Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Hạnh phúc giống như tiếng vang, chỉ nghe được tiếng trả lời mà không bao giờ thấy đến.
Carmen Sylva
Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12
Results 11 to 13 of 13

Chủ Đề: Dựa Lưng Nỗi Chết

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Dựa Lưng Nỗi Chết


    Dựa Lưng Nỗi Chết

    Phan Nhật Nam





    Nhật ký tháng Mười

    Tháng Mười, tháng của chuyển động hoài hoài giữa hai điểm ngất ngây đớn đau và hạnh phúc. Tháng của những lạnh tanh bất chợt cứng ngắc và nồng nhiệt tràn đầy thác đổ. Tháng của đỉnh cao và vực sâu. Tháng tiếng động núi lở và im lặng đáy biển. Năm tháng căng thẳng giữa hai điểm không cùng.

    Làm sao để sống? Giữa những buồn phiền tanh tưởi độc địa, người muốn tan đi theo cơn gió rã rời, trôi vào lượn sóng nhạt thếch vô tri… Bỗng nhiên xôn xao những ý tình rực rỡ, bỗng choáng váng giữa niềm tin chói sáng, như mặt trời khởi đầu những ngày hè ở cực Bắc… Sống thật khó. Khó những ngày lặng lẽ rơi xuống, sáng trưa chiều trôi đi như lá khô, lặng lẽ đốt thêm điếu thuốc, xòe bàn tay, tay nhiều chỉ, tay nát bấy. Chiến tranh sắp chấm dứt và bàn tay chiến đấu cũng đã mỏi mệt. Xếp hai bàn tay, mở hai ngón, kẹp lấy điếu thuốc, thở ra lớp khói tàn tạ. Nhưng tháng Mười không hoàn toàn như thế. Tháng Mười, đêm thức giấc mở đôi mắt chợt xoay người để thấy một tình yêu thần bí hiện rõ từng đường nét khối lượng. Một tình yêu có thật cho người. Nhưng tháng Mười trong lòng hạnh phúc vẫn có những đớn đau câm lặng không ngừng nghỉ – phút rình rập của định mệnh độc ác…

    Gần cái chết và hạnh phúc, thấy rõ thêm niềm phấn đấu để sống.



    Chương 1

    Thuấn lái xe dọc theo con phố. Chiều thứ Bảy, người đông kín. Chiều thứ Bảy, thật lâu Thuấn không biết đến loại thời gian này. Thứ Bảy, Chủ nhật, thứ Hai, những ngày tháng phân biệt đó trôi đi không gợi lên sự chú ý. Sự nghỉ ngơi chỉ có được lúc đêm khuya, khi đại đội đã trả súng vào kho, lính đi ra cổng doanh trại để nghỉ phép sau cuộc hành quân… Nghỉ ngơi – Thuấn thật sự không có. Chỉ có những giờ ngồi trước ly rượu bên con sông, nhìn xuống khoảng sông đào chen chúc thuyền đậu. Những con đò xứ Huế, nặng nề, bề thế, chắc chắn cùng thú vui đẫm ướt dục tình được mở ra thoả thuê trong đêm. Thuấn, người lạ ở xa đến, người Bắc, quê hương xa khuất ở cuối trí nhớ, quê hương trên bát bún thang, chiếc ảnh hồ Hoàn Kiếm, cây cầu gỗ chênh vênh trên mặt nước lung linh vòng cây phượng. Quê hương được nhớ lại ở trang sách bất chợt trong đó nhắc đến dáng dấp của lão Tàu bán lạc rang, mụ Béo bán bánh tôm ở bờ hồ… Những hình ảnh thoáng qua như ngọn lửa đầu que diêm yếu ớt. Thuấn không nhớ nổi. Quê hương, một chốn không còn. Thuấn từ Sài Gòn đến đây theo chiến dịch, nửa đất nước đi qua, đi và đến từ hai tỉnh đối đầu của quê hương bị cắt. Thuấn đã khởi hành và đến hai cực điểm của một đau đớn vô hình.

    Huế, thành phố không giống một nơi nào đã đi qua. Pha trộn giữa e thẹn câm nín và xôn xao đột khởi cơn lặng lẽ, bỗng chốc thành giông bão, thành phố của dịu dàng như cảnh giấc mơ và tồi tàn luộm thuộm của đời ẩn ức. Thành phố của lãng mạn và bi phẫn. Thuấn ở Huế được ba tháng, thời gian của những cuộc hành quân ngắn hạn. Từ Huế đi về hướng Bắc, qua chiếc phà, con nước xanh rêu không sông, bên kia bờ sông luỹ tre mờ mịt sương giăng, sáng mùa đông im lìm không mặt trời, con gà nhỏ lông sũng nước cố rít lên tiếng gáy, tiếng gáy của loài gà tre nghe the thé phiền muộn. Quân qua sông, đổ bộ lên bến, cợn đất sét màu vàng ứa ra từ phiến đá khi chân người lính giẫmlên tản theo dòng nước. Lính đi băng qua những khu rừng trống ẩm ướt, chuối, thanh trà, ổi chen chúc đứng khép vào nhau trong im lặng nặng trĩu. Một trái bom vừa nổ, mảnh gang trắng ghim vào thân cây chuối ứa mủ, đống bẹ chuối tươi non nằm hỗn độn trên lớp đất bu nhiều tung tóe, đất dính từng tảng nhỏ trên phiến đá bầm dập như những hạt máu khô đọng trên cánh tay gãy. Mảnh gang của quả bom theo đà bay phá vỡ khoảng tường vôi để lộ phiến gạch tươi, màu đỏ thớ thịt sau nhát dao chưa kịp ứa máu. Ba tháng hay chính xác hơn bảy mươi ngày, Thuấn đi qua những căn nhà kỳ quái, nhà không vách, không cột, không nền. Nhà là căn hầm sát xuống đất, sâu hun hút lạnh lùng, tối thăm thẳm. Nắp hầm được đắp cao bằng đất cứng, chắc chắn như nấm mồ, trên mặt mồ vĩ đại đó người dân úp cái mái bằng lá gồi hay tranh và người ta chui từ hầm lên nhà, bò từ nhà xuống hầm, không ai có thể ngồi thẳng lưng trong loại nhà hoang tàn kỳ lạ này. Người dân ngồi cong lưng đầu kẹp giữa hai gối, người dân ngồi im lìm, trẻ con cũng không khóc, đứa trẻ đã mất thói quen được khóc, khóc vì đói, vì lạnh hay ẩm ướt nước tiểu. Đứa trẻ đã quen với bóng tối, quen im lìm nặng trĩu. Tiếng động chỉ có ở những cánh quạt trực thăng chém gió lượn vòng trên cây cau, hay tiếng nổ của quả đạn súng trọng pháo. Tiếng nổ và sự im lặng trì trợm đã làm tê giác quan đứa trẻ. Không còn tiếng khóc trẻ thơ trong xóm làng Thuấn đi qua.

    Thuấn đã đi qua một lần, hai lần, những lần sau không đếm được. Đi qua để thấy người dân vùng Thừa Thiên đâu đâu cũng chừng đó thế ngồi, cũng chừng đó lối hò, cũng những âm thanh rít lên khó nhọc, hiu hắt phiền phiền xô đẩy nhau trả lời khi người lính hỏi đến… "Da, dạ…" những tiếng dạ liên hồi mở đầu chen trong câu chuyện, nghe nhức nhối như vết thương nung mủ bị bóp vỡ giữa hai lưỡi dao kẹp chặt. Thế nhưng người dân vẫn tiếp tục sống. Thuấn cũng tiếp tục sống, tiếp tục sống để sau mỗi cuộc hành quân cùng với một lũ bạn chen chúc lên chiếc xe đi về thành phố như hôm nay…

    "Đi đâu bây giờ?"

    "Đi đâu?" Thuấn quay đầu sang nhìn Minh, kẻ vừa hỏi, giọng Huế phẳng lì như phiến lá mít. Thuấn ngừng xe, xoay hẳn người ra đằng sau "Đi đâu?" Sáu đôi mắt nhìn nhau không nói.

    "Hay đi uống cà phê?" Đề nghị rụt rè không thành hình khối. Lạc nói nhỏ.

    "Cà phê?" Minh hỏi cao giọng.

    "Tao đã uống sáng nay hai lần cà phê rồi, nhưng thôi, cà phê phát nữa cũng được. Thuấn xoay người trở lại, quanh xe về quán cà phê giữa thành phố.

    "Đến chỗ Lạc Sơn ngồi nhìn thiên hạ, chiều hôm nay thứ Bảy". Không có tiếng ai trả lời câu nói của Minh.

    Ba người ngồi quanh chiếc bàn, ba bàn tay khuấy tròn những chiếc muỗng quanh vành ly gây tiếng động dễ chịu trong không khí cứng đặc.

    "Tụi mình đi hành quân được ba tháng rồi".

    "78 ngày".

    "Sao mày nhớ kỹ vậy?"

    "Nên tao thích ngồi ở đây, nhìn những người gánh củi đi qua, xúc động lúc nhỏ tự nhiên trở về như sống lại thời gian trước".

    "Mày vớ vẩn thấy mẹ". Lạc vòng tay bó lấy đầu gối ngồi ưỡn người trên nệm xe. "Minh, mày leo lên ngồi với tao, ở đây đâu còn Quân Cảnh, ngồi đằng sau xe xóc, chết cái mông".

    "Tao nói cho có chuyện". Thuấn hững hờ trả lời.

    Xe ngừng ở nơi đóng quân. Đối nối tiếp nhau thành vòng tròn, lều của lính nằm rải rác trông như những khối đá xanh mềm nhão nhún nhảy theo cơn gió, từ đó những người lính lạ lùng đi ra. Người lính thời xưa được biểu tượng qua hình ảnh một người đội nón dấu, mang cây giáo; người lính cận đại có chiếc nón sắt cùng khẩu súng… Nhưng những người lính này khác hẳn, họ đội chiếc nón nhựa, chiếc nón loang lổ ngô nghê. Nón sắt có vẻ đẹp hung bạo riêng, nay ở nơi đóng quân, lớp nón sắt được hạ xuống để vo gạo, rửa rau. Hai chiếc nón sắt hai tay lỏng chỏng những cây cải xanh, nón nhựa che kín mặt, áo bỏ ngoài, quần lót, loại quần lót nhà binh Mỹ có xẻ một đường rãnh ở giữa, trong đó… Việt Nam di động theo bước chân người lính. Hai đôi chân đen đủi ốm yếu thảm bại trôi xuống từ hai ống quần úa bẩn; quần màu trắng để lâu vàng ố một cách tục tĩu… Những người lính mang đôi giày không vớ, giây không buộc, súng mang vai nặng nề đi xuống sườn đồi: Giờ làm cơm. Những người lính Nhảy dù, thiên thần nón đỏ trở thành sinh vật lạ lùng của một thời tiền sử một thời tiền sử xám.

    "Giờ này về lều chờ cơm tao chịu không nổi, lên nơi lăng Khải Định chơi". Thuấn đề nghị.

    "Lên đó cũng được, nhưng phải có thứ gì uống". Lạc nói.

    "Bắt buộc, tụi mày góp tiền vào đây… mỗi thằng hai trăm". Thuấn xòe tay, mấy ngón tay chuyển động trước mặt Lạc và Minh.

    Chiếc xe chạy lồng lên đường dốc, bụi tung đỏ chạch trong ráng nắng chiều. Lăng gồm ba khối vuông vắn chồng lên nhau xám đặc lặng lẽ, hai hàng voi ngựa, văn võ quan chống gươm đứng im lặng nhìn nhau trong bóng nắng cuối cùng của ngày. Ba người bước lên những bậc thang xám, bóng đổ dài.

    "Ngồi ở đây hay vào trong kia?" Lạc hỏi bâng quơ.

    "Lên trên kia, nơi có bức tượng ông Khải Định, chỗ ấy cao hơn có thể nhìn thấy con sông".

    Bia được uống trong im lặng, khối lượng nước màu vàng sóng sánh những tia nắng đỏ hiu hắt. "Lạnh". Có tiếng xuýt xoa nhỏ. "Gần Tết rồi không lạnh sao được, có thằng nào cho tao mượn hộp quẹt". Thuấn nói lãng đãng mắt không rời chiếc thuyền vừa hiện trên khói sông. Tiếng hò bất chợt vút lên đầu ngọn sóng. Sóng nhỏ li ti trôi dạt xua đuổi hai bờ lau..

    "Này Minh, sao người Huế mày hò buồn đến như thế?"

    "Buồn ở đâu, người Huế nào cũng hò như vậy, giã gạo, chèo thuyền, ru con, khi nào họ chẳng hò được, ông mới nghe lần đầu nên thấy lạ thế thôi".

    "Không phải vậy, toàn thể không khí điệu hò đều chất chứa u uất, như mày thấy đấy, anh chàng chèo thuyền dưới kia đang làm một công việc lao lực, thay vì nó hò để tăng thêm sức mạnh, đằng này nó hò như thở không nổi, chỉ một tiếng "à ơi" kéo dài qua bốn nhịp, trôi hết một quãng sông. Tao không nghĩ nó hò như người ở vùng biển kéo lưới, nhưng đây là thói quen thở than, nhu cầu muốn được bày tỏ nỗi u uẩn ngàn đời của khối linh hồn tan nát dưới biến cố hằng hằng điêu linh".

    "Thôi, luận như thế đủ rồi, thắc mắc thì xuống gọi nó lên mà hỏi".

    Như không để ý đến lời Minh, dựa người vào bức tượng, sau một hớp bia, Thuấn tiếp: "Tiếng hò buồn thật, tao nhớ cách đây hai buổi trưa, đang nằm trên võng thiu thiu ngủ nghe bà già ở gần nơi đóng quân hò ru thằng cháu, người tao cứ mềm đi. Chắc thằng cháu dưới sức tê ma quái của câu hò khóc không nổi, nó nằm im hết cựa quậy. Buổi trưa nắng hanh vàng, trời yên không gió, có con gà tre ở đâu lâu lâu cất tiếng gáy. Cảnh vật nhỏ bé nhưng buồn thảm lạ lùng, không khí đọng cứng lại… Tao cứ nghĩ về tiếng hò từ hôm ấy".

    "Hôm nào mày về nhà tao, nằm vào nôi, mẹ tao hò cho mày một lúc, chắc mày chạy đến mười năm không trở lại".

    Được hơi men trợ lực, Minh nhảy xuống ngựa tiếp tục:

    "Chúng mày đâu biết cái nhỏ nhặt của người Huế, như bà già tao, bà để ý soi mói từng lỗi nhỏ, không phải để cho tao hay cho bà nhưng vì người khác. Hôm tao hỏng tú tài, bà buồn phiền ra mặt, buồn vì con bé bên cạnh nhà tao đỗ bình thứ. Con xem đấy, nó là con gái mà lại đỗ cao. Cứ như thế bà làm tao phát điên luôn. Tao học như mê trong mấy tháng hè, thuộc bài không những chỉ nhớ đến nội dung nhưng thuộc lòng, nhớ như in từng trang sách, nơi nào có dấu mực lem, nét chữ ở chữ "khí métal" in đậm như thế nào. Mấy trang sách toán lý hoá đè hẳn lên mặt, trong đầu tưởng như không có não nhưng gồm những tờ giấy xếp ngay ngắn; não của những hàng chữ in xếp thứ tự, não của Nguyễn Văn Lâm, Nguyễn Văn Phú, não của giấy ba Tàu, chữ in từ Sài Gòn và Chợ Lớn trên đó chặn hòn đá khắc hình bà già".

    "Và kỳ thi đó mày đậu ưu?" Lạc nhìn hai con mắt to đen của Minh, hỏi nửa thành thực nữa giễu cợt.

    "Không, hỏng mới đau. Đến ngày thi tao đổ ốm thật lạ lùng, không nóng không lạnh, không một lý do chính yếu gì cả, đột nhiên tao ăn không được, ngủ không được, những ngày trước tao có thể ngủ ngồi ngủ đứng, ngủ trong hai phút nhưng mê man, tưởng như vừa qua cả đêm dài. Tao đổ ốm lạ lùng, bao nhiêu ý chí phục thù tự nhiên tan biến, chán nản buông xuôi, muốn bóc hẳn phần đầu để ném đi, muốn rửa sạch hết trí não, không còn đạo hàm, quỹ tích, lượng giác, chỉ còn một khoảng trống như ruột của quả chuông trong đó cứ kêu hoài những tiếng vang. Năm sau tao thi ban văn chương, đậu bình và đi lính luôn".

    "Sao vào trường mày học giỏi thế?" Thuấn hỏi, chai bia không rời môi.

    "Đó chỉ là để vuốt ve tự ái, tao đem cái vốn liếng toán lý hoá ra dùng lại như thằng cha đánh kiếm hết thời, sau thời gian đằng đẵng rèn được cây gươm vô ích, không lẽ đem đi bửa củi nên đêm khuya mang gươm ra múa an ủi mình. Buồn cười là có kẻ đã khen nó múa hay, cũng như tao được mang tiếng là người giỏi toán nhất của trường Võ Bị. Khỉ thật, hình như suốt đời tao phải cố gắng làm những việc mà lòng không muốn".

    "Ngay cả khi ra trường đi đơn vị tác chiến?"

    "Có thể, mày xem đấy, lúc lựa binh chủng tao đã có chỗ Quân cảnh nhưng đổi lấy Nhảy dù… Có thể vì muốn hơn tên Trung uý Công binh đến chơi với con nhỏ cạnh nhà. Buồn cười thật, Nhảy dù, quần áo hoa, chiếc mũ đỏ, nhưng rồi tao thấy thích hợp và hãnh diện với bộ đồ này lắm".

    "Sẽ kéo dài được bao lâu?"

    "Không biết".

    Lạc ngửa người trên sàn đá, cong hai đầu gối lại. Hai chiếc gối gầy gò móp vào ở phía bên trong. Gối lỏng, ba mươi sáu tuổi, mười tám năm lính, Trung uý nhiệm chức, thâm niên cấp bậc được tám tháng, mười hai ngày quyền đại đội 3 tiểu đoàn 19 Nhảy dù. Nhảy dù, cái áo saut có chiếc đai đằng sau, khi nhảy kéo tới đằng trước che hạ bộ. Dù 17 nhảy đau đến ngất ngư, ba ngày sau còn vết thâm trên lưng. Mười tám năm lính, bao nhiêu cà men cơm đã khuấy vào đó, chiếc thìa có lỗ thủng ở cán; lỗ thủng buộc vào nút áo, áo tác chiến hoa Nhảy dù Pháp có túi dài hai mươi phân hỗn độn thìa, bao thuốc lá Gaulois, chai rượu Rhum hình con gấu… Lieutenant tối ngày, oui suốt ngày, hai gót giày chạm vào nhau cứng nhắc, le petit caporal, caporal Vũ Văn Lạc. Trung uý nhiệm chức Vũ Văn Lạc cong hai chiếc gối lên, hai điểm tựa hoan lạc. Dọc theo chiều dài của nước Việt Nam đã tựa lên bao nhiêu chiếc chiếu, bao nhiêu tấm nệm, đã tựa trên đất, tì vào gốc cây. Hai đầu gối công dụng và mệt nhọc… Lạy xếp, xếp tha cho con. Ngày đổ bộ ở Phát Diệm, hàm răng đen rít lên than vãn, Sergent chef Vũ Văn Lạc với khẩu sten trên vai đong đưa nhắc nhở một sức mạnh, sức mạnh có trọng lượng chiều dài, sức mạnh được đếm bằng số đạn ở trong băng, khoá an toàn đã mở. Hai bàn tay kẹp lấy một thân sườn cứng ngắc… Hà hà, ngon lành, xếp thương. Người đàn bà nhà quê ngồi bẹp xuống, lưng quần bị xé rách một miếng nhưng chiếc quần chưa kịp rơi, cái hoa lạc thú mới nhú một túm lông đen kích thích. Sergent chef Vũ Văn Lạc nuốt nước bọt, viên đạn bắn lên trời. Bạo lực ho một tiếng doạ nạt. Người đàn bà nín lặng, cái hoa tam giác đen tươi lốm đốm. Sergent Lạc cười thích chí: "Tốt, thẳng hai chân ra, giang rộng chút nữa, tốt, ném khẩu súng sang bên cạnh, hai đầu gối quỳ xuống trên nền cỏ…" Bây giờ chiếc gối vô ích, mệt mỏi. Chiến tranh này không còn Phát Diệm, Thất Khê, Cao Bằng, không còn B.M.C. đổ gái xuống ở Isabelle dưới tiếng nổ của sơn pháo 75 ly không giựt, 82 ly Trung Cộng. Không còn cảnh chạy theo giao thông hào, đưa tay kéo cái đàn ông ra, dính một chút đất ở đầu, teo lại nhăn nhó… "ĐM quá sợ teo lại sao mày? Allez, sờ mấy cái coi mày". Năm ngón tay xanh xao lạnh buốt loang lổ những ngón màu hồng đưa ra nắm lấy phần thịt gân đen đúa hâm hấp… "Merde, foutu không ra cái gì sất, không xong rồi, nó ra hết bố rồi…" Vũ Văn Lạc thót bụng lại, phần sự sống chảy ra nhão nhoẹt. "Merde, merde không được gì hết, et alors?" Vũ Văn Lạc thọc bàn tay vào phần dưới chiếc bụng, nơi thịt da thâm đen. "ĐM như miếng giẻ rách". Thôi xong, cái đàn ông mềm oặt được đặt vào lại. Chạy ra khỏi căn hầm, tên Tabor nhào vô như ánh chớp. "Tout fini, mon sergent? Oui, ĐM vào đi còn ấm ớ…" Chiến tranh này chỉ còn những chiếc chiếu bình yên, những tấm đệm bẩn thỉu nhưng từ tốn. Tiếng động của chân giường khoái lạc vang dội tạo nên một xúc cảm trợ lực cho phần cơ thể thấm đẫm mồ hôi, hai chiếc gối lách cách trăn trở. Trung uý nhiệm chức Vũ Văn Lạc quỳ giữa một cái bụng nhăn nheo sau bốn lần sinh nở… Sau cái liếc xéo và câu nói rít giữa hai hàm răng: "Chán cái l… già này rồi hả?" Không. Vũ Văn Lạc cúi xuống hùng hục một cách miễn cưỡng … Bà Vũ Văn Lạc hay cô bán hàng xén ở Chợ Dầu kẹp hai đầu gối lại, nhắm đôi mắt. Mình, mình ơi… Chiều hôm nay một chiều cuối năm, hai đầu gối của Trung uý Vũ Văn Lạc lại nhô lên một cách vô tích sự giữa bầu trời xám đặc.

    "Nếu tôi được chỗ Quân cảnh là tôi đi gấp. Gắng làm đại đội trưởng thêm năm nữa, bắt cái Đại uý là tôi dọt. Có Đại uý chắc ăn ra ngoài không sợ ai ăn hiếp. Mụ vợ tôi than lúc này không đủ tiền chợ. Các ông thật là dại, từ trong trường có những chỗ thật tốt không đi, đi làm thứ gì Nhảy dù này, chỉ có được tiếng hão. Rồi các ông sẽ có gia đình, vợ con một đống, cả năm chỉ ở nhà không hơn một tháng, lúc ấy mới thấy cái tiếng kia vô ích".

    "Nhưng tụi này là sĩ quan nhà nghề, không lẽ đi lính để làm công chức nhà binh sao? Có nhiều nghề dẫn đến sự thành công, nhà binh có cái thành công đồng hạng của nó. Đi Nhảy dù như kiếm một cái ghế tốt trong rạp hát đồng hạng, thế thôi…" Minh cãi.

    "À, ông muốn lên lon nhanh, thuở xưa tôi cũng vậy nhưng lúc ấy nhà binh nó có cái giá của nó. Chiều thứ Bảy, tôi lúc ấy chỉ là Trung sĩ nhưng đã hách ra gì, áo quần kaki thẳng nếp, vớ trắng cao tới đầu gối, mũ đỏ, chiếc ga lông có hình mỏ neo, ông đội bước ra phố, đi Godart chẳng kém ai. ĐM bây giờ anh nhóc con 18 tuổi, chỉ sau 8 tháng quân trường xong cũng thành ông quan, sĩ quan hồi này xuống giá rồi, các ông đã đi kiếm công danh muộn".

    "À, như thế ông Lạc bảo mày với tao yếu giá rồi, Trung uý Nguyễn Khoa Minh cựu á khoa của khoá 18 trường Võ bị Quốc gia đã đấu vật với một cái bóng công danh muộn. Mày nghe chưa hở Minh, lính già nó nói thiêng lắm, 18 năm lính mòn gần năm mươi đôi giày, từ giày Tây qua giày Mỹ, cái gót chân "Bắc kỳ già" kia đã hiển thánh, đã được hun đúc bởi hai nền văn minh, đã thành tinh rồi huống gì đầu não. Lính già này nói đúng, và tao đang nuốt một thức ăn thừa". Thuấn vỗ vào gối để tăng cường độ khoái trá.

    "Tôi cũng như các ông chứ khác gì, hơn nữa tôi không còn trẻ để đổi nghề. Bả thuốc phiện nhà binh đã ngấm vào máu, bỏ không được nữa".

    "Thôi uống đi, nói quanh co hoài".

    Uống, hình như người lính nào cũng biết uống rượu. Không những biết mà thích thú. Rượu, thứ thuốc tê ngắn ngủi có phân lượng, hình khối, có thể nuốt vào người, để nảy nở những phản ứng sôi nổi hạn chế. Chỉ mất ít tiền, mua được niềm choáng váng nhân tạo, cử chỉ bồng bềnh. Rẻ quá, không uống cũng uổng đi. Lý Bạch say rượu mà chết, lính thì không có được cái quên lãng tiêu sái đó, nhưng cũng chẳng cần. Uống để có được phút giây đưa cánh tay, nghiêng chất lỏng vàng rực óng ánh như khối mặt trời chảy nước. Đổ từ chai vào ly, từ ly chảy vào miệng… Uống, động tác si mê tội nghiệp, cách hành lễ tưởng chừng tha thiết nhưng cuối đáy thấp thoáng chút bệ rạc lang thang.

    "Minh, lái xe xuống mua thêm mấy chai nữa. Còn tiền không?" Những bàn tay lùa vội trong túi, nắm giấy bạc nhàu nát được kéo ra, năm trăm, bảy trăm. Vừa rồi, mua thêm nửa két uống cho đã.

    Minh lái xe xuống phía xa, nơi luỹ tre xanh có nhà cửa, sương lam bốc khói mịt mù.

    "Này Lạc".

    "Gì?"

    "Thuở xưa tao có đóng một vở kịch vui, kịch có ba vai chính, ba anh ngốc: trong buổi hội họp, một anh được cử đi mua rượu, hai anh ở nhà giả vờ chết, anh chàng đi mua rượu nửa đường uống trộm hoá say… Khi về, tưởng hai anh kia chết thật, nó làm nhiều điều thật buồn cười".

    "Ông muốn nói điều gì, nói rõ mẹ nó ra, đầu óc tôi đặc cứng chẳng hiểu được". Lạc lè nhè trong miệng.

    "Năm xưa diễn kịch tôi nghĩ một đời sống thật như thế không có, nhưng bây giờ mình diễn lại cảnh ba thằng như trong vở kịch. Tôi buồn cười tự hỏi: không biết mình có phải là thằng ngu không".

    "Ngu biết ngay, ngu không có thể nghĩ vớ vẩn, ngu có vẻ ù lì chắc chắn như cục gỗ mít, trông thì biết liền". Lạc cao giọng xác định.

    Hơi men giúp câu chuyện dễ dàng. Chuyện vô nghĩa níu kéo nhau theo nhịp độ liên tưởng, lãng đãng mù mờ như lớp men dậy lên theo lượng rượu căng phồng trong bao tử.

    Lạc bày trò chơi: Lấy vỏ chai đặt lên đầu tượng ngựa đá, người bắn trật phải uống một hơi hết chai bia. Những viên đạn bay xuống đồi rít tiếng lạnh hơn hơi sương… Minh nâng súng lên. Đầu con ngựa nháng lửa. À, con ngựa tóe lửa. Bắt con ngựa ô… "Ngựa ô tôi bắt, tôi bắt cái con ngựa". Minh lẩm bẩm hát, mắt nheo lại nhắm theo nòng súng, đỉnh đầu ruồi chao động, bàn tay run, bóng ngựa chập chờn. Ngựa phi đường xa thật mau.

    "Bắn đi mày, nhắm lâu quá vậy". Thuấn hét lớn.

    "Cột con ngựa lại cho tao!"

    "Con trai say rồi, bắn đi con ơi".

    Đoành, hai viên đạn bay vút. Mày bắn trật rồi, uống thêm một chai nữa.

    "Sao tao cứ bắn trật hoài, hay ông vua không bằng lòng vì tụi mình phá quấy".

    "Này Minh, ông Khải Định hình như bị chứng phong nên chết sớm?"

    "Phong gì, ông ta bị bệnh phong tình, mày không thấy Bảo Đại bị yếu mắt hay sao".

    "Làm vua mà đi chơi bời sao?"

    "Làm sao biết được, nhưng nhìn cái tượng thì ông ta chỉ khoảng thước rưỡi, người như thế chắc chơi không nổi. Dám "luý" thủ dâm hay làm nhiều màn kinh khiếp lắm. Đoành. Lạc bắn viên đạn thật chính xác, chai bia vỡ tan. A, ngựa vua Khải Định được uống bia lính Nhảy dù. Lạc đặt một vỏ chai khác lên đầu ngựa. Đến lượt thằng Thuấn bắn. Thuấn đưa nòng súng lên. "Tao thấy con ngựa khóc".

    "Xạo, nước bia chảy xuống mắt nó đấy. Tao đố mày bắn trúng mắt con ngựa". Lạc thách.

    "Thôi, để cho nó yên thân, suốt đời đã mang ông vua đi chơi bời, đến khi chết đứng nhìn núi trọc, đủ buồn cho thân ngựa đá rồi…" Viên đạn đi trượt thấp xuống trúng vào một nơi nào đó của tượng đá. Thuấn bắn thêm hai viên nữa, trật. "Ê, đừng gian, mày phải uống liên tiếp hai chai". Thuấn nắm hai cổ chai ngồi vắt vẻo lên yên một tượng voi… "Cỡi voi ra trận miệng uống bia, chúng mày thấy tao thế nào?… Hà hà mấy anh tướng xưa sướng thấy mẹ, cứ ngồi yên trên ngựa hoặc voi rồi tà tà ra trận. Tụi mình bây giờ vẫn lội bộ. Như lính có khác gì. Nếu thuở xưa như tao là cử nhân võ đấy, nhị khoa cử nhân võ. Chúa ơi, tao không hiểu tao học thế nào đến hai khoá mới xong chương trình của trường Đà Lạt, cứ mỗi lần đi vào sân bắn ngang qua tấm bảng có mũi tên chỉ lối vào xa trường, nơi có mấy cây thông con, tao cứ tưởng như có lời chế nhạo. Minh, mày nhớ tấm bảng đó không?"

    "Nhớ quái gì tấm bảng ấy".

    Những phát nổ liên tiếp chung quanh mắt con ngựa, lớp vôi vỡ tung tóe.

    "Hay, lính già bắn hay thật". Thuấn và Minh cùng khen ngợi. Lạc không nói, bóp cò hết 6 viên đạn. Viên đạn chót bay đến chém vỡ chai bia.

    Có tiếng gọi ở máy truyền tin trên xe Jeep - Lạc đi đến – "Lệnh gọi tụi mình về họp". Lạc la lớn gọi Minh và Thuấn. Thuấn đưa súng lên trời bắn hết những viên đạn còn lại… "Tiên sư, làm tướng tá không được, cao bồi Mỹ không xong, thôi ta về làm lính". Bóng hai người đi về phía xe, nòng súng chùi xuống đất.


  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Và bà mẹ cười, nụ cười ngây ngô sung sướng đang được thương yêu. Ầm! Quả đạn nổ bên bờ dậu, hai mẹ con được nâng lên một khoảng xong ngã ra hai phía. Quỳnh Như chạy vào bếp chui xuống hầm. Cửa nhà bếp bỏ trống, nàng nhìn được phía bên kia vườn. Bà mẹ bò bằng hai tay và đầu gối, đầu tóc đen rũ xuống kín mặt. Bà ta bò đến nơi người con, cúi xuống như chó mẹ hít hơi chó con. Bà mẹ ngồi dậy, cởi chiếc áo đắp lên mặt cô con gái, xong run rẩy nằm xuống trên thân hình người con… Một thứ ánh sáng vàng vọt giá rét chiếu lên tấm lưng trần nhăn nhúm bất động. Quỳnh Như mở to mắt, nàng nghe được tiếng khóc im lặng của người mẹ trong hơi gió xào xạc thổi lớp lá chuối đưa đẩy phiền muộn. Cái chết bắt đầu và chấm dứt dưới mắt Quỳnh Như thản nhiên như chiếc lá vừa rơi.

    Hai ngày sống với chờ đợi trái nổ, Quỳnh Như thấy trong lòng những biến đổi lạ lùng. Trong bóng tối của căn hầm dưới bộ ván gõ, như một người ngồi trầm tư với chiếc bóng mình trên vách, nàng thấy rõ được hết quá khứ mộng ảo phù du. Tình yêu cay đắng, xót xa, lần khám phá ra mình qua mối tình say đắm nổ bùng như dòng điện luồn theo mạch máu, Quỳnh Như cảm được sự hững hờ khi nghĩ đến nỗi ham mê nồng nhiệt cuống quít cách đây hai ngày. Trong bước chân vội vã chạy vào hầm, Quỳnh Như chỉ thấy cơn thúc giục nồng nhiệt để tồn tại, bản thân thực sự thân yêu của mười ngón tay luôn được tỉa gọt cẩn thận. Bây giờ Quỳnh Như chợt nhớ, tại sao có giọt nước mắt thật chân thật khi nhìn đống tóc rụng trong buổi sáng ngã bệnh, khi móng tay dài trắng hồng bị gãy, Quỳnh Như đã khóc say sưa đau đớn trong những trường hợp như thế! Tiếng nổ làm Quỳnh Như chạy thật nhanh để không nghĩ đến được Bằng với căn phòng đầy bóng tối, mái tóc đau đớn dằn vặt và phút giây ngã xuống hầm hập mê mải. Quỳnh Như cũng hết sức để nghĩ được đến Thuấn, tình yêu vội vàng mà của ba ngày trước đã đốt cháy hết sinh lực của mỗi tế bào da thịt, trí não. Quỳnh Như tưởng mình có thể chết đi để mối tình tồn tại. Nhưng đến bây giờ, sau bốn mươi chín giờ gần gũi với cái chết trong căn hầm tối Quỳnh Như chỉ nhớ được có một người – Người thân yêu gần gũi độc nhất, xác thân có góc cạnh và hình khối – Chính nàng.

    Minh nép người vào hàng rào chè xanh lần lên đến ngã tư. Hướng về Mang Cá đường vắng, nhà kín cửa, vài con chó cụp đuôi chạy len lén qua mặt đường trống trải. Lũ thú vật chống chỏi tai ương bằng chiếc đuôi quặp vào che bộ phận quý giá, bí mật. Minh cho tay vào bụng sờ báng súng, cây súng quá nhỏ so với nguy biến đang bao quanh. Lạnh. Minh rùng mình. Nỗi sợ bốc hơi tăng thêm cường độ rét buốt của thời tiết. Có xác chết nằm cạnh một gốc cây, xác chết mặc veston mà xám, phần ở bụng căng cứng, tay người chết mở ra. Minh đứng nép vào gốc cây, liếc nhìn xuống cổ tay người chết, kim đồng hồ chỉ 10 giờ. Chắc giờ thằng cha này chết. Ít nhất nó cũng được mặc áo mới khi chết. Đột nhiên Minh cảm thấy vui trong lòng với ý nghĩ vừa đến. Nỗi vui vẻ bình yên thấy mình được bình an, lạc thú hơn kẻ khác. À ra mình chưa chết, chết nằm lăn như thằng cha này quả thật không sung sướng chút nào. Mặt trời hơi le lói, nắng ấm dọi xuống từng đường vàng sẫm trong sương mờ. Minh cảm thấy hăng hái và tự tin. Ít nhất mình cũng chưa chết, gắng qua thêm một ngã tư nữa, đến gần hồ Tịnh Tâm thì cách Mang Cá không bao xa, xong kiếm lại Đại đội kéo lên chỗ nhà bà mẹ, đem Lạc và gia đình về. Đại đội mấy hôm nay ai chỉ huy, lính có bao nhiêu người chết hay bị thương? Trong yên ổn bất chợt Minh nghĩ đến đơn vị, công việc như đang ở trong hoàn cảnh thông thường. Có gì đâu tai ương của hai ngày qua, súng bắn trước mặt hướng vào chính bản thân chưa sợ, huống gì thứ tai hoạ tổng quát này… Thật ra chỉ vì vụ nổ trong khách sạn làm mình hoảng hồn, bây giờ thoát xa nó rồi, có gì đâu phải xao động. Đây rồi, gắng đến cuối bờ thành kia sẽ thấy hồ Tĩnh Tâm; hồ Tĩnh Tâm – Mang Cá chỉ vài trăm thước, mình có Đại đội trong tay, chuyến này phải mang một cây M16, súng colt không đủ gì cả… Minh cúi người thấp ẩn dưới hàng rào chè tàu chạy như bay. Minh ngửi thấy trong không khí mùi trà ẩm và hương sen tàn bốc lên trên mặt hồ yên lặng.

    "Đứng lại! Đưa tay lên!" Một tiếng hét từ bụi rậm vang ra làm Minh hốt hoảng, bước chân bị giật ngược. Minh lăn xuống chiếc rãnh lớn bên vệ đường.

    "Đi lên! Làm gì chạy ghê vậy!" Một gã lính Bắc Việt mặt non choẹt đứng trên vệ đường hươi mũi súng ra dấu bảo Minh đứng dậy. Minh chống tay rướn người lên, bùn non ngập đến cổ tay, bùn dơ dáy và tanh mùi cống rãnh. Minh ngước mắt, tên lính chợt phì cười: "Sợ hả, lính nguỵ hay chi mà sợ? Lên đưa giấy coi". Minh ấn chiếc gối xuống mặt bùn nặng nề đứng dậy, lấy sống cánh tay áo lau ngang mặt, mắt vẫn không rời khuôn mặt nhởn nhơ đùa cợt, cong người bò lên bờ rãnh, tay lần mò tìm đám cỏ gà trên mặt đường. Bực! Luống cỏ bị bật gốc, không đề phòng, Minh ngã lộn người xuống lại. Gã lính Bắc Việt vùng cười khan, người đã gập đôi, khuôn mặt tái xanh căng ra vì nụ cười quá khổ… "Ha! Ha! Răng mà yếu quá rứa, bị bệnh phải không, còn đi học hay làm việc cho nguỵ… Ha! Ha!" Giọng Quảng Bình nheo nhéo trêu chọc, lủng củng ngắt đoạn giữa tiếng cười khoái trá.

    "Nè, nắm chân tôi đây để leo lên, rồi cho coi giấy tờ". Gã lính đứng sát vào vệ đường, chân phải đặt ngang bờ kênh, chắc nịch.

    "Nắm vào đây, leo lên!"

    Minh nằm dưới lòng cống nhìn lên. Đôi mắt vàng bệch lấp lánh ánh sáng rõ ràng dưới vành mũ quê mùa làm Minh muốn nghẹt thở. Bùn như nồng nặc và đặc cứng lại. Minh thấy mình lún xuống, chìm dần dưới những tảng bùn đen tối nhơ bẩn. "Leo lên, đợi chi nữa, nắm vào chân đây này". Gã lính choàng súng ra trước ngực cúi thấp người trên mặt đường thòng chân xuống lòng rãnh. Trời tối sẫm, mưa nặng hạt, bùn sệt đặc, mùi tanh tưởi, giọng cười chế nhạo, đôi mắt khinh thường và nỗi bình yên tự tin của năm phút trước tan biến như tia chớp đắm chìm vào trong bầu trời ủ giông đen. Lòng tự tin biến đi nhường lại cho cảm giác sợ hãi đến tê liệt, sự sợ hãi có hình khối như bùn hôi đang đeo cứng và tiếng cười, đôi mắt của kẻ thắng thế ở mặt đường. Minh rút hai chân khỏi bùn tựa vào sườn đất cứng trên mặt rãnh, hai tay nắm cổ chân của gã lính, cổ chân gầy guộc khẽ rung rinh… "Leo lên đi!" Giọng nói trên mặt đường đầy uy quyền thúc giục Minh như bị đốt cháy bởi ngàn bó đuốc lớn, nỗi sợ hãi bất chợt bị khám phá cùng với toàn thể hèn mọn của thân thể chìm đắm dưới lớp bùn hôi. Minh giật mạnh! "A!" Người gã lính trụt xuống độ dốc. Minh bước lên một bước, xong quay mặt xuống, ngửa người trên sườn dốc, cong chân phải đạp mạnh vào vai gã lính Bắc Việt. Thân hình nhỏ thó lăn nhanh xuống lòng rãnh, chiếc mũ có ngôi sao vàng lăn qua một bên. Minh nhảy xuống. Đánh! Minh đánh bằng hai bàn tay dùng hết lực, Minh móc khẩu súng colt ở bụng ra, báng súng giáng xuống mặt gã lính chính xác tàn bạo… Gã lính quơ tay chống đỡ tuyệt vọng. Minh đè xuống bằng hai đầu gối, tay trái khép lấy chiếc cổ gầy gò, ngón cái lọt vào lỗ hổng dưới yết hầu như muốn đâm thủng lớp da nhăn nheo. Máu trong mắt gã lính chảy đầm đìa ngấm xuống bùn thành từng vũng nhỏ nâu sậm. Minh trút xuống gương mặt xấu xí nhăn nhó và thất thần hết cả nỗi lo sợ khiếp đảm cùng cảm giác tủi hổ khi từ dưới lòng cống nhìn lên đôi mắt khinh khi. Minh tháo khẩu AK ra khỏi người gã lính, kéo cơ bẩm nhìn vào buồng súng. Có đạn lên nòng rồi, tốt. Minh nhắm nòng súng vào mặt gã lính. Bóp cò. Cò cứng ngắc, không chuyển động. Minh quên mở an toàn. Minh đưa ngón trỏ lên đụng chốt an toàn, lòng không thoáng chút xao động… Xác tên lính nẩy lên trên mặt bùn nghe bành bạch như con lươn trăn trở. Cuối cùng, nhát dao đâm xuống… Minh chạy trở lại hướng nhà Quỳnh Như, nét mặt lạnh tanh dưới vẻ khôn ngoan cay độc.

    Bằng nói với Đại đức Trí Không:

    "Bây giờ thầy vào trong thành nội với tôi, sau khi mình họp với Uỷ ban Khu trong đó, tôi sẽ ghé thăm nhà Quỳnh Như, thầy biết Quỳnh Như?"

    Đại đức gật đầu không nói, đi lần đến chiếc xe gắn máy của Bằng đứng đợi, không chút phản kháng trong cử động. Người đi tu giấu hết phong ba của bốn ngày qua dưới nét mặt trầm lặng u buồn. Bốn ngày xảy ra như giấc mộng, giấc mộng dài đầy sự chết, máu và lửa đỏ. Địa ngục không phải là ý niệm siêu hình. Địa ngục cũng không phải là hình ảnh tưởng tượng có tác dụng luân lý để khơi động ý hướng tốt trong lòng người. Nhưng bốn ngày qua, sự kiện xảy đến chung quanh đã tạo dựng nên một địa ngục cụ thể âm vang tiếng khóc và sũng ướt bi ai. Đại đức được Uỷ ban Lâm thời của chính quyền cách mạng uỷ nhiệm vụ điều hành đoàn sinh viên học sinh Phật tử. Nhưng đoàn thể này đã vượt hẳn ra khỏi sự kiểm soát của người tu hành, những đoàn viên và huynh trưởng mới xuất hiện. Họ được phát súng AK và đeo băng đỏ. Ngôn ngữ hung bạo hiếu sát. Họ lý luận chặt chẽ và kết luận nhanh chóng, kết luận nhanh chóng trong công việc chấm dứt đời sống người khác. Biến cố mới xếp hạng và quyết định mạng người trong khoảng thời gian tối thiểu. Mỗi người biến thành kẻ thù của người khác mau chóng không ngờ tới.

    "Ông có thằng con đi lính Biệt động quân trong Đà Nẵng".

    "Con tôi đi chứ đâu phải tôi".

    "Ông phải chịu trách nhiệm việc làm của con ông".

    "Nhưng con tôi đến tuổi phải vào Thủ Đức".

    "Tại sao không trốn lính, tại sao không đi lính văn phòng lại đi Biệt động?"

    "Cái đó tôi không biết. Nhưng trốn lính thì ở đâu? Làm gì để ăn?"

    "Con ông ra trường chưa đầy ba năm đã lên Trung uý. Hắn đã giết người để lên lon. Hắn phụng sự bọn Mỹ xâm lược để lấy tiền".

    "Giết người để lấy tiền Mỹ. Không phải vậy, tháng Tết ni tôi còn cho hắn thêm ba ngàn. Hắn không có đủ tiền tiêu…"

    "Nguỵ biện. Ông còn yểm trợ kinh tế cho bọn ác ôn côn đồ…"

    Người đàn ông bị trói tay sau lưng. Chiếc khăn đóng rơi xuống, những sợi tóc muối tiêu phủ tung trên trán. Dòng nước mắt chảy xuống gò má nhăn nheo, qua dòngg nước mắt người đàn ông hướng về phía Đại đức Trí Không…

    "Thầy nói giúp, thầy nói giúp giùm… Tôi không có tội gì hết. Tôi lên chùa của ôn luôn, thầy không nhớ tôi sao? Tôi là Khuôn trưởng ở đường Gia Hội đây. Tôi ăn chay mười mấy năm rồi, tôi có tội chi? Tôi có tội chi? Thầy nói giúp, tôi sống được, tôi cạo đầu lên chùa ở với ôn với thầy luôn…"

    Người đàn ông muốn đưa tay về trước, nhưng cánh tay đã bị trôi ngược, chỉ có đôi mắt sũng ướt, đỏ rực như đẫm máu hướng về phía người đi tu. Đại đức Trí Không niệm nhỏ câu kinh trong lòng, giọt nước mắt bi phẫn được nhét xuống cuối đáy linh hồn phong ba đang cuồn cuộn.

    Khi Bằng rồ máy, Đại đức khẽ giật mình như vừa tỉnh cơn mê. Yên lặng, người đi tu chậm rãi leo lên đằng sau.

    "Những hôm này thầy không được vui".

    "Người tu hành như tôi không thích hợp với biến động".

    "Nhưng cách mạng lại đòi hỏi những thay đổi căn bản trong giờ phút chuyển tiếp".

    "Cách mạng phải dựa trên con người. Huỷ con người thì cách mạng làm gì và để cho ai". Trong bình thản của giọng nói, nỗi bi phẫn cố giấu vẫn không tròn.

    "Phải huỷ diệt một số nhỏ phản động, thoái hoá và nguy hiểm cho cách mạng".

    "Thiểu số vẫn là con người. Người tội nghiệp và đáng quý của một nhân phẩm. Và tiêu chuẩn nào kết án để không nhầm lẫn". Đại đức đã đến cuối chịu đựng, nói không dè dặt.

    "Nếu cần thấy nên phát biểu ý kiến trước Uỷ ban". Giọng Bằng thoáng chút đe doạ…"

    "Tôi không từ chối nếu có người chấp nhận phần đúng của tôi. Uỷ ban là ai? Tôi chỉ thấy một khối cá nhân quá khích, ngay cả anh, người bạn của tôi, anh có chấp nhận lời tôi không?"

    "Hiểu ý của thầy là một chuyện, nhưng biến đổi thành hành động thì quá khó. Ít ra cũng không thể chấp nhận trong hoàn cảnh này".

    "Bây giờ chúng ta đi ngả nào", Đại đức lái câu chuyện qua hướng khác.

    "Mình qua ngã cầu Đông Ba, quân giải phóng giữ an toàn lộ trình này".

    Bằng chợt thấy lạ ở ngôn ngữ. Chỉ mới mấy ngày, toàn thể con người, ý nghĩ và ngôn ngữ của Bằng biến đổi hẳn. Bằng như mũi tên trên đường bay, khác hẳn với giờ khắc trước chỉ là thớ gỗ nằm yên trong túi lên ám khói. Con người mới hay con người thật, không có biên giới rõ rệt cho sự phân định. Bằng chỉ biết mình đang trong cơn ngây ngất như kẻ chán đời lần đầu tiên khám phá ra nỗi quên lãng hân hoan của men rượu.

    Bằng không thể ngờ được khuôn mặt sau cánh cửa là Quỳnh Như. Vẻ tươi trẻ của người thiếu nữ bốn ngày trước đã biến mất. Quỳnh Như tóc rối, da xanh xám, đôi môi khô se và hai trũng mắt sâu xuống mệt mỏi. Đôi mắt cố nhướng lên nhìn Bằng, tia nhìn không xúc động.

    "Em không mừng được thấy anh?"

    Quỳnh Như không nói, hơi hé cửa cho Bằng bước vào, Đại đức Trí Không bước theo sau thoáng tần ngần. Căn nhà đen ẩm và lạnh buốt. Quỳnh Như khêu to ngọn đèn dầu dẫn Bằng và nhà sư đi xuống nhà ngang, đứng lại cạnh chiếc hầm.

    "Đứng ở đây lỡ có pháo kích chạy vào kịp".

    "Ai bắn?" Bằng hỏi dồn…

    "Không biết, hai bên bắn lẫn nhau". Quỳnh Như nhìn nhà sư gật đầu chào. "Có nghe anh Bằng nói chuyện thầy hoài… Lần đầu tiên con biết thầy", Quỳnh Như ngại ngùng rõ rệt trước chữ con…"

    "Đây là thầy Trí Không. Bây giờ là Uỷ viên của…"

    "Không, tôi không làm gì hết. Ở đây anh khỏi ép tôi mang những chức vụ mà quả tình tôi không muốn. Xin phép cho tôi ra nhà sau, hình như nhà sau có người".

    "Dạ, có vợ chồng người bạn cậu em và mẹ tôi sau đó…"

    "Ai vậy?" Bằng hỏi dồn…

    "Minh và gia đình người bạn của nó…"

    "Sao Minh lại ở đây?"

    "Em không biết".

    "Sao em lại không biết?"

    "Anh muốn em biết gì bây giờ?"

    "Em có vẻ giận anh?"

    "Không, chẳng có gì… em mệt". Quỳnh Như dựa người vào cột nhà, mắt nhắm lại… "Mệt, đu ngôi sao vậy, em mệt thật sự".

    "Thấy anh, em không mừng?"

    Quỳnh Như không trả lời, nàng hé mắt nhìn Bằng, xong khép mi lại.

    "Em có vẻ biến đổi…"

    Quỳnh Như gật đầu. "Em biến đổi, biến đổi hết".

    "Em biến đổi vì anh, vì câu chuyện hôm 29 Tết?" Bằng nói qua hai hàm răng rít chặt, sự phẫn nộ cố gắng kìm lại…

    "Không". Quỳnh Như ngồi xuống nóc hầm lưng dựa vào chiếc cột.

    "Em có can đảm không?" Bằng trở lại giọng bình tĩnh sau một hơi thở dài.

    "Có, em đủ can đảm để sống bình thản ít nhất cho đến ngày hôm nay…"

    "Tốt, vậy thì em nói thật với anh, em biến đổi vì người bạn của Minh?"

    Quỳnh Như khẽ cười và lắc đầu. Mi nàng mở ra, ánh mắt vụt sáng tinh quái.

    "Anh nghĩ sai, không phải vậy…"

    Bằng chồm người tới trước, giảm bớt chiều cao, dán sát mặt vào Quỳnh Như, tiếng nói đứt khúc tắc nghẹn của cơn giận bị ép xuống.

    "Anh không nghĩ lầm, chỉ có em gian dối và hèn nhát…"

    "Không phải, em chắc chắn như thế, trước thì em cũng không nghĩ thế nhưng bây giờ em rõ em hơn ai hết".

    "Anh rõ em hơn cả, anh đã gần em từ tinh thần đến vật chất, tất cả biến động nào trong em dù mới phát hiện nên phản ứng mù mờ anh cũng đã nhận thấy. Hơn nữa đứa con trong em là của anh…"

    Quỳnh Như cười thành tiếng. Âm thanh rạn nứt như khối đá tan vỡ dưới vòi nước ấm.

    "Anh hiểu được em, nhưng chỉ được một phần, phần phía ngoài, và phần khác nơi sâu xa nhất chính em em cũng không hiểu… Em mang đời sống của anh trong người, nhưng tất cả đã tan vỡ…"

    "Em muốn nói gì?"

    "Không còn gì hết, hết thông cảm, hết thương yêu, hết anh, hết em, đứa con, bào thai, tất cả vỡ tan và trôi đi hết. Em có kinh nguyệt lại".

    "Bao giờ và tại sao?"

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    "Em không nói gì khác, vì mọi chuyện đã xong, em vẫn là vợ anh, vợ chính thức, vợ có đám hỏi, đám cưới. Em không chống đối gì điều này. Nhưng em bây giờ khác hẳn em trước Tết, em không còn của anh, của em nữa, em lạ với mình rồi… Mệt, em mệt".

    Bằng ôm lấy người Quỳnh Như. Thân thể người con gái bạc nhược lạnh lẽo. Bằng không nghe được tiếng tim đập rộn rã của tình yêu. Tình yêu đã chết. Bằng muốn bóp nát Quỳnh Như trong vòng tay tuyệt vọng.

    Bằng và Đại đức Trí Không qua cầu lúc trời nhá nhem tối, trời lạnh, sương dày kín, nhịp cầu màu đen đậm nét trong sương mù. Xe lên dốc không nổi, Bằng phải bước xuống đẩy, Đại đức lầm lũi đi theo yên lặng, như màu nâu trầm tĩnh đậm nét nhạt nhoà trong bóng tối ẩm ướt.

    "Mấy năm trước những đêm mưa tôi thường hay đến đây, đứng trên cầu nhìn xuống dòng sông, mưa bay chập chờn trôi dạt theo cơn gió, ánh đèn từ chân cầu dội từng vòng ánh sáng xuống mặt nước xôn xao sóng nhỏ…"

    "Chắc thú vị lắm. Ở trên chùa khi trời mưa tôi đứng trên đồi cao nhìn về thành phố, chỉ thấy từng khối nâu đỏ trong màn mưa… Tôi cũng thích nhìn mưa bay, mưa ở núi ủ dột héo hắt…"

    "Nhìn hoài cây cầu trong màn mưa, dần dần tôi xem nơi này như chốn quen thuộc, đêm mưa gió thế nào tôi cũng đến đây. Khuya khoảng một, hai giờ sáng, thành phố yên lặng, chỉ còn mỗi hành động thê lương là tiếng mưa và màn mưa chuyển động trên ngọn sóng. Trong bóng đèn vàng, tôi thấy như vũ trụ vô tri có linh hồn đang đau đớn dằn vặt. Và tôi cứ đắm chìm hoài trong nỗi dằn vặt vô duyên cớ đó. Và sau một thời gian nỗi dằn vặt vô hình biến thành khổ đau nặng nề cụ thể đè mãi xuống. Tôi cứ có cảm giác bị bóp cổ, bị kìm kẹp, đè nén, nói không được, đi không được… Bao nhiêu ý chí phấn đấu tan rữa dần. Có những đêm mưa tôi đứng ở thành cầu nhìn xuống khoảng sông xao động tưởng như bị cuốn hút lập lòe, có lời mời mọc im lặng êm dịu mê đắm nào dưới lớp nước trôi nỗi vàng đục đó… Trời sáng, mưa hết hạt, ánh đèn nặng nề u ám hơn, trời trong vắt thênh thang, mưa bay đi, tôi tỉnh dần dần trong không khí mới mẻ của ngày vừa bắt đầu. Bao nhiêu lâu như thế tôi cứ tự hỏi mình có phải nghiêng quá độ về sự chết? Nhưng thật ra không phải thế, tôi yêu đời sống, yêu quá nữa là khác, nhưng đêm mưa và mặt nước sông sao cứ quyến rũ tôi tan biến vào đấy…"

    "Bây giờ chuyện ấy vẫn còn".

    "Hết, hết từ hồi tôi bắt đầu đi dạy".

    "Có tiền coi như một thành công". Đại đức cười nhỏ sau câu nói.

    "Không phải vậy, đi dạy có tiền, có thêm những nhu cầu mới, mỗi ngày các nhu cầu vật chất càng chất đầy hơn, siết mạnh vào. Thế là hết băn khoăn vô duyên cớ, hết đau đớn siêu hình, chỉ còn lại những tính toán bẩn chật, ước muốn nhỏ nhặt… Tôi như cây bị khô lá dần dần, lá khô từ ngọn lần xuống gốc, khô khan gãy vụn từng phiến mỏng… Và thế là hết tiệt mưa gió, bão tố, mặt nước sông, sương mù, ánh đèn chao động, tất cả trôi dạt vào cuối ký ức. Mỗi khi qua cầu, tôi hững hờ xa lạ như qua nhà lạ, qua nơi không quen. Xúc động ba năm trước như một tình cảm giả hình".

    "Như vậy là tốt. Thực tế làm chân thật với lòng hơn".

    "Một thứ chân thật khốn nạn, chân thật hèn hạ hết thời".

    "Tôi không nghĩ như thế, sự thật đâu phải tầm thường, sống trong đời thì phải chịu đựng nỗi tầm thường đó. Giữ tâm mình vững và trầm tĩnh không để bị lôi kéo ràng buộc quá nhiều…"

    "Tại vì thầy đi tu. Tôi thì khác, có những khó khăn người đi tu không có như người thường, hoặc nếu có thì cách giải quyết cũng khác… Như tình yêu chẳng hạn".

    "Tình yêu?"

    "Tình yêu trai gái, giữa đàn ông và đàn bà, giống đực và giống cái… Các thầy đâu phải chịu hệ luỵ bởi vấn đề này…"

    "Tôi nghĩ đó đâu phải là khó khăn, đau đớn cho anh, nhất là anh toại nguyện với tình yêu, nghe nói anh đã có làm lễ hỏi với cô Như".

    "Vâng". Bằng lặng lẽ tiếp tục đẩy chiếc xe. Thành phố Huế chìm hẳn vào bóng tối. Đạn bay vạch từng đường đỏ dài trong nền trời.

    "Có điều gì làm anh không vừa ý?"

    "Thầy có gặp sau nhà Quỳnh Như mấy người lính Nhảy dù?"

    "Có anh Minh em cô Như và vợ chồng người sĩ quan bạn anh Minh. Anh có quen với Minh?"

    "Như vậy là hai người, họ mặc đồ lính?"

    "Không, áo quần dân sự, nhưng anh để ý làm gì?"

    "Tôi không thích lính".

    Đại đức Trí Không dừng lại nhìn Bằng. Giọng nói lạnh lẽo khô cứng, rờn rợn như lưỡi dao chậm rãi xiết trên đá nhám.

    "Anh có ý định gì với những người lính đó? Những người lính không súng. Anh thấy người bạn của anh Minh gần bốn mươi tuổi, hai đứa con và người vợ vây chặt. Tôi gặp ông này vài lần ở trên chùa, đó là người đàn ông bị lôi kéo bởi cảnh sống, tôi chẳng thấy tàn bạo, thù hằn ở nơi người đàn ông cằn cỗi đó. Họ chỉ được gọi là lính qua bộ áo quần và khẩu súng, người của Mặt trận, người của Uỷ ban gọi họ là kẻ thù khi họ có những vật dụng kia trên người. Riêng anh và tôi lấy tiêu chuẩn gì để xem họ là kẻ thù … Tôi là người đi tu, bị kẹt vào hoạt động này trong khoảng thời gian trầm luân giới hạn. Tôi không có kẻ thù, tôi nhìn người đúng vị trí và giá trị của mỗi cá nhân, anh cũng thế… Anh chẳng có kẻ thù nào hết ngoài con người ngang ngược biến đổi trong anh…"

    "Thầy có lý của thầy. Riêng tôi nếu có làm một điều gì khác với tâm tính mình thì đó chỉ là thái độ bồi đắp cho tập thể đã nuôi dưỡng mình. Tôi được sung sướng và yên ổn trong đoàn thể, cái lý của tôi do đoàn thể tạo thành".

    "Thế anh định làm gì? Anh đi tố cáo cho tiểu ban thanh trừng và hành động? Cái hố đằng sau trường học đã đầy rồi, người chết quá đủ, toàn người Huế, người của xóm anh ở… Có điều gì biến đổi anh thành tàn bạo?"

    Bằng im lặng đạp nổ máy. "Thôi thầy leo lên ngồi, thầy cẩn thận nghe tiếng départ của súng đại bác thì nhảy xuống hố. Uỷ ban Lâm thời tối nay họp lúc 8 giờ tại chùa D. Có thể có những quyết định liên quan đến tình hình quân sự, mặt trận ở khu hữu ngạn có vẻ bất lợi cho phe ta".

    Phe ta. Đại đức Trí Không mỉm cười. Trên tấm áo nâu này, Đại đức đã mang thêm một nhãn hiệu. Xe chạy, gió lạnh nhưng tai Bằng nóng đỏ. Lý của đoàn thể, Bằng có thấy có điều gì bất toàn không thật trong luận lý vừa nói. Thân thể lạnh giá và tia nhìn trống rỗng của Quỳnh Như như luồng gió sắc buốt xuyên qua da thịt. Nỗi hờn giận mất máu ngùn ngụt cháy lên làm hoa mắt. Bằng phóng xe chạy như điên trong bóng tối, con đường nhỏ gập ghềnh. "Thầy giữ hộ tôi cây súng, xe chạy nhanh nó rơi mất". Đại đức Trí Không vòng tay rút khẩu súng ở bụng Bằng.

    "Anh Bằng cho tôi xuống đây".

    Xe chạy chậm. Bằng hỏi dứt tiếng. "Thầy xuống đây làm gì, mình về chùa gặp anh em, đúc kết ý kiến trước khi vào hội để khỏi có trở ngại…"

    "Anh cứ để tôi xuống, tôi có việc nói ngay bây giờ".

    Xe ngừng, Bằng chống chân xuống đất. "Thầy muốn nói điều gì?"

    "Anh có ý định tố cáo anh Minh và vợ chồng người bạn với Tiểu ban Thanh trừng?"

    "Thầy có quyết định gì?"

    "Tôi không có quyết định gì hết, tất cả chỉ do anh".

    "Nếu tôi tố cáo".

    "Tôi… bắn anh".

    Bằng cố nhìn đôi mắt của Đại đức, nhưng chỉ có đêm đen và mưa phùn trước mặt. Trong bóng đen mờ mịt nổi lên một bóng dáng đậm đà.

    Bằng chống càng xe:

    "Thầy không nói điều gì quá lòng thầy?"

    "Tôi đang tự hỏi. Tôi có can đảm bóp cò súng không?"

    "Thầy đã quyết định?"

    "Những người lính đó với anh không thù oán, anh nên trở lại với bản tính của tháng năm trước, có điều gì làm anh hung bạo?"

    "Có điều gì biến đổi tôi thành hung bạo?". Đêm chung quanh như thắp sáng bởi ngàn cây đuốc, có tiếng reo hò chế nhạo, giọng cười ùn ùn như bão lớn, ba mươi năm sống, bao nhiêu ăn học, mối tình tuyệt vời cay đắng, tình yêu tinh thể quý giá của linh hồn… Còn gì nữa sau khi cơn bão đã thổi qua, cơn bão mặn đắng nước mắt và tanh nồng tủi hổ. Có gì lạ nữa trong Bằng ba mươi tuổi ngày ngày với viên phấn đứng trước mấy mươi tia nhìn soi mói và Quỳnh Như đôi mắt trống rỗng, xa vắng… "Đúng là hết". Bằng cười nhỏ. Tiếng cười lớn dần, lớn dần.

    "Này thầy, thầy có đủ bình tĩnh để bắn tôi không?"

    "Anh nên giữ bình tĩnh để đừng phạm vào tội ác vô lý. Không có quyền lực nào bắt mình phải từ bỏ tâm linh sáng suốt của mình".

    "Đúng, thầy nói đúng, chẳng có quyền lực nào hết, chỉ có tâm tư bềnh bồng, chỉ có tim ta lao đao biến đổi. Nhưng thầy là người đi tu, thầy đâu biết được những ô trọc phiền hà của đời sống, cây đời thầy vững vàng tươi tốt, còn cành lá tôi mục nát khô héo, không ai đốn tôi ngã, ruột tôi nung nóng, vỏ tôi khô và chết lần. Chính tôi làm tôi chết, không phải, phải nói tôi chết dần từ phần bên trong chết ra, chết chắc chắn, chết đến như cổ bị nghẹt từ từ. Chết vì mang con trùng độc trong người, con trùng đời sống. Thầy đi tu, con trùng của thầy được ăn chay, nghe kinh kệ chuông mõ nên nó sống tịch mịch, đứng ngồi êm ả, riêng con trùng của tôi cựa quậy, trăn trở, cào cấu cắn xé không ngừng. Con trùng thầy hiền lành, dễ bảo, sống không đòi hỏi, không nhu cầu. Trái lại con trùng của tôi có nhiều dục vọng, nó được dạy dỗ nuôi nấng bởi thói xấu, những thói xấu đẹp đẽ thiết tha, nó ăn thức ăn khát vọng và uống rượu tình yêu, thứ rượu mạnh hừng hực, nhưng men rượu cũng có khi tàn, khi tỉnh cơn thì buồn lắm thầy biết không … Khi tỉnh rượu lúc tàn canh… Cụ Nguyễn Du tuyệt tác thật, cả hệ thống buồn chán đầy cứng cụ chỉ viết lại vừa hai câu thơ đúng mười bốn chữ, mười bốn chữ giản dị lăn lóc đây đó được cụ ghép lại thành một trường sầu hận… Nhưng tôi giải thích với thầy làm gì? Tôi mệt. Em… mệt. Quỳnh Như dùng chữ thật hay, đúng ra có sống qua giây phút đó mới biết cách diễn tả sâu sắc cô đọng như thế. Đúng, tôi mệt lắm, tôi không có lý luận quanh co nữa. Tôi sống giản dị như mọi người. Tôi ghen ghét, ước mơ, mê đắm một cách tủn mủn nhỏ nhặt. Tôi như vậy đó, thầy muốn gì ở tôi. Tôi đi tố cáo. Tôi ghét lính. Lính làm tôi xấu hổ. Tôi đứng trong lớp học làm điệu làm bộ, giả vờ nghiêm trang, đóng kịch trí thức phản chiến, ghét bạo động, thấy sáng tỏ được nỗi phi lý của đời sống nhưng tựu trung tôi là thằng trốn lính, tôi sợ đi Thủ Đức. Khổ lắm, thầy đâu biết thế nào là lối sống của lính. Thầy ở góc núi, ăn cơm nhạt, nhưng như thế đâu đã khổ, thầy có an vui tự tại, thầy có tự do, thầy được sung sướng … Đi lính, mang cây súng, đội nón sắt, đi hoài, cả đời sống được đặt trên đôi chân, đôi chân được một lớp da giày che phủ, xong cứ bước bừa tới trước. Chân mang thân, thân sụp xuống dưới gánh nặng của súng đạn ba lô và thế là đi… đi hoài, vì "đi lính" mà thầy … Trong nguyên nghĩa đã có động từ đi, thầy thấy không? Đi lính, thế là đo cho hết chiều dài, chiều rộng của quê hương, đo cho hết nỗi điêu linh, đo cho cùng thống khổ… Tôi không có ước vọng cao đẹp khốn nạn đó, tôi sợ nó. Tôi kinh khiếp đến nổi da gà, đến lạnh sống lưng, tôi không chịu nổi cảnh khổ thê lương của người lính, tôi sợ nên tôi trốn, sợ nên tôi ghét, sợ nên tôi nói láo. Với chính tôi, tôi biện luận bào chữa để được yên ổn. Nhưng khi nhìn thấy một người lính tác chiến trong bộ áo quần nhàu nát tạt qua thành phố, đám tang quạnh quẽ với quan tài phủ quốc kỳ run rẩy trên sàn xe GMC, người thương binh vừa ở bệnh viện ra, da trắng xanh vì mất máu, máu khô của hôm bị thương còn đọng ở chân tóc, ở vành móng tay … Họ đã mê thiếp kiệt lực trong cô quạnh tủi cực từ lúc ngã xuống ở chiến trường cho đến ngày xuất viện. Chắc chắn không có sự săn sóc nào nên trong vành đôi mắt còn lớp bùn khô của cuộc hành quân lần cuối. Thầy thấy người lính cụt chân chống nạng đứng chờ xe lam chưa. Đó, tôi hổ thẹn và sợ hãi với hình ảnh đó, tôi từ chối cái vinh quang nhức buốt thê thảm được làm lính… Và như thế, tôi dối được tôi thật lâu, nhưng bây giờ thì hết. Tôi căm thù sợ hãi người lính một cách công khai. Họ làm tôi tủi nhục và sợ hãi. Họ làm tôi tủi nhục và đau đớn, họ làm tôi hết dối trá với tôi được. Tôi ghen ghét, rủa nát và kinh sợ những người lính… nên, tôi nói là tôi làm, tôi đi tố cáo. Họ không cho tôi yên ổn nên tôi báo thù. Thầy nghe rõ chưa, tôi đi báo thù, thầy nghe chưa, tôi đi tố cáo… hai thằng lính Nhảy dù đó…"

    *

    Tháng Tư, năm một ngàn chín trăm sáu mươi tám, hai tháng sau biến cố Mậu Thân tại Sài Gòn trong một căn phòng hai giường của bệnh viện, Thuấn ngồi vắt vẻo trên giường dưới chân Minh nhìn qua giường Lạc, vài người sĩ quan khác ngồi đứng đối diện với hai người bệnh.

    "Em trai xui rồi, tụi tao đánh như điên lòng vòng hết cả thành phố Huế không sao, đến lúc mày với ông Lạc tìm về được Tiểu đoàn thì ăn ngay một trái B.40, chắc phải xin thuyên chuyển mày về với Việt Cộng". Thuấn nhìn nhìn chiếc giường khi nói, đầu gật gù.

    "Ấy ông nhún thế mảnh B.40 trong người nó chạm vào nhau nghe lạo xạo kinh quá". Lạc đứng lên chêm thêm câu pha trò, cả bọn khúc khích cười. Minh cố gắng nhếch mép để nói nhưng không nổi…

    "Đau quá, đừng chọc tôi nữa, cười không được, cười đau bụng, bụng mới mổ lắc lư quá chịu không nổi".

    "Tụi tôi cũng muốn đến thăm hai Trung uý …" Một anh Thiếu uý nhỏ nhẹ nói… "Ấy mà hình như Trung uý có giấy lên Đại uý rồi".

    "Khi nào có thì gọi, gọi trước chỉ lúc vừa chết mới đúng, đằng này nó chưa chết được thì gấp gì". Thuấn cắt ngang câu nói của viên sĩ quan.

    "Dạ vâng, nhưng vì vừa về đến Sài Gòn Tiểu đoàn mình phải đi ngay về Hốc Môn, đến bữa nay chúng tôi mới rảnh nên đi theo Đại uý Thuấn và đến đây thăm hai Trung uý".

    "Xong rồi, nói vậy là đủ, bây giờ đến phiên tôi hỏi các ông mấy chuyện, vì lúc các ông về lại Tiểu đoàn thì tôi đang kẹt ở trong sân bay thành nội Huế, không gặp ông với ông Lạc được, tiếp theo là ông bị thương, ông Lạc ngã bệnh, đau gan đau phổi gì đó nó hành… Tiên sư lính Nhảy dù Tây để lại, vì sợ quá mà gan ruột teo vào nên phát ốm…"

    "Ấy không phải, lúc ấy hoạ may có chó mới đi khai bệnh, tôi đâu có hèn như thế, nhưng quả tình tôi không kiểm soát nổi. Mười mấy năm lính tôi đâu có ngán thứ gì, cú rút lui khỏi Cao Bằng vừa đánh vừa chạy suốt mấy trăm cây số tôi còn chịu nỗi, rồi ở Điện Biên Phủ nội cái cứ điểm Béatrice mà phải đánh lui đánh tới mấy lần, tôi thuộc về 6 ème BPC, Tiểu đoàn trừ bị, sau khi cha Tiểu đoàn trưởng năn nỉ bộ chỉ huy mới cho lệnh đánh Béatrice. Chính Đại đội tôi là nỗ lực chính, tôi là Thượng sĩ làm Trung đội trưởng đi đầu. Tiên sư tôi đá đít Tây chạy có cờ… Nhưng cú ở Huế, kẹt có vợ con bên cạnh tôi lúng túng như bị cột hết tay chân và cứ có cảm giác đạn lúc nào cũng bay về phía mình, 105 của mình bắn cách chỗ trốn cả trăm thước mà tôi cứ nghĩ nó nổ bên cạnh… Suốt từ khi trốn ra khỏi khách sạn, ông Minh bảo gì tôi làm theo đó, tôi không tự chủ, quyết định một việc gì, khi về đến Tiểu đoàn là tôi sụm luôn, chẳng biết trong người có cái gì, nhưng tôi đứng không được, thở không nổi… Hình như sau những ngày quá căng thẳng, thần kinh tôi không co lại được về vị trí cũ, vì trước đó cứ nhắm mắt là tôi tưởng đến cảnh hai ông con bị đạn banh ngực chết, liên tiếp một tuần tôi không ngủ, người khô khan như nướng chín… Về đến Tiểu đoàn tôi ngã xuống không gượng nổi".

    "Được rồi, như vậy chuyện ông đã xong, còn ông Minh…"

    "Tôi có gì?"

    "Cây súng?"

    "Cây súng nào?"

    "Khẩu colt Trung Cộng. Ông bị thương thì ngất ngư liền, thằng lạc đà của ông nó đem qua gởi tôi, ông lấy được bao giờ? Vì tôi nhớ khi ông về đến Tiểu đoàn là 4 giờ chiều, 5 giờ ông bị thương ngay, gần hồ… hồ Tĩnh Tâm. Tĩnh Tâm là gì mà nổ như sấm… "Tĩnh Tâm, mặt hồ yên lặng, bùn non và hương sen, nụ hôn người con gái Huế. Thuấn chợt chùng lòng, tưởng như đang nhớ lại một quãng đời đã xa khuất từ lâu. "Tôi nhớ rồi, hồ Tĩnh Tâm, ông bị thương lúc ấy thì cây súng ở đâu ra?"

    "Của ông thầy chùa!"

    "Ông thầy nào?"

    "Các ông nhớ cái chùa sau núi Ngự Bình dưới lăng ông Ngô Đình Cẩn?"

    Những tiếng lao xao: "Nhớ… Nhớ…"

    "Ông thầy chùa cho tôi".

    "Cho ông từ lúc Tiểu đoàn mình đóng ở đấy hả?"

    Thuấn chăm chú hỏi.

    "Không, sau này, lúc tôi và ông Lạc trốn ở nhà bà chị tôi. Ông ta đến một lần với cha anh rể, có nói chuyện với tôi và ông Lạc một chút, rất vui vẻ và dễ chịu, mặc dù trong đạn lửa chết chóc ông vẫn bình thản hoà nhã, khuyến khích tôi với ông Lạc sớm về đến Tiểu đoàn. Nhớ đến chuyện ngày đó tôi cứ ngượng đến chóng mặt, ai đời mình là lính lại được một ông thầy chùa khuyên bảo giữ bình tĩnh khi nghe 105 nổ. Phần ông Lạc thì hiểu được, vì chuyện vợ con nên ông ta tê liệt phản ứng, riêng tôi chẳng bị ràng buộc vào chuyện gì mà cũng cứng ngắc người vì lo sợ, hèn thật…"

    "Rồi ông ta cho ông khẩu súng trong buổi nói chuyện đó?"

    "Không, lúc ấy là buổi chiều, đến tối ông ta trở lại".

    "Sao lại buổi tối?"

    "Tôi không rõ, chỉ biết khi ông ta và anh chàng lấy chị Như ra khỏi nhà lúc 5 giờ chiều, khoảng 8 giờ tối chúng tôi nghe tiếng gõ cửa. Cả nhà lạnh cứng vì sợ, ai cũng tưởng Việt Cộng đến bắt chúng tôi. Ông Lạc chạy quanh hai con như gà mắc đẻ, tôi lên đạn khẩu AK".

    "Khẩu AK nào nữa?"

    "Chuyện ấy để sau kể, sau cùng là chị tôi đánh bạo ra mở, vì tiếng gõ cửa không hấp tấp đe doạ…"

    "Rồi ông ấy nói với ông những gì?"

    "Không, ông chỉ nói mấy câu nhỏ: Tôi đưa anh và vợ chồng anh Lạc qua khỏi hàng rào bố quân của lính bên kia, và ông đưa tôi cây súng để làm kỷ vật".

    "Ông không hỏi xuất xứ của cây súng?"

    "Lúc đó nửa mừng nửa lo, tôi không để ý, ông ta đưa thì nhận. Bây giờ tôi cũng không rõ tại sao ông ta làm vậy, và cây súng ở đâu ra? Cây súng có gì lạ không?"

    "Không, như những cây súng khác, nhưng hình như vừa bị bắn xong, kẹp đạn bị mất đi 3 viên, ông có bắn viên nào không?"

    "Làm gì có thời giờ, tối đó trốn theo ông thầy, cả ngày sau ngồi đợi Tiểu đoàn, sáu giờ chiều bị thương, tôi chưa nhìn kỹ nó một lần".

    "Ông thấy ông thầy chùa có gì lạ không?"

    "Làm sao thấy được gì, lo sống không nổi làm gì để ý đến người khác, nhưng tôi nhớ một điều: tối hôm đó ông ta có vẻ buồn nản dằn vặt kinh khiếp lắm, khác vẻ bình lặng trầm mặc của ngày thường…"

    Khi bước xuống cầu thang bệnh viện, Thuấn nhớ hình ảnh người tu hành ngồi yên lặng nhìn khói thuốc bay lãng đãng trong nắng chiều vàng đục của một ngày cuối năm. Hình ảnh lặng lẽ bình yên này phút chốc như cơn giông lớn bùng lên ngùn ngụt che khuất một thoáng nhớ nhung mơ hồ về người con gái đã yêu Thuấn trong một chớp ngắn ngủi giữa nỗi triền miên dằng dặc của cuộc đời. Hình ảnh lặng lẽ bão bùng phảng phất nỗi đau đớn không nói được cùng người.


  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Lời bạt

    Chỉ là câu chuyện giản dị của những người lính trong một thời gian dồn dập… Chuyện bình thường, phẳng phiu, không là bản anh hùng ca rực rỡ uy dũng, cũng không đậm nét bi thương làm đọng cứng linh hồn – Chỉ là phản ứng cấp thời của người lính cố tìm lối sống trong cái chết trùng điệp… Phản ứng cấp thời nên ngắn hạn và chóng vánh nhưng mang nỗi thụ động tội nghiệp, đến đỗi ngậm ngùi…

    Mỗi chiến tranh khai sinh ra một lớp anh hùng, mỗi thời đại, biến cố cần thiết một loại người tổng hợp… Chiến tranh Việt Nam kéo quá dài, dài hơn biến cố khởi đầu, dài hơn ước tính chiến lược của những kẻ chủ tâm khởi xướng, chiến tranh Việt Nam dài bất tận, dài miên man được chuyển đi miệt mài trên lưng của hàng triệu con người, những người kinh sợ chiến tranh hơn bất cứ chủng tộc nào của nhân loại… Thế nên chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến không có anh hùng.

    Cuộc chiến chúng ta không có những André, anh hùng trí thức của Chiến tranh và hoà bình, không có Robert Jordan, người chiến sĩ tự nguyện tìm chân lý đời sống qua nỗi chết của Hemingway, chúng ta cũng không có những người thấm mệt của Irwin Shaw… Đây là chiến tranh của người bình thường, người vì đã sống nên phải chiến đấu, người biết yêu đời, yêu người, người thương thân và tự nhiên phải dự phần vào chốn đao binh với linh hồn không chút bạo ngược. Nhưng những người lính đó đã chiến đấu đúng cỡ. Chiến đấu đúng "tiêu chuẩn" chiến trường. Hai mươi năm dài hay hơn nữa, người Việt Nam vẫn đứng vững được trước mọi sức tấn công vì cuộc sống đã đồng nghĩa cùng đời chiến đấu. Lẽ tất nhiên người lính đối phương, phía Cộng sản, lại là một chuyện khác.

    Tuy tràn ngập với đời sống, thế nhưng người lính Việt Nam vẫn là hình ảnh lạ lùng với người… với chính bản thân. Yếu tính lính, tuy chỉ là yếu tố ngoại nhập nhưng không thể cưỡng chế, không ngăn chận nổi. Qua tấm áo, người lính là một sinh vật dị kỳ. Thế giới riêng rẽ dần được tạo dựng. Sinh vật lính tội nghiệp quay cuồng lổng chổng hỗn loạn vào cùng nhau trong khói súng, máu và sự chết… Bản chất con người muôn thuở vẫn còn đấy nhưng qua tháng năm dài tanh mùi máu, qua phút giây đằng đẵng dằng dặc khói bom, người lính biến dạng thành người lạ, biến dạng thành thiên thần, lắc mình thoát nên quỹ dữ… Bản năng được khai phá tận cùng, tội lỗi bốc đầy phủ phê. Lính-sống-cùng-đời-lính không kẽ hở, không phân ly… Yếu tính tạm thời trở thành căn bản, tưởng như gió thoảng ngoài xa nào ngờ bão tố dậy sấm trong lòng. Sinh vật lính vùng vẫy tung hoành trong lòng thế giới ầm vang cô quạnh riêng tư.

    Đang sống trong đời không ai có thể biết hết cuộc đời. Chưa chết không thể hiểu về cái chết. Nhưng có những cuộc sống dựa vào nỗi chết, đặt căn bản trên nỗi chết. Chết không phải là biến dạng, nối tiếp cuộc sống… Nhưng chết ở bên cạnh, ở sau lưng, trước mặt, trùng trùng kín mít giăng giăng bao lấy sự sống… Sống và chết là trạng thái hỗn hợp không kẽ hở. Chết là một cách thế thường trực của sống. Trong "cuộc sống" quái dị kinh hoàng bình thường lặng lẽ đó, người lính Việt Nam đã sống như thế nào?… Quá nhiều dòng chữ đã nói về lối sống nọ. Nhưng chỉ nói được lúc người-lính-sống. Qua khỏi biên giới không xác định giữa khi quả đại bác ra khỏi nòng và tiếng nổ, qua khỏi lúc quả mìn nổ ở khinh binh đi đầu, khói bụi tung cao, âm thanh còn lồng lộn trong óc, mắt rực một màu đỏ mịt mù… Trí não giãn ra chớp nhoáng, lại vẫn còn nghe tiếng "tách" khô ngắn của kim hoả đập vào khối nổ… Trong toàn thể âm – dương, tiếng động mịt mùng và im lặng lạnh lẽo. Người lính "nghe" được cùng một lúc: mình bị mìn… mình còn sống. Phút giây rùng rợn bi thảm độc địa đó là cuộc sống thường hằng của riêng mỗi người lính – Không ai có thể viết ra thành lời được. Không thể một ai viết được vì không ai có thể sống cùng.

    Là một người lính nên có được hoàn cảnh qua chặng đường độc địa ghê gớm trên, cầm bút cố gắng biểu hiện qua dòng chữ nguồn gốc lối sống gây quá nhiều ngộ nhận. Và cũng là để biện hộ giải thích cho chính bản thân. Nơi địa chấn từ lâu đang âm ỉ…

    Vấn đề vừa được đặt ra vấp ngay hố lớn ngỡ ngàng. Khi cầm bút chỉ còn là người viết-văn-bình-yên ghi lại biến cố mà dù hắn ta có dự phần trong giờ phút này cũng đã xa lìa mất hút. Viết có nghĩa không phải là viết riêng cho một cõi-trong-ta, viết ở tinh tuý là nói-cùng-người về ta hay một người nào khác, một đời nào khác… Nhưng viết gì trong chiến tranh? Lại thêm điều khó nói. Nếu bảo rằng chỉ cần kể đến cảnh đời gian khổ và hành động can trường của đời lính thì quá giản lược. Gian khổ quả là một tính chất, nhưng không là tính chất độc nhất, chính yếu, càng không là không khí tổng quát của chiến tranh… Đói, khát, đau đớn, sợ hãi, gian nguy là những góc cạnh đa diện của đời binh lửa, người lính đắm chìm và miệt mài trong đó. Họ hãnh diện với cơ khổ tân toan của mỗi ngày chiến trận, dạ dày quen một ngày một bữa ăn – Gian khổ, trong khía cạnh tích cực là phẩm chất đẹp riêng tư của đời lính chiến – Không phải là yếu tố gây nên tan vỡ, tuyệt vọng. Vậy yếu tính cuộc chiến ở đâu? Lại phải tập trung, gạn lọc, định lượng dần với một nỗ lực lớn để khám phá ra những động tác, lời nói rất thường bề ngoài, bao phủ thêm bởi hệ thống sự kiện rất sôi nổi, bắt mắt, lôi cuốn… Đời sống vốn đã phức tạp và đa diện, đời binh đao lại thêm phần sôi nổi, đa đoan. Viết với sự ôm đồm quá mức, bản văn lần trở thành tập tài liệu ghi đủ các sự kiện, sự cảm xúc vắng bóng không tránh khỏi… Viết ôm đồm quá nhiều, đời lính quá vô cùng mang thêm vẻ ồn ào kệch cỡm đầy âm động bề mặt rất bình dân hạ dần xuống bọt bèo rẻ rúng…

    Viết về cuộc chiến, ắt phải đề cập đến nhân vật chính – Người lính. Nói rõ thêm tính chất của nhân vật chính đó. Thời đại chinh chiến này chỉ có người lính, kẻ mang nghiệp nhà binh, vắng bóng toàn thể anh hùng, vắng và mất hẳn. Anh hùng chỉ là một phản ứng cấp thời – Phút giây ngắn mà kẻ "hào kiệt" bộc phát đó không bao giờ nghĩ đến và suy diễn thành hệ thống luận lý. Chiến tranh này là chiến tranh khoảng cách, khoảng cách từ hai khinh binh mỗi bên, khoảng cách từ nòng đại bác đến mục tiêu, khoảng cách từ phi cơ xuống đất… Khoảng cách đó co giãn tuỳ theo khả năng viễn xạ của vũ khí người lính sử dụng. Anh hùng không còn giữa khoảng trống thật rỗng này. Người lính sống, chết và làm anh hùng do một tình cờ không kiểm soát.

    Viên đạn đi đến, xoáy một lỗ hổng đỏ tươi trên da thịt, người lính đứng tròng, da xanh xám, cúi xuống nhìn máu từ thân thể chảy ra từng dòng ngấm xuống đất, đọng thành vết nâu sẫm trên nên cát xám… Chết! Chữ khô nhỏ vang động trong một khoảng giây rất ngắn. Người lính "cảm" thấy nhanh như tia chớp toàn thể cuộc đời – Đau thương, hoan lạc, khốn khổ, u uất chen lẫn xô bồ hiển hiện trong một chớp mắt – Viết được hết cái "chớp mắt" này không? Chắc là không, không thể được, vì chỉ có người lính đó mới cảm nhận được một lần - Lần độc nhất - Giây phút thiên thu bí nhiệm bão bùng đó. Chỉ có mỗi anh ta qua lằn ranh của sống chết, anh ta đi một mình. Thế nên, viết được gì? Viết làm sao được "sát na" đau đớn linh diệu ấy… Và viết cho ai? Làm gì? Người lính đã chết…

    Thấy hết vẻ tang thương vô ích của hàng chữ viết, nhưng trên tờ giấy ngòi bút vẫn chạy đều… Trong tuyệt vọng im lặng người viết vẫn muốn khai triển, muốn "nói" một điều gì canh cánh – Sự diễn tiến thành hình của đoàn thể hắn tích cực tham dự. Ngày 13.4.1949, lực lượng quân sự Quốc gia đầu tiên được thành hình – Vệ binh Quốc gia – Tập họp của Bảo chính Đoàn, Vệ binh Nam Việt, Vệ binh sơn cước… Những người lính bị cưỡng ép nằm ở trong tay một khẩu Mat 36 hoặc Mousqueton bắn từng viên một, nòng súng không đường khương tuyến và "Quốc gia", danh hiệu mù mờ với ông vua được gọi là Quốc Trưởng nằm ngoài hệ thống thể chế lập pháp của toàn thế giới.

    Năm 1951, lực lượng vệ binh dần được chính quy hoá không phải do nhu cầu căn bản của Quốc gia nhưng để làm mạnh lập luận "chống Cộng" của ông Tây De Lattre muốn nguỵ trang bàn tay thực dân bởi máu đỏ của đám Phụ lực quân được đóng khung trong những "ổ" bê-tông bao bọc châu thổ sông Hồng… Xong rồi, tôi đã thuyết phục được anh vua ù lì để hắn ta chấp thuận "chính quy hoá" quân đội Annamite!! (Trích Lucien Bordart). Quân đội Quốc gia đã được đẻ non sau một cơn hiếp dâm tàn bạo, đẹp mặt hơn, nó lại được chỉ huy bởi một vị Tổng tham mưu trưởng lừng danh – Thiếu tướng Hinh. Gã Tây con local mang thực dân tính nhiều hơn bất cứ một anh Tây chính gốc, gã tay chơi lái tàu bay Spitfire, Junker, ý niệm quốc phòng không thoát khỏi buồng lái chiếc bà già Morane Saulnier và thành công cụ thể của võ nghiệp sau thời gian dài phục vụ cho nước mẹ – Một chị đầm bán cà phê ở Bắc Phi được mang về Việt Nam, chị đầm có bộ ngực lớn nhất Đông Dương!!

    Được khai sinh trong hoàn cảnh ngất ngư, được nuôi dưỡng bởi bàn tay ghê tởm của những người chỉ huy mà ý niệm Quốc gia chỉ là tiếng nói phảng phất mơ hồ được đọc lên một cách kỳ lạ sau những cơn thử lửa với cường độ tiêu huỷ hàng ngàn sức mạnh to lớn hơn… Năm 1954, chiến tranh tạm ngừng để nhận thấy rằng, bất kỳ dưới danh nghĩa nào, tổng số người chết mang chủng tộc Việt Nam của Quân đoàn Viễn chinh… Chiến dịch Castor hay trận Điện Biên Phủ hạ màn với 13.050 chết và bị thương có một phần ba quân nhân Việt Nam (theo B. Fall). Bắt buộc người ta phải chấp nhận sự có mặt của người lính Việt Nam – Những người lính chết trước khi được xác nhận vì Tổ quốc!! Và người lính "siêu vô danh" đó đã được tôi luyện đẽo gọt trong một thứ lửa ma quái dần dần biến thể không ý thức, không chỉ đạo, thành người lính Quân lực Việt Nam Cộng hoà… Quân lực đối đầu với cộng sản, đạo quân Thập tự không Thiên Chúa – Sự kiện đã xảy ra như một mầu nhiệm không giải thích được.

    Thời gian từ năm 1955 đến 1960 chỉ vừa đủ để tập cho những cá nhân rời rạc, chiến đấu trong lòng đơn vị mới, chưa đủ lượng thời gian để tạo truyền thống, thói quen cho mỗi đơn vị. Chiến tranh lại trở nên tàn khốc và những đơn vị tân lập, những Tiểu đoàn Bộ binh, Biệt động quân chưa kịp sốt vỡ da, chưa đủ lượng huấn luyện, vội vã rời hậu cứ chìm dần trong cuộc chiến quái đản lạ lùng, tàn khốc, chiến tranh số một của chiến sử nhân loại. Thêm một lần nữa người lính Việt Nam chứng tỏ sức đề kháng ngấm ngầm tuyệt diệu.

    Đại chiến mùa hè 72, nối tiếp cao điểm Mậu Thân dựng nên thành tích mới – Ba mặt trận chính, Quảng Trị, Kontum và An Lộc đều bị rơi vào bất ngờ chiến thuật và lúng túng chiến lược… Cộng sản đã chuẩn bị chiến trường quá độ tinh vi, chiếc xe tăng lãnh năm 1966, thực tập nổ máy, tập chạy, tập điều động, tu bổ từng đinh ốc, từng giọt nhớt… Một năm có bao nhiêu giờ nổ máy tại chỗ, bao nhiêu giờ di chuyển trên đường bằng phẳng, bao lâu trên đường núi, suốt sáu năm trời "tổ xe tăng" không chểnh mảng, không ngừng nghỉ ôn luyện, thực tập để tháng 2.1972 có mặt tại Đông Bắc An Lộc, nòng súng ở cao độ nhất định … Giờ G của chiếc xe tăng đã được sửa soạn từ sáu năm về trước. Ở Quảng Trị, Kontum, các yếu tố tác xạ của giàn 130 đã được tính sẵn, con đường chuyển quân bằng molotova đã dọn dẹp quang đãng… Giờ G của chiến trường mùa hè 72 là giọt nước cuối đầy chiếc ly chuẩn bị. Hội nghị Ba lê cũng đi đến bước chót, bản hiệp định ngưng bắn quái đản hàm hồ đã được tu chỉnh từng chữ một trong căn phòng mật đàm giữa Kissinger và Thọ… Không một chữ nhắc đến Quân đội Nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà!! Sự chuẩn bị tinh vi đến độ độc địa chấm dứt – Trận chiến bắt đầu … Lại thêm một lần nữa như mùa xuân xưa, Tân Cảnh, Lộc Ninh, Đông Hà lần lượt bị giặc xâm chiếm, dãy cao độ phía Tây đường 14 do Nhảy dù chiếm lĩnh bị cả một Sư đoàn Cộng sản luận chiến dồn dập tấn công không ngắt quãng… Charlie, Delta những đỉnh núi chỉ do một trăm tay súng chiếm giữ, dần dần bị bóc hẳn dưới những đợt tấn công cấp Trung đoàn với pháo yểm vượt khỏi sức ước tính của những đầu óc nhiều tiên liệu. Và cao điểm cuối cùng ở miền cực Bắc quê hương, Đông Hà, Quảng Trị, hai thị trấn bốc lửa ngọn, tung lớp khói dày che khuất mặt trời hạ chí… Năm trăm chiếc tăng được pháo binh yểm trợ tiếp cận đồng theo hướng Bắc Nam ùa xuống như cơn nước lũ…

    Và cũng như Mậu Thân, dựa lưng vào nỗi chết, người lính Việt Nam đã chiến đấu trong một trạng huống không ngờ – Chiến đấu đồng nghĩa như đang sống. Thiếu hẳn ưu thế kỹ thuật chiến trường, lòng trống vắng tinh thần của hệ thống chủ nghĩa, chỉ với quả tim người và lòng ham sống, tình cảm không được suy nghiệm, luận lý, giải thích một lần trong đời, người lính Việt Nam đã chiến đấu để bảo vệ con người và đời sống – Hành vi cao cả bình thường chưa bao giờ được ý niệm như là bổn phận!!

    Tập thể xao xác của hai mươi năm trước nay như viên ngọc trong suốt đã chứng nghiệm giá trị qua trùng điệp bão lửa. Hai mươi năm, chặng đường dài cơ cực ngút ngàn, núi cao khổ đau chất ngất, thế nhưng sinh vật lính lặng lẽ đó dù chưa ý thức được phẩm chất cao quý của mình, dù bị bủa vây bởi muôn ngàn miệt thị và ngộ nhận – Không phải vì bát cơm, cũng không phải vì lá cờ – Đã chiến đấu và tồn tại như một thực thể tràn đầy bi tráng. Tĩnh từ này vẫn chưa đủ, phải gợi đến hình ảnh một thứ Thánh chịu nạn, gánh cơn đau yếu Tổ quốc để bước lên con đường gai lửa – Hình ảnh "thánh nhân" bình lặng này quá gần gũi với phẩm chất của người chiến sĩ cách mạng – Hiệp sĩ mới của thời đại tan vỡ đang trên đường xây dựng lại con người…

    1969–1973


Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •