Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tình yêu thường làm cho con người mù quáng. Khi hai kẻ yêu nhau bao giờ cũng cho người mình yêu và những chuyện của mình hoàn toàn hợp lý. Chỉ có những người ngoài mới nhận được đâu là phải đâu là sai.
Albert Camus
Trang 2 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối
Results 11 to 20 of 38

Chủ Đề: Kẻ Tầm Xương

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Kẻ Tầm Xương



    Tác giả : Jeffery Deaver

    Dịch giả: Phạm Hồng Anh



    "Xương là cốt lõi tối thượng của con người. Nó không thay đổi, không lừa dối, không đầu hàng. Một khi bề ngoài da thịt, những thiếu sót của những chủng tộc hạ đẳng, giới tính yếu ớt, bị đốt cháy hay nấu chín, thì chúng ta - tất cả chúng ta - còn lại là xương cốt cao quý. Xương cốt không dối trá. Nó là vĩnh cửu."

    Trích Kẻ tầm xương - tiểu thuyết đầu tiên trong series tiểu thuyết trinh thám về nhân vật Lincoln Rhyme



    I

    VUA MỘT NGÀY

    Thực tại ở New York
    quá hùng mạnh khiến cho quá khứ phải biến mất.

    JOHN JAY CHAPMAN



    MỘT


    10:30 PM thứ Sáu đến 3:30 PM thứ Bảy

    Cô chỉ muốn ngủ.

    Máy bay hạ cánh chậm hai tiếng và hành khách xếp hàng dài dằng dặc để đợi lấy hành lý. Xe phục vụ đưa đón họ đã về được một tiếng. Còn bây giờ họ đang đợi taxi.

    Cô đứng trong hàng người, thân hình mảnh dẻ nghiêng đi dưới sức nặng của chiếc máy tính xách tay. John đang huyên thuyên về lãi suất và những cách thức điều chỉnh hợp đồng, nhưng tất cả những gì cô có thể nghĩ tới là 10:30 thứ Sáu, mình muốn ráo mồ hôi và ăn uống gì đấy.

    Nhìn vào dòng chảy vô tận của những chiếc Yellow Cab. Có điều gì đó ở màu sắc và sự giống nhau của những chiếc xe gợi cho cô nhớ tới bọn côn trùng. Cô rùng mình vì cảm giác bò trườn ghê sợ mà cô vẫn nhớ từ hồi còn bé ở trên núi, khi cô và anh trai nhìn thấy một con lửng gan dạ bị giết hay đang cố kháng cự lại tổ kiến lửa đỏ, cô đã nhìn chằm chằm vào một khối chân cẳng và thân thể ẩm ướt, quằn quại.

    T.J. Colfax lê chân về phía trước khi chiếc taxi tạt vào lề đường và phanh kít lại.

    Người lái xe mở cốp nhưng vẫn ngồi trong xe. Họ phải tự xếp đồ, việc đó làm John khó chịu. Anh đã quen được người khác làm cho mọi thứ. Tammie Jean không quan tâm; đôi khi cô vẫn ngạc nhiên vì thấy mình có thư ký đánh máy và lập hồ sơ giúp. Cô ném vali vào cốp xe, đóng lại và trèo vào trong xe.

    John vào sau cô, sập cửa, nhăn bộ mặt béo phị vào cái đầu hói của anh ta, cứ như nỗ lực cho cái túi đựng bộ vét của anh ta vào cốp xe đã làm anh ta kiệt sức.

    "Đến Bảy mươi hai Đông trước", John lầm bầm qua lớp kính chắn.

    "Sau đó đến Upper West Side" 1, T.J. nói thêm. Lớp kính chắn Plexi giữa hàng ghế đầu và hàng ghế sau xước xát đến mức cô gần như không thấy người tài xế.

    Chiếc taxi lao bắn khỏi vỉa hè và nhanh chóng chạy trên đường cao tốc hướng về phía Manhattan.

    "Xem kìa", John nói, "kia là lý do tại sao lại đông người đến thế".

    Anh chỉ vào một bảng quảng cáo chào mừng các đoàn đại biểu đến dự hội nghị hoà bình của Liên Hiệp Quốc. Sẽ có khoảng mười nghìn khách đến thành phố. T.J. ngước nhìn tấm bảng - những người da đen, da trắng và châu Á, vẫy tay và tươi cười. Tuy vậy vẫn có điều gì đó không ổn trong bức tranh. Tỷ lệ và màu sắc đã bị phai. Các khuôn mặt trông có vẻ nhợt nhạt.

    T.J. nói thầm: "Bọn ba bị."

    Họ chạy trên con đường cao tốc rộng rãi, trông bóng loáng và có màu vàng không dễ chịu dưới ánh sáng đèn đường. Chạy qua khu Cảng Hải quân cũ, qua những chiếc cầu cảng của Brooklyn.

    Cuối cùng John cũng ngừng nói, lôi chiếc Texas Instruments ra và bắt đầu gõ. T.J. dựa lưng vào ghế, nhìn sang vỉa hè bốc khói và những khuôn mặt buồn thảm của những người ngồi trên các bậu cửa đá nâu trông ra đường. Họ hình như đã bị hôn mê trong cái nóng.

    Trong xe nóng bức nên T.J. thò tay bấm nút mở cửa sổ. Cô không ngạc nhiên khi thấy cửa kính xe không mở được. Cô vươn qua người John. Cửa sổ bên anh cũng hỏng. Và đó là lúc cô nhận thấy xe không có khoá cửa.

    Cả tay nắm cửa cũng không có.

    Tay cô lần tìm nút tay nắm cửa. Chẳng có gì - cứ như ai đó đã cắt nó đi bằng cưa máy.

    "Gì vậy?" John hỏi.

    "À, cánh cửa... Ta mở cửa thế nào bây giờ?"

    John nhìn từng cánh cửa khi biển hiệu Đường hầm Midtown xuất hiện rồi biến mất.

    "Này!" John gõ vào tấm kính chắn. "Ông lỡ mất chỗ rẽ rồi. Chúng ta đang đi đâu thế này?"

    "Có lẽ ông ta định qua Queensboro", T.J. nói. Qua cầu đường sẽ dài hơn nhưng không phải trả phí qua hầm. Cô ngồi dịch lên và gõ nhẫn vào tấm kính Plexi.

    "Ông định qua cầu đấy à?"

    Người lái xe lờ đi.

    "Này!"

    Ngay sau đó họ qua chỗ rẽ Queensboro.

    "Chết tiệt", John hét lên. "Ông định đưa chúng tôi đi đâu? Harlem. Tôi cá là hắn ta định đưa chúng ta đến Harlem."

    T.J. nhìn ra ngoài cửa sổ. Một chiếc xe đang chạy song song với họ và chậm rãi vượt lên. Cô đập thật mạnh vào cửa sổ.

    "Cứu!" Cô gào to. "Làm ơn đi..."

    Người lái xe liếc cô một lần, rồi lần nữa, vẻ không bằng lòng. Anh ta giảm tốc độ và lùi lại sau họ nhưng chiếc taxi đã đột ngột quặt vào đường nhánh xuống Queens, vòng vào một con phố và chạy dọc theo một khu nhà kho trống trải. Có lẽ họ đã phải chạy với tốc độ hơn sáu mươi dặm 2 một giờ.

    "Ông đang làm cái trò gì thế?"

    T.J. đập vào tấm kính chắn. "Chạy chậm lại. Chúng ta đang ở đâu?"

    "Ôi, trời ơi, không", John thì thầm. "Nhìn kìa."

    Người tài xế đã đeo một chiếc mặt nạ trượt tuyết.

    "Ông muốn gì?" T.J. hét lên.

    "Tiền à? Chúng tôi sẽ đưa tiền cho ông."

    Nhưng phía trước xe vẫn im lặng.

    T.J. mở tung chiếc túi hiệu Targus của cô và lôi chiếc máy tính xách tay màu đen ra. Cô ngả người về phía sau và phang góc máy tính vào cửa sổ. Kính vẫn còn nguyên vẹn mặc dù tiếng đập có vẻ đã làm người tài xế hết hồn. Chiếc taxi đổi hướng và suýt đâm vào bức tường của toà nhà họ vừa chạy qua.

    "Tiền? Bao nhiêu? Tôi sẽ đưa cho ông rất nhiều tiền!" John lắp bắp, nước mắt rơi lã chã xuống hai cái má béo phị của anh ta.

    T.J phang máy tính vào cửa sổ thêm một lần nữa. Cú phang mạnh đến nỗi màn hình bắn ra nhưng cửa sổ vẫn y nguyên.

    Cô thử lại lần nữa, thân máy tính mở tung và rơi khỏi tay cô.

    "Mẹ kiếp..."

    Cả hai lao mạnh về phía trước khi chiếc xe trượt bánh trên đường và dừng lại trên một ngõ cụt tăm tối, bẩn thỉu.

    Người lái xe chui ra khỏi xe, trong tay hắn là một khẩu súng lục nhỏ.

    "Đừng, xin ông", cô van xin.

    Hắn ta đi ra phía sau xe và cúi người xuống, nhìn qua lớp kính bị trầy xước. Hắn đứng đó khá lâu trong khi cô và John lùi lại phía sau, dựa vào cánh cửa đối diện, thân thể đầm mồ hôi của họ dán vào nhau. Người tài xế khum tay che ánh đèn đường và nhìn họ thật gần.

    Bất ngờ có tiếng nổ vang rền trong không trung. T.J. co rúm người. John thét lên một tiếng.

    Phía xa, đằng sau người lái xe, bầu trời tràn ngập những chấm lửa xanh đỏ. Lại có thêm những tiếng nổ và tiếng rít. Hắn ta quay lại và nhìn lên trong khi một con nhện khổng lồ màu da cam đang trải mình phía bên trên thành phố.

    Pháo hoa, T.J. nhớ lại tờ Thời báo: Món quà của Thị trưởng và Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc cho các đoàn đại biểu, chào mừng họ tới thành phố vĩ đại nhất thế giới.

    Người lái xe quay lại chiếc taxi. Hắn ta kéo tay nắm cửa với một tiếng động lớn và từ từ mở cửa.

    Một cuộc gọi nặc danh. Như mọi khi

    Như thế thì chẳng có cách gì kiểm tra xem người báo tin có định nói về khu đất hoang nào. Trung tâm gọi đến: "Anh ta nói Ba mươi bảy gần Mười một. Chỉ có thế thôi."

    Những người báo tin thường không biết rõ hướng tới hiện tượng vụ án.

    Đã toát mồ hôi mặc dù lúc này mới có chín giờ sáng, Amelia Sachs đẩy một bệ cỏ cao. Cô đang tìm theo vạch - cách gọi của những người làm việc tại hiện trường vụ án - một sơ đồ hình chữ S. Chẳng có gì. Cô nghiêng đầu nói vào cái mic kẹp trên ve bộ đồng phục màu xanh hải quân của cô.

    "5885. Không tìm thấy gì, thưa Trung tâm. Các anh có yêu cầu gì thêm không?"

    Người trực tổng đài nói qua tiếng lẹt xẹt tĩnh điện: "Không cần gì tại đó nữa, 5885. Nhưng có một điều... người báo tin nói anh ta hi vọng nạn nhân đã chết. Nghe rõ."

    "Trung tâm, xin nhắc lại."

    "Người báo tin này nói anh ta hi vọng nạn nhân đã chết. Vì lợi ích của chính nạn nhân. Nghe rõ."

    "Nghe rõ."

    Hy vọng nạn nhân đã chết?

    Sachs leo qua một dây xích rũ xuống và tìm một khoảng trống khác. Không có gì.

    Cô muốn bỏ cuộc. Gọi đến 10-90, báo cáo vô căn cứ, và quay trở lại với Deuce, khu tuần tra thường xuyên của cô. Đầu gối cô bị đau và cô đang nóng như bị hầm trong cái thời tiết tháng Tám tệ hại này. Cô muốn lẻn vào Ban quản lí Cảng, nói chuyện với các chàng trai và uống một hộp trà đá Arizona. Sau đó, lúc 11:30 - chỉ cách đó một, hai giờ đồng hồ - cô có thể đã dọn dẹp tủ đồ đạc của mình ở Nam Midtown 3 và chuẩn bị đi tập.

    Nhưng cô không, không thể thì đúng hơn, bỏ qua cuộc gọi này. Cô tiếp tục đi: dọc theo vỉa hè nóng bức, qua khoảng trống giữa hai khu đất hoang và một khu vườn nhiều cây cối khác.

    Ngón tay trỏ rất dài của cô thọc vào chiếc mũ đồng phục đỉnh phẳng, qua những lớp tóc đỏ dày được búi cao trên đầu. Cô gãi mạnh khi chạm đến phía dưới chiếc mũ, rồi gãi thêm một lúc nữa. Mồ hôi chảy dọc trán cô buồn buồn và cô gãi lông mày.

    Suy nghĩ: Hai giờ cuối cùng của mình ngoài phố. Mình chịu được.

    Khi Sachs đi sâu hơn vào bụi cây, cô cảm thấy sự bất ổn đầu tiên trong buổi sáng hôm nay.

    Ai đó đang nhìn mình.

    Gió nóng thổi xào xạc trên những bụi cây khô, xe hơi và xe tải ầm ĩ qua lại Đường hầm Lincoln. Cô nghĩ tới điều mà một sĩ quan tuần tra thường làm: thành phố này quá ầm ĩ đến mức ai đó có thể lẻn tới sau mình, trong tầm dao, mà mình không hề hay biết.

    Hoặc phóng ra những tia nhìn thép chiếu vào lưng mình...

    Cô quay lại thật nhanh.

    Chẳng có gì ngoài những chiếc lá, những cỗ máy rì rầm và rác rưởi. Trèo lên một đống đá, mặt mũi cau có. Amelia Sachs - ba mươi mốt tuổi - gần được ba mươi mốt, mẹ cô chắc sẽ nói thế - đã bị viêm khớp. Cô được thừa kế chứng bệnh đó từ ông ngoại, cũng rõ ràng như cô đã nhận được thân hình mảnh dẻ từ mẹ, vẻ ngoài xinh đẹp cũng như sự nghiệp từ cha (màu tóc đỏ thì tuỳ theo suy đoán của mọi người). Lại thêm một cơn đau nhói khi cô đi qua một bức rèm được tạo thành từ các bụi cây chết khô cao ngất. Cô may mắn dừng lại khi chỉ cách cái vách sâu ba mươi feet 4 đúng một bước chân.

    Phía dưới cô là một cái khe tối tăm - cắt sâu xuống nền đá của West Side. Chạy qua đó là đường sắt Amtrak cho những đoàn tàu đi lên phía bắc.

    Cô hé mắt, liếc nhìn đáy khe cách không xa nền đường sắt.

    Cái gì thế?

    Một vòng tròn đất mới lật, một nhánh cây nhỏ cắm bên trên? Trông nó giống như...

    Ôi! Lạy chúa!

    Một cảnh tượng làm cô rùng mình. Cảm thấy cơn buồn nôn dâng lên, châm vào da của cô như một làn sóng lửa. Cô kìm nén được cái phần nhỏ nhoi trong cô, cô muốn quay đi chỗ khác và làm ra vẻ như mình chưa hề trông thấy gì.

    Anh ta hi vọng nạn nhân đã chết. Vì chính nạn nhân.

    Cô chạy theo chiếc cầu thang sắt dẫn tới vỉa hè xuống phía dưới nền đường. Cô vươn tay và định bám vào tay vịn cầu thang nhưng cô đã kịp dừng lại. Khốn kiếp. Thủ phạm có thể tẩu thoát theo đường này. Nếu chạm vào đó, cô có thể xoá mất dấu tay hắn để lại. Được, ta làm cách khó vậy. Thở thật sâu để nén cơn đau khớp, cô bắt đầu trèo xuống theo mặt đá, cố lùa đôi giày mới của cô - đôi giày được đánh bóng như gương cho ngày đầu tiên nhận nhiệm vụ mới - vào những khe đá nứt. Cô nhảy từ độ cao bốn feet xuống nền đường và chạy tới nấm mồ.

    "Ôi, trời..."

    Đó không phải là một nhánh cây nhô lên khỏi mặt đất mà là một cánh tay. Thân thể bị chôn đứng và đất được đắp lên tới cánh tay, cổ tay và bàn tay thò ra ngoài. Cô nhìn chằm chằm vào ngón đeo nhẫn; tất cả thịt đã bị bóc sạch và một chiếc nhẫn kim cương của phụ nữ có hình ly cocktail được lồng vào đoạn xương máu me, trần trụi.

    Sachs quỳ xuống và bắt đầu đào.

    Cô đào bới làm cho đất bắn tung toé, cô nhận thấy những ngón tay chưa bị cắt trông xiên xẹo và kéo dãn ngoài mức có thể uốn cong. Điều đó nói với cô rằng nạn nhân vẫn còn sống khi bị những xẻng đất cuối cùng hất vào mặt.

    Và có thể vẫn còn sống.

    Sachs giận dữ đào chỗ đất còn tơi, cắt tay vào mảnh chai, máu đen của cô trộn lẫn với màu đất còn đen hơn. Sau đó, cô đào đến tóc và vầng trán phía dưới, vầng trán đã xanh xám lại vì thiếu oxy. Tiếp tục đào cho tới khi cô có thể nhìn thấy hai con mắt mờ đục và cái miệng đã bị vặn xoắn thành vẻ mặt kinh hoàng khi nạn nhân cố gắng trong một vài giây cuối cùng để ngoi lên khỏi đợt thuỷ triều đất đen.

    Không phải là một phụ nữ. Dù tay đeo chiếc nhẫn. Đó là một người đàn ông trên năm mươi tuổi, đậm người. Chết khi đất vùi kín anh ta.

    Lùi lại phía sau, cô không thể rời mắt khỏi cái xác chết và suýt vấp phải đường tàu. Cô không thể nghĩ được điều gì khác trong gần một phút. Ngoài việc nếu bị chết như thế thì sẽ ra sao.

    Sau đó: Nào, em yêu. Em đã tự dẫn mình đến hiện trường vụ án và em là sĩ quan đầu tiên có mặt tại hiện trường.

    Em biết phải làm gì chứ:

    ADAPT

    A là Arrest: bắt kẻ tình nghi.

    D là Detain: thẩm tra nhân chứng và vật chứng.

    A là Assess: đánh giá hiện trường vụ án.

    P là....

    P là gì nhỉ?

    Cô nghiêng đầu nói vào mic. "5885 gọi Trung tâm. Báo cáo tiếp. Tôi gặp 10-29 trên đường tàu hoả ở Đại lộ Ba mươi tám và Mười một. Giết người, nghe rõ. Cần thám tử, CS 5, xe bus, và bác sĩ pháp y. Nghe rõ."

    "Đã rõ, 5885. Nghi phạm đã bị bắt chưa, nghe rõ?"

    "Không có nghi phạm."

    "Năm-tám-tám-năm, nghe rõ"

    Sachs nhìn chằm chằm vào ngón tay, ngón tay bị lóc thịt đến tận xương. Một chiếc nhẫn không phù hợp. Hai con mắt. Và vẻ mặt nhăn nhúm... Ôi, cái vẻ mặt nhăn nhúm kinh dị này. Cơn rùng mình chạy dọc cơ thể cô. Amelia Sachs đã từng bơi với rắn trong những con sông khi đi nghỉ hè và đã từng huênh hoang một cách chân thực rằng, cô không có vẫn đề gì khi chơi bungee-jumping 6 từ cây cầu cao một trăm feet. Nhưng cứ để cô nghĩ về sự giam cầm... nghĩ tới việc bị rơi vào bẫy, hoàn toàn bất động thì cơn hoảng loạn sẽ tóm lấy cô như bị sốc điện. Đó là lí do vì sao Sachs đi nhanh và lái xe như chớp.

    Khi ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta...

    Cô nghe thấy một tiếng động và ngẩng đầu.

    Tiếng ầm ầm, sâu và ngày càng lớn hơn.

    Những mẩu giấy vụn bay tung trên đường ray. Những đám bụi bay quanh cô như những con ma giận dữ.

    Sau đó là tiếng rền rĩ nhỏ...

    Sĩ quan tuần tra Amelia Sachs, chỉ cao một feet chín, thấy mình đang đối diện với một chiếc đầu máy xe lửa nặng ba mươi tấn của Amtrak, một khối sắt đỏ, trắng và xanh đang lao tới với tốc độ mười dặm một giờ.

    "Dừng lại ngay!" Cô hét lên.

    Người kỹ sư lờ cô đi.

    Sachs nhảy vào, đứng ngay giữa đường ray, giạng chân, vẫy tay ra hiệu cho anh ta dừng lại. Chiếc đầu máy kêu rít lên rồi dừng lại. Người kĩ sư thò đầu ra ngoài cửa sổ.

    "Anh không đi qua đây được", cô nói với anh ta.

    Anh ta hỏi ý cô là gì. Cô nghĩ anh ta trông quá trẻ để có thể lái đoàn tàu lớn như vậy.

    "Đây là hiện trường vụ án. Vui lòng tắt động cơ."

    "Thưa quý cô, tôi không hề nhìn thấy hiện trường vụ án nào cả."

    Nhưng Sachs không nghe. Cô đang nhìn lên khoảng trống trong chuỗi xích bên phía tây của cây cầu tàu phía trên, gần Đại lộ Mười một.

    Chỉ có thể có một cách để đưa xác chết đến đây mà không bị phát hiện - đỗ xe ở Đại lộ Mười một và kéo xác qua một con đường hẹp dẫn đến vách đá. Còn trên Đại lộ Ba mươi bảy, chỗ giao lộ, hắn ta có thể bị phát hiện từ hai tá cửa sổ của các căn hộ.

    "Đoàn tàu này, thưa ngài. Xin cứ để nó đấy."

    "Tôi không thể để nó ở đây được."

    "Vui lòng tắt động cơ."

    "Chúng tôi không tắt động cơ của những con tàu kiểu này. Lúc nào chúng cũng chạy."

    "Và hãy gọi điện cho điều phối viên. Hay ai đó. Yêu cầu họ dừng cả các đoàn tàu đi về phía nam."

    "Chúng tôi không được làm thế."

    "Ngay bây giờ. Tôi có thể lấy số của chiếc xe đó, được không?"

    "Chiếc xe?"

    "Tôi khuyên anh nên làm ngay", Sachs quát.

    "Cô định làm gì, thưa quý cô? Gắn phiếu phạt tôi chắc?"

    Nhưng Amelia Sachs đã lại trèo lên trên bức tường đá, các khớp xương đáng thương của cô kêu cót két, môi cô cảm thấy vị bụi đá vôi, đất sét và mồ hôi của chính mình. Cô chạy về phía con đường cô vừa nhìn thấy từ dưới kia, sau đó quay lại, nghiên cứu Đại lộ Mười một và Trung tâm Javits ở bên kia đường. Gian đại sảnh đầy người - những người đến xem và báo chí. Một biểu ngữ khổng lồ tuyên bố Chào mừng các đại biểu Liên Hiệp Quốc! Nhưng sáng hôm nay, khi con phố vắng người, tên tội phạm có thể dễ dàng tìm thấy một nơi đỗ xe ở đây là kéo cái xác đến đường ray mà không bị phát hiện. Sachs chạy tới Đại lộ Mười một, nghiên cứu đại lộ sáu làn xe đang tắc nghẽn.

    Làm thôi!

    Cô khó nhọc vượt qua một biển xe hơi, xe tải và chặn làn đường đi lên phía bắc. Mấy người lái xe cố chạy vớt, cô đã phải xé hai phiếu phạt và sau cùng cô kéo thùng rác ra giữa phố như một chiến lũy để đảm bảo những người dân lương thiện thực hiện nghĩa vụ công dân của họ.

    Cuối cùng thì Sachs cũng đã nhớ ra quy tắc tiếp theo trong các quy tắc ADAPT của sĩ quan đầu tiên có mặt tại hiện trường vụ án.

    P là Protect: bảo vệ hiện trường vụ án.

    Âm thanh của những chiếc còi xe giận dữ bắt đầu tràn ngập bầu trời buổi sáng mờ sương, sau đó được thay thế bằng những tiếng thét giận dữ hơn của các tài xế. Một lúc sau, cô nghe tiếng còi hụ tham gia ầm ĩ khi những chiếc xe khẩn cấp đầu tiên lao tới.



    Bốn mươi phút sau, nơi này tràn ngập cảnh phục và các điều tra viên, có đến vài chục người - đông hơn vụ diễn ra tại Hell's Kitchen rất nhiều, bất kể là nguyên nhân cái chết có khinh khủng hơn đến mấy. Nhưng Sachs đã học được từ những cảnh sát khác, đây là một vụ nóng, một vụ thu hút báo giới - nạn nhân có thể là một trong những hành khách đến sân bay JFK 7 đêm trước, bắt taxi vào thành phố. Họ có thể không bao giờ về được đến nhà.

    "CNN 8 đang theo dõi." Một người mặc cảnh phục thầm thì.

    Vì thế Amelia Sachs không ngạc nhiên khi thấy Vince Peretti tóc vàng, giám đốc IRD 9, bộ phận theo dõi đơn vị hiện trường vụ án, trèo qua hàng rào và dừng lại lúc anh ta phủi bộ vét trị giá cả nghìn đô la của mình.

    Cô ngạc nhiên khi thấy anh nhận ra cô và ra hiệu cho cô, một nụ cười giả tạo xuất hiện trên khuôn mặt sắc nét của anh ta. Cô nhận ra rằng cô sẽ nhận được một cái gật đầu cảm ơn về hành động Cliffhanger 10 vừa rồi. Bảo vệ dấu tay trên cái cầu thang đó, các chàng trai. Có thể sẽ có cả khen ngợi. Trong giờ tuần tra cuối cùng của ngày làm việc cuối cùng ở Đội Tuần tra. Ra đi với ánh hào quang của sự vẻ vang.

    Anh ta nhìn cô từ trên xuống dưới. "Sĩ quan tuần tra, cô không phải là lính mới, đúng không? Giả định của tôi đúng chứ?"

    "Tôi xin lỗi, thưa ngài?"

    "Cô chắc không phải lính mới, tôi giả định thế."

    Cô không phải lính mới, không tuân theo quy tắc, mặc dù cô mới có ba năm phục vụ, khác với hầu hết các sĩ quan tuần tra khác ở độ tuổi cô; họ đã có chín hay mười năm phục vụ. Sachs bị lỡ mất mấy năm trước khi vào học viện. "Tôi không biết ngài định hỏi gì."

    Anh ta trông bực tức, nụ cười biến mất khỏi khuôn mặt. "Cô là sĩ quan đầu tiên có mặt tại hiện trường, đúng vậy không?"

    "Vâng, thưa ngài"

    "Vì sao cô lại chặn Đại lộ Mười một? Cô nghĩ gì vậy?"

    Cô nhìn dọc theo con phố rộng vẫn đang bị cái thùng rác chiến lũy của cô chặn lại. Cô đã quen với tiếng còi nhưng giờ mới nhận ra là nó rất ồn, dòng xe kéo dài tới vài dặm.

    "Thưa ngaì, nhiệm vụ đầu tiên của một sĩ quan là bắt nghi phạm, thẩm vấn mọi nhân chứng, bảo vệ..."

    "Tôi biết quy tắc ADAPT, sĩ quan ạ. Cô chặn phố để bảo vệ hiện trường vụ án à?"

    "Vâng thưa ngài. Tôi không nghĩ rằng nghi phạm sẽ đỗ xe tại giao lộ. Hắn ta có thể dễ dàng bị trông thấy từ các căn hộ trên kia. Ngài nhìn thấy chứ, trên kia? Đại lộ Mười một có thể là lựa chọn tốt hơn."

    "Được. Nhưng đó là một sự lựa chọn sai lầm. Không có dấu chân ở phía bên kia đường ray, và có hai loạt dấu chân đi lên cầu thang tới Đai lộ Ba mươi bảy."

    "Tôi đã chặn cả Đại lộ Ba mươi bảy nữa."

    "Đó là ý tôi. Đó là tất cả những gì cần chặn. Còn đoàn tàu?" Anh ta hỏi. "Vì sao cô lại chặn đoàn tàu?"

    "Vâng thưa ngài. Tôi nghĩ rằng một đoàn tàu đi qua hiện trường có thể làm ảnh hưởng đến chứng cứ. Hay cái gì đó."

    "Hay cái gì đó, sĩ quan?"

    "Tôi diễn đạt ý mình không được tốt lắm, thưa ngài. Ý tôi là..."

    "Còn sân bay Newark thì sao?"

    "Vâng thưa ngài." Cô nhìn quanh tìm sự giúp đỡ. Có mấy sĩ quan ở gần đó, nhưng họ đang bận phớt lờ người bị quở trách. "Chính xác thì Newark là thế nào?"

    "Sao cô không đóng cửa nó luôn đi?"

    Ồ, tuyệt vời. Một bài học. Đôi môi Julia Roberts của cô căng lên nhưng cô nói vừa phải. "Thưa ngài, theo nhận định của tôi, có thể là..."

    "Xuyên lộ New York cũng có thể là lựa chọn tốt. Jersey Pike và Xxa lộ Long Island. I-70 và các con đường đến St.Louis. Đó cũng có thể là phương cách trốn chạy."

    Cô hơi cúi đầu và nhìn lại Peretti. Hai người cao bằng nhau dù đế giày của anh ta cao hơn.

    "Tôi có điện thoại từ ngài chánh thanh tra." Anh ta tiếp tục. "Từ giám đốc của Ban quản lý Cảng, văn phòng Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, giám đốc triển lãm.." Anh ta hất đầu về phía Trung tâm Javits. "Chúng ta đã phá hỏng lịch trình hội nghị, bài phát biểu của một thượng nghị sĩ Mỹ và toàn bộ giao thông bên West Side. Đường ray cách nạn nhân mười lăm feet còn con phố mà cô chặn lại cách chỗ đó một trăm feet và trên đó ba mươi feet. Ý tôi là ngay cả Bão Eve cũng không ảnh hưởng như vậy tới Hành lang Đông Tây của Amtrak."

    "Tôi chỉ nghĩ rằng..."

    Peretti cười. Vì Sachs là một phụ nữ đẹp - trong những năm tháng "chìm đắm" của cô trước khi gia nhập Học viện Cảnh sát, có thời gian cô đã làm việc thường xuyên cho Công ty Người mẫu Chantelle - nên viên cảnh sát lựa chọn tha thứ cho cô.

    "Tuần tra viên Sachs" - anh ta liếc nhìn bảng tên trên ngực cô, được dán một cách đơn giản trên chiếc áo chống đạn hiệu American Body Armor - "một bài học. Nhiệm vụ tại hiện trường vụ án là một việc đòi hỏi sự cân bằng. Sẽ rất tốt nếu chúng ta có thể rào cả thành phố sau mỗi vụ giết người và thẩm vấn ba triệu người. Nhưng chúng ta không thể làm điều đó. Tôi nói điều này là có tính xây dựng. Để khai sáng cho cô".

    "Trên thực tế, thưa ngài", cô nói cộc cằn. "Tôi sắp chuyển khỏi Đội Tuần tra. Điều đó có hiệu lực từ trưa hôm nay."

    Anh ta gật đầu, cười vui vẻ. "Thế thì nói đủ rồi. Nhưng để biết thôi, có phải cô quyết định dừng đoàn tàu và phong tỏa đường phố?"

    "Đúng vậy, thưa ngài", cô nói một cách dứt khoát. "Không có sai lầm nào trong việc đó cả."

    Anh ta viết điều này vào cuốn sổ theo dõi màu đen của mình với nét bút mạnh mẽ bằng chiếc bút máy dính đầy mồ hôi.

    Ôi, làm ơn đi...

    "Còn bây giờ, chuyển những thùng rác ấy đi. Cô sẽ điều khiển giao thông đến khi đường thông. Cô có nghe rõ tôi nói không?"

    Không "vâng, thưa ngài", hay "không, thưa ngài", hay bất kỳ sự khẳng định nào khác, cô đi ra Đại lộ Mười một và bắt đầu chậm chạp di chuyển những chiếc thùng rác. Người lái xe nào đi ngang cô cũng cau có hoặc lẩm bẩm điều gì đó. Sachs nhìn đồng hồ.

    Còn một tiếng nữa.

    Mình chịu được.

    --------------------------------
    1 Upper West Side: Một khu vực thuộc Manhattan, New York, nằm giữa Công viên Trung tâm và sông Hudson. (Các chú thích là của người dịch)
    2 Dặm: Một dặm tương đương với 1,6km; ở đây tương đương với một trăm km một giờ.
    3 Midtown: Là một trong ba phân khu chính của khu Manhattan, Thành phố New York.
    4 Feet: Số nhiều của foot, một foot tương đương với 30,48cm, ở đây là khoảng 10m.
    5 CS: Khám nghiệm hiện trường.
    6 Bungee-jumping: Môn thể thao mạo hiểm, người chơi buộc dây đàn hồi vào người và nhảy từ một vị trí cao xuống.
    7 JFK: Sân bay quốc tế John F. Kennedy ở New York.
    8 CNN (viết tắt của Cable News Netwowk): Kênh truyền hình cáp tin tức nổi tiếng của Mỹ.
    9 IRD (viết tắt của Investigation and Resource Division), là bộ phận Điều tra và Nguồn lực, thuộc Sở cảnh sát New York.
    10 Cliffhanger: Cheo leo vách núi, tên một bộ phim.

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    MƯỜI MỘT

    Nhà hình sự học là một con người của thời kỳ Phục Hưng.

    Anh ta phải có kiến thức về thực vật học, địa lý, đạn đạo học, y học, hóa học, văn học và nghề kỹ sư. Nếu anh ta hiểu thực tế - ví dụ như tàn tro có chứa nhiều stronti có thể phát tích từ các đám cháy trên đường cao tốc, rằng faca trong tiếng Bố Đào Nha có nghĩa là "con dao" và những người Ethiopia khi ăn tối không dùng dụng cụ ăn mà chỉ dùng tay phải, rằng viên đạn với vết xẻ nòng kiểu lốm đốm, xoay bên phải, không thể được bắn ra từ một khẩu súng ngắn Colt - nếu anh ta biết được những điều đó, anh ta có thể đưa ra những liên kết đặt nghi phạm vào hiện trường vụ án.

    Một lĩnh vực mà tất cả các nhà hình sự học đều biết là giải phẫu. Và đó chắc chắn là chuyên môn của Lincoln Rhyme, vì anh đã giành ba năm rưỡi để tìm hiểu về logic quanh co của xương và dây thần kinh.

    Lúc này anh đang nhìn túi vật chứng lấy được từ phòng nồi hơi mà Jerry Banks đang đung đưa trên tay và tuyên bố: "Xương chân. Không phải xương người. Vì thế không phải của nạn nhân tiếp sau."

    Đó là một vòng xương đường kính khoảng hai inch, bị cưa đều đặn. Trên những đường cưa do lưỡi cưa để lại vẫn còn vết máu.

    "Một con thú cỡ vừa", Rhyme tiếp tục. "Một con chó lớn, hay cừu, dê. Tôi đoán là cái xương này có thể đỡ khối lượng khoảng một trăm pound. Tuy vậy cứ thử để chắc chắn đó là máu động vật. Vì nó vẫn có thể là máu nạn nhân."

    Đã có những tên tội phạm dùng xương để đánh hay đâm chết nạn nhân. Bản thân Rhyme đã gặp ba trường hợp tương tự; vũ khí được dùng là xương đầu gối bò, một cái xương chân hươu và trong một trường hợp khó chịu lại chính là xương khuỷu tay của nạn nhân.

    Mel Cooper thực hiện phép thử thẩm thấu gel để tìm nguồn gốc máu. "Chúng ta phải đợi một lúc mới có kết quả", anh ta giải thích, vẻ có lỗi.





    "Amelia", Rhyme nói, "chắc cô giúp được chúng tôi. Hãy dùng kính lúp và xem xét thật kỹ cái xương. Nói xem cô thấy gì?".

    "Không phải kính hiển vi à?" Cô hỏi. Anh nghĩ cô sẽ phản đối nhưng cô lại đi tới chỗ cái xương, tò mò nhìn nó.

    "Phóng đại nhiều quá", Rhyme giải thích.

    Cô đeo kính lên và cúi xuống cái khay tráng men màu trắng. Cooper bật cây đèn hình cổ ngỗng lên.

    "Những vết cắt", Rhyme nói. "Chúng mấp mô hay phẳng?"

    "Chúng khá là phẳng."

    "Một cái cưa khỏe."

    Rhyme băn khoăn không biết con thú có còn sống khi hắn làm việc đó hay không.

    "Cô thấy gì bất thường không?"

    Cô nhìn chăm chăm một lúc vào cái xương, nói nhỏ: "Tôi không biết. Tôi không nghĩ thế. Nó trông chỉ giống như một khúc xương bình thường."

    Chính lúc đó Thom đi ngang qua và nhìn vào cái khay. "Đó là dấu vết của các vị à? Buồn cười thật."

    "Buồn cười", Rhyme nói. "Buồn cười?"

    Sellitto hỏi: "Anh có ý kiến gì chăng?"

    "Chẳng có ý kiến gì." Anh ta cúi xuống ngửi khúc xương. "Đây là osso bucco."

    "Cái gì?"

    "Chân bê. Tôi đã nấu món này cho anh một lần rồi, Lincoln. Món osso bucco. Món chân bê om." Anh ta nhìn Sachs và nhăn mặt. "Anh ta chê nó nhạt."

    "Mẹ kiếp." Sellitto kêu to. "Hắn mua cái này ở cửa hàng thực phẩm!"

    "Nếu ta may mắn thì...", Rhyme nói, "hắn mua nó ở cửa hàng thực phẩm của hắn".

    Cooper khẳng định phép thử kết tủa cho thấy âm tính với máu người trên mẫu được Sachs đem về. "Có thể đó là máu bò", anh ta nói.

    "Nhưng hắn định nói gì với chúng ta nhỉ?" Banks hỏi.

    Rhyme không biết. "Hãy tiếp tục đi. À, có gì trên khóa móc và xích không?"

    Cooper nhìn vật nằm trong cái túi nhựa giòn. "Giờ không còn ai khắc tên nhãn hiệu lên xích nữa. Như vậy ở đây ta không may mắn rồi. Cái khóa này là loại hàng trung bình của Secure-Pro. Nó không an toàn lắm và chắc chắn không phải loại chuyên nghiệp. Phải mất bao lâu để phá nó?"

    "Mất ba giây", Sellitto nói.

    "Thấy chưa. Không có số thứ tự. Người ta bán nó ở tất cả các cửa hàng kim khí trên cả nước."

    "Khóa chìa hay khóa số?" Rhyme hỏi.

    "Khóa số."

    "Gọi cho nhà sản xuất. Hỏi họ xem nếu ta tháo tung nó ra rồi khôi phục lại tổ hợp số từ lẫy khóa, điều đó có cho ta biết được nó nằm trong đợt hàng nào và đi đến đâu không?"

    Banks huýt sáo. "Ôi giời, xa quá."

    Cái nhìn của Rhyme làm mặt anh chàng đỏ lựng. "Sự nhiệt tình trong giọng nói của anh cho thấy, thưa thám tử, anh đúng là người phù hợp để làm việc đó."

    "Vâng, thưa ngài." Chàng trai trẻ tuổi nhấc điện thoại di động. "Tôi làm đây."

    Rhyme hỏi: "Có vết máu trên xích không?"

    Sellitto nói: "Của một trong những người của ta. Anh ta tự làm mình bị thương khá nặng lúc phá khóa."

    "Như vậy là nó đã bị ô nhiễm." Rhyme cau có.

    "Anh ta cố cứu cô ấy thôi", Sachs nói với Rhyme.

    "Tôi hiểu. Anh ta rất tốt bụng. Nhưng nó vẫn bị ô nhiễm rồi." Rhyme nhìn lại về phía cái bàn cạnh Cooper. "Dấu tay?"

    Cooper nói anh ta đã kiểm tra và chỉ thấy mỗi dấu vân tay của Sellitto trên dây xích.

    "Được rồi, mẩu gỗ Amelia tìm được. Kiểm tra dấu tay xem."

    "Tôi làm rồi", Sachs nói nhanh. "Tại hiện trường."

    P.D., Rhyme nhớ lại. Cô nàng không có vẻ giống như biệt hiệu. Những người đẹp ít khi thế.

    "Hãy thử vũ khí hạng nặng xem, để cho chắc chắn", Rhyme nói và ra lệnh cho Cooper. "Dùng DFO hoặc ninhydrin. Sau đó chiếu nit-yag."

    "Cái gì?" Banks hỏi.

    "Tia laser neodymium:yttrium aluminum garnet."

    Kỹ thuật viên làm mẩu gỗ sủi bọt bằng một thứ chát lỏng từ lọ xịt nhựa và chiếu tia laser lên đó. Anh ta đeo kính và xem xét nó một cách cẩn trọng. "Không có gì."

    Anh ta tắt đèn và xem xét cẩn thận miếng gỗ. Nó là một miếng gỗ dài khoảng sáu inch, màu tối. Trên đó có một vết bẩn, giống như nhựa đường và bị dính đầy bụi. Anh ta cầm nó bằng một cái kẹp.

    "Tôi biết Lincoln thích dùng đũa", Cooper nói. "Nhưng khi đến Ming Wa 1 tôi luôn gọi dĩa."

    "Anh có thể làm vỡ tế bào", nhà hình sự học càu nhàu.

    "Tôi có thể. Nhưng tôi không làm vỡ", Cooper đáp lời.

    "Loại gỗ gì?" Rhyme băn khoăn. "Có cần chạy máy phân tích tàn tro không?"

    "Không cần, đó là gỗ sồi. Chắc chắn thế."

    "Có dấu cưa hay bào gì không?" Rhyme vươn người ra trước. Bất ngờ cổ anh bị co thắt, không thể chịu đựng nổi những cơn đau cơ vì chuột rút. Anh hổn hển, nhắm mắt và xoay cổ, cố gắng kéo dãn cơ. Anh cảm thấy bàn tay mạnh mẽ của Thom xoa bóp vùng cổ. Cuối cùng thì cơn đau cũng bớt.

    "Lincoln?" Sellitto hỏi. "Anh ổn chứ?"

    Rhyme thở sâu: "Tốt rồi. Không có gì đâu."

    "Đây này." Cooper đem khúc gỗ lại phía giường, đeo kính phóng đại lên mắt cho Rhyme.

    Rhyme kiểm tra mẫu vật. "Bị cắt theo hướng của thớ gỗ bằng cưa khung. Vết cắt rất không đều. Vì thế tôi đoán đây là một cây cột hay xà nhà được xẻ hơn một trăm năm trước. Có lẽ là cưa hơi nước. Đưa nó lại gần hơn một chút đi, Mel. Tôi muốn ngửi nó."

    Anh ta để mẩu gỗ dưới mũi Rhyme.

    "Có tẩm creozot - dung dịch than-nhựa đường. Dùng để bảo vệ gỗ trước khi các công ty xẻ gỗ xử lý áp suất. Làm cầu tàu, ụ tàu, tà vẹt..."

    "Có thể lại có kẻ hâm mộ đường sắt", Sellitto nói. "Hãy nhớ đến đường ray sáng nay."

    "Có thể", Rhyme ra lệnh. "Kiểm tra ép tế bào đi, Mel."

    Anh ta dùng kính hiển vi xem xét mẩu gỗ. "Nó được ép rất tốt. Nhưng ép dọc theo thớ. Không phải ngược lại. Không phải tà vẹt. Đấy là cột chống hay cọc đỡ. Mang trọng lượng..."

    Một khúc xương... một cái cột gỗ cũ...

    "Tôi thấy trong gỗ có bụi. Điều đó có nói với chúng ta thứ gì không?"

    Cooper trải một tờ báo lớn lên bàn, xé bìa đi. Anh ta cầm mẩu gỗ trên tờ báo và chải một ít bụi từ khe nứt trên mẩu gỗ. Anh ta xem xét những chấm nhỏ trên tờ giấy trắng - một chòm sao ngược.

    "Anh có đủ để thử biến thiên mật độ không?" Rhyme hỏi.

    Trong phép thử biến nhiệt mật độ, bụi được đổ vào một cái ống chứa những chất lỏng có trọng lượng riêng xác định, khác nhau. Đất sẽ phân rã ra và mỗi hạt sẽ lơ lửng ở lớp chất lỏng có trọng lượng riêng tương ứng. Rhyme đã thiết lập một thư viện rất đầy đủ hồ sơ biến thiên mật độ của đất từ cả năm khu. Không may là phép thử này chỉ có tác dụng khi ta có đủ một lượng đất nhất định; Cooper không nghĩ rằng họ có đủ đất. "Ta có thể sử nhưng sẽ phải dùng tất cả mẫu. Và nếu nó không có tác dụng, ta chẳng còn gì cho các phép thử khác."

    Rhyme bảo anh ta xem xét bằng mắt thường trước rồi phân tích nó trên GC-MS.

    Tay kỹ thuật viên chải một ít đất vào bàn trượt. Anh ta nhìn nó vài phút qua kính hiển vi. "Lạ thật, Lincoln. Đó là đất bề mặt. Với mức độ thực vật cao bất thường. Nhưng dưới dạng rất lạ. Bị thối rữa và phân hủy rất nặng." Anh ta ngẩng lên và Rhyme nhận thấy những vệt màu đen phía dưới mắt anh ta vì tỳ vào ống ngắm. Anh nhớ rằng sau nhiều giờ làm việc trong phòng thí nghiệm, những vệt đen này nổi lên khá rõ và một kỹ thuật viên giám định thường ra khỏi phòng thí nghiệm ở IRD để được chào đón với dàn hợp xướng Rocky Raccoon 2.

    "Đốt nó lên", Rhyme ra lệnh.

    Cooper đặt một mẫu vào thiết bị GC-MS. Cái máy rùng rùng sống dậy và phát ra tiếng xì xì. "Đợi một, hai phút."

    "Trong khi ta chờ", Rhyme nói, "cái xương... tôi vẫn băn khoăn về cái xương. Soi nó bằng kính hiển vi xem nào, Mel".

    Copper cẩn thận đặt khúc xương vào dưới kính hiển vi. Anh ta nghiên cứu nó rất kỹ càng. "Ồ, có thứ gì đây này."

    "Cái gì?"

    "Rất nhỏ. Trong suốt. Đưa cho tôi cái kẹp cầm máu", Cooper nói với Sachs, hất đầu về phía một cái kẹp bấm. Cô đưa nó cho anh ta và anh ta cẩn trọng tìm kiếm trong phần tủy của khúc xương. Anh ta nhặt thứ gì đó lên.

    "Một mẫu cellulose tái chế", Cooper tuyên bố.

    "Là giấy bóng kính", Rhyme nói. "Cho tôi biết thêm đi."

    "Có dấu bị kéo và giật. Tôi có thể nói hắn ta không cố tình để nó lại; không có cạnh nào bị cắt. Nó không mâu thuẫn với giấy bóng kính bền", Cooper nói.

    "Không mâu thuẫn." Rhyme cau có. "Tôi không thích kiểu phòng vệ của hắn."

    "Chúng ta phải phòng vệ, Rhyme." Cooper tươi tỉnh nói.

    "Liên quan đến. Khuyến nghị. Tôi đặc biệt ghét không mâu thuẫn."

    "Rất nhiều khả năng", Cooper nói. "Khả năng gần nhất của tôi là giấy bóng kính ở cửa hàng thịt hay cửa hàng thực phẩm. Không phải Saran Wrap. Chắc chắn không phải giấy gói của một thương hiệu vô danh."

    Jerry Banks từ hàng lang đi vào phòng. "Tin xấu. Công ty Secure-Pro không giữ hồ sơ nào về các tổ hợp mã khóa. Máy móc thiết lập ra chúng ngẫu nhiên."

    "À."

    "Nhưng điều thú vị là họ nói họ thường xuyên nhận được các cuộc gọi của cảnh sát về sản phẩm của họ và anh là người đầu tiên nghĩ tới việc truy tìm ổ khóa qua tổ hợp mã."

    "Có thể thú vị đến đâu nếu như đó là ngõ cụt?" Rhyme càu nhàu và quay về phía Mel Cooper, anh ta đang lắc đầu khi nhìn vào máy tính của GC-MS. "Gì thế?"

    "Có kết quả phân tích đất rồi. Nhưng tôi sợ là máy có thể phải sửa. Quá nhiều nitrogen. Ta phải thử lại lần nữa, chắc lần này phải dùng nhiều mẫu hơn."

    Rhyme bảo anh ta làm. Ánh mắt anh quay lại phía khúc xương. "Mel, con vật bị giết lâu chưa?"

    Mel xem xét vài mảnh nhỏ dưới kính hiển vi điện tử.

    "Có rất ít các nhóm vi khuẩn. Cậu Bambi này chắc mới bị thịt, có lẽ thế. Hay mới được lấy ra khỏi tủ lạnh khoảng tám tiếng."

    "Như thế là hắn mới mua nó", Rhyme nói.

    "Hoặc tháng trước và làm đông lạnh nó", Sellitto đề xuất.

    "Không", Cooper nói. "Nó không bị đông lạnh. Không có vết biểu bì bị tinh thể băng phá hoại. Và nó không ở trong tủ lạnh quá lâu. Không bị khô; tủ lạnh hiện đại làm thức ăn bị khô."

    "Dấu vết tốt đấy", Rhyme nói. "Hãy điều tra thêm một chút đi."

    "Điều tra thêm?" Sachs cười. "Ý anh nói là chúng ta sẽ gọi điện cho tất cả các cửa hàng thực phẩm trong thành phố để hỏi ngày hôm qua có ai bán xương bê không à?"

    "Không", Rhyme nói. "Mà là trong hai ngày qua."

    "Anh có cần gọi Những Chàng trai Dũng cảm không?"

    "Cứ để họ làm việc của họ. Gọi Emma, ở trung tâm, xem cô ấy còn làm việc không? Và nếu không, gọi cô ấy quaylại văn phòng cùng với những điều phối viên khác để họ làm ngoài giờ. Đưa cho cô ấy danh sách tất cả các cửa hàng thực phẩm trong thành phố. Tôi cá là anh chàng của chúng ta không mua thực phẩm cho gia đình bốn người, vì thế nói với Emma giới hạn danh sách xuống những người chỉ mua dưới năm thứ."

    "Lệnh bắt?" Banks hỏi.

    "Hễ có ai đó giật mình, ta sẽ có lệnh bắt", Sellitto nói. "Nhưng cứ thử không có lệnh trước. Ai biết được? Vài công dân có thể thực sự cộng tác. Người ta nói với tôi là, đôi khi điều đó có xảy ra."

    "Nhưng làm sao các cửa hàng biết được ai đã mua chân bê?" Sachs hỏi. Cô không còn lơ đãng như trước. Trong giọng nói của cô đã có chút góc cạnh. Rhyme tự hỏi liệu sự khó chịu của cô có phải là triệu chứng của điều mà chính anh đôi khi cũng tự cảm thấy - gánh nặng của bằng chứng. Vấn đề cốt yếu với các nhà hình sự học không phải là có quá ít bằng chứng mà là quá nhiều.

    "Kiểm tra máy quét", Rhyme nói. "Họ đăng ký giao dịch bán hàng trên máy tính. Để kiểm kê và mua thêm hàng. Banks, nói đi. Tôi thấy hình như có điều gì đó trong đầu cậu? Nói ra đi. Lần này tôi không đẩy cậu đi Siberia nữa đâu."

    "Thôi được, chỉ có các cửa hàng nằm trong cùng một chuỗi mới có máy quét, thưa ngài", viên thám tử trẻ tuổi nói. "Có hàng trăm cửa hàng riêng lẻ và hàng thịt không có máy quét."

    "Ý hay. Nhưng tôi nghĩ hắn sẽ không đến một cửa hàng nhỏ. Hắn sẽ mua ở những cửa hàng lớn. Phi cá nhân."

    Sellitto gọi điện cho Phòng Truyền thông và nói với Emma những gì họ cần làm.

    "Hãy chụp phân cực mẩu giấy bóng kính này xem", Rhyme nói với Cooper.

    Người kỹ thuật viên đặt mẫu nhỏ này vào kính phân cực, sau đó đặt máy ảnh Polaroid vào ống ngắm và chụp ảnh. Đó là một tấm ảnh màu, một chiếc cầu vồng với một vạch sáng màu xuyên qua. Rhyme nghiên cứu tấm ảnh. Hình mẫu đó chẳng nói lên điều gì với họ, nhưng có thể so sánh nó với các mẫu giấy bóng kính khác để xem chúng có cùng một nguồn gốc hay không.

    Rhyme nảy ra một ý nghĩ. "Lon gọi vài sỹ quan ESU đến đây. Khẩn trương."

    "Tới đây?" Sellitto hỏi.

    "Chúng ta sẽ chuẩn bị một chiến dịch."

    "Anh chắc chứ?" Viên thám tử hỏi.

    "Đúng thế! Tôi cần họ ngay."

    "Được rồi." Anh ta gật đầu với Banks, người gọi điện cho Haumann.

    "Còn bây giờ những dấu vết để lại khác thì sao - mấy sợi lông mà Amelia tìm thấy."

    Cooper đào bới chúng bằng cái que thăm sau đó đưa vài sợi lên kính hiển vi đối pha. Công cụ này chiếu hai nguồn ánh sáng vào một đối tượng, luồng ánh sáng thứ hai được chiếu muộn hơn một chút - lệch pha - sao cho mẫu vừa được chiếu sáng, vừa có bóng tối.

    "Không phải của người", Cooper nói. "Tôi có thể nói ngay với anh như vậy. Hơn nữa đây là lông bảo vệ, không phải lông phía dưới."

    Ý anh ta là nó từ bộ lông của động vật.

    "Con gì? Chó?"

    "Con bê?" Banks đề xuất, một lần nữa đầy sự nhiệt tình và trẻ trung.

    "Kiểm tra vảy", Rhyme ra lệnh. Ý anh là những vảy nhỏ tạo thành lớp vỏ ngoài sợi lông.

    Cooper gõ bàn phím máy tính và mấy giây sau hình ảnh những cái que nhỏ đầy vảy hiện ra trên màn hình. "Nhờ anh đấy, Lincoln. Nhớ cơ sở dữ liệu không?"

    Ở IRD, Rhyme đã tập hợp một bộ sưu tập khổng lồ những bức vi ảnh các loại lông khác nhau. "Nhớ chứ, Mel. Nhưng lần cuối cùng tôi nhìn thấy chúng là trong cặp hồ sơ cơ mà, làm thế nào mà anh cho chúng vào máy tính được?"

    "Tất nhiên là nhờ scan rồi. Nén dưới dạng JPEG."

    Jay-peg? Cái quái gì thế nhỉ? Chỉ trong vài năm công nghệ đã vượt qua Rhyme. Thật lạ lùng...

    Khi Cooper xem xét các bức ảnh, Lincoln Rhyme lại băn khoăn về điều anh đã băn khoăn cả ngày - câu hỏi cứ hiện lên: Vì sao lại có những dấu vết? Con người thật tuyệt vời nhưng trên hết đó chỉ là - một con thú. Một con thú biết cười, nguy hiểm, thông minh và hoảng sợ nhưng luôn luôn hành động có lý do - một động cơ đẩy con thú đến với dục vọng của nó. Nhà khoa học Lincoln Rhyme không tin vào sự tình cờ, hay sự ngẫu nhiên, hay thiếu chứng cứ. Ngay cả kẻ điên cũng có logic của họ, bất kể nó có rối rắm đến đâu, và anh biết phải có lý do gì đó để Đối tượng 823 nói chuyện với họ bằng cách thức khó hiểu như vậy.

    Cooper gọi: "Có rồi. Loài gặm nhấm. Có thể là chuột. Hơn nữa lông bị cạo."

    "Dấu vết kiểu gì vậy?" Banks nói. "Có hàng triệu con chuột trong thành phố. Nó không dẫn tới chỗ nào cả. Hắn định nói gì với chúng ta vậy?"

    Sellitto nhắm mắt một khắc và lẩm bẩm điều gì đó trong hơi thở. Sachs không nhận thấy cái gì đó. Cô đang tò mò liếc nhìn Rhyme. Anh ta ngạc nhiên là cô không nhận ra thông điệp của kẻ bắt cóc là gì nhưng anh ta không nói gì. Anh thấy không có lý do gì phải chia sẻ phần kiến thức kinh hoàng đó với bất kỳ ai vào lúc này.

    Nạn nhân thứ bảy của James Schneider, hoặc thứ tám, nếu hắn nhớ không nhầm, trong số đó có thiên thần nhỏ bé O'Connor, là vợ của một người nhập cư cần cù, người đã xây một căn nhà giản dị gần Phố Hester, bên khu Lower East Side của thành phố.

    Chính nhờ sự dũng cảm của người phụ nữ không may mắn này mà cảnh sát phát hiện ra nhân dạng của tên tội phạm. Hanna Goldschmidt có dòng máu Đức - Do Thái và được kính trọng trong một cộng đồng gần gũi ở đó cô, chồng cô và sáu đứa con nhỏ của họ (một đứa đã mất khi sinh) sinh sống.

    Kẻ Tầm Xương chậm rãi lái xe qua những con phố, cẩn thận tuân theo biển hạn chế tốc độ dù hắn biết chắc chắn rằng cảnh sát giao thông New York không chặn ai lại vì một lý do nhỏ như lái xe vượt quá tốc độ.

    Hắn dừng lại ở đèn hiệu giao thông và nhìn lên một tấm bảng dán thông cáo của Liên Hợp Quốc khác. Mắt hắn nhìn thấy những khuôn mặt tươi cười, nhạt nhẽo - như những khuôn mặt ghê sợ được vẽ trên tường của khu nhà lớn - rồi nhìn ra xa, thành phố quanh hắn. Đôi khi hắn thấy ngạc nhiên khi nhìn lên và thấy những tòa nhà thật to lớn, những mái đua bằng đá thật cao, kính thật phẳng, những chiếc xe thật đẹp và con người thật tầm thường. Thành phố mà hắn biết tăm tối, thấp tịt, khói mù, bốc mùi mồ hôi và bùn đất. Ngựa có thể giẫm lên người ta, những băng nhóm lưu manh có ở khắp nơi - một số tên chỉ mới mười hay mười một tuổi - có thể đập đầu ta bằng gậy rồi bỏ đi với đồng hồ và ví tiền của ta... đó chính là thành phố của Kẻ Tầm Xương.

    Đôi khi hắn thấy mình trong tình trạng này - lái chiếc xe Taurus XL màu bạc thật bảnh của mình trên con đường nhựa êm ái nghe đài WNYC 3và thấy khó chịu, như tất cả người New York khác, khi hụt đèn xanh, băn khoăn vì cái lý do quái gì mà thành phố không cho ta rẽ phải khi có đèn đỏ.

    Hắn nghiêng đầu và nghe mấy tiếng đập vọng ra từ cốp xe. Nhưng tiếng ồn bên ngoài lớn tới nức không ai có thể nghe thấy sự chống cự của Hanna.

    Đèn xanh.

    Tất nhiên đó là một sự kiện đặc biệt ngay cả trong thời kỳ đã thoát khỏi những thành kiến, phụ nữ được phiêu lưu trên phố vào buổi tối, không có quý ông đi kèm; và ngày nay thì điều này còn đặc biệt hơn nữa. Nhưng vào cái đêm không may mắn ấy, Hanna không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bắt buộc phải rời nơi ở của mình trong chốc lát. Đứa con út của cô bị sốt và chồng cô đang thành tâm cầu nguyện trong nhà thờ gần đó, cô lao vào bóng đêm đi mua thuốc đắp cho cái trán nóng như lửa của đứa con. Khi đóng cửa, cô nó với con gái cả của mình.

    "Đóng cửa thật chặt con nhé. Mẹ sẽ về sớm."

    Nhưng, Chúa ơi, lời nói của cô không thành hiện thực. Ngay sau đó cô gặp James Schneider.

    Kẻ Tầm Xương nhìn quanh những con phố tồi tàn ở đây. Khu vực này - gần nơi hắn chôn nạn nhân đầu tiên - là Hell's Kitchen, khu West Side của thành phố, nơi từng là pháo đài của các băng nhóm Ireland, ngày nay là nơi sinh sống của những chuyên gia trẻ tuổi, các công ty quảng cáo, studio chụp ảnh và những nhà hàng kiểu cách.

    Hắn ngửi thấy mùi phân bón và không ngạc nhiên khi bống dưng nhìn thấy một con ngựa lồng lên trước mặt.

    Sau đó hắn nhận thấy con vật đó không phải là ma quỷ từ những năm 1800 mà là con ngựa được thắng vào một chiếc xe ngựa hai bánh chạy trong Công viên Trung tâm với mức phí của thế kỷ XX. Chuồng ngựa của họ đặt ở đây.

    Hắn cười với chính mình. Mặc dù đó là một âm thanh ghê rợn.

    Người ta chỉ có thể suy đoán về những gì đã xảy ra, vì chẳng có một nhân chứng nào. Nhưng chúng ta có thể hình dung quá rõ ràng sự khủng khiếp. Tên tội phạm lôi người phụ nữ đang cố chống cự vào con đường nhỏ, đâm cô, ý định dã man của hắn ta là chưa giết ngay cô ta mà chỉ khuất phục cô, đó là thói quen của hắn. Nhưng với sức mạnh trong tâm hồn của người đàn bà lương thiện Goldschmidt, ý nghĩ mình chắc chắn sẽ phải trở về với những đứa con còn non nớt của cô đã làm con quái thú thật ngạc nhiên khi cô liên tục tấn công hắn; cô đấm liên tục vào mặt hắn, rứt tóc trên đầu hắn.

    Ngay lập tức cô thoát được và từ miệng cô vang lên tiếng thét khủng khiếp. Schneider hèn nhát đánh cô thêm một, hai cú nữa rồi bỏ chạy.

    Người phụ nữa dũng cảm lê bước tới vỉa hè rồi ngã xuống, và ở đó cô đã chết trên tay một viên cảnh sát được hàng xóm gọi đến.

    Câu chuyện trên xuất hiện trong một cuốn sách lúc này đang nằm trong túi quần Kẻ Tầm Xương, Crime in Old New York 4. Hắn không thể giải thích được sự hấp dẫn kinh khủng của cuốn sách mỏng này đối với hắn. Nếu phải miêu tả mối quan hệ của hắn với cuốn sách, hắn có thể nói hắn nghiện nó. Bảy mươi lăm tuổi và vẫn còn trong tình trạng rất tốt, một hòn ngọc của nghề đóng sách. Đó là bùa hộ mệnh và vật ban phước lành cho hắn. Hắn tìm thấy nó trong một nhánh nhỏ của thư viện công cộng và hắn đã thực hiện một trong những vụ ăn cắp hiếm hoi trong đời mình bằng cách tuồn nó vào túi áo mưa và chuồn ra khỏi tòa nhà.

    Hắn đọc trong chương nói về Schneider hàng trăm lần và gần như đã thuộc lòng.

    Lái xe thật từ từ. Họ đã gần đến nơi.

    Khi người chồng tội nghiệp của Hanna khóc nức nở bên cơ thể không còn sức sống của cô, anh ta nhìn vào mặt cô: lần cuối trước khi người ta đưa cô đến nhà tang lễ (vì theo niềm tin của người Do Thái, người chết cần được chôn cất càng nhanh càng tốt). Và anh ta nhận thấy trên gò má trắng như sứ của cô có vết thâm tím mang hình một biểu tượng lạ lùng. Đấy là một biểu tượng hình tròn trông như trăng lưỡi liềm và một dấu vết trông giống như chòm sao lơ lửng phía trên.

    Cảnh sát nói rằng đó là dấu hằn do chiếc nhẫn của tên đồ tể tàn ác để lại khi hắn đánh nạn nhân tội nghiệp. Các thám tử đã nhờ đến sự giúp đỡ của một nghệ sĩ và anh ta đã phác thảo một hình ảnh bản gốc (Bạn đọc hãy tham chiếu hình XXII). Người ta đã thẩm vấn một số thợ kim hoàn trong thành phố, thu thập tên tuổi và địa chỉ một số người đã mua chiếc nhẫn như thế trong khoảng thời gian đó. Hai trong số những quý ông đã mua chiếc nhẫn hoàn toàn nằm ngoài sự nghi ngờ, vì một người là mục sư nhà thờ và người kia là giáo sư nổi tiếng trong một trường đại học danh tiếng. Còn người thứ ba là một người đàn ông mà từ lâu cảnh sát đã nghi ngờ vì có những hoạt động bất chính. Đó chính là James Schneider.

    Quý ông này đã từng có ảnh hưởng trong một số tổ chức từ thiện của Manhattan: đáng kể nhất là Hội Trợ giúp bệnh nhân lao phổi và Hội Phúc lợi xã hội cho người hưởng tiền trợ cấp. Ông ta rơi vào tầm ngắm của cảnh sát khi một vài người lớn tuổi trong các nhóm nói trên biến mất không lâu sau khi Schneider đến thăm họ. Ông ta chưa bao giờ bị kết tội tấn công, nhưng sau những lần điều tra, ông ta biến mất khỏi tầm ngắm.

    Sau khi Hanna Goldschmidt bị giết một cách tàn bạo, có một cuộc truy tìm thầm lặng những bóng ma mơ hồ trong thành phố nhưng vẫn không tìm ra được nơi ở của Schneider. Cảnh sát cho dán thông báo khắp khu vực trung tâm và khu vực bờ sông, đưa ra mô tả hình dạng của tên tội phạm nhưng hắn không hề e sợ; một thảm kịch thực sự, chắc chắn như vậy, dưới ánh sáng của vụ thảm sát tàn khốc đã xảy đến với thành phố đang nằm trong bàn tay ghê tởm của hắn.

    Đường phố trống trải. Kẻ Tầm Xương lái xe vào con phố nhỏ. Hắn mở cánh cửa kho và lái xe theo đoạn đường dốc bằng gỗ vào một đường hầm dài.

    Sau khi chắc chắn nơi này không có ai, hắn đi ra sau xe. Hắn mở cốp và lôi Hanna ra. Cô ta đầy thịt, béo, như một cái bao vải mềm oặt. Hắn lại càng giận dữ và lôi cô ta xềnh xệch xuống một đường hầm rộng khác. Xe cộ từ phía đường cao tốc West Side chạy trên đầu họ. Hắn nghe tiếng cô ta khò khè và đã định giơ tay tháo miếng băng dán miệng thì hắn cảm thấy cô ta giật mình và hoàn toàn mềm nhũn. Thở hổn hển vì phải cố gắng kéo cô ta, hắn đặt cô ta xuống nền đường hầm và nới lỏng miếng băng dính dán trên miệng cô ta. Không khí yếu ớt nhỏ giọt vào trong. Cô ta có bị ngất không? Hắn lắng nghe tim cô ta. Hình như nó vẫn đập tốt.

    Hắn cắt sợi dây phơi trói mắt cá chân cô ta, nghiêng về phía trước và thầm thì: "Hanna, kommen Sie mit mir mit 5", Hanna, Goldschmidt..."

    "Nein", cô ta lẩm bẩm, giọng cô ta nhỏ dần rồi im bặt.

    Hắn cúi gần hơn, tát nhẹ vào mặt cô ta. "Hanna, cô phải đi cùng tôi."

    Và cô ta hét lên: "Mein name ist micht Hanna 6." Rồi đánh trúng hàm hắn.

    Một chùm ánh sáng vàng lóe lên trong đầu hắn và hắn nhảy sang bên cạnh tới hai, ba feet, cố giữ thăng bằng. Hanna bật dậy, chạy mò mẫm dọc theo hành lang tăm tối. Nhưng hắn chạy rất nhanh theo cô. Hắn bắt được cô khi cô chạy chưa được mười thước 7. Cô ngã rất mạnh, hắn ngã theo, hổn hển vì đứt hơi.

    Hắn nằm nghiêng khoảng một phút, bị cơn đau chiếm lĩnh, cố gắng thở, tóm áo cô ta vì cô ta giãy giụa. Nằm ngửa, tay vẫn bị còng, cô ta cố gắng sức sử dụng vũ khĩ duy nhất mình có - hai chân, cô ta nhấc chân đạp rất mạnh vào tay hắn. Một cơn đau nhói xuyên suốt người hắn và làm găng tay hắn tuột ra. Cô ta lại nhấc chân lên, hắn thoát được gọt giày của cô ta chỉ vì cô ta nhắm trượt; cú đạp xuống đất mạnh đến nỗi nếu trúng chắc chắn hắn sẽ gãy xương.

    "So nicht! 8" Hắn gầm gừ điên dại, hai bàn tay trần túm lấy cổ họng cô ta, bóp mạnh cho tới khi cô ta quằn quại van xin, rồi không còn quằn quại van xin được nữa. Cô ta giật giật vài cái rồi bất động.

    Khi hắn nghe tim cô ta thì tiếng đập đã rất yếu. Lần này là thật. Hắn nhặt chiếc găng tay, đeo vào và kéo cô qua đường hầm để chỗ cái cột trụ. Trói lại chân và dán miếng băng dính mới lên miệng cô. Khi cô tỉnh lại, bàn tay hắn lang thang trên cơ thể cô. Đầu tiên cô kinh ngạc sau đó co rúm lại khi hắn chăm chút phần thịt sau tai cô. Khuỷu tay cô, quai hàm cô. Trên người cô không có nhiều chỗ làm hắn thích động chạm. Cô ta như cái bị thịt... điều này làm hắn thấy ghê tởm.

    Nhưng phía dưới lớp da... Hắn nắm chân cô thật chặt. Đôi mắt cô mở to nhìn hắn lần tìm trong túi lấy ra một lưỡi dao. Không một chút chần chừ, hắn luồn con dao xuyên qua da cô sâu, tới tận đoạn xương màu vàng trắng. Cô thét lên qua lớp băng dính, một tiếng khóc điên dại, đá thật mạnh nhưng chân đã bị trói chặt. Thích không, Hanna? Cô gái sụt sùi, rên la ầm ĩ. Vì thế hắn phải nghiêng tai xuống tận chân cô để nghe tiếng động ngọt ngào của mũi dao đưa đi đưa lại trên đoạn xường. Kí... t...

    Rồi hắn cầm tay cô.

    Ánh mắt họ chạm nhau trong giây lát cô thảm hại lắc đầu, âm thầm van xin. Ánh mắt hắn rơi xuống cánh tay mập mạp của cô, và nhát cắt tiếp theo cũng thật sâu.. Cả người cô cứng lại vì đau. Thêm một tiếng thét man dại, câm lặng nữa. Một lần nữa hắn cúi đầu như một nhạc sĩ, lắng nghe tiếng lưỡi dao cạo trên xương cánh tay. Tới, lui. Kít, kít... Một lúc sau hắn nhận ra cô đã bất tỉnh.

    Cuối cùng hắn cũng dứt được mình ra và đi về phía chiếc xe. Hắn đặt những manh mối tiếp theo, sau đó lấy từ cốp xe một cây chổi và cẩn thận quét hết dấu chân của họ. Hắn lái xe lên đoạn đường dốc, đỗ lại, vẫn để động cơ chạy và đi xuống lần nữa, cận thận quét sạch dấu bánh xe.

    Hắn dừng lại và nhìn xuống đường hầm. Nhìn cô ta, chỉ nhìn không thôi. Bất ngờ, một nụ cười thoáng hiện trên môi Kẻ Tầm Xương. Hắn ngạc nhiên nhận thấy những người khách đầu tiên đã xuất hiện. Một tá những cặp mắt nhỏ tí xíu đỏ ngầu, hai tá, rồi ba tá... Có vẻ chúng đang nhìn cơ thể đầy máu của Hanna với một chút tò mò... và có thể cả đói nữa. Mặc dù mới chỉ là hình dung của hắn; Chúa biết, những hình ảnh đó cũng đủ rõ ràng.
    --------------------------------
    1 Ming Wa: Một nhà hàng Trung Quốc ở Alhambra.
    2 Rocky Raccoon: Chồn Đá, một bài hát nổi tiếng của The Beatles.
    3 WNYC: Đài phát thanh và Truyền hình Công cộng Thành phố New York.
    4 Crime in Old New York: Tội phạm ở New York.
    5 Kommen Sie mit mir mit: Đi với tôi (tiếng Đức).
    6 Mein Name ist micht Hanna: Tao không phải Hanna (tiếng Đức).
    7 Thước (yard): Thước Anh, tương đương với 0,914m.
    8 So nicht: Thôi đi (tiếng Đức).

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    MƯỜI HAI

    "Mel, nghiên cứu chỗ quần áo của Colfax xem. Amelia, cô làm ơn giúp anh ấy một tay, được chứ?"

    Cô vui vẻ gật đầu với anh ta, kiểu gật đầu lịch sự. Rhyme nhận ra là anh đã khá giận cô.

    Theo sự hướng dẫn của kỹ thuật viên, cô đeo găng tay cao su, nhẹ nhàng mở đống quần áo, đặt phía dưới một tờ báo lớn và dùng bàn chải lông ngựa chải vải. Mấy mảnh vụn nhỏ rơi xuống. Cooper dùng băng dính nhặt chúng lên và soi dưới kính hiển vi.

    "Không có gì nhiều", anh ta báo cáo. "Hơi nước đã xóa hầu hết dấu vết. Tôi thấy một ít đất, không đủ để làm D-G. Đợi chút... Tuyệt vời. Tôi có một, hai sợi vải. Nhìn chúng này..."

    Tôi chịu, Rhyme giận dữ nghĩ.

    "Màu xanh hải quân, vải pha len và acrylic, tôi đoán thế. Nó không đủ thưa để làm thảm và không cong. Như vậy đây là vải quần áo."

    "Trời nóng thế này chắc hắn sẽ không đi tất dày và mặc áo len. Mặt nạ trượt tuyết?"

    "Tôi cũng cá vậy", Cooper nói.

    Rhyme suy tư: "Như vậy hắn đã rất nghiêm túc trong việc cho ta cơ hội cứu họ. Nếu hắn nghiêng về việc giết chóc, việc họ nhìn thấy hắn hay không cũng không quan trọng."

    Sellitto thêm: "Còn có nghĩa là thằng khốn này nghĩ hắn có thể chạy thoát. Không hề có ý định tự sát. Chỉ cho chúng ta thêm một ít quyền lực đàm phán nếu hắn bắt con tin khi ta tóm hắn."

    "Tôi thích sự lạc quan của anh, Lon ạ", Rhyme nói.

    Thom ra mở cửa khi nghe tiếng chuông, một khắc sau Jim Polling leo lên cầu thang, trông có vẻ phờ phạc và mệt nhọc. Được rồi, phải chạy qua chạy lại giữa các cuộc họp báo, văn phòng ngài thị trưởng và tòa nhà kiểu liên bang đã làm anh ta ra nông nỗi này.

    "Cá hồi tệ quá", Sellitto nói với anh ta. Sau đó giải thích cho Rhyme: "Jimmy của chúng ta là một trong những người đi câu cá thực thụ. Tự mắc mồi và làm những thứ khác. Còn tôi, tôi lên thuyền dự dạ hội với sáu lon bia và tôi thấy vui."

    "Ta phải tóm thằng khốn này trước rồi nghĩ tới cá mú sau.", Polling nói, uống ly cà phê Thom để lại trên bậu cửa sổ. Anh ta nhìn ra ngoài và chớp mắt ngạc nhiên khi nhìn thấy hai con chim lớn đang nhìn mình. Anh ta quay lại phía Rhyme và giải thích vì có vụ bắt cóc mà anh ta đã phải hoãn chuyến đi câu cá ở Vermont. Rhyme chưa bao giờ đi câu - chưa bao giờ có thời gian hay xu hướng tìm cho mình bất kỳ mối quan tâm nào khác - nhưng anh thấy ghen tị với Polling. Sự bình yên khi câu cá hấp dẫn anh. Đó là môn thể thao mà anh có thể chơi một mình. Thể thao của người tàn tật thường là những môn đối mặt. Đối kháng. Chứng minh cho cả thế giới... và cho chính mình. Bóng rổ, xe lăn, tennis, cuộc chạy marathon. Rhyme quyết định nếu anh cần phải chơi môn thể thao nào thì sẽ là câu cá. Dù quăng dây câu bằng một ngón tay có thể vẫn nằm ngoài tầm của công nghệ hiện đại.

    Polling nó: "Báo chí gọi hắn ta là tên bắt cóc hàng loạt."

    Nếu đúng thế, Rhyme suy tư.

    "Thị trưởng đang phát điên. Muốn gọi cho những nhân viên FBI. Tôi đã thuyết phục sếp không làm gì trong vụ này. Nhưng chúng ta không thể đánh mất thêm một nạn nhân nữa.

    "Chúng tôi sẽ cố hết sức" Rhyme chua cay nói.

    Polling hớp một ngụm cà phê đen và đến gần chiếc giường. "Anh ổn chứ, Lincoln?"

    Rhyme nói: "Ổn cả."

    Polling đánh giá anh thêm một chút nữa, sau đó gật đầu với Sellitto. "Hãy tóm tắt cho tôi. Chúng ta sẽ có một cuộc họp báo nữa, trong vòng nửa tiếng. Cậu đã thấy cuộc họp trước chưa? Nghe những câu hỏi của nhà báo chưa? Chúng ta nghĩ gia đình nạn nhân cảm thấy thế nào khi cô ta bị hấp đến chết?"

    Banks lắc đầu. "Trời ạ."

    "Tôi suýt chút nữa đánh thằng khốn đó.", Polling nói.

    Ba năm rưỡi trước, Rhyme nhớ lại, trong vụ điều tra sát hại cảnh sát, viên đại úy này đã đập vỡ máy quay mới của nhân viên quay phim khi một phóng viên hỏi rằng, có phải Polling quá xông xáo trong cuộc điều tra vì nghi phạm, Dan Shepherd, là nhân viên trong lực lượng hay không?

    Polling và Sellitto đi về phía góc phòng và viên thám tử báo cáo với anh ta. Khi viên đại úy xuống cầu thang, Rhyme nhận ra, sự sôi nổi của anh ta không còn được một nửa.

    "Được rồi", Cooper tuyên bố. "Ta có được một sợi tóc. Trong túi cô ta."

    "Nguyên một cọng?" Rhyme hỏi, không hy vọng nhiều lắm và không ngạc nhiên khi thấy Cooper thở dài. "Xin lỗi, không có chân tóc."

    Không có chân tóc đi cùng, sợi tóc không được xem như chứng cứ cá nhân; nó còn chưa chắc đã phải là một loại vật chứng. Ta không thể dùng nó để kiểm tra DNA và gắn nó với một nhân vật cụ thể nào. Nhưng nó vẫn có giá trị thử nghiệm tốt. Nghiên cứu nối tiếng của Canadian Mounties mấy năm trước kết luận rằng nếu tóc để lại hiện trường trùng với tóc của nghi phạm, thì xác suất hắn là người để lại sợi tóc chỉ khoảng 4.500/1. Vấn đề của tóc là ta không thể tìm được nhiều thông tin về chủ nhân của nó. Không thể xác định giới tính qua tóc, cũng không thể xác định chính xác chủng tộc. Chỉ có thể ước lượng qua tóc của trẻ vị thành niên. Không thể tin được màu tóc vì các loại thuốc nhuộm và màu trang điểm, và ai cũng rụng mỗi ngày mấy chục sợi tóc nên không thể nói được nạn nhân có bị hói đầu hay không.

    "So sánh với tóc nạn nhân xem. Đếm kích thước và so sánh màu tóc gốc', Rhyme ra lệnh.

    Một khắc sau, Cooper ngẩng đầu lên khỏi kính hiển vi, nói, "Không phải tóc của Colfax."

    "Miêu tả?" Rhyme hỏi.

    "Nâu nhạt. Không xoăn nên tôi có thể nói không phải người da đen. Màu tóc gốc nói rằng không phải người châu Á."

    "Vậy là người da trắng", Rhyme nói, gật đầu về phía sơ đồ trên tường. "Khẳng định điều nhân chứng đã nói. Tóc hay lông trên cơ thể?"

    "Có rất ít biến đổi trong phân bố đồng dạng hạt màu tóc. Tôi sẽ nói đó là tóc."

    "Chiều dài?"

    "Ba cm."

    Thom hỏi anh ta có cần thêm vào hồ sơ là tóc tên bắt cóc màu nâu hay không.

    Rhyme nói không. "Ta sẽ đợi thêm những chứng cứ chắc chắn hơn. Chỉ cần viết là ta biết hắn đeo mặt nạ trượt tuyết màu xanh hải quân. Cạo móng tay có gì không, Mel."

    Cooper xem xét dấu vết nhưng không tìm thấy gì hữu ích.

    "Dấu tay mà cô tìm thấy. Trên tường ấy. Hãy nhìn nó đi. Amelia, cô cho tôi xem, được không?"

    Sachs ngần ngừ một chút, sau đó đem bức hình Polaroid ra chỗ anh ta.

    "Con quái vật của cô", Rhyme nói. Đó là một bàn tay to lớn, biến dạng, thực sự kỳ quái, không có những đường rẽ nhánh và xoắn ốc thanh lịch của vân tay mà là hình hoa văn lốm đốm với những đường thẳng nhỏ xíu.

    "Một bức tranh tuyệt đẹp - cô gần như là Edward Weston 1 rồi, Amelia. Nhưng đáng tiếc đấy không phải là bàn tay. Kia không phải vân tay. Đấy là găng tay. Da. Đã cũ. Đúng không, Mel?"

    Tay kỹ thuật viên gật đầu.

    "Thom, hãy viết là hắn có một đôi găng tay cũ", Rhyme nói với những người khác. "Chúng ta bắt đầu có vài ý tưởng về hắn. Hắn không để lại dấu vân tay của hắn ở hiện trường. Nhưng hắn để lại dấu găng tay. Nếu tìm thấy đôi găng tay do hắn sở hữu, chúng ta vẫn có thể đưa hắn vào hiện trường. Hắn nhanh trí. Nhưng chưa thật thông minh."

    Sachs hỏi: "Những tên tội phạm thông minh mặc đồ gì?"

    "Đồ da lộn vải bông", Rhyme nói. Sau đó hỏi: "Cái túi lọc đâu? Của máy hút bụi?"

    Tay kỹ thuật viên đổ những thứ trong bộ lọc hình nón - trông như bộ lọc trong máy pha cà phê - ra một tờ giấy trắng.

    Vật chứng dấu vết...

    Công tố viên, các nhà báo và quan tòa thích những chứng cứ rõ ràng. Những đôi găng đẫm máu, dao, những khẩu súng vừa nhả đạn, các bức thư tình, tinh dịch và dấu vân tay. Nhưng chứng cứ yêu thích của Rhyme là dấu vết - bụi hay những thứ phát sinh từ hiện trường vụ án, rất dễ bị bọn tội phạm bỏ qua.

    Nhưng máy hút bụi không hút được gì hữu ích.

    "Được rồi", Rhyme nói. "Ta tiếp tục nào. Hãy nhìn cái còng tay."

    Sachs cứng người khi Cooper mở cái túi nhựa và đổ chiếc còng lên một tờ báo. Như Rhyme đã dự kiến, có rất ít máu. Bác sĩ lưu động từ văn phòng giám định y khoa đã dùng cái cưa sắt, sau khi luật sư của NYPD fax giấy phép đến Phòng Giám Định Y khoa.

    Cooper xem xét cái còng rất cẩn thận. "Hãng Boy & Keller. Loại hạng bét. Không có số thứ tự." Anh ta phun chrome với DFO lên đó và chiếu đèn PoliLight. "Không có có dấu tay, chỉ có một vết bẩn dây từ găng tay."

    " Mở nó ra xem sao."

    Cooper dùng chìa khóa đa năng mở còng. Anh ta dùng khí nén rửa kính thổi vào ổ khóa.

    " Cô vẫn giận tôi đấy à, Amelia?" Rhyme nói. " Về vụ hai bàn tay ấy."

    Câu hỏi làm cô bất ngờ. " Tôi không giận." Cô nói sau một lúc. " Tôi nghĩ thế là không chuyên nghiệp. Cái điều anh bảo tôi làm."

    " Cô có biết Edmond Locard là ai không?"

    Cô lắc đầu

    " Một người Pháp. Sinh năm 1877. Ông ta sáng lập Viện Hình sự học của trường Đại học Tổng hợp Lyon. Ông ta phát minh ra một quy tắc mà tôi luôn tuân thủ khi điều hành IRD. Nguyên tắc Trao đổi của Locard. Ông ta nghĩ rằng bất cứ khi nào hai người tiếp xúc với nhau, một thứ gì đó từ một người sẽ được trao đổi với người khác và ngược lại. Có thể là bụi, tế bào da, bùn đất, sợi, mạt kim loại. Nhưng việc trao đổi này có xảy ra - vì thế chúng ta có thể bắt được nghi phạm."

    Câu chuyện này chẳng làm cô quan tâm tí nào.

    " Cô may mắn đấy", Mel Cooper nói với Sachs mà không nhìn lên. " Anh ta đã định bắt cô và bác sĩ xem xét những thứ trong dạ dày của cô ta đấy."

    " Điều đó có thể có ích", Rhyme nói, tránh ánh mắt cô.

    " Tôi thuyết phục anh ta thôi đấy", Cooper nói.

    " Khám nghiệm tử thi", Sachs nói và thở dài, tựa như chẳng có điều gì mà Rhyme nói có thể làm cho cô ngạc nhiên.

    Tại sao, thậm chí cô ta còn chẳng ở đây nữa, anh giận dữ nghĩ. Đầu óc cô ta lơ lửng cách đây hàng nghìn dặm.

    "À", Cooper nói. "Tôi tìm thấy gi này. Tôi nghĩ đó là một mẩu găng tay."

    Cooper đặt mẩu nhỏ lên kính hiển vi. Xem xét nó.

    "Da. Nhuộm đỏ. Một mặt được đánh bóng."

    "Màu đỏ, thế là tốt", Sellitto nói. Với Sachs, anh ta giải thích: "Quần áo của bọn chúng càng man dại, càng dễ tìm ra chúng. Họ không dạy cô điều này trong học viện, tôi cá là như thế. Lúc nào đó tôi sẽ kể cô nghe chúng tôi đã tóm cổ Jimmy Plaid, trong băng nhóm của Gambino như thế nào. Cậu còn nhớ chuyện đó chứ, Jerrry?"

    "Ta có thể phát hiện cái quần đùi đó cách hàng dặm", viên thám tử trẻ tuổi nói.

    Cooper nói tiếp: "Da đã bị khô. Không có nhiều dầu trong hạt. Anh đúng khi nói đôi găng đã c ũ. "

    "Da gì vậy?"

    "Tôi sẽ nói đấy là cừu non. Chất lượng cao."

    "Nếu đôi găng tay mới, điều đó có thể có nghĩa là hắn ta giàu", Rhyme lẩm bẩm. "Nhưng vì đ ấ y là găng cũ, hắn có thể tìm thấy chúng hoặc mua hàng dùng rồi. Có vẻ là không thể suy luận được từ đồ phụ kiện của nghi phạm 823. Được rồi, Thom, thêm vào hồ sơ đôi găng tay da cừu đó. Ta còn có thêm gì nữa nhỉ?"

    "Hắn sử dụng nước hoa dùng sau dao cạo râu", Sachs nhắc anh.

    "Tôi quên mất. Tốt. Có thể dùng để che giấu mùi khác. Đôi khi bọn tội phạm cũng làm thế. Viết đi, Thom. Nó có mùi như thế nào, Amelia? Cô tả xem nào."

    "Khô ng . Như rượu gin."

    "Dây phơi thì sao?" Rhyme hỏi.

    Cooper xem xét sợi dây. "Trước đây tôi từng thấy loại này rồi. Dây nhựa. Bện từ vài tá dây nhỏ làm từ sáu tới mười loại nhựa khác nhau và một - không phải, ha i sợi dây kim loại."

    "Tôi muốn có nhà sản xuất và nguồn."

    Cooper lắc đầu. "Không được. Quá chung chung."

    "Mẹ kiếp", Rhyme lẩm bẩm. "Nút thắt thì sao?"

    "Đây là thứ khác thường. Rất hiệu quả. Xem nó được quấn vòng hai lần như thế nào này. Dây là từ nhựa PVC là loại dây khó thắt nút nhất, nhưng cái nút này không tuột được."

    "Họ có cơ sở dữ liệu nút thắt ở trung tâm không nhỉ?"

    "Không"

    Không thể tha thứ được, anh nghĩ.

    "Thưa ngài?"

    Rhyme quay về phía Banks.

    "Tôi đã từng lái thuyền buồm..."

    " Ở Westport", Rhyme nói.

    "À, thật ra là đúng như vậy. Sao anh biết?"

    Nếu ta điều tra pháp lý về xuất xứ của Jerry Banks, kết quả sẽ là Connecticut. "Đoán mò ấy mà."

    "Nó không thuộc hàng hải. Tôi không nhận ra nó."

    "Thật tốt khi biết điều đó. Treo nó lên kia đi. " Rhyme hất đầu về phía bức tường, bên cạnh tấm hình Polaroid của miếng giấy bóng kính và bức tra n h của Monet. "Ta nghiên cứu nó sau."

    Chuông cửa reo và Thom biến đi mở cửa. Rhyme cảm thấy một chút tệ hại khi nghĩ đó là bác sĩ Berger trở lại để nói với anh r ằng ông ta không còn quan tâm đến việc trợ giúp anh trong "dự án" của họ nữa.

    Nhưng tiếng bốt giẫm nặng nề nói với Rhyme ai đang đến.

    Những sĩ quan của Đội Đặc nhiệm, tất cả đều to lớn, tất cả đều u ám, mặc đồng phục chiến đấu, lịch sự vào phòng, gật đầu chào Sellitto và Banks. Họ là những người đàn ông hành động và Rhyme cá là phía sau hai mươi con mắt bất động kia là mười phản ứng rất tệ hại trước hình ảnh một người đàn ông phải nằm ng ửa vĩnh viễn.

    "Các quý ông, các anh đã biết về vụ bắt cóc tối qua và cái chết của nạn nhân chiều nay", anh tiếp tục nói bằng một giọng khẽ khàng nhưng chắc chắn. "Nghi phạm của chúng ta có một nạn nhân khác. Chúng tôi có một số dấu vết cho vụ này và tôi cần các anh đến mấy nơi quanh thành phố để lấy vật chứng. Lập tức và đồng thời. Mỗi người, một chỗ."

    "Ý anh là...", một sĩ quan để ria mép hỏi không chắc chắn, "không có yểm trợ?".

    "Anh sẽ không cần đến."

    "Với tất cả sự tôn trọng, thưa ngài. Tôi không có ý định tham gia vào bất cứ tình huống chiến thuật nào mà không có yểm trợ. Ít nhất phải có một công sự chứ."

    "Tôi không nghĩ sẽ có đấu súng. Mục tiêu là chuỗi những cửa hàng thực phẩm lớn trong thành phố."

    "Cửa hàng thực phẩm?"

    "Không phải tất cả. Chỉ cần một cửa hàng nằm trong chuỗi các cửa hàng J&G's, ShopRite, Food Warehouse,..."

    "Chính xác là chúng tôi sẽ làm gì?"

    "Mua chân bê."

    "Cái gì?"

    "Một gói từ mỗi cửa hàng. Tôi e là tôi phải yêu cầu các anh tự trả tiền, thưa các quý ông. Nhưng thành phố sẽ thanh toán cho cách anh. Ồ, mà chúng tôi cần nó càng sớm càng tốt."

    Cô nằm nghiêng, bất động.

    Mắt cô đã quen với bóng tối lờ mờ của đường hầm và cô có thể nhìn thấy những con vật khốn khiếp đang lại gần hơn. Cô đặc biệt để mắt đến một con.

    Chân Monelle đau ghê gớm, nhưng cơn đau chính lại nằm ở cánh tay, chỗ hắn cắt sâu vào da thịt. Vì tay bị còng ra sau nên cô không nhìn thấy vết thương, không biết mình chảy bao nhiêu m áu . Nhưng chắc là rất nhiều ; cô cảm thấy rất uể oải và có thể cảm nhận được vết thương rỉ máu dinh dính trên tay và bên sườn.

    Có tiếng cào - những cái móng hình kim cào trên nên xi măng. Những khối màu nâu xám hối hả lao trong bóng tối. Những con chuột c ố ng tiếp tục giật cục đi về phía cô. Chúng phải có đến hàng trăm con.

    Cô bắt mình nằm im và theo dõi con chuột đen. Schwarzie, cô đặt tên cho nó. Nó đứng ngay trước mặt, đi tới đi lui, nghiên cứu cô.

    Monelle Gerger đã đi vòng quanh thế giới hai lần khi cô mới mười chín tuổi. Cô đi nhờ xe dọc Sri Lanka, Campuchia và Pakistan. Đi qua Nebraska, nơi những người đàn bà nhìn bộ ngực không áo lót và những cái vòng đeo lông mày của cô với vẻ k h inh miệt. Đi qua Iran, nơi những người đàn ông nhìn cánh tay trần của cô như lũ chó động đực. Cô ngủ trong công viên thành phố ở Thành phố Guatemala và ở ba ngày với lực lượng nổi loạn ở Nicaragua lúc bị lạc đường khi đến khu bảo t ồ n động vật hoang dã.

    Nhưng chưa bao giờ cô hoảng sợ như lúc này.

    Mein Gott .

    Và điều cô hoảng sợ nhất chính là điều cô sắp làm với bản thân mình.

    Một con chuột chạy tới gần, thân thể màu nâu của nó lao tới trước, lùi lại sau , rồi lại tiến lên mấy inch. Bọn chuột đang sợ, cô nghĩ vậy, vì chúng chuyển động giống bò sát hơn bọn gặm nhấm. Một cái mũi rắn, cái đuôi rắn. Và những cặp mắt đỏ ngầu khốn khiếp.

    Đằng sau đó là Schwarzie, to gần bằng một con mèo nhỏ. Nó đứng trên hai chân sau nhìn thứ là m nó phấn khích. Quan sát. Chờ đợi.

    Thế rồi con chuột con tấn công. Vội vàng trên bốn cái chân nhọn hoắt, lờ đi tiếng thét bị bóp nghẹt của cô, nó lao tới, nhanh và thắng. Nhanh như sóc, nó rứt một miếng thịt từ cái chân bị cắt của cô. Vết thương nhói lên như bị bỏng. Monelle kêu ré lên - vì đau, và vì giận dữ. Tao không cần mày. Cô đạp gót giày rất mạnh lên lưng nó với một tiếng rắc khô khốc. Nó giãy một cái rồi nằm im.

    Một con khác xông lên cổ cô, rứt một miếng rồi chạy lui, nhìn chằm chằm vào cô, nháy nháy mũi như thế nó đang liếm mép, hưởng thụ mùi vị của cô.

    Dieser Schmerz 2...

    Cô rùng mình vì cơn đau rát tỏa ra từ vết cắn. Dieser Schmerz! Đau quá! Monelle bắt mình nằm im.

    Kẻ tấn công tí hon định lao lên lần nữa, nhưng rồi động đậy và quay đi. Monelle biết tại sao. Schwarzie cuối cùng đã tiến lên hàng đầu. Nó đi lấy cái nó muốn.

    Tốt, tốt.

    Nó là con chuột cô đang chờ đợi. Vì có vẻ như nó không quan tâm đến máu thịt cô; cách đây hai mươi phút nó đã tới gần, phấn khích với miếng băng dính màu bạc dán trên miệng cô.

    Con chuột bé hơn vội vàng chạy đến nhập đàn khi Schwarzie tiến lên trên những cái chân tí hon, bẩn thỉu. Dừng lại. Lại tiến lên. Sáu feet, năm.

    Rồi ba.

    Cô nằm im như chết. Thở thật nhẹ hết mức có thể, sợ hơi thở của mình sẽ làm con chuột sợ hãi.

    Schwarzie dừng lại. Rồi tiến lên. Sau đó dừng hẳn. Cách đầu cô hai feet.

    Không được động đậy.

    Lưng nó vồng cao, môi nó liên tục đưa đẩy trên hàm răng nâu vàng. Nó tiến lên thêm một foot nữa và dừng lại, mắt đảo điên. Ngồi dậy, xoa hai cái chân đầy móng vuốt vào nhau, rồi lại tiến lên.

    Monelle Gerger giả chết.

    Chỉ còn sáu inch nữa thôi. Vorwärts 3!

    Nào!

    Thế rồi nó đến sát mặt cô. Cô ngửi thấy mùi rác rưởi và dầu mỡ trên cơ thể nó, mùi phân, mùi thịt thối. Nó đánh hơi và cô cảm thấy những cái râu của nó cù mũi cô buồn không chịu nổi khi những cái răng nhỏ xíu thò ra khỏi miệng và bắt đầu gặm miếng băng dính.

    Nó gặm quanh miệng cô tới năm phút. Có lúc, một con chuột khác xông tới, cắn vào mắt cá chân của cô. Cô nhắm mắt và cố quên cơn đau. Schwarzie đuổi nó đi rồi đứng trong bóng tối nghiên cứu cô.

    Vorwärts, Schwarzie! Nào!

    Nó từ từ quay lại chỗ cô. Lệ ròng ròng trên má, Monelle miễn cưỡng hạ thấp miệng mình xuống cho nó.

    Gặm, gặm...

    Nào!

    Cô cảm thấy hơi thở nóng bức, ghê tởm của nó trong miệng mình khi nó cắn xuyên qua lớp băng dính và bắt đầu rứt ra những miếng nhựa lớn lấp loáng màu bạc. Nó kéo những mẫu nhựa từ miệng ra, tham lam kẹp chúng giữa hai chân trước.

    Không hiểu đã đủ lớn chưa? Cô tự hỏi.

    Phải thế thôi. Cô không thể chịu nổi nữa.

    Cô chậm rãi nhấc đầu lên, từng mm một. Schwarzie nháy mắt và nghiêng về phía trước, vẻ tò mò.

    Monelle há rộng miệng và nghe thấy âm thanh tuyệt vời khi miếng băng dính rách toang. Cô hít không khí thật sâu vào phổi. Cô lại thở được rồi!

    Và cô đã có thể kêu cứu.

    "Bitte, helfen Sie mir! 4"

    Schwarzie lùi lại, giật mình vì tiếng hú dựng tóc gáy của cô, đánh rơi cả miếng băng dính bạc quý báu của nó. Nhưng nó không chạy xa. Nó dừng và quay lại, đứng lên hai chân sau béo mập.

    Lờ đi cái cơ thể gù đen ngòm của nó, cô đá cái cột mà cô đang bị trói vào. Bụi và bùn đất rơi xuống như một màn tuyết nâu nhưng cây cột gỗ không động đậy. Cô la hét cho tới khi họng bỏng rát.

    "Bitte! 5"

    Bất động một lúc. Sau đó Schwarzie bắt đầu đi lại phía cô. Lần này nó không đi một mình. Một đàn chuột gian xảo đi theo nó. Run rẩy, căng thẳng. Nhưng cương quyết tiến lên khi ngửi thấy mùi máu hấp dẫn của cô.

    Xương và gỗ, gỗ và xương.

    "Mel, anh có gì đằng kia thế?" Rhyme hất đầu về phía cái máy tính gắn với máy GC-MS. Cooper đang thử lại chỗ bụi họ tìm thấy trong mẫu gỗ.

    "Vẫn rất giàu nitrogen. Vượt ngưỡng."

    Ba lần thử riêng biệt, kết quả như nhau. Kiểm tra chẩn đoán cho thấy thiết bị làm việc tốt. Cooper suy tư rồi nói: "Nhiều nitrogen như vậy thì có thể là nơi sản xuất súng hoặc đạn dược."

    "Thế thì phải là Connecticut, không phải Manhattan." Rhyme nhìn đồng hồ. 6:30. Ngày hôm nay thời gian trôi thật nhanh. Ba năm rưỡi qua nó trôi mới chậm làm sao. Anh cảm thấy như anh đã thức nhiều ngày liền.

    Viên thám tử trẻ tuổi miệt mài trên tấm bản đồ Manhattan, đẩy miếng xương đốt sống nhợt nhạt vừa rơi xuống nền nhà lúc nãy sang một bên.

    Cái đĩa đó là do một chuyên gia cột sống của Rhyme, Peter Taylor, để lại. Trong một lần gặp trước với anh ta. Người bác sĩ lành nghề đã khám cho anh, sau đó ngồi vào chiếc ghế mây kêu sột soạt và lấy thứ gì đó trong túi ra.

    "Thời gian để diễn và nói", người bác sĩ nói.

    Rhyme liếc nhìn bàn tay mở rộng của Taylor.

    "Đây là đốt sống thứ tư. Giống như đốt sống ở cổ anh. Cái đốt sống bị vỡ. Anh có thấy mẩu đuôi bé ở đây không?" Tay bác sĩ xoay khúc xương lại một lúc rồi hỏi. "Anh nghĩ gì khi anh nhìn thấy nó?"

    Rhyme kính trọng Taylor - người không đối xử với anh như một đứa trẻ hay thằng dở hơi hay sự bất tiện lớn - nhưng ngày hôm đó anh không có tâm trạng chơi trò gây cảm hứng. Anh không trả lời.

    Taylor vẫn nói tiếp: "Vài bệnh nhân của tôi nghĩ nó giống như con cá đuối. Một số khác cho rằng đó là tàu vũ trụ. Hoặc một cái máy bay. Hay xe tải. Bất cứ lúc nào tôi hỏi câu này, người ta thường so sánh nó với cái gì đó to lớn. Không ai nói: 'Ồ, một mẩu calcium và magnesium.' Thấy không, họ không thích ý tưởng là một thứ gì đó rất tầm thường như thế lại biến cuộc sống của họ thành địa ngục."

    Rhyme nhìn lại ông ta với vẻ nghi ngờ nhưng ông bác sĩ tóc bạc, điềm tĩnh này là một tay cứng rắn với các bệnh nhân SCI nên ông ta lịch sự nói: "Đừng làm tôi cụt hứng chứ, Lincoln."

    Taylor đưa cái đĩa lại gần mặt Rhyme. "Anh nghĩ rằng không công bằng khi một thứ nhỏ thế này có thể đem đến cho anh nhiều đau khổ đến vậy. Nhưng quên nó đi. Quên nó đi. Tôi muốn anh nhớ những điều trước khi xảy ra tai nạn. Những điều tốt và điều xấu trong cuộc đời anh. Hạnh phúc, khổ đau... Anh có thể cảm thấy những điều này lần nữa." Khuôn mặt ông bác sĩ chuyển thành bất động. "Nhưng thành thực mà nói, tất cả những gì tôi đang nhìn thấy lúc này là một kẻ đang đầu hàng."

    Taylor để khúc xương lại trên cái bàn đầu giường. Có vẻ như tình cờ. Nhưng sau đó Rhyme nhận thấy trong hành động này có sự tính toán. Mấy tháng qua, khi Rhyme đang cố quyết định có nên tự tử hay không, anh thường nhìn cái đĩa nhỏ đó. Nó đã trở thành biểu tượng cho luận điểm của Taylor - luận điểm ủng hộ cuộc sống. Nhưng cuối cùng phía này đã thua; những lời nói của ông bác sĩ, có đúng đến đâu chăng nữa cũng không thể vượt qua được gánh nặng của những cơn đau, đau đầu và kiệt sức mà Lincoln Rhyme phải chịu đựng ngày này qua ngày khác.

    Lúc này anh tránh nhìn chiếc đĩa - quay sang Amelia Sachs - và nói: "Tôi muốn cô nghĩ lại về hiện trường một lần nữa."

    "Tôi đã nói với anh mọi thứ tôi nhìn thấy."

    "Không phải là nhìn thấy. Tôi muốn biết tất cả những gì cô cảm thấy."

    Rhyme nhớ lại hàng nghìn lần anh khám nghiệm hiện trường. Đôi khi phép màu cũng xảy ra. Anh có thể nhìn ngó xung quanh và bằng cách nào đó các ý tưởng về đối tượng sẽ đến với anh. Anh không thể giải thích được nó như thế nào. Những nhà hành vi học nói về việc lập hồ sơ như thể chính họ là người sáng chế ra nó. Nhưng các nhà hình sự học đã lập hồ sơ từ hàng trăm năm nay. Đan lưới, đi ở chỗ hắn đã đi, tìm những thứ hắn để lại, nghĩ ra hắn sẽ đem gì theo - và ta sẽ rời khỏi hiện trường với một hồ sơ rõ ràng như một bức chân dung.

    "Nói tôi biết", anh hỏi. "Cô cảm thấy gì?"

    "Khó chịu. Căng thẳng. Nóng bức." Cô nhún vai. "Tôi không biết, tôi thực sự không biết. Xin lỗi."

    Nếu có thể di chuyển, Rhyme đã nhảy ra khỏi giường, nắm lấy vai cô mà lắc. Hét lên: Nhưng cô biết tôi đang nói gì mà! Tôi biết là cô biết. Tại sao cô không làm việc với tôi?... Tại sao cô lờ tôi đi?

    Nhưng anh hiểu ra một điều gì đó... Hiểu rằng cô đã ở đó, trong cái tầng hầm ngột ngạt. Cúi người xuống cơ thể bị phá nát của T.J. Ngửi thứ mùi ghê tởm. Anh nhìn thấy điều đó trong ngón tay cái bị cậy đến bật máu của cô, anh nhìn thấy điều đó trong cách cô giữ một khoảng cách lịch sự giữa họ. Cô ghê tởm việc có mặt trong cái tầng hầm kinh khủng đó và cô căm thù anh vì anh nhắc nhở cô rằng, một phần của cô vẫn còn ở đó.

    "Cô đã đi ngang qua phòng", anh nói.

    "Tôi thực sự không nghĩ rằng tôi có thể giúp gì thêm."

    "Chơi thôi mà", anh nói, cố dẹp cơn giận. Anh cười. "Nói cho tôi biết cô nghĩ gì?"

    Khuôn mặt cô bất động và cô nói: "Chỉ là... những ý nghĩ. Những ấn tượng thì ai cũng có."

    "Nhưng cô đã ở đó. Mọi người thì không. Nói cho chúng tôi nghe đi."

    "Kiểu như... rất đáng sợ." Cô nói và cảm thấy hối tiếc vì những từ ngữ vụng về.

    Nghiệp dư.

    "Tôi cảm thấy..."

    "Ai đó đang nhìn cô?" Anh hỏi.

    Điều đó làm cô ngạc nhiên. "Đúng. Chính xác là thế."

    Rhyme cũng đã từng cảm thấy như vậy. Nhiều lần. Anh cảm thấy điều đó ba năm rưỡi trước, khi cúi mình xuống cơ thể đang phân hủy của người cảnh sát trẻ tuổi, nhặt một sợi vải trên bộ cảnh phục. Anh chắc chắn có ai đó ở gần. Nhưng chẳng có ai - chỉ là một cái rầm gỗ sồi lớn chọn đúng khoảnh khắc đó để gầm lên, tăng tốc và rơi trúng đốt sống cổ thứ tư của Lincoln Rhyme với sức nặng của cả quả đất.

    "Cô còn nghĩ gì nữa, Amelia?"

    Cô không chống cự nữa. Môi cô thư giãn, mắt cô trôi theo bức tranh Nighthaws - những người ăn tối, cô đơn hay đơn độc một cách mãn nguyện. Cô nói: "Được rồi, tôi nhớ là tôi nói với chính mình: 'Trời ạ, chỗ này cổ thật.' Nó giống như những bức tranh mà ta nhìn thấy ở đó các nhà máy trong giai đoạn chuyển giao thế kỷ. Và tôi..."

    "Đợi đã". Rhyme quát lên. "Hãy nghĩ về điều này xem. Cổ xưa..."

    Ánh mắt anh lướt qua tấm bản đồ Randel Survey. Trước đó anh đã nhận xét về sự quan tâm của nghi phạm về New York lịch sử. Tòa nhà nơi T.J. chết cũng là một tòa nhà cổ. Và đường hầm nơi họ tìm thấy xác chết đầu tiên cũng vậy. Tàu hỏa Trung tâm New York đã từng chạy trên mặt đất. Có quá nhiều tai nạn gây thương vong đến mức Đại lộ Mười một được đặt tên là Đại lộ Death và tuyến đường sắt cuối cùng bị bắt buộc phải đi ngầm.

    "Và Phố Pearl", anh lẩm bẩm một mình, "là con đường vòng chính của New York trước kia. Vì sao hắn lại quan tâm đến những thứ đồ cổ?". Anh hỏi Sellitto: "Terry Dobyns còn làm việc cho chúng ta không?"

    "Ồ, anh chàng bác sĩ tâm thần? Còn. Chúng tôi cùng làm một vụ năm ngoái. Nhân tiện, anh ta có hỏi anh. Nói là anh ta có gọi điện một, hai lần, và anh không bao giờ..."

    "Được rồi, được rồi, được rồi", Rhyme nói. "Gọi anh ta đến đây. Tôi muốn anh ta suy nghĩ về khuôn mẫu của 823. Còn bây giờ, Amelia, cô còn nghĩ gì nữa?"

    Cô nhún vai nhưng tỏ ra rất lãnh đạm. "Chẳng có gì."

    "Không có?"

    Thế thì cô có giữ lại cảm giác của mình không? Anh băn khoăn, nhớ lại điều gì đó mà Blaine có nhắc tới một lần khi nhìn thấy một người phụ nữ đẹp bước đi trên Đại lộ Năm: Hàng càng đẹp càng khó mở.

    "Tôi không biết...Được rồi, tôi nghĩ tôi có nhớ một việc tôi đã nghĩ đến. Nhưng điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả. Nó không giống như một quan sát, thế nào nhỉ, chuyên nghiệp."

    Chuyên nghiệp...

    Thật tệ hại khi tự mình đặt tiêu chuẩn cho mình, phải không Amelia?

    "Hãy cứ nghe xem thế nào", anh nói với cô ta.

    "Khi anh nói với tôi hãy giả vờ tôi là hắn? Và tôi tìm thấy chỗ mà hắn đứng để nhìn cô ta?"

    "Tiếp tục đi."

    "Tôi nghĩ..." Trong một khoảnh khắc có vẻ như lệ sắp tràn lên đôi mắt đẹp của cô, anh nhận thấy chúng có sắc xanh óng ánh. Ngay lập tức cô kiểm soát được mình. "Tôi băn khoăn không biết cô ta có nuôi chó không. Cô Colfax ấy mà."

    "Chó? Tại sao cô lại băn khoăn về điều đó?"

    Cô ngừng lại một lát rồi nói: "Bạn tôi... vài năm trước. Chúng tôi có nói chuyện mua một con chó khi, đúng hơn là nếu, chúng tôi dọn đến ở với nhau. Tôi luôn muốn có một con. Một con chó giống collie. Thật buồn cười. Đó là giống chó mà bạn tôi cũng rất thích. Thậm chí trước cả khi chúng tôi biết nhau."

    "Một con chó." Tim Rhyme nổ bục như một con ruồi lao đầu vào cửa kính mùa hè. "Và?"

    "Tôi nghĩ rằng người phụ nữ đó..."

    "T.J." Rhyme nói.

    "T.J." Sachs tiếp tục. "Tôi chỉ nghĩ thật buồn nếu cô ta có con vật cưng nào mà không thể về nhà và chơi đùa với chúng nữa. Tôi không hề nghĩ về chồng hay bạn trai cô ta. Tôi chỉ nghĩ về bọn thú cưng."

    "Nhưng vì sao lại là ý nghĩ đó? Chó, những con vật cưng? Tại sao?"

    "Tôi không biết tại sao."

    Im lặng.

    Cuối cùng cô nói: "Tôi hình dung tôi nhìn cô ta bị trói ở đó...Và tôi nghĩ cách hắn đứng tránh sang một bên để nhìn cô ta. Đứng giữa những cái thùng dầu. Giống như hắn đứng nhìn một con vật ở một bãi chăn được rào kín."

    Rhyme nhìn những sơ đồ sóng hình sin trên màn hình máy tính GC-MS.

    Thú vật...

    Nitrogen...

    "Phân!" Rhyme kêu lên.

    Mọi người quay lại nhìn anh.

    "Đấy là phân." Nhìn chằm chằm vào màn hình.

    "Đúng, tất nhiên rồi!" Cooper vò đầu nói. "Toàn nitrogen. Đấy là phân bón. Và là loại phân bón cũ."

    Thình lình Rhyme có cảm giác về một trong những khoảnh khắc mà trước đây anh đã gặp. Một ý nghĩ vừa lao vào đầu anh. Hình ảnh của những con cừu.

    Sellitto hỏi: "Anh ổn chứ?"

    Một con cừu, lang thang trong phố.

    Giống như hắn đứng nhìn một con vật...

    "Thom", Sellitto nói, "anh ấy ổn chứ?"

    ... ở một bãi chăn được rào kín.

    Rhyme có thể hình dung ra con vật vô tư. Một quả chuông treo trên cổ, hàng chục con khác theo sau.

    "Lincoln", Thom nói một cách gấp gáp, "anh đang đổ mồ hôi đấy, anh ổn chứ?"

    "Suỵt...", nhà hình sự học ra lệnh.

    Anh cảm thấy cơn ngứa lan xuống mặt. Cảm hứng và trụy tim; triệu chứng giống nhau một cách kỳ lạ. Nghĩ, nghĩ đi...

    Xương, cột trụ gỗ và phân bón...

    "Rồi!" Anh thì thầm. Con cừu Judas 6, dẫn đàn của mình đến chỗ chết.

    "Trại chăn nuôi", Rhyme nói với cả phòng. "Cô ta bị nhốt ở trong một trại chăn nuôi."

    --------------------------------
    1 Edward Henry Weston (1886 - 1958): Nhiếp ảnh gia nổi tiếng người Mỹ.
    2 Dieser Schmerz: Đau quá (tiếng Đức).
    3 Vorwärts: Lên đi (tiếng Đức).
    4 Bitte, helfen Sie mir: Cứu tôi với (tiếng Đức).
    5 Bitte: Giúp tôi (tiếng Đức).
    6 Judas: Tên một nhân vật trong Kinh Thánh, kẻ phản bội Chúa Jesus. Ở đây ám chỉ kẻ phản bội.

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    MƯỜI BA

    "Nhưng ở Manhattan không có cái trại chăn nuôi nào cả."

    "Trước đây, Lon ạ", Rhyme nhắc anh ta. "Những thứ cổ xưa làm hắn phấn khích. Làm cho máu hắn chảy. Ta phải nghĩ đến những trại chăn nuôi cũ. Càng cũ càng tốt."

    Khi nghiên cứu để viết cuốn sách của mình, Rhyme đã đọc về một vụ giết người mà tên tội phạm quý tộc Owney Madden bị kết tội: bắn chết một đối thủ bán rượu lậu ngay bên ngoài nhà hắn tại Hell's Kitchen. Madden không bao giờ bị kết án - dù sao đi nữa cũng không phải vì một vụ án mạng ngoại lệ. Hắn đứng lên, bằng một giọng Anh đầy nhịp điệu, hắn đã giảng bài cho phòng xử án về sự phản bội. "Toàn bộ vụ này là do đối thủ của tôi vu cáo, những người đã nói dối về tôi. Thưa quý tòa, các ngài có biết điều đó khiến tôi nhớ đến cái gì không? Trong khu tôi sống, ở Hell's Kitchen, những đàn cừu được dẫn qua phố đến lò mổ trên Phố Bốn mươi mốt. Ngài có biết ai dẫn dắt chúng không? Không phải chó, không phải người. Mà là một trong số chúng. Một con cừu Judas với một cái chuông đeo quanh cổ. Nó dẫn đàn cừu đi trên con đường đó. Nhưng sau đó nó dừng lại và những con còn lại sẽ vào trong. Tôi là một con cừu vô tội và những nhân chứng chống lại tôi, chúng là những con cừu Judas."

    Rhyme tiếp tục. "Banks, gọi điện cho thư viện. Họ chắc sẽ có một nhà sử học."

    Viên thám tử trẻ tuổi mở điện thoại di động và gọi. Giọng anh ta hạ thấp dần khi nói. Sau khi nói điều mình cần, anh ta dừng lại và nhìn vào tấm bản đồ thành phố.

    "Gì vậy?" Rhyme hỏi.

    "Họ đang tìm ai đó. Họ có...", anh ta cúi đầu khi có người trả lời và lặp lại yêu cầu của mình.





    Anh ta bắt đầu gật đầu và nói với cả phòng: "Tôi có hai chỗ... không phải, ba."

    "Ai đấy?" Rhyme cục cằn hỏi. "Cậu đang nói chuyện với ai đấy?"

    "Người phụ trách việc lưu trữ của thành phố... Ông ta nói trước đây có khoảng ba trại chăn nuôi chính tại Manhattan. Một ở West Side, quanh Phố sáu mươi...Một ở Harlem, trong những năm 1930 hoặc 1940. Và một ở Lower East Side trong thời kỳ Cách mạng."

    "Ta cần địa chỉ, Banks. Địa chỉ!"

    Lắng nghe.

    "Ông ta không chắc chắn."

    "Sao ông ta lại không tìm được. Nói với ông ta tìm đi."

    Banks trả lời: "Ông ta nghe thấy ngài nói rồi, thưa ngài... Ông ta nói: Ở đâu? Tìm chúng ở đâu? Khi đó họ vẫn chưa có Những Trang Vàng. Ông ta đang nhìn vào cổ xưa..."

    "Bản đồ dân số của khu vực thương mại không có tên phố", Rhyme càu nhàu. "Rõ ràng quá, cứ để ông ta đoán."

    "Đúng là ông ta đang làm thế. Ông ta đang đoán."

    Rhyme nói: "Ta cần ông ta đoán nhanh lên."

    Banks lắng nghe, gật đầu.

    "Cái gì, cái gì, cái gì, cái gì?"

    "Quanh Phố Sáu mươi và Mười." Viên sĩ quan trẻ tuổi nói. Một khắc sau: "Lexington gần sông Harlem...và sau đó...trang trại Delancey ở đâu? Có phải gần phố Delancey không?..."

    "Tất nhiên rồi. Từ Tiểu Ý con đường đi thẳng xuống sông Đông. Rất nhiều khu vực. Hàng dặm. Ông ta có thể thu hẹp lại một chút, được không?"

    "Quanh Phố Catherine. Lafayette...Walker. Ông ta không chắc."

    "Gần tòa án", Sellitto nói và bảo Banks. "Gọi đội của Haumann. Chia họ ra. Khám xét tất cả ba khu vực."

    Viên thám tử trẻ tuổi gọi điện, sau đó ngẩng đầu lên. "Giờ thì sao?"

    "Chúng ta đợi", Rhyme nói.

    Sellitto càu nhàu: "Tôi ghét phải đợi."

    Sachs hỏi Rhyme: "Tôi dùng điện thoại của anh, được không?"

    Rhyme hất đầu về phía cái bàn đầu giường.

    Cô ngần ngừ. "Anh có cái nào ở ngoài kia không?" Cô chỉ ra phía hàng lang.

    Rhyme gật đầu.

    Với một dáng đi hoàn hảo, cô bước ra khỏi phòng ngủ. Anh có thể nhìn thấy cô trong tấm gương ở hành lang, khoan thai gọi cuộc điện thoại quý giá. Ai vậy? Anh băn khoăn. Bạn trai, chồng? Trung tâm chăm sóc ban ngày? Vì sao cô lại chần chừ trước khi nhắc đến "người bạn" của cô, lúc cô nói với họ về con chó giống collie? Chắc là có một câu chuyện đằng sau, Rhyme đoán thế.

    Người cô gọi không có ở đó. Anh thấy mắt cô biến thành những viên cuội màu xanh thẫm khi không thấy ai trả lời. Cô ngẩng đầu lên và bắt gặp Rhyme đang nhìn cô qua tấm gương bụi bặm. Cô quay lưng lại. Điện thoại trượt xuống cái giá đỡ và cô quay lại phòng anh.

    Yên lặng trong năm phút. Rhyme không có một cơ chế mà ai cũng có để làm giảm tình trạng căng thẳng. Anh là một người tính khí thất thường khi anh còn đi lại được, điều đó làm cho mọi sĩ quan trong IRD phát khùng. Lúc này, mắt anh đang hăng hái quét trên tấm bản đồ Randel khi Sachs đưa tay lên mũ tuần tra để gãi đầu.

    Mel Cooper vô hình đang sắp xếp vật chứng, bình tĩnh như một bác sĩ phẫu thuật.

    Tất cả, trừ một người trong phòng, đều nhảy bật lên khi nghe điện thoại của Sellitto reo. Anh ta nghe, mặt mũi nhăn nhó.

    "Được rồi!" Một trong những sĩ quan của Haumann đang ở Phố Mười một và Sáu mươi. Họ nghe thấy tiếng thét của phụ nữ ở đâu đó quanh đấy. Họ không biết chắc chắn là ở đâu. Họ đang tìm kiếm từng nhà."

    "Đi giày chạy của cô vào", Rhyme ra lệnh cho Sachs.

    Anh thấy mặt cô xịu xuống. Cô nhìn điện thoại của Rhyme, như thể nó có thể đổ chuông với một cuộc gọi ân xá từ văn phòng Thị trưởng vào bất kỳ lúc nào. Sau đó nhìn Sellitto, lúc này đang cúi người trên bản đồ chiến thuật ESU của West Side.

    "Amelia", Rhyme nói, "ta đã mất một người. Thế là quá tệ. Nhưng chúng ta không phải mất thêm ai nữa."

    "Nếu anh nhìn thấy cô ấy", cô thì thầm. "Nếu mà anh nhìn thấy hắn làm gì với cô ấy..."

    "Ồ, nhưng tôi có thấy, Amelia", anh nói đều đều, ánh mắt anh nghiêm khắc và thách thức. "Tôi thấy điều gì xảy đến với T.J. Tôi đã nhìn thấy điều gì xảy đến với những cơ thể bị để cả tháng trong cốp xe nóng nực. Tôi nhìn thấy điều mà nửa cân C4 làm với tay, chân và mặt. Tôi đã khám nghiệm đám cháy tại Happy Land. Hơn tám mươi người bị bỏng đến chết. Chúng tôi chụp ảnh Polaroid mặt nạn nhân hoặc những gì còn lại của họ để gia đình họ nhận dạng - vì chẳng có một ai sau khi đi qua những hàng xác chết đó mà không bị điên. Ngoại trừ chúng tôi. Chúng tôi không có lựa chọn nào khác." Anh hít vào, chống lại cơn đau đang tràn qua cổ. "Thấy không, nếu cô muốn tồn tại được trong cái ngành này, Amelia... Nếu cô muốn tồn tại trong cuộc đời, cô phải học được cách bỏ qua người đã chết."

    Từng người một trong phòng dừng công việc mình đang làm và nhìn về phía họ.

    Không một lời xã giao từ Amelia Sachs. Không một nụ cười lịch sự. Trong một khắc, cô thử tạo ra cái nhìn trở nên bí ẩn. Nhưng nó chỉ trong suốt như thủy tinh. Cơn giận của cô - không tương xứng với những nhận xét của anh ta - chọc giận lại cô; khuôn mặt dài của cô gập lại vì một sức mạnh đen tối. Cô hất mớ tóc đỏ lười biếng sang bên và nhặt cái tai nghe trên bàn. Cô dừng lại phía trên cầu thang và nhìn anh ta với cái nhìn khinh miệt, nhắc nhở Rhyme rằng, chẳng có gì lạnh lùng hơn một nụ cười lạnh lùng của người phụ nữ đẹp.

    Và vì lý do nào đó, anh thấy mình đang nghĩ: Chào mừng cô quay trở lại, Amelia.

    "Anh có gì vậy? Anh có bánh kẹo, anh có một câu chuyện, anh có những bức hình?"

    Scruff ngồi trong quán rượu phía East Side, Manhattan, Đại lộ Ba - với thành phố thì nó giống như khu mua bán nhỏ ở vùng ngoại thành. Đó là một quán rượu bẩn thỉu, sắp sửa tràn ngập đám dân công sở trẻ nửa mùa. Nhưng lúc này nó là nơi trú ngụ của những người dân địa phương ăn mặc tồi tàn, ăn bữa tối với món cá đáng ngờ và món sa lát héo rũ.

    Một người đàn ông gầy gò, có làn da giống như gỗ mun lốm đốm mặc áo sơ mi rất trắng và bộ vét màu xanh lá. Anh ta nghiêng lại gần Scruff hơn. "Anh có tin, anh có mã bí mật, anh có thư không? Anh có phân không?"

    "Này. Ha"

    "Anh không cười khi anh nói: ha", Fred Dellray nói, thực ra là D'Ellret vài thế hệ trước. Anh ta cao sáu feet bốn, hiếm khi cười ngay cả với chuyện đùa Jabberwocky và là nhân viên sáng giá trong văn phòng FBI ở Manhattan.

    "Không đâu. Tôi không cười."

    "Thế thì anh có gì?" Dellray bóp chặt đầu mẩu điếu thuốc đang ở bên tai trái.

    "Mất thời gian đấy ông bạn", Scruff, một người đàn ông thấp bé, vừa gãi mái tóc nhờn của mình vừa nói.

    "Nhưng anh không có thời gian đâu. Thời gian rất quý báu, thời gian đang trôi đi, và thời gian là thứ mà anh. Không. Có."

    Dellray cho bàn tay to lớn của mình xuống dưới gầm của cái bàn có hai ly cà phê bên trên, bóp đùi Scruff thật mạnh đến nỗi hắn phải rên rỉ.

    Sáu tháng trước, anh chàng trắng trẻo, nhỏ thó đó bị tóm khi đang cố bán mấy khẩu M16 tự động cho mấy tên điên cánh hữu, mà họ - bất kể có phải như thế hay không - lại là nhân viên mật của BATF.

    Tất nhiên nhân viên an ninh liên bang không muốn Scruff, một của nợ nhỏ thó tóc nhờn. Họ muốn bắt những kẻ cung cấp súng cho anh ta. ATF 1 đã lội ngược dòng khá xa nhưng không tìm được gì đáng giá, vì thế họ giao anh ta cho Dellray, nhân viên quản lý đặc tình Numero Uno số một của Cục, để xem anh ta có đem lại lợi ích gì không? Nhưng cho tới lúc này, anh ta vẫn chỉ tỏ ra là một gã khó chịu, một thứ chuột bọ gầy nhẳng, mà rõ ràng chẳng có tin tức, mã bí mật, thậm chí là phân cho nhân viên liên bang.

    "Cách duy nhất anh có thể thoát án, mọi bản án, là anh phải cung cấp cho chúng tôi thứ gì đó vừa đẹp lại vừa dính. Chúng ta đồng ý vụ này chứ?"

    "Lúc này thì tôi chẳng có quái gì cho các anh, đó là điều tôi đang nói. Ngay lúc này."

    "Không đúng, không đúng. Mày đã có gì đó rồi. Tao có thể nhìn thấy điều đó trên mặt mày. Đúng là mày biết điều gì đó, thằng hâm."

    Chiếc xe bus đỗ xịch bên ngoài, tiếng phanh hơi rin rít. Một đám người Pakistan trèo ra khỏi cửa.

    "Anh bạn, cái hội nghị khốn kiếp của Liên Hiệp Quốc", Scruff lẩm bẩm, "họ đến đây làm chó gì thế? Thành phố này đã quá đông rồi. Cái lũ ngoại quốc ấy."

    "Hội nghị khốn kiếp. Đồ chết đói, đồ đê tiện", Dellray cắn cảu. "Mày có gì phản đối hòa bình thế giới thế?"

    "Chẳng có gì."

    "Thế thì nói cho tao điều gì đó hay ho đi."

    "Tao chẳng biết điều gì hay ho cả."

    "Mày đang nói chuyện với ai đây?" Dellray độc ác nhăn mặt. "Tao là loài thằn lằn. Tao có thể cười vui vẻ, nhưng tao cũng có thể chơi trò bóp cẳng đấy."

    "Đừng anh bạn, đừng", Scruff ré lên. "Mẹ kiếp, đau quá. Thôi ngay đi."

    Nhân viên quầy bar nhìn họ và một cú liếc ngắn của Dellray buộc anh ta quay lại công việc đánh bóng cốc chén của mình.

    "Được rồi, có lẽ là tao biết một việc. Nhưng tao cần giúp đỡ. Tao cần..."

    "Bóp thêm tí nữa phải không?"

    "Mẹ mày. Con mẹ mày."

    "Ồ, đó là một cuộc nói chuyện rất thông minh", Dellray đáp trả. "Mày nói như bọn trong mấy bộ phim tệ hại, mày biết đấy, người tốt và kẻ xấu cuối cùng cũng gặp nhau. Như Stallone gặp kẻ khác. Và tất cả mọi điều chúng có thể nói với nhau là 'con mẹ mày', 'không, con mẹ mày', 'không, con mẹ mày cơ'. Bây giờ thì mày nói tao nghe điều gì đó hữu ích. Đồng ý không?"

    Và nhìn chằm chằm Scruff cho đến khi anh ta đầu hàng.

    "Ok, đây. Tôi tin anh đấy, anh bạn. Tôi..."

    "Rồi. Rồi. Rồi. Mày có gì?"

    "Tôi vừa nói chuyện với Jackie. Anh biết Jackie chứ?"

    "Tao biết Jackie."

    "Và hắn nói với tôi."

    "Hắn nói gì với mày?"

    "Hắn nói với tôi là nếu tôi có đến đó, đến hoặc đi đâu đó trong tuần này, đừng có đi bằng máy bay."

    "Vậy thì cái gì đến hoặc đi? Lại thêm 16s nữa à?"

    "Tôi nói với anh rồi, anh bạn. Tôi chẳng có gì cả. Tôi chỉ nói với anh điều Jackie..."

    "Nói với mày."

    "Đúng rồi, anh bạn. Rất chung chung, anh biết chứ?" Scruff mở to mắt nhìn Dellray. "Tôi có cần nói dối anh không?"

    "Đừng có bao giờ đánh mất phẩm giá", viên đặc vụ long trọng cảnh cáo, chỉ ngón tay cứng như đá vào ngực Scruff. "Bây giờ, có gì ở sân bay? Sân bay nào? Kennedy? La Guardia?"

    "Tôi không biết. Tất cả những gì tôi biết là có tin đồn sẽ có ai đó ở sân bay. Ai đó rất tệ."

    "Cho tao cái tên."

    "Không có tên."

    "Jackie ở đâu?"

    "Không biết. Nam Phi. Tôi nghĩ thế. Có thể ở Liberia."

    "Tất cả những thứ đó có ý nghĩa gì?" Dellray bóp điếu thuốc của anh ta lần nữa.

    "Tôi đoán có khả năng sắp có điều gì đó xảy ra, anh biết đấy, như kiểu lại có hàng về."

    "Mày đoán." Scruff rúm người, nhưng Dellray không có ý định tiếp tục tra tấn anh chàng nhỏ thó này thêm nữa. Anh ta đã nghe thấy chuông báo động: Jackie - tên buôn vũ khí mà cả Cục đã biết đến khoảng một năm - có thể nghe được điều đó từ một trong những khách hàng của hắn ta, những người lính ở châu Phi và Trung Âu, những đơn vị dân quân ở Mỹ, về một tên khủng bố sẽ tấn công sân bay. Thường thì Dellray không nghĩ về điều đó, ngoại trừ vụ bắt cóc ở sân bay JFK đêm qua. Anh ta không chú ý lắm đến điều này - đó là việc của NYPD. Nhưng lúc này anh lại nghĩ đến vụ nổ lựu đạn không thành công tại cuộc họp của UNESCO ở London hôm trước.

    "Anh chàng của mày không nói thêm gì nữa à?"

    "Không, anh bạn ạ. Không còn gì nữa. Mà này, tôi đói. Chúng ta có thể ăn gì chứ?"

    "Nhớ tao nói gì với mày về phẩm giá không? Đừng rên rỉ nữa". Dellray đứng dậy. "Tao phải gọi điện."

    Chiếc RRV phanh kít trên Phố Sáu mươi.

    Sachs nhặt chiếc vali khám nghiệm hiện trường, cây đèn PoliLight và cây đèn pin mười hai volt to tướng.

    "Các anh đến đúng lúc chứ?" Sachs hỏi một binh sĩ ESU. "Cô ấy có sao không?"

    Đầu tiên không ai trả lời. Sau đó cô nghe thấy tiếng thét.

    "Có chuyện gì thế?" Cô lẩm bẩm, chạy đứt hơi về phía một cánh cửa lớn vừa bị ESU phá vỡ. Cảnh cửa mở ra một con đường rộng dẫn xuống một tòa nhà gạch đã bị bỏ hoang. "Cô ấy vẫn còn ở đó?"

    "Đúng thế."

    "Tại sao?" Amelia Sachs bị sốc, hỏi lại.

    "Họ bảo chúng tôi không được vào."

    "Không được vào? Cô ấy đang gào thét kìa. Các anh không nghe thấy à?"

    Viên cảnh sát ESU nói: "Họ bảo chúng tôi đợi cô."

    Họ. Không, không phải là họ. Lincoln Rhyme. Thằng khốn.

    "Chúng tôi chỉ phải tìm cô ta thôi", viên sĩ quan nói. "Cô là người phải vào trong."

    Cô bật tai nghe. "Rhyme!" Cô quát. "Anh ở đâu?"

    Không trả lời...Đồ hèn nhát.

    Bỏ qua người đã chết... Đồ chó. Giận dữ như lúc cô vừa chạy xuống cầu thang nhà anh ta mấy phút trước, nhưng lúc này cơn giận dữ tăng gấp đôi.

    Sachs liếc nhìn ra sau và nhận thấy một nhân viên y tế đang đứng cạnh chiếc xe EMS.

    "Anh kia, đi với tôi."

    Anh ta bước tới một bước và nhìn thấy cô rút súng. Anh ta dừng lại.

    "Ấy, từ từ đã", nhân viên y tế nói. "Tôi không đi cho tới khi khu này được an toàn."

    "Đi ngay! Đi thôi!" Cô quay ngoắt lại, chắc là anh ta nhìn thấy nhiều nòng súng hơn anh ta muốn. Anh ta nhăn mặt và vội vã chạy theo cô.

    Từ phía dưới lòng đất họ nghe tiếng kêu: "Aiiiii! Hilfe!" Sau đó là tiếng thổn thức.

    Lạy Chúa. Sachs bắt đầu chạy về phía cánh cửa tối tăm, cao mười hai feet, bên trong tối như hũ nút.

    Cô nghe thấy giọng anh ta trong đầu mình: Cô là hắn ta, Amelia. Cô nghĩ gì vậy?

    Biến đi, cô thầm nói.

    Nhưng Lincoln Rhyme không biến mất.

    Cô vừa là tên giết người vừa là kẻ bắt cóc, Amelia. Cô sẽ đi đâu, cô sẽ chạm vào cái gì?

    Quên đi! Tôi đến để cứu cô ta. Mặc kệ hiện trường vụ án...

    "Mein Gott! Nàm ơn đi. Có ai không? Nàm ơn giúp tôi!"

    Đi thôi, Sachs. Chạy nhanh! Hắn không có ở đây. Mày an toàn rồi. Cứu cô ta đi, đi nào...

    Cô tăng nhịp bước, dây lưng khí tài của cô kêu lanh canh theo từng bước chạy. Khi chạy được khoảng hai mươi feet trong đường hầm, cô dừng lại. Tự tranh luận. Bên nào thắng cô cũng không thích.

    "Ôi, mẹ kiếp", cô quát lên. Cô đặt cái vali xuống rồi mở ra. Cô nói với nhân viên y tế: "Này, tên anh là gì?"

    Chàng thanh niên căng thẳng trả lời: "Tad Walsh. Ý tôi là, điều gì đang xảy ra thế?" Anh ta nhìn vào bóng tối.

    "Ôi... Bitte, helfen Sie mir!"

    "Yểm trợ cho tôi", Sachs thầm thì.

    "Yểm trợ cho cô? Đợi chút, tôi không làm đâu."

    "Cầm lấy súng đi, được không?"

    "Tôi yểm trợ cho cô khỏi cái gì mới được chứ?"

    Nhét khẩu tự động vào tay anh ta, cô quỳ xuống. "Chốt an toàn mở rồi đấy, cẩn thận."

    Cô nhặt hai đoạn băng cao su, bọc giày. Lấy lại súng, cô bảo anh ta làm theo.

    Tay run rẩy, anh ta đeo băng cao su vào.

    "Tôi nghĩ..."

    "Im lặng. Có thể hắn vẫn còn ở đây."

    "Đợi chút, thưa cô", nhân viên y tế thầm thì. "Cái này không có trong phần công việc của tôi."

    "Của tôi cũng chẳng có. Cầm lấy đèn này." Cô đưa cho anh ta cái đèn pin.

    "Nhưng mà nếu hắn ở đây, có thể hắn sẽ bắn vào chỗ sáng. Ý tôi là, nếu là tôi, tôi sẽ bắn như vậy."

    "Thế thì nâng cao nó lên. Trên vai tôi đây này. Tôi sẽ đi trước. Và nếu có ai đó dính đạn, người ấy sẽ là tôi."

    "Lúc ấy thì tôi làm gì?" Tad hỏi như một cậu bé.

    "Tôi sẽ chạy như điên", Sachs lầm bầm. "Giờ thì theo tôi. Và giữ đèn cho chắc vào."

    Tay trái kéo lê cái va li CS, súng giương trước mặt, cô nhìn xuống nền đất khi bước vào trong bóng tối. Cô lại nhìn thấy vết chổi quen thuộc, giống như tại hiện trường lúc trước.

    "Bitte nicht, bitte bicht, bitte...", một tiếng thét ngắn, sau đó im lặng.

    "Có chuyện quái quỷ gì ở đây thế?" Tad thầm thì.

    "Suỵt", Sachs ngăn lại.

    Họ bước đi từ từ. Sachs thổi vào các ngón tay đang nắm chặt khẩu Glock - để làm khô mồ hôi - và thận trọng ngắm nhìn những mục tiêu ngẫu nhiên là những cây cột gỗ, bóng tối và bỏ qua những thứ máy móc bị cây đèn pin không ổn định trong tay Tad chiếu sáng.

    Cô không tìm thấy dấu chân nào.

    Tất nhiên là không rồi. Hắn thật thông minh.

    Nhưng ta cũng thông minh, cô nghe thấy Lincoln nói trong đầu. Cô bảo anh ta câm đi.

    Giờ thì đi chậm hơn.

    Năm feet nữa. Dừng lại. Rồi chậm chạp tiến lên phía trước. Cố không để ý đến tiếng rên la của cô gái. Cô lại cảm thấy nó - cái cảm giác bị theo dõi, những móng vuốt trơn trượt của cái nhìn sắt đá đang theo dõi mình. Áo giáp không thể chống lại được đạn vỏ kim loại. Một nửa bọn người xấu dùng đạn Black Talons - vì thế một phát súng vào tay hay vào chân cũng giết chết anh ngon lành như một phát vào ngực. Mà còn đau đớn hơn rất nhiều. Đã có lần Nick nói với cô rằng, một trong những viên đạn như vậy có thể xé tung cơ thể; một trong những đồng sự của anh đã chết trên tay anh khi bị hai viên đạn ác hiểm này bắn trúng.

    Phía trên và đằng sau...

    Nghĩ đến anh, cô nhớ lại một đêm, nằm dựa vào lồng ngực vững chãi của Nick, nhìn ngắm khuôn mặt Italia đẹp trai của anh trên gối, khi anh kể cho cô nghe về cuộc tấn công giải cứu con tin - "Nếu ai đó bên trong muốn hạ anh khi anh đi vào, hắn sẽ làm điều đó từ phía trên và đằng sau..."

    "Mẹ kiếp." Cô khom người quỳ xuống, quay người lại, chĩa khẩu Glock lên trần, sẵn sàng nhả hết băng đạn.

    "Gì thế?" Tad rúm người lại thầm thì. "Gì thế?"

    Cảm giác trống rỗng tóm lấy cô.

    "Không có gì." Hít thở thật sâu, cô đứng dậy.

    "Đừng làm thế."

    Có tiếng ríu rít đằng trước họ.

    "Lạy Chúa", giọng nói the thé của Tad lại vang lên. "Tôi ghét chuyện này."

    Thằng cha này tệ thật, cô nghĩ. Mình biết thế vì hắn cứ nói ra mọi điều mà chính mình cũng muốn nói ra.

    Cô ngừng lại. "Chiếu đèn vào đây. Phía trước."

    "Ôi, lạy Chúa tôi..."

    Sachs ngay lập tức hiểu được đám lông mà cô tìm thấy tại hiện trường lần trước là gì. Cô nhớ đến cái nhìn mà Sellitto và Rhyme trao đổi với nhau. Anh ta biết điều đối tượng đã chuẩn bị. Anh ta biết điều này sẽ xảy ra với cô ta - nhưng anh ta vẫn bắt đội ESU phải đợi. Cô lại càng ghét anh ta hơn.

    Trước mặt họ là một cô gái tròn trĩnh nằm vạ vật trên sàn nhà, giữa một vũng máu. Cô ta nhìn về phía ánh sáng bằng ánh mắt đờ đẫn rồi ngất đi. Vừa lúc đó, một con chuột đen khổng lồ - to như một con mèo nhà - bò lên bụng cô ta rồi tiếp tục hướng về phía cổ họng. Nó nhe những chiếc răng bẩn thỉu, chuẩn bị cắn vào cằm cô gái.

    Sachs nhẹ nhàng nâng khẩu Glock cồng kềnh lên, bàn tay trái cô đỡ báng súng. Cô ngắm thật cẩn thận.

    Bắn súng cũng giống như hít thở.

    Hít vào, thở ra. Bóp cò.

    Đó là lần đầu tiên cô bắn kể từ lúc bắt đầu đi làm. Bốn phát. Con chuột khổng lồ đang đứng trên ngực cô gái nổ tung. Cô bắn một con khác ở phía sau trên sàn và một con nữa, trong cơn hoảng loạn nó đã lao về phía Sachs và anh chàng nhân viên y tế. Những con khác lặng lẽ biến mất, như nước thấm xuống cát.

    "Lạy Chúa", anh chàng nhân viên y tế nói. "Cô có thể bắn cả cô ta đấy."

    "Cách ba mươi feet ư?" Sachs nói. "Khó lắm."

    Máy bộ đàm lên tiếng và Haumann hỏi có phải họ bị bắn hay không.

    "Không", Sachs trả lời. "Chỉ bắn vài con chuột thôi."

    "Nghe rõ."

    Cô lấy chiếc đèn pin từ anh chàng nhân viên y tế, chiếu nó xuống thấp và tiến lên phía trước.

    "Ổn rồi", Sachs nói. "Em sẽ ổn thôi."

    Cô gái mở mắt, quay đầu sang hai bên.

    "Bitte, bitte..."

    Trông cô ta rất nhợt nhạt. Đôi mắt xanh của cô ta dán vào mắt Sachs, cứ như cô ta sợ phải nhìn ra chỗ khác. "Bitte, bitte, nàm ơn đi..."

    Cô ta điên dại khóc lóc rồi bắt đầu sụt sùi và run rẩy vì hoảng sợ khi anh chàng nhân viên y tế băng những vết thương cho cô ta.

    Sachs đỡ mái đầu vàng óng, đầy máu của cô gái, nựng nịu: "Em sẽ ổn thôi, em bé, em sẽ ổn thôi..."
    --------------------------------
    1 ATF: Viết tắt của BATF.

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    MƯỜI BỐN

    Trong văn phòng, cao phía trên trung tâm Manhattan, nhìn xuống khu Jersey. Những thứ vớ vẩn trong không khí càng làm cho buổi hoàng hôn trở nên tuyệt đẹp.

    "Ta phải làm."

    "Không thể được."

    "Phải làm", Fred Dellray nhắc lại và nhấp một ngụm cà phê - tệ hơn cả cà phê của nhà hàng mà Scruff và anh ta vừa ngồi cách đây một lúc. "Lấy của họ đi. Họ sẽ chấp nhận."

    "Đây là một vụ của địa phương", đặc vụ FBI, người phó phụ trách văn phòng Manhattan đáp lời. ASAC là một người đàn ông kỹ tính, người không thể hoạt động nằm vùng - vì chỉ cần nhìn thấy anh ta, người ta sẽ nghĩ ngay, ô kìa, đặc vụ FBI.

    "Đây không phải vụ địa phương. Họ coi nó như vụ địa phương thôi. Nhưng đây là một vụ lớn."

    "Chúng ta bị mất tám mươi người vào vụ Liên Hiệp Quốc."

    "Nhưng việc này có liên quan", Dellray nói. "Tôi chắc chắn."

    "Thế thì ta sẽ thông báo cho Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Để mọi người...Thôi nào, đừng có nhìn tôi thế."

    "Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc? Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc? Này, anh có biết từ mâu thuẫn nghĩa là gì không?... Billy, anh đã xem tấm ảnh chưa? Hiện trường vụ án sáng nay ấy? Một cái tay thò lên khỏi mặt đất, ngón tay bị lột hết da? Cái thằng khốn bệnh hoạn đó vẫn còn lang thang ngoài kia."

    "NYPD vẫn tiếp tục cung cấp thông tin cho ta", ASAC nói. "Ta sẽ để Chuyên gia về Hành vi trực điện thoại nếu họ muốn."

    "Lạy Chúa trên Thánh giá thiêng liêng. 'Chuyên gia về Hành vi trực điện thoại'? Ta phải tóm thằng sát nhân ấy, Billy. Bắt hắn đi. Không phải đoán xem hắn định làm trò gì."

    "Nói lại tôi nghe xem đặc tình của anh đã nói gì?"

    Nếu một hòn đá có kẽ nứt thì Dellray sẽ nhận ra và không để nó có cơ hội liền lại. Giờ là lúc tăng hỏa lực: nói về Scruff và Jackie ở Johannesbug hoặc Monrovia và những lời đồn đại trong vụ buôn lậu vũ khí về điều gì đó đang diễn ra tại sân bay New York trong tuần này nên phải tránh xa chỗ đó ra. "Đấy là hắn ta", Dellray nói. "Chắc chắn thế."

    "NYPD đã thành lập nhóm đặc nhiệm."

    "Không phải Đội Chống khủng bố (A-T). Tôi đã gọi điện. Chẳng có người nào trong A-T biết tí gì về chuyện này. Đối với NYPD thì: khách du lịch bị giết có nghĩa là quan hệ công chúng kém. Tôi muốn vụ này, Billy." Sau đó Fred Dellray nói hai từ mà anh ta chưa bao giờ thốt ra trong suốt tám năm làm mật vụ chìm. "Làm ơn."

    "Anh có căn cứ gì không?"

    "Ôi giời, hỏi vớ vẩn", Dellray nói, chỉ tay như một thầy giáo quở trách học sinh. "Xem nào, chúng ta đã có một bộ luật chống khủng bố thật là bảnh. Nhưng nếu anh thấy thế vẫn chưa đủ, chắc anh còn muốn quyền hạn pháp lý? Tôi sẽ cho anh quyền hạn pháp lý. Trọng tội Bang. Bắt cóc. Tôi có thể lý luận rằng thằng khốn ấy lái taxi nên nó có thể ảnh hưởng đến thương mại liên bang. Chúng ta không phải chơi những cái trò ấy chứ, phải không Billy?"

    "Anh chẳng nghe gì cả, Dellray. Tôi có thể trích dẫn Luật Hoa Kỳ ngay khi đang ngủ, cảm ơn anh. Tôi muốn biết nếu chúng ta làm vụ này, chúng ta sẽ nói gì để mọi người hài lòng? Vì anh hãy nhớ rằng, sau khi đối tượng này quậy phá chúng ta phải tiếp tục làm việc với NYPD. Tôi sẽ không đưa đại ca của tôi đi chiến đấu với đại ca của họ mặc dù tôi có thể làm thế. Bất kỳ lúc nào tôi muốn. Lon Sellitto đang điều tra vụ án và anh ta là người tốt."

    "Một tay trung úy?" Dellray khịt mũi nghi ngờ. Anh ta cầm điếu thuốc gắn sau tai đưa lên mũi ngửi.

    "Jim Polling chịu trách nhiệm."

    Dellray ngửa người ra sau, giả vờ hoảng sợ. "Polling? Chàng Adolph Nhí? Cái anh chàng Polling luôn dọa dẫm: Mày có quyền im lặng vì tao sắp đập vỡ mẹ cái đầu mày ra. Anh ta đấy à?"

    ASAC không đáp lại. Anh ta nói: "Sellitto giỏi. Một con người thực sự. Tôi đã làm việc với anh ta trong hai đội đặc nhiệm OC."

    "Tên này đang giết người lung tung và rất có thể hắn ta sẽ mở đường lên trên."

    "Nghĩa là gì?"

    "Trong thành phố có thượng nghị sĩ, có hạ nghị sĩ, có lãnh đạo Nhà nước. Tôi cho rằng hắn ta giết những người vừa rồi chỉ là để thực tập."

    "Anh đã nói chuyện với Chuyên gia về Hành vi mà không cho tôi biết?"

    "Đó là điều tôi đánh hơi thấy." Dellray sờ mũi.

    ASAC thở ra. "Người đưa tin là ai?"

    Dellray không cho rằng Scruff là người đưa tin đáng tin cậy, nghe cứ như trích đoạn trong tiểu thuyết của Dashiell Hammett 1.

    Phần lớn bọn đưa tin đều là những bộ xương, có nghĩa là bọn trộm vặt gầy nhẵng, kinh tởm. Hoàn toàn phù hợp với Scruff.

    "Hắn là đồ mạt rệp", Dellray công nhận. "Nhưng Jackie, anh chàng mà hắn nghe được tin thì rất chắc chắn."

    "Tôi biết anh muốn vụ này, Fred. Tôi hiểu." ASAC nói với một chút thông cảm. Vì anh ta biết chắc chắn đằng sau yêu cầu của Dellray là gì.

    Kể từ khi còn là một cậu bé ở Brooklyn, Dellray đã muốn làm cớm. Kiểu cớm gì không quan trọng, chỉ cần anh ta có thể dành hai mươi tư giờ trong ngày để mà làm cớm. Nhưng ngay sau khi vào cục, anh ta đã tìm được nghề nghiệp đích thực của mình - cớm chìm.

    Cùng với cộng sự thẳng thắn và thiên thần hộ mệnh của mình là Toby Dolittle, Dellray đã đưa nhiều tên tội phạm vào tù với thời gian rất dài - tổng cộng lên tới cả nghìn năm ("Này Toby-o, bọn chúng gọi mình là Đội Thiên Niên Kỷ đấy", có lần anh ta đã tuyên bố với người cộng sự của mình như vậy). Mấu chốt thành công của Dellray là biệt hiệu của anh ta, "Kỳ nhông". Biệt hiệu này được đặt cho anh ta khi chỉ trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ, anh ta đóng giả một tên nghiện say thuốc trong tiệm ma túy tại Harlem và ngay sau đó là một quan chức Haiti trong buổi dạ tiệc tại tòa lãnh sự Panama, với một chiếc băng đỏ vắt chéo qua ngực và giọng nói Haiti không sai biệt tí nào. Họ thường xuyên được điều sang làm việc cho ATF và DEA 2, đôi khi cho cả các sở cảnh sát. Ma túy và vũ khí là chuyên môn của họ, mặc dù thỉnh thoảng họ cũng làm vài vụ buôn lậu.

    Sự mỉa mai của nghề cớm chìm là anh càng giỏi thì anh càng về hưu sớm. Tin đồn sẽ lan truyền, vì thế những ông lớn, những tên tội phạm đáng giá khó bị bịp hơn. Dolittle và Dellray thấy mình không còn làm nhiều ngoài hiện trường nữa mà chuyển sang quản lý đặc tình và mật vụ. Đó chẳng phải là sự lựa chọn hàng đầu của Dellray - chẳng có gì khiến anh ta phấn khích hơn đường phố - đường phố vẫn lôi anh ta khỏi văn phòng thường xuyên hơn tất cả các đặc vụ khác trong Cục. Chưa bao giờ anh ta nghĩ tới chuyện chuyển đổi.

    Cho tới hai năm trước - một buổi sáng tháng Tư ấm áp ở New York. Đúng lúc Dellray chuẩn bị rời văn phòng để bắt chuyến bay ở sân bay La Guardia thì anh ta nhận được cuộc gọi của trợ lý giám đốc Cục từ Washington. FBI là một mớ hỗn độn các thứ bậc và Dellray chẳng hình dung ra vì sao chính ông lớn lại gọi điện. Cho tới khi anh ta nghe thấy giọng nói u sầu của giám đốc điều hành cho biết tin Toby Dolittle cùng trợ lý công tố viên đến từ Manhattan có mặt ở tầng trệt của tòa nhà liên bang Thành phố Oklahoma vào buổi sáng hôm ấy, chuẩn bị cho buổi hỏi cung mà Dellray sẽ đến.

    Ngày hôm sau thi thể của họ được đưa về New York.

    Đó cũng là ngày Dellray nộp lá đơn RFT-2230 đầu tiên của mình đề nghị được thuyên chuyển sang A-T của Cục.

    Với Fred Dellray, người luôn coi thường mọi vấn đề liên quan đến chính trị và triết học, vụ đánh bom này lại là tội ác của mọi tội ác. Anh ta cho rằng lòng tham và sự thác loạn chẳng phải là những thói quen xấu của người Mỹ - này, những thói quen đó được khuyến khích ở khắp mọi nơi, từ Phố Wall cho tới Capital Hill. Và nếu như những kẻ làm ăn bằng lòng tham và sự thác loạn đôi khi vượt quá biên giới của luật pháp thì Dellray sẵn sàng theo họ đến cùng - nhưng anh ta chẳng bao giờ làm việc đó chỉ vì lòng thù hận cá nhân. Còn giết người vì niềm tin của họ - mẹ kiếp, giết cả trẻ con trước khi chúng biết mình tin điều gì - lạy Chúa, đó là nhát dao đâm vào trái tim đất nước. Ngồi một mình trong căn hộ hai phòng thoáng đãng của mình ở Brooklyn sau đám tang của Toby, Dellray có quyết định đó chính là loại tội ác mà anh ta muốn săn đuổi.

    Nhưng không may là tiếng tăm của Kỳ nhông đã vượt trước anh ta. Cớm chìm giỏi nhất của Cục giờ đây là người quản lý tốt nhất của họ, điều hành mật vụ và đặc tình của cả vùng East Coast. Các sếp của anh ta không thể để anh ta chuyển sang một trong những phòng ban yên ả hơn của FBI. Dellray là một truyền thuyết nhỏ hơn, người đã đem đến những vụ thành công lớn nhất mới đây của Cục. Vì vậy, yêu cầu tha thiết của anh ta bị từ chối với sự tiếc nuối lớn.

    ASAC biết rõ về câu chuyện của Dellray, và lúc này anh ta nói rất chân thành: "Fred, tôi ước tôi có thể giúp được anh. Tôi xin lỗi."

    Nhưng trong những lời nói đó, Dellray lại thấy vết nứt đã rộng hơn. Con Kỳ nhông biến màu, nhìn chăm chăm vào ông chủ của mình. Anh ta ước mình vẫn còn chiếc răng vàng giả. Gã đàn ông đầu đường xó chợ Dellray là một thằng cha khó trị, có cái nhìn hung dữ của một tay anh chị. Trong cái nhìn đó chứa đựng một thông điệp mà bất kỳ tên giang hồ nào cũng hiểu ngay tức khắc: Tao đã hầu mày, giờ đến lượt mày hầu tao.

    Cuối cùng thì ASAC cũng ấp úng nịnh bợ: "Chỉ là chúng tôi cần có thứ gì đó?"

    "Thứ gì đó?"

    "Móc", ASAC nói, "chúng tôi cần một cái móc."

    Ý anh ta là một lý do để lôi vụ này ra khỏi NYPD.

    Chính trị, chính trị, chính trị mẹ nó ấy.

    Dellray cúi đầu, nhưng đôi mắt, nâu như xi giày, không rời ASAC một mm. "Billy, sáng nay hắn lóc da tay nạn nhân. Đến tận xương. Rồi chôn sống anh ta."

    Hai tay chống cằm, ASAC chậm rãi nói: "Tôi có một ý. Phó thanh tra NYPD. Tên là Eckert. Anh biết ông ta chứ? Ông ta là bạn tôi."

    Cô gái nằm trên cáng, nhắm mắt, tỉnh táo, nhưng váng vất. Vẫn nhợt nhạt. Ống tiếp đường gắn vào cánh tay. Sau khi được tiếp đường, cô đã suy nghĩ mạch lạc hơn và bình tĩnh đến mức đáng ngạc nhiên, sau mọi chuyện vừa rồi.

    Sachs quay lại những cánh cổng địa ngục và đứng đó nhìn xuống khung cửa màu đen. Cô bấm bộ đàm gọi Lincoln Rhyme. Lần này thì anh ta trả lời.

    "Hiện trường trông thế nào?" Rhyme hỏi một cách tự nhiên.

    Cô trả lời cộc lốc. "Chúng tôi đã đưa cô ấy ra, nếu như anh quan tâm."

    "À, tốt. Cô ta thế nào?"

    "Không ổn."

    "Nhưng còn sống chứ?"

    "Gần chết."

    "Cô tức giận vì bọn chuột, phải không Amelia?"

    Cô không trả lời.

    "Vì tôi không cho người của Bo vào ngay. Cô còn đó không, Amelia?"

    "Tôi ở đây."

    "Có năm yếu tố làm ô nhiễm hiện trường", Rhyme giải thích. Cô nhận thấy anh ta lại chuyển sang cách nói chậm rãi, đầy quyến rũ. "Thời tiết, gia đình nạn nhân, đối tượng, những kẻ săn tìm đồ lưu niệm. Nhưng yếu tố cuối cùng là tệ hại nhất. Cô đoán xem đó là gì?"

    "Nói tôi nghe."

    "Cảnh sát. Nếu tôi để ESU vào, họ có thể phá hủy mọi dấu vết. Giờ thì cô biết cách xử lý hiện trường rồi. Tôi cá là cô giữ mọi thứ trong tình trạng tốt."

    Sachs cần phải nói: "Tôi không nghĩ là cô ấy sẽ hồi phục như xưa sau vụ này. Lũ chuột bò đầy lên người cô ấy."

    "Đúng. Tôi có thể hình dung ra bọn chúng. Đấy là bản chất của chúng mà."

    Bản chất của chúng...

    "Nhưng năm hay mười phút thì có khác biệt gì đâu. Cô ấy..."

    Cách.

    Cô tắt bộ đàm, đi ra chỗ Walsh, anh chàng nhân viên y tế.

    "Tôi muốn phỏng vấn cô ta. Cô ta có quá váng vất không?"

    "Không đến mức thế. Chúng tôi đã gây mê tại chỗ cho cô ấy - để khâu những vết rạch và vết cắn. Khoảng nửa tiếng nữa cô ấy cần thuốc giảm đau."

    Sachs mỉm cười và quỳ xuống cạnh cô gái: "Chào em, em thế nào?"

    Cô gái, béo nhưng rất đẹp, gật đầu.

    "Tôi hỏi em vài câu, được không?"

    "Được. Nàm ơn. Em muốn chị tóm được hắn."

    Sellitto đến và bước thong thả đến chỗ họ. Anh ta mỉm cười với cô gái, người nhìn lại anh ta bằng ánh mắt trống rỗng. Anh ta đưa cho cô ta xem cái thẻ mà cô ta không thèm quan tâm và xưng danh.

    "Cô ổn chứ, thưa cô?"

    Cô gái nhún vai.

    Đổ mồ hôi ròng ròng trong cái nóng oi bức, Sellitto gọi Sachs sang một bên. "Polling đến đây chưa?"

    "Không nhìn thấy anh ta. Có thể anh ta ở nhà Lincoln."

    "Không, tôi vừa gọi điện đến đó. Chắc anh ta phải đến ngay Tòa Thị chính."

    "Có chuyện gì thế?"

    Sellitto hạ giọng, khuôn mặt bềnh bệch của anh ta nhăn nhúm. "Chuyện tệ hại - liên lạc của chúng ta đúng ra phải được mã hóa an toàn. Nhưng bọn nhà báo khốn kiếp không hiểu đã làm thế nào mà giải mã được. Chúng nghe thấy chúng ta không vào ngay để cứu nạn nhân." Anh ta hất đầu về phía cô gái.

    "Ừ. Chúng ta không vào ngay", Sachs cay nghiệt trả lời. "Rhyme bảo ESU chờ tôi đến."

    Viên thám tử cau mày. "Trời ơi, tôi hy vọng họ không ghi lại được câu đó. Ta cần Polling để kiểm soát thiệt hại." Anh ta gật đầu với cô gái. "Cô phỏng vấn cô ta chưa?"

    "Chưa. Tôi vừa bắt đầu." Với một chút tiếc nuối, Sachs bấm nút bộ đàm và nghe giọng nói khẩn cấp của Rhyme.

    "... cô có đấy không? Cái thứ chết tiệt này không..."

    "Tôi đây", Sachs lạnh lùng nói.

    "Có chuyện gì thế?"

    "Nhiễu sóng, chắc thế. Tôi đang ở cùng nạn nhân."

    Cô gái chớp mắt khi nghe cuộc trao đổi và Sachs mỉm cười.

    "Chị không nói chuyện một mình", cô chỉ cái mic. "Trụ sở cảnh sát. Tên em là gì?"

    "Monelle. Monelle Gerger." Cô ta nhìn cánh tay bị cắn xé xủa mình, kéo lớp băng bó và kiểm tra vết thương.

    "Phỏng vấn cô ta nhanh", Rhyme hạ lệnh, "sau đó khám nghiệm hiện trường."

    Lấy tay che mic, cô thì thầm giọng gắt gỏng với Sellitto: "Làm việc với ông này khó chịu quá. Thưa ngài."

    "Đùa với anh ta đi, sĩ quan."

    "Amelia!" Rhyme quát. "Trả lời tôi đi!"

    "Chúng tôi đang phỏng vấn cô ấy, được chưa?" Cô đáp trả.

    Sellitto hỏi: "Cô có thể nói chúng tôi biết điều gì xảy ra được chứ?"

    Monelle bắt đầu nói, một câu chuyện rời rạc về phòng giặt là của khu chung cư tại East Village. Hắn đã nấp đợi cô.

    "Khu chung cư nào?" Sellitto hỏi.

    "Deutsche Haus. Ông biết đấy, ở đó chủ yếu là sinh viên và người nhập cư Đức."

    "Sau đó chuyện gì đã xảy ra?" Sellitto hỏi tiếp. Sachs nhận thấy mặc dù viên thám tử to lớn trông có vẻ thô lỗ hơn, xấu tính hơn Rhyme, nhưng thực ra anh ta lại là người tử tế.

    "Hắn ném tôi vào cốp xe và chở đến đây."

    "Cô có nhìn thấy hắn ta không?"

    Cô gái nhắm mắt lại. Sachs nhắc lại câu hỏi và Monelle nói cô không nhìn thấy; hắn ta đeo chiếc mặt nạ trượt tuyết màu xanh hải quân, đúng như Rhyme đã đoán.

    "Und 3 găng tay."

    "Cô tả lại đôi găng tay đi."

    Màu tối. Cô ta không nhớ chính xác là màu gì.

    "Có điều gì bất thường không? Tên bắc cóc ấy?"

    "Không. Hắn là người da trắng. Em có thể chắc với chị như thế."

    "Cô có nhìn thấy biển số của chiếc taxi không?" Sellitto hỏi.

    "Was 4?" Cô gái hỏi lại bằng tiếng mẹ đẻ.

    "Cô có nhìn thấy..."

    Sachs nhảy dựng lên khi Rhyme cắt ngang. "Das Nummernschild."

    Nghĩ thầm: Thế quái nào mà anh ta biết hết mọi thứ được nhỉ? Cô nhắc lại câu đó, cô gái lắc đầu sau đó hé mắt nhìn. "Ý anh là gì, taxi?"

    "Chẳng phải là hắn lái chiếc Yellow Cab hay sao?"

    "Taxi? Nein. Không. Một chiếc xe bình thường."

    "Nghe thấy không, Lincoln?"

    "Rồi. Anh chàng của chúng ta có chiếc xe khác. Hắn cho cô ta vào cốp xe, có nghĩa đó không phải là xe van hay loại hatchback."

    Sachs nhắc lại câu đó. Cô gái gật đầu. "Giống như chiếc sedan."

    "Cô có ý tưởng gì về chất liệu hay màu sắc không?" Sellitto tiếp tục.

    Monelle trả lời. "Tôi nghĩ là màu sáng. Có thể là màu bạc hay màu xám. Hoặc là, màu gì ý nhỉ? Nâu sáng."

    "Màu be."

    Cô ta gật đầu.

    "Có thể là màu be", Sachs nói thêm hộ Rhyme.

    Sellitto hỏi: "Có gì trong cốp xe không? Bất kỳ thứ gì? Dụng cụ, quần áo, va li?"

    Monelle nói không có gì. Cốp xe trống rỗng.

    Rhyme hỏi. "Trong cốp xe có mùi gì không?"

    Sachs chuyển tiếp câu hỏi.

    "Tôi không biết."

    "Mùi dầu mỡ?"

    "Không. Nó có mùi... sạch sẽ."

    "Thế thì có thể là xe mới", Rhyme đoán.

    Trong một khắc, Monelle bật khóc. Sau đó cô ta lắc đầu. Sachs cầm tay cô ta và cô ta tiếp tục. "Chúng tôi đi rất lâu. Có vẻ như rất lâu."

    "Em làm tốt lắm, em bé ạ", Sachs nói.

    Giọng Rhyme cắt ngang. "Bảo cô ta cởi quần áo ra."

    "Cái gì?"

    "Cởi quần áo cô ta ra."

    "Không đâu."

    "Bảo nhân viên y tế đưa cho cô ta cái áo choàng dài. Ta cần quần áo của cô ấy, Amelia."

    "Nhưng", Sachs thì thầm. "Cô ấy đang khóc."

    "Làm ơn đi", Rhyme khẩn khoản nói. "Quan trọng lắm đấy."

    Sellitto gật đầu và Sachs, môi mím chặt, giải thích cho cô gái chuyện quần áo và thấy ngạc nhiên khi Monelle gật đầu. Hóa ra cô ta cũng đang rất muốn thoát khỏi bộ quần áo đẫm máu. Để cô ta được riêng tư, Sellitto ra chỗ khác nói chuyện với Bo Haumann. Monelle mặc chiếc áo choàng do nhân viên y tế đưa và một thám tử chìm bọc cô ta lại bằng cái áo khoác thể thao của anh ta. Sachs cho chiếc quần bò và cái áo phông vào túi.

    "Tôi lấy được rồi", Sachs nói vào máy bộ đàm.

    "Bây giờ thì cô ta phải cùng đi khám nghiệm hiện trường với cô", Rhyme nói.

    "Cái gì?"

    "Nhưng phải chắc là cô ta đi sau cô. Để cô ta không làm ô nhiễm vật chứng."

    Sachs nhìn người phụ nữ trẻ tuổi đang nằm trên cáng lăn cạnh hai chiếc xe bus EMS.

    "Cô ấy không có khả năng làm việc đó đâu. Hắn đã cắt cô ấy đến tận xương. Cô ấy bị mất máu và bị chuột cắn."

    "Cô ta có đi lại được không?"

    "Có thể. Nhưng anh có biết cô ấy vừa trải qua điều gì không?"

    "Cô ta có thể dẫn cô đi theo đường họ đã đi. Cô ta có thể nói với cô, nơi hắn đã đứng."

    "Cô ấy phải được cấp cứu. Cô ấy mất rất nhiều máu."

    Một chút ngần ngừ. Anh ta nói, vẻ vui mừng: "Hỏi cô ta xem."

    Nhưng sự vui mừng của anh ta đầy giả tạo, điều mà Sachs nghe thấy chỉ là sự nôn nóng. Cô có thể nói Rhyme là người không quen với việc chiều chuộng người khác, là người không phải chiều chuộng người khác. Anh ta là người quen với việc làm theo cách của mình.

    Anh ta dai dẳng: "Chỉ cần đan lưới một lần thôi."

    Chết mẹ anh đi, Lincoln Rhyme.

    "Việc này..."

    "Quan trọng. Cô biết mà."

    Từ đầu dây bên kia chẳng có gì.

    Cô đang nhìn Monelle. Sau đó cô nghe thấy một giọng nói, không, giọng nói của chính cô đang nói với cô gái: "Chị sẽ xuống dưới kia tìm chứng cứ. Em có đi với chị không?"

    Ánh mắt của cô gái đâm sâu vào tim cô. Lệ tuôn trào: "Không, không, không. Em không đi đâu. Bitte nicht, oh, bitte nicht..."

    Sachs gật đầu, nắm chặt tay cô gái. Cô bắt đầu nói vào mic, lên tinh thần để đáp lại phản ứng của anh ta. Nhưng Rhyme làm cô ngạc nhiên khi nói: "Được rồi, Amelia. Thế thì thôi. Chỉ cần hỏi cô ta khi họ đến đó thì chuyện gì xảy ra?"

    Cô gái kể lại cô đã đá hắn như thế nào và chạy vào đường hầm kề bên.

    "Em đá hắn lần nữa", cô nói với một chút hài lòng. "Đánh hắn rơi cả găng tay. Sau đó hắn nổi điên và bóp cổ em. Hắn..."

    "Không đeo găng tay?" Rhyme thốt lên.

    Sachs nhắc lại câu hỏi và Monelle nói: "Vâng."

    "Dấu tay, tuyệt vời!" Rhyme hét, giọng anh ta lạc đi trong mic. "Chuyện ấy xảy ra lúc nào? Cách đây bao lâu?"

    Monelle đoán khoảng tiếng rưỡi trước.

    "Chết tiệt", Rhyme lầm bầm. "Dấu tay trên da chỉ tồn tại khoảng một tiếng hoặc chín mươi phút là cùng. Cô có lấy được dấu tay trên da không, Amelia?"

    "Tôi chưa bao giờ làm."

    "Thế hả. Thế thì giờ cô sẽ làm. Nhưng nhanh lên. Trong va li CS có một cái gói dán nhãn Kromekote. Lấy một cái thẻ ra."

    Cô tìm thấy một chồng thẻ bóng nhoáng, kích thước năm nhân bảy, trông giống giấy ảnh.

    "Có rồi. Tôi có cần phun bụi vào cổ cô ấy không?"

    "Không. Đè cái thẻ, mặt bóng xuống dưới, lên da cô ta, chỗ mà cô ta nghĩ hắn đã chạm vào. Giữ nó khoảng ba giây."

    Sachs làm theo, trong khi đó Monelle nhìn vô định lên trời. Sau đó, theo chỉ thị của Rhyme, cô phun bụi kim loại lên tấm thẻ bằng ống thổi Magna-Brush.

    "Thế nào?" Rhyme sốt ruột hỏi.

    "Không tốt. Có hình dạng của ngón tay, nhưng không thấy vân tay rõ ràng. Tôi vứt nó đi được chứ?"

    "Không bao giờ vứt đi bất kỳ thứ gì từ hiện trường vụ án, Sachs", Rhyme lạnh lùng lên lớp. "Đem nó về, đằng nào tôi cũng muốn xem nó."

    "Có một việc mà em nghĩ là em quên", Monelle nói. "Hắn chạm vào em?"

    Sachs dịu dàng hỏi: "Ý em là hắn quấy rối em. Hiếp dâm?"

    "Không, không. Không theo kiểu tình dục. Hắn chạm vai em, mặt, mông, tai em. Khuỷu tay. Hắn bóp em. Em không hiểu vì sao?"

    "Anh nghe thấy chứ, Lincoln? Hắn chạm vào cô ấy. Nhưng có vẻ việc đó không làm cho hắn được thỏa mãn."

    "Ừ."

    "Und... em quên một việc nữa." Monelle nói. "Hắn nói được tiếng Đức. Không tốt lắm. Giống như hắn có học ở trường. Và hắn gọi em là Hanna."

    "Gọi cô ấy là gì?"

    "Hanna", Sachs nhắc lại vào mic. "Em có biết vì sao không?" Cô hỏi cô gái.

    "Không. Nhưng hắn chỉ gọi em thế thôi. Hắn có vẻ thích gọi cái tên ấy."

    "Anh nghe được chứ, Lincoln."

    "Có, tôi nghe được. Giờ thì khám nghiệm hiện trường. Thời gian đang bị lãng phí đấy."

    Khi Sachs đứng lên, Monelle bất ngờ vươn tay nắm lấy cổ tay cô.

    "Chị... Sachs, chị có phải người Đức không?"

    Cô mỉm cười trả lời. "Lâu lắm rồi. Vài thế hệ trước."

    Monelle gật đầu. Cô ép tay Sachs lên má: "Vielen Dank 6. Cám ơn chị, Sachs. Danke schön 7."/p> --------------------------------
    1 Dashiell Hammet (1894 - 1961): Một nhà văn người Mỹ nổi tiếng với tiểu thuyết trinh thám và truyện ngắn. Ông được coi là cây bút viết truyện thám xuất sắc mọi thời đại.
    2 DEA: Cơ quan phòng chống ma tuý.
    3 Und: Và (tiếng Đức).
    4 Was: Cái gì (tiếng Đức).
    5 Das Nummernschild: Loại xe (tiếng Đức).
    6 Vielen Dark: Cảm ơn nhiều (tiếng Đức).
    7 Danke schön: Cảm ơn (tiếng Đức).

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    MƯỜI LĂM

    Ba cây đèn halogen của ESU bật sáng, chiếu luồng ánh sáng trắng ma quái vào đường hầm tăm tối.

    Đơn độc tại hiện trường, Sachs nhìn xuống sàn trong một khắc. Có gì đó đã thay đổi. Gì vậy?

    Cô lại rút súng, khom người xuống. "Hắn ở đây", cô thầm thì, bước ra sau một cây cột.

    "Cái gì?" Rhyme hỏi.

    "Hắn đã quay lại. Lúc nãy ở đây có mấy con chuột chết, giờ chúng đâu hết rồi."

    Cô nghe tiếng Rhyme cười.

    "Có gì buồn cười vậy?"

    "Không, Amelia. Bạn bè chúng đem xác chúng đi rồi."

    "Bạn bè chúng?"

    "Có một vụ ở Harlem. Một cái xác bị cắt rời, phân rã. Có rất nhiều xương bị giấu trong một vòng tròn lớn xung quanh thân thể. Sọ trong cái trống dầu, ngón chân cái ở dưới đống lá... Nó làm cho cả khu hoảng loạn. Báo chí viết về những người thờ phụng quỷ Sa tăng, những kẻ giết người hàng loạt. Nhưng cuối cùng, thủ phạm là ai, cô biết không?"

    "Chịu", cô căng thẳng nói.

    "Chính là nạn nhân. Đó là một vụ tự tử. Chồn hôi, chuột và sóc đã xử lý thi hài. Như chiến lợi phẩm. Không ai biết vì sao nhưng chúng thích đồ lưu niệm của chúng. Còn bây giờ, cô đang ở đâu?"

    "Phía dưới đoạn đường dốc."

    "Cô thấy gì?"

    "Một đường hầm rộng. Hai đường hầm bên cạnh, hẹp hơn. Trần nhà phẳng, được chống bằng cột gỗ. Các cây cột đều bị mòn và có khía. Sàn nhà bằng bê tông cũ, phủ đầy bụi."





    "Và phân bón?"

    "Trông giống thế. Ở giữa, ngay trước mặt tôi là cây cột mà cô ta bị trói vào."

    "Cửa sổ?"

    "Không có. Cũng không có cửa." Cô nhìn xuyên qua đường hầm rộng, nền nhà biến vào một vũ trụ đen cách hàng nghìn dặm. Cô cảm thấy nanh vuốt của sự thất vọng. "Quá rộng! Diện tích phải khám nghiệm quá rộng."

    "Amelia. Thư giãn đi."

    "Tôi sẽ không tìm được bất cứ thứ gì ở đây."

    "Tôi biết việc này có vẻ quá sức. Nhưng hãy nhớ rằng chỉ có ba loại vật chứng chúng ta quan tâm. Vật thể, vật chất trên cơ thể và ấn tượng. Thế thôi. Nếu cô nghĩ thế thì sẽ bớt nản chí."

    Nói thì dễ.

    "Còn hiện trường cũng không rộng như vẻ bề ngoài. Chỉ cần chú ý vào những nơi họ đi qua. Đến chỗ cây cột đi."

    Sachs đi trên con đường. Mắt nhìn xuống.

    Đèn ESU sáng chói nhưng chúng cũng làm cho những cái bóng lộ rõ hơn, cho thấy vài chỗ tên bắt cóc có thể lẩn trốn. Một cơn lạnh chạy dọc sống lưng cô. Đừng rời xa, Lincoln, cô miễn cưỡng nghĩ. Tôi bực mình, chắc chắn rồi, nhưng tôi muốn nghe thấy anh. Hơi thở hay gì đó.

    Cô dừng lại, chiếu đèn PoliLight lên sàn nhà.

    "Mọi thứ bị quét sạch sẽ rồi à?" Anh ta hỏi.

    "Đúng vậy. Giống như vụ trước."

    Áo giáp siết ngực cô, mặc dù cô đã mặc áo ngực thể thao, áo lót và cũng nóng như bên ngoài, nhưng ở trong này thì không thể chịu đựng được. Da cô nhức nhối và cô cảm thấy thèm được thò tay dưới áo để gãi ghê gớm.

    "Tôi đến chỗ cột rồi."

    "Hút bụi chỗ ấy để tìm dấu vết."

    Sachs bật máy Dustbuster 1. Cô ghét tiếng ồn. Nó át đi tiếng bước chân đến gần, tiếng bóp cò súng, tiếng rút dao. Tự nhiên cô miễn cưỡng nhìn ra sau lưng, một lần, hai lần. Suýt đánh rơi máy hút bụi khi tay cô lần tìm khẩu súng.

    Sachs nhìn vào dấu vết do cơ thể của Monelle để lại trên lớp bụi. Mình là hắn ta. Mình kéo cô ta theo. Cô ta đá mình. Mình vấp...

    Monelle chỉ có thể đá theo một hướng, ngược với phía đường dốc. Đối tượng không bị ngã, cô ta nói thế. Có nghĩa là hắn đã tiếp đất bằng chân. Sachs bước sâu vào bóng tối khoảng một, hai thước.

    "Trúng rồi!" Sachs hô lên.

    "Gì thế? Nói tôi nghe?"

    "Dấu chân. Hắn bỏ qua một chỗ không quét."

    "Không phải dấu chân của cô ta chứ?"

    "Không. Cô ấy đi giày chạy. Còn đây là loại giày đế phẳng. Giống như giày dạ hội. Hai dấu giày rất rõ. Chúng ta sẽ biết hắn đi giày cỡ nào."

    "Không, dấu giày không nói với ta về cỡ chân. Đế giày có thể to hay bé hơn phần trên. Nhưng nó vẫn có thể nói với ta điều gì đó. Trong va li CS có máy in tĩnh điện. Đó là một cái hộp nhỏ với một cây đũa bên trên. Sẽ có mấy tờ giấy acetate bên cạnh. Tách giấy ra, đặt acetate lên dấu chân và quét cây đũa lên trên."

    Cô tìm thấy thiết bị đó và in được hai bức hình dấu chân. Thận trọng cho chúng vào một cái phong bì giấy.

    Sachs quay lại chỗ cây cột. "Ở đây có vài cọng từ cái chổi."

    "Từ cái gì?..."

    "Xin lỗi", Sachs nói nhanh. "Ta không biết những cái cọng đó từ đâu rơi ra. Một mẩu cọng rơm. Tôi đang nhặt nó lên và cho nó vào túi."

    Ngày càng sử dụng bút chì thành thạo hơn. Này, Lincoln, đồ khốn nạn, có biết ta sẽ làm gì để ăn mừng ngày xa rời vĩnh viễn hiện trường vụ án không? Ta sẽ đi ăn đồ Tàu.

    Những ngọn đèn halogen của ESU không chiếu được trong đường hầm mà Monelle đã chạy vào. Sachs ngừng lại ở ranh giới sáng tối, rồi lao vào trong bóng tối. Chùm sáng của cây đèn quét trên nền nhà phía trước cô.

    "Nói với tôi đi, Amelia."

    "Không nhìn thấy gì nhiều. Hắn quét cả ở đây. Lạy Chúa, hắn đã tính trước mọi điều."

    "Cô nhìn thấy gì?"

    "Chỉ có dấu trên đất."

    Mình chặn cô ta lại. Vật cô ta xuống. Mình phát khùng. Điên cuồng. Mình bóp cổ cô ta...

    Sachs nhìn xuống nền nhà.

    "Có gì đó ở đây này - dấu đầu gối. Khi hắn bóp cổ cô ta chắc chắn là hắn phải kẹp eo cô ta. Dấu đầu gối trái của hắn và hắn bỏ qua không quét."

    "Dùng máy in tĩnh điện đi."

    Cô làm theo, lần này đã nhanh hơn. Đã quen với thiết bị. Khi đang đưa bản in vào phong bì thì có gì đó khiến cô chú ý. Một vết nữa trên đất.

    Cái gì thế nhỉ?

    "Lincoln... Tôi đang nhìn một chỗ ở đây,... có vẻ như cái găng đã bị rơi ở đây. Khi họ đánh nhau."

    Cô bấm đèn PoliLight. Và không thể tin vào mắt mình.

    "Một dấu tay. Tôi có một dấu vân tay!"

    "Sao?" Rhyme ngạc nhiên hỏi. "Không phải của cô ta đấy chứ?"

    "Không, không thể là dấu tay cô ấy. Tôi có thể nhìn thấy bụi chỗ cô ấy nắm. Tay cô ấy lúc nào cũng bị còng. Đây là chỗ hắn nhặt găng tay. Có thể hắn nghĩ hắn đã quét nhưng vẫn bỏ quên mất chỗ đó. Một cái dấu tay, to, đẹp hết ý!"

    "Rắc bụi, chiếu sáng và chụp ảnh cỡ một-một thằng chó ấy đi."

    Cô chỉ cần chụp hai lần là có được tấm hình Polaroid rõ nét. Cô thấy mình như vừa nhặt được tờ một trăm đô la ngoài phố.

    "Hút bụi chỗ đó rồi quay lại chỗ cây cột. Đan lưới đi", anh nói với cô.

    Cô chậm rãi đi tới lui trên sàn nhà. Từng foot một.

    "Nhớ nhìn lên trên", anh ta nhắc cô. "Đã có lần tôi tóm được thủ phạm chỉ nhờ một sợi tóc trên trần nhà. Hắn nạp đạn .357 vào khẩu .38 và phản lực đã thổi một sợi tóc của hắn dính lên phào trần."

    "Tôi đang tìm. Đây là mái ngói. Bẩn thỉu. Chẳng có gì khác. Chẳng có chỗ nào để giấu. Không gờ tường, không khung cửa."

    "Thế còn dấu tích dàn cảnh?" Anh hỏi.

    Tới, lui. Năm phút trôi qua. Sáu, bảy.

    "Có thể lần này hắn không để lại gì", Sachs đề xuất. "Có thể Monelle là nạn nhân cuối cùng."

    "Không", Rhyme nói chắc chắn.

    Sau đó phía sau cây cột, một chớp sáng lọt vào mắt cô.

    "Có gì đấy trong góc... Đúng rồi. Chúng đây rồi."

    "Chụp ảnh trước rồi hãy động vào nó."

    Cô chụp ảnh, sau đó dùng bút chì nhấc lên một búi vải trắng. "Đồ lót phụ nữ. Ướt."

    "Tinh dịch?"

    "Tôi không biết", cô nói. Băn khoăn không hiểu anh ta có bắt cô ngửi không.

    Rhyme ra lệnh. "Thử đèn PoliLight. Protein sẽ phát sáng."

    Cô nhặt cây đèn, bật lên. Chỗ vải tỏa sáng, nhưng chất lỏng thì không.

    "Cho nó vào túi. Túi nhựa. Còn gì nữa?" Anh ta thiết tha hỏi.

    "Một cái lá. Dài, mỏng, một đầu nhọn."

    Nó bị cắt đã lâu, khô và ngả sang màu nâu.

    Cô nghe tiếng Rhyme thở dài thất vọng. "Có khoảng tám nghìn loại cây lá rụng ở Manhattan", anh ta giải thích. "Không có ích mấy. Có gì phía dưới cái lá?"

    Vì sao anh ta lại nghĩ phía dưới có gì?

    Nhưng hóa ra lại có. Một mẩu giấy báo. Một mặt trắng trơn, mặt bên kia in các tuần trăng.

    "Mặt trăng?" Rhyme trầm ngâm. "Có chữ gì không? Thử phun ninhydrin và quét sáng thật nhanh xem sao?"

    Chùm sáng cây đèn PoliLight không phát hiện được gì.

    "Tất cả chỉ có vậy."

    Một khắc im lặng. "Những manh mối đó được đặt trên cái gì?"

    "Ồ. Tôi không biết."

    "Cô phải biết."

    "À, trên nền nhà", cô trả lời thăm dò. "Bụi bặm." Chúng còn được đặt trên cái gì nữa nhỉ?

    "Có giống bụi quanh đấy không?"

    "Có." Sau đó cô nhìn kỹ hơn. Khỉ thật, có khác. "À, không hẳn thế. Nó khác màu."

    Anh ta lúc nào cũng đúng.

    Rhyme ra lệnh: "Cho vào túi. Túi giấy."

    Khi cô đang xúc lên. Anh ta nói: "Amelia?"

    "Sao?"

    "Hắn không ở đấy đâu", Rhyme nói chắc chắn.

    "Tôi đoán thế."

    "Tôi nghe thấy có gì đó trong giọng cô."

    "Tôi ổn", cô nói ngắn gọn. "Tôi đang ngửi không khí. Tôi ngửi thấy mùi máu. Mùi mốc và nấm. Và cả mùi nước hoa dùng sau khi cạo râu."

    "Giống lần trước?"

    "Đúng thế."

    "Đến từ đâu?"

    Vừa ngửi không khí, Sachs vừa đi theo hình xoắn ốc, lại là Maypole, cho tới khi cô đi đến một cây cột gỗ khác.

    "Ở đây. Đúng là chỗ này có mùi rõ nhất."

    "Chỗ này là cái gì, Amelia. Cô vừa là chân, vừa là mắt của tôi. Cô nhớ chứ?"

    "Một trong những cái cột gỗ ấy. Như cái cột mà cô ấy bị trói vào. Cách đó khoảng mười lăm feet."

    "Có thể hắn đã dựa vào đấy. Có dấu tay, dấu chân gì không?"

    Cô phun ninhydrin lên đó và chiếu sáng.

    "Không. Nhưng mùi rất mạnh."

    "Lấy một mẫu từ cái cột, chỗ có mùi mạnh nhất. Có cái MotoTool trong vali. Màu đen. Một cái khoan tay. Hãy dùng mũi khoan lấy mẫu - giống như mũi khoan lỗ - và gắn nó vào máy khoan. Có một thứ gọi là cái bàn cặp. Đó là..."

    "Tôi có một cái máy khoan bàn", cô nói cộc lốc.

    "Ồ", Rhyme nói.

    Cô khoan ra một mẫu cột gỗ, sau đó lau mồ hôi trán. "Cho nó vào túi nhựa?" Cô hỏi. Anh ta đồng ý. Cô cảm thấy choáng váng, cúi đầu xuống để lấy hơi. Trong này chẳng có tí không khí nào cả.

    "Còn gì nữa không?" Rhyme hỏi.

    "Không còn gì mà tôi có thể nhìn được."

    "Tôi tự hào vì cô, Amelia. Hãy đem kho báu của cô về đây nào."
    --------------------------------
    1 Dustbuster: Tên một loại máy bút hụi cầm tay.

  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    MƯỜI SÁU

    "Cẩn thận tí chứ", Rhyme quát.

    "Tôi là chuyên gia cơ mà."

    "Mới hay cũ đấy?"

    "Suỵt", Thom nói.

    "Ôi trời, vì Chúa. Lưỡi dao cạo, mới hay cũ đấy?"

    "Đừng thở... À, đây rồi. Nhẵn như mông em bé."

    Họ không khám nghiệm mà trang điểm.

    Thom đang cạo râu cho Rhyme, lần đầu tiên trong tuần. Anh ta cũng gội đầu và chải tóc ngược ra sau cho Rhyme.

    Nửa tiếng trước, trong khi đợi Sachs vá chứng cứ trở về, Rhyme đã bảo Cooper ra khỏi phòng khi Thom khéo léo dùng K-Y thông đường tiểu cho anh và nối lại ống. Sau khi xong việc, Thom nhìn anh và nói: "Trông anh tệ lắm. Anh có thấy thế không?"

    "Tôi không quan tâm. Sao tôi lại phải quan tâm chứ?"

    Bất ngờ phát hiện ra anh có quan tâm.

    "Cạo râu, được không?" Chành thanh niên hỏi.

    "Ta không có thời gian."

    Sự quan ngại thực sự của Rhyme là nếu bác sĩ Berger thấy anh chỉnh tề quá, có thể ông ta sẽ không muốn tiếp tục vụ tự tử. Một bệnh nhân nhếch nhác là bệnh nhân đã nản lòng.

    "Và tắm rửa nữa."

    "Không."

    "Lincoln, chúng ta đang có khách đấy."

    Cuối cùng thì Rhyme cũng càu nhàu: "Được rồi."

    "Và thay luôn bộ pyjama chứ? Anh thấy thế nào?"

    "Có gì không ổn đâu?"

    Lúc này, sau khi được tắm rửa, mặc quần bò và áo sơ mi trắng, Rhyme lảng tránh cái gương người trợ lý đang giơ trước mặt anh.

    "Cất nó đi."

    "Tốt hơn rất nhiều."

    Lincoln Rhyme nhạo báng khịt mũi. "Tôi sẽ đi dạo một chút trước khi họ đến", anh tuyên bố và ngả đầu lên gối. Mel Cooper quay sang nhìn anh với vẻ mặt khó hiểu.

    "Trong đầu anh ấy", Thom giải thích.

    "Đầu anh?"

    "Tôi tưởng tượng", Rhyme tiếp.

    "Một trò ảo thuật",Cooper nói.

    "Tôi có thể đi qua bất cứ khu vực lân cận nào tôi muốn mà không bao giờ bị trấn lột. Leo núi nhưng không bao giờ mệt. Trèo núi nếu tôi muốn. Đi bát phố trên Đại lộ Năm. Tất nhiên là những thứ tôi nhìn thấy chưa chắc đã có ở đó. Nhưng thế thì đã sao? Sao trên trời cũng thế mà."

    "Như thế nào?" Cooper hỏi.

    "Ánh sáng của các vì sao mà ta đang nhìn thấy có tuổi thọ hàng nghìn hay hàng triệu năm. Khi chúng đến được Trái Đất thì những ngôi sao đã dịch chuyển. Chúng không còn ở chỗ mà ta nhìn thấy chúng nữa." Rhyme thở dài vì cơn mệt mỏi lan tỏa khắp người. "Tôi cho rằng trong số chúng có cả những vì sao đã cháy hết và biến mất." Anh nhắm mắt.

    "Hắn làm mọi thứ khó khăn hơn đây."

    "Không nhất thiết", Rhyme trả lời Lon Sellitto.

    Sellitto, Banks và Sachs vừa từ hiện trường trại chăn nuôi trở về.

    "Đồ lót, mặt trăng và cây cối", Jerry Banks bi quan nhưng vui vẻ nói. "Chính xác là bản đồ đường đi."

    "Cả bụi bẩn nữa", Rhyme nhắc, anh luôn coi trọng bùn đất.

    "Anh có ý tưởng gì về ý nghĩa của chúng không?" Sellitto hỏi.

    "Vẫn chưa", Rhyme nói.

    "Polling đâu nhỉ?" Sellitto lẩm bẩm. "Anh ta vẫn chưa trả lời tin nhắn."

    "Không thấy anh ta đâu", Rhyme nói.

    Một bóng người xuất hiện trên ô cửa.

    "Vẫn sống và hít thở", một giọng nam trung mượt mà vang lên.

    Rhyme gật đầu ra hiệu cho một người đàn ông lênh khênh vào phòng. Trông anh ta có vẻ ủ rũ, nhưng khuôn mặt gầy guộc của anh ta nở một nụ cười ấm áp, trông có vẻ không hợp cảnh. Terry Dobyns là đại diện tiêu biểu của Phòng Khoa học Hành vi của NYPD. Anh ta học cùng với các nhà hành vi học của FBI ở Quantico, có bằng tâm lý học và khoa học pháp y.

    Nhà tâm lý học này yêu opera và bóng bầu dục. Khi Lincoln Rhyme tỉnh dậy trong bệnh viện ba năm rưỡi trước đây, Dobyns ngồi cạnh anh, nghe vở Aïda trên máy Walkman. Anh ta dành ba giờ sau đó để thực hiện phiên tư vấn đầu tiên trong rất nhiều phiên tư vấn về chấn thương của Rhyme.

    "Giờ thì tại sao tôi lại nhớ đến cuốn sách nói về những người không trả lời điện thoại?"

    "Để sau hãy phân tích tôi, Terry. Cậu đã nghe về đối tượng của chúng ta rồi chứ?"

    "Một chút", Dobyns nói, quan sát Rhyme. Anh ta không phải bác sĩ nhưng anh ta hiểu về cơ thể học. "Cậu ổn chứ, Lincoln? Trông hơi xanh xao đấy."

    "Hôm nay tôi có chỉnh trang chút", Rhyme thừa nhận. "Tôi có ngủ trưa. Cậu biết tôi lười thế nào rồi chứ."

    "Ừ, rồi. Cậu là người gọi tôi dậy vào lúc ba giờ sáng để hỏi vài câu về tội phạm và không hiểu vì sao tôi lại ở trên giường. Có chuyện gì thế? Cậu đang tìm hồ sơ à?"

    "Bất kỳ thứ gì cậu có thể nói với chúng tôi đều có ích."

    Sellitto tóm tắt tình hình cho Dobyns, người mà theo ký ức của Rhyme hồi còn làm việc cùng nhau, không bao giờ ghi chép nhưng vẫn nhớ được mọi thứ trong cái đầu tóc đỏ sậm của anh ta.

    Nhà tâm lý học đi đến trước bản sơ đồ treo trên tường, thỉnh thoảng liếc nhìn nó trong khi lắng nghe viên thám tử nói.

    Anh ta giơ một ngón tay lên chặn Sellitto. "Nạn nhân, nạn nhân... Tất cả bọn họ đều được phát hiện dưới lòng đất. Bị chôn, trong tầng hầm, trong đường hầm của trại chăn nuôi."

    "Đúng thế", Rhyme khẳng định.

    "Tiếp đi."

    Sellitto tiếp tục nói về vụ giải cứu Monelle Gerger.

    "Tốt, được rồi", Dobyns nói một các trống rỗng. Sau đó ngừng, rồi quay lại nhìn sơ đồ trên tường lần nữa. Anh ta giạng chân, tay chống nạnh, nhìn chăm chăm vào những thông số rời rạc về Đối tượng 832. "Nói tôi nghe suy nghĩ của anh đi, về việc hắn thích những cổ xưa ấy."

    "Tôi không biết điều đó có đem lại gì không. Cho tới nay thì những manh mối về hắn đều có liên quan đến New York lịch sử. Vật liệu xây dựng từ hồi đầu thế kỷ, trại chăn nuôi, hệ thống hơi nước."

    Bất ngờ Dobyns tiến lên và gõ vào tờ giấy. "Hanna. Nói tôi nghe về Hanna."

    "Amelia?" Rhyme hỏi.

    Cô nói với Dobyns việc đối tượng đã gọi Monelle Gerger là Hanna mà không có một lý do rõ ràng nào cả. "Cô ấy nói hắn thích gọi cái tên đó. Và nói với cô ấy bằng tiếng Đức."

    "Và hắn cũng tranh thủ sờ soạng cô ta, đúng không?" Dobyns nhận xét. "Taxi, sân bay - an toàn đối với hắn. Nhưng nấp trong phòng giặt là... Hắn ta chắc chắn phải có động lực thực sự để bắt một người Đức."

    Dobyns xoáy một búi tóc rối bù quanh ngón tay, ngồi phịch xuống một cái ghế mây và duỗi chân trước mặt.

    "Được rồi, thử cái này xem. Dưới lòng đất... đó là chìa khóa. Nó nói với tôi rằng hắn là người đang giấu giếm điều gì đó và khi tôi nghe điều này tôi bắt đầu nghĩ đến chứng loạn thần kinh."

    "Hắn ta không có vẻ cuồng loạn", Sellitto nói. "Hắn cực kỳ bình tĩnh và tính toán."

    "Không phải chứng loạn thần kinh theo nghĩa ấy. Đây là một kiểu rối loạn tâm lý. Triệu chứng biểu hiện khi có một chấn thương xảy ra trong cuộc đời bệnh nhân và vô thức chuyển đổi chấn thương này thành một thứ khác. Đó là một cố gắng bảo vệ bệnh nhân. Với việc chuyển đổi truyền thống của chứng cuồng loạn, anh sẽ thấy những triệu chứng bệnh lý - buồn nôn, đau đớn, liệt. Nhưng tôi nghĩ ở đây chúng ta đang xử lý vấn đề có liên quan. Sự phân tách - đó là tên chúng tôi gọi khi phản ứng của chấn thương ảnh hưởng đến tư duy chứ không phải thể xác. Chứng quên cuồng loạn, các trạng thái điên, bỏ nhà lang thang. Đa nhân cách."

    "Jekyll và Hyde 1?" Mel Cooper vờ là một gã đồng tính, đấm Banks.

    "À, tôi không nghĩ hắn thực sự có bệnh đa nhân cách", Dobyns nói tiếp. "Đây là một triệu chứng rất hiếm thấy. Những trường hợp đa nhân cách truyền thống thường là người trẻ tuổi và có chỉ số IQ thấp hơn anh chàng của các cậu." Anh ta hất đầu về phía tấm áp phích hồ sơ trên tường. "Hắn ta khéo léo và thông minh. Một kẻ tấn công rõ ràng và có tổ chức." Dobyns nhìn ra ngoài cửa sổ một lát. "Thú vị thật đấy, Lincoln. Tôi nghĩ đối tượng của cậu khoác lên mình một nhân cách khác khi nó phù hợp với hắn ta - khi hắn ta muốn giết người - và đó là điều rất quan trọng."

    "Vì sao?"

    "Hai lý do. Thứ nhất, điều đó nói cho ta vài điều về nhân cách chính của hắn. Hắn là một người được đào tạo - có thể trong công việc, có thể khi đi học - để giúp người khác, không phải làm họ tổn thương. Một thầy tu, một luật sư, chính trị gia, nhân viên hoạt động xã hội. Thứ hai, tôi nghĩ điều đó có nghĩa là hắn đã tìm được cho mình một bản đồ chi tiết. Nếu các anh tìm ra nó là gì, có thể các anh sẽ tìm được manh mối dẫn tới hắn."

    "Bản đồ chi tiết kiểu gì?"

    "Có thể hắn đã muốn giết chóc từ lâu rồi. Nhưng hắn không hành động cho tới khi hắn tìm cho mình một hình mẫu. Có thể là một cuốn sách hay bộ phim. Hoặc ai đó hắn biết. Nếu đó là người mà hắn có thể bị đánh đồng cùng, ai đó mà tội ác của họ đã cấp cho hắn giấy phép giết chóc. Còn chỗ này thì tôi thấy có vẻ hơi khập khiễng..."

    "Tiếp đi", Rhyme nói: "Tiếp đi."

    "Sự đam mê đối với lịch sử của hắn nói với tôi rằng nhân vật của hắn là ai đó trong quá khứ."

    "Đời thực?"

    "Tôi không chắc. Có thể là tưởng tượng, có thể không phải. Hanna, bất kể cô ta là ai, phải là một nhân vật trong một câu chuyện đâu đó. Cả ở Đức. Hay là người Mỹ gốc Đức."

    "Cậu có biết điều gì đó có thể làm hắn ra như vậy?"

    "Freud nói đó là - còn gì được nữa? - xung đột tình dục trong giai đoạn Oedip 2. Ngày nay, mọi người nhất trí rằng sự vấp váp mang tính phát triển chỉ là một trong những nguyên nhân - bất kỳ chấn thương nào cũng có thể dẫn đến điều đó. Và nó không nhất thiết chỉ là một sự kiện duy nhất. Có thể là nứt vỡ nhân cách, một loạt thất vọng về cuộc sống cá nhân hay sự nghiệp. Khó nói." Mắt anh ta chăm chú nhìn hồ sơ. "Nhưng tôi rất hy vọng cậu sẽ tóm được hắn, Lincoln. Tôi rất muốn được làm việc với hắn trong mấy tiếng đồng hồ."

    "Thom, cậu ghi lại cả chưa?"

    "Rồi, bwana."

    "Nhưng có một câu hỏi", Rhyme bắt đầu.

    Dobyns ngoảnh lại. "Tôi sẽ nói đấy chính là câu hỏi, Lincoln: Vì sao hắn để lại manh mối, đúng thế không?"

    "Đúng vậy. Tại sao?"

    "Nghĩ xem hắn đã làm gì... Hắn đang nói chuyện với cậu. Không dông dài, rời rạc như Con trai của Sam hay sát thủ Zodiac 3. Hắn không bị tâm thần phân liệt. Hắn đang giao tiếp - bằng ngôn ngữ của cậu. Ngôn ngữ pháp y. Vì sao?" Đi đi lại lại, mắt anh ta nhìn lên tấm áp phích. "Tất cả những gì tôi có thể đoán lúc này là hắn muốn chia sẻ tội lỗi. Giết chóc đối với hắn rất khó khăn. Sẽ dễ dàng hơn nếu hắn lôi chúng ta vào. Nếu chúng ta không cứu được nạn nhân thì họ chết, một phần là do lỗi của chúng ta."

    "Nhưng thế thì tốt, đúng không?" Rhyme hỏi. "Thế có nghĩa là hắn sẽ tiếp tục cho chúng ta những manh mối có thể giải đoán. Nếu không, nếu câu đó quá khó, hắn sẽ không chia sẻ được gánh nặng."

    "Ừ, đúng vậy", Dobyns nói, nụ cười đã tắt. "Nhưng vẫn còn những yếu tố khác nữa."

    Sellitto đưa ra câu trả lời: "Tăng cường hoạt động liên tục."

    "Đúng thế", Dobyns khẳng định.

    "Làm sao hắn có thể tấn công thường xuyên hơn được?" Banks lẩm bẩm. "Ba giờ một lần chưa đủ nhanh hay sao?"

    "Hắn sẽ tìm được cách", nhà tâm lý học nói tiếp. "Chủ yếu là hắn sẽ nhắm tới nhiều nạn nhân." Đôi mắt nhà tâm lý học nheo lại. "Thế nào Lincoln, cậu ổn chứ?"

    Trán nhà hình sự học lấm tấm mồ hôi, anh ta liếc mắt nhìn. "Mệt. Quá nhiều điều phấn khích trong một ngày cho một kẻ tàn tật già nua."

    "Một điều cuối cùng. Hồ sơ của nạn nhân rất quan trọng trong tội ác hàng loạt. Nhưng ở đây chúng ta gặp các giới tính, tuổi tác, và tấng lớp kinh tế khác nhau. Tất cả đều da trắng nhưng hắn chủ yếu đi săn trong ao da trắng nên điều này không có ý nghĩa nhiều về mặt thống kê. Với những gì ta đã biết, ta không thể lần ra được vì sao hắn lại chọn những người này. Nếu cậu có thể lần ra, cậu sẽ đi trước hắn."

    "Cám ơn, Terry", Rhyme nói. "Ở lại một lúc nữa nhé."

    "Được thôi, Lincoln. Nếu cậu muốn."

    Sau đó Rhyme hạ lệnh. "Hãy xem vật chứng từ hiện trường trại chăn nuôi. Chúng ta có gì nhỉ? Đồ lót?"

    Mel Cooper gom những cái túi do Sachs đem về từ hiện trường. Anh ta nhìn một cái túi đựng đồ lót. "Loại D'Amore của hãng thời trang Katrina", anh ta tuyên bố. "Bông một trăm phần trăm, dây chun. Vải dệt tại Mỹ. Cắt và may tại Đài Loan."

    "Chỉ cần nhìn mà anh đã biết ngay ư?" Sachs ngạc nhiên hỏi.

    "Không, tôi đọc thôi", anh ta trả lời, chỉ vào cái mác.

    "Ồ..."

    Mấy viên cảnh sát cười rộ.

    "Có thể hắn nói với chúng ta rằng, hắn đã bắt được một người phụ nữ khác chăng?" Sachs hỏi.

    "Có khả năng." Rhyme nói.

    Cooper mở cái túi. "Tôi không biết chất lỏng đó là gì. Tôi sẽ đo sắc ký."

    Rhyme bảo Thom giơ mẩu giấy có tuần trăng lên. Anh thận trọng nghiên cứu nó. Một mẩu giấy như vậy là một bằng chứng xác lập cá thể tuyệt vời. Anh có thể nối nó với tờ báo mà nó bị xé ra và liên kết chứng với nhau chặt chẽ như dấu tay. Tất nhiên vấn đề ở đây là họ không có tờ báo nguyên bản. Anh tự hỏi, không biết họ có thể tìm được nó hay không. Đối tượng có thể hủy nó ngay sau khi hắn xé mẩu giấy. Nhưng Lincoln Rhyme vẫn thiên về ý nghĩ rằng hắn không làm thế. Anh muốn hình dung ra nó ở đâu đó. Đang đợi anh tìm thấy. Theo cách mà anh luôn hình dung ra bằng chứng gốc: một mẩu sơn xe hơi bị cào rớt, một ngón tay bị mất móng, cái nòng súng bắn ra viên đạn súng trường được tìm thấy trong cơ thể nạn nhân. Những nguồn này - luôn ở gần đối tượng - có nhân cách riêng của chúng trong trí óc Rhyme. Chúng có thể hống hách hay độc ác.

    Hay bí hiểm.

    Tuần trăng.

    Rhyme hỏi Dobyns liệu đối tượng của họ có động cơ nào để hắn hoạt động theo chu kỳ hay không.

    "Không. Giờ không phải là lúc trăng tròn. Tới hôm nay mới được bốn ngày."

    "Như thế mặt trăng ở đây có ý nghĩa khác."

    "Có thể ngay từ đầu nó cũng không có nghĩa là mặt trăng", Sachs nói.

    Vui vẻ, mà hoàn toàn có cơ sở, Rhyme nghĩ. Anh nói: "Ý hay đấy, Amelia. Có thể hắn nói về những vòng tròn. Về mực. Về giấy. Về hình học. Hành tinh..."

    Rhyme nhận ta cô đang nhìn anh. Có thể cô vừa nhận thấy anh đã cạo râu và chải tóc, thay quần áo.

    Tâm trạng của cô ta là gì? Anh tự hỏi. Giận anh, hay không quan tâm? Anh không đoán được. Lúc này Amelia cũng bí ẩn như Đối tượng 823.

    Tiếng bíp của máy fax vang lên trong hành lang. Thom ra ngoài và quay lại với hai tờ giấy.

    "Từ Emma Rollins", anh ta nói. Anh ta giơ tờ giấy lên để Rhyme có thể nhìn thấy.

    "Bản khảo sát các cửa hàng thực phẩm của chúng ta. Trong hai ngày qua có mười một cửa hàng ở Manhattan bán chân bê cho những khách hàng mua ít hơn năm món hàng." Anh ta bắt đầu viết lên tờ áp phích, sau đó quay lại nhìn Rhyme: "Tên các cửa hàng?"

    "Tất nhiên rồi. Ta cần nó để sau này còn tham chiếu chéo."

    Thom viết lên bản hồ sơ.

    B'way & 82nd,

    ShopRite

    B'way & 96th,

    Anderson Foods

    Greenwich & Bank,

    ShopRite

    2nd Ave., 72nd-73nd,

    Grocery World

    Battery Park City,

    J&G's Emporium

    1709 2nd Ave.,

    Anderson Foods

    34th & Lex.,

    Food Warehouse

    8th Ave. & 24th,

    ShopRite

    Houston & Lafayette,

    ShopRite

    6th Ave. & Houston,

    J&G's Emporium

    Greenwich & Franklin,

    Grocery World

    "Như thế là cả thành phố còn gì", Sachs nói.

    "Kiên nhẫn", Lincoln Rhyme bồn chồn nói.

    Mel Cooper đang xem xét sợi rơm mà Sachs tìm được. "Chẳng có gì đặc biệt." Anh ta ném nó sang một bên.

    "Nó còn mới không?" Rhyme hỏi. Nếu nó còn mới, họ có thể tham chiếu chéo tới những cửa hàng vừa bán chổi, vừa bán chân bê trong một ngày.

    Nhưng Cooper nói: "Tôi đã nghĩ tới điều này rồi. Khoảng sáu tháng hoặc lâu hơn." Anh ta bắt đầu lắc các bằng chứng dấu vết trong đống quần áo của cô gái Đức xuống một tờ báo.

    "Có mấy thứ ở đây", anh ta nói trong khi soài người trên tờ báo. "Bụi bẩn."

    "Có đủ để phân tích biến thiên mật độ không?"

    "Không. Thực ra chỉ là ít bụi. Có thể là từ hiện trường."

    Cooper xem xét phần còn lại của những thứ mà anh ta chải ra được từ đám quần áo máu me.

    "Bụi gạch. Sao lại lắm gạch thế?"

    "Từ bọn chuột bị tôi bắn. Tường chỗ đó bằng gạch."

    "Cô bắn chúng? Tại hiện trường?" Rhyme cau mày.

    Sachs chống cự: "Vâng, đúng thế. Nhưng chúng bò đầy trên người cô ấy."

    Tức giận, nhưng anh bỏ qua. Chỉ nói: "Đủ các thứ ô nhiễm sinh ra lúc bắn súng. Chì, thạch tín, carbon, bạc..."

    "Đây này... một mẩu da màu đỏ. Từ găng tay. Và... ta có một mẩu sợi. Một mẫu khác."

    Các nhà hình sự học rất thích sợi. Đó là một nhúm sợi nhỏ xíu, rất khó nhìn thấy bằng mắt thường.

    "Tuyệt vời", Rhyme nói. "Còn gì nữa?"

    "Và đây là ảnh hiện trường", Sachs nói, "và dấu tay. Một trên cổ họng cô gái và một ở chỗ hắn nhặt găng tay". Cô giơ chúng lên.

    "Tốt", Rhyme nói và xem xét chúng cẩn thận.

    Trên khuôn mặt cô tỏa sáng ánh hào quang của một chiến thắng miễn cưỡng - một cơn sốt chiến thắng, mặt trái của việc căm thù bản thân vì là một kẻ không chuyên.

    Rhyme đang nghiên cứu tấm ảnh Polaroid thì anh nghe thấy tiếng bước chân trên cầu thang và Jim Polling đến. Anh ta vào phòng ra vẻ ngạc nhiên khi nhìn thấy Lincoln Rhyme được chỉnh trang và bước đến chỗ Sellitto.

    "Tôi vừa ở hiện trường vụ án", anh ta nói. "Các bạn đã cứu được nạn nhân. Làm rất tốt." Anh ta gật đầu về phía Sachs, ra ý là anh ta tính cả cô trong đó. "Nhưng thằng khốn đó lại tóm được người khác rồi à?"

    "Hoặc chuẩn bị tóm", Rhyme lẩm bẩm, vẫn chăm chăm nhìn tấm ảnh.

    "Chúng tôi đang nghiên cứu manh mối", Banks nói.

    "Jim, tôi đang cố tìm anh", Sellitto nói. "Tôi đã thử gọi đến cả văn phòng Thị trưởng."

    "Tôi làm việc với sếp. Phải van lạy để xin thêm vài tay tìm kiếm. Tôi kiếm được thêm năm mươi người nữa từ đội an ninh cho Liên Hiệp Quốc."

    "Đại úy, có vài chuyện ta cần bàn. Chúng ta đang có vấn đề. Điều gì đó xảy ra tại hiện trường cuối cùng..."

    Một giọng nói cho tới lúc này chưa ai nghe thấy vang lên trong phòng. "Vấn đề? Ai có vấn đề? Ở đây chẳng có vấn đề gì cả, đúng không? Không hề có vấn đề nào hết."

    Rhyme nhìn lên, một người đàn ông cao gầy trên ngưỡng cửa. Anh ta đen tuyền, mặc bộ vét nực cười màu xanh lá và đôi giày bóng loáng như hai tấm gương màu nâu. Tim Rhyme chùng xuống. "Dellray."

    "Lincoln Rhyme. Người hùng của New York. Chào Lon. Cả Jim Polling nữa này, công việc thế nào, anh bạn?"

    Phía sau Dellray là nửa tá đàn ông và phụ nữ. Rhyme biết ngay tức khắc vì sao đặc vụ liên bang lại có mặt ở đây. Dellray nhìn lướt những sĩ quan có mặt trong phòng, sự chú ý của anh ta bùng lên một khắc khi thấy Sachs rồi tan biến.

    "Anh muốn gì?" Polling hỏi.

    Dellray nói: "Các vị vẫn chưa thấy sao? Các vị đã bị loại. Chúng tôi đến tiễn chân các vị. Đúng thế, thưa ngài. Đóng cửa ổ đề."

    --------------------------------
    1 Jekyll và Hyde: Hai nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn Louis Stevenson. Nói về sự rối loạn đa nhân cách của con người.
    2 Oedip: Hay còn gọi là Hội chứng Oepidus theo lý thuyết của nhà tâm lý học người Áo Zigmud Freud. Hội chứng này được đặt tên theo tên nhân vật Oedipus trong thần thoại Hy Lạp. Đây là nhân vật đã giết cha mình là Laius, và kết hôn với mẹ mình, Jocasta. Theo lý thuyết này, hội chứng đó thường xuất hiện trong giai đoạn trẻ từ ba đến năm tuổi. Đứa trẻ sẽ cảm thấy ham muốn về giới tính đối với mẹ, là người khác giới và mong muốn cái chết của cha, là người cùng giới.
    3 Zodiac: Tên lóng của những tên giết người hàng loạt nổi tiếng ở Mỹ.

  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    MƯỜI BẲY

    Một người trong chúng ta.

    Đó là cách Dellray nhìn Lincoln Rhyme khi anh ta bước vòng quanh giường. Vài người đã làm thế. Bại liệt là một câu lạc bộ trong đó họ tổ chức dạ hội với chuyện đùa, những cái gật đầu, nháy mắt. Anh biết là tôi mến anh mà, vì tôi sẽ trêu đùa với anh.

    Lincoln Rhyme biết rằng thái độ này sẽ biến mất nhanh chóng.

    "Nhìn này", Dellray vừa nói vừa chỉ Clinitron. "Cảnh trong Star Trek. Chỉ huy Riker, lên tàu ngay."

    "Biến đi, Dellray", Polling nói. "Đây là vụ của chúng tôi."

    "Tình hình bệnh nhân của ta ra sao, bác sĩ Crusher?"

    Viên đại úy tiến lên phía trước, viên đặc vụ FBI cao kều cúi người xuống. "Dellray, anh nghe tôi nói không? Biến đi."

    "Ái chà, Rhyme, tôi sẽ cố kiếm cho mình một cái giường thế này. Nằm xem thế nào cũng không tệ. Nghiêm chỉnh đấy, Lincoln, anh thế nào? Mấy năm rồi còn gì."

    "Họ có gõ cửa không?" Rhyme hỏi Thom.

    "Không, họ chẳng buồn gõ cửa."

    "Các anh không gõ cửa", Rhyme nói. "Thế thì tôi khuyên các anh nên đi ra."

    "Tôi có giấy phép đây", Dellray lẩm bẩm, búng búng vào tờ mớ giấy tờ trong túi áo ngực.

    Móng tay trỏ của Amelia Sachs cậy ngón tay cái của cô tới mức gần bật máu.

    Dellray nhìn quanh phòng. Rõ ràng là anh ta bị ấn tượng bởi phòng thí nghiệm ngẫu hứng của họ nhưng lại nhanh chóng che đậy cảm giác đó. "Xin lỗi. Chúng tôi tiếp quản vụ này."

    Trong hai mươi năm làm cảnh sát, chưa bao giờ Rhyme gặp tình huống tiếp quản bắt buộc như vụ này.





    "Mặc mẹ nó, Dellray", Sellitto bắt đầu. "Anh chuyển vụ này rồi mà."

    Viên đặc vụ quay khuôn mặt đen bóng của mình lại cho tới khi anh ta nhìn xuống viên thám tử.

    "Chuyển? Chuyển? Tôi không hề nghe gì về vụ này. Anh có gọi điện cho tôi không?"

    "Không."

    "Thế thì ai thả xu 1?"

    "Thế thì...", Sellitto ngạc nhiên, liếc nhìn Polling. Anh ta nói: "Các anh có tư vấn. Đó là mọi thứ chúng tôi phải gửi cho anh." Lúc này anh ta cũng đang chống chế.

    "Tư vấn. Được đấy. Này, mà nó được chuyển thế nào nhỉ? Có phải bằng Pony Ex-press 2 không? Hay qua đường bưu điện? Nói tôi nghe, Jim, tư vấn qua đêm thì có ích lợi gì cho một chiến dịch đang triển khai?"

    Polling nói: "Chúng tôi không thấy nhu cầu."

    "Chúng tôi?" Dellray hỏi nhanh. Như một phẫu thuật gia tìm thấy một khối vi u.

    "Tôi thấy không cần thiết", Polling vặc lại. "Tôi nói với ngài Thị trưởng nên giữ vụ này như một vụ của địa phương. Chúng tôi kiểm soát được nó. Giờ thì biến đi, Dellray."

    "Và anh nghĩ anh có thể làm xong nó cho kịp bản tin mười một giờ?"

    Rhyme giật mình khi Polling quát: "Chúng tôi nghĩ gì không phải việc của anh, khốn kiếp. Vụ chết tiệt này là của chúng tôi." Anh biết tính khí nổi tiếng của viên đại úy, nhưng chưa bao giờ được chứng kiến.

    "Thực... ra, bây giờ thì vụ chiết tiệt này là của chúng tôi." Dellray đi ngang qua cái bàn đặt thiết bị của Cooper.

    Rhyme nói: "Đừng làm thế, Fred. Chúng tôi đang nắm được thằng cha này. Hãy làm việc cùng chúng tôi, nhưng đừng lấy vụ này. Đối tượng không giống với bất kỳ kẻ nào anh đã gặp."

    Dellray mỉm cười. "Hãy xem, tin mới nhất mà tôi nghe được từ vụ 'chết tiệt' này là gì? Các anh để một thường dân xét nghiệm pháp y." Viên đặc vụ ném một cái nhìn về phía chiếc giường Clinitron. "Các anh để một cảnh sát tuần tra đi khám nghiệm hiện trường. Các anh bắt quân lính đi mua thực phẩm."

    "Tiêu chuẩn chứng cứ, Frederick", Rhyme nghiêm khắc nhắc nhở. "Đấy là SOP 3."

    Dellray trông có vẻ thất vọng. "Nhưng đó là ESU, Lincoln? Tiền của người nộp thuế cả đấy. Rồi còn cưa người ta ra, cứ như trong Texas Chainsaw 4vậy..."

    Thế quái nào mà tin này lại rò rỉ ra được? Tất cả mọi người đã thề là sẽ bảo vệ bí mật vụ cưa cắt này rồi cơ mà.

    "Rồi tôi còn nghe nói quân của Haumann tìm thấy nạn nhân nhưng không vào cứu cô ta ra ngay, đúng không? Kênh Năm có mic trên đó. Nghe được cô ta kêu gào tới năm phút trước khi các anh cho người vào." Anh ta ném cho Sellitto một cái liếc nhăn nhở. "Lon, bạn tôi, đây có phải là vấn đề mà ta vừa nói đến không?"

    Họ đã đi khá xa, Rhyme nghĩ. Họ đã cảm nhận được hắn, bắt đầu học được ngôn ngữ của hắn. Bắt đầu nhìn thấy hắn. Với một chút ngạc nhiên anh hiểu ra rằng, một lần nữa anh đang làm những gì anh yêu thích. Sau bao nhiêu năm. Nhưng bây giờ có người muốn tước đoạt điều đó từ anh. Cơn giận dữ dâng lên trong anh.

    "Lấy vụ này đi, Fred", Rhyme gầm gừ. "Nhưng đừng gạt chúng tôi ta. Đừng làm thế."

    "Các anh đã mất hai nạn nhân", Dellray nhắc.

    "Chúng tôi chỉ mất một", Sellitto sửa lại. Anh ta nhìn Polling lúc này đang cáu kỉnh. "Chúng tôi chẳng làm gì được với nạn nhân đầu tiên. Anh ta là quân bài đã hạ."

    Dobyns đứng khoanh tay, quan sát cuộc cãi vã. Nhưng Jerry Banks nhảy vào: "Chúng tôi đã nắm được cách thức hoạt động của hắn. Chúng tôi sẽ không để mất thêm ai nữa."

    "Các anh sẽ đánh mất nếu các anh tiếp tực để đội ESU ngồi nghe nạn nhân la hét."

    Sellitto nói: "Đó là..."

    "Quyết định của tôi", Rhyme nói. "Của tôi."

    "Nhưng anh là dân thường, Lincoln. Như vậy, không thể là quyết định của anh được. Đó có thể là gợi ý của anh. Đó có thể là khuyến nghị của anh. Nhưng tôi không nghĩ đó là quyết định của anh."

    Dellray lại chuyển sự chú ý sang Sachs. Mắt nhìn cô, anh ta nói với Rhyme: "Anh bảo Peretti đừng khám nghiệm hiện trường? Thật ngạc nhiên đấy, Lincoln. Sao anh lại làm một điều như thế nhỉ?"

    Rhyme nói: "Tôi giỏi hơn anh ta."

    "Peretti không hài lòng lắm đâu. Không hề. Anh ta và tôi đã nói chuyện với Eckert."

    Eckert? Phòng Truyền thông? Ông ta dính dáng gì ở đây?

    Anh đã hiểu ra khi liếc nhìn Sachs, nhìn vào đôi mắt xanh được bao bọc bởi những lọn tóc đỏ rối bù đang cố tình lảnh tránh ánh mắt anh.

    Rhyme đóng đinh cô bằng một cái nhìn mà cô nhanh chóng lờ đi. Và anh nói với Dellray: "Xem nào... Peretti? Chẳng phải anh ta là người đã cho thông xe qua chỗ đối tượng đứng nhìn nạn nhân đầu tiên của hắn? Chẳng phải anh ta là người giải phóng hiện trường trước khi chúng tôi có cơ hội thu thập được một dấu vết quan trọng nào đó? Hiện trường mà Sachs của tôi ở đây đã nhìn thấy trước là phải chặn đường giao thông. Sachs của tôi đã làm đúng trong khi Vince Peretti và những người khác làm sai hết. Đúng thế, cô ấy đúng."

    Cô nhìn chăm chăm ngón tay cái, cái nhìn cho thấy một cảnh tượng quen thuộc, rồi cho tay vào túi lấy ra một tờ giấy thấm quấn quanh ngón trỏ đẫm máu.

    Dellray tổng kết: "Đáng ra các anh phải gọi cho tôi ngay từ đầu."

    "Cút đi ngay", Polling lầm bầm. Có gì đó xuất hiện trong mắt anh ta và anh ta cao giọng. "Cút ngay khỏi đây!" Anh ta gào lên.

    Một người bình tĩnh như Dellray cũng phải giật mình lùi lại phía sau vì nước bọt bắn ra từ miệng viên đại úy.

    Rhyme nhăn mặt vì Polling. Rất có thể họ sẽ cứu vớt được chút gì trong vụ này, nhưng sẽ hỏng hết nếu Polling lên cơn giận. "Jim..."

    Viên đại úy lờ anh đi. "Cút!" Anh ta quát lên lần nữa. "Các anh không được lấy vụ này!" Mọi người trong phòng đầu giật bắn mình, Polling lao lên, tóm ve áo màu xanh lá của viên đặc vụ FBI rồi dồn anh ta vào tường. Sau một khắc im lặng ngạc nhiên, Dellray đẩy viên đại úy ra, đơn giản chỉ bằng một ngón tay và móc chiếc điện thoại di động. Anh ta đưa nó cho Polling.

    "Gọi cho Thị trưởng. Hay sếp Wilson."

    Polling lùi xa ra khỏi Dellray theo bản năng - người thấp luôn giữ một khoảng cách với người cao. "Nếu anh muốn vụ này, anh có mẹ nó rồi đấy." Viên đại úy bước ra cầu thang và đi xuống. Cửa trước sập mạnh.

    "Lạy chúa, Fred", Sellitto nói, "làm việc với bọn tôi. Chúng ta có thể tóm thằng khốn đó."

    "Chúng ta cần A-T của Cục", Dellray nói, giọng anh ta nghe đầy thuyết phục. "Các anh chưa nhìn từ góc độ khủng bố."

    "Góc độ chống khủng bố nào?" Rhyme hỏi.

    "Hội nghị hòa bình Liên Hiệp Quốc. Đặc tình của tôi nói, có tin đồn rằng có gì đó xảy ra tại sân bay. Chỗ hắn ta tóm nạn nhân."

    "Tôi không cho rằng hắn ta là khủng bố", Dobyns nói. "Bất kể điều gì diễn ra trong con người hắn đều có động cơ tâm lý. Không có vấn đề ý thức hệ."

    "Nhưng, sự thật là Quantico và chúng tôi nghĩ về hắn theo một cách. Tôi đánh giá cao việc các anh nghĩ khác. Nhưng đây là cách chúng tôi xử lý vụ này."

    Rhyme đầu hàng. Sự mệt mỏi làm anh nản chí. Anh ước gì sáng nay Sellitto và viên trợ lý mặt sẹo của anh ta không đến đây. Anh ước gì anh không gặp Amelia Sachs. Anh ước gì anh không mặc cái áo sơ mi bảnh bao ngớ ngẩn này, nó chỉ làm anh thấy nghẹt cổ và tạo ra cảm giác như không có gì dưới nó.

    Anh nhận thấy Dellray đang nói với mình.

    "Xin lỗi?" Rhyme nhướn mày.

    Dellray hỏi: "Ý tôi là, liệu chính trị có thể là động cơ của hắn không?"

    "Tôi không quan tâm tới động cơ", Rhyme trả lời. "Tôi chỉ quan tâm tới chứng cứ."

    Dellray nhìn vào cái bàn của Cooper một lần nữa. "Như vậy vụ này là của chúng tôi. Mọi người nhất trí chứ?"

    "Lựa chọn của chúng tôi là gì?" Sellitto hỏi.

    "Các anh hỗ trợ người tìm kiếm cho chúng tôi. Hoặc các anh có thể dừng hoàn toàn. Tất cả chỉ còn lại có thế. Giờ thì, nếu các anh không phiền, chúng tôi lấy vật chứng được rồi chứ?"

    Banks ngần ngừ.

    "Đưa cho họ đi", Sellitto ra lệnh.

    Viên cảnh sát trẻ tuổi nhặt những cái túi đựng vật chứng thu lượm được từ hiện trường mới đây lên, cho chúng vào trong một cái túi nhựa to. Dellray chìa tay ra. Banks nhìn vào những ngón tay gầy guộc rồi ném cái túi xuống bàn, sau đó đi ra góc xa của căn phòng - phía cảnh sát. Lincoln Rhyme là khu phi quân sự phân cách họ, Amelia Sachs đứng như trời trồng cạnh chân giường của Rhyme.

    Dellray nói với cô: "Sĩ quan Sachs?"

    Sau một khoảng lặng cô trả lời, mắt vẫn nhìn Rhyme: "Có?"

    "Trưởng ban Eckert muốn cô đi cùng chúng tôi để báo cáo về các hiện trường vụ án. Ông ta có nói gì đó về việc cô sẽ bắt đầu công việc mới vào thứ Hai."

    Cô gật đầu.

    Dellray quay lại phía Rhyme và chân thành nói: "Anh đừng lo, Lincoln. Chúng tôi sẽ tóm được hắn. Lần sau anh sẽ được nghe là hắn đã bị bêu đầu ngoài cổng thành phố."

    Anh ta gật đầu ra hiệu cho những cộng sự của mình, họ đang đóng gói vật chứng và đi xuống cầu thang. Từ ngoài hành lang, Dellray gọi Sachs. "Cô đi luôn chứ, sĩ quan?"

    Cô đứng đó, hai tay nắm vào nhau như một cô học trò tại buổi dạ hội mà cô ta thấy hối hận vì đã đến.

    "Tôi đi ngay."

    Dellray biến mất dưới cầu thang.

    "Bọn quái vật", Banks lẩm bẩm, vứt quyển sổ ghi chép của mình xuống bàn. "Không thể tin được, phải không?"

    Sachs đung đưa trên gót chân.

    "Amelia, cô nên đi thì hơn", Rhyme nói. "Xe đang đợi cô."

    "Lincoln." Cô lại gần giường.

    "Được rồi", anh nói. "Cô làm điều cô phải làm."

    "Tôi chẳng có gì liên quan đến khám nghiệm hiện trường", cô buột miệng. "Tôi không bao giờ thích."

    "Và cô sẽ không còn phải làm nữa. Như mong muốn, phải không nào?"

    Cô đã bắt đầu đi ra cửa, nhưng quay lại và thốt lên: "Anh chẳng quan tâm đến cái gì khác ngoài chứng cứ, đúng không?"

    Banks và Sellitto bồn chồn, nhưng Sachs lờ họ đi.

    "Này, Thom, cậu tiễn Amelia, được không?"

    Sachs tiếp tục. "Với anh đây chỉ là trò chơi, đúng không? Monelle...?"

    "Ai?"

    Mắt cô tóe lửa. "Đó. Thấy chưa? Anh còn không nhớ cả tên cô ta. Monelle Gerger. Cô gái trong đường hầm... cô ấy chỉ là một phần trong câu đố của anh. Chuột bọ bò đầy người cô ấy, còn anh nói: 'Đấy là bản chất của chúng? Đấy là bản chất của chúng? Cô ấy sẽ không bao giờ trở lại được như xưa, còn anh thì chỉ quan tâm đến mấy thứ chứng cứ quý báu của anh?"

    "Khi những nhân chứng còn sống", anh lên giọng đều đều, dạy dỗ, "vết cắn của loài gặm nhấm chỉ là những vết thương bề mặt. Ngay khi những con vật đó nhỏ nước dãi vào cô ta là cô ta đã phải tiêm phòng dại. Vậy thì thêm mấy vết cắn nữa cũng có quan trọng không?"

    "Sao anh không hỏi ý kiến cô ấy?" Nụ cười của Sachs lúc này khác đi. Nó trở nên độc địa, như nụ cười của những hộ lý và trợ lý trị liệu, những kẻ căm ghét người tàn tật. Họ lúc nào cũng lượn quanh khu hồi phục chức năng với kiểu cười như vậy. Ừ, đằng nào thì anh cũng không thấy hài lòng với cô Amelia Sachs lịch sự; anh muốn một người nóng tính...

    "Trả lời tôi đi chứ, Rhyme. Thực sự thì vì sao anh lại muốn tôi?

    "Thom, vị khách của chúng ta không còn được chào đón nữa. Cậu làm ơn..."

    "Lincoln", người trợ lý nói.

    "Thom" , Rhyme cáu kỉnh, "tôi đang bảo cậu làm việc đấy".

    "Vì tôi chẳng biết cái con khỉ gì, đúng không?" Sachs buột miệng. "Chính thế đấy! Anh không muốn một kỹ thuật viên CS thực sự vì lúc đó anh sẽ không có quyền. Còn tôi, anh có thể bắt tôi đi ra đây, ra kia. Tôi làm đúng những thứ anh cần, không hề than vãn hay oán trách."

    "À, binh biến...", Rhyme nói, ngước mắt lên trần nhà.

    "Nhưng tôi không phải lính. Ngay từ đầu tôi đã không muốn thế."

    "Tôi cũng không muốn. Nhưng giờ thì ta ở đây. Trên giường với nhau. Ồ, ít nhất là một người trong chúng ta." Anh biết, nụ cười lạnh lùng của anh băng giá gấp nhiều lần nụ cười lạnh lùng nhất của cô.

    "Vì sao, Rhyme, anh chỉ là một đứa trẻ hỗn xược được nuông chiều mà thôi."

    "Này sĩ quan, hết giờ rồi đấy", Sellitto quát.

    Nhưng cô vẫn tiếp tục: "Anh không còn làm công việc khám nghiệm hiện trường được nữa, tôi lấy làm tiếc về điều đó. Nhưng anh đang làm ảnh hưởng tới cuộc điều tra chỉ vì muốn ve vuốt lòng tự ái của mình và tôi nói như thế thật vớ vẩn." Cô vơ lấy chiếc mũ tuần tra và lao ra khỏi phòng.

    Anh nghĩ sẽ có tiếng sập cửa rất mạnh, có thể cả tiếng kính vỡ. Nhưng chỉ có một tiếng va nhẹ, rồi im lặng.

    Khi Jerry Banks nhặt cuốn sổ của mình lên và lần giở nó với vẻ tập trung thái quá, Sellitto nói: "Lincoln, tôi xin lỗi. Tôi..."

    "Không sao", Rhyme nói, ngáp thật dài, hy vọng làm cho trái tim nhức nhối của anh bình ổn. "Hoàn toàn không sao."

    Mấy viên cảnh sát đứng cạnh cái bàn gần như trống trơn trong sự im lặng đáng sợ, sau đó Cooper nói: "Gói ghém đi thôi." Anh ta nhấc hộp kính hiển vi lên bàn, bắt đầu tháo ống ngắm với sự chăm chút của một nhạc công đang tháo cây kèn saxophone của mình.

    "Được rồi, Thom", Rhyme nói. "Mặt trời lặn rồi đấy. Cậu có biết thế nghĩa là gì không? Các quầy bar mở cửa."

    Phòng chiến trận của họ thật ấn tượng. Nó vượt xa phòng ngủ của Rhyme.

    Ba tá đặc vụ, máy tính và bảng điện tử như trong phim của Tom Clancy chiếm nửa tầng trong tòa nhà liên bang. Các đặc vụ trông như luật sư hay nhân viên ngân hàng đầu tư. Sơ mi trắng, cà vạt. Bảnh bao là từ đầu tiên xuất hiện trong đầu. Amelia Sachs đứng giữa phòng, nổi bật trong bộ đồng phục màu xanh hải quân, thấm đầy máu chuột, bụi bẩn và tế bào của đám súc vật đã chết hàng trăm năm.

    Cô đã hết run rẩy vì cuộc cãi vã với Rhyme và mặc dù đầu óc cô quay cuồng với hàng nghìn điều cô muốn nói, ước gì cô đã nói, cô bắt mình tập trung vào những gì đang diễn ra xung quanh.

    Một đặc vụ cao mặc bộ vét xám không chê vào đâu được đang hội ý với Dellray - hai người đàn ông cao lớn, cúi đầu nghiêm nghị. Cô tin rằng anh ta là Thomas Perkins, đặc vụ phụ trách văn phòng Manhattan, nhưng cô không chắc chắn lắm; quan hệ với FBI của một nhân viên Đội Tuần tra cũng không nhiều hơn của nhân viên tạp vụ hay là nhân viên bán bảo hiểm. Anh ta trông có vẻ thiếu hài hước, có năng lực và luôn luôn nhìn lên tấm bản đồ Manhattan to tướng treo trên tường. Perkins gật đầu mấy lần khi Dellray báo cáo với anh ta, sau đó anh ta bước đến chỗ cái bàn gỗ ép, trên đó đầy những cặp tài liệu, nhìn xuống nhóm đặc vụ và bắt đầu nói.

    "Mọi người làm ơn chú ý... Tôi vừa nói chuyện với giám đốc và chưởng lý tại Washington. Tất cả chúng ta đều biết về đối tượng tại sân bay Kennedy. Đây là một hồ sơ không bình thường. Bắt cóc, không có yếu tố tình dục, thường thì đó không phải động cơ giết người hàng loạt. Trên thực tế, đây là đối tượng đầu tiên của loại này mà chúng ta bắt gặp tại Quận Nam. Tính đến khả năng có quan hệ với những sự kiện tại Liên Hiệp Quốc trong tuần này, chúng ta đang phối hợp với trụ sở trung tâm, Quantico và văn phòng Tổng thư ký. Chúng ta được quyền hoàn toàn chủ động trong vụ này. Mức ưu tiên cao nhất."

    SAC nhìn Dellray đang nói: "Chúng ta tiếp quản vụ này từ NYPD nhưng chúng ta sẽ dùng họ làm lực lượng hỗ trợ và nguồn nhân lực. Chúng ta có một sĩ quan hiện trường vụ án tại đây để báo cáo về hiện trường." Ở đây, giọng Dellray khác hẳn. Không còn là ngày Nhặng nữa.

    "Cô đã đăng ký vật chứng chưa?" Perkins hỏi Sachs.

    Sachs thừa nhận cô chưa làm. "Chúng tôi bận cứu nạn nhân."

    Điều này làm SAC khó chịu. Nếu không khi xử án, những vụ ngon ăn thường bị đình trệ vì không đăng ký vật chứng. Đó là điều đầu tiên mà luật sư của tội phạm tóm lấy.

    "Nhớ làm trước khi ra về."

    "Vâng, thưa ngài."

    Vẻ mặt Rhyme thật tệ khi anh ta đoán mình ton hót với Eckert và buộc họ phải đóng cửa. Thật tệ...

    Sachs của tôi nghĩ ra, Sachs của tôi bảo toàn hiện trường...

    Cô lại cậy móng tay. Thôi đi, cô nhủ thầm như cô vẫn thường làm, và lại tiếp tục chọc móng tay vào thịt. Cảm giác đau đớn thật tốt. Đó là điều mà bác sĩ trị liệu không bao giờ hiểu.

    SAC nói: "Đặc vụ Dellray? Anh có thể báo cáo với mọi người cách chúng ta sẽ làm không?"

    Dellray nhìn lướt qua SAC và các đặc vụ khác rồi tiếp tục: "Tại thời điểm này chúng ta có đặc vụ hiện trường đánh tất cả các nhóm khủng bố chính trong thành phố và theo đuổi bất kỳ manh mối nào mà chúng ta có để dẫn chúng ta đến nơi ở của đối tượng. Tất cả CI, tất cả đặc vụ ngầm. Điều đó có nghĩa ta sẽ làm tổn thương một số chiến dịch hiện tại, nhưng chúng tôi quyết định nó xứng đáng với rủi ro."

    "Việc của chúng ta ở đây là phản ứng nhanh. Các anh sẽ được chia thành từng nhóm sáu đặc vụ và sẵn sàng truy đuổi với bất cứ manh mối nào. Các anh phải sẵn sàng cứu con tin và hỗ trợ tấn công chiến lũy."

    "Thưa ngài", Sachs nói.

    Perkins ngẩng lên, nhăn mặt. Rõ ràng không ai có quyền làm gián đoạn buổi báo cáo trước phần hỏi đáp được phép. "Có việc gì thế, sĩ quan?"

    "À, tôi chỉ có chút băn khoăn. Còn nạn nhân thì sao, thưa ngài?"

    "Ai? Cô gái người Đức? Cô nghĩ chúng ta phải thẩm vấn cô ta lần nữa à?"

    "Không, thưa ngài. Ý tôi là nạn nhân tiếp theo."

    Perkins trả lời: "Tất nhiên chúng ta luôn nhận thức được là có thể sẽ có những mục tiêu khác."

    Sachs nói tiếp: "Hắn đã có rồi."

    "Thật không?" SAC liếc nhìn Dellray đang nhún vai. Perkins hỏi Sachs: "Làm sao cô biết?"

    "À, chính xác thì tôi không biết, thưa ngài. Nhưng hắn ta đã để lại manh mối ở hiện trường cuối cùng và hắn sẽ không làm thế nếu hắn không có nạn nhân khác. Hoặc đang chuẩn bị bắt một nạn nhân."

    "Đã ghi nhận, thưa sĩ quan", SAC tiếp tục. "Chúng ta sẽ huy động mức nhanh nhất có thể để bảo đảm không có chuyện gì xảy ra với họ."

    Dellray nói với cô: "Chúng tôi nghĩ rằng tốt nhất ta nên tập trung chủ yếu vào con quái vật."

    "Thám tử Sachs...", Perkins bắt đầu.

    "Tôi không phải thám tử, thưa ngài. Tôi là sĩ quan Đội Tuần tra."

    "Được rồi", SAC tiếp tục, nhìn chồng tài liệu. "Nếu có thể, hãy cho chúng tôi một số điểm chính, sẽ rất hữu ích."

    Ba mươi đặc vụ nhìn cô. Có hai phụ nữ.

    "Cứ nói cho chúng tôi nghe những gì cô nhìn thấy", Dellray nói, cắn một điếu thuốc chưa đốt giữa hai hàm răng tuyệt đẹp.

    Cô đưa cho họ tóm tắt về những lần tìm kiếm của cô tại hiện trường cùng kết luận của Rhyme và Terry Dobyns. Hầu hết các đặc vụ cảm thấy lo lắng về phương thức MO 5 kỳ lạ của đối tượng.

    "Như một trò chơi chết tiệt", một đặc vụ lẩm bẩm.

    Một người hỏi liệu trong những manh mối đó họ có thể giải mã được thông điệp chính trị nào không?

    "Thưa ngài, thực sự chúng tôi không cho rằng hắn là kẻ khủng bố", Sachs khăng khăng.

    Perkins chuyển sự chú ý đặc biệt của mình sang Sachs. "Cho phép tôi hỏi, sĩ quan, cô công nhận là hắn thông minh, đúng không?"

    "Rất thông minh."

    "Hắn có thể bịp hai lần không?"

    "Ý của anh là gì?"

    "Cô... Tôi phải nói rằng NYPD nghĩ hắn là một trường hợp tâm thần. Ý tôi là nhân cách tội phạm. Nhưng có phải hắn đủ thông minh để khiến cô nghĩ thế hay không? Trong khi có thể điều gì khác đang diễn ra."

    "Điều gì?"

    "Manh mối hắn để lại chẳng hạn. Có thể là nghi binh?"

    "Không, thưa ngài. Đó là hướng dẫn", Sachs nói. "Dẫn chúng tôi đến chỗ nạn nhân."

    "Tôi hiểu", Thomas Perkins nhanh trí nói. "Nhưng hắn cũng có thể làm thế để đưa chúng ta ra xa mục tiêu của hắn, đúng không nào?"

    Cô chưa nghĩ tới điều này. "Tôi cho rằng cũng có thể."

    "Sếp Wilson cũng đang cố lấy người từ nhóm phục vụ an ninh cho Liên Hiệp Quốc để làm vụ bắt cóc này. Đối tượng có thể đang làm mọi người bị phân tán để hắn tự do thực thi sứ mạng thực sự của hắn."

    Sachs nhớ lại là trước đây cô cũng có những ý tưởng tương tự khi nhìn thấy những nhân viên tìm kiếm trên Phố Pearl. "Và mục tiêu đó có thể là Liên Hiệp Quốc?"

    "Chúng tôi nghĩ vậy", Dellray nói. "Bọn tội phạm đứng đằng sau vụ đánh bom UNESCO ở London có thể muốn thử lại lần nữa."

    Có nghĩa là Rhyme đang đi theo hướng hoàn toàn sai. Ý nghĩ này làm gánh nặng của cô nhẹ đi đôi chút.

    "Sĩ quan, giờ cô có thể kiểm tra từng chứng cứ cho chúng tôi chứ?"

    Dellray đưa cho cô bảng danh sách mọi thứ cô tìm được và cô đọc từng hạng mục. Khi nói chuyện, cô nhận thấy những hoạt động sôi sục quanh mình - vài đặc vụ nhận điện thoại, một số đứng thì thầm với người khác, số khác ghi chép. Nhưng khi nhìn vào bảng danh sách, cô nói thêm: "Tôi có lấy được một dấu vân tay của hắn tại hiện trường cuối cùng", cô nhận thấy căn phòng tuyệt đối im lặng. Cô nhìn lên. Mọi khuôn mặt trong văn phòng đều nhìn chăm chăm vào cô như một cơn sốc vừa đi qua - nếu như đặc vụ liên bang còn có khả năng bị sốc.

    Cô bất lực nhìn Dellray, anh ta đang ngẩng đầu lên. "Có phải cô bảo cô vớ được một dấu tay?"

    "Vâng, đúng như thế. Hắn bị rơi găng tay khi vật lộn với nạn nhân cuối cùng, khi nhặt lên tay hắn quét xuống sàn."

    "Ở đâu?" Dellray hỏi nhanh.

    "Lạy Chúa", một đặc vụ kêu lên. "Sao cô chẳng nói gì?"

    "À, tôi..."

    "Tìm đi. Tìm nó ngay đi!" Một người khác kêu lên.

    Tiếng xì xầm lan khắp phòng.

    Tay run run, Sachs lục lọi trong cái túi đựng vật chứng và đưa cho Dellray bức hình Polaroid chụp dấu tay. Anh ta giơ nó lên, nhìn thật cẩn thận. Đưa cho một người mà cô đoán là chuyên gia về dấu tay xem. "Tốt", đặc vụ này nói. "Chắc chắn là loại A."

    Cô biết dấu tay được phân thành các loại A, B và C, và phần lớn các cơ quan thực thi pháp luật không chấp nhận loại thấp hơn. Nhưng niềm kêu hãnh của cô về kỹ năng tìm kiếm vật chứng của mình đã bị đập tan bởi sự chê bai mang tính tập thể của họ khi cô đã không nhắc tới điều đó sớm hơn.

    Và mọi thứ bắt đầu nhất loạt diễn ra. Dellray chuyển nó cho một đặc vụ, người này vội chạy đến chỗ một cái máy tính phức tạp ở góc văn phòng và đặt nó lên một bề mặt cong lớn của một cỗ máy có tên gọi Optic-Scan. Một đặc vụ khác bật máy tính và gõ lệnh trong khi Dellray vội vàng nhấc điện thoại. Anh ta sốt ruột giậm chân, và cúi đầu như thể có ai đó ở đầu dây bên kia đang trả lời điện thoại.

    "Ginnie, Dellray đây. Vụ này rất xương đấy, nhưng tôi cần anh cắt tất cả các yêu cầu AFIS 6 từ khu Đông Bắc để làm cái tôi gửi cho anh đây... Tôi có Perkins ở đây. Anh ấy đồng ý rồi, nếu thế chưa đủ tôi sẽ gọi cho người ở Washington... Việc có liên quan đến Liên Hiệp Quốc."

    Sachs biết AFIS được các sở cảnh sát toàn quốc sử dụng. Chính là hệ thống Dellray lúc này đang dừng lại.

    Đặc vụ ngồi máy tính nói: "Quét rồi. Chúng tôi đang gửi đi."

    "Sẽ mất bao lâu?"

    "Mười, mười lăm phút."

    Dellray ép các ngón tay bẩn thỉu vào nhau. "Làm ơn, làm ơn, làm ơn đi."

    Xung quanh cô là một cơn lốc các hoạt động. Sachs nghe những giọng nói về vũ khí, trực thăng, xe hơi, các nhà đàm phán chống khủng bố. Gọi điện thoại, gõ bàn phím, trải bản đồ, kiểm tra súng ngắn.

    Perkins đang nghe điện, nói chuyện với những người giải cứu con tin hoặc Thị trưởng, hoặc Giám đốc. Có thể là tổng thống. Ai biết được? Sachs nói với Dellray: "Tôi không biết là dấu tay lại quan trọng đến thế."

    "Luôn là chuyện lớn. Ít nhất là khi có AFIS. Trước kia ta chỉ lấy dấu tay để diễn. Để nạn nhân và báo giới biết là chúng ta có làm gì đó."

    "Anh đùa a?"

    "Không, không đùa tẹo nào. Ví dụ Thành phố New York. Cô đi tìm khan - tức là khi cô chẳng có đối tượng nào - cô đi tìm khan theo kiểu thủ công, một kỹ thuật viên sẽ mất năm mươi năm để xem hết thẻ dấu tay. Không đùa đâu. Còn tìm tự động? Mười lăm phút. Thường thì cô sẽ nhận dạng được đối tượng với xác suất khoảng một, hai phần trăm. Giờ ta đạt được gần hai mươi, hai mươi hai phần trăm. Ồ, dấu tay quý như vàng đấy. Cô nói cho Rhyme biết chưa?"

    "Anh ta biết, chắc chắn thế."

    "Thế mà anh ta không khua khoắng tất cả mọi người à? Ôi trời ơi, anh chàng này đang trượt dốc."

    "Này, sĩ quan", SAC Perkins gọi, giữ tay trên điện thoại. "Tôi muốn cô điền luôn thẻ đăng ký vật chứng. Tôi muốn chuyển vật chứng cho PERT."

    PERT. Sachs nhớ Lincoln đã từng là người được Cục thuê để làm việc này.

    "Tôi sẽ làm. Chắc chắn rồi."

    "Mallory, Kemple, đưa chỗ vật chứng này đến văn phòng và đưa cho vị khách của chúng ta vài tờ biểu đăng ký vật chứng. Cô có bút không, sĩ quan?"

    "Có."

    Cô đi theo hai sĩ quan sang một văn phòng nhỏ, căng thẳng bấm cây bút bi trong khi họ đi tìm kiếm và quay lại với một xấp biểu đăng ký vật chứng do Cục ban hành. Cô ngồi xuống, mở gói.

    Giọng nói vang lên đằng sau cô là của Dellray phiền muộn. Một nhân cách đang cố gắng bật ra. Trên đường đến đây, ai đó đã gọi anh ta là Kỳ nhông và cô đang dần hiểu ra lý do.

    "Chúng tôi gọi Perkins là Dict Lớn. Không phải là "dick" 7 như cô hiểu đâu. 'Dict' như trong từ điển ấy. Nhưng đừng lo cho anh ta. Anh ta thông minh, hơn thế nữa dây của anh ta có thể giật đến tận Washington, là chỗ cần giật trong những vụ như thế này." Dellray đưa điếu thuốc là lên mũi ngửi, tựa như đó là điếu xì gà hảo hạng. "Cô biết không sĩ quan, cô gian như cáo khi làm điều cô đang làm đấy."

    "Là gì?"

    "Ra khỏi Ban Tội phạm Nguy hiểm. Cô không muốn nó đâu." Khuôn mặt đen đúa gầy gò, bóng nhoáng, chỉ có chút nếp nhăn ở mắt, lần đầu tiên trông có vẻ chân thành kể từ khi cô gặp anh ta. "Việc tốt nhất cô từng làm, là chuyển sang Phòng Quan hệ Công chúng. Ở đó cô sẽ có ích và công việc không biến cô thành bụi. Chắc chắn đấy là điều sẽ xảy ra. Công việc biến cô thành bụi."

    Một trong những nạn nhân cuối cùng chịu sự áp bức điên loạn của James Schneider, chàng trai trẻ tuổi tên là Ortega, đến Manhattan từ Thành phố Mexico, nơi bạo loạn chính trị (cuộc nổi dậy của một kẻ theo thuyết dân túy bắt đầu trước đó một năm) đã làm cho công việc làm ăn trở nên khó khăn. Tuy nhiên, doanh nhân tham vọng này đã biến mất khi tới thành phố chưa được một tuần. Người ta thấy anh ta lần cuối cùng là trước cửa một quán rượu ở khu West Side, các cơ quan chức năng ngay lập tức nghi ngờ rằng anh ta lại là một nạn nhân khác của Schneider. Đáng buồn điều đó lại là sự thực.

    Kẻ Tầm Xương lượn xe trên phố khoảng mười lăm phút quanh Đại học New York, Quảng trường Washington. Rất nhiều người lang thang ngoài phố, nhưng chủ yếu là trẻ con. Sinh viên theo các khóa học hè. Trẻ trượt ván. Không khí vui vẻ, lạ thường. Ca sĩ, nghệ nhân tung hứng, nhào lộn. Những thứ đó làm hắn nhớ đến "bảo tàng" dưới Phố Bowery, rất phổ biến trong những năm 1800. Đó tất nhiên không phải là những bảo tàng mà chỉ là những con đường có mái vòm, ở đó tràn ngập những buổi trình diễn hài kịch tục tĩu, triển lãm quái vật, những tên liều mạng và những người bán dạo bán đủ mọi thứ từ bưu ảnh của Pháp cho tới những mẩu gỗ trên Thánh giá thiêng liêng.

    Hắn ta đi chậm lại hai lần nhưng không có ai cần đi taxi, hoặc đủ tiền để đi taxi. Hắn quay về phía nam.

    Schneider buộc đá vào chân Señor Ortega 8 và lăn anh ta xuống dưới cầu cảng ra sông Hudson để nước và cá sẽ biến cơ thể anh ta thành xương. Thi thể được tìm thấy hai tuần sau khi anh ta biến mất và người ta chẳng có cách nào biết được nạn nhân bất hạnh còn sống hoặc hoàn toàn tỉnh táo khi bị vứt xuống nước hay không. Tuy nhiên, người ta vẫn nghi ngờ như vậy. Vì Schneider đã tàn bạo cắt ngắn dây trói để cho mặt của Señor Ortega chỉ cách mặt nước vài inch - tay anh ta chắc chắn đã điên loạn khua khoắng khi anh ta nhìn tầng không khí cứu tinh bên trên.

    Kẻ Tầm Xương nhìn thấy một chàng thanh niên bệnh hoạn đứng trên vỉa hè. AIDS, hắn nghĩ. Nhưng xương cốt của mày còn mạnh khỏe - và thật hoàn mỹ. Xương cốt của mày sẽ sống mãi... Anh ta không cần đi taxi và khi xe đi ngang qua, Kẻ Tầm Xương thèm thuồng nhìn anh ta qua kính chiếu hậu.

    Hắn quay lại đúng lúc để vòng xe tránh một người đàn ông đứng tuổi vừa bước xuống đường, cánh tay gầy gò của ông ta giơ ra gọi xe. Người đàn ông nhảy lui, nhanh hết mức có thể, và chiếc taxi phanh kít, vượt qua ông ta rồi dừng lại.

    Người đàn ông mở cửa sau xe nghiêng người vào trong. "Anh phải nhìn xem mình đi đâu chứ." Ông ta nói câu này như một lời hướng dẫn. Không chút giận dữ.

    "Xin lỗi", Kẻ Tầm Xương nói, vẻ hối lỗi.

    Người đàn ông đứng tuổi ngần ngừ một chút, nhìn quanh phố nhưng không thấy chiếc taxi nào khác. Ông ta trèo vào xe.

    Cánh cửa đóng sập.

    Nghĩ: già và gầy. Da chắc trượt trên xương như lụa.

    "Đi đâu đấy?" Hắn nói.

    "East Side."

    "Có ngay", hắn nói trong khi trùm chiếc mặt nạ trượt tuyết lên đầu và đánh tay lái sang phải. Chiếc xe lao về phía tây.
    --------------------------------
    1 Thả xu gọi điện (tiếng lóng): ý nói người nào chỉ điểm.
    2 Pony Express: Nói kháy, một dịch vụ bưu chính xa xưa của Mỹ, dùng ngựa Pony để vận chuyển.
    3 SOP: Quy trình làm việc tiêu chuẩn.
    4 Texas Chainsaw: Cưa máy Texas, một bộ phim kinh dị.
    5 MO (viết tắt của Modus Operandi): Hoạt động.
    6 AFIS: Xem phần phụ lục.
    7 Dick: Dương vật.
    8 Señor Ortega: Ngài Ortega.

  9. #18
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    III

    CON GÁI CỚM TUẦN TRA

    Đảo lộn, đảo lộn, đảo lộn! Đó là châm ngôn của New York... Xương cốt của tổ tiên chúng ta không được phép nằm yên trong một phần tư thế kỷ, và một thế hệ con cháu đang cố tình dỡ bỏ tất cả những di vật của những người đi trước.

    PHILIP HONE
    THỊ TRƯỞNG NEW YORK, NHẬT KÝ, 1845



    MƯỜI TÁM

    10:15 PM thứ Bảy đến 5:30 AM Chủ nhật
    "Rót thêm đi, Lon."

    Rhyme uống bằng ống hút, Sellitto uống bằng cốc. Cả hai đều uống whisky không pha. Viên thám tử ngồi trên chiếc ghế mây kêu kin kít và Rhyme cho rằng anh ta trông hơi giống Peter Lorre trong phim Casablanca.

    Terry Dobyns đã về sau khi đưa ra vài nhận định tâm lý gay gắt về bệnh tự yêu bản thân và về những người được chính phủ liên bang thuê mướn, Jerry Banks cũng đã ra về. Mel Cooper đang vất vả tháo và đóng gói thiết bị của anh ta.

    "Này Lincoln, ngon quá." Sellitto nhấp ly whisky Scotch của mình. "Mẹ kiếp, tôi làm gì có tiền mua cái thứ này. Nó bao nhiêu tuổi?"

    "Tôi nghĩ loại này khoảng hai mươi năm."

    Viên thám tử nhìn chất rượu nâu óng. "Quý thật, nếu đây là đàn bà, thì cô ta đã trưởng thành, rồi thì sau đó."

    "Nói tôi nghe một chuyện, Lon. Polling? Cơn điên của anh ta ấy mà. Câu chuyện đó là thế nào nhỉ?"

    "Bé Jimmy?" Sellitto cười. "Giờ thì anh ta đang gặp rắc rối. Anh ta là người can thiệp để loại Peretti ra khỏi vụ này và giữ nó xa tầm tay của FBI. Thực sự là anh ta liều mạng. Anh ta cũng đòi cả anh, việc này tốn chút công sức. Cần phải tác động mấy chỗ. Tôi không phải nói anh. Chỉ là một thường dân trong một vụ nóng thế này."

    "Polling yêu cầu tôi à? Tôi tưởng đấy là sếp."

    "Đúng. Nhưng Polling làm thầy dùi cho ông ta ngay từ đầu. Anh ta gọi ngay khi nghe về vụ bắt cóc và ở hiện trường lại có mấy vật chứng ma."

    Và anh ta muốn có mình? Rhyme băn khoăn. Thật lạ. Rhyme không có liên hệ gì với Polling suốt mấy năm qua - từ vụ giết cảnh sát mà anh bị thương. Polling làm vụ này và cuối cùng cũng tóm được Dan Shepherd.

    "Cậu có vẻ ngạc nhiên", Sellitto nói.

    "Về việc anh ta yêu cầu tôi? Có chứ. Chúng tôi không hợp nhau lắm. Ít nhất là trước đây."

    "Sao lại thế?"

    "Tôi 13-43 1 anh ta."

    Mẫu đơn khiếu nại của NYPD.

    "Năm, sáu năm trước khi anh ta còn là một viên thiếu úy, tôi thấy anh ta thẩm vấn nghi phạm ngay tại hiện trường đã được bảo vệ. Làm nó bị ô nhiễm. Tôi nổi đóa. Cho chuyện này vào báo cáo và nó được trích dẫn trong một lần đánh giá nội bộ của anh ta - lần anh ta bắn nghi phạm không có vũ khí."

    "Thế à, thế thì tôi nghĩ cậu đã được tha thứ, vì anh ta đã rất cần cậu."

    "Lon, làm ơn gọi điện giúp tôi được chứ?"

    "Tất nhiên."

    "Không", Thom vừa nói vừa lấy chiếc điện thoại trên tay viên thám tử. "Cứ để anh ta tự làm."

    "Tôi không có thời gian học sử dụng nó." Rhyme nói, hất đầu về phía thiết bị quay số ECU mà Thom đã nối lúc trước.

    "Anh không dành thời gian. Khác biệt lớn đấy. Anh gọi cho ai?"

    "Berger"

    "Không, anh sẽ không gọi", Thom nói. "Muộn rồi."

    "Tôi đã nhìn đồng hồ", Rhyme lạnh lùng trả lời. "Gọi cho ông ấy. Ông ấy ở One Police Plaza."

    "Không."

    "Tôi bảo cậu gọi cho ống ấy."

    "Đây." Người trợ lý quăng một mẩu giấy xuống cạnh bàn ở xa nhưng Rhyme có thể đọc dễ dàng. Chúa có thể tước của Lincoln Rhyme nhiều thứ, nhưng Ngài đã ban tặng cho anh đôi mắt của một chàng trai. Anh quay số điện thoại bằng cằm và cái cần điều khiển. Dễ hơn anh nghĩ nhưng anh cố tình rình rang và lầm bầm khi làm. Bực mình, Thom lờ anh đi và xuống cầu thang.

    Berger không có nhà. Rhyme bỏ máy, điên tiết vì không thể dập được điện thoại thật mạnh.

    "Có vấn đề à?" Sellitto hỏi.

    "Không", Rhyme càu nhàu.

    Ông ta đâu nhỉ? Rhyme bực mình nghĩ. Muộn rồi. Lúc này Berger phải về phòng khách sạn rồi mới đúng. Rhyme bị châm chọc bởi một cảm giác lạ lùng - ghen tị vì ông bác sĩ tử thần của anh đang giúp người khác được chết.

    Sellitto bất ngờ nhẹ nhàng chép miệng. Rhyme ngước nhìn. Viên cảnh sát đang ăn thanh kẹo. Anh quên mất rằng đồ ăn sẵn là thực đơn chính của anh chàng khổng lồ này khi họ còn làm việc với nhau. "Tôi đang nghĩ. Anh nhớ Bennie Ponzo không?"

    "Đội đặc nhiệm OC, mười năm trước?"

    "Có."

    Rhyme thích làm việc với tội phạm có tổ chức. Bọn này là đội chuyên nghiệp. Hiện trường vụ án đầy thách thức. Nạn nhân cũng hiếm khi vô tội.

    "Ai thế?" Mel Cooper hỏi.

    "Một tay giết thuê từ Bay Ridge", Sellitto nói. "Anh có nhớ sau khi ta tóm hắn, bánh kẹp kẹo."

    Rhyme cười, gật đầu.

    "Chuyện thế nào?" Cooper hỏi.

    Sellitto nói: "Được rồi. Khi đó chúng tôi ở Central Booking. Lincoln, tôi và mấy người nữa. Và Bennie, cậu nhớ không, một anh chàng to lớn, hắn đang ngồi gập cong người, đói meo. Bất ngờ hắn nói: 'Này chúng mày, tao đói. Tao muốn một cái bánh kẹp kẹo.' Chúng tôi nhìn nhau ngơ ngác, rồi tôi hỏi: 'Bánh kẹp kẹo là cái gì?' Hắn nhìn tôi như thể tôi vừa rơi trên Sao Hỏa xuống rồi nói: 'Thế mày nghĩ nó là cái mẹ gì? Mày lấy thanh kẹo Hersey, mày kẹp nó vào giữa hai miếng bánh mì rồi chén. Đấy là bánh kẹp kẹo."

    Họ cười vang. Sellitto đưa thanh kẹo cho Cooper, anh ta lắc đầu, sau đó đưa cho Rhyme. Tự nhiên anh thấy muốn cắn một miếng. Một năm nay rồi anh chưa được ăn chocolate. Anh tránh những thức ăn loại này - đường, kẹo. Những thức ăn rắc rối. Những thứ nhỏ nhặt trong cuộc đời trở thành gánh nặng lớn nhất, những thứ làm anh kiệt sức và đau khổ nhất. Được, anh sẽ chẳng bao giờ còn được đi lặn hay leo núi Alps. Thế thì sao? Bao nhiêu người khác cũng chẳng làm những trò này. Nhưng mọi người đều đánh răng. Và đến nha sĩ, hàn răng, đón tàu về nhà. Mọi người xỉa răng để moi một mẩu lạc giắt trong răng hàm ra khi không ai để ý.

    Tất cả mọi người, trừ Lincoln Rhyme.

    Anh lắc đầu với Sellitto và hút một hơi dài whisky Scotch. Ánh mắt anh quay lại màn hình máy tính, nhớ tới bức thư tạm biệt anh đang viết cho Blaine khi Sellitto và Banks làm anh bị gián đoạn sáng hôm đó. Anh vẫn còn muốn viết thêm một vài bức thư.

    Người mà anh dừng không viết cho nữa là Peter Taylor, chuyên gia cột sống. Phần lớn thời gian, Rhyme và Taylor không nói chuyện về tình hình bệnh nhân mà họ nói về cái chết. Ông bác sĩ này là người phản đối kịch liệt việc chết tự nguyện có trợ giúp. Rhyme thấy anh nợ ông ta một bức thư giải thích vì sao anh quyết định tự tử.

    Và Amelia Sachs?

    Con gái cớm tuần tra cũng sẽ nhận được một lời nhắn, anh quyết định thế.

    Người tàn tật rộng lượng, người tàn tật tử tế, người tàn tật sắt đá...

    Người tàn tật chẳng là gì nếu không tha thứ...

    Amelia thân mến:

    Amelia thân mến của tôi:

    Amelia:

    Sĩ quan Sachs thân mến:

    Vì chúng ta đã có vinh dự được làm việc cùng nhau, tôi muốn nhân dịp này để nói rằng mặc dù tôi coi cô là tên Judas phản bội nhưng tôi đã tha thứ cho cô. Hơn nữa, tôi chúc cô thành công trong sự nghiệp tương lai của cô với tư cách là kẻ hôn đít báo chí...

    "Chuyện của cô ta như thế nào, Lon? Sachs ấy mà."

    "Ngoài việc cô ta có tính cách kinh khủng mà tôi không biết ra?"

    "Cô ta kết hôn chưa?"

    "Không. Khuôn mặt và dáng người như thế thì chắc chắn anh sẽ nghĩ cô ta đã có một anh chàng đẹp giai nào đó rồi. Nhưng cô ta thậm chí còn chưa có người yêu. Chúng tôi nghe nói vài năm trước cô ta có một anh chàng, nhưng chẳng bao giờ cô ta nói đến chuyện đó." Anh ta hạ giọng: "Có tin đồn cô ta là ô môi. Nhưng tôi không biết gì hơn thế - cuộc sống xã hội của tôi chỉ là bắt gái ở hiệu giặt đồ vào tối thứ Bảy. Này, có tác dụng đấy. Tôi còn nói gì được nữa?"

    Cô phải học cách bỏ qua người đã chết...

    Rhyme nghĩ về vẻ mặt cô khi anh nói điều đó với cô. Như thế là thế nào nhỉ? Sau đó anh thấy giận dữ với bản thân vì đã tốn thời gian nghĩ đến cô. Và làm thêm một hớp whisky lớn nữa.

    Chuông cửa reo, sau đó là tiếng chân bước trên cầu thang. Rhyme và Sellitto nhìn ra cửa. Tiếng giày bốt của một người đàn ông cao lớn, mặc quần bó do thành phố cấp và đội chiếc mũ bảo vệ màu xanh dương. Một trong những cảnh sát chọn lọc của NYPD. Anh ta đưa cho Sellitto một chiếc phong bì kềnh càng và quay xuống cầu thang.

    Viên thám tử mở phong bì. "Hãy nhìn chúng ta có gì này." Anh ta đổ những thứ bên trong ra bàn. Rhyme bực dọc ngước lên. Ba hoặc bốn tá túi nhựa đựng chứng cứ, tất cả đều dán nhãn. Những cái túi đựng một mẩu giấy bóng kính từ túi đựng chân bê mà họ đã gửi đội ESU đi mua.

    "Một tin nhắn từ Haumann." Anh ta đọc: "Gửi: L. Rhyme, L. Sellitto. Từ: B. Haumann, TSRF."

    "Cái quái gì thế?" Cooper hỏi. Sở cảnh sát là tổ của các loại chữ viết tắt và rút gọn. RMP - tuần tra di động từ xa, thực ra là xe tuần tra. IED - thiết bị nổ ứng tác, tức là một quả bom. Nhưng TSRF là một chữ viết tắt mới. Rhyme nhún vai.

    Sellitto tiếp tục đọc, vừa đọc vừa chặc lưỡi. "Đội đặc nhiệm chiến thuật siêu thị. Về việc: Chân bê. Lần tìm kiếm toàn thành phố phát hiện được bốn mươi sáu đối tượng, tất cả đều bị bắt và bị vô hiệu hóa với nỗ lực tối thiểu. Chúng tôi đã đọc cho chúng nghe quyền của mình và chuyển chúng đến nơi giam giữ là nhà bếp của mẹ sĩ quan T.P.Giancarlo. Sau khi thẩm vấn, nửa tá nghi phạm sẽ được chuyển cho các anh giám hộ. Đã được đun nóng ba trăm năm mươi độ trong ba mươi phút."

    Rhyme cười. Sau đó thêm một ngụm whisky, thưởng thức mùi vị. Đó là một điều anh sẽ nhớ, hơi thở ám khói của rượu. (Mặc dù trong sự bình yên của giấc ngủ vô cảm, làm thế nào mà ta nhớ được điều gì đó? Giống như chứng cứ, lấy đi tiêu chuẩn tối thiểu, thế là anh chẳng còn gì để đánh giá sự mất mát của mình; anh sẽ mãi mãi an toàn.)

    Cooper xòe mấy mẫu ra. "Bốn mươi sáu mẫu giấy bóng kính. Mỗi chuỗi siêu thị và các cửa hàng độc lập lớn một mẫu."

    Rhyme nhìn các bản mẫu. Những thứ này rất tốt để phân loại. Phân loại đơn lẻ giấy bóng kính có thể là một công việc rất khó khăn - mẩu giấy được tìm thấy trong manh mối xương bê chưa chắc đã trùng với các mẫu giấy này. Tuy nhiên, vì các công ty mẹ thường mua vật tư tương đồng cho các cửa hàng trong chuỗi của họ, anh có thể biết 823 mua thịt bê ở chuỗi nào và thu hẹp được các khu vực sinh sống của hắn. Có thể anh phải gọi nhóm vật chứng của Cục và...

    Không, không. Nên nhớ: bây giờ đấy là vụ chiết tiệt của họ.

    Rhyme ra lệnh cho Cooper: "Gom chúng lại và gửi cho những người anh em liên bang của chúng ta."

    Rhyme định tắt máy tính nhưng ngón tay đôi khi vụng về của anh lại bấm nhầm nút. Loa phóng thanh phát ra một tràng thanh khóc dài ầm ĩ.

    "Mẹ kiếp", Rhyme lầm bầm khó chịu. "Máy móc chết tiệt."

    Không thoải mái với cơn giận bất ngờ của Rhyme, Sellitto liếc nhìn cốc của mình và đùa: "Quỷ thật, Rhyme, rượu ngon thế này chắc phải làm anh say đấy."

    "Tin mới đây", Thom chua chát trả lời. "Anh ta say rồi."

    Hắn đỗ xe gần một đường ống thoát nước khổng lồ.

    Lúc trèo ra khỏi xe, hắn có thể ngửi thấy mùi nước hôi thối, nhầy nhụa, chín nẫu. Họ đang ở trong một ngõ cụt dẫn đến một ống dẫn nước thải rộng chạy từ Xa lộ West Side xuống sông Hudson. Ở đây không ai có thể nhìn thấy họ.

    Kẻ Tầm Xương quay xe lại, tận hưởng cảnh tượng người tù nhân lớn tuổi của hắn. Như hắn đã tận hưởng cảnh tượng cô gái bị hắn trói trước đường ống hơi nước. Và cánh tay lắc lư cạnh đường ray sáng sớm ngày hôm nay.

    Nhìn chăm chăm vào đôi mắt đang hoảng sợ. Người đàn ông này gầy hơn hắn nghĩ. Tóc bạc hơn. Tóc rối bù.

    Cơ thể già nhưng xương cốt trẻ...

    Người đàn ông co rúm tránh xa hắn, hai cánh tay bắt chéo phòng vệ trước bộ ngực lép của ông ta.

    Mở cửa xe, Kẻ Tầm Xương gí súng lục vào xương ngực người đàn ông.

    "Xin ông", tù nhân của hắn thì thầm, giọng ông ta run run. "Tôi không có nhiều tiền nhưng ông có thể lấy hết. Ta có thể ra máy ATM. Tôi sẽ..."

    "Ra ngoài."

    "Xin ông đừng hại tôi."

    Kẻ Tầm Xương lấy đầu ra hiệu. Người đàn ông yếu đuối kinh hoàng nhìn quanh rồi tiến lên phía trước. Ông ta đứng bên cạnh xe, rúm ró, hai tay vẫn khoanh trước ngực, nổi gai ốc mặc dù trời nóng gay gắt.

    "Sao ông làm thế?"

    Kẻ Tầm Xương lùi lại và tìm chiếc còng tay trong túi. Vì đeo găng tay dày nên phải mất vài giây hắn mới tìm thấy sợi xích crom. Khi lôi chiếc còng tay ra, hắn nghĩ hắn có nhìn thấy một chiếc thuyền bốn buồm chạy trên sông Hudson. Dòng chảy ngược ở đây không mạnh như sông Đông, nơi các con tàu phải tốn rất nhiều thời gian để đi từ cầu tàu East, Montgomery và Out Ward lên phía Bắc. Hắn liếc mắt. Không phải, từ từ đã - đấy không phải thuyền buồm mà chỉ là một chiếc tàu có động cơ sang trọng, đầy đám thị dân trưởng giả.

    Vươn đôi tay bị còng ra trước, người đàn ông tóm chặt áo kẻ bắt giữ mình. "Xin ông. Tôi đang đến bệnh viện. Vì thế tôi mới gọi ông. Tôi bị đau ngực."

    "Câm mồm."

    Bất ngờ, người đàn ông chộp lấy mặt Kẻ Tầm Xương, hai cánh tay đồi mồi nắm lấy cổ và vai hắn bóp mạnh. Một cơn đau lan tỏa từ chỗ móng tay màu vàng của ông ta đâm vào. Với một cơn bực tức bùng phát, hắn giằng tay nạn nhân ra và thô bạo còng tay ông ta.

    Dán một miếng băng dính vào miệng người đàn ông. Kẻ Tầm Xương kéo ông ta trên con đường bờ sông trải sỏi tới miệng ống, đường kính khoảng bốn feet. Hắn dừng lại, xem xét người đàn ông.

    Lột mày đến tận xương thật là dễ.

    Xương cốt... chạm vào nó. Nghe tiếng nó.

    Hắn nhấc tay người đàn ông lên. Hai con mắt kinh hoàng nhìn lại hắn, môi ông ta run rẩy. Kẻ Tầm Xương vuốt ve những ngón tay của người đàn ông, bóp chặt những đốt ngón tay ông ta trong những đốt ngón tay hắn (ước gì hắn có thể tháo găng tay, nhưng hắn không dám). Sau đó hắn nhấc bàn tay người đàn ông lên, áp chặt nó vào tai.

    "Gì thế?..."

    Bàn tay trái hắn nắm ngón tay út của người tù nhân và từ từ kéo cho đến khi hắn nghe thấy tiếng xương kêu lách cách. Một âm thanh ngọt ngào. Người đàn ông kêu thét lên, nhưng tiếng hét bị dập tắt qua miếng băng dính. Và rơi xuống đất.

    Kẻ Tầm Xương kéo ông ta đứng thẳng dậy và dẫn người đàn ông bước đi vấp váp xuống tới miệng ống. Hắn đẩy người đàn ông lên phía trước.

    Họ nổi lên phía dưới một cây cầu cảng cũ kỹ, mục nát. Một nơi kinh tởm, vung vãi đầy xác thú vật và cá đang thối rữa, rác rưởi trên những hoàn đá, và lớp bùn tảo bẹ mà xanh xám. Dưới nước là một đám rong biển nổi lên, chìm xuống, chất thành đống như một người béo phì. Mặc dù cả thành phố đang phải chịu cái nóng buổi tối, nhưng dưới này lại lạnh như một ngày tháng Ba.

    Señor Ortega...

    Hắn dìm người đàn ông xuống sông, còng ông ta vào trụ cầu cảng, bóp cho cái còng siết chặt vào cổ tay ông ta lần nữa. Khuôn mặt xám ngoét của người đàn ông còn cách mặt nước khoảng ba feet. Kẻ Tầm Xương thận trọng đi trên những hòn đá trơn tuột về phía ống cống. Hắn quay lại, ngừng một chút để nhìn, rồi tiếp tục nhìn. Hắn không quan tâm liệu cớm có tìm được những nạn nhân khác hay không. Hanna, người đàn bà trên taxi. Nhưng người này, Kẻ Tầm Xương hy vọng chúng không kịp thời tìm được ông ta. Thực sự là họ đừng nên tìm thấy ông ta. Để hắn có thể quay lại sau một hoặc hai tháng, kiểm tra xem con sông thông minh này có cọ sạch được bộ xương hay không.

    Quay lại con đường trải sỏi, hắn tháo mặt nạ và để lại manh mối cho hiện trường tiếp theo, cách nơi hắn đỗ xe không xa. Hắn giận dữ, điên cuồng với bọn cớm, vì vậy lần này hắn giấu manh mối đi. Và hắn còn để lại một điều ngạc nhiên đặc biệt. Một thứ mà hắn đã luôn giữ cho chúng. Kẻ Tầm Xương quay lại chỗ chiếc taxi.

    Gió thổi nhẹ, mang theo mùi của con sông ô nhiễm. Tiếng xào xạc của cỏ, và như thường lệ, cả tiếng xoẹt của xe cộ.

    Nghe như tiếng giấy ráp cọ trên xương.

    Hắn dừng lại và lắng nghe âm thanh đó, ngẩng đầu như thể hắn đang nhìn lên hàng tỷ ngọn đèn của các tòa nhà, kéo dài ra phía bắc như một thiên hà hình chữ nhật. Đúng lúc đó xuất hiện một người phụ nữ chạy rất nhanh trên đường chạy cạnh đường cống và thiếu chút nữa thì va vào hắn.

    Mặc quần soóc và áo thể thao tím, người phụ nữ tóc nâu gầy gò nhảy sang bên để tránh đường hắn. Cô ta dừng lại, thở hổn hển, lâu mồ hôi trên mặt. Dáng đẹp - bắp thịt căng đầy - nhưng không xinh. Mũi khoằm, miệng rộng, da lem nhem.

    Nhưng phía dưới thì...

    "Anh không được... Anh không nên đỗ xe ở đây. Đây là đường chạy..."

    Giọng nói cô ta nhỏ dần khi nỗi sợ hãi dâng lên trong ánh mắt cô, ánh mắt chuyển từ mặt hắn sang chiếc taxi, rồi tới chiếc mặt nạ trượt tuyết vo viên trong tay hắn.

    Cô ta biết hắn là ai. Hắn mỉm cười khi nhìn thấy xương đòn của cô ta nổi rõ lên.

    Mắt cá chân phải của cô ta hơi xê dịch, chuẩn bị chạy đi. Nhưng hắn tóm được cô ta trước. Hắn vờ cúi xuống để chặn cô ta. Cô ta thét lên một tiếng, hạ tay xuống để cản hắn, Kẻ Tầm Xương liền đứng vụt dậy, đánh khuỷu tay vào thái dương cô. Một tiếng cắc vang lên như tiếng vụt thắt lưng.

    Cô ta ngã vật xuống sỏi, nằm im. Hoảng sợ, Kẻ Tầm Xương quỳ sụp xuống đỡ lấy đầu cô ta. Hắn ta rên rỉ: "Không, không, không..." Giận dữ với chính mình vì đánh quá mạnh, thực sự đau khổ vì hắn có thể đã làm vỡ một hộp sọ hoàn hảo nằm phía dưới mái tóc rối bù và một khuôn mặt tầm thường.

    Amelia Sachs điền thêm một thẻ COC 2 nữa rồi đề nghị giải lao. Cô tạm dừng, đi tìm máy bán hàng tự động và mua một cốc cà phê có mùi vị kinh khủng. Cô quay lại cái văn phòng không cửa sổ, nhìn những chứng cứ mà cô thu lượm được.

    Có thể vì những điều cô phải trải qua để thu thập chứng cứ - các khớp xương của cô đau nhức và cô vẫn còn rùng mình mỗi khi nghĩ đến cảnh tượng thi thể bị chôn sáng nay, một cánh tay máu me, cảnh tượng da thịt lủng lẳng của T.J. Colfax. Cho đến hôm nay thì vật chứng không có ý nghĩa gì với cô. Vật chứng chỉ là những bài học chán ngán trong những buổi chiều mùa xuân buồn ngủ ở học viện. Vật chứng là toán học, là những đồ thị và biểu đồ, là khoa học. Nó chết.

    Không, Amelia Sachs sẽ là cảnh sát của công chúng. Tuần tra, xử lý bọn du côn, dọn dẹp ma túy. Truyền bá sự tôn trọng pháp luật - như cha cô đã làm. Hay nhét chúng vào. Như Nick Carelli đẹp trai, cựu chiến binh năm năm, ngôi sao của Tội phạm Đường phố, cười cả thế giới với nụ cười mày có vấn đề gì thế? của anh.

    Đó là con người mà cô muốn trở thành.

    Cô nhìn cái lá khô giòn màu nâu mà cô tìm thấy trong đường hầm bãi chăn gia súc. Một trong những manh mối 823 để lại cho họ. Và cái quần lót. Cô nhớ ra đặc vụ liên bang đã lấy vật chứng trước khi Cooper khám nghiệm xong bằng cái máy... Tên nó là gì nhỉ? Sắc ký khí? Cô tự hỏi chất lỏng trên lớp vải bông đó là gì?

    Nhưng những ý nghĩ đó dẫn cô đến Lincoln Rhyme và anh ta lại là nhân vật mà cô không hề muốn nghĩ tới lúc này. Cô tiếp tục đăng ký nốt những vật chứng còn lại. Mỗi thẻ COC có những dòng kẻ trống để liệt kê danh sách những người quản lý vật chứng, theo thứ tự từ lúc phát hiện được trên hiện trường cho tới khi xử án. Sachs đã có vài lần chuyển giao vật chứng và tên cô cũng xuất hiện trên các tấm thẻ COC. Nhưng đó là lần đầu tiên A. Sachs, NYPD 5885 nằm ở dòng đầu tiên.

    Cô nhấc cái túi nhựa đựng chiếc lá lên lần nữa.

    Hắn đã sờ vào chiếc lá này. Hắn. Kẻ đã giết T.J. Colfax. Kẻ cầm cánh tay mập mạp của Monelle Gerger và cắt sâu vào đó. Kẻ lúc này đang tìm kiếm nạn nhân khác - nếu như hắn chưa tóm được một ai.

    Kẻ chôn sống người đàn ông sáng ngày hôm nay, khi anh ta vẫy tay cầu xin lòng nhân từ mà anh không bao giờ nhận được.

    Cô nghĩ tới Nguyên tắc Trao đổi của Locard. Con người khi giao tiếp, ai cũng sẽ chuyển cho người khác thứ gì đó. Dù lớn hay nhỏ. Và hầu hết mọi người lại không biết đến điều này.

    Liệu 823 có để lại gì trong cái lá này không? Một tế bào da? Một giọt mồ hôi? Thật ngạc nhiên khi cô cảm thấy sự rung động của niềm phấn khích, của nỗi sợ hãi, như thể tên sát nhân đang ở ngay đây, trong căn phòng nhỏ xíu thiếu không khí này cùng với cô.

    Quay lại với những tấm thẻ COC. Cô điền chúng trong khoảng mười phút và khi hoàn thành chiếc thẻ cuối cùng thì cánh cửa bật mở làm cô giật mình. Cô quay lại.

    Fred Dellray đứng trong khung cửa, bộ vét màu xanh lá của anh ta xộc xệch, chiếc áo sơ mi được hồ cứng lúc này nhàu nát. Những ngón tay lần sờ điếu thuốc lá cài ở tai. "Ra ngoài một, hai phút được không, sĩ quan. Thời điểm thanh toán đã tới. Tôi nghĩ cô cũng muốn có mặt ở đó."

    Sachs đi theo anh ta vào một hành lang ngắn, cách anh chàng đang nhảy cẫng lên này hai bước.

    "Đã có kết quả AFIS." Dellray nói.

    Phòng chiến sự trông bận bịu hơn bao giờ hết. Các đặc vụ không mặc áo vét lượn lờ bên bàn làm việc. Họ đều được trang bị vũ khí - những khẩu Sig-Sauer và Smith & Weson tự động, mười mm và .45s. Nửa tá đặc vụ đặc đang tập hợp quanh màn hình máy tính bên cạnh máy Opti-Scan.

    Sachs không thích cách Dellray lấy vụ này, nhưng cô buộc phải công nhận đằng sau cái vẻ ngoài của một anh chàng mê nhạc jazz dẻo mỏ, Dellray là một cảnh sát rất giỏi. Các đặc vụ - trẻ cũng như già - đến hỏi ý kiến anh ta và anh ta kiên nhẫn trả lời họ. Anh ta giật điện thoại, phỉnh phờ hoặc nhiếc móc người phía đầu dây bên kia để có được thứ anh ta cần. Thi thoảng, anh ta nhìn quanh căn phòng đang sôi sục và gầm lên: "Ta sẽ tóm được cái thằng khốn đó chứ? Chắc chắn rồi, ta sẽ tóm được nó". Và mọi người ném cho anh ta những cái nhìn khó chịu, nhưng đều công nhận nếu có ai bắt được hắn, người đó phải là Dellray.

    "Đây rồi, có rồi đây", một đặc vụ nói.

    Dellray quát: "Tôi muốn có một đường dây mở đến DMV 3 New York, Jersey và Connecticut. Cả bộ phận Cải tạo và Tuần tra. INS nữa. Bảo họ chờ yêu cầu nhận dạng. Những người khác phải đợi."

    Các đặc vụ tỏa ra và bắt đầu gọi điện thoại.

    Màn hình máy tính có tín hiệu.

    Cô không thể tin rằng Dellray lại có thể thực sự chắp tay cầu nguyện.

    Im lặng tuyệt đối trong phòng.

    "Có hắn rồi!" Đặc vụ đang ngồi bên bàn phím la lên.

    "Không còn nghi phạm nữa rồi", giọng Dellray như hát, anh ta cúi nhìn màn hình. "Mọi người nghe đây. Ta có tên rồi: Victor Pietrs. Sinh ở đây, năm 1948. Cha mẹ hắn ta đến từ Belgrade. Như vậy là chúng ta có mối liên hệ với người Serbia. Nhận dạng được New York D of C cung cấp. Đã có tiền sử buôn ma túy, tấn công, có một vụ giết người. Đã lĩnh án. Được rồi, nghe này - có bệnh án tâm thần, ba lần bị buộc nhập viện. Bệnh nhân tại bệnh viện tâm thần Bellevue và Manhattan. Ngày ra viện cuối cùng là ba năm trước. LKA Washington Heights.

    Anh ta nhìn lên. "Ai làm việc với các công ty điện thoại?"

    Vài đặc vụ giơ tay.

    "Gọi điện đi", Dellray ra lệnh.

    Năm phút dài như vô tận.

    "Không có ở đây. Không có trong danh bạ điện thoại New York."

    "Chẳng có gì ở New Jersey, một đặc vụ khác nói.

    "Connecticut, không có gì."

    "Mẹ kiếp", Dellray lầm bầm. "Đảo tên lên xem. Thử các tổ hợp khác nhau. Tìm cả những số điện bị cắt do không trả tiền.'

    Trong mấy phút, giọng nói dâng khắp nơi như thủy triều lên.

    Dellray đi đi lại lại như điên, và Sachs hiểu ra vì sao người anh ta lại khẳng khiu như vậy.

    Bất ngờ một đặc vụ la lớn: "Tìm thấy hắn rồi".

    Mọi người quay đầu lại nhìn.

    "Tôi đang liên lạc với New York DMV 4", một đặc vụ khác gọi. "Họ đã tìm thấy hắn. Tin đang đến đây... hắn lái taxi. Dùng bằng giả."

    "Sao tin này lại chẳng làm mình ngạc nhiên nhỉ?" Dellray lẩm nhẩm. "Mình phải nghĩ tới điều đó mới phải. Tổ ấm ở đâu?"

    "Morningside Height. Cách con sông một khối nhà." Nhân viên đặc vụ viết địa chỉ, giơ nó lên cao khi Dellray đi qua lấy. "Tôi biết khu này. Hầu hết bị bỏ hoang. Rất nhiều bọn buôn ma túy."

    Một đặc vụ khác nhập địa chỉ vào máy tính của anh ta. "Được rồi, đã kiểm tra... Một ngôi nhà cũ. Thuộc về một ngân hàng. Chắc hắn thuê nhà."

    "Anh cần HRT chứ?" Một đặc vụ gọi từ phía bên kia căn phòng đang sôi sục. "Tôi có Quantico đang nghe điện đây."

    "Không còn thời gian", Dellray tuyên bố. "Ta dùng đội SWAT trực chiến. Bảo họ chuẩn bị đi."

    Sachs hỏi: "Thế còn nạn nhân tiếp theo thì sao?"

    "Nạn nhân tiếp theo nào?"

    "Hắn đã tóm được ai đó. Hắn biết ta đã có manh mối được khoảng một, hai tiếng. Hắn đã bắt được nạn nhân tiếp theo rồi. Một lúc trước."

    "Không có báo cáo mất tích", một đặc vụ nói. "Nếu hắn tóm được họ, có thể họ đang ở nhà hắn."

    "Không, họ sẽ không ở đó."

    "Sao không?"

    "Họ sẽ thu nhặt quá nhiều vật chứng." Cô nói. "Lincoln Rhyme nói hắn có một nơi ẩn nấp an toàn."

    "Được rồi, khi bắt được hắn, hắn sẽ nói cho ta biết họ ở đâu."

    Một đặc vụ khác nói: "Ta phải thật thuyết phục."

    "Đi thôi", Dellray gọi. "Này mọi người, hãy cám ơn sĩ quan Amelia Sachs. Cô ấy là người tìm thấy dấu vân tay và lấy được nó."

    Cô đỏ mặt. Cô có thể cảm thấy điều đó và căm thù nó. Nhưng cô không thể giúp được mình. Khi nhìn xuống, cô thấy giày của mình có những đường lạ lẫm. Liếc mắt nhìn, cô nhận ra mình vẫn còn đeo những dải băng cao su.

    Khi ngẩng lên cô nhìn thấy căn phòng đầy đặc vụ liên bang trông nghiêm nghị đang kiểm tra vũ khí và đi ra cửa khi họ liếc nhìn cô. Như người thợ rừng nhìn khúc gỗ mới đốn, cô nghĩ.
    --------------------------------
    1 13-43: Mẫu đơn Khiếu nại, được dùng như một động từ.
    2 COC: Xem phần phụ lục.
    3 DMV: Cơ quan Quản lý Phương tiện Giao thông.
    4 New York DMV: Cơ quan Quản lý Phương tiện Giao thông New York.

  10. #19
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    MƯỜI CHÍN

    Năm 1911, thảm họa khủng khiếp giáng xuống thành phố của chúng ta.

    Ngày Hai mươi lăm tháng Ba, hàng trăm công nhân nữ đang làm việc hăng say trong một xưởng may, một trong nhiều xưởng may nổi tiếng với tên gọi "Cửa hiệu mồ hôi" ở Greenwich Village, trung tâm Manhattan.

    Những người chủ của công ty đam mê lợi nhuận tới mức họ không cho các cô gái đáng thương này những tiện nghi sơ đẳng nhất mà các nô lệ còn được hưởng. Họ cho rằng không thể tin tưởng để công nhân được nhanh chóng đi vệ sinh, vì thế họ khóa kỹ xưởng may và xưởng cắt.

    Kẻ Tầm Xương lái xe về tòa nhà của hắn. Hắn đi qua một xe cảnh sát, nhưng hắn luôn nhìn thẳng về phía trước. Cớm không bao giờ chú ý tới hắn.

    Trong ngày định mệnh đó, đám cháy bắt đầu từ tầng tám của tòa nhà, chỉ trong vòng vài phút đã lan ra khắp nhà máy. Những người công nhân trẻ tuổi gắng sức thoát ra ngoài. Tuy nhiên, cửa khóa nên họ chẳng thể thoát ra. Nhiều người chết tại chỗ và nhiều người khác vì quá sợ lửa đã lao ra ngoài không trung, cách mặt sỏi một trăm feet và chết khi va vào nền đất mẹ cứng rắn.

    Có một trăm bốn mươi sáu nạn nhân trong trận hỏa hoạn Triangle Shirtwaist. Tuy nhiên, cảnh sát đã rất ngạc nhiên khi không thể tìm được một nạn nhân, một người phụ nữ trẻ, Esther Weinraub, người mà một vài nhân chứng nhìn thấy, đã tuyệt vọng nhảy ra khỏi cửa sổ tầng tám. Không cô gái nào cùng nhảy sống sót. Phải chăng điều kỳ diệu đã xảy đến với cô? Vì thực tế là khi thi thể nạn nhân được xếp ngoài phố để gia đình tới nhận diện, người ta không tìm được cô Weinraub tội nghiệp.

    Có những báo cáo về một con ma cà rồng, một người đàn ông vác một cái túi lớn ra khỏi hiện trường đám cháy. Cảnh sát rất giận dữ vì đã có người xâm phạm thi thể thiêng liêng của người phụ nữ vô tội, tới mức họ bắt đầu một cuộc tìm kiếm âm thầm nhằm vào người đàn ông.

    Sau vài tuần, những nỗ lực của họ đã đem lại kết quả. Hai người dân sống ở Greenwich Village khai báo rằng họ đã nhìn thấy một người đàn ông vác một túi nặng "trông như một tấm thảm" trên vai và rời khỏi hiện trường. Cảnh sát nắm được dấu vết của hắn và theo hắn đến phía tây thành phố, ở đó họ phỏng vấn những người láng giềng và biết được người đàn ông phù hợp với mô tả là Jame Schneider, kẻ vẫn đang tự do.

    Họ thu hẹp phạm vi tìm kiếm tới một nơi đổ nát tại con ngõ nhỏ ở Hell's Kitchen, cách bãi chăn trên Phố Sáu mươi không xa. Khi họ tiến vào, một mùi hôi thối kinh khủng chào đón họ...

    Hắn đang lái xe qua chỗ đám cháy Triangle - có thể sự vô thức đã dẫn hắn đến đây. Tòa nhà Asch - một cái tên mỉa mai cho cấu trúc trước kia là nhà máy định mệnh - đã biến mất, và mảnh đất đó lúc này là một phần của Đại học New York. Quá khứ và hiện tại... Kẻ Tầm Xương không ngạc nhiên khi nhìn thấy những nữ công nhân mặc áo khoác lao động trắng, những vệt lửa và làn khói ngột ngạt, rơi xuống chết quanh hắn ta như những bông tuyết.

    Khi tấn công vào nơi ở của Schneider, những nhà chức trách thấy một cảnh tượng mà ngay cả những người dày dạn nhất trong số họ cũng phải chóng mặt vì hoảng sợ. Thi thể của Esther Weinbraun đáng thương - (hay là những gì còn lại) - được tìm thấy dưới tầng hầm. Schneider đang thích thú hoàn thành nốt công việc dang dở của đám cháy, chậm rãi lóc thịt người phụ nữ bằng những công cụ quá ghê tởm để có thể kể ra ở đây.

    Cuộc tìm kiếm ở nơi ghê rợn này dẫn đến việc khám phá ra một căn phòng, bên ngoài tầng hầm, chứa đầy xương cốt đã vị lóc hết thịt. Dưới giường của Schneider, một cảnh sát tìm thấy cuốn nhật ký mà kẻ điên khùng ghi lại những hành động ác quỷ của hắn. "Xương" - Schneider viết - "là cốt lõi tối thượng của con người. Nó không thay đổi, không lừa dối, không đầu hàng. Một khi bề ngoài da thịt, những thiếu sót của những chủng tộc hạ đẳng, giới tính yếu ớt, bị đốt cháy hay nấu chín, thì chúng ta - tất cả chúng ta - còn lại là xương cốt cao quý. Xương cốt không dối trá. Nó là vĩnh cửu."

    Những lời văn điên loạn ghi lại những thí nghiệm khủng khiếp của hắn để tìm ra cách thức hiệu quả nhất nhằm lóc thịt ra khỏi xương nạn nhân. Hắn thử nấu chín thi thể, đốt, dùng dung dịch kiềm, cho súc vật ăn và dìm nước.

    Nhưng có một phương pháp được hắn yêu thích nhất cho hành động rùng rợn này. "Cách tốt nhất, theo kết luận của tôi" - (tiếp tục nhật ký của hắn) - "là chôn thi thể xuống đất màu và để Tự nhiên làm nốt phần công việc buồn chán. Đó là phương pháp tốn thời gian nhất nhưng lại gây ít nghi ngờ nhất vì không bốc mùi. Tôi thích chôn các cá thể còn sống, lý do thì tôi không thể nói chắc chắn".

    Bên trong căn phòng cho tới nay vẫn còn là bí mật, người ta tìm thấy thêm ba thi thể nữa, trong tình trạng tương tự. Những cánh tay xiên xẹo, những khuôn mặt mong chờ của các nạn nhân tội nghiệp chứng tỏ họ đã thực sự còn sống khi Schneider lấp những xẻng đất cuối cùng lên sự tột cùng đau khổ của họ.

    Chính những mưu đồ đen tối đó khiến cho các nhà báo đặt cho Schneider một cái tên làm hắn nổi tiếng mãi cho tới sau này - "Kẻ tầm xương".

    Hắn lái xe đi tiếp, suy nghĩ của hắn trở lại với người phụ nữ đang nằm trong cốp xe, Esther Weinraub. Khuỷu tay gầy guộc của cô ta, xương đòn thanh tú của cô ta như đôi cánh chim. Hắn tăng tốc, thậm chí vượt hai đèn đỏ. Hắn không thể chờ đợi thêm nữa.

    "Tôi không mệt", Rhyme cáu kỉnh.

    "Mệt hay không mặc kệ, anh phải nghỉ ngơi."

    "Không, tôi muốn uống."

    Những chiếc va li đen nằm cạnh tường, chờ đợi các sĩ quan từ Đồn Mười hai chuyển giúp về phòng thí nghiệm IRD. Mel Cooper đang vác hộp kính hiển vi xuống dưới cầu thang. Lon Sellitto vẫn ngồi trên chiếc ghế mây, nhưng anh ta không nói nhiều. Anh ta vừa kết luận rằng, Rhyme Lincoln không hề say.

    Thom nói: "Tôi chắc là huyết áp của anh lại lên đấy. Anh cần phải nghỉ ngơi."

    "Tôi muốn uống".

    Quỷ tha ma bắt cô, Amelia Sachs, Rhyme nghĩ. Mà không hiểu vì sao.

    "Anh phải bỏ đi. Uống chẳng có ích gì cho anh cả."

    Được rồi, tôi đang bỏ, Rhyme lặng lẽ đáp lời. Bỏ hẳn. Thứ Hai. Không cần kế hoạch mười hai bước; chỉ là kế hoạch một bước.

    "Rót cho tôi cốc nữa", anh ra lệnh.

    Nhưng không thực sự muốn.

    "Không."

    "Rót ngay cho tôi!" Rhyme cáu kỉnh.

    "Không."

    "Lon, làm ơn rót tôi cốc nữa, được chứ?"

    "Tôi..."

    Thom nói: "Anh ta không được uống thêm nữa. Khi tâm trạng như thế này, thật không thể chịu nổi anh ta. Chúng ta sẽ không đầu hàng anh ta".

    "Cậu từ chối tôi à? Tôi có thể đuổi cậu đấy."

    "Thoải mái đi."

    "Lạm dụng người tàn tật! Tôi sẽ cho cậu ra tòa! Bắt hắn ta ngay, Lon."

    "Lincoln", Sellitto xoa dịu.

    "Bắt hắn ta!"

    Viên thám tử ngạc nhiên vì sự hằn học trong lời nói của Rhyme.

    "Này anh bạn, cậu làm ơn nhẹ nhàng hơn một chút, được không?" Sellitto nói.

    "Ôi, lạy Chúa", Rhyme rên rỉ. Anh bắt đầu rên ầm ĩ.

    Sellitto buột miệng: "Gì thế?" Thom im lặng, nghi ngờ theo dõi.

    "Gan của tôi." Rhyme nhăn nhó. "Có thể là xơ gan."

    Thom quay lại, giận dữ. "Tôi không vào tròng với cái trò ấy đâu. Được chưa?"

    "Không, không ổn..."

    Giọng một phụ nữ vang lên từ ô cửa: "Chúng ta không có nhiều thời gian."

    "... tí nào."

    Amelia Sachs vào phòng, nhìn những cái bàn trống. Rhyme cảm thấy trên môi mình dính nước bọt. Anh quá tức giận. Vì cô nhìn thấy nước dãi. Vì anh đã mặc chiếc áo sơ mi trắng bảnh bao đó chỉ vì cô. Và vì anh tuyệt vọng muốn được cô đơn, mãi mãi, cô đơn trong sự yên bình bất động - nơi anh là hoàng đế. Không phải vua một ngày. Mà là hoàng đế mãi mãi.

    Nước bọt chảy ra cù anh buồn buồn. Anh cố co gân cổ đang rất đau đớn, thử liếm khô môi. Thom khéo léo rút một tờ giấy lau trong hộp, lau khô miệng và cằm cho ông chủ của mình.

    "Sĩ quan Sachs", Thom nói. "Xin chào. Một ví dụ tiêu biểu của sự trưởng thành. Ta không thấy điều đó nhiều ngay lúc này."

    Cô không đội mũ, áo choàng xanh để hở cổ. Mái tóc đỏ dài của cô thả rơi xuống cổ. Mái tóc này không làm ai gặp khó khăn khi phân tích dưới kính hiển vi.

    "Mel cho tôi vào", cô nói, hất đầu về phía cầu thang.

    "Quá giờ đi ngủ của cô phải không, Sachs?"

    Thom vỗ vai. Cử chỉ có nghĩa là phải biết cư xử chứ.

    "Tôi vừa ở văn phòng FBI", cô nói với Sellitto.

    "Tiền thuế của chúng ta thế nào rồi?"

    "Họ tóm được hắn rồi."

    "Cái gì?" Sellitto hỏi. "Đơn giản thế thôi hả? Lạy Chúa. Họ biết chuyện ấy rồi à?"

    "Perkins vừa gọi cho Thị trưởng. Hắn là tài xế taxi. Hắn sinh ra ở đây, nhưng cha hắn là người Serbia. Vì vậy họ nghĩ hắn đang đòi công lý với Liên Hiệp Quốc, hay cái gì đó. Có giấy vàng. Và cả vấn đề về tâm thần. Lúc này Dellray và nhóm SWAT liên bang đang đến đấy."

    "Họ làm thế nào nhỉ?" Rhyme hỏi. "Tôi đoán đó là nhờ dấu tay."

    Cô gật đầu.

    "Tôi nghĩ rằng điều này quá rõ ràng. Nói tôi nghe, họ quan tâm tới nạn nhân tiếp theo đến đâu?"

    "Họ có quan tâm", cô nói đều đều. "Nhưng chủ yếu là họ muốn tóm đối tượng."

    "À, đấy là bản chất của họ. Để tôi đoán xem. Họ nghĩ họ sẽ moi ra chỗ nạn nhân tiếp theo sau khi họ tóm được hắn."

    "Anh nói đúng."

    "Chắc cần chút cố gắng đấy". Rhyme nói. "Tôi có thể đưa ra nhận định này mà không cần đến sự chỉ dẫn của Tiến sĩ Dobyns và phân tích hành vi. Thế nào Amelia, điều gì làm cô thay đổi ý định vậy? Sao cô quay lại?"

    "Bởi vì bất kể Dellray có xích được hắn hay không thì tôi cũng không nghĩ chúng ta còn thời gian để chờ đợi. Ý tôi là, để cứu nạn nhân tiếp theo."

    "Ồ, nhưng chúng ta đã bị giải tán, cô chưa nghe à? Đóng cửa, phá sản." Rhyme nhìn màn hình máy tính tối om cố xem xem tóc anh có được chải không?

    "Anh đầu hàng?" Cô hỏi.

    "Sĩ quan", Sellitto bắt đầu, "ngay cả khi chúng ta muốn làm gì đó, chúng ta cũng không có vật chứng. Đó là liên kết duy nhất..."

    "Tôi có."

    "Cái gì?"

    "Tất cả. Dưới cầu thang, trong xe RRV."

    Viên thám tử nhìn ra ngoài cửa sổ.

    Sachs tiếp tục: "Từ hiện trường cuối cùng. Từ tất cả mọi hiện trường."

    "Cô có nó?" Rhyme hỏi. "Sao thế được?"

    Nhưng Sellitto cười phá: "Mẹ kiếp, Lincoln, cô ta cướp chúng."

    "Dellray không cần tới chúng", Sachs chỉ ra. "Trừ khi dùng cho việc xử án. Họ đã có đối tượng, chúng ta sẽ cứu nạn nhân. Cũng được, phải không?"

    "Nhưng Mel Cooper vừa về rồi."

    "Không, anh ta dưới cầu thang. Tôi bảo anh ta đợi." Sachs bắt tréo tay. Cô nhìn đồng hồ. Quá mười một giờ. "Ta không có nhiều thời gian", cô nhắc lại.

    Anh cũng nhìn đồng hồ. Chúa ơi, anh mệt. Thom nói đúng; cả năm nay chưa bao giờ anh thức khuya như vậy. Nhưng anh thấy ngạc nhiên - không, đúng hơn là bị sốc - khi thấy rằng ngày hôm nay anh có thể giận dữ, khó xử hay bị đâm trộm bởi những rắc rối vô cảm, nhưng những giây phút vừa qua không hề đặt lên tâm hồn anh một gánh nặng nóng bỏng nào cả. Như chúng vẫn vậy, trong suốt ba năm qua.

    "Được rồi, hết ý." Rhyme bật một tràng cười. "Thom? Thom! Chúng ta cần cà phê. Suất đúp. Sachs, đưa những mẫu giấy bóng kính đó đến phòng thí nghiệm cùng với bức ảnh Polaroid của mẩu giấy mà Mel nhặt được từ cái xương bê. Tôi muốn có kết quả so sánh phân cực sau một giờ nữa. Và gọi cái bóng của anh đến đây đi, Lon. Cái anh chàng có tên như cầu thủ bóng chày ấy."

    Chiếc xe tải màu đen lao nhanh trên phố.

    Đây là đường vòng tới chỗ tên tội phạm nhưng Dellray biết anh ta đang làm gì; các chiến dịch chống khủng bố phải đi đường vòng, tránh những con phố lớn, những con phố thường bị đồng phạm của chúng giám sát. Dellray, ngồi phía sau chiếc xe đi đầu, đang siết chặt dây khóa dán Velcro của chiếc áo chống đạn. Còn mười phút nữa là họ đến nơi.

    Anh ta nhìn những căn hộ đang bị hỏng, những lô đất đầy rác rưởi khi họ chạy ngang qua. Lần cuối cùng, Dellray đến khu vực đổ nát này là khi anh còn là Rastafarian Peter Haile Thomas đến từ Queens. Dellray mua một trăm ba mươi bảy pound cocaine của một gã Puerto Rican nhỏ thó, nhưng anh chàng này đến phút cuối lại quyết định ăn cướp người mua hàng của mình. Hắn cầm chỗ tiền nhử mồi của Dellray, chĩa súng vào háng Dellray và bình thản bóp cò như thể đang nhặt một mớ rau. Cạch, cạch, cạch. Đạn thối. Toby Dolittle và nhóm yểm trợ nhanh chóng hạ tên khốn và đồng bọn trước khi hắn kịp hồi tỉnh, để lại cho Dellray một sự choáng váng vì thực tế đầy mỉa mai là anh ta suýt bị giết vì tên tội phạm thực sự tin vào màn kịch của viên điệp vụ - tin rằng anh ta là tên buôn ma túy, không phải cớm.

    "ETA 1, còn bốn phút', người lái xe nhắc.

    Vì lí do nào đó, ý nghĩ của Dellray quay về với Lincoln Rhyme. Anh ta lấy làm tiếc đã xử tệ như vậy khi tiếp quản vụ này. Nhưng anh ta không có nhiều lựa chọn. Sellitto là người gan lì còn Polling là đồ điên - mặc dù Dellray có thể xử lý được họ. Rhyme là người làm cho anh thấy khó xử nhất. Sắc như dao cạo (quỷ thật, chính là nhóm của anh ta tìm thấy dấu tay của Pietrs, dù họ đã không khai thác nó đúng lúc). Ngày xưa, trước tai nạn, ta đã không thể đánh bại được Lincoln Rhyme nếu như anh ta không muốn bị đánh bại. Cũng chẳng thể nào lừa được anh ta.

    Lúc này thì Rhyme là một thứ đồ chơi hỏng. Thật buồn khi điều tệ hại đó xảy ra cho anh ta, khi anh ta nên chết nhưng lại còn sống. Dellray đã vào phòng của anh ta - phòng ngủ của anh ta - và đã chơi anh ta một vố thật đau. Đau hơn mức cần thiết.

    Có thể anh ta sẽ gọi. Anh ta có thể....

    "Giờ diễn", người lái xe thông báo và Dellray quên hết mọi thứ về Lincoln Rhyme.

    Chiếc xe rẽ vào con phố nơi Pietrs sống. Hầu hết những con phố khác mà họ đi qua đều đầy những người dân nhễ nhại mồ hôi cầm chai bia hay điếu thuốc lá, cố gắng có được một, hai ngụm không khí mát mẻ. Nhưng con phố này thì tăm tối và vắng vẻ.

    Chiếc xe từ từ dừng lại. Khoảng hai tá đặc vụ trong bộ đồ chiến thuật đen trèo ra khỏi xe, xách những khẩu H&K được gắn ống ngắm laser và đèn chiếu sáng. Hai người vô gia cư nhìn họ; một người giấu nhanh chai wisky mạch nha Colt 44 vào trong áo.

    Dellray liếc nhìn cửa sổ trong tòa nhà của Pietrs; nó tỏa ra ánh sáng vàng nhợt nhạt.

    Người lái xe lùi chiếc xe đầu tiên vào chỗ đỗ xe trong bóng tối và thì thầm với Dellray: "Perkins đấy." Gõ vào tai nghe của anh ta. "Anh ta đang nói chuyện với giám đốc. Họ muốn biết ai là người chỉ huy cuộc tấn công?"

    "Là tôi", con Kỳ nhông cáu kỉnh. Anh ta quay lại nhóm của mình. "Tôi muốn giám sát toàn bộ con phố và các ngõ hẻm. Thiện xạ, ở đây, ở đây và ở đây. Và tôi muốn mọi người sẵn sàng năm phút trước khi tấn công. Tất cả rõ chưa?"

    Xuống cẩu thang, tiếng gỗ kêu cót két.

    Tay hắn ôm lấy cô, hắn dẫn người phụ nữ đang nửa tỉnh nửa mê vì cú đánh vào đầu xuống tầng hầm. Tới chân cầu thang, hắn quăng cô xuống nền nhà bụi bặm và nhìn cô chăm chăm.

    Esther...

    Mắt cô ngước lên nhìn hắn. Tuyệt vọng, van xin. Hắn không hề nhận thấy. Những gì hắn thấy chỉ là cơ thể cô. Hắn bắt đầu cởi quần áo cô, bộ quần áo chạy thể dục màu tía. Không thể tin được là bây giờ phụ nữ lại có thể ra khỏi nhà với bộ quần áo như đồ lót. Hắn không nghĩ Esther Weinbraub là một con điếm. Cô ta là một công nhân, may áo sơ mi với giá một xu năm cái.

    Kẻ Tầm Xương quan sát xương đòn của cô ta nhô ra nơi cổ họng. Trong khi người đàn ông khác có thể nhìn ngực và núm vú tối màu của cô ta, hắn ta nhìn chỗ lõm vào của chuôi ức và những chiếc xương sườn tỏa ra từ đó như những cái chân nhện.

    "Anh làm gì vậy?" Cô ta hỏi, vẫn còn lảo đảo vì cú đánh vào đầu.

    Kẻ Tầm Xương nhìn cô ta thật kỹ, nhưng thứ mà hắn thấy không phải là một người phụ nữ không còn trẻ, mắc bệnh chán ăn, mũi quá rộng, môi quá dày với làn da như cát bẩn. Hắn nhìn thấy phía dưới những thứ không hoàn thiện này chứa đựng vẻ đẹp hoàn hảo của cấu trúc cơ thể cô ta.

    Hắn săn sóc thái dương cô, nhẹ nhàng xoa vuốt nó. Đừng để nó bị nứt, làm ơn đi...

    Cô ta ho làm cho hai lỗ mũi nở rộng - dưới này khói mù mịt, mặc dù hắn gần như không nhận thấy chúng.

    "Đừng đánh tôi nữa", cô ta thì thầm, đầu lắc lư. "Đừng đánh tôi. Làm ơn".

    Hắn lấy dao trong túi ra, cúi xuống và cắt đồ lót của cô ta. Cô ta nhìn thân thể lõa lồ của mình.

    "Anh muốn à?" Cô ta nói gần đứt hơi. "Được, anh có thể chơi tôi. Được."

    Khoái lạc thân xác, hắn nghĩ... Không đúng rồi.

    Hắn kéo cô ta đứng lên và cô ta giãy ra khỏi hắn như điên rồi tập tễnh chạy ra cánh cửa nhỏ ở gần tầng hầm. Không phải chạy, không thực sự cố tẩu thoát. Chỉ sụt sùi, vươn tay ta vẫy về phía cửa.

    Kẻ Tầm Xương, nhìn cô ta, bị mê hoặc bởi cái dáng đi chậm chạp, đáng thương của cô ta.

    Ô cửa, đã từng mở hướng ra một đường máng đổ than, giờ đây dẫn đến một đường hầm chật hẹp nối với tầng hầm của một tòa nhà bị bỏ hoang cạnh đó.

    Esther cố đến được cánh cửa kim loại và kéo nó mở ra. Cô ta trèo vào bên trong.

    Chưa đến một phút sau hắn ta nghe thấy tiếng la thét rền rĩ. Nối tiếp là những tiếng thét đứt hơi, giật giọng: "Trời ơi, không, không, không..." Còn những tiếng la hét khác, chìm đắm trong tiếng gào kinh hoàng.

    Rồi từ đường hầm cô ta chạy ra, đã nhanh hơn, phủi tay khắp người như thể cô ta đang cố gắng giũ bỏ những thứ cô ta vừa nhìn thấy.

    Đến với ta nào, Esther.

    Loạng choạng trên nền nhà bụi bặm, nức nở.

    Đến với ta.

    Chạy thẳng tới bệnh nhân của hắn, những cánh tay chờ đợi, ôm chầm lấy cô. Hắn siết chặt người đàn bà như thể họ là tình nhân, cảm thấy chiếc xương đòn tuyệt diệu dưới ngón tay mình, và từ từ kéo người đàn bà điên dại quay lại cửa đường hầm.

    --------------------------------
    1 ETA: Dự kiến thời gian đến nơi.

  11. #20
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HAI MƯƠI

    Tuần trăng, chiếc lá, thứ đồ lót quỷ quái, bụi. Cả nhóm đã quay lại phòng ngủ của Rhyme, trừ Polling và Haumann; để đại úy chỉ huy tham gia vào một chiến dịch rõ ràng là không hợp lệ, một thử thách quá lớn đối với lòng trung thành của NYPD.

    "Cậu đã G-C chất lỏng trên đồ lót rồi phải không, Mel?"

    "Phải làm lại thôi. Chúng ta đã bị cắt ngang trước khi có kết quả."

    Anh ta thấm một mẫu chất lỏng và bơm nó vào máy sắc ký khí. Khi chạy máy, Sachs giả vờ nhìn vào các đỉnh và đáy của đồ thị đang hiện lên trên màn hình.Giống như chỉ số chứng khoán. Rhyme nhận ra cô đang đứng gần anh, hình như cô lân la lại gần khi anh không nhìn. Cô hạ giọng nói. "Tôi..."

    "Vâng?"

    "Tôi đã lỗ mãng hơn tôi nghĩ. Ý tôi là lúc trước. Tôi rất nóng tính. Tôi không hiểu sao tôi lại như thế. Nhưng tôi đã làm vậy."

    "Cô nói đúng", Rhyme nói.

    Họ dễ dàng chấp nhận ánh mắt của nhau và Rhyme nghĩ tới những lúc anh cùng Blaine nói chuyện nghiêm chỉnh. Khi nói, họ luôn tập trung vào một vật nằm giữa họ - một con ngựa sứ do cô sưu tầm, một cuốn sách, một chai vang Merlot hay Chardonnay gần cạn.

    Anh nói: "Tôi có cách khám nghiệm hiện trường không giống với các nhà hình sự khác. Tôi cần một người không có định kiến. Nhưng tôi cũng cần người biết tự suy nghĩ."

    Những phẩm chất đối nghịch mà người ta tìm thấy ở những cặp tình nhân hoàn hảo. Mạnh mẽ và yếu đuối, cân bằng nhau.

    Cô nói: "Khi tôi nói chuyện với Eckert, tôi chỉ muốn được chuyển công việc. Đó là tất cả những gì tôi muốn. Không bao giờ tôi nghĩ rằng câu chuyện có thể đến tai nhân viên của Cục và họ lại lấy mất vụ này."

    "Tôi biết."

    "Tôi vẫn để mình giận dữ. Tôi xin lỗi."

    "Đừng thụt lùi, Sachs. Tôi cần có ai đó nói với tôi rằng, tôi là đồ ngốc khi tôi ra vẻ như vậy. Thom làm thế. Nên tôi thích cậu ta."

    "Đừng có lấy lòng tôi, Lincoln." Thom nói với lại, từ phía phòng bên kia.

    "Chưa có ai nặng lời với tôi. Lúc nào họ cũng nâng như nâng trứng. Tôi ghét bị như thế."

    "Có lẽ gần đây không mấy người đến nói chuyện với anh."

    Một lúc sau, anh nói: "Đúng thế."

    Trên màn hình máy sắc ký khí - phổ kế những đỉnh và đáy đã thôi không chuyển động và trở thành một trong những chữ ký nhiều vô hạn độ của thiên nhiên. Mel Cooper gõ bàn phím và đọc kết quả. "Nước, dầu diesel, phosphate, sodium, dấu vết của khoáng chất... không hiểu nó có ý nghĩa gì."

    Thông điệp gì nhỉ? Rhyme băn khoăn. Là chiếc quần lót? Là chất lỏng? Anh nói: "Tiếp tục đi, tôi muốn xem chỗ bẩn."

    Sachs đem cái túi đến chỗ anh. Nó đựng ít cát màu hồng, có một ít đất sét và đá cuội.

    "Gan bò", anh tuyên bố. "Hỗn hợp đá và cát. Ở ngay bên trên nền đã của Manhattan. Có lẫn sodium silicate không?"

    Cooper chạy máy sắc ký khí. "Có. Nhiều lắm."

    "Thế thì ta phải tìm một nơi ở trung tâm, cách mép nước khoảng mười lăm thước..." Rhyme cười to khi thấy cái nhìn ngạc nhiên của Sachs. "Chẳng có phép lạ gì đâu. Tôi chỉ làm bài tập ở nhà thôi. Các nhà thầu thường trộn sodium silicate với gan bò để gia cố nền đất trước khi đào móng ở những khu vực nền đá sâu gần nước. Điều đó có nghĩa là nó phải ở trung tâm. Còn giờ hãy xem cái lá".

    Cô giơ cái túi lên.

    "Chẳng hiểu nó là cái gì", Rhyme nói. "Tôi cho là mình chưa bao giờ nhìn thấy cái lá nào như vậy. Không phải ở Manhattan."

    "Tôi có một danh mục các trang web về nghề làm vườn", Cooper nói, vẫn nhìn chăm chăm vào màn hình máy tính. "Tôi phải lướt web một tí."

    Rhyme đôi lúc cũng lên mạng, lang thang Internet. Cũng như với sách vở, phim ảnh và áp phích, mối quan tâm của anh với Internet cuối cùng cũng tiêu tan. Có thể vì thế giới của chính anh đã quá ảo, mà mạng thì cũng vậy, rốt cuộc lại trở thành một nơi đau khổ đối với Rhyme.

    Màn hình của Cooper nhấp nháy, nhảy múa khi anh ta bấm những đường siêu liên kết và thâm nhập vào trang web. "Tôi đang tải mấy file về. Có lẽ mất khoảng mười đến hai mươi phút."

    Rhyme nói: "Được rồi. Những manh mối còn lại mà Sachs tìm thấy... Những manh mối không phải được để lại. Những thứ khác. Chúng có thể nói cho ta biết hắn đã ở đâu. Hãy xem thử vũ khí bí mật của chúng ta, Mel."

    "Vũ khí bí mật?" Sachs hỏi.

    "Chứng cứ dấu vết."

    Đặc vụ Fred Dellray tổ chức đợt xâm nhập mười người. Hai đội cộng thêm nhóm S&S. Mấy đặc vụ mặc áo chống đạn đứng trong bụi cây đổ mồ hôi như tắm. Bên kia phố, trên tầng gác một tòa nhà bỏ hoang bằng đá nâu, nhóm S&S có máy nghe trộm và máy quay hồng ngoại chiếu vào nhà nghi phạm.

    Ba thiện xạ nằm trên mái nhà cùng những khẩu Remingtons vĩ đại, lên đạn và sẵn sàng. Một người quan sát cầm ống nhòm quỳ cạnh họ như những bà mụ.

    Dellray - mặc áo gió FBI và quần bò thay vì bộ vét màu xanh lá Leprechaun - đang lắng nghe qua tai nghe.

    "Giám sát báo cáo chỉ huy. Chúng tôi đã có kết quả hồng ngoại trong tầng hầm. Dưới đó có người đang đi lại."

    "Cảnh tượng thế nào?" Dellray hỏi.

    "Không nhìn thấy gì. Cửa sổ bẩn quá,"

    "Một mình hắn? Có nạn nhân ở đó không?" Có thể sĩ quan Sachs nói đúng; lúc này chắc hắn đã tóm được ai đó rồi.

    "Không biết. Chúng tôi chỉ thu được chuyển động và nhiệt."

    Dellray cử một sĩ quan khác chạy qua bên cạnh ngôi nhà. Họ báo cáo: "Không có bóng dáng ai ở tầng một và tầng hầm. Ga ra bị khóa."

    "Thiện xạ?" Dellray hỏi. "Báo cáo."

    "Xạ thủ một báo cáo chỉ huy. Tôi đã chiếm được cửa trước. Hết."

    Những ngưới khác đã vào hành lang và một phòng ở tầng một. "Sẵn sàng."

    Dellray rút khẩu tự động ra.

    "Được rồi, ta có giấy tờ", Dellray nói. Có nghĩa là giấy phép. Họ không cần phải gõ cửa. "Đi nào! Nhóm một, nhóm hai dàn trận, dàn trận, dàn trận."

    Nhóm đầu tiên phá cửa trước bằng một thanh gỗ trong khi nhóm thứ hai có cách thức văn minh hơn là phá cửa sổ sau nhà rồi mở chốt. Họ tràn vào, Dellray đi theo sĩ quan cuối cùng trong nhóm một vào căn nhà cũ kỹ, bẩn thỉu. Mùi thịt thối thật kinh khủng, và Dellray, mặc dù đã quá quen với những hiện trường vụ án cũng phải nuốt khan, cố gắng không nôn thốc nôn tháo.

    Nhóm thứ hai chiếm được tầng trệt, sau đó xông lên cầu thang tới phòng ngủ, trong khi nhóm thứ nhất chạy xuống tầng hầm, tiếng giày nện ầm ầm trên cầu thang gỗ.

    Dellray chạy xuống tầng hầm bốc mùi ghê sợ. Anh ta nghe thấy tiếng cửa bị phá đâu đó phía dưới và nghe tiếng thét: "Không động đậy! Đặc vụ liên bang đây. Đứng im. Đứng im. Đứng im!"

    Nhưng khi đến cửa tầng hầm, anh ta nghe thấy vẫn tiếng đặc vụ đó cáu kỉnh quát nhưng với giọng hoàn toàn khác. "Quái quỷ gì thế này? Ôi, lạy Chúa."

    "Mẹ kiếp", một đặc vụ khác nói. "Kinh quá!"

    "Thối như cứt", Dellray la lên, bị nghẹt thở khi bước vào trong. Cố gắng nuốt khan vì mùi quá kinh khủng.

    Một xác người nằm trên sàn, chảy ra một thứ nước đen. Cổ họng bị cứa đứt. Anh ta đã chết, mắt nhìn chăm chăm lên trần nhà nhưng thân hình anh ta trông có vẻ động đậy - phồng lên, dịch chuyển. Dellray sởn gai ốc, anh ta chưa bao giờ miễn dịch được với cảnh tượng nhung nhúc những côn trùng. Số lượng giòi bọ cho thấy nạn nhân chết ít nhất đã được ba ngày.

    "Vì sao hồng ngoại lại dương tính?" Một đặc vụ hỏi.

    Dellray chỉ một con chuột cùng những vết răng chuột và cạnh mạng sườn sưng vù của nạn nhân. "Chúng chắc chỉ loanh quanh đâu đây. Ta làm gián đoạn bữa trưa của chúng."

    "Chuyện gì xảy ra vậy? Một nạn nhân đã hạ được hắn?"

    "Anh nói gì thế?" Dellry cáu kỉnh.

    "Không, phải hắn đấy ư?"

    "Không, đó không phải là hắn ta", Dellray nổi giận, mắt nhìn vết thương trên thân thể nạn nhân.

    Một người trong nhóm nói với vẻ nghiêm trọng.: "Này Dellray. Đúng là hắn đấy. Ta có ảnh hắn. Chính hắn là Pietrs."

    "Tất nhiên đấy là thằng Pietrs chết tiệt. Nhưng hắn không phải đối tượng của chúng ta. Không hiểu à?"

    "Không, ý cậu là gì?"

    Mọi thứ trở nên rõ ràng với anh ta. "Thằng khốn."

    Điện thoại của Dellray rung làm anh ta nhảy lên. Anh ta mở nó ra, nghe khoảng một phút. "Cô ta làm cái gì? Cứ như là tôi cần lắm... Chưa, vẫn chưa tóm được thằng khốn đó."

    Anh ta nhấn phím tắt, chỉ ngón tay giận dữ vào hai đặc vụ SWAT. "Các cậu đi với tôi."

    "Có gì thế, Dellray?"

    "Chúng ta sẽ có một chuyến viếng thăm. Khi đến đó chúng ta sẽ như thế nào?" Hai đặc vụ nhìn nhau, cau mày. Nhưng Dellray đã có câu trả lời: "Chúng ta sẽ không tử tế chút nào cả."

    Mel Cooper đổ những thứ bên trong phong bì lên một tờ báo. Dùng kính lúp kiểm tra đám bụi. "Được rồi, có bụi gạch. Và một ít đá kiểu khác. Tôi nghĩ là đá cẩm thạch."

    Anh ta để một mẩu lên thanh trượt và xem xét nó dưới kính hiển vi. "Đúng rồi, đá cẩm thạch. Màu hồng."

    "Trong đường hầm ở bãi chăn, chỗ cô tìm thấy cô gái người Đức ấy, có tí đá cẩm thạch nào không?"

    "Không", Sachs trả lời.

    Cooper gợi ý có thể chúng từ nơi ở của Monelle, chỗ cô ta bị Đối tượng 823 bắt.

    "Không, tôi biết khu Deutsche Haus. Đó chỉ là mấy tòa nhà East Village được chuyển đổi. Loại đá tốt nhất ở đó chỉ là đá hoa được đánh bóng. Có thể, chỉ có thể thôi, đây là một mẩu từ hang ổ của hắn. Nó có gì đặc biệt không?"

    "Dấu đục." Copper nói, vẫn đang cúi mình trên kính hiển vi,

    "Thế à, tốt. Có rõ không?"

    "Không rõ lắm. Không đều."

    "Như vậy là máy cắt đá hơi nước cũ."

    "Ừ, tôi đoán thế."

    "Viết đi, Thom." Rhyme chỉ thị, hất đầu về phía tấm áp phích. "Trong nhà hắn có đá cẩm thạch. Cẩm thạch cũ."

    "Nhưng tại sao ta lại phải quan tâm đến nơi ẩn nấp an toàn của hắn nhỉ?" Banks vừa hỏi vừa nhìn đồng hồ. "Đặc vụ liên bang sẽ đến đây bất kỳ lúc nào."

    "Thông tin không bao giờ đủ, đúng không, Banks. Nhớ lấy điều đó. Ta còn gì nữa nào?"

    "Một mẩu găng tay nữa. Da màu đỏ. Cái gì thế này?" Anh hỏi Sachs, cô đang giơ cái túi nhựa đựng mẩu gỗ lên.

    "Mẫu nước hoa dùng sau khi cạo râu. Chỗ hắn chạm vào cột."

    "Tôi có phải đọc lại bài cũ không?" Cooper băn khoăn.

    "Để tôi ngửi thử đã", Rhyme nói.

    Sachs đưa cái túi lại chỗ anh. Trong đó là một mẩu gỗ nhỏ hình tròn. Cô mở túi và anh ngửi không khí bên trong.

    "Tuyệt. Sao mình có thể bỏ qua được nhỉ? Thom, viết thêm là anh bạn của chúng ta dùng nước hoa bán trong cửa hàng.

    Cooper tuyên bố: "Ta có thêm một sợi lông nữa." Kỹ thuật viên gắn nó lên kính hiển vi so sánh. "Rất giống với thứ ta tìm thấy trước đây. Có thể từ cùng một nguồn. Lincoln, cái này cho anh đấy. Tôi có thể nói nó giống nhau. Màu nâu."

    "Đoạn cuối bị cắt hay gãy tự nhiên?"

    "Bị cắt."

    "Tốt rồi. Ta có kết luận về màu tóc", Rhyme nói.

    Thom viết màu nâu đúng lúc Sellitto nói: "Đừng viết vội."

    "Sao thế?"

    "Rõ ràng đây không phải màu nâu", Rhyme tiếp.

    "Tôi nghĩ..."

    "Thứ gì đó nhưng không thể là màu nâu. Màu vàng, màu cát, đen, đỏ..."

    Viên thám tử giải thích: "Trò rất cũ. Cậu đến một ngõ phố, lấy mấy sợi tóc trong cửa hiệu cắt tóc. Vứt chúng quanh hiện trường."

    "Ồ", Banks cất điều này vào đâu đó trong bộ óc đầy nhiệt huyết của anh ta.

    Rhyme nói: "Được rồi. Đám sợi."

    Cooper đưa nó vào kính hiển vi phân cực. Anh ta nói trong khi điều chỉnh các nút vặn: "Khúc xạ đúp .053."

    Rhyme thốt lên: "Nylon 6. Trông nó thế nào, Mel?"

    "Rất thưa. Mặt cắt dạng thùy. Xám nhạt."

    "Thảm."

    "Được rồi. Tôi sẽ kiểm tra cơ sở dữ liệu." Một lúc sau anh ta ngẩng đầu lên. "Sợi Hampstead Textile 118B."

    Rhyme thở dài, vẻ chán nản.

    "Sao thế?" Sachs hỏi.

    "Vải bọc cốp xe thông dụng nhất nước Mỹ. Có ở hơn một trăm loại xe trong suốt năm mươi năm. Vô vọng... Mel, có gì trong cái sợi ấy không? Dùng SEM 1 nhé."

    Kỹ thuật viên bật kính hiển vi điện tử quét. Màn hình bật lên ánh sáng xanh dương - xanh lá ma quái. Mẩu sợi trông như một sợi dây khổng lồ.

    "Có gì đây này. Tinh thể. Rất nhiều. Họ dùng titanium dioxide để làm cho thảm mất độ bóng. Có thể là nó đấy."

    "Đốt nó lên. Quan trọng đấy."

    "Không đủ, Lincoln. Tôi sẽ phải đốt tất cả sợi."

    "Thế thì đốt đi."

    Sellitto tế nhị nói: "Mượn chứng cứ liên bang là một chuyện. Còn phá hủy nó? Tôi không biết, Lincoln. Nếu như có xử án..."

    "Ta phải làm.'

    "Trời ơi", Banks nói.

    Sellitto miễn cưỡng gật đầu và Cooper gắn mẫu vào máy. Chiếc máy rít lên. Một lúc sau màn hình nhấp nháy, các đồ thị cột hiện ra. "Đây này, đây là phân tử polyme chuỗi dài. Nylon. Nhưng đường sóng nhỏ này là thứ khác. Chlorine, chất tẩy... Đó là chất giặt tẩy."

    "Nhớ rằng cô gái Đức nói chiếc xe có mùi sạch sẽ. Hãy tìm xem đó là loại gì." Rhyme nói.

    Cooper nhập thông tin vào cơ sở dữ liệu tên thương hiệu. "Sản phẩm của Pfizer Chemicals. Nó được Baer Automotive Products bán với thương hiệu Tidi-Kleen ở Teterboro."

    "Tuyệt hảo!" Lincoln Rhyme la lên. "Tôi biết công ty này. Họ bán sỉ cho các đội xe. Phần lớn là các công ty cho thuê xe. Đối tượng của ta dùng xe thuê."

    "Hắn không đủ điên để lái một chiếc thuê đến hiện trường gây án, đúng không?" Banks hỏi.

    "Xe đánh cắp", Rhyme lẩm bẩm, như thể người thanh niên hỏi anh hai cộng hai bằng mấy. "Và nó sẽ có biển xe ăn cắp. Emma vẫn làm với chúng ta chứ?"

    "Giờ này chắc cô ta về nhà rồi."

    "Gọi cô ta dậy, bảo cô ta tìm kiếm kẻ đánh cắp của Hertz, Avis, National và Budget."

    "Sẽ làm", Sellitto nói, dù không thoải mái lắm, có thể vì anh ta ngửi thấy mùi vật chứng liên bang bị hỏa thiêu đang phảng phất trong không khí.

    "Dấu chân?" Sachs hỏi.

    Rhyme nhìn bức hình tĩnh điện do cô đem về.

    "Giày bị mòn kiểu khác thường. Hãy xem phần đế giày dưới ngón chân cái bị vẹt đi này?"

    "Ngón quặp?" Thom nói thành tiếng.

    "Có thể, nhưng lại không thấy phần mòn tương ứng của gót chân." Rhyme nghiên cứu vết chân. "Tôi nghĩ có thể hắn ta là người đọc sách."

    "Một người đọc sách?'

    "Cô ngồi xuống ghế ở kia", Rhyme nói với Sachs. "Cúi xuống bàn, vờ như đang đọc sách."

    Cô ngồi xuống, rồi ngẩng lên hỏi: "Và?"

    "Giả vờ lật trang đi."

    Cô làm theo, một vài lần. Lại ngẩng lên.

    "Tiếp tục đi. Cô đang đọc Chiến tranh và hòa bình."

    Tiếp tục lật trang, đầu cô hơi cúi. Sau một lúc, không nghĩ ngợi, cô bắt tréo chân. Phần tiếp xúc duy nhất với mặt đất là cạnh ngoài của chiếc giày.

    Rhyme chỉ ra điều này. "Đưa nó vào hồ sơ đi Thom. Nhưng đánh dấu hỏi."

    "Giờ hãy xem đường vân."

    Sachs nói cô không lấy được được dấu tay tốt, dấu tay họ có thể dùng nhận dạng đối tượng. "Nó vẫn trong tòa nhà kiểu liên bang."

    Nhưng Rhyme không quan tâm đến dấu tay đó. Mà là dấu tay khác, dấu Kromekote mà Sachs lấy được trên da cô gái người Đức. Anh muốn xem nó.

    Không quét được", Cooper tuyên bố. "Thậm chí không được loại C. Tôi sẽ không phát biểu gì nếu như tôi phải có ý kiến."

    Rhyme nói: "Tôi không quan tâm đến nhận dạng. Tôi quan tâm đến đường này." Đó là một đường hình trăng lưỡi liềm nằm ngay giữa ngón tay.

    "Cái gì thế?" Sachs hỏi.

    "Tôi nghĩ là vết sẹo", Cooper nói. "Từ một vết cắt cũ. Rất sâu. Có vẻ sâu đến tận xương."

    Rhyme nhớ lại những dấu vết và dị dạng trên da mà anh đã nhìn thấy trong nhiều năm qua. Thời gian trước, khi công việc còn chưa phải chủ yếu là sắp xếp giấy tờ và gõ bàn phím, thì có thể đoán được một người làm nghề gì chỉ nhờ nhìn tay anh ta: những ngón tay biến dạng vì đánh máy, những vết đâm của máy khâu và kim khâu da, vết mực và dấu quản bút trên tay người ghi tốc ký và kế toán viên, những mẩu giấy từ xưởng in, những vết sẹo của người cắt khuôn, những vết chai khác biệt từ các loại hình lao động chân tay khác nhau....

    Nhưng vết sẹo kiểu này chẳng nói với họ điều gì.

    Ít nhất là chưa phải lúc này. Chưa phải tới lúc họ có được bàn tay của nghi phạm để kiểm tra.

    "Còn gì nữa? Dấu đầu gối. Tốt. Cho ta biết hắn mặc gì. Giơ nó lên đi, Sachs. Cao lên. Quần thụng. Có vết ly rất sâu, vì thế đó là sợi tự nhiên. Với thời tiết thế này thì tôi nghĩ rằng đó là vải bông. Không phải len. Ngày nay người ta không mặc quần thụng lụa nhiều nữa."

    "Nhẹ, không phải vải bông chéo", Cooper nói.

    "Bộ đồ thể thao", Rhyme kết luận. "Thêm điều đó vào hồ sơ của ta đi, Thom."

    Cooper quay lại màn hình máy tính và nhập thêm dữ liệu. "Không may mắn lắm với cái lá. Không trùng hợp với bất cứ thứ gì ở Smithsonian 2."

    Rhyme ngả đầu xuống gối? Họ còn được bao nhiêu thời gian? Một giờ? Hai giờ?

    Mặt trăng. Bụi bẩn. Nước biển...

    Anh liếc nhìn Sachs đang đứng một mình ở góc nhà. Cô cúi đầu, mái tóc đỏ dài xuôi xuống nền nhà. Cô đang nhìn một cái túi chứng cứ, vẻ mặt nghiêm nghị, hoàn toàn tập trung. Không biết bao nhiêu lần Rhyme đã đứng trong tư thế ấy, gắng sức để...

    "Tờ báo!" Cô la lớn, ngẩng nhìn. "Cái mẩu giấy báo đâu rồi?" Ánh mắt cô đầy phấn khích khi tìm kiếm trên những mặt bàn. "Báo hôm nay?"

    "Gì thế, Sachs?" Rhyme hỏi.

    Cô giật tờ Thời báo New York từ Jerry Banks và nhanh chóng lướt qua.

    "Thứ chất lỏng... từ đồ lót", cô nói với Rhyme. "Có thể là nước biển được không?"

    "Nước muối?" Cooper cúi nhìn đồ thị GC-MS. "Tất nhiên rồi! Nước, natrium và những khoáng chất khác. Dầu và phosphate. Đó là nước biển bị ô nhiễm."

    Mắt cô gặp mắt Rhyme và họ đồng thanh nói: "Thủy triều!"

    Cô giương tờ báo, đã được lật đến bản đồ thời tiết. Nó có sơ đồ tuần trăng giống với sơ đồ được tìm thấy tại hiện trường. Phía dưới là sơ đồ thủy triều. "Còn bốn mươi phút nữa thủy triều lên.'

    Mặt Rhyme nhăn nhó vì khó chịu. Anh chưa bao giờ giận chính mình đến thế. "Hắn sẽ dìm chết nạn nhân. Họ đang ở dưới một cầu cảng ở trung tâm." Anh nhìn vô vọng vào bản đồ Manhattan với bờ biển dài nhiều dặm. "Sachs, đến lúc đua xe rồi. Cô và Banks đo theo hướng tây. Lon, sao anh không đi về hướng đông? Vòng quanh cảng South Street. Còn Mel, nghĩ xem cái lá là cái quái quỷ gì thế!"

    Một con sóng thình lình vỗ vào đầu ông đang gục xuống ngực.

    William Everett mở mắt và phì mạnh chỗ nước lạnh ngắt từ mũi ra. Nó lạnh như đá và ông cảm thấy trái tim đau yếu của mình đập thình thịch khi nó gắng sức bơm luồng máy ấm trong cơ thể ông.

    Ông suýt ngất đi lần nữa, như lúc tên khốn đó bẻ ngón tay của ông. Rồi ông tỉnh lại, nghĩ đến người vợ quá cố của mình - và các lý do cho những lần họ đi du lịch cùng nhau. Họ đến Giza. Và đến Guatemala. Nepal. Teheran (một tuần trước khi đại sứ quán bị chiếm).

    Chiếc máy bay của hãng hàng không Đông Nam Trung Quốc hỏng một trong hai động cơ, sau một giờ cất cánh từ Bắc Kinh, Evelyn cúi đầu, trong tư thế khẩn cấp, chờ chết nhưng mắt vẫn đọc một bài báo trong tờ tạp chí trên máy bay. Bài báo cảnh báo không nên uống chè nóng ngay sau bữa ăn. Sau đó, khi ngồi trong quán rượu Raffles ở Singapore, bà đã kể lại cho ông nghe chuyện này. Họ đã cười như điên, cười đến chảy cả nước mắt.

    Ông nghĩ tới ánh mắt lạnh lùng của tên bắt cóc. Răng, đôi găng tay thô thiển của hắn.

    Bây giờ, trong cái nhà mồ ướt át ghê rợn này, một cơn đau không chịu nổi trườn theo tay ông lên tới cằm.

    Do ngón tay gãy hay cơn suy tim? Ông băn khoăn.

    Có thể là mỗi thứ một chút.

    Everett nhắm mắt cho tới khi cơn đau dịu đi. Ông nhìn xung quanh. Cái cống nơi ông bị còng nằm dưới một cầu cảng hôi thối. Một vành gỗ thò từ bờ rìa cầu cảng xuống mặt nước, lúc này còn cách nó khoảng sáu inch. Ánh sáng từ những con thuyền trên sông và những nhà máy của Jersey phản chiếu trên rạch nước hẹp. Nước đã ngập tới cổ ông và mặc dù nóc cầu cảng còn ở cách đầu ông mấy feet, nhưng cái còng tay giữ chặt ông tại chỗ.

    Cơn đau tràn qua ngón tay ông, đầu Everett giãy giụa trong cơn hấp hối, rơi xuống nước khi ông ngất đi. Nước đầy mũi và cơn ho khốn khổ khiến ông tỉnh lại.

    Mặt trăng kéo nước dâng cao thêm. Với một tiếng oạp ẩm ướt, cái cống bị tách khỏi dòng sông bên ngoài. Căn phòng tối om. Ông nghe thấy tiếng gầm gừ của những con sóng và tiếng rên rỉ đau đớn của chính mình.

    Ông biết mình đã chết, biết mình chẳng thể giữ đầu cao hơn mặt nước nhầy nhụa được quá vài phút nữa. Ông nhắm mắt, úp mặt vào cây cột đen đúa, trơn tuột.

    --------------------------------
    1 SEM: Xem phần phụ lục.
    2 Smithsonian: Cơ sở đào tạo quốc gia của Mỹ, với nhiều viện nghiên cứu và bảo tàng.

Trang 2 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Bắt bãi cát tập kết gỗ lậu
    By duyanh in forum Văn Hóa-Xã Hội-Kinh Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-21-2017, 01:39 PM
  2. Indonesia xác định danh tính kẻ tấn công
    By duyanh in forum Tin Tức Quốc Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-15-2016, 01:29 PM
  3. Cô gái muốn kết hôn với bố ruột tại Mỹ
    By sophienguyen in forum Chuyện Lạ Đó Đây
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-21-2015, 03:19 AM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 05-16-2014, 01:34 AM
  5. Cách kết hợp màu móng để diện Tết
    By sophienguyen in forum Thẩm Mỹ Nails
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-24-2014, 03:37 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •