Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Những ai chưa từng đau khổ thì những kẻ ấy không bao giờ biết tận hưởng được hạnh phúc.
Ugo Foscolo
Trang 3 / 3 ĐầuĐầu 123
Results 21 to 25 of 25

Chủ Đề: Tiền Chuộc Mạng

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Tiền Chuộc Mạng

    Tiền Chuộc Mạng

    Tác giả :Danielle Steel

    Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy



    Chương 1

    Peter Mathew đứng trước quầy trả đồ đạc của tù nhân. Gã nhận cái ví đựng bốn trăm đô-la mà người ta giao trả. Gã phải có giấy tờ phóng thích để xuất trình cho nhân viên quản lý các tù nhân mới được thả. Gã mặc áo quần do bang cấp, chiếc quần jeans, áo thun trắng có sơ-mi bằng vải bông dệt chéo khoác ra ngoài, mang giày chạy bộ và tất trắng. Áo quần thật rất khác xa với áo quần mà gã đã mặc khi mới vào đây. Gã ở trong nhà tù Pélican Bay của bang bốn năm ba tháng. Gã đã ở đủ thời gian tối thiểu của bản án, mà theo bản án thì gã phải ở tù lâu hơn thế rất nhiều. Gã đã bị bắt với số lượng rất nhiều côcain, bị chính quyền bang truy tố, bị ban hội thẩm của tòa án kết tội, tống giam vào nhà tù Pélican Bay.

    Mới đầu gã chỉ bán ma túy cho bạn bè, rồi sau đó không những để thỏa mãn cho thói quen không bỏ được, mà còn để phục vụ cho nhu cầu về tài chính của mình và cho gia đình. Chỉ trong vòng sáu tháng mà gã kiếm được gần một triệu đô-la trước khi bị bắt, nhưng dù có nhiều tiền như thế, gã cũng không lấp được lỗ hổng về mặt tài chính mà gã đã tạo nên một cách tùy hứng. Đó là vì gã nghiện ngập ma túy, đầu tư không thành công, buôn bán các mặt hàng thua lỗ. Gã làm môi giới thị trường chứng khoán một thời gian, gây nhiều rắc rối cho công ty, nhưng công ty không đủ chứng cứ để truy tố gã ra tòa, vì trường hợp này chỉ có nhân viên điều tra liên bang mới bắt gã, chứ không phải cảnh sát bang, mà nhân viên điều tra liên bang không có đủ chứng cớ. Gã sống một cuộc sống vượt quá đồng lương của mình, đắm mình trong những cuộc truy hoan bê tha, có nhiều khả năng sa đọa, tạo cơ hội cho những kẻ xấu đi vào con đường nghiện ngập ma túy. Cho nên cuối cùng gã chỉ còn con đường duy nhất là theo bọn buôn ma túy để có tiền sống theo nhu cầu của mình. Gã lại còn gây ra một vài chuyện gian lận nho nhỏ khác nữa, như làm quỷ phiếu giả, biển thủ tiền bạc của công ty, nhưng gã đã gặp may là không bị phát hiện. Khi gã bị bắt vì buôn bán côcain, chủ gã không truy tố gã, quan trọng gì nữa đâu mà truy tố. Gã không có tiền để trả bất cứ cái gì gã đã lấy, vả lại số tiền gã ăn cắp cũng không nhiều và gã đã tiêu hết từ lâu và không có cách gì để họ thu lại số tiền đã mất. Chủ của gã lại còn tỏ ra thương hại gã. Peter có cách làm cho mọi người có cảm tình với gã và thích gã.

    Peter Morgan là hình ảnh tượng trưng cho lớp thanh niên đi vào con đường lầm lạc. Trong cuộc sống, nhiều lần gã chọn con đường sa đọa và khước từ cơ hội ngàn vàng để tu nhân. Bạn bè và những người hợp tác làm ăn với Peter thường tỏ ra thương xót cho vợ con gã, gia đình gã đã trở thành nạn nhân của chương trình điên loạn và sự phán xét sai lầm của gã. Nhưng bất cứ người nào quen biết gã, đều nói rằng tự thâm tâm Peter Morgan là người tốt. Khó mà biết cái gì đã làm cho gã mắc phải sai lầm như thế. Trên thực tế, có nhiều người đã gặp phải trường hợp như gã.

    Bố Peter chết khi gã mới ba tuổi, ông ta là con dòng cháu giống trong một gia đình danh tiếng của xã hội thượng lưu ở New York. Mấy năm sau khi ông ta mất, tài sản gia đình bắt đầu khánh kiệt, vì mẹ gã tiêu xài hoang phí của chồng để lại trước khi gã khôn lớn. Chẳng bao lâu sau khi bố mất, mẹ gã lấy một thanh niên quý tộc rất nổi tiếng. Ông ta là người thừa kế của một gia đình chủ ngân hàng giàu có. Ông ta nhiệt tình thương yêu Peter và hai người em ruột của gã, ông ta cho anh em gã học hành và thương yêu chúng, cho chúng theo học những trường tư tốt nhất cùng với hai cậu em trai cùng mẹ khác cha với Peter. Gia đình ông ta có vẻ sung túc, có nhiều tiền, nhưng mẹ gã càng ngày càng uống rượu nhiều, đến nỗi cuối cùng bà lâm bệnh phải vào bệnh viện, để Peter và hai em ruột gã sống trong cảnh côi cút. Người bố kế không nhận anh em gã làm con nuôi, nên sau khi mẹ gã chết một năm thì ông ta lấy vợ khác. Bà vợ mới này thấy chồng không có lý do gì phải gánh lấy bầy con riêng của vợ cũ, về mặt tài chính cũng như về các mặt khác. Bà ta chỉ bằng lòng để cho chồng cưu mang chăm sóc hai đứa con mà ông đã có với mẹ của Peter, mặc dù bà ta muốn ông gửi hết chúng vào trường nội trú. Nhưng bà ta không muốn làm thế với ba đứa con riêng của mẹ Peter. Bố dượng của Peter đành phải cố gắng đưa anh em Peter vào trường nội trú, rồi vào cao đẳng với số tiền trợ cấp ít ỏi và nói rằng, ông không cho chúng ở trong nhà nữa và không cho thêm tiền bạc gì nữa.

    Sau đó, vào những dịp nghỉ lễ hay nghỉ hè, Peter phải ở lại trường, hay đến nghỉ ở nhà bạn bè. Gã phải trổ tài chinh phục họ, để họ mời gã về nghỉ ở nhà mình. Gã rất có tài quyến rũ người khác. Khi mẹ chết, Peter phải học cách làm đẹp lòng người để sống. Gã chỉ còn con đường ấy và nhờ phương cách ấy mà gã sống được thoải mái. Trong thời gian này, gã đã sống nhờ vào tình thương yêu, đùm bọc của bố mẹ bạn bè mình.

    Khi gã ở với bạn bè trong thời gian nhà trường nghỉ lễ, thường xảy ra những chuyện không hay nho nhỏ. Tiền bạc trong nhà biến mất, vợt đánh tennis không cánh mà bay và khi gã đi rồi thì những chuyện như thế không xảy ra nữa. Áo quần gã mượn không bao giờ trả. Có một lần, cái đồng hồ vàng trong nhà tự nhiên tan thành mây khói và cô gái giúp việc khóc nức nở vì bị đuổi việc, cô ta bị kết tội ăn cắp. Nhưng sau đó chuyện vỡ, người ta biết rằng Peter đã ngủ với cô gái. Lúc ấy gã mới mười sáu tuổi, tiền bán chiếc đồng hồ vàng do gã xúi cô ta ăn cắp cho gã, đã giúp gã tiêu xài trong sáu tháng. Đời gã là một cuộc chiến đấu không ngừng để có đủ tiền chi tiêu. Gã làm bất cứ gì để có tiền dùng cho các nhu cầu trong đời sống của gã. Gã rất dễ thương, lịch sự, vui vẻ với mọi người chung quanh và khi tình hình trở nên gay cấn, lúc nào gã cũng có vẻ thơ ngây vô tội. Không thể nào tin nổi một chàng trai như gã lại có thể có hành động xấu hay phạm tội được.

    Có lần vị bác sĩ tâm lý của trường cho rằng Peter có khuynh hướng trở thành tội phạm của xã hội, điều này đã khiến cho vị hiệu trưởng khó tin. Vị bác sĩ tâm lý nói rằng, trông bộ mã bên ngoài của gã hiền từ, nhưng tâm địa không tốt. Cái vẻ ngoài dễ thương của gã khiến cho mọi người nhầm lẫn. Dưới cái vỏ bên ngoài của Peter, người ta khó mà biết bản chất thật sự của gã. Nhờ thế mà gã sống được qua một cuộc đời đầy gian truân. Gã duyên dáng, thông minh, đẹp trai, đã gặp nhiều gian khổ trong cuộc sống. Gã không có ai để nương nhờ, lòng gã quá đau đớn ê chề. Bố mẹ gã chết, cha kế xa lánh gã, không cho gã đồng xu nào. Hai người em ruột của gã thì từ khi chúng bị gửi đến trường nội trú ở Bờ Đông, gã không hề được gặp, tất cả những chuyện đó đã phủ lên đời gã một màu đen bi thảm. Rồi sau đó, khi đang học đại học, gã nhận được tin cô em gái mười tám tuổi đã trầm mình tự vẫn, khiến cho linh hồn non trẻ đã bị thương tổn của gã bị thêm một vết đau nữa. Hiếm khi gã nói đến cuộc đời đầy sóng gió của mình, không bao giờ gã thổ lộ nỗi buồn phiền trong lòng với ai và lúc nào cũng tỏ ra mình là người tốt bụng, lạc quan yêu đời, khôn ngoan, cho nên mọi người ai cũng yêu mến và cư xử tốt với gã. Nhưng cuộc đời không dễ dàng gì cho gã, khi nhìn gã, không ai thấy được điều này. Không ai thấy gã tỏ ra là người đang trải qua những tháng ngày gian khổ. Những vết thương lòng ẩn sâu trong tâm khảm gã, không ai trông thấy được.

    Đàn bà đi qua đời gã như lá mùa thu, còn đàn ông thì thích làm bạn với gã. Về sau, bạn bè gã nhớ rằng khi còn học đại học, gã uống rượu nhiều nhưng không bao giờ uống quá trớn, bây giờ cũng thế. Những vết thương lòng của Peter quá sâu đậm.

    Peter Morgan luôn luôn biết tự chủ. Lúc nào gã cũng có chương trình hành động. Bố dượng của gã đã giữ đúng lời hứa, cho gã đi học ở Duke và ở đây gã được học bổng toàn phần để vào học trường Harvard, rồi gã lấy được bằng cử nhân Quản trị kinh doanh. Gã có đủ phương tiện để thỏa mãn các nhu cầu trong cuộc sống, có đầu óc thông minh, có diện mạo đẹp đẽ và có một vài mối liên kết giá trị mà gã đã tạo được trong thời gian theo học các trường danh tiếng. Người ta tin chắc thế nào gã cũng tiến xa trên con đường sự nghiệp. Không ai nghi ngờ việc Peter Morgan sẽ không thành công trên đường đời. Gã có tài hái ra tiền, hay có vẻ như thế và gã có nhiều kế hoạch để hành động. Khi ra trường, gã có việc làm trong một công ty môi giới chứng khoán tại Wall Street và sau hai năm làm việc ở đấy, gã bắt đầu đi con đường sai trái. Gã không làm đúng nguyên tắc, tráo trở một vài tài khoản, “mượn” tiền người ta. Tình hình trở nên nguy hiểm cho gã trong một công ty đầu tư ngân hàng, ở đây gã trở thành chàng trai vàng của Wall Street trong một thời gian ngắn. Gã có đủ phương tiện để bước đến thành công, nhưng thiếu mái ấm gia đình và không có lương tâm. Lúc nào Peter cũng có kế hoạch, có chương trình để làm sao tiến đến đích thật nhanh trong nháy mắt, nên gã phải lo cho bản thân mình, nếu được may mắn, thì may mắn cũng chỉ đến trong một thời gian ngắn ngủi thôi và bất cứ may mắn gì đến với mình, gã cũng chộp lấy ngay.

    Năm hai mươi chín tuổi, gã cưới Janet, cô gái mới ra mắt xã hội thượng lưu, đẹp rực rỡ. Và cô ta hóa ra là con gái của người đứng đầu công ty gã làm việc. Họ lấy nhau hai năm, có hai đứa con gái thật kháu khỉnh. Cuộc sống của gã thật hoàn hảo, gã yêu vợ và rất mực thương con. Cuộc đời trước mắt gã rất nhiều hứa hẹn, êm đềm, nhưng không ai biết tại sao tình hình lại bắt đầu bất ổn. Gã chỉ nghĩ đến chuyện làm ra cho thật nhiều tiền, gã luôn luôn bị tiền bạc ám ảnh, gã muốn làm ra nhiều tiền bằng bất cứ cách nào. Có người cho rằng gã ăn chơi trác táng. Chuyện này đối với gã dễ dàng thôi. Gã như chuột sa vào hũ nếp, vui chơi thoải mái, trở thành tham lam và dần dà để cho cuộc đời buông xuôi, không kiềm chế được. Cuối cùng, tư tưởng muốn có nhiều tiền thật nhanh và thói quen cũ muốn lấy những gì gã muốn có, trở lại với gã. Gã bèn xén bớt tiền bạc của công ty, cấu kết với những kẻ bất lương, làm những việc mà công ty không thể viện cớ để sa thải, nhưng bố vợ của gã không thể dung tha. Peter như kẻ đang đi thật nhanh trên con đường hướng đến chỗ hiểm nghèo. Peter và bố vợ đã nhiều lần nói chuyện nghiêm túc với nhau, trong lúc họ đi trên lãnh địa của ông ta tại Connecticut và bố của Janet nghĩ rằng gã đã hiểu rõ được vấn đề. Để cho chàng rể hiểu rõ vấn đề, ông ta đã vạch ra cho gã thấy rằng ở đời không dễ gì đạt được thành công như ăn bữa trưa miễn phí hay đi trên chuyến tàu tốc hành, ông báo cho gã biết rằng, phương pháp làm ăn bất chính mà gã đang làm và nguồn gốc tiền bạc bất lương gã đang xài, thế nào có ngày gã cũng mang lấy hậu quả không hay. Hậu quả này có thể đến rất sớm. Ông giảng cho gã biết về tầm quan trọng trong sự thành thật. Và ông tin thế nào Peter cũng chú ý đến lời khuyên của ông. Ông thích gã. Thực vậy, ông đã thành công trong việc làm cho Peter cảm thấy lo lắng, bị thúc đẩy phải có trách nhiệm.

    Năm ba mươi mốt tuổi, Peter bước vào cuộc “vui chơi trác táng” lần đầu, gã bắt đầu nếm mùi ma túy. Gã tuyên bố không có gì tai hại trong việc này, mọi người đều xài nó, việc dùng ma túy làm cho người ta vui hơn và hưng phấn hơn. Janet rất lo lắng về chuyện đó. Năm ba mươi hai tuổi, Peter Morgan gặp đại nạn, gã không làm sao kiềm chế được thói quen dùng ma túy, mặc dù gã đã cố chống lại thói quen này. Gã bắt đầu xài tiền của vợ cho đến khi bị bố vợ ngăn chặn. Một năm sau, gã bị buộc phải thôi việc ở công ty, vợ gã dọn về nhà cha mẹ, đau đớn sững sờ trước cảnh nàng đã phải sống với Peter trong thời gian qua. Gã không lạm dụng nàng, nhưng gã luôn luôn say côcain, đời gã coi như hoàn toàn buông xuôi. Khi ấy bố nàng nhận ra gã nợ như chúa chổm, gã “bí mật” biển thủ tiền bạc của công ty, khiến họ mang vạ lây, có khả năng làm cho họ gặp nhiều rắc rối, cho nên Janet phải trả nợ của công ty cho gã. Gã bằng lòng để cho Janet bảo trợ hai con, là một gái lên hai và một lên ba. Sau đó gã mất quyền thăm viếng con vì một chuyện có dính dáng đến gã: Ba người đàn bà bị bắt với một lượng côcain lớn giấu trong chiếc du thuyền ngoài khơi East Hampton. Khi ấy các con gã đang đến thăm gã. Chị vú gọi điện thoại di động từ trên thuyền báo cho Janet biết. Janet dọa sẽ gọi cảnh sát tuần duyên đến bắt gã. Gã để cho chị vú và hai cô bé gái rời khỏi thuyền, Janet không để cho gã gặp con lại. Nhưng khi ấy gã đã gặp những chuyện rắc rối khác nữa rồi. Gã đã vay mượn một số tiền rất lớn để thỏa mãn như cầu về ma túy, gã mất hết số tiền gã đầu tư có nhiều mạo hiểm vào thị trường hàng hóa. Sau đó, dù gã chứng minh mình có khả năng tốt, hay thông minh lanh lợi bao nhiêu đi nữa, gã cũng không kiếm được việc làm. Và giống y như mẹ gã trước khi bà mất, gã sa đọa hoàn toàn. Không những gã không có tiền rồi, mà gã còn nghiện ngập ma túy.

    Hai năm sau khi Janet rời khỏi gã, gã cố xin việc làm trong một công ty có vốn đầu tư mạo hiểm nổi tiếng tại San Francisco, nhưng không được. Khi ấy gã đã ở tại San Francisco rồi, gã bèn chuyên chú vào việc buôn bán côcain. Gã đã ba mươi lăm tuổi, khi bị bắt quả tang với số lượng lớn côcain đem đi bán, gã mắc nợ rất nhiều người. Số côcain gã đem đi bán là cả một gia tài kếch sù, nhưng khi bị bắt, gã mắc nợ nhiều gấp năm lần như thế và nợ của những người cực kỳ nguy hiểm. Nhiều người biết gã khi nghe tin này, nói rằng gã đã mang họa vào thân, chuyện này có khả nàng đưa gã sang thế giới bên kia. Vì khi bị bắt gã nợ rất nhiều, cho nên những kẻ buôn bán với gã có thể giết gã. Gã không trả nợ cho ai được hết, vì gã không có tiền để trả. Có nhiều trường hợp vào tù như thế này thì nợ nần hủy bỏ. Nhưng gặp những trường hợp tệ hơn, họ có thể bị giết ở trong tù. Hay nếu có người may mắn, chủ nợ sẽ bỏ qua. Peter hy vọng gã sẽ gặp được trường hợp chủ nợ cho qua.

    Khi Peter vào tù, gã không gặp được con đã hai năm và có lẽ gã không thể gặp lại chúng được. Gã ra tòa với vẻ mặt bình tĩnh và khi đứng trước vành móng ngựa, gã có vẻ thông minh, tỏ ra ăn năn hối hận. Luật sư của gã cố xin cho gã được án treo, nhưng chánh án không chịu. Ông ta đã gặp những người như Peter rồi, mặc dù không nhiều, nhưng ông tin chắc rằng gã đã có nhiều cơ hội để tu nhân mà không làm. Ông ta đọc rất kỹ hồ sơ của gã, ông thấy rằng gã có nhiều điều không đáng tin. Bề ngoài và hành động của gã rất trái ngược nhau. Chánh án không chấp nhận những lời ăn năn hối cải mà Peter đã nói trước tòa. Gã nói thì hay, vẻ mặt tội nghiệp, nhưng không thành thật. Gã dễ thương thật đấy, nhưng hành động của gã thì khủng khiếp. Khi ban hội thẩm kết luận gã có tội, chánh án kết án gã bảy năm tù giam, gửi đến nhà tù Pilican Bay, tại Crescent City. Nhà tù này nghiêm ngặt nhất gồm có ba ngàn ba trăm tù trọng tội, thuộc hệ thông nhà tù California, nằm ở phía Nam San Francisco xa ba trăm bảy mươi dặm, cách biên giới bang Oregon mười một dặm. Bản án này có vẻ nghiêm khắc, nhưng quá thích đáng cho Peter, vì ở đâu cũng không xứng với tội của gã.

    Ngày Peter được phóng thích, tính thời gian gã ở trong tù là đúng bốn năm ba tháng. Gã đã bỏ được ma túy, lo làm công việc của mình. Gã làm trong văn phòng của người quản ngục, phần lớn thời gian đều ngồi trước máy tính và suốt bốn năm không hề vi phạm kỷ luật của nhà tù. Người quản ngục mà gã làm việc cho ông ta tin rằng gã đã thành thật ăn năn hối cải. Mọi người biết gã đều tin rằng gã không có ý định đi vào con đường lưu manh nữa. Gã đã học được bài học về hành động này rồi. Gã còn nói với ban quản lý tù nhân được phong thích - nhưng còn bị giám sát một thời gian - rằng mục tiêu trước mắt của gã là được gặp lại các con và một ngày nào đấy gã sẽ trở thành người cha tốt. Peter nói như thể là thời gian vừa qua chỉ là sự trở ngại kỹ thuật nhỏ trên màn hình tivi và gã có vẻ tin như thế. Nên gã định từ nay về sau, sẽ giữ cho màn hình trong sáng rõ đẹp, không có gì trở ngại nữa. Và mọi người đều tin gã.

    Gã được phóng thích nhờ chế độ giảm án. Gã phải ở tại Bắc California một năm, dưới sự giám sắt của nhân viên quản lý tù nhân bị quản chế tại San Francisco. Gã định sống trong nhà tạm trú dành cho người mới ra tù cho đến khi tìm được việc làm và gã nói với ban giám sát rằng gã không chọn lựa trong khi tìm việc. Gã sẽ làm bất cứ việc gì tìm được cho đến khi cuộc sống ổn định và nếu cần, gã cũng làm cả công việc bằng chân tay, miễn đấy là công việc lương thiện. Mọi người đều nghĩ rằng, thế nào Peter Morgan cũng tìm được việc làm. Gã đã mắc phải sai lầm lớn, nhưng sau bốn năm sống trong nhà lao Pelican Bay, gã vẫn còn là một anh chàng dễ thương, thông minh. Những người thương gã, kể cả ông quản ngục, đều hy vọng rằng với một ít may mắn, gã sẽ tìm ra việc làm tốt cho mình, và xây dựng cuộc sống lương thiện. Gã có đủ thứ để thực hiện được việc này. Bây giờ gã chỉ cần gặp được cơ hội may mắn nữa thôi. Và mọi người đều hy vọng khi ra tù, gã sẽ kiếm được việc làm tốt. Người ta luôn luôn thích Peter và mong gã gặp được nhiều may mắn, tốt lành. Chính ông quản ngục ra bắt tay từ biệt gã. Peter đã làm việc riêng cho ông suôt bốn năm trời.

    - Nhớ cho tôi biết tin tức. - Ông quản ngục nói, nhìn gã với ánh mắt nồng ấm. Cách đây hai năm, ông ta có mời Betet về nhà để ăn Giáng sinh với vợ con, Peter đã tỏ ra mình là con người rất tuyệt vời. Bốn cậu con trai còn tuổi vị thành niên của ông quản ngục rất thích gã, vì gã bảnh trai, nhiệt tình, vui vẻ và rất tốt. Mọi người, cả già lẫn trẻ, đều cho gã có phong cách dễ thương. Thậm chí gã còn gợi ý cho một trong mấy chàng trai nộp đơn xin học bổng để vào học ở Harvard. Chàng trai được học bổng vào mùa xuân năm đó. Ông quản ngục cảm thấy như thể mình mang ơn Peter, còn Peter thì thật lòng thích ông ta và gia đình ông, gã cảm ơn lòng tốt mà gia đình ông đã đối xử với gã.

    - Năm sau tôi sẽ ở tại San Francisco - Peter vui vẻ đáp - Tôi hy vọng họ sẽ cho phép tôi về miền Đông để thăm các con gái tôi. - Suốt sáu năm rồi gã không thấy mặt con và trong bốn năm qua gã không có tấm ảnh nào của chúng. Bây giờ Isabelle và Heather đã tám và chín tuổi, nhưng trong óc Peter, gã vẫn thấy chúng còn nhỏ xíu, Janet đã cấm không cho gã tiếp xúc với chúng từ lâu, bố mẹ nàng cũng đồng ý với quyết định này của nàng. Bố dượng của gã, người đã trả tiền học cho gã trước đây, chết lâu rồi. Người em trai của gã đã biến mất nhiều năm. Peter Morgan hiện không có ai hết, không có gì hết. Gã có bốn trăm đô-la trong ví, có người nhân viên giám sát ở San Francisco và chiếc giường trong nhà trọ dành cho người mới ra tù ở khu Mission, khu vực phần lớn cư dân đều có gốc Tây Ban Nha và là một vùng xưa có thời rất đẹp, nhưng bây giờ có vài nơi đã xuống cấp trầm trọng. Nơi Peter sẽ đến ở thuộc vùng bị xuống cấp trầm trọng ấy. Số tiền gã có sẽ không kéo dài được lâu, từ bốn năm nay gã không hề được hớt tóc cho ra hồn. Những người duy nhất còn lại ngoài đời mà gã quen biết, là một ít người gã đã tiếp xúc trước đây trong lĩnh vực có vốn đầu tư mạo hiểm và kỹ nghệ cao ở Silicon Valley và những cái tên của giới buôn bán ma túy mà gã đã từng hợp tác. Gã quyết định sẽ không tiếp xúc với họ nữa. Gã không muốn đi vào con đường ấy nữa. Gã sẽ gọi cho một vài người khi đến thành phố, nhưng gã nghĩ rằng gã có thể đi rửa bát đĩa hay bơm xăng. Tuy nhiên, gã tin chắc là không đến nỗi nào như thế. Dù sao thì gã cũng có bằng MBA [1] ở Harvard, và trước đó đã từng học ở Duke. Nếu không suôn sẻ, gã sẽ tìm gặp một số bạn học cũ, có lẽ họ không biết gã đi ở tù. Nhưng gã không tin là công việc sẽ dễ dàng như thế. Gã đã ba mươi chín tuổi và dù có giải thích như thế nào đi nữa, thì thời gian bốn năm qua sẽ là một quãng trống trong lý lịch của gã. Trước mắt gã, con đường quá gian khổ, khó khăn. Nhưng gã khỏe mạnh, hết nghiện ma túy, thông minh và bề ngoài vẫn còn rất duyên dáng. Cuối cùng thế nào mọi việc cũng sẽ tốt đẹp cho gã. Gã tin như thế và ông quản ngục cũng tin vậy.

    - Hãy gọi cho chúng tôi. - Ông quản ngục lại dặn. Đây là lần đầu tiên ông gắn bó mật thiết với một tội phạm đã làm việc cho ông. Nhưng những người mà ông đã làm việc với họ ở Pelican Bay rất khác xa với Peter Morgan.

    Nhà tù Pelican Bay được xây dựng với mức an ninh tối đa để giam giữ những tội nhân nặng nhất, những tù nhân này trước kia được đưa đi giam ở San Quentin. Hầu hết đàn ông đều bị nhốt riêng. Nhà tù được cơ giới hóa rất cao và trang bị toàn máy tính, máy móc rất hiện đại, cho phép họ giam giữ những thành phần nguy hiểm nhất trong vùng, ông quản ngục nhận thấy ngay Peter không thuộc thành phần này. Gã chỉ có tội buôn bán một lượng lớn ma túy và có liên quan đến tiền bạc, nên phải bị tống giam vào nhà tù có an ninh nghiêm ngặt này. Nếu lời buộc tội ít nghiêm khắc hơn, chắc gã sẽ chỉ bị giam trong những nhà tù ít nghiêm ngặt hơn. Gã không có mưu đồ trốn thoát, không có tiền sử bạo động và trong thời gian ở đây, gã không dính dáng đến bất cứ vụ gì không hay xảy ra. Gã là con người văn minh điển hình nhất. Vài người đã nói chuyện với gã trong những năm qua đều kính trọng gã và gã đã giữ mình tránh xa những chuyện lộn xộn có thể xảy ra. Mối liên hệ mật thiết của gã với ông quản ngục đã làm cho gã thành người bất khả xâm phạm, tạo cho gã con đường an toàn. Gã không chơi với các nhóm băng đảng, không cấu kết với các nhóm chủ trương bạo động, hay gần gũi với các thành phần chống đối. Gã chăm lo công việc của mình. Và sau hơn bốn năm, gã rời nhà tù Pelican Bay tương đối bình an vô sự. Trong tù, gã chỉ biết cúi đầu, làm việc cho hết giờ. Gã đã đọc nhiều tài liệu về pháp lý và tài chính, dành rất nhiều thì giờ trong thư viện và làm việc không biết mệt mỏi cho ông quản ngục.

    Ông quản ngục viết thư giới thiệu gã với ban quản lý tù mới được thả với lời lẽ rất tốt. Trường hợp của gã chỉ là sa chân lỡ bước vào con đường sai lầm và bây giờ gã cần có cơ hội để đi theo con đường chân chính. Ông quản ngục tin chắc gã sẽ theo con đường đúng đắn. Ông chờ mong nhận được tin tốt lành của Peter trong tương lai. Với tuổi ba mươi chín, có quá trình học hành tốt, Peter vẫn còn trước mắt tương lai xán lạn. Hy vọng những lỗi lầm gã đã mắc phải sẽ là bài học quý giá để gã tu thân sửa tính trên đường đời. Bất cứ người nào biết gã cũng đều tin rằng Peter sẽ là người trung thực và đứng đắn.

    Khi gã đang bắt tay từ biệt ông quản ngục, thì có người phóng viên báo chí và nhiếp ảnh gia của tờ báo địa phương trong chiếc xe tải bước ra, họ đi đến bàn làm việc nơi Peter vừa lấy cái ví của mình. Khi ấy một tù nhân khác đang ký vào hồ sơ phóng thích, hắn và Peter nhìn nhau và gật đầu chào. Peter biết hắn là ai - mọi người điều biết. Họ thỉnh thoảng gặp nhau trong phòng tập thể dục và trong hành lang. Trong hai năm qua, hắn thường đến văn phòng làm việc của quản ngục. Hắn đã cố minh oan cho mình nhiều năm nhưng không thành công, nổi tiếng là luật sư không chính thức trong tù và rất có lương tri. Hắn tên là Carlton Waters, bốn mươi mốt tuổi, đã ở trong tù hai mươi bốn năm vì tội giết người. Thực vậy, hắn đã trưởng thành ở trong tù.

    Carlton Waters bị kết tội giết hai vợ chồng người hạng xóm và cố giết luôn cả hai đứa con họ nhưng không thành công. Khi ấy hắn mới mười bảy tuổi và tên đồng bọn với hắn trong vụ giết người này là một cựu tù hai mươi sáu tuổi, tên này kết bạn với hắn. Hai tên xông vào nhà nạn nhân, cướp hai trăm đô-la. Tên đồng bọn với Waters bị tử hình trước đó nhiều năm, còn Waters thì luôn mồm nói rằng hắn không giết người. Hắn chỉ có mặt ở đấy thôi, hắn không bao giờ thay đổi lời khai trong chuyện này. Hắn luôn mồm nói mình vô tội, đã đến nhà nạn nhân mà không biết ý đồ gì của bạn hắn. Chuyện xảy ra quá nhanh và quá tàn bạo, các đứa con nạn nhân còn quá nhỏ nên không chứng thực được chuyện hắn khai. Các đứa con còn nhỏ, chúng không sợ bị nhận diện, nên chỉ đánh đập rất tàn bạo rồi tha mạng cho các bé. Cả hai tên đều say, Waters khai rằng hắn xây xẩm, mờ mắt trong khi án mạng xảy ra, nên không nhớ gì hết.

    Ông chánh án không tin lời hắn khai và mặc dù tuổi hắn còn nhỏ nhưng ông vẫn kết tội hắn như người lớn và sau đó hắn kháng án nhưng không thành công. Hắn sống phần lớn cuộc đời trong tù, mới đầu ở tại nhà tù San Quentin, rồi sau chuyển đến Pelican Bay. Hắn cố học đại học ở trong tù và theo học ở trường luật được nửa chừng. Hắn viết một số bài về hệ thống pháp lý, đề nghị tu chính pháp luật và mở rộng quan hệ với báo chí trong nhiều năm qua. Hắn viết bài chống đối chính quyền vì đã bỏ tù hắn vô tội, cho nên Waters đã trở thành tù nhân có tiếng tăm. Hắn làm chủ bút tờ báo trong tù và biết hết về mọi người trong tù. Người ta tìm đến hắn để xin ý kiến và hắn được mọi người trong tù kính nể. Hắn không có cái vẻ hào nhoáng quý tộc của Morgan, mà hắn trông thô ráp, khỏe mạnh. Hắn chăm lo rèn luyện thân thể. Mặc dù khi còn nhỏ hắn nông nổi, gây nên nhiều chuyện xấu, nhưng suốt hai thập niên qua ở trong tù hắn là tù nhân gương mẫu. Hắn khỏe mạnh, trông có vẻ đáng sợ, nhưng hồ sơ trong tù của hắn trong sạch, tiếng tăm của hắn không bằng vàng thì cũng bằng đồng. Chính Waters đã thông báo cho báo chí biết việc hắn được phóng thích và hắn rất sung sướng khi thấy các phóng viên đến đây.

    Waters và Morgan không hợp tác với nhau, nhưng hai người thường kín đáo nể phục nhau. Có những lúc, trong khi Waters đợi để gặp ông quản ngục, Peter có nói chuyện với hắn, hai người thỉnh thoảng bàn đến những vấn đề về pháp lý. Peter đã đọc nhiều bài của hắn viết đăng trên tờ báo trong tù và báo địa phương. Gã thấy hắn khó mà gây được ấn tượng mạnh cho gã, dù hắn có tội hay vô tội. Hắn có đầu óc sáng suốt và làm việc cật lực để hoàn thành mục tiêu hắn đề ra, mặc dù hắn đã lớn lên trong tù với hoàn cảnh rất khó khăn.

    Khi Peter đi qua cổng nhà tù, lòng cảm thấy hân hoan đến ngộp thở, gã quay đầu nhìn lại, thấy Carlton Waters đang bắt tay ông quản ngục, trong lúc đó người nhiếp ảnh của tờ báo địa phương chụp ảnh hắn. Peter biết hắn sẽ đến ở tại nhà tạm trú ở Modesto. Gia đình hắn vẫn còn sống ở đấy.

    Peter dừng lại một lát, nhắm mắt, lẩm nhẩm trong miệng - Cám ơn Chúa! - Rồi mở mắt nhìn lên trời. Gã cảm thấy ngày hôm ấy như đang mở rộng cửa để đón nhận gã vào đời. Gã đưa tay chùi mắt để không ai thấy nước mắt đang trào ra trên mắt gã. Rồi gã gật đầu chào người gác cổng và đi bộ về phía trạm xe buýt. Gã biết bến xe nằm ở đâu, gã muốn đi nhanh đến đấy. Gã chỉ đi bộ mười phút là đến bến xe và khi gã vẫy tay đón xe buýt, bước lên xe, Carlton Waters đang đứng trước nhà tù để chụp tấm hình cuối cùng. Hắn lại nói với người phóng viên lần nữa là hắn vô tội. Dù hắn có tội hay không thì hắn đã tạo nên được câu chuyện rất hay, đã trở thành người được kính trọng trong tù suốt hai mươi bốn năm qua và đã hưởng được thành quả do lời tuyên bố hắn vô tội mang đến. Từ nhiều năm rồi, hắn thường nói đến kế hoạch viết sách. Hai người mà hắn được xem như đã giết họ và hai đứa bé đã sống mồ côi do hắn gây nên trước đó hai mươi bốn năm, đã hoàn toàn bị lãng quên. Họ đã bị những bài báo của hắn viết và những lời thanh minh hay ho của hắn đẩy vào bóng tối. Khi Peter Morgan bước xuống trạm xe buýt cuối cùng và mua vé xe đi San Francisco, thì Waters vừa trả lời phỏng vấn xong, cuối cùng hắn đã được tự do.

    Last edited by giavui; 09-07-2020 at 02:59 PM.

  2. #21
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 20
    Peter nằm ngủ bên cạnh Sam cho đến năm giờ sáng, rồi như thể linh tính đánh thức gã dậy. Gã mở mắt, chậm rãi cựa mình, Sam vẫn ngủ bên cạnh gã, gối đầu lên vai gã. Và cũng chính linh tính mách gã cởi trói cho Sam, gã tháo hết dây trói tay và hai chân chú bé. Chúng đã trói chú từ lúc bắt chú đến giờ để chú khỏi trốn thoát. Sam phải chấp nhận và đã quen với việc tay chân bị trói trong suốt cả tuần qua. Chú biết rằng chú có thể tin tưởng Peter nhiều hơn kẻ khác. Khi Peter tháo dây trói xong, Sam lăn người thoải mái, vừa thì thào gọi: Mẹ.

    Peter cười nhìn chú rồi đến cửa sổ nhìn ra ngoài. Trời còn tối, nhưng ánh sáng lờ mờ đã bắt đầu len lỏi vào bóng đêm. Gã biết chỉ lát nữa thôi là mặt trời sẽ hiện ra trên đỉnh đồi. Lại một ngày nữa sẽ đến. Những giây phút chờ đợi quả là bất tận. Gã biết chúng sẽ gọi cho Fernanda và nếu bà không có tiền gửi cho chúng, chúng sẽ giết chú bé. Chúng vẫn nghĩ rằng bà muốn kéo dài thời gian để cảnh sát đến bắt chúng. Giết chú bé đối với chúng không nghĩa lý gì hết. Vì thế cho nên, nếu chúng biết hành động này của gã, thì việc chúng giết gã cũng chẳng có nghĩa gì. Gã không quan tâm. Gã đã liều mạng để cứu sống Sam. Nếu gã thoát được với chú bé, thì đây là chuyện rất may mắn, nhưng gã không hy vọng gì có chuyện như thế. Nếu gã cố chạy trốn với chú bé, việc giải cứu của họ sẽ chậm đi và như thế sẽ tăng thêm sự nguy hiểm cho Sam.

    Gã vẫn đứng nơi cửa sổ, rồi bỗng gã nghe có tiếng động như tiếng con chim vừa thức dậy cựa mình, rồi có viên sỏi bay đến phía gã và rơi xuống mặt đất phát ra tiếng kêu nho nhỏ. Gã nhìn ra xa, thấy có vật gì chuyển động và khi nhìn kỹ, gã thấy ba bóng đen đang đu dây trượt xuống bờ đá. Không có dấu hiệu gì cho biết đây là cảnh sát đang đến, nhưng gã biết đây chính là họ, gã cảm thấy tim đập rất mạnh. Gã nhẹ nhàng mở cửa sổ không gây một tiếng động và nheo mắt nhìn vào bóng tối, thấy họ trèo xuống bờ đá cho đến khi biến mất. Gã áp bàn tay lên miệng Sam để chú bé im lặng, rồi nhẹ nhàng lắc người chú, cho đến khi chú bé mở mắt và Peter biết chú đã thức. Khi Sam nhìn gã, gã để ngón tay lên môi chú bé. Gã chỉ cánh cửa sổ mở rộng cho chú bé thấy. Chú không biết chuyện gì xảy ra, nhưng chú biết Peter đang ra sức giúp chú. Chú bé vẫn nằm trên giường, nhận ra Peter đã cởi trói cho mình, chú bèn cử động tay chân được tự do lần đầu tiên trong suốt nhiều ngày qua. Hai người không ai di chuyển một lát, rồi Peter quay lại cửa sổ. Mới đầu gã không thấy gì hết, rồi gã thấy họ ngồi xổm trong bóng tối ở phía sau nhà chừng ba mét. Một bàn tay mang găng đen ra dấu, gã quay lại, bế Sam ra khỏi giường. Gã không dám mở hết cửa sổ, mà chỉ nhét chú qua. Cửa sổ chỉ cách mặt đất một đoạn ngắn và gã biết tay chân chú bé chắc bị tê cứng. Gã vẫn nắm chú bé, nhìn chú lần cuối cùng. Bốn mắt nhìn nhau một hồi lâu, rồi với cử chỉ rất trìu mến, gã thả chú bé xuống đất, đưa tay về phía có bóng người đang ngồi. Sam vội bò đến phía bụi cây như em bé mới biết bò. Peter thấy Sam biến mất trong bóng tối, rồi gã thấy bàn tay mang găng đen lại đưa lên, vẫy gã. Gã đứng yên nhìn bàn tay và nghe có tiếng động trong nhà ở phía sau lưng gã. Gã lắc đầu, đóng cửa sổ, vào nằm lại xuống giường. Gã không muốn làm gì có thể gây nguy hiểm cho Sam.

    Sam bò trên mặt đất đến phía có các lùm cây, chú không biết đi đâu. Chú cứ bò theo hướng Peter đã chỉ, cho đến khi có hai bàn tay chụp lấy chú, kéo chú vào bụi thật nhanh và thật mạnh, khiến chú hụt hơi. Chú nhìn những người bắt chú, thì thào hỏi người có bộ mặt đen thui và đội cái mũ bằng ni lông đen :

    - Các ông là người tốt hay xấu đây? - Người đàn ông ôm mạnh chú vào ngực gần muốn khóc, ông ta quá mừng khi gặp chú bé. Công việc hoàn toàn trôi chảy, nhưng họ còn cả đoạn đường dài phải vượt qua.

    - Người tốt. - Ông ta thì thào đáp lại. Sam gật đầu và tự hỏi không biết mẹ chú đang ở đâu. Những người đàn ông quanh chú ra dấu cho nhau và họ đè Sam nằm xuống đất, bôi đất lên người chú. Những tia sáng màu vàng cam đã bắt đầu ở chân trời, mặt trời chưa mọc, nhưng họ biết không lâu nữa mặt trời sẽ ló dạng.

    Họ loại bỏ khả năng đưa Sam ra khỏi đây bằng cách leo dây lên bờ đá, vì làm thế quá lộ liễu, nếu chúng biết chú bé đã trốn thoát theo đường này chú sẽ là tấm bia hứng đạn của chúng. Chú bé bây giờ là mối nguy hiểm cho chúng, trừ Peter, vì chú đã đủ lớn để nhận diện được chúng, sẽ nói cho cảnh sát những gì mắt thấy tai nghe.

    Đội đặc nhiệm chỉ còn hy vọng duy nhất là đưa Sam ra ngoài theo con đường xe vào nhà, nhưng theo con đường này cũng rất lộ liễu. Họ phải băng qua đám bụi rậm mọc dọc theo con đường ấy, một vài nơi bụi quá rậm không có lối cho họ chui qua. Một cảnh sát nắm chặt Sam, ngồi thu mình rồi vùng chạy, có nơi phải bò lê trên mặt đất. Trong khi di chuyển, họ không nói gì với nhau, hay với Sam. Họ di chuyển rất chính xác, chọn con đường nào nhanh nhất mà đi, trong khi mặt trời đã ló dạng trên đỉnh đồi, rọi ánh sáng khắp bầu trời.

    Tiếng động mà Peter nghe là do một tên gây nên trong phòng tắm. Gã nghe tiếng nước chảy trong phòng vệ sinh, rồi có tiếng chửi thề của tên nào đấy khi hắn vấp chân lúc quay về giường lại. Một lát sau, gã nghe tiếng của một tên khác. Peter nằm yên trên giường, nhưng gã quyết định phải dậy. Gã không muốn có tên nào vào phòng sau và tìm ra việc Sam đã trốn thoát.

    Gã đi chân trần ra phòng khách, cẩn thận nhìn ra ngoài cửa sổ, không thấy gì, gã bèn ngồi xuống.

    - Anh dậy sớm nhỉ - Bỗng có giọng nói cất lên phía sau gã, Peter giật mình quay lại. Người nói là Carlton Waters. Mắt hắn lờ đờ vì đêm vừa rồi uống quá nhiều - Thằng bé ra sao?

    - Bình thường. - Peter đáp với vẻ thờ ơ. Waters ở trần, chỉ mặc quần jeans để ngủ. Hắn đến mở tủ lạnh để tìm cái gì ăn, nhưng quay lại với lon bia. Hắn đến ngồi xuống ghế dài đối diện với Peter.

    - Khi hai đứa kia ngủ dậy, tôi sẽ gọi cho mẹ nó -Hắn nói - Nếu bà ta không gửi tiền thì chúng ta phải ra tay - Hắn nói một cách thản nhiên - Tôi sẽ không ngồi ở đây mãi được như con vịt trong lồng để đợi cảnh sát xuất hiện. Nếu bà ấy định chơi xỏ chúng ta, thì bà phải hiểu như thế.

    - Có lẽ bà ta không có tiền - Peter nhún vai nói -Nếu có, chúng ta cũng phải đợi một thời gian dài. -Peter hiểu tình thế của bà, nhưng Waters thì không.

    - Nếu bà ta không có tiền thì chắc chủ anh cũng rất khó khăn. - Waters nói, rồi hắn đứng dậy nhìn ra ngoài cửa sổ. Bầu trời đã nhuốm màu hồng nhạt, chỗ rẽ đầu tiên của con đường xe vào nhà đã hiện rõ trong ánh sáng bình minh và khi hắn nhìn vào khúc đường quanh ấy, bỗng hắn sững người, rồi vùng chạy ra ngoài mái hiên. Hắn thấy có bóng người di động rồi biến mất - Chó thật! - Hắn thốt lên, vùng chạy vào nhà vừa tìm khẩu súng dài vừa hét lớn để đánh thức bọn kia dậy.

    - Có gì không ổn à? - Peter hỏi, vùng đứng dậy với vẻ lo lắng.

    - Không biết. - Hai tên kia hiện ra, vẻ còn ngái ngủ, rồi một tên đến chụp khẩu súng máy. Peter nhói trong tim. Không có cách nào để báo cho cảnh sát đang cùng Sam bò ra khỏi con đường xe vào nhà. Peter nghĩ rằng họ chưa đủ xa để được an toàn.

    Waters ra dấu cho Stark và Free bước ra ngoài và chúng trông thấy họ như những bóng ma. Qua Waters và hai tên kia, Peter thấy người đàn ông mặc đồ đen ngồi thu mình vùng dậy, ôm trong tay cái gì đấy. Cái gì đấy trong tay ông ta là Sam. Không ngần ngừ, Waters bắn vào họ và Stark bắn theo cả loạt súng máy.

    Fernanda và Ted đang ngồi trong chỗ nấp, nghe tiếng súng nổ. Họ không có máy radio để liên lạc với lính biệt kích. Fernanda nắm tay Ted và nhắm mắt. Họ không có cách gì để biết chuyện đang xảy ra, mà chỉ còn đợi thôi. Họ có những lính trinh sát quan sát cho họ, nhưng những người đó vẫn chưa thấy gì. Nhưng theo tiếng súng nổ giòn giã, ông biết chúng đang bắn theo người cảnh sát cứu Sam chạy ra, ông không biết có Peter đi theo họ không. Nếu có gã đi theo, thì tính mạng của chú bé nguy hiểm hơn.

    - Ôi lạy Chúa... Ôi lạy Chúa... - Fernanda thốt lên nho nhỏ khi họ nghe tiếng súng bắn lại - Lạy Chúa... làm ơn... - Ted không nhìn bà. Ông nhìn ra ánh bình minh ở ngoài trời và nắm chặt tay bà.

    Rick Holmquist bước ra khỏi chỗ núp, Ted quay qua nhìn ông.

    - Có dấu hiệu gì của họ chưa? - Rick lắc đầu và súng lại nổ. Cả hai đều biết có chừng một tá lính biệt kích núp dọc theo con đường xe vào nhà, thêm ba người trên đỉnh đồi xuống nữa. Và phía sau họ là cả một đạo quân hỗ trợ khi Sam đã ra ngoài rồi.

    Tiếng súng ngừng bắn, họ không nghe gì nữa. Waters quay vào nhìn Peter.

    - Thằng bé đâu rồi? - Có cái gì đó khiến hắn nghi ngờ Peter.

    - Nó ở trong phòng sau và đang bị trói.

    - Thật không? - Peter gật đầu - Thế tại sao tao thấy có thằng chạy qua ngoài đường với thằng bé... nói cho tao biết... Có phải mày... - Hắn đẩy mạnh Peter ra sau, sát vào tường nhà, dí mũi súng vào dưới cổ Peter thật mạnh khiến gã nghẹt thở, còn cả Stark lẫn Free đứng nhìn. Bỗng Waters quay qua bảo Jim Free ra phòng sau xem sao. Mấy phút sau hắn trở lại.

    - Thằng bé trốn mất rồi! - Stark có vẻ hoảng hốt.

    - Tao biết... đồ chó đẻ... - Waters nhìn thẳng vào mắt Peter, tay siết cổ gã, còn Malcolm Stark chỉ súng vào gã - Mày gọi chúng phải không... thằng chó... chuyện gì thế? Mày sợ phải không? Mày thương thằng bé phải không? Mày nên thương hại tao thì hơn. Mày làm chúng tao mất mười lăm triệu, còn mày mười triệu. - Waters vừa tức giận vừa sợ. Hắn nghĩ dù chuyện xảy ra như thế nào đi nừa, thì hắn vẫn không trở lại nhà tù. Hắn phải giết gã trước.

    - Nếu bà ấy có tiền thì bây giờ chắc đã trả rồi. Có lẽ Addison đã lầm. - Peter đáp, giọng khàn khàn. Đây là lần đầu tiên bọn kia nghe tên Addison.

    - Mày biết quái gì? - Waters quay lại nhìn ra con đường, rồi bước ra khỏi nhà vài bước, Stark chạy theo hắn, nhưng chúng chẳng thấy gì. Những người cứu Sam đã chạy quá nửa đoạn đường. Rick nhìn thấy họ chạy, ông quay lại ra dấu cho Ted. Rồi ngay lúc ấy, ông thấy Carlton Waters và Malcolm Stark hiện ra, chúng bắn vào cảnh sát, Sam bay từ tay người này sang tay người khác. Họ chuyền chú bé như chuyền cái que trong cuộc đua tiếp sức. Stark và Waters bắn bừa bãi vào bất cứ cái gì chúng thấy.

    Fernanda bèn mở mắt, bà và Ted nhìn ra con đường. Bà nhìn ra vừa lúc một nhân viên FBI và Rick nhắm bắn Waters, hắn nhào xuống như cây đổ, nằm úp mặt xuống đất và Stark vội vã chạy vào nhà, đạn bay vèo vèo quanh hắn. Peter và Jim Free chạy vào trong nhà và khi Stark chạy vào, hắn hét lên :

    - Chúng hạ Carl rồi! - Hét xong hắn quay qua Peter, vẫn cầm súng máy trên tay - Mày là thằng con hoang, mày giết anh ấy! - Stark bắn một loạt vào Peter. Peter chỉ có một khắc để nhìn hắn trước khi loạt đạn cưa hai người gã và gã gục xuống chân Jim Free.

    - Chúng ta làm gì bây giờ? - Jim Free hỏi Stark.

    - Thoát ra khỏi đây, nếu được. - Chúng đã biết hai bên đường có bụi cây rất rậm và phía sau nhà là bờ dốc đá. Chúng không có dụng cụ để leo, chỉ có lối thoát duy nhất là phía trước, theo con đường xe vào nhà, con đường hiện có nhiều thây ma, không những chỉ có xác của Carl thôi mà còn của cảnh sát mà hắn và Stark đã bắn trước khi hắn bị hạ gục. Có ba cái xác nằm giữa mặt tiền nhà và trên con đường, Sam thấy họ khi người cảnh sát mang chú chạy. Anh ta như người vận động viên chạy về đích, chạy cật lực và bóng anh ta chỉ còn cách nơi Ted và Fernanda đứng có mấy tấc. Bây giờ trời đã sáng tỏ, nên họ nhìn thấy Sam. Bà khóc nức nở khi thấy con, rồi Sam ở trong tay bà và mọi người òa khóc. Chú mở to mắt kinh ngạc, người lấm đất nhưng hét to gọi mẹ và bà không thốt được nên lời.

    - Mẹ!... Mẹ!... Mẹ... - Bà khóc nức nở, không nói gì mà chỉ ôm chặt con. Hai mẹ con lăn xuống đất khi chú bé nhào vào bà. Bà nằm như thế mà ôm con vào lòng, thổn thức vì cứ tưởng chú bé đã chết. Hai mẹ con nằm dưới đất một lát rồi Ted đỡ hai người dậy và ra dấu cho mấy người đàn ông ở sau họ đem hai mẹ con đi. Ông và Rick nhìn theo, chảy nước mắt, những người khác cũng thế. Một y sĩ bước đến giúp hai mẹ con. Ông ta mang chú bé đến chiếc xe cấp cứu đang đợi, Fernanda chạy theo bên con, nắm tay chú. Họ sẽ đưa Sam đến bệnh viện địa phương để khám nghiệm.

    - Trong nhà còn những ai? - Ted vừa hỏi Rick, vừa đưa lưng bàn tay lau nước mắt.

    - Tôi đoán ba tên. Waters đã bị hạ, còn Morgan và hai tên kia. Tôi nghĩ bây giờ chắc Morgan không còn sống... như vậy chỉ còn hai... - Khi thấy mất Sam, thế nào chúng cũng giết gã, nhất là sau khi Waters đã chết. Họ đã thấy Stark chạy vào nhà, nhưng họ biết chúng sẽ không có đường thoát. Họ ra lệnh bắn hết, trừ Peter nếu gã còn sống. Các thiện xạ chuyên bắn tỉa đã đến và một nhân viên trong đội đặc nhiệm dùng loa phóng thanh gọi chúng ra hàng nếu không cảnh sát sẽ tiến vào. Chúng không trả lời, không ai xuất hiện. Thế là trong hai phút sau, bốn mươi cảnh sát tiến lên, với súng phóng lựu hơi cay, súng công phá mạnh, súng máy, trái sáng khi nổ sẽ tỏa ra ánh sáng làm lóa mắt và tiếng nổ chát chúa khiến cho quân địch hoảng hồn, tung ra nhiều mảnh đạn nhỏ khắp nơi, đâm vào người như ong châm. Khi Fernanda theo xe cấp cứu đi với Sam, bà nghe tiếng đạn nổ đinh tai nhức óc. Khi xe chạy, bà thấy Ted đứng với Rick giữa đường, mặc áo giáp và nói chuyện với ai đấy trên rađio. Ông không thấy bà đi.

    Khi về khách sạn, Fernanda nghe một nhân viên FBI nói rằng cuộc bao vây ngôi nhà mất gần một giờ. Stark bị hơi cay làm ngộp thở nên phải ra trước, một tay và một chân bị trúng đạn, Jim Free đi ra ngay phía sau hắn. Sau đó, một nhân viên mật vụ khác kể cho bà hay rằng hắn run như cầy sấy, miệng la ó như một con heo con. Chúng bị bắt giam ngay tức khắc, đợi ngày đưa ra tòa và tống lại vào tù. Chúng sẽ bị buộc tội bắt cóc Sam cũng như giết hai cảnh sát và một mật vụ FBI trong khi chúng bị bao vây và đã giết bốn người khác khi đến bắt cóc Sam tại nhà.

    Khi vào nhà, họ thấy thi thể của Peter Morgan. Rick và Ted nhìn họ chuyển nó đi. Vào căn phòng nơi Sam bị giam giữ, họ thấy cửa sổ nơi Peter dùng để đưa Sam trốn ra ngoài. Tất cả mọi thứ chúng cần đều ở đấy. Xe tải, súng và đạn dược. Ngôi nhà được Peter đứng tên thuê và Ted biết tên của ba tên tội phạm kia. Cái chết của Carlton Waters không ai thương tiếc. Hắn lêu bêu trên đường phố hơn hai tháng, Peter cũng thế. Hai sinh mạng bỏ đi, hầu như từ đầu và mãi mãi.

    Hôm ấy Ted và Rick mất ba nhân viên giỏi cũng như đội đặc nhiệm mất người tài. Họ còn mất bốn người khác nữa, bị giết khi chúng đến bắt cóc Sam. Free và Stark sẽ không bao giờ thấy lại ánh sáng ban ngày, vì tội bắt cóc Sam. Ted hy vọng chúng sẽ bị kết án tử hình. Nếu phiên tòa mở ra để xử chúng, thì cũng chỉ xử cho có hình thức thôi. Nếu chúng nhận tội, thì sẽ đơn giản hơn cho mọi người. Nhưng Ted nghĩ có lẽ chúng không nhận tội ngay. Chúng muốn kéo dài phiên tòa chừng nào hay chừng ấy, rồi cứ gửi đơn kháng án mãi để có thể sống thêm được một thời gian nữa trong tù.

    Rick và Ted ở lại tại hiện trường cho đến đầu buổi chiều. Xe cấp cứu đến nơi rồi đi, các lính biệt kích bị chết đã được mang đi, người ta chụp ảnh, những người bị thương được chăm sóc, cảnh tượng giống như bãi chiến trường. Những người hàng xóm hoảng sợ thức dậy khi nghe tiếng súng lúc mới rạng đông, họ đổ xô ra đường để hỏi xem chuyện gì đã xảy ra. Cảnh sát cố trấn an mọi người, giữ cho xe cộ lưu thông bình thường. Khi Ted trở về khách sạn, ông mệt phờ người, nhưng đến thăm Sam trong phòng Fernanda ngay. Họ vừa mới từ bệnh viện về và chú bé có sức khỏe rất tốt. Họ muốn hỏi nó nhiều chuyện, nhưng Ted nói nên để cho chú bé nghỉ ngơi lấy lại sức đã. Khi Ted vào phòng bà, ông thấy chú bé nằm ôm lấy mẹ. Chú tươi cười nhìn mẹ, đĩa thịt bò băm viên để bên cạnh và nó vừa ăn vừa xem truyền hình. Bất cứ người cảnh sát hay mật vụ nào tại đây cũng đều đến thăm Sam, nói chuyện với chú, vuốt tóc chú rồi mới ra khỏi phòng. Họ đã liều mình để cứu Sam và đã có bạn bè hy sinh vì bé. Chú bé đáng được như thế. Hôm ấy đã có nhiều người chết và người đã thay đổi tình thế vào phút chót để giúp cho việc giải cứu chú cũng đã chết.

    Fernanda không rời khỏi Sam và khi Ted đi vào, bà tươi cười nhìn ông. Người ông dơ dáy, mệt mỏi, râu mọc lởm chởm hai má và dưới cằm. Khi Rick chia tay Ted để đi kiếm cái gì ăn, ông nói với bạn rằng trông Ted như kẻ sống lang thang ngoài đường. Ông nói phải đi gọi điện thoại sang châu Âu.

    Ted nhìn Fernanda rồi nhìn Sam, cười với chú và nói :

    - Chào, anh bạn trẻ. Gặp lại cậu thật tuyệt. Tôi cam đoan cậu là vị anh hùng, cậu là phó thẩm sát viên quá tuyệt vời. - Nhưng ông chưa muốn hỏi Sam nhiều. Mặc dù họ muốn hỏi chú nhiều chuyện, nhưng ông muốn để cho chú thoải mái trong một thời gian. Rồi chú sẽ gặp nhiều viên chức cảnh sát - Tôi nghĩ là mẹ cậu rất sung sướng được thấy lại cậu. - Rồi ông hạ thấp giọng nói tiếp một cách cụt ngủn - Tôi cũng vậy. - Giống như mọi người đã làm việc ngày đêm để tìm Sam, hôm ấy ông khóc luôn. Sam lăn người nằm ngửa, cười với ông, nhưng chú không rời khỏi mẹ một ly.

    - Ông ấy nói ông ấy rất ân hận. - Sam nói, mặt trầm ngâm. Ted gật đầu, ông biết chú bé nói đến Peter Morgan.

    - Tôi biết. Hắn cũng nói với tôi như thế.

    - Làm sao ông tìm ra cháu được? - Sam nhìn Ted với vẻ ngạc nhiên. Ông ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh cậu bé, thoa lên đầu chú. Chưa bao giờ ông sung sướng khi gặp lại người nào như thế này, ngoại trừ lần con trai ông bị lạc mà ông tưởng cậu ta chết đuối trong hồ, nhưng té ra không phải.

    - Hắn gọi cho chúng tôi.

    - Ông ấy thật tốt với cháu. Còn bọn kia thật dễ sợ.

    - Chắc chắn chúng rất dễ sợ. Chúng sẽ không bao giờ ra khỏi nhà tù lại nữa, Sam ạ. - Ông không nói chúng có thể bị ghép tội tử hình vì bắt cóc. Ted nghĩ chú bé không cần biết về tin tức này - Một tên bị cảnh sát bắn chết. Hắn tên là Carlton Waters. - Sam gật đầu rồi nhìn mẹ.

    - Con tưởng không bao giờ gặp lại mẹ. - Chú nói nho nhỏ.

    - Mẹ tin sẽ gặp lại con. - Bà mạnh dạn đáp, mặc dù nhiều lúc bà không nghĩ thế. Khi về khách sạn, họ gọi cho Will. Khi mẹ cậu kể chuyện cho cậu nghe và khi cậu nói chuyện với Sam, cậu khóc sướt mướt. Rồi bà gọi cho cha Wallis. Ashley không hề biết Sam bị bắt cóc. Cô bé chỉ ở cách đấy mấy dặm, Fernanda sẽ để cô ở với bạn vài hôm cho đến khi tình hình thật sự yên ổn trở lại. Fernanda không muốn làm cho con gái buồn cho đến khi mọi việc đã xong xuôi. Khi nào cô gái về nhà bà sẽ nói cho cô biết, làm thế sẽ hay hơn. Và bà không thể nào không nghĩ đến điều cha Wallis đã nói khi ông gặp bà, cha cho rằng việc Sam bị bắt cóc là phần thưởng của Chúa. Bà không muốn được phần thưởng nào như thế này nữa. Sáng hôm ấy khi bà nói chuyện với cha, ngài đã nhắc bà nhớ đến điều đó.

    - Lát nữa tôi sẽ đưa hai mẹ con về, bà nghĩ sao? -Ted nhìn hai mẹ con hỏi và Sam gật đầu, Ted phân vân không biết Sam có sợ ngôi nhà mà chú đã bị bắt cóc hay không. Nhưng ông nghĩ rằng họ không còn ở đấy lâu nữa.

    - Chúng đòi nhiều tiền lắm phải không, mẹ? - Sam hỏi, ngước mắt nhìn bà và bà gật đầu - Con đã nói với ông ấy rằng chúng ta không có tiền. Con nói bố đã làm mất hết, nhưng ông ta không nói với các người kia hay có thể ổng có nói, nhưng bọn kia không tin. - Chú bé tóm tắt tình hình lúc ấy.

    - Làm sao con biết? - Fernanda cau mày nhìn con trai. Bà không ngờ chú bé biết nhiều như thế - Mẹ muốn nói con biết về chuyện tiền bạc. - Sam có vẻ hơi lúng túng, rồi chú cười bẽn lẽn với mẹ.

    - Con nghe mẹ nói chuyện trên điện thoại. - Sam thú nhận và bà nhìn Ted với nụ cười ân hận trên môi.

    - Khi tôi còn bé, bố tôi thường nói tai vách mạch rừng.

    Ted cười khi nghe bà nói đến câu tục ngữ mà ông cũng thường nghe, nhưng Sam có vẻ không hiểu, bèn hỏi :

    - Nói thế nghĩa là sao hả mẹ?

    - Nghĩa là con không nên nghe lén chuyện mẹ nói. - Bà đáp, có ý trách nhẹ con. Bây giờ bà không sợ điều chú bé đã nói. Chú đã biết chuyện này quá lâu rồi. Bà chỉ sung sướng vì đã đưa được chú về nhà.

    Sau đó Ted hỏi Sam vài câu nữa, rồi một lát sau Rick vào với vài người làm việc với ông. Không có câu trả lời nào của Sam làm cho họ ngạc nhiên. Họ đã ráp những câu ấy lại với nhau thành một bức tranh tổng thể sít sao một cách kỳ lạ. Tất cả lực lượng cảnh sát đều rời khỏi khách sạn vào lúc sáu giờ. Fernanda và Sam cùng đi trên xe của Ted. Rick ngồi cùng xe với mấy nhân viên của ông và khi ra về, ông nháy mắt với Ted. Ted liền vui vẻ đáp trả bạn.

    - Đừng nháy mắt như thế với tôi. - Ted rít lên nho nhỏ. Rick cười với Ted. Ông mừng vì công việc thắng lợi, vì họ rất dễ gặp chuyện không hay. Phải đợi cho đến xong việc mới biết thành hay bại. Hôm ấy họ đã mất những người can đảm, những người đã xả thân để cứu Sam.

    - Công việc cam go thật đấy, nhưng phải làm thôi. - Rick nói đùa nho nhỏ, ám chỉ đến Fernanda. Bà là người tuyệt vời, ông thích bà. Nhưng Ted có ý đồ làm chuyện điên rồ. Bây giờ sự nguy hiểm đã qua, nhưng ông còn trung thành với Shirley. Còn Fernanda tiếp tục cuộc sống riêng tư với nhiều khó khăn trước mắt phải giải quyết.

    Chuyến xe đi về nhà thoải mái, không có chuyện gì xảy ra. Các thầy thuốc và bác sĩ ở bệnh viện đã xác nhận Sam có sức khỏe rất tốt, mặc dù chú đã trải qua sự thử thách rất nguy hiểm. Sam sút mất mấy cân và trên đường về nhà chú đói meo. Ted dừng lại ở Ikeda, mua cho chú thịt băm viên, pho mát, khoai chiên, sữa tươi và bốn hộp bánh bích qui. Đến khi xe họ dừng ở trước nhà, Sam ngủ say. Fernanda ngồi ở ghế trước với Ted, bà cũng quá mệt không bước ra nổi.

    - Đừng đánh thức cháu dậy, để tôi bế cháu vào nhà. - Ted nói rồi tắt máy. Chuyến đi về này rất khác với chuyến đi đến Tahoe. Khi đi họ quá căng thẳng và lo sợ chú bé sẽ bị giết chết. Những tuần qua đầy căng thẳng, khủng khiếp.

    - Tôi biết nói gì để cảm ơn ông đây? - Fernanda nói, mắt nhìn Ted. Mấy tuần qua, họ đã thành bạn bè và bà sẽ không quên chuyện này.

    - Bà khỏi cần cám ơn. Tôi ăn lương thì phải làm việc. - Ông đáp, nhìn bà, nhưng cả hai đều biết công việc của ông không phải chỉ vì ăn lương mà thôi. Có nhiều lý do hơn thế. Ông đã sống với từng cơn ác mộng của bà và sẵn sàng hy sinh tính mạng vì Sam vào bất cứ lúc nào. Con người của ông là thế, và suốt đời ông mãi mãi như thế. Fernanda nghiêng người hôn lên má ông. Thời gian như ngừng trôi giữa hai người - Tôi cần gặp cháu để hỏi một số việc cho công việc điều tra. Khi nào đến tôi sẽ gọi cho bà biết. - Ông biết Rick cũng muốn hỏi chú bé, Fernanda gật đầu.

    - Ông cứ đến bất cứ lúc nào ông muốn - Bà đáp. Rồi ông bước ra khỏi xe mở cửa sau, bế chú bé ngủ say lên và bà đi theo ông vào nhà. Cửa trước mở rộng, hai người cảnh sát đeo súng bên vai hiện ra và Will đứng sau họ. Bỗng cậu có vẻ hốt hoảng.

    - Ôi lạy Chúa, nó bị thương à? - Cậu nhìn Ted rồi nhìn qua mẹ. - Sao mẹ không nói cho con biết!

    - Nó không sao, con à. - Bà ôm nhẹ cậu. Dù đã mười sáu tuổi, cậu vẫn còn con nít. - Em con đang ngủ - Hai mẹ con ôm nhau khóc một hồi lâu mới thôi. Tai họa đã biến nhịp sống của họ gấp gáp hơn. Họ phải thích nghi với tai biến đã xảy ra, phải quên nhanh những gì đã ập đến nhà họ.

    Trong khi Fernanda cởi đôi giày đế mềm thì Ted mang Sam vào phòng, đặt chú bé lên giường. Sam ú ớ vài tiếng trong miệng, nằm nghiêng một bên và ngủ thiếp đi. Ted và Fernanda đứng yên nhìn nó. Cảnh chú bé nằm ngủ trên giường ở nhà, đầu tựa lên gối trông thật dễ thương.

    Khi họ xuống dưới gác, Ted dừng lại, đứng ở ngưỡng cửa, nói với bà :

    - Sáng mai tôi sẽ gọi cho bà. - Hai người cảnh sát vừa mới ra về, sau khi Fernanda cám ơn họ xong.

    - Chúng tôi sẽ không đi đâu hết. - Bà hứa với ông. Bà vẫn không tin khi rời nhà, bà có được yên ổn hay không. Bây giờ chỉ còn mấy mẹ con, bà cảm thấy lo sợ vì không biết ở bên ngoài có ai đang rình rập họ không. Bà hy vọng sẽ không còn cảnh vừa rồi xảy ra nữa. Bà đã gọi lại cho Jack Waterman ở Tahoe. Hai người đồng ý phải tuyên bố công khai cho mọi người biết về việc Allan đã mất hết tài sản, nếu không, mẹ con bà sẽ còn là mục tiêu cho bọn gian phi. Bà đã thấm thía bài học ấy.

    - Bà hãy đi nghỉ đi một lát. - Ted nói với bà và bà gật đầu. Bà không muốn ông ra về, mặc dù bà nghĩ đây là một ý nghĩ ngốc nghếch. Bà đã quen nói chuyện với ông vào lúc đêm khuya, đã biết tìm ông ở đâu để nói chuyện vào bất cứ giờ nào. Bà nhớ cảnh mình ngủ trên nền nhà bên cạnh ông, vì không biết ngủ ở đâu hơn. Bà luôn luôn cảm thấy yên ổn khi ở bên ông, bây giờ bà nhận ra thế. - Tôi sẽ gọi cho bà - Ông hứa thêm lần nữa mới ra về. Bà đóng cửa, lòng phân vân không biết cám ơn ông bao nhiêu mới đủ.

    Khi bà lên gác, ngôi nhà trống vắng, không có một tiếng động, không có cảnh sát mang súng, không điện thoại di động reo khắp nơi trong nhà, không người đàm phán chờ chực trên máy điện thoại của bà. Cám ơn Chúa. Will đang đợi bà trong phòng, trông cậu như đã trưởng thành sau vụ này.

    - Mẹ khỏe chứ, mẹ?

    - Khỏe. - Bà đáp. Bà cảm thấy như người rơi khỏi cao ốc, hồn bay phách lạc. Nhưng bây giờ bà đã lấy lại tinh thần vì Sam đã về nhà - Còn con thì sao?

    - Con không biết. Chuyện thật đáng sợ. Không thể không nghĩ đến nó được. - Bà gật đầu với con. Cậu nói đúng. Họ sẽ nghĩ đến chuyện này trong một thời gian dài.

    Khi Fernanda đi tắm và Will đi ngủ thì Ted lái xe về nhà ở Sunset. Không có ai ở nhà hết. Shirley không có ở nhà, bà hoặc là đi làm, hoặc là đi chơi với bạn, hầu hết bạn bà ông đều không quen. Ngôi nhà im lặng nặng nề và đây là lần đầu tiên trong thời gian dài, ông cảm thấy hết sức cô đơn. Ông nhớ cảnh gặp Ashley và Will, nhớ cảnh Fernanda nói chuyện với ông, nhớ cảnh gia đình bà có nhiều nhân viên của ông đến canh gác khi xảy ra biến cố. Cảnh tượng này nhắc ông nhớ đến thời trai trẻ của mình trong Sở Cảnh sát. Nhưng ông không chỉ nhớ nhân viên mà thôi, ông nhớ Fernanda nhiều hơn.

    Ông ngồi xuống ghế, nhìn vào khoảng không, nghĩ đến việc gọi cho bà. Ông rất muốn nói chuyện với bà. Ông đã nghe những điều Rick nói. Nhưng đấy là chuyện của Rick, còn đây là chuyện của ông. Ông không thể làm như lời Rick nói.


  3. #22
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 21
    Ngày hôm sau, Ted nói chuyện với Rick, hỏi ông ta đã làm gì Addison rồi. Bang sẽ buộc tội y, sẽ ra lệnh bắt y về tội âm mưu bắt cóc, ngay khi y về thành phố. Ted nói ông sẽ làm như thế. Ông chánh án đã cam đoan với Rick rằng Phillip Addison là kẻ đã bị liên bang tố giác, nên y phải được nhân viên an ninh áp giải về nước. Ted hy vọng ông chánh án đúng.

    - Khi chúng ta đang nói chuyện thì hắn đang bay về nhà. - Rick nói với Ted trên điện thoại, vừa cười toe toét.

    - Thế là nhanh đấy. Tôi tưởng hắn sẽ đi suốt tháng chứ.

    - Thì đúng thế. Hôm qua tôi gọi cho cảnh sát Quốc tế và cơ quan FBI ở Paris. Họ cho nhân viên canh chừng và vào bắt hắn. Chúng tôi buộc tội hắn âm mưu bắt cóc và hôm nay, người mật báo viên mà tôi tin cẩn nhất đã gọi cho tôi. Thực ra ông bạn trẻ này của tôi là một nhà khoa học, anh ta điều khiển công việc tinh chế ma túy của Addison trong một thời gian, đây là công việc kinh doanh quan trọng của hắn. Chúng ta sẽ được vui một trận về chuyện này, Ted à.

    - Khi họ đưa ra bằng chứng, chắc hắn phải bó tay. - Ted cười khi nghĩ đến chuyện đó, nhưng chuyện hắn đã làm không có gì đáng cười. Hắn rất tự phụ về việc hắn hoạt động “xã hội” rất tích cực, Ted nghe như thế và chắc hắn sẽ dựa vào lý do này để xin giảm án.

    - Nghe nói vợ hắn gần đứng tim. Bà ta tát hắn và người nhân viên.

    - Chắc cảnh ấy trông rất buồn cười. - Ted cười. Ông vẫn còn mệt.

    - Chắc thế.

    - Nhân tiện báo anh biết luôn, anh nói đúng về vụ bom cài trong xe. Jim Free đã cho chúng tôi biết Waters làm việc ấy. Chúng không cùng làm việc này, nhưng khi chúng ở tại Tahoe, hắn nói cho đồng bọn biết hắn làm vào một đêm hắn say. Tôi nghĩ chắc anh muốn biết tin này.

    - Ít ra ông chỉ huy trưởng sẽ nghĩ là tôi không điên.

    Rồi Ted nói cho ông biết họ đã tìm ra số tiền mà Addison đã ứng cho Stark, Free và Waters ở trong va-li chúng gửi trong tủ két ở bến xe buýt Modesto. Đây là bằng chứng về tội ác của Addison. Free đã khai tiền ở đâu.

    Rồi Rick thay đổi đề tài như ông thường làm, nói thẳng vấn đề ông muốn biết.

    - Khi anh đưa bà ấy vào nhà, anh có nói gì với bà ấy không? - Ted biết ông ta muốn nói đến Fernanda.

    - Nói về cái gì? - Ted giả vờ ngây ngô.

    - Đừng hỏi tôi như thế, ông mãnh. Anh biết tôi muốn nói gì rồi.

    Ted thở dài :

    - Không, tôi không nói gì hết. Đêm qua tôi định gọi cho bà ấy, nhưng rồi thôi, tôi thấy không được. Tôi không thể làm như thế với Shirley.

    - Shirley sẽ làm thế. Anh làm việc này cho anh và cho Fernanda. Bà ấy cần anh, Ted à.

    - Có lẽ tôi cũng cần bà ấy nhưng tôi đã có vợ rồi.

    - Người vợ anh đang có là trái chanh - Ông ta nói thẳng thừng, không đẹp chút nào, nhưng Ted không cãi, Shirley là người tốt, chỉ có điều bà không phải là người vợ tâm đầu ý hợp với ông từ nhiều năm nay. Bà cũng biết thế, nhưng bà thất vọng về Ted - Tôi muốn anh có người vợ hợp ý anh hơn và nhanh lên kẻo trễ - Rick hăng hái nói - Suýt nữa tôi quên, tôi có việc này muốn nói với anh, hẹn đến bữa ăn tối tuần sau tôi sẽ nói cho anh biết.

    - Chuyện gì thế? - Ted tò mò muốn biết, ông phân vân không biết có phải về chuyện hôn nhân của bạn hay không. Nếu không phải chuyện ấy thì chuyện gì mà ông ta có vẻ bí mật đến thế.

    - Tôi cần lời khuyên của anh, có tin hay không thì mặc anh.

    - Rất vui lòng được làm việc ấy. Nhân tiện hỏi anh, khi nào anh đến thăm Sam?

    - Tôi để anh đến thăm trước. Anh quen chú bé nhiều hơn tôi. Tôi không muốn làm cho chú bé sợ và anh có thể thu thập được những điều tôi cần.

    - Tôi sẽ cho anh biết.

    Họ bằng lòng vài ngày nữa sẽ gặp nhau nói chuyện. Ngày hôm sau, Ted đến thăm Sam, Fernanda đang nói chuyện với Jack Waterman. Trong họ có vẻ đang bàn công việc và sau khi Ted đến một lát thì Jack về, ông dành hầu hết thời gian với Sam. Fernanda có vẻ lơ đãng, bận bịu, Ted không thể nào không tự hỏi phải chăng đã có chuyện gì đáng nói giữa bà và Jack. Ông thấy chuyện này cũng hợp lý thôi và có vẻ thích hợp cho họ. Ông nghĩ có lẽ Jack cũng nghĩ thế.

    Ngày hôm sau, trên các báo xuất hiện bài viết về việc phá sản của Allan Barnes. Điều đáng nói là trong bài viết, họ cho cái chết của Allan xem như tự tử. Sau khi đọc xong, Ted nghĩ rằng trong việc này có ý kiến của Fernanda. Ông tự hỏi không biết phải chăng bà đã cùng Jack quyết định công bố chuyện này và tại sao bà trông có vẻ hơi buồn khi quyết định như thế. Ông không trách bà, nhưng công bố như thế là tốt. Họ đã cố hết sức để báo chí không biết về vụ bắt cóc. Ted nghĩ rằng, rồi cuối cùng báo chí cũng biết khi bọn bắt cóc bị đưa ra tòa xử. Nhưng ngày xử chưa ấn định và chắc còn lâu mới mở phiên tòa. Cả hai tên Stark và Free bị đưa lại vào tù, vì khi chúng bị bắt thì người ta thu hồi lệnh quản chế, không cho chúng hưởng chế độ này nữa.

    Sam hợp tác với Ted rất tốt. Chú bé nhớ hết những gì đã xảy ra, mặc dù chú ở trong hoàn cảnh rất đáng sợ. Chú quan sát hành vi của bọn bắt cóc rất kỹ. Mặc dù còn nhỏ tuổi, nhưng chú bé là nhân chứng tuyệt vời.

    Sau đó, mọi việc biến chuyển rất nhanh cho mấy mẹ con. Hôm sinh nhật lần thứ bốn mươi, các con đưa Fernanda đến khách sạn Quốc tế Pancakes để mừng lễ sinh nhật của bà. Năm ngoái chắc bà không muốn mừng sinh nhật như thế này, nhưng năm nay thì bà thích, vì cũng được chia vui với các con. Sau khi mừng sinh nhật xong, bà nói cho các con biết bà phải bán nhà. Ashley và Will sửng sốt khi nghe bà nói, nhưng Sam thì không. Chú đã biết như đã thú nhận với bà, vì chú nghe lén việc bà nói chuyện. Khi tuyên bố cho các con biết việc bán nhà, cuộc sống của họ thay đổi ngay. Ashley nói rằng bây giờ đi học thì quá xấu hổ, vì mọi người đều biết bố cô đã mất hết tài sản, sẽ không có cô gái nào muốn làm bạn với cô nữa. Will cho ý nghĩ của em gái thật ngu ngốc. Năm đó cậu sẽ lên lớp mười hai. Vào mùa hè đó không ai trong nhà tin họ là mục tiêu cho bọn bắt cóc. Câu chuyện quá khủng khiếp đến nỗi đã làm cho mọi người trong nhà không dám nhận công tác hè với chiến dịch: “Mùa hè hành động”. Họ chỉ nói về chuyện này cho nhau nghe. Cảnh sát đã dặn ho phải kín miệng để tránh các phóng viên báo chí “đánh hơi”. Rồi người mua nhà đến xem nhà. Khi nhìn thấy nhà bếp, bà ta há hốc mồm kinh ngạc.

    - Lạy Chúa, tại sao bà không làm cho xong nhà bếp? Ngôi nhà như thế này phải có nhà bếp hắn hoi chứ! - Bà ta nhìn người môi giới địa ốc và Fernanda với ánh mắt gay gắt, Fernanda muốn tát tai bà ta, nhưng bà không làm thế.

    - Thường thì như thế đấy - Bà chỉ đáp vắn tắt -Mùa hè năm ngoái chúng tôi có tai nạn xảy ra ở đây.

    - Tai nạn gì thế? - Bà khách lo lắng hỏi, bỗng Fernanda muốn nói cho khách biết đã có hai cảnh sát và hai FBI bị bắn chết trong nhà bếp, nhưng bà cố dằn mình, không nói gì hết.

    - Không có gì nghiêm trọng. Nhưng tôi muốn lột hết đá granit ra - Bà nghĩ thầm: vì mặt đá bị máu vấy bẩn không thể nào tẩy sạch được.

    Mọi người trong nhà vẫn xem việc bắt cóc là chuyện phi thực. Sam kể cho cậu bạn thân ở trường nghe, cậu ta không tin. Còn cô giáo thì cho là Sam bịa đặt, nên dạy cho bé bài học về tội nói láo, khiến cậu bé khóc khi về nhà.

    - Cô ấy không tin con! - Sam phàn nàn với mẹ. Ai mà tin nổi? Ngay bà có lúc cũng không tin. Chuyện quá khủng khiếp đến nỗi bà không ngờ có thực. Mỗi khi nghe đến là bà vẫn còn khiếp sợ đến nỗi phải nghĩ đến chuyện khác.

    Bà đưa các con đến bác sĩ tâm thần chuyên về khoa chấn thương tâm trí. Bà bác sĩ quá ngạc nhiên là họ đã chịu được thảm cảnh này, mặc dù thỉnh thoảng Sam nằm ngủ vẫn còn thấy ác mộng, mẹ cậu cũng thế.

    Ted tiếp tục đến thăm Sam trong tháng Chín để thu thập bằng chứng và lời khai, sang tháng Mười thì ông hoàn tất công việc. Sau đó ông không gọi cho bà, còn Fernanda thường nghĩ đến ông, muốn gọi cho ông. Bà bận việc bán nhà và tìm mua cái khác nhỏ hơn, rồi tìm việc làm nữa. Bà đã gần hết tiền, cố sức giữ bình tĩnh. Nhưng vào lúc đêm khuya, bà không giữ được bình tĩnh, thường có vẻ hốt hoảng và Will thấy mẹ lo sợ. Cậu đề nghị sau khi học xong trung học, cậu sẽ tìm việc làm. Bà muốn cho con vào đại học, may thay, cậu có kết quả học tập ở trung học tốt, nên đủ tiêu chuẩn để vào đại học thuộc hệ đại học California, nhưng bà nghĩ vẫn phải lo chạy tiền để trả tiền ký túc xá cho cậu. Nhiều lúc thật khó tin được chuyện Allan đã từng có hàng trăm triệu đô-la, mặc dù không lâu. Chưa bao giờ bà cùng cực như bây giờ. Tình cảnh này làm bà lo sợ vô cùng.

    Một hôm Jack đưa bà đi ăn trưa, rồi nói với bà về chuyện ấy. Ông nói không muốn đả động đến chuyện này sớm hơn, sợ xúc phạm đến bà vì Allan mới chết, rồi sau đó xảy ra chuyện bắt cóc, mọi người đều đau buồn, hiển nhiên như thế. Nhưng ông nói ông đã nghĩ đến chuyện này nhiều tháng rồi và đã có quyết định. Ông dừng lại một lát, như thể đợi hồi âm, nhưng Fernanda vẫn thản nhiên hỏi ông :

    - Quyết định gì thế?

    -Tôi nghĩ chúng ta có thể thành hôn với nhau. - Bà nhìn ông ta đăm đăm qua bàn ăn, cứ nghĩ là ông đùa, nhưng ông thực sự không đùa.

    - Ông quyết định như thế à? Quyết định mà không hỏi tôi hay nói gì với tôi hết à? Ông không hỏi xem tôi nghĩ sao à?

    - Fernanda, bà sạt nghiệp rồi. Bà không thể cho con bà đi học ở các trường tư được. Will sẽ vào đại học vào mùa thu, mà bà thì không có khả năng kinh doanh buôn bán. - Ông ta nói một cách tự nhiên.

    - Ông đề nghị thuê tôi, hay cưới tôi? - Bà hỏi, bỗng trở nên giận dữ. Ông ta muốn thu xếp đời bà mà không tham khảo ý kiến của bà. Và quan trọng nhất là ông ta không nói đến tình yêu. Đề nghị của ông ta như đề nghị một công việc, không phải đề nghị về hôn nhân, cho nên đã xúc phạm Fernanda. Cách ông ta đưa ra đề nghị có vẻ trịch thượng, chiếu cố.

    - Đừng kỳ cục như thế. Dĩ nhiên tôi đề nghị cưới cô. Vả lại, các cháu đều biết tôi. - Jack nói một cách giận dữ. Đối với ông, như thế là đủ rồi, tình yêu không quan trọng.

    - Vâng... - Bà nghĩ sở dĩ ông ta nói thẳng ra như thế là vì ông ta hiểu lầm bà - ... nhưng tôi không yêu ông. - Thực vậy, lời đề nghị của ông ta không làm bà sung sướng, mà chỉ làm cho bà đau khổ thôi. Bà cảm thấy như ông ta mua chiếc xe cũ, chứ không phải cưới bà vì tình yêu.

    - Chúng ta có thể học cách yêu thương nhau. - Ông ta ngoan cố đáp. Bà thường thích ông ta, bà nghĩ ông là người có trách nhiệm, tận tâm, tốt bụng, nhưng giữa họ không có tình yêu. Bà nghĩ rằng nếu bà lấy chồng lại, bà muốn phải có sự rung động giữa hai người, hay ít ra phải có tình yêu.

    - Tôi nghĩ là rồi chúng ta sẽ có sự cảm thông với nhau. Tôi góa vợ đã nhiều năm, còn Allan thì để lại cho cô nhiều khó khăn. Tôi muốn săn sóc cô và các con cô. - Lời ông ta làm xúc động lòng bà, nhưng không đủ.

    Bà nhìn ông ta thở dài, còn ông ta thì đợi bà trả lời.

    Ông ta thấy không có lý do gì để cho bà có thì giờ suy nghĩ. Ông ta đã đưa ra đề nghị rất tốt và ông ta tin bà sẽ chấp nhận lời đề nghị như một công việc hay một ngôi nhà.

    - Jack, tôi xin lỗi - Bà nói hết sức nhẹ nhàng - Tôi không thể làm thế. - Bây giờ thì bà đã hiểu tại sao ông ta không lấy vợ lại. Nếu ông ta đề nghị như thế, hay nhìn hôn nhân với con mắt thực tiễn như thế, ông ta nên sống với chó thì có lẽ sẽ thanh thản hơn.

    - Tại sao không? - Trông ông ta có vẻ bối rối.

    - Nói ra thì có vẻ điên, nhưng tôi xin thú thật là nếu tôi lấy chồng lại, tôi muốn lấy người tôi yêu.

    - Cô không còn trẻ con nữa, cô phải nghĩ đến trách nhiệm. - Ông muốn bà bán thân làm nô lệ để bà có thể cho Will đi học Harvard. Bà thà cho con đi học trường cao đẳng của thành phố còn hơn. Bà không muốn bán linh hồn cho người mà mình không yêu, dù để nuôi con ăn học - Tôi nghĩ cô nên suy nghĩ lại.

    - Tôi biết anh rất tuyệt vời và tôi thấy mình không xứng với anh. - Bà đáp và đứng dậy. Bà nhận ra bao nhiêu năm làm bạn với nhau và công lao ông ta giải quyết công việc cho họ bây giờ đều đổ xuống sông, xuống biển.

    - Có lẽ đúng như thế - Ông ta nói, giọng nhấn mạnh và bà nghe như tiếng rít bên tai - Nhưng tôi vẫn muốn lấy cô.

    - Còn tôi thì không muốn. - Bà đáp, mắt nhìn ông ta chằm chằm. Trước đây bà không hề nhận thấy ông ta quá ù lì và cố chấp như thế này. Ông ta chỉ quan tâm đến điều ông ta nghĩ chứ không cần để ý đến cảm xúc của bà và có lẽ vì thế mà ông ta không tái hôn. Đưa ra quyết định này, ông ta nghĩ rằng thế nào bà cũng chấp nhận, vì làm sao bà sống hết đời cho thoải mái được. Cách ông ta đề nghị là sự xúc phạm hơn là phần thưởng và thiếu sự tôn trọng bà - Nhân tiện xin báo anh biết, - Bà nói, vừa thả cái khăn ăn xuống ghế vừa quay đầu nhìn ông ta - anh đã bị sa thải, Jack à. - Nói xong, bà bước ra khỏi phòng.


  4. #23
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 22
    Cuối cùng, ngôi nhà được bán vào tháng Mười hai năm đó. Dĩ nhiên nó bán ngay sau lễ Giáng sinh, cho nên họ hưởng một lễ Giáng sinh nữa trong phòng khách, với cây thông Noel dưới ngọn đèn chùm Vienna kỳ diệu. Dù sao thì đây cũng là dịp rất thích hợp cho gia đình bà, nó đã chấm dứt một năm gian khổ. Bà vẫn chưa có việc làm, nhưng đang tìm. Bà muốn tìm việc nào chỉ làm bán thời gian để có thì giờ đi đón Ashley và Sam ở trường. Chừng nào các con bà còn ở nhà, bà còn muốn ở nhà với chúng. Mặc dù bà biết những bà mẹ khác thường thuê người đến chăm sóc trẻ con và để cho các con tự quản trong nhà, nhưng nếu bà có thì giờ thì bà không muốn làm thế. Bà muốn ở với con chừng nào có thể ở được.

    Khi bán nhà xong, bà có nhiều quyết định phải làm. Cặp vợ chồng mua nhà từ New York chuyển đến. Người môi giới địa ốc lén báo cho bà biết ông chồng làm ra rất nhiều tiền. Fernanda gật đầu, nói thế là tốt. Bà nghĩ đến trường hợp của mình trong thời gian trước đây. Năm ngoái, bà đã học được nhiều bài học về giá trị của cuộc đời, bà biết cái gì trên đời này là quan trọng. Sau vụ Sam bị bắt cóc, bà không quan tâm đến việc có nhiều tiền nữa, mà chỉ thấy các con bà mới là thứ quan trọng nhất. Tiền bạc bây giờ đối với bà, dù nhiều hay ít, chỉ dùng vào việc nuôi con thôi, chứ không quan trọng nữa.

    Bà có kế hoạch tháo đồ đạc trong nhà để bán đấu giá. Nhưng người mua lại thích những thứ trong nhà của bà, nên họ trả thêm cho bà một số tiền rất lớn để giữ lại, ngoài số tiền mua nhà. Bà vợ người mua cho rằng bà có khiếu thẩm mỹ rất tuyệt vời, cho nên họ muốn giữ lại những thứ trang hoàng trong nhà để thưởng thức.

    Sang tháng Một thì mấy mẹ con bà sẽ dọn nhà. Ashley khóc, còn Sam có vẻ buồn. Riêng Will thì dạo này giúp mẹ rất nhiều công việc. Cậu mang các thùng đồ đạc sang nhà mới, luôn luôn có mặt với mẹ ở nhà mới. Sau khi bán nhà, bà còn lại một số tiền đủ mua một ngôi nhà nhỏ, rồi thế chấp ngôi nhà để vay một số tiền lớn. Ngôi nhà bà mua nằm ở Marin đúng như điều bà mong muốn. Nhà nằm trong khu Sausalito, trên một ngọn đồi, nhìn thấy cảnh thuyền buồm trên vịnh, đảo Angel và Belvedere. Ngôi nhà ấm cúng dễ chịu, giản dị và xinh xắn. Khi các con bà thấy ngôi nhà, chúng đều thích. Bà quyết định cho Ashley và Sam đi học trường công ở Marin, Will thì còn mấy tháng nữa sẽ tốt nghiệp trung học, nên cậu cố gắng theo học trường cũ thêm một thời gian nữa. Sau khi dọn đến nhà mới được hai tuần, bà xin được việc làm, đó là quản lý phòng trưng bày tranh, nơi làm việc chỉ cách nhà năm phút đi bộ. Hằng ngày bà có thể ra về lúc ba giờ chiều. Lương ít thôi, nhưng công việc có thể lâu dài. Và bà thuê người luật sư khác là một phụ nữ. Việc bà từ chối lời cầu hôn của Jack vẫn còn làm cho ông ta bị xúc phạm nặng nề. Thỉnh thoảng nghĩ đến chuyện đó, bà cảm thấy vừa buồn lại vừa tức cười. Khi Jack đề nghị ông ta có vẻ rất kênh kiệu, tự tin. Trước đó chưa bao giờ bà thấy tính cách đó của ông ta.

    Điều không làm cho bà vui và sẽ không bao giờ, là ký ức về chuyện bắt cóc trong mùa hè vừa qua. Bây giờ bà vẫn còn mơ thấy ác mộng. Chuyện này có vẻ phi thực quá và là một trong những nguyên nhân khiến bà rời khỏi ngôi nhà cũ này không một chút luyến tiếc. Không đêm nào ngủ trong ngôi nhà ấy mà bà không khỏi lo sợ đến việc khủng khiếp sắp xảy ra. Ở Sausalito bà ngủ ngon giấc hơn. Và bà không nghe tin tức gì của Ted từ tháng Chín đến giờ. Đã bốn tháng trôi qua. Đến tháng Ba ông mới gọi cho bà. Phiên tòa sẽ mở xử Stark và Free vào tháng Tư, nó đã bị hoãn lại hai lần, Ted nói lần này sẽ không hoãn thêm nữa.

    Sau khi hỏi thăm sức khỏe của bà, ông nói với vẻ lúng túng :

    - Chúng tôi cần Sam đến làm chứng giữa tòa. - Ông thường nghĩ đến bà luôn, nhưng không gọi, mặc dù Rick Holmquist cứ giục ông gọi mãi.

    - Tôi sợ việc này sẽ làm cho cháu bị tổn hại đến tinh thần. - Ted nói, giọng bình tĩnh.

    - Tôi cũng sợ thế. - Fernanda đồng ý với ông. Bây giờ mỗi lần nghĩ đến ông, bà thấy thật kỳ lạ. Ông đã gắn liền với câu chuyện khủng khiếp vừa qua. Chính vì thế mà ông sợ mỗi lần bà nhớ đến ông là bà lại nghĩ đến chuyện tàn bạo đã xảy ra tại nhà bà, cho nên ông không gọi cho bà là vì thế: Ông biết thế nào ông cũng nhắc bà nhớ lại chuyện bắt cóc, Rick Holmquist nói là ông điên - Cháu nó sẽ quên chuyện ấy thôi. - Bà lại nói đến Sam.

    - Cháu có khỏe không?

    - Rất khỏe. Như là không có gì xảy ra cả. Nó đã đi học trường mới và Ashley cũng thế. Tôi nghĩ, thế tốt cho chúng hơn. Coi như bắt đầu lại.

    - Tôi biết bà có địa chỉ mới.

    - Tôi yêu ngôi nhà mới - Bà đáp và qua giọng nói của bà, ông biết bà đang cười - Tôi làm việc trong phòng triển lãm tranh, đi từ nhà đến chỉ năm phút thôi. Thỉnh thoảng mời ông đến chơi.

    - Vâng, tôi sẽ đến. - Ông hứa, nhưng mãi ba ngày sau trước khi phiên tòa mở ông mới gọi lại. Ông gọi để báo cho bà biết chỗ mở phiên tòa để bà dẫn Sam đến. Khi bà nói với Sam, chú bé khóc.

    - Con không muốn làm việc ấy. Con không muốn thấy bọn chúng lại. - Bà cũng không. Nhưng việc thấy lại bọn chúng đối với chú bé tệ hơn. Bà gọi cho bác sĩ tâm thần, vì đây là việc ảnh hưởng về mặt tinh thần cho chú. Nhưng cuối cùng, Sam nói chú sẽ ra làm chứng và vị bác sĩ tâm thần nghĩ rằng đây là dấu hiệu cho thấy chú bé đã hết sợ. Fernanda cứ sợ việc này sẽ làm cho Sam mơ thấy ác mộng. Chú bé không có gì phải lo hết. Hai tên đã chết, gồm một tên đã giúp chú trốn thoát, còn hai tên kia đã ở tù. Bà cũng có lý do để hết sợ và bà cũng thấy Sam không có gì để sợ nữa. Nhưng đến ngày hẹn, khi xuất hiện với Sam ở pháp đình, bà cũng cảm thấy lo sợ. Hôm ấy, sau bữa ăn sáng, Sam bị đau bụng và bà cũng vậy.

    Ted đứng đợi bà ở ngoài tòa án. Trông ông như lần bà gặp trước đây, vẫn bình tĩnh, ăn mặc đẹp đẽ, chải chuốt, nhanh nhẹn và quan tâm đến sức khỏe của Sam.

    - Sao đấy, khỏe mạnh chứ, phó thẩm sát viên? - Ông cười, nhìn Sam và rõ ràng chú có vẻ đau khổ.

    - Cháu cảm thấy như buồn nôn.

    - Thế thì vớ vẩn quá. Ta nói về chuyện ấy một chút. Tại sao cháu lại có cảm giác như thế?

    - Cháu sợ chúng làm hại cháu. - Sam thẳng thừng nói ra. Có lý do chú bé mới nói thế, vì trước kia chúng đã bắt chú.

    - Tôi sẽ không để việc ấy xảy ra đâu - Ông cởi nút cái áo vét tông, cho hai tà áo rộng ra một chút, và Sam thấy khẩu súng - Thật đấy, vả lại chúng vào tòa án chân tay bị xích hết. Tất cả chúng đều bị trói.

    - Chúng cũng trói cháu. - Sam khổ sở đáp và bật khóc. Ít ra chú đang nói chuyện ấy. Nhưng Fernanda cảm thấy đau đớn và nhìn Ted, trông ông cũng khổ sở như bà. Rồi bỗng ông nảy ra một ý kiến. Ông nói họ qua bên kia đường để kiếm cái gì uống và sẽ đưa Sam trở lại khi nào có thể được.

    Ông dành hai mươi phút để gặp chánh án, gặp luật sư biện hộ, công tố viên và tất cả đều đồng ý với đề nghị của ông. Sam và mẹ cậu sẽ được thẩm vấn tại phòng chánh án, có sự hiện diện của hội thẩm đoàn, nhưng không có các bị cáo. Chú bé sẽ không gặp lại hai tên ấy. Chú có thể nhận diện chúng qua ảnh. Ted nhất quyết nói rằng, nếu Sam ra tòa làm chứng, khi thấy hai tên bắt cóc chú sẽ hoảng sợ, suy sụp tinh thần. Khi ông nói với Sam như thế, chú bé cười, còn Fernanda thì thở phào nhẹ nhõm.

    Ông nói với Sam :

    - Cháu sẽ thích chánh án cho mà xem. Chánh án là phụ nữ, bà rất dễ thương. - Khi Sam bước vào, bà chánh án trông như bà ngoại chú, bà rất nhiệt tình. Trong thời gian nghỉ giải lao, bà cho chú sữa, bánh bích qui và đưa cho chú xem ảnh cháu ngoại của bà. Bà rất có cảm tình với hai mẹ con Sam, vì họ đã tích cực trả lời bà.

    Ban công tổ hỏi chú suốt cả buổi sáng và khi họ hỏi xong, Ted đưa hai mẹ con đi ăn trưa. Luật sư biện hộ sẽ hỏi Sam vào buổi chiều và họ có quyền mang chú trở lại vào bất cứ lúc nào. Chú đã trả lời họ rất rành mạch, Ted không ngạc nhiên về chuyện này.

    Họ đi đến quán ăn nhỏ của người Ý cách pháp đình một đoạn. Họ không có thì giờ để đi xa, nhưng Ted nói rằng cả hai mẹ con cần phải đi khỏi tòa án, để được yên tĩnh mà ăn mì sợi. Sáng hôm ấy thật căng thắng, Sam phải cố nhớ lại những chuyện đã xảy ra và Fernanda lo con bị ức chế. Nhưng chú bé có vẻ bình tình, trả lời những câu hỏi rất tốt.

    - Tôi xin lỗi phải để cho hai mẹ con ra tòa như thế này. - Ted nói khi ông trả tiền hóa đơn. Bà đề nghị trả một nửa, nhưng ông cười, lắc đầu từ chối. Bà mặc áo dài đỏ, mang giày cao gót và ông thấy bà có trang điểm. Ông phân vân không biết phải chăng bà có hẹn gặp Jack, nhưng ông không muốn hỏi. Có thể bà hò hẹn với ai đấy. Ông thấy bà tô điểm nhan sắc, khác xa với hồi tháng Sáu và tháng Bảy. Có công việc để đi làm khiến bà phải trang điểm đôi chút. Ông cũng sắp có thay đổi trong công việc. Ông bèn nói cho bà biết ông sẽ rời khỏi Sở Cảnh sát sau ba mươi năm làm việc.

    - Chà, tại sao thế? - Bà ngạc nhiên, ông là thanh tra cảnh sát, tận tụy, tài giỏi và bà nghĩ là ông yêu thích nghề này.

    - Người đồng nghiệp cũ của tôi, ông Rick Holmquist muốn thành lập một công ty bảo vệ an ninh tư. Điều tra cá nhân, bảo vệ danh tiếng khách hàng, công việc này rất thích hợp với tôi, nhưng anh ấy sẽ làm việc rất nghiêm ngặt. Tôi cũng vậy và anh ấy nói đúng. Sau ba mươi năm trong nghề, có lẽ đã đến lúc phải thay đổi không khí. - Bà còn biết rằng sau ba mươi năm làm việc, ông sẽ có lương hưu một trăm phần trăm mức lương sau cùng. Đấy là một việc rất tốt đẹp. Bà lại còn biết Rick Holmquist là người có đầu óc kinh doanh nữa.

    Chiều hôm đó, luật sư biện hộ muốn đập tơi bời lời khai của Sam, nhưng không làm được. Sam không run sợ, điềm tĩnh và trí nhớ của chú không lẫn lộn. Chú trình bày câu chuyện trước sau như một và đã nhận diện được hai bị cáo khi ban công tố đưa ảnh chúng cho chú xem, Fernanda không nhận diện được những tên bắt cóc con bà vì chứng mang mặt nạ. Nhưng lời khai của bà về cảnh bắt cóc rất xúc động, và bà miêu tả về cảnh bốn người cảnh sát bị chúng giết trong nhà bếp quá khủng khiếp. Cuối cùng, chánh án cám ơn hai mẹ con và để cho họ ra về.

    - Cháu là ngôi sao rồi! - Ted tươi cười nói với Sam khi họ bước ra khỏi pháp đình - Cháu hết đau bụng chưa?

    - Dạ hết rồi. - Sam đáp, vẻ sung sướng. Ngay cả chánh án cũng nói với chú rằng chú đã làm một việc tuyệt vời. Chú vừa lên bảy, Ted nói rằng ngay cả người lớn khi ra làm chứng trước tòa cũng khó khăn.

    - Bây giờ chúng ta đi ăn kem. - Ted đề nghị, ông lái xe theo sau xe của Fernanda. Ông đề nghị đến quảng trường Ghirardelli để vui chơi và Sam rất thích. Ngay cả Fernanda cũng vui. Khi Sam gọi kem mút và Ted gọi nước uống không có còn cho hai người lớn, không khí như đang trong ngày hội.

    Fernanda cười nói :

    - Tôi cảm thấy như mình còn bé được đi dự tiệc sinh nhật.

    Bà rất sung sướng thấy nhiệm vụ của Sam trong tòa án đã hoàn tất. Ted cho biết có lẽ họ không cần chú bé ra làm chứng lần nữa. Lời khai hôm nay của Sam đã làm cho luật sư biện hộ bó tay. Ted nghĩ thế nào hai tên bắt có cũng sẽ bị buộc tội nặng và ông tin chắc dù bà chánh án trông có vẻ như bà ngoại hiền từ, bà cũng sẽ kết tội chúng với án tử hình. Kết án như thế mới đúng công lý. Ted đã nói cho bà biết rằng Phillip Addison sẽ bị đưa ra xử tại một phiên tòa riêng, tòa án liên bang, về tội âm mưu bắt cóc cùng với những tội trạng khác gồm tội trốn thuế, rửa tiền và buôn lậu ma túy. Ông sẽ vắng mặt trong một thời gian dài và tin rằng có lẽ Sam sẽ không ra khai trong vụ án của Addison, ông sẽ đề nghị với Rick, nên dùng lời khai của Sam tại tòa án bang, để tránh cho chú bé gặp phải cảnh lo âu lần nữa. Ông không biết họ có chấp nhận đề nghị này không, nhưng ông sẽ làm bất cứ việc gì có thể làm được để tránh cho Sam khỏi ra trước tòa lần nữa. Và mặc dù Rick đã thôi làm cho cơ quan FBI, Ted biết ông ta sẽ giao vụ án của Addison cho người có khả năng giải quyết và chính bản thân ông ta sẽ ra khai trước tòa. Rick muốn Addison phải ngồi tù rục xương, hay nếu có thể, phải lĩnh án tử hình. Như Ted đã nói, đây là vấn đề quan trọng, ông muốn thấy công lý phải nghiêm minh, Fernanda mừng vì chuyện đó. Những chuyện xấu xa như thế bị đẩy vào quá khứ là điều rất tuyệt vời cho gia đình bà. Không còn cảnh ra tòa lởn vởn trước mắt, cơn ác mộng rồi sẽ chấm dứt.

    Một tháng sau, tòa kết án hai tên ác ôn. Tính từ ngày xảy ra chuyện bắt cóc khủng khiếp cho đến khi ấy là gần đứng một năm. Hôm Fernanda đọc báo có bài viết về bản án hai tên này, thì Ted gọi đến cho bà. Bản án kết tội Malcolm Stark và Jim Free án tử hình, vì tội phạm của chúng quá đã man. Bà không biết khi nào chúng sẽ bị hành quyết, hay không biết chúng có bị hành quyết hay không, vì chúng có thể gửi đơn kháng án, nhưng bà tin chắc thế nào chúng cũng sẽ bị hành quyết. Phillip Addison chưa ra tòa, nhưng y bị bắt giam và các luật sư của y đang ra sức để trì hoãn phiên tòa. Nhưng Fernanda nghĩ rằng sớm hay muộn, y cũng bị kết tội. Trong vụ hai tên bắt cóc kia, luật pháp đã làm việc rất nghiêm minh và điều quan trọng hơn hết là Sam khỏe mạnh.

    - Bà đã xem bản án trên báo chưa? - Ted hỏi qua điện thoại. Ông có vẻ đang hưng phấn mặc dù ông nói bận việc. Ông đã thôi làm việc cho Sở Cảnh sát và trong tuần qua, liên tục dự tiệc chiêu đãi ông về hưu.

    - Rồi, tôi xem rồi - Fernanda đáp - Tôi không thích án tử hình. - Đối với bà, án tử hình không nên có, bà là người có đạo, nên bà nghĩ không ai có quyền lấy đi mạng sống của người khác. Nhưng chín người đã bị giết và một đứa bé bị bắt cóc. Vì vụ này có liên quan đến con bà, nên đây là lần đầu tiên bà nghĩ bản án này chính đáng - Nhưng lần này tôi hài lòng, - Bà xác nhận với ông - Tôi nghĩ nếu ông lâm vào hoàn cảnh của tôi, chắc ông cũng nghĩ như tôi thôi. - Nhưng bà cũng nghĩ rằng nếu chúng giết con bà, thì dù kết án chúng tử hình cũng chẳng đem con bà trở về hay đền bù được sự mất mát lớn lao này. Bà và Sam đã rất may mắn. Ted cũng nghĩ thế. Dù sao, hai mẹ con đã rất may mắn, ông mừng vì chúng chưa giết Sam.

    Rồi bỗng bà nghĩ đến điều bà đã nói với ông từ lâu.

    - Khi nào ông đến ăn tối với chúng tôi? - Bà mang ơn ông rất nhiều, bữa ăn tối là cách bà trả ơn tối thiểu nhất. Nhiều tháng nay bà không gặp ông, nhưng họ vẫn biết cuộc sống của nhau bình thường, không có gì khó khăn. Bà hy vọng sẽ không cần đến sự giúp đỡ của ông hay cần người nào như ông giúp đỡ nữa, nhưng nhìn chung bà rất mến ông, xem ông như một người bạn.

    - Tôi gọi bà cũng vì lý do ấy đấy. Tôi muốn hỏi bà tôi đến chơi có được không. Tôi có món quà muốn tặng Sam.

    - Cháu sẽ rất sung sướng được gặp ông. - Bà cười và xem đồng hồ, bà phải đi làm việc - Ngày mai ông đến được không?

    - Quá được. - Ông cười, ghi vội địa chỉ của bà lên giấy - Mấy giờ?

    - Khoảng bảy giờ nhé?

    Ông bằng lòng rồi cúp máy. Ông đang ngồi trong văn phòng mới, nhìn ra ngoài cửa sổ, suy nghĩ một hồi lâu. Thật không ngờ ông quen bà đã một năm nay. Khi ông đọc lời cáo phó mới đây của chánh án McIntyre, ông lại nghĩ đến chuyện gặp gỡ này. Ông chánh án đã may mắn thoát chết cách đây một năm, bây giờ ông ấy chết vì tuổi già.

    - Anh đang mơ màng về chuyện gì đấy? Anh không có việc làm hay sao? - Rick xuất hiện nơi ngưỡng cửa văn phòng của Ted và hỏi bạn. Công việc mới của họ đã bắt đầu và đang tiến hành, họ làm rất tốt. Nhiều nơi đã thuê họ làm và Ted đã nói với người cảnh sát đồng nghiệp cũ của minh, Jeff Stone, trong tuần trước rằng chưa bao giờ ông thấy vui trong công việc như bây giờ, ngoài sự mong chờ của mình. Và ông thích làm việc lại với Rick. Công việc bảo vệ an ninh mà họ đang làm này quả là một sáng kiến tuyệt vời.

    - Đừng nói tôi mơ mộng tào lao, ông mật vụ. Hôm qua anh đã đi ăn trưa ba giờ đồng hồ. Nếu anh tái phạm tôi sẽ cắt lương anh đấy. - Rick cười lớn. Ông đi chơi với Peg. Họ sẽ cưới nhau trong vài tuần nữa. Mọi việc đều rất tuyệt đối với họ và Ted sẽ làm phù rể cho ông. - Và đừng nghĩ anh sẽ được hưởng lương trong thời gian nghỉ trăng mật đấy nhé. Ở đây chúng ta làm việc nghiêm túc. Nếu anh muốn lấy vợ rồi dắt nhau đi Ý chơi, thì cứ xuất tiền lương ra mà đi.

    Rick cười toe toét, đi vào phòng Ted, rồi ngồi xuống. Nhiều năm nay ông không được hạnh phúc như thế này. Ông khổ sở, mệt mỏi khi làm cho cơ quan FBI, ông thích làm việc của mình hơn.

    - Anh đang nghĩ đến chuyện gì đấy? - Rick nhìn bạn. Ông biết có gì đấy làm cho Ted bận tâm.

    - Tối mai tôi sẽ đến ăn tối với gia đình Barnes ở Sausalito. Họ đã dọn đến đấy.

    - Tuyệt! Tôi xin phép được hỏi anh câu hỏi vô duyên được không? Anh định làm gì, thanh tra Lee? - Rick nhìn Ted, mắt ông nghiêm hơn lời ông hỏi. Ông biết Ted đang nghĩ đến chuyện gì, hay ông đoán thế. Điều ông băn khoăn là bạn sẽ thực hiện việc đó như thế nào thôi. Nhưng Ted cũng không biết phải làm như thế nào.

    - Tôi chỉ muốn đến thăm mấy đứa nhỏ.

    - Thế thì vớ vẩn thật. - Rick có vẻ thất vọng, ông hạnh phúc với Peg, ông muốn mọi người cũng hạnh phúc như ông - Tôi thấy tiếc khi để mất một người đàn bà tuyệt vời như vậy.

    - Phải, bà ấy là người tuyệt vời - Ted đáp. Nhưng có nhiều vấn đề mà ông không thể hòa giải được và có lẽ sẽ không bao giờ làm được - Tôi nghĩ có lẽ bà ấy đã hẹn hò với ai đấy, hôm ra tòa, trông bà ấy rất đẹp.

    - Có lẽ bà ấy làm đẹp như thế là vì anh. - Rick nói và Ted cười.

    - Ý kiến của anh thật ngốc!

    - Anh cũng vậy. Thỉnh thoảng anh làm cho tôi nổi điên. Thật ra thì lúc nào anh cũng làm cho tôi điên. - Rick đứng dậy đi ra khỏi phòng của Ted. Ông biết người bạn này rất bướng bỉnh không thể thuyết phục được.

    Hai ngườỉ bận bịu công việc suốt cả buổi chiều. Đêm đó Ted làm việc trễ như mọi lần.

    Ngày hôm sau Rick có việc đi ra ngoài gần hết ngày, đến tối ông mới thấy bạn, khi Ted sắp đi đến Sausalito, đi thẳng từ văn phòng, tay cầm gói quà nhỏ.

    - Cái gì thế? - Rick hỏi.

    - Không việc gì đến anh. - Ted vui vẻ đáp.

    - Tuyệt đấy. - Rick cười. Ted đi qua ông rồi ra ngoài.

    - Chúc may mắn - Rick nói theo. Ted vừa cười vừa đóng cửa lại. Khi Ted đi rồi, Rick đứng nhìn cánh cửa một lát, hy vọng đêm nay mọi việc êm chèo mát mái cho bạn. Đã đến lúc chuyện tốt lành phải xảy đến cho bạn ông. Ông ấy đã chờ đợi quá lâu rồi.


  5. #24
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 23
    Fernanda đang mang tạp dề nấu nướng trong bếp khi bà nghe chuông cửa reo, bèn nhờ Ashley ra mở cửa. Thấy cô gái, Ted giật mình ngạc nhiên, vì trong năm qua cô gái cao lên gần cả tấc. Với tuổi mười ba, trông cô không còn con nít mà như một phụ nữ rồi. Cô mặc chiếc váy bằng vải bông dệt chéo, đi đôi xăng-đan của mẹ, mặc áo thun, trông cô rất xinh và giống Fernanda như đúc. Hai mẹ con có nét mặt giống nhau, có nụ cười giống nhau, vóc dáng như nhau mặc dù bây giờ cô đã cao hơn mẹ và có mái tóc vàng thẳng dài như mẹ.

    - Chào Ashley, cháu khỏe chứ? - Ted vừa đi vào vừa hỏi. Ông rất thích con của Fernanda. Chúng lễ phép, có tư cách, nhiệt tình, thân ái, thông minh và vui vẻ. Nhìn chúng, đủ biết bà đã dành nhiều thì giờ để chăm sóc con và rất mực yêu thương chúng.

    Khi ông vào nhà, Fernanda từ trong bếp đi ra, mời ông ly rượu vang, nhưng ông từ chối. Ông không uống rượu nhiều, ngay cả khi không làm việc như bây giờ cũng vậy, Fernanda bèn trở vào bếp lại và khi ấy Will đi đến, cậu có vẻ rất mừng khi gặp Ted. Hai người bắt tay nhau. Cậu tươi cười cùng ngồi xuống ghế nói chuyện về công việc mới của Ted. Họ nói chuyện chừng vài phút thì Sam đi vào phòng. Chú bé cười toe toét với Ted, mái tóc đỏ nhạt làm cho chú có vẻ đặc biệt, khác người.

    - Mẹ nói ông sẽ mang quà đến cho cháu. Vậy ông có mang theo đấy không? - Chú bé hỏi vừa khi mẹ chú từ bếp đi đến, khiến bà phải mắng chú.

    - Sam, con mất lịch sự quá!

    - Mẹ có nói ông ấy sẽ tặng con... - Chú bé cãi lại mẹ.

    - Đúng thế, nhưng nếu ông ấy đổi ý hay quên mang đến thì sao? Con sẽ làm cho ông ấy lúng túng.

    - Ồ! - Sam có vẻ mất hứng vì bị mẹ chỉnh, nhưng ngay khi ấy Ted đưa cho chú gói quà ông mang theo từ phòng làm việc. Gói quà nhỏ, vuông vức, có vẻ rất bí mật với Sam. Chú bé cười rạng rỡ khi nhận gói quà - Cháu mở bây giờ được không?

    - Được, tùy cháu. - Ông cảm thấy ân hận vì không có quà tặng những người khác, nhưng ông nghĩ đây là món quà ông dành riêng tặng Sam sau vụ ra tòa làm chứng. Món quà rất có ý nghĩa cho ông và cũng cho Sam nữa.

    Sam liền mở hộp, trong hộp có cái bao da nhỏ, đấy là cái bao cũ đựng món quà mà Ted đã có ba mươi năm rồi. Khi Sam mở cái bao ra, chú nhìn vào món quà rồi nhìn Ted đăm đăm. Đấy là ngôi sao mà ông đã mang suốt ba mươi năm nay, trên ngôi sao có số của ông. Ngôi sao có rất nhiều ý nghĩa đối với ông và cả Sam lẫn mẹ cậu đều sửng sốt trước món quà.

    - Đấy là ngôi sao của ông thật à? - Sam nhìn ngôi sao rồi nhìn Ted với ánh mắt kinh ngạc. Chỉ cần nhìn chú bé cũng đã biết ngôi sao là của Ted. Ngôi sao đã mòn và Ted đánh bóng để tặng chú, ngôi sao nằm lóng lánh trong tay Sam.

    - Phải, của tôi. Bây giờ tôi về hưu rồi, nên không cần nó nữa. Nhưng nó rất quý đối với tôi. Tôi muốn cháu giữ nó. Bây giờ cháu không còn là phó thẩm sát viên nữa, mà là thanh tra cảnh sát thật sự. Sau một năm mà thăng chức như thế là quá nhanh. - Bây giờ đúng một năm sau ngày họ gặp nhau và ông “phong chức phó thẩm sát viên” cho chú, sau vụ xe bom nổ.

    - Cháu mang được không?

    - Dĩ nhiên. - Ted cài ngôi sao lên áo cho Sam. Chú chạy đến soi gương, Fernanda nhìn Ted với ánh mắt biết ơn.

    - Món quà thật quá tuyệt vời. - Bà nói nho nhỏ.

    - Sam xứng đáng với món quà ấy. - Mọi người đều biết vì sao chú bé xứng đáng. Fernanda gật đầu và Ted nhìn chú bé nhảy nhót quanh phòng với ngôi sao đeo trên ngực.

    - Tôi là thanh tra cảnh sát! - Chú bé reo to. Bỗng chú quay nhìn Ted và hăm hở hỏi - Cháu có thể bắt người được không?

    - Tôi không biết cháu muốn bắt ai - Ted cười như muốn cảnh cáo chú - Tôi không muốn cháu bắt người lớn nào làm cho cháu phật ý. - Ted tin thế nào Fernanda cũng cất ngôi sao đi cùng với những thứ quan trọng khác, như đồng hồ và nút áo măng sét của bố cậu. Nhưng ông nghĩ thế nào thỉnh thoảng Sam cũng muốn lấy ra xem. Con trai đứa nào cũng thế.

    - Cháu sẽ bắt hết bạn của cháu - Sam đáp với vẻ tự hào - Mẹ, con đem theo ngôi sao đến trường để cho chúng xem và nói thế được không? - Chú bé rất hưng phấn không thể chịu nổi và Ted có vẻ rất sung sướng. Ông đã làm một việc đáng làm.

    - Mẹ sẽ đem đến trường cho con - Mẹ chú đáp - Và sau khi đã cho chúng xem, mẹ sẽ đem về nhà. Con chắc không muốn để mất ngôi sao hay bị trầy xước ở trường. Đây là món quà rất đặc biệt.

    - Con biết. - Sam nói, trông mặt chú lại buồn xo.

    Mấy phút sau, họ ngồi vào bàn ăn. Bà đã làm món thịt bò rôti, bánh pút đinh Yorkshire, khoai nghiền, rau và bánh kem sô-cô-la cùng kem lạnh để ăn trắng miệng. Các con bà rất ấn tượng khi thấy mẹ làm bữa ăn thịnh soạn và Ted cũng vậy. Bữa ăn rất tuyệt. Sau khi ăn xong, các con bà rút hết lên phòng, còn lại hai người ngồi nói chuyện. Chỉ còn mấy tuần nữa là nhà trường nghỉ hè và tuần sau thì Will sẽ thi tốt nghiệp, nên cậu phải học để chuẩn bị thi. Sam đem theo ngôi sao lên phòng xem, còn Ashley chạy nhanh lên phòng để gọi điện thoại cho bạn.

    - Bữa ăn thật ngon, từ lâu tôi không được ăn bữa ăn nào ngon như thế này. Cám ơn bà. - Ông nói, cảm thấy như thể không nhúc nhích được. Bây giờ hầu như đêm nào ông cũng làm việc trễ, đi đến phòng tập thể dục và khi về đến nhà thì đã gần nửa đêm. Hiếm khi ông ghé vào quán để ăn. Thỉnh thoảng ông đi ăn tiệm vào ban ngày - Từ lâu tôi không được ăn cơm nấu ở nhà. Shirley rất ghét nấu nướng, bà ấy thích lấy thức ăn nấu sẵn ở tiệm của bố mẹ bà để đem về ăn. Thậm chí bà ấy cũng không nấu cho các con, mà chỉ thích dẫn chúng đi ăn ngoài.

    - Vợ ông không nấu cho ông ăn à? - Fernanda có vẻ ngạc nhiên, rồi bỗng nhiên bà chú ý đến trên tay ông không có chiếc nhẫn cưới. Năm ngoái, trong thời gian Sam bị bắt cóc, bà có thấy ông đeo nhẫn, còn bây giờ thì không.

    - Không nấu ăn - Ông đáp, rồi thấy cần phải giải thích cho rõ việc này - Chúng tôi đã chia tay nhau sau lễ Giáng sinh. Tôi nghĩ đáng ra chúng tôi nên chia tay nhau từ lâu rồi, nhưng chuyện ấy khó nói quá. - Họ chia tay nhau đã năm tháng và ông chưa đi chơi với người đàn bà nào khác. Dù sao, ông vẫn còn cảm thấy mình là chồng bà ấy.

    - Có chuyện gì đặc biệt xảy ra à? - Fernanda có vẻ thương xót cho ông. Bà nghĩ là ông rất trung thành với vợ và mặc dù ông đã xác nhận rằng tình hình giữa hai vợ chồng không được yên ổn, tốt đẹp và nói rằng mặc dù hai người rất khác nhau, nhưng ông rất trọng hôn nhân.

    - Có mà không. Vào tuần lễ trước Giáng sinh, bà ấy nói với tôi rằng bà ấy sẽ đi châu Âu với một nhóm bạn gái vào dịp nghỉ lễ cho đến hết năm mới. Bà ấy không thấy làm thế tôi sẽ rất buồn. Bà ấy nghĩ tôi ngăn cản việc vui chơi của bà ấy, còn tôi thì nghĩ bà ấy nên ở nhà với chồng con. Bà ấy nói bà ấy đã làm thế gần ba mươi năm rồi, bây giờ đã đến lúc bà ấy nghỉ ngơi. Tôi nghĩ bà ấy nói cũng có lý. Bà ấy đã làm việc cật lực, dành dụm tiền bạc. Rõ ràng bà ấy đã vui chơi thoải mái. Tôi mừng cho bà ấy. Nhưng tôi thấy rằng chúng tôi không có thời gian bên nhau nhiều. Chúng tôi không tâm đầu ý hợp lâu rồi, nhưng tôi nghĩ dù sao chúng tôi cũng nên duy trì hôn nhân. Khi các con tôi còn nhỏ, tôi nghĩ ly dị nhau là điều không phải đạo. Nhưng trong khi bà ấy đi khỏi nhà, tôi đã suy nghĩ đến chuyện này và khi bà ấy về tôi hỏi bà ấy nghĩ sao về việc ly dị. Bà ấy nói bà ấy muốn chia tay nhau lâu rồi, nhưng ngại không nói với tôi. Bà ấy không muốn chạm đến tình cảm của tôi và cũng chính vì lý do e ngại đó mà chúng tôi duy trì hôn nhân lâu như vậy.

    - Sau khi chúng tôi chia tay nhau được khoảng ba tuần, thì bà ấy gặp người khác. Tôi cho bà ấy ngôi nhà, còn tôi mua căn hộ ở dưới phố gần cơ quan. Phải cần một thời gian mới quen, nhưng ổn hết. Tôi ước chi chia tay với bà ấy sớm hơn. Bây giờ thì hơi già, đi cặp bồ với người khác cũng khó khăn. - Ông vừa đúng bốn mươi tám tuổi. Fernanda đến hè này thì được bốn mươi mốt và bà cũng cảm thấy như thế - Còn bà thì sao, bà sẽ đi chơi với ông luật sư của bà phải không? - Từ năm ngoái, ông tin chắc ông luật sư đã có ý ấy và ông ta chỉ đợi đến lúc Fernanda nguôi nỗi buồn góa phụ thì tấn công, nhưng rồi lại xảy ra vụ bắt cóc, Ted tin mình không nghĩ sai.

    - Jack ư? - Bà cười và lắc đầu - Cái gì làm cho ông có ý nghĩ như thế? - Ông là người rất tinh tế. Nhưng nghề của ông là nghề quan sát con người.

    - Tôi nghĩ là ông ấy để ý đến bà. - Ted nhún vai, nghĩ rằng có lẽ mình đã xét đoán sai lầm, vì bà phản ứng khi nghe ông nói.

    - Đúng thế. Ông ta nghĩ rằng tôi nên lấy ông ta để nuôi con, vì ông ta có thể giúp tôi trả các chi phí của các cháu. Ông ta nói ông ta đã có “quyết định” về việc này và đây là quyết định đúng đắn cho tôi nên theo, vì các con tôi. Điều khó khăn duy nhất là ông ta quên hỏi ý kiến của tôi về quyết định này và tôi không bằng lòng với ông ta.

    - Tại sao không? - Ted ngạc nhiên hỏi. Jack lanh lợi, thành công và đẹp trai. Ted thấy ông ta hoàn toàn thích hợp cho bà, thế mà bà lại không ưng thuận.

    - Tôi không yêu ông ta. - Bà đáp với lý do rất rõ ràng. Bà cười với ông - Tôi cũng sa thải ông ta luôn, ông ta không còn là luật sư của tôi nữa.

    - Tội nghiệp ông ta. - Ted không thể không cười trước hình ảnh mà bà đã vẽ ra, vừa từ chối lời đề nghị của ông ta, vừa sa thải ông ta trong cùng ngày - Thế thì vớ vẩn thật. Ông ta có vẻ dễ thương.

    - Vậy thì ông lấy ông ta đi. Tôi không muốn lấy ông ta. Tôi thà sống với con còn hơn lấy ông ta. - Quả thật bà muốn vậy. Bây giờ chỉ nhìn bà thôi, Ted cũng đã nghĩ như thế. Ông không biết nói gì với bà tiếp theo. - Thế ông đã ly dị rồi à? Hay chỉ ly thân thôi? - Ly dị hay ly thân không thành vấn đề. Bà chỉ ngạc nhiên không biết ông thật tình muốn chia tay với Shirley hay không. Thật khó tin chuyện ông đã chia tay vợ và chính ông cũng thế.

    - Giấy ly hôn trong sáu tuần nữa sẽ có - Ông đáp, giọng có vẻ buồn. Sau hai mươi chín năm lấy nhau, bây giờ chia tay làm sao không buồn được. Dĩ nhiên ông sẽ quen, nhưng đây là sự thay đổi lớn đối với ông - Có lẽ thỉnh thoảng chúng ta nên đi xem xinê - Ông thận trọng nói. Bà cười, có vẻ như họ đang bắt đầu thay đổi mối quan hệ sau những ngày ở bên nhau, sau những đêm ngủ trên nền nhà và khi đội đặc nhiệm đem Sam về, ông ở bên cạnh bà, nắm tay bà.

    - Tôi thích vậy. Chúng tôi không gặp ông đã lâu rồi. - Bà nói, vẻ thành thật. Bà buồn khi không nghe ông gọi đến.

    - Sau những chuyện xảy ra, tôi cứ sợ thấy tôi, bà và các cháu sẽ đau đớn khi nhớ lại chuyện cũ.

    Bà lắc đầu.

    - Ted, anh không làm cho chúng tôi khổ sở vì chuyện đã xảy ra đâu. Anh là người rất tốt; trong việc cứu sống Sam kia mà. - Bà lại cười, xúc động trước sự lo sợ của ông. Ông rất tốt với mấy mẹ con bà - Sam thích ngôi sao của anh.

    - Tôi rất sung sướng. Tôi định sẽ cho một trong số các con trai tôi ngôi sao ấy, nhưng rồi tôi quyết định cho Sam. Sam đáng được nhận món quà ấy.

    Bà gật đầu.

    - Vâng, nó đáng được như vậy. - Khi nói câu ấy, bà nhớ lại thời gian trong năm qua, nhớ lại những gì họ đã nói với nhau, nhớ lại những gì tuy không nói ra nhưng cả hai đều nghĩ đến, đều cùng nhìn về một hướng. Hai người thông cảm, gắn bó với nhau, chỉ có một điều duy nhất ngăn họ tiến xa hơn là việc ông trung thành với cuộc hôn nhân èo uột của mình và chính vì thế mà bà kính trọng ông. Bây giờ họ có vẻ đang bước sang một giai đoạn mới. Ông nhìn bà và bỗng nhiên cả hai người quên những gì trong năm qua. Những chuyện trong quá khứ như tan biến đâu mất và ông không nói một tiếng, nghiêng người qua phía bà, hôn bà. Hai người đang ngồi nơi bàn ăn.

    - Anh rất nhớ em. - Ông thì thào nói và bà gật đầu, cười với ông.

    - Em cũng thế. Em rất buồn vì anh không gọi đến. Em tưởng anh quên mẹ con em rồi. - Hai người nói nho nhỏ với nhau để khỏi có ai nghe. Ngôi nhà nhỏ, các con bà ở đấy, rất gần họ.

    - Làm sao anh có thể quên được... anh thật ngu ngốc. - Ông nói và hôn bà lại. Ông rất muốn hôn bà và bây giờ ông không đợi lâu hơn nữa. Ông không gọi cho bà đã mấy tháng, vì cứ nghĩ mình không xứng với bà, hay không giàu có đủ để lo cho bà. Bây giờ ông nhận thấy đáng ra phải biết bà nhiều hơn. Bà không phải là loại người ham gỉàu và từ khi xảy ra vụ bắt cóc, ông biết ông yêu bà và bà cũng đã yêu ông. Đây là sự kỳ diệu mà bà đã nói với Jack, bà nghĩ ông ta không hiểu được điều này. Chính điều này mới là quà tặng chính đáng của Chúa chứ không phải thứ kia... nhưng bà tạm thời tin như thế để xoa dịu vết thương lòng do sự mất mát, hoảng sợ, bi kịch gây ra. Đây mới đúng là món quà hạnh phúc hai người đã mơ ước mà họ không có từ lâu.

    Họ ngồi hôn nhau nơi bàn ăn, rồi ông giúp bà dọn bàn, theo bà vào bếp, rồi hôn bà lại. Ông đang đứng ôm hôn bà trong tay thì bỗng cả hai giật mình, nhích ra một chút, vì khi ấy Sam chạy vào phòng và nói lớn :

    - Ông bị bắt! - Chú bé chỉ ngón tay về phía hai người như chĩa súng vào họ, nó làm như thật.

    - Vì tội gì? - Ted quay nhìn chú, miệng cười toe toét. Sam đã làm cho ông gần đứng tim, còn Fernanda thì cười như trẻ con, vẻ bối rối.

    - Vì tội hôn mẹ cháu! - Sam đáp, miệng cũng cười toe toét, rồi hạ “khẩu súng tưởng tượng” xuống. Ted cười với chú bé.

    - Có luật cấm việc ấy à? - Ted hỏi. Ông kéo Sam vào với họ, ôm ghì chú làm thành nhóm ba người.

    - Không. Chú yêu mẹ cháu đi. - Sam nói một cách tự nhiên, vùng ra khỏi vòng tay của họ. Chú bé thấy bối rối khi cùng đứng với hai người - Cháu biết mẹ cháu thích chú. Mẹ cháu nói mẹ cháu nhớ chú. Cháu cũng nhớ. - Nói xong chú bé chạy ra khỏi nhà bếp, đi báo cho chị biết chú đã thấy Ted hôn mẹ.

    - Thế là chính thức rồi. - Ted quàng tay ôm bà với vẻ sung sướng - Cháu nói anh cứ yêu em. Anh yêu em ngay bây giờ được không, hay phải đợi một thời gian nữa?

    - Anh có thể yêu em ngay bây giờ. - Bà đáp. Ông thích câu trả lời của bà.

    - Có thể em sẽ chán anh. - Shirley đã chán ông, khiến ông mất niềm tin vào tình yêu, thật đau đớn khi bị người mình tận tình chăm sóc không yêu thương. Nhưng Fernanda là người khác xa với Shirley và Rick đã nói đúng, ông và Fernanda sẽ hợp nhau, chứ không phải như ông với Shirley trước đây.

    - Em sẽ không chán anh. - Bà bình tĩnh đáp. Trong những tuần trước đây, bà chưa bao giờ cảm thấy thoải mái với ai như khi ở với ông, mặc dù bà đang ở trong tình trạng đau đớn. Chính đây là cách tuyệt vời nhất để hiểu được lòng người. Họ chỉ còn đợi thời gian đến nữa thôi và bây giờ thời gian đã đến.

    Ông đứng ngoài hành lang, chúc bà ngủ ngon, rồi hứa hôm sau sẽ gọi cho bà. Bây giờ mọi chuyện đã thay đổi, ông đã có cuộc sống bình thường. Nếu muốn, ông có thể rời khỏi văn phòng để về nhà vào buổi tối. Sẽ không có lịch làm việc bất thường, cũng không có ca đêm. Ông đang chuẩn bị hôn từ biệt bà thì Ashley bước tới, nhìn hai người bằng ánh mắt thấu hiểu, nhưng cô bé có vẻ bằng lòng. Cô hoàn toàn vui vẻ khi thấy hai người đứng ôm nhau và Ted rất sung sướng. Đây là người đàn bà ông chờ mong, là gia đình ông thiếu vắng từ khi các con ông khôn lớn, là chú bé ông cứu sống và thương yêu, là người phụ nữ ông cần. Ông là điều kỳ diệu mà bà mơ ước và nghĩ rằng bà sẽ không tìm lại được.

    Ông hôn bà lần cuối rồi đi vội ra xe, đưa tay vẫy chào bà lần cuối cùng. Bà đứng nơi ngưỡng cửa, mỉm cười nhìn ông lái xe đi.

    Khi ông đi được nửa đường, đang qua cầu, thì điện thoại di động reo. Ông tưởng Fernanda gọi, nhưng không phải, chính Rick gọi.

    - Sao? Chuyện xảy ra như thế nào? Tôi không chịu được sự căng thẳng.

    - Không dính dáng gì đến anh, - Ted đáp, miệng cười. Ông cảm thấy mình như con nít, nhất là khi nói chuyện với Rick. Nói chuyện với Fernanda, ông cảm thấy mình là người lớn.

    - Phải, đúng thế. - Rick đáp - Tôi muốn anh được sung sướng.

    - Tôi đang sung sướng đây.

    - Thật không? - Rick có vẻ ngạc nhiên.

    - Thật. Anh nói đúng. Chuyện gì cũng đúng.

    - Trời đất! Thế thì tuyệt quá, tôi rất mừng. Thế là rất tốt cho anh, ông bạn ạ. Thật là đúng lúc, quá tuyệt. - Rick thốt lên mừng cho bạn.

    - Đúng thế - Ted đáp - Rất đúng lúc. - Nói xong, ông tắt máy, mỉm cười một mình khi xe đi qua cầu.

    Hết

  6. #25
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 6

    CUỘC TỈNH THỨC VĨ ĐẠI
    Và đây là đoạn cuối của biến cố phi thường này, có tầm quan trọng bao trùm, chẳng những đến đời sống cá nhân của chúng tôi, mà còn đến lịch sử toàn nhân loại. Cũng như tôi đã nói ở đầu thiên ký sự này, khi biến cố lịch sử này được ghi lại, nó sẽ nổi bật lên như một ngọn núi cao ngất giữa những quả đồi thấp lè tè. Thế hệ chúng ta đă có may mắn đặc biệt, được trải qua biến cố ly kỳ này. Hậu quả của nó - qua vụ kinh hoàng này, con người sẽ còn biết khiêm nhường, tôn kính được bao lâu nữa - chỉ có thời gian mới trả lời được. Có thể nói mọi sự sẽ không còn như trước nữa.

    Chưa bao giờ con người cảm thấy được mình bất lực và dốt nát đến như vậy, chưa bao giờ con người cảm thấy được luôn có một bàn tay nâng đỡ họ, chỉ khi bàn tay đó như muốn nắm lại, bóp nát họ, họ mới thấy. Cái chết luôn rình rập chúng ta và đến với chúng ta bất cứ lúc nào. Chính cái bóng tử thần luôn lảng vảng, khiến ta có ý thức bổn phận, biết điều độ chừng mực và lẽ sống ở trên đời, có ý thức tu thân và thăng tiến. Chính công việc sinh tử của Nam Tào, Bắc Đẩu mới làm cho xã hội loài người văn minh công bằng hơn.

    Sự thực này cao hơn mọi tôn giáo, mọi triết thuyết. Nó làm thay đổi nhân sinh quan của chúng ta, mức trung dung quân bình của ta. Nó chứng minh rô ràng chúng ta chả là gì, một sinh vật phù du sinh ký tử quy, luôn sống trong bể khổ và do thiên lý định đoạt.

    Nếu ai cũng hiểu được điều này nghiêm túc hơn; thớt chắc chắn thế giới ta đang sống sẽ dễ chịu hơn. Ai cũng đă thấy rằng các cuộc vui giải trí điều độ hơn, tự chế hơn của chúng ta ngày nay, có chiều sâu và ý nhị hơn những cuộc vui ồn ào của một thời gần đây. Họ sống vất vả nhưng trống rỗng, trong những buổi ghé thăm nhau chẳng có mục đích gì làm khổ nhau phải tiếp, trong những bữa tiệc cầu kỳ và kiểu cách rất nhàm chán. Bây giờ ta đă biết tìm những thú vui lành mạnh và thoải mái trong thú đọc sách, nghe nhạc, lâu lâu nghé thăm thân tộc, bạn bè. Càng vui vẻ khỏe mạnh, ta lại càng làm giàu nhanh, dù ta có phải đóng thuế nhiều hơn, nhưng chính phủ đã dùng để tăng mức sống chung của dân đảo quốc này.

    Người ta vẫn chưa thống nhất được thời điểm mọi người hồi sinh. Nhưng mọi người đều đồng ý là, ngoài việc các đồng hồ chỉ giờ khác nhau, đặc tính của mỗi địa phương có ảnh hưởng đến tác dụng của ether độc. Nghĩa là ở mỗi khu, người ta tỉnh thức cùng một lúc. Nhiều người nhìn thấy Big Ben trên khắp London lúc đó chỉ 6 giờ 10. Nhà thiên văn Hoàng Gia đặt lại giờ kinh tuyến gốc Greenwich lúc 6 giờ 12. Mặt khác, Laird Johnson, một nhà thiên văn tiếng tăm ở East Anglia, ghi nhận lúc mọi người tỉnh dậy là 6 giờ 20. Ở đảo Hebrides, thức tỉnh muộn hơn: 7 giờ 00. Phần chúng tôi, ngồi trong phòng làm việc của Challenger, cái đồng hồ đo giờ thí nghiệm rất chính xác nằm ngay trước mặt tôi. Lúc đó là 6 giờ 15.

    Tâm trạng chán nản đang đè nặng tâm hồn tôi. Ấn tượng chồng chất do các cảnh hãi hùng tôi thấy trong chuyến đi vào London ám ảnh tôi. Tôi khỏe như vâm, thân thể tràn đầy sức sống, thế mà tôi lại lạc vào cơn lạc thần này, đầu óc cứ mụ ra. Tôi có khả năng của dân lreland, có thể nhìn ra những nét hài hước trong bất cứ hoàn cảnh đen tối nào. Cơn hôn ám chụp lấy tôi không lơi lỏng khiến tôi phát hoảng. Tôi ngồi cạnh cửa sổ, hai tay đỡ cằm, chìm đắm trong hoàn cảnh khốn khổ của chúng tôi, trong khi mọi người đang ở tầng dưới bàn chương trình tương lai. Đầu tiên tôi tự hỏi chúng tôi có nên tiếp tục sống lạc loài không? Chúng tôi có thể sinh tồn trong một thế giới chết không. Như trong vật lý, vật thể lớn bao giờ cũng hút vật nhỏ về phía mình, liệu chúng tôi có thể bị cả bộ phận nhân loại đã đi vào cõi vô thức vĩnh hằng thu hút chúng tôi về cõi ấy với họ mà không thể cưỡng lại được không? Chúng tôi về với họ bằng cách nào đây? Ether độc có thể trở lại không? Hoặc chúng tôi sê chết vì chất phân rã của vũ trụ, vô hình nhưng độc hại. sau cùng là chính hoàn cảnh lạc loài, bi đát của chúng tôi sẽ là áp lực lên tâm trí chúng tôi đến độ không chịu nổi và hóa điên.

    Tôi đang suy nghĩ về cái tư tưởng chết người này, một tiếng động nhẹ làm tôi ngước nhìn ra con đường đồi: cái xe ngựa cũ đang bò lên dốc! Đồng thời tôi cũng nghe văng vẳng tiếng chim hót, tiếng ái ho dưới nhà và trong cảnh vật đã có sự sống chuyển động, sinh hoạt. Chính cái con ngựa kéo xe già yếu hết sức lực thu hút chú ý của tôi. Tuy chậm chạp, nhưng con ngựa leo dốc nhẹ nhàng và tự nhiên. Tôi liếc sang người đánh xe ngồi chễm chệ trên ghế trước xe, người thanh niên trong xe đang sống động chỉ trỏ hướng đi. Không còn gì nghi ngờ nữa, họ đang sống và linh hoạt.

    Mọi người đã sống lại! Tất cả sự việc chúng tội thấy, chỉ là ảo giác thôi sao. Có thể nào quan niệm được chuyện ether gây độc cho địa cầu chỉ là một cơn mơ kỳ lạ? Vào lúc mới bàng hoàng, cái đầu óc thảng thốt của tôi đã sẵn sàng tin như vậy. Tôi cúi xuống, bàn tay tôi còn những mụn phỏng rộp vì kéo chuông. Đúng là đã có ether độc làm cho mọi người mê man. Rồi bây giờ, cả thế giới lại sống lại như cơn triều dâng sự sống. Tôi quét mắt trên toàn cảnh trước mắt, nhìn tứ phía. Và lạ chưa, ngay trong cái lùm cây trong sân golf có người sinh hoạt. Đó là những người chơi golf. Họ lại tiếp tục ván chơi dang dở sao? Vâng, đúng vậy, một người vừa quất một banh qua chướng ngại. Nhóm khác trên sân cỏ đang thận trọng đẩy nhẹ banh vào lỗ. Những người gặt lúa đang từ từ tụ tập lại tiếp tục công việc tạm ngưng. Cô bảo mẫu phủi bụi trên màu áo em lớn rồi tiếp tục đẩy chiếc xe nôi lên đồi. Mọi người như không hề biết mình ngất xỉu mê man, chẳng để ý chuyện gì đã xảy ra, mà chỉ đơn giản là làm tiếp việc mình đang làm.

    Tôi chạy xuống tầng trệt, cửa trước nhà đã mở lớn. Tôi nghe tiếng các bạn tôi đầy vẻ ngạc nhiên, đang chúc mừng trong vườn. Cả hai người nữ gia nhân và Austin đều sống lại Chúng tôi bắt tay nhau mà cười hồ hởi làm sao! Bà Challenger vui đến xúc động mạnh ôm hôn mọt người, trước khi ôm chầm lấy chồng sung sướng.

    Đức ông John kinh ngạc nói lạc cả giọng:

    - Làm sao tin được là họ ngủ thiếp đi! Thế là sao, Challenger, ông có tin là họ ngủ mê man, chân tay cứng đờ, hai mắt trợn trừng, cái miệng méo xệch như cười ngạo vậy không!

    - Chỉ có thể nói là họ ở trong tình trạng ngủ rũ giữ nguyên thế - Challenger phát biểu. - Hiện tượng hiếm hoi này đã từng xảy ra trong quá khứ và bác sĩ luôn lầm bệnh nhân đă chết. Khi ngủ rũ, nhiệt độ hạ xuống, hô hấp biến mất, mạch tim không còn nhận ra. Thực sự họ đã chết, nhưng sau một thời gian họ lại sống lại.

    Ông nhắm mắt lại như tập trung rồi nói nhỏ:

    - Ngay cả những đầu óc uyên bác sâu sắc nhất, cũng không thể quan niệm được một trận dịch ngủ rũ trên toàn cầu như thế này.

    Summelee nhận xét:

    - Ông có thể gọi nó là ngủ rũ. Nhưng đó chỉ là một tên bệnh. Chúng ta chẳng biết gì về hậu quả của bệnh, nhất là chẳng biết gì về chất ether. Nhiều nhất ta chỉ nói được rằng ether độc có thể gây ra cái chết tạm thời thôi.

    Austin đang ngồi bần thần trên bậc cửa xe, hai tay ôm đầu. Chính tiếng ho của ông tôi dã nghe thấy từ trên lầu. Giờ thì ông đang nói gì lẩm bẩm một mình và nhìn khắp xe một lượt.

    - Lại cái thằng nhỏ to đầu. Cái gì nó cũng phá được.

    - Có chuyện gì đó, Austin?

    - Dầu trong xe chảy lênh láng. Đã có ai nghịch phá cái xe. Tôi đoán là thằng nhỏ làm vườn, thưa ông.

    Đức ông John trông lấm lét vì lỗi của mình. Austin đứng dậy rồi nói tiếp:

    - Không biết tôi bị làm sao ấy, chắc tôi bị lúc đang rửa xe. Dường như tôi ngã xuống bậc lên xe, nhưng tôi nhớ là không làm tuột dây đồng hồ đo dầu.

    Bằng vài câu ngắn gọn, tôi kể cho Austin nghe chuyện ông ấy gặp và cả thế giới. Cả chuyện dầu rỉ ra cũng được giải thích cho ông. Ông nghe chuyện có người lái xe ra London mà cả thành phố London ngủ rũ hết ông cũng chẳng tin. Tôi còn nhớ, nghe xong chuyện, ông hỏi:

    - Ông có đến Ngân hàng nước Anh không?

    - Có ông Austin ạ.

    - Vẫn còn hàng triệu triệu trong đó và mọi người ngủ rũ hết?

    - Đúng như thế.

    - Thế mà tôi không có ở đó! - Ông rên lên tiếc rẻ rồi buồn bã quay về với cái vòi nước rửa xe.

    Có tiếng bánh xe nghiến trên sỏi. Chiếc xe ngựa cổ đã đậu ở trước nhà ông Challenger. Người khách trẻ ngồi sau xuống xe. Một lúc sau, người tớ gái quần áo xốc xếch, nét mặt ngơ ngàng như thể cô vừa bị đánh thức dậy, bưng lên một cái đĩa có danh thiếp. Giáo sư Challenger xịt mũi khin khịt khi nhìn thấy danh thiếp, râu tóc như dựng ngược lên vì giận. Ông làu bàu:

    - Một nhà báo! - nhưng sau đó ông gượng cười tiếp: - Dẫu sao, cả thế giới này muốn biết ý kiến tôi về biến cố này, cũng là tự nhiên thôi.

    Summelee xen vào:

    - Không phải ông ta đến hỏi cảm tưởng của ông về biến cố này đâu, vì ông ta đã ngồi trên xe ngựa lên đồi trước khi thảm họa xảy ra.

    Tôi ngó tấm danh thiếp: "James Baxter: phóng viên thường trú ở London, báo New York Monitor".

    - Ông nên tiếp ông ta.

    - Không.

    - Ôi, ông George! Ông nên nhân ái và quan tâm tới người khác một chút. Chắc chắn ông có nhiều ý kiến khi chúng ta thoát được thảm họa.

    Challenger tặc lưỡi và lắc lư cái đầu to và bướng bỉnh.

    - Ông ấy là giòng đã bị nhiễm độc, đúng không, Malone. Một giống cỏ dại của kỷ nguyên văn minh mới, một công cụ cho bọn chuyên gia rởm trong mọi ngành. Bọn họ có nói tốt cho tôi bao giờ đâu.

    Tôi đỡ lời:

    - Thế giáo sư có nói tốt về họ bao giờ không? Thôi ông ạ. ông ta là khách đã lặn lội đến đây phỏng vấn ông. Xin ông đừng nặng lời với ông ta.

    Ông nói nhấm nhẳng:

    - Được, được. Nhưng ông đi với tôi và nói thay tôi. Tôi đã có lập trường từ trước, không để họ xen vào cuộc sống riêng tư của tôi.

    Ông vừa Iẩm bẩm vừa bước thình thịch sau tôi, như một con chó giữ nhà bị nạt cho im.

    Chàng phóng viên Mỹ bảnh bao lấy sổ tay ra và nhập đề ngay.

    - Thưa Ngài, tôi xuống đây, vì đồng bào Mỹ của tôi rất mong mỏi được nghe ý ông về thảm họa sắp chụp lên thế giới.

    Challenger nhấm nhẳng trả lời:

    - Lúc này tôi chẳng còn thấy hiểm họa nào đang đe dọa thế giới cả.

    Ông phóng viên nhìn ông hơi ngạc nhiên.

    - Thưa Ngài, tôi muốn hỏi về trái đất có thể quay vào một vành đai ether độc.

    - Thật sự lúc này tôi không lo có một hiểm họa như vậy.

    Ông phóng viên thật sự bối rối ngỡ ngàng.

    - Ngài có phải là giáo sư Challenger không ạ?

    - Thưa ông đúng, tôi là Challenger.

    - Thật tôi không hiểu, thưa ngài. Sao ngài lại có thể nói là bây giờ trái đất không có hiểm họa nào? Tôi muốn nhắc đến lá thư của giáo sư đăng trên tờ London Times sáng nay ạ.

    Bây giờ thì đến lượt Challenger kinh ngạc.

    - Sáng nay? Sáng nay không có tờ London Times nào được phát hành cả.

    - Thưa Ngài, có ạ. - Ông nhà báo Mỹ nhẹ nhàng đính chính, - nó là một nhật báo mà, thưa Ngài.

    Ông lôi một tờ báo ở túi trong ra.

    - Thưa Ngài tôi muốn nói tới bức thư này ạ.

    Challenger tặc lưỡi, xoa tay rồi nói:

    - Tôi bắt đầu hiểu ra rồi Vậy là ông đọc lá thư này sáng nay?

    - Thưa Ngài vâng.

    - Và xuống phỏng vấn tôi ngay?

    - Vâng ạ.

    - Ông có thấy gì lạ trên đường xuống đây không?

    - Vâng, nói thật, đồng bào của Ngài rất ân cần và nhiều tình người hơn trước đây. Người vác hành lý sáng nay đã kể cho tôi một câu chuyện vui. Và chuyện đó thật mới lạ với tôi ở đất nước này.

    - Còn gì lạ nữa không?

    - Không ạ. Sao ngài lại hỏi vậy?

    - Được, ông rời ga Victoria lúc mấy giờ?

    Ông Mỹ mỉm cười:

    - Ồ, thật là trái khoáy, tôi đến đây phỏng vấn ngài lại bị ngài phỏng vấn lại.

    - Tôi chỉ vô tình thấy lạ thôi. Ông có nhớ giờ không?

    - Có ạ. Lúc 12 giờ 30 phút.

    - Và ông đến ga này lúc nào?

    - 2 giờ 15 phút ạ.

    - Và ông thuê xe ngựa đến nhà tôi?

    - Vâng, đúng vậy.

    - Ông nghĩ rằng từ đây ra ga bao xa?

    - Thưa ngài, nhiều lắm là hai dặm.

    - Ông nghĩ là ông đã đi mất bao lâu?

    - Dạ, khoảng nửa giờ, với ông xà ích ho hen.

    - Tức là lúc 3 giờ?

    - Vâng khoảng đó.

    - Ông coi đồng hồ đi.

    Người Mỹ coi giờ, rồi ngước nhìn chúng tôi kinh ngạc.

    - Trời ơi! Kim giờ chỉ địa rồi. Con ngựa này phá kỷ lục chạy chậm rồi. Mặt trời cũng đã rất thấp. Sao vậy kìa. Chắc đã có chuyện gì kỳ cục xảy ra mà tôi không hiểu.

    - Ông không nhớ ra chuyện gì bất thường khi ông lên đồi à?

    - Thưa ngài, tôi nhớ là có một lúc tôi buồn ngủ kinh khủng. Tôi có bảo người đánh xe cái gì đó, nhưng không làm sao cho ông ta hiểu được. Tôi cho là vì trời nóng, tôi cảm thấy chơi vơi bồng bềnh một lúc. Vậy thôi.

    Challenger nói với tôi:

    - Như vậy là cả nhân loại cảm thấy chơi vơi bồng bềnh một lúc, và rồi chẳng ai ý thức được chuyện gì đã xảy ra. Khi tỉnh dậy mọi người lại thản nhiên làm tiếp công việc đang làm. Giống hệt như Austin lại cầm lấy vòi nước rửa xe và những người chơi golf tiếp tục cho hết vòng. Ông chủ bút của ông, Malone, lại lo sắp xếp bài cho số báo kế tiếp. Rồi ông sẽ rất đỗi ngạc nhiên khi thấy thiếu mất một số báo. Vâng, ông bạn trẻ ạ, - ông thật tình vui vẻ nói với nhà báo Mỹ, - ông sẽ thấy thích thú khi biết rằng trái đất của chúng ta đã trôi nổi qua một dòng ether độc uốn lượn như dòng Gulf Stream trong đại dương ether của vũ trụ. Để đỡ rắc rối sau này, ông cũng nên ghi nhớ hôm nay không còn thứ Sáu, ngày 27 tháng 8, mà là thứ Bảy ngày 28 tháng 8. Và ông đã ngồi bất tỉnh trong xe ngựa hai mươi tám giờ, trên đồi Rotherfield.

    Cũng như ông bạn đồng nghiệp Mỹ của tôi nói "xin chấm d ứt cuộc phỏng vấn ở đây," tôi cũng chấm dứt thiên ký thuật luôn. Và quí vị cũng đã thấy phóng sự của tôi đầy đủ hơn và chi tiết hơn, đăng trên số báo ngày thứ Hai của tờ Dai ly Gazette, một bài tường thuật được mọi người công nhận là bài báo xuất sắc nhất của mọi thời. Tờ báo hôm đó đã bán được không ít hơn ba triệu rưỡi bản. Trên tường văn phòng tôi tôi còn đóng khung những tiêu đề vinh hạnh đó:

    Thế giới bị ngất xỉu hai mươi tám giờ.

    Biến cố vô tiền khoáng hậu cho loài người.

    Một trải nghiệm độc đáo.

    Một phóng viên của chúng tôi đã thoát hiểm.

    Một phóng sự ly kỳ, hồi hộp.

    Một phòng kín được cung cấp oxy.

    Chuyến xe lạ lùng.

    London, thành phố chết

    Bổ sung một trang lịch sử đã thiếu

    Đại hỏa hoạn và tổn thất nhân mạng

    Liệu có còn bị ngộ độc nữa không?

    Dưới danh sách tiêu đề này là chín cột rưỡi ký sự xuất hiện lần đầu tiên và cũng là lần cuối, ghi lại lịch sử trái đất trong một ngày của một người duy nhất. Challenger và Summelee cùng hợp soạn một bài về khía cạnh khoa học của sự kiện, họ để mặc tôi viết tường thuật này. Thế là tôi cứ việc phóng bút. Nhưng thảm thương thay, viết được ký sự nổi tiếng này, là tôi đã lên đến đỉnh điểm sự nghiệp của một ký giả mất rồi!

    Để chấm dứt ký thuật này, tôi không dùng lời lẽ gợi hình và thành tích cá nhân nữa, mà trích đoạn kết nổi tiếng, trong bài chính luận về sự kiện này, một bài mà những người đúng đắn, nghiêm túc đều muốn giữ làm tài liệu.

    Tờ Times viết: "Nói rằng nhân loại rất yếu đuối trước những sức mạnh ẩn tàng trong tự nhiên quanh ta, là sự thật ai cũng biết rồi. Từ các tiên tân thời cựu ước đến các triết gia hiện đại, đều cũng đã gởi thông điệp này đến ta. Nhưng sự thực được lập đi lập lại nhiều quá, lại mất bớt hiệu quả thực tiễn và hợp thời. Một bài học, một kinh nghiệm cần phải đúng lúc, đúng chỗ. Chính nhờ thử thách khủng khiếp nhưng cứu độ chúng ta vừa trải qua, trí óc còn bàng hoàng vì bất chợt, tâm thần còn ê ẩm vì lại nhận thức được giới hạn và bất lực của chúng ta. Thế giới đã phải trả một giá kinh khủng về tính hiệu quả của giáo dục. Tuy chưa biết hết hậu quả của thảm họa này, những New York, Orleans, Brighton sụp đổ trong ngọn lửa, cũng đủ là một bi kịch trong lịch sử loài người. Khi các báo cáo về tai nạn hỏa xa và tàu bè được đúc kết, chắc ta sê có một tài liệu khủng khiếp. Tuy rằng đa số trưởng máy và lái tàu đã kịp thời tắt máy, ngắt lực kéo trước khi hôn mê. Những tổn thất về của cải và nhân mạng dù có cao đến đâu, chỉ trước đây ta mới quan tâm, ngày nay ta phải quan tâm hàng đầu đến những khả năng của vũ trụ. Phải quan tâm tới tai hại của tính tự mãn, phải hiểu rằng khía cạnh vật chất của con người rất mong manh,

    dễ sụp đổ. Nghiêm cẩn và khiêm nhường phải là cơ sở cho các cảm xúc nhân tính ngày nay, ước gì đây là nén tảng mới để con người xây dựng một đền thờ tinh thần mới.


Trang 3 / 3 ĐầuĐầu 123

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-01-2015, 01:24 PM
  2. Bốn Bức Bình Phong
    By giavui in forum Truyện Dài
    Trả Lời: 18
    Bài Viết Cuối: 10-16-2015, 06:36 PM
  3. Niêm phong tình ái
    By MjMj in forum Thơ Lãng Mạn
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-03-2014, 08:59 PM
  4. Lối Cũ Rêu Phong
    By giavui in forum Video Cải Lương - Chèo
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-14-2014, 08:42 PM
  5. Cuồng Phong
    By giavui in forum Truyện Dài Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-14-2014, 12:31 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •