi.”

    “Tại sao nói không ai ngờ hắn lại biến thành như ngày nay? Nói thật lòng, con người đi ra từ thôn Mễ Gia không nên biến thành như thế! Mễ Gia ở nơi khác tôi không biết nhưng Mễ Gia ở Giang Kinh chúng tôi tuy chỉ làm nghề nông và cũng buôn bán nhỏ nhưng tự cổ chí kim việc dạy dỗ con cháu luôn rất chú ý cả đức lẫn tài. Cha Mễ Trị Văn là Mễ Dũng Hằng, thầy giáo trường trung học của xã, hiểu biết và đạo đức, cầm kỳ thi họa đều giỏi. Mẹ hắn là Hoàng Tuệ Trân, sắc nước hương trời, hạt nhân văn nghệ từ xã lên đến huyện, hát hay múa đẹp, có tài diễn kịch nói.”

    Cây bút vô hình trong óc Na Lan bắt đầu đặc tả, Mễ Trị Văn kế thừa năng khiếu văn nghệ của cha mẹ, ham đọc sách, những biểu hiện gần đây khi nằm trên giường bệnh giống như một diễn viên non nớt nhưng muốn bước vào cánh cửa lớn của khoa Biểu diễn Học viện Kịch nghệ và Học viện Điện ảnh Trung Quốc.

    Ông già Mễ Dũng Liên nói, “Tại sao lại nói không lấy làm lạ? Ai cũng phải trầm trồ ngưỡng mộ gia đình Mễ Trị Văn. Tôi kém cha hắn 2 tuổi, dịp Tết một năm nọ tôi nhìn thấy cả nhà họ ba người đứng ở cổng nhà chụp ảnh, như cô em tôi thường nói thì, tôi thèm rỏ dãi ra! Nhưng gia đình họ có chút vấn đề, Mễ Dũng Hằng là ông giáo trường trung học xã, trường cách thôn mười mấy cây số, ông ta đạp xe đi về, đôi khi muộn quá ngủ luôn ở trường không về nhà nữa. Hoàng Tuệ Trân thi thoảng phải lên xã thậm chí lên huyện vào buổi tối để tập tiết mục văn nghệ, nên phải đem theo cả Mễ Trị Văn. Thành thử sinh hoạt nhà ấy khá lộn xộn. Có lần tôi đã khuyên nên chuyển hẳn lên thị trấn mà ở, vừa gần trường vừa gần nơi tập văn nghệ… nhưng hộ khẩu khó làm, kinh tế cũng bí, nên rốt cuộc họ vẫn không thể đi khỏi cái thôn Mễ Lung.” Ông già thở dài.

    Hai vị khách không nói gì, biết rằng câu chuyện vẫn còn tiếp tục.

    “Mễ Trị Văn giống bà mẹ, trông rất trắng trẻo tuấn tú nhưng thể lực không tốt, gầy nhẳng da bọc xương, lại mắc bệnh co giật, thỉnh thoảng ngã lăn ra sùi bọt mép ngất xỉu. Chắc là vì thế mà hồi bé nó rất ít nói, ít cùng bọn trẻ nô đùa hay chạy như điên trên dốc. Nhưng nghe nói ở trường nó học rất giỏi.”

    Na Lan chợt hỏi, “Thể lực kém, không hòa nhập, liệu có phải cậu ta bị bọn trẻ bắt nạt không?”

    Ông già đăm chiêu, “Điều này thì không nghe nói đến. Thôn chúng tôi nhỏ, cùng với ba thôn khác, có chung một trường tiểu học, lũ trẻ đều quen nhau cả. Hồi đó con người thuần phác, không nghe nói có ai bắt nạt nó.”

    Chứng tỏ tính cách hung bạo của Mễ Trị Văn là do gia đình không hài hòa tạo nên, phải thế không? Dù cha mẹ loạc choạc tách biệt, đâu đến nỗi tạo thành tổn thương nghiêm trọng cho con cái?

    “Đại khái là khi Mễ Trị Văn hiểu biết sự việc thì mâu thuẫn giữa cha mẹ trở nên gay gắt, hai vợ chồng cứ lủng củng với nhau mãi, rồi đến một hôm Hoàng Tuệ Trân ra đi, bỏ lại chồng con, đi hẳn.”

    Tất cả im lặng, chỉ còn tiếng con oanh vàng trong lồng chích chích kêu mấy tiếng.

    Na Lan lặp lại, “Đi? Chủ động bỏ đi?”

    Mễ Dũng Liên nói, “Hoàng Tuệ Trân bắt rễ ở chốn văn nghệ, dù chỉ là đoàn văn công huyện, nhưng hình như cũng dính chuyện dan díu nam nữ, cô ấy có nhan sắc, dù đã có con nhưng vẫn xinh tươi như gái 18, hẳn phải có khối kẻ thèm rỏ dãi, đoán rằng họ đều là những kẻ có nanh có mỏ ở huyện. Trước khi cô ta bỏ đi, từng có chiếc xe Jeep đưa cô ta về thôn, nghe nói là một sếp trên huyện. Thấy không, cái chuyện mèo mả gà đồng có từ năm sáu chục năm trước! Các vị nói xem, một phụ nữ như thế lại bỏ chồng con, bỏ quê cha đất tổ, thì có kỳ lạ không? Cho nên, tất nhiên là chủ động ra đi, đem theo cái xắc du lịch và một số áo quần và đồ trang sức. Thời đó rất hiếm chuyện bắt cóc giết người!”

    “Bà ấy đi đâu?” Na Lan hỏi. Gia đình không tình thương, cha mẹ bất hòa, đêm khuya trốn ra ngoài, cái hố sâu, sát hại động vật, xả giận…

    “Chịu không biết, không ai biết. Dân thôn chúng tôi đều đoán chắc là có vị sếp to bố trí cho cô ấy ra thành phố lớn. Cha của Mễ Trị Văn từng lồng lên đi tìm một thời gian, dân thôn cũng giúp nghe ngóng khắp nơi, nhưng sau khi ông ta chết thì không ai để ý đến cái chuyện đó nữa.”

    Trần Ngọc Đống xen vào, “Mễ Dũng Hằng chết? Chết như thế nào?”

    “Sau khi vợ bỏ đi, ông ta phải đạp xe về nhà hằng ngày để chăm sóc Mễ Trị Văn. Rồi một tối đang trên đường đi thì bị chiếc xe vận tải khí tài quân sự đâm chết.”

    Na Lan lẩm bẩm, “Thế là Mễ Trị Văn thành trẻ mồ côi.”

    Ông già nhận xét, “Một gia đình đang yên lành rồi thành ra tan tác, con cái tốt đẹp sao được?”

    Trần Ngọc Đống nói, “Hồi đó nếu cha mẹ đều mất, lại không có ông bà họ hàng nuôi nấng, thì trẻ con phải vào trại mồ côi.”

    Ông già lại thở dài, “Trên huyện không có trại mồ côi, hồi đó chỉ thành phố Giang Kinh mới có. Cho nên Mễ Trị Văn là người đầu tiên ở thôn Mễ Lung được về thành phố.”

    Chương 22: Ký sự lưu lạc

    Nhà phúc lợi nhi đồng thành phố Giang Kinh có tên cũ là Cô nhi viện Giang Kinh, thời xa xưa nó là Cô nhi viện Đức Bà do giáo hội tổ chức ra, nằm ở tô giới Pháp cũ, thuộc khu Văn Viên, cách Đại học Giang Kinh không xa, hơi chếch bên kia là nhà thờ lớn của Thiên chúa giáo. Vào ngày cuối tuần, nhà phúc lợi tấp nập khác thường, nhiều nam nữ thanh niên tình nguyện, có vẻ như sinh viên, nhân ngày nghỉ đến làm từ thiện thì phải.

    Để ông Trần Ngọc Đống tạm đứng chờ, Na Lan bước đến cổng nhà phúc lợi. Một sinh viên đeo kính trắng tươi cười hỏi, “Em là tình nguyện viên của trường nào? Đánh dấu vào tờ danh sách này đi!”

    Thì ra mình vẫn bị đàn em nhìn nhầm là sinh viên lớp dưới, cô hơi đắc ý. Nhưng chợt nhớ ra mấy năm nay sinh viên Đại học Giang Kinh toàn gọi các bạn gái như thế, dù hơn hay kém tuổi, cô bèn mỉm cười, “Anh có quen những người làm ở nhà phúc lợi không?”

    Anh ta nói, “Tôi ở hội sinh viên Đại học Y Giang Kinh, đã tổ chức hoạt động tình nguyện ở đây ba năm, rất quen biết nhà phúc lợi.”

    “Anh có biết ai là nhân viên lâu năm ở đó không?”

    “Sao lại hỏi… cô làm công tác gì?”

    Na Lan khẽ nói, “Tôi ở Sở Công an.”

    Anh sinh viên lắp bắp, “Chà… tôi không… không nhận ra.”

    “Tôi nghe đây.”

    Anh ta nghĩ ngợi rồi nói, “Nhân viên thâm niên nhất ở đó có lẽ là chị Triệu.”

    Na Lan cau mày, “Chị Triệu?”

    “Đúng mọi người đều gọi bà ấy như thế… à tôi quên chưa nói, gọi là chị Triệu nhưng thật ra là một bà già đã ngoài 80.”

    “Thì ra là vậy.” Na Lan hơi thất vọng. “Tức là đã nghỉ hưu, đi đâu tìm bà ấy đây?”

    Anh ta cười, “Ở ngay nhà phúc lợi. Bà ấy là cựu giám đốc, về hưu vẫn ở lại. Nghe nói bà ấy vốn là trẻ mồ côi được các xơ ở Cô nhi viện Thiên chúa giáo nuôi dạy. Không có nhà riêng. Cô nhi viện là nhà của bà ấy.”

    Vừa gặp ông Mễ Dũng Liên ngoài 80 tuổi, giờ lại đi gặp chị Triệu ngoài 80 tuổi, Na Lan cảm thấy hôm nay là ngày của các cụ già thì phải! Nghe sinh viên kia kể, sau khi nghỉ hưu bà Triệu vẫn ở lại nhà phúc lợi cũng vì bà không thể xa đám trẻ mồ côi. Nhà phúc lợi chăm sóc bà chu đáo, để bà tiếp tục sử dụng căn buồng xép đã ở mấy chục năm.

    Căn buồng bé tẹo, kê cái giường và bộ bàn ghế, ngoài ra chỉ còn chỗ cho ba người vừa khéo chứa được thêm Na Lan va Trần Ngọc Đống. Khuôn mặt bà Triệu đầy nếp nhăn của một người già đã trải bao phong sương suốt tám mươi năm, nhưng bà vẫn tỉnh táo xởi lởi, nói năng rành mạch. Lưng hơi còng nhưng động tác cử chỉ vẫn gọn gàng dứt khoát, xem chừng là người rất tháo vát. Miệng nói, tay thi thoảng mân mê cây thánh giá trước ngực. Bà dẫn cả hai ra sân, vừa đi vừa nói chuyện.

    Trần Ngọc Đống nói ý định của mình.

    Bà Triệu băn khoăn, “Ngày trước không biết quản lý hồ sơ một cách khoa học, nên tư liệu về bọn trẻ mồ côi hơi lộn xộn, lại trải qua mấy lần biến động... tư liệu cách đây năm mươi năm chắc chắn là không còn nữa.”

    Na Lan đưa ra bức họa khuôn mặt Mễ Trị Văn của Sở Công an làm. “Bà còn nhớ người này không?” Cô đành thử vận may, dù biết rằng bà đã từng thu nhận nuôi dưỡng vô số trẻ mồ côi.

    Bà Triệu mỉm cười, “Tôi vẫn nhớ những đứa trẻ đã từng ở cô nhi viện này.” Bà cầm bức họa, rồi sờ túi áo lấy cặp kính lão ra nhìn một lúc, nét cười trên mặt phai dần. Na Lan hỏi, “Bà nhận ra người này à?”

    “Mễ Trị Văn.” Bà thở dài. “Mấy năm trước nghe nói nó phạm tội, hình như là cưỡng dâm giết người.”

    “Nhưng chưa thành” Na Lan bổ sung một chi tiết khách quan. “Xem ra, ảnh máy tính tái tạo khá chính xác. Trí nhớ của bà cũng rất tốt nữa.”

    “Có những đứa trẻ có đặc điểm gì đó, nên càng dễ nhớ. Mễ Trị Văn... nó rất gầy, nhưng không phải vì ăn uống thiếu chất. Hình như hoàn cảnh gia đình nó không hay mấy. Không hiểu sao lại gầy như thế. Và, cậu bé này rất tài hoa, nó biết kéo đàn nhị.”

    “Tài thật!” Na Lan khẽ nói. Xem ra thập bát ban nhạc cụ cổ truyền, Mễ Trị Văn đều tinh thông.

    “Thật ra không chỉ đàn nhị, nó còn biết chơi cổ cầm, đàn tranh, thổi sáo. Nhưng hồi đó cô nhi viện chỉ có đàn phong cầm phương Tây và một cây đàn nhĩ cũ kỹ đứt dây. Nó không biết chơi phong cầm, bèn đem sửa cây đàn nhị, thỉnh thoảng đem ra chơi vào dịp Nguyên đán, Trung thu hoặc Tết thiếu nhi 1-6, hễ cô nhi viện tổ chức liên hoan văn nghệ thì Mễ Trị Văn đều lên sân khấu biểu diễn. Nó chơi bản nhạc Nhị tuyển ánh nguyệt rất hay... Về sau tự nó mày mò rồi cũng chơi được đàn phong cầm, cho nên mỗi khi các cháu tập hát hợp xướng đều không cần mời nhạc công bên ngoài vào đệm đàn nữa.”

    Trần Ngọc Đống hỏi, “Có lẽ các thầy cô giáo đều rất mến Mễ Trị Văn?”

    “Đương nhiên nó được coi trọng, nhưng tính tình nó rất kỳ quặc, không bao giờ nói chuyện hoặc chơi cùng các bạn. Thể dục buổi sáng hoặc các giờ rèn luyện thân thể, nó đều tách riêng một chỗ, ngồi nghệt ra. Mắng nó, phạt nó vô số lần cũng không ăn thua. Vì ở ký túc xá nó không bao giờ hé răng nên bị các bạn đặt cho biệt hiệu ‘thằng câm’, và không tránh khỏi đôi khi bị bắt nạt.”

    Na Lan thầm cảm thán, lại một vết thương thời niên thiếu, và lại thêm một lý do để xả giận. Cô hỏi, “Mễ Trị Văn ở cô nhi viện bao lâu, sau đó được người ta nhận nuôi hay trưởng thành trong cô nhi viện rồi vào đời tự kiếm sống?”

    “Nó mất tích.”

    Na Lan kinh ngạc.

    Bà Triệu dừng bước, hơi ngẩng đầu, nghĩ ngợi một lát rồi lại nói, “Khi vào cô nhi viện, nó khoảng 10, 11 hay 12 tuổi gì đó, ở chỗ chúng tôi bốn đến năm năm. Tức là vào năm 15 hoặc 16 tuổi, một hôm bỗng không thấy nó đâu nữa. Mấy món đồ dùng cá nhân lèo tèo của nó cũng biến mất.”

    “Tức là bỏ đi, có kế hoạch hẳn hoi. Trước đó các bác không nhận ra dấu hiệu gì à?” Trần Ngọc Đống hỏi.

    “Một đứa trẻ quanh năm không nói một câu như thế, ai biết nó nghĩ gì, hay định làm gì.”

    Trần Ngọc Đống lại hỏi, “Mễ Trị Văn có thể đi đâu, các bác cho là thế nào? Đến nhà họ hàng chẳng hạn...”

    Bà Triệu lắc đầu, “Chúng tôi đã đến thôn Mễ Lung tìm hiểu, không đả đụng tới vụ mất tích, chỉ đến xem sao. Không thấy nó đâu, cũng không bỏ công sức đi tìm thêm nữa. Những năm tháng ấy... là một thời kỳ rất đặc biệt. Chắc cô gái này không thể ngờ, bấy giờ cách mạng văn hóa mới bắt đầu chưa lâu, trẻ con mười mấy tuổi đầu đã ngồi tàu hỏa đi khắp đất nước, lên rừng xuống biển, liên kết móc nối nhau làm bừa. Sau khi giám đốc cô nhi viện bị đánh đổ thì nơi này như rắn mất đầu, bọn trẻ con đứng ra chỉ mặt đấu tố giáo viên chúng tôi, hỗn loạn hết mức! Cho nên chẳng ai bận tâm cũng chẳng ai đào sâu xem xét vụ mất tích của Mễ Trị Văn nữa.”

    Na Lan hỏi, “Mấy năm trước nghe tin Mễ Trị Văn biến thành tội phạm cưỡng dâm, bà cảm thấy thế nào?”

    Bà Triệu trầm ngâm. Rồi lặp lại câu nói lúc nãy, “Nó là thằng bé rất kỳ quặc.”

    Na Lan và Trần Ngọc Đống ra khỏi nhà phúc lợi, cả hai đều thấy nặng nề vì chuyến đi gần như vô ích.

    “Các vị chờ đã!” Bà Triệu bước ra cổng nhà phúc lợi gọi họ. “Tôi vừa nhớ ra một chuyện có lẽ sẽ hữu dụng với hai vị. Hồi mới vào cô nhi viện, Mễ Trị Văn mang theo chiếc radio của nhà, cứ cách một ngày nó lại mở ra nghe một lúc. Về sau tôi để ý thấy rằng nó nghe một vở kịch nói. Hồi ấy người ta thường xuyên phát đi phát lại vở kịch này, về sau không phát nữa thì nó cũng thôi.”

    Kịch nói! Na Lan thầm nghĩ, Mễ Trị Văn nghe giọng của bà mẹ.

    “Đó là vở kịch nói của Tào Ngu, tên là Nhà, chuyển thể từ tiểu thuyết của Ba Kim.” Sở Hoài Sơn nói qua điện thoại. Anh ta xem kho dữ liệu kỹ thuật số về báo chí-điện ảnh, tìm thấy bảng kê tiết mục của Đài Phát thanh Nhân dân Giang Kinh những năm 1964-1965, thứ Bảy hàng tuần có chương trình “Cửa sổ văn nghệ” phát từ 7 đến 8 giờ tối. Thời đó họ đã nhiều lần phát băng ghi âm vở kịch nói Nhà. Nhà ra đời từ những năm 40 của thế kỷ trước, đã có vô số đoàn kịch đưa lên sân khấu. Băng ghi âm vở diễn phát trên Đài Phát thanh Nhân dân Giang Kinh dạo ấy, là do đoàn kịch thành phố kết hợp với các hạt nhân văn nghệ cơ sở biểu diễn năm 1960.

    Na Lan nói, “Chắc chắn Hoàng Tuệ Trân có tham gia biểu diễn.”

    “ Chỗ tôi có bảng diễn viên đây. Hoàng Tuệ Trân sắm vai Minh Phượng.”

    Hồi trung học Na Lan từng đọc các tác phẩm Nhà, Xuân, Thu, còn nhớ Minh Phượng là một nhân vật bi kịch trong đó.

    “Có thể lý giải được hành vi của Mễ Trị Văn. Mẹ bỏ nhà ra đi, cậu con trai lên mười chắc chắn rất nhớ mẹ. Minh Phượng trong vở kích nói có lẽ là kỷ niệm duy nhất Hoàng Tuệ Trân để lại, vì thế cậu ta mới nghe đi nghe lại qua radio.” Na Lan lẩm bẩm nói ra cảm nhận của mình. Rồi lại hỏi, “Có cách gì kiếm được bản ghi âm đó không?”

    Sở Hoài Sơn nói, “Tôi đã thử gọi điện hỏi thư viện, phòng hồ sơ, đài phát thanh, nhà hát kịch, đều không được. Cô cần bản ghi âm làm gì?”

    “Chỉ tò mò thôi. Tôi muốn nghe giọng bà ấy, nếu được gặp người thì càng hay.”

    Di động bỗng “tinh tang”. Một tấm ảnh đã được gửi đến. Tấm ảnh đen trắng cũ, một cô gái xinh tươi trong sáng, trang điểm kiểu thời Dân quốc. Na Lan hỏi, “Bà ấy… là mẹ Mễ Trị Văn?” Đã biết còn hỏi. Cô chăm chú nhìn khóe miệng của Hoàng Tuệ Trân, rõ ràng là có nét cười nhưng mép không nhích lên mà lại hơi trễ xuống, chi tiết này thể hiện vẻ ai oán.

    “Là áp phích quảng cáo cho vở Nhà, họa báo Giang Kinh năm 1962.”

    Na Lan lộ vẻ tư lự, “Nếu Hoàng Tuệ Trân mất tích thật, chúng ta có thể đi tìm bà ấy, chưa biết chừng sẽ khiến Mễ Trị Văn phải nói thật.”

    Sở Hoài Sơn im lặng rất lâu.

    “Sao thế?”

    “Ngây thơ!” Sở Hoài Sơn đáp.

    Na Lan thở dài, “Cảm ơn anh nhận xét. À, cái chữ kia… có manh mối gì chưa?” Cô biết mình hỏi thừa, nếu Sở Hoài Sơn khám phá ra thì anh ta đã nói cho cô biết trước tiên.

    Sở Hoài Sơn im lặng một lát, rồi nói, “Tôi lại muốn hỏi cô. Vì Mễ Trị Văn bảo chỉ cô mới giải mã được.”

    Na Lan toan kháng nghị, thì anh cũng phải giúp tôi chứ! Nhưng chính cô không chịu động não thì Sở Hoài Sơn giúp thế nào được?

    Tại sao lại là cô?

    Con chữ đang đặt trên bàn, những nét cong cong như con sâu. Na Lan nhìn nó rất lâu, hình như con sâu sắp bò vào mắt cô. Cô hỏi, “Là chữ tượng hình phải không?”

    “Trước khi rút khỏi vụ này, Ba Du Sinh đã thỉnh giáo một lô chuyên gia văn tự học, được một lô kết luận nhưng đều vô ích. Đa số các vị ấy cho là chữ tượng hình, ý kiến na ná nhau, phần trên giống chữ Thi hoặc giống chữ Trãi... đều là động vật.”

    “Điều này ngay trẻ con cũng nhận ra. Thi là lợn, còn Trãi là con gì?”

    “Nếu là Trãi thì hóc búa rồi. Thời cổ, chữ Trãi chỉ nhiều loài động vật, về sau thì những con vật không chân, di chuyển bằng cách trườn như sâu, giun...”

    “Hơi thú vị đấy! Và gì nữa?” Na Lan nhớ đến những con vật bị mất xương ngón chân nằm dưới cái hố.

    “Hết rồi. Còn lại nhờ cô.”

    “Tôi? Tôi chưa bao giờ nuôi lợn, và cũng không thích sưu tầm giun.”

    Mình đã làm gì? Để rồi Mễ Trị Văn cứ không buông tha mình? Na Lan cảm thấy một ý nghĩ đang dần hình thành...

    Nhưng nó rất mờ mịt, mơ hồ, chập chờn, cô không sao nắm bắt được.

    Mình từng làm những việc gì? Suýt bỏ mạng trong vụ án “năm xác chết” ở hồ Chiêu Dương, tình cảm tưởng như được rồi lại mất. Suýt chết trong núi tuyết Trường Bạch, người xưa trở về với mình rồi lại ra đi. Cách đây ba hôm trong cái hố sâu ở dốc Mễ Lung cũng suýt mất mạng bên đám xương động vật xác xơ và cuốn sách Không dũ tùy đàm.

    Mễ Trị Văn đã đoán được rằng cô sẽ đến thôn Mễ Lung điều tra các chuyện thời niên thiếu của lão. Việc cô cứ loay hoay trong vụ án vô vọng này đến nay, có phải là một quá trình tất nhiên thậm chí là quá trình bắt buộc nếu muốn giải mã con chữ quái quỷ ấy không?

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tơ đồng rỏ máu


    phan 15

    Rơi vào cái hố, thu hoạch lớn nhất của Na Lan là phát hiện ra mặt tối tăm của Mễ Trị Văn thời niên thiếu và cuốn sách Không dũ tùy đàm.

    Cô nhớ lại cuốn sách lem nhem đã lật xem ấy, bên trong có nhiều chỗ đánh dấu và ghi chú. Cô gọi điện cho Kim Thạc.

    Có thể coi cuốn Không dũ tùy đàm “khai quật” được ở cái hố là đồ cổ thực sự. Các kỹ thuật viên ở Sở Công an đã nhờ hai chuyên gia về sách cổ giám định, cho biết là bản in năm Quang Tự thứ 3 (tức năm 1878), có thể nói là cuốn truyện ký gần như duy nhất còn sót lại. Chứng tỏ thời đó số bản in chỉ lèo tèo.

    Na Lan hỏi Kim Thạc đã đọc kỹ chưa, anh vừa ngạc nhiên vừa nghiêm túc nhìn cô, hình như ngờ rằng đầu óc cô có vấn đề, “Cô có muốn xem thời gian biểu công tác của tôi và các cán bộ khác ở Sở không? Ai có thì giờ mà đọc!” Anh chỉ món “đồ cổ” đặt trên bàn. “Chữ phồn thể, in dọc, quá cũ kỹ, nét tỏ nét mờ, lại là cổ văn, ai đọc thì đầu cũng chỉ chực vỡ tung!”

    Na Lan mỉm cười, “Không đến nỗi thế! Chỉ là có thêm những ghi chép chú thích khi đọc. Rất có thể sẽ cho ta manh mối gì đó.”

    “Tôi đã đọc những chỗ chú thích, chẳng có gì hay ho. Cô muốn xem cũng được nhưng phải đến đây mà đọc, hôm nay đọc chưa hết mai đọc tiếp.”

    “Được!” Cô nghĩ ngợi, rồi nói với giọng nài nỉ, “Tôi muốn phiền anh một việc nữa, có thể tìm băng ghi âm trích đoạn vở kịch nói Nhà của Tào Ngu, ghi âm năm 1964 hay 1965 gì đó không?”

    Kim Thạc ngạc nhiên, “Nhà, là của Ba Kim viết kia mà?”

    Na Lan, “Tào Ngu đã đem chuyển thể kịch nói, nhà hát kịch Giang Kinh diễn, Đài Phát thanh Nhân dân Giang Kinh phát đi phát lại suốt hai năm.”

    Kim Thạc hỏi, “Có liên quan đến vụ án không?”

    “Rất liên quan! Bà mẹ Mễ Trị Văn sắm một vai trong đó, tôi muốn nghe giọng nói của bà ấy.”

    “Giọng bà mẹ có liên quan đến vụ án hay sao?”

    Na Lan khẽ thở dài. “Bà ấy bỏ đi từ khi Mễ Trị Văn còn rất nhỏ, có người nói bà đã bí mật lấy một nhân vật cỡ bự nào đó. Nếu chúng ta tìm thấy bà ấy, nhờ bà khuyên Mễ đại sư hợp tác với ta, thì sẽ đỡ tốn bao công sức.”

    Kim Thạc bật cười. Na Lan cau mày, “Sao?”

    “Tôi định bình luận cô bằng hai chữ.”

    Na Lan lắc đầu, “Ngây thơ, chứ gì?”

    Kim Thạc sửng sốt, “Sao cô biết?” Nhưng anh bỗng hiểu ra. “À, cô chuyên về Tâm lý học.” Anh tủm tỉm nhìn Na Lan hồi lâu, khiến cô mất tự nhiên. “Được, tôi sẽ thử hỏi. Băng ghi âm cổ lỗ sĩ, e rằng rất ít hy vọng.” Nói rồi anh bước ra khỏi phòng làm việc.

    Lại thêm một lần mắc nợ, sắp phải đi thủ đô với anh ta cũng nên.

    Na Lan nhớ đến Ba Du Sinh, không rõ hiện giờ anh đang bận rộn ở đâu, mấy lần đến sở đều không thấy anh.

    Lẽ nào Ba Du Sinh buông tay khỏi vụ án này thật?

    Mở cuốn Không dũ tùy đàm ra, nhìn chữ phồn thể in dọc quả là hơi chóng mặt. Nhưng Na Lan không cần đọc kỹ nội dung bản cổ văn này, cô chỉ chú ý đến những chỗ Mễ Trị Văn đánh dấu hoặc ghi chú bằng bút lông. Các chuyên gia bút tích học đã xác định đây là chữ của Mễ Trị Văn, chữ hồi đó tất nhiên non nớt, nhưng vẫn nhận ra trình độ thư pháp rất khá.

    Phần lớn các ghi chú của Mễ Trị Văn viết ở góc trang sách, chủ yếu là trầm trồ, khen ngợi, bình luận. Na Lan cũng nhận ra yếu tố trẻ con trong những câu chữ này. Nhưng đây đó lại vương vất một thứ tà khí không trẻ con chút nào. Ví dụ, sau mẩu chuyện về cái chết li kỳ dữ dội của một nhân vật, Mễ Trị Văn viết, “Sống đời tầm thường, thà chết cho xong” ; một mẩu chuyện khác miêu tả hai nhà thơ vừa uống rượu vừa thi làm thơ, rốt cuộc một ông chết đuối một ông ngộ độc rượu rồi bại não, thì Mễ Trị Văn viết hơn trăm chữ bình luận, trong đó có câu “văn nhân dè bỉu nhau vốn đã đáng chết, chết như thế này là tất nhiên”.

    Ngoài những câu chữ châm biếm và chế nhạo ra, có một số đoạn văn hoặc từ ngữ được đánh dấu khuyên đỏ, tức là những chổ khiến Mễ Trị Văn phấn khích nhất. Giở đến một bài ở giữa cuốn sách, Na Lan sửng sốt, cô lại nhìn cách đánh dấu sách bằng dây đàn, trang này là một chuyện ngắn viết về vụ án, tiêu đề được Mễ Trị Văn dùng bút đỏ khuyên rất đậm, Lã công thất tiết[1].

    [1]. Ông họ Lã đánh mất khí tiết, vi phạm đạo đức.

    Khúc đệm

    Năm thứ 3 Thiên Khải, đời vua Minh Hy Tông[2].

    [2] Năm 1623.

    Trước khi thoái ngũ ở Đông Xưởng[3], Lã Diệp Hàn rất hiểu cái nơi mà mình phục vụ này, cái nơi nổi tiếng từ triều đình đến giang hồ đến dân chúng này, là một tổ chức cực kỳ thối nát. Ông là một thám tử cao thủ được tuyển chọn kỹ càng, là một dịch trưởng đeo kim bài ai ai cũng phải kính sợ, ông đã từng nổi danh tận tâm báo quốc, đã từng can dự những cấu kết đáng xấu hổ với trời đất, cho nên, hành động có vẻ như can đảm dừng bước của ông là một sự tự an ủi tâm trạng bất an, là một cách chuộc tội cho nhân cách đang xuống dốc của mình.

    [3]. Là cơ quan mật vụ trấn áp đắc lực, trực thuộc triều đình.

    Ông mừng vì đã lựa chọn ra khỏi Đông Xưởng, làm một tay bổ khoái giúp dân trong các vụ án thường gặp, để tích chút âm đức dương đức, hi vọng mai kia hưởng trọn tuổi trời thì không đến nỗi bị xuống địa ngục A Tỳ.

    Đương nhiên rất ít bộ khoái xuất sắc được hưởng trọn tuổi trời, vụ án rơi vào tay Lã Diệp Hàn không phải là vụ án bình thường.

    Các văn nhân sau này viết truyện hoặc ký sự về vụ án đều gọi nó là vụ án ‘ngón tay khăn máu’. Nạn nhân đều là các cô gái trẻ, sau khi bị hành hạ lăng nhục rồi giết hại, đều bị chặt một ngón tay.

    Hơn hai mươi nạn nhân đều có hoàn cảnh rất khác nhau, tiểu thư khuê các, con gái nhà lành, gái quê lam lũ, gái làng chơi ở chốn yên hoa... đủ cả. Hung thủ chỉ có mục đích khát máu là giết các cô gái vô tội chứ không có thâm ý gì rõ rệt.

    Theo kinh nghiệm của Lã Diệp Hàn, kẻ ác như thế chỉ có thể khái quát bằng hai chữ “tà ma”.

    Không chỉ tà ma, hắn còn rất mưu trí tinh khôn, giỏi giấu mặt và có võ công siêu việt.

    Trước khi Lã Diệp Hàn nhận làm vụ án này, đã có ba bộ khoái dày dạn phải gục ngã bởi tay hung thủ, hai chết một bị thương, lại bị thương nặng ở não đến nỗi quên cả họ tên mình, quên cả người nhà, chẳng khác gì thằng điên, lúc cười lúc khóc, không thể tự kiểm soát bài tiết, sống mà khổ hơn chết. Lã Diệp Hàn nhìn thảm cảnh của đồng nghiệp, ông thề với mình sẽ báo thù rửa hận cho họ, giành lại vị thế cho bộ khoái, trừ hại cho dân chúng.

    Nhưng đã sáu năm tròn, kẻ ác ma chặt ngón tay vẫn bí mật tồn tại giữa chốn giang hồ ở phủ Giang Kinh, Lã Diệp Hàn biết tên khốn ấy đang sống ở địa bàn này nhưng hy vọng lôi hắn ra trước pháp luật dường như ngày càng mong manh.

    Khi còn ở Đông Xưởng, Lã Diệp Hàn là một thám tử hàng đầu, ông không lần theo các manh mối không liên quan. Ông hiểu rằng cách điều tra khám phá hiệu quả nhất là phân tích tổng hợp, suy luận ra con người, tính cách, quy luật hành vi của hung thủ. Ông sưu tầm đầy đủ các tư liệu về vụ án “ngón tay khăn máu”, địa điểm gây án, khoảng thời gian giãn cách giữa các vụ án, đặc điểm của nạn nhân, thủ đoạn gây án... sau đó ông nghiền ngẫm suy đoán thấu đáo, suy ra lần gây án tiếp theo của hung thủ, hy vọng sẽ bắt được y trong lần gây án sắp đến.

    Hai năm sau, Lã Diệp Hàn không thể không thừa nhận, đối thủ của ông vẫn lì lợm ẩn mình trong bóng tối, y hơn hẳn những tên ác ôn nông nổi ngu xuẩn thô bỉ, y là tên tà ma đầy mưu mô toan tính và ngông cuồng đến cùng cực.

    Rõ ràng Tà ma cũng biết rõ về Lã Diệp Hàn cao thủ mới nhậm chức tổng bộ khoái phủ Giang Kinh này từng làm ở trung tâm mật vụ tối cao Đông Xưởng của triều đình Đại Minh, từng khám phá ra nhiều vụ án kinh thiên động địa. Và thế là Tà ma bỗng nổi cơn hưng phấn gây án. Y cố tình để lại những manh mối mà phải rất đau đầu suy ngẫm mới nhận ra, để cho Lã Diệp Hàn từng bước tiếp cận y. Nhưng hết lần này đến lần khác y vẫn thoát hiểm trong gang tấc.

    Mỗi lần y thoát hiểm thì một cô gái vô tội phải bỏ mạng thê thảm.

    Một cái khăn tay dính máu, một bài thơ Đường, một con nhện đỏ sẫm, một thanh kiếm gãy, một con thuyền nan thủng đáy... là nhũng manh mối mà Tà ma để lại cho Lã Diệp Hàn. Y đều bố trí rất có dụng ý, hư hư thực thực, mờ ảo khó lường, chỉ có cao thủ phá án như Lã Diệp Hàn mới hiểu nổi và có đủ tư cách để chơi trò mèo vờn chuột với y. Có điều, trong trò chơi này ai là mèo ai là chuột, thì thực khó nói. Có thế mới thú vị! Hẳn là Tà ma đã sống sáu năm trời khoái trá nhất trong đời y.

    Còn Lã Diệp Hàn, sự nhẫn lại của ông dần bị bào mòn. Cảm giác thất bại gặm nhấm từng chút một lòng tự trọng của ông. Trong sáu năm trời, Giang Kinh ba lần thay tri phủ, đám quan lại khó tránh khỏi bàn tán, thậm trí nghi ngờ vị tổng bộ khoái ì trệ không thể phá án này đã “ăn ở hai lòng”.

    Một phó bộ khoái được điều từ kinh thành đến, tên là Mạc Tông Trạch, có lẽ tri phủ sẽ để anh ta thay chỗ Lã Diệp Hàn. Mạc Tông Trạch tuổi trẻ tài ba, rất nổi tiếng vì đã từng phá nhiều vụ án lớn ở kinh thành, được điều về Giang Kinh để hiệp trợ phá vụ án “ngón tay khăn máu”. Rõ ràng chuyện này thể hiện quan trên đã thất vọng với Lã Diệp Hàn. Lã Diệp Hàn thua kém thì đã rõ, tuổi ngoại tứ tuần, trông già nua với khôn mặt đã có không ít nếp nhăn, còn Mạc Tông Trạch là chàng trai trắng trẻo, môi hồng, mày dài, mắt sáng. Lã Diệp Hàn lưng đã hơi còng, Mạc Tông Trạch đẹp trai cao lớn; Lã Diệp Hàn ít được gặp quan trên, Mạc Tông Trạch ngồi nâng cốc với tri phủ, tổng binh là thường. Lã Diệp Hàn đến giờ vẫn độc thân, Mạc Tông Trạch thì đã sớm lấy vợ đẹp ở kinh thành là tiểu thư con nhà thế gia võ quan khai quốc, nghe nói võ công của cô chẳng kém gì Mạc Tông Trạch.

    Nhưng, điều mà Mạc Tông Trạch không có là sự tôn kính với bề trên và đồng nghiệp. Vừa đến Giang Kinh anh ta đã chỉ trích cả hệ thống trinh thám phá án của Lã Diệp Hàn. Ví dụ, tại sao Tà ma vẫn nhơn nhơn sát hại các cô gái vô tội? Tại sao lại chặt ngón tay? Lã Diệp Hàn nói, hung thủ muốn chứng minh rằng y tài giỏi hơn cả các cao thủ ở nha môn, ngón tay là chiến lợi phẩm, là vật kỷ niệm của y, y rất kiêu căng. Mạc Tông Trạch thì cho rằng đó là hung thủ tự bù đắp cho mình, bù đắp nỗi cô đơn, kém cỏi, sự nghiệp thất bại, thậm chí cho “của quý” bất lực, “ngón tay” đại diện cho “của quý” của y chứ còn gì nữa?! Lập luận kỳ quái của anh ta lại được tri phủ nhiều lần tán thưởng!

    Lã Diệp Hàn càng rơi vào trạng thái bức xúc nặng nề.

    Bấy giờ đang độ giữa thu, lúc chiều muộn khói mây mịt mờ, những ngôi nhà nhỏ bên sông Thanh An dường như ngùn ngụt âm khí. Lã Diệp Hàn đang ẩn thân dưới cái hố, ông nhìn qua khe nắp hố quan sát ô cửa sổ hé mở trên tầng hai của một ngôi nhà. Lưng giắt be rượu mạnh Nhất Giang Thu đặc sản địa phương, ông cầm lên tợp một ngụm lớn. Đã mấy đêm không ngủ. Vị cay xè thấm vào ruột gan của người đang sầu muộn chẳng giúp được ông thêm hưng phấn, nhưng nó như một liều thuốc tê khiến ông có thể tạm gác lại vấn đề tự trọng và thành kiến, tạm quên đi chuyện thế tục “tam thập[4] công danh”, ông bất giác nhớ đến Đông Xưởng với bức họa danh tướng Nhạc Phi treo ở đại đường, nhớ đến bức hoành “Vạn thế lưu phương[5]” treo ở cửa vào... Giờ đây ông thấy “Vạn thế lưu phương” như một sự chế nhạo những hành vi đi ngược đạo lý của Đông Xưởng, và cũng đang giễu cợt chính ông – kẻ bất lực trước một vụ án lớn.

    [4]. Mượn ý câu nói của Khổng Tử, “(Ngô) tam thập nhi lập” = (Ta) 30 tuổi đã lập thân (tự lập, thành công...)

    [5]. Để lại tiếng thơm cho muôn đời.

    Nhưng dù sao những năm tháng làm ở Đông Xưởng cũng dạy cho ông điều này, muốn đạt được mục đích thì phải dùng bất cứ thủ đoạn nào.

    Đây là ưu thế lớn nhất của ông để chiến thắng Tà ma.

    Hung thủ của vụ án “ngón tay khăn máu” đã trải nhiều năm “thành công”, có lẽ y đã coi thường một điều quan trọng, không phải chỉ có mình y biết sắp đặt.

    Trong ngôi nhà gác nhỏ kia, cách đây bốn tháng có một phụ nữ độc thân, một bà già giúp việc và một a hoàn đến ở. Đó là một thiếu phụ mới góa chồng, nhan sắc tuyệt trần, từ trang phục cho đến bài trí trong nhà đều cực kỳ sang trọng, nàng lại rất sành vẽ hoa. Sự xuất hiện của nàng bỗng khiến cho các nhân vật phong lưu ở Giang Kinh xao động. Kẻ đã có vợ, người chưa vợ và người sắp lấy vợ đều như đàn ong phát cuồng đua nhau tìm đến thăm hỏi, nàng cung kính tiếp đãi, tươi cười đón nhận những tình ý nồng nàn đang tràn đến như thủy triều, nhưng nàng không lơi lả buông tuồng, nàng chỉ để cho những người tự cho mình là phong lưu ấy có được chút tưởng tượng và kỳ vọng vừa đủ nhưng không thể vượt quá giới hạn.

    Chỉ cần các nhân sĩ hơi nghe ngóng một chút sẽ biết ngay, Thích phu nhân tuổi mới 20, xuất thân danh gia vọng tộc ở Nam Kinh. Nhà họ Thích rất phồn thịnh đông đúc, con cháu dù làm quan hay là thương nhân đều thành công hiển hách. Nếu nói chuyện với bất cứ ai trong số họ sẽ biết ngay, trước khi đi lấy chồng, Thích phu nhân đã nổi tiếng là người đẹp vô song ở đất Kim Lăng, khiến vô số sĩ tử, anh hùng hào kiệt phải chết mê chết mệt. Nhưng số phận oái oăm, nàng lại chọn một tài tử là Trương Hữu Linh làm chồng. Tài tử bạc mệnh, sau hai năm chung sống chàng đã qua đời. Thích phu nhân đau đớn vô cùng, nàng không muốn ở lại cái chốn thương tâm ấy nhưng cũng không muốn xa hẳn chốn phồn hoa, nên nàng đã chọn đô thị lớn Giang Kinh cư trú.

    Thích phu nhân là then chốt trong kế hoạch thú vị của Lã Diệp Hàn.

    Đúng là có Thích phu nhân và các chuyện liên quan, nhưng chỉ có những người trong nhà họ Thích mới biết rõ sự thật, Thích phu nhân thực sự thì đã bí mật cắt tóc đi tu, bên ngọn đèn xanh và dưới chân bàn thờ Phật, tâm hồn bị tổn thương của nàng sẽ được an ủi. Còn mỹ nhân đang ở ngôi nhà nhỏ bên sông chẳng qua chỉ là một ca kỹ mới nổi danh trên sông Tân Hoài. “Thích phu nhân giả” này cũng có nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành và biệt tài cầm kỳ thi họa. Lã Diệp Hàn đã dùng vốn liếng dành dụm bao năm qua của mình để thuê ngôi nhà này cho cô ta, thuê người giúp việc, a hoàn, và chu cấp đủ mọi phí tổn sinh hoạt.

    Còn về con cháu nhà họ Thích? Họ vui lòng nói dối giúp Lã Diệp Hàn, cũng vì muốn báo đáp ân nghĩa rất lớn năm xưa ông đã giúp họ. Đó là vụ án cuối cùng ông làm trước khi rời Đông Xưởng, vụ án “Kim Lăng di lão”. Vào thời Minh, cụ tổ nhà họ Thích từng giúp sức đưa Kiến Văn Đế lên ngôi ở Kim Lăng, sau khi Kiến Văn Đế bị Thành Tổ phế truất thì nhà họ Thích bị liên lụy, luôn là đối tượng bị Đông Xưởng giám sát. Cách đây độ mười năm có người tố cáo với Đông Xưởng rằng người nhà họ Thích cấu kết với một số “người do Kiến Văn Đế để lại”, Lã Diệp Hàn được cử đi điều tra. Vừa nghe đến cái “nhiệm vụ” này ông đã cười ngao ngán, vụ án Kiến Văn trôi qua đã 200 năm, dù những “người để lại” là có thật thì họ còn làm nổi trò trống gì? Họ đoạt lại quyền bính sao được? Đây chẳng qua là do một số kẻ trong triều cố tình bài xích nhà họ Thích mà thôi. Theo phong cách thà xử oan còn hơn bỏ sót của Đông Xưởng, dù là chuyện vu vơ thì nhà họ Thích cũng không thể không bị liên đới, phải hành hạ khiến họ tan cửa nát nhà mới xong. Âu cũng là khí số nhà họ Thích đã tận. Lã Diệp Hàn chán ghét cái thói ngang ngược trấn áp người ta, sau khi xác định nhà họ Thích trong sáng vô tội, ông chỉ viện cớ họ “không tử tế với bà con” phạt họ nộp bạc, rồi cho cả nhả được an toàn. Cho nên, vào lúc hệ trọng hiện giờ, nhà họ Thích sẵn sàng giúp Lã Diệp Hàn giăng bẫy.

    Đúng là lúc hệ trọng, là thời khắc rất hệ trọng trong sự nghiệp và trong cuộc đời Lã Diệp Hàn.

    Ông đã phân tích, cách thức Tà ma gây án chặt ngón tay có vẻ như tùy hứng, nhưng ông cũng nhận ra vài nét có tính quy luật. Thoạt đầu, chắc là vì Tà ma chưa đủ lông đủ cách nên y chỉ chọn những phụ nữ bình thường để sát hại, vợ giận chồng bỏ về nhà mẹ đẻ, con gái lén lút hẹn hò với tình nhân, a hoàn đi vào những lối tắt ngõ tối, kỹ nữ lầu xanh hạng bét nhan sắc đã tàn phai... giết những người này khá dễ, quan phủ cũng không mấy quan tâm. Ít lâu sau Tà ma dần có kinh nghiệm, y chọn đối tượng “khó làm” hơn, là tiểu thư khuê các, đào hát đã có danh tiếng, nữ đạo sĩ công phu cao cường, nạn nhân của vụ gần đây nhất là một tiểu thiếp của tổng binh phủ Giang Kinh, cứ đà này thì sẽ đến lượt con gái cưng của tổng binh cũng nên.

    Cho nên Mạc Tông Trạch được “mời” đến gấp, vì lửa đã bén đến cổng nha môn quan phủ rồi.

    Lã Diệp Hàn suy luận rằng, Tà ma nhiều lần đã gây án thành công, đối phó với quan phủ cũng thành công, thì y sẽ càng to gan và càng muốn gây ra vụ án chấn động hơn nữa, có thế y mới thực sự thỏa mãn.

    Và đó cũng là pháp bảo để Lã Diệp Hàn chiến thắng Tà ma, ông gần như đã hiểu thấu tâm can y, cảm nhận được nhu cầu của y nên sẽ giúp y lựa chọn mục tiêu tiếp theo.

    Ông có kế hoạch cài Thích phu nhân giả từ trước khi tiểu thiếp của tổng binh bị giết hại, bấy giờ quy luật hoạt động của Tà ma đã hình thành, vụ án tiểu thiếp tổng binh chỉ chứng minh thêm suy luận của Lã Diệp Hàn. Tà ma càng thèm khát gây trọng án càng hay, y chưa thỏa mãn với việc sát hại dân thường. Cho nên, “Thích phu nhân” dòng dõi cao sang danh giá lại đang nổi tiếng trong chốn xã giao Giang Kinh, sẽ là cơ hội trời cho, Tà ma không thể không mò đến.

    Mấy tháng nay hầu như đêm nào Lã Diệp Hàn cũng đến mai phục bên ngoài ngôi nhà nhỏ của Thích phu nhân. Tà ma thường gây án vào ban đêm, cho nên chưa có ai nhìn thấy mặt mũi y ra sao, các bộ khoái biết mặt y thì đều đã bị giết chết hoặc mất trí nhớ. Đôi khi Thích phu nhân cũng tiếp khách buổi tối, đèn thắp sáng trưng, văng vẳng tiếng đàn tranh vọng ra, những lúc đó Lã Diệp Hàn có thể ngủ gật chốc lát. Khi khách ra về, căn nhà nhỏ tắt đèn tối om, thì ông phải tỉnh táo căng mắt ra. Canh gác kiểu này quả là thử thách lớn đối với thể xác và ý chí, cũng may Lã Diệp Hàn là người có nội công thâm hậu nên mới trụ vững ngần này tháng trời. Mạc Tông Trạch cũng được Lã Diệp Hàn gọi đi cùng theo dõi, đây cũng là dịp để một bộ khoái trẻ tuổi thể nghiệm nỗi gian nan khi điều tra phá án.

    Mạc Tông Trạch coi thường hành động “gác đêm” này của Lã Diệp Hàn, đường đường tổng bộ khoái của phủ Giang Kinh lại phải nấp dưới căn nhà của đàn bà, cứ như sắp sửa xông vào để bắt trai trên gái dưới, đây gọi là khám phá vụ án hay sao? Nhưng là cấp phó thì anh ta phải tuyệt đối phục tùng cấp trên.

    Lã Diệp Hàn linh cảm rằng đêm nay ông sẽ có thu hoạch sau bao ngày vất vả. Từ sáng sớm, bà già giúp việc bỗng đau ngực dữ dội, thầy lang chạy vào chạy ra, bà là người địa phương nên con trai đến đón về nhà chữa trị. Sau đó không hiểu sao Thích phu nhân lớn tiếng mắng mỏ a hoàn, nó bưng mặt khóc rồi chạy ra ngoài, lủi đi đâu không biết. Trong nhà chỉ còn một mình Thích phu nhân.

    Mạc Tông Trạch được Lã Diệp Hàn phân công mai phục ở một bên của ngôi nhà, có thể thấy rõ mọi động tĩnh trên cửa sổ phía tây tầng hai và cửa sau. Anh ta đã được dặn dò cấm tự ý hành động, khi nào nhìn thấy mũi tiêu lửa bắn lên trời thì mới được xông vào nhà. Cả hai sẽ đánh kẹp từ hai phía trước sau, Tà ma dẫu mọc cánh cũng không thể chạy thoát. Mạc Tông Trạch cố nhịn cười, nói, vâng, tôi sẽ căng mắt ra, nếu hung thủ vào nhà thì tôi xin chờ lệnh ông.

    Chữ “nếu” đầy vẻ nghi ngờ, tại sao ông biết tối nay hung thủ sẽ xuất hiện?

    Lã Diệp Hàn không đần, tất nhiên nhận ra ẩn ý của thuộc hạ nhưng ông không tỏ thái độ. Tối nay bắt được Tà ma, mới là bài học tốt nhất cho gã trẻ tuổi kiêu ngạo này.

    Đã quá nửa đêm, trên gác vẫn không có động tĩnh gì. Trong kế hoạch của Lã Diệp Hàn, “động tĩnh” là then chốt. Ông cho rằng Tà ma sẽ không khệnh khạng đi vào ngôi nhà, cho nên rất cần chú ý quan sát, rất có thể mình sẽ sơ suất không nhận ra y. Vì thế trước khi đưa Thích phu nhân giả vào ở, ông đã bí mật lắp một cái ống sắt từ buồng ngủ luồn ra ngoài chạy xuống nơi ông đêm đêm ẩn nấp, như thế hễ nghe thấy tiếng động lạ trên đó ông sẽ kịp thời có phản ứng. Tốt nhất là vẫn kịp cứu cô gái đáng thương rồi sẽ bắt sống hung thủ. Còn không thì, bắt được Tà ma từng tàn sát bao sinh linh thì dù phải hy sinh một ca kỹ cũng bõ.

    Gió lạnh bên sông bủa vây, hàn khí như thấm vào tim. Lã Diệp Hàn lại nhấp một ngụm rượu.

    Có tiếng kêu thét truyền qua ống sắt đến tai ông.

    Đúng, không nằm ngoài dự đoán!

    Lã Diệp Hàn nhảy vọt lên, cái nắp bùn và cỏ trên đầu vỡ vụn. Sau đêm nay cũng hoàn thành sứ mệnh. Lúc tung mình lên không trung, ông phóng một mũi tiêu lửa như đã hẹn, đầu mũi tiêu nhúng bột diêm tiêu lưu huỳnh, khẽ mài vào đá là cháy, một đường cung đỏ lửa rạch chéo màn đêm.

    Lúc này, dù Tà ma trong nhà phát hiện ra có mai phục, nhưng bị hai bộ khoái thượng thặng cùng đánh kẹp lại thì y thoát sao nổi?

    Sau vài lần lăng không, Lã Diệp Hàn đã lên đến cửa sổ tầng hai và nhảy vào luôn.

    Đây là buồng ngủ của Thích phu nhân, gió thổi màn trướng đung đưa, những cái vòng đeo kêu tinh tang, ngoài ra không có bất cứ âm thanh nào khác.

    Đêm đen tràn vào căn buồng không một bóng người!

    Nhưng Lã Diệp Hàn cảm thấy có người đang lặng lẽ tiếp cận mình. Chắc chắn là tên hung thủ với võ công cao siêu mới có thể gây tội ác hàng chục năm mà vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.

    Sát khí xuyên qua rèm tràn vào từ cửa lớn. Lã Diệp Hàn cảnh giác nghe ngóng, tay cầm thanh kiếm không hề run, mặc dù bàn tay đang nhớp mồ hôi.

    Rèm cửa hơi động đậy, kiếm ảnh tung hoành.

    Ông không nhớ nổi đời mình đã gặp phải đối thủ nào có kiếm pháp siêu việt như thế này. Các vị công công trong đại nội Đông Xưởng đều biết kiếm pháp của Lã Diệp Hàn là đệ nhất trong đám cao thủ như mây của Đông Xưởng, cho nên nếu chịu nổi mười chiêu của ông mà chưa gục, thậm chí dám đánh đến cùng, thì đã được coi là tuyệt đỉnh.

    Khi cao thủ quyết đấu, “đánh đến cùng” cũng tức là một mất một còn.

    Lã Diệp Hàn vã mồ hôi trán. Liệu mình có thể sống sót không?

    Tuy nhiên tay ông cầm kiếm không hề run.

    Vì kiếm trong tay đối phương cũng không hề run, mũi kiếm của y đang chĩa thẳng vào cổ ông.

    May sao, mũi kiếm của ông cũng đang chĩa thẳng vào cổ y.

    “Lã đại nhân!” Đối phương kêu lên rồi lập tức thu kiếm. Đó là Mạc Tông Trạch.

    Lã Diệp Hàn cũng thu kiếm lại, thở phào. Nhưng ông lập tức băn khoăn, hai bộ khoái, một xông vào từ cửa sổ phía tây một xông vào từ cửa sổ phía nam, rốt cuộc đối mặt với căn buồng trống, Thích phu nhân giả biến mất!

    Cả hai rất hiểu ý nhau cần phải làm gì. Lã Diệp Hàn lại từ cửa sổ bay xuống sân, đạp tung cửa ra vào, lục soát khắp tầng dưới. Mạc Tông Trạch ở lại kiểm tra buồng ngủ và cả tầng hai.

    Không thấy bóng Thích phu nhân đâu.

    Cả hai lại tập hợp. Mạc Tông Trạch nhìn khuôn mặt già nua của Lã Diệp Hàn, an ủi, “Lã bộ khoái đừng quá buồn, chúng ta lập tức bắn hỏa tiễn thông báo cho các bộ khoái đang mai phục quanh đây, có lẽ vẫn kịp chặn bắt hung phạm.”

    Lã Diệp Hàn sửng sốt, bộ khoái nào mai phục quanh đây?

    Mạc Tông Trạch lúng túng nói, “Bỉ chức biết đại nhân tin tưởng lần này sẽ thành công, nên đã tự ý huy động các bộ khoái mai phục khắp một dặm quanh đây...”

    “Làm bừa rồi! Làm bừa rồi!” Lã Diệp Hàn hét lên. “Dù huy động hết các bộ khoái thì vẫn không đủ. Chưa kể, càng huy động đông người thì kế hoạch đêm nay càng dễ bị lộ, nếu các anh em phải đơn độc đối mặt với hung thủ thì chỉ bỏ mạng vô ích mà thôi!”

    Mạc Tông Trạch ngớ ra, xịu mặt xuống, rồi lạnh lùng nói, “Chẳng lẽ Thích phu nhân giả bỏ mạng vô ích hay sao?! Khi sắp đặt kế hoạch này, đại nhân có nghĩ cho cô ta không?”

    Lã Diệp Hàn tức quá trợn tròn đôi mắt, chỉ vào mặt Mạc Tông Trạch, “To gan! Thì ra... ta... ta đã...” Ông bỗng thấy ngực đau kinh khủng. Nỗi đau thất bại không sao chịu đựng nổi, rượu mạnh và trạng thái căng thẳng do thức đêm cùng lúc dâng lên khiến ông quay cuồng đầu óc, trước mắt hiện lên nét cười nhăn nhở đắc ý của Tà ma. Ông nhắm nghiền mắt trong cơn đau đớn.

    Khi tỉnh lại, Lã Diệp Hàn thấy mình đang nằm trên phản gỗ ở nhà, dẫu không ấm áp thì vẫn là thân thiết.

    Đã xảy ra chuyện gì vậy?

    “Lã đại nhân đã thấy khá hơn chưa?” Người hỏi là ông thầy lang quen vẫn giao thiệp với các bộ khoái. Sao ông ta lại ở đây?

    Dưới ánh đèn lại là khuôn mặt của Mạc Tông Trạch, “Vừa nãy đại nhân vừa bị ngất ở hiện trường, bỉ chức vực đại nhân lên ngựa chở về nhà. Thầy lang nói ngài thiếu ngủ lâu ngày, khí huyết suy kiệt... Thứ cho bỉ chức lắm lời, đại nhân là trụ cột của anh em bộ khoái phủ Giang Kinh, cần phải giữ gìn, không thể gục ngã...”

    Lã Diệp Hàn thấy ấm lòng. Xem ra lâu nay mình có phần hà khắc với Mạc Tông Trạch.

    Thầy thuốc cáo lui, nói là về bốc thuốc, lát nữa sẽ cho người cầm đến.

    “Mạc bộ khoái cũng nên về nghỉ đi, trời sắp sáng rồi đấy.”

  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tơ đồng rỏ máu


    phan 16

    Mạc Tông Trạch lại ngồi xuống đầu giường, “Bây giờ về cũng không ngủ được, tôi ở lại với đại nhân.”

    “Tôi đã quen ở một mình, không sao đâu. Mạc bộ khoái còn có gia đình, đừng để phu nhân phải sốt ruột ngóng đợi.”

    Mạc Tông Trạch mỉm cười, “Nhà tôi đã quen rồi. Cô ấy hạ cố đến làm vợ một anh bộ khoái, thì phải có những đêm phải ở nhà một mình chăn đơn gối chiếc...”

    Không hiểu sao Lã Diệp Hàn bỗng có cảm giác bất an. “Đã thế, chúng ta sẽ bàn các bước tiếp theo vậy...”

    “Bây giờ đại nhân phải nghỉ ngơi! Đợi đại nhân khỏe lại đã chúng ta sẽ lại bàn công việc.”

    “Không! Chuyện này rất quan trọng. Vụ việc Thích phu nhân xảy ra hôm nay chỉ cách vụ sát hại tam phu nhân của tổng binh chưa đầy một tháng, chứng tỏ hung thủ gây án ngày càng dày, vụ tiếp theo có thể sẽ cận ngày hơn. Tôi đoán, mục tiêu sẽ là một phụ nữ còn đình đám hơn, khó gây án hơn cả Thích phu nhân và tam phu nhân của tổng binh... chúng ta nên sớm lường trước.” Lã Diệp Hàn do dự, có nên nói ra nỗi lo rất lớn của ông hay không?

    Mạc Tông Trạch không hổ danh là nhân vật tài ba xuất chúng, lập tức đoán ra ý nghĩ của Lã Diệp Hàn, “Ý Lã đại nhân là... vợ tôi...”

    “Thứ lỗi cho tôi...”

    Mạc Tông Trạch bật dậy tung người chạy ngay đến cửa. Lã Diệp Hàn rất hiểu Mạc Tông Trạch thương yêu vợ đến nhường nào! Nhưng anh ta lại lưỡng lự, lắc đầu nói, “Nhà tôi võ công và mưu trí không hề thua kém tôi. Huống chi trong nhà có đủ các thiết bị phòng vệ, hung thủ muốn làm càn thì chỉ có cách lên trời mà hỏi. Gặp lúc nguy nan cô ấy còn có một thứ ám khí tuyệt mật, có thể tự giải cứu vào lúc gay go nhất.”

    “Thế ư?”

    “Ngón đeo nhẫn của cô ấy đeo chiếc nhẫn ngọc đen, trông rất bình thường nhưng bên trong lại chứa chất dịch độc, kể cả khi bị bắt trói, cô ấy chỉ cần kẹp ngón giữa và ngón út lại thì chất độc sẽ phun ra... Tôi nói điều này hơi xấu hổ, chỉ ngoại trừ lúc hai chúng tôi ở bên nhau trong khuê phòng thì cô ấy mới tháo nhẫn ra...”

    Lã Diệp Hàn ngập ngừng, “Vậy thì, chỉ khi nào cô ấy lỡ mất cảnh giác...” Ông bỗng cảm thấy lần nói chuyện như thế này với Mạc Tông Trạch hình như đã từng xảy ra. Ông cố nhớ lại, hình như một lần ở nha phủ... Ông không nhớ ra nữa.

    Mạc Tông Trạch rất cảm kích sự quan tâm của Lã Diệp Hàn, vội cáo từ rồi ra về. Chỉ còn lại một mình Lã Diệp Hàn, như hôm qua, hôm kia, và vô số ngày trước đó. Ông khẽ nhắm mắt lại, nhưng trước mắt ông không phải là một khoảng trống yên ả mà là vô số cái bóng không ngừng biến ảo. Đi theo những cái bóng này, hình như ông bước vào một thế giới khác. Điều đáng buồn là thế giới này cũng như thế giới ông đang sống, vẫn cô độc, vẫn là ngôi nhà gác nhỏ bên sông gió lạnh hắt hiu, vẫn có bao kiếm ảnh quay cuồng, vẫn là cô gái mong manh như cánh hoa rơi, vẫn là những ngón tay nhợt nhạt.

    Người đầm đìa mồ hôi, ông ra khỏi giường. Trời chưa sáng, đèn nến đã tắt ngấm. Mười năm sống một mình, ông thuộc căn nhà này như thuộc lòng bàn tay.

    Trong bóng tối, ông đưa tay lên lật bức tranh Nhạc Phi treo trên tường, rối nhấc một viên gạch ra.

    Trong hốc tường đó có một cái hộp vuông mỗi bề chừng gang tay.

    Hộp bốc ra một mùi kinh khủng.

    Ánh mắt ông đờ đẫn khác hẳn mọi ngày. Có lẽ vì vẫn ốm dở, vì thiếu ngủ lâu ngày, nên tay ông cũng cứng đơ và hơi run run. Ánh mắt ông nhìn vào một vốc xương khô trong hộp. Những mẩu xương thon nhỏ, và ngắn, có mẩu rất ngắn. Nếu tỉ mỉ chắp ba mẩu làm một thì nó sẽ có độ dài bằng một ngón tay.

    Cuối cùng ông chăm chú nhìn vào một vật trong hộp, không phải xương.

    Là một ngón tay chưa bị phân hủy!

    Thậm chí có thể nói ngón tay này vẫn còn hơi ấm, vì nó vừa mới bị cắt ra cách đây chưa đầy hai canh giờ. Ngón tay đang đeo một chiếc nhẫn ngọc đen.

    Là... là chuyện gì thế này? Tay ông run run cầm cái ngón tay lên, chăm chú nhìn cái nhẫn ngọc đen. Thế này là sao?

    Tiếng cười như điên. Ai đang cười như điên?

    Cười nhạo cái gọi là “ám khí tuyệt mật”.

    Hồi trẻ luyện kiếm, thường hay chơi trò lia kiếm chém đứt đầu con ruồi đang bay. Nay đã có tuổi, mắt không còn tinh như xưa, nhưng nhẫn ngọc đen không khó nhận biết như cái đầu con ruồi. Nhẫn đen, đeo trên ngón búp măng trắng nõn, đủ để kiếm khách nhận biết và lia một nhát đứt ngay.

    Người con gái đáng thương ấy đã phí hoài cả tuyệt kỹ võ công gia truyền, chưa kịp thi triển tài nghệ đã phải gục ngã dưới lưỡi kiếm của hắn. Chất kịch độc chứa trong nhẫn ngọc đen chưa kịp phun thì đã phải đi theo ngón tay đeo nó đến nằm trong cái hộp này!

    Lã Diệp Hàn run bắn người. Cái chứng phong ma đáng ghét. Nếu ngươi rơi vào lưỡi kiếm của ta, ta sẽ vận dụng hết bản lĩnh chó săn của Đông Xưởng để tra tấn ngươi bằng cực hình.

    Cười như điên. Hung thủ vẫn đang cười như điên?

    Vang ngay bên tai Lã Diệp Hàn.

    Lã Diệp Hàn đưa tay ra rờ thanh kiếm. Kiếm của mình đâu rồi? Chắc nó đã được Mạc Tông Trạch đặt bên giường. Ta đã đi quá xa rồi.

    Ta đã đi quá xa. Bèn quay lại, nhưng liền đối mặt với mũi kiếm nhọn. Mũi kiếm ấy, sau một thoáng do dự khó bề nhận ra, đã thọc ngay vào tim Lã Diệp Hàn.

    Lã Diệp Hàn gục xuống. Thấy không còn giãy giụa phản ứng gì nữa, Mạc Tông Trạch mới rút kiếm ra. Anh không nhìn thanh kiếm đang rỏ máu, anh nhìn chăm chăm vào ngón tay văng ra từ tay Lã Diệp Hàn. Ngón tay của người vợ yêu quý. Cái nhẫn ngọc đen. Anh đưa tay về phía cái nhẫn, chỉ cần khẽ bóp nó thì sẽ có một tia đen đen phun ra, chất kịch độc dính da là chết ngay tức khắc.

    Anh không thiết sống nữa. Mạc Tông Trạch hối hận muốn chết. Anh hối hận vì tự đắc nghĩ mình tài cao, rốt cuộc lại là kẻ phi thực tế, anh đã phân tích thấu đáo về Lã Diệp Hàn – cô độc, suy sụp, sự nghiệp bất như ý, tất cả đều phù hợp với Lã Diệp Hàn! Khi Mạc Tông Trạch đến lầu xanh thăm dò còn nghe bọn họ xì xào, cái của kia của Lã bộ khoái không hoạt động, người xuất thân từ đại nội có khác!

    Mạc Tông Trạch ở kinh thành cũng từng nghe đồn đại, Lã Diệp Hàn rời Đông Xưởng không phải vì võ công chưa giỏi, thủ đoạn chưa đủ tàn độc, mà là vì ông ta có biểu hiện của chứng “phẫn uất” và “cuồng điên”, về danh nghĩa là từ chức nhưng thật ra là bị cách chức. Về Giang Kinh làm bộ khoái, các chứng bệnh kia không thể tự tiêu tan. Mạc Tông Trạch hối hận vì đã không sớm khẳng định một giả thiết, Lã Diệp Hàn chính là tên Tà ma giấu mặt vô cùng kín đáo! Giờ đây nghĩ lại, thấy có không ít dấu hiệu chứng tỏ điều này.

    Có tên sát nhân nào võ công cao cường đến mức hạ sát hoặc đánh trọng thương một loạt cao thủ của nha môn? Có tên sát nhân nào đủ trí khôn nhận biết thậm chí lợi dụng ngay những cái bẫy do chính Lã Diệp Hàn bố trí?

    Chỉ có Lã Diệp Hàn mà thôi.

    Lã Diệp Hàn là Tà ma đồng thời cũng là người đã tổn hao tâm trí và công sức để lùng bắt Tà ma.

    Một Lã Diệp Hàn làm tổng bộ khoái của Giang Kinh đầy chính nghĩa, và một Lã Diệp Hàn là hung thủ của các vụ án “ngón tay khăn máu”. Nếu kẻ thứ nhất bắt được kẻ thứ hai thì có thể chứng minh giá trị của Lã Diệp Hàn, sẽ để cho Đông Xưởng thấy hắn dù bị tống đi xa hắn vẫn phá được vụ án lớn. Nếu kẻ thứ hai tiếp tục xỏ mũi kẻ thứ nhất thì vẫn có thể chứng minh rằng, dù hắn có rớt xuống làm kẻ đồi bại thì hắn vẫn khiến cao thủ hàng đầu của Đông Xưởng phải bó tay.

    Một thân xác ngày càng già đi lại chứa hai tên Lã Diệp Hàn khác nhau, khiến Mạc Tông Trạch không sao ngờ được.

    Thích phu nhân giả, là một diệu kế. Mạc Tông Trạch càng không ngờ thừa lúc anh canh chừng ngoài ngôi nhà nhỏ thì Lã Diệp Hàn đã lẻn đến Mạc phủ của anh. Mạc phu nhân đáng thương, thấy tổng bộ khoái Giang Kinh đồng nghiệp của chồng đến, cứ ngỡ là chồng mình gặp nạn khi làm nhiệm vụ, bèn mở cửa ra thì bị đâm luôn, thiết bị, ám khí và võ công tuyệt kỹ đều bất lực. Khi Mạc Tông Trạch chạy về nhà, nhìn thấy xác vợ, mới hiểu ra tất cả, mới vỡ lẽ tại sao Lã Diệp Hàn lại nói coi chừng vợ anh là nạn nhân tiếp theo.

    Vì đây vốn là mưu toan của Lã Diệp Hàn! Một kế hoạch rất tinh vi. Chẳng qua, Lã Diệp Hàn chính trực và Lã Diệp Hàn tà ma dùng chung một cái đầu và một tâm trí, lúc hoang mang lú lẫn đã nói ra “thiên cơ”.

    Nhìn cái nhẫn ngọc đen, Mạc Tông Trạch nước mắt như mưa, nhưng rồi anh vẫn không bóp cái nhẫn để kết liễu đời mình. Anh biết, Lã Diệp Hàn toi đời thì vụ án “ngón tay khăn máu” sẽ chấm dứt, anh còn trẻ, sự nghiệp của anh đã lên đến đỉnh cao. Nay mai anh sẽ trở thành một tổng bộ khoái trẻ nhất của Đại Minh, tuy đã phải trả giá nặng nề.

    Còn Thích phu nhân giả? Khỏi nói cũng biết chắc chắn cô gái ấy đã chết bởi tay hung thủ Lã Diệp Hàn. Ít lâu nữa sẽ phát hiện ra xác cô và chắc chắn cái xác đã mất một ngón tay.

    Một tháng sau, Mạc Tông Trạch chính thức nhậm chức tổng bộ khoái phủ Giang Kinh. Tổng binh đích thân mở tiệc, toàn thể bộ khoái của địa phương đều đến nâng cốc chúc mừng, cáo biệt cựu tổng bộ khoái trầm uất nát rượu, nghênh đón tân tổng bộ khoái trẻ trung mạnh mẽ. Các đồng nghiệp cảm thấy nhẹ nhõm hẳn đi. Việc Lã Diệp Hàn là hung thủ vụ án “ngón tay khăn máu” đã trở thành một bí mật. Tri phủ, tổng binh và cả Mạc Tông Trạch đều không muốn người đời biết rõ sự thật vì như thế sẽ càng chứng tỏ sự bất lực của đám quan lại ở Giang Kinh, càng khiến cho dân chúng ngán ngẩm bọn quan phụ mẫu chỉ giỏi vơ vét cho đầy túi tham, và cũng khó ăn khó nói với gia đình nhạc phụ Mạc Tông Trạch ở kinh thành xa xôi. Cho nên họ loan tin Lã Diệp Hàn tử trận khi đấu kiếm với Tà ma, Mạc phu nhân cùng chồng kề vai chiến đấu, nàng cũng bất hạnh hy sinh, cuối cùng Mạc Tông Trạch giết được Tà ma, ném xác y xuống sông. Cuộc chiến ấy vô cùng ác liệt, nhanh chóng trở thành câu chuyện ly kì trong dân gian.

    Sự thật, chỉ có Mạc Tông Trạch, tri phủ và tổng binh biết.

    Ít ra là Mạc Tông Trạch cho là thế.

    Cho đến tối hôm nay.

    Trên bữa tiệc tối nay, Mạc Tông Trạch uống hơi nhiều. Sau khi vợ chết, Mạc Tông Trạch bắt đầu kết duyên với rượu, bắt đầu trải nghiệm cảm giác bên mình luôn giắt be rượu như Lã Diệp Hàn. Các ca kỹ xinh đẹp yêu kiều bồi tửu luôn liếc mắt đưa tình, nói năng khiêu gợi, da thịt đụng chạm nhưng Mạc Tông Trạch chẳng hề hứng thú, anh chỉ muốn uống cho thật say.

    Đang lúc tửu hứng dâng trào, một tên hầu của phủ tổng binh tay bưng một cái hộp vội vã bước đến bên Mạc Tông Trạch, thưa, “Mạc đại nhân, vừa nãy có người cầm đến hộp lễ vật, nói rằng phải đưa đến để đại nhân tự tay mở ra.”

    Mạc Tông Trạch cười nhạt, “Ai mà chu đáo thế? Nếu là tri phủ hoặc tổng binh dặn dò thì ta vâng lời ngay, nếu là ai khác nói, thì tạm đặt nó sang bên, ta đem về, lúc nào rỗi sẽ xem.”

    Tên hầu lại thưa, “Người đưa lễ vật nói, nếu đại nhân không mở ra xem ngay, e rằng sẽ gặp đại họa mất mạng.”

    Lúc này tổng binh cũng đã nhìn vào cái hộp quà.

    “Làm gì có chuyện đó!” Mạc Tông Trạch tức giận. “Ngươi câm mồm đi! Xin tổng binh bỏ quá cho, tôi đã nặng lời với gia đinh nhà đại nhân, nhưng nghe đấy... hắn...”

    Tổng binh nói, “Kẻ hầu của ta quá thất lễ... nhưng thiết nghĩ cứ mở xem thì cũng chẳng sao. Không vì câu nói dọa dẫm của người đưa quà thì cũng giải tỏa lòng tò mò...”

    Mạc Tông Trạch khó mà từ chối, đành “Vâng” rồi cầm lấy cái hộp. Bên trên không ghi họ tên người gửi. Lạ thật! Anh đặt hộp lên bàn, bảo mọi người tránh ra, rồi đập một trưởng vào cái hộp.

    Mảnh lụa bọc ngoài bung ra, hộp gỗ mỏng bật nắp, bên trong chỉ có một cái hộp nhỏ làm bằng trúc. Không có ám khí, không có thuốc nổ. Mọi người đều thở phào. Nhưng Mạc Tông Trạch lại cau mày. Anh đã từng nhìn thấy cái hộp này hoặc một cái hộp tương tự, đựng ngón tay của vợ anh.

    Trong hộp trúc cũng có một ngón tay.

    Tất cả mọi người rú lên kinh hãi.

    Nhìn kỹ ngón tay một lúc, Mạc Tông Trạch lẳng lặng sải bước ra khỏi đại sảnh. Vài bộ khoái già dặn hiểu ý cũng nhanh chân đi theo Mạc Tông Trạch.

    Trong ngôi nhà gác nhỏ bên sông, xác “Thích phu nhân” đặt trên giường trải đệm thêu, đã bị băm nát nhừ, không ai nỡ nhìn. Pháp y nhìn xác đoán rằng cô ta bị giết chỉ cách đây hai canh giờ.

    Mất ngón tay trỏ.

    Mạc Tông Trạch choáng cả người, suy đoán của anh trước đây là sai!

    “Tà ma” thực sự, không phải là Lã Diệp Hàn!

    Mạc Tông Trạch bỗng hiểu ra, Lã Diệp Hàn trải nhiều năm truy nã Tà ma, ông ta đã thâm nhập quá sâu, tìm hiểu Tà ma quá tỉ mỉ, thuộc lòng nhất cử nhất động của Tà ma, rốt cuộc đã vô tình mô phỏng Tà ma rồi bắt đầu tự thực hiện vụ án “chặt ngón tay”. Đêm hôm đó Lã Diệp Hàn lén đi giết Mạc phu nhân, còn hung thủ thực sự thì nhân lúc Lã Diệp Hàn vắng mặt đã xông vào đoạt Thích phu nhân đem đi cho đến hôm nay, chờ khi Mạc Tông Trạch vừa được thăng chức thì y gửi “hậu lễ” đến tặng!

    Chẳng khác gì tuyên bố, Lã Diệp Hàn đã thất bại thảm hại, từ nay là cuộc quyết đấu giữa Tà ma và Mạc Tông Trạch.

    Sau khi tạm nguôi cơn cuồng nộ, Mạc Tông Trạch cười khẩy, được lắm, cuộc chiến này bắt đầu từ hôm nay. Ta sẽ tiếp ngươi đến cùng.

    Đọc xong câu chuyện Na Lan hít vào một hơi lạnh.

    Trong ngôi nhà nhỏ cách Sở Công an không xa, có một người cũng vừa đọc xong câu chuyện này, rồi thở dài gấp cuốn Không dũ tùy đàm lại. Đây là cuốn sách tập hợp các truyện ký thời Minh-Thanh, trong đó có đủ thứ chuyện xảy ra ở vùng Giang Kinh. Người ấy lấy làm lạ tại sao trước đây mình không biết về cuốn sách này, chỉ vì nghe nói Na Lan tìm thấy cuốn sách trong cái hố mà Mễ Trị Văn hồi nhỏ đã đào, nên mới nhờ người đi tìm ở thị trường sách cũ, bỏ ra hơn tám ngàn đồng để mua được bản in năm thứ 3 đời vua Quang Tự. Người ấy rất mê đọc cổ văn, đọc cổ văn nhanh như đọc văn hiện đại, cho nên đã đọc xong ngay câu chuyện Lã công thất tiết hết sức li kỳ và cuốn hút này. Đọc đi đọc lại mấy lần, mỗi lần đọc lại, dường như lại có thêm điều tâm đắc.

    Tiếc rằng, rốt cuộc nó vẫn là tiểu thuyết... Hay cải biên từ sự kiện có thật, ai mà biết được? Chưa chừng chuyện này có thật cũng nên. Tàn bạo sát hại phụ nữ, rồi chặt ngón tay, bây giờ vẫn đang xảy ra đấy thôi? Xảy ra ngay tại thành phố Giang Kinh.

    Điều này, mình biết rất rõ.

    Chương 23: Khảo cổ, vạ lây

    Khi Na Lan đến bệnh viện Phổ Nhân thì đã là nửa đêm. Ngồi trong taxi cô hơi do dự, định chạy lên gác hỏi Mễ Trị Văn xem tại sao lão lại đặc biệt để ý đến cái truyện ký này? Có phải nó là nguyên mẫu của vụ án “ngón tay khăn máu”? Ông đã từng chia sẻ mẩu chuyện trong đám giấy cũ này với ai? Tất nhiên lão sẽ không trả lời.

    Phải mau chóng giải mã con chữ kia.

    Chỉ mình mới có thể giải mã.

    Cô nói với anh lái xe, “Anh lại trở tôi về Đại học Giang Kinh vậy!” Rồi cô mở di động bật WeChat.

    “Vào thời nhà Minh từng có vụ án ‘ngón tay khăn máu’, cũng ở Giang Kinh.”

    Sở Hoài Sơn đang trên mạng, anh hỏi: Ở mục nào, tôi sẽ đọc ngay.

    Na Lan: Cũng có thứ anh chưa đọc kia à?

    Sở Hoài Sơn: Tại tôi mải chơi, cô giáo phê bình đúng quá.

    Na Lan: Sách Không dũ tùy đàm, cực hiếm thì phải? Trong đó có truyện Lã ông thất tiết. Thật ra, đọc hay không không thành vấn đề nhưng chắc chắn vụ án “ngón tay khăn máu” được gợi ý từ câu chuyện này.

    Sở Hoài Sơn: Sao nói là không thành vấn đề?

    Na Lan: Tiểu thuyết không mấy liên quan đến việc giải mã chữ. Đại sư Thương Hiệt phê bình tôi chỉ hay lan man, chính tôi cũng cảm thấy mình càng lúc càng rời xa cái chữ ấy.

    Sở Hoài Sơn: Tôi đang xem đây.

    Na Lan sắp xếp lại ý tưởng ban nãy rồi nhấn bàn phím: Đã nói là chỉ tôi mới lần ra thì vẫn là liên quan đến những trải nghiệm của tôi.

    Sở Hoài Sơn: Trải nghiệm của cô quá nhiều.

    Thục nữ chính cống Na Lan tủm tỉm cười: Liệu Mễ Trị Văn có muốn tôi giải chữ đó không?

    Sở Hoài Sơn: Đương nhiên rồi.

    Na Lan: Cho nên lão mới gợi ý tôi bằng mẩu chuyện ngụ ngôn con khỉ vứt bắp ngô để nhặt quả dưa hấu, hình như muốn nói rằng thứ mà tôi cần, điều kiện để giải được chữ, rất có thể đã có rồi. Nếu tôi cứ theo đuổi các manh mối khác thì sẽ chẳng nên cơm cháo gì.

    Sở Hoài Sơn: Có thể lắm.

    Na Lan: Lão nói những điều này sau ngày tôi ngã xuống cái hố kia.

    Sở Hoài Sơn: Tức là chữ này liên quan đến cái hố?

    Na Lan: Nếu không, tại sao lão phải sốt ruột? Nếu không phải cái hố thì là những chuyện tôi từng trải qua. Ví dụ việc tôi tìm đến thôn Mễ Lung.

    Taxi đã chạy đến cổng Đại học Giang Kinh, anh lái xe hỏi, “Rẽ vào đâu?”

    Na Lan chỉ về phía ký túc xá của nghiên cứu sinh.

    Sở Hoài Sơn tiếp tục trả lời: Suy đoán của cô rất mạnh dạn, rất mù quáng, nhưng cũng rất có lý. Chỉ nhà nghề tâm lý học như cô mới nắm bắt được ý nghĩ của Mễ Trị Văn.

    Na Lan: Chưa chắc! Tôi còn phải xem lại con chữ ấy đã.

    Xe dừng dưới sân khu ký túc xá, cô trả tiền xe rồi chạy ào lên phòng mình. Mảnh giấy viết cái chữ ấy vẫn nằm trên bàn.

    Na Lan tiếp tục WeChat: Nhìn mãi vẫn thấy nó là chữ tượng hình.

    Sở Hoài Sơn: Đúng là chữ tượng hình.

    Chữ tượng hình là loại chữ cổ xưa nhất, dùng khi văn minh nhân loại mới chớm bắt đầu.

    Sở Hoài Sơn: Hình như tôi đã nhận ra hướng suy nghĩ của cô.

    Tức là cái hố sâu ở dốc Mễ Lung!

    Sở Hoài Sơn: Dốc Mễ Lung là một trong các di chỉ về nền văn minh xa xưa, từ hơn ba mươi năm nay đã trở thành điểm khảo cổ quan trọng của nhà nước.

    Con chữ này liên quan đến dốc Mễ Lung và công tác khảo cổ ở đây!

    Chủ nhật là ngày được phép ngủ bù vô tư, nhưng từ sớm Na Lan đã đến gõ cửa ngôi nhà nhỏ trong khu tập thể trường trung học trực thuộc Học viện m nhạc. Vẫn là dì Tư của Sở Hoài Sơn ra mở cửa, không đợi tỏ mặt khách đã đi ngay vào bếp.

    Sở Hoài Sơn mắc chứng sợ đám đông rất nặng, xưa nay chưa từng bước ra khỏi nhà. Sau lần đầu gặp anh, Na Lan đã nghĩ xem có khả năng chữa khỏi hay không. Tiếc rằng cô không phải bác sĩ khoa thần kinh, không thể bắt tay vào điều trị. Điều duy nhất cô có thể làm là thử dùng liệu pháp hành vi, bước đầu phải đi ra khỏi nhà đã. Hôm qua trao đổi qua WeChat, Na Lan đã phải rất kiên trì mới thuyết phục được anh cùng cô đi đến Phòng Khảo cổ học Đại học Giang Kinh, cô cũng rất ngạc nhiên vì anh lại đồng ý. Nào ngờ, nhận lời lúc trót uống quá chén nên hôm nay anh lại đổi sang hối hận.

    Dù hối hận nhưng anh cũng không thể hiện ra, chỉ là sắc mặt có phần hoang mang, đôi chân căng thẳng hơi mất tự nhiên đứng ở cửa, nhưng nhìn chung anh vẫn rất trấn tĩnh. Người anh dong dỏng, mặc bộ vét màu ghi sáng trông khá chững chạc, chân đi đôi giày xuồng mỏng nhẹ, bước ra cửa rồi lại chợt như không biết nên đi hướng nào.

    Na Lan khẽ hỏi, “Anh phải chào dì Tư đã chứ?” Lúc cả hai bước ra cửa vẫn không thấy mặt dì Tư đâu.

    “Có nói, nói rồi.” Ra khỏi nhà, cái tật nói lắp vẫn tái hiện.

    Na Lan tiếp tục giúp anh rẽ sang đề tài khác, “Người đẹp khảo cổ hôm nay ta đến gặp, nói thật nhé, tôi chưa gặp bao giờ.”

    “Là Dương... Phán Phán? Tôi đã tra cứu rồi... đã đăng hai bài... chắc đang là nghiên cứu sinh, cách đây không lâu.” Ngồi vào xe taxi đã chờ sẵn ngoài nhà, Sở Hoài Sơn dần bình tĩnh trở lại.

    “Còn anh khóa trên tôi...”

    “Cung Tấn!” Nói đến hai chữ này, Sở Hoài Sơn dường như sôi nổi hơn. “Là người có tài. Hiện nay những người, thông minh như thế, đều đi kinh doanh, đi kiếm tiền.”

    Cung Tấn là nghiên cứu sinh tiến sĩ khoa văn Đại học Giang Kinh, khi xưa từng mải miết theo đuổi Na Lan nhưng không được, cũng từ đó hai người trở thành bạn thân.

    Na Lan cười, “Anh ấy đúng là con người rất hay, là một tài tử, khó khăn lắm mới theo đuổi được Dương Phán Phán.” Cô nói với Sở Hoài Sơn đủ chuyện linh tinh về trường đại học để anh thấy nhẹ nhõm, giảm bớt nỗi sợ hãi đối với không gian mở bên ngoài.

    “Nói thật, tôi đôi khi cũng rất thích cuộc sống ở đại học, hẳn là rất thú vị.” Sở Hoài Sơn trầm trồ.

    Na Lan nói, “Cũng chưa có gì là muộn cả, tôi có thể giúp anh.”

    Sở Hoài Sơn gượng cười, “Đã có khối người từng giúp tôi... nhưng tôi rất gàn dở, từ bé đã thế, không thể cứu vãn.”

    “Nếu anh không ngại thì thử nói xem hồi nhỏ đã xảy ra chuyện gì với anh, được không?” Na Lan nhớ đến bức tranh vẽ bà mẹ Sở Hoài Sơn. Xinh đẹp. U buồn. Liệu có liên quan gì đến tính cách của anh ta không?

    Cơ mặt hơi gầy của Sở Hoài Sơn chỉ hơi nhích nhích, anh không muốn, không thiết ngoái lại quá khứ, chỉ nói, “Đa số các vấn đề thần kinh, và tâm lý, đều hình thành từ thời thơ ấu. Mễ Trị Văn, là một ví dụ tiêu biểu.”

    Na Lan biết anh muốn né tránh, định cố hỏi tiếp nhưng lại thôi. Hôm nay anh đã đồng ý đi cùng là quá tốt rồi, không nên kết hợp “điều trị” kẻo sẽ là xôi hỏng bỏng không. Cô bèn nói, “Tôi cũng chỉ định hỏi vậy thôi.”

    “Chúng ta coi như đồng bệnh... cô mất cha, tôi mất mẹ.”

    “Vậy cha anh đâu?” Chắc đây là một câu chuyện khó nói nhưng rất có thể còn dễ chịu đựng hơn chuyện “mất mẹ”.

    Đúng thế, Sở Hoài Sơn tỏ ra rất bình tĩnh, “Tôi chưa từng gặp mặt.”

    Na Lan định hỏi ông giờ ở đâu, nhưng dường như câu trả lời sẽ không có quá nhiều kỳ lạ, nếu vẫn còn sống thì rõ ràng là ông ta đã bỏ nhà cửa vợ con, câu chuyện sẽ rất dài. Có vẻ như Sở Hoài Sơn cũng không muốn nói thêm.

    “Anh bị nói lắp từ khi nào?”

    Sở Hoài Sơn trầm ngâm, “Từ khi bắt đầu có trí nhớ, không cha không mẹ, thì không mấy tự tin. Tôi nhớ rằng cô nói là Mễ Trị Văn sống ở cô nhi viện, có biệt hiệu là ‘thằng câm’, thử đoán xem tôi hồi bé có biệt hiệu gì?”

    Na Lan, “Cà lăm?” Na Lan biết trí tưởng tượng của trẻ em có thể phong phú lạ thường, cũng có thể quá ư nghèo nàn.

    Sở Hoài Sơn gật đầu.

    Các chuyện tiếp theo đó khỏi cần hỏi cũng đoán ra gần đúng, đứa trẻ không cha không mẹ, thiếu tự tin, nói lắp, là một chuyện nhân quả tất yếu. Không phải mọi đứa trẻ cùng lứa tuổi đều có lòng thương cảm, nhất là những đứa trẻ chậm phát triển tri giác, chúng sẽ không nương tay với Sở Hoài Sơn. Sở Hoài Sơn đương nhiên là đứa trẻ có lòng tự tôn rất cao, thà ngồi thu mình trong nhà chứ không muốn chuốc lấy sự ê chề, dần dà hình thành một căn bệnh về tâm lý.

    Na Lan an ủi, “Tất cả rồi sẽ trở nên tốt đẹp!”

  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tơ đồng rỏ máu


    phan 17

    “Đây không phải một chữ.” Cung Tấn dời mắt khỏi tờ giấy, nhìn Na Lan từ đầu đến chân, cứ như vừa phát hiện ra một Na Lan tẩu hỏa nhập ma! Từ khi hai người không thể phát triển thành tìnnh yêu đôi lứa, giữa họ lại hình thành một thỏa thuận ngầm rằng cả hai có thể trêu chọc nhau thoải mái. “Ngày trước mà em đến với anh, thì không đến nỗi lớ ngớ chẳng ra sao như ngày nay!”

    “Tất nhiên là không phải một chữ. Đây là một sơ đồ chỉ dẫn em nên đi đâu để tìm thấy một bộ hài cốt.”

    Cung Tấn cau rúm mày, lặp lại câu nói của Na Lan, “Đi đâu để tìm thấy một bộ hài cốt? Na Lan em ơi, anh không biết em bị sốc tình cảm ra sao....” Cung Tấn nhìn Sở Hoài Sơn vẫn câm như hến và đang cầm khăn giấy thấm mồ hôi trán. “Nhưng anh có thể khẳng định một điều, thật ra em không cần phải đi tìm bộ hài cốt để...”

    “Em không còn tâm trí nào để nói đùa với anh đâu! Anh vẫn khoe khoang là thuộc lòng và có thể đọc ngược cuốn Thuyết văn giải tự, thì anh động não hộ em đi?”

    Cung Tấn cũng nhận ra Na Lan không muốn nói tếu, bèn nhìn lại con chữ ấy, “Phần trên hơi giống con lợn, một con lợn kỳ quái...” Anh lại xua tay. “Nhưng nghiệp vụ của anh là văn học Ngụy Tấn thời Nam Bắc Triều chứ không phải văn tự cổ lỗ sĩ! Các kỹ thuật viên của Sở Công an đi vắng hết à?”

    Sở Hoài Sơn nói, “Đã hỏi... rất nhiều chuyên gia văn tự học, đều không giải mã được.”

    Cung Tấn nhìn Sở Hoài Sơn bằng ánh mắt “thì ra anh cũng biết nói cơ đấy”, rồi anh bật ra tên của một bậc thầy văn tự học, “Dư Hoán Hy thì sao?”

    “Hỏi rồi.”

    “Lý Học Cần?”

    Sở Hoài Sơn gật đầu.

    “Vương Uẩn Trí?”

    “Anh không cần nêu tên từng người nữa. Đã hỏi các chuyên gia đầu ngành rồi!” Na Lan đỡ lời.

    “Thế thì em còn hỏi anh làm gì? Lãng phí tuổi trẻ cũng được, nhưng lãng phí thời gian thì không khôn ngoan đâu!”

    Na Lan giật lại tờ giấy, “Cảm ơn thời gian quý báu của anh, kính chào vậy!”

    “Kìa, đừng đi vội. Anh tuy lớ ngớ về văn tự cổ nhưng vẫn cảm thấy con lợn này rất quen...”

    Na Lan tủm tỉm, cố nén nhịn nhưng rồi vẫn phải nói, “Em vẫn có cảm giác như lần đầu gặp anh, thật ra hôm nay đến không phải để gặp anh.”

    “Gặp nhà khảo cổ bạn gái của anh chắc?” Cung Tấn đã hiểu ra ý định thực sự của Na Lan, anh mỉm cười nhưng lại tặc lưỡi, “Tiếc rằng gần đây bọn anh đang chiến tranh lạnh, vì cô ấy không muốn dẫn người yêu anh đây đi Lâu Lan[1]. Em vừa nói, khiến anh nhớ ra hình như đã từng nhìn thấy hình vẽ này ở chỗ cô ấy thật.”

    [1]. Tên một nước thời cổ ở Tây Vực; một địa điểm khảo cổ.

    “Thế thì sao anh còn đứng ì ra đây? Hãy mượn cớ thỉnh giáo để hâm nóng mối quan hệ giữa hai người, có phải là rất tự nhiên không?”

    Dương Phán Phán chỉ nhìn thoáng con chữ độ một giây, rồi đưa đôi mắt phượng nhìn Cung Tấn, “Anh nói lại xem có đúng là anh không nhớ ra cái hình vẽ này phải không?”

    Cung Tấn lúng túng như cậu học trò không thuộc bài. Na Lan nói, “Thật ra anh ấy có nhớ nhưng chưa cụ thể...”

    “Thế tức là không nhớ rồi!” Dương Phán Phán gí ngón tay vào trán Cung Tấn. Rõ ràng là huy động người đẹp đến cứu viện không những không giúp được gì mà còn như lửa đổ thêm dầu. “Anh quên à, chúng ta gặp nhau lần đầu là khi bọn em vừa kết thúc đợt 3 khai quật dốc Mễ Lung...”

    Cung Tấn lập tức kêu lên, “Nhớ ra rồi! Đó là hoa văn trên cái vò gốm màu, trong đó có hình vẽ này!”

    Na Lan vẫn chưa hiểu ra sao. Dương Phán Phán giải thích, “Khai quật đợt 3 dốc Mễ Lung kết thúc cách đây hai tháng, các văn vật tìm thấy đang giám định. Một khi chính thức công bố các văn vật này, thì dốc Mễ Lung sẽ có giá trị ở tầm sánh ngang với văn hóa thôn Bán Pha và văn hóa Ngưỡng Thiều trong lịch sử Trung Quốc. Chữ này thoạt nhìn có vẻ giống chữ ‘Thi’, nhưng thật ra đó là chữa ‘Mã’ cách đây năm nghìn năm, được vẽ trên cái vò gốm tìm thấy ở ô số 9. Mai kia chính thức công bố, rất có thể chữ này sẽ thành biểu tượng đại diện cho văn hóa Mễ Lung.”

    “Chưa công bố nhưng đã có người ngoài ngành khảo cổ biết đến chữ này, tại sao lại thế?” Na Lan không tin Mễ Trị Văn có thể thần thông cái gì cũng biết.

    “Chưa công khai, nhưng không đến mức phải bảo mật. Nhà bảo tàng của tỉnh đã tổ chức một cuộc triển lãm nho nhỏ, các lãnh đạo tỉnh và nhiều chuyên gia học giả đều đã nhìn thấy. Rất có thể nó đã có mặt trên weibo rồi.” Dương Phán Phán hờ hững nhìn Cung Tấn. “Nếu không, anh chàng tài tử này nhìn thấy sao được?”

    Na Lan và Sở Hoài Sơn luôn miệng nói cảm ơn rồi ra về, để cho tài tử giai nhân tự giải tỏa ân oán.

    Gần trưa thì cả hai về đến cửa nhà Sở Hoài Sơn. Na Lan nói, “Hôm nay rất thành công, anh rất có bản lĩnh đấy!”

    Sở Hoài Sơn gượng cười, “Đứa trẻ lên mười cũng làm được. Tôi, mà gọi là có bản lĩnh à?”

    “Chớ coi thường đứa trẻ lên mười.”

    Sở Hoài Sơn chợt hiểu ra ngụ ý của Na Lan, Mễ Trị Văn khi mười tuổi đã dám giải phẫu rút xương những con vật kia, đâu phải ai cũng làm được. Anh nói, “Không dám!”

    Cửa mở, dì Tư lại biến mất như một làn khói.

    “Hay là ăn cơm trưa đã, rồi hãy về? Đơn giản thôi, chỉ là bát mì...”

    “Không làm phiền anh nữa.” Na Lan đã có chương trình dành cho buổi trưa.

    “Lại định đến cốc Mễ Lung à?” Sở Hoài Sơn hỏi. Anh ta thật tinh tường.

    “Đi để cầu may.”

    “Thế thì, sao cô phải tiễn tôi về tận nhà?” Giọng anh tha thiết. “Tôi sẽ đi cùng. Tôi sẽ đứng ngoài. Tôi chẳng sắc sảo gì hết, nhưng ít ra cũng có thêm người, hỗ trợ nhau.”

    Na Lan rất mừng, nhưng cô biết hôm nay anh đi cùng đến Đại học Giang Kinh là đã tốt lắm rồi, nếu lại đến vùng hoang vu kia nữa thì quá khó cho anh. “Cảm ơn thiện chí của anh, thật ra cũng không đến nỗi, vì đang ban ngày và tôi sẽ không bị rơi xuống hố nữa đâu.”

    Sở Hoài Sơn giơ tay xem đồng hồ, “Nếu 6 giờ chiều không thấy tin cô, tôi sẽ báo công an.”

    Chương 24: Ngày tàn sau vinh quang

    Sức sống và sự huyên náo của dốc Mễ Lung đều nằm ở khu vực trưng bày mở rộng cho công chúng chứ khu vực khảo cổ thực sự thì nằm ở cách đó một cây số. Có lẽ vì đợt khai quật vừa qua đã kết thúc, hoặc vì hôm nay là ngày Chủ nhật lê thê, nên ở hiện trường chỉ có những hàng rào bằng lưới thép lạnh lùng đứng đó, phòng bảo vệ thì hầu như không có động tĩnh gì.

    Na Lan ngẩn ngơ đứng bên hàng rào, đang nghĩ có nên lại làm phiền Dương Phán Phán, nhờ cô ta dẫn vào tận hiện trường khai quật để xem có phát hiện thêm các bộ hài cốt của vụ án “ngón tay khăn máu” không. Nhưng lại nghĩ, các chuyên gia khảo cổ như Dương Phán Phán đương nhiên đã khui ra tất cả các hiện vật rồi.

    Cho nên, hiện trường phạm tội mà Mễ Trị Văn ám chỉ không thể nằm trong các hố khai quật khảo cổ học.

    Nhưng chắc chắn phải có liên quan đến việc khảo cổ dốc Mễ Lung.

    Cô lại nhìn tờ giấy đang cầm trong tay. Dù là chữ Mã hay chữ Thi, con chữ đại diện cho văn hóa Mễ Lung cũng giống như nằm trên hai tầng… tầng gì nhỉ? À, là cái dốc! Tức là Ngựa đứng trên dốc Mễ Lung! Nếu hai nét hình cung song song bên dưới thể hiện cái dốc, bên dưới dốc vẽ giống chữ Mộc tức cái cây, liệu nó có đại diện cho hài cốt không?

    Nếu lần này Mễ Trị Văn vẫn muốn cô phát hiện ra một bộ hài cốt, mà hài cốt ấy không nằm ở hiện trường khai quật khảo cổ, thì rất có thể nó nằm ở chân dốc Mễ Lung.

    Cô nhìn ra xa. Chân dốc Mễ Lung chính là bờ sông Thanh An, nó vòng ra tận bên ngoài thôn Mễ Lung. Nhưng chân dốc rộng lớn thế kia thì địa điểm cụ thể là ở chỗ nào? Cô đi thật nhanh xuống dốc Mễ Lung, rồi thong thả đi dọc theo bờ sông Thanh An. Đoạn bờ sông này cách thành phố hơi xa, hẻo lánh hoang vắng, sát mép nước chủ yếu là đá to nhỏ lổn nhổn chứ không phải là bãi cát mềm. Cho nên dù có tháo khoán cho dân chúng vào thì cũng khó mà thu hút được du khách. Mấy cây số trải dài không hề có bóng người. Na Lan tiếp tục bước đi, bâng quơ nhìn mặt đất và chân dốc, không để ý rằng mình đang đơn độc đi giữa cả chục cây số bãi đá hoang vắng, cho đến lúc chỉ nghe thấy tiếng gió thổi và tiếng chân bước của chính mình, tim cô mới bắt đầu đập nhanh.

    Có ai đó đang nhìn cô.

    Na Lan ngoảnh nhìn khắp bốn phía, không hề có ai ngoài cô ra. Nhưng tại sao cô lại có cảm giác có người đang nhìn? Hay chỉ là bản năng tự nhiên khi một mình đi ở nơi xa lạ? Cô thấy hơi hối hận. Dù không để Sở Hoài Sơn đi cùng thì ít ra cũng nên nhờ Trần Ngọc Đống thậm chí gọi Đào Tử.

    Tối nay chắc chắn Đào Tử sẽ hỏi, ngày cuối tuần, cậu làm những gì?

    Đi dã ngoại nghỉ ngơi.

    Chơi những gì?

    Đến nơi hoang vắng tìm hài cốt.

    Lẽ nào mình biến thành mụ phù thủy giao tiếp với hai cõi âm dương trong truyền thuyết rồi hay sao? Na Lan cười nhạo ý nghĩ ngô nghê của mình. Cô ngẩng nhìn, rồi hơi cau mày.

    Phía trước không xa, trên vách đá giữa các gò đất ở chân dốc gắn một tấm biển sắt rộng chừng 2 mét, đã hoen gỉ lỗ chỗ, có một khẩu hiệu chữ đỏ viết trên nền trắng, chữ viết tay theo thể Tân Ngụy “Vứt rác bừa bãi đáng hổ thẹn, bảo vệ môi trường là vinh quang”, dòng phụ đề viết “Hội bảo vệ thị trấn dốc Mễ Lung huyện Huệ Sơn thành phố Giang Kinh”. Chẳng rõ tấm biển được treo bao lâu rồi, trông rất cũ kỹ. Chắc vì nội dung là một “chân lý bất biến” nên hoàn toàn không cần thiết phải gỡ xuống thay cái khác.

    Không hiểu sao Na Lan chợt nhớ đến tấm biển sắt gỉ gắn trước cổng nghĩa trang Thiên chúa giáo, nó như cái phướn chiêu hồn, chỉ khác về chất liệu.

    Cô chợt thấy cổ họng háo nước, đôi môi khô cứng. Và lại cúi nhìn con chữ chết tiệt đang cầm trên tay.

    Hồi nọ, sau khi phát hiện ra hài cốt của Nghê Phượng Anh, cô không coi “chữ” của Mễ Trị Văn là chữ nữa mà coi như bức vẽ thậm chí như tấm bản đồ để lần tìm manh mối. Nhưng lúc này cô bỗng nhận ra “bức vẽ con ngựa đứng trên dốc” vẫn giống một chữ Hán, là chữ Đế trong đế vương, hoặc chữ Trà trong cây trà, hoặc chữ Vinh trong vinh quang.

    “Bảo vệ môi trường là vinh quang”.

    Gió lạnh tạt sau lưng, Na Lan bị đẩy đến gần tấm biển. Cô nhìn kỹ từng chữ đỏ, nhất là chữ Vinh. Màu chữ Vinh hơi khác với các chữ bên cạnh, đỏ sẫm hơn, như thể khi viết họ đã pha thêm màu vào.

    Đỏ sẫm, là màu máu.

    Có người đang nhìn cô.

    Na Lan lại ngoảnh lại, đằng sau là bãi sông và mặt nước sông xanh xám, hai bên chênh chếch cũng là bãi hoang, có vài tảng đá to nhưng không che khuất tầm nhìn, tất cả không một bóng người.

    Cô lại nhìn vách đá bên trên chữ Vinh, nó cũng không khác gì vách đá xung quanh, chất đá y hệt, cỏ dại mọc vươn ra. Cô thử đưa tay lên lay mạnh một mỏm đá lồi, đất rơi lả tả, hòn đá rơi xuống.

    Không có gì lạ.

    Bên trong cái hốc vẫn là đá, cô thò tay vào nhưng vội rụt tay ngay ra như bị điện giật. Phía sau hòn đá là viên gạch.

    Đá, là sản phẩm tự nhiên. Gạch, là sản phẩm nhân tạo. Hình như vách đá này là do người đời sau đắp nên.

    Na Lan lùi lại, nhặt một hòn đá to ở bãi sông giơ lên đập thật mạnh vào vách đá, đất đá rơi xuống rào rào. Lẫn trong đó là một cái ví da nho nhỏ.

    Màu cái ví đã bợt bạt nhưng vẫn có thể nhận ra nó vốn là màu cà phê. Tay cô run run nhặt cái ví lên, trước khi mở ra cô thầm cầu khấn “bên trong đừng nên có một tấm ảnh”.

    Nhưng bên trong ví lại có một tấm ảnh nhỏ, ảnh đen trắng đã hơi ố vàng, dán trên thẻ sinh viên Đại học Giang Kinh, là một cô gái để tóc ngắn, khuôn mặt rất thanh tú, đang mỉm cười, nhưng ánh mắt thoáng nét u sầu như thể đã nhìn thấy số phận bất hạnh của mình sau một năm nữa. Họ tên, Quan Tinh. Cấp thẻ, tháng Tám năm 1989.

    Là nạn nhân thứ tư trong vụ án “ngón tay khăn máu”.

    Na Lan lại đập hòn đá, đất đá tiếp tục rơi xuống. Cô bỗng dừng tay, vì bên trong lộ ra mấy mẩu xương trắng đang rung rung sắp rơi xuống, dài chưa đến 10 phân. Là xương ngón tay.

    Cô bỗng có cảm giác như máu trong não mình đã bốc hơi. Có phải tại hôm nay quên ăn sáng, bỏ cả bữa trưa nên hạ đường huyết? Hay là thể xác và tinh thần đều đã kiệt quệ? Nhưng dù là tại sao thì cũng không quan trọng, không thể suy nghĩ gì nữa, người mềm nhũn, cô ngã vật xuống.

    Vào khoảnh khắc cuối cùng, cô nhìn thấy một bóng người, đứng xa xa, lạnh lùng quan sát.

    Gạch đá đất vụn, vô cảm, tràn xuống. Đã dâng cao quá hông. Cô tỉnh lại trong cơn đau đớn và nhận ra mình đã bị trói vào một cái cọc, không, trói vào một cây thập tự. Nhìn sang bên, cô thấy bàn tay phải của mình bị cụt một ngón, đây là nguồn gốc của cơn đau. Trên đầu cô là dốc Mễ Lung, sau lưng cô là chân dốc đã bị đào lở lói, cứ đà này thì không bao lâu nữa cô sẽ bị con dốc Mễ Lung bịt kín.

    “Em xi anh đừng hãm em ở đây, ở đây không có ai qua lại...”

    “Không có ai đến thì càng tốt chứ sao? Chỉ có hai chúng ta, cô không bằng lòng à?” Hắn lại lên cơn. Chung sống ít lâu, cô đã hiểu về hắn, hắn là kẻ không bao giờ chấp nhận từ chối.

    “Được, em bằng lòng. Chỉ cần anh tha cho em là được. Anh biết rồi, em sẽ yêu anh thực sự.” Cô biết mình phải tận dụng được thời gian, đây là vũ khí mạnh nhất của cô.

    “Chúng ta đều biết tình yêu là ngắn ngủi... huống chi xưa nay tôi chưa bao giờ có được tình yêu của cô.”

    “Em xin thề em sẽ nghe lời anh. Anh bảo em làm gì cũng được.”

    “Được!” Hắn dừng cái xẻng. Cô đã có hy vọng. “Tôi chỉ cần cô làm một việc.”

    “Được! Việc gì cũng được.” Cô ngừng thút thít.

    “Mãi mãi không được xa tôi.”

    “Được, em xin thề…”

    “Thề à? Lúc nào chẳng thề được?” Mặt hắn có nét cười. “Tôi đã có cách, đảm bảo cô không bao giờ bỏ đi.”

    Lại một xẻng đất đá hắt xuống. Cô biết, việc hắn đang làm là việc hắn muốn làm, không ai có thể bắt hắn đổi ý. Hy vọng sinh tồn đã bỏ cô mà đi, cô đau khổ nhắm nghiền mắt. Vào giây phút cuối cùng của cuộc đời, cô không muốn nhìn thấy kẻ ma quỷ kia nữa.

    Na Lan bỗng bừng tỉnh. Đập vào mắt cô là trần nhà trắng tinh. Đây là đâu?

    “Giám đốc Chu! Cô ấy tỉnh lại rồi!” Một giọng nữ vang lên. Cô y tá bước đến bên giường, sau đó là người bác sĩ tóc bạc râu bạc với nụ cười quen thuộc. Chu Trường Lộ.

    “Sao cháu lại ở đây…” Na Lan cố nhớ lại, lúc bị ngất, một bóng người chạy về phía mình.

    “Tôi không biết thật rõ, chỉ nghe nói cháu bị ngất bên bờ sông Thanh An. Hôm nay tôi phụ trách ca trực, đi qua phòng cấp cứu nhìn thấy một người quen của cháu, nói là cần quan tâm đặc biệt.” Chu Trường Lộ thở dài, rồi dịu giọng, “Tôi chẳng muốn thấy cháu thường xuyên ở đây.”

    Na Lan vẫn chưa hiểu, “Cháu bị ngất, rồi được đưa về đây như thế nào?”

    “Đội trưởng Ba Du Sinh đưa cháu đến. Cụ thể thì phải hỏi anh ấy.”

    “Ba Du Sinh?” Na Lan ngạc nhiên, bỗng cảm thấy cái tên này như cách xa đã mấy năm. Cô nghển cổ nhìn quanh. Chu Trường Lộ nói, “Anh ấy có việc, đi rồi. Lúc nãy vừa gọi điện hỏi thăm tình hình của cháu.”

    Na Lan “Vâng.” Cô hơi thất vọng.

    “Tôi đã trở lại rồi đây!” Cửa bị đẩy ra, Ba Du Sinh bước vào. Chu Trường Lộ mỉm cười ra hiệu cho Na Lan nằm xuống nghỉ ngơi, rồi ông đọc các ghi chép theo dõi. “Điện tâm đồ và huyết áp không vấn đề gì. Các chất điện giải cũng cân bằng. Tôi đoán rằng cháu quá căng thẳng thần kinh, dẫn đến huyết quản bị co giãn bất thường, huyết áp thấp, máu lên não không đủ, rồi bị ngất. Tôi biết gần đây cháu rất vất vả, từng gặp nguy hiểm, bị ngất là phản ứng khi thể lực tinh thần cùng suy giảm. Không đáng ngại, cứ nghỉ ngơi rồi sẽ ổn.” Ông gật đầu với Ba Du Sinh rồi bước ra ngoài.

    Na Lan nói, “Em cứ ngỡ anh đã rút ra thật, không quan tâm nữa.”

    “Xem chừng anh không thể đứng ngoài cuộc. Cô đã vài lần gặp nguy hiểm, anh phải cử các anh em ngầm bảo vệ cô sát sao giống như vụ án ‘năm xác chết’ năm xưa mới được.”

    Lần này có thể gọi là vụ án “mười hai xác chết” không nhỉ?

    “Không cần thiết anh ạ. Hình như em vẫn có thể gặp cứu tinh.”

    “May sao trước khi ngất cô đã gọi điện cho Sở Hoài Sơn, anh ta nói đường dây thông mà không nghe tiếng cô, đâm lo bèn liên lạc với Kim Thạc, nói là cô đi dốc Mễ Lung.”

    Na Lan rất kinh ngạc, thầm nghĩ, sao mình lại quên rằng đã gọi điện cho Sở Hoài Sơn? Nhưng cô không nói ra nữa, nói ra chỉ thêm rắc rối. Trong vụ án ở núi Trường Bạch, trí nhớ và trạng thái tinh thần của cô đã giảm sút, rất có thể lúc trước cô có gọi cho Sở Hoài Sơn nhưng bây giờ không nhớ ra. Theo cách nói của giám đốc Chu tức là não bộ bỗng nhiên thiếu máu, rất có thể sẽ quên mất những hành động dạng tiềm thức như gọi điện thông báo.

    Và, có đúng là có người bám theo mình không?

    “Dốc Mễ Lung rộng như thế, sao các anh tìm được em?”

    “Phải cảm ơn Sở Hoài Sơn. Anh ta nói rằng chỉ nghe thấy di động của cô có tiếng gió rít, tiếng nước chảy, nên đoán là cô đang ở gần bờ sông, cảnh sát đã thu hẹp phạm vi tìm kiếm và tìm thấy cô không mấy khó khăn. Cô nằm ngất trên tảng đá to, đầu dốc xuống đất, tư thế rất kỳ lạ. Giám đốc Chu nói bị ngất do thiếu máu lên não thì tư thế ấy rất có lợi, và ngẫu nhiên lại phù hợp với nguyên tắc cấp cứu người bị ngất do tuần hoàn máu kém.”

    “Các anh đã phát hiện được gì ở đó nữa?”

    “Bộ hài cốt bị chôn trong vách đá.” Giọng Ba Du Sinh bỗng trầm hẳn xuống.

    “Quan Tinh?”

    Ba Du Sinh gật đầu.

    Trí nhớ của mình chưa đến nỗi bị tổn thương, đúng là mình đã nhìn thấy bộ hài cốt ấy, dù đó là một sự thật tàn khốc.

    Cô hơi co người lại, ánh mắt thoáng nét xót xa. Ba Du Sinh, “Cứ chịu khó tĩnh dưỡng. Cô đừng sang gặp Mễ Trị Văn nữa. Lâu nay anh không tham gia điều tra vụ án ‘ngón tay khăn máu’, đôi lúc tĩnh tâm suy nghĩ thấy rằng không nên để cô tổn hao tâm lực vào hài cốt của các vụ án cũ làm gì. Thực khó tưởng tượng những chuyện thê thảm ấy sẽ tàn phá tinh thần và tâm lý của cô bé như cô đến đâu.”

    Na Lan ngượng cười, “Em là người trưởng thành rồi.” Nhưng nước mắt cô tuôn trào. Khi nghe Nghê Phượng Anh và Quan Tinh bị đất đá lạnh lùng chôn vùi, họ cũng đã trưởng thành.

    Ba Du Sinh nói đúng, cô học ngành tâm lý, càng dễ hình dung nỗi đau hình thành như thế nào. Lòng người đâu phải gỗ đá, nếu cứ tiếp tục như thế này cô sẽ suy sụp như cây cầu độc mộc bị nắng mưa tàn phá. Lần bị tàn phá gần đây nhất chỉ cách đây một năm.

    “Vụ án sẽ tiếp diễn, chỉ cô mới có thể chấm dứt cơn ác mộng này.” Lời của Mễ Trị Văn vẫn văng vẳng bên tai như nhạc chuông báo tang ngân nga kéo dài.

    Chương 25: Minh Phượng

    Na Lan nói, “Em vẫn phải gặp Mễ Trị Văn.”

    “Trước mắt, cô tạm thời không gặp lão được.”

    “Giám đốc Chu nói thể lực của em không vấn đề gì…”

    “Không phải vì thế. Mà là chiều nay Mễ Trị Văn bỗng bị ngất, vừa nãy anh đã tạt sang đó lão vẫn chưa tỉnh. Giám đốc Chu đã bố trí người quan sát, hiện giờ lão mới tạm ổn.”

    Na Lan hậm hực nói, “Biết chọn đúng lúc để ngất thật!” Đồng thời cô cũng nghĩ, Mễ Trị Văn có thể từ giã cõi đời bất cứ lúc nào, nếu sự việc còn đúng như lão nói “vụ án ngón tay khăn máu sẽ còn tiếp diễn”, nếu lão chết thì sẽ là mất hết mọi manh mối? Hoặc là, lão vẫn đang bỡn cợt người ta, chính lão là hung thủ, vậy nên mong lão chết sớm hay nên mong lão được kéo dài sự sống?

    Ba Du Sinh trầm ngâm. Na Lan ngẩng nhìn anh, biết anh đang do dự định nói gì đó. Bèn hỏi, “Lẽ nào… lão đã đoán trước hôm nay em tìm thấy hài cốt của Quan Tinh?”

    “Chắc thế. Cho nên trước khi ngất, lão đã để lại cho cô một chữ mới.”

    Na Lan thấy toàn thân ớn lạnh, đầu lại ngâm ngẩm đau.

    Một chữ mới. Tức là một bộ hài cốt.

    Chỉ cô mới có thể tìm thấy.

    Cô lẩm bẩm, “Bao giờ lão mới chịu thôi?” Cô nhìn Ba Du Sinh, “Anh đưa cho em xem đi!”

    Ba Du Sinh lắc đầu, “Đừng nói cô chưa khỏe, mà dù đã khỏe trở lại thì anh cũng không muốn cô sa lầy vào vụ án vô tận này nữa. Anh đã đề nghị cấp trên đưa anh trở lại tham gia khám phá, với tư cách hỗ trợ cũng được, cậu Kim Thạc vẫn là chỉ huy.”

    Ba Du Sinh sẽ chỉ là nhân viên của Kim Thạc. Na Lan nói, “Chỉ em mới giải được cái chữ kia.”

    Ba Du Sinh, “Anh cũng phải có trách nhiệm với sự an toàn và sức khỏe của cô.”

    “Vụ án này kết thúc thì em mới an toàn và khỏe mạnh được. Anh nghĩ mà xem, dù có phải Mễ Trị Văn làm hay không, nhưng nếu lại xảy ra án mạng thì áp lực sẽ ra sao? Em có thể yên tâm được không?”

    Ba Du Sinh im lặng rất lâu, rồi mới nói, “Anh nhận ra một điều, kể từ khi gặp Mễ Trị Văn, có cảm giác…” Anh lựa chọn từ ngữ.

    Nhưng Na Lan dứt khoát nói, “Từ sau khi gặp lão, đúng là tâm trạng của em không ổn định, sự thật là thế.”

    “Có biết nguyên nhân không?”

    “Em thấy sợ. Tuy chấp nhận làm việc này nhưng đúng là em sợ tiếp cận tội phạm. Và em cũng quá nhạy cảm nữa, em hay nghĩ về các nạn nhân.” Cô đã rất nhiều lần nghĩ đến vấn đề này.

    “Cô khiến anh nhớ đến một cậu thanh niên quen mấy năm trước trong một vụ án lớn, cậu ấy có chút khả năng đặc biệt, có thể cảm nhận ra nỗi đau của người khác, không phải nỗi đau tinh thần mà là cảm giác đau đớn thể xác thực sự.”

    Na Lan gượng cười, “Em chưa đạt đến trình độ ấy, em chỉ cảm nhận một cách trìu tượng mà thôi.”

  9. #18
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tơ đồng rỏ máu


    phan 18

    “Cho nên, những người như cô…” Anh lại thấy bí từ ngữ, “… sẽ có sự nhạy cảm đặc biệt hơn người, sẽ là chuyên gia tâm lý xuất sắc, sẽ trợ giúp rất lớn cho bọn anh phá án nhưng cô sẽ rất khổ.”

    Ông Chu Trường Lộ bước vào phòng, Ba Du Sinh khẽ nói với ông mấy câu, chắc là hỏi về thể chất của Na Lan. Rồi anh trở lại bên giường cô, nói, “Được! Nhưng cô phải chịu khó tĩnh dưỡng đến ngày mai. Mai mà phải lên lớp thì cứ lên, còn được nghỉ thì cũng phải hoàn thành bài vở của tổ nghiên cứu sinh đã rồi hãy đến Sở. Chúng ta sẽ cùng tấn công giải mã cái chữ mới ấy.”

    Na Lan hỏi, “Mễ Trị Văn trước khi hôn mê đã đưa ra chữ này, và phải nói vài câu gì đó nữa, đúng không?”

    Ba Du Sinh hơi ngạc nhiên, “Nói gì?”

    “Chắc chắn lão sẽ nói Na Lan làm việc quá chậm, sẽ không kịp mất! Sắp xảy ra vụ án ‘ngón tay khăn máu’… đại loại như thế.”

    Ba Du Sinh hỏi, “Sao cô biết?”

    “Cho nên anh mới đề nghị được trở lại điều tra…”

    “Thực ra tôi chưa từng cắt đứt với vụ án này.”

    “Nhưng lần này anh đề nghị được chính thức trở lại tham gia điều tra, dù làm cấp dưới cũng được. Đủ thấy anh đã càng coi trọng vụ việc. Anh vừa nói hai chữ ‘tấn công’ thì là cấp bách rồi!”

    Ba Du Sinh gượng cười, “Cô ngày càng đáng sợ!” Anh đứng lên, mỉm cười. “Anh thăm đến đây thôi, còn phải nhường lượt cho sếp Kim Thạc.”

    Lần này thì đến lượt Na Lan cười nhăn nhó.

    Kim Thạc đến, cầm theo một bó hoa. Na Lan thầm nhẩm rất nhanh, có nên học tập đại sư Thương Hiệt giả vờ đã ngủ? Nhưng không kịp nữa. Mà cũng không nên tưởng tượng xa xôi quá. Mang theo hoa vào thăm bệnh nhân cũng đúng phép lịch sự thôi mà. Ba Du Sinh bắt tay Kim Thạc, cả hai chào hỏi mấy câu, rồi anh bước ra luôn. Kim Thạc ngồi xuống cái ghế bên cạnh giường nói, “Rốt cuộc tôi đã hiểu tại sao Sở Công an và anh Ba Du Sinh luôn muốn cô tham gia. Cô đúng là rất khác thường.”

    “Chứ còn gì! Tôi là người luôn gặp vận đen chí mạng, luôn bị rắc rối bám theo. Công an sinh ra để giải quyết các rắc rối cho nên mới dùng tôi để nhử rắc rối ló mặt ra.”

    Kim Thạc bật cười, khi không cố làm bộ giữ kẽ thì anh vẫn là một chàng trai đáng mến. Anh nói, “Tôi cầm đến cho cô một thứ rất hay.”

    Na Lan mới chỉ thấy bó hoa chứ không thấy gì khác.

    “Còn nhớ hôm qua nhờ tôi tìm băng ghi âm vở kịch nói Nhà chứ?”

    Na Lan mừng rỡ, “Anh đã tìm được à?”

    “Không.”

    “Lại trêu nhau rồi!” Na Lan trách khéo.

    Kim Thạc cười đắc ý, “Không tìm được trích đoạn băng ghi âm, nhưng tôi tìm được băng ghi âm của cả vở kịch đó!”

    Na Lan mỉm cười, “Sồng ở thủ đô có khác, ăn nói lắt léo!”

    “Nhưng nếu chưa từng sống ở thủ đô thì không thể kiếm nổi băng ghi âm này. Tôi đã nhờ các đồng nghiệp tìm ở đài phát thanh, đài truyền hình, thư viện, phòng hồ sơ… Giang Kinh, đều không có. Sau đó nhờ người quen ở Bộ Công an tìm tư liệu về kịch nghệ Trung Quốc, từ đó lần ra Viện Kịch nghệ Trung ương, họ có cả một kho băng ghi âm đáng tin cậy và hoàn chỉnh nhất!”

    “Có lý!”

    “Viện Kịch nghệ Trung ương có nhiều bản Nhà khác nhau, nhưng không có bản ghi âm do đoàn kịch nói Giang Kinh biểu diễn những năm 60.”

    Na Lan thầm nghĩ, gã điển trai này đừng vòng vo tam quốc nữa thì tốt. Cô nói, “Cũng không đáng ngạc nhiên, vì nó chưa phải cuốn băng tiêu biểu đặc sắc gì.”

    “Sau đó một giáo sư già ở khoa Biểu diễn Viện kịch nghệ Trung Quốc mách nước cho, nơi có nhiều khả năng lưu trữ băng ghi âm của đoàn kịch Giang Kinh chính là một đồng nghiệp của cô…”

    “Càng nghe càng thấy khó hiểu quá.”

    “Đại học Giang Kinh có Học viện Nghệ thuật Biểu diễn đúng không?”

    “Có! Tiền thân của nó là Trường Hí kịch Giang Kinh. Sau khi sáp nhập vào Đại học Giang Kinh thì nó biến thành một học viện.”

    “Trong khoa Biểu diễn của Học viện có một giảng viên là dân Giang Kinh chính cống, cũng là nhân vật kỳ cựu trong giới văn nghệ Giang Kinh, thường say mê sưu tầm tư liệu. Tôi bèn gọi điện hỏi, quả nhiên bà ấy có! Nhưng bà ấy không thể đưa cho vì nó là báu vật của bà, ở dạng băng cổ lỗ sĩ, nếu muốn nghe tại nhà bà thì được. Bà nói là không ngại gì, vì chính bà thỉnh thoảng vẫn mở các băng cũ ra nghe.”

    “Cũng vừa khéo tôi đang muốn hỏi vài điều về vở kịch đó, anh giúp tôi nói với bà ấy được không?”

    “Định bao giờ đến chỗ bà ấy?”

    “Tối nay.”

    Chỉ còn hai giờ nữa là đến “tối nay”.

    Chu Trường Lộ xem lại các chỉ số về thể trạng Na Lan rồi đồng ý cho cô rời buồng hồi sức cấp cứu. Nếu biết ngay sau đây Na Lan lại đi điều tra các tình tiết vụ án, chắc ông sẽ giữ cô lại đến sáng mai luôn.

    Na Lan biết mình không thể chờ nổi nữa.

    Sau khi phát hiện ra hài cốt của Quan Tinh, và Mễ Trị Văn lại tung ra một chữ mới, Na Lan có cảm giác gấp gáp rõ rệt. Trò chơi này còn kéo dài đến đâu? Lẽ nào vụ “ngón tay khăn máu” sẽ tiếp diễn thật? Cô chưa biết cuốn băng ghi âm bà mẹ Mễ Trị Văn biểu diễn kịch nói có đem lại bước đột phá cho công tác trinh sát hình sự không, nhưng cô có cảm giác đây sẽ là một khâu quan trọng để tìm hiểu Mễ Trị Văn và tìm hiểu vụ án “ngón tay khăn máu”.

    Học viện Nghệ thuật Biểu diễn trực thuộc Đại học Giang Kinh, vốn là trường Hí kịch Giang Kinh, sau khi sáp nhập nó vẫn ở địa chỉ cũ phía tây khu Văn Viên, cách Đại học Giang Kinh hai mươi phút đi bộ. Gần đay Na Lan sinh hoạt chẳng theo quy luật gì, đi bơi cũng không có thời gian, lại vừa bị ngất… lúc này cô vẫn rất đuối sức bèn đi tàu điện ngầm cho đỡ mệt.

    Cửa tòa nhà văn phòng khoa Biểu diễn đóng im im, cô đang do dự thì một bà già chợt mở cửa bước ra. “Cháu là Na Lan à?”

    “Chào cô Nhiếp!”

    “Vào đi!” Bà Nhiếp Dương giảng viên khoa Biểu diễn dẫn Na Lan vào, cửa khu nhà tự động đóng lại. Đèn hành lang sáng sủa, có thể thấy rõ chiếc áo khoác len của bà rất đẹp và trang nhã, lưng bà vẫn thẳng, bước chân vẫn nhanh nhẹn gọn gàng. “Xin lỗi nhé, bắt cháu phải đến tận đây. Nhưng cuốn băng đã quá cũ, đem đi đem lại tôi không yên tâm, nhất là cho chạy bằng máy lạ e sẽ gây ra hậu quả.”

    Ấn tượng đầu tiên của Na Lan là bà rất thẳng thắn. Bước vào phòng làm việc của bà, Na Lan bỗng sửng sốt, không nghĩ gì thêm về bà nữa.

    Trên tường treo kín ảnh lớn nhỏ, chụp sân khấu kịch, chụp các diễn viên, áp phích quảng cáo truyền hình hoặc kịch nói. Trong đó đều có bà Nhiếp Dương cùng với rất nhiều diễn viên sáng giá như Bốc Tồn Hân, Phan Hồng, Lý Mặc Nhiên, Phùng Viễn Chinh, có một số ảnh cũ bà Nhiếp Dương chụp với các diễn viên mà Na Lan chịu không biết là ai.

    Bà chỉ vào một bức ảnh đen trắng, nói, “Tôi chụp với thầy Tào Ngu.” Bức ảnh in lại thì phải, bản gốc chắc chắn đã cất lại vào album.

    “Ông ấy chuyển thể Nhà của Ba Kim rồi đưa lên sân khấu.”

    Bà Nhiếp Dương nói, “Bảo là chuyển thể, nhưng tôi cho rằng nói là sáng tác thì cũng không quá lời.”

    Lúc này Na Lan đã nhìn thấy chính diện bà Nhiếp Dương. Tuổi đã cao nhưng bà vẫn rất trẻ, đôi mắt bồ câu của cô gái tuổi hai mươi với khuôn mặt luôn tươi cười. Na Lan nói, “Phần lớn ảnh và quảng cáo các cô gái chàng trai ở đây cháu không biết là những ai.”

    “Không biết là phải, vì họ đều là các văn nghệ sĩ Giang Kinh và có nhiều người không mấy tên tuổi, ai có tên tuổi thì lại là lớp người quá xa xưa.” Bà chỉ một tờ quảng cáo cỡ lớn, in đen trắng, “Ví dụ đây là Trang Điệp, thập kỷ 30-40 nổi tiếng khắp nam bắc Trường Giang, là người Giang Kinh, nhưng nay chẳng ai nhắc nữa.”

    Cả hai ngồi xuống đi văng. Na Lan nói, “Cháu rất muốn biết cô dùng máy gì để chạy lại băng ghi âm cổ điển?”

    Nhiếp Dương cười dí dỏm, cầm chiếc laptop lại, nói, “Cái này.”

    Na Lan ngạc nhiên, “Thì ra cô có bản điện tử, sao cô không gửi cho Sở Công an, và cháu cũng không phải lặn lội đến làm phiền cô buổi tối.”

    “Vì cô muốn làm quen với cháu.”

    Na Lan lại ngạc nhiên, “Cháu… rất vinh dự nhưng quả là…”

    Nhiếp Dương thẳng thắn hơn Na Lan tưởng. “Cháu là cô gái được bàn tán nhiều nhất của Đại học Giang Kinh, nên không ai không tò mò về cháu. Có cơ hội gặp thì không thể bỏ qua.”

    Na Lan gượng cười, “Cô nói thế thì cháu hết cơ hội để xấu hổ rồi.”

    Nhiếp Dương cười ha ha hệt như nam giới. “Trăm nghe không bằng một thấy là thế! Nói thật nhé, cô rất muốn làm quen với cháu để thỏa trí tò mò. Cô, có lẽ mắc bệnh nghề nghiệp – cái nghề chuyên mô phỏng bắt chước – nên rất hay suy ngẫm về người khác, gặp những người thú vị, cô thường phân tích về tính cách, ngôn từ, cử chỉ của họ ra sao, cho nên cô dạy học thì được chứ không thể ra biểu diễn thật, kẻo sẽ mắc chứng đa nhân cách như chơi!”

    “Ở Giang Kinh chúng ta có một vụ án điển hình…”

    “Uông Lan San!” Nhiếp Dương nói luôn, và chỉ về phía góc tường. “Có tranh có ảnh đủ cả. Nghe nói bà ấy có đến mấy chục nhân cách, diễn xuất quá nhập vai, rốt cuộc bị đa nhân cách, chỉ còn nước vào viện tâm thần, nhà dưỡng lão mà ở!”

    Na Lan nhìn bức ảnh chụp chung treo trên tường đúng là Nhiếp Dương với suối tóc bạc lóng lánh như tơ và một bà già tóc xám rối bù, họ ăn mặc trang điểm rất khác nhau, trông Uông Lan San già hơn một hai chục tuổi nhưng thần thái cả hai đều tươi roi rói, vẻ rất thân thiết.

    Na Lan lại hỏi, “Cô và bà Uông Lan San đều rất mê mô phỏng, hẳn phải tuyệt vời siêu hạng?”

    “Mô phỏng là kỹ năng cơ bản của biểu diễn, cô và bà ấy có nổi trội một chút nhưng chưa đạt đến trình độ cao siêu như các diễn viên thượng hạng. Cháu gọi là tẩu hỏa nhập ma cũng được.”

    Trên đời này sao có lắm người tẩu hỏa nhập ma thế nhỉ?

    “Chắc cô biết quá rõ về những chuyện ngớ ngẩn đáng buồn của cháu. Nhưng lần này cháu đến đây không phải vì bản thân cháu.”

    “Vì ai trong vở kịch Nhà?” Bà thật thông minh.

    “Minh Phượng.”

    “Hoàng Tuệ Trân?” Nhiếp Dương nghĩ ngợi. “Tiếc rằng cô không biết gì về bà ấy, bà ấy thuộc lớp trước, lại không sắm vai chính nên chẳng mấy ai tìm hiểu nhiều. Diễn xuất của bà trong vở kịch này cũng khá, tuy hơi non nhưng vẫn là có nghề, có thể coi là một điểm sáng của vở kịch. Dàn diễn viên nói chung là bình thường, do diễn viên hạng nhì của đoàn kịch nói phối hợp với một số diễn viên quần chúng ở cơ sở dựng vở nhân dịp liên hoan sân khấu, khá nhất là Minh Phượng do Hoàng Tuệ Trân sắm vai. Chắc cháu biết rồi, Hoàng Tuệ Trân sẵn có nét u buồn, Minh Phượng vốn là một a hoàn, a hoàn yêu cậu Ba con trai ông chủ nhưng không môn đăng hộ đối nên cậu ba không cưới được, về sau cô ta bị đưa đi làm thiếp, thất tình nhảy xuống hồ tự tử. Đó là một vai rất bi kịch.” Nhiếp Dương lại nhìn lên bức ảnh. “Hoàng Tuệ Trân có liên quan gì đến vụ án của các cháu à?”

    “Bà ấy về sau mất tích, con trai bà ấy là một phạm nhân. Cháu hy vọng tìm thấy bà ấy, thì rất có thể bà sẽ… thuyết phục người con trai hợp tác với bọn cháu.”

    “À, ra là thế. Lát nữa chúng ta cùng nghe, cháu sẽ thấy giọng của Hoàng Tuệ Trân rất đặc biệt, chất giọng êm dịu, du dương mềm mại như con gái Giang Nam. ‘Đã yêu ai thì mình rải lối đi bằng phẳng cho người ấy chứ đừng biến thành một gánh nặng của người ta…’” Nhiếp Dương bỗng cao hứng cất giọng buồn buồn “nhại” một câu thoại của Minh Phượng trong vở kịch Nhà. Na Lan bàng hoàng, khi Nhiếp Dương bắt trước giọng của Minh Phượng, cô thấy dường như bà đã biến thành một người khác!

    Chương 26: Gặp lại Thuyết đoạt hồn

    Trong phòng họp của đội cảnh sát hình sự, cửa đóng kín, im lặng, thỉnh thoảng có tiếng ai đó uống hớp nước. “Chữ” thứ ba của Mễ Trị Văn đưa ra hôm qua được máy chiếu phóng đại trên màn vải trắng treo ở cuối phòng họp. Màu mực đỏ như máu.

    Ba Du Sinh mải miết suy nghĩ, không thể tĩnh tâm ngồi yên ở ghế được, cả buổi chiều anh chỉ đi ra, lát sau đi vào, rồi lại đi ra. Lần này đẩy cửa bước vào, phía sau anh là chiến sĩ trẻ bưng năm suất cơm hộp. Na Lan cố ý cúi đầu xuống. Tối qua nghe băng ghi âm ở nhà Nhiếp Dương đến gần nửa đêm mới về, nằm trằn trọc mãi bởi vì cơn ác mộng cô gái bị trói vào giá chữ thập rồi chôn sống. Ngủ thế này còn khổ sở hơn không ngủ. Rồi lại nhớ đến đoạn thoại ai oán của Minh Phượng do Hoàng Tuệ Trân sắm vai, “Em phải tìm đến cái chết…” “Em chỉ muốn nhìn anh một lần nữa…” sự bi đát và tuyệt vọng của một cô gái đã quyết định giã từ cuộc sống. Sau đó lại là hình ảnh Hoàng Tuệ Trân tươi trẻ yêu kiều tóc đuôi sam đen nhánh biến thành bà Nhiếp Dương tóc bạc.

    Rồi cũng chịu đựng được đến mờ sáng, cô dậy rửa mặt chải đầu, soi gương và ngớ ra, Na Lan trong gương, quầng thâm dưới mắt càng rõ hơn, gần như chiếm nửa khuôn mặt. Cô cố cứu vãn, đắp khăn nước ấm, xoa kem lấp vết nhăn, đánh phấn, kẻ mi mắt… vận dụng hết chiêu thức. Nhưng người trong gương trông vẫn như con gấu trúc! Cho nên giờ cô cứ như Tây Thi đang ốm, đầu lúc nào cũng cúi xuống.

    Trong phòng họp, ngoài Na Lan ra còn có một kỹ thuật viên của Sở Công an cùng hai chuyên gia được mời đến, một chuyên gia bút tích học và một bậc thầy văn tự học của Học viện Văn học thuộc Đại học Giang Kinh là ông Dư Hoán Hy. Trước mặt mỗi người đặt một máy tính xách tay, có cả iPad để đôi khi lên mạng tra cứu, phát biểu quan điểm… Nhưng Na Lan biết, từ cách đây hơn một giờ mọi ý tưởng đã khô kiệt. Cơm hộp ư? Dù có cả thùng chất kích thích cũng không thể khiến các chuyên gia phấn chấn được. Cô cũng bế tắc.

    Ba Du Sinh cũng nhận ra tất cả chưa có tiến triển gì, anh nói, “Chúng ta ăn tạm một chút đã, ăn xong sẽ tổng kết rồi về nghỉ vậy.”

    Ông Dư Hoán Hy nói, “Không cần ăn, tôi về ngay bây giờ kẻo bà xã lại kêu là ra ngoài nhậu nhẹt. Thật ra tôi đã làm phí thì giờ của các vị. Chữ này không liên quan gì đến văn tự Trung Quốc cả, các vị nên mời chuyên gia ký hiệu học xem sao.”

    Na Lan tán thành quan điểm của ông. Chữ lần này rất khác với hai chữ lần trước. Hai chữ kia còn có cấu trúc, đường nét hẳn hoi, có bóng dáng của chữ Hán thời cổ, nhưng chữ này thì quá xa với định nghĩa về “chữ” truyền thống. Nó chỉ là tập hợp rời rạc của các khoanh tròn và đoạn thẳng. Cụ thể là 7 vòng tròn và 5 nét sổ.

    Kỹ thuật viên của Sở nhân đây tổng kết luôn, “Chúng tôi cũng đã gửi cho vài chuyên gia ký hiệu học, họ đưa ra một số quan điểm, là thuyết về bát quái, thuyết về mật mã Morse, và thuyết về tranh vẽ của nhi đồng…”

    Ba Du Sinh hỏi, “Nhi đồng vẽ à?”

    “Có nhiều đứa trẻ lúc mới tập vẽ thường hay vẽ vòng tròn và nét thẳng, ví dụ vòng tròn là đầu, đường thẳng là thân mình hoặc tay, chân; vòng tròn là tán lá cây, đường thẳng là cành cây; hình tròn là hoa, đường thẳng là cuống hoa; ba đoạn thẳng nối nhau thành hình tam giác là lá cây, vân vân…”

    Chuyên gia bút tích học nói, “Về phương diện bút tích, có thể khẳng định đúng là do Mễ Trị Văn viết ra.” Hình như ông muốn chứng minh Mễ Trị Văn không phải đứa trẻ con mới tập vẽ.

    Dư Hoán Hy góp ý, “Thuyết bát quái, rất không ổn. Kể cả coi các vòng tròn là vạch ngang, cộng với các nét sổ là 12 vạch cả thảy, đúng ra có thể tập hợp thành 3 quẻ, nhưng các vạch ngang buộc phải tập hợp thành đôi, thì ngay tôi chỉ là dân văn khoa thế hệ cũ cũng nhận ra 7 vạch ngang không thể tập hợp thành đôi chẵn.”

    Kỹ thuật viên của Sở cũng nói, “Ký hiệu Morse thì càng không giống. Morse chỉ dùng vạch ngang và chấm, nhưng ở đây lại là vạch dọc và vòng tròn, sắp xếp thì lộn xộn bát nháo.”

    Ba Du Sinh nhìn Na Lan, như muốn nói, cô có vẻ bình thản nhỉ? Cô nghĩ, vâng, em bình thản như con gấu trúc.

    Na Lan nói, “Chữ thứ hai khó đoán hơn chữ thứ nhất rất nhiều. Chữ thứ ba sẽ càng khó đoán. Tin rằng nó không thể giản đơn như Bát quái hay tín hiệu Morse. Theo kinh nghiệm rút ra khi tiếp xúc với Mễ Trị Văn qua hai chữ trước, thì lần nay chữ tuy khó hơn nhưng lão không mong trò chơi kéo dài đến vô tận, xem ra lão rất gấp gáp, thậm chí còn sốt ruột hơn cả chúng ta. Lão có thể sốt ruột vì điều gì?”

    Vụ án “ngón tay khăn máu” sẽ còn tiếp diễn.

    Kỹ thuật viên hỏi, “Ý cô là gì?”

    “Tôi muốn nói rằng chữ này tuy rất khó giải mã, không hề có vẻ là chữ, nhưng chắc chắn Mễ Trị Văn muốn chúng ta giải thật nhanh chứ không như chữ lần trước phải đi phỏng vấn hơi nhiều.”

    Ba Du Sinh gượng cười, “Xem ra, ‘nhốt’ các vị trong nhà vẫn là đúng, nếu các vị bằng lòng thì cứ tiếp tục thảo luận, sau năm tiếng nữa tôi sẽ bưng món ăn khuya vào.”

    Mọi người đều giả bộ than vãn mấy câu nhưng ai cũng hiểu cả, Dư Hoán Hy và chuyên gia bút tích học bắt đầu mở hộp cơm. Na Lan thì ngồi ngẩn ra. Ba Du Sinh bước đến khẽ nói, “Cô ăn một chút đi, rồi về nghỉ cho cái đầu được thư giãn. Rất có thể ngày mai sẽ nghĩ ra.”

    Na Lan lẩm bẩm, “Vẫn là em.”

    Ba Du Sinh im lặng. Cô nói tiếp, “Chỉ em mới có thể đoán ra, không cần đi hỏi nhiều mà là cần vắt óc suy nghĩ… Sở Hoài Sơn nói sao?”

    Ba Du Sinh ngồi xuống bên cạnh cô. “Anh ta cũng nói thế, chỉ cô mới giải mã được. Anh ta cũng nhắc đến ký hiệu Morse, vạch Bát quái... nhưng đều cảm thấy không thỏa đáng.”

    “Em có cảm giác đang dần tiếp cận nhưng cái đầu không sao hình thành nổi phương hướng đang lảng vảng ngay trước mắt. Lúc này em lại mong Mễ Trị Văn tiếp tục vẽ. Chữ lần trước tạo thành bởi hình vẽ, nó vẫn còn chút gợi ý.”

    Ba Du Sinh lại nhìn lên màn hình với con chữ phóng to, nói, “Nhưng rất có thể đây vẫn là hình vẽ. Lúc nãy họ nhắc đến giả thiết tranh vẽ của nhi đồng, cũng hơi có lý.” Anh lại trầm ngâm.

    Na Lan đờ đẫn, đầu cô lại ngâm ngẩm đau. Cô nói, “Đầu em hóa đá rồi. Em về nhà suy nghĩ vậy.”

    Ngồi lên taxi, Na Lan quên hẳn trong hộp cơm kia có những món gì. Dù là đất đá sạn cát thì cô cũng phải nhai nuốt tất. Bên ngoài cửa kính xe là Giang Kinh buổi tối, xe cộ nội thành vẫn ùn tắc chật cứng. Cô hạ cửa kính xe xuống để không khí mát mẻ tràn vào cho cái đầu bớt đông đặc.

    “Cô ơi, đừng mở. Không khí rất ô nhiễm. Càng về đêm lại càng độc hại.” Anh lái xe lầu bầu.

    Na Lan thẫn thờ nhìn ra ngoài, vô số ánh đèn néon loang loáng vụt qua. Tại sao lại là 7 vòng tròn và 5 vạch đứng? Morse, vạch Bát quái, tranh trẻ con vẽ.

    Tròn, là cái đầu. Thẳng, là tay chân.

    Cô cảm thấy đáp án đã đến rất gần nhưng cũng rất xa.

    “Kìa, người đẹp kéo cửa kính lên đi! Tôi lái xe suốt ngày, ngửi mùi rượu bia, thuốc lá, hành tỏi... bị đủ thứ mùi tra tấn, đến tối cô lại thả không khí ô nhiễm vào thì tôi chết luôn đấy!” Anh lái xe kêu lên.

    Lúc này cô mới nghe ra, đầu vẫn đang nghĩ về các nét tròn nét thẳng.

    Cô mở di động. Sở Hoài Sơn đã lên WeChat: Tiến triển ra sao rồi?

    Na Lan: 2 giờ chiều bắt đầu, có khoảng bốn năm người, mỗi người lãng phí bảy tiếng đồng hồ.

    Sở Hoài Sơn: Chỉ cô mới giải được nó.

    Na Lan: Anh định đọc danh ngôn của Mễ đại sư đến bao giờ đây?

    Sở Hoài Sơn: Cô vẫn nên hồi tưởng các trải nghiệm của mình, xem có liên quan đến 7 vòng tròn và 5 nét thẳng hay không.

    Na Lan: Tôi chưa từng nhìn thấy các ký hiệu tương tự.

    Đột ngột, đáp án bỗng đến gần hơn. Vì ngồi nghĩ cả buổi chiều nhưng cô lại quên một điều, tại sao nó nhất thiết phải là ký hiệu, phải là hình vẽ hoặc là mật mã?

    Trải nghiệm của mình, 7 vòng tròn, 5 nét thẳng.

    Một sự kiện mà mình không cần đi hỏi nhiều, không cần hồi tưởng nhiều.

    Sở Hoài Sơn lại nhắn: Gần đây cô có tiếp xúc với hai chữ số 7 và 5 không?

    Trước mắt Na Lan hiện lên bảy hòn đá đen bóng nhẵn nhụi.

    Sở Hoài Sơn: Thế nào?

    Na Lan: Ngả 5 nét dọc xuống được cái gì?

    Sở Hoài Sơn: Được 5 nét ngang.

    Na Lan: Đặt chấm và nét ngang cạnh nhau?

    Sở Hoài Sơn: Ký hiệu Morse.

    Na Lan: Đó chính là đáp án.

    Sở Hoài Sơn: Sao phải ngả 5 nét dọc xuống?

    Na Lan: Vì 7 và 5.

    Sở Hoài Sơn: Tôi vẫn chưa hiểu.

    Na Lan: Bảy người đi nghỉ dưỡng trượt tuyết, ở ngôi nhà gỗ, bảy người lần lượt biến mất, cuối cùng chỉ còn lại mình tôi.

    Mắt cô ươn ướt.

    Sở Hoài Sơn im lặng một lát, rồi đáp: Chỉ còn cô và người chị họ Thành Lộ. Rõ ràng là lão ta biết toàn bộ đáp án.

    Na Lan: Đúng. 7 người thì 5 người chết. Câu đố chữ này là ký hiệu Morse và cũng là tranh trẻ con vẽ. 7 chấm tròn là 7 hòn đá mài nhẵn hoặc 7 cái mặt người ; 5 nét sổ là 5 thân người đang đứng, còn sống ; sự việc diễn biến đến phút chót thì 5 người nằm xuống, bỏ mạng. Cho nên tôi đoán rằng ta phải ngả 5 nét dọc ấy xuống.

    Sở Hoài Sơn: Tại sao chỉ có 5 người? Cô và Thành Lộ đâu? Còn sống, sao không thấy người?

    Na Lan: Đó là Mễ Trị Văn ngầm gợi ý tôi hãy chú ý đến hai chữ số này.

    Cô bỗng xúc động trào nước mắt, tiếp tục trả lời: Còn đầu, mất thân. Có thể lại là một ẩn ý.

    Sở Hoài Sơn im lặng. Là người thông minh, anh đã đoán ra.

    Na Lan: Sống còn khổ hơn chết. Lão đang chế nhạo tôi và Thành Lộ tuy đang sống mà chẳng khác gì đã chết rồi.

    Cô đương nhiên không thể quên quãng thời gian sau khi rời núi tuyết, bức bối và ảo giác, phải điều trị tâm lý liên tục. Cô cũng biết Thành Lộ đã bình phục nhưng vẫn không ngớt bị ám ảnh bởi bóng đen của cuộc hôn nhân đổ vỡ, chồng thì phản bội.

    Sở Hoài Sơn: Mễ đại sư cũng có lúc sai.

    Na Lan: Chữ của lão không sai! Chúng ta đã biết đây là những ký tự Morse...

    Sở Hoài Sơn: Nhưng vẫn phải hết hơi thì mới giải được nó.

    Na Lan: Tại sao? Tôi không thạo Morse lắm.

  10. #19
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tơ đồng rỏ máu


    phan 19

    Sở Hoài Sơn: Một tập hợp ký hiệu, luôn chứa đựng nhiều khả năng. Ví dụ, giả thiết đều là ký tự ABC, nếu hàng thứ nhất xếp ∙. - - - - ∙, có thể giài ra là AOE, AMN, EON hoặc EMG thậm chí JN. Và nhiều khả năng khác nữa.

    Na Lan: Tôi ù cả tai.

    Sở Hoài Sơn: Đoán chữ, là khâu có tính quyết định. Mấu chốt là ta ngắt ở đâu, ∙ là E, ∙- là A, ∙- - là W, ∙- - - là J.

    Na Lan: Hay ta bắt đầu bằng cách trực quan nhất, ngắt từ giữa đi, chia thành ∙- - và - -∙.

    Anh lái xe bỗng ngoảnh lại nói, “Đến nơi rồi. Còn đi nữa không?” Na Lan giật mình, thì ra xe đã chạy đến cổng trường Đại học Giang Kinh. Cô chỉ lối cho anh ta đi tiếp, rồi lại cúi nhìn di động.

    Sở Hoài Sơn: Hàng một W, G hàng hai U,S.

    Na Lan ngây người nhìn bốn chữ cái cho đến lúc xe chạy đến cửa khu ký túc xá vẫn không nhận ra chúng có ý nghĩa gì, thậm chí không thể ghép thành bất cứ từ nào trong tiếng Anh.

    “Kìa, chưa trả tiền!” Anh lái xe gọi.

    Thì ra cô quên béng trả tiền taxi, cô xin lỗi rối rít và rút tiền trả. Trên gác lố nhố đầu thò ra nhìn ngó, phen này lại có mấy mẩu tin chọc ngoáy rồi đây.

    Sở Hoài Sơn tiếp tục: Nếu ta giả thiết, chúng là các chữ số, và vẫn ngắt ở chính giữa, quy tắc Morse thông thường, không giải được, nhưng có thể dùng cách viết tắt của Morse. Hàng 1 là 3, 7. Hàng hai là 2, 5.

    Na Lan nhìn bốn chữ số, bỗng thở gấp, tay cũng run run. Sau đó toàn thân như đông cứng, đang mùa xuân mà cảm giác như giá buốt mùa đông đột ngột quay về. Vài giây sau cô chạy ào ra khỏi cửa ký túc xá. Chiếc taxi vừa nãy chạy ngay phía trước, đang tà tà rẽ qua vườn hoa ký túc. Cô đuổi theo, gọi to, “Chờ đã! Chở tôi đến một nơi nữa!”

    Mấy cái đầu lại lố nhố thò ra trên gác ký túc, ngó nhìn “nữ vương lắm chuyện của Đại học Giang Kinh” tiếp tục lên taxi.

    Nhà số 3, nhóm 7, số phòng 25.

    Dân ở đây chủ yếu là các “bô lão” trong ngành công an, được phân nhà từ đời nảo đời nào. Họ là công an về hưu hoặc con cháu của họ. Chủ nhân căn hộ số 25 là người độc thân, một cảnh sát già, Trần Ngọc Đống.

    Tại sao chữ mới của Mễ Trị Văn lại chỉ vào chỗ ở của ông Trần Ngọc Đống? Xét về lý thì chỉ có một khả năng, đến đó sẽ tìm ra một bộ hài cốt trong vụ án “ngón tay khăn máu”.

    Làm gì có chuyện đó!

    Trần Ngọc Đống là người cảnh sát đầu tiên tiếp xúc với vụ án “ngón tay khăn máu”, và cũng là người luôn không mệt mỏi, miệt mài nghiên cứu khám phá vụ án này suốt bao năm trời, về hưu rồi mà vẫn hỗ trợ cảnh sát điều tra tiếp. Sao chỗ ở của ông lại là nơi chứa hài cốt của một nạn nhân? Tại sao ông ta phải cất giấu nó?

    Chỉ có một cách giải thích.

    Ông ta là hung thủ.

    Một cách giải thích quá viễn tưởng hão huyền. Ông ta đã vất vả điều tra vụ án, sao lại biến thành hung thủ được? Trừ phi ông ta giống như bộ khoái Lã Diệp Hàn trong cuốn Không dũ tùy đàm, quá đắm đuối, suy đoán nắm bắt tâm tư hung thủ, đến nỗi chính mình tẩu hỏa nhập ma, rồi mô phỏng hung thủ để gây án!

    Na Lan càng nghĩ càng thấy sợ, Lã Diệp Hàn tẩu hỏa nhập ma, tại sao Trần Ngọc Đống lại không thể? Khoa Tâm lý học biến dạng và Thần kinh học đã dẫn ra vô số ví dụ, vì nhập vai quá sâu hoặc đi sâu quá mức đối với một hành vi nào đó sẽ dẫn đến biến dạng thần kinh.

    Nhưng tạm thời chớ vội kết luận. Đây có thể chỉ là một trò bỡn cợt của Mễ Trị Văn, một cách đánh lạc hướng, một phần của trò chơi vô duyên của lão. Na Lan đứng xa xa bên ngoài nhà Trần Ngọc Đống, cố nhớ lại khung cảnh trong nhà ông ta, không có tủ lạnh cỡ lớn để có thể chứa một bộ xương hoàn chỉnh.

    Rành rành là chuyện hoang tưởng.

    Nhưng cô cũng không muốn nhún vai rồi ra về cho gọn chuyện. Hai chữ trước đây của Mễ Trị Văn đã đem lại thu hoạch, lẽ nào lần này ra về tay không? Nên làm gì bây giờ? Gọi điện cho Ba Du Sinh hoặc Kim Thạc, nhưng nên nói gì? Các anh cử người đến khám nhà Trần Ngọc Đống, có thể trong đó đang giấu một bộ hài cốt của vụ “ngón tay khăn máu”?!

    Vẫn là chuyện hoang tưởng.

    Đúng lúc ấy, cô ngờ ngợ có người đang nấp ở đâu đó theo dõi mình, bèn đưa mắt nhìn bốn xung quanh. Bóng tối và bóng tối, tất cả chỉ có bóng tối. Hễ đi tìm hài cốt là cô lại có cảm giác bị ai đó bám theo. Tại sao? Hay là ma? Là oan hồn của nạn nhân? Cô quyết định ra khỏi bóng tối, bước đi chầm chậm. Không thấy bóng ai di chuyển, không thấy kẻ dõi theo mình, hoặc có lẽ hoàn toàn không có chuyện đó mà chỉ là mình bị ám ảnh mà thôi.

    Cô đi quanh nhà số 3 một vòng, lúc đến cửa sổ căn hộ của Trần Ngọc Đống, cô ngạc nhiên, bên ngoài cửa sổ là một bồn hoa nho nhỏ đơn giản, khóm hoa tròn tròn, được vây lại bằng vài phiến đá hình chữ nhật.

    Đường tròn, và vạch thẳng.

    Có 8 khóm hoa, dùng hơn 12 phiến đá vây lại. Có phải các đường tròn và vạch thẳng kia ám chỉ hài cốt được cất giấu dưới đất không?

    Cô sờ vào di động. Ít ra Kim Thạc có thể đem người đến đào xới bồn hoa.

    Đúng lúc ấy, cô trông thấy Trần Ngọc Đống.

    Ông ta đang lững thững đi ra phía ngoài khu tập thể, hoàn toàn không nhận ra Na Lan đang đứng bên nhà mình. Dáng ông hơi gù, cúi đầu, tựa hồ đang nghĩ ngợi. Na Lan đứng nguyên tại chỗ nhìn cho đến khi ông ta chìm vào bóng tối.

    Cô quay trở vào hành lang nhóm căn hộ số 7.

    Cửa nhà Trần Ngọc Đống đóng im im, cô thử đẩy cửa, không được. Cô soi đèn pin, ổ khóa đơn giản cũ kỹ, chắc là có từ mười mấy năm trước hồi xây khu nhà này. Cô nhớ lại lần trước đến nhà Trần Ngọc Đống, ông ta cầm chìa khóa khẽ vặn một cái là được ngay. Tức là ổ khóa cực đơn giản, ông già độc thân chẳng có của nả gì lại là cựu cảnh sát ở khu tập thể công an, khỏi cần cải tạo nhà cửa cho chắc chắn cũng là chuyện thường tình.

    Cho đến hôm nay, Na Lan có thể bạo mồm tự xưng mình là công an nghiệp dư cũng không ngoa, cái khóa cổ lỗ này bất cứ ai cũng mở được, cô cần một mảnh nhựa.

    Cô mở ví lấy ra chiếc thẻ ngân hàng ấn vào khe cửa, từ từ nhích nhích... hơn chục giây sau đã mở được cửa.

    Lia đèn pin. Cảnh tượng vẫn như mấy hôm trước nhìn thấy, các chồng sách xếp kín mặt sàn, chỉ có thể đứng tạm. “Càn quét” một lúc, cô kết luận, không có bất cứ thứ gì có thể chứa một bộ hài cốt, cũng không ngửi thấy mùi gì khó chịu. Cô bước vào buồng ngủ, soi đèn nhìn kỹ gầm chiếc giường đơn của Trần Ngọc Đống, cũng không có hòm xiểng gì. Mặt sàn lát gạch bình thường, không có vết khe hở hay tấm ván nào khả nghi.

    Trong bếp chỉ có chiếc tủ lạnh cỡ trung bình. Na Lan ngờ ngợ, dù không chứa nổi một bộ hài cốt nhưng nếu gỡ nhỏ, phân tán ra thì sao?

    Hão huyền!

    Nhưng cô vẫn mở tủ lạnh ra.

    Chỉ thấy hai bát thức ăn còn thừa, một chai nước quất, một âu cơm nhỏ, và một ít rau xanh còn nguyên mớ. Cô mở ngăn đá phía trên. Một túi bánh gói đông lạnh, một túi đùi gà, một túi chân gà.

    Cô chợt nghĩ.

    Chân gà?

    Cô soi đèn vào một cái túi nilon được quấn rất chặt.

    Một vật nặng giáng thẳng vào đầu. Na Lan gục ngay xuống chết ngất.

    Chương 27: Tẩu hỏa nhập ma

    Đêm khuya, đất xốp rơi xuống rào rào, người xúc đất rất thạo việc, rất khỏe, làm rất nhanh chỉ sau vài phút một nửa cái hố đã ngập đất.

    Sự sống của cô cũng chỉ còn một nửa.

    “Em van anh, anh cảnh sát...” Cô nài xin, giọng tắc nghẹn bởi cái khăn nhét trong miệng, chỉ nghe âm thanh ú ớ trong cổ họng.

    “Xùy...” Cái xẻng trong tay kẻ kia vẫn không dừng lại, hình như hắn muốn kết thúc thật nhanh tội ác này.

    “Anh ơi, anh tha cho em, rồi bắt em làm gì cũng được. Em cam đoan sẽ không nói ra.” Cô tiếp tục cầu xin, tiếp tục ú ớ không thành tiếng. Những câu này cô đã nói từ trước khi bị chôn, đã nói khi ngón tay trỏ của cô bị chặt đứt, nhưng cứ như nói với một kẻ điếc ung điếc đặc.

    Kẻ đang chôn cô bắt đầu mở miệng, nói nhỏ, như lẩm bẩm với mình, và rõ ràng là không nhằm trả lời cô, “Như thế này, tốc độ lấp đất sẽ chậm hơn, không bịt mồm, vẫn có thể tiếp tục nói chuyện với nạn nhân… cảm giác sẽ là gì? Có thể mủi lòng không?” Hắn dừng lại, ngồi thụp xuống, thò cái xẻng xuống hố, lưỡi xẻng ghí sát vào mồm nạn nhân, hình như đang ghĩ xem có nên moi cái khăn mặt ra khỏi mồm cô ta không.

    “Nếu nạn nhân cứ van xin khóc lóc mãi, hung thủ sẽ có cảm giác gì?” Hắn tự hỏi rồi tự trả lời, “Hắn sẽ càng khoái trá thưởng thức, thấy mình là nhân vật đầy bản lĩnh, đầy sức mạnh. Đây chẳng phải khát vọng ban đầu của hắn sao? Nhưng nếu không trải nghiệm thì làm sao biết được?”

    Hắn khều cái khăn mặt ở miệng nạn nhân ra, khăn rơi xuống hố. Cô ta khóc ré lên như đứa trẻ sơ sinh đói bụng đòi ăn, tiếng thét lay động màn đêm. Không thấy thỏa mãn, hắn nhìn quanh rồi quát. “Câm mồm!” Và tiếp tục lấp nốt cái hố, đất hắt xuống ngập miệng cô, chặn ngay tiếng khóc.

    Lúc Na Lan tỉnh lại, thì thấy ngón tay ai đó nhấc ra khỏi huyệt nhân trung của mình. Cảm giác đầu tiên của cô là sau gáy đau nhức kinh khủng, câu đầu tiên cô nói là, “Tại sao ông biết họ bị chôn sống?”

    Rồi cô nhận ra mình đang nằm trên chiếc giường cá nhân, tay chân đều bị trói chặt bằng thừng nilon. Người ấn huyệt nhân trung của cô là Trần Ngọc Đống. Dưới ánh đèn yếu ớt trong căn nhà chật chội, mặt ông ta tối sầm.

    “Chôn sống cái gì?” Giọng Trần Ngọc Đống đầy kinh ngạc.

    “Tại sao ông biết các nạn nhân trong vụ án ‘ngón tay khăn máu’ bị chôn sống? Rồi chính ông mô phỏng hung thủ! Ông đã chôn một nạn nhân ở bồn hoa ngoài cửa sổ, đúng không?” Na Lan quên cả phản đối việc mình bị trói.

    Trần Ngọc Đống lắc đầu, “Cô đang nói lăng nhăng gì thế? Tôi đang muốn hỏi cô, ai cho phép cô đột nhập nhà riêng của tôi? Cô đang định làm gì? Cô đi phá án hay là cô có quan hệ gì với hung thủ, cô đến để phá hoại điều tra?”

    “Phá hoại?” Na Lan cười nhạt. “Tôi đến để khuyên ông đối diện với quá khứ của mình, đối diện với con người thực của mình, khuyên ông đi đầu thú, vẫn còn kịp.”

    “Tôi biết cô làm về Tâm lý nhưng hình như cô quá trớn rồi. Tôi làm sao mà phải đi đầu thú, tôi có gì mà phải đối diện?”

    Na Lan nhớ đến Lã Diệp Hàn trong cuốn Không dũ tùy đàm, vì quá đi sâu nghiên cứu hành vi của hung thủ, rồi chính mình bị đa nhân cách, nhân cách vốn có của ông ta lại không nhận ra sự tồn tại của nhân cách tà ác. Na Lan hít sâu một hơi, rồi nói, “Có lẽ chính ông không nhận ra rằng có hai con người đang tồn tại trong mình.”

    “Cô càng nói càng kỳ quặc. Cô lén vào nhà tôi để làm gì?”

    “Ông đã bao giờ nghĩ chưa, tại sao kết quả suy diễn tâm lý tội phạm đều phù hợp với La Cường? Vì hắn có khả năng rất lớn để gây án, các chứng cứ cũng đáng tin, nhưng khi xử lý hắn rồi thì các vụ án ‘ngón tay khăn máu’ vẫn xảy ra? Liệu có phải La Cường đúng là hung thủ gây ra mấy vụ án trước đó, và hắn đã bị xử tử, còn các vụ án xảy ra sau này là do một hung thủ khác gây ra. Người đi sâu nghiền ngẫm vụ án đã đắm chìm trong đó, đến nỗi biến dạng nhân cách rồi cũng làm theo? Đây là hiện tượng Tâm lý học bệnh trạng thường gặp. Tiếp xúc với những chuyện ghê rợn quá lâu, dù bản thân cực kỳ căm ghét thì vẫn có thể bị biến đổi, chính người ấy nhập vào bộ não mình quá nhiều chuyện ghê rợn, hoặc vì có quá nhiều câu hỏi, chỉ còn cách chính mình trải nghiệm thì mới giải đáp được. Ông là người nghiên cứu vụ ‘ngón tay khăn máu’ chuyên sâu nhất, vì suốt đêm ngày ông nghĩ về nó, đến nỗi bị nó lây nhiễm, có thể như thế không?”

    Trần Ngọc Đống bàng hoàng trước những lời này của Na Lan. Ông ta đờ ra một lúc, rồi nói, “Ý cô là từ năm 1990 trở đi tôi luôn gây án, các vụ án ‘ngón tay khăn máu’ xảy ra sau khi xử tử La Cường là do tôi làm? Còn chính tôi thì không biết gì?”

    “Những ý nghĩ tà ác, những nghi vấn về tà ác, đều dần dần tích tụ và thấm vào tiềm thức của ông, vì ông đi sâu suy nghĩ về chúng quá lâu ngày. Con người bình thường của ông không thể kiểm soát con người tội phạm tiềm thức, thậm chí ông hoàn toàn không hay biết nữa.”

    “Rốt cuộc cô có chứng cứ gì?”

    “Chứng cứ không nhiều, nhưng về cơ bản tôi có thể khẳng định bên dưới cửa sổ nhà ông có chôn một xác người bị hại…”

    Trần Ngọc Đống bỗng ngoảnh sang quát lớn, “Cô cho rằng mình học về tâm lý thì có thể bỡn cợt tôi như đứa trẻ con hay sao? Cô vừa nói toàn những chuyện điên rồ, thật ra cô có mục đích gì?”

    Một tiếng động lớn, cửa bỗng bị bật tung kèm theo tiếng hô, “Giơ tay lên! Cấm nhúc nhích!”

    Phán đoán của Na Lan rất chính xác, hoặc nói là, Mễ Trị Văn đưa ra câu đố chữ đã “chỉ điểm” rất chính xác. Dưới bồn hoa ngoài cửa sổ nhà Trần Ngọc Đống, đào được bộ hài cốt nạn nhân Phạm Tiểu Lâm bị giết năm 1997.

    Cảnh sát kịp thời đến nơi là nhờ có Sở Hoài Sơn báo tin. Na Lan trước đó đã cho anh biết suy luận của mình về bốn chữ số 3, 7, 2, 5. Vì cô bị Trần Ngọc Đống đánh ngất, Sở Hoài Sơn không liên lạc được, bèn báo ngay cho Ba Du Sinh.

    Lần đầu tiên trong đời, Trần Ngọc Đống từ người đi bắt biến thành kẻ bị bắt.

    Lần thứ hai Na Lan đến trình diện ở phòng cấp cứu, may mà Chu Trường Lộ không phụ trách trực ban, nếu có mặt, ông sẽ làm đúng trách nhiệm của thầy thuốc đối với bệnh nhân, cấm Na Lan xuất viện. Cô bị kiểm tra và xét nghiệm một lô một lốc, tạm loại trừ khả năng chấn thương sọ não cấp tính. Cô liền gọi cho Ba Du Sinh, “Bao giờ các anh thẩm vấn Trần Ngọc Đống?”

    Ba Du Sinh hơi do dự: “Rất nhanh thôi. Ngay lập tức!”

    “Em muốn có mặt ở đó. Đứng ngoài cửa sổ nhìn cũng được.”

    Ba Du Sinh lại do dự. “Sếp Kim Thạc phụ trách thẩm vấn, tôi phải cách li theo quy định.”

    Na Lan than vãn, “Lại thế rồi…”

    “Đúng thế đấy! Vụ trọng án đầu tiên tôi làm trong nghề công an, chính là hợp tác với Trần Ngọc Đống. Hai chúng tôi xưa nay vẫn tử tế thân thiết, anh em trong Sở đều biết cả.”

    “Thế thì hay nhỉ? Không thể phá lệ cho em à?”

    Tiếng Kim Thạc lọt vào di động của Ba Du Sinh, “Ai thế? Na Lan định đến à? Anh cứ từ chối đi!”

    Lại một lúc chần chừ. Rồi Ba Du Sinh nói, “Ừ thì cô đến!”

    Lần này đến lượt Na Lan do dự, “Như thế… e không hay?”

    Ba Du Sinh, “Có vấn đề gì thì tôi gánh chịu!”

    Gặp Na Lan, Kim Thạc cười tươi như hoa, cứ như cái giọng văng vẳng cô nghe trong điện thoại lúc trước chỉ là giả bộ nguyên tắc cứng nhắc. Khi Ba Du Sinh bước vào phòng, Kim Thạc lại tỏ ra rất nghiêm chỉnh, “Na Lan chỉ được đứng ngoài nhìn, cấm không được tự ý hành động.”

    Na Lan nói ngay, “Được đứng ngoài xem, là thỏa mãn rồi.”

    Bên trong ô cửa sổ là phòng thẩm vấn chật chội, ngột ngạt. Ngồi trước cái bàn kê chính giữa, là Trần Ngọc Đống bỗng như già đi cả chục tuổi chỉ sau một đêm. Từ một cảnh sát kỳ cựu tràn đầy nhuệ khí vừa về hưu không lâu, nay biến thành một ông già suy sụp cả thể xác lẫn tinh thần, hai tay bị còng, run run đặt trên bàn.

    Kim Thạc đẩy cửa bước vào, nói giọng sòng phẳng, đậm chất công việc, “Anh Đống, bình thường thì tôi sẽ bắt tay anh, nhưng lần này đành thất lễ vậy.” Rồi anh ngồi xuống, không chờ Trần Ngọc Đống mở miệng, anh hỏi luôn, “Anh có thể giải thích về bộ hài cốt không?” Chiến thuật tấn công nhanh.

    Trần Ngọc Đống sửng sốt, “Hài cốt nào?” Bị cảnh sát ập vào nhà rồi giải đi, sau đó hài cốt của Phạm Tiểu Lâm mới bị khai quật, nên ông ta sửng sốt là phải.

    Tiền đề là nếu ông ta thực sự không biết.

    Kim Thạc rất giàu kinh nghiệm thẩm vấn, không giải thích nhiều, anh hỏi tiếp, “Trong chuỗi vụ án ‘ngón tay khăn máu’, anh làm mấy lần?”

    Trần Ngọc Đống chống hai tay lên bàn, đứng dậy, “Cậu hỏi cái câu khốn khiếp gì thế này?”

    “Anh là người có kinh nghiệm thẩm vấn, mong anh sẽ hợp tác.” Kim Thạc không hề tức giận.

    “Tôi là người điều tra vụ ‘ngón tay khăn máu’, cho đến nay tôi chưa từng rời xa vụ án này.”

    “Trong tâm lý học tội phạm, có nói về hiện tượng tâm lý biến dạng, người phá án nhập vai trở thành hung thủ, các ví dụ như thế không hiếm đâu.” Kim Thạc vẫn bình tĩnh. “Anh có chặt ngón tay và giết các cô gái trẻ không?”

    Lần này thì Trần Ngọc Đống bình tĩnh trả lời, “Không.”

    “Anh có đem cái xác nào về chôn dưới khóm hoa khu tập thể không?”

    Trần Ngọc Đống hoảng sợ, “Thế này thì… Na Lan nói là đúng à? Dưới khóm hoa ngòai cửa sổ nhà tôi có xác chết thật hay sao?”

    Kim Thạc không trả lời.

    Trần Ngọc Đống hiểu, sự im lặng đó là sự xác nhận, ông ta nghĩ một lúc rồi hỏi, “Kỹ thuận viên khám nghiệm hiện trường nói gì? Xác đã bị chôn ở đó bao lâu?”

    “Họ đang phân tích. Anh cũng biết rồi, không ai có thể vừa nhìn thấy đã kết luận ngay được.” Kim Thạc ghi nốt câu cuối cùng vào sổ biên bản, rồi đứng lên, kết thúc cuộc thẩm vấn.

    Tìm thấy xác Phạm Tiểu Lâm là một bước đột phá lớn, đồng thời cũng là một ngõ cụt.

    Lúc Na Lan thức dậy, trời ngoài kia âm âm, không giúp cô nhận ra giờ giấc. Đồng hồ để bàn chỉ hơn 10 giờ sáng, cô đã ngủ hơn năm tiếng đồng hồ. Nửa đầu phía sau vẫn nhưng nhức, nhưng sự lo lắng bồn chồn vẫn choán hết tâm trí cô.

    Có phải tất cả là do một mình Mễ Trị Văn đạo diễn không? Không! Lão bị bệnh tật trói chặt trên giường trong buồng bệnh nặng. Hung thủ thực sự thì đang chờ thời cơ gây án, hung thủ là ai? Cô gái bất hạnh nào sẽ là nạn nhân tiếp theo?

    Không hiểu sao những câu nói cũa Trần Ngọc Đống trong phòng thẩm vấn vẫn đeo bám cô. Tại sao cần đưa ngón tay đứt cho chuyên gia trinh sát hình sự quốc tế kiểm nghiệm? Để tìm những chi tiết mà mắt thường khó nhận ra. Hung thủ vụ “ngón tay khăn máu” dù là Mễ Trị Văn hay ai khác, dù không để lại cho công an nhiều manh mối nhưng không có nghĩa là không có manh mối gì.

    Tại sao lại là các cô gái ấy? Hoàn toàn do lựa chọn ngẫu nhiên.

    Các vụ án giết người hàng loạt đúng là có tính chất ngẫu nhiên, ví dụ giữa các nạn nhân không có mối liên quan gì, giữa các nạn nhân và hung thủ cũng có thể chỉ là ngẫu nhiên, nhưng thường là phải có một quy luật nhất định. Ví dụ một số vụ án giết người hàng loạt “nổi tiếng” trong lịch sử, vụ Jack the Ripper ở Anh quốc giết người hàng loạt cuối thế kỷ 19 hoặc vụ Ted Bundy ở Mỹ giết người hàng loạt từ 1973 đến 1978, các nữ nạn nhân có hoàn cảnh và quá trình sống tương tự nhau.

    Các nạn nhân đều là nữ.

    Tên của nữ giới nghe mong manh yếu đuối. Na Lan vốn rất ghét cái lối nói vơ đũa cả nắm, cô thậm chí cho rằng đa số tên của nữ giới là mạnh mẽ. Nhưng cô cũng công nhận rằng về thể lực thì nữ giới tthuộc “phái yếu”, cho nên mới dễ trở thành đối tượng trong các vụ án mạng.

    Nạn nhân trong vụ “ngón tay khăn máu” cũng không ngoại lệ. Na Lan nhớ đến các tấm ảnh cô đã xem, cô nào cũng có khuôn mặt dịu hiền và thân hình dong dỏng, mềm mại.

    Cô chợt nghĩ, phải chăng đây là một quy luật chung, các cô gái này đều có khí chất nhu mì và ánh mắt hơi có nét u buồn.

    Cô mở sổ tay, ghi họ tên các nạn nhân, Nghê Phượng Anh, Mã Vân, Tiết Hồng Yến, Quan Tinh, Điền Tú Cúc, Lý Vĩ Phần, Phạm Tiểu Lâm, Lư Bình, Dương Vi, Chu Kế Lôi, Đường Tĩnh Phương, Trương Lợi.

    Na Lan đờ ra trước những cái tên.

    Chẳng rõ bao lâu sau, di động bỗng reo chuông. Một giọng khàn khàn, “Na Lan, tôi muốn nói chuyện với cô.”

    Là Trần Ngọc Đống. Na Lan tỉnh táo trở lại, nói, “Vừa khéo, cháu cũng đang định gặp chú.”

    Trần Ngọc Đống qua đêm ở Sở Công an, sáng nay sau một loạt xét hỏi kiểm tra ông ta được thả ra về, việc đầu tiên muốn làm là nói chuyện với Na Lan. Hai người vào một quán mỳ gần Sở, họ ngồi đối diện nhau.

    Na Lan nói, “Chú ạ, cháu đã hiểu lầm chú, cháu xin lỗi. Cháu mới là người bị tẩu hỏa nhập ma.”

    Vẻ mặt Trần Ngọc Đống đầy mệt mỏi, nhưng đôi mắt có thần, sắc sảo hơn hẳn lúc bắt đầu bị thẩm vấn tối qua, hình như sống một đêm “tù nhân dự bị” đã cho ông thêm năng lượng. Ông lắc đầu nói, “Đừng sớm kết luận vội. Chính tôi cũng chưa loại trừ khả năng mình là nghi phạm... tuy nhiên sự việc xảy ra khiến tôi hiểu rõ một điều.”

    “Chắc hung thủ không phải là Mễ Trị Văn?”

    “Điều này không ai dám loại trừ, các kỹ thuật viên còn chưa xác định cái xác ấy được chôn ở bồn hoa đó bao lâu. Rất có thể trước khi bị vào tù lão đã bố trí cài bẫy tôi.”

    “Là gì?”

    “Vì tôi đã bắt nhầm người, bắt nhầm La Cường.”

    Na Lan cau mày không hiểu. Điều này đã kết luận từ lâu rồi mà? Nhưng cô lập tức hiểu ý Trần Ngọc Đống, các vụ án “ngón tay khăn máu” xảy ra sau khi xử tử La Cường không phải là sự mô phỏng vụng về, nói cách khác La Cường vô tội, tội của hắn không đến mức phải tử hình. Na Lan gật đầu, cô hiểu tâm trạng của người cảnh sát kỳ cựu. Phải có lòng can đảm cộng với thời gian thì mới dám thừa nhận sơ xuất của mình. Nhưng cô vẫn hỏi, “Công an vẫn chưa có đủ chứng cứ kết luận rằng La Cường không liên quan đến vụ án mạng trước đó cơ mà?”

    “Trái lại chứ! Khi xưa quy tội La Cường đã có không ít chứng cứ, nhưng lần này chúng ta biết xác của Phạm Tiểu Lâm bấy lâu bị chôn ở ngoài cửa sổ nhà tôi, đó là hung thủ chế giiễu tôi, là sự trừng phạt tôi vì tôi đã mắc sai lầm.”

    “Có lý! Chú phân tích tâm lý rất chuyên nghiệp.”

    “Tôi tiếp tục suy nghĩ, nhận ra điều này rồi thì có gì gợi mở cho việc phá án không.”

    “Chúng ta hiểu quá ít về hung thủ, chưa thể suy diễn về động cơ gây án, cách thức chọn đối tượng của y.”

    “Cũng là một quan điểm.”

    Na Lan hỏi, “Vậy cháu nên làm gì?”

    Trần Ngọc Đống nghĩ ngợi, rồi nói, “Cháu nói trước xem. Cháu cũng đang muốn gặp tôi kia mà? Chắc không chỉ vì để xin lỗi?”

    “Lúc đầu được anh Ba Du Sinh bố trí nhiệm vụ, cháu đã đọc toàn bộ hồ sơ về vụ án và hồ sơ về các cô gái nạn nhân, cháu quy nạp ra một nét chung, họ đều là thiếu nữ có nhan sắc.”

    “Điều này phù hợp với quy luật phạm tội của bọn lưu manh. Khi xưa tôi từng đoán là tội phạm tình dục thậm chí ngờ rằng vết máu trên miếng vải là gái trinh bị cưỡng bức hoặc phụ nữ bị cưỡng bức thô bạo nên chảy máu. Nhưng về sau kết quả xét nghiệm cho thấy đó không phải máu có lẫn chất acid ở cơ quan sinh dục mà chỉ là máu bình thường, là máu ở ngón tay bị chặt.”

  11. #20
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tơ đồng rỏ máu


    phan 20

    “Bấy lâu nay mệt mỏi vì câu đố của Mễ Trị Văn, cháu quên không nghĩ đến một số khâu quan trọng, ví dụ đặc điểm chung của các nạn nhân...”

    “Tôi cũng đã từng xem xét, phân tích về hoàn cảnh gia đình, tính cách của nạn nhân, họ rất khác nhau.”

    Na Lan lấy cuốn sổ tay ra, chỉ vào một lô tên các nạn nhân, nói, “Chú nhìn xem có đặc điểm gì?”

    “Đều là nạn nhân của vụ ‘ngón tay khăn máu’ à?”

    “Ý cháu là, các tên này có đặc điểm gì chung?”

    Trần Ngọc Đống đeo kính, nhìn thật kỹ một lúc, vẻ mặt có nét kinh hãi, ông lẩm bẩm, “Thì ra... trước kia tôi chưa từng đặt các họ tên này bên cạnh nhau để xem xét.”

    “Chú nhận ra quy luật chứ?”

    Ngón tay ông run run chỉ vào các chữ Hán. “Trong các chữ ghi tên đều có bộ Thảo! Này… sao cháu lại nghĩ ra được?”

    “Theo tổng kết về các vụ án xưa nay, bọn tội phạm giết người hàng loạt đều có quy luật chung, dường như chúng bị gò theo một khuynh hướng. Trong chuỗi vụ án ‘ngón tay khăn máu’, ngoài các hiện tượng trực quan ra liệu có ẩn chứa một quy luật gì không? Giang Kinh có vô số phụ nữ, tại sao hung thủ lại chọn những cô gái này?”

    “Vì tên bọn họ có bộ Thảo à?” Trần Ngọc Đống bỏ kính xuống, tay day hai bên thái dương. Từ nãy ông vẫn chưa cầm đũa, có lẽ bát mì đã quánh lại cả rồi.

    Na Lan nói, “Tập hợp một số manh mối lại, chúng ta có thể sơ bộ nhận ra đôi điều, trong các nạn nhân, chúng ta đã biết Nghê Phượng Anh thường bị vợ chồng người anh đánh mắng, Tiết Hồng Yến từng là bạn gái của La Cường và cũng từng bị hắn đánh đập. Ít ra hai cô gái này đều là nạn nhân của bạo lực gia đình. Bộ Thảo cũng có ngụ ý ẻo lả yếu ớt, cho nên chúng ta có thể đoán rằng mục tiêu mà hung thủ lựa chọn là các cô gái yếu ớt dễ bị bắt nạt.”

    Trần Ngọc Đống lấm tấm mồ hôi, ông lẩm bẩm, “Xem ra trước kia điều tra đã bỏ qua một hướng đi rất quan trọng.”

    “Đúng! Chúng ta nỗ lực khai thác rất kỹ về con người, trạng thái tinh thần của hung thủ nhưng lại chưa quan sát khung cảnh đằng sau các khía cạnh trực quan về nạn nhân. Tìm hiểu nạn nhân, rất có thể là phương cách để biết rõ hung thủ.”

    Trần Ngọc Đống gật đầu, “Tôi sẽ nói chuyện kỹ với Ba Du Sinh để thu thập thêm tư liệu về các nạn nhân, nhất là những ai đã từng bị ngược đãi.”

    Na Lan nói, “Cháu sẽ tiếp tục nghiên cứu Mễ Trị Văn, giờ đây cháu càng thêm nghi ngờ lão có đồng bọn. Nếu đúng là thế thì giữa bọn họ phải có cách liên lạc đặc biệt gì đó. Các tiếp xúc trực tiếp trong tù đều bị ghi lại, còn lên mạng thì lại rất không tiện.”

    Lúc này Trần Ngọc Đống mới đụng đến bát mỳ, ông nhận ra Na Lan vẫn ngồi yên, chưa có ý định đứng lên, cũng không gọi thêm món ăn.

    “Còn vấn đề gì nữa à?”

    “Đội trưởng Ba Du Sinh bị cách li khỏi vụ án này, cháu đã hơi đoán ra, và muốn hỏi thêm chú cho rõ.”

    “Cháu đoán đúng đấy, nó liên quan đến vụ án bạn gái cậu ấy mất tích khi đang thực tập ở Giang Kinh. Nếu không vì chuyện này thì cậu ấy đã không học ngành cảnh sát và cũng không nằng nặc đề nghị được phân công về Giang Kinh. Cậu ấy cũng như tôi, luôn rất quan tâm đến vụ ‘ngón tay khăn máu’. Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng. Có điều, bạn gái cậu ấy không chính thức được coi là nạn nhân của vụ ‘ngón tay khăn máu’, vì xưa nay chưa có ai nhận được ngón tay của cô ấy bao giờ.”

    “Còn gì nữa ạ?”

    Trần Ngọc Đống hít vào, “Bạn gái cậu ấy tên là Văn Nhược Phi.”

    Chương 28 : Mỹ nhân trong sách

    Trại giam phường Giang Thành là nơi chuyên giam giữ các tội phạm hình sự nghiêm trọng. Cách đây hai năm Na Lan làm luận văn tốt nghiệp, nội dung chủ yếu là đến đây phỏng vấn tìm hiểu các tội phạm hình sự, sau đó quy nạp các đặc điểm chung về tâm lý tội phạm hình sự. Cô không ngờ hai năm sau số phận xô đẩy cô trở lại chốn ma quỷ này.

    Sau khi Na Lan báo cáo với Sở Công an những phân tích của mình về các nạn nhân trong vụ án “ngón tay khăn máu”, Kim Thạc miễn cưỡng cử người đi điều tra về hoàn cảnh các nạn nhân ấy, đặc biệt là những cô có dấu hiệu bị bạo lực gia đình. Na Lan lại gạ xin được Kim Thạc cấp cho tờ giấy giới thiệu với chữ ký cấp trưởng phòng Bộ Công an hẳn hoi. Nó là quân át chủ bài giúp cô vào trại giam phường Giang Thành “mái nhà xưa” của Mễ Trị Văn.

    Mễ Trị Văn vẫn là mục tiêu mà Na Lan tuyệt đối không thể gác sang một bên.

    Giả sử lão chỉ là cái loa truyền thanh của hung thủ vụ án “ngón tay khăn máu”, giả sử đúng như lão nói vụ án sẽ còn tiếp diễn, thì kẻ gây án vẫn đang sống nhởn nhơ. Vấn đề là hung thủ liên lạc với Mễ Trị Văn bằng cách nào? Sau khi lão được ra bệnh viện dân sự điều trị, buồng bệnh luôn có công an giám sát, việc tiếp xúc giữa lão và các bác sĩ y tá đều được theo dõi cẩn thận, khó mà hình dung hung thủ có thể giao lưu với lão trong buồng bệnh. Vậy thì mọi liên lạc đều xảy ra trước khi lão được ra ngoài điều trị, tức là xảy ra trong nhà tù.

    Có hay không, một kẻ “bên ngoài” đã thông tin liên lạc với Mễ Trị Văn?

    Khi lão bắt đầu mở miệng nói đến vụ “ngón tay khăn máu”, Ba Du Sinh đã lọc lấy hết các ghi chép về những cuộc viếng thăm Mễ Trị Văn trong nhà tù.

    Không có ai. Lão là một cô hồn không thân thích không bạn bè. Không có người ngoài nào tiếp xúc cả.

    Hay là, có kẻ trong nhà tù?

    Một phạm nhân cùng bị giam với Mễ Trị Văn chẳng hạn, bị bắt vì một tội danh khác, và chẳng ai ngờ đó lại là hung thủ vụ án “ngón tay khăn máu” kéo dài ba mươi năm chấn động Giang Kinh. Và trước khi được thả, ông bạn này đã cùng Mễ Trị Văn thiết kế ra trò chơi bệnh hoạn táng tận lương tâm.

    Rất có khả năng đó.

    Trong tù kẻ gần gũi nhất với Mễ Trị Văn chỉ có thể là phạm nhân ở cùng buồng giam, Thẩm Khắc Quân, cũng là tội phạm cưỡng dâm. Đội Trinh sát Hình sự khi điều tra Mễ Trị Văn và vụ “ngón tay khăn máu” đã thẩm vấn tên Quân, nhưng hắn không đưa ra một manh mối nào có giá trị. Mễ Trị Văn ốm yếu, nằm ở khu giám sát số 4 dành cho các phạm nhân lâu ngày, Thẩm Khắc Quân cũng vậy, cũng mắc bệnh tiểu đường như Mễ Trị Văn.

    Hình như vừa được giải ra từ gian nhà xưởng, nên Thẩm Khắc Quân vẫn còn mặc nguyên đồ bảo hộ lao động, tay vẫn dính dầu máy. Nhìn thấy Na Lan, hắn sững sờ, rồi cười nói với cán bộ quản giáo đi phía sau, “Một em xinh thế này đến chơi thì các vị nên bố trí ‘phòng thăm đặc biệt’ chứ? Tôi chưa từng được hưởng vinh dự đó.”

    Viên quản giáo cười nhạt, “Đừng viển vông nữa! Vào ‘phòng thăm đặc biệt’ thì người nhà phải trả phí tổn, mày có người nhà không?”

    Thẩm Khắc Quân chỉ Na Lan, “Cô ấy không phải người nhà hay sao?” Hắn trạc ba mươi tuổi, vóc người tầm thước, mặt dài, mắt nhỏ. Có lẽ vì ác cảm sẵn có nên Na Lan thấy điệu cười của hắn rất khốn kiếp.

    Cô nói, “Lát nữa sẽ nói đến chuyện người nhà.”

    Hắn lại sửng sốt, ngoảnh nhìn viên quản giáo và đắc ý nói, “Nghe thấy chưa?” Rồi hắn hỏi Na Lan, “Cô em đem vào cho anh món gì?”

    “Mễ Trị Văn!” Na Lan nói.

    Mặt Thẩm Khắc Quân lập tức chảy dài. “Lão già bệnh hoạn ấy... chưa chết à?”

    Na Lan đáp, “Lão vẫn sống nhăn răng, có liên quan đến một vụ án khác. Tôi muốn gặp anh để hỏi vài vấn đề.”

    Thẩm Khắc Quân lại cười, “Nếu cô cùng tôi vào phòng thăm đặc biệt để tận hưởng không khí gia đình đầm ấm, tôi sẽ nói cho cô biết tất.”

    Viên quản giáo quát to, “Này, mày muốn bị ghi lỗi phải không?”

    “Tôi nên gọi cô là gì?” Thẩm Khắc Quân hỏi Na Lan.

    “Tôi là Na Lan.”

    Hắn bỗng mở to mắt, nghệt mặt ra một lúc, rồi nói, “Tôi có nghe bọn họ nhắc đến cô, ngày trước cô từng vào đây điều tra đúng không? Họ nói cô rất xinh, quả là không sai.”

    “Thẩm Khắc Quân!” Viên quản giáo lại quát.

    Na Lan nói, “Sở Công an cử tôi đến hỏi vài câu, mong anh sẽ hợp tác.”

    “Có được giảm án tù không?”

    Trước đó Na Lan đã điều tra, Thẩm Khắc Quân nhiều lần phạm tội cưỡng dâm và “được việc” chứ không như Mễ Trị Văn. Hắn bị kết án tù chung thân cho nên khả năng được trả tự do gần như bằng không. Cô nói, “Tôi quyết định sao được? E rằng điều này rất khó.”

    Thẩm Khắc Quân cười nhạt, “Thật ra tôi biết rất ít về Mễ Trị Văn, lão mắc bệnh tâm thần, nói năng lẩm cẩm, nên tôi chẳng để ý làm gì.”

    Na Lan nhận ra ẩn ý của hắn, nếu không hứa sẽ giảm án thì hắn không hợp tác. Điều này cô đã lường trước rồi. Bèn cười nói, “Mễ Trị Văn chỉ còn thoi thóp, so với lão, anh vẫn sướng hơn nhiều.”

    “Nếu được tha sớm mấy năm, tôi sẽ sướng hơn nữa.” Hắn liếc nhìn Na Lan. “Giá được sống đầm ấm với người đẹp như cô thì tôi quá hạnh phúc!”

    Na Lan đâm ra ghê tởm, nỗi căm phẫn giống lần đầu gặp Mễ Trị Văn lại dâng lên trong cô, nhưng cô phải nhanh chóng chế ngự để tỏ ra “chuyên nghiệp” một chút. Cô bình thản nói, “Anh sướng hơn lão vì anh còn có gia đình và người thân, chứ lão ta thực sự là kẻ đơn độc.”

    Sắc mặt Thẩm Khắc Quân hơi biến đổi, hắn nín lặng.

    “Tôi được biết anh vẫn còn cha mẹ, một chị gái, đứa con chị ấy rất mến anh. Đúng là rất sướng.” Na Lan tiếp tục quan sát vẻ mặt càng lúc càng mất tự nhiên của hắn. “Chắc là anh được nhiều người vào thăm?”

    Thẩm Khắc Quân buột miệng, “Đương nhiên...” Nhưng nhận ra ngay là mình bị hớ, mặt hắn càng nhăn nhó.

    “Tôi đã xem sổ ghi chép, đúng là có rất nhiều... nhiều lần không có ai!” Na Lan cố nói thật tự nhiên, không pha ý châm biếm.

    “Chuyện vặt! Vậy cô muốn gì?” Hắn đứng thẳng lưng lên, mặt đỏ gay.

    Na Lan nói, “Trong hai năm qua đã năm lần anh đề nghị cho người nhà vào thăm, anh cũng liên lạc với người nhà nhưng họ không vào. Chắc anh thừa hiểu mình không phải một thành viên đáng tự hào của gia đình, đủ để bà mẹ già và đứa cháu phải đi qua mấy lần cửa sắt vào thăm một gã trọc đầu. Hoặc là họ chưa đủ lòng nhân từ.”

    Thẩm Khắc Quân nhoài người tới trước định túm cổ áo Na Lan, nhưng lập tức bị viên quản giáo kéo giật lại.

    Na Lan vẫn ngồi, ngồi đàng hoàng, nhẹ nhàng nói, “Nhưng họ vẫn thương anh.”

    Ánh mắt hắn bỗng nhạt nhòa. “Cô nói gì? Cô đã biết những gì?”

    “Tôi biết họ vẫn thương anh. Bà mẹ, đứa cháu, đều rất nhớ anh.” Na Lan đưa ra cái phong bì. “Thư của mẹ anh. Tranh vẽ của cháu anh. Ảnh chụp chung cả nhà, ảnh của cháu anh nữa.”

    “Cô chặn thư riêng của tôi là vi phạm pháp luật!” Vẫn bị viên quản giáo ghìm chặt hai cánh tay, Thẩm Khắc Quân thở hồng hộc.

    Na Lan giơ cái phong bì trước mặt hắn, “Nhìn đi, phong bì trắng trơn, không gửi cho anh, mà là tôi đòi cầm vào cho anh... Họ vẫn muốn làm nhưng không đủ can đảm. Tôi chỉ làm giúp họ và giúp anh thôi. Và tôi cũng có thể sẽ cầm về trả lại họ.”

    “Cô ép buộc tôi hả?”

    Na Lan thản nhiên, “Nếu anh có ý hợp tác ngay từ đầu thì tôi đã đưa cho anh rồi, đâu cần phải thế này?”

    Thẩm Khắc Quân ngồi rũ trên ghế, vùi đầu vào cánh tay. Hồi lâu mới nói, “Được, cô hỏi đi!”

    “Khi ở trong tù, Mễ Trị Văn có thân với ai không?”

    “Có.”

    “Ai?”

    “Còn ai nữa? Chỉ có thể là tôi! Hai chúng tôi ở cùng buồng giam tối tăm, thân đến nỗi quen cả mùi hôi của nhau.”

    Na Lan thở dài, “Tôi muốn hỏi là lão hay trao đổi trò chuyện cùng với ai nhất?”

    “Trao đổi? Cô nói lão là kẻ độc thân đấy thôi? Lão già tâm thần suốt ngày nói năng bát nháo, hễ gặp ai là túm lấy họ để nói chuyện học thuật, tự xưng mình là Thương Hiệt tạo chữ, sẽ phát minh ra một hệ thống văn tự làm thay đổi cả văn hóa Trung Quốc. Ai thèm bắt chuyện với lão làm gì!”

    “Anh thử nghĩ xem con người lão có gì kỳ lạ, khiến anh phải chú ý không?”

    “Con người lão? Là bộ xương khô, có cái quái gì đáng chú ý? Tôi đâu phải gay...”

    Na Lan đập tay vào cái phong bì. “Nên nghiêm chỉnh đi, hãy nhớ lại xem có hành vi, lời nói hoặc bất cứ điểm gì của lão ta là đáng ngờ?”

    Thẩm Khắc Quân nhìn cái phong bì, nghiêng đầu nghĩ ngợi một lúc rồi nói, “Lão thích đọc sách.”

    “Tiếp tục!”

    “Tôi nhớ đến một điều đáng ngờ. Khi tôi vào đây thì lão đã có một số cuốn sách, về sau tôi thấy sách của lão ngày càng nhiều lên. Không ai vào thăm, không quản giáo nào chuyển cho lão bưu phẩm hay chuyển phát nhanh, thì sách ở đâu ra?”

    Na Lan cảm thấy manh mối này của Thẩm Khắc Quân có giá trị, cô hỏi, “Anh quan sát thấy gì?”

    “Mễ Trị Văn là con bệnh, cứ cách ít hôm lại ra trạm xá xin khám bệnh, lúc đi tay không, lúc về thì cầm vài cuốn sách.”

    “Là những sách gì?”

    “Cổ văn, như Sơn hải kinh, hoặc sách nhạc cổ...”

    Na Lan nhớ đến chồng sách của Mễ Trị Văn đặt trên cái tủ đầu giường bệnh. Cô hỏi, “Lão có cả thảy bao nhiêu cuốn sách?”

    Thẩm Khắc Quân ngẫm nghĩ. “Rất nhiều, khoảng gần trăm cuốn cả dày lẫn mỏng.”

    “Đang để ở đâu?”

    “Trên giường của lão. Xưa nay vẫn chất ở đó. Người lão còm nhom, ngủ chung với sách càng ấm!”

    Na Lan bật cười. Cô hỏi viên quản giáo, “Phiền anh nhét đống sách ấy vào thùng các tông, cho tôi mượn cầm về phòng Chứng cứ, được chứ?”

    Tiếp đó, Na Lan đến bệnh viện trung tâm của Sở Quản lý Nhà tù, ở khá gần trại giam phường Giang Thành, đi bộ hơn mười phút là đến nơi. Trước cửa khám bệnh tấp nập chẳng kém gì bệnh viện ở các nơi khác, có một số xe chuyên dụng của nhà tù ở các địa phương lân cận đỗ bên cạnh. Na Lan chờ một lúc, cho đến khi thấy một chiếc xe của trại giam nữ phạm nhân thành phố Du Xuân chạy vào cổng viện.

    Bốn cảnh sát áp giải hơn chục nữ phạm nhân mặc quần áo tù xuống xe, họ đi khám bệnh tập thể. Na Lan bước theo đoàn người, cô quan sát khung cảnh xung quanh. Họ đăng ký xong thì chia làm ba nhóm đi khám nội khoa, một cảnh sát phụ trách chung.

    Các nhân viên y tế liên tục đi qua đi lại, ngoài phạm nhân còn có một số cảnh sát cũng đến khám bệnh. Na Lan hình dung, giả sử lúc này có ai đó dúi cho phạm nhân cuốn sách, chưa chắc cảnh sát áp giải đã phát hiện ra. Nếu có người để lại cuốn sách trên ghế ngồi chờ khám bệnh, sau đó Mễ Trị Văn cầm lên nhét vào áo, cảnh sát cũng không biết.

    Còn cả việc tiếp xúc với bác sĩ, y tá... Nếu trong số họ có kẻ đồng mưu thì kẻ đó hoàn toàn có thể đưa sách cho Mễ Trị Văn.

    Có lẽ đứng đây để tìm xem sách của Mễ Trị Văn ở đâu ra, thì chẳng khác gì mò kim đáy biển hoặc chí ít, cũng khó có khả năng lần tìm cho nhanh được việc.

    Không nán lại ở bệnh viện nội bộ này nữa, Na Lan lên xe trở về Sở Công an.

    Đống “tàng thư” của Mễ Trị Văn được đưa về phòng Chứng cứ của Sở. Lúc Na Lan đến nơi thì Kim Thạc đang đứng bên bàn nhìn ba thùng chất đầy sách.

    “Những thứ bát nháo gì thế này? Sao lại chở về phòng Chứng cứ?” Kim Thạc hỏi Na Lan.

    “Đều là sách của Mễ Trị Văn. Tôi nghĩ, nên coi đồ vật của lão là chứng cứ.”

    “Chứng cứ thì phải để kiểm tra kiểm nghiệm, chứ hàng trăm cuốn sách thì tiến hành kiểu gì?”

    Na Lan cười, “Cứ giao cho tôi!”

    Kim Thạc hỏi, “Nên đọc như thế nào, cô dạy tôi đi, tôi sẽ làm phụ tá cho?”

    Na Lan thầm thở dài, lúc này mà anh ta vẫn… Cô đành nói, “Thật ra cũng chẳng thành hệ thống gì, ta chỉ xem xem có ký hiệu nào đáng ngờ hoặc có ghi chú gì không.” Cô bỗng cảm thấy lạ, Kim Thạc là cao thủ có chục năm kinh nghiệm về hình sự, hình như anh ta đang giả bộ ngớ ngẩn.

    Kim Thạc bắt đầu giở xem, Na Lan cảm thấy mất tự nhiên nhưng vẫn chăm chú vào đống sách. May sao di động đổ chuông, Kim Thạc “nuối tiếc” đi ra ngoài để nghe máy.

    Na Lan lập tức tăng tốc.

    Tàng thư của Mễ Trị Văn già nua cũng na ná như kho sách dưới hố sâu của Mễ Trị Văn hồi trẻ, thoạt nhìn thấy hoa cả mắt, thật ra chủ yếu là sách về nghệ thuật, gần như không có tiểu thuyết. Có những cuốn nhạc cổ, sách tham khảo về văn tự cổ, còn lại là rất nhiều sách về âm nhạc, mỹ thuật, văn hóa cổ… Na Lan chú ý xem mấy cuốn bút ký văn học có rất nhiều câu chú thích, nhận ra những dòng chữ li ti này là bút tích của Mễ Trị Văn, nét chữ mảnh mai nhẹ nhõm thậm chí bay bướm. Cô thử đọc vài đoạn, toàn là những câu trầm trồ tán dương văn chương và đánh giá về tác giả.

    Na Lan xem, chủ yếu muốn tìm bút tích của một “kẻ khác”, tìm những câu chữ khả nghi, thể hiện “người đưa sách” và Mễ Trị Văn giao lưu với nhau. Tiếc rằng giả thiết của cô không được chứng minh, ba giờ đồng hồ trôi qua, trời sắp tối đến nơi mà cô không tìm thấy một điều gì khác thường.

    Bụng đói đang o o réo sôi. Na Lan đứng lên nhìn ra ngoài cửa sổ âm u rồi quay lại nhìn ba cái thùng đã moi hết sách ra. Hai cuốn dày nhất là hai tập của bộ từ điển Từ nguyên do Thương vụ Ẩn thư quán tái bản năm 2009, đóng bìa rất đẹp.

    Chắc đây là vũ khí sắc bén để “đại sư Thương Hiệt” tạo ra chữ mới! Từ nguyên và Thuyết văn giải tự là hai bộ sách tham khảo rất đầy đủ viết về cách thức tạo chữ Hán, nhất là tập I Từ nguyên, tuy là bản in mới nhưng các dấu vết cho thấy chủ nhân đã mở đọc vô số lần, có vài trang hơi quăn góc.

    Na Lan đặt ngón tay vào lề trang từ điển, tưởng tượng xem Mễ Trị Văn giở sách như thế nào, tìm những chỗ lão thường tra cứu. Ngón tay cô dường như cảm nhận ra vài chỗ hơi lõm của tệp giấy, chắc đây là vùng thường xuyên bị mở ra xem. Cô tỳ ngón tay vào đó và lật mở.

    Chỉ là một trang bình thường với các mục từ, không có gì cài ở trang này. Cô khẽ thở dài ngán ngẩm, miết ngón tay lên trang sách như muốn cảm nhận ra thứ đang ẩn giấu bên trong.

    Một động tác gần như hết hy vọng, ý nghĩ này quá xa vời.

    Nhưng đầu ngón tay cảm thấy là lạ!

    Có gì đó cưng cứng gợn lên ở chính giữa trang sách. Trang này thì rất bình thường, Na Lan giở thêm hai ba trang sau. Đến trang thứ tư thì thấy một tấm ảnh màu nho nhỏ đặt trên trang sách in đầy chữ Hán khô khan. Ảnh một người đẹp tuyệt trần. Đổng Bội Luân!

    Là nạn nhân bị Mễ Trị Văn xâm hại tình dục, là cô gái bất cẩn trót yêu kẻ ác ma!

    Nhìn kỹ, thấy ô giấy in chữ bên dưới tấm ảnh đã bị rạch bỏ, tấm ảnh như được “gắn chìm” vào tờ giấy. Tức là Mễ Trị Văn lo rằng nếu chỉ kẹp vào thôi thì ảnh rất dễ bị rơi ra thất lạc.

    Lão không muốn quên con người bị lão làm hại.

    Na Lan nhớ đến câu nói của Đổng Bội Luân, nếu Mễ Trị Văn có cơ hội được tự do thì việc đầu tiên lão làm là tìm Đổng Bội Luân để hoàn tất phần việc dang dở.

    Xâm hại tình dục, tàn sát.

    Không chỉ có một cô gái bị lão xâm hại.

    Na Lan gấp cuốn Từ nguyên lại, rồi lại tì ngón tay vào chỗ hơi lõm lúc nãy ở mép tập sách, phía dưới một chút và lại thấy một dấu hiệu tương tự. Cô giở chỗ đó ra, cũng là một trang sách bình thường nhưng gắn tấm ảnh của một cô gái khác.

    Na Lan không biết cô gái trẻ này là ai, nhưng nhìn kiểu tóc và trang phục, đoán rằng tấm ảnh này chụp vào những năm 90 của thế kỷ trước.

    Tiếp tục giở sách, lại thấy ảnh của một cô gái xa lạ. Tờ phía sau là một cô gái đang đứng trước khóm hoa cẩm chướng, xa xa phía sau bồn hoa là cổng một trường học, treo tấm biển Đại học Kinh tế Tài chính Giang Kinh.

    Có thể đoán ra đây là Vu Ninh. Vu Ninh từng học Đại học Kinh tế tài chính Giang Kinh.

    Tấm ảnh tiếp theo nữa cũng là một thiếu nữ xa lạ.

    Giở đến tấm ảnh cuối cùng, thì Na Lan giật mình!

    Chương 29 : Dì Tư

    Tấm ảnh đen trắng, cô gái mặc bộ váy trắng, vừa e lệ vừa có nét u buồn đang nhìn ra xa. Trông quen quen! Na Lan nhìn kỹ và nghĩ ngợi. Trông có vài nét hao hao cô gái trong bức tranh sơn dầu treo ở thư phòng của Sở Hoài Sơn, cũng tức là hao hao mẹ anh.

    Vì người này là em gái của mẹ Sở Hoài Sơn.

    Là dì tư của anh!

    Na Lan bấm chuông cửa nhà họ Sở, lúc này đã quá 8 giờ rưỡi tối. Đứng dưới mái hiên che những hạt mưa phùn lắc rắc rơi, Na Lan nghe thấy rất rõ tiếng bước chân vội vã xuống cầu thang chứ không chầm chậm như trước đây. Chắc chắn không phải dì Tư.

    Sở Hoài Sơn ra mở cửa cho cô. Ánh sáng trong nhà hơi yếu nhưng vẫn soi tỏ vẻ mặt lo lắng của anh. Câu đầu tiên Na Lan hỏi là, “Anh có biết chơi cổ cầm không?”

Trang 2 / 3 ĐầuĐầu 123 Cuối Cuối

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •