Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Đời người như một cành hoa mà Ái-Tình là một giọt mật.
Victor Hugo
Trang 1 / 7 123 ... Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 63

Chủ Đề: Vết Bớt Màu Cà Phê Sữa

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Vết Bớt Màu Cà Phê Sữa




    Tác giả :Arnaldur Indridason

    Dịch giả: Phương Phương






    1

    Các từ được viết bằng bút chì lên một mẩu giấy, đặt trên tử thi. Chỉ có ba từ. Erlendur thấy thật khó hiểu.

    Đó là xác một người đàn ông tầm bảy mươi tuổi. Nạn nhân nằm nghiêng về bên phải trên sàn nhà, quay lưng lại với cái ghế sofa trong phòng khách nhỏ. Ông ta mặc một chiếc sơ mi màu xanh da trời và quần nhung kẻ sọc màu nâu vàng, chân đi dép lê, tóc đã bắt đầu thưa dần, gần như ngả sang màu xám tro. Mái tóc ấy bết lại vì máu chảy ra từ một vết thương rộng hoác trên đầu. Trên sàn nhà, cách xác chết không xa là một cái gạt tàn lớn bằng thủy tinh với những góc sắc nhọn. Nó cũng dính đầy máu. Cái bàn uống nước đã bị lật đổ.

    Căn hộ đó nằm dưới tầng trệt của một tòa nhà hai tầng ở Nordurmýri. Căn nhà nằm trong một khu vườn nhỏ có ba mặt được bao quanh bởi một bức tường đá. Cây cối đã rụng hết lá, tạo thành một tấm thảm trên nền đất trong vườn, những cành cây khẳng khiu chĩa thẳng lên nền trời tối kịt. Trên con đường trải sỏi dẫn đến gara, nhân viên Cục điều tra hình sự Reykjavík đang đến hiện trường. Người ta đang chờ nhân viên y tế quận, ông ta sẽ ký vào giấy chứng tử. Xác chết được báo cáo là tìm thấy khoảng 15 phút trước đó. Thám tử Erlendur cùng với cảnh sát Reykjavík là một trong số những người đến hiện trường sớm nhất.

    Hoàng hôn tháng Mười bao trùm lên toàn thành phố và cơn mưa ập xuống trong làn gió mùa thu. Ai đó đã bật chiếc đèn trên bàn trong phòng khách khiến cho không gian quanh nó nhuốm một thứ ánh sáng ảm đạm. Ngoài ra, không có một thứ gì khác trong hiện trường bị chạm đến. Đội pháp y đang đặt những bóng đèn huỳnh quang lên một cái giá ba chân để thắp sáng căn phòng. Erlendur chú ý đến một giá sách và bộ đồ gỗ đã mòn, chiếc bàn uống nước bị lật nhào, một chiếc bàn cũ kỹ ở góc nhà và tấm thảm trên sàn thấm máu. Phòng khách thông ra gian bếp và bếp lại thông ra một phòng làm việc nhỏ, tiếp đến là một hành lang nhỏ, ở đó có hai phòng và một nhà vệ sinh.

    Chính người hàng xóm sống ở tầng trên đã báo cho cảnh sát biết về cái xác. Sau khi đón hai đứa con trai của mình từ trường học trở về nhà, anh ta lấy làm lạ khi thấy cửa căn phòng dưới tầng trệt mở rộng. Nhìn vào bên trong căn hộ của ông hàng xóm, anh ta thử gọi to xem có ai ở nhà không. Tuy nhiên không ai trả lời. Anh ta ngó vào nhà và gọi thêm lần nữa nhưng vẫn không có ai đáp lại. Gia đình anh ta đã sống ở căn hộ tầng trên được mấy năm nhưng họ không thân với ông hàng xóm ở tầng dưới nhiều lắm. Đứa con trai cả mới lên chín tuổi không được thận trọng như bố, nhanh như chớp nó xộc thẳng vào phòng khách. Một lúc sau, thằng bé trở ra và nói rằng có một người đàn ông chết trong phòng, dường như chẳng có vẻ gì là hoảng sợ trước cảnh tượng đó cả.

    "Con đã xem quá nhiều phim ảnh rồi đấy!" Người bố nói và thận trọng bước vào, và rồi anh ta thấy ông hàng xóm đang nằm chết trong phòng khách. Nhìn lên chuông cửa, Erlendur đã biết tên người chết. Tuy nhiên, để tránh mắc phải sai lầm ngớ ngẩn, ông đeo găng tay cao su rồi thò tay vào túi áo khoác của nạn nhân treo trên cái mắc gần cửa ra vào và lấy ra một cái ví. Trong đó có một thẻ thanh toán có dán ảnh. Người đàn ông đó tên là Holberg, sáu mươi chín tuổi. Chết tại nhà. Có lẽ là bị giết.

    Erlendur đi quanh nhà và đặt ra những câu hỏi đơn giản nhất. Công việc của ông là điều tra những gì mắt thấy rõ ràng. Phần bí ẩn thuộc trách nhiệm của đội pháp y. Ông không thấy có dấu hiệu đột nhập cả ở cửa sổ cũng như cửa chính. Thoạt nhìn, dường như nạn nhân đã mời hung thủ vào nhà. Những người hàng xóm tầng trên đã để lại dấu chân nơi tiền sảnh và trên thảm khi họ đi từ ngoài trời mưa vào trong căn nhà. Chắc hẳn hung thủ cũng vậy - trừ khi hắn đã tháo giày ra trước khi bước vào trong. Về phía Erlendur, dường như ông đã quá vội vã đến mức quên cả tháo giày.

    Đội pháp y đã mang vào một cái máy hút bụi để thu thập những mẩu đất đá cũng như những dấu vết nhỏ nhất nhằm tìm ra manh mối. Họ tìm các mẫu vân tay và dấu bùn không thuộc về ngôi nhà. Họ đang tìm kiếm những điều bất thường - những gì có thể gây ra cái chết.

    Tất cả những gì mà Erlendur có thể thấy là nạn nhân đã không mấy hiếu khách với người khách của mình. Ông ta còn chưa pha cà phê. Rõ ràng là máy pha cà phê trong bếp chưa được dùng đến trong vòng vài giờ qua. Không có dấu hiệu nào cho thấy họ đã uống trà, vì không có tách trà nào được lấy ra từ tủ. Mấy chiếc cốc cũng nằm nguyên tại vị trí cũ. Nạn nhân thuộc tuýp người rất ngăn nắp, đồ đạc được xếp gọn gàng và sạch sẽ. Có lẽ ông ta không biết rõ lắm về người khách của mình. Có lẽ hắn đã tấn công nạn nhân ngay từ đầu, khi ông ta vừa mở cửa. Tấn công lúc hắn vẫn chưa cởi giày.

    Ta có thể giết một người cao ngang tầm mình không?

    Erlendur nhìn xung quanh và tự nhủ phải sắp xếp các suy nghĩ cẩn thận hơn. Bất luận thế nào, hung thủ cũng đã rất vội vàng. Hắn còn không buồn đóng cửa sau khi đi ra. Cú đánh có dấu hiệu vội vã, như thể nó hoàn toàn bất ngờ và không có báo hiệu từ trước. Không có dấu hiệu vật lộn trong phòng. Có vẻ như nạn nhân đã ngã ngay tại cửa, va phải cái bàn và xô đổ nó, còn các đồ đạc khác dường như chưa bị đụng chạm đến. Erlendur không thấy dấu hiệu nào chứng tỏ căn hộ đã bị ăn trộm. Tất cả các tủ ly đều được đóng chặt, ngăn kéo cũng vậy, chiếc máy tính khá mới và một dàn âm thanh cũ vẫn còn nguyên đó, chiếc ví vẫn nằm trong túi áo khoác nạn nhân treo trên móc gần cửa ra vào, trong ví có một tờ 2.000 cua-ron và hai thẻ thanh toán: một thẻ ghi nợ và một thẻ tín dụng.

    Dường như tên sát nhân đã chộp ngay lấy vật đầu tiên trong tầm với và đánh vào đầu nạn nhân. Cái gạt tàn làm bằng thủy tinh dày, màu xanh và nặng ít nhất 1,5 kg, Erlendur nghĩ. Một vũ khí giết người có sẵn. Hung thủ khó có thể mang chiếc gạt tàn đầy máu theo người, do vậy hắn để nó lại trên sàn phòng khách.

    Có hai chứng cứ đã rõ ràng: người đàn ông đã mở cửa và mời người khách vào nhà, hoặc ít nhất là đã đi cùng hắn vào phòng khách. Có thể ông ta biết người khách của mình, cũng có thể là không. Ông ta bị tấn công bằng một chiếc gạt tàn, một cú đánh mạnh, và tên sát nhân nhanh chóng tẩu thoát, để cửa mở. Chỉ đơn giản có thế.

    Ngoại trừ lời nhắn để lại...

    Lời nhắn được viết trên một tờ giấy khổ A4 giống như bị xé ra từ một cuốn sổ có gáy xoắn. Đó là manh mối duy nhất mà tên sát nhân đã chủ ý để lại đây. Nó chứng tỏ rằng hắn đã vào nhà với mục đích giết người từ trước. Hắn không bị kích động đột ngột đến nỗi phải giết người ngay lúc đứng trên sàn phòng khách. Hắn bước vào căn hộ với ý đồ giết người có sẵn trong đầu. Ba từ, Erlendur không hiểu một chút gì. Phải chăng hắn đã viết ba từ đó trước khi đến đây? Erlendur đi đến chiếc bàn ở góc phòng. Trên đó là một đống ngổn ngang các tài liệu, hóa đơn, thư từ và giấy tờ. Trên đống giấy đó có một cuốn sổ gáy xoắn, một góc trang bên trong đã bị xé ra. Ông tìm chiếc bút chì mà hung thủ có thể đã dùng để viết lời nhắn nhưng không thấy. Nhìn quanh, ông thấy có một chiếc dưới gầm bàn. Tuy nhiên, Erlendur không động chạm vào bất cứ thứ gì, ông chỉ nhìn và suy nghĩ.

    "Đây không phải là một vụ giết người theo kiểu Iceland điển hình của ông sao?" Thám tử Sigurdur Óli cất tiếng hỏi Erlendur. Anh ta vừa bước vào căn hộ mà ông không để ý, lúc này anh ta đang đứng bên tử thi.

    "Sao cơ?" Erlendur hỏi, ông còn đang mải mê với những suy nghĩ của mình.

    "Bẩn thỉu, vô mục đích, phạm tội mà không cần che giấu, thay đổi manh mối hoặc che đậy chứng cứ".

    "Đúng vậy," Erlendur trả lời, "một vụ giết người đặc sệt kiểu Iceland".

    "Trừ khi ông ta ngã vào cái bàn và đập đầu vào cái gạt tàn". Sigurdur Óli tiếp. Nữ đồng nghiệp Elínborg cũng ở đó với anh ta. Erlendur cố gắng hạn chế các động thái của cảnh sát, của đội pháp y và đội trợ y trong khi ông đi quanh nhà, đầu cúi xuống.

    "Và viết một lời nhắn khó hiểu khi ông ta ngã xuống?" Erlendur hỏi.

    "Có thể nạn nhân đã cầm tờ giấy trong tay".

    "Anh có hiểu gì về lời nhắn đó không?"

    "Có thể đó là Chúa," Sigurdur Óli nói, "có thể đó là tên sát nhân, tôi không chắc. Việc nhấn mạnh vào chữ cái cuối cùng thật lạ lùng. Chữ HIM được viết hoa toàn bộ".

    "Theo tôi lời nhắn đó không phải được viết vội. Từ cuối cùng được viết hoa nhưng hai từ đầu tiên lại viết tháu. Kẻ viếng thăm đã không vội vàng gì khi viết lời nhắn này. Nhưng hắn lại không đóng cửa khi đi ra. Điều đó có nghĩa gì? Tấn công một người đàn ông và tẩu thoát, nhưng lại viết một lời nhắn khó hiểu và cất công nhấn mạnh vào từ cuối cùng sao?"

    "Chắc hẳn nó phải ám chỉ ông ta" Sigurdur Óli khẳng định. "Ý tôi là xác chết. Nó không thể ám chỉ ai khác được".

    "Tôi không biết" Erlendur nói. "Mục đích của hắn khi để lời nhắn đó lại và đặt nó trên xác chết là gì? Hắn đang cố gắng hé lộ điều gì cho chúng ta chăng? Hay là tên sát nhân đang nói với chính mình? Hay hắn nói với chính nạn nhân?"

    "Một kẻ giết người khát máu" Elínborg vừa nói vừa cúi xuống nhặt mẩu giấy lên. Erlendur ngăn cô ta lại. "Có thể chúng có nhiều hơn một người," Sigurdur Óli nói, "ý tôi là những kẻ tấn công ấy".

    "Nhớ đeo găng tay vào, Elínborg" Erlendur nói với cô như thể với một đứa trẻ. "Đừng phá hỏng chứng cứ chứ".

    "Lời nhắn được viết trên chiếc bàn đằng kia" ông nói thêm và chỉ tay về phía góc phòng. "Tờ giấy bị xé ra từ một cuốn sổ ghi chép của nạn nhân".

    "Chắc hẳn chúng có đông hơn một người" Sigurdur Óli nhắc lại. Anh ta cho rằng mình đã nảy ra một ý tưởng thật thú vị.

    "Phải, phải," Erlendur nhận xét, "có thể là như thế".

    "Hơi máu lạnh một chút" Sigurdur Óli nói. "Đầu tiên anh giết một ông già, sau đó anh bình tĩnh ngồi xuống để viết một lời nhắn. Điều đó không đòi hỏi phải có thần kinh thép hay sao? Chẳng phải là một kẻ đáng ghê tởm mới có thể làm được điều ấy sao?"

    "Hoặc là một kẻ không biết sợ là gì". Elínborg nói.

    "Hoặc một kẻ tự cho mình là đấng cứu thế". Erlendur nhận định.

    Ông dừng lại để cầm lấy mẩu giấy và nghiền ngẫm nó trong yên lặng.

    "Một đấng cứu thế vĩ đại", ông thầm nghĩ.


  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    2

    Erlendur quay trở về khu chung cư của mình vào khoảng 10 giờ đêm và đặt thức ăn đã chuẩn bị sẵn vào lò vi sóng. Ông đứng nhìn đĩa thức ăn xoay tròn sau tấm kính. "Đỡ tệ hơn là xem TV", Erlendur nghĩ. Ngoài trời, những cơn gió đang rít lên từng hồi, chẳng có gì ngoài mưa và bóng tối.

    Ông nghĩ về cái kẻ đã để lại lời nhắn và biến mất. Trong một tình huống như vậy, hắn sẽ viết ra những gì? Hắn để lại lời nhắn cho ai? Hình ảnh con gái ông, Eva Lind, chợt hiện ra trong đầu. Con bé bị nghiện, có thể nó băn khoăn không biết ông có còn tiền cho nó không. Con bé ngày càng trờ nên huênh hoang hơn. Còn con trai ông, Sindri Snaer, gần đây đã hoàn thành giai đoạn phục hồi thứ ba. Lời nhắn với nó đơn giản chỉ là: không có thêm một vụ Hiroshima nào nữa.

    Erlendur mỉm cười khi nghe thấy ba tiếng bíp phát ra từ lò nướng. Đó là thứ mà ông chưa bao giờ nghĩ rằng sẽ biến mất.

    Erlendur và Sigurdor Óli đã nói chuyện với người hàng xóm phát hiện ra cái xác. Lúc đó vợ anh ta cũng ở nhà, cô ta nói sẽ đưa hai đứa con đến nhà bà ngoại. Người chồng, O'lafur, nói rằng sáng nào anh ta cùng vợ con cũng đi học và đi làm từ lúc 8 giờ, ít nhất đến 4 giờ chiều mới có người về. Anh ta còn phải đến trường học đón các con. Gia đình O'lafur không thấy điều gì khác lạ khi họ rời nhà vào buổi sáng. Cửa chính nhà nạn nhân vẫn đóng. Tối hôm trước họ ngủ và ngáy ầm ĩ nên không nghe thấy gì. Nhà O'lafur cũng không giao thiệp nhiều lắm với nạn nhân, ông ta gần như một người lạ, mặc dù họ đã sống trong cùng một mái nhà được vài năm.

    Bên pháp y sẽ xác định chính xác thời điểm nạn nhân tử vong, nhưng Erlendur hình dung án mạng diễn ra vào buổi chiều - thời điểm vốn dĩ bận rộn nhất trong ngày. "Ai có thể có thời gian để làm việc đó vào thời buổi này nhỉ?" ông thầm nghĩ. Giới truyền thông đã đăng tin một người đàn ông tên Holberg, tầm bảy mươi tuổi, bị phát hiện chết trong một căn hộ ở Nordurmýri, có khả năng bị sát hại. Bất cứ ai trông thấy điều gì khả nghi hoặc bất thường trong vòng hai mươi tư giờ qua ở quanh khu vực nạn nhân Holberg sống đều phải trình báo với cảnh sát Reykjavik.

    Erlendur đã gần năm mươi tuổi, ông đã ly dị vợ cách đây nhiều năm và có hai con. Ông chưa bao giờ nói với ai rằng mình không thể chịu đựng được tên của hai đứa ấy. Vợ cũ của ông, người mà ông đã không hề nói chuyện trong vòng hai mươi năm qua, lại cho rằng những cái tên ấy thật đáng yêu. Vụ ly hôn khá rắc rối, và gần như Erlendur đã mất liên lạc với các con từ khi chúng còn bé xíu.

    Hai đứa con tìm thấy ông khi chúng đã lớn, và ông đón nhận chúng, nhưng ông ân hận khi thấy chúng thành ra cơ sự này. Ông thực sự đau lòng trước số phận của con bé Eva Lind. Thằng Sindri Snaer thì sống tốt hơn. Nhưng chỉ đên thế mà thôi.

    Erlendur lấy đồ ăn ra khỏi lò và ngồi xuống bàn ăn. Căn hộ của ông có một phòng ngủ với vô số sách được xếp ở mọi ngóc ngách có thể. Những bức ảnh gia đình cũ treo trên tường chứng tỏ ông còn có người thân ở East Fjords quê hương ông. Erlendur không có tấm ảnh nào chụp riêng mình cũng như hai đứa con. Trong phòng có một chiếc ti vi hiệu Nordmende cũ kỹ kê sát tường, đằng trước có một cái ghế bành thậm chí còn tả tơi hơn. Erlendur giữ cho nhà cửa khá ngăn nắp mà không phải động đến việc lau dọn nhiều.

    Ông cũng không biết đích xác là mình đang ăn gì nữa. Bao bì màu mè hứa hẹn bên trong là một đồ ăn nào đó của phương Đông, nhưng với một thứ tựa như bánh cuộn làm từ bột nhão, món ăn chẳng khác nào một loại dâu dưỡng tóc. Erlendur đẩy đĩa thức ăn ra, tự hỏi không biết mấy cái bánh mì đen ông mua vài ngày trước có còn không. Cả pate cừu nữa. Đúng lúc đó thì chuông cửa vang lên. Con bé Eva Lind đã quyết định đến thăm ông.

    "Sao rồi?" Con bé vừa lao vào phòng vừa hỏi. Nó ngồi phịch xuống cái sofa trong phòng khách. Cái cách nó nói khiến Erlendur phát cáu.

    "Ôi trời," Erlendur đóng cánh cửa lại và nói, "đừng có ăn nói kiểu ấy với bố!"

    "Con tưởng bố muốn con chọn từ ngữ cho cẩn thận mà?" Eva Lind trả lời. Con bé thường xuyên bị bố giáo huấn về việc sừ dụng ngôn từ.

    "Vậy thì nói điều gì đó tử tế một chút đi".

    Thật khó mà biết được tối nay con bé đang diễn vai nào. Eva Lind là diễn viên giỏi nhất mà Erlendur từng biết, mặc dù điều này không có ý nghĩa nhiều lẳm vì ông chưa bao giờ đến rạp chiếu phim hay nhà hát, và hầu hết các chương trình TV mà ông xem đều thiên về giáo dục. Vở kịch của Eva Lind thường là kịch gia đình, kéo dài từ một đến ba hồi, và thường tập trung vào việc tìm ra cách tốt nhất để xin tiền bố. Điều này không xảy ra thường xuyên vì Eva Lind tự biết cách kiếm tiền, và Erlendur muốn biết về những cách thức ấy càng ít càng tốt. Nhưng đôi lúc, khi con bé không còn "một đồng xu chết tiệt" nào, theo cái cách mà nó nói, con bé sẽ về xin bố.

    Đôi khi, nó là đứa con gái bé bỏng của ông, xích lại bên ông và rên ư ử như một con mèo nhỏ. Có lúc, con bé lại như ở bên bờ vực của sự tuyệt vọng, nó đi huỳnh huỵch quanh nhà như mất trí, và buộc tội cha mình là một người tệ bạc vì đã bỏ lại nó và Sindri Snaer khi còn quá nhỏ. Con bé cũng có thể trở nên thô lỗ, độc ác và xấu xa. Nhưng đôi lúc ông lại thấy con bé sống đúng với bản chất của mình, gần như là bình thường, nếu đúng là bản chất đó thực sự tồn tại, và Erlendur cảm thấy mình có thể nói chuyện với nó như hai người bình thường.

    Eva Lind mặc chiếc quần jean rách tả tơi và khoác cái áo da lừng màu đen. Tóc con bé ngắn, màu đen tuyền, lông mày bên phải đeo hai chiếc khuyên bạc, một tai đeo cây thánh giá cũng bằng bạc nốt. Có một thời, răng con bé trắng bóng, đều tăm tắp, nhưng bây giờ thì khác, mỗi khi nó cười, hai chiếc răng gãy ở hàm trên lại lộ ra. Thân hình nó gầy quắt queo, gương mặt ủ rũ với những quầng thâm bên dưới mắt.

    Thảng hoặc, Erlendur có cảm giác dường như Eva Lind hao hao giống mẹ nó. Ông nguyền rủa số phận Eva Lind và tự dằn vặt mình vì đã làm ngơ trước sự thay đổi của con.

    "Hôm nay con đã nói chuyện với mẹ. Hay đúng ra là mẹ đã nói chuyện với con và hỏi xem liệu con có nói chuyện với bố hay không. Thật là tuyệt khi có bố mẹ ly hôn!"

    "Mẹ con muốn điều gì ở bố à?" Erlendur hỏi mà không khỏi ngạc nhiên. Sau hai mươi năm mà bà vẫn căm ghét ông. Suốt chừng ấy thời gian, ông chỉ nhìn bà thoáng qua một lần duy nhất, và khuôn mặt bà vẫn không giấu nổi sự kinh tởm. Bà từng nói chuyện với ông một lần về Sandri Snaer, nhưng đó là cuộc nói chuyện mà ông thà quên đi còn hơn.

    "Thật là một con mụ lẳng lơ trịch thượng".

    "Không được nói về mẹ con như thế!"

    "Đấy là con đang nói về mấy mụ già giàu có bẩn thiu bạn mẹ ở Gardabaer cơ. Họ tổ chức lễ cưới cho con gái vào cuối tuần và cô ta đã biến khỏi đám cưới. Thật là xấu hổ. Mẹ cũng ở đám cưới và đã bị vụ xì căng đan ở đó làm cho choáng váng. Mấy kẻ đó đề nghị con hỏi bố xem liệu bố có nói chuyện với bố mẹ cô ta không. Hai người đó không muốn thông báo rộng rãi trên báo chí, thật là những kẻ hợm hĩnh chết tiệt! Nhưng họ biết bố làm trong Cục điều tra hình sự và nghĩ rằng có thể bưng bít chuyện này hoàn toàn bí mật. Người ta bảo con đề nghị bố nói chuyện với lũ đó. Không phải mẹ. Bố hiểu không? Không bao giờ!"

    "Con có biết những người này không?"

    "Thực ra, con không được mời đến dự tiệc cưới mà con bé lẳng lơ ấy phá hỏng".

    "Thế con có biết cô gái ấy không?"

    "Gần như không".

    "Thế cô ấy có thể chạy trốn đến nơi nào?"

    "Làm sao con biết được?"

    Erlendur nhún vai. "Bố đã nghĩ về con cách đây chỉ một phút", ông nói.

    "Tốt thôi" Eva Lind nói. "Con chỉ tình cờ muốn biết liệu...?"

    "Bố không có tiền đâu" Erlendur nói và ngồi xuống chiếc ghế bành đối diện với con gái. "Con có đói không?"

    Eva Lind cúi xuống. "Tại sao con không bao giờ có thể nói chuyện với bố mà bố không nhắc đến tiền nhỉ?" Con bé nói, và Erlendur có cảm giác như nó đã vượt quá giới hạn cho phép của ông.

    "Thôi đủ rồi, vậy tại sao bố thậm chí không thể nói chuyện với con?"

    "Ôi, mẹ kiếp!"

    "Con ăn nói cái kiểu gì thế? Có vấn đề gì à? 'Mẹ kiếp!' 'Sao rồi?' Cái loại ngôn ngữ gì thế?"

    "Lạy Chúa", Eva Lind lầm bầm.

    "Lúc này con là ai vậy? Bố đang nói chuyện với ai đây? Con thực sự ở đâu trong cái đống ma túy hỗn độn này?"

    "Bố đừng có nói mấy cái chuyện tào lao ấy nữa. 'Con là ai' ư?" Con bé nhại lại bố. "Con thực sự ở đâu ư? Con ở đây, con đang ngồi trước mặt bố đây. Con là con!"

    "Eva!"

    "Mười nghìn cua-ron!" Nó nói. "Có nghĩa gì với bố đâu? Bố không đào đâu ra mười nghìn à? Bố đang nằm trên một đống tiền cơ mà!"

    Erlendur nhìn con gái. Có điều gì đó ở con bé khiến ông phải chú ý ngay từ lúc nó bước vào. Con bé khó thở, trán lấm tấm mồ hôi và liên tục quằn quại trên chiếc ghế. Hình như nó bị ốm.

    "Con bị ốm à?" ông hỏi.

    "Con vẫn khỏe. Con chỉ cần ít tiền thôi. Nào bố, đừng khó khăn như thế!"

    "Con có ốm không?"

    "Làm ơn đi mà bố!"

    Erlendur vẫn nhìn vào con gái.

    "Con đang cố gắng cai thuốc phải không?" ông hỏi.

    "Bố, mười nghìn thôi. Chẳng đáng là bao. Chẳng có nghĩa lý gì với bố cả. Con sẽ không bao giờ về xin tiền bố nữa".

    "Ừ, cứ cho là vậy. Kể từ khi nào con đã...?" Erlendur lưỡng lự, không biết nên diễn đạt thế nào cho đúng, "... sử dụng cái thứ ấy?"

    "Không quan trọng. Con đã bỏ rồi. Từ bỏ từ bỏ từ bỏ từ bỏ từ bỏ từ bỏ từ bỏ!" Eva Lind đứng lên. "Bố cho con mười nghìn. Làm ơn đi mà bố. Năm. Thôi bố cho con năm nghìn cũng được. Bố không có đến năm nghìn trong túi à? Năm nghìn thôi mà! Nó chỉ là nhãi nhép thôi".

    "Tại sao bây giờ con lại cố gắng từ bỏ?" Erlendur nhìn con gái.

    "Bố đừng hỏi thêm câu hỏi ngu ngốc nào nữa. Con không từ bỏ gì cà. Mà từ bỏ cái gì cơ chứ? Con phải từ bỏ cái gì? Bố thôi nói vớ vẩn như thế đi!"

    "Có chuyện gì thể? Điều gì khiến con bị kích động đến thế? Con có bị ốm không?"

    "Vâng, con đang ốm đây. Bố có thể cho con vay mười nghìn không? Đấy là nợ, con sẽ trả bố, được chưa? Đồ lão già tham lam!"

    "Tham lam là một từ hay. Con có bị ốm không, Eva?"

    "Bố cứ hỏi mãi điều ấy để làm gì?" Con bé nói, càng lúc càng kích động.

    "Con có dùng nhiệt kế không đấy?"

    "Đưa tiền cho con. Hai nghìn thôi! Chẳng nghĩa lý gì. Bố không hiểu gì à? Lão già ngu ngốc!"

    Erlendur lúc này cũng đứng lên, Eva Lind đối đầu ông như thể con bé đang chuẩn bị tấn công ông vậy.

    Erlendur không hiểu được tại sao con bé lại hung hăng như vậy. Ông nhìn nó từ đâu đến chân.

    "Bố nhìn cái gì?" Nó quát vào mặt ông. "Muốn hả? Ông bố già bẩn thỉu lại muốn à?"

    Erlendur tát vào mặt con bé một cái, nhưng không đau lắm.

    "Bố đã vừa lòng chưa?" Con bé nói.

    Erlendur lại tát nó một cái nữa, lần này đau hơn.

    "Mạnh tay hơn rồi à?" Eva Lind nói, và Erlendur lùi lại. Con bé chưa bao giờ nói với ông như vậy. Trong phút chốc nó bỗng biến thành một con quỷ. Ông chưa bao giờ chứng kiến tính khí này của con bé. Ông cảm thấy bất lực với nó và cơn giận dữ dần chuyển sang thương hại.

    "Tại sao lúc này con lại cố gắng từ bỏ?" ông nhắc lại.

    "Con chẳng cố gẳng từ bỏ cái quái gì cả!" Con bé hét lên. "Bố có bị mát dây không? Bố không hiểu con nói gì à? Ai nói về chuyện từ bỏ chứ?"

    "Có chuyện gì thế, Eva?"

    "Bố thôi cái kiểu 'Có chuyện gì thế, Eva' đi cho con nhờ! Bố không thể cho con năm nghìn à? Bố có thể trả lời con ngay không?" Có vẻ như con bé đang bình tĩnh lại. Hình như nó đã nhận ra là mình đi hơi quá đà, nó không thể nói với bố mình như vậy.

    "Tại sao lại là bây giờ?" Erlendur hỏi.

    "Nếu con nói cho bố biết, bố có đưa cho con mười nghìn không?"

    "Chuyện gì đã xảy ra?"

    "Năm nghìn thôi!"

    Erlendur nhìn chằm chằm vào con gái.

    "Con có thai phải không?"

    Eva Lind nhìn cha với một nụ cười ngoan ngoãn. "Chính xác", con bé trả lời.

    "Nhưng bằng cách nào chứ?" Erlendur rên lên.

    "Ý bố là gì? Bằng cách nào á? Bố có muốn con kể chi tiết tỉ mỉ không?"

    "Không phải thế. Con chắc phải có biện pháp phòng tránh chứ? Ví như bao cao su? Hay thuốc tránh thai chẳng hạn?"

    "Con không biết chuyện gì đã xảy ra cả. Nó đã xảy ra, đơn giàn thế thôi".

    "Và con muốn bỏ thuốc?"

    "Không thể tiếp tục được nữa. Con không thể. Đấy, con đã kể hết với bố rồi đấy. Tất cả. Bố nợ con mười nghìn".

    "Để lấy con của con ra?"

    "Nó không phải là một đứa bé, ông già ngu ngốc ạ. Nó không là gì cả. Nó chỉ là một nhúm cát thôi. Con không thể từ bỏ ngay được. Con sẽ bỏ vào ngày mai. Con hứa. Chỉ là không phải bây giờ. Hai nghìn. Hai nghìn có nghĩa gì với bố đâu?"

    Erlendur đi về phía con bé. "Nhưng con đã cố gắng. Con muốn từ bỏ. Bố sẽ giúp con".

    "Con không thể!" Eva Lind gào lên. Mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt, nó cố gắng che giấu cơn run rẩy đang chạy dọc khắp cơ thể.

    "Thế nên con mới đến gặp bố" Erlendur nói. "Con có thể vay tiền người khác. Đến giờ con vẫn thường làm thế. Nhưng con tìm đến bố là vì con muốn..."

    "Thôi cái chuyện ngu ngốc ấy đi. Con đến vì mẹ bảo con thế và vì bố có tiền, chẳng còn lý do nào khác nữa. Nếu bố không đưa tiền cho con, con sẽ kiếm nó bằng mọi cách. Chẳng có vấn đề gì cả. Có hàng tá ông già như bố luôn sẵn tiền để trả cho con".

    Erlendur cố gắng kìm chế.

    "Trước đây con đã có thai bao giờ chưa?"

    "Chưa" Eva Lind trả lời, nhìn sang hướng khác.

    "Cha đứa trẻ là ai?"

    Eva Lind lặng người và mở to mắt nhìn bố.

    "XIN CHÀO!" Nó quát lên. "Trông con giống một đứa vừa bước ra khỏi phòng cô dâu ở một khách sạn khốn kiếp nào đó trong một tiểu thuyết trường thiên nào đó lắm à?"

    Và trước khi Erlendur kịp làm gì, con bé đã đẩy ông ra và chạy ra ngoài, biến mất trong làn mưa thu lạnh lẽo.

    Ông từ từ đóng cửa lại, băn khoăn không biết cái cách mà mình dùng để tiếp cận có đúng hay không. Câu chuyện diễn ra như thể hai bố con họ không thể nói chuyện với nhau mà không cãi vã và gào thét, và ông thấy mệt mỏi vì điều đó.

    Không còn muốn ăn nữa, Erlendur ngồi xuống ghế bành, trầm ngâm nhìn vào khoảng không vô định và lo lắng không biết giờ Eva Lind sẽ phải trông cậy vào ai. Rốt cuộc, ông nhặt quyển sách đang đọc dở trên chiếc bàn kế bên lên. Đó là một trong những cuốn sách mà ông yêu thích, nó nói về những thử thách và định mệnh ở nơi hoang dã.

    Ông tiếp tục đọc tiếp câu chuyện có tên là "Mất mạng ở Mosfellsheide" và ngay sau đó ông bị lôi cuốn vào trận bão tuyết kinh hoàng làm đóng băng những chàng trai trẻ.

  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    3

    Mưa như trút nước lên người Erlendur và Sigurdur Óli khi họ ra khỏi xe rồi chạy nhanh về khu chung cư ở Stigahlíd. Họ định đợi đến khi cơn mưa ngớt, nhưng Erlendur thấy chán quá nên nhảy ra khỏi xe trước. Không muốn bị bỏ lại một mình, Sigurdur Óli liền theo sau. Loáng một cái họ đã bị ướt sũng. Nước mưa từ tóc Sigirdur Óli chảy tong tong xuống lưng, anh liếc sang Erlendur khi họ bấm chuông và chờ cửa mở.

    Trong cuộc họp sáng hôm đó, những cảnh sát tham gia điều tra đã cân nhắc các khả năng có thể xảy ra. Một giả thuyết đưa ra là vụ giết Holberg không có động cơ nào cụ thể và kẻ tấn công đã lảng vảng quanh khu vực đó một thời gian, có thể là trong nhiều ngày, như kiểu một tên trộm tìm kiếm chỗ nào đó để đột nhập vào nhà. Hắn thử gõ cửa nhà Holberg để kiểm tra xem có ai ở nhà không, khi thấy chủ nhà ra mở cửa thì hắn hoảng sợ thực sự. Lời nhắn hắn để lại chỉ nhằm để đánh lạc hướng cảnh sát. Nó hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì cụ thể.

    Cùng ngày Holberg bị giết, người dân sống ở khu chung cư tại Stigahlíd đã báo lại rằng có hai phụ nữ lớn tuổi - vốn là chị em sinh đôi - đã bị tấn công bởi một gã trai mặc áo quân phục màu xanh lục. Ai đó đã đưa hắn đến cửa trước và hắn gõ cửa căn hộ của hai chị em nọ. Chủ nhà vừa mới ra mở cửa, hắn liền xông vào, đóng sầm cửa lại rồi đòi tiền. Khi họ từ chối không đưa, hắn lấy tay thoi một quả đấm vào mặt một người rồi đẩy người kia ngã xuống sàn nhà, đá bà ta vài phát trước khi chuồn đi.

    Một giọng nói vang lên trong hệ thống điện thoại nội bộ, Sigurrdor Óli đọc tên của mình. Cánh cửa ầm ì mở ra, rồi họ bước vào trong. Cầu thang tối tăm và bốc mùi khó chịu. Khi họ lên đến tầng trên, một người phụ nữ đang đứng chờ họ ở cửa.

    "Các ông đã bắt được nó chưa?" Người phụ nữ hỏi.

    "Thật tiếc là chưa," Sigurdur Óli lắc đầu đáp, "nhưng chúng tôi muốn nói chuyện với bà về..."

    "Họ đã bắt được hắn chưa?" Một giọng nói khác vang lên từ trong nhà, và sau đó một người phụ nữ trông giống hệt người kia bước ra. Cả hai tầm bảy mươi tuổi, đều mặc váy đen và áo len đỏ. Trông họ đều đẫy đà với mái tóc bồng màu xám, khuôn mặt bầu ánh lên cái nhìn rõ ràng là kỳ vọng.

    "Vẫn chưa". Erlendur trả lời.

    "Nó là một kẻ đáng thương", người phụ nữ thứ nhất tên Fjóla nói. Bà mời Sigurdur Óli và Erlendur vào.

    "Chị không việc gì phải xót thương nó như thế," người phụ nữ thứ hai tên Birna nói rồi đóng cửa lại. "Kẻ cục súc đó đã đánh vào đầu chị, vậy mà chị còn nghĩ nó một kẻ đáng thương sao?"

    Hai thám tử ngồi trong phòng khách, hết nhìn hai người phụ nữ rồi lại nhìn nhau. Đó là một căn hộ nhỏ. Sigurdur Óli chú ý đến hai phòng ngủ sát vách nhau. Từ phòng khách ông có thể thấy căn bếp nhỏ.

    "Chúng tôi đã đọc bản tường trình của các bà" Sigurdur Óli nói, anh đã xem qua nó trên đường đến đây. "Hai bà có thể mô tả kỹ hơn về người đàn ông đã tấn công mình không?"

    "Người đàn ông á?" Bà Fjóla trả lời. "Nó là một thằng nhóc thì đúng hơn".

    "Nhưng cũng đủ lớn để tấn công chúng ta rồi" Birna thêm vào. "Nó đủ lớn để đẩy tôi xuống sàn và còn đá tôi nữa cơ đấy!"

    "Chúng tôi không có tiền" Fjóla nói.

    "Chúng tôi không để tiền ở đây," Birna giải thích, "và chúng tôi nói với nó thế".

    "Nhưng nó không tin chúng tôi".

    "Và nó còn tấn công chúng tôi nữa".

    "Nó có vẻ điên cuồng!"

    "Và đáng nguyền rủa - cái cách mà nó gọi chúng tôi ấy!"

    "Nó mặc một cái áo khoác xấu xí màu xanh lục. Giống như một tên lính vậy".

    "Nó cũng đi loại giầy cao cổ có dây buộc như thế này, màu đen, trông có vẻ nặng".

    "Nhưng nó không làm đổ vỡ gì cả".

    "Đúng vậy, nó chỉ chạy đi thôi".

    "Hắn có lấy đi thứ gì không?" Erlendur hỏi.

    "Nó như thể bị mất trí ấy" Fjóla nói, cố gắng hết sức để tìm ra một vài điểm có thể tha thứ được của kẻ tấn công. "Nó không làm hỏng đồ đạc gì, cũng không lấy đi thứ gì. Nó chỉ tấn công chúng tôi khi biết rằng không thể lấy được của chúng tôi xu nào. Thật là một kẻ đáng thương".

    "Một kẻ điên khùng thì đúng hơn" Birna thốt lên. "Đáng thương ư?" Bà ta quay sang chị gái. "Đôi lúc chị như là một người ngốc nghếch thực sự vậy. Nó bị điên mới đúng. Chị nhìn vào mắt nó mà xem. Đôi mắt cay nghiệt và đờ đẫn. Nó còn vã mồ hôi nữa chứ".

    "Vã mồ hôi à?" Erlendur hỏi lại.

    "Ròng ròng trên mặt nó ấy. Mồ hôi ấy".

    "Đấy chỉ là nước mưa thôi mà!" Fjóla phản đối.

    "Không. Hắn còn run rẩy toàn thân nữa".

    "Là mưa thôi," Fjóla nhắc lại và Birna ném cho bà một cái nhìn khó chịu.

    "Nó đã đánh vào đầu chị đấy, Fjóla. Đó là thứ cuối cùng chị cần nhớ đấy".

    "Chỗ nó đá vào em có còn đau không?" Fjóla ân cần hỏi, và bà ta nhìn sang Erlendur. Ông thề là đã thấy đôi mắt bà ta ánh lên sự hả hê.

    ° ° °

    Erlendur và Sigurdur đến Nordumýri lúc trời vẫn còn sáng sớm. Những người hàng xóm của Holberg sống ở tầng trệt và tầng một đang đợi họ. Cảnh sát đã lấy lời khai của gia đình người đàn ông phát hiện ra xác Holberg, nhưng Erlendur vẫn muốn hỏi thêm họ vài điều. Một phi công sống ở tầng trên cũng cho biết anh ta đi từ Boston về đây vào đúng buổi trưa hôm Holberg bị giết. Anh ta ngủ cả buổi chiều và đến khi cảnh sát gõ cửa thì mới dậy.

    Họ bắt đầu với viên phi công trước - anh ta ra mở cửa trong bộ dạng râu ria lởm chởm, mặc độc áo lót với quần đùi. Anh ta tầm ba mươi tuổi, sống một mình trong căn hộ trông như một đống rác: quần áo vứt bừa bộn khắp nơi, hai va-li mở tung trên một cái ghế sofa bằng da khá mới, vỏ chai rượu bày ngổn ngang trên bàn còn vỏ bia thì không chỗ nào là không có. Viên phi công nhìn hai cảnh sát rồi đi vào nhà mà không nói năng gì, sau đó anh ta ngồi sụp xuống ghế. Hai người đứng trước mặt anh ta, không biết tìm ra chỗ nào để ngồi. Erlendur nhìn quanh căn phòng và tự nhủ rằng ngay cả trong tưởng tượng ông cũng sẽ không bao giờ đi cùng một chuyến bay với viên phi công này.

    Chẳng hiểu sao, viên phi công lại bắt đầu kể về vụ ly hôn của mình, băn khoăn không biết cảnh sát có quan tâm đến điều đó hay không. Mụ vợ lẳng lơ bắt đầu ngoại tình trong lúc anh ta đi bay. Một hôm, khi trở về nhà từ Oslo, anh ta đã phát hiện ra vợ mình đang dan díu với một người bạn học cũ. Thật khốn nạn, anh ta nói thêm, và hai cảnh sát không biết viên phi công đó thấy điều gì là khốn nạn hơn, vợ anh ta không chung thủy hay việc anh ta phải ở Oslo.

    "Về vụ án mạng trong căn nhà dưới tầng trệt..." Erlendur chặn ngang đoạn độc thoại líu nhíu của viên phi công.

    "Các ông đã bao giờ đến Oslo chưa?" Viên phi công hỏi.

    "Chưa" Erlendur trả lời. "Chúng tôi không định nói về Oslo!"

    Đầu tiên viên phi công nhìn Erlendur, rồi lại nhìn sang Sigurdur Óli, cuối cùng hình như anh ta cũng đã hiểu ý.

    "Tôi chẳng biết gì về ông ta cả" anh ta nói. "Tôi mua căn hộ này cách đây bốn tháng, theo tôi được biết thì không ai sử dụng nó trong một thời gian dài trước đó. Tôi gặp ông ta vài lần, chỉ ở bên ngoài thôi. Có vẻ như ông ta cũng được".

    "Cũng được là sao?" Erlendur hỏi.

    "Ý tôi là nói chuyện với ông ta cũng được".

    "Hai người nói những chuyện gì?"

    "Về việc bay. Hầu hết là thế. Ông ta rất thích bay".

    "Ý anh là sao, thích bay?"

    "Máy bay" viên phi công trả lời rồi mở một lon bia vừa lấy ra từ cái túi nhựa. "Các thành phố" anh ta nói thêm và nuốt nhanh một ngụm bia. "Các nữ tiếp viên" anh ta nói và ợ lớn. "Các anh biết đấy, ông ta hỏi rất nhiều về các tiếp viên".

    "Không, tôi không biết," Erlendur nói.

    "Ở các trạm tạm dừng khi đi ra nước ngoài ấy mà".

    "Tôi hiểu rồi".

    "Chuyện gì xảy ra, họ có nóng bỏng không, những chuyện đại loại như vậy. Ông ta nghe được những chuyện phóng túng... trên các chuyến bay quốc tế".

    "Lần cuối cùng anh gặp ông ta là khi nào?" Sigurdur Óli hỏi.

    Viên phi công nghĩ ngợi một lúc. Anh ta không nhớ ra được.

    "Vài ngày trước đây", cuối cùng anh ta cũng nói.

    "Anh có để ý thấy ai đến thăm ông ta dạo gần đây không?" Erlendur hỏi.

    "Không, tôi không ở nhà nhiều lắm".

    "Thế anh có thấy ai lảng vảng quanh khu này, có hành vi khả nghi, hay chỉ đứng quanh quẩn ở đây không?"

    "Không".

    "Anh có thấy ai mặc áo quân phục màu xanh lục không?"

    "Không".

    "Một thanh niên trẻ đi giầy quân đội?"

    "Không. Là hắn đấy à? Các ông có biết ai làm chuyện đó không?"

    "Không!" Erlendur trả lời, rồi bước ra khỏi căn hộ trong lúc dẫm phải hàng đống vỏ bia.

    Người phụ nữ quyết định đưa con đến nhà bà ngoại mấy hôm và đã sẵn sàng cho chuyến đi. Cô ta không muốn các con ở lại ngôi nhà sau tất cả những gì đã xảy ra. Chồng cô ta đồng ý. Đó là điều tốt nhất cho họ. Rõ ràng hai vợ chồng ấy bị sốc nặng. Họ mua căn nhà này cách đây bốn năm và rất thích sống ở Nordurmýri. Đây là một nơi lý tưởng đối với đôi vợ chồng và hai đứa trẻ.

    "Thật kinh khủng khi chứng kiến ông ấy bị như vậy" người chồng nói, giọng chỉ vừa đủ nghe, rồi nhìn các con. "Chúng tôi nói với các con rằng ông ta đang ngủ," anh ta nói thêm, "nhưng..."

    "Chúng cháu biết là ông ấy đã chết rồi", thằng anh lên tiếng.

    "Bị giết", đứa em bổ sung.

    Hai vợ chồng cười ngượng nghịu.

    "Chúng hiểu điều đó rõ lắm", người mẹ nói và bẹo vào má thằng anh.

    "Tôi không ghét ông Holberg" người chồng nói. "Chúng tôi cũng thỉnh thoảng nói chuyện với nhau bên ngoài. Ông ấy sống trong ngôi nhà này khá lâu rồi, chúng tôi nói về vườn tược và chăm sóc cây cối, những thứ đại loại như vậy. Cũng giống như ông thường nói với hàng xóm của mình thôi mà".

    "Nhưng không thân mật cho lắm" người mẹ nói. "Ý tôi là quan hệ giữa chúng tôi và ông ta. Tôi cho là mối quan hệ đó không nên gần gũi quá. Ông biết đấy, sự riêng tư mà".

    Họ không thấy có người nào bất thường quanh ngôi nhà và cũng không thấy ai mặc áo quân phục màu xanh quanh quẩn ở đó cả. Người vợ đang rất nóng lòng muốn đưa hai con đi.

    "Ông Holberg có nhiều khách đến thăm không?" Sigurdur Óli hỏi.

    "Tôi chưa từng thấy ai cả" người vợ trả lời.

    "Ông ấy làm người khác có cảm giác là ông ấy cô đơn", người chồng nói thêm.

    "Căn hộ của ông ấy có mùi khó chịu lắm", thằng con cả lên tiếng.

    "Có mùi rất khó chịu", thằng con út đồng thanh.

    "Ở tầng trệt bị ẩm ướt liên tục", người chồng nói một cách ngại ngùng.

    "Đôi lúc nó lan cả lên đây" người vợ nói. "Sự ẩm thấp ấy".

    "Chúng tôi đã nói với ông ấy chuyện đó".

    "Ông ta cũng đã định để mắt đến nó".

    "Nhưng đó là chuyện đã xảy ra cách đây hai năm rồi".


  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    4

    Hai vợ chồng ở Gardabaer nhìn Erlendur với ánh mắt đầy đau đớn. Đứa con gái bé bỏng của họ đã bị mất tích. Họ không nhận được tin gì về con bé từ ba ngày nay, chứ không phải từ đám cưới mà nó bỏ trốn. Con gái bé bỏng của họ. Erlendur đã kịp hình dung ra một cô bé con tóc xoăn vàng trước khi họ nói rằng con bé đã hai mươi ba tuổi và đang theo học khoa Tâm lý của trường Đại học Iceland.

    "Đám cưới à?" Erlendur nhìn quanh phòng khách rộng thênh thang và hỏi. Nó gần như rộng bằng cả tầng nhà nơi ông ở.

    "Đám cưới của nó!" Ông bố thốt lên như thể ông ta vẫn chưa hiểu ra chuyện này. "Con bé trốn khỏi đám cưới của chính nó!"

    Bà mẹ khẽ đưa chiếc khăn tay nhàu nhĩ lên chặm mũi.

    Lúc đó đã là giữa trưa. Vì con đường từ Reykjavík đang bị sửa chữa nên Erlendur mất nửa tiếng đồng hồ mới đến được Gardabaer, và sau khi tìm một hồi ông mới thấy ngôi nhà xây tách biệt ấy. Nó gần như bị che khuất hẳn nếu nhìn từ đường vào, bao quanh là khu vườn rộng trồng tất cả các loại cây cao phải đến sáu mét. Hai vợ chồng chủ nhà gặp ông trong trạng thái sốc tột cùng.

    Erlendur nghĩ rằng chuyện này thật phí thời gian. Còn rất nhiều việc quan trọng hơn đang đợi ông, tuy nhiên, dù ông có không nói chuyện với vợ cũ trong suốt hai thập kỷ qua, ông vẫn muốn giúp đỡ bà ta một điều gì đó.

    Bà mẹ mặc một chiếc váy màu xanh nhạt và thanh nhã, còn ông bố mặc bộ quần áo màu đen. Người bố nói rằng ông càng lúc càng lo lắng về con gái của mình. Ông ta biết rằng cuối cùng con bé sẽ trở về, an toàn và lành lặn - ông không muốn tin vào điều gì khác - nhưng ông ta vẫn muốn hỏi ý kiến cảnh sát, mặc dù chẳng có lý do gì để phải nhờ đến đội tìm kiếm và đội cứu hộ ngay hay gửi thông báo lên đài báo và ti vi cả.

    "Con bé chỉ biến mất thôi" bà mẹ nói. Hai vợ chồng trông hơi già hơn Erlendur một chút, có lẽ họ chừng sáu mươi tuổi. Họ quản lý một công ty chuyên nhập khẩu quần áo trẻ em. Công ty này cung cấp cho họ tất cả những gì cần thiết của một lối sống giàu sang. Những kẻ mới phất. Thời gian đã cư xử với họ thật tử tế. Erlendur để ý thấy hai chiếc xe mới coóng bóng loáng ở trước gara đôi.

    Bà mẹ lấy hết sức mình và bắt đầu kể lại cho Erlendur nghe câu chuyện. "Chuyện xảy ra vào ngày thứ Bảy - ba ngày trước đây, lạy Chúa, thời gian trôi qua nhanh quá. Hôm đó quả là một ngày đẹp trời. Đám cưới của chúng được tiến hành bởi một mục sư rất nổi tiếng".

    "Chả ích gì" ông bố nói. "Ông ta vội vội vàng vàng bước vào, phát biểu mấy câu sáo rỗng rồi lại xách va li biến mất. Tôi không thể hiểu tại sao ông ta lại nổi tiếng đến thế".

    Vợ ông ta không muốn để bất cứ điều gì làm hỏng sự lộng lẫy của đám cưới.

    "Hôm ấy tuyệt vời lắm! Có cả nắng trong tiết trời thu mát mẻ. Riêng trong nhà thờ đã phải có đến hàng trăm người. Con bé có rất nhiều bạn. Thật là một cô gái được nhiều người yêu mến. Chúng tôi tổ chức hôn lễ tại một hội trường ở đây, Gardabaer. Nơi đó tên là gì ấy nhỉ? Lúc nào tôi cũng quên".

    "Gardahort" ông bố nói.

    "Đó thật là một nơi ấm áp tuyệt vời," bà ta tiếp. "Hội trường chật kín. Có nhiều quà cáp lắm. Và sau đó... sau đó... khi..."

    "Bọn trẻ chuẩn bị nhảy điệu đầu tiên," ông bố tiếp tục nói khi vợ ông ta bắt đầu òa khóc. "Và có một thằng ngu ngốc nào đó đang đứng trên sàn nhảy. Chúng tôi gọi Dísa Rós nhưng con bé không xuất hiện. Chúng tôi bắt đầu đi tìm nhưng mọi chuyện diễn ra cứ như thể là sàn nhà đã mở ra và nuốt chửng con bé vậy".

    "Dísa Rós?" Erlendur hỏi lại.

    "Hóa ra là con bé đã lấy chiếc xe cưới".

    "Chiếc xe cưới à?"

    "Chiếc limousine. Với tất cả hoa và nơ. Cái xe đã đưa chúng đến nhà thờ. Con bé đã trốn khỏi đám cưới. Không hề có một báo hiệu nào! Không có lấy một lời giải thích!"

    "Trốn khỏi đám cưới của chính nó!" Bà mẹ gào lên.

    "Vậy ông bà không biết tại sao cô ấy lại hành động như thế à?"

    "Chắc chắn là con bé đã thay đổi quyết định" bà mẹ nói. "Con bé đã hối hận về tất cả mọi chuyện".

    "Nhưng tại sao lại thế mới được chứ?"

    "Xin ngài, ngài có thể tìm con bé về cho chúng tôi được không?" Ông bố hỏi. "Con bé vẫn chưa liên lạc lại, và ngài có thể thấy chúng tôi đang khổ sở lo lắng đến độ nào. Bữa tiệc thực sự đã thất bại thảm hại. Đám cưới đã bị hủy. Còn chúng tôi thì hoàn toàn bất lực. Và con gái bé nhỏ của chúng tôi thì mất tích".

    "Thế còn chiếc xe cưới, có ai tìm thấy nó chưa?"

    "Rồi. Ở Gardastraeti".

    "Tại sao nó lại ở đó?"

    "Tôi không biết. Con bé chẳng quen biết ai ở đó cả. Quần áo nó để lại trong xe. Toàn bộ quần áo".

    Erlendur lưỡng lự.

    "Toàn bộ quần áo của cô ấy để lại trong xe cưới à?" Cuối cùng ông cất tiếng, nhanh chóng cân nhắc xem cuộc nói chuyện này sẽ đi về đâu và liệu ông có phần trách nhiệm nào không.

    "Con bé cởi toàn bộ đồ cưới và mặc quần áo mà nó đã chuẩn bị sẵn trong xe", bà mẹ trả lời.

    "Ông có nghĩ là ông sẽ tìm thấy nó không?" Ông bố hỏi. "Chúng tôi đã liên lạc với tất cả những người mà nó quen nhưng không ai biết gì cả. Chúng tôi không biết phải làm gì nữa. Tôi có ảnh của con bé đây".

    Ông ta đưa cho Erlendur xem tấm hình chụp một cô gái trẻ trung, xinh xắn, tóc vàng hoe, giờ đây đã mất tích. Cô ta mỉm cười với ông trong ảnh.

    "Ông bà không biết chuyện gì đã xảy ra à?"

    "Không hề có một dấu vết nào" bà mẹ đáp.

    "Không hề" ông bố phụ theo.

    "Và đây là quà cưới phải không?" Erlendur nhìn ra chiếc bàn ăn khổng lồ, trên đó chồng đống những gói lớn gói nhỏ màu mè sặc sỡ được thắt nơ xinh xắn, bọc giấy bóng kính và hoa. Ông bước đến bên cái bàn trong khi hai vợ chồng nọ nhìn theo. Trong đời, chưa bao giờ ông nhìn thấy nhiều quà như vậy, ông băn khoăn không biết trong những hộp quà ấy có gì. Bát đĩa sành và bát đĩa sành, ông tưởng tượng.

    Thật là một cuộc đời giàu có!

    "Vậy đây là cái gì thế?" Ông chỉ tay vào mấy cành nhánh chìa ra từ một cái cây cắm trong chiếc lọ lớn cuối bàn. Trên đó người ta treo những tấm thiệp hình trái tim màu đỏ.

    "Đó là một cái cây nhắn gửi".

    "Một cái gì cơ?" Erlendur hỏi lại. Ông mới đi đám cưới có một lần và lần đó cách đây đã quá lâu. Và ở đó chẳng có cây nhắn gửi nào hết.

    "Các vị khách viết lời chúc mừng cho cô dâu chú rể vào thiệp rồi treo chúng lên cây. Khách khứa đã treo rất nhiều tấm thiệp lên trước khi Dísa Rós mất tích" bà mẹ nói trong lúc vẫn chặm khăn lên mũi.

    Chuông điện thoại của Erlendur chợt vang lên trong túi áo khoác. Khi ông lóng ngóng lấy điện thoại ra, nó bị kẹt lại ở nắp túi, và thay vì kiên nhẫn nới lỏng nắp túi ra (mà điều này thật dễ dàng), Erlendur lại giật mạnh cho đến lúc cái túi bật mở. Bàn tay đang giữ chiếc điện thoại vung lên làm cho cái cây nhắn gửi đổ sập xuống sàn. Erlendur nhìn hai vợ chồng đầy vẻ hối lỗi và nghe điện thoại.

    "Ông có định đến Nordurmýri với chúng tôi không đấy?" Sigurdur Óli nói không quanh co. "Còn phải kiểm tra ngôi nhà kỹ lưỡng hơn mà!"

    "Các anh đã xuống đó rồi à?" Erlendur hỏi. Lúc này, ông đã lui vào một góc khuất.

    "Không. Tôi sẽ đợi ông" Sigurdur Óli trả lời. "Ông đang ở cái nơi quái quỷ nào thế?"

    Erlendur gác máy.

    "Tôi sẽ xem xem mình có thể làm được gì," ông nói với đôi vợ chồng. "Tôi không nghĩ là có nguy hiểm gì ở đây. Có thể là con gái ông bà chỉ bị mất tinh thần một thời gian và cô ấy đang ở với một vài người bạn nào đó. Ông bà không nên quá lo lắng. Tôi chắc chắn là cô ấy sẽ gọi về sớm thôi".

    Hai vợ chồng nọ đang lúi húi bên đống thiệp vương vãi trên sàn nhà. Erlendur thấy họ đã bỏ sót mấy chiếc trượt vào gầm ghế bèn cúi xuống nhặt chúng lên. Erlendur đọc những tấm thiệp và nhìn đôi vợ chồng.

    "Ông bà đã đọc cái này chưa?"

    Ông bố đọc lời nhắn và khuôn mặt ông lộ vẻ kinh ngạc. Ông ta đưa tấm thiệp cho vợ. Bà ta đọc đi đọc lại nó nhưng hình như vẫn chẳng hiểu gì. Erlendur đưa tay ra lấy tấm thiệp và đọc lại lần nữa. Nó không có chữ ký.

    "Đây có phải là chữ viết tay của con gái ông bà không?" Ông hỏi.

    "Tôi nghĩ thế" bà mẹ đáp.

    Erlendur xoay tấm thiệp lại và đọc lại lời nhắn:

    "ANH TA LÀ MỘT CON QUỶ. TÔI ĐÃ LÀM GÌ THẾ NÀY?"

  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    5

    Ong đi đâu thế?" Sigudur Óli hỏi Erlendur khi ông quay trở về làm việc, nhưng Erlendur không trả lời.

    "Eva có tìm cách liên lạc với tôi không?" Ông hỏi.

    Sigurdur Óli nói rằng anh ta không nghĩ như vậy. Anh ta biết con gái của Erlendur và vấn đề của cô, nhưng cả hai người chưa bao giờ đề cập đến chuyện đó. Hiếm khi họ nhắc đến mấy vấn đề cá nhân trong những lần chuyện trò.

    "Có gì mới về vụ Holberg không?" Erlendur hỏi và đi thẳng về phía văn phòng. Sigurdur Óli đi theo ông và đóng cửa lại. Ở Reykjavík rất hiếm khi có vụ giết người, nên mỗi khi xảy ra, chúng lại lôi kéo sự chú ý đặc biệt của dư luận. Cục điều tra tội phạm có quy định là không thông báo gì với giới truyền thông về những kết quả điều tra trừ khi thực sự cần thiết. Nhưng quy định đó không được áp dụng trong trường hợp này.

    "Chúng ta biết thêm một chút về ông ta" Sigurdur Óli nói trong lúc mở tập tài liệu trên tay. "Ông ta sinh ra tại Saudárkrókur, sáu mươi chín tuổi. Năm ngoái ông ta lái xe tải cho Công ty vận tải Iceland. Ông ta làm việc ở đó có vẻ thất thường".

    Sigurdur Óli ngừng lại.

    "Chúng ta có nên nói chuyện với đồng nghiệp của ông ta không?" Anh vừa kéo chiếc cà vạt xuống vừa hỏi. Sigurdur Óli mặc bộ vest mới, cao to và đẹp trai, anh tốt nghiệp khoa Tội phạm học ở một trường Đại học của Mỹ. Anh có tất cả mọi thứ mà Erlendur không có: hiện đại và ngăn nắp.

    "Những người trong sở nghĩ thế nào?" Erlendur hỏi lại, xoay xoay cái cúc lỏng lẻo trên chiếc áo len đan, giờ thì nó đã trượt xuống lòng bàn tay ông. Ông to khỏe, rắn chắc với mái tóc rậm màu hoe, và là một trong những thám tử giàu kinh nghiệm nhất của đội. Ông thường làm việc theo cách riêng của mình. Cấp trên và đồng nghiệp từ lâu đã thôi không còn tranh luận với ông nữa. Mọi việc đã thành ra như vậy hết năm này qua năm khác. Erlendur không ghét bỏ gì điều này cả.

    "Mọi người cho rằng có lẽ là một gã dở hơi nào đó" Sigurdur Óli nói. "Ngay từ lúc chúng ta truy tìm cái tên mặc áo quân đội ấy. Đó có thể là một thằng nhãi muốn kiếm tiền nhưng lại phát hoảng lên khi bị Holberg từ chối".

    "Thế còn gia đình của Holberg thì sao? Ông ta có gia đình không?"

    "Không có gia đình, nhưng chúng ta vẫn chưa thu thập đủ thông tin. Chúng ta mới chỉ có những tình tiết cơ bản thôi: gia đình, bạn bè, đồng nghiệp".

    "Theo quan sát của tôi thì ông ta ở một mình và đã ở như vậy khá lâu rồi".

    "Ông đã biết như thế, hẳn nhiên rồi" Sigurdur Óli thốt lên, nhưng Erlendur vờ như không nghe thấy.

    "Có tin gì của bên y tế và nhóm pháp y chưa?"

    "Báo cáo sơ bộ đã nộp rồi. Toàn những thứ chúng ta đã biết. Holberg chết vì một cú đánh vào đầu. Đó là một cú đánh mạnh, nhưng về cơ bản là bởi một chiếc gạt tàn với các cạnh sắc nhọn. Chắc chắn là như thế. Sọ bị bẹp và ông ta chết ngay tại chỗ... hoặc gần như thế. Có vẻ như ông ta đã va phải cái bàn khi ngã xuống. Trên trán có một vết thương đáng sợ, vừa với góc của cái bàn. Các dấu vân tay trên gạt tàn là của Holberg nhưng vân tay còn có ở hai chỗ khác nữa, một trong số đó là trên cái bút chì".

    "Thế chúng có phải là của thủ phạm không?"

    "Có, tất cả các khả năng đều dẫn đến chúng là của hung thủ".

    "Đúng là một vụ giết người vụng về điển hình theo kiểu Iceland".

    "Điển hình. Và đó là giả thuyết mà chúng ta đang tập trung điều tra".

    °

    Trời vẫn đang mưa. Vào thời gian đó, các cơn áp thấp từ ngoài khơi Đại Tây Dương di chuyển vào liên tiếp, hướng thẳng vào bờ biển phía Đông Iceland, mang theo mưa, gió và cả mùa đông thê lương ảm đạm. Cục điều tra hình sự vẫn đang cần mẫn làm việc trong văn phòng ở Nordurmýri. Dải băng màu vàng chăng quanh căn nhà xảy ra án mạng gợi cho Erlendur nhớ đến ban điện lực; một cái hố giữa đường, một cái lều bẩn thỉu ở bên trên, một tia sáng le lói trong lều, tất cả đều được bao quanh gọn ghẽ bằng một dải băng vàng. Giống như vậy, cảnh sát cũng quây lấy hiện trường vụ án mạng bằng một dải băng nhựa màu vàng với tên của nhà chức trách in trên đó. Erlendur và Sigurdur Óli gặp Elínborg cùng các thám tử khác - những người đã lùng sục tòa nhà kỹ lưỡng suốt cả đêm đến tận sáng, họ vừa mới hoàn thành xong công việc của mình.

    Những người sống quanh đó đã được thẩm vấn, nhưng không ai trong số họ nhận thấy điều gì bất thường ở hiện trường từ sáng thứ Hai cho đến khi cái xác được phát hiện.

    Không lâu sau đó tòa nhà chẳng còn ai khác ngoài Erlendur và Sigurdur Óli. Máu trên thảm trải sàn đã chuyển sang màu đen. Chiếc gạt tàn bị thu thập làm chứng cứ. Cả cái bút chì và quyển sổ. Còn lại dường như chẳng có chuyện gì xảy ra. Sigurdur Óli bước đến căn phòng làm việc và hành lang dẫn đến phòng ngủ, còn Erlendur đi quanh phòng khách. Họ đều đeo găng tay cao su trắng. Tranh ảnh được dán và đóng khung vào tường, trông như thể được mua tại tiền sảnh của các đại lý du lịch. Trong tủ sách có bản dịch của những cuốn truyện kinh dị, những cuốn sách bìa mềm của một câu lạc bộ sách, một số quyển đã được đọc, một số rõ ràng là chưa được đụng đến. Không có cuốn sách bìa cứng hấp dẫn nào cả. Erlendur gần như cúi sát xuống sàn nhà để đọc tên sách ở giá cuối cùng và nhận ra mỗi một quyển Lolita của Nabokov, sách bìa mềm. Ông lấy nó ra. Đó là bản tiếng Anh và đã được đọc.

    Ông đặt quyển sách vào vị trí và chầm chậm tiến về phía chiếc bàn. Nó có dạng chữ L và chiếm một góc phòng khách. Một chiếc ghế công sở tiện dụng còn mới kê cạnh bàn, có một tấm đệm mỏng lót phía dưới để bảo vệ tấm thảm trải sàn. Cái bàn trông cũ hơn chiếc ghế rất nhiều. Dưới mặt bàn lớn có ngăn kéo ở cả hai bên và một ngăn dài ở giữa, tất cả là chín cái. Trên mặt bàn ngắn hơn có một màn hình vi tính 17 inch với một khay trượt để bàn phím. Case máy tính được đặt trên sàn nhà. Tất cả các ngăn kéo đều khóa chặt.

    Sigurdur Óli xem xét cái tủ quần áo trong phòng ngủ. Nó được sắp xếp rất gọn ghẽ, tất để ở một ngăn, quần lót ở một ngăn khác, rồi đến quần dài và áo len. Mấy cái sơ mi và ba bộ vest được mắc trên thanh ngang, bộ cũ nhất có từ thời kỳ khiêu vũ, Sigurdur Óli nghĩ, có sọc màu nâu. Vài đôi giày đặt dưới đáy tủ. Quần áo ngủ ở ngăn kéo trên cùng. Người đàn ông này đã dọn giường trước khi người khách đến. Một tấm mền trắng phủ lên gối và tấm chăn lông vịt. Đó là một chiếc giường đơn.

    Trên chiếc bàn cạnh giường ngủ có một cái đồng hồ báo thức và hai quyển sách, một quyển gồm toàn các bài phỏng vấn với một chính trị gia nổi tiếng, quyển còn lại dày đặc những bức ảnh về xe tải ở Scania-Vabis. Trong chiếc bàn đó còn có một tủ nhỏ đựng thuốc, cồn rửa vết thương, thuốc ngủ, Panadol và một lọ Vaseline nhỏ.

    "Anh có thấy cái chìa khóa nào không?" Erlendur hỏi, lúc này ông đã ra đến cửa.

    "Không thấy chìa nào cả. Ý anh là chìa khóa cửa á?"

    "Không, chìa khóa mở chiếc bàn cơ".

    "Cũng không thấy nốt".

    Erlendur vào phòng làm việc và từ đó đi ra bếp. Ông mở các ngăn kéo và tủ ly nhưng chỉ nhìn thấy dao kéo và cốc chén, muôi thìa và bát đĩa. Không có chìa khóa nào cả. Ông đi đến hàng móc treo bên cạnh cửa, lục soát túi áo khoác và tìm thấy một cái bao nhỏ màu đen với một chùm chìa khóa cùng mấy đồng xu lẻ bên trong. Hai chiếc chìa khóa nhỏ được treo cùng chùm với các chìa mở cửa chính, cửa nhà và các phòng.

    Erlendur thử tra chúng vào bàn. Cùng một chiếc mà mở được tất cả chín ngăn kéo.

    Ông mở cái ngăn kéo lớn ở giữa bàn trước.Trong đó chủ yếu là các hóa đơn - hóa đơn điện thoại, điện, lò sưởi và thẻ tín dụng, có cả một bảng phí đăng ký mua báo dài hạn. Hai ngăn kéo dưới cùng bên trái trống không và ngăn tiếp theo là một album ảnh. Tất cả các loại ảnh đen trắng cũ của nhiều người ở nhiều thời điểm khác nhau, một số bức ảnh trông giống như một phòng khách nào đó ở Nordurmýri, một số khác là ảnh dã ngoại: cây phong nhỏ, thác nước Gullfoss và Geysir. Ông nhìn thấy hai bức ảnh mà ông nghĩ là của nạn nhân khi ông ta còn trẻ, nhưng không có chiếc nào mới chụp cả.

    Erlendur mở các ngăn kéo bên phải. Hai ngăn trên cùng trống rỗng. Ngăn thứ ba có một bộ bài, một bộ cờ và một lọ mực cũ.

    Ông tìm thấy bức ảnh ở ngăn dưới cùng.

    Erlendur đang đóng ngăn dưới cùng lại thì bỗng nghe thấy tiếng sột soạt nhẹ bên trong. Khi mở ra và đóng lại lần nữa, ông lại nghe thấy tiếng sột soạt y như lần trước. Nó cọ vào vật gì đó khi đóng lại. Ông ngồi xổm xuống, nhìn vào bên trong nhưng không thấy gì. Ông kéo ngăn kéo ra lần nữa nhưng không nghe thấy gì cả, sau đó đóng lại và lại nghe thấy âm thanh kia. Ông quỳ xuống sàn, kéo cái ngăn ra ngoài, và nhìn thấy có cái gì đó mắc kẹt bèn căng người lấy nó ra.

    Đó là bức ảnh đen trắng nhỏ có hình một ngôi mộ ở một nghĩa trang vào mùa đông. Ông không nhận ra đó là nghĩa trang nào. Có một bia đá đặt trên mộ và các chữ khắc vẫn còn khá rõ. Tên của một cô gái được khắc trên đó. AUDUR. Không có họ. Erlendur nhìn ngày tháng không được rõ lắm. Ông lục tìm chiếc kính trong túi áo, đeo kính lên và nhìn sát vào bức ảnh. 1964-1968. Erlendur lờ mờ trông thấy một bài văn bia, nhưng các chữ cái quá nhỏ nên ông không thể đọc được. Ông cẩn thận thổi bụi trên tấm ảnh.

    Cô bé chết khi mới được bốn tuổi. Erlendur nhìn lên trong lúc cơn mưa mùa thu tạt mạnh vào cửa sổ. Lúc đó đã là buổi trưa nhưng bầu trời vẫn nhuốm một màu u ám.


  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    6

    Chiếc xe tải lớn nằm im lìm trong cơn bão như một con thú thời tiền sử, còn mưa thì cứ rơi như trút. Cảnh sát phải mất một thời gian mới tìm được chiếc xe vì nó không đỗ nơi Holberg sống mà lại nằm tại một bãi đậu ở phía tây Snorrabraut, bên cạnh trung tâm chăm sóc sức khỏe Domus Medica, cách nhà Holberg vài phút đi bộ. Cuối cùng cảnh sát đã thông báo trên đài xem có ai biết nó đỗ ở đâu không.

    Một cảnh sát tuần tra đã tìm thấy chiếc xe vào cùng thời điểm mà Erlendur và Sigurdur Óli mang theo tấm ảnh rời khỏi nhà Holberg. Một nhóm pháp y đã được gọi đến để khám xét chiếc xe và tìm ra dấu vết. Đó là một chiếc xe hiệu MAN với cabin màu đỏ. Sau khi khám xét nhanh, người ta tìm thấy một tập tạp chí gáy cứng có nội dung khiêu dâm. Họ quyết định chuyển chiếc xe đến trụ sở Cục điều tra tội phạm để làm rõ thêm.

    Trong khi việc kiểm tra chiếc xe đang diễn ra, một nhóm pháp y khác cũng làm việc với tấm ảnh. Nó được in trên giấy ảnh Ilford, loại giấy rất thông dụng trong những năm 1960, nhưng lâu rồi người ta không còn dùng nó nữa. Có thể bức ảnh được chụp bởi một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp hoặc cũng có thể là một người nghiệp dư. Việc nó đã bắt đầu phai màu chứng tỏ chất lượng ảnh không được tốt cho lắm. Không có chữ viết đằng sau, cũng không có tên địa danh để xác định xem nghĩa trang trong ảnh là ở đâu. Nó có thể ở bất cứ nơi nào trên đất nước này.

    Người chụp đứng cách bia đá tầm ba mét, tấm ảnh được chụp gần như chính diện cái bia. Anh ta đã phải quỳ xuống, trừ khi anh ta rất thấp. Thậm chí từ khoảng ba mét đó, góc chụp cũng khá hẹp. Không có cây cối gì mọc xung quanh, cũng chẳng thấy ngôi mộ nào khác. Đằng sau cái bia, tất cả những gì có thể thấy được là một đám sương mờ màu trắng.

    Nhóm pháp y tập trung vào những chữ khắc, chúng gần như không thể định dạng được vì người chụp đứng khá xa. Người ta tiến hành phục chế lại bức ảnh rất nhiều lần và chữ khắc được phóng to cho đến khi mỗi chữ cái được in trên khổ giấy A5 và được đánh số, sắp xếp theo thứ tự trên bia đá. Những bức hình đó rất thô, chỉ còn là những chấm nốt màu đen và trắng tạo ra các sắc thái sáng và tối. Nhưng khi chúng được quét vào máy tính, những mảng tối và độ phân giải sẽ được xử lý. Một vài chữ cái sẽ rõ hơn các chữ khác, điều này giúp cho nhóm pháp y có thể điền vào các chỗ trống. Các chữ cái M, F và O có thể thấy rõ, các chữ còn lại khó nhìn hơn.

    Erlendur gọi đến nhà một viên quản lý Tổng cục thống kê quốc gia, ông này vừa nguyền rủa vừa chửi thề khi đồng ý gặp Erlendur tại trụ sở ở Skuggasund. Erlendur biết rằng toàn bộ các giấy chứng tử phát hành từ năm 1916 đều được lưu giữ tại đó. Không còn ai làm việc trong tòa nhà, tất cả nhân viên đã tan sở trước đó một lúc lâu. Ba mươi phút sau, viên quản lý dừng xe ở bên ngoài Cục thống kê và hời hợt bắt tay Erlendur. Ông ta nhập mã PIN vào hệ thống bảo vệ rồi dùng một tấm thẻ đưa họ vào tòa nhà. Erlendur trình bày những điều cơ bản nhất với ông ta.

    Họ kiểm tra tất cả các giấy chứng tử phát ra năm 1968 và tìm thấy hai cái tên Audur. Một bé gái chết năm lên bốn tuổi. Cô bé chết vào tháng Hai. Một bác sĩ đã kí vào giấy chứng tử và họ nhanh chóng tìm ra tên ông ta trong sổ đăng ký quốc gia. Ông ta sống ở Reykjavík. Tên của mẹ cô bé - Kolbrún - cũng được ghi trong tờ giấy. Họ tìm ra bà ta rất dễ dàng. Nơi cuối cùng mà bà ta trú là ở Keflavík vào đầu những năm 1970. Sau đó họ kiểm tra các giấy chứng tử một lần nữa. Kolbrún chết năm 1971, ba năm sau cái chết của con gái.

    Cô bé chết vì một khối u ác tính trong não.

  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    7

    Anh chàng trong vai chú rể đón Erlendur vào văn phòng của mình. Anh ta là người quản lý chất lượng và marketing cho một công ty bán sỉ chuyên nhập khẩu ngũ cốc từ Mỹ. Erlendur, người chưa từng được nếm một bữa sáng kiểu Mỹ trong đời, tự đặt ra câu hỏi: thực ra thì một nhà quản lý chất lượng và marketing của một công ty bán sỉ làm những công việc gì? Ông cũng không buồn hỏi. Chú rể mặc một chiếc sơ mi trắng được là cẩn thận với quần đeo dây. Anh ta cũng đã xắn ống tay áo lên như thể những vấn đề liên quan đến quản lý chất lượng đã khiến anh ta phải hao tâm tổn lực rất nhiều. Anh ta là người tầm thước, hơi mập mạp một chút, có một hàng ria mép bao quanh miệng với cặp môi dày cộm. Tên anh ta là Viggó.

    "Tôi vẫn chưa nhận được tin tức gì từ Disa" Viggó nói nhanh rồi ngồi xuống đối diện Erlendur.

    "Có phải do cậu nói điều gì với cô ấy mà..."

    "Ai cũng nghĩ vậy đấy" Viggó nói. "Mọi người nghĩ rằng nó là lỗi của tôi. Thật quá tồi tệ. Phần tồi tệ nhất trong toàn bộ vấn đề. Tôi không thể chịu nổi điều đó".

    "Anh có để ý đến điều gì đặc biệt ở Dísa trước khi cô ấy chạy trốn không? Bất cứ điều gì khiến cho cô ấy thất vọng ấy?"

    "Tất cả mọi người đều rất vui vẻ. Ông biết đấy, một đám cưới mà, ông hiểu tôi muốn nói gì phải không?"

    "Không".

    "Chắc chắn là ông đã đến đám cưới rồi chứ?"

    "Một lần. Nhưng cách đây lâu lắm rồi".

    "Lúc đó đã đến giờ nhảy điệu đầu tiên. Những bài phát biểu đã chấm dứt và các bạn gái của Dísa tổ chức một số trò vui để giải trí, nhạc công accordion đã đến và chúng tôi chuẩn bị nhảy. Lúc đó tôi đang ngồi ở bàn và mọi người bắt đầu tìm Dísa, nhưng cô ấy đã đi rồi".

    "Lần cuối anh nhìn thấy cô ấy là khi nào?"

    "Cô ấy ngồi bên tôi và nói rằng cô ấy cần đi vệ sinh".

    "Thế anh có nói điều gì khiến cô ấy hờn dỗi không?"

    "Không! Tôi hôn cô ấy và bảo cô ấy đi nhanh lên".

    "Từ lúc cô ấy đi đến khi các anh bắt đầu tìm cô ấy khoảng bao lâu?"

    "Tôi không biết. Tôi ngồi xuống với các bạn của mình, sau đó ra ngoài hút thuốc - tất cả những người hút thuốc đều phải ra ngoài. Tôi nói chuyện với vài người ở đó và cả lúc quay vào cũng vậy. Sau đó tôi ngồi xuống, rồi người chơi đàn accordion đi đến và thảo luận với tôi về điệu nhảy cùng bài nhạc. Tôi còn nói chuyện với vài người khác, chắc khoảng tầm nửa tiếng, tôi cũng không biết nữa".

    "Và anh không nhìn thấy Dísa lần nào trong thời gian đó?"

    "Không. Khi chúng tôi nhận ra thì cô ấy đã biến mất, đó thực sự là một thảm họa. Tất cả mọi người đều nhìn vào tôi như thể đó là lỗi của tôi vậy".

    "Anh nghĩ là chuyện gì đã xảy ra với cô ấy?"

    "Tôi đã đi tìm khắp nơi, nói chuyện với tất cả bạn bè và người thân của cô ấy nhưng không ai biết gì hết, hoặc đó là điều mà họ nói".

    "Anh có nghĩ là có ai đó đã nói dối không?"

    "Ờ thì chắc chắn cô ấy phải ở một chỗ nào đó".

    "Anh có biết là cô ấy đã để lại một lời nhắn không?"

    "Không. Lời nhắn gì? Ý ông là sao?"

    "Cô ấy treo một tấm thiệp lên cái cây nhắn gửi. 'Anh ta là một con quỷ, tôi đã làm gì thế này?' - đó là nội dung tấm thiệp. Anh có biết cô ấy nói thế là có ý gì không?"

    "Anh ta là một con quỷ," Viggó nhắc lại, "cô ấy đang nói đến ai thế nhỉ?"

    "Tôi nghĩ đó có thể là anh".

    "Là tôi á?" Viggó ngạc nhiên, bắt đầu trở nên kích động. "Tôi có làm gì cô ấy đâu, chưa hề! Chưa bao giờ. Đó không phải là tôi. Đó không thể là tôi!"

    "Cái xe mà cô ấy lấy đi được tìm thấy ở Gardastraeti. Nơi đó có gợi cho anh nghĩ đến điều gì không?"

    "Cô ấy không quen ai ở đó cả. Các ông có định thông báo về việc cô ấy mất tích không?"

    "Tôi cho là bố mẹ cô ấy muốn cho cô ấy thời gian để quay về".

    "Vậy nếu cô ấy không về thì sao?"

    "Lúc ấy chúng tôi sẽ xem xét..." Erlendur lưỡng lự. "Tôi đã nghĩ là cô ấy liên lạc với anh, để báo với anh là mọi chuyện ổn cả".

    "Hượm đã, có phải ông đang cho rằng đó là lỗi của tôi và cô ấy không nói gì với tôi vì tôi đã làm điều gì đó với cô ấy không? Lạy Chúa, thật là một câu chuyện kinh dị đẫm máu. Ông có hiểu ngày thứ Hai tôi đi làm nó như thế nào không? Tất cả đồng nghiệp của tôi đều đến dự tiệc, sếp của tôi cũng đến. Ông nghĩ đó là lỗi của tôi à? Mẹ kiếp! Tất cả đều nghĩ là do lỗi của tôi!"

    "Đàn bà" Erlendur nói khi ông đứng lên. "Thật khó để quản lý chất lượng của họ".

    Erlendur vừa về đến văn phòng thì chuông điện thoại kêu. Ông nhận ra giọng người gọi ngay lập tức mặc dù đã lâu lắm rồi ông không nghe thấy giọng nói đó. Nó vẫn còn trong, khỏe và chắc dù người nói đã khá lớn tuổi. Eriendur đã biết Marion Briem trong gần ba mươi năm qua và mối quan hệ của họ không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió.

    "Tôi vừa từ biệt thự về," giọng nói vang lên, "và về đến thị trấn tôi mới biết tin".

    "Cô đang nói đến Holberg phải không?" Erlendur hỏi.

    "Anh đã xem qua các báo cáo về ông ta chưa?"

    "Sigurdur Óli đã kiểm tra các báo cáo trên máy tính nhưng tôi vẫn chưa nghe tin tức gì từ anh ta cả. Báo cáo nào vậy?"

    "Câu hỏi đặt ra là liệu chúng có thực sự còn được lưu giữ trên máy tính hay không. Có thể là chúng đã bị vứt đi rồi. Có luật nào nói về thời gian các báo cáo trở nên vô hiệu lực không? Có phải chúng đã bị hủy đi rồi không?"

    "Cô đang nói đến điều gì vậy?"

    "Té ra là Holberg không phải là một công dân mẫu mực" Marion Briem trả lời.

    "Theo kiểu như thế nào mới được chứ?"

    "Có khả năng ông ta là một kẻ hiếp dâm".

    "Có khả năng?"

    "Ông ta bị kiện vì tội hiếp dâm, nhưng chưa bao giờ bị kết án. Đó là vào năm 1963. Anh phải xem các báo cáo của mình đi".

    "Ai kiện ông ta?"

    "Một người phụ nữ tên là Kolbrún. Bà ta sống ở..."

    "Keflavík phải không?"

    "Phải, sao anh biết?"

    "Chúng tôi tìm thấy một bức ảnh trong ngăn kéo bàn của Holberg. Dường như nó được giấu ở đó vậy. Đó là bức ảnh chụp ngôi mộ của một bé gái tên là Audur, trong một nghĩa trang mà chúng tôi chưa xác định được. Tôi đã đánh thức một cái thây sống ở Tổng cục Thống kê quốc gia và tìm thấy tên của Kolbrún trên giấy chứng tử. Đó là mẹ của Audur. Bà ta cũng đã chết rồi".

    Marion không nói gì cả.

    "Marion?" Erlendur gọi.

    "Thế anh nghĩ sao?" Giọng nói đáp lại.

    Erlendur suy nghĩ.

    "Theo tôi, nếu như Holberg đã cưỡng hiếp người mẹ thì có thể ông ta là cha đứa trẻ, và đó là lý do tại sao tấm ảnh lại ở trong bàn của ông ta. Cô bé sinh năm 1964, mới có bốn tuổi thì chết".

    "Holberg chưa bao giờ bị kết án cả" Marion Briem nói. "Vụ án bị khép lại vì không có đủ bằng chứng".

    "Cô có nghĩ là bà ta đã dựng lên chuyện đó không?"

    "Vào thời ấy thì đó là điều không thể, nhưng như thế cũng không chứng minh được gì. Tất nhiên là phụ nữ không dễ dàng gì được bồi thường cho những kiểu tội ác như vậy. Anh không thể tưởng tượng được bà ta đã phải trải qua những gì trong suốt gần bốn mươi năm đầu. Ngày nay phụ nữ có thể vượt qua được, nhưng ngày ấy thực sự là rất khó. Bà ta khó có thể làm chuyện ấy chỉ để bông đùa. Có thể bức ảnh đó là bằng chứng về tình cha con. Tại sao Holberg lại phải giấu tấm ảnh ấy trong bàn? Vụ hiếp dâm xảy ra năm 1963. Anh nói rằng Kolbrún có con gái một năm sau đó. Bốn năm sau cô bé chết, Kolbrún đã chôn cất cô bé. Holberg cũng bị dính líu vào chuyện đó vì một lý do nào đấy. Có thể ông ta tự mình chụp bức ảnh. Tại sao, tôi không biết. Có vẻ điều đó không thuyết phục".

    "Chắc chắn là ông ta không thể đến dự đám tang, nhưng sau đó ông ta có thể đến ngôi mộ và chụp một bức ảnh. Ý cô là như thế phải không?"

    "Cũng có một khả năng khác".

    "Sao cơ?"

    "Có thể Kolbrún tự chụp bức ảnh và gửi nó cho Holberg".

    "Nhưng tại sao? Nếu đã bị ông ta hiếp, tại sao bà ấy lại gửi cho ông ta ảnh ngôi mộ của cô bé?"

    "Câu hỏi hay đấy".

    "Giấy chứng tử có nói rõ nguyên nhân dẫn đến cái chết của Audur không?" Marion Briem hỏi. "Đó có phải là một tai nạn không?"

    "Cô bé chết vì bệnh u não. Theo cô điều đó có quan trọng không?"

    "Người ta có làm xét nghiệm tử thi không?"

    "Chắc chắn rồi. Có tên của bác sĩ trên giấy chứng tử mà".

    "Thế còn người mẹ?"

    "Chết đột ngột tại nhà".

    "Tự tử à?"

    "Phải".

    "Anh đã thôi không gọi điện để gặp tôi nữa", Marion nói sau một khoảng lặng ngắn ngủi.

    "Tôi bận quá" Erlendur nói. "Bận vô cùng".

  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    8

    Sáng hôm sau, trời vẫn mưa và trên đường đến Keflavík, nước tràn vào các vết bánh xe tạo thành các hố lầy. Mưa tuôn xối xả làm Erlendur khó có thể thấy gì, cửa kính lúc này đã sũng nước và kêu lạch cạch trong cơn bão khủng khiếp triền miên của vùng Đông Nam. Những chiếc cần gạt nước làm việc không kịp trên kính chắn gió, Erlendur ghì chặt vô lăng đến nỗi các đốt ngón tay của ông trắng bệch, ông lờ mờ nhìn thấy màu đèn đỏ của chiếc xe đi đằng trước và cố gắng bám họ hết sức có thể.

    Ông đi một mình, nghĩ rằng như thế này là tốt nhất sau cuộc nói chuyện điện thoại khó khăn với chị gái của Kolbrún buổi sáng hôm đó. Trong giấy chứng tử bà ta được liệt vào danh sách thân nhân tiếp theo. Thái độ của người chị gái không được hợp tác cho lắm. Bà ta từ chối gặp Erlendur. Hình ảnh Holberg chết đã xuất hiện trên mặt báo. Erlendur hỏi người phụ nữ rằng bà có nhìn thấy hình ảnh đó không và đang chuẩn bị hỏi liệu bà có còn nhớ ông ta không thì máy đã cúp. Ông quyết định thử xem bà ta sẽ làm gì nếu thấy ông xuất hiện trên bậc cửa nhà mình, ông không muốn để cảnh sát đến áp giải bà ta về chỗ mình.

    Erlendur đã trải qua một đêm thật tồi tệ. Ông rất lo cho Eva Lind và sợ con bé sẽ làm điều gì ngu ngốc. Con bé có điện thoại, nhưng mỗi lần ông gọi là tiếng trả lời tự động lại vang lên nói rằng số máy không liên lạc được. Erlendur hiếm khi nhớ lại giấc mơ của mình, ông thấy không thoải mái khi phải thức dậy để vồ lấy một cơn ác mộng vừa trôi qua trong đầu trước khi nó hoàn toàn biến mất.

    Cảnh sát đã thu thập được vài thông tin quý giá về Kolbrún. Bà ta sinh năm 1934, từng kiện Holberg về tội hiếp dâm vào ngày 23-11-1963. Trước khi Erlendur khởi hành đi Keflavík, Sigurdur Óli đã thuật lại vụ kiện tụng đó cho ông nghe, đồng thời còn mô tả lại cách thức lấy thông tin vụ kiện từ hồ sơ của cảnh sát mà Sigurdur Óli đã tìm thấy trong phòng lưu trữ - sau khi nhận được lời gợi ý từ Marion Briem.

    Năm ba mươi tuổi Kolbrún sinh Audur, chín tháng sau vụ hiếp dâm. Theo lời các nhân chứng của Kolbrún thì cô ta đã gặp Holberg ở một vũ trường giữa Keflavík và Njardvik. Đó là một đêm thứ Bảy. Kolbrún không biết và cũng chưa từng gặp ông ta bao giờ. Cô ta đi cùng hai người bạn gái, còn Holberg cũng đi với hai người đàn ông khác. Họ đã ở cùng nhau trong vũ trường đêm hôm đó. Khi các điệu nhảy kết thúc, tất cả bọn họ đi dự tiệc tại nhà một bạn gái của Kolbrún. Khá muộn Kolbrún mới chuẩn bị ra về. Holberg đề nghị đưa cô ta về vì muốn cô ta được an toàn. Kolbrún cũng không phản đối. Cả hai người đều không say. Kolbrún nói rằng cô đã uống hết hai chai Vodka và Cokes ở vũ trường và sau đó không uống gì thêm. Còn Holberg không uống gì suốt buổi tối hôm ấy. Theo những gì Kolbrún nghe được thì ông ta nói rằng mình đang phải tiêm penecilin để trị chứng nhiễm trùng ở tai. Có giấy chứng nhận của bác sĩ kèm với phiếu thanh toán khẳng định điều đó là đúng.

    ° ° °

    Holberg hỏi xem liệu có thể gọi một taxi đến Reykjavík không. Kolbrún do dự một lát rồi chỉ cho ông ta chỗ chiếc điện thoại. Holberg đi vào phòng khách để gọi điện trong khi Kolbrún cởi áo khoác ở hành lang và vào bếp lấy một cốc nước. Cô không nghe thấy ông ta kết thúc cuộc đàm thoại của mình, nếu đúng là nó có thật. Cô cảm thấy ông ta đột ngột xuất hiện ngay đằng sau khi cô đứng bên bồn rửa bát.

    Cô giật mình đến mức đánh rơi cả cốc, làm đổ nước lênh láng ra bàn ăn. Cô hét lên khi bàn tay ông ta bắt đầu vồ lấy ngực mình, cô lao vội vào một góc để tránh.

    "Anh làm cái trò gì thế?" Kolbrún thét lên.

    "Chúng ta vui vẻ một chút được không nào?" Holberg trả lời và đứng ngay trước mặt cô, cơ bắp cuồn cuộn với bàn tay rắn chắc và những ngón tay to sụ.

    "Tôi yêu cầu anh đi ra cho" cô nói quả quyết. "Ngay bây giờ! Anh làm ơn đi ngay cho!"

    "Chúng ta vui vẻ một chút đi!" Hắn nhắc lại rồi bước một bước lại gần cô. Cô khoanh tay lại như để tự vệ.

    "Lùi lại!" Cô thét lên. "Tôi gọi cho cảnh sát bây giờ!"

    Bất thình lình cô cảm thấy mình thật đơn độc và yếu đuối khi phải đối đầu với người đàn ông lạ mặt này, người mà cô đã mời về nhà và hắn đang tiến đến gần hơn, vặn tay cô ra đằng sau rồi đang cố gắng hôn cô.

    Cô chống trả lại, nhưng vô ích. Cô cố gắng nói với hắn, yêu cầu hắn dừng lại, nhưng tất cả những gì cô cảm thấy chỉ là sự tổn thương của chính mình.

    ° ° °

    Erlendur thoát ra khỏi dòng suy nghĩ miên man khi một chiếc xe tải khổng lồ rú còi inh ỏi và ầm ầm vượt qua Erlendur khiến cho sóng nước té tới tấp vào xe ông. Erlendur giật manh vô lăng khiến chiếc xe nhảy chồm lên trong làn nước. Đuôi xe xoay vòng, trong một giây Erlendur đã nghĩ rằng mình sắp mất kiểm soát và sẽ bị ném vào vũng lầy mất. Ông cố dừng hẳn lại và nỗ lực giữ xe bám trên mặt đường, sau đó chửi mắng tên lái xe tải thậm tệ, nhưng lúc đó hắn đã biến mất khỏi tầm nhìn của ông trong làn mưa tầm tã.

    Hai mươi phút sau ông đỗ xe trước một ngôi nhà mái tôn nhỏ trong khu vực cũ kỹ nhất của Keflavík. Ngôi nhà sơn trắng với một hàng rào trắng nhỏ bao quanh và một khu vườn được giữ quá cẩn thận. Người chị gái tên là Elín. Bà ta hơn Kolbrún vài tuổi và đã về hưu. Bà ta đang đứng ở sảnh trước, mặc một chiếc áo mưa và đang chuẩn bị ra ngoài khi Erlendur gọi cửa. Bà ta nhìn ông đầy kinh ngạc. Đó là một người phụ nữ thấp, mảnh khảnh với khuôn mặt đầy khắc nghiệt, ánh mắt sắc, xương gò má cao và khóe miệng đầy nếp nhăn.

    "Hẳn tôi đã nói với ông rằng tôi không muốn can dự gì đến ông hay cảnh sát!" Người phụ nữ nói đầy tức giận khi Erlendur giới thiệu về mình.

    "Tôi biết," Erlendur nói, "nhưng..."

    "Tôi yêu cầu ông để tôi được yên" bà ta nói. "Ông không nên phí thời gian đến đây".

    Người phụ nữ bước ra bậc cửa, đóng sầm cửa lại rồi đi ra vườn và mở cái cửa nhỏ ở hàng rào, cứ để nó mở như thế ám chỉ rằng bà ta muốn Erlendur rời khỏi đây. Bà ta còn không thèm nhìn mặt ông nữa. Erlendur đứng trên bậc cửa và nhìn theo bóng bà ta.

    "Bà biết là Holberg đã chết".

    Người phụ nữ không trả lời.

    "Ông ta bị giết tại nhà. Bà biết điều đó".

    Erlendur lúc này đang đứng ở bậc thềm cuối cùng, ông vội đuổi theo bà ta. Người phụ nữ che một cái ô màu đen và nước mưa rơi như trút lên trên đó. Còn Erlendur thì chẳng có gì ngoài cái mũ để che chắn. Bà ta rảo bước nhanh hơn. Erlendur chạy để đuổi theo, ông không biết phải nói gì để yêu cầu người phụ nữ đó nghe mình, không hiểu tại sao bà ta lại cư xử như vậy.

    "Tôi muốn hỏi bà về Audur" ông nói.

    Elín bất ngờ dừng lại và quay ngoắt lại, ném cho ông một cái nhìn khinh bỉ.

    "Các người là lũ cớm chết tiệt" bà ta rít lên qua hàm răng nghiến chặt. "Ông mà cũng dám nhắc đến tên con bé à? Làm sao ông dám? Sau tất cả những gì mà các ông đã đối xử với mẹ nó? Cút đi! Cút ngay bây giờ! Đồ cớm khốn nạn!"

    Người phụ nữ nhìn Erlendur với ánh mắt căm thù, còn ông nhìn lại bà ta chằm chằm.

    "Sau tất cả những gì chúng tôi làm với cô ấy ư?" ông nói. "Với ai cơ?"

    "Cút đi!" Bà ta hét lên rồi quay đi và rảo bước, để Erlendur đứng trơ lại một mình, ông không đuổi theo nữa mà nhìn theo người phụ nữ cho đến khi bà ta biến mất trong làn mưa, người hơi cúi, khoác chiếc áo mưa xanh lục và đi một đôi bốt thấp cổ. Erlendur quay lại, đi về phía nhà bà ta và chiếc xe của mình, suy nghĩ mông lung, ông chui vào xe và châm một điếu thuốc, hơi hé cửa kính, khởi động máy và chầm chậm lái xe ra khỏi ngôi nhà.

    Khi hít vào, ông lại cảm thấy nhói đau nơi vùng ngực. Điều này xảy ra khá lâu rồi. Nó khiến Erlendur lo lắng gần một năm nay. Một nỗi đau mơ hồ đón chào ông vào mỗi buổi sáng nhưng thường biến mất ngay sau khi ông ra khỏi giường, ông không có đệm tốt để nằm. Đôi lúc cả người ông đau ê ẩm khi nằm trên giường quá lâu.

    Ông hít hơi thuốc vào. Hy vọng đó là do cái đệm.

    Khi Erlendur dập tắt điếu thuốc, chuông điện thoại chợt vang lên trong túi áo khoác. Người gọi là đội trưởng nhóm pháp y, thông báo rằng họ đã thành công trong việc giải mã các chữ khắc trên mộ và đã tìm được vị trí của nó trong Kinh thánh.

    "Nó được trích từ Kinh Psalm 64" đội trưởng nói.

    "Tốt lắm" Erlendur nói.

    "Hãy gìn giữ mạng sống của con khỏi sợ kẻ thù nghịch".

    "Sao cơ?"

    "Đó là dòng chữ được khắc trên tấm bia mộ: 'Hãy gìn giữ mạng sống của con khỏi sợ kẻ thù nghịch'. Trích từ Kinh Psalm 64".

    "Hãy gìn giữ mạng sống của con khỏi sợ kẻ thù nghịch".

    "Điều đó có ích gì cho ông không?"

    "Tôi chưa biết".

    "Có hai mẫu vân tay trên bức ảnh".

    "Phải, Sigurdur Óli đã nói cho tôi biết".

    "Một là của Holberg, nhưng mẫu còn lại không có trong hồ sơ của chúng ta. Chúng khá mờ. Những dấu vân tay đã từ lâu lắm rồi".

    "Ông có thể biết bức ảnh được chụp bởi loại máy nào không?" Erlendur hỏi.

    "Không thể nói được. Nhưng tôi nghĩ rằng đó là loại máy khá xịn đấy".


  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    9

    Sigurdur Óli đỗ xe tại sân của công ty Vận tải Iceland, hy vọng là nó không nằm trên đường đi của xe tải. Các xe tải xếp thành hàng dài trên sân. Một số xe đang được chất hàng lên, một số đã được lái đi, những chiếc còn lại được đưa về kho hàng hóa. Một thứ mùi khó chịu của xăng và dầu tràn ngập trong không khí, tiếng ồn phát ra từ động cơ xe đinh tai nhức óc. Nhân viên và khách hàng đang hối hả đi trong sân và kho hàng.

    Trụ sở cảnh sát Luân Đôn đã dự báo thời tiết sẽ còn ẩm ướt hơn nữa. Sigurdur Óli cố kéo cao chiếc áo khoác lên đầu để thoát khỏi cơn mưa khi ông chạy đến kho hàng. Anh chạy về hướng người quản đốc lúc này đang ngồi trong một phòng làm việc nhỏ kiểm tra giấy tờ và có vẻ cực kỳ bận rộn.

    Ông quản đốc là một người to béo. Ông ta mặc chiếc áo khoác có mũ trùm đầu màu xanh và cài một chiếc cúc quanh bụng, tay cầm điếu xì gà. Người đàn ông đó đã nghe tin về cái chết của Holberg và nói rằng ông ta biết Holberg khá rõ. Theo ông ta, Holberg là một người đáng tin cậy, một công nhân chăm chỉ, người đã lái xe từ đầu này đến đầu kia đất nước trong nhiều thập kỷ và thuộc mạng lưới đường bộ của Iceland như lòng bàn tay. Người đốc công còn nói rằng Holberg thuộc kiểu người giữ kẽ, không bao giờ kể về mình hay về những vấn đề cá nhân, không bao giờ kết bạn với ai trong công ty cũng như nói về những việc mình đã làm trước đây. Ông ta nghĩ rằng Holberg luôn luôn là một người lái xe tải. Holberg nói chuyện như thế là đã làm nghề này từ trước. Theo người đốc công thì ông ta độc thân, không có con, cũng không bao giờ nói về gia đình thân thuộc của mình.

    "Đó là tất cả những gì tôi biết", người đốc công nói như thể muốn kết thúc cuộc nói chuyện tại đây trong lúc lấy ra một cái bật lửa từ túi áo và châm điếu xì gà. "Thật là buồn", phù phù, "khi mọi chuyện thành ra như vậy", phù.

    "Ông ta chủ yếu giao du với ai ở đây?" Sigurdur Óli hỏi, cố gắng không hít phải hơi khói hôi hám tỏa ra từ điếu xì gà.

    "Ông có thể gặp Hilmar, tôi nghĩ là ông ta biết ông ta rõ nhất. Ông ta ở Reydarfjordur nên thỉnh thoảng nghỉ lại nhà Holberg ở Nordurmýri mỗi khi ông ta phải qua đêm tại thị trấn. Có những qui định về nơi nghỉ ngơi mà các lái xe phải tuân theo, do vậy họ phải có nơi nào đó để ở trong thành phố".

    "Ông ta có ở đó vào cuối tuần trước không?"

    "Không. Lúc ấy ông ta đang làm việc ở miền Đông, tuy nhiên ông ta có thể ở đó vào cuối tuần trước nữa".

    "Ông nghĩ ai có thể làm hại Holberg? Do xích mích ở chỗ làm hay..."

    "Không, không có", phù, "lý nào", phù, "lại như thế được", phù. Người đàn ông gặp khó khăn trong việc giữ cho điếu xì gà của mình cháy. "Nói chuyện với", phù, "Hilmar", phù, "ông ta có thể giúp anh đấy".

    Sigurdur Óli đi tìm Hilmar sau khi nghe người đốc công chỉ dẫn. Hilmar đang đứng gần một ô cửa kho hàng giám sát việc dỡ hàng xuống xe. Ông ta là một người khổng lồ, cao phải đến hai mét, cơ bắp cuồn cuộn, khỏe mạnh, râu ria xồm xoàm với hai cánh tay rậm lông lộ ra dưới lớp áo phông. Ông ta tầm năm mươi tuổi. Chiếc dây đeo màu xanh lỗi thời giúp kéo chiếc quần bò rách rưới lên. Một máy nâng hàng nhỏ đang tháo dỡ hàng khỏi xe tải. Một chiếc xe khác đang lùi về ô hàng bên cạnh. Cùng lúc đó hai người lái xe bóp còi inh ỏi và chửi nhau loạn xạ trong sân.

    Sigurdur Óli đi về phía Hilmar mà vỗ nhẹ vào vai ông ta, nhưng người đàn ông không chú ý đến Sigurdur Óli. Anh đập mạnh hơn, và cuối cùng Hilmar cũng quay lại. Ông ta có thể thấy Sigurdur Óli đang nói gì đó với mình nhưng không thể nghe thấy gì và nhìn xuống viên cảnh sát với vẻ mặt đần độn. Sigurdur Óli nói to hơn, nhưng cũng chẳng ích gì. Lần này anh nói to hơn nữa và nghĩ rằng Hilmar đã mơ hồ hiểu ra, nhưng anh đã lầm. Hilmar chỉ lắc đầu và chỉ vào tai mình.

    Trước tình cảnh này, Sigurdur Óli cố gắng gấp đôi, anh uốn cong mình, kiễng chân lên và hét lên với giọng to nhất có thể vào cái lúc tất cả mọi thứ lại hoàn toàn trở nên yên lặng. Tiếng của anh vang lên với một âm lượng khủng khiếp, dội vào các bức tường trong kho hàng khổng lồ và vọng cả ra ngoài sân:

    "ÔNG ĐÃ NGỦ VỚI HOLBERG PHẢI KHÔNG?"


  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    10

    Khi Erlendur đến, người đàn ông đang cào lá trong vườn không ngẩng đầu lên cho đến khi Erlendur đã đứng quan sát ông ta được một lúc lâu. Ông ta làm việc chậm chạp với sức lực của một ông già và quệt một giọt mồ hôi nơi đầu mũi. Dường như chuyện mưa gió làm những chiếc lá dính lại với nhau rất khó cào có vẻ không ảnh hưởng gì đến công việc của ông. Ông làm việc chậm rãi, móc những cái lá bằng một cái cào và cố gắng gom chúng thành từng đống nhỏ. Ông ta vẫn sống ở Keflavík, sinh ra và lớn lên ở đó.

    Erlendur nhờ Elínborg thu thập thông tin về ông ta và cô đã tìm ra những điểm chính về người đàn ông lớn tuổi mà giờ đây Erlendur đang quan sát trong vườn - đồng nghiệp của ông, người từng hứng chịu bao nhiêu lời chỉ trích về tư cách đạo đức và quá trình phục vụ trong suốt nhiều năm làm trong ngành, việc giải quyết vụ Kolbrún và cả việc ông đã bị khiển trách nặng nề sau chuyện đó. Elínborg gọi lại để báo tin trong lúc Erlendur đang ngồi ăn ở Keflavík. Ông định lùi cuộc gặp sang ngày hôm sau, sau đó lại thầm nghĩ rằng mình không thể ngại việc lái xe xuống đó rồi quay về trong thời tiết bão dữ dội như này, nên ông muốn tiến hành luôn.

    Người đàn ông khoác áo choàng dài và đội một cái mũ bóng chày. Đôi bàn tay trắng xanh gầy guộc đang cầm chặt cán cào. Ông ta cao lớn, hẳn trước đây ông phải rất cường tráng và có dáng dấp quyền uy, nhưng lúc này trông ông ta thật già nua, nhăn nheo và còn chảy cả nước mũi. Erlendur quan sát ông già lúc ấy đang đi thơ thẩn trong vườn. Người đàn ông đó ngước nhìn lên, nhưng không chú ý đặc biệt đến người đang nhìn mình. Một khoảnh khắc yên tĩnh trôi qua cho đến khi Erlendur quyết định tiến lại.

    "Tại sao chị gái bà ta không chịu nói chuyện với tôi?" Ông nói và người đàn ông bắt đầu ngẩng lên nhìn.

    "Sao cơ? Chuyện gì cơ?" Người đàn ông ngừng tay. "Ông là ai?" Ông ta hỏi.

    "Ông đã đối xử với Kolbrún như thế nào khi bà ta đến chỗ ông để khiếu kiện?". Erlendur hỏi.

    Ông ta nhìn người lạ đã bước vào vườn nhà mình từ đầu đến chân và lấy mu bàn tay lau mũi.

    "Tôi có biết ông không?" Ông ta hỏi. "Ông đang nói về chuyện gì vậy? Ông là ai?".

    "Tên tôi là Erlendur. Tôi đang điều tra vụ giết một người đàn ông ở Reykjavík có tên là Holberg. Ông ta đã bị buộc tội hiếp dâm cách đây gần 40 năm. Ông chịu trách nhiệm điều tra vụ đó. Người phụ nữ bị cưỡng hiếp tên là Kolbrún. Cô ta đã chết. Chị gái của cô ta không chịu nói chuyện với cảnh sát vì một vài lý do nào đó mà tôi đang cố điều tra. Bà ta nói với tôi là 'sau tất cả những gì các ông đã làm với cô ấy'. Tôi muốn ông nói cho tôi biết bà ta đang đề cập đến điều gì".

    Người đàn ông chỉ đưa mắt nhìn Erlendur và vẫn yên lặng.

    "Ông đã làm gì với cô ấy?" Erlendur hỏi lại.

    "Tôi không nhớ được... Ông có quyền gì chứ? Đây là kiểu lăng mạ nào vậy?" Giọng ông ta run nhẹ. "Ra khỏi vườn của tôi, nếu không tôi gọi cảnh sát đấy!"

    "Không, Rúnar, tôi là cảnh sát. Và tôi không có thì giờ để làm những chuyện nhảm nhí đâu!"

    Rúnar suy nghĩ một lát. "Đây là phương pháp mới à? Tấn công người khác với những lời buộc tội và thóa mạ?"

    "Thật tiện khi ông nhắc đến các phương pháp và sự thóa mạ," Erlendur nói. "Cùng một lúc ông thụ lý tám vụ án liên quan đến vi phạm thuế, bao gồm cả gây rối trật tự. Tôi không biết ông phải phục vụ ai để giữ công việc của mình, nhưng kết cục ông lại không làm tốt lắm bởi cuối cùng ông đã phải rời ngành cảnh sát trong nhục nhã. Bị sa thải..."

    "Ông im đi" Rúnar nói, nhìn nhanh xung quanh. "Làm sao ông dám...?"

    "... vì tội quấy rối tình dục thường xuyên".

    Bàn tay trắng xương xẩu của ông ta siết chặt cái cào, làn da xanh xao bị kéo căng cho đến khi các đốt ngón tay hằn lên. Mặt ông ta đanh lại đầy vẻ căm thù, nhìn chòng chọc vào Erlendur cho đến khi mắt ông ta khép lại còn một nửa. Trên đường đến gặp Rúnar, trong lúc các thông tin mà Elínborg cung cấp cứ trở đi trở lại trong đầu, Erlendur đã cân nhắc xem liệu Rúnar có đáng bị xử phạt vì những gì ông ta đã làm trong một cuộc sống khác, khi ông ta còn là một người đàn ông khác.

    Erlendur đã làm trong lực lượng cảnh sát đủ lâu để nghe được nhiều chuyện về Rúnar, về những rắc rối mà ông ta gây ra. Thực ra nhiều năm trước đây ông đã gặp Rúnar một vài lần, nhưng người đàn ông trong vườn giờ đây quá già và lụ khụ đến nỗi Erlendur phải mất một lúc mới chắc chắn được đó chính là ông ta. Các câu chuyện về Rúnar vẫn được truyền đi truyền lại trong sở cảnh sát. Đã có lần Erlendur đọc được rằng quá khứ là một mảnh đất khác và ông có thể hiểu được điều đó. Ông hiểu rằng thời thế thay đổi và con người cũng vậy. Nhưng ông chưa sẵn sàng để tẩy xóa đi quá khứ.

    Họ đứng mặt đối mặt trong vườn.

    "Còn về Kolbrún thì sao?" Erlendur hỏi.

    "Cút đi!"

    "Chừng nào ông nói cho tôi biết về Kolbrún".

    "Cô ta là một con đĩ mạt hạng!" Rúnar bất thình lình rít lên giữa hai hàm răng nghiến chặt. "Nhớ lấy điều đó và cút đi! Mọi thứ cô ta nói về tôi và với tôi đều là những lời nói dối bẩn thỉu. Chẳng có vụ hiếp dâm khốn nạn nào cả. Cô ta nói dối từ đầu đến cuối!"

    Erlendur tưởng tượng ra hình ảnh Kolbrún ngồi trước mặt người đàn ông này nhiều năm trước đây khi cô đã trình báo vụ hiếp dâm. Ông hình dung việc từng ngày từng ngày cô phải thu hết can đảm cho đến khi dám đến sở cảnh sát để trình báo việc đã xảy ra với mình. Ông thấy sự khủng khiếp mà cô phải trải qua và, hơn tất thảy mọi thứ, muốn quên nó đi như thể nó chưa từng xảy ra, như thể nó chỉ là một cơn ác mộng mà cuối cùng cô cũng thức dậy. Sau đó cô nhận ra rằng mình sẽ không bao giờ tỉnh lại được. Cô đã bị làm ô nhục. Cô đã bị tấn công và bị cưỡng bức.

    "Cô ta tới trình báo khi vụ việc xảy ra được ba ngày và buộc người ta tội hiếp dâm" Rúnar nói. "Lý lẽ không được thuyết phục cho lắm".

    "Vậy nên ông đã tống cô ta ra ngoài?" Erlendur nói.

    "Cô ta nói dối".

    "Và ông cười vào mặt cô ấy, xem thường cô ấy và bảo cô ấy quên chuyện đó đi. Nhưng cô ấy không quên được, phải không?"

    Người đàn ông nhìn Erlendur với ánh mắt khinh bỉ.

    "Cô ấy đã đến Reykjavík phải không?" Erlendur hỏi.

    "Holberg chưa bao giờ bị buộc tội cả".

    "Nhờ có ai đó, ông có nghĩ thế không?"

    Erlendur hình dung ra cảnh Kolbrún cãi lộn với Rúnar trong sở cảnh sát. Cãi lộn với ông ta! Người đàn ông đó! Tranh cãi về sự thật mà cô đã trải qua. Cố gắng thuyết phục ông ta rằng cô đang nói sự thật như kiểu ông ta là vị quan tòa tối cao đang xét xử vụ việc của mình.

    °

    Cô phải dồn hết sức mình để liên kết các sự việc trong buổi tối hôm đó và cố gắng kể một cách rành mạch, nhưng điều đó quá đau đớn. Cô không thể miêu tả lại được. Không thể kể lại được cái điều mơ hồ và ghê tởm ấy. Bằng cách nào đó cô đã cố gắng ráp nối các mảnh rời rạc trong câu chuyện của mình. Có phải đó là một điệu cười nhếch mép không? Cô không hiểu tại sao viên cảnh sát lại có hành động đó. Cô có cảm tưởng đó là điệu cười nhếch mép, nhưng không thể như thế được. Sau đó ông ta bắt đầu tra hỏi cô về các chi tiết cụ thể.

    "Kể cụ thể cho tôi xem chuyện đó như thế nào".

    Cô nhìn ông ta, bối rối. Cô ngập ngùng kể lại câu chuyện của mình.

    "Không, tôi đã nghe điều đó rồi. Tôi muốn cô kể chính xác cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra. Cô đang mặc quần lót. Làm thế nào mà hắn cởi được quần lót của cô ra? Hắn đi vào trong cô như thế nào?"

    Ông ta đang đùa hay sao thế? Cuối cùng cô hỏi xem có nữ cảnh sát nào đang làm việc ở đó không.

    "Không. Nếu cô muốn kiện ông ta tội hiếp dâm, cô phải kể cụ thể hơn thế này. Cô hiểu chứ? Hay là cô có dụ dỗ nên ông ta mới nghĩ rằng cô đề nghị chuyện đó?"

    "Đề nghị chuyện đó ư?" Cô nói với ông ta bằng giọng gần như lạc đi.

    "Cô phải nói ra. Hắn cởi quần lót của cô như thế nào?"

    Kolbrún chắc chắn đó là nụ cười nhếch mép. Rúnar xấc xược tra hỏi cô, chất vấn những điều cô nói một cách thô lỗ, một vài câu hỏi còn bộc lộ sự sỉ nhục rành rành, thật là bẩn thỉu. Hắn cư xử như thể cô đã gây ra chuyện xấu xa đó, đã muốn làm tình với cái gã đốn mạt kia, và có lẽ về sau cô đã thay đổi quyết định nhưng đã quá muộn, quá muộn để trốn tránh khỏi chuyện đó. "Không có ích gì khi cô đã đến sàn nhảy, ve vãn người đàn ông và sau đó lại dừng lại giữa chừng. Chẳng ích gì đâu!" Ông ta nói.

    Cô khóc nức nở khi cuối cùng cô cũng phải mở túi xách, lấy ra một cái túi bằng nhựa và đưa nó cho ông ta. Ông mở cái túi và lấy ra chiếc quần lót đã bị xé toạc...

    ° ° °

    Rúnar bỏ cái cào xuống và sắp sửa đi qua Erlendur, nhưng Erlendur đã chặn đường ông ta và xoay lưng ông ta vào tường nhà. Họ nhìn thẳng vào mắt nhau.

    "Cô ấy đã đưa cho ông chứng cứ" Erlendur nói. "Chứng cứ duy nhất mà cô ấy có. Cô ấy chắc chắn là Holberg đã để lại thứ gì đó".

    "Cô ta chưa bao giờ đưa cho tôi cái gì cả!" Rúnar rít lên. "Để tôi được yên".

    "Cô ấy đã đưa cho ông chiếc quần lót".

    "Cô ta nói dối dấy".

    "Đáng lý ra người ta nên khử ông đi thì hơn. Đồ súc vật khốn kiếp". Với một sự ghê tởm, Erlendur chầm chậm lùi lại, tránh xa người đàn ông hom hem lúc này đang gập mình trước bức tường.

    "Tôi chỉ nói cho cô ta biết điều gì sẽ chờ đợi cô ta nếu cô ta muốn kiện tụng". người đàn ông rít lên. "Tôi đã giúp cô ta đấy chứ. Quan tòa sẽ cười vào những vụ kiện như thế".

    Erlendur xoay người bước đi, tự hỏi làm sao mà Chúa, nếu Người thực sự tồn tại, lại để cho những kẻ như Rúnar còn sống đến già trong khi lấy đi sinh mạng của một bé gái vô tội mới tròn bốn tuổi.

    Ông dự định sẽ quay trở về gặp người chị của Kolbrún nhưng lại ghé qua thư viện Keflavík trước. Ông đi giữa các giá sách, quét ánh mắt lên gáy sách cho đến khi tìm thấy cuốn Kinh thánh.

    Erlendur biết Kinh thánh rất rõ. Ông mở mục Psalm số 64 và tìm thấy dòng chữ được khắc trên bia đá. "Hãy gìn giữ mạng sống của con khỏi sợ kẻ thù nghịch".

    Ông đã nhớ chính xác. Các chữ khắc là dòng tiếp theo của dòng đầu tiên trong kinh Psalm, Erlendur đọc đi đọc lại mấy lần, từ từ lần tay theo dòng chữ, và thầm đọc lại câu thánh thi khi đứng bên giá sách.

    Dòng đầu tiên trong kinh Psalm là một lời thỉnh cầu lên Chúa. Erlendur dường như có thể nghe thấy tiếng khóc thầm của người phụ nữ vang vọng suốt bao nhiêu năm.

    "Hỡi Đức Chúa Trời, xin hãy nghe tiếng than thở tôi".

Trang 1 / 7 123 ... Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Cà phê Sài Gòn xưa
    By khieman in forum Quán Ông 8 Bà 8
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-20-2016, 04:08 AM
  2. Tranh in từ… bột cà phê
    By sophienguyen in forum Nghệ Thuật Hội Họa
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-13-2015, 02:44 AM
  3. Trà sữa cà phê
    By sophienguyen in forum Món Tráng Miệng
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-28-2014, 02:28 AM
  4. Cà Phê (Ôm) Fè
    By Santafe in forum Phố Biệt Thự
    Trả Lời: 18
    Bài Viết Cuối: 08-14-2014, 05:25 PM
  5. Cà phê sữa và Trứng
    By sophienguyen in forum Món Khai Vị
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-05-2014, 02:20 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •