Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Một khoảnh khắc hạnh phúc là một niềm vui bất diệt.
Figuiere
Trang 1 / 3 123 Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 25

Chủ Đề: Tiền Chuộc Mạng

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Tiền Chuộc Mạng

    Tiền Chuộc Mạng

    Tác giả :Danielle Steel

    Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy



    Chương 1

    Peter Mathew đứng trước quầy trả đồ đạc của tù nhân. Gã nhận cái ví đựng bốn trăm đô-la mà người ta giao trả. Gã phải có giấy tờ phóng thích để xuất trình cho nhân viên quản lý các tù nhân mới được thả. Gã mặc áo quần do bang cấp, chiếc quần jeans, áo thun trắng có sơ-mi bằng vải bông dệt chéo khoác ra ngoài, mang giày chạy bộ và tất trắng. Áo quần thật rất khác xa với áo quần mà gã đã mặc khi mới vào đây. Gã ở trong nhà tù Pélican Bay của bang bốn năm ba tháng. Gã đã ở đủ thời gian tối thiểu của bản án, mà theo bản án thì gã phải ở tù lâu hơn thế rất nhiều. Gã đã bị bắt với số lượng rất nhiều côcain, bị chính quyền bang truy tố, bị ban hội thẩm của tòa án kết tội, tống giam vào nhà tù Pélican Bay.

    Mới đầu gã chỉ bán ma túy cho bạn bè, rồi sau đó không những để thỏa mãn cho thói quen không bỏ được, mà còn để phục vụ cho nhu cầu về tài chính của mình và cho gia đình. Chỉ trong vòng sáu tháng mà gã kiếm được gần một triệu đô-la trước khi bị bắt, nhưng dù có nhiều tiền như thế, gã cũng không lấp được lỗ hổng về mặt tài chính mà gã đã tạo nên một cách tùy hứng. Đó là vì gã nghiện ngập ma túy, đầu tư không thành công, buôn bán các mặt hàng thua lỗ. Gã làm môi giới thị trường chứng khoán một thời gian, gây nhiều rắc rối cho công ty, nhưng công ty không đủ chứng cứ để truy tố gã ra tòa, vì trường hợp này chỉ có nhân viên điều tra liên bang mới bắt gã, chứ không phải cảnh sát bang, mà nhân viên điều tra liên bang không có đủ chứng cớ. Gã sống một cuộc sống vượt quá đồng lương của mình, đắm mình trong những cuộc truy hoan bê tha, có nhiều khả năng sa đọa, tạo cơ hội cho những kẻ xấu đi vào con đường nghiện ngập ma túy. Cho nên cuối cùng gã chỉ còn con đường duy nhất là theo bọn buôn ma túy để có tiền sống theo nhu cầu của mình. Gã lại còn gây ra một vài chuyện gian lận nho nhỏ khác nữa, như làm quỷ phiếu giả, biển thủ tiền bạc của công ty, nhưng gã đã gặp may là không bị phát hiện. Khi gã bị bắt vì buôn bán côcain, chủ gã không truy tố gã, quan trọng gì nữa đâu mà truy tố. Gã không có tiền để trả bất cứ cái gì gã đã lấy, vả lại số tiền gã ăn cắp cũng không nhiều và gã đã tiêu hết từ lâu và không có cách gì để họ thu lại số tiền đã mất. Chủ của gã lại còn tỏ ra thương hại gã. Peter có cách làm cho mọi người có cảm tình với gã và thích gã.

    Peter Morgan là hình ảnh tượng trưng cho lớp thanh niên đi vào con đường lầm lạc. Trong cuộc sống, nhiều lần gã chọn con đường sa đọa và khước từ cơ hội ngàn vàng để tu nhân. Bạn bè và những người hợp tác làm ăn với Peter thường tỏ ra thương xót cho vợ con gã, gia đình gã đã trở thành nạn nhân của chương trình điên loạn và sự phán xét sai lầm của gã. Nhưng bất cứ người nào quen biết gã, đều nói rằng tự thâm tâm Peter Morgan là người tốt. Khó mà biết cái gì đã làm cho gã mắc phải sai lầm như thế. Trên thực tế, có nhiều người đã gặp phải trường hợp như gã.

    Bố Peter chết khi gã mới ba tuổi, ông ta là con dòng cháu giống trong một gia đình danh tiếng của xã hội thượng lưu ở New York. Mấy năm sau khi ông ta mất, tài sản gia đình bắt đầu khánh kiệt, vì mẹ gã tiêu xài hoang phí của chồng để lại trước khi gã khôn lớn. Chẳng bao lâu sau khi bố mất, mẹ gã lấy một thanh niên quý tộc rất nổi tiếng. Ông ta là người thừa kế của một gia đình chủ ngân hàng giàu có. Ông ta nhiệt tình thương yêu Peter và hai người em ruột của gã, ông ta cho anh em gã học hành và thương yêu chúng, cho chúng theo học những trường tư tốt nhất cùng với hai cậu em trai cùng mẹ khác cha với Peter. Gia đình ông ta có vẻ sung túc, có nhiều tiền, nhưng mẹ gã càng ngày càng uống rượu nhiều, đến nỗi cuối cùng bà lâm bệnh phải vào bệnh viện, để Peter và hai em ruột gã sống trong cảnh côi cút. Người bố kế không nhận anh em gã làm con nuôi, nên sau khi mẹ gã chết một năm thì ông ta lấy vợ khác. Bà vợ mới này thấy chồng không có lý do gì phải gánh lấy bầy con riêng của vợ cũ, về mặt tài chính cũng như về các mặt khác. Bà ta chỉ bằng lòng để cho chồng cưu mang chăm sóc hai đứa con mà ông đã có với mẹ của Peter, mặc dù bà ta muốn ông gửi hết chúng vào trường nội trú. Nhưng bà ta không muốn làm thế với ba đứa con riêng của mẹ Peter. Bố dượng của Peter đành phải cố gắng đưa anh em Peter vào trường nội trú, rồi vào cao đẳng với số tiền trợ cấp ít ỏi và nói rằng, ông không cho chúng ở trong nhà nữa và không cho thêm tiền bạc gì nữa.

    Sau đó, vào những dịp nghỉ lễ hay nghỉ hè, Peter phải ở lại trường, hay đến nghỉ ở nhà bạn bè. Gã phải trổ tài chinh phục họ, để họ mời gã về nghỉ ở nhà mình. Gã rất có tài quyến rũ người khác. Khi mẹ chết, Peter phải học cách làm đẹp lòng người để sống. Gã chỉ còn con đường ấy và nhờ phương cách ấy mà gã sống được thoải mái. Trong thời gian này, gã đã sống nhờ vào tình thương yêu, đùm bọc của bố mẹ bạn bè mình.

    Khi gã ở với bạn bè trong thời gian nhà trường nghỉ lễ, thường xảy ra những chuyện không hay nho nhỏ. Tiền bạc trong nhà biến mất, vợt đánh tennis không cánh mà bay và khi gã đi rồi thì những chuyện như thế không xảy ra nữa. Áo quần gã mượn không bao giờ trả. Có một lần, cái đồng hồ vàng trong nhà tự nhiên tan thành mây khói và cô gái giúp việc khóc nức nở vì bị đuổi việc, cô ta bị kết tội ăn cắp. Nhưng sau đó chuyện vỡ, người ta biết rằng Peter đã ngủ với cô gái. Lúc ấy gã mới mười sáu tuổi, tiền bán chiếc đồng hồ vàng do gã xúi cô ta ăn cắp cho gã, đã giúp gã tiêu xài trong sáu tháng. Đời gã là một cuộc chiến đấu không ngừng để có đủ tiền chi tiêu. Gã làm bất cứ gì để có tiền dùng cho các nhu cầu trong đời sống của gã. Gã rất dễ thương, lịch sự, vui vẻ với mọi người chung quanh và khi tình hình trở nên gay cấn, lúc nào gã cũng có vẻ thơ ngây vô tội. Không thể nào tin nổi một chàng trai như gã lại có thể có hành động xấu hay phạm tội được.

    Có lần vị bác sĩ tâm lý của trường cho rằng Peter có khuynh hướng trở thành tội phạm của xã hội, điều này đã khiến cho vị hiệu trưởng khó tin. Vị bác sĩ tâm lý nói rằng, trông bộ mã bên ngoài của gã hiền từ, nhưng tâm địa không tốt. Cái vẻ ngoài dễ thương của gã khiến cho mọi người nhầm lẫn. Dưới cái vỏ bên ngoài của Peter, người ta khó mà biết bản chất thật sự của gã. Nhờ thế mà gã sống được qua một cuộc đời đầy gian truân. Gã duyên dáng, thông minh, đẹp trai, đã gặp nhiều gian khổ trong cuộc sống. Gã không có ai để nương nhờ, lòng gã quá đau đớn ê chề. Bố mẹ gã chết, cha kế xa lánh gã, không cho gã đồng xu nào. Hai người em ruột của gã thì từ khi chúng bị gửi đến trường nội trú ở Bờ Đông, gã không hề được gặp, tất cả những chuyện đó đã phủ lên đời gã một màu đen bi thảm. Rồi sau đó, khi đang học đại học, gã nhận được tin cô em gái mười tám tuổi đã trầm mình tự vẫn, khiến cho linh hồn non trẻ đã bị thương tổn của gã bị thêm một vết đau nữa. Hiếm khi gã nói đến cuộc đời đầy sóng gió của mình, không bao giờ gã thổ lộ nỗi buồn phiền trong lòng với ai và lúc nào cũng tỏ ra mình là người tốt bụng, lạc quan yêu đời, khôn ngoan, cho nên mọi người ai cũng yêu mến và cư xử tốt với gã. Nhưng cuộc đời không dễ dàng gì cho gã, khi nhìn gã, không ai thấy được điều này. Không ai thấy gã tỏ ra là người đang trải qua những tháng ngày gian khổ. Những vết thương lòng ẩn sâu trong tâm khảm gã, không ai trông thấy được.

    Đàn bà đi qua đời gã như lá mùa thu, còn đàn ông thì thích làm bạn với gã. Về sau, bạn bè gã nhớ rằng khi còn học đại học, gã uống rượu nhiều nhưng không bao giờ uống quá trớn, bây giờ cũng thế. Những vết thương lòng của Peter quá sâu đậm.

    Peter Morgan luôn luôn biết tự chủ. Lúc nào gã cũng có chương trình hành động. Bố dượng của gã đã giữ đúng lời hứa, cho gã đi học ở Duke và ở đây gã được học bổng toàn phần để vào học trường Harvard, rồi gã lấy được bằng cử nhân Quản trị kinh doanh. Gã có đủ phương tiện để thỏa mãn các nhu cầu trong cuộc sống, có đầu óc thông minh, có diện mạo đẹp đẽ và có một vài mối liên kết giá trị mà gã đã tạo được trong thời gian theo học các trường danh tiếng. Người ta tin chắc thế nào gã cũng tiến xa trên con đường sự nghiệp. Không ai nghi ngờ việc Peter Morgan sẽ không thành công trên đường đời. Gã có tài hái ra tiền, hay có vẻ như thế và gã có nhiều kế hoạch để hành động. Khi ra trường, gã có việc làm trong một công ty môi giới chứng khoán tại Wall Street và sau hai năm làm việc ở đấy, gã bắt đầu đi con đường sai trái. Gã không làm đúng nguyên tắc, tráo trở một vài tài khoản, “mượn” tiền người ta. Tình hình trở nên nguy hiểm cho gã trong một công ty đầu tư ngân hàng, ở đây gã trở thành chàng trai vàng của Wall Street trong một thời gian ngắn. Gã có đủ phương tiện để bước đến thành công, nhưng thiếu mái ấm gia đình và không có lương tâm. Lúc nào Peter cũng có kế hoạch, có chương trình để làm sao tiến đến đích thật nhanh trong nháy mắt, nên gã phải lo cho bản thân mình, nếu được may mắn, thì may mắn cũng chỉ đến trong một thời gian ngắn ngủi thôi và bất cứ may mắn gì đến với mình, gã cũng chộp lấy ngay.

    Năm hai mươi chín tuổi, gã cưới Janet, cô gái mới ra mắt xã hội thượng lưu, đẹp rực rỡ. Và cô ta hóa ra là con gái của người đứng đầu công ty gã làm việc. Họ lấy nhau hai năm, có hai đứa con gái thật kháu khỉnh. Cuộc sống của gã thật hoàn hảo, gã yêu vợ và rất mực thương con. Cuộc đời trước mắt gã rất nhiều hứa hẹn, êm đềm, nhưng không ai biết tại sao tình hình lại bắt đầu bất ổn. Gã chỉ nghĩ đến chuyện làm ra cho thật nhiều tiền, gã luôn luôn bị tiền bạc ám ảnh, gã muốn làm ra nhiều tiền bằng bất cứ cách nào. Có người cho rằng gã ăn chơi trác táng. Chuyện này đối với gã dễ dàng thôi. Gã như chuột sa vào hũ nếp, vui chơi thoải mái, trở thành tham lam và dần dà để cho cuộc đời buông xuôi, không kiềm chế được. Cuối cùng, tư tưởng muốn có nhiều tiền thật nhanh và thói quen cũ muốn lấy những gì gã muốn có, trở lại với gã. Gã bèn xén bớt tiền bạc của công ty, cấu kết với những kẻ bất lương, làm những việc mà công ty không thể viện cớ để sa thải, nhưng bố vợ của gã không thể dung tha. Peter như kẻ đang đi thật nhanh trên con đường hướng đến chỗ hiểm nghèo. Peter và bố vợ đã nhiều lần nói chuyện nghiêm túc với nhau, trong lúc họ đi trên lãnh địa của ông ta tại Connecticut và bố của Janet nghĩ rằng gã đã hiểu rõ được vấn đề. Để cho chàng rể hiểu rõ vấn đề, ông ta đã vạch ra cho gã thấy rằng ở đời không dễ gì đạt được thành công như ăn bữa trưa miễn phí hay đi trên chuyến tàu tốc hành, ông báo cho gã biết rằng, phương pháp làm ăn bất chính mà gã đang làm và nguồn gốc tiền bạc bất lương gã đang xài, thế nào có ngày gã cũng mang lấy hậu quả không hay. Hậu quả này có thể đến rất sớm. Ông giảng cho gã biết về tầm quan trọng trong sự thành thật. Và ông tin thế nào Peter cũng chú ý đến lời khuyên của ông. Ông thích gã. Thực vậy, ông đã thành công trong việc làm cho Peter cảm thấy lo lắng, bị thúc đẩy phải có trách nhiệm.

    Năm ba mươi mốt tuổi, Peter bước vào cuộc “vui chơi trác táng” lần đầu, gã bắt đầu nếm mùi ma túy. Gã tuyên bố không có gì tai hại trong việc này, mọi người đều xài nó, việc dùng ma túy làm cho người ta vui hơn và hưng phấn hơn. Janet rất lo lắng về chuyện đó. Năm ba mươi hai tuổi, Peter Morgan gặp đại nạn, gã không làm sao kiềm chế được thói quen dùng ma túy, mặc dù gã đã cố chống lại thói quen này. Gã bắt đầu xài tiền của vợ cho đến khi bị bố vợ ngăn chặn. Một năm sau, gã bị buộc phải thôi việc ở công ty, vợ gã dọn về nhà cha mẹ, đau đớn sững sờ trước cảnh nàng đã phải sống với Peter trong thời gian qua. Gã không lạm dụng nàng, nhưng gã luôn luôn say côcain, đời gã coi như hoàn toàn buông xuôi. Khi ấy bố nàng nhận ra gã nợ như chúa chổm, gã “bí mật” biển thủ tiền bạc của công ty, khiến họ mang vạ lây, có khả năng làm cho họ gặp nhiều rắc rối, cho nên Janet phải trả nợ của công ty cho gã. Gã bằng lòng để cho Janet bảo trợ hai con, là một gái lên hai và một lên ba. Sau đó gã mất quyền thăm viếng con vì một chuyện có dính dáng đến gã: Ba người đàn bà bị bắt với một lượng côcain lớn giấu trong chiếc du thuyền ngoài khơi East Hampton. Khi ấy các con gã đang đến thăm gã. Chị vú gọi điện thoại di động từ trên thuyền báo cho Janet biết. Janet dọa sẽ gọi cảnh sát tuần duyên đến bắt gã. Gã để cho chị vú và hai cô bé gái rời khỏi thuyền, Janet không để cho gã gặp con lại. Nhưng khi ấy gã đã gặp những chuyện rắc rối khác nữa rồi. Gã đã vay mượn một số tiền rất lớn để thỏa mãn như cầu về ma túy, gã mất hết số tiền gã đầu tư có nhiều mạo hiểm vào thị trường hàng hóa. Sau đó, dù gã chứng minh mình có khả năng tốt, hay thông minh lanh lợi bao nhiêu đi nữa, gã cũng không kiếm được việc làm. Và giống y như mẹ gã trước khi bà mất, gã sa đọa hoàn toàn. Không những gã không có tiền rồi, mà gã còn nghiện ngập ma túy.

    Hai năm sau khi Janet rời khỏi gã, gã cố xin việc làm trong một công ty có vốn đầu tư mạo hiểm nổi tiếng tại San Francisco, nhưng không được. Khi ấy gã đã ở tại San Francisco rồi, gã bèn chuyên chú vào việc buôn bán côcain. Gã đã ba mươi lăm tuổi, khi bị bắt quả tang với số lượng lớn côcain đem đi bán, gã mắc nợ rất nhiều người. Số côcain gã đem đi bán là cả một gia tài kếch sù, nhưng khi bị bắt, gã mắc nợ nhiều gấp năm lần như thế và nợ của những người cực kỳ nguy hiểm. Nhiều người biết gã khi nghe tin này, nói rằng gã đã mang họa vào thân, chuyện này có khả nàng đưa gã sang thế giới bên kia. Vì khi bị bắt gã nợ rất nhiều, cho nên những kẻ buôn bán với gã có thể giết gã. Gã không trả nợ cho ai được hết, vì gã không có tiền để trả. Có nhiều trường hợp vào tù như thế này thì nợ nần hủy bỏ. Nhưng gặp những trường hợp tệ hơn, họ có thể bị giết ở trong tù. Hay nếu có người may mắn, chủ nợ sẽ bỏ qua. Peter hy vọng gã sẽ gặp được trường hợp chủ nợ cho qua.

    Khi Peter vào tù, gã không gặp được con đã hai năm và có lẽ gã không thể gặp lại chúng được. Gã ra tòa với vẻ mặt bình tĩnh và khi đứng trước vành móng ngựa, gã có vẻ thông minh, tỏ ra ăn năn hối hận. Luật sư của gã cố xin cho gã được án treo, nhưng chánh án không chịu. Ông ta đã gặp những người như Peter rồi, mặc dù không nhiều, nhưng ông tin chắc rằng gã đã có nhiều cơ hội để tu nhân mà không làm. Ông ta đọc rất kỹ hồ sơ của gã, ông thấy rằng gã có nhiều điều không đáng tin. Bề ngoài và hành động của gã rất trái ngược nhau. Chánh án không chấp nhận những lời ăn năn hối cải mà Peter đã nói trước tòa. Gã nói thì hay, vẻ mặt tội nghiệp, nhưng không thành thật. Gã dễ thương thật đấy, nhưng hành động của gã thì khủng khiếp. Khi ban hội thẩm kết luận gã có tội, chánh án kết án gã bảy năm tù giam, gửi đến nhà tù Pilican Bay, tại Crescent City. Nhà tù này nghiêm ngặt nhất gồm có ba ngàn ba trăm tù trọng tội, thuộc hệ thông nhà tù California, nằm ở phía Nam San Francisco xa ba trăm bảy mươi dặm, cách biên giới bang Oregon mười một dặm. Bản án này có vẻ nghiêm khắc, nhưng quá thích đáng cho Peter, vì ở đâu cũng không xứng với tội của gã.

    Ngày Peter được phóng thích, tính thời gian gã ở trong tù là đúng bốn năm ba tháng. Gã đã bỏ được ma túy, lo làm công việc của mình. Gã làm trong văn phòng của người quản ngục, phần lớn thời gian đều ngồi trước máy tính và suốt bốn năm không hề vi phạm kỷ luật của nhà tù. Người quản ngục mà gã làm việc cho ông ta tin rằng gã đã thành thật ăn năn hối cải. Mọi người biết gã đều tin rằng gã không có ý định đi vào con đường lưu manh nữa. Gã đã học được bài học về hành động này rồi. Gã còn nói với ban quản lý tù nhân được phong thích - nhưng còn bị giám sát một thời gian - rằng mục tiêu trước mắt của gã là được gặp lại các con và một ngày nào đấy gã sẽ trở thành người cha tốt. Peter nói như thể là thời gian vừa qua chỉ là sự trở ngại kỹ thuật nhỏ trên màn hình tivi và gã có vẻ tin như thế. Nên gã định từ nay về sau, sẽ giữ cho màn hình trong sáng rõ đẹp, không có gì trở ngại nữa. Và mọi người đều tin gã.

    Gã được phóng thích nhờ chế độ giảm án. Gã phải ở tại Bắc California một năm, dưới sự giám sắt của nhân viên quản lý tù nhân bị quản chế tại San Francisco. Gã định sống trong nhà tạm trú dành cho người mới ra tù cho đến khi tìm được việc làm và gã nói với ban giám sát rằng gã không chọn lựa trong khi tìm việc. Gã sẽ làm bất cứ việc gì tìm được cho đến khi cuộc sống ổn định và nếu cần, gã cũng làm cả công việc bằng chân tay, miễn đấy là công việc lương thiện. Mọi người đều nghĩ rằng, thế nào Peter Morgan cũng tìm được việc làm. Gã đã mắc phải sai lầm lớn, nhưng sau bốn năm sống trong nhà lao Pelican Bay, gã vẫn còn là một anh chàng dễ thương, thông minh. Những người thương gã, kể cả ông quản ngục, đều hy vọng rằng với một ít may mắn, gã sẽ tìm ra việc làm tốt cho mình, và xây dựng cuộc sống lương thiện. Gã có đủ thứ để thực hiện được việc này. Bây giờ gã chỉ cần gặp được cơ hội may mắn nữa thôi. Và mọi người đều hy vọng khi ra tù, gã sẽ kiếm được việc làm tốt. Người ta luôn luôn thích Peter và mong gã gặp được nhiều may mắn, tốt lành. Chính ông quản ngục ra bắt tay từ biệt gã. Peter đã làm việc riêng cho ông suôt bốn năm trời.

    - Nhớ cho tôi biết tin tức. - Ông quản ngục nói, nhìn gã với ánh mắt nồng ấm. Cách đây hai năm, ông ta có mời Betet về nhà để ăn Giáng sinh với vợ con, Peter đã tỏ ra mình là con người rất tuyệt vời. Bốn cậu con trai còn tuổi vị thành niên của ông quản ngục rất thích gã, vì gã bảnh trai, nhiệt tình, vui vẻ và rất tốt. Mọi người, cả già lẫn trẻ, đều cho gã có phong cách dễ thương. Thậm chí gã còn gợi ý cho một trong mấy chàng trai nộp đơn xin học bổng để vào học ở Harvard. Chàng trai được học bổng vào mùa xuân năm đó. Ông quản ngục cảm thấy như thể mình mang ơn Peter, còn Peter thì thật lòng thích ông ta và gia đình ông, gã cảm ơn lòng tốt mà gia đình ông đã đối xử với gã.

    - Năm sau tôi sẽ ở tại San Francisco - Peter vui vẻ đáp - Tôi hy vọng họ sẽ cho phép tôi về miền Đông để thăm các con gái tôi. - Suốt sáu năm rồi gã không thấy mặt con và trong bốn năm qua gã không có tấm ảnh nào của chúng. Bây giờ Isabelle và Heather đã tám và chín tuổi, nhưng trong óc Peter, gã vẫn thấy chúng còn nhỏ xíu, Janet đã cấm không cho gã tiếp xúc với chúng từ lâu, bố mẹ nàng cũng đồng ý với quyết định này của nàng. Bố dượng của gã, người đã trả tiền học cho gã trước đây, chết lâu rồi. Người em trai của gã đã biến mất nhiều năm. Peter Morgan hiện không có ai hết, không có gì hết. Gã có bốn trăm đô-la trong ví, có người nhân viên giám sát ở San Francisco và chiếc giường trong nhà trọ dành cho người mới ra tù ở khu Mission, khu vực phần lớn cư dân đều có gốc Tây Ban Nha và là một vùng xưa có thời rất đẹp, nhưng bây giờ có vài nơi đã xuống cấp trầm trọng. Nơi Peter sẽ đến ở thuộc vùng bị xuống cấp trầm trọng ấy. Số tiền gã có sẽ không kéo dài được lâu, từ bốn năm nay gã không hề được hớt tóc cho ra hồn. Những người duy nhất còn lại ngoài đời mà gã quen biết, là một ít người gã đã tiếp xúc trước đây trong lĩnh vực có vốn đầu tư mạo hiểm và kỹ nghệ cao ở Silicon Valley và những cái tên của giới buôn bán ma túy mà gã đã từng hợp tác. Gã quyết định sẽ không tiếp xúc với họ nữa. Gã không muốn đi vào con đường ấy nữa. Gã sẽ gọi cho một vài người khi đến thành phố, nhưng gã nghĩ rằng gã có thể đi rửa bát đĩa hay bơm xăng. Tuy nhiên, gã tin chắc là không đến nỗi nào như thế. Dù sao thì gã cũng có bằng MBA [1] ở Harvard, và trước đó đã từng học ở Duke. Nếu không suôn sẻ, gã sẽ tìm gặp một số bạn học cũ, có lẽ họ không biết gã đi ở tù. Nhưng gã không tin là công việc sẽ dễ dàng như thế. Gã đã ba mươi chín tuổi và dù có giải thích như thế nào đi nữa, thì thời gian bốn năm qua sẽ là một quãng trống trong lý lịch của gã. Trước mắt gã, con đường quá gian khổ, khó khăn. Nhưng gã khỏe mạnh, hết nghiện ma túy, thông minh và bề ngoài vẫn còn rất duyên dáng. Cuối cùng thế nào mọi việc cũng sẽ tốt đẹp cho gã. Gã tin như thế và ông quản ngục cũng tin vậy.

    - Hãy gọi cho chúng tôi. - Ông quản ngục lại dặn. Đây là lần đầu tiên ông gắn bó mật thiết với một tội phạm đã làm việc cho ông. Nhưng những người mà ông đã làm việc với họ ở Pelican Bay rất khác xa với Peter Morgan.

    Nhà tù Pelican Bay được xây dựng với mức an ninh tối đa để giam giữ những tội nhân nặng nhất, những tù nhân này trước kia được đưa đi giam ở San Quentin. Hầu hết đàn ông đều bị nhốt riêng. Nhà tù được cơ giới hóa rất cao và trang bị toàn máy tính, máy móc rất hiện đại, cho phép họ giam giữ những thành phần nguy hiểm nhất trong vùng, ông quản ngục nhận thấy ngay Peter không thuộc thành phần này. Gã chỉ có tội buôn bán một lượng lớn ma túy và có liên quan đến tiền bạc, nên phải bị tống giam vào nhà tù có an ninh nghiêm ngặt này. Nếu lời buộc tội ít nghiêm khắc hơn, chắc gã sẽ chỉ bị giam trong những nhà tù ít nghiêm ngặt hơn. Gã không có mưu đồ trốn thoát, không có tiền sử bạo động và trong thời gian ở đây, gã không dính dáng đến bất cứ vụ gì không hay xảy ra. Gã là con người văn minh điển hình nhất. Vài người đã nói chuyện với gã trong những năm qua đều kính trọng gã và gã đã giữ mình tránh xa những chuyện lộn xộn có thể xảy ra. Mối liên hệ mật thiết của gã với ông quản ngục đã làm cho gã thành người bất khả xâm phạm, tạo cho gã con đường an toàn. Gã không chơi với các nhóm băng đảng, không cấu kết với các nhóm chủ trương bạo động, hay gần gũi với các thành phần chống đối. Gã chăm lo công việc của mình. Và sau hơn bốn năm, gã rời nhà tù Pelican Bay tương đối bình an vô sự. Trong tù, gã chỉ biết cúi đầu, làm việc cho hết giờ. Gã đã đọc nhiều tài liệu về pháp lý và tài chính, dành rất nhiều thì giờ trong thư viện và làm việc không biết mệt mỏi cho ông quản ngục.

    Ông quản ngục viết thư giới thiệu gã với ban quản lý tù mới được thả với lời lẽ rất tốt. Trường hợp của gã chỉ là sa chân lỡ bước vào con đường sai lầm và bây giờ gã cần có cơ hội để đi theo con đường chân chính. Ông quản ngục tin chắc gã sẽ theo con đường đúng đắn. Ông chờ mong nhận được tin tốt lành của Peter trong tương lai. Với tuổi ba mươi chín, có quá trình học hành tốt, Peter vẫn còn trước mắt tương lai xán lạn. Hy vọng những lỗi lầm gã đã mắc phải sẽ là bài học quý giá để gã tu thân sửa tính trên đường đời. Bất cứ người nào biết gã cũng đều tin rằng Peter sẽ là người trung thực và đứng đắn.

    Khi gã đang bắt tay từ biệt ông quản ngục, thì có người phóng viên báo chí và nhiếp ảnh gia của tờ báo địa phương trong chiếc xe tải bước ra, họ đi đến bàn làm việc nơi Peter vừa lấy cái ví của mình. Khi ấy một tù nhân khác đang ký vào hồ sơ phóng thích, hắn và Peter nhìn nhau và gật đầu chào. Peter biết hắn là ai - mọi người điều biết. Họ thỉnh thoảng gặp nhau trong phòng tập thể dục và trong hành lang. Trong hai năm qua, hắn thường đến văn phòng làm việc của quản ngục. Hắn đã cố minh oan cho mình nhiều năm nhưng không thành công, nổi tiếng là luật sư không chính thức trong tù và rất có lương tri. Hắn tên là Carlton Waters, bốn mươi mốt tuổi, đã ở trong tù hai mươi bốn năm vì tội giết người. Thực vậy, hắn đã trưởng thành ở trong tù.

    Carlton Waters bị kết tội giết hai vợ chồng người hạng xóm và cố giết luôn cả hai đứa con họ nhưng không thành công. Khi ấy hắn mới mười bảy tuổi và tên đồng bọn với hắn trong vụ giết người này là một cựu tù hai mươi sáu tuổi, tên này kết bạn với hắn. Hai tên xông vào nhà nạn nhân, cướp hai trăm đô-la. Tên đồng bọn với Waters bị tử hình trước đó nhiều năm, còn Waters thì luôn mồm nói rằng hắn không giết người. Hắn chỉ có mặt ở đấy thôi, hắn không bao giờ thay đổi lời khai trong chuyện này. Hắn luôn mồm nói mình vô tội, đã đến nhà nạn nhân mà không biết ý đồ gì của bạn hắn. Chuyện xảy ra quá nhanh và quá tàn bạo, các đứa con nạn nhân còn quá nhỏ nên không chứng thực được chuyện hắn khai. Các đứa con còn nhỏ, chúng không sợ bị nhận diện, nên chỉ đánh đập rất tàn bạo rồi tha mạng cho các bé. Cả hai tên đều say, Waters khai rằng hắn xây xẩm, mờ mắt trong khi án mạng xảy ra, nên không nhớ gì hết.

    Ông chánh án không tin lời hắn khai và mặc dù tuổi hắn còn nhỏ nhưng ông vẫn kết tội hắn như người lớn và sau đó hắn kháng án nhưng không thành công. Hắn sống phần lớn cuộc đời trong tù, mới đầu ở tại nhà tù San Quentin, rồi sau chuyển đến Pelican Bay. Hắn cố học đại học ở trong tù và theo học ở trường luật được nửa chừng. Hắn viết một số bài về hệ thống pháp lý, đề nghị tu chính pháp luật và mở rộng quan hệ với báo chí trong nhiều năm qua. Hắn viết bài chống đối chính quyền vì đã bỏ tù hắn vô tội, cho nên Waters đã trở thành tù nhân có tiếng tăm. Hắn làm chủ bút tờ báo trong tù và biết hết về mọi người trong tù. Người ta tìm đến hắn để xin ý kiến và hắn được mọi người trong tù kính nể. Hắn không có cái vẻ hào nhoáng quý tộc của Morgan, mà hắn trông thô ráp, khỏe mạnh. Hắn chăm lo rèn luyện thân thể. Mặc dù khi còn nhỏ hắn nông nổi, gây nên nhiều chuyện xấu, nhưng suốt hai thập niên qua ở trong tù hắn là tù nhân gương mẫu. Hắn khỏe mạnh, trông có vẻ đáng sợ, nhưng hồ sơ trong tù của hắn trong sạch, tiếng tăm của hắn không bằng vàng thì cũng bằng đồng. Chính Waters đã thông báo cho báo chí biết việc hắn được phóng thích và hắn rất sung sướng khi thấy các phóng viên đến đây.

    Waters và Morgan không hợp tác với nhau, nhưng hai người thường kín đáo nể phục nhau. Có những lúc, trong khi Waters đợi để gặp ông quản ngục, Peter có nói chuyện với hắn, hai người thỉnh thoảng bàn đến những vấn đề về pháp lý. Peter đã đọc nhiều bài của hắn viết đăng trên tờ báo trong tù và báo địa phương. Gã thấy hắn khó mà gây được ấn tượng mạnh cho gã, dù hắn có tội hay vô tội. Hắn có đầu óc sáng suốt và làm việc cật lực để hoàn thành mục tiêu hắn đề ra, mặc dù hắn đã lớn lên trong tù với hoàn cảnh rất khó khăn.

    Khi Peter đi qua cổng nhà tù, lòng cảm thấy hân hoan đến ngộp thở, gã quay đầu nhìn lại, thấy Carlton Waters đang bắt tay ông quản ngục, trong lúc đó người nhiếp ảnh của tờ báo địa phương chụp ảnh hắn. Peter biết hắn sẽ đến ở tại nhà tạm trú ở Modesto. Gia đình hắn vẫn còn sống ở đấy.

    Peter dừng lại một lát, nhắm mắt, lẩm nhẩm trong miệng - Cám ơn Chúa! - Rồi mở mắt nhìn lên trời. Gã cảm thấy ngày hôm ấy như đang mở rộng cửa để đón nhận gã vào đời. Gã đưa tay chùi mắt để không ai thấy nước mắt đang trào ra trên mắt gã. Rồi gã gật đầu chào người gác cổng và đi bộ về phía trạm xe buýt. Gã biết bến xe nằm ở đâu, gã muốn đi nhanh đến đấy. Gã chỉ đi bộ mười phút là đến bến xe và khi gã vẫy tay đón xe buýt, bước lên xe, Carlton Waters đang đứng trước nhà tù để chụp tấm hình cuối cùng. Hắn lại nói với người phóng viên lần nữa là hắn vô tội. Dù hắn có tội hay không thì hắn đã tạo nên được câu chuyện rất hay, đã trở thành người được kính trọng trong tù suốt hai mươi bốn năm qua và đã hưởng được thành quả do lời tuyên bố hắn vô tội mang đến. Từ nhiều năm rồi, hắn thường nói đến kế hoạch viết sách. Hai người mà hắn được xem như đã giết họ và hai đứa bé đã sống mồ côi do hắn gây nên trước đó hai mươi bốn năm, đã hoàn toàn bị lãng quên. Họ đã bị những bài báo của hắn viết và những lời thanh minh hay ho của hắn đẩy vào bóng tối. Khi Peter Morgan bước xuống trạm xe buýt cuối cùng và mua vé xe đi San Francisco, thì Waters vừa trả lời phỏng vấn xong, cuối cùng hắn đã được tự do.

    Last edited by giavui; 09-07-2020 at 02:59 PM.

  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 2
    Ted Lee thích làm vào ca đêm. Ông đã làm việc như thế lâu rỗi, nên bây giờ làm ca đêm thích hợp với ông. Đó là thói quen cũ dễ chịu, thoải mái. Ông làm thanh tra cảnh sát tại phòng Điều tra tổng họp thuộc Lực lượng cảnh sát San Francisco, làm việc từ bốn giờ chiều cho đến mười hai giờ đêm. Ông giải quyết các vụ trộm cướp, hành hung, những hành vi tội phạm xảy ra hằng ngày như cơm bữa, những vụ hiếp dâm đến bán dâm, đâm chém đến giết người. Mới đầu ông làm việc trong phòng chuyên trách về tội giết người hai năm và ông ghét công việc này. Công việc quá khốc liệt đối với ông, nhân viên làm nghề này luôn luôn có vẻ kỳ lạ đối với ông.

    Họ ngồi một chỗ hàng giờ nhìn vào những bức ảnh chụp các nạn nhân bị sát hại. Toàn bộ quan điểm về cuộc đời của họ bị méo mó vì căm thù trước những hình ảnh họ thấy. Công việc của Ted thì nhàm chán hơn, nhưng ông thấy lý thú hơn nhiều. Mỗi ngày mỗi khác. Ông thích công việc giải quyết chuyện rắc rối có liên quan giữa tội phạm với nạn nhân, ông đã làm việc trong lực lượng cảnh sát hai mươi chín năm, từ khi mới mười tám tuổi. Làm công việc thanh tra này gần hai mươi năm, ông rất giỏi trong công việc. Ông đã làm việc trong phòng điều tra tội lừa đảo thẻ tín dụng một thời gian, nhưng công việc này quá chán. Công việc trong phòng điều tra tổng hợp là ông thích nhất, cũng như ông thích làm ca đêm vậy. Ông đã sinh ra và lớn lên giữa lòng Phố Tàu. Bố mẹ ông đến từ Bắc Kinh trước khi ông chào đời và cả bà ngoại bà nội của ông cũng đi theo họ đến đây. Gia đình ông gắn bó với những truyền thống cũ. Bố ông làm việc trong nhà hàng ăn uống suốt đời, mẹ ông làm nghề may vá. Cả hai em trai của ông đều gia nhập lực lượng cảnh sát giống như ông ngay từ khi học xong trung học. Một người làm cảnh sát khu vực ở Tenderloin và không muốn gì hơn thế nữa, còn người kia làm cảnh sát cưỡi ngựa. Ông có cấp bậc cao hơn hai người, nên họ thường trêu ông về việc này. Làm thanh tra cảnh sát là chuyện phi thường đối với ông.

    Vợ Ted là người Mỹ gốc Hoa thế hệ thứ hai. Gia đình bà gốc ở Hồng Kông, có cửa hàng ăn uống nơi bố ông làm việc trước khi về hưu, vì thế Ted mới gặp nàng. Họ yêu nhau năm mười bốn tuổi và ông không hề hẹn hò bồ bịch với người phụ nữ nào khác. Ông không biết tại sao như thế. Ông không yêu bà say đắm, nhiều năm như thế, nhưng ông cảm thấy yên ổn dễ chịu với bà. Bây giờ họ là bạn bè thân thiết hơn là những người tình. Bà là người tốt. Shirley Lee làm nữ điều dưỡng trong phòng chăm sóc đặc biệt tại Bệnh viện đa khoa San Francisco, bà chứng kiến nhiều nạn nhân của hành động bạo lực hơn cả ông nữa. Người nào cũng gặp người đồng sự của mình nhiều hơn họ gặp nhau. Họ đã quen với cảnh này. Ông chơi gôn vào ngày nghỉ, đưa mẹ đi mua tạp phẩm, hay đưa bà đi làm việc gì bà cần. Shirley thích đi đánh bài hay đi mua hàng với bạn gái, hay đi làm tóc. Họ hiếm khi có cùng ngày nghỉ và họ không quan tâm đến việc này. Bây giờ con cái họ lớn hết rồi, họ có ít bổn phận với nhau. Họ có cuộc sống riêng tư mặc dù không có ý định làm thế và họ đã lấy nhau từ khi họ mới mười chín tuổi, hai mươi tám năm chung sống.

    Người con trai của họ tốt nghiệp đại học vào năm ngoái, đã chuyển đến New York. Hai cậu con trai khác còn học đại học, một người học ở San Diego thuộc hệ thống Đại học California và người kia học ở UCLA. Ba cậu con trai của họ không ai muốn vào lực lượng cảnh sát, nhưng Ted không trách họ. Ông chọn nghề cảnh sát và mặc dù Sở Cảnh sát rất tốt với ông, nhưng ông muốn các con tiến xa hơn mình. Khi về hưu, ông sẽ có lương hưu một trăm phần trăm. Ông không nghĩ đến chuyện về hưu, mặc dù sang năm là ông đủ ba mươi năm trong nghề và có nhiều bạn bè đã về hưu từ lâu. Ông không biết phải làm gì khi về hưu. Với tuổi bốn mươi bảy ông không muốn tìm nghề thứ hai. Ông vẫn thích nghề đầu tiên của mình. Ông thích công việc ông đang làm và thích những người đã làm với ông, Ted đã gặp nhiều người đến rồi đi trong nhiều năm qua, một số về hưu, một số thôi việc, một số bị giết, một số bị thương. Ông đã làm việc với người đang là đồng sự với mình từ mười năm nay và trước đó vài năm, người ta đã ghép một người đàn bà vào làm việc với ông. Bà ta làm với ông bốn năm, rồi chuyển đi Chicago với chồng, tham gia lực lượng cảnh sát ở đấy. Năm nào ông cũng nhận được thiệp Giáng sinh của bà và mặc dù mới đầu còn dè dặt, ông rất thích làm việc với bà.

    Người cộng sự của ông trước đây, Rick Holmquist, bỏ lực lượng cảnh sát để gia nhập FBI. Tuần nào hai người cũng đi ăn trưa với nhau một lần và Rick trêu ông về những vụ án ông phụ trách. Rick thường nói thẳng với Ted rằng công việc ông ta làm ở FBI quan trọng hơn, hay ít ra ông ta nghĩ như thế. Ted không nghĩ vậy. Theo nhận xét của Ted, thì Sở Cảnh sát San Francisco giải quyết được nhiều vụ án hơn. Còn FBI chỉ làm công việc thu thập thông tin và giám sát, rồi các cơ quan khác nhảy vào, lấy thông tin của họ. Những anh chàng trong các lực lượng truy lùng bọn buôn rượu lậu, buôn thuốc lá lậu và vũ khí thường xen vào công việc của Rick, rồi cơ quan CIA. Bộ Tư pháp, phòng Công tố Hoa Kỳ, Sở Cảnh sát Hoa Kỳ cũng xen vào nữa. Còn với Ted, hầu hết thời gian đều không có ai xen vào các vụ án của ông ở Sở Cảnh sát San Francisco, trừ phi có nghi can nào vượt ranh giới của bang, hay là vi phạm luật liên bang, dĩ nhiên khi ấy FBI mới nhảy vào.

    Thỉnh thoảng ông và Rick vẫn làm việc chung với nhau trong một vụ án và lúc nào Ted cũng thích thế.

    Trong suốt thời gian mười bốn năm từ khi Rick rời khỏi Sở Cảnh sát San Francisco, hai người vẫn chơi thân với nhau, vẫn kính trọng nhau. Rick Holmquist đã ly dị vợ trước đây năm năm, nhưng cuộc hôn nhân của Ted với Shirley không hề gặp sóng gió. Dù họ bất đồng nhau về quan điểm gì, hay tình vợ chồng bớt mặn nồng, thì hôn nhân của họ vẫn bền vững. Rick hiện đang yêu một cô nhân viên FBI trẻ, ông đang tính đến chuyện lấy vợ lại, Ted thích trêu chọc bạn về chuyện này. Rick thích giả vờ mình là người cứng rắn, nhưng Ted biết ông ta là người rất dịu dàng.

    Điều khiến cho Ted thích làm ca đêm nhất, là mỗi khi về nhà, ông được hưởng cảnh yên tĩnh trong nhà. Khi ấy ngôi nhà yên lặng, Shirley đã ngủ. Bà làm việc ban ngày và trước khi ông thức dậy vào buổi sáng thì bà đã đi làm rồi. Ngày xưa, khi con họ còn nhỏ, việc này rất tiện lợi cho họ. Trong khi Ted còn ngủ, bà đi làm và chở con đến trường luôn. Còn ông thì đi đón chúng và trong những ngày ông nghỉ việc, ông dạy cho chúng chơi thể thao vào bất cứ khi nào ông có thể dạy được, hay ít ra đến dự các trận đấu của chúng. Khi ông đi làm thì Shirley ở nhà vì thế các con họ luôn luôn có bố mẹ chăm sóc. Khi ông về nhà, mọi người đều đi ngủ hết. Nghĩa là ông ít khi gặp vợ hay các con trong thời gian chúng trưởng thành, nhưng việc này đã mang đến điều lợi là họ không cần tốn tiền thuê người giữ trẻ và khỏi lo việc chăm sóc con trong ngày. Hai người đã cố nhường nhịn nhau để sống. Trong thời gian họ không ở với nhau, cuộc sống của họ rất buồn. Có một thời gian, cách đây mươi mười lăm năm, bà rất tức chuyện này và cuối cùng họ thỏa thuận với nhau về giờ giấc làm việc của ông. Cả hai người cố làm việc vào ban ngày một thời gian, nhưng họ hình như cãi nhau nhiều hơn, rồi ông làm việc vào ban đêm một thời gian và trở lại làm việc ca đêm. Làm ca đêm phù hợp với ông hơn.

    Đêm đó khi Ted về nhà, Shirley đang ngủ say, ngôi nhà yên lặng. Bây giờ phòng của các cậu con đều bỏ không. Cách đây mấy năm, ông đã mua ngôi nhà nhỏ ở quận Sunset, vào những ngày nghỉ, ông thích đi bộ trên bãi biển, ngắm sương mù phủ xuống khắp nơi. Đi bộ ngắm cảnh như thế làm cho ông cảm thấy nhẹ người, thanh thản sau một vụ án gay go, hoặc sau một tuần vật lộn với công việc, hay sau chuyện gì đó làm cho ông chán nản. Trong Sở Cảnh sát đã diễn ra nhiều trò chính trị, việc này thỉnh thoảng làm cho ông căng thẳng thần kinh, nhưng thường thì ông là người có bản chất tốt, dễ chịu. Có lẽ nhờ thế mà ông vẫn sống chung được với Shirley. Trong nhà, bà là người nóng nảy, hay nổi giận to tiếng với ông, bà thường cho rằng lẽ ra cuộc hôn nhân của họ, mối liên hệ của họ phải tốt đẹp, suôn sẻ hơn thế này. Ted mạnh mẽ, bình tĩnh, kiên trì và nhiều lúc thấy chồng như thế, bà nghĩ rằng thế cũng đủ rồi, bèn thôi không đòi hỏi gì ông nhiều hơn nữa. Nhưng ông nghĩ là khi bà thôi không cãi cọ với ông nữa, không mè nheo với ông nữa, tình vợ chồng có giảm đi phần nào. Họ từ bỏ một vài thứ đáng quý như sự thân mật hay sự đối xử với nhau một cách tự nhiên. Nhưng như Ted đã biết, mọi việc ở đời là sự thỏa hiệp, ông không phàn nàn gì hết, bà là người tốt, họ có con khôn lớn, có nhà cửa khang trang, ông thích công việc của mình, những người cùng làm việc với ông đều tốt. Ông không thể đòi hỏi gì nhiều hơn thế, dĩ nhiên là không, chính vì thế mà bà càng giận ông thêm. Ông bằng lòng sống với những gì mà cuộc đời đã đem lại cho ông, không đòi hỏi thêm gì hơn.

    Shirley thì muốn nhiều hơn những gì mà Ted đòi hỏi ở cuộc đời. Thực ra, ông không đòi hỏi gì hết. Ông bằng lòng với cuộc sống trước mắt, lúc nào cũng thế. Ông chỉ dành hết sức mình vào công việc và lo cho con cái thôi. Điều đó đã diễn ra suốt hai mươi tám năm qua. Đấy là thời gian dài, ông không ham sống cách khác với cuộc sống cũ. Sống khác đi chẳng được cái gì cho họ. Ông yêu vợ, vấn đề này quá rõ ràng. Và ông nghĩ Shirley cũng yêu ông. Bà không để lộ tình cảm ấy một cách lộ liễu và hiếm khi nói ra thành lời. Nhưng ông chấp nhận phong cách của bà, chấp nhận mọi việc diễn ra trong cuộc sống, cái tốt với cái xấu, sự thất vọng với sự thoải mái. Ông thích cảnh mỗi đêm được về nhà an toàn với bà, cho dù bà đã ngủ say. Họ không nói chuyện với nhau nhiều tháng rồi, có lẽ nhiều năm cũng nên, nhưng ông biết nếu có điều gì không hay xảy ra, bà sẽ ở đấy đợi ông và ông sẽ về với bà. Ted không cần sự kích thích trong đời. Ông chỉ muốn những gì ông có, công việc ông thích, người đàn bà ông hiểu rõ, ba đứa con ông thương yêu và sự bình an.

    Ông ngồi nơi bàn bếp, uống tách trà, thưởng thức cảnh tĩnh lặng trong ngôi nhà an bình, ông đọc báo, xem thư từ, xem truyền hình một lát. Đến hai giờ rưỡi, ông chui vào giường nằm bên cạnh bà, suy nghĩ trong bóng tối. Bà không nhúc nhích, không biết ông đang nằm bên cạnh. Thực ra, khi ông quay lưng về phía bà, vừa nghĩ đến vụ án đang giải quyết vừa cố dỗ giấc ngủ, bà lăn người ra khỏi ông, miệng lẩm bẩm nói gì đó trong giấc ngủ. Ông có kẻ nghi can mà ông tin chắc là hắn sẽ đem heroin từ Mexico vào và sáng mai ông sẽ gọi Rick Holmquist để nói chuyện này. Khi nhắc mình nhớ gọi Rick vào sáng mai, ông thở dài nho nhỏ, rồi bắt đầu thiu thiu ngủ.

    Last edited by giavui; 09-07-2020 at 03:01 PM.

  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 3
    Fernanda Barnes ngồi nơi bàn trong bếp, mắt nhìn đăm đăm vào chồng hóa đơn. Bà cảm thấy như thể bà đang nhìn vào chồng hóa đơn mà bà đã nhìn cách đây bốn tháng từ khi chồng bà mất, hai tuần sau lễ Giáng sinh. Nhưng bà biết rất rõ rằng, tuy bà thấy chồng hóa đơn có vẻ giống như trước, nhưng thực ra ngày nào nó cũng cao thêm lên. Mãi khi thư từ đến là có thêm hóa đơn. Từ khi Allan qua đời, bà thấy tin xấu đáng sợ cứ ùn ùn kéo đến cho bà. Tin xấu mới nhất là công ty bảo hiểm không chịu trả tiền bảo hiểm nhân mạng cho chồng bà. Bà và vị luật sư của bà đã chờ đợi đón nhận tin ấy. Chồng bà chết một cách đáng ngờ trong chuyến đi câu cá ở Mexico. Trong khi các bạn đồng hành của ông đang ngủ trong khách sạn, thì ông lấy thuyền ra biển một mình lúc đêm khuya. Khi ông lấy thuyền thì nhân viên trên thuyền đều lên bờ vào trong quán rượu và ông đã rơi ra khỏi thuyền. Năm ngày sau người ta mới tìm thấy xác của ông. Căn cứ vào tình hình tài chính của ông lúc ông mất và vào bức thư thê thảm mà ông đã gửi cho vợ, bức thư đầy tuyệt vọng, nên công ty bảo hiểm nghi rằng đây là một vụ tự tử. Fernanda cũng nghi như thế. Bức thư đã được cảnh sát giao cho công ty bảo hiểm.

    Fernanda không xác nhận chuyện này với ai, ngoại trừ với vị luật sư của họ, Jack Waterman, nhưng khi họ gọi báo tin cho bà, bà nghĩ ngay đây là vụ tự tử. Trước đó, Allan đã ở trong trạng thái hoảng hốt lo sợ suốt sáu tháng và luôn luôn nói với bà rằng ông sẽ qua khỏi tình trạng đáng lo ấy, nhưng khi đọc bức thư, bà mới thấy ông không tin vào việc ấy. Allan Barnes đã gặp một chuyện rất may vào lúc kỹ nghệ máy tính đạt đỉnh cao, xem như ông đã trúng số độc đắc, như được của trời cho. Ông bán công ty mới thành hình của mình cho một tập đoàn lớn với giá hai trăm triệu đô-la. Bà thích đời sống êm ả trước đó. Cuộc sống trước khi ông trở nên giàu có rất phù hợp vội bà. Họ có ngôi nhà nho nhỏ xinh xinh ở trong một khu vực an lành tại Palo Alto, gần khuôn viên Đại học Stanford vào hôm sau ngày tốt nghiệp. Mười ba năm sau, ông làm nên sự nghiệp lớn. Chưa bao giờ bà nghĩ đến chuyện họ giàu to như vậy, chưa bao giờ bà hy vọng, cần hay muốn giàu to như thế. Mới đầu bà không hiểu nổi chuyện này. Bỗng nhiên ông mua du thuyền, máy bay, mua một hợp tác xã ở New York để làm chỗ họp hành về chuyện làm ăn và mua một ngôi nhà ở London, ông nói ông đã muốn có nhà ở đấy từ lâu. Ông còn mua căn hộ có nhiều phòng ở Hawaii, mua một ngôi nhà ở thành phố rất rộng, đến nỗi khi thấy lần đầu tiên, bà đã khóc. Ông đã mua ngôi nhà ấy mà không hỏi ý kiến bà. Bà không muốn dọn đến ở trong một lâu đài. Bà thích ngôi nhà ở Palo Alto, nơi họ đã sống từ khi cậu con trai Will của họ ra đời.

    Mặc dù Fernanda chống đối, nhưng họ vẫn dọn nhà đến thành phố cách đây bốn năm, khi Will được mười hai tuổi. Ashley lên tám, và Sam mới hai tuổi. Allan nhất quyết đòi bà phải thuê một chị vú để bà có thể đi du lịch với ông, việc mà Fernanda không muốn. Bà thích tự mình chăm sóc con cái. Bà không làm việc gì, may sao Allan làm đủ tiền để nuôi gia đình. Cuộc sống thỉnh thoảng gặp lúc ngặt nghèo, nhưng mỗi khi như thế, bà sống thắt lưng buộc bụng, nên họ qua khỏi những giây phút túng thiếu ấy. Bà thích ở nhà với các con. Will ra đời đúng chín tháng sau ngày họ cưới nhau, bà làm việc ngoài giờ tại một tiệm sách trong khi có thai đứa con đầu lòng và từ đó bà không làm việc gì nữa. Bà học môn lịch sử hội họa thêm để lấy bằng thạc sĩ hay tiến sĩ, mới mong đi dạy hay làm việc ở viện bảo tàng. Ngoài việc này, bà không có tài buôn bán. Bà chỉ giỏi một việc là làm vợ, làm mẹ. Con cái của bà được hạnh phúc, khỏe mạnh và thông minh. Dù khi Ashley đã mười hai và Will mười sáu tuổi, cái tuổi có khả năng gây nên lắm chuyện rắc rối, nhưng bà vẫn không có gì rắc rối với các con. Các con bà cũng không muốn đến ở thành phố. Tất cả bạn bè của ho đều ở tại Palo Alto.

    Ngôi nhà mà Allan mua cho gia đình ở rất lớn. Nhà được một nhà tư sản mại bản danh tiếng xây cất, ông ta bán lại khi về hưu để đi châu Âu. Nhưng Fernanda thấy ngôi nhà lớn như một lâu đài. Bà đã lớn lên trong khu ngoại ô của Chicago, bố bà làm bác sĩ, còn mẹ là giáo viên. Họ sống thoải mái, và không giống Allan, bà chỉ có những niềm ước mơ đơn giản. Bà chỉ muốn lấy người nào yêu mình, muốn có những đứa con kháu khỉnh dễ thương. Bà bỏ nhiều thì giờ để đọc những tài liệu nói về phương pháp giáo dục thực nghiệm, bà say mê môn tâm lý học có liên quan đến việc nuôi dạy con và chia sẻ đam mê về hội họa của mình với con. Bà khuyến khích con ham thích hội họa và theo đuổi môn học mình thích. Bà cũng luôn luôn khuyến khích Allan như thế. Bà không ngờ ông đã cố những ước mơ vượt quá giới hạn sự mong đợi của bà.

    Khi nghe nói ông bán công ty của mình được hai trăm triệu đô-la, bà gần ngất xỉu, cứ tưởng ông nói đùa. Bà cười ông, cứ nghĩ có lẽ may mắn lắm ông bán được một, hai, hay năm triệu, hay là ngáp phải ruồi cũng đến mười triệu là cùng, chứ không thể đến hai trăm triệu. Bà chỉ muốn có đủ tiền để cho con theo học đại học và sống thoải mái cho hết những ngày còn lại của hai vợ chồng thôi. Bà chỉ muốn đủ tiền để Allan có thể về hưu sớm hơn, để hai vợ chồng có thể đi du lịch một năm ở châu Âu, bà có thể dẫn ông đi xem các viện bảo tàng. Bà thích đến chơi ở Florence một hay hai tháng. Nhưng của trời cho này quá lớn ngoài sự mơ ước của bà. Và Allan đã hăm hở tận dụng vận may này một cách quá đáng.

    Không những ông mua nhà, mua hợp tác xã, du thuyền và máy bay, mà còn đầu tư vào ngành kỹ nghệ cao hết sức liều lĩnh. Mỗi lần làm thế, ông cam đoan với bà rằng ông làm công việc này đứng đắn. Ông cưỡi trên đầu ngọn sóng và nghĩ là mình vô địch. Ông tin vào phán đoán của mình đến một ngàn phần trăm. Hai vợ chồng bắt đầu cãi nhau về việc này. Ông cười bà vì bà quá lo sợ. Ông vung tiền vào những công ty chưa có dấu hiệu phát triển, trong khi giá cả thị trường tăng vùn vụt, và bất cứ thứ gì ông đụng tay vào, đều đã biến thành vàng chỉ trong vòng gần ba năm. Hình như bất cứ thứ gì ông làm, hay thứ gì ông phiêu lưu đầu tư vào, ông cũng không mất tiền. Theo sổ sách thì vào năm đầu hay hai năm đầu, gia sản mới kếch sù của họ đã tăng gấp đôi. Ông đã đầu tư vào hai công ty mà ông tin tưởng với số tiền lớn đáng kể, nhiều người cảnh báo ông rằng, hai công ty này có thể sẽ phá sản, nhưng ông không nghe, không nghe bà và nhiều người khác. Niềm tin của ông dâng cao đến độ chóng mặt, trong khi đó bà trang hoàng nhà mới và ông mắng bà vì quá bi quan, quá thận trọng. Khi ấy, dù bà đã quen với cảnh giàu sang, đã bắt đầu tiêu tiền nhiều hơn trước, nhưng Allan vẫn nói bà nên hưởng thụ cuộc đời và đừng lo lắng. Bà sửng sốt khi thấy mình mua hai bức tranh ấn tượng đắt tiền tại cuộc bán đấu giá của cửa hàng Christie ở New York và run cả người khi treo lên trong phòng khách. Bà không bao giờ nghĩ rằng có ngày bà lại làm chủ hai bức tranh ấy. Ông đang bay cao, đang hưng phấn, ông muốn bà cùng vui sống như thế.

    Nhưng dù đang làm ăn phát đạt, Fernanda cũng không phung phí, không quên thời gian sống đơn giản của mình trước đây. Gia đình của Allan xuất phát từ nam California, họ có cuộc sống sung túc hơn gia đình bà rất nhiều. Bố ông là thương gia, mẹ ông nội trợ? khi còn trẻ bà làm người mẫu. Họ có xe hơi đắt tiền, có nhà đẹp, tham gia câu lạc bộ trong xứ. Lần đầu tiên đến nhà Allan, bà rất ấn tượng, nhưng bà nghĩ bố mẹ ông có vẻ muốn phô trương bề ngoài. Vào một đêm đẹp trời mà mẹ ông cũng mặc áo khoác lông thú, khiến bà nghĩ đến mẹ bà. Ngay khi sống trong mùa đông lạnh giá của miền Trung Tây, mẹ bà cũng không có áo lông thú và không muốn mặc áo ấy. Allan muốn phô trương sự giàu sang hơn bà, cho dù ông làm giàu nhờ may mắn chứ không phải do tài năng và chỉ mới giàu trong thời gian ngắn. Ông chỉ ân hận một điều là bố mẹ ông không còn sống để chứng kiến cảnh giàu sang của ông. Ông nghĩ sự thành công của ông sẽ làm cho bố mẹ ông nở mặt nở mày với thiên hạ. Còn Fernanda thì mừng vì bố mẹ đã chết, không thể thấy được cảnh này. Họ đã chết vì tai nạn xe hơi vào một đêm băng giá cách đây mười năm. Nhưng bà luôn luôn có cảm giác rằng bố mẹ bà sẽ hết sức kinh ngạc khi thấy cách Allan tiêu tiền và bà vẫn thấy lòng xao xuyến mãi ngay sau khi mua hai bức tranh. Ít ra mua hai bức tranh cũng là cách đầu tư, hay bà hy vọng như thế. Thực ra bà thích hai bức tranh. Nhưng phần nhiều những thứ mà Allan mua là vì lý do muốn khoa trương mà thôi. Và khi ông để bà mua hai bức tranh, ông cũng muốn khoa trương.

    Cuộc sống sang trọng của họ tiếp diễn gần ba năm, Allan tiếp tục đầu tư vào những công ty phiêu lưu khác, đổ tiền rất lớn vào những công ty công nghệ cao có nhiều mạo hiểm, ông rất tin vào trực giác của mình, nhưng thỉnh thoảng niềm tin ấy xem ra không hợp lý chút nào. Bạn bè và đồng nghiệp của ông trong giới máy tính gọi ông là tên Cao Bồi Điên, họ trêu ông về việc này. Rất thường khi, Fernanda cảm thấy mình có tội vì không giúp chồng được gì nhiều. Khi ông còn nhỏ, ông thiếu niềm tin, bố ông thường chê ông không mạnh dạn. Bây giờ ông tin rằng bà cảm thấy ông thường xuyên đang đứng cheo leo trên bờ đá và không hề tỏ ra sợ sệt chút nào. Nhưng tình yêu của chồng đã làm bà quên hết mọi nghi ngờ của mình và cuối cùng bà đành phải động viên ông, hoan hô ông ở ngoài đường biên. Có lẽ bà không thấy có gì phải phàn nàn về chuyện này. Trong vòng ba năm mà gia sản của họ tăng gắp ba lần và ông có trong tay nửa tỷ đô-la. Đây là điều ngoài sức tưởng tượng của họ.

    Bà và Allan luôn luôn sống hạnh phúc với nhau, ngay cả trước khi họ giàu có. Ông là người dễ mến, dịu dàng, thương yêu vợ con. Mỗi lần bà sinh con là họ vui sướng vô cùng, và ông rất mực thương chúng, cũng như bà vậy. Ông rất tự hào về Will, vì cậu có tài thể thao bẩm sinh. Lần đầu tiên ông xem Ashley trình diễn vũ ba lê vào lúc cô bé năm tuổi, ông đã khóc ròng, ông là người chồng người cha tuyệt vời và khả năng biến việc đầu tư nhỏ thành số vốn khổng lồ làm cho các con họ có cơ hội thể hiện hết năng khiếu của minh, cơ hội mà không có ai trong họ mơ tưởng tới. Ông đang tính chuyện sang London một năm vào lúc nào thuận tiện, để cho các con có thể đi học ở châu Âu, Fernanda mỗi lần nghĩ đến chuyện sẽ đi suốt ngày thâm Viện bảo tàng Anh Quốc và Viện bảo tàng Tate là bà náo nức, say sưa. Cũng vì thế mà bà không phàn nàn khi ông mua ngôi nhà ở Belgrave Square với giá hai mươi triệu đô-la. Đây là cái giá cao nhất trong lịch sử buôn bán nhà từ trước tới nay, nhưng chắc có lẽ ngôi nhà đẹp lắm.

    Khi trường nghỉ hè, các đứa bé không phản đối việc đi nghỉ một tháng ở bên Anh và bà cũng không. Họ thích thăm viếng London. Thời gian còn lại trong hè, họ đi chơi trên du thuyền ở miền Nam nước Pháp, mời một số bạn bè ở Silicon Valley đến nghỉ với họ, Allan đã trở thành nhân vật huyền thoại. Có nhiều người khác làm ra nhiều tiền gần như ông, nhưng họ như những kẻ đánh bạc ở Las Vegas, một số thắng rồi không đánh nữa, trong khi những người khác đặt tiền lên bàn, tiếp tục đánh nữa. Allan tiếp tục kinh doanh, ông đầu tư những số vốn khổng lồ. Bà không hiểu rõ những việc ông làm. Bà chỉ có việc coi sóc nhà cửa, chăm nom con cái và không ngớt lo âu về việc ông đầu tư gì. Bà tự hỏi, không biết những người; giàu có thường lo sợ như thế này không. Phải mất ba năm bà mới cảm thấy yên tâm khi giấc mộng làm giàu của ông có vẻ đã thành sự thật.

    Ba năm sau ngày may mắn từ trên trời xuống, cái bong bóng vỡ tan tành. Vụ thất bại đầu tiên có liên quan đến một trong những công ty mà ông đã đầu tư vào rất nhiều với tư cách có phần hùn nặc danh. Không ai biết ông đã đầu tư bao nhiêu, nhưng ông mất tiêu hơn một trăm triệu đô-la. Kỳ diệu thay là khi ấy số tiền này so với gia sản của ông chẳng nghĩa lý gì. Fernanda đọc báo thấy công ty vỡ nợ, bà nhớ có nghe ông nói đến công ty này, bèn hỏi ông, nhưng nói bà đừng lo. Theo ông thì đối với họ một trăm triệu chẳng nghĩa lý gì. Gia sản của ông vẫn còn gần một tỷ đô-la. Ông không nói cho bà biết, nhưng ông đã vay tiền để mua số cổ phiếu đang lạm phát lúc ấy và khi cổ phiếu mất giá, ông không bán kịp đủ để trang trải nợ nần. Ông gây dựng tài sản bằng cách vay mượn để mua thêm tài sản.

    Vụ thất bại thứ hai nặng hơn vụ đầu, gần gấp hai số tiền lần đầu. Và sau vụ thất bại thứ ba khi việc làm ăn tụt dốc. Allan bắt đầu có vẻ lo sợ. Số cổ phiếu ông vay tiền để mua, bỗng không có giá trị gì hết, ông chỉ còn lại nợ nần thôi. Chuyện xảy ra sau đó là sự phá sản hết sức nặng nề, đến nỗi toàn bộ tiền bạc trong ngành kỹ nghệ máy tính đều mất hết. Chỉ trong vòng sáu tháng, tất cả sự nghiệp của Allan đều tan thành mây khói, các cổ phiếu có giá trị đến hai trăm đô-la bây giờ không đáng giá một đồng xu. Nói trắng ra, tương lai gia đình Barnes đang đứng trên bờ vực hiểm nghèo.

    Cay đắng trước hiện trạng này, ông bán du thuyền và máy bay, ông cam đoan với Fernanda và với chính mình rằng ông sẽ mua lại các thứ ấy, hay mua lại những chiếc đẹp hơn thế trong vòng một năm, khi công việc làm ăn phát tài trở lại, nhưng dĩ nhiên sẽ không có chuyện này. Không những ông mất hết những gì mình có, mà số tiền đầu tư của ông cũng thua lỗ nặng, khiến ông mắc nợ rất nhiều, trong khi đó vốn đầu tư mạo hiểm của ông sụp đổ như ngôi nhà bằng giấy. Đến cuối năm, ông thấy số nợ lớn bằng số tài sản trời cho của ông. Và cũng như lần đầu tiên ông gặp may mắn có của từ trên trời rơi xuống, Fernanda hoàn toàn không hay biết chuyện gì sẽ xảy ra, vì ông không nói gì với bà hết. Ông luôn luôn căng thăng, lúc nào cũng nói chuyện trên điện thoại, đi từ nơi này đến nới khác và khi về nhà thì to tiếng với bà. Bỗng nhiên ông như người điên. Ông hoàn toàn hoảng hốt, việc này cũng có lý do của nó.

    Trước Giáng sinh năm ngoái, bà chỉ biết một điều là ông mắc nợ nhiều trăm triệu và tất cả cổ phiếu của ông đều không có giá trị gì. Bà biết như thế, nhưng không biết ông sẽ làm gì để trả nợ, không biết tình hình sẽ trở nên bi quan như thế nào. Kỳ lạ thay ông đầu tư nhiều phần hùn vào những cái tên không ai biết, trong những xí nghiệp loại “hộp thư”, những xí nghiệp này được thành lập mà không công bố tên của ông. Vì thế, giới kinh doanh làm ăn với ông không ai biết hoàn cảnh nguy ngập của ông và ông không muốn ai biết. Ông bắt đầu cảm thấy như thể mùi hôi của sự thất bại đang bao quanh ông, giống như hương thơm chiến thắng đã phảng phất quanh ông trước đây. Không khí quanh ông bỗng đầy sự lo sợ, Fernanda âm thầm hoảng hốt, bà muốn động viên ông về mặt tình cảm, nhưng lại ngại chuyện không hay sẽ xảy ra cho họ và cho con cái họ. Khi ông rời nhà đi Mexico sau lễ Giáng sinh, bà giục ông bán ngôi nhà ở London, bán hợp tác xã ở New York và căn hộ nhiều phòng ở Hawaii, ông đến đấy để làm giao kèo với một nhóm người, ông nói với bà rằng nếu công việc làm ăn suôn sẻ, ông sẽ thu lại gần số tiền đã mất. Trước khi ông đi, bà đề nghị bán ngôi nhà ở thành phố và dọn về Palo Alto lại, ông nói bà rất kỳ cục, ông bảo đảm với bà rằng mọi việc sẽ trở lại như cũ rất nhanh và khuyên bà đừng sợ. Nhưng sự giao kèo làm ăn ở Mexico không xảy ra.

    Ông đến đó được hai ngày thì bỗng một tai họa khác trong việc kinh doanh của ông xảy ra. Ba công ty chính sụp đổ như những chiếc lều tranh ọp ẹp trong vòng một tuần, mang theo hai số tiền đầu tư lớn nhất của Allan. Nói tóm lại họ bị phá sản. Một buổi tối vào lúc đêm khuya, ông từ khách sạn gọi về cho bà, giọng ông nghe khàn khàn. Ông đã thương lượng suốt nhiều giờ, nhưng không thành công. Ông không còn gì nữa để thương lượng, hay buôn bán. Bà nghe ông bắt đầu khóc, nên cam đoan với ông rằng bà không thay lòng đổi dạ vì chuyện này, mà vẫn yêu ông. Nhưng bà nói gì cũng không khuyên giải ông được. Đối với Allan, chỉ có sự thất bại và chiến thắng, leo lên đỉnh Everest và rơi xuống lại, rồi bắt đầu leo lại. Ông đã đúng bốn mươi tuổi vào tuần trước, sự thành công rực rỡ trong bốn năm qua của ông bỗng tan biến hết. Theo ông thì ông hoàn toàn thất bại. Bà nói gì cũng không an ủi được ông. Bà nói bà không quan tâm đến chuyện này, chuyện thất bại không thành vấn đề đối với bà. Bà nói rằng bà sẽ rất sung sướng khi được sống với ông trong túp lều tranh, miễn hai người có nhau và có con cái là được. Bên kia đầu dây, ông khóc ròng, ông nói cuộc đời bây giờ không đáng sống nữa. Ông nói ông sẽ là trò cười cho thiên hạ và bây giờ số tiền duy nhất ông có là tiền bảo hiểm nhân mạng. Bà nhắc ông nhớ rằng họ vẫn còn nhiều ngôi nhà để bán và nếu bán hết họ cũng sẽ có gần một trăm triệu đô-la.

    - Em có biết chúng ta nợ như thế nào không? - Ông hỏi, giọng thổn thức và dĩ nhiên bà không biết, vì ông không nói cho bà biết - Chúng ta nợ đến hàng trăm triệu. Chúng ta bán hết cũng không đủ trả nợ, mà phải trả đến hai mươi năm nữa mới mong hết. Anh không biết có thoát ra khỏi việc này được không. Chúng ta nợ quá nhiều, em à. Hết thật rồi. - Bà không thấy nước mắt chảy xuống hai má ông, nhưng bà có thể nghe giọng ông đầy nước mắt. Bà không hiểu hết chuyện này, không biết ông đã đem tiền bạc đầu tư vào những nơi nguy hiểm, đã dùng hết tài sản của mình và vay mượn để đầu tư, bây giờ thì mất hết. Thực vậy, ông đã trắng tay và nợ lút đầu.

    - Không, không hết - Bà cương quyết nói - Anh có thể tuyên bố phá sản. Em sẽ kiếm việc làm. Chúng ta bán hết để trả nợ. Có sao đâu! Em không cần những thứ này. Nếu phải đứng ở góc đường để bán bút chì em cũng chịu được, miễn là chúng ta có nhau. - Lời nói dịu dàng, thái độ đứng đắn, nhưng ông quá đờ đẫn không nghe được lời bà.

    Khuya đêm đó bà gọi cho ông để nói cho ông an tâm, bà lo lắng cho ông. Bà không thích điều ông nói về việc bảo hiểm nhân mạng, bà hoảng sợ về bản thân ông hơn cả chuyện về tình hình tài chính của họ. Bà biết đàn ông thường làm những việc điên rồ vì tiền thua bạc lỗ, hay công việc làm ăn thất bại. Toàn bộ cái tôi của ông được gói gọn trong tài sản của ông. Và khi bà nghe ông trả lời trên điện thoại, bà biết ông đang uống rượu. Có vẻ uống rất nhiều. Lưỡi ông líu lại và ông cứ nói mãi rằng đời ông thế là hết. Bà rất lo, đến nỗi bà định hôm sau sẽ đáp máy bay đi Mexico để gặp ông trong khi ông đang thương thảo, nhưng sáng mai trước khi bà chuẩn bị đi thì một người ở đấy đã gọi về cho bà. Giọng ông ta ấp úng, nghẹn ngào. Ông ta chỉ biết chuyện Allan lấy chiếc thuyền hộ thuê để đi một mình sau khi tất cả mọi người đã đi ngủ. Thủy thủ đoàn đã lên bờ hết và ông tự mình lái thuyền đi vào lúc đêm khuya. Tất cả mọi người đều nghĩ rầng, chắc ông rơi ra khỏi thuyên vào lúc nào đó trước khi trời sáng. Khi thuyền trưởng báo cáo thuyền mất, đội tuần duyên tìm thấy chiếc du thuyền, nhưng không tìm thấy Allan ở đâu hết. Người ta đã mở cuộc tìm kiếm khắp nơi nhưng chẳng thấy gì.

    Chuyện còn tệ hại hơn nữa là khi bà đến Mexico vào xế chiều hôm đó, cảnh sát đưa cho bà bức thư ông để lại. Họ đã photo lá thư để làm tài liệu. Bức thư nói rằng tình hình hoàn toàn vô vọng, ông không thể vươn lên được nữa, cuộc đời đối với ông đã hết, ông thà chết còn hơn đương đầu với sự khủng khiếp, sự nhục nhã khi mọi người nhận ra ông là điên rồ, ông đã làm chuyện hết sức bê bối. Bức thư thật tai hại, đọc bức thư bà nghĩ ngay là ông đã tự tử. Hay có thể ông say và rơi ra khỏi thuyền. Không có cách nào biết chắc được. Nhưng rất có khả năng là ông tự tử.

    Cảnh sát đưa lá thư cho công ty bảo hiểm, vì họ phải làm như thế. Căn cứ vào lời lẽ trong thư, công ty từ chối không chịu trả tiền bảo hiểm cho thân chủ và luật sư của Fernanda nói rằng có lẽ bà không nhận được tiền này. Chứng cứ trong thư thật tai hại.

    Khi họ tìm thấy xác Allan, họ nghĩ là ông bị chết đuối. Không có bằng chứng gì cho thấy ông bị hành hung, ông không tự bắn vào mình, hoặc là nhảy xuống nước hay té khỏi thuyền, nhưng xét cho kỹ tình hình của ông lúc ấy, thì chắc ông muốn chết căn cứ vào những gì ông đã nói với vợ trước đó và những lời ông viết trong thư để lại cho bà.

    Fernanda ở lại Mexico trong thời gian người ta tìm xác ông. Xác được một cơn bão nhỏ đánh tấp vào bờ gần đấy. Cảnh tượng trông thật khủng khiếp và đau lòng, bà mừng là không có các con ở đó để chứng kiến cảnh này. Mặc cho chúng phản đối, bà để chúng ở lại California, đi một mình đến Mexico. Một tuần sau, sau những thủ tục giấy tờ rườm rà, bà trở về, thành góa phụ, với thi hài của Allan trong áo quan trên máy bay chở hàng.

    Đám tang diễn ra rất đau đớn, báo chí nói rằng ông chết vì tai nạn khi đi thuyền ở Mexico và mọi người đều bằng lòng nói như thế. Những người làm ăn với ông không ai biết hoàn cảnh ông rất bi đát, còn cảnh sát thì giữ kín nội dung bức thư không cho báo chí biết. Không ai biết ông bị phá sản, không ai biết tinh thần ông xuống thấp đến độ quá bi quan như thế. Không ai ngoài bà và vị luật sư của ông biết rõ tình hình tài chính của ông đang lâm cảnh nguy ngập.

    Ngoài chuyện bị phá sản, ông còn nợ nhiều nơi khiến bà phải mất nhiều năm mới thanh toán hết. Trong bốn tháng từ khi ông mất, bà bán hết của cải, ngoại trừ ngôi nhà ở thành phố, ngôi nhà cũng liên quan đến tài sản của ông. Nhưng khi nào người ta buộc bà trả nợ, bà cũng phải bán. Rất may là những tài sản khác của họ đều đứng tên bà như là quà ông tặng vợ, nên bà có thể bán chúng được. Bà còn thiếu tiền thuế rất nhiều, không chóng thì chầy cũng phải trả. Còn hai bức tranh ấn tượng đã gửi đi bán đấu giá ở New York vào tháng Sáu. Bà bán những thứ của riêng, hay có kế hoạch như thế. Jack Waterman, luật sư của họ, nói với bà rằng nếu bà thanh toán hết các thứ, kể cả việc bán nhà để trả nợ, thì bà sẽ không còn một đồng xu. Phần lớn nợ của Allan đều dính đến những hoạt động của xí nghiệp và Jack sẽ tuyên bố phá sản, nhưng không ai biết những phạm vi hoạt động khác của Allan bị suy sụp, bà cố giữ kín chuyện này vì kính trọng ông. Ngay cả các con họ cũng chưa biết hết chuyện xảy ra. Vào một buổi chiều trời nắng tháng Năm sau ngày ông mất đã bốn tháng, bà vẫn còn cố tìm hiểu chuyện này khi ngồi trong bếp cảm thấy tâm trí ngẩn ngơ, bàng hoàng.

    Trong hai mươi phút nữa, bà sẽ đi đón Ashley và Sam ở trường, ngày nào bà cũng làm việc này. Will thường lái xe đi học, trước đây sáu tháng bố cậu đã cho cậu chiếc BMW nhân ngày sinh nhật thứ mười sáu của cậu. Sự thực thì với số tiền còn lại Fernanda không đủ để nuôi các con, bà rất nóng lòng muốn bán ngôi nhà để trả thêm nợ hay để có chút ít tiền chi tiêu. Bà nghĩ, chắc thế nào bà cũng tìm việc để làm trong thời gian gần đây, có lẽ xin làm trong viện bảo tàng. Toàn bộ cuộc sống của họ thay đổi hết, bà không biết nói sao với các con. Chúng biết công ty bảo hiểm không chịu trả tiền và bà nói tài sản của bố chúng hiện đang đợi tòa án chứng thực, nên tạm thời tình hình rất khó khăn. Nhưng cả ba đứa con không ai biết rằng trước khi bố chết, ông đã mất hết toàn bộ tài sản, chúng cũng không biết lý do công ty bảo hiếm không trả tiền là vì họ nghĩ ông tự tử. Mọi người đều được cho biết rằng đây là vụ tai nạn. Những người đã từng làm việc với ông, không biết về lá thư và hoàn cảnh của ông, đều tin đây là tai nạn. Chỉ có bà, luật sư của bà và nhà cầm quyền mới biết chuyện đã xảy ra như thế nào.

    Đêm nào nằm ngủ bà cũng nghĩ đến câu chuyện cuối cùng họ đã nói với nhau, câu chuyện cứ tái diễn mãi trong đầu bà. Bà chỉ nghĩ đến câu chuyện ấy, bà nghĩ bà sẽ trách mình mãi vì đã không đi Mexico sớm hơn. Bà cứ trách cứ mình có tội mãi, rồi những tờ hóa đơn cứ ùn ùn kéo đến làm cho bà vô cùng lo sợ, nợ nần do ông tạo ra quá nhiều, bà không biết lấy đâu ra để trả. Bốn tháng qua, bà lo sợ không thể nào tả nổi.

    Fernanda cảm thấy hoàn toàn cô lập vì những chuyện đã xảy ra cho bà, chỉ có một người duy nhất biết chuyện bà sắp gặp phải là luật sư của họ, Jack Waterman. Ông ta tốt bụng, hết lòng giúp đỡ bà và cư xử rất tuyệt vời, sáng đó họ thỏa thuận với nhau rằng ngôi nhà sẽ rao bán vào tháng Tám. Họ đã sống ở đây bốn năm rưỡi, bây giờ bọn trẻ thích ngôi nhà, nhưng bà không còn cách gì để khỏi bán nhà. Có lẽ bà phải yêu cầu ai đó giúp đỡ tài chính để cho con bà được tiếp tục học trong các trường tư tốt và bà chưa thể làm được việc đó. Bà vẫn còn cố giữ kín chuyện tài sản gia đình khánh kiệt. Bà cố làm thế vì thanh danh của Allan, để tránh mọi người khỏi kinh ngạc. Những người chủ nợ vẫn nghĩ là bà có tiền, nên họ để cho bà một thời gian rồi sẽ trả. Bà trách tòa án cứ kéo dài thời gian chứng thực di chúc và trách cơ quan thuế. Vì thời gian kéo dài, nên không ai biết chuyện này.

    Báo chí đã nói đến một vài công ty ông đầu tư bị phá sản. Nhưng may thay, không ai tổng hợp các chuyện tai hại đã xảy ra với nhau, hầu hết là vì trong nhiều trường hợp, quần chúng không biết ông là nhà đầu tư chính. Nhiều chuyện khủng khiếp đã ám ảnh Fernanda suốt ngày lẫn đêm, trong khi bà quá sức đau đớn vì mất chồng, và cố làm sao cho các con nguôi ngoai được nỗi sầu muộn về bố chúng. Bà rất sửng sốt, kinh hãi khi thấy mình khó mà đón những chuyện sẽ xảy ra cho mình.

    Tuần trước bà có đi khám bác sĩ, vì bà mất ngủ đã nhiều tháng rồi, bác sĩ đề nghị cho bà uống thuốc, nhưng bà không muốn. Fernanda muốn xem mình không uống thuốc có chịu đựng được không. Nhưng bà hoàn toàn kiệt sức và thất vọng khi cố kéo dài từng ngày để duy trì cuộc sống bình thường, chỉ để cho con thôi. Bà phải giải quyết những chuyện bê bối và cuối cùng tìm ra cách để nuôi con. Nhưng nhiều lúc, nhất là về đêm, bà quá lo sợ.

    Fernanda đang ngồi trong nhà bếp lát đá granite trắng rất đẹp, đưa mắt nhìn đồng hồ khổng lồ, thấy còn năm phút nữa là tan học, bà phải vội vã đi đón con. Bà lấy sợi dây thun buộc quanh chồng hóa đơn rồi ném chúng vào cái thùng bà cất các thứ cần thiết. Bà nhớ nhiều lần đã nghe ai đấy nói rằng người ta tức giận người mình thương yêu khi họ chết, nhưng bà chưa cảm thấy như thế. Bà chỉ mới khóc thôi và ước chi ông không điên cuồng làm ăn thành công quá nhanh như thế, để rồi phải hủy hoại mình và lôi theo gia đình vào cảnh khốn đốn. Nhưng bà không giận ông, mà chỉ buồn và kinh hoàng.

    Bà mặc quần jeans, áo thun tay cụt trắng, mang xăng-đan, thân hình nhỏ nhắn, yểu điệu. Bà vội đi ra cửa, cầm xách tay và chìa khóa xe. Mái tóc bà có màu vàng, dài, được bím lại thả sau lưng, mới nhìn qua, trông bà giống như con gái. Ashley mười hai tuổi, nhưng lớn nhanh, nên cô bé đã cao bằng mẹ.

    Bà vội vã đi ra cửa và khi vừa đóng cửa thì Will đang bước lên thềm nhà. Cậu ta cao, tóc đen, có thân hình lực lưỡng. Trông cậu như người lớn chứ không còn bé bỏng gì. Và cậu cô làm việc gì có thể làm được để giúp mẹ. Lúc nào bà cũng hoặc là khóc hoặc là buồn rầu và cậu lo cho mẹ, nhưng không để lộ ra ngoài. Bà dừng lại trên thềm một phút, nhón chân để hôn con. Cậu ta mười sáu tuổi, nhưng trông như mười tám hay hai mươi.

    - Mẹ khỏe chứ? - Cậu hỏi không hợp lúc. Đã bốn tháng nay bà không khỏe. Trong mắt bà lúc nào cũng có vẻ hoảng hốt, thất thần, cậu không thể làm gì cho hết được. Bà nhìn cậu và gật đầu.

    - Khỏe - Bà đáp, tránh mắt cậu - Mẹ đi đón Ashley và Sam. Khi về mẹ sẽ làm cho con cái bánh xăng uých. - Bà hứa.

    - Con có thể tự làm được rồi. - Cậu cười với mẹ - Tối nay con có trận đấu - Cậu chơi cả bóng lacrosse lẫn dã cầu, bà thích đi dự các trận đấu của cậu, thích đi xem cậu tập lẫn thi đấu. Nhưng gần đây khi đến trông bà có vẻ lơ đãng, cậu không biết bà có xem hay không.

    - Mẹ có muốn con đi đón chúng không? - Cậu đề nghị. Bây giờ cậu là đàn ông trong nhà. Chuyện gì xảy ra khiến cho cậu và tất cả đều bàng hoàng sửng sốt và cậu cố gắng hết sức để đóng vai trò của mình. Bây giờ cậu vẫn khó tin chuyện bố cậu đi luôn không bao giờ trở về nữa. Tất cả phải gắng hết sức mới thích nghi được chuyện này. Nhưng bây giờ trông mẹ cậu như là người nào khác, đôi lúc cậu lo về việc bà lái xe. Bà lái xe ngoài đường trong tình trạng như vậy rất nguy hiểm.

    - Me khỏe. - Bà cam đoan với cậu như mọi lần trước, không đủ sức thuyết phục cả cậu lẫn bà, nhưng bà vẫn đi đến chiếc xe có toa chở hàng của mình, mở cửa, vẫy tay chào con và bước vào. Một lát sau, bà lái xe đi, cậu đứng nhìn theo mẹ, thấy bà lái xe qua biển hiệu dừng lại ở ngã tư. Rồi với vẻ như người gánh hết mọi công việc nặng nhọc của cuộc sống lên vai, cậu lấy khóa mở cửa nhà, đi vào ngôi nhà yên lặng và đóng cửa lại. Vì một chuyến đi câu ngu ngốc ở Mexico, bố cậu đã làm cho cuộc sống của gia đình đảo lộn hết. Ông thường đi đây đi đó luôn, làm những công việc mà cậu cho là quan trọng. Trong vài năm vừa qua, ông không hề ở nhà, mà ở đâu đó, lo kiếm tiền. Từ ba năm nay ông không đến dự buổi chơi thể thao nào của Will hết. Mặc dù Fernanda không giận ông vì những việc ông đã gây nên cho gia đình khi ông chết, nhưng Will không như mẹ. Mỗi lần cậu thấy mẹ, thấy hoàn cảnh của mẹ đang lâm phải, cậu ghét bố vì ông đã gây nên lắm chuyện không tốt cho bà và cho anh em của cậu. Ông đã bỏ rơi họ. Will ghét ông vì thế, ngay cả khi cậu không biết hết toàn bộ câu chuyện.

    Last edited by giavui; 09-07-2020 at 03:01 PM.

  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 4
    Khi Peter Morgan bước ra khỏi xe buýt ở San Francisco, gã đứng nhìn quanh một hồi lâu. Chiếc xe buýt để gã xuống tại phía Nam khu Market, trong một vùng rất xa lạ với gã. Hồi gã ở đây, tất cả mọi sinh hoạt của gã đều diễn ra ở những khu dân cư tốt hơn. Gã đã từng có ngôi nhà ở Pacific Heights, căn hộ ở Nob Hill, nơi gã thường dùng là chỗ buôn bán ma túy và gã đã có những hợp đồng làm ăn ở Silicon Valley. Gã không bao giờ đến những khu dân cư hạ cấp như ở đây, nhưng gã vừa ở tù ra, là đồ cặn bã của xã hội, nên rất xứng với nơi gã đang đứng.

    Gã đi dọc theo phố Market một lát, cố làm quen với cảnh người đi lại quanh mình, gã cảm thấy hèn mọn, bị người ta chen lấn. Gã nghĩ rồi ra gã sẽ vượt qua được cảnh này. Nhưng sau bốn năm rưỡi sống trong nhà tù Pelican Bay, gã cảm thấy mình như quả trứng bị bóc vỏ trên đường phố. Gã vào một quán ăn ở Market, mua cái bánh hamburger và tách cà phê, trong khi thưởng thức món ăn và sự tự do ở ngoài tù, gã cảm thấy đây là bữa ăn tuyệt vời nhất từ trước đến nay. Sau đó, gã đứng ngoài đường để nhìn người qua lại, có phụ nữ và trẻ con, còn đàn ông thì trông có vẻ như đang đi đâu đó với mục đích trong đầu. Có nhiều kẻ vô gia cư nằm ngoài vỉa hè và những người say khập khiểng trên đường. Thời tiết đẹp, mát mẻ, gã đi trên đường phố, không có mục đích. Gã biết, khi đã đến nhà tạm trú cho tù nhân mới được tha, gã lại phải tuân theo nhiều luật lệ ở đấy. Gã muốn hưởng thú tự do trước khi đến đấy. Hai giờ sau, khi đã hỏi và được người ta chỉ đường, gã lên xe buýt đi đến khu Mission, nơi có nhà tạm trú.

    Nhà ở trên đường phố thứ mười sáu. Gã xuống xe, đi bộ cho đến khi tìm thấy ngôi nhà, rồi gã đứng ở ngoài, nhìn chỗ ở mới của mình. Nhà rất khác với những nơi gã đã ở trước khi đi ở tù. Gã không thể không nghĩ đến Janet và hai đứa con gái của gã, lòng tự hỏi không biết bây giờ chúng ở đâu. Gã nhớ con kinh khủng, từ lâu gã không gặp chúng. Gã đọc đâu đó và biết Janet đã lấy chồng khác rồi. Gã đọc tin này trong tạp chí khi ở tù. Quyền làm bố của gã đã chấm dứt nhiều năm trước đó. Gã nghĩ có lẽ những đứa con gái của gã bây giờ đã được người chồng mới của Janet nhận làm con nuôi. Gã đã bị cấm không được gặp vợ con, gã cố xua đuổi ký ức ra khỏi đầu khi bước lên cầu thang ngôi nhà tạm trú đổ nát. Ngôi nhà dùng để làm nơi tạm trú cho giới cướp của giết người vừa thụ án xong, nhưng còn phải bị quản chế một thời gian.

    Ngôi nhà tạm trú hôi mùi chuột, nước tiểu và thức ăn bị cháy, sơn trên tường đã tróc hết. Nó là chôn địa ngục cho người có bằng MBA Đại học Harvard ở, nhưng nhà tù Pelican Bay cũng vậy, thế mà gã đã sống được hơn bốn năm trời. Gã nghĩ gã cũng sẽ sống qua được ở đây. Gã là người chịu được cuộc sống ở mọi hoàn cảnh.

    Một người da đen cao gầy đang ngồi nơi bàn làm việc, anh ta sún hết răng và Peter thấy trên hai cánh tay có xám những hình vẽ. Anh ta mặc áo sơ-mi tay ngắn và có vẻ thờ ơ. Mặc dù anh ta da đen, nhưng trên mặt vẫn có hình xăm giọt nước mắt, chứng tỏ anh ta đã ở tù. Anh ta nhìn Peter và cười. Anh ta có vẻ niềm nở và vui vẻ. Anh ta thấy trong mắt Peter vẻ bàng hoàng kinh ngạc của kẻ mới ra tù.

    - Tôi có thể giúp anh gì đây, ông anh? - Nhìn vẻ mặt, áo quần và kiểu cắt tóc của gã, mặc dù rõ ràng Peter có vẻ xuất thân từ giới quý tộc, anh ta vẫn biết gã mới ở trong tù ra. Có cái gì đó trong cách đi đứng của gã, cách gã nhìn người ngồi nơi bàn làm việc với vẻ thận trọng, đã nói lên rất rõ gã là tù nhân mới được phóng thích. Họ liền nhận ra giữa họ có mối ràng buộc chung ngay. Bây giờ Peter có nhiều điểm chung với người đàn ông ngồi nơi bàn hơn với bất cứ người nào trong thế giới trước đây của gã. Nơi này đã trở thành thế giới của gã.

    Peter gật đầu và đưa cho anh ta giấy tờ chứng minh, gã nói rằng gã được phép vào ở tại nhà tạm trú này. Người đàn ông nơi bàn nhìn gã, gật đầu lấy chìa khóa trong hộc bàn rồi đứng dậy.

    - Tôi chỉ phòng cho anh, - Anh ta nói.

    - Cám ơn. - Peter đáp, giọng cụt lủn. Gã lại phải đề phòng như thời gian bốn năm trong tù. Gã biết ở đây chỉ bình an hơn trong nhà tù Pelican Bay một chút thôi. Đám người ở đây cũng thô lỗ và nhiều người trong số họ sẽ vào tù lại. Gã không muốn trở lại nhà tù, không muốn lời cam kết của mình trở thành vô hiệu vì chuyện cãi vã nhau hay đánh nhau để tự vệ.

    Họ đi lên hai dãy cầu thang, qua những hành lang bốc mùi chua. Ngôi nhà cũ xây theo kiểu thời Victoria đã hư hỏng từ lâu không được sửa chữa, dùng làm nơi trú ngụ cho tù nhân còn bị quản chế. Trong nhà chỉ có đàn ông ở. Trên lầu, ngôi nhà bốc mùi chuột và mùi hôi ở các thùng rác ít khi đem đi đổ. Người quản lý ngôi nhà đi đến cuối hành lang, dừng lại trước một cánh cửa và gõ, không có ai trả lời. Anh ta dùng chìa khóa mở cửa, đẩy ra. Peter bước vào phòng. Phòng không lớn hơn cái tủ đựng chổi. Trong phòng có tấm vải thô cũ bị vấy bấn trải trên nền nhà, chiếc giường hai tầng, hai cái tủ, cái bàn ọp ẹp và chiếc ghế. Phòng chỉ có độc một cánh cửa sổ nhìn ra phía sau ngôi nhà khác, tường nhà dơ bẩn cần sơn lại. Căn phòng quá tệ. Ở Pelican Bay, ít ra phòng giam còn tân tiến, sáng sủa và sạch sẽ, hay ít ra phòng gã cũng được như thế, còn ở đây trông như quán trọ rẻ tiền. Peter nhìn người quản lý và gật đầu. Anh ta nói tiếp :

    - Phòng tắm ở cuối hành lang. Trong phòng này còn có người khác nữa đang ở, tôi nghĩ anh ta đi làm rồi.

    - Cám ơn. - Peter thấy trên giường ở tầng trên không có vải trải giường, gã biết phải sắm vải trải giường mà dùng, nếu không thì ngủ trên nệm, như nhiều người khác. Hầu hết những vật dụng của người ở cùng phòng đều để trên nền nhà. Căn phòng quá bê bối, gã đứng nhìn ra ngoài cửa sổ một hồi lâu, cảm thấy mọi thứ đều khác trước rất nhiều. Gã cảm thấy thất vọng, buồn và lo sợ. Gã không biết bây giờ phải đi đâu. Gã không có việc làm. Gã cần tiền. Gã phải giữ mình trong sạch. Nếu gã buôn ma túy để có tiền thoát khỏi cảnh túng thiếu này thì sẽ rất dễ. Nghĩ đến cảnh làm việc tại các cửa hàng McDonald hay đi rửa bát đĩa đâu đó là gã cảm thấy chán nản. Khi người quản lý đi rồi, gã leo lên tầng giường trên, nằm nhìn lên trần nhà. Một lát sau, gã cố không nghĩ đến những việc gì phải làm, thiu thiu ngủ.

    * * * * *

    Ngay lúc Peter Morgan bước vào phòng của mình tại nhà tạm trú ở Mission District San Francisco, thì Carlton Waters vào phòng của hắn ta tại nhà tạm trú ở Modesto. Hắn được phân bổ ở với một người mà hắn đã từng ở chung trong nhà tù San Quentin suốt mười hai năm, tên là Malcolm Stark. Hai người là bạn cũ, nên khi vừa thấy Stark, Waters cười liền. Hắn đã khuyên Stark đôi điều về pháp luật hay ho, nhờ thế đã giúp cho Stark được phóng thích.

    Khi thấy Stark cười toe toét. Waters liền sung sướng ra mặt.

    - Cậu làm gì ở đây? - Waters hỏi, tuy không nói ra, nhưng sau hai mươi bốn năm ở từ, bây giờ được ra, hắn đã bị cú sốc văn hóa làm choáng váng, vì vậy hắn rất sung sướng khi gặp bạn.

    - Tôi vừa mới ra tù tháng trước. Tôi đã tham gia một vụ làm ăn khác ở Soledad và ra tù năm ngoái. Rồi chúng lại nhốt tôi sáu tháng vì tội có vũ khí, không có gì lớn. Tôi vừa mới ra tù lại. Ở đây không tệ đâu. Tôi nghĩ ở đây có hai người biết anh.

    - Anh làm ăn cái gì? - Waters hỏi, nhìn gã ta. Stark để tóc dài, gương mặt hắc ám, đầy vết sẹo. Lúc nhỏ gã là tay tổ đánh lộn.

    - Chúng ập vào bắt tôi ở San Diego. Công việc của tôi là chuyển hàng biên giới. - Khi gã và Waters gặp nhau lần đầu, gã ở trong tổ chức buôn lậu ma túy. Stark chỉ biết có công việc ấy. Gã đã bốn mươi sáu tuổi, được nhà nước nuôi lớn, buôn bán ma túy từ khi mười lăm tuổi và nghiện ma túy từ khi mười hai tuổi. Nhưng lần đầu tiên đi ở tù, gã còn bị thêm tội ngộ sát nữa. Khi một vụ buôn ma túy bị nguy hiểm, có người đã bị giết. - Lần này không có ai bị thương tích gì hết. - Waters gật đầu. Hắn thích Stark, mặc dù hắn cho Stark là thằng điên đã để bị bắt lại. Làm công việc vận chuyển phải lâu. Nghĩa là người ta thuê Stark chở ma túy qua biên giới và rõ ràng gã không nhanh nhẹn trong việc này, nên đã bị bắt. Nhưng không chóng thì chày, dân buôn ma túy cũng bị bắt thôi.

    - Vậy ai ở đây mà biết tôi? - Waters hỏi. Đối với chúng, đây giống một câu lạc bộ hay dân ở tù với nhau như anh em một nhà.

    - Jim Free và vài người nữa biết anh. - Calton Waters nhớ Jim Free, gã ta đã ở tù tại Pelican Bay vì tội âm mưu giết người và bắt cóc. Có người thuê gã giết vợ và gã đã làm lộ vụ âm mưu này. Cả gã lẫn người chồng đều bị tù, mười năm, mỗi tội năm năm. Pelican Bay và San Quentin trước đó, được xem là trường học cho kẻ tội phạm tốt nghiệp. Nó có thể xem như nơi Peter Morgan học lấy bằng MBA ở Harvard. - Vậy bây giờ anh sẽ làm gì, Carlton? - Stark hỏi, như thể bàn chuyện nghỉ hè, hay là việc làm ăn mà chúng sẽ bắt đầu làm. Hai nhà kinh doanh đang bàn chuyện tương lai.

    - Tôi có vài công việc phải làm. Tôi phải trình diễn với hãng thông tấn của tôi và tìm gặp vài người để xem có việc gì để làm không. - Waters có gia đình ở tại khu vực này và hắn có kế hoạch làm ăn lâu dài.

    - Tôi đang làm việc trong một nông trại, đóng cà chua vào thùng - Stark tự ý nói - Công việc này chán lắm, nhưng tiền công cũng khá. Tôi muốn lái xe tải. Họ nói tôi phải đóng cà chua vào thùng ba tháng để cho họ hiểu tôi đã hoàn lương. Tôi phải làm hai tháng nữa. Họ đang cần nhân công, nếu anh muốn làm, họ sẽ nhận đấy. - Stark tự nhiên nói, như muốn giúp bạn.

    - Tôi muốn xem thử có thể tìm được việc gì làm trong văn phòng không. Tôi muốn có công việc tốt. - Waters cười. Thân hình hắn vạm vỡ, hoàn toàn không có chút gì thanh nhã, nhưng không muốn làm công việc bằng chân tay. Hắn muốn xem thử có thể tìm công việc gì tốt hơn. Hắn đã làm việc cho người nhân viên cung cấp vật liệu trong tù suốt hai năm qua, nên ông ta cho hắn giấy giới thiệu rất tốt và ở trong tù hắn đã học kỹ thuật sử dụng máy tính rất thành thạo. Và sau những bài hắn viết, hắn đã trở thành nhà văn có kỹ thuật tiên tiến. Hắn vẫn muốn viết một cuốn sách về cuộc sống trong tù của mình.

    Hai người ngồi nói chuyện một lát rồi ra tiệm ăn tối. Họ phải ký tên mỗi khi đi và về và phải về vào lúc chín giờ. Khi Carlton Waters đi ra tiệm ăn tối với Malcolm, hắn chỉ nghĩ đến chuyện được đi trên đường phố trở lại, được đi ra tiệm để ăn tối và cảm thấy kỳ lạ biết bao. Hắn không được làm thế đã hai mươi bốn năm nay, từ khi mới mười bảy tuổi. Hắn đã ở trong tù hết sáu mươi phần trăm cuộc đời, mặc dù không bắn một phát đạn, hắn đã nói như thế với ông chánh án và họ không thể chứng minh là hắn đã bắn. Bây giờ thì chuyện đã xong rồi. Hắn đã học được ở trong tù nhiều điều mà hắn không bao giờ học được ở đâu khác, vấn đề là làm gì với những điều đã học được này, hiện tại, hắn không biết được.

    * * * * *

    Fernanda đón Ashley và Sam ở trường, đưa Ashley đến chỗ học vũ ba lê rồi đi về nhà với Sam. Như mọi khi, họ thấy Will trong nhà bếp. Cậu ta thường ở nhà để ăn, mặc dù trông cậu có vẻ không ăn nhiều. Cậu ta là vận động viên, vừa gầy vừa khỏe và cao trên 1, 80m. Allan cao 1, 85m, bà nghĩ rằng thế nào Will cũng cao bằng bố, vì cậu đang còn tuổi cao lớn.

    - Mấy giờ con đấu? - Fernanda hỏi. Bà rót cho Sạm ly sữa, thêm trái táo vào đĩa bánh qui, rồi đổ hết trước mặt cho chú bé. Will đang ăn cái bánh xăng uých thật bự vởì nhân thịt gà tây, cà chưa, pho mát, nước mù tạt và sốt mayone chảy nhỏ giọt. Chàng trai sẽ ăn hết chúng.

    - Đến bảy giờ mới đấu - Will đáp, miệng ngồm ngoàm - Mẹ đến chứ? - Cậu nhìn mẹ, làm ra vẻ như không quan tâm đến việc này, nhưng bà biết cậu rất quan tâm. Bà luôn luôn đến dự. Ngay cả bây giờ, đầu bà đang vẩn lên vì nhiều việc, bà cũng sẽ đi. Bà thích đến xem cậu đấu, vả lại đây là công việc của bà, hay công việc của bà cho đến bây giờ. Rồi đây bà phải làm việc gì đấy. Nhưng bây giờ, bà vẫn còn là bà mẹ dành hết thì giờ cho con, lúc nào cũng thích xem con đấu thể thao. Bây giờ Allan đã qua đời, việc đến xem con thi đấu còn quý hơn cho bà nữa.

    - Phải đến để xem chứ! - Bà cười với con, trông có vẻ mệt mỏi, cố không nghĩ tới chồng hóa đơn mới đến mà bà đã bỏ vào thùng trước khi đi đón các con. Mỗi ngày lại có thêm hóa đơn, chồng hóa đơn càng lúc căng nhiều. Bà không biết Allan đã tiêu bao nhiêu tiền. Bà cũng không biết bây giờ bà phải trả bao nhiêu. Họ phải bán nhà sớm thôi, để có tiền trả nợ thêm chừng nào hay chừng ấy. Nhưng bà cố không nghĩ đến việc này khi nói chuyện với Will.

    - Con sẽ đấu với ai?

    - Đội bóng ở Marin, đội này yếu. Chúng con sẽ thắng. - Cậu cười với bà và bà cười đáp lại, còn Sam thì ăn bánh qui mà không lưu tâm đến trái táo.

    - Tốt. Ăn táo đi, Sam. - Bà nói, không quay đầu nhìn cậu bé. Sam càu nhàu trả lời.

    - Con không thích táo. - Cậu bé rất dễ thương, mới sáu tuổi, tóc đỏ nhạt, mặt có tàn nhang và mắt nâu.

    - Vậy thì ăn lê cũng được. Ăn thêm trái cây vào, chứ đừng chỉ ăn bánh qui thôi. - Ngay khi gia đình đang lâm vào cảnh bi đát, cuộc sống vẫn diễn tiến như cũ. Những trận đấu bóng, vũ ba lê, ăn thức ăn nhanh sau khi đi học về. Bà vẫn duy trì cuộc sống trong gia đình bình thường, nhất là cho các con, nhưng cũng cho chính bà nữa. Vì các con mà bà phải sống ra vẻ bình thường.

    - Anh Will không ăn trái cây. - Sam đáp, vẻ bực tức. Mỗi đứa con bà có một màu tóc. Will tóc đen như bố, Ashley tóc vàng như mẹ, còn Sam thì tóc đỏ nhạt, không biết cậu lai ai trong gia đình. Cả bên ngoại lẫn bên nội của cậu bé không có ai có màu tóc như cậu. Với cặp mắt nâu to và mặt nhiều tàn nhang, trông Sam như cậu bé trong mục quảng cáo hay trên tranh biếm họa.

    - Cứ nhìn vào tủ lạnh thì biết Will đã ăn những gì ở trong đó. Anh ấy còn bụng đâu nữa mà ăn trái cây. - Bà đưa cho Sam trái lê và trái quýt, rồi xem đồng hồ tay. Mới hơn bốn giờ, nếu Will thi đấu lúc bảy giờ; thì bà sẽ dọn ăn lúc sáu giờ. Bà phải đi đón Ashley ở lớp khiêu vũ ba lê lúc năm giờ. Bây giờ cuộc đời của Fernanda vỡ vụn ra thành nhiều mảnh nhỏ, tuy trở lại như trước đây, nhưng bây giờ khó khăn hơn nhiều, vì không có ai giúp đỡ bà. Sau khi Allan qua đời một thời gian ngắn, bà cho người quản gia và cô giúp việc nhà thôi việc, cô này trước đây chăm sóc Sam. Bà làm thế để khỏi tốn một số chi phí và tự mình làm lấy việc nhà. Nhưng các con bà có vẻ thích thế. Chúng thích lúc nào cũng có bà bên cạnh, mặc dù bà biết chúng nhớ bố.

    Mấy mẹ con cùng ngồi ở bàn trong bếp. Sam phàn nàn hôm ấy có một học sinh lớp bốn bắt nạt cậu tại trường. Will nói cậu có bài khoa học phải làm cho xong trong tuần ấy và hỏi không biết bà có kiếm cho cậu một ít dây đồng được không. Rồi Will khuyên em trai cách thức để đối phó với những học sinh bắt nạt Will học trường trung học, còn hai em học tiểu học và trường cơ sở. Will vẫn học hành đều đặn từ tháng Một, nhưng Ashley đã có phần sa sút, còn giáo viên lớp một thì nói Sam cứ khóc mãi. Chúng vẫn còn bàng hoàng và Fernanda cũng vậy. Lúc nào bà cũng muốn khóc. Bây giờ thì những đứa trẻ đã quen rồi. Bất cứ khi nào Will hay Ashley đi vào phòng bà, bà cũng có vẻ như đang khóc. Bà giữ vẻ bình tĩnh trước mặt Sam, nhưng cậu bé ngủ trên giường bà suốt bốn tháng nay, thỉnh thoảng cậu nghe mẹ khóc. Thậm chí bà còn khóc trong giấc ngủ. Mới cách đây mấy hôm, Ashley nói với Will rằng mẹ họ sẽ không bao giờ cười nữa, thậm chí cười mỉm cũng không, trông bà như người máy.

    - Mẹ sẽ cười, - Will đáp vẻ tin tưởng - hãy cho mẹ một thời gian. - Bây giờ Will đã lớn, không còn bé bỏng nữa, cậu cố thay bố trong gia đình.

    Tất cả đều cần thời gian để hồi phục, Will cố đóng vai trò của người đàn ông trong gia đình. Fernanda nghĩ cậu sẽ làm tròn nhiệm vụ ấy. Thỉnh thoảng bà cảm thấy như có gánh nặng đè lên vai cậu. Mùa hè này Will sẽ đi dự trại môn bóng lacrosse 1 bà rất mừng cho cậu. Ashley có kế hoạch đi Tahoe, đến nhà người bạn, còn Sam đi dự trại ban ngày và ở lại thành phố với bà. Bà mừng vì các con bà sẽ có việc bận rộn, nhờ thế bà sẽ có thì giờ để suy nghĩ, làm những việc phải làm với vị luật sư của họ. Bà hy vọng ngôi nhà sẽ bán được nhanh khi rao bán. Tuy nhiên, việc này thế nào cũng là cú sốc cho các con bà. Bà không biết khi bán xong họ sẽ sống ở đâu, có lẽ họ sẽ ở đâu đó trong ngôi nhà nhỏ và rẻ tiền. Bà cũng nghĩ rằng không chóng thì chầy chuyện Allan phá sản, nợ nần nhiều khi ông chết cũng sẽ bị tiết lộ. Bà đã làm những gì có thể làm được để bảo vệ ông cho đến bây giờ, nhưng cuối cùng sự thật thế nào cũng bị phơi bày. Mặc dù bà tin chắc hiện chưa có ai biết tin này, nhưng đây là loại bí mật người ta không thể giữ kín mãi. Lời cáo phó về cái chết của ông viết rất tuyệt, rằng ông là người rất cao quý, khen ngợi ông hết lời, họ khen ngợi thành quả của ông. Bà nghĩ chắc Allan thích những lời khen như thế.

    Khi bà ra đi để đón Ashley trước năm giờ, bà dặn Will canh chừng Sam. Bà lái xe đến trường vũ ba lê San Francisco; Ashley theo học lớp vũ mỗi tuần ba lần. Bà sẽ không còn khả năng cho con theo học ở đấy nữa. Khi mọi chuyện đã được đưa ra ánh sáng, tất cả những gì họ có thể làm được chỉ là đi học, có mái nhà che mưa nắng và có cái ăn. Tất cả các thứ khác đều phải dẹp bỏ hết, trừ phi bà có được một công việc kiếm ra nhiều tiền, mà chuyện này thì quá hy hữu. Nhưng chuyện giàu có không thành vấn đề nữa. Họ sống bên nhau như thế này là được rồi, bây giờ bà chỉ cần được như thế. Đã nhiều lần bà tự hỏi tại sao Allan không hiểu điều này. Tại sao thà chết còn hơn sống mà đối diện với những sai lầm của mình, hay đối diện với chuyện rủi ro, với sự xét đoán sai trái, hay với sự nghèo túng? Ông bị cuốn hút theo cơn sốt làm giàu thật nhanh, cơn sốt đẩy ông đến tận mép vực rồi vượt ra ngoài và bị mọi người chê là dại dột. Fernanda và các con muốn có ông hơn là có tiền. Cuối cùng, chuyện không hay đã xảy đến. Họ không cần những giây phút được sống huy hoàng, không cần đồ chơi đẹp, không cần nhiều nhà, căn hộ nhiều phòng và trang trại. Đối với bà, du thuyền và máy bay là những thứ xa hoa vô bổ. Mấy đứa bé mất bố, bà mất chồng. Ông chết là cái giá phải trả rất cao cho họ trong bốn năm sống xa hoa. Bà ước chi ông không làm ra tiền, họ không rời khỏi Palo Alto. Bà đang nghĩ đến chuyện đó, thì xe đã đến nơi, bà dừng xe trên đường phố Franklin ở trước trường dạy vũ. Bà đến nơi vừa lúc Ashley từ trường bước ra trong bộ áo quần nịt và đôi giày vải, tay xách đôi giày múa.

    Dù mới mười tuổi, Ashley trông đã khôn lớn, mái tóc vàng thẳng dài trông giống tóc của Fernanda. Cô có nét giống bức tượng đá với thân hình kiều diễm. Cô là đứa bé đang dần trở thành một người phụ nữ và hình như đối với Fernanda thì bà không thích cô lớn nhanh như thế và đã không thấy cô lớn lên từ từ. Vẻ nghiêm trang trong mắt cô làm cho cô có vẻ già trước tuổi rất nhiều. Tất cả họ đã lớn lên nhiều trong thời gian bốn tháng vừa qua. Fernanda cảm thấy mình già thêm một trăm tuổi chứ không phải là bốn mươi vào mùa hè này.

    - Lớp học như thế nào? - Bà hỏi Ashley khi cô bé bước vào chỗ ngồi phía trước, trong khi xe dồn lại phía sau xe bà và bóp còi inh ỏi. Ngay khi Ashley vào xe và nịt dây an toàn xong, mẹ cô liền lái xe về nhà.

    - Rất tốt. - Mặc dù cô rất thích môn vũ ba lê, nhưng trông cô bây giờ có vẻ mệt mỏi, thiếu nhiệt tình. Việc gì đối với họ cũng phải cố gắng nhiều hơn. Fernanda cảm thấy như thể mấy tháng nay bà đã lội ngược dòng nước và Ashley trông cũng có vẻ như thế. Cô gái nhớ bố như mọi người trong nhà.

    - Tối nay Will có trận đấu bóng. Con muốn đến xem không? - Fernanda hỏi. Xe họ đang chạy về phía bắc trên đường Franklin vào giờ tan tầm xe cộ đông đúc.

    Ashley lắc đầu.

    - Con có bài tập phải làm ở nhà. - Ít ra cô cũng cố làm, mặc dù thành tích học tập của cô không tốt. Nhưng Fernanda không ép con phải học nhiều. Bà biết cô bé không thể đạt thành tích cao hơn. Bà cảm thấy hiện tại chuyện gì cũng đang tuột dốc. Bà chỉ lo việc trả lời những cuộc điện thoại có liên quan đến các hóa đơn trả nợ, lo chăm sóc con cái và giữ nhà cửa ngăn nắp, còn việc đương đầu với thực tế diễn ra hằng ngày hầu như bà không thể nào kham nổi.

    - Tối nay, trong lúc mẹ đi khỏi nhà, nhờ con canh chừng Sam, được không? - Ashley gật đầu. Trước đây không bao giờ bà để chúng ở nhà một mình, nhưng bây giờ không có ai để gửi chúng. Fernanda không có ai để gọi nhờ đến giúp. Sự thành công đột ngột của chồng bà làm cho họ bị cô lập khỏi những người khác và việc gia đình bà đột ngột nghèo đi cũng vậy. Bạn bè của họ trước đây cảm thấy lúng túng khi họ giàu lên một cách đột ngột. Cuộc sống của họ khác đi, cũng như nếp sống mới của họ đã làm cho họ xa bạn xa bè. Rồi cái chết của Allan và chuyện rắc rối mà ông để lại càng làm cho bà cô độc thêm. Bà không muốn ai biết gia đình bà đang lâm vào cảnh bi đát. Bà tránh tất cả các cuộc điện thoại gọi đến, hiếm khi trả lời. Bà không muốn nói chuyện với ai hết, ngoài các con của mình và người luật sư. Trông bà có vẻ rất bi quan, thất vọng, nhưng trong hoàn cảnh ấy ai mà không như vậy? Tự nhiên bà trở thành góa phụ lúc 39 tuổi và sắp mất mọi thứ mà bà có, ngay cả cái nhà đang ở tất cả, chỉ còn lại mấy đứa con.

    Khi về nhà, bà nấu bữa tối cho gia đình, dọn lên bàn lủc sáu giờ. Bà làm thịt bò băm viên và xà lách, rồi để ra một tô khoai chiên không phải là thức ăn bổ dưỡng, nhưng chúng cũng ăn. Bà xóc khoai chiên lên đĩa để ăn, nhưng không lấy thịt bò băm viên, còn xà lách thì đổ vào thùng rác. Bà ít khi thấy đói, Ashley cũng vậy. Cô bé cao hơn, gầy hơn trong bốn tháng qua, vì thế mà trông cô bỗng lớn lên.

    Đến bảy giờ kém 15 phút, Fernanda và Will đi đến sân vận động trường Presidio, Ashley lên lầu làm bài tạp, còn Sam ngồi xem ti vi. Will mang giày có đế gắn đinh cao su cho khỏi trượt và mặc áo quần chơi dã cầu, cậu không nói gì nhiều với mẹ. Hai mẹ con lặng lẽ, trầm tư và khi tới nơi, bà đến ngồi vào hàng ghế lộ thiên cùng với những phụ huynh học sinh khác. Không ai nói chuyện với bà và bà cũng không muốn nói chuyện với ai. Người ta không biết nói gì với bà. Nỗi buồn của bà làm cho mọi người cảm thấy lúng túng. Như thể mọi người sợ sẽ lây sự mất mát của bà. Những phụ nữ đang sống bình an hạnh phúc với chồng không muốn đến gần bà. Trong khi lặng lẽ ngồi xem trận bóng, bỗng bà cảm thấy lần đầu tiên cô đơn trong mười bảy năm qua.

    Will ghi được hai bàn. Đội cậu thắng sáu không và khi họ về nhà, cậu có vẻ sung sướng. Cậu thích chiến thắng, ghét thất bại.

    - Con muốn dừng lại mua bánh pizza không? - Bà đề nghị, cậu ngần ngừ một lát rồi gật đầu. Cậu lấy tiền mẹ đưa rồi chạy vào tiệm bán bánh, mua cái bánh thật lớn với đủ thứ gia vị ở bên trong. Khi trở ra xe, cậu cười với mẹ, rồi bước vào chỗ ngồi ở phía trước, để cái hộp đựng bánh trên đùi.

    - Cám ơn, mẹ... cám ơn mẹ đã đến dự... - Cậu muốn nói gì nữa với mẹ, nhưng không biết nói sao. Cậu muốn nói việc mẹ cậu đến dự là việc làm rất có ý nghĩa với cậu và cậu tự hỏi không biết tại sao bố cậu không đến, không đến từ khi cậu còn bé. Ông không bao giờ xem những trận bóng lacrosse của cậu. Allan dẫn cậu đi xem những trận đấu quốc tế, những trận Super Bowl với một vài người hợp tác kinh doanh với ông, nhưng chuyện này lại khác. Ông không bao giờ đến dự những trận đấu của cậu, nhưng bà thì đến dự và khi họ về nhà, bà nhìn cậu, cậu cười với bà. Đó là những giây phút tuyệt vời quý báu nhất thỉnh thoảng xảy ra giữa hai mẹ con, khiến cho người ta phải nhớ mãi.

    Khi bà rẽ xe sang con đường vào nhà, bầu trời trên vịnh nhuốm màu hồng nhạt và hoa cà và khi Will bước ra khỏi xe với cái bánh pizza, bà nhìn lên bầu trời một chút. Đây là lần đầu tiên trong mấy tháng qua, bà cảm thấy lòng tràn trề hy vọng, an bình, nhẹ nhõm, như thể bà đã giải quyết được những chuyện khó khăn trong cuộc sống và mấy mẹ con sẽ vượt qua được những cam go của cuộc đời. Có lẽ mọi việc rồi sẽ tốt đẹp hết, bà tự nhủ. Bà khóa xe, đi theo Will vào nhà. Bà cười thầm trong bụng, và khi bà nhẹ nhõm đóng cửa lại thì Will đã đi vào bếp.

    --------------------------------
    1 Lacrosse: Môn thể thao giống như khúc côn cầu, do hai đội, mỗi đội 10 cầu thủ chơi, sử dụng vợt để bắt, đỡ và ném bóng.
    Last edited by giavui; 09-07-2020 at 03:02 PM.

  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 5
    Theo lịch trình, Carlton Waters (tên thân mật là Carl) đã trình diện với nhân viên quản chế tù nhân hai ngày sau khi hắn ra tù. Hóa ra người nhân viên quản chế hắn cũng là nhân viên quản chế Malcolm Stark và cả hai tên cùng đi trình diện với nhau. Waters được lệnh phải đến trình diện hàng tuần, như Stark đang làm. Stark quyết định lần này không để bị vào tù lần nữa. Gã đã sống hẳn hoi từ khi ra tù, làm việc trong xí nghiệp cà chua đủ sống, đủ tiền đi ăn tiệm ở địa phương và đủ sức để uống vài chai bia. Waters đã đi xin việc tại xí nghiệp nơi Stark đang làm, nhưng hắn xin làm việc trong văn phòng. Xí nghiệp trả lời sẽ cho hắn biết kết quả vào thứ hai.

    Hai người bằng lòng đi chơi với nhau vào cuối tuần, nhưng Carl nói hắn phải đi thăm vài người bà con vào Chủ nhật. Họ đã được thông báo là chỉ được phép đi chơi trong khu vực thôi, còn muốn ra khỏi vùng thì phải có phép, nhưng Waters nói với Stark rằng bà con của hắn chỉ ở cách đấy một chuyến xe buýt thôi. Hắn đã không gặp họ từ khi còn bé. Hai người ăn tối với nhau vào tối thứ Bảy trong quán ăn gần đấy, rồi vào quán rượu, xem dã cầu trên tivi và trở về nhà tạm trú lúc chín giờ. Cả hai không ai muốn gặp chuyện rắc rối. Họ đã mãn hạn tù, bây giờ muốn bình an, tự do và giữ trong sạch không phạm tội. Waters nói hắn hy vọng sẽ được nhận công việc mà hắn đã được phỏng vấn hôm qua, còn nếu không, hắn sẽ đi tìm việc khác. Hắn không lo về việc này. Hai người đi ngủ vào lúc mười giờ và sáng mai khi Stark thức dậy lúc bảy giờ thì Carl đã đi rồi, để lại cho gã tờ giấy nhắn tin. Waters nói hắn đi thăm bà con, hẹn tối sẽ gặp nhau. Sau đó Stark biết Carl đăng ký vào sổ nhật ký của nhà trọ, báo hắn đi ra ngoài vào lúc sáu giờ ba mươi sáng hôm ấy. Phần lớn thời gian trong ngày, Stark đã xem bóng đá trên tivi và nói chuyện với những người khác. Gã không thắc mắc về chuyện Carl đi đâu. Carl đã nói hắn đi thăm bà con và bất kỳ khi nào có ai hỏi Carl đi đâu, gã đều nói như vậy.

    Vào khoảng giữa trưa, Malcolm Stark đi ra ngoài cùng với Jim Free. Họ đến quán bình dân gần nhất, mua thức ăn làm sẵn về ăn tối. Free là người được thuê để giết vợ một gã đàn ông. Hắn làm hỏng việc và cả hai đều đi ở tù. Nhưng khi chúng đi với nhau, chúng không nói đến cuộc đời tội phạm của chúng. Không người nào nói. Trong tù, thỉnh thoảng chúng còn nói với nhau, nhưng khi ra ngoài, chúng quyết định để quá khứ lại phía sau. Nhưng Free trông có vẻ như đang ở trong tù.

    Trên hai cánh tay hắn đầy hình xăm và trên mặt hắn xăm những giọt nước mắt như những kẻ khác trong tù. Hắn làm như thể không ai và không có gì làm cho hắn sợ hết. Trông hắn người ta nghĩ là hắn có thể tự lo cho mình được.

    Tối đó hai người vừa ngồi ăn thức ăn bán sẵn vừa nói chuyện về chơi bóng, chúng nói đến những trận bóng mà chúng đã xem, nói đến những cầu thủ chúng hâm mộ, những cánh tay đánh bóng trung bình và những giai đoạn trong lịch sử bóng dã cầu mà chúng muốn được xem. Đấy là loại chuyện mà hai gã có thể nói bất cứ ở đâu, rồi khi nghe Free nói đến cô gái hắn vừa gặp, thì Stark cười. Free gặp cô ta ở trạm xăng nơi hắn làm việc. Bên cạnh trạm xăng có quán cà phê, cô ta làm bồi bàn ở đấy. Hắn nói chưa bao giờ hắn thấy cô gái nào đẹp như thế, trông cô ta giống Madonna, nghe hắn nói, Stark cười hô hố. Khi còn ở trong tù, gã đã nghe người ta miêu tả như thế và gã luôn luôn hỏi về thị lực của người kể. Và khi đã gặp người đàn bà do người đó miêu tả, thì thấy không giống thế. Nhưng nếu Jim Free cho cô ta đẹp, gã sẽ không cãi với hắn làm gì. Free là gã đàn ông sống bằng mộng mơ và ảo tưởng.

    - Cô ta có biết anh ở trong tù không? - Stark hỏi.

    - Biết. Tôi nói cho cô ta biết. Anh cô ta cũng đã ở tù một thời gian khi còn nhỏ, vì tội ăn trộm ô-tô. Cô ta có vẻ không quan tâm đến chuyện này. - Đúng, bọn họ là một nhóm người đo giá trị của nhau bằng thời gian ở tù lâu hay mau và chuyện ở tù hình như không làm cho họ hoảng sợ. Nhà tù như nơi trú chân hay như một hội kín. Họ có cách để nhận ra nhau.

    - Anh đã hẹn đi chơi với co ta chưa? - Stark cũng có để ý đến một phụ nữ ở nhà máy cà chua, nhưng hắn chưa dám đến gần cô ta. Hắn không có tài tán gái.

    - Tôi định mời cô ta đi chơi vào cuối tuần tới. - Free lúng túng đáp. Họ đều mơ đến ái tình, mơ đến chuyện tình dục khi tạo được cơ hội. Và khi có rồi, chuyện thực hành khó hơn điều họ nghĩ đến. Họ là những kẻ mới gia nhập vào thế giới thực, cái gì cũng lạ. Trong những cái lạ đó, việc tìm được đàn bà là việc khó nhất. Hầu như lúc nào đàn ông ở trong nhà quản chế cũng đi ra ngoài với nhau, ngoại trừ những ngườỉ đã có vợ. Nhưng ngay cả những người có vợ, họ cũng phải mất một thời gian mới hiểu biết lại vợ mình. Ho đã quen với thế giới đàn ông, không có đàn bà, cho nên họ thấy ở nơi nào có nhiều đàn ông thì dễ dàng hơn, như các linh mục, hay đàn ông sống quá lâu trong quân đội. Đàn bà làm cho cuộc sống của họ mất quân bình, khó chịu. Một xã hội toàn đàn ông đối với họ quen thuộc hơn, đơn giản hơn.

    Tối đó, khi Carlton Waters về thì Stark và Free đang ngồi hóng gió trên thềm nhà. Trông Carl có vẻ thoải mái, tự nhiên và như thể hắn đã được hưởng một ngày vui vẻ, hắn cười với hai người. Hắn mặc cái áo sơ-mi vải màu xanh trạt nút bên ngoài chiếc áo thun, mặc quần jeans, đi ủng chăn bò, đôi ủng lấm đất. Hắn vừa đi bộ nửa dặm từ chỗ xe buýt, trên con đường đất vào một đêm mùa xuân đẹp đẽ. Trông hắn có vẻ đang hưng phấn. Hắn cười vui vẻ.

    - Bà con của anh khỏe mạnh chứ? - Stark lịch sự hỏi. Thật tức cười là ở đây vấn đề hỏi han nhau lại có vẻ quan trọng, người ta cảm thấy cần phải hỏi nhau. Ở trong tù thì kẻ khôn ngoan là kẻ biết giữ mồm giữ miệng, không hỏi ai gì hết. Ở nhiều nhà tù như Pelican Bay, người nào hỏi tức là xúc phạm đến kẻ khác.

    - Khỏe mạnh hết. Chắc là thế. Tôi đi hai chuyến xe buýt đến nông trại của họ và nếu họ không đi đâu hết thì quá tuyệt. Tôi đã báo cho họ biết tôi sẽ đến, nhưng tôi nghĩ họ quên. Tôi chỉ ở lại chơi một lát, ngồi trên hiên chơi và đi ra phố kiếm cái gì để ăn. Rồi đáp xe buýt trở về. - Hắn có vẻ không quan tâm đến chuyện này. Được đi xe buýt đâu đó, rồi đi bộ dưới ánh nắng là quá tuyệt rồi. Hồi còn nhỏ, hắn không có cơ hội để làm như thế. Khi hắn ngồi xuống thềm với các bạn, hắn giống như một đứa con nít. Trông hắn có vẻ hạnh phúc hơn ngày hôm qua. Sự tự do làm cho hắn thoải mái. Khi hắn ngồi dựa lưng ra sau bậc thềm, trông hắn như thế đã trút được gánh nặng trên vai, Malcolm Stark cười với hắn. Khi Stark cười, người ta mới thấy gã sún hết răng cấm mà chỉ còn răng cửa.

    - Nếu tôi có ý nghĩ bậy bạ, tôi sẽ nói anh đã bịa chuyện đi thăm bà con, thực ra anh đã ở với người đàn bà nào đấy cả ngày. - Stark trêu chọc hắn. Waters có vẻ thỏa mãn sung sướng của người vừa hưởng tình dục thỏa thuê.

    Carlton Waters cười to khi nghe Stark nói, hắn hất viên đá lăn qua bên kia đường, không nói gì thêm. Đến chín giờ, họ đứng dậy, vươn vai và đi vào trong nhà. Họ biết đã đến giờ giới nghiêm. Họ ký vào sổ nhật ký, rồi về phòng. Waters và Stark ngồi trên giường nói chuyện một lát, còn Jim Free về phòng mình. Họ đã quen với thời khắc bình an ban đêm rồi, nên không phản đối nguyên tắc của nhà trọ hay lệnh giới nghiêm.

    Stark phải dậy lúc sáu giờ để đi làm, nên đến mười giờ hai người đều đi ngủ, cũng như mọi người ở trong nhà. Nhìn họ ngủ yên ổn? không ai nghĩ rằng họ là những kẻ nguy hiểm, hay đã nguy hiểm, hay là những người đã gây rối cho xã hội trước khi đến đây. Nhưng hy vọng trong quá trình tù tội, họ đã học được bài học quý giá.
    Last edited by giavui; 09-07-2020 at 03:02 PM.

  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 6
    Như mọi khi, Fernanda dành ngày cuối tuần để ở với các con. Ashley sắp có buổi trình diễn vũ ba lê vào tháng Sáu, nên cô phải đến tổng duyệt ở trường, rồi sau đó Fernanda sẽ chở cô đến đi xem xinê và ăn tối cùng các bạn. Fernanda lái xe đưa cô đến các nơi, với Sam ngồi ở ghế trước bên cạnh bà. Bà đã mời một cậu bé đến chơi với Sam vào thứ Bảy, rồi họ đi xem Will đấu bóng trong khi Ashley đang tổng duyệt. Các con bà đều bận rộn và bà thích thế. Bà thấy đây là cách giúp bà quên đi nỗi lo âu phiền muộn của mình.

    Vào ngày Chủ nhật, bà phải làm một số công việc giấy tờ trong khi Ashley ngủ, Sam xem video và Will làm thí nghiệm khoa học, tivi trong phòng cậu đang mở trận đấu bóng của đội Giants với âm lượng nho nhỏ. Trận đấu này chán phèo, đội Giants thua, cho nên cậu không chú ý mấy. Fernanda đang cố kiểm tra lại số giấy tờ khai thuế mà người luật sư đã đưa cho bà điền vào, nhưng chú ý mấy bà cũng không làm xong. Bà thích đi bộ trên bãi biến với các con, lúc ăn trưa bà đề nghị như thế, nhưng các con bà không ai thích đi. Bà muốn trốn khỏi công việc thuế má này. Bà nghỉ giải lao một lát, đi vào bếp để uống tách trà. Bỗng bà nghe một tiếng nổ dữ dội nơi nào đấy rất gần nhà. Tiếng nổ như thế phát ra ngay bên cạnh nhà bà và sau đó im lặng một lúc, rồi bà thấy Sam chạy vào phòng, nhìn bà đăm đăm. Cả hai mẹ con đều hoảng sợ.

    - Chuyện gì thế? - Cậu hỏi, vẻ lo sợ.

    - Mẹ không biết. Nhưng tiếng nổ lớn quá! - Fernanda đáp. Họ đã nghe còi hú vang lên từ xa.

    Will chạy vào, cậu chỉnh lời mẹ :

    - Tiếng nổ quá dữ dội.

    Ashley trên lầu cũng chạy xuống, vẻ bối rối. Tất cả đứng trong bếp, tự hỏi không biết việc gì đã xảy ra. Tiếng còi hụ nghe như đang ở ngoài đường và xe đang đến gần. Có nhiều xe chạy đến, ba xe cảnh sát chạy nhanh qua cửa sổ nhà bà, đèn chiếu sáng.

    - Mẹ cho đây là cái gì? - Sam hỏi lại, vẻ bị kích thích. Tiếng nổ như bom tại nhà nào đấy ở hàng xóm, nhưng Fernanda nghĩ là không thể như thế được.

    - Có lẽ thùng xăng nổ. - Bà đáp khi mọi người nhìn ra cửa sổ thấy nhiều ánh đèn pha nữa lướt qua. Họ mở cửa trước, nhìn ra ngoài, thấy có chừng một tá xe cảnh sát tụ tập ở ngoài đường, trong khi có ba chiếc xe cứu hỏa và nhiều xe nữa chạy đến. Fernanda và các con cùng đi ra lề đường, họ thấy một chiếc xe hơi đang bốc cháy trong khu phố, những người lính cứu hỏa đang chĩa ống xịt nước vào đấy. Người trong các nhà tuôn ra đường, đi lên đi xuống, bàn tán xôn xao. Một số hiếu kỳ đi đến gần chiếc xe đang cháy, nhưng bị cảnh sát đuổi ra, trong khi xe của cảnh sát trưởng chạy đến. Nhưng khi ấy lửa nơi chiếc xe đã bị dập tất, cảnh hoảng loạn đã chấm dứt.

    - Hình như chiếc xe bắt lửa cháy vì bị nổ thùng xăng. - Fernanda nói, vẻ tin tưởng. Sự hoảng loạn đã hết, nhưng khắp nơi đều có cảnh sát và lính cứu hỏa. Ông cảnh sát trưởng bước ra khỏi xe.

    - Có lẽ bom gài trong xe phát nổ. - Will nói khi họ đang ở ngoài đường. Một lát sau họ vào nhà, Sam phàn nàn. Cậu bé muốn xem xe cứu hỏa, nhưng cảnh sát không để cho ai đến gần hiện trường. Rất nhiều cảnh sát đến khu phố, bao quanh hiện trường và nhiều người nữa đang đến. Chuyện xe hơi phát hỏa không làm cho người ta quá quan tâm, nhưng ở đây tiếng nổ quá lớn đã làm cho mọi người muốn biết nguyên do. Khi tiếng nổ phát ra, bà Fernanda đã giật thót cả người.

    - Mẹ không nghĩ đấy là bom gài trong xe phát nổ - Fernanda nói, khi mấy mẹ con đã vào nhà - Mẹ nghĩ thùng xăng nổ mới phát ra tiếng lớn như thế. Có lẽ chiếc xe đã cháy một lát rồi mà không ai chú ý.

    - Tại sao xe lại bốc cháy? - Ashley hỏi, vẻ hoang mang. Cô thấy chuyện này phi lý, nhưng có vẻ đáng sợ.

    - Có thể cháy chứ. Có lẽ có ai thả điếu thuốc đang hút xuống xe mà không để ý, cũng có thế họ muốn phá hoại. - Nhưng chuyện này không thể xảy ra. Nhất là trong vùng họ ở. Fernanda không biết giải thích như thế nào.

    - Con vẫn nghĩ là có bom cài trong xe. - Will đáp, cậu mừng vì có cớ để nghỉ làm thí nghiêm khoa học. Cậu ghét làm việc này, nhưng có cớ để nghỉ là điều quá tốt, nhất là khi xe hơi bị cài bom.

    - Anh chơi quá nhiều trò chơi điện tử - Ashley nói với Will, vẻ mặt ghê tởm - Không ai làm nổ xe hơi hết, ngoại trừ trong các phim chiếu bóng và trên tivi.

    Tất cả quay về với sinh hoạt riêng của mình. Fernanda làm tiếp công việc khai thuế theo yêu cầu của luật sư, Jack Waterman. Khi Will ra khỏi phòng, cậu ta nói không thể hoàn thành thí nghiệm về khoa học được nếu không có thêm dây điện, mẹ cậu hứa sẽ mua thêm cho cậu vào thứ Hai. Ashley ngồi với Sam, để xem cho hết cuốn video với cậu em. Phải mất hai giờ nữa xe cảnh sát mới đi hết, còn xe cứu hỏa đã ra về trước đó từ lâu. Khi Fernanda nấu bữa tối mọi việc lại yên ổn. Khi bà vừa dọn đĩa vào máy rửa bát đĩa thì chuông cửa reo. Bà ngần ngừ sau cánh cửa, nhìn quá lỗ nhìn, thấy hai người đàn ông đứng ở ngoài, nói chuyện với nhau. Chưa bao giờ bà thấy họ. Bà đang mặc quần jeans, áo thun cụt tay, hai tay còn ướt, bà hỏi qua lỗ cửa ai đấy. Họ đáp họ là cảnh sát, nhưng bà thấy họ không có vẻ gì là cảnh sát. Họ không mặc sắc phục cảnh sát nên bà định không mở cửa, thì một người đưa huy hiệu cảnh sát qua lỗ nhìn cho bà thấy. Bà thận trọng mở cửa và nhìn họ. Cả hai trông có vẻ đứng đắn, họ xin lỗi đã vào làm phiền bà. Bà đứng yên nhìn họ, có vẻ bối rối.

    - Có chuyện gì bất ổn à? - Thoạt tiên bà không nghĩ rằng họ vào nhà bà có liên quan đến vụ chiếc xé bị cháy vào hồi chiều, hay tiếng nổ mà họ đã nghe. Bà không nghĩ ra được lý do tại sao họ đến gặp bà. Rồi bỗng bà nhớ đến những ngày đau đớn sau khi Allan chết, cái chết của ông có dính dáng đến nhà cầm quyền ở Mexico.

    - Chúng tôi không biết có thể nói chuyện với bà một phút được không. - Hai người cảnh sát mặc thường phục, một người gốc châu Á và một người da trắng. Cả hai đều ăn mặc rất lịch sự, tuổi chừng thập niên bốn mươi, họ mặc áo khoác thể thao, sơ-mi thắt cà vạt. Họ giới thiệu họ là thanh tra cảnh sát Lee và Stone, đưa thẻ chứng minh cho bà xem khi họ đứng nói chuyện với bà ở hành lang phía trước. Họ không có gì đáng ngại, người cảnh sát gốc châu Á nhìn bà và cười.

    - Chúng tôi không muốn làm bà lo sợ, thưa bà. Chiều nay đã xảy ra một tai nạn ngoài đường cách nhà bà một đoạn. Nếu khi ấy có bà ở nhà, có lẽ bà đã nghe. - Ông ta vui vẻ, lịch sự, bà cảm thấy yên tâm liền.

    - Vâng, chúng tôi có nghe. Hình như chiếc xe bắt lửa, tôi nghĩ thùng xăng nổ.

    - Bà nghĩ thế có lý đấy. - Thanh tra Lee đáp. Ông ta nhìn bà, như thể tìm kiếm cái gì. Trông bà có cái gì đấy khiến cho ông ta tò mò. Ông thanh tra kia không nói gì, ông để cho người đồng sự của mình nói chuyện.

    - Các ông có muốn vào nhà không? - Fernanda hỏi. Rõ ràng họ chưa muốn ra về.

    - Bà có phiền không? Chúng tôi chỉ hỏi một chút thôi. - Bà đưa họ vào bếp, tìm đôi xăng-đan của mình dưới bàn ăn. Họ có vẻ rất hẳn hoi, bà cảm thấy bối rối khi đứng nói chuyện với họ với hai bàn chân trần.

    - Mời quý ông ngồi! - Bà đưa tay về phía bàn ăn, cái bàn đã được lau chùi sạch sẽ. Bà đã dùng miếng bọt biển lau hết vụn bánh mì, ném vào bồn rửa, rồi ngồi xuống với họ - Có chuyện gì thế?

    - Chúng tôi đang điều tra về vụ nổ, chúng tôi muốn hỏi những người hàng xóm vài câu. Khi bà nghe tiếng nổ, trong nhà có ai với bà? - Bà thấy ông ta nhìn quanh phòng, ngắm nghía nhà bếp lịch sự. Căn phòng to lớn, đẹp, quầy bếp bằng đá granit trắng, dụng cụ nhà bếp tiên tiến, trên trần nhà treo chiếc đèn chùm bằng pha lê của Venice lớn màu trắng. Chiếc đèn tương xứng với vẻ to lớn đồ sộ của các thứ khác trong nhà. Ngôi nhà rất lịch sự, to lớn, uy nghiêm, rất tương xứng với sự thành công của Allan với thời điểm họ mua ngôi nhà này. Nhưng khi thanh tra Lee nhìn chiếc quần jeans, cái áo thun và mái tóc xõa buộc ra sau bằng sợi dây thun của bà, ông thấy bà rất bình dị, thanh thản. Mới nhìn trông bà như một cô bé và rõ ràng bà đang nấu ăn, điều này làm cho ông ta ngạc nhiên. Trong ngôi nhà như nhà bà, ông nghĩ là phải có người đầu bếp chứ không phải bà chủ xinh đẹp mặc quần jeans và đi chân trần.

    - Có các con tôi với tôi. - Bà đáp. Ông ta gật đầu.

    - Còn ai nữa không? - Ông nghĩ còn người đầu bếp, các người hầu và người giữ nhà nữa. Ông nghĩ loại nhà như thế này chắc phải có nhiều người làm, có thể còn có một hay hai người giúp việc, hay thậm chí còn có quản gia nữa. Ông thấy nếu chỉ có một mình bà thì quả hết sức lạ lùng. Ông đoán có lẽ Chủ nhật nên người làm đã nghỉ hết.

    - Không, chỉ có chúng tôi. Các con tôi và tôi.

    - Chồng bà có nhà không? - Ông hỏi. Bà ngần ngừ một lát, rồi quay mắt nhìn đi chỗ khác. Bà vẫn ghét việc phải nói lên chuyện này. Chuyện còn quá mới và bất cứ khi nào nói ra, bà vẫn còn rất đau lòng.

    - Không. Tôi góa chồng. - Giọng bà nho nhỏ và có vẻ nghẹn ngào khi thốt ra điều này. Bà ghét từ này.

    - Tôi xin lỗi. Quý vị có ai đi ra ngoài trước khi nghe tiếng nổ không? - Ông hỏi và bà thấy ông ta có vẻ tốt. Bà không hiểu sao, nhưng bà thích ông ta. Chỉ có thanh tra Lee mới nói với bà, còn ông thanh tra Stone không nói gì hết. Bà thấy ông ta đưa mắt nhìn quanh, quan sát nhà bếp. Họ hình như muốn ghi nhận tất cả các thứ trong bếp và cũng muốn quan sát bà nữa.

    - Không, sau đó chúng tôi mới ra ngoài, trước đó thì không. Tại sao? Có chuyện gì xảy ra à? Có người đốt chiếc xe hơi phải không? - Bà nghĩ có lẽ đấy là trò nghịch ngợm có ác ý, ai đấy đã cố tình muốn đốt chiếc xe.

    - Chúng tôi chưa biết. - Ông ta cười vui vẻ - Bà có nhìn ra ngoài cửa sổ, có thấy ai ngoài đường không? Có thấy cái gì bất thường, hay thấy ai đáng ngờ không?

    - Không. Tôi đang làm công việc giấy tờ nơi bàn, tôi nghỉ con gái tôi đang ngủ, một cậu con trai đang xem video, còn cậu kia đang làm thí nghiệm khoa học cho trường.

    - Nếu chúng tôi hỏi họ, bà có phiền lòng không?

    - Không. Tốt thôi. Tôi tin mấy đứa con trai sẽ rất thích được ông hỏi. Để tôi đi gọi chúng. - Rồi như vừa nghĩ ra việc gì đấy, bà dừng lại ở ngưỡng cửa và quay lại. Ted Lee nhìn bà - Các ông muốn uống gì không? - Bà nhìn cả hai người và họ lắc đầu, cười và cảm ơn bà. Họ có vẻ rất lịch sự với bà - Tôi sẽ quay lại ngay - Bà nói, rồi đi nhanh lên cầu thang đến phòng của các con. Bà nói có cảnh sát ở dưới nhà, muốn hỏi họ vài điều. Như bà đã tiên đoán, Ashley có vẻ bực bội. Cô đang gọi điện thoại, không muốn bị gián đoạn. Còn Sam thì rất phấn khích.

    - Họ có bắt chúng ta không? - Trông cậu có vẻ vừa lo sợ vừa hy vọng. Will rời khỏi trò chơi điện tử Nintendo, cậu cau mày một lát, có vẻ tò mò.

    - Con nói đúng không? - Có phải xe bị cài bom nổ không? - Cậu hỏi.

    - Không, chắc không phải thế. Họ nói họ không biết vì cớ gì, nên họ muốn biết các con có thấy ai hay thấy có gì đáng nghi ngờ không.

    Sam có vẻ thất vọng mấy giây, còn Will đứng dậy, theo mẹ đến cầu thang, nhưng Ashley thì phản đối.

    - Tại sao con phải đi xuống dưới nhà? Con ngủ kia mà. Mẹ không nói cho họ biết thế à? Con bận nói chuyện với Marcy. - Hai cô có chuyện quan trọng phải bàn thảo. Như chuyện cậu học sinh lớp tám trong trường đã tỏ ra quan tâm đến Ashley. Theo cô thì vấn đề này quan trọng và lý thú hơn chuyện cảnh sát rất nhiều.

    - Hãy nói với Marcy con sẽ gọi lại cho cô ấy sau. Con có thể tự mình nói cho cảnh sát biết khi ấy con đang ngủ. - Fernanda vừa nói vừa đi xuống lầu và các con đi theo bà xuống bếp. Hai nhà thám tử thấy họ đi vào, bèn đứng dậy và cười với tất cả. Đám con của bà trông thật dễ thương và bà cũng dễ thương. Bỗng Ted Lee cảm thấy thương xót bà và nhìn vào vẻ mặt của bà khi bà trả lời, ông có cảm giác bà vừa mới góa chồng. Ông có trực giác về các tình huống xảy ra rất nhạy bén, sau ba mươi năm phỏng vấn và quan sát người mình hỏi. Bà có vẻ đau đớn khi trả lời ông, nhưng bây giờ trông bà có vẻ dễ chịu hơn nhiều với các đứa con đứng quanh mình. Ông nhận thấy cậu bé có đầu tóc đỏ giống như tiểu yêu, còn cậu ta thì nhìn ông với ánh mắt đăm đăm.

    - Mẹ cháu nói các ông sẽ không bắt chúng tôi. - Sam lớn tiếng nói, mọi người trong phòng đều cười. Ted nhìn cậu và cười.

    - Đúng thế, con trai ạ. Có lẽ cháu muốn giúp chúng tôi trong việc điều tra này. Chúng tôi có thể đề cử cháu làm phụ tá và khi cháu lớn, cháu có thể làm thám tử.

    - Cháu chỉ mới sáu tuổi. - Sam đáp, vẻ ân hận, như thể nếu cậu lớn hơn, cậu sẽ giúp họ liền.

    - Tốt thôi. Cháu tên gì? - Thanh tra Lee rất tốt với trẻ con, ông làm cho Sam cảm thấy dễ chịu ngay.

    - Sam.

    - Tôi là thanh tra Lee, còn đây là người đồng nghiệp của tôi, thanh tra Stone.

    - Có phải bom nổ không? - Will cắt ngang lời họ, còn Ashley mở to mắt nhìn anh trai, cô nghĩ rằng hỏi thế thật ngốc. Cô chỉ muốn lên lầu lại để nói chuyện điện thoại.

    - Có lẽ thế - Ted Lee thành thật nói - Có thể bom nổ. Chúng tôi chưa biết chắc. Cảnh sát tư pháp đã kiểm tra rồi. Họ sẽ xem chiếc xe lại kỹ càng hơn. Chắc quý vị sẽ ngạc nhiên trước việc họ tìm ra việc này. - Ông không nói cho các con bà biết, nhưng họ đã biết đây là vụ nổ bom. Nói cho những người hàng xóm này biết để họ lo sợ thì chẳng có ích lợi gì. Điều bây giờ họ muốn biết là ai đã làm việc này - Có ai trong số quý vị ở đây đi ra ngoài, hay nhìn ra cửa sổ trước khi nghe tiếng nổ không?

    - Có cháu. - Sam nhanh nhẩu đáp.

    - Con à? - Mẹ cậu kinh ngạc nhìn cậu - Con đi ra ngoài à? - Bà thấy khó tin, nên bà nhìn cậu bé với vẻ nghi ngờ, hai anh chị của cậu cũng nhìn cậu ngạc nhiên. Ashley nghĩ cậu bé nói láo với cảnh sát cho ra vẻ quan trọng.

    - Cháu nhìn ra ngoài cửa sổ, phim dở nên cháu thấy chán.

    - Cháu nhìn thấy gì? - Ted hỏi, vẻ rất quan tâm. Cậu bé trông có vẻ rất lanh lợi, khiến ông nhớ đến một trong số các người con trai của mình khi cậu ta còn bé. Cậu bé cũng có lối nói chuyện cởi mở, vui vẻ với người lạ như cậu bé này, vì thế người nào gặp cậu cũng yêu cậu hết - Cháu thấy cái gì, Sam? - Ted hỏi, vừa ngồi xuống trên cái ghế để khỏi cúi người nhìn xuống cậu bé. Ông ta cao, và khi ngồi xuống, Sam nhìn thẳng vào mặt ông không do dự.

    - Người ta đang hôn nhau. - Sam mạnh dạn đáp với vẻ ghê tởm.

    - Hôn nhau ngoài cửa sổ nhà cháu à?

    - Không, trên phim, vì thế cháu mới chán. Hôn nhau là ngu ngốc.

    Will cười khi nghe cậu bé nói, Ashley thì cười khúc khích, còn Fernanda nhìn cậu con với nụ cười buồn, lòng phân vân không biết bao giờ cậu bé thấy hôn thật ngoài đời. Có lẽ đời bà thì hết, chỉ có đời của cậu bé thôi. Bà xua đuổi ý nghĩ ấy ra khỏi óc, vừa khi Ted hỏi :

    - Cháu thấy gì ngoài cửa sổ?

    - Thấy bà Farber dắt chó đi chơi. Con chó này thường dọa cắn cháu.

    - Thế thì bậy quá. Cháu có thấy ai nữa không?

    - Ông Cooper với cái bao đựng đồ chơi gôn. Ông ta chơi gôn vào mỗi Chủ nhật. Và có một người đàn ông đi ngoài đường, nhưng cháu không biết ông ta.

    - Trông ông ta như thế nào? - Ted hỏi với vẻ rất thản nhiên. Sam cau mày như thể cố suy nghĩ - Cháu không nhớ. Cháu chỉ nhớ có thấy ông ta thôi.

    - Cháu thấy ông ta có kỳ dị hay dễ sợ không? Cháu có nhớ gì về ông ta không? - Sam lắc đầu.

    - Cháu chỉ biết cháu thấy ông ta thôi, nhưng cháu không chú ý. Cháu đang nhìn ông Cooper, ông ta gặp bà Faber, lè kè cái bao đựng đồ chơi gôn và con chó của bà sủa vang. Cháu muốn xem con chó của bà ấy có cắn ông ta không?

    - Nó có cắn không? - Ted quan tâm hỏi.

    - Không. Bà Faber kéo sợi dây, la toáng lên.

    - Bà ta la ông Cooper à? - Ted hỏi, mỉm cười và Sam cười toe toét. Cậu bé thích Ted, cho câu hỏi của ông rất vui.

    - Không, - Sam đáp, vẻ kiên nhẫn - bà ấy la con chó, cho nên nó không cắn ông Cooper. Rồi cháu quay lại xem phim, và sau đó, cháu nghe có tiếng nổ lớn.

    - Cháu chỉ thấy có thế thôi à?

    Sam lại tập trung vào câu hỏi của ông ta, cậu gật đầu.

    - Ồ. Cháu nhớ còn thấy một cô gái nữa. Cháu cũng không biết cô ta. Cô ta chạy.

    - Cổ ta chạy về hướng nào?

    Sam chỉ tay về phía có chiếc xe bị nổ.

    - Cô ta giống như thế nào?

    - Không có gì đặc biệt. Cô ta có vẻ giống như chị Ashley.

    - Cô ta cùng đi với người đàn ông mà cháu không biết ấy à?

    - Không, ông ta đi ngược chiều, cô ấy gặp ông ta. Con chó của bà Faber cũng sủa cô ấy, nhưng cô ấy cứ chạy qua họ. Đấy, cháu chỉ thấy có thế. - Sam nói với vẻ quan trọng, rồi cậu bé nhìn mọi người, vẻ bối rối. Cậu ta sợ mọi người cho là cậu muốn trình diễn, thỉnh thoảng họ nghĩ thế.

    - Thế là rất tốt, Sam. - Ted khen cậu bé, rồi nhìn anh và chị của cậu.

    - Các cháu thì sao? Các cháu thấy gì không?

    - Tôi đang ngủ. - Ashley đáp, nhưng cô không phản bác vấn đề như hồi nãy nữa. Cô thấy thích ông ta. Các câu hỏi của ông rất hấp dẫn.

    - Tôi đang làm thí nghiệm khoa học - Will nói thêm - Tôi không rời mắt khỏi công việc cho đến khi nghe tiếng nổ. Tôi đang theo dõi trận bóng của đội Giants, nhưng tiếng nổ quá to.

    - Chắc là rất to - Ted gật đầu nói rồi đứng dậy - Nếu có ai trong quý vị nghĩ ra điều gì, xin gọi cho chúng tôi. Mẹ các cháu đã có số điện thoại của chúng tôi. - Tất cả đều gật đầu và Fernanda như mới nghĩ ra được điều gì, bà cất tiếng hỏi ông ta :

    - Chiếc xe của ai thế? Xe của người nào gần đây hay xe của ai đậu ngoài đường? - Bà không biết chiếc xe cháy của ai.

    - Xe của ông chánh án McIntyre, ông ta là hàng xóm của bà. Có lẽ bà biết ông ấy. Ông ấy đi khỏi thành phố, nhưng bà McIntyre thì ở nhà. Bà ấy sắp ra xe lái đi đâu đó thì xe nổ, khiến bà quá sợ. May thay khi xe nổ bà ấy đang ở trong nhà.

    - Tiếng nổ cũng làm tôi sợ khiếp.

    - Tất cả chúng tôi đều sợ. - Fernanda nói tiếp.

    - Nghe như cả khu phố đều nổ tung hết - Will nói thêm - Tôi cam đoan có bom gài trong xe phát nổ. - Cậu cương quyết nói.

    - Chúng tôi sẽ cho quý vị biết. - Ted đáp, nhưng Fernanda nghĩ là họ sẽ không cho bà biết.

    - Nếu quả thật có bom cài trong xe, ông có nghĩ là kẻ cài bom muốn sát hại chánh án McIntyre không? - Fernanda hỏi với vẻ quan tâm.

    - Có lẽ không. Có lẽ đây là chuyện điên khùng tình cờ.

    Nhưng lần này bà không tin ông ta. Trên hiện trường có rất nhiều xe cảnh sát và xe ông cảnh sát trưởng đến rất nhanh. Bà bắt đầu tin ý của Will là đúng. Rõ ràng họ đang tìm ai đấy, đang kiểm soát rất kỹ. Bà nghĩ, đám lửa cháy tình cờ mà họ đến đông và làm việc kỹ như thế sao!

    Thanh tra Lee cám ơn họ, rồi cùng người đồng nghiệp chào để ra về. Fernanda đóng cửa, vẻ đăm chiêu.

    - Chuyện hấp dẫn đấy. - Bà nói với Sam. Cậu bé cảm thấy mình rất quan trọng sau khi trả lời họ. Mấy anh em vừa lên cầu thang về phòng vừa nói chuyện này, còn Fernanda trở vào bếp để lau chùi nhà bếp.

    Khi Ted Lee và Jeff Stone đi qua nhà bên cạnh, Ted nói :

    - Cậu bé lanh lắm. - Nhà bên cạnh không ai thấy gì. Họ kiểm tra tất cả những ngôi nhà trong khu phố, trong đó có nhà Faber và nhà Cooper mà Sam đã nói đến. Không ai thấy gì hết, hay không ai nhớ gì hết. Ba giờ sau, khi hai người thanh tra về đến văn phòng, Ted vừa rót cho mình tách cà phê vừa nghĩ đến cậu bé tóc đỏ dễ thương. Khi ông bỏ bột kem vào cà phê, Jeff Stone tình cờ nói :

    - Tuần này chúng ta có tin về Carlton Waters. Anh có nhớ thằng này không? Hắn là thằng đã giết cặp vợ chồng khi mới mười bảy tuổi, bị kết án như người lớn. Hắn đã kháng án hàng triệu lần để xin tha bổng, nhưng không được. Hắn mới ra tù tuần này, đang bị quản chế ở Modesto, tôi nghĩ thế. Có phải McIntyre làm chánh án đã kết tội hắn không? Tôi nhớ đã đọc báo đâu đó về vụ án này. Ông ấy cam đoan Waters có tội. Waters khai rằng tên đồng sự của hắn kéo cò bắn chết nạn nhân, còn hắn chỉ đứng đấy nhìn như đứa bé mới sinh. Tên kia bị chích thuốc độc cho chết tại nhà tù San Quentin mấy năm sau đó. Tôi nghĩ Waters ở tù tại nhà tù Pelican Bay.

    - Anh nghĩ như thế à? - Ted vừa nhấp cà phê nóng vừa hỏi - Anh nghĩ Waters làm việc này à? Nếu hắn làm thế thì hắn quá dại rồi. Hắn đặt bom để giết ông chánh án đã kết tội hắn sau hai mươi bốn năm chỉ hai ngày sau khi ra tù thôi à? Hắn không ngu như thế đâu. Thằng này khôn lắm. Tôi có đọc hai bài báo do hắn viết. Hắn không điên đâu. Hắn biết nếu làm thế hắn sẽ đi tàu tốc hành trở lại Pelican Bay ngay và không có vé khứ hồi, hắn là người bị người ta nghi nhất. Chắc là ai đấy, hay chỉ là chuyện tình cờ thôi. Trước khi về hưu, chánh án McIntyre đã làm cho nhiều ngườỉ tức giận, ông ta không chỉ bỏ tù Waters thôi đâu.

    - Tôi chỉ nghĩ thế thôi. Thật là một sự trùng hợp lý thú, nhưng có lẽ chỉ thế thôi, đáng cho ta phải nghiên cứu. Anh muốn ngày mai ta đi Modesto xem sao không?

    - Được. Sao không? Nếu anh nghĩ chuyến đi có dính dáng đến chuyện này. Tôi không nghĩ thế, nhưng tôi không ngại đi một vòng tìm hiểu xem sao. Ngày mai xong việc ta sẽ đi, có thể chúng ta sẽ đến đấy lúc bảy giờ. Thỉnh thoảng cũng có những chuyện may xảy ra. - Nhưng không ai thấy có chuyện gì hay có người nào đáng khả nghi. Họ đã đến điều tra khắp các nhà rồi.

    Chỉ có điều đáng chú ý là cảnh sát tư pháp đã xác nhận chiếc xe hơi bị cài bom. Quả bom rất mạnh. Nếu ông chánh án và vợ có trong xe khi bom nổ thì tính mạng của họ sẽ không an toàn. Nhưng may cho họ là quả bom nổ sớm. Bom có lắp máy định giờ và vợ của ông chánh án suýt nữa thì đã qua bên kia thế giới. Khi người ta gọi cho ông chánh án theo số điện thoại vợ ông đưa, ông ta nói ông tin chắc có người cố giết ông. Nhưng cũng như Ted, ông cho rằng Carlton Waters đã ở tù quá lâu. Hắn đã cố gắng quá nhiều để được tự do, bây giờ lẽ nào hắn lại làm cái việc liều lĩnh như thế khi chỉ mới ra tù được mấy hôm.

    - Thằng này rất khôn - Ông chánh án nói trên điện thoại - Tôi có đọc vài bài báo do hắn viết. Hắn vẫn tuyên bố là hắn vô tội, nhưng hắn không ngu đến nỗi cố giết tôi ngay khi mới ra tù. - Ít ra cũng có đến hàng tá trường hợp khác đáng nghi, có những người mà ông tin đang tức giận ông, những người hiện ở ngoài tù. Ông chánh án đã về hưu năm năm rồi.

    Nhưng dù sao Ted và Jeff cũng đi Modesto, họ đến nhà quản chế vừa lúc Malcolm Stark, Jim Free và Carlton Waters đi ăn tối về. Jim Free đã đề nghị bọn chúng vào tiệm cà phê ở trạm xăng, để hắn có thể gặp cô gái.

    - Chào quý ông buổi tối. - Ted vui vẻ lên tiếng. Cả ba gã đàn ông lập tức có vẻ cảnh giác và thiếu thiện cảm. Họ có thể ngửi mùi cảnh sát xa đến một dặm.

    Khi Waters nghe hai người ở đâu đến, hắn hỏi :

    - Cái gì đưa mấy ông đến đây?

    - Một sự cố nhỏ xảy ra ở khu vực chúng tôi vào ngày hôm qua - Ted nói - Bom cài trong xe của chánh án McIntyre phát nổ. Chắc anh nhớ tên ông ta. - Ted nhìn thẳng vào mặt Waters.

    - Vâng, tôi nhớ. Chuyện như thế không xảy ra cho một người tốt bụng như ông ta được. - Waters nói luôn một lèo - Ước gì tôi có bụng dạ gian ác để làm việc đó, nhưng chuyện này không đáng để tôi phải vào tù lại. Chúng có giết chết ông ta không? - Hắn hỏi, lòng hy vọng.

    - May thay là không, ông ấy đi khỏi thành phố. Nhưng kẻ cài bom suýt nữa đã giết vợ ông ấy. Quả bom nổ trước khi bà ấy ra xe chỉ năm phút.

    - Quá dở! - Waters đáp, vẻ thất vọng. Lee quan sát hắn, rất dễ thấy hắn ranh mãnh. Hắn lạnh lùng như tảng băng ở Nam Cực, nhưng Ted có khuynh hướng đồng ý với ông chánh án. Waters không thể nào liều lĩnh ngu ngốc, đi cài bom cho nổ tung xe của ông chánh án đã bỏ tù hắn để phải vào tù lại. Nhưng cũng có nhiều khả năng hắn làm chuyện gian ác này, có thể hắn mới có vẻ lạnh lùng như vậy chứ. Hắn có thể đi xe buýt đến đó, cài bom, rồi quay về Modesto đúng giờ giới nghiêm của nhà quản chế, thừa thì giờ để nghỉ ngơi. Nhưng bản năng của Ted báo cho ông rằng, tên này không dại gì làm như thế. Tuy nhiên, hắn đang ở trong nhóm ba tên ác ôn. Ông biết hai tên kia là ai, biết chúng ra tù bao lâu rồi. Ted luôn luôn đọc kỹ những bản tin gửi đến cho họ. Ông nhớ tên của chúng. Chúng là những kẻ không đáng tin cậy. Ông không chấp nhận lời của Waters kêu van rằng hắn vô tội và bây giờ ông cũng không tin. Tất cả các tội phạm đều lớn tiếng nói rằng chúng bị tội oan, hoặc là bị bạn gái vu oan, hoặc là bị đồng bọn hay công tố viên vu khống. Ông đã nghe chuyện này nhiều lần rồi. Waters là tên hung dữ nhưng lúc nào cũng làm như mình hiền từ. Hắn có thành tích là thứ tệ nạn xã hội, là kẻ bất lương và dứt khoát hắn là thằng khôn ranh.

    - Tiện thể hỏi anh, hôm qua anh ở đâu? - Ted Lee hỏi. Waters đứng nhìn ông đăm đăm, ánh mắt lạnh lùng.

    - Quanh đây thôi. Tôi đi xe buýt đến thăm bà con. Họ đi khỏi nhà, cho nên tôi ngồi chơi trên hiên nhà họ một lát rồi quay về và ngồi chơi với các bạn ở đây. - Không có ai để xác nhận tình trạng ngoại phạm của hắn trong thời gian xảy ra vụ việc, cho nên Ted không bận tâm hỏi tên của những người bà con của hắn.

    - Tuyệt quá. Có ai có thể xác nhận việc anh đi đâu không? - Ted nói, nhìn thẳng vào mặt hắn.

    - Hai tài xế xe buýt. Tôi vẫn còn giữ các mẫu vé, nếu ông cần, tôi đưa cho ông xem.

    - Hãy đưa cho chúng tôi xem. - Waters có vẻ giận, nhưng hắn lên phòng, lấy mẫu vé đưa cho Ted xem. Các mẫu cho thấy địa chỉ nằm ở vùng Modesto và rõ ràng đã được dùng rồi, chỉ còn lại một nửa mẫu thôi. Có thể hắn đã xé các mẫu này đâu đó, nhưng Ted Lee không tin hắn đã làm thế. Waters trông có vẻ thản nhiên khi Ted trả lại các mẫu vé cho hắn - Thôi được rồi, các cậu hãy liệu giữ mình đấy. Thỉnh thoảng chúng tôi sẽ trở lại thăm các cậu, nếu có gì xảy ra. - Chúng biết ông ta có quyền hỏi, hay thậm chỉ có quyền lục soát họ bất cứ khi nào ông ta thấy khả nghi. Cả ba tên đang ở trong tình trạng bị quản thúc.

    - Vâng và khi đi ra nhớ đừng để cánh cửa dập vào đít. - Jim Free nói nho nhỏ khi họ đi ra. Ted và Jeff nghe hắn nói, nhưng họ không phản ứng, vẫn đi ra xe rồi lái đi. Waters nhìn họ với ánh mắt giận dữ.

    - Đồ con lợn! - Malcolm Stark thốt lên, nhưng Waters không nói gì. Hắn quay gót đi vào nhà. Hắn phân vân không biết có phải mỗi lần có chuyện gì khả nghi ở San Francisco, họ lại đến tra hỏi hắn không. Chừng nào hắn còn bị quản chế, họ có thể làm gì họ muốn với hắn và hắn không thể làm gì được. Điều duy nhất mà hắn không muốn, là bị vào tù lại.

    Khi Ted và người đồng sự lái xe đi rồi, ông hỏi bạn :

    - Anh nghĩ sao? Anh tin hắn vô tội không? - Ted vừa nghi vừa không, nhưng ông nghĩ hắn đáng nghi. Trong bụng thì nghi, nhưng cái đầu lại nói chắc có ai đấy đã để quả bom vào xe. Waters không quá ngu để làm một việc như thế, hắn rất khôn. Nhưng Ted phải xác nhận rằng trông hắn thật ác ôn. Quả bom có thể cài vào trong xe như lời cảnh cáo sẽ có nhiều chuyện quan trọng hơn xảy ra, vì quả bom có định giờ chỉ sẽ giết ông chánh án hay vợ ông ta thôi, nếu họ ngồi trong xe hay đứng gần đấy khi bom nổ.

    - Tôi không tin hắn vô tội - Jeff Stone đáp - Tôi nghĩ hắn không đáng tin cậy, làm sao tin nổi lời hắn nói. Tôi nghĩ hắn dám đi vào thành phố, cài bom vào xe của McIntyre rồi về đây kịp giờ ăn. Tôi nghĩ hắn có thể làm như thế. Nhưng tôi lại nghĩ, hắn rất khôn nên không làm việc ấy. Tôi nghĩ lần này hắn không làm việc ấy. Nhưng tôi không tin thằng này chút nào hết. Tôi nghĩ hắn sẽ quay về con đường cũ. Chúng ta sẽ nghe tin hắn phạm tội cho mà xem. - Cả hai đã thấy nhiều người như hắn trở lại nhà tù rất nhiều lần.

    Ted đồng ý.

    - Có lẽ chúng ta nên in ảnh hắn, rồi đưa cho dân chúng khối phố xem, nhiều khi có người sẽ nhớ ra hắn. Có lẽ thằng bé của gia đình Barnes khi thấy bức ảnh sẽ nhớ ra hắn, biết đâu được.

    - Việc này không khó khăn gì. - Jeff đáp, gật đầu, vừa nghĩ đến ba tên đàn ông mà họ vừa gặp. Một bắt cóc, một giết người và một chuyên chở ma túy. Chúng là một nhóm bê bối, ác ôn - Khi về tôi sẽ in một số ảnh của hắn. Chúng ta sẽ đem ảnh cho dân trong vùng xem vào thứ ba, để xem có ai trông thấy hắn trên đường vào hôm đó không.

    - Tôi sợ họ sẽ không nhớ. - Ted đáp khi xe họ về đến xa lộ. Trời nóng ở Modesto, chuyến đi không được gì, nhưng ông mừng vì họ đã đi, ông chưa bao giờ thấy Carlton Waters, bây giờ thấy hắn bằng xương bằng thịt.

    Ông mới biết hắn như thế nào. Hắn làm cho ông rùng mình, ông tin chắc thế nào họ cũng gặp hắn lại. Hắn là loại người không bao giờ cải tạo được. Hắn đã ở tù hai mươi bốn năm, nhưng Ted tin rằng bây giờ hắn còn nguy hiểm hơn trước khi vào tù. Hắn đã ở trong trường giác đấu gần hai phần ba cuộc đời. Đây là ý nghĩ bi quan, nhưng Ted hy vọng trước khi hắn quay về nhà tù lại, hắn sẽ không giết ai.

    Hai nhà thám tử yên lặng một hồi, rồi lại nói về vụ bom nổ trong xe hơi. Jeff sẽ lục tìm trong máy tính danh sách những tên bị chánh án McIntyre kết án trong thời gian hai mươi năm qua, xem những tên nào đã ra tù. Có lẽ có một số đã ra rồi, lâu hơn Carl. Điều duy nhất họ tin chắc là đây không phải chuyện xảy ra tình cờ. Đây là món quà riêng tặng ông chánh án và nếu không có ông thì tặng vợ ông. Ted không quả quyết ai cài bom, nhưng ông nghĩ rằng cuối cùng họ sẽ tìm ra được kẻ nào làm việc đó. Carlton Waters không hoàn toàn nằm ở ngoài danh sách số nghi can. Hắn không chứng minh được trường hợp ngoại phạm của hắn, nhưng cũng không có bằng chứng để buộc tội hắn. Ông và Jeff cũng nghĩ là sẽ rất khó tìm ra bằng chứng. Nếu Waters làm việc này, hắn quả rất khôn. Cho dù hắn làm đi nữa, thì họ cũng không thể buộc tội hắn được. Nhưng nếu không buộc tội hắn, thì sau khi đã gặp hắn, Ted cũng phải canh chừng hắn. Ông nghĩ rằng bây giờ ngày nào ông cũng phải theo dõi Carlton Waters, không thể nào sao nhãng việc này. Hắn là loại người như thế.

    Last edited by giavui; 09-07-2020 at 03:03 PM.

  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 7
    Vào hôm thứ Ba, chuông cửa reo lúc năm giờ, trong khi Fernanda đang ngồi trong bếp, đọc bức thư của Jack Waterman. Trong thư, ông ta liệt kê các thứ bà phải bán và số tiền bà sẽ thu được. Lời ước tính của ông dè dặt, nhưng cả hai đều hy vọng rằng nếu bà bán hết mọi thứ, kể cả đồ nữ trang mà Allan đã tặng bà bà sẽ có thể bắt đầu cuộc đời mới từ con số không, nhưng không nợ nần, điều bà lo sợ nhất là nợ nần. May ra, bà bắt đầu lại cuộc sống từ đầu và bà không biết rồi đây, làm sao để nuôi nổi gia đình cho đến khi các con bà khôn lớn vào học đại học. Trước mắt, bà chỉ còn việc tin tưởng mình sẽ nghĩ ra được điều gì đó. Bây giờ bà phải cố gắng để vượt qua mọi thử thách hàng ngày, tiếp tục bơi hết mình để khỏi phải chết chìm.

    Will ở trên lầu làm bài tập, hay giả vờ làm thế. Sam đang chơi trong phòng, còn Ashley đang diễn tập để trình diễn vũ ba lê, buổi diễn tập sẽ chấm dứt lúc bảy giờ. Fernanda sẽ làm bữa ăn tối trễ hơn, cho nên bà có thì giờ nhiều để ngồi suy nghĩ. Bỗng tiếng chuông cửa reo làm bà giật mình. Bà không biết ai đến nhà mình, vụ bom cài trong xe nổ cách đây đã hai hôm rồi, bà đã bắt đầu không nghĩ đến nữa. Nhưng khi nhìn qua lỗ cửa, bà thấy Ted Lee. Ông ta đi một mình, mặc áo sơ-mi trắng thắt cà vạt đen và áo vét tông mỏng. Hai lần gặp Ted, lần nào bà cũng thấy ông nghiêm trang đứng đắn.

    Bà mở cửa với vẻ ngạc nhiên và lại nhận ra ông rất cao. Ông cầm tập hồ sơ trong tay, có vẻ ngần ngại cho đến khi bà mời ông vào. Ông thấy mặt bà lộ vẻ căng thẳng, tóc xõa và hình như mệt mỏi. Ông tự hỏi cái gì đã làm cho bà khổ sở như thế. Trông bà như thể cả gánh nặng của cuộc đời đang đè lên hai vai bà. Nhưng khi ông đi vào, bà mỉm cười và cố vui.

    - Chào ông thanh tra. Hôm nay ông khỏe chứ? - Bà hỏi, mỉm cười mệt mỏi.

    - Tôi khỏe. Tôi xin lỗi đến làm phiền bà. Tôi muốn đến để đưa cho bà xem bức ảnh của nghi can. - Ông nhìn quanh như hôm Chủ nhật. Khó mà khỏi bị ngôi nhà và những đồ vật vô giá ở trong nhà gây ấn tượng mạnh. Bà vẫn mặc quần jeans, áo thun cụt tay như hôm Chủ nhật. Lối phục sức bình dị khiến cho bà trông có vẻ không phải chủ nhân của ngôi nhà này. Sống trong ngôi nhà như thế này, đáng ra bà phải lướt xuống cầu thang lầu trong chiếc áo dài dạ hội, quàng áo lông thú dài lê thê ra ngoài. Nhưng bà không giống loại phụ nữ ấy. Tự nhiên Ted cảm thấy thích bà. Bà có vẻ là người bình thường, dịu dàng, tuy buồn bã. Trông bà buồn bã vô cùng, ông nghĩ rằng có lẽ bà quá lo cho con, muốn che chở bảo vệ con. Ted luôn luôn đánh giá con người rất đúng và ông rất tin vào trực giác của mình.

    - Đã tìm ra kẻ cài bom trong xe của chánh án McIntyre rồi ư? - Bà vừa hỏi vừa dẫn ông vào phòng khách, rồi mời ông ngồi vào cái ghế bọc nhung. Ghế mềm mại êm ái. Toàn bộ bàn ghế trong phòng đều bọc bằng nhung, lụa và gấm màu be, còn màn thì trông có vẻ như màn trong lâu đài. Ông nghĩ rất đúng. Bà và Allan đã mua các thứ này trong một tòa lâu đài cổ ở Venice và mang về nhà.

    - Chưa. Nhưng chúng tôi đang kiểm tra một số trường hợp khả nghi. Tôi muốn đưa cho bà xem có nhận ra ai không và nếu có Sam ở nhà, tôi cũng muốn cậu ấy xem tấm ảnh luôn. - Ông vẫn còn bận tâm muốn biết về gã đàn ông mà Sam đã thấy nhưng không nhớ hết chi tiết. Nếu Sam nhận diện ra được Carlton Waters trong ảnh, thì vấn đề sẽ dễ dàng cho ông. Ở đời có nhiều chuyện xảy ra rất kỳ lạ, nhưng Ted không mong chờ gì. Vận may của ông thường không được hên lắm. Tìm nghi can thường mất thời gian rất lâu, nhưng thỉnh thoảng có nhiều người gặp may. Ông hy vọng lần này sẽ gặp may.

    Ted lấy trong chiếc phong bì ra tấm ảnh phóng to, đưa cho bà xem. Bà nhìn đăm đăm vào khuôn mặt trong ảnh, như thể bị khuôn mặt làm cho mê mẩn, rồi bà lắc đầu, trả lại tấm ảnh cho ông.

    - Chắc tôi chưa bao giờ gặp người nào như thế này. - Bà nói nho nhỏ.

    - Nhưng có lẽ bà có thấy chứ? - Ted hỏi dồn, quan sát cử chỉ của bà, nét mặt bà. Bà có những nét vừa mạnh mẽ vừa yếu đuối. Quả rất kỳ lạ khi thấy bà buồn trong một nơi nhà cửa và đồ đạc đẹp tuyệt vời như thế này. Nhưng nghĩ lại, ông thấy chồng bà mới chết cách đây bốn tháng thôi.

    - Chắc là không thấy - Bà thành thật đáp - Trông mặt hắn thì thấy quen quen, có lẽ nó giống người nào đấy tôi đã thấy. Có thể tôi đã thấy ông ta ở đâu đó? - Bà cau mày, cố moi óc để nhớ.

    - Có thể bà đã thấy ở trong báo. Hắn vừa mới ra tù. Trường hợp của hắn rất nổi tiếng. Hắn bị vào tù năm mười bảy tuổi, với thằng bạn của hắn. Hắn luôn mồm tuyên bố trong suốt hai mươi bốn năm rằng hắn vô tội, chính thằng bạn của hắn mới là kẻ kéo cò súng.

    - Khiếp quá! Bất kỳ ai kéo cò cũng khiếp hết. Ông có nghĩ là hắn vô tội không? - Bà thấy hắn có thể là tên giết người.

    - Không, tôi không nghĩ hắn vô tội - Ted thành thật đáp - Hắn là thằng rất khôn. Có lẽ bây giờ hắn tin chuyện hắn nói là thật, biết đâu. Tôi đã nghe chuyện này rồi. Các nhà tù đầy những thằng cho mình là vô tội và sở dĩ chúng đi ở tù là vì các chánh án tồi và các luật sư lưu manh. Không mấy ai, đàn ông hay đàn bà, bị đi tù mà nói là mình có tội.

    - Hắn giết ai thế? - Fernanda rùng mình. Nghĩ đến chuyện này quá khiếp.

    - Một cặp vợ chồng hàng xóm. Chúng định giết luôn cả hai đứa con của họ, nhưng hai đứa bé còn quá nhỏ, nên chúng thấy không cần thiết. Hai đứa còn quá nhỏ, không thể nhận diện được chúng. Chúng giết bố mẹ các cháu để lấy hai trăm đô-la và bất cứ cái gì chúng thấy ở trong ví của họ, chúng ta thường thấy cảnh như thế này. Bạo lực trở thành ngẫu nhiên. Mạng sống con người bị hủy hoại chỉ vì vài đô-la, vài liều ma túy, hay khẩu súng nhỏ. Vì thế mà tôi không làm ở trong phòng án mạng nữa, việc này ngán lắm. Người ta tự hỏi tại sao có loại người tàn bạo như thế và không ai trả lời được. Bọn tội phạm này thuộc giống người đặc biệt. Chúng ta rất khó mà hiểu nổi chúng. - Bà gật đầu, nhưng nghĩ rằng công việc nào cũng không hơn nhau gì mấy. Việc cho xe hơi nổ bom cũng không hơn gì việc giết người, vì chúng cũng có thể giết ông chánh án hay vợ ông ta. Nhưng có lẽ ít tàn bạo hơn việc giết người của Carlton Waters như ông vừa nói. Ngay khi chỉ nhìn ảnh của hắn thôi, bà cũng đã cảm thấy lạnh cả người. Chỉ nhìn ảnh, bà cũng thấy hắn có cái gì đấy lạnh lùng, tàn bạo khiến người ta phải khiếp sợ. Nếu thấy hắn, thế nào bà cũng nhận ra hắn tàn bạo ngay. Trước đây bà chưa thấy Carlton Waters.

    - Ông có tin là ông sẽ tìm ra kẻ đã làm cho chiếc xe hơi nổ tung không? - Bà hỏi. Bà phân vân không biết họ tin đây là tội ác đến bao nhiêu phần trăm và họ nỗ lực để giải quyết vụ này có nhiều không. Nhưng xem ông có vẻ rất năng nổ. Ông có khuôn mặt dễ thương, đôi mắt dịu dàng và thái độ rất tốt, thông minh. Ông không phải là loại thanh tra cảnh sát như bà từng nghĩ đến, mà bà nghĩ ông là loại cứng rắn hơn. Tuy nhiên Ted Lee có vẻ là người văn minh và rất bình thường.

    - Chúng tôi sẽ tìm ra kẻ cài bom - Ted thành thật đáp - Chúng tôi phải cố hết sức để tìm cho ra. Nếu cho đây là hành động ngẫu nhiên thì quả hết sức vô lý, chẳng có nghĩa lý gì hết và chắc mọi người đều nghĩ thế. Ta phải đào sâu tìm hiểu dưới mặt nổi của hiện tượng mới thấy được vấn đề. Và cứ nghĩ rằng việc này sẽ gây thiệt hại cho ông chánh án, tôi tin là hành động này của ai đấy có nguyên do của nó. Nguyên do là để trả thù. Kẻ nào đấy bị ông ta tống giam vào tù cứ nghĩ rằng hắn không đáng bị kết tội như thế, nên muốn trả thù ông ta. Nếu có kẻ như thế, chúng tôi sẽ có khả nẳng tìm ra chúng. Vì thế mà tôi nghĩ đến Waters, hay thực ra đấy là ý nghĩ của người đồng sự của tôi. Waters mới ra tù vào tuần trước. McIntyre làm chánh án phiên tòa xét xử hắn, đã kết tội hắn.

    - Hai mươi bốn năm là thời gian dài mà còn thù oán thì cũng quá đáng và vừa mới ra tù mà cài bom vào xe của ông chánh án thì quả là thiếu khôn ngoan. Waters khôn ngoan hơn thế nhiều, nhưng có lẽ hắn ở trong tù dễ chịu hơn. Nếu hắn có hành động ấy, thế nào rồi hắn cũng lộ ra ngoài. Bất kỳ kẻ nào làm việc ấy thế nào cũng lộ diện, chúng tôi sẽ có mật báo viên gọi điện thoại đến cho biết. Hầu hết các nguồn tin chúng tôi có, đều do hoặc là những người vô danh báo để lĩnh tiền thưởng, hoặc là do mật báo viên có ăn lương. - Fernanda hoàn toàn không biết về những chuyện bí mật này, mà bà cũng không muốn biết và mặc dù điều này làm cho bà sợ thật, nhưng bà cũng rất thích nghe ông nói - Phần đông bọn này có liên kết nhau, ràng buộc nhau trên một vài phương diện nào đấy và chúng không hoàn toàn giữ bí mật được tốt. Chúng bị thôi thúc phải nói ra chuyện bí mật, vì thế mà chúng tôi có và xem xét mọi linh cảm của chúng tôi. Chúng tôi mới có linh cảm chính Waters là thủ phạm và có lẽ rõ ràng như thế, nhưng dù sao cần phải kiểm tra mới được. Nếu tôi đưa cho Sam xem tấm ảnh này, bà có phản đối không?

    - Không phản đối. - Bà rất muốn biết Sam có nhận ra hắn không, mặc dù bà không muốn cậu bé gặp nguy hiểm khi nhận diện một tội phạm, vì tên này có thể hãm hại cậu, trả thù cậu sau này. Bà liền hỏi Ted - Nếu thằng bé nhận ra hắn thì sao? Sam có được giữ bí mật chuyện cháu nhận diện ra hắn không?

    - Dĩ nhiên phải giữ bí mật. Chúng tôi sẽ không để cho một cậu bé sáu tuổi phải gặp nguy hiểm - Ông dịu dàng nói - Ngay cả người lớn chúng tôi cũng phải giữ bí mật. Chúng tôi làm đủ mọi cách để bảo vệ những người đưa tin cho chúng tôi - Bà gật đầu, lòng nhẹ nhõm. Ông đi theo bà lên cầu thang rộng đến phòng của Sam. Ông thấy trên đầu mình một bộ đèn chùm cực lớn, khiến ông bàng hoàng. Allan mua bộ đèn chùm này ở Vienna, tại một lâu đài hư hỏng khác, rồi chở bằng tàu thủy cùng với những vật dụng bằng thủy tinh nhỏ khác về San Francisco.

    Bà gõ cửa phòng của Sam rồi mở ra, Ted đứng sau lưng bà. Sam đang chơi đồ chơi trên nền nhà.

    - Xin chào - Sam cười toe toét nhìn ông - Bây giờ ông đến bắt cháu phải không? - Rõ ràng cậu không sợ tí nào khi thấy Ted đến thăm, không những thế mà cậu còn thích thú khi gặp ông. Cậu cảm thấy quan trọng vào hôm Chủ nhật, hôm ấy ông đã hỏi cậu thấy gì và để cho cậu nói rất đầy đủ chi tiết. Và mặc dù Sam mới gặp ông một lần, nhưng cậu cảm thấy Ted rất thân thiện, có cảm tình và thích trẻ con, Sam có thể nói như thế.

    - Không. Tôi sẽ không bắt cậu. Nhưng tôi mang đến cho cậu cái này. - Ted đáp, thọc tay vào túi áo khoác, ông không nói cho Fernanda biết ông sẽ tặng cho cậu bé món quà. Trong khi nói chuyện với bà, ông đã quên mất. Ông đưa món quà cho Sam, cậu cầm lấy, nhìn vào món quà và há hốc miệng ngạc nhiên. Quà là ngôi sao bằng đồng sáng lóng lánh, giống như cái bằng bạc mà Ted mang theo trong ví - Sam, bây giờ cháu là phó thanh tra cảnh sát. Nghĩa là cháu phải luôn luôn nói sự thật và nếu cháu thấy có kẻ nào xấu đến đây, hay thấy người nào khả nghi, cháu phải gọi chúng tôi.

    Ngôi sao có con số một, dưới hàng chữ viết tắt của Sở Cảnh sát San Fransisco, đây là quà họ tặng cho bạn bè của Sở. Sam trông như thể người bạn mới của cậu đã cho cậu viên kim cương. Fernanda cười khi nhìn nét mặt của con trai, rồi nhìn Ted để cám ơn. Việc này thật tuyệt, Sam rất sung sướng.

    - Quà tặng ấn tượng quá. Rất ấn tượng. - Bà cười với con trai rồi bước vào phòng, Ted đi theo bà. Như các nơi khác trong nhà, căn phòng được trang hoàng rất đẹp.

    Phòng được sơn màu xanh đậm, điểm nhấn là các màu đỏ và vàng. Trong phòng có đủ các thứ mà con trai ưa thích, gồm cái tivi lớn để xem video, máy hát và kệ sách để chơi trò chơi điện tử, nhiều đồ chơi và sách. Giữa phòng có một đống đồ chơi xếp hình và chiếc xe hơi có máy điều khiển từ xa. Khi họ đi vào, chú bé đang chơi với chiếc xe. Bên cửa sổ có ghế ngồi, Ted nghĩ có lẽ đây là nơi Sam ngồi nhìn ra đường hôm Chủ nhật, và thấy gã đàn ông mà cậu không nhớ đầy đủ chi tiết. Ted đưa cho Sam xem bức ảnh chụp Carlton Waters, rồi hỏi cậu đã thấy hắn bao giờ chưa.

    Sam đứng nhìn tấm ảnh một hồi lâu, như mẹ cậu nhìn hồi nãy. Cặp mắt của Waters có cái gì rất kỳ lạ khiến người ta nhìn vào phải hoảng sợ, ngay cả khi nhìn trên ảnh. Hôm qua khi Ted đến gặp hắn ở Modesto, ông còn thấy cặp mắt hắn lạnh lùng nữa. Ted không nói gì để khỏi làm cho cậu bé lơ đãng, ông đứng lặng lẽ chờ đợi. Hai người đứng nhìn đăm đăm vào cậu bé. Sam suy nghĩ, cố moi óc để nhớ đã gặp hắn lần nào chưa, nhưng cuối cùng cậu bé trả lại tấm ảnh và lắc đầu, mặt vẫn còn vẻ suy nghĩ. Ted nhận thấy thế.

    - Trông hắn ta dễ sợ quá! - Sam nói khi cậu đưa lại tấm ảnh cho Ted.

    - Quá dễ sợ nên cháu không dám nói đã thấy hắn phải không? - Ted thận trọng hỏi, nhìn vào mắt cậu bé.

    - Cháu hãy nhớ đi, bây giờ cháu là phó thanh tra cảnh sát. Cháu phải nói cho tôi biết cháu nhớ cái gì. Nếu cháu đã thấy hắn, thì hắn sẽ không biết cháu đã nói cho chúng tôi biết đâu, Sam à. - Ted muốn trấn an Sam, như đã trấn an Fernanda, nhưng Sam lắc đầu.

    - Cháu nghĩ người đàn ông có tóc vàng giống hắn, nhưng người ấy có vẻ không giống hắn.

    - Cái gì làm cho cháu nghĩ thế? Cháu có nhớ người đàn ông đi trên đường giống như thế nào không? -Thỉnh thoảng sau đó người ta mới nhớ chuyện đã thấy. Đây là hiện tượng cũng đã xảy đến cho người lớn.

    - Không - Sam thành thật đáp - Nhưng khi cháu nhìn tấm ảnh, cháu nghĩ là không nhớ đã thấy hắn. Hắn là người xấu phải không? - Sam hỏi, cậu không có vẻ gì là sợ sệt. Cậu được an toàn ở nhà với người bạn mới là thanh tra cảnh sát và với mẹ, cậu nghĩ không có gì hại được cậu. Chuyện xấu không hề xảy đến cho cậu, ngoại trừ chuyện bố cậu mất, nhưng cậu không hề nghĩ rằng có ai đấy muốn hãm hại cậu.

    - Một tên rất xấu. - Ted trả lời cậu bé.

    - Hắn có giết ai không? - Sam thấy chuyện này rất hấp dẫn. Đối với cậu, đây chỉ là chuyện gây kích thích, chứ không phải chuyện thực, vì thế chẳng có gì nguy hiểm hết.

    - Hắn cùng người bạn đã giết chết hai người. -Fernanda liền có vẻ lo sợ khi nghe Ted nói với cậu bé như thế. Bà không muốn Ted nói với Sam về hai đứa bé mà bọn chúng cũng đã đánh đập dã man. Bà không muốn Sam ngủ thấy ác mộng, như cậu thường có từ khi bố chết, cậu bé sợ mẹ cũng chết hay thậm chí cậu cũng chết luôn. Đấy là cái tuổi dễ bị ám ảnh, nhưng cũng bình thường sau những gì đã xảy ra cho bố cậu. Bản thân Ted hiểu rõ điều đó. Ông cũng có con, nên ông sẽ không làm cho Sam quá lo sợ. - Họ đã bỏ tù hắn một thời gian dài vì tội này - Ted nghĩ rằng nói cho cậu bé biết hắn đã bị trừng phạt vì việc này là điều rất quan trọng. Hắn không phải là tên đi rông ngoài phố giết người một cách tình cờ, không có ý đồ trước.

    - Nhưng bây giờ hắn ra khỏi tù rồi à? - Sam hỏi. Ted không biết có phải chính hắn đi ngoài đường hôm xảy ra vụ nổ bom xe không, và ông muốn biết Sam đã thấy hắn phải không.

    - Hắn ra tù vào tuần trước, nhưng hắn đã ở tù hai mươi bốn năm. Tôi nghĩ hắn đã học được bài học về việc gian ác - Ông tiếp tục nói để làm cho cậu bé an tâm. Đấy là phương pháp hay nhất khi nói chuyện với trẻ con bằng tuổi của cậu bé và Ted đã làm việc này rất tốt. Ông thường tốt với trẻ con, thương yêu chúng. Fernanda có thể thấy được điều đó, bà nghĩ rằng chắc ông cũng có con. Ông đeo nhẫn cưới bên tay trái, cho nên bà biết ông đã có vợ.

    - Tại sao ông nghĩ hắn đã làm nổ xe? - Sam tự nhiên hỏi, lại một câu hỏi hay. Sam thông minh và có óc lý luận.

    - Ta không biết khi nào thì có người xuất hiện ở nơi mà ta không ngờ họ đến. Bây giờ cháu là phó thanh tra cảnh sát, cháu phải học hỏi việc này, Sam à. Cháu phải kiểm tra mọi nguồn tin, bất kể nguồn tin có thể đúng hay không. Thỉnh thoảng ta gặp chuyện rất ngạc nhiên và nhờ thế mà tìm ra được kẻ ta muốn tìm.

    - Ông có nghĩ là hắn làm việc ấy không? Cháu muốn nói chiếc xe bị nổ? - Sam say sưa muốn biết ý của Ted.

    - Không, tôi không nghĩ thế. Nhưng đến đây để kiểm tra vụ việc là điều rất cần thiết. Nếu bức ảnh này đúng là người đàn ông cháu đã thấy mà tôi không bận tâm đưa cho cháu xem thì sao? Hắn sẽ thoát được tội và chúng ta không muốn chuyện xảy ra như thế, phải không? - Sam lắc đầu. Hai người lớn cười với nhau, rồi Ted bỏ tấm ảnh lại vào tập hồ sơ. Ông không nghĩ Waters quá ngu ngốc khi làm một việc lộ liễu như thế, nhưng biết đâu. Và bây giờ ít ra ông có thêm một thông tin nữa do Sam cung cấp. Ông biết nghi can có mái tóc vàng. Thêm một mảnh nhỏ về vụ bom nổ trong xe đã được ghép thêm vào bức tranh tổng thể. Nguồn thông tin này chẳng làm hại ai - Luôn tiện xin nói, tôi thích căn phòng của cháu - Ông nói, vẻ tương đắc với cậu bé, - Cháu có quá nhiều thứ rất tuyệt.

    - Ông có con không? - Sam hỏi, đưa mắt nhìn ông. Cậu bé vẫn nắm cái ngôi sao trong tay, như thể bây giờ nó là vật quý nhất của cậu và đối với cậu, quá đúng như vậy. Đây là món quà mà Ted đã suy nghĩ kỹ khiến cho Fernanda xúc động.

    - Có chứ. - Ted cười, thoa đầu cậu bé với cử chỉ của người cha - Con tôi lớn cả rồi. Hai đứa đang học đại học, còn một đứa đang làm việc ở New York.

    - Anh ấy là cảnh sát phải không?

    - Không, anh ấy làm môi giới chứng khoán. Các con trai tôi không ai muốn làm cảnh sát. - Ông đáp. Mới đầu ông thất vọng, nhưng bây giờ ông nghĩ thế cũng hay. Nghề cảnh sát nguy hiểm và thường chán ngắt. Ted thì thích công việc mình làm, ông rất hài lòng đã làm cảnh sát. Nhưng Shirley lúc nào cũng chú trọng đến việc học, bà muốn các con theo học đại học. Một cậu theo học đại học muốn theo trường luật sau khi tốt nghiệp, còn cậu khác đang học dự bị y khoa. Ông tự hào về các con. - Cháu muốn làm gì khi khôn lớn? - Ted hỏi Sam, mặc dù cậu còn quá nhỏ không biết mình muốn làm gì. Nhưng ông nghĩ cậu bé chắc nhớ bố, nên tạo cơ hội cho cậu nói chuyện với người lớn sẽ rất hay, ông không biết hoàn cảnh của Fernanda từ khi chồng chết, nhưng hai lần ông đến nhà bà, ông có cảm giác nhà thiếu vắng đàn ông, ngoài cậu con trai cả. Bà có vẻ yếu đuối, lo âu, căng thẳng của người đàn bà đang gặp nhiều chuyện khó khăn.

    - Cháu muốn làm cầu thủ bóng dã cầu, - Sam đáp - hay có thể làm cảnh sát. - Cậu vừa nói vừa trìu mến nhìn cái ngôi sao bằng đồng nơi tay. Hai người lớn lại cười. Fernanda đang nghĩ về cậu bé, thấy cậu rất dễ thương thì Will đi vào. Cậu nghe giọng người lớn ở phòng bên cạnh, bèn đi sang để xem ai. Khi thấy Ted, cậu cười và Sam liền báo cho anh biết bây giờ cậu là phó thanh tra cảnh sát.

    - Oai quá! - Will cười toe toét, rồi nhìn Ted - Có phải là bom nổ không?

    Ted chầm chậm gật đầu.

    - Phải. - Chàng trai rất xinh, thông minh, như cậu em trai. Fernanda có ba người con thật dễ thương.

    - Ông có biết ai làm việc này không? - Will hỏi. Ted liền lấy bức ảnh đưa cho cậu ta xem.

    - Cậu có thấy người này đến đây không? - Ted hỏi.

    - Hắn cài bom à? - Will có vẻ tò mò, cậu nhìn bức ảnh một hồi lâu. Cặp mắt của Carlton Waters có sức mê hoặc cậu. Một lát sau cậu trả lại tấm ảnh cho Ted và lắc đầu. Trong gia đình cậu, chưa ai gặp Carlton Waters, nhưng khi nhìn ảnh hắn, ai cũng nghĩ hắn có thể đã phạm tội.

    - Chúng tôi đang kiểm tra để xem thử có khả năng hắn cài bom hay không. Bây giờ thì chưa có chứng cứ gì để buộc tội hắn. Cậu đã thấy hắn chưa. Will?

    - Chưa, tôi chưa thấy. - Chàng trai lắc đầu - Đã có chứng cứ về ai chưa? - Will thích nói chuyện với ông, cậu thấy ông là người tốt. Ông cử xử lịch sự, đứng đắn và rất dịu dàng với trẻ con.

    - Chưa có. Chúng tôi sẽ cho quý vị biết. - Ted nhìn đồng hồ rồi cho biết ông phải đi. Fernanda tiễn ông đi xuống dưới nhà, ông đứng nơi ngưỡng cửa một lát, nhìn bà. Ông nghĩ người phụ nữ có cuộc sống bình lặng như thế này thật kỳ diệu, nhưng ông vẫn thương xót cho bà. - Bà có ngôi nhà thật đẹp, - Ông nói - và đồ đạc tuyệt vời. Tôi rất buồn cho chồng bà - Giọng ông đầy thương cảm. Ông biết giá trị của tình vợ chồng ông sau hai mươi tám năm chung sống. Cho dù họ không gần gũi nhau, họ cũng có cảm tình với nhau rất nhiều. Ông cảm thấy Fernanda cô đơn, cuộc sống đơn độc buồn thảm bao phủ quanh bà.

    - Tôi cũng vậy. - Bà đáp vẻ buồn bã.

    - Ông chết vì tai nạn à?

    Fernanda ngần ngừ một lát, nhìn ông, ánh mắt đau đớn khiến ông phải nín thở. Sự đau đớn ê chề, thê thảm.

    - Có lẽ... chúng tôi không biết. - Bà ngần ngừ một lát nữa, rồi bỗng cảm thấy dễ chịu khi có Ted bên cạnh. Bà không biết tại sao mình cảm thấy như thế, không biết lý do tại sao bà cảm thấy tin tưởng ông - Có thể đấy là vụ tự tử. Anh ấy rơi khỏi thuyền vào ban đêm ở Mexico. Anh ấy chỉ có một mình trên thuyền.

    - Tôi rất buồn - Ông lặp lại rồi mở cửa và quay lại nhìn bà - Nếu có gì chúng tôi có thể làm được cho bà, xin cho chúng tôi biết - Ông rất thích được gặp lại Fernanda và các con bà. Được gặp những người như thế này ông thấy thật đáng giá. Gia đình này làm cho lòng ông rung động. Bất kể họ có nhiều tiền bao nhiêu, hình như có rất nhiều, nhưng họ cũng có nỗi buồn của mình. Chuyện anh giàu hay nghèo không thành vấn đề, sự buồn rầu vẫn xảy ra cho tất cả mọi người khắp nơi, ở tất cả các giai cấp sang hay hèn, những người giàu cũng đau khổ như những người nghèo. Dù nhà cửa bà to lớn, đèn chùm của bà đẹp đẽ sang trọng, nhưng các thứ ấy vẫn không làm cho bà ấm lòng vào lúc đêm về, bà vẫn cảm thấy cô đơn với ba đứa con phải một mình nuôi nấng dạy bảo. Nếu có chuyện gì xảy đến cho ông, thì hoàn cảnh của vợ ông cũng không khác gì, Shirley sẽ sống cô độc với các con. Ông vẫn suy nghĩ cho đến khi ra đến xe, rồi lái đi và bà lặng lẽ đóng cửa.

    Bà quay vào bàn làm việc, đọc lại bức thư của Jack Waterman. Bà gọi điện thoại để hẹn gặp ông ta, cô thư ký cho biết ngày mai ông sẽ gọi cho bà. Hôm nay ông đi có việc cả ngày. Đúng bảy giờ kém mười lăm, bà lên xe, lái đi đón Ashley tại trường học vũ ba lê. Khi cô gái lên xe, bà thấy vui trong lòng, hai mẹ con liền nói đến chuyện tập dượt, chuyện nhà trường, và về nhiều bạn bè của Ashley. Cô gái đang ở tuổi dậy thì, có lẽ vài năm nữa cô sẽ có người yêu, nhưng ít ra bây giờ hai mẹ con rất gần gũi nhau và Fernanda mừng vì được như thế này.

    Khi họ về tới nhà, Ashley hăng hái nói đến chương trình đi Lake Tahoe trong tháng Bảy. Cô mong đến ngày nhà trường bế giảng vào tháng Sáu. Tất cả đều trông đợi đến ngày ấy, mặc dù Fernanda nghĩ rằng bà sẽ cô đơn trong những ngày hè khi Ashley và Will đi xa. Tuy nhiên, ít ra bà vẫn có Sam ở nhà với mình. Bà mừng vì cậu bé còn nhỏ, chưa sống độc lập được. Bé thích ở bên cạnh mẹ, nhất là bây giờ bố cậu đã mất, mặc dù những năm gần đây, bố không để ý nhiều đến cậu. Bố cậu luôn luôn bận việc. Khi Fernanda bước lên bậc thềm trước nhà, bà nghĩ rằng, đáng ra chồng bà nên có thái độ tốt hơn với gia đình, nên dành nhiều thì giờ để chơi với con cái hơn là đi làm những chuyện gây thiệt hại cho kinh tế gia đình, rồi cuối cùng phải hủy hoại sinh mạng của chính mình.

    Bà nấu bữa ăn tối cho con. Mọi người đều mỏi mệt, nhưng tinh thần hưng phấn hơn trước. Sam mang cái ngôi sao mới trên ngực áo và họ lại nói đến chuyện bom cài trong xe phát nổ ngoài đường. Fernanda cảm thấy dễ chịu hơn khi biết rằng có lẽ kẻ cài bom vào xe ông chánh án là muốn giết ông ta, kẻ đã bị ông kết án tù nhiều năm, chứ không phải do một kẻ phá hoại tình cờ không nhắm vào ai hết. Nhưng dù biết thế, bà vẫn cảm thấy bất an khi biết trong cuộc sống vẫn có nhiều người muốn hãm hại người khác và hủy diệt tài sản của người khác. Nếu bà và các con đi qua gần chiếc xe khi nó phát nổ, thì chắc họ đã bị thương tích. Và thật may là khi bom nổ, không có ai ở gần đấy, còn bà McIntyre thì ở trong nhà và ông chánh án ở ngoài thành phố. Cả ba người con của nhà Barnes rất sửng sốt khi nghĩ đến chuyện trong khu phố của họ đã xảy ra việc cực kỳ nguy hiểm cho người mà họ biết chuyện này thật khó tin được. Nhưng dù có khó tin hay không, thì chuyện đã xảy ra rồi và có thể xảy ra nữa. Đêm đó khi đi ngủ. Fernanda vẫn cảm thấy mọi người rất dễ bị tấn công và ý nghĩ ấy khiến cho bà nhớ Allan hơn bao giờ hết.
    Last edited by giavui; 09-07-2020 at 03:04 PM.

  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 8
    Peter Morgan gọi bất cứ chỗ nào gã đã từng tiếp xúc ở San Francisco trước khi đi tù, hy vọng kiếm được việc làm, hay ít ra được mời đến phỏng vấn. Gã chỉ còn trong ví hơn ba trăm đô-la và gã phải chứng tỏ cho người phụ trách việc quản chế mình thấy gã chấp hành luật lệ nghiêm túc. Gã chấp hành nghiêm túc thật. Nhưng trong tuần đầu tiên gã về lại thành phố, không có gì xảy đến cho gã hết. Người ta vẫn hoạt động nhưng nhiều khuôn mặt đã thay đổi, những người còn nhớ đến gã thì hoặc là không muốn trả lời điện thoại hay có trả lời thì cũng không thật tình, họ làm ra vẻ sửng sốt khi nghe tin gã. Bốn năm ở ngoài đời bình thường là thời gian dài. Hầu hết những ai đã quen biết Peter đều biết gã đã đi ở tù, không ai muốn gặp lại gã. Cuối tuần thứ nhất, Peter nhận ra rằng gã phải hạ thấp tham vọng xuống nếu gã muốn có việc để làm. Mặc dù gã đã làm việc với ông quản ngục rất tốt, nhưng ở Silicon Valley hay giới tài chính không ai muốn nhận gã vào làm việc với họ. Lý lịch gã đã bị hoen ố, họ cứ nghĩ rằng sau bốn năm ở tù, chắc gã đã học được nhiều trò lưu manh hơn trước. Đó là không kể thói ưa thích xài ma túy của gã, tật này đã khiến gã sa đọa.

    Gã vào xin việc tại các nhà hàng ăn uống, rồi các nhà buôn nhỏ, một cửa hàng ghi âm nhạc và cuối cùng một xí nghiệp vận tải xe hơi. Không ai thuê gã làm, họ nghĩ rằng gã vượt quá tiêu chuẩn, có học vị cao, một người nói thẳng vào mặt gã rằng gã là đồ lưu manh, rởm đời. Nhưng có điều còn tệ hơn thế, gã là dân cựu tù. Gã không tìm được việc làm. Đến cuối tuần thứ hai, gã chỉ còn trong túi bốn chục đô-la, không có dấu hiệu gì cho thấy gã có tương lai sáng sủa. Một tiệm bán bánh ăn nóng gần nhà tạm trú đề nghị trả cho gã tiền lương bằng nửa số lương tối thiểu, bằng tiền mặt, để gã rửa bát đĩa. Nhưng gã không nhận vì không đủ sống, còn họ thì không muốn trả thêm cao hơn. Họ có rất nhiều người nhập cư bất hợp pháp đến xin làm, với đồng lương rất thấp. Nhưng Peter cần nhiều hơn thế để sống. Gã cảm thấy thất vọng khi lật cuốn sổ ghi địa chỉ và bây giờ là lần thứ mười gã lật sổ từ đầu đến cuối, lần nào gã cũng dừng lại ở một địa chỉ gã quen thuộc. Địa chỉ của Phillip Addison. Gã không muốn gọi ông ta mãi cho đến khi ấy. Ông ta là nhân vật xấu trong mọi mặt, trước đây đã gây nhiều phiền phức cho gã. Thực vậy, Peter hoàn toàn tin rằng ông ta có trách nhiệm trong việc gã bị bắt quả tang có ma túy để phải vào tù. Peter nợ ông ta một số tiền kếch sù và vì nghiện côcain quá nhiều, đến nỗi gã không có cách gì để trả nợ cho lão. Gã không biết tại sao Addison lại bỏ qua chuyện nợ nần của gã trong bốn năm qua. Lão biết, trong khi Peter ở tù lão không có cách nào đòi được nợ. Nhưng vì lý do phải đi ở tù, nên Peter vẫn cảnh giác, lo sợ, không dám nhắc Addison nhớ đến món nợ rất lớn của mình. Gã không có cách nào trả nợ cho ông ta và sẽ không bao giờ, Addison chắc biết thế.

    Phillip Addison có công ty rất lớn hoạt động công khai, công ty chứng khoán về công nghiệp cao đăng ký chính thức và lão còn có nửa tá công ty khác, ít hợp pháp, những công ty bí mật chuyện hợp tác làm ăn với xã hội đen. Người như Addison luôn luôn có thể tìm cho Peter một chỗ trong các công ty bí mật ấy và làm ở đấy công việc nhẹ nhàng mà còn nhiều tiền nữa. Nhưng Peter không muốn gọi cho ông ta. Trước đây gã đã bị lệ thuộc vào ông ta, nên bây giờ ông ta giao việc cho gã, dù với lý do gì, ông ta cũng làm chủ gã. Nhưng hiện giờ gã không biết gọi cho ai nữa. Thậm chí các trạm xăng cũng không thuê mướn gã. Khách hàng mua xăng tự bơm lấy và họ không muốn một người mới ra tù thu tiền bán xăng cho họ. Cái bằng cử nhân Quản trị kinh doanh ở Harvard hoàn toàn vô dụng đối với gã. Hầu hết mọi nơi đều cười khi đọc tờ giấy giới thiệu của ông quản lý nhà tù, Peter hoàn toàn thất vọng. Gã không có bạn bè, không có gia đình, không có ai để gọi, không có ai để giúp gã. Người nhân viên quản chế báo cho gã biết rằng gã phải tìm việc làm cho sớm. Gã thất nghiệp càng lâu bao nhiêu, họ càng phải canh chừng gã kỹ hơn bấy nhiêu.

    Họ biết những người bị quản chế mà không có tiền, thường bị sự nghèo túng thúc ép và vì tuyệt vọng nên viện cớ này nọ để hoạt động liều lĩnh. Peter đâm hoảng khi nghe nói thế. Gã sắp sạch túi, mà gã phải có tiền để ăn, để trả tiền thuê nhà.

    Hai tuần sau ngày Peter bước ra khỏi cổng nhà tù Pelican Bay, gã ngồi nhìn số điện thoại của Phillip Addison gần nửa giờ đồng hồ, rồi nhấc máy gọi ông ta. Người thư ký nói ông Addison đi nước ngoài, đề nghị gã để lại tin nhắn. Peter nói tên và số điện thoại của mình. Hai giờ sau, Phillip gọi cho gã. Peter đang ngồi buồn bã trong phòng thì bỗng có người từ dưới lầu gọi lớn lên báo cho gã biết gã có điện thoại của một người tên là Addison. Peter chạy đến máy điện thoại, lòng cảm thấy vô cùng chua xót. Có lẽ chuyện tai hại sắp xảy đến cho gã. Hay là cơ may giúp gã. Với Phillip Addison, cách nào cũng có thể xảy đến.

    - Trời, quá ngạc nhiên. - Addison nói bằng giọng khó chịu. Lúc nào ông ta cũng có vẻ như đang cười nhạo. Nhưng ít ra ông ta đã gọi cho giúp gã. Rất nhanh - Anh ngao du trên bờ biển khi nào thế? Anh ra tù bao lâu rồi?

    - Được hai tuần. - Peter bình tĩnh đáp, lòng ước chi đừng gọi cho ông ta. Nhưng gã cần tiền. Gã chỉ còn mười lăm đô-la và người nhân viên quản chế cứ thúc giục gã phải kiếm việc mà làm. Thậm chí gã đã tính đến chuyện sống nhờ vào an sinh xã hội. Nhưng nếu sống bằng cách này, thì hoặc là gã sẽ chết đói, hoặc gã là dân vô gia cư. Gã nhận ra rằng, nếu tình cảnh xảy ra như thế thì thê thảm biết bao. Gã thất vọng, không còn sự lựa chọn nào khác. Gã không còn đắn đo suy nghĩ thiệt hơn gì nữa. Hiện con đường chọn lựa duy nhất của gã là Phillip Addison. Peter tự nhủ rằng, khi gã đã có công việc gì khác hơn, gã sẽ bỏ ông ta. Điều khiến cho gã lo lắng và cố không để ý đến là xiềng xích mà Addison tròng lên những người ông ta giúp và những biện pháp bất nhân mà ông ta dùng để giữ những người làm việc cho ông ta gắn bó với mình. Nhưng Peter không có sự lựa chọn nào khác, không có ai gọi gã. Thậm chí công việc rửa bát đĩa với đồng lương đủ sống cũng không có.

    - Trước khi gọi tôi, anh đã tìm được công việc gì rồi? - Addison cười gã. Ông ta biết rõ hoàn cảnh của gã. Ông ta có những người cựu tù đang làm việc cho mình. Họ tham lam, thất vọng và trung thành, giống như Peter Morgan. Addison thích thế, - Ở ngoài không có việc cho hạng người như anh đâu - Ông ta nói thật - Ngoại trừ công việc rửa xe hay đánh giày. Nhưng tôi biết anh không làm những việc ấy. Tôi có thể làm gì cho anh? - Ông ta nói, giọng lịch sự.

    - Tôi cần việc làm. - Peter đáp một cách thẳng thừng. Không úp mở. Gã nói gã cần việc, mà không cần tiền.

    - Nếu anh gọi tôi, thì chắc anh đã hết tiền rồi. Anh đói chưa?

    - Đói. Nhưng không đủ để làm những việc kỳ cục. Tôi sẽ không quay lại nhà tù. Tôi cương quyết như thế. Bốn năm là thời gian quá dài đối với tôi. Tôi cần công việc. Nếu ông có công việc gì hợp pháp cho tôi làm, tôi sẽ rất cám ơn. - Chưa bao giờ Peter cảm thấy nhục nhã như thế và Phillip biết thế. Ông ta thích vậy. Peter không đả động gì đến chuyện nợ nần, nhưng cả hai đều nghĩ đến số nợ ấy? và nghĩ đến sự nguy hiểm mà Peter đã gặp phải khi gã gọi cho ông ta. Gã tha thiết muốn có công việc để làm.

    - Tôi chỉ có công việc kinh doanh hợp pháp thôi. -Addison đáp, giọng cáu kỉnh và gã đã làm cho ông ta bực tức. Ông ta đang dùng đường dây điện thoại an toàn, vì ông sợ bị gài máy nghe lén. Ông đang dùng loại máy điện thoại di động không thể dò ra - Anh còn nợ tiền tôi, xin nhắc cho anh nhớ, nợ rất nhiều. Khi anh bị bắt, có nhiều người sạt nghiệp theo anh. Tôi phải trả cho họ đầy đủ. Nếu tôi không làm thế, họ sẽ đi theo anh và giết anh ở trong tù. - Peter biết ông ta phóng đại, nhưng vẫn có ít nhiều sự thật trong đó. Gã đã mượn tiền của Addison để mua hàng chuyến sau cùng, nhưng gã bị bắt khi đang chuyến hàng về chưa bán kịp, nên không trả tiền cho ông ta được. Số tiền gã vay mượn của Addison lên đến hai trăm nghìn đô-la và gã không chối cãi việc này. Nhưng cả hai đều biết Peter nợ ông ta.

    - Ông cứ khấu trừ vào số tiền lương của tôi, nếu ông muốn. Nếu tôi không kiếm được việc làm, tôi không thể nào trả nợ cho ông được. - Đây là thực tế quá rõ, Addison biết vậy, nhưng ông ta không mong gì thu lại được số tiền. Đây là loại mất mát xảy ra trong loại kinh doanh này. Điều mà ông ta thích là làm sao để Peter phải có bổn phận với ông ta.

    - Tại sao anh không đến nói chuyện với tôi? - Ông ta nói, giọng có vẻ trầm ngâm.

    - Khi nào? - Peter hy vọng việc này sớm xảy ra, nhưng gã không muốn thúc giục. Chuyện người thư ký nói ông ta đi nước ngoài, có lẽ chỉ là lối che đậy hành vi ám muội của ông ta.

    - Năm giờ hôm nay. - Addison đáp, không hỏi giờ này có thuận tiện cho gã hay không. Ông ta không cần quan tâm điều đó. Nếu Peter muốn làm việc, thì khi nghe Addison gọi đến, gã phải đến ngay. Trước đây Addison có ứng trước tiền cho gã. Đây là sự khác biệt.

    - Tôi đến đâu? - Peter hỏi với giọng buồn rầu. Gã vẫn còn thì giờ để từ chối công việc nếu Addison giao cho gã một việc quá nguy hiểm, hay ông ta quá láo xược. Nhưng Peter sẵn sàng đón nhận việc bị đối xử láo xược, bị lợi dụng, thậm chí bị xử tệ, miễn công việc hợp pháp là được.

    Addison đọc địa chỉ cho gã, dặn gã đến đúng giờ, rồi cúp máy. Địa chỉ mà ông ta đưa cho Peter nằm ở San Mateo. Gã biết đây là nơi ông ta điều hành công việc kinh doanh hợp pháp. Ông ta có công ty công nghệ cao, mới đầu công việc kinh doanh của công ty này thành công rực rỡ, rồi sau đó gặp trắc trở. Công ty thăng trầm qua nhiều năm và bùng nổ vào lúc công nghệ máy tính vọt lên đỉnh cao. Sau đó giá chứng khoán hạ thấp trầm trọng, giống như các thứ khác mất giá. Họ làm thiết bị phẫu thuật y khoa công nghệ cao và Peter biết ông ta đầu tư lớn vào công trình biến đổi cấu trúc di truyền nhằm mục đích nào đấy. Chính Addison vừa là kỹ sư, vừa có quá trình học tập về y học. Rồi bỗng ông ta nổi tiếng là người có tài làm ra tiền. Nhưng cuối cùng, ông ta cho thấy mình cũng giống như mọi người khác, có nhược điểm và đã để lộ tật xấu của mình quá rõ. Ông ta bù đắp vào sự thâm hụt tài chính của mình bằng cách buôn bán ma túy ở Mexico, phần lớn mạng lưới sản xuất ma túy sinh lợi lớn của ông ta nằm ở trong các phòng thí nghiệm chuyên chế biến các tinh thể dược phẩm làm dịu cơn ghiền ma túy ở Mexico, và nhờ vào việc buôn bán herôin rất phát đạt ở Mission. Một số khách hàng tuyệt nhất của ông ta là thanh thiếu niên. Dĩ nhiên họ không biết họ đã mua ma túy của ông ta, không ai biết hết. Thậm chí gia đình ông ta cũng nghĩ ông là nhà kinh doanh đáng kính. Ông ta có ngôi nhà ở Ross, các con ông đi học ở các trường tư thục, ông tham gia tất cả các hội đồng quản trị của các tổ chức từ thiện và gia nhập các câu lạc bộ tốt nhất ở San Francisco. Người ta cho ông ta là trụ cột của xã hội. Peter biết rất rõ. Trước đây họ gặp nhau khi Peter gặp phải chuyện rắc rối, Phillip Addison bình tĩnh đề nghị giúp đỡ gã. Ông ta còn cung cấp cho Peter ma túy với giá thấp vào lúc ban đầu, rồi nói cho Peter biết cách bán ma túy. Nếu Peter dùng ma túy không vượt ra ngoài tầm tay và có đầu óc phán đoán sáng suốt, thì có lẽ gã không bao giờ đi tù.

    Addison khôn ngoan hơn gã nhiều. Ông ta không bao giờ đụng đến ma túy. Ông lanh lẹ, điều khiển thế giới ngầm của mình một cách rất tài tình. Hầu như lúc nào ông ta cũng tỏ ra là người nắm vững tình thế, hiểu rõ thời cuộc. Ông ta đã đẩy Peter vào chỗ sai lầm, ông nghĩ mình có nhiều tham vọng hơn gã và xảo quyệt hơn. Cuối cùng, Peter trở thành gã đàn ông dễ thương khác sa vào đường lầm lạc, kẻ không biết mình đang làm gì. Đối với Phillip Addison, người như Peter thật sự nguy hiểm, vì gã vốn có bản tính lầm lạc, Peter là tội phạm tép riu, bị hoàn cảnh đưa đẩy vào vòng tội lỗi và vì thiếu suy nghĩ để cuối cùng trở thành người nghiệp ngập, Addison mới là tội phạm chính. Đối với y, công việc buôn ma túy là việc làm ăn sinh sống cả đời, còn đối với Peter, đây chỉ là việc tiêu khiển. Nhưng dù thế, Addison cũng nghĩ rằng mình có thể lợi dụng gã. Gã thông minh, có học, lớn lên trong tầng lớp giàu có, sang trọng. Gã đã theo học ở những trường tốt, đẹp trai, ăn mặc chỉnh tề, lấy vợ con nhà giàu có, mặc dù gã đã làm hỏng cuộc hôn nhân. Và có bằng cử nhân Quản trị kinh doanh ở Harvard không phải là đồ chơi, đáng coi thường. Khi Peter và Phillip Addỉson gặp nhau, Peter đang ở vị thế đáng trọng. Bây giờ thì gã đã làm cho mình mất hết vị thế ấy, nhưng nếu gã lấy lại được phong độ cũ, nhờ Addison giúp đỡ, thì ông ta nghĩ rằng gã có thể hữu dụng cho mình. Với kinh nghiệm gã đã học được trong tù suốt bốn năm qua, có lẽ gã còn quá hữu dụng cho ông ta nữa. Trước đây gã chỉ là kẻ lừa đảo nghiệp dư, là kẻ thơ ngây sa vào vòng tội lỗi. Nhưng nếu bây giờ gã trở thành kẻ lừa đảo chuyên nghiệp, thì càng tốt, Addison rất cần đến gã. Bây giờ điều mà ông ta cần biết là Peter đã học hỏi được cái gì, gã muốn làm gì và hiện gã đang lâm vào cảnh thất vọng như thế nào. Lời yêu cầu của gã vừa rồi chỉ muốn làm việc gì hợp pháp đối với Phillip chẳng nghĩa lý gì. Ông ta không quan tâm đến điều Peter nói. Vấn đề là gã muốn làm gì và theo quan điểm của Phillip thì món nợ gã còn thiếu của ông ta, tuy chỉ là điểm phụ trong hợp đồng làm ăn của họ, nhưng món nợ này sẽ giúp cho Phillip bắt chẹt Peter, sẽ giúp ông ta có nhiều lợi thế, còn đối với Peter thì đây là điều khiến cho gã gặp nhiều thua thiệt. Lại còn một điều nữa đáng nói, là Addison không khỏi không nhận thấy rằng khi Peter bị bắt, gã không tiết lộ danh tánh của ông ta, không khai ông trong việc làm ăn của mình, điều này chứng tỏ rằng gã là người đáng tin cậy. Addison thích điều này ở Peter. Khi gã sa cơ lỡ vận, gã không làm cho ai sạt nghiệp theo. Đấy là lý do chính khiến cho Addison không giết gã. Ít ra Peter cũng là người có danh dự trên vài phương diện nào đó, cho dù sự danh dự này chỉ dành cho bọn trộm cướp.

    Peter đi xe đến San Mateo, mặc bộ áo quần duy nhất gã hiện có. Gã có vẻ sạch sẽ, gọn gàng và đầu tóc hớt ngắn tươm tất do chính gã cắt lấy. Nhưng gã chỉ mặc cái quần jeans, cái áo sơ-mi bằng vải bông dệt chéo và đôi giầy tập chạy gã được nhà tù cho khi còn ở trong tù. Thậm chí gã không có áo khoác, gã không có tiền để mua nổi bộ đồ tươm tất để đi phỏng vấn. Khi gã đi bộ đến địa chỉ của Phillip, gã cảm thấy hết sức lo lắng.

    Phillip Addison ngồi nơi bàn làm việc trong văn phòng, đọc tập hồ sơ dày cộm. Tập hồ sơ đã nằm trong ngăn kéo ở bàn làm việc được khóa cẩn thận từ hơn một năm nay. Ông ta mơ ước thực hiện được kế hoạch trong tập hồ sơ này. Ông ta nghĩ đến việc thực hiện kế hoạch từ gần ba năm nay. Đây là kế hoạch duy nhất ông ta muốn có sự giúp đỡ của Peter. Đối với Phillip, bây giờ vấn đề gã có bằng lòng thực hiện kế hoạch hay không, ông ta không lo, mà chỉ lo gã có thực hiện kế hoạch thành công hay không thôi. Đây là kế hoạch mà Phillip không muốn phiêu lưu, liều lĩnh, hay làm không tốt. Kế hoạch phải được thực hiện một cách chính xác như vũ điệu ba lê của Bolchoi, hay dụng cụ phẫu thuật mà ông đã làm, với độ chính xác hoàn toàn của tia laser. Không có vấn đề sai sót trong vụ này. Ông ta nghĩ: Chính Peter mới làm việc này hoàn hảo được, vì thế mà Addison gọi gã lại. Ông ta nghĩ đến việc này ngay khi nhận được tin nhắn. Khi người thư ký báo cho ông ta biết Peter đến, ông để tập hồ sơ lại vào hộc bàn, khóa lại và đứng dậy đón Peter.

    Khi Peter vào phòng, gã thấy trước mặt mình một người đàn ông cao, ăn mặc chải chuốt không thể chê được, tuổi vào quãng gần sáu mươi, ông ta mặc bộ com-lê đo cắt ở Anh, cà vạt sặc sỡ, áo sơ-mi may ở Pháp. Khi ông ta đi ra khỏi bàn để đến bắt tay Peter, đôi giầy cũng bóng láng và có vẻ như không chú ý đến áo quần Peter mặc. Áo quần của gã chắc ông ta không thèm dùng để lau xe hơi, Peter nghĩ thế. Phillip Addison rất phong độ, như quả trứng đá cẩm thạch có tra mỡ lướt qua nền nhà. Người ta không nắm được Phillip hay nắm được hàng hóa của ông ta, không ai nắm được hết. Không ai là không bị ông ta nghi ngờ. Cho nên khi thấy ông ta quá thân mật như thế, Peter cảm thấy bất an. Giọng hăm he của ông ta về số nợ Peter còn mắc khi ông gọi gã, bây giờ hình như đã được ông ta quên rồi.

    Họ nói chuyện linh tinh một lát, rồi Phillip hỏi gã có ý định muốn làm gì. Peter trả lời rằng gã muốn có công việc thuộc về các phạm vi chuyên môn của mình. Chào hàng, tài chính, đầu tư mới, bộ phận mới tách, kinh doanh mới, bất cứ cái gì cần sự khéo léo của người lĩnh thầu mà Addison nghĩ là thích hợp cho gã. Rồi gã thở dài, nhìn Phillip. Đã đến lúc phải thành thực.

    - Thì đấy, tôi cần việc. Nếu không có việc làm, tôi chỉ còn nước đẩy xe đi bán hàng rong ngoài đường, hay thậm chí không có xe mà phải đi ăn mày thôi. Tôi sẽ làm bất cứ cái gì mà ông cần tôi làm, miễn là hợp pháp. Tôi không muốn đi ở tù lại. Nói tóm lại, tôi muốn làm việc cho ông. Dĩ nhiên trong việc kinh doanh hợp pháp của ông. Công việc phi pháp rất nguy hiểm cho tôi. Tôi không thể làm được và tôi không muốn làm.

    - Trong bốn năm qua anh đã sống rất cao quý. Từ khi anh gặp tôi đến nay là năm năm, trong thời gian đó tôi không làm gì để anh phải ân hận, oán trách.

    - Tôi thật ngu ngốc, dại dột, trẻ người non dạ và điên khùng. Năm mươi mốt tháng sống ở trong nhà lao Pelican Bay tù túng, khổ sở, người ta có thể gọi đây là sự răn đe rất tốt để cho người sai phạm tu tỉnh. Tôi sẽ không quay lại đấy nữa. Lần sau, chắc họ sẽ giết tôi. - Gã nói thật lòng mình.

    - Lần vừa rồi may cho anh là họ không giết anh đấy - Addison nói toạc ra - Khi anh đi tù, rất nhiều người tức anh. Anh còn nợ tôi nhiều đấy thì sao? - Addison hỏi, dĩ nhiên không phải vì ông ta muốn đòi, mà muốn nhắc cho Peter nhớ rằng gã còn nợ ông ta.

    - Tôi đã nói với ông rồi, tôi phải làm việc mới có tiền trả nợ cho ông, ông có thể khấu trừ vào tiền lương của tôi. Hiện tôi chỉ có thể làm như thế thôi. Tôi không có gì để trả cho ông. - Addison biết đấy là sự thật. Cả hai người đều biết thế và Peter thành thật với ông ta. Phải thành thật với người như Addison. Sự thành thật là thứ mà ông ta không coi trọng. Đối với ông ta, tốp đồng ca nam chẳng ích lợi gì. Nhưng Phillip biết người ta không thể rán sành ra mỡ. Peter không có tiền để trả cho ông ta. Bây giờ gã chỉ có bộ óc và động cơ thúc đẩy hành động và thế là đủ cho ông ta rồi.

    - Anh biết tôi còn đủ khả năng để giết anh - Addison bình tĩnh nói - Một vài người bạn cùng làm ăn với tôi ở Mexico sẽ rất thích làm việc đó. Đặc biệt có một người ở Colombia muốn đưa anh ra khỏi nhà lao. Tôi yêu cầu ông ta đừng làm thế. Tôi rất thích anh, Morgan à. - Addison nói như thể ông ta đang bàn chuyện đánh gôn với gã. Ông ta chơi gôn đều đặn với những người đứng đầu các nhà máy công nghiệp và cũng như với các nhà lãnh đạo trong bang. Ông ta giao du với các nhân vật chính trị quan trọng. Ông ta là kẻ lừa đảo cao cấp, nên Peter nghĩ rằng, nếu gã theo ông ta mà có chuyện gì không hay xảy ra, thì gã sẽ không được ai giúp đỡ. Ông ta là người có thể lực, là kẻ gian hùng, hoàn toàn vô đạo đức và thiếu trung thực hoàn toàn không đáng tin. Peter biết thế. Trong bất cứ trường hợp nào, gã cũng thua xa ông ta. Nếu Peter đến làm cho ông ta, gã sẽ là con tốt trong bàn cờ của Addison. Nhưng nếu gã không làm, thì sớm muộn gì gã cũng lâm vào con đường cùng và thế nào gã cũng trở về nhà tù Pelican Bay, làm việc cho ông quản ngục.

    - Nếu chuyện ông nào đấy ở Colombia có thực, thì tôi xin cám ơn. - Peter lịch sự đáp. Gã không muốn nói dối với ông ta, còn Addison nói ông ta lúc nào cũng thích gã, thì Peter không trả lời. Gã không thích Addison vì gã biết quá rõ về ông ta. Addison có vẻ tốt, nhưng thối tha. Vợ ông ta giao thiệp ngoài xã hội rất bặt thiệp và bốn đứa con của ông ta rất dễ thương. Một số người biết rõ ông ta đeo nhiều mặt nạ để sống, họ so sánh Phillip Addison với quỷ Sa tăng. Đối với số người khác không biết rõ ông ta, thì ông ta có vẻ là người thành đạt, đáng kính. Peter biết rất rõ điều này.

    - Tôi nghĩ nếu anh còn sống thì có ngày anh sẽ hữu ích cho tôi. - Addison nói với vẻ trầm tư, như thể ông ta đang có ý định gì đấy trong óc muốn nói với gã - Và cái ngày đó có lẽ đang đến. Tôi thấy để anh chết trong tù thì phí quá. Tôi đã có ý định sẽ dùng anh. Cho nên hôm nay sau khi chúng ta nói chuyện với nhau, tôi liền nghĩ đến công việc tôi muốn giao cho anh. Đây là loại công việc cần đến sự chính xác tuyệt đối. Công việc cần phải có những nhà chuyên môn có kỹ thuật, có tổ chức cẩn thận, biết phối hợp đồng bộ với nhau. - Ông ta làm như thể đây là cuộc giải phẫu tim cần đến các chuyên gia có tay nghề cao. Theo điều ông ta nói, Peter không hình dung ra được kế hoạch của ông ta là cái gì.

    - Công việc thuộc lĩnh vực nào? - Peter hỏi, gã mừng vì cuối cùng họ nói đến công việc, mà không nói đến sự hăm dọa giết gã hay nói đến số tiền gã mắc nợ. Họ đã bàn đến công việc làm ăn.

    - Tôi sẽ nói cho anh biết rõ công việc thuộc lĩnh vực nào. Nhưng tôi muốn tra cứu thật kỹ trước khi thực hiện dự án. Anh sẽ làm công việc tra cứu. Tôi muốn nghĩ đến việc thực thi dự án. Đây là công việc của tôi, nhưng trước hết tôi muốn anh tham gia vào. Tôi muốn thuê anh làm người điều phối dự án. Tôi không tin anh có kiến thức kỹ thuật để làm việc này, tôi cũng không. Nhưng tôi muốn anh tuyển chọn những chuyên viên để làm việc này cho chúng ta. Chúng ta sẽ cùng chia nhau lợi tức. Tôi sẽ chia cho anh một phần lớn, chứ không phải chỉ thuê anh như là làm công đâu. Nếu anh làm công việc này tốt, anh sẽ được chia phần. - Peter rất tò mò khi nghe ông ta nói. Điều ông ta nói ra nghe có vẻ hấp dẫn, gay cấn và có lợi nhuận. Đấy chính là điều gã cần để lấy lại vị thế, đầu tư vào việc kinh doanh của mình, có thể khởi đầu mở công ty riêng. Gã nhanh nhẹn, có tài trong việc đầu tư, đã học hỏi nhiều về lĩnh vực này trước khi lầm đường lạc lối. Đây là cơ may giúp gã khởi đầu lại cuộc đời. Gã cảm thấy tràn trề hy vọng. Có lẽ vận may đã đã lại với gã. Cuối cùng Addison đã làm điều tốt cho gã, Peter mừng rỡ vô cùng.

    - Dự án nghiên cứu này có thực hiện lâu không, cần triển khai nhiều năm không? - Công việc này có thể gắn bó gã với Addison một thời gian lâu hơn thời gian gã mong đợi, nên phải có sự bảo đảm trong công việc. Tuy nhiên gã cũng cần có đủ thời gian để lấy lại phong độ, đây là vấn đề cần thiết. Khi ấy gã mới lấy lại quyền thăm viếng các con gái, Peter mơ ước có được quyền này, mơ ngày gã có thể đi thăm con. Từ năm năm rồi, gã không gặp các con, nghĩ đến chuyện ấy, lòng gã đau như cắt. Gã đã làm hỏng hết mọi việc, ngay cả mối liên hệ với con cái khi chúng còn thơ bé. Gã hy vọng một ngày nào đó, tình cha con sẽ được nối lại. Nhờ lấy lại được vị thế về mặt tài chính, gã sẽ có đủ tư cách để gặp lại Janet, cho dù nàng đã lấy chồng khác.

    Addison giải thích kế hoạch cho gã nghe.

    - Thực ra thì dự án này tương đối ngắn hạn. Tôi nghĩ chúng ta có thể hoàn tất dự án trong vài tháng, hay thậm chí trong vài tuần. Dĩ nhiên ta phải có thì giờ để nghiên cứu trước khi thực thi dự án, nhưng có lẽ dự án sẽ hoàn thành trong vòng một hai tháng và sau đó là giải thể ngay. Tôi nghĩ chúng ta không cần phải kéo dài thời gian lâu, nhưng lợi nhuận chia ra có thể rất lớn. - Thật khó mà đoán được dự án này là gì. Có lẽ ông ta mới có phát minh về công nghệ cao nào đấy, ông ta định tung ra thị trường và muốn Peter tổ chức khâu quảng cáo, giới thiệu sản phẩm với quần chúng. Gã không nghĩ ra sản phẩm này. Hay là ông ta đang đầu tư vào việc gì có tính phiêu lưu, nên muốn Peter giải quyết công việc, muốn gã tung ra thị trường mặt hàng ông ta đầu tư, để quần chúng làm quen. Addison có vẻ bí mật về công việc, còn Peter thì không nghĩ ra công việc này là cái gì.

    - Có phải ông đang nói đến việc giới thiệu sản phẩm, triển khai quảng bá sản phẩm, hay là chào hàng loại sản phẩm gì đấy phải không? - Peter cố hỏi để tìm hiểu đây là sản phẩm gì.

    - Xét theo khía cạnh nào đấy thì có thể đúng như vậy. - Addison gật đầu rồi dừng lại một lát. Ông phải nói cho gã biết kế hoạch của ông; để xem gã có hoàn toàn tin tưởng và dự án của ông không - Tôi đã xem xét dự án này lâu rồi và bây giờ đã đến thời điểm. Cho nên tôi nghĩ cuộc gọi của anh cho tôi sáng nay quả thật là chuyện rất may mắn. - Ông ta nói với nụ cười nham nhở. Peter chưa bao giờ thấy cặp mắt nào lạnh lùng, khủng khiếp như mắt ông ta.

    - Ông muốn tôi bắt đầu thực thi dự án khi nào? - Gã nghĩ đến số tiền mựời lăm đô-la trong ví mình, số tiền không cho phép gã vượt quá bữa ăn tối nay và sáng mai, trừ phi phải ăn ở các cửa hàng bán đồ ăn liền McDonald, nếu không, số tiền sẽ bay hết trong tối nay. Và sau đó chắc gã phải đi ăn mày hay đi ăn cắp và nếu đi ăn cắp mà bị bắt, thế nào cũng bị ở tù.

    Addison nhìn thẳng vào mặt gã.

    - Hôm nay, nếu anh muốn. Tôi nghĩ là chúng ta đã sẵn sàng để bắt đầu. Chúng ta cần giải quyết dự án này theo từng giai đoạn. Trong bốn tuần sắp đến, tôi muốn anh làm công việc tra cứu và triển khai. Thực ra tôi muốn thuê chuyên viên. -Tim Peter đập thình thịch vì mừng rỡ. Đây là điều đáng mừng vượt quá sự mong đợi của gã, là kết quả việc cầu nguyện của gã.

    - Chúng ta cần thuê loại chuyên viên nào để thi hành dự án này? - Gã vẫn chưa hiểu phạm vi của dự án, hay không hiểu trọng tâm của công việc. Nhưng rõ ràng đây là loại công việc thuộc công nghệ cao và tối mật.

    - Tùy anh chọn những người anh thuê. Dĩ nhiên tôi muốn được anh hỏi ý kiến, nhưng tôi nghĩ trong lĩnh vực này anh giỏi hơn tôi. - Addison đáp với vẻ rất rộng lượng. Nói xong, y mở khóa hộc bàn, lấy ra tập hồ sơ mà y đã gom góp trong nhiều năm nay, đưa tập hồ sơ cho Peter. Trong tập hồ sơ gồm những bài báo cắt ra và những tờ báo cáo về các dự án mà Allan Barner đã thực hiện trong bốn năm qua. Peter lấy tập hồ sơ mở ra xem, rồi ngước mắt nhìn Phillip, gã rất ấn tượng. Gã biết Allan là ai. Không ai trong thế giới tài chính hay công nghệ cao mà không biết ông ta. Ông ta là thiên tài của thế giới máy tính, là người tài ba nhất trong thế giới này. Trong tập hồ sơ lại còn có nhiều tấm ảnh của ông ta cùng với gia đình. Thật đặc biệt.

    - Ông nghĩ đến chuyện liên doanh với ông ta à?

    - Đúng thế, nhưng không làm được nữa. Rõ ràng anh là người không theo dõi thời cuộc. Ông ta đã qua đời trong tháng Một, để lại vợ và ba con.

    - Thế thì chán thật. - Peter thốt lên với vẻ thương căm, lòng phân vân không biết tại sao gã không biết chuyện này, nhưng khi ở trong tù, có nhiều lúc gã không đọc báo. Thế giới bên ngoài nhà tù có vẻ quá xa xôi.

    - Trong lúc ông ta còn sống, chắc dự án hấp dẫn lắm. Tôi nghĩ thế nào chúng ta cũng nhận được lời phúc đáp tốt đẹp của ông ta, nhưng trong trường hợp này, tôi muốn làm việc với bà vợ góa của ông ấy. - Phillip nói một cách hào hiệp.

    - Làm việc về vấn đề gì? - Peter trông có vẻ đờ đẫn - Có phải bây giờ bà ta điều khiển công việc của chồng không? - Đúng là gã không theo dõi thời cuộc. Gã không đọc báo viết về vấn đề này.

    - Tôi nghĩ ông ta để lại cho bà ấy toàn bộ gia sản của mình, bất cứ cái gì mà không để lại cho các con - Phillip đáp - Tôi được người bạn cho biết, bà ta là người thừa hưởng duy nhất. Và tôi biết là ông ta có nửa tỷ đô-la trước khi chết. Ông ta chết trong chuyến đi câu ở Mexico. Ông rớt ra khỏi thuyền và biến mất trong biển. Họ không nói gì về các kế hoạch của họ đối với những công ty của ông ta, nhưng tôi nghĩ bà ấy sẽ quyết định hết công việc, hay một vài việc.

    - Có phải ông đã tiếp xúc trực tiếp với bà ấy để bàn về việc đầu tư liên doanh vài dự án không? - Peter không nghĩ lợi tức của Allan Barnes nằm trong cùng lĩnh vực với Addison, nhưng cách giải quyết khó khăn thì có cùng cách giống nhau, rất hấp dẫn, bất cứ những vấn đề khó khăn về tiền bạc nào mà Addison đã gặp phải đều sẽ được một liên minh giải quyết, liên minh này là đế quốc tài chính có số vốn khổng lồ, có khả năng thanh toán như số vốn khổng lồ mà Allan đã để lại, hay Peter nghĩ như thế. Không ai trong số họ hay biết rằng đế quốc tài chính này đã sụp đổ, tiêu vong trước khi Allan chết, chỉ còn để lại những gì đã khiến cho ông phải chết. Barnes giỏi che giấu các công ty sau những công ty khác, che giấu những canh bạc không lành mạnh mà ông ta đã chơi, giỏi đến nỗi, ít ra cho đến nay, ngay cả người có quan hệ rộng như Addison cũng không biết được sự thật về cảnh suy tàn do Allan Barnes để lại sau khi chết Fernanda, các luật sư và lãnh đạo những công ty đã tiêu vong của Allan rất khéo léo trong việc giữ cho việc này im lặng mặc dù họ không thể giữ im lặng được mãi. Nhưng suốt thời gian bốn tháng từ khi ông ta chết, huyền thoại về Allan Barnes vẫn chưa phai mờ. Fernanda muốn huyền thoại này kéo dài chừng nào hay chừng ấy, để vinh danh ký ức của chồng bà và để cho các con bà yên tâm, không đau đớn. Việc liên mình với gia đình Barnes sẽ có lợi cho Addison, theo chỗ Peter thấy thì như thế, đó là thế giới mà Barnes đã tạo ra quanh mình quá đáng trọng, thế giới này sẽ mạ vàng những việc đầu tư phiêu lưu của ông ta bằng cái bàn chải mạ vàng ấy. Thật vậy, bất cứ dự án liên doanh nào giữa họ với nhau sẽ là sự phối hợp của các thiên tài.

    Peter hoàn toàn chấp nhận. Tên tuổi của Barnes, danh tiếng của ông ta, được mọi người hết sức kính trọng và ngưỡng mộ. Và chắc có lẽ dự án mà các công ty hai bên kết hợp nhau sẽ là điều mà Peter cần để làm cho gã xuất hiện trở lại trên bản đồ. Thế là tốt. Đúng là giấc mơ trở thành hiện thực, gã ngồi cười với Phillip Addison, lòng kính trọng thêm. Gã đưa tay nắm tập hồ sơ dày cộm do Phillip đưa.

    - Tôi không trực tiếp tiếp cận với bà Baranes - Addison trả lời - Chúng ta chưa sẵn sàng để làm việc ấy. Việc đầu tiến anh phải làm là thuê người.

    - Chắc tôi phải đọc hồ sơ đã, để hiểu hết tính chất của dự án.

    - Không cần thiết - Phillip đáp, đưa tay qua bàn, lấy lại tập hồ sơ nơi gã - Hồ sơ chỉ là lịch sử và sự sắp xếp theo niên đại những thành tích của ông ta thôi. Dĩ nhiên việc này có liên quan đến công việc của ta, nhưng có lẽ anh đã biết hầu hết rồi - Ông ta nói với vẻ lơ đễnh. Peter lại có vẻ bối rối. Toàn bộ dự án có vẻ bị bao phủ trong bức màn bí mật, quá bí mật đến nỗi gã nghĩ là gã được yêu cầu thuê người để làm việc cho một dự án không tên, trong lĩnh vực không được nói rõ cho gã biết, để làm một công việc mà Addison chưa thảo ra chương trình. Gã hết sức bối rối và gã nghĩ rằng chính Addison đã có ý định gây nên hoàn cảnh như thế này. Ông ta lại cười với Peter, vừa cất tập hồ sơ vào hộc bàn và khóa lại.

    - Nếu tôi không biết rõ công việc chúng ta sẽ làm, thì tôi biết thuê ai làm? - Peter hỏi, vẻ bàng hoàng.

    - Tôi nghĩ là anh biết rõ công việc rồi, Peter à. Anh không biết ư? Anh cần tôi phải nói toạc ra cho anh biết hay sao? Tôi muốn anh thuê một số bạn bè của anh trong bốn năm qua.

    - Bạn nào? - Peter trông càng có vẻ bối rối hơn.

    - Tôi tin chắc anh đã gặp một vài người rất hấp dẫn, loại người có tài khéo léo trong việc lãnh thầu, muốn vơ một số tiền rất lớn rồi lặng lẽ biến mất. Tôi muốn anh suy nghĩ thật kỹ, rồi chúng ta chọn họ để làm công việc rất đặc biệt này. Tôi không muốn để anh nhúng tay vào việc này, nhưng tôi muốn anh giám sát công việc, điều hành dự án.

    - Dự án gì thế? - Peter cau mày, bỗng gã không thích điều Addison vừa nói. Xét về mặt kinh doanh làm ăn, cuộc đời trong bốn năm qua của gã là một quãng trống. Những người mà gã gặp trong thời gian này là giới tội phạm, hiếp dâm, giết người và trộm cướp. Nhìn Addison, bỗng gã cảm thấy lạnh xương sống. - Vợ của Allan Barnes sẽ đảm nhận công việc gì?

    - Rất đơn giản. Sau khi chúng ta đã lập xong kế hoạch hay đúng ra là anh lập, chúng ta sẽ đưa đề nghị của chúng ta. Bà ấy sẽ trả cho chúng ta rất hậu hĩ. Thật vậy, tôi đã chuẩn bị những điều kiện rất hợp lý cho bà ta, sau khi đã căn cứ vào số gia tài của bà và tiền thuế mà có lẽ bà phải trả cho nhà nước. Tôi nghĩ sau khi chồng bà ta chết đi, ông ta đã để lại nửa tỷ đô-la, nhà nuớc sẽ thụ hơn năm mươi phần trăm số tiền đó. Như vậy tôi bảo đảm là sau khi trả thuế và chi tiêu vào các thứ khác xong, bà ta sẽ còn lại hai trăm triệu đô-la. Và chúng ta chỉ yêu cầu bà đóng cho chúng ta một nửa số đó thôi. Đấy, tôi quyết định như thế đấy.

    - Bà ta sẽ đầu tư vào việc gì? - Peter hỏi, giọng lạnh lùng, nhưng gã đã đoán ra việc gì rồi.

    - Vào sinh mạng và vào việc trả lại bất kỳ đứa con nào của bà ta hay tất cả bọn chúng, giá như thế còn rẻ gấp hai lần giá thực của nó. Cơ bản, chúng ta yêu cầu bà chia bớt tài sản cho chúng ta, tôi nghĩ việc này cũng công bằng thôi và thế nào bà ta cũng trả. Anh có thấy như thế không? - Addison cười nham nhở, Peter Morgan liền đứng dậy.

    - Ông muốn nói tôi bắt cóc các con bà ta để đòi tiền chuộc một trăm triệu đô-la à? - Peter có vẻ như viên đạn bị bắn ra khỏi nòng súng, gã nhìn đăm đăm vào mặt ông ta, Phillip Addison vẫn thản nhiên.

    - Không phải như thế. - Phillip bình tĩnh lắc đầu, dựa người ra lưng ghế - Tôi yêu cầu anh tìm chọn người để làm việc này. Chúng ta cần những người chuyên nghiệp để làm việc này, chứ không cần những người nghiệp dư như anh và tôi. Khi anh đi ở tù, anh chỉ là tội phạm tép riu, chỉ là người buôn bán ma túy nhếch nhác. Anh không phải người bắt cóc. Và tôi cũng không. Mà tôi không muốn gọi đây là vụ bắt cóc. Đây là hợp đồng kinh doanh, Allan Barnes đã trúng số độc đắc. Ông ta hoàn toàn gặp may. Tôi xác nhận ông ta là người may mắn. Không có lý do gì bà vợ của ông ta lại cuỗm hết số tiền trúng số đó. Anh và tôi cũng có thể dễ dàng trúng cái số mà ông ta đã trúng, cho nên ông ta không có lý do gì không chia cho chúng ta sau khi đã chết. Chúng ta không sát hại con của họ. Chúng ta chỉ giữ chúng trong một thời gian ngắn và trả lại cho mẹ chúng bình an vô sự, chỉ đổi lấy miếng bánh trong cái bánh mà Allan đã để lại cho bà ta. Không có lý do gì mà bà ta không chia cái bánh ấy. Lạy Chúa, ông ta có làm ra số tiền ấy đâu. Ông ta chỉ may mắn thôi. Bây giờ đến phiên chúng ta được may mắn. - Phillip cười, mắt ánh lên vẻ nham nhở.

    - Ông điên phải không? - Peter đứng nhìn sững vào ông ta - Ông có biết bản án dành cho tội bắt cóc sẽ như thế nào không. Nếu họ bắt được, chúng ta sẽ bị án tử hình, dù chúng ta có hai trái tim hay không. Thực ra, chỉ cần bị ghép vào tội âm mưu bắt cóc thôi cũng phải lĩnh án tử hình rồi. Ông muốn tôi tổ chức ư? Tôi không làm đâu. Ông tìm người khác mà làm. - Peter đáp, giậm chân định bước đi. Addison có vẻ không bị dao động.

    - Morgan, nếu tôi là anh, tôi sẽ không làm thế đâu. Anh cũng có trách nhiệm trong vụ này. - Peter quay lại nhìn Phillip, ánh mắt thản nhiên. Gã cóc cần đến số nợ gã mắc Addison. Gã muốn để cho ông ta giết gã trước còn hơn lĩnh án tử hình thay cho ông ta. Ngoài ra, đây là việc quá tàn ác, sống trên sự bất hạnh và đau khổ của kẻ khác, trên sự sống của con họ. Nghĩ đến chuyện đó khiến gã đau đớn.

    - Không, tôi không có - Peter trả lời - Tôi có trách nhiệm gì trong việc bắt cóc con nít của ông? - Gã hỏi thẳng vào mặt ông ta, Addison khiến cho gã thấy ghê tởm. Ông ta còn tệ mạt hơn gã nghĩ, tệ hơn quá nhiều. Ông ta bất nhân, quá tham lam cũng như quá điên khùng. Nhưng có điều Peter không biết là đế quốc của Addison đang bị lung lay, nếu không có liều thuốc bổ trong vụ làm ăn lớn này, ngôi nhà bằng giấy dày của ông ta sẽ sụp đổ. Thỉnh thoảng ông ta rửa tiền cho những người hợp tác ở Colombia và đầu tư tiền này vào các hợp đồng về máy tính rất phiêu lưu, để mong thu được lợi nhuận lớn. Kết quả cực kỳ khả quan trong một thời gian, cho đến khi trào lưu bắt đầu đổi hướng. Cuối cùng không những tình thế đảo lộn, mà ông ta gần chết đuối. Gã biết những người Colombia rất nguy hiểm, có thể giết ông ta khi nhận ra ông ta đã làm mất tiền của họ. Cho nên ông ta phải làm bất cứ cái gì gấp để bù đắp vào chỗ mất mát đó. Cuộc điện thoại của Peter gọi đến là vận may từ trời rơi xuống cho ông ta.

    Câu trả lời của Addison cho Peter đơn giản. Phillip Addison vừa cười nham nhở vừa nói: - Trách nhiệm của anh trong việc này là để cứu sống các con anh.

    - “Cứu sống các con tôi” nghĩa là thế nào? - Peter hỏi, bỗng gã có vẻ lo sợ.

    - Tôi biết anh có hai cô con gái, mấy năm nay anh không gặp con. Lúc tôi còn trẻ, tôi thường gặp ông bố vợ cũ của anh. Ông ta rất dễ thương. Tôi tin con anh rất tuyệt. - Mắt của Phillip Addison không rời khỏi mắt Peter, trông lạnh như băng, khiến gã lạnh xương sống.

    - Ông sẽ làm gì chúng? - Peter hỏi, gã cảm thấy ruột gan lộn tùng phèo. Con quái vật đang làm cho gã quá khiếp sợ. Lần này gã không sợ cho chính mình, mà sợ cho các con gã. Thật vô nghĩa, tự nhiên gã nói với Addison về con cái làm gì để đẩy chúng vào vòng nguy hiểm. Nghĩ đến chuyện đó, gã thấy lòng đau như cắt.

    - Vấn đề tìm ra chúng không phải là chuyện quá khó. Tôi nghĩ nếu anh quan tâm, chắc anh cũng tìm ra chúng thôi. Nếu anh không tham gia vào chuyện này, hay anh tố cáo chúng tôi, thì các con anh bị thanh toán và sẽ không có tiền chuộc mạng ở đây. Chúng chỉ lặng lẽ biến mất không ai còn gặp lại chúng nữa. - Mặt Peter tái mét.

    - Có phải ông nói nếu tôi không bắt con của Barnes cho ông, hay tổ chức bắt cóc cho ông, ông sẽ giết các con gái của tôi? - Giọng Peter nghẹn ngào. Gã vừa hỏi vừa lắc đầu, nhưng gã đã biết câu trả lời.

    - Đúng, tôi nói như thế đấy. Tôi thấy anh không còn cách nào để lựa chọn. Nhưng tôi định làm sao cho anh có lợi hơn trong việc này. Gia đình Barnes có ba đứa con, tôi chỉ cần bắt một đứa là được, nếu anh bắt được hết thì tốt còn không, chỉ cần một đứa là đủ. Tôi muốn anh thuê ba người có khả năng làm việc này. Phải là dân chuyên nghiệp, còn nghiệp dư như anh và tôi không xong. Tôi muốn việc này phải thành công, cho nên đừng làm hỏng gì hết. Anh tìm người để thuê. Tôi sẽ trả cho mỗi người năm triệu đô-la, trả vào tài khoản ở Thụy Sĩ hay Nam Phi. Tôi sẽ trả trước cho họ mỗi người một trăm ngàn đô-la, số còn lại họ sẽ nhận khi nào chúng ta nhận đủ tiền chuộc mạng. Tôi sẽ trả cho anh mười triệu đô-la để anh điều hành công việc này. Anh nhận trước hai trăm ngàn, số còn lại sẽ chuyển vào một tài khoản ở Thụy Sĩ và tôi sẽ xóa nợ cho anh, ngay từ bây giờ. Số còn lại là phần tôi. Peter tính nhanh trong óc, gã nhận ra số tiền chuộc một trăm triệu đô-la Addison sẽ hưởng bảy mươi lăm triệu. Gã và ba người gã thuê chia nhau số kia, miếng bánh khá lớn. Nhưng Addison đã nói rõ cho gã biết luật giang hồ như thế nào rồi. Nếu gã không làm cho ông ta, các con gái của gã sẽ bị giết chết. Đây là cuộc chiến hạt nhân, chứ không còn là chiến tranh quy ước. Dù Peter quay qua hướng nào, gã cũng bị lâm vào thế kẹt. Gã phân vân không biết gã có thể báo cho Janet biết trước khi Addison ra tay không, nhưng gã không muốn trông mong vào biện pháp này. Gã biết Addison có khả năng làm được mọi thứ. Peter không muốn các đứa bé bị hãm hại, cả con gã lẫn con của nhà Barnes. Tự nhiên có năm sinh mạng đem ra đánh cược cùng sinh mạnh của gã.

    - Ông điên rồi! - Peter nói. Gã ngồi xuống lại. Gã không tìm ra lối thoát, gã nghĩ sẽ không có lối thoát.

    - Nhưng điên thông minh, chắc anh phải chấp nhận như thế - Addison cười nói - Tôi nghĩ kế hoạch như thế là yên ổn rồi. Bây giờ anh phải tìm những người thực hiện việc này. Anh hãy giao cho mỗi người một trăm ngàn trước. Tôi sẽ trả trước cho anh hai trăm ngàn để anh mua áo quần đẹp, kiếm một chỗ để ở cho đến khi công việc xong xuôi. Dĩ nhiên anh phải kiếm một nơi để giữ con tin cho đến khi tiền chuộc đã được trả xong. Tôi nghĩ bà Barnes vì chồng chết, nên bà không kéo dài thời gian trả tiền chuộc lâu đâu. Bà ta cũng không muốn mất con đâu. - Addison tin rằng thời gian này bà ta rất dễ bị tấn công, nên hắn muốn ra tay khi tình hình đang nóng hổi. Việc Peter gọi đến cho hắn quả là vận mạng trời cho. Đây là cơ hội tốt mà hắn đang chờ đợi, chờ đợi có người mình cần để điều hành dự án. Hắn tin chắc thế nào Peter cũng tìm được người xứng đáng sau những năm sống trong nhà tù Pelican Bay. Dĩ nhiên Peter biết kẻ nào làm được việc này, nhưng đây không phải là công việc gã muốn làm. Thực vậy, gã nghĩ đến chuyện từ chối, nhưng nếu không làm thì các con gã sẽ ra sao? Addison đã nắm trọn dịch hoàn của gã, gã không có cách nào thoát ra được. Nếu sinh mạng các con gã bị đặt cược, gã không còn sự chọn lựa nào khác. Làm sao gã cứu nguy được chuyện này? Gã tin Janet sẽ chịu nói chuyện với gã và ngay khi gã đang tìm bà ta để nói cho bà biết con họ đang lâm nguy, thì con gái gã có lẽ đã bị giết chết rồi. Với kẻ nguy hiểm như Addison, gã không có cách gì để cứu nguy. Addison sẽ giết chúng ngay mà không hề thương xót.

    - Nếu việc bắt cóc con của Barnes gặp rắc rối, không thành thì sao? Nếu có đứa bị giết chết thì sao?

    - Chính anh có bổn phận ngăn chuyện như thế xảy ra. Bố mẹ nào cũng không chịu trả tiền chuộc mạng để nhận tử thi con họ đâu. Và chuyện này còn làm cho cảnh sát bực mình nữa.

    - Cảnh sát thì nghĩa lý gì. Ngay khi các đứa bé biến mất, cơ quan FBI sẽ nhập cuộc ngay, theo ta sát nút.

    - Đúng, chúng ta sẽ bị theo sát nút chính xác là anh sẽ bị. Hay có người nào đó - Addison nói, giọng vui vẻ - Nhưng mùa hè này tôi sẽ đi châu Âu. Chúng tôi sẽ đi sang miền Nam nước Pháp, cho nên tôi sẽ đặt hết công việc này vào đôi tay rất có năng lực của anh - Dĩ nhiên ông ta làm thế để tạo bằng chứng mình không dính líu gì đến vụ này. - Nhân đây tôi xin nói anh biết, nếu một trong số người của anh bị bắt trong quá trình thực hiên việc bắt cóc này, tôi sẽ trả cho họ một nửa số tiền đã hứa để họ có thể trang trải phí tổn thuê luật sư, thậm chí còn đủ sức để tìm cách trốn thoát khỏi vào tù. - Ông ta nghĩ đến đủ thứ - Còn anh, ông bạn, anh có thể hoặc là cứ ở lì đây sau khi xong việc, hay là biến sang Nam Phi thoải mái, ở đây với mười triệu đô-la, anh sẽ đủ sức sống cuộc đời sung túc, bất kể cuộc đời nào mà anh cho là tuyệt nhất. Sau đó chúng ta sẽ tiếp tục hợp tác làm ăn với nhau, biết đâu được - Dĩ nhiên Addison sẽ lợi dụng gã mãi, sẽ dọa tố cáo gã với FBI nếu gã không làm những gì Phillip muốn. Nhưng dù gã làm gì đi nữa thì bây giờ mạng sống của các con gã đã gắn chặt vào hành động của gã. Mặc dù gã không thấy mặt con từ khi chúng mới biết đi chập chững, nhưng gã vẫn thương chúng, gã sẽ chết trước khi đẩy chúng vào vòng nguy hiểm. Nếu che chở được chúng mà gã có vào tù hay bị án tử hình, gã cũng chấp nhận. Bây giờ gã chỉ nghĩ đến một điều là làm sao trong quá trình bắt cóc con của Barnes, gã cố gắng để cho các con của họ không bị giết chết. Đấy là điều duy nhất gã muốn, muốn hơn cả việc có mười triệu đô-la.

    - Làm sao tôi biết ông sẽ trả tiền? - Khi Peter hỏi, Phillip biết gã đã bằng lòng làm việc này, thế là xong.

    - Anh sẽ nhận trước hai trăm ngàn tiền mặt. Số tiền còn lại sẽ trả vào tài khoản ở Thụy Sĩ khi công việc đã xong. Có thể bây giờ anh mới có tiền để chi tiêu. Số còn lại sẽ trả cho anh khi chúng tôi đã có đủ tiền chuộc mạng. Đây không phải là số tiền quá bèo đối với một cựu tù không có đồng xu dính túi, phải không? - Và ông ta nói nợ cũ của Peter đã được xóa sạch. Peter không trả lời, gã nhìn ông ta, chỉ nghe ông ta nói gã cũng đã run rồi. Mới cách đây hai giờ, đời gã đã bị rơi vào cảnh bần cùng. Bây giờ gã làm sao giải thích số tiền gã có và gã sẽ bị người ta theo dõỉ suốt đời. Nhưng Addison cũng đã nghĩ đến chuyện đó. - Tôi sẽ nói tôi ứng trước tiền cho anh vì tôi đã có hợp đồng kinh doanh với anh và việc đầu tư phải được thanh toán sòng phẳng. Sẽ không có ai biết được chuyện này. - Nhưng Addison biết. Dù y làm sổ sách gian lận giỏi đến bao nhiêu, vẫn luôn luôn có nguy cơ có người sẽ nói ra. Các nhà tù đầy những kẻ cứ nghĩ mình được bao che, nhưng rồi có người tố giác họ. Addison sẽ bao che cho gã suốt đời. Ngay khi ông nói cho gã nghe kế hoạch hành động, Peter đã nghĩ rằng ông ta có kế hoạch bao che cho gã, hay cho con gã. Và chắc chắn cho cả con của Barnes.

    - Nếu bà ta không có tiền thì sao? Nếu chồng bà ấy đã mất hết tiền bạc thì sao? - Peter hỏi, vẻ e ngại. Ở đời thiếu gì chuyện kỳ lạ đã xảy ra, nhất là trong cảnh nền kinh tế hiện nay. Trong những năm vừa qua, tiền đến rồi đi như gió, để lại đằng sau cho người đời cả đống nợ khổng lồ như núi, Addison nghe hỏi liền cười.

    - Đừng bi quan như thế. Mới đây một năm, ông ta có trong tay nửa tỷ đô-la. Nếu làm gì thua lỗ, cũng không hết nhanh như thế. - Những người khác thì có thể, nhưng với Barnes, Addison không tin như vậy. Ông ta quá khôn ngoan không để mất hết tiền, ngay cả một phần cũng không, Addison nghĩ như vậy - Ông ta giỏi lắm. Anh hãy tin tôi đi. Thế nào bà ta cũng trả. Ai mà không trả? Bây giờ bà ta chỉ còn có con và tiền. Mà chúng ta chỉ cần một nửa thôi số còn lại cũng quá nhiều đối với bà ta và nhất là gia đình bà ta vẫn nguyên vẹn. - Miễn là họ ở với nhau thì được rồi. Công việc tốt đẹp là do người Peter chọn. Tất cả tùy thuộc vào gã. Cuộc đời của gã biến thành cơn ác mộng trong hai giờ qua, còn tệ hơn trước đó rất nhiều, vượt quá sức tưởng tượng của gã. Gã có nguy cơ sẽ bị lĩnh án tử hình, hay ít ra cũng tù chung thân nữa.

    Addison mở hộc bàn, lấy ra chiếc phong bì đựng tiền. Ông ta đã chuẩn bị hết trước khi gã đến. Ông ta ném chiếc phong bì qua bàn.

    - Trong ấy có một trăm ngàn đô-la, để cho anh bắt đầu. Trăm ngàn nữa sẽ gửi đến cho anh vào tuần sau, bằng tiền mặt, để anh chi dùng vào các thứ lặt vặt. Số tiền này chỉ là phần rất nhỏ trong số mười triệu mà anh sẽ nhận đủ khi công việc đã có kết quả. Trước đây hai giờ anh vào đây như kẻ lang thang, một tên cựu tù và bây gỉờ anh đi ra khỏi đây thành người giàu có. Anh hãy nhớ điều đó. Và nếu anh làm cho tôi có dính líu đến chuyện này bằng bất cứ cách nào, hay anh chỉ nhắc đến tên tôi thôi, là anh chết ngay nội trong ngày. Rõ chưa? Còn nếu anh sợ, cố rút lui, thì hãy nghĩ đến các con anh. - Ông ta đã nắm toàn bộ bửu bối của gã, còn nắm cuống họng gã luôn, gã biết vậy. Peter không có chỗ nào để xoay xở - Bây giờ anh đi tìm người để thuê làm việc đó. Hãy chọn người cho chính xác. Tôi muốn anh bắt đầu quan sát bà ta vào tuần sau. Khi anh đã chọn được người rồi, anh hãy nói cho họ biết rằng, nếu họ cuỗm một trăm ngàn chạy trốn chúng ta, họ sẽ chết trong vòng hai ngày. Tôi cam đoan như thế. - Cặp mắt ông ta cho biết ông ta đã nói là làm, Peter tin ông ta sẽ làm thế và biết ông ta cũng sẽ làm như vậy với gã.

    - Ông muốn khi nào thì làm việc này? - Peter hỏi, nhét chiếc phong bì vào túi, cảm thấy sượng sùng - Ông định ngày nào sẽ ra tay?

    - Nếu anh thuê ba người trong vòng một hay hai tuần sắp tới và nếu chúng ta quan sát họ trong vòng bốn đến sáu tuần tiếp theo, chúng ta sẽ biết tất cả những gì chúng ta cần biết về họ. Anh có thể ra tay hành động vào đầu tháng Bảy. - Ông ta sẽ bay sang Cannes vào mùng một tháng Bảy, Ông ta muốn đi nước ngoài trước khi họ làm việc này. Peter có thể đoán được như vậy.

    Peter gật đầu, nhìn ông ta. Đời gã hoàn toàn thay đổi trong hai giờ qua. Trong túi gã là chiếc phong bì chứa một trăm ngàn đô-la. Và trong tuần sau, gã có thêm một trăm ngàn nữa, nhưng đối với gã chẳng có nghĩa lý gì. Chỉ nội trong một buổi chiều mà gã đã làm xong việc bán linh hồn cho Phillip Addison để đổi lấy sinh mạng của các con gái gã. Và nếu gặp may, gã cũng sẽ giữ được mạng sống của con nhà Barnes. Còn lại tất cả đối với gã đều vô nghĩa. Mười triệu là tiền máu. Gã đã bán linh hồn cho Phillip Addison. Gã cũng có thể chết, gã nghĩ thế. Thực ra gã đã chết rồi. Gã quay lưng đi ra khỏi phòng không nói với Addison một tiếng, ông ta nhìn gã đi và khi Peter ra đến cửa, Addison lên tiếng :

    - Chúc may mắn. Nhớ tiếp xúc với tôi luôn. - Peter gật đầu, đi ra khỏi phòng, theo thang máy để xuống lầu. Khi gã bước ra ngoài, đã bảy giờ rưỡi. Mọi người đã về hết, không còn ai ở đấy. Peter cúi người nôn vào thùng rác ở góc nhà. Gã đứng nôn ọe khan ở thùng rác một hồi thật lâu.
    Last edited by giavui; 09-07-2020 at 03:04 PM.

  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 9
    Đêm đó, khi Peter nằm trên giường trong nhà tạm trú, gã nghĩ đến việc tiếp xúc với bà vợ cũ. Gã muốn báo cho bà ta phải canh chừng các cô con gái. Nhưng gã nghĩ bà ta sẽ cho là gã điên. Gã không muốn Addison làm áp lực mạnh với gã bằng cách bắt con gã làm con tin cho đến khi gã hoàn thành công việc y đã giao cho gã. Nhưng Addison khôn ngoan hơn thế nhiều. Y biết nếu y đẩy con Peter vào chỗ nguy hiểm hay tệ hơn, Peter sẽ không có gì để mất, gã sẽ tố giác y. Cho nên chừng nào Peter còn làm công việc y thuê, thì các con gã được bình yên. Đấy là điều duy nhất mà gã đã làm cho các con gái gã trong sáu năm qua, hay có lẽ cả đời chúng. Gã lấy sinh mạng của mình để bảo đảm cho sinh mạng của con. Gã lo sợ nếu công việc gã làm không tốt, con gã sẽ lâm nguy. Nhưng nếu gã tìm được người có khả năng, thì có thể công việc này suôn sẻ. Bây giờ vấn đề quan trọng là gã thuê ai. Nếu gã thuê những tội phạm cẩu thả, bất cẩn, họ có thể hoảng sợ mà giết chết các đứa bé. Cho nên gã phải tìm cho được những người có khả năng. Nếu muốn được thế, gã phải tìm trong giới kinh doanh mới có được người bình tĩnh nhất, nghiêm khắc nhất, lạnh lùng nhất, hữu hiệu nhất. Những người mà gã quen biết trong nhà tù, vì thiếu khả năng nên mới bị bắt, hay có lẽ vì kế hoạch không hoàn hảo. Peter phải xác nhận chiến thuật của Addison rất gọn gàng. Bà Allan Barnes hiện đang có số tiền mà y muốn lấy. Có lẽ bà không giữ số tiền mặt một trăm triệu đô-la ở nhà, cất trong thùng bánh.

    Gã đang nằm suy nghĩ trên giường, thì người bạn cùng phòng với gã đi vào. Ngày mai gã sẽ tìm một phòng trong khách sạn hẳn hoi, vừa thôi chứ không quá sang, đắt tiền. Gã không muốn người ta biết bỗng nhiên gã giàu quá nhanh, mặc dù Phillip Addison đã nói y sẽ ghi tên gã vào danh sách nhân viên trong một công ty chi nhánh của y với chức vụ cố vấn. Đây là một công ty được gọi là nghiên cứu thị trường, nhưng thực ra chỉ là bức bình phong che đậy đường dây buôn bán ma túy của y. Công ty này đã hoạt động yên ổn từ nhiêu năm, không xảy ra sự cố gì và không thể nào tìm ra y là kẻ gian manh.

    - Hôm nay công việc ra sao? - Người bạn cùng phòng hỏi. Anh ta làm việc cật lực cả ngày tại nhà máy Burger King, nên người nực cả mùi thịt bò băm viên và bánh chiên. Cái mùi này thế là đã có tiến bộ hơn rồi đấy, vì tuần trước anh ta làm trong nhà máy hấp cá và khoai chiên, cả phòng khi ấy sặc mùi cá. Mùi thịt bò băm viên còn dễ chịu hơn nhiều.

    - Tốt. Tôi có việc làm rồi. Ngày mai tôi sẽ dọn đi. -Peter đáp bằng giọng không vui. Người bạn cùng phòng rất buồn khi nghe gã đi. Peter yên lặng, không làm phiền anh ta, không tò mò về công việc của anh ta.

    - Việc gì thế? - Anh ta thấy Peter là người có tài, gã có vẻ như thế, dù gã chỉ mặc quần jeans, áo thun. Anh ta biết gã có học. Nhưng dù có học hay không, khi đã vào tù rồi, mọi người đều cùng hội cùng thuyền với nhau.

    - Làm công việc nghiên cứu thị trường. Việc không to tát gì, nhưng tiền lương đủ sống và có chỗ ở tươm tất. - Peter có vẻ khiêm nhường. Gã vẫn cảm thấy đau đớn khi có công việc này. Gã cảm thấy đời gã như đã chấm dứt. Gã ước chi còn ở trong tù, ít ra ở đấy, cuộc sống giản dị và gã còn hy vọng có ngày cuộc sống khá hơn. Bây giờ gã đã hết hy vọng. Gã đã bán linh hồn cho quỷ Sa tăng.

    - Tuyệt quá, ông bạn. Tôi mừng cho anh. Muốn ra ngoài ăn cái gì để ăn mừng không? - Anh ta là người tốt, chỉ bị tù tại quận vì tội buôn bán cần sa, Peter thích anh ta, mặc dù anh ta sống rất nhếch nhác.

    - Thôi được rồi. Tôi nhức đầu và sáng mai tôi phải đi làm rồi. - Thực ra gã đang bận suy nghĩ về người gã phải tìm để thuê làm việc trong dự án của Addison. Gã phải hết sức cẩn thận trong công việc này. Phải tìm người nào mà nếu công việc gặp trở ngại sẽ không tố cáo gã, hay nếu gã thấy họ không có khả năng, từ chối họ, họ đừng hé môi nói bậy. Gã phải đợi cho đến khi gặp họ, tin họ, đã kiểm tra khả năng của họ mới nói cho họ biết kế hoạch. Nhưng việc thuê họ phải hết sức tế nhị mới được. Nghĩ đến chuyện đó, gã thấy đau trong bụng. Hiện gã mới nghĩ ra trong óc được một người. Hắn không phải đi ở tù vì tội bắt cóc, nhưng Peter nghĩ hắn là loại người có thể làm được việc này. Gã biết hắn là ai và biết chắc hắn đi đâu khi ra tù. Bây giờ Peter chỉ còn việc xem hắn có ở đấy không thôi. Ngày mai gã sẽ bắt đầu công việc, sau khi đã vào ở trong khách sạn. Nghĩ đến chuyện này, gã trăn trở cả đêm.

    Sáng hôm sau, khi ngủ dậy, gã đi tìm khách sạn. Gã đi xe vào phố, tìm một nơi thuộc vùng ven của thành phố Tenderloin, ở tại phía Nam của Nob Hill. Khách sạn này nhỏ, bình dân nhưng cũng khá tấp nập, không ai để ý đến gã. Gã trả tiền thuê phòng trước một tháng, rồi quay về Mission, đến nhà tạm trú để lấy đồ đạc. Gã ký tên trả phòng ở bàn làm việc, để lại tờ giấy cho người bạn cùng phòng, chúc anh ta may mắn, rồi đáp xe về phố lại. Gã đến nhà hàng Macy, mua áo quần được đi mua sắm áo quần lại, thật thú. Gã mua vài cái quần, áo sơ-mi, cặp cà vạt, áo khoác thể thao, áo khoác da chơi dã cầu và vài cái áo len. Gã mua đồ lót mới, vài đôi giầy đẹp rồi gã về khách sạn vào phòng mình thuê. Khi đã tắm rửa sạch sẽ, gã cảm thấy mình trở lại cuộc sống của con người, rồi gã ra phố, tìm chỗ để ăn. Gã thấy gái điếm lượn quanh, những kẻ say rượu nằm trước ngưỡng cửa. Gã thấy một người bán ma túy trên xe hơi đậu bên ngoài tiệm ăh bước xuống và ngoài ra còn nhiều thương nhân và du khách vào ra tiệm. Đây là nơi cư trú mà không ai để ý đến bạn và bạn có thể biến mất một cách dễ dàng, chính điểm này khiến cho gã hài lòng.

    Gã không muốn gây chú ý cho mọi người.

    Sau khi ăn tối xong, gã nói chuyện qua điện thoại hết nửa giờ. Gã nghĩ đến người gã muốn tìm và ngạc nhiên khi thấy việc tìm hắn quá dễ. Gã định sáng mai sẽ đi xe buýt đến Modesto. Trước khi đi, gã mua cái điện thoại di động. Một trong những điều kiện người quản chế của gã đưa ra là không được dùng điện thoại di động. Đây là điều kiện quan trọng cho những người bị quản chế từng bị đi tù vì tội buôn ma túy. Adison đã nói gã mua một cái. Bây giờ đương nhiên Addison là chủ của gã. Peter nghĩ rằng người quản chế gã không sao biết được gã có điện thoại di động. Gã đã thông báo cho ông ta biết gã đã có công việc làm, đã thay đổi địa chỉ, người nhân viên quản chế có vẻ hài lòng.

    Peter gọi Addison ở văn phòng y, nhắn cho y biết số điện thoại di động và số điện thoại tại khách sạn gã ở.

    * * * * *

    Tối đó Fernanda nấu bữa ăn tối cho con. Chúng càng ngày càng náo nức vì sắp được đi nghỉ hè. Nhất là Will, cậu rất háo hức vì sắp được chơi bóng lacrosse ở trại hè suốt ba tuần. Còn hai em của cậu cũng nôn nao trước kế hoạch hè của mình. Ngày hôm sau, khi lái xe cho con đi học xong, bà vào phố để gặp Jack Waterman. Họ có nhiều chuyện để nói với nhau. Luôn luôn như vậy.

    Bà thích ông ta, thường thế, mặc dù độ này ông chỉ nói toàn chuyện đau buồn. Ông ta là luật sư giải quyết tài sản của Allan và trước đó hai người đã là bạn bè lâu năm rồi. Ông ta sửng sốt trước việc làm ăn của Allan bị phá sản, trước quyết định tự tử của Allan, và cái chết của Allan đã làm cho Fernanda và các con đau đớn vô cùng.

    Khi bà vào văn phòng ông ta, cô thư ký rót cà phê mời bà. Jack ngồi nơi bàn làm việc trước mắt bà, vẻ mặt cau có. Thỉnh thoảng ông ghét những việc làm của chồng bà. Bà rất dễ thương, không dáng phải gặp cảnh ngộ như thế này. Không ai trong gia đình bà đáng gặp như thế.

    - Bà đã nói cho các cháu biết chưa? - Ông hỏi. Bà để tách cà phê xuống, lắc đầu.

    - Về ngôi nhà phải không? Tôi chưa nói. Chúng chưa cần biết. Đến tháng Tám chúng ta mới rao bán giờ còn sớm quá. Chúng không cần phải lo lắng trong ba tháng. Vả lại, phải cần một thời gian mới bán được.

    Ngôi nhà quá lớn, quá đắt, ít người muốn mua. Thị trường nhà đất lại đang đứng. Jack đã nói với bà rằng bà phải bán ngôi nhà để có tiền trong tay vào cuối năm. Ông ta cũng đã nói bà tháo hết đồ đạc trong nhà để bán riêng. Bàn ghế chắc chắn là phải bán. Họ đã tốn gần năm triệu đô-la để trang hoàng nhà cửa, một số vật dụng không thể thu hồi được vốn, như là đá cẩm thạch lát trong các phòng tắm và nhà bếp hiện đại. Những ngọn đèn chùm mua ở Vienna, người ta đã trả bốn trăm ngàn đô-la để đem bán đấu giá ở New York và họ tính sẽ thu được nhiều lời. Rồi có những thứ khác của bà mà họ có thể tháo ra đem bán. Bà biết khi họ tháo đồ đạc trong nhà để bán, các con bà sẽ rất buồn và bà đau khổ khi thấy con buồn. Bà cố không nghĩ đến chuyện đó, cười với ông và ông cười lại với bà. Bà đã cố vui vẻ trong bốn tháng qua, ông rất khâm phục bà về chuyện này. Fernanda nói bà phân vân không biết Allan khi làm chuyện như thế này ông có nghĩ đến hậu quả cho bà hay không. Jack biết bạn, nên cho rằng có lẽ chồng bà không nghĩ đến điều đó. Allan chỉ nghĩ đến công việc làm ăn, đến tiền bạc. Nhiều lúc Allan chỉ nghĩ đến mình, cả trong thời gian ông ta nổi tiếng trong lĩnh vực máy tính, lẫn trong khi ông ta rơi xuống đáy vực một cách nhanh chóng. Ông ta thông minh, đẹp trai, duyên dáng, nhưng cũng có tính ích kỷ. Ngay việc tự tử thôi, ông ta cũng vì quá thất vọng mà chết, chứ không hề nghĩ đến vợ con. Jack ước chi ông có thể làm gì nhiều hơn cho bà, nhưng hiện tại, ông chỉ làm được những gì có thể làm được mà thôi.

    - Hè này bà đi đâu không? - Ông ta hỏi, vừa dựa người ra lưng ghế. Ông ta dễ thương, ông ta học trường thương nghiệp với Allan, rồi sau đó vào trường luật. Ba người quen biết nhau trong một thời gian dài. Ông ta đã đau khổ nhiều năm. Ông lấy vợ làm luật sư, bà ta đã chết vì bị u não năm ba mươi lăm tuổi, ông ta không lấy vợ lại và họ không có thì giờ để có con. Sự mất mát của ông khiến ông cảm thông với nỗi đau buồn của Fernanda, nhưng ông ganh tị với bà vì bà có con. Ông rất lo cho bà, cứ sợ sau khi trả hết nợ của Allan, không biết bà lấy gì để sống. Ông biết bà đang nghĩ đến chuyện kiếm việc làm ở viện bảo tàng, hay đi dạy học. Bà đã nghĩ rằng, nếu bà dạy ở trường của Ashley và Sam học, hay thậm chí ở trường của Will, bà sẽ có đồng lương để trả học phí cho các con. Nhưng họ cần nhiều tiền hơn thế nữa để sống. Họ đã đi từ chỗ nghèo khổ đến giàu sang, rồi trở lại nghèo khổ. Nhiều người như thế sau thời đại bùng phát của máy tính, nhưng chuyện đời của họ vinh quang hơn hết, nhờ Allan.

    - Will sẽ đi dự trại, Ashley đi Tahoe, Sam và tôi ở nhà. Chúng tôi đi biển chơi luôn.

    Nghe bà nói, ông cảm thấy có tội vì ông sẽ đi Ý vào tháng Tám. Ông rất muốn mời bà và các con bà cùng đi với ông, nhưng ông lại đi với bạn. Hiện ông không có người đàn bà nào trong đời và trong nhiều năm nay, ông thường đem lòng thương thầm nhớ trộm Fernanda, nhưng bây giờ ông biết rằng theo kinh nghiệm của mình, với hạng người như bà mà bày tỏ lòng yêu thương thì quả còn quá sớm. Allan mới mất bốn tháng. Khi vợ chết, ông không hẹn hò bồ bịch với ai suốt một năm trời. Nhưng trong mấy tháng qua, ý nghĩ hẹn hò với bà nhiều lần xuất hiện trong óc ông. Bà cần có người chăm sóc và các con bà cũng vậy. Ông rất thích mấy mẹ con bà. Fernanda không biết gì về tình cảm của ông đối với họ.

    - Có lẽ khi nào các cháu bế giảng năm học, chúng ta đi Napa chơi một vài hôm. - Ông dè dặt đề nghị. Bà cười. Họ quen nhau quá lâu nên bà xem ông như người anh. Bà không hề nghĩ rằng ông ta muốn bà đi chơi và chờ đợi cơ hội tốt để thổ lộ tâm tình. Bà đã chấm dứt việc hẹn hò mười bảy năm nay rồi và bây giờ bà cũng không nghĩ đến chuyện sẽ tái diễn lại việc ấy. Bà hiện đang có nhiều chuyện quan trọng hơn cần nghĩ đến. Như chuyện sống còn của gia đình, chuyện làm sao bà nuôi nổi các con khôn lớn.

    - Chắc chúng thích lắm. - Fernanda đáp để trả lời cho lời mời đi Napa chơi của ông.

    - Tôi có người bạn có chiếc du thuyền. Loại thuyền buồm rất đẹp. - Ông cố nghĩ ra cách để làm cho bà vui, làm cho các con bà có cơ hội vui chơi giải trí mà không tỏ ra cao đạo để khỏi làm cho bà cảm thấy bị xúc phạm. Bà nhìn ông ta với vẻ e thẹn rồi uống hết cà phê.

    - Bọn trẻ chắc sẽ rất thích. Allan đã đem chúng đi thuyền chơi nhiều lần. Tôi bị say sóng. - Bà ghét chiếc du thuyền của Allan, mặc dù ông thích nó. Chỉ đứng trên boong thôi bà đã say sóng rồi, còn bây giờ chỉ nói đến thuyền thôi là bà nhớ đến cái chết của Allan. Bà không muốn thấy thuyền lại nữa.

    - Bây giờ chúng ta xem công việc thử ra sao. - Ông nói, giọng dịu dàng. Họ làm việc với nhau suốt hai giờ liền sau đó, kiểm tra những vấn đề kinh doanh, hoàn tất giấy tờ vào lúc gần mười hai giờ trưa. Bà hiểu hết tình hình, chịu trách nhiệm về các quyết định do chồng gây ra. Bà tỏ ra rất nghiêm túc trong việc này và ông ta ước chi có thể làm được gì tốt hơn cho bà.

    Ông ta mời bà đi ăn trưa, nhưng bà nói bà có nhiều công việc lặt vặt cần phải làm và chiều nay có hẹn với người nha sĩ. Thực ra, thì giờ bà làm việc với ông ta quá căng thẳng, họ bàn đến hoàn cảnh quá ngặt nghèo của bà, cho nên sau khi gặp ông xong, bà cảm thấy cần phải nghỉ xả hơi một lát, cần phải ở một mình một thời gian. Nếu họ đi ăn trưa với nhau, thế nào họ cũng nói về những vấn đề khó khăn của bà và về nợ nần của Allan. Bà biết Jack thương xót cho bà, vì lòng tốt của ông ta. Nhưng sự thương xót này khiến cho bà cảm thấy mình như kẻ bơ vơ tội nghiệp. Bà sung sướng khi chia tay ông ta và lái xe về nhà ở Pacific Heights. Bà thở dài nhẹ nhõm, cố xua tan cảm giác hoảng sợ trong lòng. Bất cứ khi nào bà ra khỏi văn phòng của ông, là bụng bà co thắt lại như có nắm tay nằm trong bụng mình, vì thế mà bà từ chối lời mời đi ăn trưa với ông. Thay vì đi ăn trưa, ông ta đề nghị sẽ đến ăn tối vào tuần sau, ông hứa sẽ gọi cho bà. Ít ra khi thấy ông với các con bà, bà cũng bớt hoảng sợ trước cảnh phải đối diện với thực tế phũ phàng khi ở với ông. Ông là con người rất thực dụng, những điều ông nói ra quá rõ ràng. Nếu bà biết ông có tình ý với bà, chắc bà sẽ rất hoảng hốt. Trong những lần họ gặp nhau, không bao giờ bà nghĩ đến chuyện ấy. Bà luôn luôn nghĩ rằng Jack là người quá tuyệt vời, vững vàng như tảng đá, bà rất tiếc việc ông không hề nghĩ đến chuyện tái giá. Ông thường tuyên bố với bà và với Allan rằng ông không gặp được người vừa ý. Bà biết ông ta rất yêu vợ, Allan nhiều lần dặn bà đừng làm ông ta bực mình bằng cách ghép ông ta cho bạn bè của họ, vì thế mà bà không giới thiệu ai cho ông ta hết. Bà không tin chuyện có ngày bà sẽ gá nghĩa với ông ta. Bà yêu Allan tha thiết, bây giờ vẫn còn yêu. Mặc dù ông đã gặp thất bại trên đường kinh doanh và cuối cùng đã quyết định tự vẫn, nhưng bà vẫn nghĩ ông là người chồng tuyệt vời. Bà không muốn người nào thay thế ông. Bà nghĩ bà sẽ chung thủy với ông, sẽ ở vậy thờ chồng nuôi con suốt đời, không bồ bịch gì với ai hết. Bà đã nhiều lần nói với con như thế, với mục đích để làm cho chúng yên tâm, nhất là Sam, nhưng bà không ngờ nói thế lại khiến cho chúng buồn cho bà.

    Nhiều lần, khi nào bà đi ra ngoài với Sam, hay bà bận làm việc gì đấy, chỉ còn hai anh em với nhau, Ashley thường nói với Will về vấn đề này.

    - Em không muốn mẹ cô đơn suốt đời. - Ashley nói. Mỗi khi nghe em gái nói về chuyện này. Will lại giật mình. Cậu không muốn thấy mẹ dan díu với người nào ngoài bố mình. Ashley có tính thích làm mai mối, giống mẹ và rất lãng mạn.

    - Bố vừa mất - Will thường đáp. Mỗi khi cậu nói đến chuyện này, trông cậu có vẻ buồn buồn - Để cho mẹ một thời gian. Mẹ có nói gì à? - Will hỏi, vẻ lo lắng.

    - Có, mẹ nói mẹ không muốn đi chơi với ai hết. Mẹ muốn chung thủy với bố suốt đời. Thế mới buồn. - Bà vẫn đeo nhẫn cưới. Ban đêm bà không đi với ai hết, ngoài với các con, đi xem phim hay là đi ăn bánh pizza. Họ có đến quán ăn Mel hai lần sau khi xem Will chơi bóng - Em mong mẹ gặp người nào đấy, rồi ngày nào đấy yêu ông ta. - Ashley nói tiếp, còn Will thì mở to mắt ngạc nhiên.

    - Chuyện này không phải việc của chúng ta. - Will nghiêm nghị đáp.

    - Phải, đúng thế. Ông Jack Waterman thì sao? -Ashley hỏi, ra vẻ hiểu tình thế nhanh hơn mẹ - Em nghĩ ông ấy thích mẹ.

    - Đừng ngốc, Ashley. Họ là bạn bè mà.

    - Ờ, thì biết đâu được. Vợ ông ta cũng đã mất. Ông không tái giá. - Rồi bỗng cô có vẻ lo lắng - Anh có nghĩ ông ta đồng tính luyến ái không?

    - Dĩ nhiên không. Ông ta có cả đám bạn gái. Em làm cho anh chán quá. - Will nói rồi bước nhanh ra khỏi phòng, như mọi lần khi cô gái nêu ra vấn đề về tình đời vô thực của mẹ. Cậu không thích nghĩ đến mẹ trong bối cảnh ấy. Bà là mẹ cậu, cậu không thấy có gì sai trái trong việc bà sống đơn độc, nếu bà thấy sống như thế là hạnh phúc, thì bà cứ sống, việc này quá tốt cho cậu. Em gái cậu quá ranh mãnh, mặc dù cô đang còn tuổi thơ ngây.

    Họ trải qua ngày cuối tuần theo sở thích thường có của họ và trong khi Fernanda ngồi trong ghế của khán đài lộ thiên để xem Will chơi bóng lacrosse ở Marin vào ngày thứ Bảy, thì Peter Morgan đang trên đường đến Modesto bằng xe buýt. Gã mặc áo quần mới mua do tiền của Addison đưa. Trông gã nghiêm trang chững chạc. Người trả lời điện thoại tại nhà tạm trú nói cho gã biết Carlton Waters đăng ký ở tại đây. Đấy là người thứ hai gã gọi đến. Gã không biết khi đến đấy gã sẽ làm gì. Gã nghĩ đến trường hợp Waters không muốn nhận làm, khi ấy gã sẽ xoay xở ra sao. Dù Waters không muốn làm việc này, thì sau hai mươi bốn năm ở tù với tội danh giết người, chắc có lẽ hắn cũng biết người nào sẽ làm được. Chuyện làm sao Peter moi được thông tin nơi hắn là chuyện khác, nhất là nếu hắn không muốn làm việc này, hay là mếch lòng vì bị gã yêu cầu. Công việc “nghiên cứu”, như Addison đã nói đến, không phải dễ dàng như gã nghĩ. Nên khi ngồi trên xe buýt đến Modesto, Peter suy nghĩ tìm cách để thực hiện công việc này.

    Nhà tạm trú hóa ra gần thôi, chỉ cách trạm xe buýt dừng vài khu phố. Gã đi bộ đến đấy trong hơi nóng của một ngày cuối xuân. Peter cởi áo khoác bằng da chơi dã cầu ra và xắn hai tay áo sơ-mi lên. Khi gã đến địa chỉ mà họ đã cho gã khi nói chuyện trên điện thoại, đôi giày mới của gã phủ đầy bụi. Nhưng khi gã bước lên thềm nhà, đi vào đến bàn tiếp khách, trông gã vẫn có vẻ như là nhà doanh nghiệp.

    Gã hỏi Waters, người ta cho biết hắn đi ra ngoài rồi, nên Peter ra ngoài nhà để đợi. Họ không biết hắn đi đâu hay khi nào về. Người đàn ông nơi bàn tiếp khách nói hắn có gia đình ở tại vùng này, có lẽ hắn đến đấy, hay có thể đi đâu đó với bạn bè. Anh ta biết chắc một điều là giờ giới nghiêm bắt đầu lúc chín giờ và thế nào hắn cùng về trước giờ ấy.

    Peter ngồi trên hàng hiên đợi Waters, đến năm giờ, gã đang tính kiếm cái gì để ăn thì bỗng thấy bóng người quen quen đi chậm rãi trên đường với hai người đàn ông khác. Dáng người của Waters rất oai phong. Trông hắn như cầu thủ bóng rổ, hay hậu vệ bóng đá. Hắn có thể chất khỏe mạnh, vừa cao vừa to, hắn đã sống nhiều năm trong tù và lo rèn luyện thân thể, nên có kết quả rất ấn tượng. Vào một nơi khác, gặp lúc không thuận lợi, Peter sẽ nghĩ chắc trong hai mươi bốn năm ở tù hắn không có một hành vi bạo lực nào. Gã thấy sự kiện này chỉ làm cho gã hơi an tâm chút ít thôi. Rất có thể khi nghe Peter đưa ra đề nghị, hắn sẽ nổi giận đùng đùng và nện Peter một trận nên thân, vì dám yêu cầu hắn làm một việc như thế. Peter không mong gì sẽ thảo luận việc này với hắn được.

    Khi Waters đi băng qua đường, hắn nhìn thẳng vào Peter. Họ nhận ra nhau ngay, mặc dù họ không phải bạn bè. Hắn đúng là người mà Addison muốn gã tìm để làm việc này, đúng là nhà chuyên nghiệp, khác xa với kẻ tội phạm nghiệp dư như Peter Morgan. Nhưng bây giờ, nhờ Addison, nên gã đã ở trong liên đoàn lớn và Peter có thể tự hào về việc này. Thực ra, gã ghét công việc gã đang làm, nhưng không có sự lựa chọn.

    Hai người đàn ông gật đầu chào nhau. Peter đứng trên hàng hiên nhìn hắn, còn Waters nhìn thắng vào mắt gã với vẻ cau có khi hắn đi lên thềm. Peter không an tâm.

    - Anh tìm ai phải không? - Waters hỏi và Peter gật đầu, nhưng gã không nói tìm ai.

    - Anh khỏe không? - Họ vờn nhau như hai con bò trong bãi đấu, Peter sợ Waters tấn công trước. Hai người đàn ông kia, Malcolm Stack và Jim Free, đứng lui một chút, nhìn xem việc gì sắp xảy ra.

    - Khỏe, còn anh? - Peter gật đầu đáp lại, mắt họ không rời nhau, như nam châm hút kim loại, không nhả ra. Peter không biết nói gì, nhưng gã nghĩ Waters chắc biết gã đến tìm hắn, vì hắn không nói gì với Peter mà quay lại nói với Malcolm Stark và Jim Free :

    - Lát nữa tôi vào sau. - Khi hai người đi qua Peter, họ nhìn gã, rồi thả cánh cửa lưới cho nó đóng mạnh lại. Waters quay lại nhìn Peter, lần này câu hỏi hiện ra nơi mắt hắn - Anh đến tìm tôi phải không? - Peter gật đầu và thở dài. Thật khó khăn hơn gã nghĩ rất nhiều, và rất đáng sợ, nhưng tiền bạc trước mắt rất nhiều. Rất khó tiên đoán Waters sẽ phản ứng ra sao, hay hắn sẽ nói gì. Và đây không phải là chỗ để nói đến chuyện ấy. Waters thấy ngay gã đang có chuyện quan trọng muốn nói với hắn, chắc chắn như thế. Trong thời gian bốn năm trong tù, hai người không nói với nhau quá mười tiếng và bây giờ gã cất công từ San Francisco đến đây để tìm hắn, thì chắc là phải có chuyện gì quan trọng. Waters rất muốn nghe chuyện ấy, chuyện mà Peter phải ngồi trên xe buýt ba giờ để đi từ thành phố đến đây và ngồi đợi hắn khá lâu. Peter có vẻ có điều gì quan trọng muốn nói.

    - Chúng ta kiếm chỗ nào nói chuyện được không? -Gã chỉ nói thế và Waters gật đầu.

    - Đằng kia đường có cái công viên. - Hắn tin là Peter không muốn vào quán rượu hay tiệm ăn, hay trong phòng khách của nhà trọ, những nơi mà người ta có thể nghe được câu chuyện của họ.

    - Ta đến đấy đi. - Peter đáp, rồi theo hắn bước xuống thềm.

    Gã đói bụng và lo sợ. Hai người đi bên nhau mà không nói một tiếng. Gã cảm thấy bụng nặng như chì. Họ đi được mười phút thì đến công viên, Peter ngồi xuống chiếc ghế dài, Waters ngần ngừ một hồi lâu rồi cũng ngồi xuống bên cạnh gã. Hắn ngồi xong, lấy một chùm thuốc lá nhai trong túi ra. Hắn không mời Peter, như thói quen trong tù không mời ai hết. Hắn ngồi yên một lát, rồi nhìn gã, vẻ vừa bực tức vừa hiếu kỳ.

    Peter là loại tù không được hắn kính nể. Gã chỉ là đồ điên túng tiền, vì ngu ngốc nên để cho cảnh sát ập vào bắt tại trận và khi vào tù, gã bú khu tên quản ngục để được làm nơi văn phòng của lão ta. Waters phải làm việc vất vả, phải sống cô đơn trong một thời gian dài. Hắn ta từng sống với bọn giết người, hiếp dâm và bắt cóc và với những người phải ở tù lâu. Bốn năm trong tù của Peter so với hai mươi bốn năm cực nhọc của hắn chẳng nghĩa lý gì hết. Và Waters đã tuyên bố hắn vô tội cho đến cùng, bây giờ vẫn thế. Dù tiểu sử của hắn như thế nào, vô tội hay có tội, thì khi còn ở trong tù hắn chẳng coi Peter Morgan nghĩa lý gì hết. Nhưng nếu gã đã từ San Francisco đến đây để gặp hắn, hắn sẽ lắng nghe gã, nhưng hắn chỉ cố gắng có thế thôi. Thái độ này hiện ra rất rõ khi hắn nhổ bỏ thuốc ra xa cách đấy mấy mét và quay lại nhìn Peter. Mắt Waters gần như làm cho Peter run sợ, như những lần đã gặp hắn trong văn phòng của ông quản lý nhà tù. Hắn chờ đợi và Peter không sao tránh khỏi việc này. Gã phải nói thôi, chỉ có điều là gã không biết nói sao. Waters lại phun bã thuốc.

    - Anh định nói chuyện gì đấy? - Waters hỏi, nhìn thẳng vào mắt gã. Ánh mắt của hắn làm cho Peter phải hụt hơi. Gã phải nói thôi.

    - Có người đề nghị giao cho tôi một công việc làm ăn lớn. - Peter bắt đầu nói trong khi Waters nhìn gã đăm đăm. Waters thấy hai tay gã run run và hắn thấy gã mặc áo quần mới. Chiếc áo khoác có vẻ đắt tiền và đôi giầy gã đi cũng thế. Rõ ràng gã đang làm gì đó có tiền. Waters đang làm việc đóng thùng trong xí nghiệp cà chua với đồng lương mạt rệp. Hắn muốn có việc làm trong văn phòng, nhưng người ta trả lời còn quá sớm - Tôi không biết anh có quan tâm đến việc này không, nhưng tôi muốn cho anh biết. Tôi cần anh góp ý. - Khi gã nói xong, Waters biết gã không có khả năng để làm việc này. Hắn dựa người ra lưng ghế và cau mày.

    - Cái gì khiến anh nghĩ là tôi sẽ quan tâm đến việc anh làm, hay muốn giúp anh? - Hắn nói với vẻ thận trọng.

    - Tôi không biết cái gì nữa. - Peter nghĩ là phải thành thật với hắn. Đây là biện pháp duy nhất để hợp tác với người nguy hiểm như hắn. Gã nghĩ đây là biện pháp độc nhất thôi - Tôi đã gặp chuyện khó khăn. Khi tôi đi ở tù, tôi có mắc nợ một người rất nhiều tiền, hai trăm ngàn đô-la và tôi nằm trong tay ông ta. Ông ta nói ông ta có thể giết tôi khi nào cũng được, nhưng ông ta không làm thế cho đến bây giờ. Ông ta giao cho tôi một việc. Tôi không chọn lựa được. Nếu bây giờ tôi không làm cho ông ta, ông ta sẽ giết con tôi và tôi nghĩ ông ta sẽ làm thật.

    - Anh đang hợp tác với những người quá tốt! - Waters đáp, hắn duỗi dài hai chân, nhìn vào đôi ủng chăn bò lấm bụi của hắn - Ông ta có ý làm như thế thật à? - Waters muốn biết, hắn không thương hại gã.

    - Thật. Tôi nghĩ ông ta sẽ làm thật. Vì vậy tôi đang đối diện với sự nguy hiểm. Ông ta muốn tôi phải làm cho ông ta một việc.

    - Việc gì thế? - Giọng hắn thản nhiên, mắt vẫn nhìn vào đôi ủng trên chân hắn.

    - Việc đại sự. Rất lớn. Có rất nhiều tiền. Ông ta đã dự tính hết rồi. Nếu anh tham gia, anh sẽ được năm triệu đô-la, sẽ được ứng trước một trăm ngàn đô-la, còn lại sẽ lấy hết khi xong việc. - Peter nghĩ rằng khi nói như thế có lẽ hắn không cảm thấy bị xúc phạm như gã lo sợ trước đây. Cho dù Waters không muốn nhận làm việc này, thì đây chỉ là lời đề nghị thôi. Lời đề nghị cho bất cứ người nào trong số họ. Waters gật đầu, hắn cũng nghĩ như thế, nhưng hắn có vẻ không quan tâm lắm. Hắn rất lạnh lùng.

    - Còn anh bao nhiêu?

    Lại phải thành thật. Chỉ có cách ấy thôi. Danh dự của giới trộm cướp.

    - Mười triệu khi hoàn tất. Ứng trước hai trăm ngàn, ông ta muốn tôi tổ chức thuê người cho ông ta.

    - Bao nhiêu người?

    - Ba, kể cả anh. Nếu anh nhận làm.

    - Ma túy à? - Hắn không tin việc chuyên chở ma túy mà lại được trả công nhiều như thế, phải bao nhiêu heroin hay côcain mới đủ. Hắn không nghĩ ra được công việc gì mà lại có thể sinh nhiều lợi tức như vậy. Chuyên chở ma túy với tiền công như thế thì quá cao, trừ phi công việc quá sức nguy hiểm và lợi tức quá lớn người ta mới trả công như thế. Nhưng khi Waters nhìn Peter, gã lắc đầu.

    - Tệ hơn thế, hay tốt hơn. Tùy thuộc vào việc anh xem vấn đề này tốt hay xấu hơn. Trên lý thuyết, việc này gọn nhẹ hơn rất nhiều. Họ muốn chúng ta bắt cóc con nít, canh giữ chúng một thời gian chừng hai tuần, lấy tiền chuộc, trả chúng về nhà và giải tán. Cố gắng đừng gây thiệt hại cho ai hết.

    - Con cái nhà ai thế? - Waters hỏi - Con tổng thống à?

    Peter muốn cười, nhưng không dám. Đây là việc nghiêm trọng cho cả hai.

    - Ba đứa bé. Bắt hết càng tốt. Một đứa cũng đủ rồi.

    - Lão ta có điên không? Lão trả cho bốn chúng ta hai mươi lăm triệu đô-la để bắt ba đứa bé, rồi trả chúng về nhà. Lão có xơ múi gì không? Tiền chuộc bao nhiêu?

    Peter sợ không muốn nói hết chi tiết, nhưng gã phải nói hết cho hắn biết để buộc hắn vào.

    - Một trăm triệu, ông ta hưởng bảy mươi lăm triệu. Đấy là ý kiến của ông ta. - Waters huýt gió, nhìn Peter một hồi lâu, rồi thình lình hắn đưa tay thộp cuống họng gã, bóp thật mạnh khiến cho gã gần nghẹt thở. Bàn tay hắn bóp mạnh cổ Peter như cái ê-tô, trong khi hắn đưa mặt đến gần mặt Peter chỉ cách hai phân.

    - Nếu anh đểu với tôi, tôi sẽ giết chết, chắc anh biết chứ? - Hắn nói, đồng thời đưa bàn tay kia banh vạt áo sơ-mi của Peter để xem cảnh sát có gài máy nghe lén vào trong người gã không, nhưng không có.

    - Chuyện thật đấy. - Peter cố gắng hít không khí vào người, nhưng Waters vẫn bóp mạnh cổ gã cho đến khi mặt gã thấy sao và gần như bất tỉnh, khi ấy hắn mới thả tay ra và dựa người ra lưng ghế lại, vẻ bình thản.

    - Lão này là ai thế?

    - Tôi không thể nói được - Peter đáp, tay thoa cổ. Gã vẫn cảm thấy bàn tay Waters còn trên cổ mình - Đây là một phần trong hợp đồng. - Waters gật đầu. Câu trả lời của gã đối với hắn có vẻ hợp lý.

    - Mấy đứa bé con của ai?

    - Tôi cũng không thể nói ra được, cho đến khi anh bằng lòng tham gia vào việc này. Nếu anh bằng lòng tham gia, anh sẽ biết ngay thôi, ông ấy muốn chúng ta quan sát họ trong vòng một tháng hay sáu tuần, để biết phải làm gì, biết thói quen của họ và khi nào thì bắt cóc. Tôi lại còn phải kiếm một chỗ để chúng ta đến.

    - Tôi không thể làm công việc quan sát. Tôi có việc phải làm - Carlton Waters đáp, như thể hắn đang tổ chức kế hoạch làm việc hoặc thỏa thuận giá cả xe hơi - Tôi chỉ có thể làm việc ấy vào những ngày cuối tuần. Chỗ ấy ở đâu, San Francisco à? - Peter gật đầu.

    - Tôi có thể làm việc ấy trong tuần. Nếu chúng ta thay cho nhau một chút, có lẽ ít bị chú ý hơn. - Làm thế sẽ thuận lợi cho cả hai.

    - Họ có số tiền như thế thật à? Hay anh chàng này mơ mộng như thế?

    - Cách đây một năm họ có nửa tỷ đô-la. Người chồng chết rồi. Chúng ta bắt người vợ phải trả tiền chuộc. Bà ta sẽ trả để nhận con về. - Waters gật đầu. Chuyện như thế hắn thấy quá đúng.

    - Chắc anh biết, nếu bị bắt chúng ta sẽ bị kết án tử hình - Waters nói một cách tư nhiên - Ai sẽ bảo đảm thằng cha này không tố giác chúng ta nếu chúng ta làm việc này. Tôi không tin những người tôi không biết. - Tuy hắn không nói ra, nhưng hắn tin Peter, mặc dù hắn nghĩ gã là kẻ ngây ngô. Khi ở trong tù, hắn nghe nói gã được lắm. Gã không cứng đầu, nhưng gã trong sạch suốt thời gian chịu án. Đối với hắn, như thế là quá được rồi.

    - Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều nghĩ ra nơi để đến sau khi xong việc. Chúng ta chỉ biết nhau thôi. Nếu người nào hé môi, tất cả chúng ta sẽ bị tóm hết. - Peter bình tĩnh nói.

    - Đúng và nếu anh hé môi, ông ta cũng bị bắt. Chắc ông ta tin anh.

    - Có lẽ. Thằng cha quá tham. Tôi không chọn lựa được. Tôi không thể để cho con tôi lâm nguy. - Waters lại gật đầu, mặc dù hắn không có con, nhưng hắn biết rất rõ về chuyện này.

    - Anh có nói cho ai biết không?

    - Không có ai biết hết. Tôi bắt đầu với anh. Tôi nghĩ, nếu anh không muốn làm việc này, thế nào anh cũng sẽ cho tôi vài ý kiến. Trừ phi anh nện tôi một trận nên thân, rồi bảo tôi cút cho khuất mắt. - Hai người cười nhìn nhau, rồi Waters cười lớn.

    - Anh quá cả gan khi hỏi tôi một việc như thế này. Tôi có thể dần cho anh một trận nên thân.

    - Nếu không thì cũng bóp cổ tôi đến nghẹt thở. -Peter trêu và Waters lại cười to. Tiếng cười ồ ồ khoái trá - Anh nghĩ sao?

    - Tôi nghĩ thằng cha này là đồ điên, hay hắn ta có một số bạn bè giàu có. Anh biết rõ họ chứ?

    - Tôi biết họ là ai.

    - Họ thật như thế chứ?

    - Rất đúng như thế - Peter trấn an hắn, trông Waters có vẻ rất ấn tượng. Hắn không bao giờ nghe đến ai có nhiều tiền như thế ngoại trừ tiền buôn bán ma túy và Peter nói đúng, việc này có vẻ gọn gàng - Tôi còn phải tìm một nơi cho chúng ta đến với mấy đứa bé.

    - Không khó. Anh chỉ cần tìm một ngôi nhà nhỏ trên núi, hay cái xe toa đậu đâu đấy nơi khuất tịch. Trời, giữ ba đứa bé quá phiền, phải không? Chúng bao nhiêu tuổi?

    - Sáu, mười và mười sáu.

    - Mệt thấy mồ. Nhưng tôi nghĩ với năm triệu đô-la, tôi có thể giữ con quỷ Dracula và con của hắn cũng được.

    - Nhưng hợp đồng buộc chúng ta không được làm hại chúng. Chúng phải trở về nhà bình an vô sự. Hợp đồng như thế. - Peter nhắc cho hắn nhớ.

    - Tôi biết rồi. - Waters đáp, hắn có vẻ giận dữ - Không ai trả một trăm triệu để nhận ba đứa trẻ chết. Hay một đứa. - Hắn nắm vững vấn đề.

    - Hy vọng bà ta trả tiền chuộc nhanh, bà đã mất chồng, bà không muốn mất con nữa. Có thể bà ta phải mất một hay hai tuần để rút tiền, nhưng không thể lâu hơn, vì tính mạng của các con bà.

    - Tôi thích người trong cuộc là đàn bà - Waters nói, hắn nghĩ về chuyện này - Bà ta chắc sẽ không để chúng ta nóng lòng chờ đợi quá lâu. Bà cần nhận con về. - Waters đứng dậy, nhìn xuống Peter, gã vẫn còn ngồi trên ghế. Hắn đã nghe đầy đủ rồi, hắn muốn về lại nhà tạm trú. Bây giờ hắn cần có thì giờ suy nghĩ thêm - Để tôi suy nghĩ về chuyện này rồi sẽ cho anh biết. Làm sao tôi tìm anh? - Peter đưa cho hắn mảnh giấy có ghi số điện thoại di động của gã. Gã đã viết trong khi chờ hắn trên hàng hiên.

    - Nếu anh nhận làm, anh tìm hai người khác được không? - Peter vừa hỏi vừa đứng dậy.

    - Được. Tôi phải tìm người tôi tin cẩn mới được. Có thể có người sẽ bị bắt, nhưng điều quan trọng là đừng khai bạn mình, phải không? Sau khi sự việc xong rồi, chúng ta sẽ bị theo dõi. Tôi không muốn ai khai mình để rồi phải chết rực trong tù. - Hắn nói có lý. Peter đồng ý với hắn.

    - Ông ta muốn chúng ta hành động trong tháng Bảy. Khi ấy ông ta đi ra nước ngoài rồi, ông ta muốn lúc trở về thì mọi việc phải xong xuôi hết. - Như vậy họ có hơn một tháng để ổn định tổ chức, tìm người, quan sát bà ta và bắt mấy đứa bé.

    - Được thôi, chuyện này chắc không khó khăn gì. -Waters đáp. Sau đó, họ yên lặng ra về, Peter phân vân không biết hắn đang nghĩ gì và khi nào trả lời cho gã. Khi họ đến nhà tạm trú, Waters không nhìn gã, hắn lặng lẽ bước lên thềm mới quay lại nhìn, rồi nói bằng giọng mà chỉ có Peter mới nghe được - Tôi vào trong - Nói xong, hắn đi lên hàng hiên và vào nhà, Peter đứng nhìn theo hắn, cánh cửa lưới đóng sầm lại. Hai mươi phút sau, Peter đáp xe buýt trở về.

    Last edited by giavui; 09-07-2020 at 03:05 PM.

  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 10
    Gần cuối tuần đó, Peter Morgan nhận được tin của Carlton Waters từ điện thoại di động của gã. Hắn đã có hai người họ cần đó là Malcolm Stack và Jim Free. Hắn nói hắn bảo đảm hai tên này biết giữ mồm giữ miệng, có thể làm công việc này. Cả ba đều quyết định sau khi xong việc, sẽ đi Nam Phi qua đường Canada hay Mexico. Chúng muốn năm triệu đô-la của mỗi người sẽ nằm trong tài khoản tại Nam Phi, nơi chúng có thể đến nhận dễ dàng. Chúng nói chúng sẽ cùng nhau buôn ma túy, nhưng chưa nghĩ ra được cách thức làm ăn. Waters biết người sẽ làm hộ chiếu cho chúng và đưa chúng sang Mexico, rồi từ đó, chúng có thể đi đến bất cứ nơi nào chúng muốn. Tất cả ba người đều muốn làm việc này, lấy tiền xong là giong ra khỏi nước. Không ai có bà con thân thích hay vợ con gì hết. Cô gái bán nơi quán cà phê hóa ra không thương yêu gì Jim Free. Cô ta có bạn trai rồi, không quan tâm đến Jim, cô ta chỉ ve vãn Jim chơi cho vui thôi.

    Cả cuộc đời mới đang chờ đợi chúng ở Nam Phi. Bây giờ chúng cần một nơi để đến sau khi đã bắt cóc con của nhà Barnes, đợi nhận xong tiền chuộc mạng. Peter đáp gã sẽ lo việc ấy. Waters bằng lòng bắt đầu quan sát nhà Barnes vào cuối tuần ấy. Chuyện tiếp theo là chúng phải có xe hơi. Peter nói gã sẽ mua một chiếc cho gã và Waters để đi quan sát, một chiếc thường thôi, không đẹp, để khỏi làm cho người ta chú ý. Và họ cần một chiếc xe tải để dùng vào việc bắt cóc. Waters bằng lòng đến gặp Peter tại khách sạn gã ở vào thứ Bảy. Carl sẽ theo dõi gia đình Barnes từ chín giờ sáng cho đến sáu giờ chiều vào những ngày cuối tuần. Peter sẽ quan sát những ngày khác trong tuần và những đêm cuối tuần. Gia đình Barnes phải được theo dõi thường xuyên. Peter nghĩ rằng, nếu bà ta ở một mình với ba con, thì chắc bà sẽ không đi đâu nhiều. Và việc này chỉ cần một tháng thôi. Để có mười triệu đô-la, gã phải ngồi trên xe suốt ngày đêm để quan sát, theo dõi. Gã đã báo cáo cho Addison biết tình hình, ông ta tỏ vẻ hài lòng và nói cho gã biết ông sẽ trả tiền chiếc xe tải và xe hơi. Một tháng sau, khi công việc xong xuôi cả hai chiếc xe đều vứt bỏ.

    Chiều hôm đó Peter mua chiếc xe Ford có chỗ chất hành lý phía sau. Xe đã cũ năm năm nhưng ít đi và tiện nhất là có màu đen. Hôm sau gã mua chiếc xe tải cũ tại chỗ khác và thuê một bãi xe công cộng để đậu xe. Đến sáu giờ tối đó, gã đậu xe phía ngoài nhà của Fernanda. Gã nhận ra bà và các con từ tấm ảnh trong hồ sơ của Phillip và gã nhớ tên họ. Tên của họ đã khắc sâu vào tâm trí gã.

    Gã thấy Fernanda vào nhà với Ashley, rồi lại đi ra và gã đi theo bà. Bà lái xe bạt mạng, chạy qua cả đèn dỏ. Gã tự hỏi không biết có phải bà ta say không. Gã đậu xe cách xe bà ba chiếc khác, gần sân bóng ở sân vận động trường Presidio và quan sát bà. Bà ngồi ở khán đài lộ thiên, xem Will chơi bóng lacrosse. Sau đó, khi cậu ta ra xe với bà, Peter thấy hai mẹ con ôm ghì nhau rồi mới lên xe. Cảnh hai mẹ con ôm ghì nhau làm cho tim gã đau nhói, gã không biết tại sao. Bà đẹp, tóc vàng và nhỏ con. Khi về đến nhà, chàng trai bước ra xe và lại cười với mẹ. Cậu ta đang hưng phấn. Đội cậu thắng. Peter nhìn hai mẹ con cặp tay nhau bước lên thềm nhà. Thấy cảnh ấy, gã muốn đến gần bên họ và khi họ vào nhà, đóng cửa, gã cảm thấy mình bị bỏ rơi bên ngoai, cô đơn một cách kỳ lạ. Khi bà vào nhà rồi, gã nhìn bà qua cửa sổ để xem bà có mở hệ thống báo động không! Đây là việc rất quan trọng cho gã. Bà không mở mà đi thẳng vào bếp.

    Peter thấy đèn sáng trong nhà bếp, gã nhìn bà nấu ăn tối cho gia đình. Gã thấy cả Ashley lẫn Will ở trong bếp, nhưng không thấy Sam. Gã nhớ đã nhìn cậu bé trong ảnh, đấy là một cậu bé có mái tóc đỏ, tươi cười. Đến khuya, gã thấy Fernanda đứng bên cửa sổ nơi phòng mình. Gã nhìn bà qua ống nhòm, thấy bà đang khóc. Bà mặc áo ngủ đứng đấy, nước mắt chảy xuống hai má đầm đìa, lát sau bà quay đi. Nhìn bà khóc, gã thấy lòng bồi hồi một cách lạ lùng, gã đã nhòm ngó vào đời sống của họ. Cô gái mặc áo quần bó để múa vũ ba lê, cậu con trai ôm hôn mẹ sau khi thắng trận bóng lacrosse và bà đứng khóc bên cửa sổ ở phòng ngủ, có lẽ khóc vì chồng chết. Đến hai giờ sáng Peter mới lái xe đi. Ngôi nhà đã tối tăm, chắc cũng tối như thế ba giờ nữa. Gã nhận thấy không cần ở lại khuya như thế, nhưng gã cần phải biết hết mọi sinh hoạt của họ.

    Gã quay lại lúc bảy giờ sáng hôm sau. Không có gì xảy ra cho đến gần tám giờ. Gã không thấy hoạt động gì trong nhà bếp, vì gã không biết bà có bật đèn lên hay không. Phía nhà gã đang dò xét được ánh mặt trời chiếu sáng và đến tám giờ kém mười, gã thấy bà vội vã đi ra. Bà quay lại nói gì với ai đấy phía sau còn ở trong hành lang, rồi cô vũ công ba lê xuất hiện, kéo theo cái bao nặng trịch. Chàng cầu thủ bóng lacrosse giúp cô bé đem cái bao ra, rồi cậu đi đến nhà xe, nơi xe của cậu đậu. Cánh cửa trước của ngôi nhà vẫn còn mở, Fernanda nhìn cánh cửa, vẻ kiên nhẫn và cuối cùng cậu bé bước ra, Peter ngồi trong xe nhìn cậu bé, gã không thể không mỉm cười. Sam mặc chiếc áo thun màu đỏ nhạt có in hình xe cứu hỏa sau lưng, mặc chiếc quần bằng vải nhung kẻ màu xanh nước biển và đi giày vải màu đỏ có đế cao. Cậu bé hát thật lớn, mẹ cậu bật cười, vẫy tay gọi cậu rạ xe. Cậu ngồi vào phía sau, vì chị cậu ngồi ghế phía trước, với cái bao để trên đùi. Khi họ đến trường, Peter lái xe lẽo đẽo theo sau, Fernanda giúp cô gái bước ra. Cô gái kéo cái bao lên tầng cấp, Peter không biết trong bao đựng gì. Sam nhảy ra khỏi xe theo sau chị như chú chó con, cậu bé quay lại, miệng cười toe toét, vẫy tay chào mẹ. Bà đứng đấy một phút, hôn gió và vẫy tay chào cậu bé rồi quay lại xe. Bà đợi cho đến khi cậu bé đã vào trong trường xong mới lái xe đi.

    Bà lái xe đến siêu thị Laurel Village, vào cửa hàng tạp phẩm, đẩy xe mua hàng đi quanh một lát, đọc nhãn hiệu, kiểm tra ngày sản xuất rồi bỏ hàng vào xe. Bà mua nhiều thực phẩm cho trẻ con, ngũ cốc, bánh qui và thức ăn liền, sáu miếng thịt bò bít tết, rồi khi đến quầy bán hoa, bà dừng lại xem hoa, như thể muốn mua, rồi đẩy xe đi, vẻ buồn bã. Peter đáng ra ngồi đợi trong xe, nhưng gã muốn đi theo bà, để xem tận tường bà là người thế nào. Khi nhìn gã, bà làm cho gã mê mẩn. Dưới mắt gã, bà là hình ảnh của một người mẹ hoàn hảo. Những thứ bà mua đều cho thấy bà chỉ nghĩ đến con, chỉ mua cho con. Khi gã đứng sau lưng bà nơi hàng người đợi trả tiền, gã thấy bà lấy tờ tạp chí, nhìn lướt qua rồi bỏ lại. Gã rất kinh ngạc khi thấy bà mặc áo quần quá đơn giản. Nhìn bà, không ai nghĩ rằng chồng bà đã để lại cho bà nửa tỷ đô-la. Bà mặc áo thun màu hồng, quần jeans, mang guốc và trông bà như đứa con nít. Trong khi đứng đợi, bà quay mặt nhìn gã, rồi thật bất ngờ, bà cười với gã. Gã trông rất bảnh, áo sơ-mi mới màu xanh hai đầu cổ áo cài khuy, mang giầy đế phẳng và quần kaki. Trông gã giống như người đàn ông đã cùng lớn lên với bà, hay như những người bạn của Allan. Gã cao, đẹp trai, tóc vàng và bây giờ theo những tài liệu gã đọc được về bà, gã biết gã chỉ nhỏ hơn bà sáu tháng. Họ cùng tuổi với nhau. Cả hai đều theo trường đại học danh tiếng. Bà học ở Stanford, còn gã học ở Duke. Gã sắp ra trường thì bà lấy chồng sinh con. Con họ gần bằng tuổi nhau. Sam sáu tuổi và Isabelle tám tuổi Heather chín. Bà trông hơi giống Janet, nhưng đẹp hơn và chắc gã không biết rằng với mái tóc vàng, trông gã rất giống Allan. Bà nhận thấy điều đó khi để lại tờ tạp chí, rồi nhìn gấ đăm đăm. Rồi khi bà để cuộn khăn giấy lên quầy tính tiền, một cuộn lăn xuống đất, gã cúi xuống lượm lên đưa cho bà.

    - Cám ơn. - Bà vui vẻ nói, gã chú ý thấy bà đeo nhẫn trên tay. Bà vẫn còn đeo nhẫn, gã thấy đây là cử chỉ thật đáng yêu. Cái gì nơi bà gã cũng thích hết, gã lắng nghe bà nói chuyện với người đàn ông tính tiền hàng tạp phẩm bà mua, ông ta có vẻ biết bà rất rõ. Bà nói con bà đều khỏe mạnh, Will sắp đi dự trại để chơi bóng lacrosse. Peter nhắc nhở mình nhớ đến nhiệm vụ của mình, gã phân vân không biết khi nào chàng trai đi dự trại. Nếu cậu ta đi trong tháng Bảy thì công việc sẽ nhẹ đi, vì khi ấy Waters và đồng bọn chỉ bắt hai đứa thôi. Nghĩ đến chuyện này, gã cảm thấy đau đớn. Người đàn bà này quá tốt, rất trung thành với chồng, rất tận tụy với con, cho nên gã thấy việc mà đồng bọn của gã sắp làm là quá tàn ác. Họ sẽ bắt bà trả một trăm triệu đô-la, số tiền bà dùng để sống thoải mái với con suốt đời.

    Nghĩ đến chuyện đó, gã cảm thấy như có một khối nặng đè lên lương tâm mình, vừa khi ấy gã thấy xe bà đang chạy qua hai ngọn đèn đỏ và đến biển hiệu dừng lại trên đường California để về nhà. Bà lái xe thật ẩu. Gã phân vân không biết bà đang nghĩ chuyện gì khi lái xe vượt qua đèn đỏ. Khi về đến nhà bà, gã lại bàng hoàng thấy cảnh tượng diễn ra trước mắt mình. Gã cứ nghĩ sẽ có người giữ nhà, hay một đám gia nhân chạy ra bưng hàng trên xe vào nhà. Thế nhưng bà tự mình mở cửa trước, để cửa mở như vậy, rồi tự tay bưng hàng tạp phẩm vào nhà, bao này xong đến bao khác. Gã tự hỏi phải chăng hôm nay là ngày nghỉ của gia nhân. Sau đó, gã không thấy bà lại cho đến mười hai giờ trưa. Bà đi ra để tìm cái gì bà để quên trong xe, rồi lại để rớt cuộn khăn giấy, nhưng lần này gã không lượm lên giúp bà được như khi ở trong cửa hàng. Gã ngồi yên không nhúc nhích. Gã không thể để cho bà thấy. Gã chỉ đến để quan sát.

    Vào lúc ba giờ, bà vội vã ra khỏi nhà, người xộc xệch lôi thôi. Bà nhảy lên chiếc xe có chỗ chở hàng, lái đến trường, rất nhanh gần tông vào xe buýt. Quan sát bà suốt cả ngày, gã nghĩ rằng bà lái xe trên đường rất nguy hiểm. Bà lái rất nhanh, băng qua đèn đỏ, đổi làn mà không ra dấu, gần tông người đi bộ băng qua đường hai lần. Rõ ràng bà lơ đãng và đã dừng thật nhanh trước trường của hai đứa nhỏ. Ashley đang đứng đợi bà trên đường, đang nói chuyện với bạn và cười với nhau. Năm phút sau Sam chạy ra, mang theo chiếc máy bay bằng giấy bồi thật lớn, miệng cười toe toét, cậu bé đến ôm ghì lấy mẹ. Nhìn cảnh này, Peter muốn khóc. Không phải khóc vì gã và Waters sắp gây nên cảnh đau thương cho họ, mà khóc vì lúc thiếu thời gã không được như thế này. Bỗng gã nghĩ rằng, nếu gã không làm hỏng cuộc đời của mình thì bây giờ vẫn còn ở với Janet và các con và cuộc sống của gã cũng có thể như thế này, chắc con gã cũng ôm ghì gã. Và chắc gã vẫn có người vợ đáng yêu như bà tóc vàng nhỏ bé này. Nghĩ đến chuyện gã không có cuộc sống như thế này và sẽ không bao giờ có, gã cảm thấy cô đơn.

    Trên đường trở về nhà, họ dừng lại ở cửa hàng bán đồ ngũ kim, mua bóng đèn, cái chổi mới và cái xô đựng đồ ăn trưa cho Sam để cậu dùng ở trại ban ngày. Bà thả cậu bé xuống trước nhà và khi Will ra cửa để đón em, bà nói gì đấy với cậu ta, rồi lái xe đưa Ashley đến trường vũ ba lê. Và chiều hôm đó, sau khi đón Ashley về nhà rồi, bà đi dự buổi đấu bóng khác của Will nữa. Cuộc đời bà hình như quay quanh các con. Đến cuối tuần, Peter thấy bà chẳng làm gì cả ngoài việc lái xe đưa con đi học và đón con về, đưa Ashley đi tập vũ ba lê và đến xem các trận bóng của Will. Bà không làm gì hết. Khi gã báo cáo công việc với Addison, gã nói rằng bà không có người giúp việc, đây là chuyện rất kỳ lạ đối với những người giàu có như bà.

    - Chuyện này có gì đâu mà lạ? - Addison đáp, vẻ tức bực - Có lẽ bà ta bủn xỉn thỏi.

    - Có thể bà ta đã bị phá sản. - Peter nói, càng lấy làm lạ nhiều hơn nữa. Trông bà rất nghiêm trang và khi nào một mình, trông bà thật buồn bã. Nhưng khi ở với con, bà tươi cười, ôm ghì lấy chúng luôn. Và đêm nào gã cũng thấy bà khóc nơi cửa sổ phòng ngủ. Cảnh bà khóc một mình khiến gã muốn ôm bà vào lòng như bà ôm con vậy. Bà cần được ôm như thế mà không có ai ôm bà.

    - Không ai tiêu hết nửa tỷ đô-la trong một năm. -Phillip đáp, giọng thản nhiên.

    - Nhưng biết đâu có thể chồng bà ta làm ăn thua lỗ hay đầu tư không đúng chỗ, nhất là thị trường biến đổi bất ngờ như hiện nay. - Gã nói và Phillip cũng thừa biết như thế. Nhưng ông nghĩ nếu thua lỗ thì Allan Barnes cũng chỉ thua lỗ chút ít thôi, chẳng nghĩa lý gì với gia sản của ông ta cả.

    - Tôi đọc báo thấy không ai nói đến công việc làm ăn của Barnes gặp khó khăn hết. Tin tôi đi, Morgan, họ có tiền. Bây giờ bà ấy đang làm chủ số tiền của ông chồng để lại. Có lẽ bà ta không thích hoang phí đấy thôi. Anh theo dõi bà ta thường xuyên chứ? - Addison hỏi, mừng rỡ vì thấy kế hoạch tiến triển đều đặn. Peter đã đưa tổ công tác vào vị trí nhanh chóng, gã nói gã sẽ đi Tahoe vào cuối tuần để tìm ngôi nhà nhỏ đâu đó khuất tịch để giữ các đứa bé đợi cho đến khi bà Fernanda đem tiền chuộc đến. Theo Addison thì đây là việc kinh doanh. Đối với ông ta, việc này không nên để cho tình cảm cá nhân chi phối Peter thì cảm thấy căng thẳng hơn sau khi quan sát thấy bà chở con đi học, đón con về, luôn luôn ôm ghì con để hôn. Đó là không kể đến cảnh bà khóc bên cửa sổ mỗi khi đêm về.

    - Vâng, tôi thường xuyên theo dõi bà ta - Peter đáp giọng cục cằn - Bà ấy không làm gì hết ngoài việc lái xe đưa con đi học và chạy vượt đèn đỏ.

    - Tuyệt. Chúng ta hy vọng bà không cán chết ai trước khi chúng ta bắt cóc con mình. Bà ta có uống rượu không?

    - Tôi không biết. Bà ta có vẻ không uống. Tôi nghĩ đó là do bà ta lơ đãng hay buồn chán. - Ngày hôm qua, gã thấy bà gần tông một phụ nữ khi qua đường. Người ta bóp còi gọi bà, bà nhảy ra khỏi xe xin lỗi rối rít và khi làm thế, gã thấy bà khóc. Fernanda đã làm cho gã nổi điên. Bây giờ gã chỉ nghĩ đến bà, không những chỉ vì họ theo dõi bà, mà còn vì gã ước chi có thể nói chuyện với bà và ao ước có thời gian để ở với bà, nếu tình thế khác đi. Trong hoàn cảnh khác, chắc gã sẽ đến làm quen với bà. Gã nghĩ trong óc rằng bà đã trở thành người đàn bà hoàn hảo. Thấy bà sống với con mình, gã hết sức khâm phục, lòng tự hỏi khi Barnes cưới bà, trông bà ra sao. Nghĩ đến bà khi còn con gái, gã cảm thấy mình nổi điên.

    Tại sao khi ấy gã không gặp nàng? Tại sao cuộc đời tàn nhẫn đến thế. Trong khi gã đang sống bê tha, làm hỏng đời mình và đời của người vợ cũ của mình, thì Fernanda kết duyên cùng người may mắn, xây dựng gia đình. Bà cực kỳ xinh đẹp. Sam đã chiếm trọn trái tim gã ngay ngày đầu gã thấy cậu bé. Ashley là cô gái xinh đẹp. Will có vẻ là loại con trai mà bất kỳ người đàn ông nào cũng muốn có. Cho dù Allan Barnes làm gì đi nữa, dù ông ta để lại danh tiếng ra sao trong giới kinh doanh, thì rõ ràng Peter Morgan cũng nghĩ rằng ông ta đã để lại trên đời này một gia đình hoàn hảo, Peter cảm thấy mình như kẻ “nhìn trộm” bà và khi gã về lại khách sạn để ngủ lúc đêm khuya, gã luôn luôn nằm mơ đến bà và sáng dậy, gã rất nôn nóng muốn đến quan sát lại bà ngay. Bà ám ảnh gã như người bạn cũ, hay như người tình đã mất. Thực vậy, gã thấy bà như người nhắc gã nhở đến một thế giới đã mất. Một thế giới mà gã luôn mồm muốn góp mặt với mọi người, muốn kề vai sát cánh với những con người tốt, nhưng việc thấy bà đã nhắc gã nhớ đến cảnh đời gã đã phá hỏng. Bà là hình ảnh gã muốn nắm giữ lấy, nhưng sẽ không bao giờ nắm được.

    Vào hôm thứ Bảy, gã ghét việc bàn giao bà cho Carlton Waters quan sát. Nhưng gã phải làm, gã đưa chìa khóa xe hơi cho hắn đi quan sát, còn gã dùng xe Van để đi Tahoe. Gã đã xem trên mạng Internet thấy có quảng cáo một số nhà cho thuê ở đấy. Gã không muốn làm việc với người kinh doanh địa ốc. Nhưng chừng nào mà chưa có ai gặp Carl và đồng bọn của hắn, thì vẫn chưa có vấn đề gì đáng lo. Nếu có chuyện gì xảy ra, Peter có thể khai rằng bọn chúng đột nhập vào đây để trú ngụ trong khi gã đang ở tại San Francisco. Họ phải cố hết sức để đừng gặp nhau và chừng nào còn được thế thì không có vấn đề gì khó khăn. Không ai ở Modesto, ngoài Stark và Free, biết Carl đi vào thành phố. Hắn sẽ về nhà vào giờ giới nghiêm.

    Sẽ không có ai theo dõi Fernanda sau sáu giờ tối đó, cho đến khi Peter ở Tahoe về, gã sẽ về vào quãng mười giờ. Và theo lịch trình thường ngày thì bà sẽ có mặt ở nhà với con trước giờ đó lâu rồi. Bà chỉ đi ra ngoài ban đêm vào những lúc cần chở Will hay Ashley đến nhà bạn, hay đón chúng về sau buổi tiệc. Bà không muốn Will lái xe vào ban đêm, mặc dù cậu ta thường nói bà lái xe ẩu hơn cậu rất nhiều. Điều này Peter có thể xác nhận là đúng. Theo sự quan sát của Peter, bà lái xe như thế rất dễ xảy ra tai nạn.

    Khi Carl lấy chìa khóa xe hơi Peter, hắn hỏi :

    - Hôm nay bà ta sẽ làm gì? - Hắn đội mũ chơi dã cầu che kín mặt, đeo kính râm, trông diện mạo của hắn đã thay đổi nhiều. Khi Peter theo dõi bà, gã cứ để tự nhiên như cũ chứ không ngụy trang. Nếu trên đường có người đông đúc, gã lái xe đi quanh khu phố một lát rồi quay lại. Nhưng gã cam đoan là không có ai thấy gã, nhất là Fernanda.

    - Có lẽ bà ta sẽ đưa đứa con trai lớn đi chơi bóng, có thể tại Marin, hay đưa đứa con gái đi học vũ ba lê. Vào thứ Bảy, bà ta thường đem theo đứa con trai út cùng đi với mình. Họ hình như không làm việc gì nhiều, có lẽ vào những ngày cuối tuần cũng thế. - Thời tiết quá tuyệt vời, nhưng hình như bà không đi đâu nhiều. Thực ra thì hầu như không đi đâu - Anh phải quan sát các đứa bé cho thật kỹ. Bà ấy thường ở với con và thằng bé không bao giờ rời khỏi bà. - Peter có cảm giác đã phản bội họ, còn Waters gật đầu. Carl không quan tâm đến việc làm quen với họ. Đây là nhiệm vụ trinh sát của hắn, ngoài ra không có gì quan trọng. Đối với hắn, đây là việc làm ăn. Đối với Peter, việc này trở thành một ám ảnh. Nhưng Carlton Waters không biết điều này.

    Hắn lấy chìa khóa bước lên xe, lái đến địa chỉ mà Morgan đã đưa cho hắn. Peter rời khỏi thành phố để đi Tahoe lúc mười giờ sáng thứ Bảy, tháng Năm trời nắng ráo đẹp đẽ.

    Gã nghĩ đến bà Fernanda suốt trên đường đi đến Tahoe, lòng tự hỏi không biết bây giờ gã rút lui thì sao, chuyện gì sẽ xảy ra. Đơn giản thôi, Addison sẽ giết con gái gã, rồi sau đó sẽ giết gã. Còn nếu gã đầu thú với cảnh sát để chịu hình phạt đi ở tù, Addison sẽ giết gã trong nhà tù. Chuyện rất đơn giản. Không thể nào rút lui được. Bây giờ họ đang tiến hành. Khi gã đến Truckee, Waters đang theo dõi bà ở Marin, bà đến xem Will chơi bóng. Hắn đã thấy ba đứa con của bà, trông bà giống như người hắn hình dung ra trong óc. Đối với hắn, bà giống như một bà nội trợ ở vùng ngoại ô, không có gì làm cho hắn quan tâm. Với hắn, bà là nạn nhận, là người sinh lợi cho hắn, chứ không có gì hơn. Đối với Peter, bà giống như thiên thần, nhưng Waters không thấy nét thiên thần ở đâu nơi bà. Loại đàn bà làm cho hắn say mê là loại có vẻ hấp dẫn hơn Fernanda rất nhiều. Hắn nghĩ bà đẹp đấy nhưng bình dị và hắn nhận thấy bà không son phấn trang điểm. Khi bà đi ra ngoài với con, hắn không thấy bà trang điểm. Thực ra, bà không trang điểm từ khi Allan chết. Việc này không quan trọng với bà nữa. Áo quần đẹp, giầy cao gót, nữ trang chồng tặng cũng không thành vấn đề với bà. Bà đã bán gần hết số nữ trang chồng tặng, số còn lại nằm trong tủ két kể từ tháng Một. Bà không cần đồ nữ trang hay áo quần đẹp vào công việc hiện bà đang làm, cuộc sống của bà hiện nay không cần những thứ ấy.

    Peter lái xe đến địa chỉ đầu tiên trong danh sách của gã. Gã thấy ngôi nhà có ba phía đều sát với nhà khác, chỉ cách các nhà khác chững sáu tấc, vị trí ngôi nhà không hợp với mục đích của bọn họ. Bốn nhà tiếp theo cũng gặp khó khăn tương tự nhà đầu. Nhà thứ sáu thì giá cho thuê quá đắt. Bốn cái tiếp theo cũng không thích hợp. Và rất may cho gã là cái cuối cùng rất phù hợp với mục đích công việc. Ngôi nhà hoàn toàn thích hợp, nó có con đường cho xe chạy vào dài, ngoằn nghèo, đầy ổ gà và cỏ dại. Ngôi nhà có vẻ cũ nát, cỏ mọc um tùm, người ta không thể nhìn vào qua cửa sổ và cửa sổ quanh nhà lại là một sự thuận tiện khác nữa nhờ các cánh cửa đều bằng lá sách. Ngôi nhà có bốn phòng ngủ, nhà bếp đã cũ nhưng vẫn còn dùng được và phòng khách có lò sưởi cao, Peter có thể đứng lọt vào trong. Phía sau ngôi nhà, có sườn đá dốc thẳng đứng. Người đàn ông chủ nhà chỉ cho gã xem ngôi nhà, ông ta nói ông không dùng nữa. Ngôi nhà cách đây được các con trai ông dùng, nhưng họ đã bỏ đi mấy năm rồi và bây giờ ông giữ ngôi nhà làm vật đầu tư. Từ khi con gái ông không cần đến ngôi nhà, ông bèn cho thuê. Cả hai người con trai của ông đều sống ở Arizona, còn ông nghỉ hè với con gái ở Colorado. Peter thuê ngôi nhà trong thời gian sáu tháng, gã hỏi ông ta nếu gã chùi dọn sạch sẽ một chút, làm cỏ ngoài sân cho sạch có được không, vì gã sẽ dùng ngôi nhà để cho khách hàng gã vui chơi giải trí. Người chủ nhà có vẻ sung sướng ra mặt. Ông ta không ngờ đã quá may khi gặp được khách thuê như Peter. Thậm chí Peter không cần trả giá. Gã ký hợp đồng ngay, trả tiền thuê ba tháng và đóng bảo hiểm bằng tiền mặt. Xong xuôi, gã quay về lúc bốn giờ, trên đường về, Carlton Waters gọi cho gã.

    - Có gì không ổn à? - Peter hỏi, vẻ lo lắng, tự hỏi phải chăng có gì xảy ra, hay phải chăng người ta đã thấy Waters. Hay hắn làm cho Fernanda sợ hãi, hay làm cho đứa con nào của bà sợ.

    - Không, bà ta yên ổn. Họ đang xem trận bóng của đứa con trai. Bà ta không làm gì hết à? Và bà ta luôn luôn đem theo thằng con út bên mình - Đây là vấn đề để gây phức tạp cho họ, nhưng chẳng sao. Bà quá nhỏ con, không gây cho họ khó khăn gì - Tôi có chuyện này muốn hỏi anh: Ai sẽ giữ vũ khí?

    Peter suy nghĩ một lát rồi đáp :

    - Tôi nghĩ anh sẽ giữ. Tôi có thể yêu cầu ông ta đưa vũ khí, nhưng có lẽ ông ta không muốn cung cấp cho chúng ta cái gì mà người ta có thể lần tìm ra được ông ta. Anh có thể sử dụng được vũ khí không? - Peter biết Addison có đường dây cung cấp vũ khí cho họ, nhưng gã cũng biết Addison không muốn dính dáng gì đến kế hoạch này.

    - Có lẽ tôi sử dụng được. Tôi muốn có vũ khí tự động. - Waters nói thẳng về việc này.

    - Anh muốn nói anh thích súng máy phải không? -Peter có vẻ kinh ngạc - Tại sao? - Bọn trẻ không có khí giới. Bà ta cũng không, nhưng nếu có cuộc chạm trán với cảnh sát, thì cảnh sát có vũ khí. Đối với Peter, súng máy có vẻ quá mức.

    - Súng ấy sẽ giữ cho tình thế thuận lợi, đơn giản. - Waters đáp một cách thẳng thừng và Peter gật đầu. Bọn hắn là dân chuyên nghiệp, Addison đã muốn thế.

    - Anh coi chừng súng đạn đấy. - Peter nói, vẻ lo lắng. Rồi gã nói với hắn về ngôi nhà và Waters đồng ý với gã. Ngôi nhà như thế có vẻ hoàn hảo. Bây giờ họ đã chuẩn bị chu đáo hết rồi. Chỉ còn việc cần làm là chọn ngày trong tháng Bảy để ra tay. Công việc có vẻ rất đơn giản, nhưng khi Peter cúp máy, gã lại thấy lòng đau đớn như những lần trước. Gã bắt đầu nghĩ rằng đấy là do lương tâm cắn rứt. Theo bà từ trường múa ba lê cho đến sân bóng dã cầu là một việc, bắt cóc con bà, dùng súng máy và đòi tiền chuộc một trăm triệu đô-la là một chuyện khác. Peter hiểu sự khác nhau này.


    Last edited by giavui; 09-07-2020 at 03:05 PM.

Trang 1 / 3 123 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-01-2015, 01:24 PM
  2. Bốn Bức Bình Phong
    By giavui in forum Truyện Dài
    Trả Lời: 18
    Bài Viết Cuối: 10-16-2015, 06:36 PM
  3. Niêm phong tình ái
    By MjMj in forum Thơ Lãng Mạn
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-03-2014, 08:59 PM
  4. Lối Cũ Rêu Phong
    By giavui in forum Video Cải Lương - Chèo
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-14-2014, 08:42 PM
  5. Cuồng Phong
    By giavui in forum Truyện Dài Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-14-2014, 12:31 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •