Không biết, cố tình không biết, ngu dốt, im lặng, và chối bỏ
Không biết, cố tình không biết, ngu dốt, im lặng, và chối bỏ là những khái niệm căn bản về suy nghĩ và khả năng trí tuệ con người. Những khái niệm này có nhiều khía cạnh liên hệ nhau và ảnh hưởng mạnh mẽ trên cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam. Đặc biệt, im lặng hoặc chối bỏ sự thật có tác hại vào cuộc đấu tranh vì thường được dùng trong việc trình bày "nửa sự thật," thường bị coi là nguy hiểm hơn cả lời nói láo. Thời đại Internet giúp truyền bá thông tin và kiến thức. Tuy nhiên, tình trạng "không biết" tại Việt Nam là một thảm trạng bi đát vì nhóm cầm quyền áp dụng chính sách lừa đảo, mị dân, tuyên truyền, xuyên tạc, và nhồi sọ. Một trong những chiến thuật mị dân của nhóm cầm quyền cộng sản là so sánh chế độ cộng sản với những thể chế tự do khác, nhất là Hoa Kỳ. Do đó, người dân Việt sống tại Việt Nam cần phải biết rõ rệt sự khác biệt giữa hai thể chế này, nhất là về hệ thống pháp luật và các quy luật về nhân quyền.
*
Trong cuộc sống phức tạp, không ai có thể biết hết mọi chuyện, nhất là những chuyện không dính líu gì đến mình. Không biết là việc tự nhiên. Tuy nhiên, có nhiều khía cạnh về sự không biết cần phải được tìm hiểu. Trong bài này, tôi sẽ thảo luận những khái niệm về không biết, cố tình không biết, ngu dốt, im lặng, và chối bỏ. Những khái niệm này có nhiều khía cạnh liên hệ nhau và ảnh hưởng mạnh mẽ trên cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam. Sự phân biệt và xác định các khái niệm này giúp chúng ta hiểu rõ lý luận và lập trường trong các cuộc bàn thảo hoặc tranh cãi về các đề tài dân chủ và nhân quyền.
A. Định nghĩa và khái niệm căn bản:
1. Không biết:
Trước hết, chúng ta nên nhận ra "không biết" theo tiếng Việt là thể phủ định của "biết." Tiếng Việt không có thể xác định cho việc không biết. (Những cách gọi như "ngu dốt," "khờ khạo," "ngây thơ" không diễn tả chính xác ý nghĩa của "không biết" như sẽ được trình bày sau.) Tiếng Hán Việt là "vô tri" (無知) hoặc "bất tri" (不 知). Nhưng "vô tri" nghe có vẻ có ý xấu vì nó thường đi với "vô giác" (không có cảm giác), và "bất tri" (hoặc "vô thức," "bất thức") không thông dụng lắm. Do đó ít ai dùng "vô tri" hoặc "bất tri" để chỉ sự không biết. Trong các ngôn ngữ khác, "không biết" thường hiện hữu dưới dạng xác định. Thí dụ, "ignorance" (Anh, Pháp), "ignoranz" (Đức), "ignorancia" (Tây Ban Nha, Mễ), và "ignoranza" (Ý).
Trong tiếng Anh, tuy "ignorance" là từ ngữ thông thường, nhiều học giả đặt ra các từ ngữ khác, kèm theo các định nghĩa khác nhau. Các từ ngữ này gồm có: phi kiến thức (nonknowledge); không biết toàn diện (total ignorance); kiến thức thiếu thốn, phủ nhận, hoặc tiêu cực (negative knowledge) gồm có kiến thức về những giới hạn của sự biết, sai lầm trong việc ráng biết, các việc ngăn cản việc biết, và cái mà người ta không muốn biết; không biết đóng (closed ignorance), và không chắc chắn (uncertainty) (Smithson, 210).
a) Định nghĩa:
Định nghĩa cho từ ngữ "không biết" có nhiều tranh cãi (Smithson, 209). Thực ra từ (chữ) "biết" có nhiều nghĩa nhưng tôi sẽ không đi sâu vào các lý thuyết triết lý về sự khác biệt giữa các loại của "biết" như "ý thức," "nhận thức," "tri thức," "cảm nhận," v.v. Tôi sẽ chỉ chú trọng vào phần phủ định của nghĩa thông thường về "biết."
Một cách đơn giản, "không biết" là không ý thức hoặc không có thông tin, dữ liệu, tin tức về một sự kiện, nhân vật, biến cố, hoặc việc nào đó. "Không biết" không nhất thiết sai quấy hoặc có hại. Trong đời có cả triệu, cả tỉ sự kiện bạn không biết, và những sự kiện đó chẳng có tác dụng mạnh trên cuộc sống của chúng ta. Trong cuộc sống bận rộn, bạn không có thì giờ tìm hiểu những gì bạn không có nhu cầu biết trong hiện tại. Thí dụ, bạn không biết phong tục tập quán người Togo ở Phi Châu vì bạn không để ý đến xứ đó và không có dịp tìm tòi thêm.
b) Phân loại:
Rescher (2009. 12-13) cho rằng có hai loại "không biết" căn bản: loại "không biết" đáng trách hay có tội (culpable ignorance) và loại "không biết" có thể được tha thứ (venial ignorance).
Loại "không biết" đáng trách là loại "không biết" mà lẽ ra phải biết vì việc đó liên hệ đến trách nhiệm, bổn phận, công việc, cuộc sống, và ý tưởng của người đó. Thí dụ, một tài xế lái xe taxi chuyên chở hành khách phải biết luật lệ giao thông và các bảng hiệu chỉ dẫn trên đường xá. Một công dân trong một quốc gia phải biết những trách nhiệm của chính phủ và của mình và những quyền công dân mà chính phủ phải tôn trọng.
Loại "không biết" có thể được tha thứ là loại "không biết" về sự kiện không cần thiết hoặc không dính dáng gì đến trách nhiệm, bổn phận, công việc, cuộc sống, và ý tưởng của người đó. Thí dụ anh tài xế xe taxi chuyên chở hành khách không cần phải biết quy luật chơi túc cầu hoặc tên tuổi các người đá banh nổi tiếng. Do đó, việc anh không nói chuyện với khách trong lúc lái xe về một trận đá banh không có gì là đáng trách.
2. Cố tình không biết:
"Cố tình không biết" có thể được coi là một trường hợp đặc biệt của "không biết đáng trách" nhưng nó đóng một vai trò quan trọng trong xã hội học và các ngành liên hệ khác. Do đó, cho dễ dàng, chúng ta nên coi "cố tình không biết" là một loại khác với "không biết đáng trách."
Đã có rất nhiều nghiên cứu và tài liệu cho hiện tượng này, dưới nhiều tên khác nhau. Thí dụ, "cố tình không biết" (willful ignorance), "cố tình mù quáng" (willful blindness), "tránh né có ý thức" (conscious avoidance), hoặc "thờ ơ chủ tâm" (deliberate indifference) (Heffernan 2011, 2). Tuy có danh xưng khác nhau, những hiện tượng này đều có cùng một ý rằng người ta có trách nhiệm được thông báo và cơ hội để biết, nhưng người ta lẩn tránh (tlđd., 3). Sự lẩn tránh nhiều khi không bào chữa được vì cái mà người ta lẩn tránh, gọi là sự thật, hiện hữu sờ sờ và mọi người đều thấy. Câu chuyện vị hoàng đế mặc áo vô hình để lộ quần áo lót mô tả hiện tượng này. Một cách gọi tình trạng này là "con voi trong phòng" (the elephant in the room) (Zerubavel 2006). Con voi to tướng đứng trong căn phòng bé nhỏ thì không cách chi mà không nhìn thấy được.
Khi mức độ "cố tình không biết" lên cao, nghĩa là khi người ta khăng khăng "cố tình không biết," trạng thái "cố tình không biết" trở nên trầm trọng. Trong thuật ngữ tiếng Việt của phong trào dân chủ, nhóm chữ "quyết tâm ngu" hoặc "ngu quyết liệt" được gán cho những người cộng sản khăng khăng cố tình không biết. Những kẻ "quyết tâm ngu" hoặc "ngu quyết liệt" nhất định không muốn học hỏi và giữ mãi kiến thức sai lầm của mình. Một số những người này thường là những nhân viên tuyên truyển, hoặc hành nghề "dư luận viên" (DLV), thường phát biểu ý kiến trên các diễn đàn công cộng hoặc tranh cãi ngoài đường.
3. Ngu dốt:
"Không biết" và "ngu dốt" (stupidity) khác nhau. Đại khái, "không biết" là không có kiến thức, "ngu dốt" là không có khả năng biết hoặc hiể̀u (Rose 2011; Rescher 2009, ix). "Ngu dốt" tự nó, không có gì đáng trách vì không phải ai cũng có khả năng trí tuệ hiểu được những chuyện phức tạp, hoặc con người có thể bị một ảnh hưởng sâu xa nào đó mà mất đi khả năng suy luận, hoặc những việc đó không có gì quan trọng cho cuộc sống của người đó. Không có gì xấu hổ khi ta nhận ra sự ngu dốt của mình, nhất là khi những việc đó là những việc nhỏ nhặt.
Tuy nhiên, có loại "ngu dốt" đáng trách, nhất là khi hậu quả của sự ngu dốt đó ảnh hưởng đến cuộc sống và nhiều khi cả tương lai của con người. Loại này có thể gọi là "dại dột" (foolishness), nghĩa là không chịu hoặc không muốn học hỏi (Rescher 2009, ix). Ở mức độ thường, những người dại dột này không tạo ra những gì nguy hiểm hoặc có hại cho họ hay cho người khác. Tuy nhiên, khi cường độ không biết này gia tăng, nhất là khi được thúc đẩy bởi một động cơ nào đó, hậu quả của việc này có thể trở nên tác hại và khốc liệt không những với chính người đó mà còn với nhiều người khác liên hệ.
Còn có một loại "ngu dốt" nữa, hiện diện hầu hết khắp nơi nhưng đặc biệt rất thông thường hiện nay trong nhóm cầm quyền cộng sản (NCQCS) hoặc xã hội cộng sản, là loại "dốt hay nói chữ" với ác ý (Cao-Đắc 2014). Loại này dùng lý luậ̣n, thường là ngụy biện, hoặc chứng cớ thiếu xác thực, bịa đặt, hoặc một chiều, để đưa đến kết luận sai lầm để phục vụ mục đích nào đó của họ, thường là bào chữa cho tội ác hoặc lỗi lầm của mình hoặc của người khác, hoặc đánh bóng thành quả của mình hoặc người khác một cách gian trá (tlđd.).
Loại "dốt hay nói chữ" với ý đồ ác độc hoặc với tinh thần vô trách nhiệm thường rất nguy hiểm vì họ cố gắng thuyết phục người khác tin vào kết luận của họ qua những chứng cớ sai lầm hoặc bịa đặt, hoặc dùng những lý luận sai lầm hoặc ngụy biện. Loại người này còn có thể cực kỳ nguy hiểm nếu họ có địa vị, tên tuổi, đạt được sự kính nể của một số người trong những lãnh vực chuyên môn nào đó, hoặc có công việc giáo dục người khác. Đối với những người hiểu biết và có trí óc suy luận, loại "dốt hay nói chữ" với ý đồ ác độc hoặc vô trách nhiệm thường không có tác dụng gì. Tuy nhiên, nhiều người có thể bị thuyết phục hoặc tin vào kết luận sai lầm của loại người "dốt hay nói chữ" này. Những người dễ tin này thường là những người thiếu hiểu biết vì không được tiếp cận thông tin, tài liệu, báo chí, sách vở; hoặc có chút hiểu biết nhưng bận rộn không có thì giờ kiểm chứng chứng cớ hoặc suy nghĩ thêm về các lý luận sai lầm; hoặc ngây thơ tin tưởng một cách sai lầm vì tên tuổi, địa vị, hoặc uy tín (đối với một số người) của người "dốt hay nói chữ."
4. Im lặng và chối bỏ:
Im lặng (silence) và chối bỏ (denial) là hai hiện tượng liên hệ mật thiết với "cố tình không biết" và "dốt hay nói chữ với ác ý."
Biết mà giữ "im lặng" hoặc "chối bỏ" khác hẳn với "không biết" tuy bề ngoài các hành động này có thể giống nhau. Có nhiều lý do tại sao người ta biết sự thật mà giữ im lặng hoặc chối bỏ sự thật, và chấp nhận sự giả dối hoặc giấu giếm. Có những lý do tốt đẹp và có thể cao thượng. Có những lý do tồi tệ và phản ảnh bản chất ích kỷ, gian trá, và ác độc.
a) Im lặng (silence):
Việc biết sự thật nhưng giữ im lặng có lý do cao thượng khi việc đó đem lại lợi cao quý hơn là phá tan sự im lặng. Ngoài ra, khi việc đó có tính cách riêng tư và không có ảnh hưởng đến người khác, thì giữ im lặng có thể coi là một sự lựa chọn cá nhân.
Tuy nhiên, có nhiều trường hợp "im lặng" tạo ra hậu quả tồi tệ, nhất là khi đối tượng của việc "im lặng" là một người, một sự vật, một dữ kiện, hoặc một hành vi phạm pháp. Thí dụ bạn biết người chủ bạn cắt xén tiền và tạo ra sản phẩm không an toàn cho người tiêu thụ. Nhưng bạn giữ im lặng, không tố cáo người chủ vì bạn không muốn bị mất việc. "Như câu thành ngữ đã nói, im lặng là đồng lõa. Bằng cách giữ im lặng, ta giúp bình thường hóa chuyện đó, chính ra còn khiến chuyện đó kéo dài thêm qua việc ngầm khuyến khích những người phạm tội coi đó là chuyện chấp nhận được" (Zerubavel 2006, 85). Nhiều khi, người giữ "im lặng" không muốn mở miệng vì nghĩ rằng có tố cáo cũng không có lợi gì. Tuy nhiên, có những trường hợp người ta không thể giữ im lặng mãi. Khi càng nhiều người gia nhập việc phá tan sự im lặng, sẽ tới một lúc nào đó áp lực gia tăng khiến cho những kẻ âm mưu còn lại đành phải công nhận sự hiện diện của con voi và cuối cùng họ sẽ không thể chối bỏ được nữa (Zerubavel 2006, 69).
b) Chối bỏ (denial):
Chối bỏ là hành động hoặc phát biểu phủ định một việc nào đó hoặc "khẳng định chuyện nào đó không xảy ra, không hiện hữu, không đúng, hoặc không được biết đến" (Cohen 2001, 3). Ta nên để ý chối bỏ luôn luôn có một sự phủ nhận, và luôn luôn có một việc gì (có thể đúng hoặc sai) được khẳng định trước đó. Từ ngữ "chối bỏ" nghe có vẻ có ý nghĩa xấu, nhưng thực ra "chối bỏ" chỉ có nghĩa "phủ nhận."
Có ba khả dĩ cho chối bỏ. (Tôi dùng "khả dĩ" dựa vào cách dùng của Cohen với danh từ "possibilities.")
Khả dĩ thứ nhất là sự phủ định đó quả thật đúng, nghĩa là cái bị chối bỏ là cái sai lầm, và chối bỏ đem lại sự thật. Việc chối bỏ là câu xác định đơn giản cho một sự kiện (Cohen 2001, 3-4). Thí dụ: (1) Không hề có quốc gia nào, kể cả Quốc Gia Việt Nam (tiền thân của Việt Nam Cộng Hòa) và Hoa Kỳ, ký cho việc tổ chức bầu cử cho hai miền Nam Bắc Việt Nam trong hiệp định Geneva vào năm 1954; (2) Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower không bao giờ nói nếu có bầu cử tại Việt Nam thì đa số dân sẽ bầu cho Hồ Chí Minh thay vì Ngô Đình Diệm; (3) Liên Hiệp Quốc không hề bao giờ tuyên bố Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới.
Khả dĩ thứ nhì là sự phủ định đó cố tình, chủ tâm, và có ý thức để lừa dối (Cohen 2001, 4), nghĩa là cái bị chối bỏ là sự thật. Loại này thường được gọi là tuyên truyền, xuyên tạc, che giấu, lừa đảo. Thí dụ, NCQCS tại Việt Nam chối bỏ sự kiện Việt cộng thảm sát đồng bào Huế trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968.
Khả dĩ thứ ba phức tạp hơn, Sự chối bỏ không phải là vấn đề nói thật hoặc nói dối. Câu chối bỏ không hoàn toàn có chủ tâm, và việc biết sự thật không hoàn toàn rõ rệt. Có nhiều lý do tâm lý cho việc chối bỏ này. Nó có thể là một cơ cấu phòng thủ đối phó với mặc cảm tội lỗi, lo lắng, hoặc những cảm xúc rắc rối gây ra bởi sự thật. Tiềm thức ngăn chận ý tưởng đi tới sự hiểu biết có ý thức (Cohen 2001, 5). Thí dụ, người vợ chối bỏ việc chồng mình cưỡng bức con gái của hai người.
Trong khả dĩ thứ ba, những người chối bỏ sự thật biết sự thật hiện hữu, nhưng họ không thể hoặc không muốn tin vào sự thật đó. Khác với "cố tình không biết" hoặc "quyết tâm ngu," những người chối bỏ trong khả dĩ thứ ba này bị ảnh hưởng tâm lý khá phức tạp.
Thí dụ có những người trước đây sùng bái Hồ Chí Minh. Họ rất đau lòng khi biết được những tài liệu vạch trần tội ác, bản chất lưu manh lừa đảo, gian trá của Hồ, cộng với những bằng chứng không thể chối cãi được về lối sống dâm đãng (thí dụ, biết bao nhiêu liên hệ tình dục và con rơi rớt), hành vi bỉ ổi (thí dụ, đem gái đẹp và thuốc kích thích mời mọc các nhân viên tình báo Hoa Kỳ năm 1945, hôn hít các em bé gái trước công chúng đến độ bị chính phủ Indonesia than phiền), đạo văn các tác phẩm. Thần tượng vĩ đại của họ bị sụp đổ và họ không thể tưởng tượng họ lại có thể quá ngu muội tin vào những lời gian dối trước đó. Họ kinh hãi là tại sao một ác quỷ như vậy lại có thể từng là người thánh thiện trong tâm khảm họ biết bao nhiêu năm. Sự kinh hãi và hoang mang đó khiến họ chối bỏ sự thật, nhưng họ không "quyết tâm ngu" vì họ không thể bác bỏ được những chứng cớ hùng hồn.
Trong ba khả dĩ trên, khả dĩ thứ nhì (tuyên truyền, xuyên tạc, che giấu, lừa đảo) và khả dĩ thứ ba (hoang mang, lẫn lộn, không ngờ) là hai khía cạnh liên hệ đến sự không biết mà tôi đề cập ở trên. Người chối bỏ sự thật không phải là họ không biết sự thật, vì khi họ chối bỏ sự thật đó, họ phải ý thức sự hiện hữu và những lý lẽ của sự thật.
c) Tác hại của việc giữ im lặng hoặc chối bỏ sự thật (khả dĩ thứ ba):
Việc biết sự thật nhưng giữ im lặng hoặc chối bỏ sự thật trong khả dĩ thứ ba, có lý do tồi tệ khi việc đó chỉ để che giấu sai lầm của mình trong quá khứ, hoặc phản ảnh bản chất hèn nhát hoặc sợ sệt cho hậu quả nếu mình phá tan sự im lặng và công bố sự thật, hoặc việc giữ im lặng dẫn đến hậu quả tác hại hơn việc phá tan sự im lặng, hoặc khi việc đó ảnh hưởng không tốt đến người khác.
Thí dụ, trước đây bạn ca ngợi và tôn thờ Võ Nguyên Giáp, nhưng qua tìm tòi và nghiên cứu, bạn biết được Võ Nguyên Giáp là viên tướng hèn nhát và ác độc, Tuy nhiên, vì lý do nào đó, bạn giữ im lặng và không chia sẻ kiến thức đó với ai, kể cả họ hàng, bạn bè, và con cháu bạn, và bạn để họ tiếp tục tôn thờ hình ảnh Giáp. Bề ngoài, việc bạn giữ im lặng khi biết sự thật hoặc chối bỏ sự thật, giống như việc bạn không biết sự thật. Trong cả ba trường hợp, không ai nghe bạn nói xấu gì về Giáp. Do đó, những gì bạn ca ngợi và tôn thờ Giáp trước đó, vẫn còn y nguyên. Con cháu bạn hoặc bạn bè, người quen bạn, vẫn nghĩ rằng bạn vẫn tôn thờ Giáp, và nếu họ không có dịp biết sự thật hoặc nếu họ có niềm tin tưởng vào trí phán đoán của bạn, họ sẽ tiếp tục tôn thờ Giáp. Hậu quả tác hại này thật hiển nhiên. Nếu bạn là người hành nghề có lý tưởng là tôn trọng sự thật (thí dụ nghề giáo, phóng viên, ký giả), việc bạn im lặng hoặc chối bỏ sự thật còn là một hành động xúc phạm luân lý và đạo đức. Đó là vì bạn không đủ can đảm tự nhận sai lầm của mình trong quá khứ để đạt mục tiêu cao cả trong nghề nghiệp của bạn là truyền bá sự thật cho những người không có cơ hội hoặc phương tiện tìm tòi sự thật như bạn.
Có người viện lý do rằng họ giữ im lặng vì việc nói ra sự thật không cần thiết và còn có thể tạo hậu quả bất lợi cho mục tiêu quan trọng hơn. Tuy nhiên, lý do này không đứng vững và có thể gây tác hại cho cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ.
Thí dụ, có những người hiện đang đấu tranh cho nhân quyền, tự do dân chủ cho Việt Nam, tích cực bày tỏ ý tưởng đả kích chế độ cộng sản và xã hội chủ nghĩa. Họ vạch ra những điểm tệ hại của chế độ cộng sản hiện nay, gồm có bất tài, tham nhũng, nô lệ Tàu cộng, ích kỷ, thiển cận, tàn ác, v.v. Tuy nhiên, họ không bao giờ vạch ra những điểm tệ hại của đảng cộng sản Việt Nam trong quá khứ, từ lúc mới thành lập, trải qua cuộc chiến tranh chiếm đoạt miền Nam năm 1975. Đặc biệt, họ không dám chỉ trích Hồ Chí Minh hoặc những lãnh tụ cộng sản khác như Võ Nguyên Giáp. Họ thường giữ im lặng, hoặc chỉ viết một cách mơ hồ với ngụ ý hoặc ám chỉ thay vì nói thẳng ra, nhiều khi còn bày tỏ sự ngưỡng mộ hoặc kiêng dè về đảng cộng sản Việt Nam và các lãnh tụ đảng trong quá khứ.
Bảo rằng họ không biết những tội ác, lừa đảo, và sai lầm của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam trong quá khứ thì không đúng, vì có biết bao nhiêu chứng cớ cho việc này. Họ thường là những người có học và dư sức tiếp cận được tài liệu, tin tức, báo chí, sách vở khắp nơi, nhất là dưới sự thịnh hành của Internet. Họ biết và tin vào các tài liệu phơi bày tộc ác, lừa đảo, và sai lầm của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam trong quá khứ và hiện tại, nhưng họ không đả động gì đến Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam trong quá khứ. Đương nhiên, với những người vẫn còn tin Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đời đầu tốt, họ thuộc loại "cố tình không biết" hoặc "quyết tâm ngu" như trình bày ở trên. Ngoài ra, có những người làm việc với NCQCS để đóng vai trò "dân chủ cuội" hô hào tự do dân chủ nhân quyền, nhưng vẫn giữ im lặng hoặc lộ ý đảng cộng sản "trước tốt, nay xấu" để gây chia rẽ hoặc tạo hoang mang, làm suy yếu tinh thần đấu tranh. Tôi sẽ không coi những người này là những người im lặng hoặc chối bỏ thực thụ.
Những người giữ "im lặng" hoặc "chối bỏ sự thật" (trong khả dĩ thứ ba) là những người đề xướng, với hàm ý, ý tưởng cộng sản đầu đời tốt, chỉ bây giờ mới thoái hóa, suy đồi, và trở nên xấu xa. Mức độ "im lặng" của những người này thường không giống nhau. Có người giữ tuyệt đối im lặng và không bao giờ nhắc đến Hồ Chí Minh hay các lãnh tụ cộng sản khác. Có người không nhắc đến rõ rệt, nhưng đề cập đến một cách kín đáo hoặc chỉ đề cập đến vì lỡ lời. Có người không nhắc đến trực tiếp, nhưng một cách gián tiếp, như thể vẫn còn tiếc nuối một quá khứ mà họ cho rằng huy hoàng. Ta không rõ chính xác nguyên nhân sâu xa cho ý nghĩ "trước tốt, nay xấu" này của họ, nhưng ta có thể có vài suy đoán như trình bày dưới đây.
Có nhiều lý do khiến họ rêu rao "cộng sản đời trước tốt": (1) Họ không muốn tự nhận mình dại dột, khờ khạo, tin vào lời dụ dỗ của cộng sản khi họ còn trẻ; (2) Họ không muốn làm nhục danh tiếng mình hoặc cha ông mình, thường được coi là "lão thành cách mạng" hoặc "công thần" của đảng; (3) Họ không muốn bị nhận diện là những kẻ gian tham, tàn ác, sát nhân, hoặc khủng bố dưới danh nghĩa giành độc lập hoặc chống Mỹ diệt Ngụy, trong khoảng thời gian chiến tranh.
Có nhiều lý do khiến họ khẳng định "cộng sản đời nay xấu": (a) Sự thật rành rành trước mặt, như "con voi trong phòng," và họ không thể làm ngơ được; (b) Họ đã bị "thất sủng," hoặc về hưu, và không còn hưởng lợi lộc gì nữa; (c) Họ cảm thấy hối hận, nhưng không có đủ can đảm thú nhận "cộng sản đời trước xấu," và hy vọng bằng cách chỉ trích "cộng sản đời nay xấu," họ đóng góp phần nào trong việc lật đổ chế độ cộng sản để chuộc lại lỗi lầm trong quá khứ; (d) Họ biết đảng cộng sản sắp bị sụp đổ, và tính mạng hoặc cuộc sống của họ sau cộng sản sẽ khó khăn hoặc nguy hiểm. Do đó, họ muốn "kiếm điểm" trước để phòng hờ những trừng phạt sau này; và (e) Họ không mất mát gì khi tố cáo "cộng sản đời nay xấu" vì nhóm cầm quyền coi thường tiếng nói họ cho rằng họ đã già cả và chẳng ai thèm tin họ. Nhóm cầm quyền cũng chẳng hơi đâu phí nhân lực tiền tài truy tố hoặc bắt bớ họ.
Lý do những người rêu rao đảng cộng sản Việt Nam "trước tốt, nay xấu" là kết hợp của các lý do (1), (2), (3), (a), (b), (c), (d), và (e) trên, có thể kết hợp nhiều lý do cùng lúc. Thí dụ, (1)(a); (3)(d)(e); (2)(a)(b); v.v... Vì họ giữ im lặng một phần sự thật về đảng cộng sản trong quá khứ dưới nhiều mức độ khác nhau, việc họ chỉ trích đảng cộng sản hiện nay là hành động nói lên chỉ một nửa sự thật.