Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Những ai chưa từng đau khổ thì những kẻ ấy không bao giờ biết tận hưởng được hạnh phúc.
Ugo Foscolo
Trang 3 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối
Results 21 to 30 of 38

Chủ Đề: Kẻ Tầm Xương

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Kẻ Tầm Xương



    Tác giả : Jeffery Deaver

    Dịch giả: Phạm Hồng Anh



    "Xương là cốt lõi tối thượng của con người. Nó không thay đổi, không lừa dối, không đầu hàng. Một khi bề ngoài da thịt, những thiếu sót của những chủng tộc hạ đẳng, giới tính yếu ớt, bị đốt cháy hay nấu chín, thì chúng ta - tất cả chúng ta - còn lại là xương cốt cao quý. Xương cốt không dối trá. Nó là vĩnh cửu."

    Trích Kẻ tầm xương - tiểu thuyết đầu tiên trong series tiểu thuyết trinh thám về nhân vật Lincoln Rhyme



    I

    VUA MỘT NGÀY

    Thực tại ở New York
    quá hùng mạnh khiến cho quá khứ phải biến mất.

    JOHN JAY CHAPMAN



    MỘT


    10:30 PM thứ Sáu đến 3:30 PM thứ Bảy

    Cô chỉ muốn ngủ.

    Máy bay hạ cánh chậm hai tiếng và hành khách xếp hàng dài dằng dặc để đợi lấy hành lý. Xe phục vụ đưa đón họ đã về được một tiếng. Còn bây giờ họ đang đợi taxi.

    Cô đứng trong hàng người, thân hình mảnh dẻ nghiêng đi dưới sức nặng của chiếc máy tính xách tay. John đang huyên thuyên về lãi suất và những cách thức điều chỉnh hợp đồng, nhưng tất cả những gì cô có thể nghĩ tới là 10:30 thứ Sáu, mình muốn ráo mồ hôi và ăn uống gì đấy.

    Nhìn vào dòng chảy vô tận của những chiếc Yellow Cab. Có điều gì đó ở màu sắc và sự giống nhau của những chiếc xe gợi cho cô nhớ tới bọn côn trùng. Cô rùng mình vì cảm giác bò trườn ghê sợ mà cô vẫn nhớ từ hồi còn bé ở trên núi, khi cô và anh trai nhìn thấy một con lửng gan dạ bị giết hay đang cố kháng cự lại tổ kiến lửa đỏ, cô đã nhìn chằm chằm vào một khối chân cẳng và thân thể ẩm ướt, quằn quại.

    T.J. Colfax lê chân về phía trước khi chiếc taxi tạt vào lề đường và phanh kít lại.

    Người lái xe mở cốp nhưng vẫn ngồi trong xe. Họ phải tự xếp đồ, việc đó làm John khó chịu. Anh đã quen được người khác làm cho mọi thứ. Tammie Jean không quan tâm; đôi khi cô vẫn ngạc nhiên vì thấy mình có thư ký đánh máy và lập hồ sơ giúp. Cô ném vali vào cốp xe, đóng lại và trèo vào trong xe.

    John vào sau cô, sập cửa, nhăn bộ mặt béo phị vào cái đầu hói của anh ta, cứ như nỗ lực cho cái túi đựng bộ vét của anh ta vào cốp xe đã làm anh ta kiệt sức.

    "Đến Bảy mươi hai Đông trước", John lầm bầm qua lớp kính chắn.

    "Sau đó đến Upper West Side" 1, T.J. nói thêm. Lớp kính chắn Plexi giữa hàng ghế đầu và hàng ghế sau xước xát đến mức cô gần như không thấy người tài xế.

    Chiếc taxi lao bắn khỏi vỉa hè và nhanh chóng chạy trên đường cao tốc hướng về phía Manhattan.

    "Xem kìa", John nói, "kia là lý do tại sao lại đông người đến thế".

    Anh chỉ vào một bảng quảng cáo chào mừng các đoàn đại biểu đến dự hội nghị hoà bình của Liên Hiệp Quốc. Sẽ có khoảng mười nghìn khách đến thành phố. T.J. ngước nhìn tấm bảng - những người da đen, da trắng và châu Á, vẫy tay và tươi cười. Tuy vậy vẫn có điều gì đó không ổn trong bức tranh. Tỷ lệ và màu sắc đã bị phai. Các khuôn mặt trông có vẻ nhợt nhạt.

    T.J. nói thầm: "Bọn ba bị."

    Họ chạy trên con đường cao tốc rộng rãi, trông bóng loáng và có màu vàng không dễ chịu dưới ánh sáng đèn đường. Chạy qua khu Cảng Hải quân cũ, qua những chiếc cầu cảng của Brooklyn.

    Cuối cùng John cũng ngừng nói, lôi chiếc Texas Instruments ra và bắt đầu gõ. T.J. dựa lưng vào ghế, nhìn sang vỉa hè bốc khói và những khuôn mặt buồn thảm của những người ngồi trên các bậu cửa đá nâu trông ra đường. Họ hình như đã bị hôn mê trong cái nóng.

    Trong xe nóng bức nên T.J. thò tay bấm nút mở cửa sổ. Cô không ngạc nhiên khi thấy cửa kính xe không mở được. Cô vươn qua người John. Cửa sổ bên anh cũng hỏng. Và đó là lúc cô nhận thấy xe không có khoá cửa.

    Cả tay nắm cửa cũng không có.

    Tay cô lần tìm nút tay nắm cửa. Chẳng có gì - cứ như ai đó đã cắt nó đi bằng cưa máy.

    "Gì vậy?" John hỏi.

    "À, cánh cửa... Ta mở cửa thế nào bây giờ?"

    John nhìn từng cánh cửa khi biển hiệu Đường hầm Midtown xuất hiện rồi biến mất.

    "Này!" John gõ vào tấm kính chắn. "Ông lỡ mất chỗ rẽ rồi. Chúng ta đang đi đâu thế này?"

    "Có lẽ ông ta định qua Queensboro", T.J. nói. Qua cầu đường sẽ dài hơn nhưng không phải trả phí qua hầm. Cô ngồi dịch lên và gõ nhẫn vào tấm kính Plexi.

    "Ông định qua cầu đấy à?"

    Người lái xe lờ đi.

    "Này!"

    Ngay sau đó họ qua chỗ rẽ Queensboro.

    "Chết tiệt", John hét lên. "Ông định đưa chúng tôi đi đâu? Harlem. Tôi cá là hắn ta định đưa chúng ta đến Harlem."

    T.J. nhìn ra ngoài cửa sổ. Một chiếc xe đang chạy song song với họ và chậm rãi vượt lên. Cô đập thật mạnh vào cửa sổ.

    "Cứu!" Cô gào to. "Làm ơn đi..."

    Người lái xe liếc cô một lần, rồi lần nữa, vẻ không bằng lòng. Anh ta giảm tốc độ và lùi lại sau họ nhưng chiếc taxi đã đột ngột quặt vào đường nhánh xuống Queens, vòng vào một con phố và chạy dọc theo một khu nhà kho trống trải. Có lẽ họ đã phải chạy với tốc độ hơn sáu mươi dặm 2 một giờ.

    "Ông đang làm cái trò gì thế?"

    T.J. đập vào tấm kính chắn. "Chạy chậm lại. Chúng ta đang ở đâu?"

    "Ôi, trời ơi, không", John thì thầm. "Nhìn kìa."

    Người tài xế đã đeo một chiếc mặt nạ trượt tuyết.

    "Ông muốn gì?" T.J. hét lên.

    "Tiền à? Chúng tôi sẽ đưa tiền cho ông."

    Nhưng phía trước xe vẫn im lặng.

    T.J. mở tung chiếc túi hiệu Targus của cô và lôi chiếc máy tính xách tay màu đen ra. Cô ngả người về phía sau và phang góc máy tính vào cửa sổ. Kính vẫn còn nguyên vẹn mặc dù tiếng đập có vẻ đã làm người tài xế hết hồn. Chiếc taxi đổi hướng và suýt đâm vào bức tường của toà nhà họ vừa chạy qua.

    "Tiền? Bao nhiêu? Tôi sẽ đưa cho ông rất nhiều tiền!" John lắp bắp, nước mắt rơi lã chã xuống hai cái má béo phị của anh ta.

    T.J phang máy tính vào cửa sổ thêm một lần nữa. Cú phang mạnh đến nỗi màn hình bắn ra nhưng cửa sổ vẫn y nguyên.

    Cô thử lại lần nữa, thân máy tính mở tung và rơi khỏi tay cô.

    "Mẹ kiếp..."

    Cả hai lao mạnh về phía trước khi chiếc xe trượt bánh trên đường và dừng lại trên một ngõ cụt tăm tối, bẩn thỉu.

    Người lái xe chui ra khỏi xe, trong tay hắn là một khẩu súng lục nhỏ.

    "Đừng, xin ông", cô van xin.

    Hắn ta đi ra phía sau xe và cúi người xuống, nhìn qua lớp kính bị trầy xước. Hắn đứng đó khá lâu trong khi cô và John lùi lại phía sau, dựa vào cánh cửa đối diện, thân thể đầm mồ hôi của họ dán vào nhau. Người tài xế khum tay che ánh đèn đường và nhìn họ thật gần.

    Bất ngờ có tiếng nổ vang rền trong không trung. T.J. co rúm người. John thét lên một tiếng.

    Phía xa, đằng sau người lái xe, bầu trời tràn ngập những chấm lửa xanh đỏ. Lại có thêm những tiếng nổ và tiếng rít. Hắn ta quay lại và nhìn lên trong khi một con nhện khổng lồ màu da cam đang trải mình phía bên trên thành phố.

    Pháo hoa, T.J. nhớ lại tờ Thời báo: Món quà của Thị trưởng và Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc cho các đoàn đại biểu, chào mừng họ tới thành phố vĩ đại nhất thế giới.

    Người lái xe quay lại chiếc taxi. Hắn ta kéo tay nắm cửa với một tiếng động lớn và từ từ mở cửa.

    Một cuộc gọi nặc danh. Như mọi khi

    Như thế thì chẳng có cách gì kiểm tra xem người báo tin có định nói về khu đất hoang nào. Trung tâm gọi đến: "Anh ta nói Ba mươi bảy gần Mười một. Chỉ có thế thôi."

    Những người báo tin thường không biết rõ hướng tới hiện tượng vụ án.

    Đã toát mồ hôi mặc dù lúc này mới có chín giờ sáng, Amelia Sachs đẩy một bệ cỏ cao. Cô đang tìm theo vạch - cách gọi của những người làm việc tại hiện trường vụ án - một sơ đồ hình chữ S. Chẳng có gì. Cô nghiêng đầu nói vào cái mic kẹp trên ve bộ đồng phục màu xanh hải quân của cô.

    "5885. Không tìm thấy gì, thưa Trung tâm. Các anh có yêu cầu gì thêm không?"

    Người trực tổng đài nói qua tiếng lẹt xẹt tĩnh điện: "Không cần gì tại đó nữa, 5885. Nhưng có một điều... người báo tin nói anh ta hi vọng nạn nhân đã chết. Nghe rõ."

    "Trung tâm, xin nhắc lại."

    "Người báo tin này nói anh ta hi vọng nạn nhân đã chết. Vì lợi ích của chính nạn nhân. Nghe rõ."

    "Nghe rõ."

    Hy vọng nạn nhân đã chết?

    Sachs leo qua một dây xích rũ xuống và tìm một khoảng trống khác. Không có gì.

    Cô muốn bỏ cuộc. Gọi đến 10-90, báo cáo vô căn cứ, và quay trở lại với Deuce, khu tuần tra thường xuyên của cô. Đầu gối cô bị đau và cô đang nóng như bị hầm trong cái thời tiết tháng Tám tệ hại này. Cô muốn lẻn vào Ban quản lí Cảng, nói chuyện với các chàng trai và uống một hộp trà đá Arizona. Sau đó, lúc 11:30 - chỉ cách đó một, hai giờ đồng hồ - cô có thể đã dọn dẹp tủ đồ đạc của mình ở Nam Midtown 3 và chuẩn bị đi tập.

    Nhưng cô không, không thể thì đúng hơn, bỏ qua cuộc gọi này. Cô tiếp tục đi: dọc theo vỉa hè nóng bức, qua khoảng trống giữa hai khu đất hoang và một khu vườn nhiều cây cối khác.

    Ngón tay trỏ rất dài của cô thọc vào chiếc mũ đồng phục đỉnh phẳng, qua những lớp tóc đỏ dày được búi cao trên đầu. Cô gãi mạnh khi chạm đến phía dưới chiếc mũ, rồi gãi thêm một lúc nữa. Mồ hôi chảy dọc trán cô buồn buồn và cô gãi lông mày.

    Suy nghĩ: Hai giờ cuối cùng của mình ngoài phố. Mình chịu được.

    Khi Sachs đi sâu hơn vào bụi cây, cô cảm thấy sự bất ổn đầu tiên trong buổi sáng hôm nay.

    Ai đó đang nhìn mình.

    Gió nóng thổi xào xạc trên những bụi cây khô, xe hơi và xe tải ầm ĩ qua lại Đường hầm Lincoln. Cô nghĩ tới điều mà một sĩ quan tuần tra thường làm: thành phố này quá ầm ĩ đến mức ai đó có thể lẻn tới sau mình, trong tầm dao, mà mình không hề hay biết.

    Hoặc phóng ra những tia nhìn thép chiếu vào lưng mình...

    Cô quay lại thật nhanh.

    Chẳng có gì ngoài những chiếc lá, những cỗ máy rì rầm và rác rưởi. Trèo lên một đống đá, mặt mũi cau có. Amelia Sachs - ba mươi mốt tuổi - gần được ba mươi mốt, mẹ cô chắc sẽ nói thế - đã bị viêm khớp. Cô được thừa kế chứng bệnh đó từ ông ngoại, cũng rõ ràng như cô đã nhận được thân hình mảnh dẻ từ mẹ, vẻ ngoài xinh đẹp cũng như sự nghiệp từ cha (màu tóc đỏ thì tuỳ theo suy đoán của mọi người). Lại thêm một cơn đau nhói khi cô đi qua một bức rèm được tạo thành từ các bụi cây chết khô cao ngất. Cô may mắn dừng lại khi chỉ cách cái vách sâu ba mươi feet 4 đúng một bước chân.

    Phía dưới cô là một cái khe tối tăm - cắt sâu xuống nền đá của West Side. Chạy qua đó là đường sắt Amtrak cho những đoàn tàu đi lên phía bắc.

    Cô hé mắt, liếc nhìn đáy khe cách không xa nền đường sắt.

    Cái gì thế?

    Một vòng tròn đất mới lật, một nhánh cây nhỏ cắm bên trên? Trông nó giống như...

    Ôi! Lạy chúa!

    Một cảnh tượng làm cô rùng mình. Cảm thấy cơn buồn nôn dâng lên, châm vào da của cô như một làn sóng lửa. Cô kìm nén được cái phần nhỏ nhoi trong cô, cô muốn quay đi chỗ khác và làm ra vẻ như mình chưa hề trông thấy gì.

    Anh ta hi vọng nạn nhân đã chết. Vì chính nạn nhân.

    Cô chạy theo chiếc cầu thang sắt dẫn tới vỉa hè xuống phía dưới nền đường. Cô vươn tay và định bám vào tay vịn cầu thang nhưng cô đã kịp dừng lại. Khốn kiếp. Thủ phạm có thể tẩu thoát theo đường này. Nếu chạm vào đó, cô có thể xoá mất dấu tay hắn để lại. Được, ta làm cách khó vậy. Thở thật sâu để nén cơn đau khớp, cô bắt đầu trèo xuống theo mặt đá, cố lùa đôi giày mới của cô - đôi giày được đánh bóng như gương cho ngày đầu tiên nhận nhiệm vụ mới - vào những khe đá nứt. Cô nhảy từ độ cao bốn feet xuống nền đường và chạy tới nấm mồ.

    "Ôi, trời..."

    Đó không phải là một nhánh cây nhô lên khỏi mặt đất mà là một cánh tay. Thân thể bị chôn đứng và đất được đắp lên tới cánh tay, cổ tay và bàn tay thò ra ngoài. Cô nhìn chằm chằm vào ngón đeo nhẫn; tất cả thịt đã bị bóc sạch và một chiếc nhẫn kim cương của phụ nữ có hình ly cocktail được lồng vào đoạn xương máu me, trần trụi.

    Sachs quỳ xuống và bắt đầu đào.

    Cô đào bới làm cho đất bắn tung toé, cô nhận thấy những ngón tay chưa bị cắt trông xiên xẹo và kéo dãn ngoài mức có thể uốn cong. Điều đó nói với cô rằng nạn nhân vẫn còn sống khi bị những xẻng đất cuối cùng hất vào mặt.

    Và có thể vẫn còn sống.

    Sachs giận dữ đào chỗ đất còn tơi, cắt tay vào mảnh chai, máu đen của cô trộn lẫn với màu đất còn đen hơn. Sau đó, cô đào đến tóc và vầng trán phía dưới, vầng trán đã xanh xám lại vì thiếu oxy. Tiếp tục đào cho tới khi cô có thể nhìn thấy hai con mắt mờ đục và cái miệng đã bị vặn xoắn thành vẻ mặt kinh hoàng khi nạn nhân cố gắng trong một vài giây cuối cùng để ngoi lên khỏi đợt thuỷ triều đất đen.

    Không phải là một phụ nữ. Dù tay đeo chiếc nhẫn. Đó là một người đàn ông trên năm mươi tuổi, đậm người. Chết khi đất vùi kín anh ta.

    Lùi lại phía sau, cô không thể rời mắt khỏi cái xác chết và suýt vấp phải đường tàu. Cô không thể nghĩ được điều gì khác trong gần một phút. Ngoài việc nếu bị chết như thế thì sẽ ra sao.

    Sau đó: Nào, em yêu. Em đã tự dẫn mình đến hiện trường vụ án và em là sĩ quan đầu tiên có mặt tại hiện trường.

    Em biết phải làm gì chứ:

    ADAPT

    A là Arrest: bắt kẻ tình nghi.

    D là Detain: thẩm tra nhân chứng và vật chứng.

    A là Assess: đánh giá hiện trường vụ án.

    P là....

    P là gì nhỉ?

    Cô nghiêng đầu nói vào mic. "5885 gọi Trung tâm. Báo cáo tiếp. Tôi gặp 10-29 trên đường tàu hoả ở Đại lộ Ba mươi tám và Mười một. Giết người, nghe rõ. Cần thám tử, CS 5, xe bus, và bác sĩ pháp y. Nghe rõ."

    "Đã rõ, 5885. Nghi phạm đã bị bắt chưa, nghe rõ?"

    "Không có nghi phạm."

    "Năm-tám-tám-năm, nghe rõ"

    Sachs nhìn chằm chằm vào ngón tay, ngón tay bị lóc thịt đến tận xương. Một chiếc nhẫn không phù hợp. Hai con mắt. Và vẻ mặt nhăn nhúm... Ôi, cái vẻ mặt nhăn nhúm kinh dị này. Cơn rùng mình chạy dọc cơ thể cô. Amelia Sachs đã từng bơi với rắn trong những con sông khi đi nghỉ hè và đã từng huênh hoang một cách chân thực rằng, cô không có vẫn đề gì khi chơi bungee-jumping 6 từ cây cầu cao một trăm feet. Nhưng cứ để cô nghĩ về sự giam cầm... nghĩ tới việc bị rơi vào bẫy, hoàn toàn bất động thì cơn hoảng loạn sẽ tóm lấy cô như bị sốc điện. Đó là lí do vì sao Sachs đi nhanh và lái xe như chớp.

    Khi ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta...

    Cô nghe thấy một tiếng động và ngẩng đầu.

    Tiếng ầm ầm, sâu và ngày càng lớn hơn.

    Những mẩu giấy vụn bay tung trên đường ray. Những đám bụi bay quanh cô như những con ma giận dữ.

    Sau đó là tiếng rền rĩ nhỏ...

    Sĩ quan tuần tra Amelia Sachs, chỉ cao một feet chín, thấy mình đang đối diện với một chiếc đầu máy xe lửa nặng ba mươi tấn của Amtrak, một khối sắt đỏ, trắng và xanh đang lao tới với tốc độ mười dặm một giờ.

    "Dừng lại ngay!" Cô hét lên.

    Người kỹ sư lờ cô đi.

    Sachs nhảy vào, đứng ngay giữa đường ray, giạng chân, vẫy tay ra hiệu cho anh ta dừng lại. Chiếc đầu máy kêu rít lên rồi dừng lại. Người kĩ sư thò đầu ra ngoài cửa sổ.

    "Anh không đi qua đây được", cô nói với anh ta.

    Anh ta hỏi ý cô là gì. Cô nghĩ anh ta trông quá trẻ để có thể lái đoàn tàu lớn như vậy.

    "Đây là hiện trường vụ án. Vui lòng tắt động cơ."

    "Thưa quý cô, tôi không hề nhìn thấy hiện trường vụ án nào cả."

    Nhưng Sachs không nghe. Cô đang nhìn lên khoảng trống trong chuỗi xích bên phía tây của cây cầu tàu phía trên, gần Đại lộ Mười một.

    Chỉ có thể có một cách để đưa xác chết đến đây mà không bị phát hiện - đỗ xe ở Đại lộ Mười một và kéo xác qua một con đường hẹp dẫn đến vách đá. Còn trên Đại lộ Ba mươi bảy, chỗ giao lộ, hắn ta có thể bị phát hiện từ hai tá cửa sổ của các căn hộ.

    "Đoàn tàu này, thưa ngài. Xin cứ để nó đấy."

    "Tôi không thể để nó ở đây được."

    "Vui lòng tắt động cơ."

    "Chúng tôi không tắt động cơ của những con tàu kiểu này. Lúc nào chúng cũng chạy."

    "Và hãy gọi điện cho điều phối viên. Hay ai đó. Yêu cầu họ dừng cả các đoàn tàu đi về phía nam."

    "Chúng tôi không được làm thế."

    "Ngay bây giờ. Tôi có thể lấy số của chiếc xe đó, được không?"

    "Chiếc xe?"

    "Tôi khuyên anh nên làm ngay", Sachs quát.

    "Cô định làm gì, thưa quý cô? Gắn phiếu phạt tôi chắc?"

    Nhưng Amelia Sachs đã lại trèo lên trên bức tường đá, các khớp xương đáng thương của cô kêu cót két, môi cô cảm thấy vị bụi đá vôi, đất sét và mồ hôi của chính mình. Cô chạy về phía con đường cô vừa nhìn thấy từ dưới kia, sau đó quay lại, nghiên cứu Đại lộ Mười một và Trung tâm Javits ở bên kia đường. Gian đại sảnh đầy người - những người đến xem và báo chí. Một biểu ngữ khổng lồ tuyên bố Chào mừng các đại biểu Liên Hiệp Quốc! Nhưng sáng hôm nay, khi con phố vắng người, tên tội phạm có thể dễ dàng tìm thấy một nơi đỗ xe ở đây là kéo cái xác đến đường ray mà không bị phát hiện. Sachs chạy tới Đại lộ Mười một, nghiên cứu đại lộ sáu làn xe đang tắc nghẽn.

    Làm thôi!

    Cô khó nhọc vượt qua một biển xe hơi, xe tải và chặn làn đường đi lên phía bắc. Mấy người lái xe cố chạy vớt, cô đã phải xé hai phiếu phạt và sau cùng cô kéo thùng rác ra giữa phố như một chiến lũy để đảm bảo những người dân lương thiện thực hiện nghĩa vụ công dân của họ.

    Cuối cùng thì Sachs cũng đã nhớ ra quy tắc tiếp theo trong các quy tắc ADAPT của sĩ quan đầu tiên có mặt tại hiện trường vụ án.

    P là Protect: bảo vệ hiện trường vụ án.

    Âm thanh của những chiếc còi xe giận dữ bắt đầu tràn ngập bầu trời buổi sáng mờ sương, sau đó được thay thế bằng những tiếng thét giận dữ hơn của các tài xế. Một lúc sau, cô nghe tiếng còi hụ tham gia ầm ĩ khi những chiếc xe khẩn cấp đầu tiên lao tới.



    Bốn mươi phút sau, nơi này tràn ngập cảnh phục và các điều tra viên, có đến vài chục người - đông hơn vụ diễn ra tại Hell's Kitchen rất nhiều, bất kể là nguyên nhân cái chết có khinh khủng hơn đến mấy. Nhưng Sachs đã học được từ những cảnh sát khác, đây là một vụ nóng, một vụ thu hút báo giới - nạn nhân có thể là một trong những hành khách đến sân bay JFK 7 đêm trước, bắt taxi vào thành phố. Họ có thể không bao giờ về được đến nhà.

    "CNN 8 đang theo dõi." Một người mặc cảnh phục thầm thì.

    Vì thế Amelia Sachs không ngạc nhiên khi thấy Vince Peretti tóc vàng, giám đốc IRD 9, bộ phận theo dõi đơn vị hiện trường vụ án, trèo qua hàng rào và dừng lại lúc anh ta phủi bộ vét trị giá cả nghìn đô la của mình.

    Cô ngạc nhiên khi thấy anh nhận ra cô và ra hiệu cho cô, một nụ cười giả tạo xuất hiện trên khuôn mặt sắc nét của anh ta. Cô nhận ra rằng cô sẽ nhận được một cái gật đầu cảm ơn về hành động Cliffhanger 10 vừa rồi. Bảo vệ dấu tay trên cái cầu thang đó, các chàng trai. Có thể sẽ có cả khen ngợi. Trong giờ tuần tra cuối cùng của ngày làm việc cuối cùng ở Đội Tuần tra. Ra đi với ánh hào quang của sự vẻ vang.

    Anh ta nhìn cô từ trên xuống dưới. "Sĩ quan tuần tra, cô không phải là lính mới, đúng không? Giả định của tôi đúng chứ?"

    "Tôi xin lỗi, thưa ngài?"

    "Cô chắc không phải lính mới, tôi giả định thế."

    Cô không phải lính mới, không tuân theo quy tắc, mặc dù cô mới có ba năm phục vụ, khác với hầu hết các sĩ quan tuần tra khác ở độ tuổi cô; họ đã có chín hay mười năm phục vụ. Sachs bị lỡ mất mấy năm trước khi vào học viện. "Tôi không biết ngài định hỏi gì."

    Anh ta trông bực tức, nụ cười biến mất khỏi khuôn mặt. "Cô là sĩ quan đầu tiên có mặt tại hiện trường, đúng vậy không?"

    "Vâng, thưa ngài"

    "Vì sao cô lại chặn Đại lộ Mười một? Cô nghĩ gì vậy?"

    Cô nhìn dọc theo con phố rộng vẫn đang bị cái thùng rác chiến lũy của cô chặn lại. Cô đã quen với tiếng còi nhưng giờ mới nhận ra là nó rất ồn, dòng xe kéo dài tới vài dặm.

    "Thưa ngaì, nhiệm vụ đầu tiên của một sĩ quan là bắt nghi phạm, thẩm vấn mọi nhân chứng, bảo vệ..."

    "Tôi biết quy tắc ADAPT, sĩ quan ạ. Cô chặn phố để bảo vệ hiện trường vụ án à?"

    "Vâng thưa ngài. Tôi không nghĩ rằng nghi phạm sẽ đỗ xe tại giao lộ. Hắn ta có thể dễ dàng bị trông thấy từ các căn hộ trên kia. Ngài nhìn thấy chứ, trên kia? Đại lộ Mười một có thể là lựa chọn tốt hơn."

    "Được. Nhưng đó là một sự lựa chọn sai lầm. Không có dấu chân ở phía bên kia đường ray, và có hai loạt dấu chân đi lên cầu thang tới Đai lộ Ba mươi bảy."

    "Tôi đã chặn cả Đại lộ Ba mươi bảy nữa."

    "Đó là ý tôi. Đó là tất cả những gì cần chặn. Còn đoàn tàu?" Anh ta hỏi. "Vì sao cô lại chặn đoàn tàu?"

    "Vâng thưa ngài. Tôi nghĩ rằng một đoàn tàu đi qua hiện trường có thể làm ảnh hưởng đến chứng cứ. Hay cái gì đó."

    "Hay cái gì đó, sĩ quan?"

    "Tôi diễn đạt ý mình không được tốt lắm, thưa ngài. Ý tôi là..."

    "Còn sân bay Newark thì sao?"

    "Vâng thưa ngài." Cô nhìn quanh tìm sự giúp đỡ. Có mấy sĩ quan ở gần đó, nhưng họ đang bận phớt lờ người bị quở trách. "Chính xác thì Newark là thế nào?"

    "Sao cô không đóng cửa nó luôn đi?"

    Ồ, tuyệt vời. Một bài học. Đôi môi Julia Roberts của cô căng lên nhưng cô nói vừa phải. "Thưa ngài, theo nhận định của tôi, có thể là..."

    "Xuyên lộ New York cũng có thể là lựa chọn tốt. Jersey Pike và Xxa lộ Long Island. I-70 và các con đường đến St.Louis. Đó cũng có thể là phương cách trốn chạy."

    Cô hơi cúi đầu và nhìn lại Peretti. Hai người cao bằng nhau dù đế giày của anh ta cao hơn.

    "Tôi có điện thoại từ ngài chánh thanh tra." Anh ta tiếp tục. "Từ giám đốc của Ban quản lý Cảng, văn phòng Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, giám đốc triển lãm.." Anh ta hất đầu về phía Trung tâm Javits. "Chúng ta đã phá hỏng lịch trình hội nghị, bài phát biểu của một thượng nghị sĩ Mỹ và toàn bộ giao thông bên West Side. Đường ray cách nạn nhân mười lăm feet còn con phố mà cô chặn lại cách chỗ đó một trăm feet và trên đó ba mươi feet. Ý tôi là ngay cả Bão Eve cũng không ảnh hưởng như vậy tới Hành lang Đông Tây của Amtrak."

    "Tôi chỉ nghĩ rằng..."

    Peretti cười. Vì Sachs là một phụ nữ đẹp - trong những năm tháng "chìm đắm" của cô trước khi gia nhập Học viện Cảnh sát, có thời gian cô đã làm việc thường xuyên cho Công ty Người mẫu Chantelle - nên viên cảnh sát lựa chọn tha thứ cho cô.

    "Tuần tra viên Sachs" - anh ta liếc nhìn bảng tên trên ngực cô, được dán một cách đơn giản trên chiếc áo chống đạn hiệu American Body Armor - "một bài học. Nhiệm vụ tại hiện trường vụ án là một việc đòi hỏi sự cân bằng. Sẽ rất tốt nếu chúng ta có thể rào cả thành phố sau mỗi vụ giết người và thẩm vấn ba triệu người. Nhưng chúng ta không thể làm điều đó. Tôi nói điều này là có tính xây dựng. Để khai sáng cho cô".

    "Trên thực tế, thưa ngài", cô nói cộc cằn. "Tôi sắp chuyển khỏi Đội Tuần tra. Điều đó có hiệu lực từ trưa hôm nay."

    Anh ta gật đầu, cười vui vẻ. "Thế thì nói đủ rồi. Nhưng để biết thôi, có phải cô quyết định dừng đoàn tàu và phong tỏa đường phố?"

    "Đúng vậy, thưa ngài", cô nói một cách dứt khoát. "Không có sai lầm nào trong việc đó cả."

    Anh ta viết điều này vào cuốn sổ theo dõi màu đen của mình với nét bút mạnh mẽ bằng chiếc bút máy dính đầy mồ hôi.

    Ôi, làm ơn đi...

    "Còn bây giờ, chuyển những thùng rác ấy đi. Cô sẽ điều khiển giao thông đến khi đường thông. Cô có nghe rõ tôi nói không?"

    Không "vâng, thưa ngài", hay "không, thưa ngài", hay bất kỳ sự khẳng định nào khác, cô đi ra Đại lộ Mười một và bắt đầu chậm chạp di chuyển những chiếc thùng rác. Người lái xe nào đi ngang cô cũng cau có hoặc lẩm bẩm điều gì đó. Sachs nhìn đồng hồ.

    Còn một tiếng nữa.

    Mình chịu được.

    --------------------------------
    1 Upper West Side: Một khu vực thuộc Manhattan, New York, nằm giữa Công viên Trung tâm và sông Hudson. (Các chú thích là của người dịch)
    2 Dặm: Một dặm tương đương với 1,6km; ở đây tương đương với một trăm km một giờ.
    3 Midtown: Là một trong ba phân khu chính của khu Manhattan, Thành phố New York.
    4 Feet: Số nhiều của foot, một foot tương đương với 30,48cm, ở đây là khoảng 10m.
    5 CS: Khám nghiệm hiện trường.
    6 Bungee-jumping: Môn thể thao mạo hiểm, người chơi buộc dây đàn hồi vào người và nhảy từ một vị trí cao xuống.
    7 JFK: Sân bay quốc tế John F. Kennedy ở New York.
    8 CNN (viết tắt của Cable News Netwowk): Kênh truyền hình cáp tin tức nổi tiếng của Mỹ.
    9 IRD (viết tắt của Investigation and Resource Division), là bộ phận Điều tra và Nguồn lực, thuộc Sở cảnh sát New York.
    10 Cliffhanger: Cheo leo vách núi, tên một bộ phim.

  2. #21
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HAI MƯƠI MỐT

    "Tiến thẳng vào trung tâm, Sachs", giọng Rhyme vang lên trong máy bộ đàm.

    Cô nhấn ga chiếc RRV, đèn đỏ nhấp nhoáng khi họ lao vào thành phố theo Xa lộ West Side. Lạnh như băng, cô tăng tốc lên tám mươi 1.

    "Được, tuyệt", Jerry Banks nói.

    Đếm ngược. Phố Hai mươi ba, Hai mươi, một cú ngoặt cháy đường gần bến phà chở rác trên Phố Mười bốn. Khi họ lao qua Village, quận bán thịt, một chiếc xe lao từ phố bên cạnh ra chèn đường cô. Thay vì đạp phanh, cô đánh mạnh tay lái vọt qua vỉa hè trung tâm như kỵ sĩ vượt rào, kéo theo câu chửi thề phều phào của Banks và một tiếng còi hơi rền vang của chiếc xe tải trắng vừa kịp hoành tráng quay ngoắt lại.

    "Ối chà", Amelia Sachs thốt lên và quay lại làn đường đi về phía nam. Cô nói với Rhyme: "Anh nói lại đi. Tôi bỏ mất đoạn này."

    Giọng nói yếu ớt của Rhyme vang lên trong tai nghe của cô: "Vào trung tâm là tất cả những gì tôi có thể nói với cô. Cho tới khi chúng tôi tìm ra ý nghĩa của chiếc lá."

    "Chúng tôi đang đến Battery Park City".

    "Còn hai mươi nhăm phút nữa thuỷ triều sẽ lên", Banks nhắc nhở.

    Có thể đội của Dellray sẽ xác định được vị trí chính xác của hắn ta. Họ có thể lôi Ngài 823 vào một con hẻm nào đó với một túi táo. Nick có nói với cô về cách họ thuyết phục bọn tội phạm "hợp tác". Lấy một túi hoa quả đập vào bụng chúng. Rất đau. Mà không để lại dấu vết. Khi đang ở tuổi trưởng thành, cô không thể nghĩ được rằng cảnh sát có thể làm như vậy. Nhưng giờ thì cô đã thấy được sự khác biệt.

    Banks đập vai cô. "Kia. Có mấy cái cầu cảng cũ"

    Gỗ thối, bẩn thỉu. Những nơi chốn rùng rợn.

    Họ phanh kít, nhảy ra khỏi xe, chạy tới mép nước.

    "Anh có đấy không, Rhyme?"

    "Nói với tôi nào, Sachs. Cô ở đâu?"

    "Một cái cầu cảng phía bắc Battery Park City."

    "Tôi vừa được Lon báo cáo về từ phía đông. Anh ta không tìm thấy gì."

    "Vô vọng lắm", cô nói. "Có khoảng một tá cầu cảng. Cả một đoạn đường đi bộ nữa... Còn cảng tàu cứu hoả, bến phà và cầu cảng ở Battery Park... Ta cần đến ESU."

    "Ta không có ESU mà, Sachs. Họ không còn ỏ phe ta nữa rồi."

    Hai mươi phút nữa là thuỷ triều lên.

    Mắt cô đảo quanh mép nước. Vai cô trĩu nặng vì bất lực. Tay cầm súng, cô lao về phía con sông. Jerry Banks chạy ngay theo sau.

    "Cho tôi thứ gì đó về cái lá đi, Mel. Phỏng đoán, gì cũng được. Bịa ra đi."

    Bồn chồn lo lắng, Cooper nhìn từ kính hiển vi lên màn hình máy tính.

    Tám nghìn loại lá cây ở Manhattan.

    "Nó không có cấu trúc tế bào giống với bất kỳ thứ gì cả."

    "Nó già rồi", Rhyme nói. "Bao nhiêu tuổi?"

    Cooper lại nhìn vào cái lá. "Đã biến thành xác ướp. Tôi có thể đoán khoảng một trăm năm, hoặc ít hơn thế một chút."

    "Những thứ gì có thể tuyệt chủng trong một trăm năm qua?"

    "Cây cối không bị tuyệt chủng trong một hệ sinh thái như Manhattan. Chúng luôn tái sinh."

    Một tiếng binh vang lên trong đầu Rhyme. Anh gần nhớ ra điều gì đó. Anh vừa thích vừa ghét cảm giác này. Anh có thể tóm lấy ý nghĩ như tóm một con ruồi bay chậm. Hoặc nó có thể biến mất hoàn toàn, làm anh cụt hứng.

    Mười sáu phút nữa là thuỷ triều lên.

    Ý nghĩ đó là gì nhỉ? Anh nhắm mắt, cố nắm bắt lấy nó...

    Cái gì thế nhỉ? Nghĩ đi!

    Cầu cảng... những con tàu... bốc dỡ... hàng hoá.

    Bốc dỡ hàng hoá.

    Mắt anh bật mở. "Mel, đấy có phải cây trồng không?"

    "Ôi, quỷ thật. Tôi đi tìm những trang về cây hoang dại, không phải loại cây trồng." Anh ta gõ máy tính quá lâu.

    "Thế nào?"

    "Chờ đã, chờ đã. Đây là danh sách mã nhị phân đã được mã hoá." Anh ta quét nó. "Linh lăng, lúa mạch, củ cải đường, yến mạch, thuốc lá..."

    "Thuốc lá! Thử nó xem."

    Cooper bấm chuột và hình ảnh chậm chạp hiện ra trên màn hình.

    "Đúng nó!"

    "Tháp trung tâm Thương mại Thế giới." Rhyme tuyên bố. "Mảnh đất phía bắc đã từng được dùng để trồng thuốc lá. Thom, phần nghiên cứu cho cuốn sách của tôi - tôi muốn tấm bản đồ từ những năm 1740. Và cả tấm bản đồ mới mà Bo Haumann đã dùng để tìm những nơi đang dọn dẹp asbestos. Đặt chúng lên bàn, cạnh nhau."

    Người trợ lý tìm thấy tấm bản đồ cũ trong tập hồ sơ của Rhyme. Anh ta dán chúng lên bức tường gần giường. Được vẽ một cách thô thiển, tấm bản đồ cũ đã cho thấy phần phía bắc của thành phố - một cụm phía dưới hòn đảo - là các trang trại. Có ba cầu tàu thương mại trên sông, khi đó còn chưa được gọi là Hudson mà là sông Tây. Rhyme nhìn vào bản đồ thành phố hiện tại. Tất nhiên là khu đất nông nghiệp đã biến mất, các cầu tàu cũng vậy, nhưng bản đồ hiện tại cho thấy một cái cầu tàu bị bỏ hoang ở đúng vị trí một cầu cảng cũ của nhà xuất khẩu thuốc lá.

    Rhyme cố gắng vươn người tới trước để đọc tên phố gần đó. Anh đã định quát Thom đưa bản đồ lại gần hơn thì từ phía cầu thang, anh nghe thấy một tiếng la lớn đấy giận dữ dưới nhà và cánh cửa bật tung vào bên trong. Kính vỡ tan.

    Thom xuống cầu thang.

    "Tôi muốn gặp anh ta." Có giọng nói nhát gừng tràn ngập hành lang.

    "Chỉ là..." Người trợ lý bắt đầu.

    "Không. Không phải chờ một phút. Không phải chờ một giờ. Mà là ngay. Mẹ kiếp. Bây giờ."

    "Mel", Rhyme thì thầm, "giấu chứng cứ ngay, tắt máy."

    "Nhưng..."

    "Làm đi!"

    Rhyme lắc đầu thật mạnh, giằng rời cái míc trên tai nghe. Nó rơi xuống cạnh chiếc giường Clinitron. Tiếng bước chân nện ầm ầm trên cầu thang.

    Thom là tất cả những gì có thể để câu giờ nhưng những người khách là ba nhân viên FBI, hai người trong số họ cầm súng. Họ từ từ đẩy anh ta giật lùi để lên cầu thang.

    Chúa phù hộ cho anh ta, chỉ trong năm giây, Cooper đã tháo tung cái kính hiển vi điện tử và đang bình thản tháo dỡ linh kiện với một sự quan tâm quá mức khi FBI lên hết cầu thang và lao vào phòng Rhyme. Những cái túi đựng vật chứng đã được nhét xuống gầm bàn và phủ lên bằng tạp chí Địa lý Quốc gia.

    "À, Dellray", Rhyme hỏi, "Tìm được đối tượng rồi chứ?"

    "Sao anh không nói với chúng tôi?"

    "Nói với các anh cái gì?"

    "Rằng dấu tay ấy là đồ giả."

    "Có ai hỏi tôi đâu?"

    "Đồ giả?" Cooper ngạc nhiên hỏi.

    "Thực ra thì đó là dấu tay thật". Rhyme nói như thể đó là điều rõ ràng. "Nhưng không phải của đối tượng. Anh chàng của chúng ta cần một chiếc taxi để đi câu. Và thế là hắn ta gặp - tên hắn ta là gì nhỉ?"

    "Victor Pietrs", Dellay lẩm bẩm và kể lại câu chuyện về người lái taxi.

    "Rất hay", Rhyme nói với một chút ngưỡng mộ thực sự.

    "Nhặt một anh chàng Serbia có tiền án và vấn đề về tâm thần. Tôi không hiểu hắn phải mất bao lâu để tìm ứng viên này. Tuy nhiên, 823 giết ngài Pietrs tội nghiệp và ăn trộm taxi của anh ta. Cắt một ngón tay. Hắn giữ nó và nghĩ nếu chúng ta tới quá gần, hắn sẽ để lại hiện trường một dấu tay rõ đẹp để lừa chúng ta. Tôi đoán việc này đã phát huy tác dụng."

    Rhyme liếc nhìn đồng hồ. Còn mười bốn phút.

    "Sao anh biết?" Dellray nhìn những tấm bản đồ trên nhà Rhyme, nhưng ơn Chúa, anh ta không quan tâm đến chúng.

    "Dấu tay đã khô và nhăn nheo. Tôi đoán thi thể cũng tệ hại. Anh tìm thấy nó trong tầng hầm phải không? Tôi đoán đúng chứ? Nơi anh chàng của chúng ta thích giấu nạn nhân."

    Dellray lờ anh đi và đánh hơi quanh phòng y như một con chó săn khổng lồ. "Anh giấu chứng cứ của chúng tôi ở đâu?"

    "Chứng cứ? Tôi không biết anh nói gì. Nói đi, anh có phá cửa nhà tôi không? Lần trước anh vào mà không gõ cửa. Lần này thì anh phá cửa."

    "Này Lincoln, tôi đã có ý định xin lỗi anh rồi đấy..."

    "Anh thật rộng lượng, Fred."

    "Nhưng giờ thì tôi sắp tóm cổ anh."

    Rhyme nhìn chiếc tai nghe có ống nói đang lủng lẳng trên nền nhà. Anh hình dung giọng Sachs thỏ thẻ trên tai nghe.

    "Trả chứng cứ cho tôi, Rhyme. Anh không biết là anh đang gặp rắc rối thế nào đâu."

    "Thom", Rhyme chậm rãi nói, "đặc vụ Dellray làm tôi giật mình đánh rơi cái tai nghe máy Walkman. Cậu giúp tôi treo nó vào thành giường, được chứ?".

    Người trợ lý đoán ý rất nhanh. Anh ta để chiếc mic cạnh đầu Rhyme, khỏi tầm mắt Dellray.

    "Cảm ơn", Rhyme nói với Thom. Rồi nói thêm. "Cậu biết đấy tôi vẫn chưa được tắm. Tôi nghĩ đến lúc rồi, cậu thấy thế nào?"

    "Tôi đang băn khoăn không biết lúc nào thì anh yêu cầu". Thom nói, như một diễn viên bẩm sinh.

    "Rhyme, nói đi. Lạy Chúa, anh đang ở đâu?"

    Thế rồi cô nghe thấy một giọng nói trong tai nghe. Giọng của Thom. Rỗng tuếch, khoa trương. Có gì đó không ổn.

    "Tôi vừa mua miếng bọt biển mới đấy", Thom nói.

    "Trông cũng được đấy", Rhyme trả lời.

    "Rhyme?" Sachs cáu kỉnh. "Chuyện quái gì thế?"

    "Mười bảy đô la đấy. Phải tốt chứ. Tôi sẽ lật anh lại đấy?

    Những giọng nói khác vang lên trong tai nghe, nhưng cô không phân biệt được.

    Sachs và Banks đang chạy theo mép nước, nhìn xuống những chiếc cầu cảng vươn ra dòng nước màu nâu xám của sông Hudson. Cô ra hiệu để Banks dừng lại, gập người cho đỡ cơn chuột rút dưới mỏ ác, nhỏ nước bọt xuống sông. Cố gắng lấy lại hơi thở.

    Cô nghe tiếng nói qua tai nghe: "... không lâu đâu. Các vị thứ lỗi cho chúng tôi."

    "...chúng tôi sẽ đợi, anh không phản đối chứ?"

    "Tôi phản đối", Rhyme nói. "Tôi muốn được riêng tư một chút?"

    "Rhyme, anh có nghe tôi nói không?" Sachs tuyệt vọng gọi. Anh ta làm cái trò quái quỷ gì vậy nhỉ?

    "Không. Không có riêng tư gì cho bọn trộm vật chứng."

    Dellray! Anh ta đang ở trong phòng Rhyme. Thế thì xong rồi. Xong đời nạn nhân.

    "Tôi muốn lấy lại vật chứng", viên đặc vụ cáu kỉnh nói.

    "Thế à, thứ mà anh có được chỉ là toàn cảnh một người đàn ông tắm bằng bọt biển thôi, Dellray."

    Banks định nói, nhưng cô vẫy tay bảo anh ta im lặng.

    Mấy người nói vài câu cô không hiểu.

    Tiếng quát tháo giận dữ của viên đặc vụ.

    Sau đó là giọng nói bình thản của Rhyme: "... Anh biết không Dellray, trước kia tôi hay đi bơi lắm. Ngày nào cũng bơi."

    "Ta còn chưa đến mười phút", Sachs thì thầm. Sóng vẫn bình thản vỗ bờ. Hai con tàu lặng lẽ lướt qua.

    Dellray lầm bẩm gì đó.

    "Tôi thường bơi ở sông Hudson. Sông lúc đó sạch hơn bây giờ nhiều. Ý tôi là nước rất sạch."

    Đường truyền có vấn đề. Anh nói lảng đi.

    "...cầu cảng cũ. Cái cầu cảng mà tôi thích không còn nữa. Chỗ đó trước đây từng là nhà của Hudson Dusters. Băng đảng đó, anh có nghe nói về bọn chúng không? Từ những năm 1890. Phía bắc của Battery Park City bây giờ. Trông anh có vẻ buồn chán. Mệt mỏi vì phải nhìn mông thằng tàn tật rồi ư? Chưa à? Hợp với anh à? Cái cầu nằm giữa North Moore và Chambers. Tôi sẽ nhảy xuống nước, bơi quanh cầu cảng..."

    "North Moore và Chambers!" Sachs la lớn. Quay ngoắt lại. Họ bỏ qua nó vì họ đã đi quá sâu xuống phía nam. Nó cách chỗ hiện tại của họ khoảng một phần tư dặm. Cô có thể nhìn thấy những cọc gỗ màu nâu lở loét, một miệng cống lớn ngập nước thuỷ triều. Còn được bao lâu nữa? Chẳng còn mấy. Họ chẳng còn cách gì cứu được ông ta.

    Cô giật tai nghe và chạy nhanh ra xe, Banks chạy theo sau.

    "Cậu biết bơi không?" Cô hỏi.

    "Tôi ấy hả? Chỉ một, hai vòng trong bể bơi câu lạc bộ thôi."

    Họ không làm được rồi.

    Sachs dừng bất ngờ, vòng nhanh xe lại, nhìn con phố vắng vẻ.

    Nước dâng gần đến mũi ông.

    Một con sóng nhỏ vỗ vào mặt William Everett đúng lúc ông hít vào, dòng chất lỏng mặn chát cháy vào cổ họng ông. Ông ho sặc sụa, phát ra âm thanh trầm đục, ghê rợn. Vặn vẹo. Nước tràn vào phổi. Ông tuột tay khỏi cây cột của cầu cảng chìm xuống nước, co cứng người rồi lại cố ngoi lên lần nữa, rồi lại chìm xuống.

    Không, lạy Chúa... làm ơn đừng để con...

    Ông lắc cái còng tay thật mạnh, cố gắng thoát ra. Chỉ có thể là phép màu thì những bắp thịt đáng thương của ông mới có thể uốn cong con ốc khổng lồ mà ông bị còng vào.

    Ông xì nước trong mũi ra, đầu gục gặc trong cơn hoảng loạn. Trong một khắc, phổi ông được thông thoáng trở lại. Cơ cổ cháy bỏng - đau như ngón tay gãy của ông - vì ông phải ngửa đầu ra sau để tìm lớp không khí mỏng manh ngay bên trên mặt.

    Ông được nghỉ một lát.

    Rồi một con sóng nữa, cao hơn...

    Và thế là hết.

    Ông không thể chiến đấu được nữa. Đầu hàng. Về với Evelyn, nói lời tạm biệt...

    William Everett buông xuôi. Ông bập bềnh dưới mặt nước rác rưởi, đầy đồ thải và cọng rong biển.

    Rồi kinh hoàng tỉnh lại. Không, không...

    Hắn đang ở đây. Tên bắt cóc. Hắn quay lại.

    Everett nhao lên mặt nước, hít thêm nước vào phổi, tuyệt vọng tìm cách thoát ra. Người đàn ông chiếu ánh sáng chói vào mắt Everett và chìa con dao về phía ông.

    Không, không...

    Dìm ông chưa đủ, hắn còn muốn đâm ông chết. Không nghĩ ngợi gì, Everett lao về phía hắn. Nhưng tên bắt cóc biến xuống nước... và sau đó, soạt một tiếng, tay Everett được tự do.

    Ông già quên phắt những lời từ biệt thầm lặng, lao như điên lên mặt nước, gấp gáp hít không khí, giật tung mảnh băng đang dán miệng. Hổn hển, nhổ nước. Đầu ông đập mạnh vào nền cầu cảng gỗ sồi ở phía trên, nhưng ông cười lớn. "Ôi, lạy Chúa, lạy Chúa..."

    Sau đó, xuất hiện một khuôn mặt khác... Cũng trùm đầu, trong tay là một ngọn đèn sáng chói và Everett chỉ kịp nhận ra huy hiệu của NYPD trên bộ quần áo ướt sũng của người đàn ông. Họ không cầm dao mà là kìm sắt cắt. Một người nhét miếng cao su đắng ngắt vào miệng Everett và ông hít vào một hơi oxy mát rượi đến kinh ngạc.

    Người thợ lặn vòng tay ông quanh anh ta, họ cùng nhau bơi đến rìa cầu cảng.

    "Hít thật sâu nào, một phút nữa là ta thoát khỏi đây."

    Ông hít căng hai lá phổi chật hẹp, nhắm mắt, cùng người thợ lặn ngụp sâu xuống làn nước được chiếc đèn vàng của người đàn ông chiếu sáng một cách ma quái. Chuyến đi ngắn nhưng thật khổ sở, ngụp thẳng xuống ngoi lên trên qua lớp nước mờ đục, vẩn bụi. Có lúc ông trượt khỏi tay người thợ lặn, họ tách rời nhau trong một khắc. Nhưng với một cú quạt nước, William Everett quay lại. Sau buổi tối hôm đó, bơi một mình trên dòng nước bập bềnh của sông Hudson chỉ còn là chuyện nhỏ.

    Cô không có ý định bắt taxi. Xe bus của sân bay cũng quá tối.

    Nhưng Pammy đã quá mệt mỏi vì thiếu ngủ - cả hai người đã thức suốt từ năm giờ sáng - và cô cảm thấy bồn chồn. Con bé phải được đi ngủ ngay, nó đã rúc vào chăn với chai Hawaii Punch của nó. Ngoài ra, chính Carole cũng không thể đợi tới khi họ đến Manhattan - cô chỉ là một cô gái gầy gò vùng Trung Tây, người chưa bao giờ rời Ohio trong bốn mươi mốt năm, và cô đang ao ước được nhìn thấy Quả Táo Lớn.

    Carole lấy hành lý của cô và họ đi về phía cửa ra. Cô kiểm tra để chắc chắn mình không quên gì khi đi khỏi nhà Kate và Eddie buổi chiều hôm đó.

    Pammy, gấu Pooh, ví, chăn, va li, ba lô màu vàng.

    Đủ hết.

    Bạn bè đã cảnh báo cô về thành phố. Eddie nói: "Họ sẽ xô đẩy cậu. Bọn trộm ví, móc túi..."

    "Đừng chơi bài ngoài phố", Kate nói thêm, như mẹ dặn con.

    "Trong phòng khách nhà tớ mà tớ còn không chơi bài", Carole cười, nhắc bạn mình. "Thế thì sao tớ lại chơi bài trên đường phố của Manhattan?"

    Nhưng cô trân trọng sự quan tâm của họ. Gì thì gì, cô cũng đã tới nơi, một người đàn bà goá và một đứa con ba tuổi, đến thành phố lộn xộn nhất Trái Đất để tham dự hội nghị Liên Hiệp Quốc - chưa bao giờ cô nhìn thấy nhiều người nước ngoài, quỷ thật, nhiều người ở một chỗ cùng lúc như ở đây.

    Carole tìm được điện thoại công cộng và gọi cho khách sạn để kiểm tra đăng ký của mình. Nhân viên trực đêm nói phòng đó đã sẵn sàng và đang chờ họ. Anh ta sẽ gặp cô sau khoảng bốn mươi nhăm phút nữa.

    Họ đi qua cánh cửa tự động, không khí mùa hè làm họ sốc đến ngột thở. Carole dừng lại, nhìn quanh. Một tay nắm chặt tay Pammy, tay kia chiếc va li cũ kỹ. Cái ba lô màu vàng nặng trịch đè trĩu trên vai cô.

    Họ xếp hàng cùng những hành khách khác để chờ taxi trên bến đỗ.

    Carole liếc nhìn tấm bảng quảng cáo bên kia đường cao tốc, nó viết Chào mừng các đoàn đại biểu Liên Hiệp Quốc!. Tấm bảng được trang trí tệ hại, nhưng cô vẫn nhìn nó một lúc lâu; một người trên đó giống Ronnie.

    Một thời gian, sau khi anh mất, khoảng hai năm trước, hầu như mọi thứ đều gợi cho cô nhớ tới người chồng đẹp trai có kiểu tóc húi cua của mình. Cô lái xe qua McDonald và nhớ anh thích Big Macs. Những diễn viên trong phim chẳng giống anh chút nào, nhưng họ có thể có cách nghiêng đầu giống anh. Đọc tờ rơi quảng cáo máy cắt cỏ, cô nhớ anh thích cắt cỏ cho mảnh sân nhỏ xíu cuả họ ở Arlington Heights.

    Nước mắt lại trào ra. Và cô quay lại dùng Prozac 2 hay imipramine 3. Nằm cả tuần trên giường. Miễn cưỡng chấp nhận đề nghị của Kate, đến nhà của cô ấy và Eddie một đêm. Hay một tuần. Hay một tháng.

    Nhưng cô không khóc nữa. Cô đến đây để bắt đầu cuộc đời mới. Sự đau khổ giờ đã ở lại phía sau.

    Lắc mái tóc màu vàng sẫm khỏi bờ vai đẫm mồ hôi, Carole đẩy Pammy và đá túi hành lý lên phía trước khi hàng người nhúc nhích. Cô nhìn quanh, cố tìm một chút gì đó của Manhattan. Nhưng cô chẳng nhìn được gì ngoài xe cộ chạy trên đường, những cái đuôi mây bay và một biển người, taxi, ô tô. Hơi nước bốc lên từ lỗ cống như những con ma ghê rợn, trời đêm lẫn lộn đen, vàng và mù sương.

    Được rồi, thế nào mình cũng nhìn thấy thành phố ngay thôi. Cô hy vọng Pammy đã đủ lớn để có những ký ức đầu tiên về cảnh tượng thành phố.

    "Con có thích chuyến phiêu lưu của chúng ta không, con yêu?"

    "Phiêu lưu. Con thích phiêu lưu. Con muốn uống Waiin Punch. Mẹ làm ơn cho con một ít được không?"

    Làm ơn... Từ này mới đây. Cô bé lên ba bắt đầu học cách bắt mạch cha mẹ. Carole cười: "Mẹ sẽ mua cho con ngay thôi."

    Cuối cùng thì họ cũng có xe. Cốp xe bật mở và Carole quăng hành lý vào trong, dập nắp. Họ trèo vào ghế sau và đóng cửa.

    Pammy, gấu Pooh, ví...

    Người lái hỏi: "Ta đi đâu?" Carole cho anh ta địa chỉ khách sạn Midtown Residence, cô phải hét qua tấm kính ngăn Plexi.

    Chiếc xe nhập dòng xe cộ. Carole dựa lưng và để Pammy ngồi trong lòng mình.

    "Ta có đi qua trụ sở Liên Hiệp Quốc không?" Cô hỏi.

    Nhưng người đàn ông đang tập trung để chuyển làn đường và không nghe thấy cô.

    "Tôi đến tham dự hội nghị", cô giải thích. "Hội nghị Liên Hiệp Quốc."

    Vẫn không thấy trả lời.

    Cô tự hỏi có phải anh ta không thạo tiếng Anh hay không. Kate cảnh báo cô rằng tất cả tài xế ở New York đều là người nước ngoài. ("Lấy mất việc làm của người Mỹ", Eddie gầm gừ. "Nhưng đừng để tôi nói đến chuyện này."). Cô không nhìn rõ người lái xe qua tấm kính ngăn xước xát.

    Có thể anh ta chỉ không thích nói chuyện.

    Họ quành vào một con đường cao tốc khác - và bất thình lình, nó kia rồi, ngay trước mặt cô, đường chân trời góc cạnh của thành phố. Chói loà. Như những đồ pha lê mà Kate và Eddie sưu tập. Một cụm khổng lồ những khối nhà màu xanh dương, màu vàng, màu bạc nằm giữa hòn đảo và một cụm khác bên trái. Nó to hơn tất cả những gì mà Carole đã từng nhìn thấy trong đời; trong một khoảnh khắc, hòn đảo trông như một con tàu khổng lồ.

    "Nhìn kìa, Pammy, chúng ta đến đó đấy, trông thật đẹp, phải không con?"

    Một khắc sau, quang cảnh biến mất khi chiếc xe ra khỏi đường cao tốc và quành thật nhanh xuống phía cuối đoạn đường dốc. Sau đó xe chạy trên những con phố nóng bức, trống trải, bị bao bọc bới nhưng toà nhà xây bằng gạch.

    Carole nghiêng người ra trước. "Có đúng đường này đi về thành phố không?"

    Lại không trả lời.

    Cô đập mạnh vào lớp kính ngăn Plexi. "Anh có đi đúng đường không đấy? Trả lời tôi. Trả lời tôi đi!"

    "Mẹ ơi, có chuyện gì thế?" Pammy nói và bắt đầu khóc.

    "Anh đi đâu thế?" Carole quát.

    Nhưng người đàn ông cứ vẫn lái xe - bình thản, đèn đỏ nào cũng dừng, không bao giờ vượt quá giới hạn tốc độ cho phép. Và khi hắn rẽ vào một bãi đỗ xe trống trải phía sau một nhà máy tối tân, bỏ hoang, hắn vẫn bật đèn xi nhan đúng luật.

    Ôi không... không!

    Hắn đeo chiếc mặt nạ trượt truyết rồi ra khỏi xe. Đi lại phía sau, hắn đưa tay mở cửa. Nhưng rồi hắn ngần ngại trong giây lát, cánh tay thõng xuống. Hắn cúi xuống, mặt đối diện cửa xe và gõ vào cửa kính.

    Một lần, hai lần, ba lần. Như gọi bọn thằn lằn trong gian nuôi bò sát ở vườn bách thú. Hắn nhìn người mẹ và cô con gái một lúc lâu trước khi mở cửa.



    --------------------------------
    1
    2 Prozac: Một loại thuốc giảm đau.
    3 Imipramine: Một loại thuốc an thần.

  3. #22
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    HAI MƯƠI HAI

    "Cô làm thế nào hả, Sachs?"

    Đứng cạnh sông Hudson hôi thối, cô nói chuyện với Rhyme qua máy bộ đàm. "Tôi nhớ là tôi có nhìn thấy cảng tàu cứu hoả ở Battery Park. Họ kiếm mấy người thợ lặn và đến chỗ cầu cảng chỉ trong ba phút. Trời ạ, anh phải xem cái tàu ấy chạy! Một ngày nào đó tôi cũng muốn lái thử một cái."

    Rhyme kể với cô về người lái xe taxi cụt ngón.

    "Thằng chó chết!" Cô nói, tặc lưỡi ghê tởm. "Con chồn ấy lừa tất cả chúng ta."

    "Không phải tất cả chúng ta", Rhyme rụt rè nhắc cô.

    "Tức là Dellray đã biết tôi lấy chứng cứ. Anh ta có tìm tôi không?"

    "Anh ta nói anh ta quay về toà nhà kiểu liên bang. Có thể để quyết định xem bắt ai trong chúng ta trước. Hiện trường ở đó thể nào, Sachs?"

    "Tệ lắm", cô báo cáo. "Hắn đỗ xe trên sỏi..."

    "Tức là không có dấu chân."

    "Còn tệ hơn thế. Thuỷ triều làm dâng nước trong ống cống và chỗ hắn đỗ xe bây giờ đang ngập nước."

    "Quỷ thật", Rhyme lẩm bẩm." Không dấu vết, không dấu tay, chẳng có gì. Họ sẽ để ông ta trong bệnh viện một, hai ngày."

    "Ông ta không nói cho chúng ta biết thông tin gì ư?"

    Sachs đến chỗ Banks. Anh ta đang phỏng vấn William Everett.

    "Hắn không to lắm", người đàn ông nghiêm trọng nói, cẩn thận quan sát thanh nẹp bó bột được nhân viên y tế buộc vào tay mình. "Hắn ta không được khoẻ lắm, không phải là người có cơ bắp. Nhưng hắn khoẻ hơn tôi. Tôi tóm hắn nhưng hắn kéo tay tôi ra."

    "Mô tả?" Banks hỏi.

    Everett nhớ lại bộ quần áo tối màu và chiếc mặt nạ trượt tuyết. Đó là tất cả những gì ông có thể nhớ được.

    "Tôi phải nói với cậu một việc", Everett giơ cánh tay băng bó của mình lên. "Hắn rất ác. Tôi đã nói với cậu là tôi tóm lấy hắn. Tôi không nghĩ ngợi gì - đơn giản là tôi đã hoảng loạn. Nhưng hắn đã lên cơn điên thực sự. Vì thế hắn bẻ ngón tay tôi."

    "Trả thù à?" Banks hỏi.

    "Tôi đoán thế. Nhưng đó không phải là phần kỳ quặc."

    "Không?"

    "Kỳ quặc là hắn lắng nghe."

    Viên thám tử trẻ tuổi ngừng viết. Nhìn sang Sachs.

    "Hắn ép tay tôi thật chặt vào tai hắn và bẻ ngón tay tôi khi nó gáy. Như thế hắn lắng nghe. Và thích thú."

    "Anh có nghe thấy không, Rhyme?"

    "Có. Thom, thêm điều này vào hồ sơ của chúng ta. Thế nhưng tôi vẫn không biết điều này nghĩa là gì. Ta sẽ phải suy nghĩ về nó."

    "Có dấu hiệu nào của vật chứng không?"

    "Vẫn chưa."

    "Đan lưới đi Sachs. À, mà lấy cả... của nạn nhân."

    "Quần áo? Tôi đã bảo ông ta rồi. Tôi - Rhyme, anh ổn chứ?" Cô nghe thấy tiếng ho.

    Đường truyền bị đứt ngay tức khắc. Một giây sau anh trở lại. "Anh có đấy không, Rhyme? Mọi việc ổn chứ?"

    "Ổn cả", anh nói nhanh. "Đi thôi. Đan lưới đi."





    Cô khảo sát hiện trường đang được những ngọn đèn halogen của ESU soi sáng. Thật khó chịu. Hắn đã ở đây. Hắn đã đi trên con đường trải sỏi cách đây vài feet. Nhưng bất kể hắn có để lại vật chứng gì thì chúng đã nằm sâu mấy inch dưới làn nước mờ đục. Cô chậm rãi kiểm tra nền đất. Lui và tới.

    "Tôi chẳng nhìn thấy gì cả. Manh mối có thể đã bị cuốn đi mất rồi."

    "Không đâu, hắn quá thông minh để không tính đến thuỷ triều. Manh mối sẽ ở trên chỗ đất khô đâu đó."

    "Tôi có một ý", cô bất ngờ nói. "Anh đến đây đi."

    "Cái gì?"

    "Khám nghiệm hiện trường cùng tôi, Rhyme."

    Im lặng.

    "Rhyme, anh nghe tôi nói không?"

    "Cô đang nói với tôi đấy à?" Anh hỏi.

    "Anh trông giống như De Niro 1. Anh không diễn giỏi như De Niro. Anh biết không? Một cảnh trong phim Taxi Driver?"

    Rhyme không cười. Anh nói: "Lời thoại là: Mày đang nhìn tao đấy à? chứ không phải nói với tao."

    Sachs tiếp tục, không chút bối rối. "Tới đây đi. Khám nghiệm hiện trường với tôi."

    "Tôi sẽ sải đôi cánh của mình. Không, tốt hơn là tôi sẽ tự phóng tôi ra đó. Thần giao cách cam, cô biết rồi đấy."

    "Đừng đùa nữa. Tôi nghiêm chỉnh đấy."

    "Tôi..."

    "Chúng tôi cần anh. Tôi không thể tìm được manh mối để lại."

    "Nhưng mà chúng sẽ ở đó. Cô chỉ cần cố thêm chút nữa thôi."

    "Tôi đan lưới hai lần rồi."

    "Thế thì cô đã khoanh vùng hơi hẹp. Thêm vài feet nữa và tiếp tục đi. 823 vẫn chưa kết thúc đâu, không phải bây giờ."

    "Anh đang đánh trống lảng đấy. Đến đây và giúp tôi với."

    "Bằng cách nào?" Rhyme hỏi. "Tôi làm việc ấy bằng cách nào?"

    "Tôi có một người bạn cũng gặp khó khăn", cô bắt đầu, "và anh ta...".

    "Ý cô là, anh ta là một người tàn tật", Rhyme chỉnh lại. Mềm mỏng nhưng chắc chắn.

    Cô tiếp tục: "Sáng nào người sĩ quan phụ tá cũng đặt anh ấy vào xe lăn và anh ấy tự lái xe đi khắp nơi. Đi xem phim, đi..."

    "Những cái xe lăn ấy...", giọng Rhyme uể oải vang lên. "Không có tác dụng gì với tôi..."

    Cô ngừng nói.

    Anh tiếp tục: "Vấn đề không phải ở chỗ tôi bị thương. Vấn đề là nếu tôi lên xe lăn sẽ rất nguy hiểm. Nó có thể..." - anh ngần ngại - "làm cho mọi chuyện xấu đi".

    "Tôi xin lỗi. Tôi không biết."

    Một lúc sau anh nói: "Tất nhiên là cô không biết."

    Hỏng mất vụ này rồi. Ôi trời. Người anh em...

    Nhưng Rhyme không có vẻ gì tệ hơn sau lời nói hớ của cô. Giọng anh ta vẫn đều đặn, vô cảm. "Nghe này, cô phải tiếp tục tìm kiếm. Đối tượng của chúng ta đang khiến mọi thứ khó khăn hơn. Nhưng không phải là không thể... Tôi có một ý. Hắn là người dưới lòng đất, đúng không? Có thể hắn sẽ chôn chúng."

    Cô nhìn lên hiện trường.

    Có thể ở kia... Cô nhìn thấy một ụ đất và lá cây trong một khóm cỏ cao gần con đường trải sỏi. Trông có gì bất ổn, cái ụ đất trông có vẻ như mới được đắp lên.

    Sachs quỳ xuống cạnh nó, cúi đầu và dùng một cái bút chì gạt lá ra.

    Cô quay mặt sang trái, thấy mình đang nhìn vào một cái đầu vươn cao, đầy răng nanh...

    "Lạy Chúa tôi", cô hét lớn, vấp ngã ra sau, phệt mông xuống đất, vội vàng lần tìm vũ khí.

    Không...

    Rhyme thét lên: "Cô không sao chứ?"

    Sachs ngắm mục tiêu và cố gắng giữ vững, khẩu súng trên hai tay run rẩy. Jerry Banks chạy tới, khẩu Glock của anh ta đã được rút ra. Anh ta dừng lại. Sachs lồm cồm đứng dậy, nhìn vào thứ trước mặt họ.

    "Trời ạ", Banks thì thầm.

    "Một con rắn - thật ra là bộ xương rắn", Sachs nói với Rhyme. "Con rắn chuông. Mẹ kiếp." Cô cất súng. "Nó được gắn vào một cái bảng."

    "Một con rắn?Hay đấy." Giọng Rhyme có vẻ tò mò.

    "Đúng rồi. Thực sự là thú vị", cô lẩm bẩm. Cô đeo đôi găng cao su và nhấc những cái xương bị cuộn tròn. Cô lật ngược nó lại. "Sự biến hình"

    "Cái gì?"

    "Nhãn dán dưới đế. Tên cửa hàng bán thứ này, tôi đoán thế. 604 Broadway."

    Rhyme nói: "Tôi sẽ bảo Những Chàng trai Dũng cảm của chúng ta kiểm tra xem. Chúng ta có gì nhỉ? Nói tôi nghe về manh mối đi."

    Chúng nằm phía dưới con rắn. Trong một cái túi. Tim cô đập mạnh khi quỳ xuống bên cái túi.

    "Một cuốn sách bằng diêm", cô nói.

    "Được rồi, có thể hắn nghĩ tới việc đốt nhà. Trên đó có in gì không?"

    "Không. Nhưng có vết bẩn gì đó. Như dầu bôi trơn Vaseline. Có điều nó bốc mùi."

    "Tốt, Sachs - luôn phải ngửi thử vật chứng mà ta không chắc chắn lắm. Có điều cần chính xác hơn."

    Cô cúi xuống gần hơn."Ối..."

    "Thế là không chính xác."

    "Có thể là lưu huỳnh."

    "Có thể có gốc nitrate. Chất nổ. Tovex 2. Có phải màu xanh dương không?"

    "Không, trắng như sữa."

    "Thậm chí nó có thể sai bét, tôi hình dung đó là loại chất nổ thứ cấp. Loại ổn định. Còn gì nữa không?"

    "Một mẩu giấy nữa. Có gì đó ở đây."

    "Cái gì, Sachs? Tên hắn, địa chỉ của hắn, thư điện tử?"

    "Giống như giấy từ một tờ tạp chí. Tôi thấy một bức ảnh đen trắng nhỏ. Giống như một phần của toà nhà nhưng không nhìn thấy được là phần nào. Dưới đó có một dòng ngày tháng. Ngày Hai mươi sáu tháng Năm năm 1906."

    "Năm, hai mươi, không-sáu. Không hiểu có phải mã gì không. Hay là một địa chỉ. Tôi phải nghĩ thêm về điều này. Còn gì nữa không?"

    Cô nghe thấy anh ta thở dài."Được rồi. Về thôi, Sachs. Mấy giờ rồi nhỉ? Lạy Chúa tôi, gần một giờ sáng rồi. Lâu lắm rồi tôi không thức muộn thế này. Về thôi, để xem ta có gì."

    Trong tất cả các khu của Manhattan, Lower East Side là nơi ít thay đổi nhất trong lịch sử thành phố.

    Tất nhiên là nhiều thứ đã biến mất. Những bãi chăn thả. Những toà nhà kiên cố của John Hancock và những người nổi tiếng trong chính quyền thời đó. Der Kolek, hồ nước ngọt lớn (cái tên Hà Lan của nó cuối cùng bị biến thành "The Collect", miêu tả chính xác hơn thì là một cái ao ô nhiễm khủng khiếp). Khu Five Points nổi tiếng - trong những năm 1800 là dặm vuông nguy hiểm nhất trên thế giới - nơi mà chỉ một toà nhà cho thuê, như toà nhà Gates of Hell đổ nát, có thể là nơi chứa chấp tới hai, ba trăm tên giết người mỗi năm.

    Nhưng vẫn còn lại hàng nghìn toà nhà cũ - những toà nhà cho thuê từ thế kỷ XIX và những ngôi nhà khung xây kiểu thuộc địa, những ngôi nhà hàng phố bằng gạch kiểu liên bang trước đó, những hội trường Baroque, một vài toà nhà công cộng kiểu Ai Cập được xây dựng theo lệnh của viên Nghị sĩ tha hoá Fernando Wood. Một số khác đã bị bỏ hoang, mặt tiền của chúng bám đầy cây cỏ, sàn nhà bị lũ cây non ương bướng làm nứt vỡ. Nhưng nhiều toà nhà vẫn còn được sử dụng; đó là mảnh đất tội lỗi của Tammany Hall, của xe đẩy và công xưởng khổ sai, toà nhà định cư Phố Henry, những vở hài kịch tục tĩu của Minsky và Yiddish Gomorra nổi tiếng - tên mafia người Do Thái. Khu vực sinh ra những hình thái như vậy không thể chết một cách dễ dàng.

    Khu vực này chính là nơi Kẻ Tầm Xương, lái chiếc taxi chở người phụ nữ gầy gò và cô con gái của cô ta đến.

    Thấy cảnh sát đang theo dõi mình, James Schneider lại trườn xuống đất, như một con rắn, tìm kiếm nơi ẩn nấp - người ta nghi ngờ là ở trong những căn phòng của rất nhiều toà nhà cho thuê của thành phố (mà độc giả có thể tình cờ nhận ra là "nhà trọ" vẫn còn đang rất thịnh hành). Và hắn im hơi lặng tiếng suốt mấy tháng.

    Khi lái xe về nhà, Kẻ Tầm Xương thấy quanh mình không phải là Manhanttan của những năm 1990 - những quán ăn nhanh Hàn Quốc, những cửa hàng bánh sừng bò ướt át bẩn thỉu, những cửa hiệu cho thuê phim khiêu dâm, những cửa hàng quần áo trống rỗng - mà là một thế giới mộng mơ của những người đàn ông đội mũ quả dưa, những người phụ nữ mặt váy phồng sột soạt, viền và gấu dây đầy bùn bẩn ngoài phố. Những chiếc xe độc mã và tam mã, không khí tràn ngập mùi khí metal đôi khi dễ chịu, đôi khi thật kinh tởm.

    Nhưng có động cơ xuẩn ngốc, không mỏi mệt nào đó bên trong thúc giục hắn phải làm mới bộ sưu tập của mình, ép hắn ra khỏi nơi lẩn trốn để tìm kiếm một người công dân lương thiện nữa; một thanh niên mới tới thành phố để hợc đại học.

    Lái xe qua Quận Mười tám nổi tiếng, nơi đã từng là chỗ trú ngụ của gần mười lăm nghìn người, bị nhồi nhét vào một nghìn khu nhà đổ nát. Khi mọi người nghĩ tới thế kỷ XIV, họ nghĩ tới màu nâu đỏ - màu của những bức ảnh chụp thời đó. Nhưng không phải vậy, Manhattan xưa kia có màu đá. Với làn khói bụi làm nghẹn thở, sơn tường đắt giá và ánh sáng mờ mờ, thành phố hình thành từ nhiều sắc độ của màu xám và màu vàng.

    Schneider lẩn lút theo sau chàng trai và chuẩn bị tấn công. Nhưng cuối cùng lương tâm của thần May mắn lên tiếng. Hai cảnh sát đã xuất hiện đúng lúc. Họ nhận ra Schneider và đuổi theo. Tên sát nhân chạy sang phía đông, chạy qua kỳ quan thiết kế khi đó, cầu Manhattan, cây cầu được xây xong vào năm 1909 hai năm trước khi sự việc này xảy ra. Nhưng hắn dừng lại giữa đường khi nhìn thấy cảnh sát chạy tới từ phía Brooklyn; họ đã nghe thấy tiếng huýt còi và tiếng súng từ những đồng nghiệp phía Manhattan.

    Schneider, không mang vũ khí, lại bị pháp luật bao vây nên chỉ còn cách trèo lên thành cầu. Hắn hét lên những câu chỉ trích cảnh sát điên loạn, kết tội họ đã phá hoại cuộc đời hắn. Từ ngữ của hắn ngày càng điên loạn hơn. Lúc cảnh sát lại gần, hắn nhảy từ thành cầu xuống sông. Một tuần sau, một người hoa tiêu phát hiện ra thi thể hắn trên bờ đảo Welfare, gần Hell Gate. Chẳng còn lại gì nhiều, vì cua cáy và rùa đã làm việc rất cần cù. Chúng chẳng để lại cho Schneider chút gì ngoài những khúc xương mà hắn đã từng tôn thờ.

    Hắn đánh chiếc taxi vào con phố trải sỏi East Van Brevoort, và dừng lại trước một toà nhà. Hắn kiểm tra hai sợi dây bẩn thỉu mà hắn đã chăng thấp dưới cửa để bảo đảm rằng không có ai vào nhà. Một chuyển động bất ngờ làm hắn giật mình và hắn lại nghe thấy tiếng gầm gừ sâu trong cổ họng của những con chó, mắt chúng màu vàng, răng màu nâu, cơ thể lấm tấm sẹo và vết lở loét. Hắn lần tay tìm khẩu súng ngắn nhưng chúng bất ngờ quay đi, vừa sủa ăng ẳng vừa đuổi theo một con mèo hay con chuột trong ngõ.

    Hắn không nhìn thấy ai trên vỉa hè nóng bức. Hắn mở khoá cửa nhà để xe ngựa, sau đó quay về xe và lái nó vào ga ra, đỗ bên cạnh chiếc Taurus.

    Sau cái chết của tên tội phạm, dấu vết của hắn được các thám tử thu thập và nghiên cứu kỹ. Nhật ký của hắn cho thấy hắn đã giết tám công dân lương thiện của thành phố. Hắn cũng là kẻ trộm mộ, vì từ những trang viết của hắn có một điều chắc chắn là (nếu như những tuyên bố của hắn được coi là sự thực) hắn đã xâm hại một số nơi yên nghỉ thiêng liêng trong các nghĩa địa quanh thành phố. Không nạn nhân nào sỉ nhục hắn; phần lớn họ là những công dân trung thực, cần cù và vô tội. Tuy vậy, hắn vẫn không thấy mình có lỗi. Thực sự, hắn có vẻ hoạt động với một sự ảo tưởng điên rồ rằng, hắn đang ban cho nạn nhân của mình những ân huệ.

    Hắn dừng lại, gạt mồ hôi ra khỏi miệng. Cái mặt nạ trượt tuyết làm hắn ngửa. Hắn kéo người phụ nữ và đứa con gái ra khỏi cốp xe, vào gạt ra. Cuối cùng thì hắn cũng còng được họ.

    "Thằng khốn nạn!" Cô ta rống lên. "Không được động vào con tao. Mày mà động vào nó, tao giết mày."

    Hắn ôm chặt quanh ngực cô ta và dán miệng cô ta lại. Sau đó hắn cũng làm thế với đứa bé con.

    "Thịt da có thể khô héo và yếu ớt" - (tên tội phạm viết bằng nét chữ thô bạo nhưng chắc chắn ) - "xương cốt là phần khỏe nhất của cơ thể. Da thịt chúng ta có già đi, nhưng xương cốt chúng ta luôn trẻ mãi. Đó là mục tiêu cao quý của tôi, tôi không hiểu tại sao lại có người muốn tranh cãi với nó. Tôi làm điều tử tế cho tất cả bọn họ. Giờ đây họ bất tử. Tôi giải phóng họ. Tôi đã lấy họ đến tận xương".

    Hắn kéo họ xuống tầng hầm và đẩy mạnh người phụ nữ xuống sàn nhà, đứa con gái ở cạnh cô ta. Buộc còng tay của họ vào tường bằng dây phơi. Sau đó quay lên cầu thang.

    Hắn nhặt chiếc ba lô màu vàng của cô ta ở sau xe taxi, đi qua một cánh cửa gỗ bắt vít vào phòng chính của toà nhà. Hắn định vứt chúng vào góc nhà nhưng vì một lý do nào đó hắn lại thấy tò mò về những đồ vật này. Hắn ngồi xuống trước một bức bích hoạ - một bức tranh vẽ tên đồ tể, một tay cầm dao, một tay cầm khúc thịt bò.

    Hắn đọc nhãn hành lý. Carole Ganz. Carole với chữ E. Tại sao lại thừa một chữ? Hắn băn khoăn. Cái va li chẳng có gì ngoài quần áo. Hắn lục lọi cái ba lô. Hắn thấy tiền ngay lập tức. Phải có đến bốn, năm nghìn đô la. Hắn nhét lại nó vào ngăn kéo khoá.

    Có một tá đồ chơi trẻ con: búp bê, hộp màu nước, một gói đất nặn, bộ đồ chơi Mr. Potato Head 3. Trong đó còn có một máy chơi nhạc dòng Discman đắt tiền, nửa tá đĩa CD và cái đài đồng hồ du lịch hiệu Sony.

    Hắn nhìn mấy bức ảnh. Ẳnh Carole và đứa con. Trong hầu hết các bức ảnh, người phụ nữ trông rất sầu não. Một số, trông cô ta có vẻ vui hơn. Không có ảnh nào có cả Carole và chồng dù cô ta đeo nhẫn cưới. Nhiều bức ảnh là hai mẹ con với một cặp - một người đàn bà to béo mặc bộ đồ bà già cũ kỹ và một người đàn ông hói, để râu, mặc áo sơ mi vải flanenl.

    Kẻ Tầm Xương nhìn rất lâu vào bức hình đứa bé con.

    Số phận của Maggie O'Connor đáng thương, một cô bé mỏng manh chưa đấy tám tuổi, đặc biệt bất hạnh. Vận đen của cô bé, như cảnh sát phỏng đoán, là cô bé đã bắt gặp James Schneider khi hắn đi phi tang một trong những nạn nhân của mình.

    Một cô bé, cư dân khu "Hell's Kitchen" nổi tiếng, ra ngoài nhổ lông đuôi ngựa. Trong khu vực nghèo khó này của thành phố có rất nhiều súc vật chết. Bọn trẻ ở đây đã quen với việc đan lông đuôi ngựa thành nhẫn và vòng đeo cổ - đồ nữ trang duy nhất mà những đứa trẻ cù bơ cù bất như nó có thể dùng để trang điểm cho mình.

    Da và xương, da và xương.

    Hắn đặt bức ảnh lên bệ lò sưởi, cạnh đống xương nhỏ mà hắn đang làm dở sáng nay và một số thứ hắn ăn trộm ở cửa hàng nơi hắn tìm thấy con rắn.

    Người ta ngờ rằng Schneider đã thấy Maggie gần hang ổ của hắn chứng kiến cảnh tượng rùng rợn khi hắn giết một trong những nạn nhân. Hắn hạ cô bé nhanh hay chậm, điều này ta không đoán được. Nhưng không giống như những nạn nhân khác của hắn, những người mà cuối cùng thi thể của họ cũng được tìm thấy - thi thể của Maggie O'Connor yếu đuối không bao giờ được tìm thấy.

    Kẻ Tầm Xương xuống cầu thang.

    Hắn giật tấm băng dính trên miệng người mẹ, người phụ nữ hổn hển hít không khí, nhìn hắn với cơn giận dữ lạnh lùng. "Mày muốn gì?" Cô ta the thé hỏi. "Cái gì?"

    Cô ta không gầy như Esther nhưng, ơn Chúa, cô ta không giống Hanna Goldschmidt chút nào. Hắn có thể nhìn thấy thật nhiều tâm hồn cô ta. Hàm dưới hẹp, xương đòn. Và qua lần váy mỏng màu xanh, dấu xương chậu - một kết nối của xương chậu, đốt háng và xương mu. Những cái tên nghe như những vị thần La Mã.

    Con bé con vặn vẹo người. Hắn nghiêng người ra trước và đặt tay lên đầu nó. Xương sọ không phát triển từ một miếng xương duy nhất mà từ tám miếng xương riêng biệt, và đỉnh đầu nối lên như những mảnh tam giác trên mái vòm sân Astrodome. Hắn chạm vào xương chẩm và xương đỉnh của đầu con bé. Và hai mảnh xương nhạy cảm, ưa thích của hắn quanh hốc mắt - xương bướm và xương sàng.

    "Thôi đi!" Carole lắc đầu giận dữ. "Tránh xa con bé ra."

    "Suỵt..." Hắn đưa ngón tay đeo găng của mình lên môi. Hắn nhìn con bé con, nó đang khóc và ép chặt người vào mẹ.

    "Maggie O'Connor", hắn thủ thỉ, nhìn khuôn mặt con bé. "Maggie bé bỏng của ta."

    Người phụ nữ giận dữ nhìn hắn.

    "Con có mặt không đúng lúc, đúng nơi rồi. Con đã nhìn thấy ta làm gì rồi?"

    Trẻ trung đến tận xương cốt.

    "Mày đang nói gì thế?" Carole thì thầm. Hắn chuyển sự chú ý sang cô.

    Kẻ Tầm Xương luôn băn khoăn về người mẹ của Maggie O'Connor.

    "Chồng cô đâu?"

    "Anh ấy chết rồi." Cô cục cằn nói. Sau đó nhìn đứa con và nói nhẹ nhàng hơn. "Anh ấy bị giết hai năm trước. Này, chỉ cần thả con gái tôi thôi. Nó không thể nói bất cứ điều gì về anh với người khác. Này anh kia... anh có nghe tôi nói không? Làm gì thế?"

    Hắn tóm tay Carole và nhấc lên.

    Hắn gập xương bàn tay, chỗ cổ tay. Các đốt ngón tay - những ngón tay nhỏ xíu. Bóp vào xương.

    "Không, đừng làm thế. Tôi không thích thế. Làm ơn đi!" Giọng cô vang lên trong cơn hoảng loạn.

    Hắn mất tự chủ và không thích cảm giác này chút nào. Nếu hắn muốn thành công ở đây, với các nạn nhân, với kế hoạch của hắn thì hắn phải chiến thắng sự ham muốn đang xâm chiếm hắn - cơn điên đang kéo hắn sâu hơn vào quá khứ, lẫn lộn ngày đó và bây giờ.

    Trước đây và sau đó...

    Hắn cần đến tất cả trí tuệ và sự khéo léo của mình để kết thúc những gì hắn đã bắt đầu.

    Và lúc này... lúc này...

    Cô ta thật nhỏ nhắn, cô ta thật hoàn hảo. Hắn nhắm mắt và hình dung lưỡi dao cào trên xương ống chân cô ta sẽ hát lên như mã vĩ của một cây đàn violin cổ.

    Hắn thở gấp gáp, mồ hôi đổ như tắm.

    Cuối cùng, khi mở mắt hắn thấy mình đang nhìn vào đôi giày của cô. Hắn không có nhiều xương chân trong tình trạng tốt. Những người vô gia cư bị hắn bắt trong mấy tháng qua... họ đều bị còi xương và loãng xương, ngón chân họ bị những đôi giày không vừa chân làm hỏng.

    "Tôi muốn thoả thuận với cô", hắn nghe thấy mình đang nói.

    Cô nhìn xuống con gái. Đang ép chặt hơn vào người cô.

    "Tôi sẽ thoả thuận. Tôi sẽ để cô đi nếu cô để tôi làm mấy việc."

    "Việc gì?" Carole thầm thì.

    "Cho tôi bóc da cô."

    Cô chớp mắt.

    Hắn thầm thì. "Cho phép tôi. Làm ơn đi? Một chân. Chỉ một chân thôi. Nếu cô làm thế tôi sẽ để cô đi."

    "Cái gì...?"

    "Đến tận xương."

    Cô hoảng sợ nhìn hắn chằm chằm. Nuốt nước bọt.

    Điều đó có ý nghĩa gì? Hắn nghĩ. Kiểu gì thì cô ta cũng đã gần đó lắm rồi, thật gầy, thật góc cạnh. Đúng là có gì đó khác biệt ở cô ta - không như những nạn nhân khác.

    Hắn cất khẩu súng ngắn và lấy dao trong túi. Mở nó ra với một tiếng động làm giật mình.

    Cô không động đậy, ánh mắt cô trượt xuống đứa con gái. Quay lại phía hắn.

    "Mày để bọn tao đi?"

    Hắn gật đầu: "Cô chưa nhìn thấy mặt tôi. Cô không biết đây là đâu."

    Một lúc lâu. Cô nhìn quanh tầng hầm. Cô lẩm nhẩm một cái tên. Ron hay Rob.

    Mắt vẫn nhìn hắn, cô giơ chân ra và đưa về phía hắn. Hắn kéo giày ra khỏi chân cô.

    Hắn nắm lấy chân cô. Xoa nắn những mạch máu dễ vỡ.

    Cô ngửa người ra sau, những sợi gân nổi lên trên cổ cô thật đẹp. Mắt cô nhắm chặt. Hắn chăm sóc da cô bằng lưỡi dao.

    Tay nắm chắc con dao.

    Cô nhắm mắt, hít vào và phát ra một tiếng khóc yếu ớt. "Làm đi", cô thầm thì. Và xoay mặt con bé ra chỗ khác. Ôm nó thật chặt.

    Kẻ Tầm Xương hình dung ra cô trong bộ quần áo thời Victoria, váy lồng đăng ten đen. Hắn thấy ba người họ ngồi với nhau ở Delmonico hay đi trên Đại lộ Năm. Hắn nhìn thấy Maggie nhỏ bé cùng với họ, mặc bộ váy diêm dúa, đang dùng gậy đánh vòng khi họ đi qua cầu Canal.

    Ngày đó và bây giờ...

    Hắn đặt lưỡi dao hoen gỉ vào vòng cung chân cô.

    "Mẹ ơi!" Con bé hét lên.

    Có điều gì đó trong người hắn bật ra. Hắn bàng hoàng một lúc vì khiếp sợ điều hắn đang làm. Sợ chính hắn.

    Không! Hắn không thể làm điều đó. Không phải với cô ta. Với Esther hay Hanna thì được. Hay với người tiếp theo. Nhưng không phải cô ta.

    Kể Tầm Xương lắc đầu buồn bã và chạm bàn tay vào gò má cô. Hắn lại dán miệng cô bằng băng dính và cắt sợi dây buộc chân cô.

    "Nào", hắn lẩm bẩm.

    Cô vùng vẫy hết sức nhưng hắn giữ chặt đầu cô và kẹp mũi cô cho tới khi cô ngất đi. Sau đó hắn vác cô lên vai và đi lên cầu thang, thận trong nhấc các túi bên cạnh lên. Rất cẩn thận. Hắn không muốn nó rơi. Lên cầu thang. Chỉ dừng lại một lần để nhìn Maggie O'Conner bé nhỏ, tóc quăn đang ngồi trên bụi bẩn, tuyệt vọng ngẩng đầu nhìn hắn.
    --------------------------------
    1 Robert Mario De Niro, Jr.: Nam diễn viên đã hai lần giành được giải thưởng của Viện Hàn lâm Điện ảnh Mỹ, đạo diễn, nhà sản xuất phim. Ông được coi là một trong những diễn viên vĩ đại và có ảnh hưởng nhất mọi thời đại.
    2 Tovex: Một loại chất nổ dạng gel nước.
    3 Mr. Potato Head: Một loại đồ chơi của Mỹ gồm một mô hình củ khoai tây bằng nhựa có thể được trang trí bằng những bộ phận khác nhau như tai, mắt để tạo ra một khuôn mặt. Đồ chơi này được George Lerner sáng chế năm 1949, do Công ty Hasbro sản xuất và phân phối lần đầu tiên vào năm 1952.

  4. #23
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HAI MƯƠI BA

    Anh ta tóm họ ngay trước nhà Rhyme.

    Nhanh như rắn, Jerry Banks đang bê cạnh sườn, như một món quà từ Santa Fe.

    Dellray và hai đặc vụ bước từ trong ngõ ra. Anh ta tuyên bố với vẻ thoải mái: "Có tin mới đây, bé yêu. Cô đã bị bắt vì tội ăn cắp chứng cứ đang thuộc sự quản lý của chính phủ Mỹ."

    Lincoln Rhyme đã nhầm. Dellray không hề về tòa nhà kiểu liên bang. Anh ta theo dõi chỗ ở của anh.

    Banks đảo mắt. "Bình tĩnh nào, Dellray. Chúng tôi đã cứu được nạn nhân."

    "Con giai, con làm được việc thật tốt rồi đấy. Nếu không, chúng ta sẽ kết án con tội giết người."

    "Nhưng chúng tôi cứu được ông ta", Sachs nói. "Còn anh thì không."

    "Vớ vẩn."

    "Còng quý cô trẻ tuổi này lại", con Kỳ nhông bất ngờ nói với đặc vụ lực lưỡng đứng cạnh anh ta.

    Cô bắt đầu. "Chúng tôi tìm thấy thêm manh mối, đặc vụ Dellray. Hắn đã bắt được một nạn nhân khác. Tôi không biết chúng ta còn bao nhiêu thời gian."

    "À, còn phải mời cả anh bạn này tới dự tiệc cùng chúng ta nữa chứ." Dellray hất đầu về phía Banks. Một nữ đặc vụ FBI đang tiến lại chỗ anh ta, còn anh ta có vẻ như đang nghĩ đến việc đánh nhau với cô ta.

    Dellray nói vui vẻ: "Đừng, đừng, đừng. Cậu không muốn thế đâu."

    Banks miễn cưỡng chìa tay ra.

    Sachs giận dữ nở một nụ cười lạnh lùng với viên đặc vụ. "Chuyến đi đến Morningside Heights của anh thế nào?"

    "Hắn đã giết chết chàng lái taxi ấy. Các chàng trai PERT của chúng tôi đang lồm cồm khắp nhà như giòi bò trong phân."

    "Và đó là tất cả những gì họ sẽ tìm thấy", Sachs nói. "Đối tượng này biết về hiện trường vụ án tốt hơn anh và tôi."

    "Về trung tâm." Dellray tuyên bố, hất đầu về phía Sachs. Cô có quyền được yên lặng. Cô có..."

    "Được rồi', một giọng nói vang lên phía sau họ. Sachs quay lại và nhìn thấy Jim Polling đang sải bước lên vỉa hè. Cái áo thể thao thùng thình, tối màu anh ta đang mặc thật nhàu nát. Giống như là anh ta đã mặc nó khi đi ngủ, mặc dù khuôn mặt u ám của anh ta nói rằng đã mấy ngày nay anh ta chưa được ngủ. Có thể nhìn thấy bộ râu cả ngày chưa được cạo và mái tóc thực sự rối bù của anh ta.

    Dellray chớp mắt một cách khó chịu, không phải viên cảnh sát làm anh ta thấy bất ổn mà là thân hình cao lớn của chưởng lý quận Nam đang ở phía sau Pollong. Và sau nữa là SAC Peskins.

    "Được rồi, Fred. Để họ đi." Giọng nói của viên chưởng lý.

    Con Kỳ nhông nói bằng giong nam trung của phát thanh viên chương trình âm nhạc đài FM: "Cô ta lấy trộm vật chứng, thưa ngài.Cô ta..."

    "Tôi chỉ làm vài phân tích pháp y thôi", Sachs nói.

    "Nghe này...", Dellray bắt đầu.

    "Không", Polling nói, hoàn toàn làm chủ. Không hề có âm hưởng giận dữ. "Không, chúng tôi không nghe." Anh ta quay sang Sachs và cáu kỉnh: "Còn cô thì đừng cố làm trò."

    "Không, thưa ngài. Xin lỗi, thưa ngài."

    Viên chưởng lý nói với Dellray: "Fred, anh hành động theo suy luận và đã thất bại. Đó là sự thật."

    "Một đầu mối tốt", Delllray nói.

    "Chúng tôi thay đổi hướng điều tra", viên chưởng lý tiếp tục.

    Perkins nói: "Chúng tôi đã họp với giám đốc và với phòng Nghiên cứu Hành vi. Chúng tôi quyết định rằng hướng điều tra của các thám tử Rhyme và Sellitto là đúng."

    "Nhưng đặc tính của tôi biết chắc rằng điều gì đó đã xảy ra tại sân bay. Và đó không phải là thứ mà anh ta thích lắm."

    "Chúng ta sẽ quay lại chuyện đó, Fred", viên chưởng lý nói cộc lốc. "Bất kể là tên khốn này muốn gì thì nhóm của Rhyme cũng đã cứu được nạn nhân."

    Nhứng ngón tay dài ngoẵng của Dellray cuộn lại thành nắm đấm, nhưng sau đó lại mở ra: "Tôi đánh giá cao việc này, thưa ngài. Nhưng..."

    "Đặc vụ Dellray, chúng tôi đã quyết định rồi."

    Khuôn mặt đen bóng - thật hăng hái khi anh điều binh khiển tướng trong toà nhà kiểu liên bang - lúc này ủ rũ, dè dặt. Trong một khắc, anh chàng mê nhạc jazz biến mất. "Vâng, thưa ngài."

    "Con tin gần đây nhất có thể bị chết nếu thám tử Sachs không can thiệp", viên chưởng lý nói.

    "Là sĩ quan Sachs, thưa ngài", cô chỉnh lại. "Vả lại phần lớn là nhờ Lincoln Rhyme. Tôi chỉ là tay sai của anh ta thôi. Có thể nói như vậy."

    "Vụ này trả về thành phố", viên chưởng lý tuyên bố. "A-T của Cục vẫn tiếp tục xử lý mối liên hệ với người đưa tin liên quan tới khủng bố nhưng với số lượng người ít hơn. Tất cả những thông tin mà họ có được đều phải chuyển cho các thám tử Rhyme và Sellitto. Dellray, anh phải chuyển người sang để họ sử dụng cho bất kỳ nỗ lực tìm kiếm, theo dõi hay giải cứu con tin nào. Hoặc bất cứ thứ gì họ cần. Anh hiểu chứ?"

    "Vâng, thưa ngài."

    "Tốt. Ạnh nên tháo còng cho các sĩ quan này ngay."

    Dellray bình tĩnh mở khóa còng và thả nó vào túi mình. Anh ta đi ra chỗ một chiếc xe lớn đậu gần đó. Khi Sachs nhặt cái túi đựng vật chứng lên, cô nhìn thấy anh ta đứng một mình bên rìa một vệt sáng đèn đường, đằng sau xe của anh ta, ngón tay trỏ vuốt vuốt điếu thuốc. Cô có một chút cảm thông với nhân viên liên bang này, sau đó cô quay lại chạy lên cầu thang, hai bậc một, theo sau Jerry Banks và con rắn chuông của anh ta.

    "Tôi nghĩ ra rồi. À, hầu hết."

    Sachs bước và phòng Rhyme đúng lúc anh đưa ra tuyên bố này. Anh ta khá hài lòng với bản thân.

    "Mọi thứ, trừ con rắn và cái mớ hỗn độn này."

    Cô giao vật chứng mới cho Mel Cooper. Căn phòng lại được chuyển đổi, những cái bàn được chất đầy lọ thủy tinh, cốc thí nghiệm, hộp tròn đựng thuốc, thiết bị phòng thí nghiệm và những cái hộp. Không nhiều như ở trụ sở FBI nhưng với Amelia Sachs, kỳ lạ thay nó lại khiến cô thấy như đang ở nhà.

    "Nói tôi nghe", cô nói.

    "Ngày mai là Chủ Nhật... xin lỗi - hôm nay là Chủ nhật. Hắn sẽ đốt một nhà thờ."

    "Làm thế nào mà anh nghĩ ra được?"

    "Ngày tháng."

    "Trên mẩu giấy? Nó có ý nghĩa gì?"

    "Cô đã bao giờ nghe nói tới những người vô chính phủ chưa?"

    "Những người Nga nhỏ bé mặc áo choàng mang theo những quả bom trông như quả bóng bowling phải không?" Banks nói.

    "Từ một anh chàng đọc truyện tranh" Rhyme khô khan nhận xét. "Cội-rễ-truyện-tranh-sáng-thứ-Bảy của anh ta đang thể hiện đây, Banks. Chủ nghĩa vô chính phủ là một phong trào xã hội cũ kêu gọi loại bỏ chính phủ. Một người vô chính phủ - Enrico Malatesta - có tuyên ngôn 'tuyên truyền bằng hành động'. Dịch ra là giết người và gây lộn xộn. Một trong những kẻ theo gót ông ta, một người Mỹ tên là Eugene Lockworthy, sống ở New York. Một buổi sáng Chủ nhật, hắn ta khóa cửa một nhà thờ ở Upper East Side 1 ngay sau khi buổi lẽ bắt đầu và đốt nơi đó. Giết mười tám người đi lễ."

    "Và nó xảy ra vào ngày Hai mươi tháng Năm năm 1906?" Sachs hỏi.

    "Đúng."

    "Tôi sẽ không hỏi làm thế nào mà anh nghĩ ra được."

    Rhyme nhún vai. "Rõ ràng quá. Đối tượng của chúng ta thích lịch sự, đúng không? Hắn cho ta vài que diêm để nói với ta rằng, hắn lên kế hoạch cho một vụ hỏa hoạn. Tôi vừa nghĩ tới những vụ cháy nổi tiếng của thành phố - Triangle Shirtwaist, Crystal Palace 2, du thuyền Tướng Slocum... tôi xem lại ngày tháng - Ngày Hai mươi tháng Năm là đám cháy nhà thờ First Methodist."

    Sachs hỏi: "Nhưng ở đâu? Cũng chỗ nhà thờ ấy?"

    "Tôi nghĩ là không phải", Sellitto nói. "Bây giờ chỗ đó là một cao ốc thương mại, 823 không thích những chỗ mới. Tôi có một vài người dự phòng nhưng ta không chắc là hắn sẽ đi nhà thờ."

    "Và chúng ta nghĩ", Rhyme nói thêm, "hắn sẽ đợi cho tới khi buổi lễ bắt đầu."

    "Vì sao?"

    "Có một điều, vì đó là cách Lockworthy đã làm", Sellitto tiếp tục. "Hơn nữa, chúng tôi cũng nghĩ tới điều Terry Dobyns nói với chúng ta - tăng tiền cược. Nhiều nạn nhân hơn."

    "Như vậy là ta có thêm chút thời gian. Cho tới khi buổi lễ bắt đầu."

    Rhyme nhìn lên trần nhà. "Rồi, có bao nhiêu nhà thờ ở Manhattan?"

    "Hàng trăm cái."

    "Nghe hoa mỹ lắm, Banks. Ý tôi là - chúng ta tiếp tục xem xét manh mối. Hắn sẽ phải thu gọn còn vài cái thôi."

    Tiếng chân bước trên cầu thang.

    Lại là hai anh em sinh đôi.

    "Chúng tôi gặp Fred Dellray ở ngoài kia."

    "Anh ta chẳng thân mật chút nào."

    "Hay vui vẻ."

    "Ôi trời, nhìn này." Saul - Rhyme tin rằng đó là Saul; anh ta quên mất ai là người có tàn nhang - hất đầu về phía con rắn. "Trong một đêm, tôi đã phải nhìn thấy thứ này nhiều hơn là tôi muốn rồi đấy."

    "Rắn?" Rhyme hỏi.

    "Chúng tôi đến Metamorphosis. Đó là..."

    "... một chỗ rất ghê rợn. Có gặp ông chủ ở đấy. Một anh chàng kỳ quặc. Các anh chắc cũng đoán được."

    "Để râu dài lắm. Chúng tôi ước là mình không đến đấy tối đó", Bedding tiếp.

    "Họ bán dơi nhồi bông và côn trùng..."

    "Dài tới năm inch."

    "... và có những con quái vật như con này." Sachs hất đầu về phía con rắn.

    "Bọ cạp, rất nhiều bọ cạp."

    "Thôi được, khoảng một tháng trước họ bị đột nhập và đoán thử xem cái gì bị mất? Một bộ xương rắn chuông."

    "Họ có báo không?" Rhyme hỏi.

    "Có."

    "Nhưng tổng giá trị tài sản mất cắp chỉ khoảng một trăm đô la. Vì thế Larceny không muốn lôi tất cả mọi người vào, các anh biết đấy."

    "Nhưng nói với họ."

    Sachs gật đầu. "Con rắn không phải là thứ duy nhất bị mất. Kẻ trộm còn lấy đi mấy chục cái xương."

    "Xương người à?" Rhyme hỏi.

    "Đúng. Người chủ nghĩ điều đó thật hài hước. Những con côn trùng..."

    "Quên năm inch đi, một số con dài tới tám inch. Dễ."

    "...chúng trị giá ba, bốn trăm. Nhưng tất cả vật chứng bị lấy là con rắn và xương."

    "Có xương nào đặc biệt không?"

    "Một nhóm. Giống như mẫu Whitman của anh."

    "Hắn ta nói thế, không phải chúng tôi."

    "Chủ yếu là xương nhỏ. Tay và chân. Và xương sườn, có thể là cả hai cái."

    "Anh ta không chắc lắm."

    "Có báo cáo hiện trường nào không?"

    "Cho xương bị đánh cắp? Không đâu."

    Những Chàng trai Dũng cảm lại đi ra, vào thành phố, tới hiện trường cuối cùng để điều tra khu vực lân cận.

    Rhyme băn khoăn về con rắn. Có phải nó cho họ biết địa điểm không? Nó có liên quan đến đám cháy Nhà thờ First Methodist không? Nếu bọn rắn chuông là đặc thù của Manhattan thì những công trình phát triển thành phố đã từ lâu đóng vai trò Thánh Patrick và đã quét dọn chúng ra khỏi đảo rồi. Hắn có chơi chữ rắn hay chuông không?"

    Bất ngờ Rhyme tin rằng anh ta đã hiểu ra. "Con rắn là dành cho chúng ta."

    "Chúng ta?" Banks cười.

    "Một cái tát vào mặt."

    "Mặt ai?"

    "Tất cả những ai đang tìm hắn. Tôi nghĩ đây là một chuyện đùa độc địa."

    "Tôi không cười quá to đâu", Sachs nói.

    "Câu của cô khá là buồn cười đấy." Banks nhăn mặt.

    "Tôi nghĩ chúng ta khá hơn hắn tưởng và hắn không thích điều này. Hắn phát điên và hắn đổ nó sang cho chúng ta. Thom, thêm điều này vào hồ sơ của chúng ta đi. Hắn đang nhạo báng chúng ta."

    Điện thoại của Sellitto đổ chuông. Anh ta nghe và trả lời. "Emma thân yêu. Cô có gì thế?" Anh ta gật đầu trong khi ghi chép. Sau đó ngẩng lên và thông báo. "Những tên trộm xe cho thuê. Hai chiếc Avis đã biến khỏi chỗ của chúng ở Bronx trong tuần qua, một chiếc ở Midtown. Chúng để ở ngoài vì màu không đúng: đỏ, xanh và trắng. Không có tính dân tộc. Bốn chiếc Hertz bị đánh cắp. Ba chiếc ở Manhattan - một chiếc từ địa điểm của họ ở trung tâm East Side, một chiếc từ Midtown và một chiếc từ Upper West Side. Hai cái màu xanh và - có thể đây là nó - một cái màu nâu. Nhưng chiếc Ford bạc bị lấy từ White Plains. Đó là sự bầu chọn của tôi."

    "Đồng ý", Rhyme tuyên bố. "White Plains."

    "Làm sao anh biết?" Sachs hỏi. "Monelle nói có thể nó màu be hay màu bạc."

    "Vì anh chàng của chúng ta đang ở trong thành phố", Rhyme giải thích, "và nếu hắn ta lấy một thứ to như một chiếc xe hơi thì hắn sẽ làm việc đó càng xa hang ổ của hắn càng tốt. Một chiếc xe Ford, anh vừa nói thế à?"

    Sellitto hỏi Emma, sau đó ngẩng lên. "Taurus. Kiểu của năm nay. Nội thất màu xám tối. Biển số không trùng."

    Rhyme gật đầu. "Thứ đầu tiên mà hắn thay đổi sẽ là biển số xe. Hãy cảm ơn cô ấy và bảo cô ấy chợp mắt một chút. Nhưng đừng rời điện thoại quá xa."

    "Tôi có gì này, Lincoln", Mel Cooper gọi.

    "Gì thế?"

    "Mớ hỗn độn. Tôi đã chạy nó qua cơ sở dữ liệu thương hiệu." Anh ta bật màn hình. "Tham chiếu chéo... Xem nào, phù hợp nhất có lẽ là Kink-Away. Đó là loại thuốc duỗi tóc được bán trong cửa hàng."

    "Không phù hợp lắm về mặt chính trị, nhưng có ích. Điều này đưa ta đến Harlem, các anh có nghĩ thế không? Thu hẹp số lượng nhà thờ một cách đáng kể." Banks đang lướt qua mục buổi lễ tôn giáo trong danh bạ của ba tờ báo thành phố. "Tôi đếm được hai mươi ba."

    "Buổi lễ sớm nhất là lúc nào?"

    "Ba nơi làm lễ lúc tám giờ. Sáu nơi lúc chín giờ. Một nơi vào lúc chín rưỡi. Còn lại vào mười hay mười một giờ."

    "Hắn ta sẽ đến nhà thờ làm lễ đầu tiên. Hắn đã cho chúng ta vài giờ để tìm kiếm chỗ này rồi."

    Sellitto nói. "Tôi sẽ bảo Haumann tập hợp các anh chàng ESU của chúng ta lại."

    "Còn Dellray thì sao?" Sahcs nói. Cô hình dung ra viên đặc vụ đáng thương đứng một mình trong góc phố phía bên ngoài.

    "Hắn ta thì sao?" Sellitto lẩm bẩm.

    "À,cho anh ta nhập cuộc với. Anh ta muốn bắt thằng cha kia lắm đấy."

    "Perkins nói anh ta sẽ phải giúp đỡ", Banks khuyến nghị.

    "Cô thực sự muốn có hắn ư?" Sellitto nhăn nhó hỏi.

    Sachs gật đầu. "Chắc chắn."

    Rhyme đồng ‎ý. "Được rồi, anh ta có thể chỉ huy các nhóm S&S của liên bang. Tôi muốn mỗi nhà thờ có một nhóm ngay lập tức. Tất cả các lối vào. Nhưng họ phải đứng cách đó thật xa. Tôi không muốn đánh động hắn. Ta có thể bắt quả tang hắn."

    Sellitto nhận một cuộc gọi. Anh ta ngẩng lên, mắt nhắm. "Lạy Chúa."

    "Ồ, không", Rhyme lẩm bẩm.

    Viên thám tử lau khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi và gật đầu. "Trung tâm nhận được một cuộc gọi 911 từ nhân viên trực đêm mở một khu nào đó? Khách sạn Midtown Residence? Một người phụ nữ và con gái cô ta gọi cho anh ta từ La Guardia, nói rằng họ sẽ bắt đầu lên taxi đến. Một lúc trước; nhưng họ lại không đến. Biết tin tức về vụ bắt cóc, anh ta nghĩ anh ta nên gọi điện. Tên cô ta là Carole Ganz. Đến từ Chicago."

    "Quỷ thật", Bank lẩm bẩm. "Có cả một đứa bé gái. Chắc là ta phải dừng hết taxi ngoài phố cho tới khi tóm được hắn."

    Rhyme vô cùng mệt mỏi. Đầu anh điên đảo. Anh nhớ lại lúc khám nghiệm hiện trường tại một nhà máy sản xuất bom. Nitroglycerin rơi ra từ một ít thuốc nổ thấm vào chiếc ghế bành mà Rhyme phải tìm kiếm dấu vết trên đó. Nitroglycerin làm cho ta đau đầu dữ dội.

    Màn hình máy tình của Cooper nhấp nháy. "Thư điện tử", anh ta nói và mở thông điệp. Anh ta đọc những dòng chữ nhỏ xíu.

    "Họ đã phân cực tất cả các mẫu giấy bóng kính mà ESU thu thập được. Họ cho rằng mẩu giấy chúng ta tìm thấy trên khúc xương ở hiện trường Phố Pearl là từ cửa hàng thực phẩm ShopRite. Giống nhất với loại giấy bóng kính mà họ sử dụng."

    "Tốt", Rhyme nói. Anh hất đầu về phía tấm áp phích. "Gạch bỏ tất cả cửa hàng thực phẩm trừ ShopRite đi. Ta còn những địa điểm nào."

    Anh nhìn Thom xóa tên các cửa hàng, chỉ để lại bốn.

    B'way & 82nd

    Greenwich & Bank

    8th Ave. & 24th

    Houston & Lafayette

    "Như thế là ta còn lại Upper West Side, West Village, Chelsea và Lower East Side."

    "Nhưng hắn có thể đến bất cứ đâu để mua."

    "Chắc chắn là hắn có thể rồi, Sachs. Hắn có thể mua chúng ở White Plains khi hắn ăn trộm xe. Hay ở Cleveland khi đi thăm mẹ hắn. Nhưng nghe nay, có một điểm là bọn thủ phạm cảm thấy thoải mái với sự lừa dối của chúng và chúng không còn quan tâm đến việc che giấu dấu vết nữa. Những kẻ ngu xuẩn - hay lười biếng - ném khẩu súng còn bốc khói xuống hố rác ngay sau nhà mình và vui vẻ biến đi. Những kẻ thông mình ném nó vào một thùng Spackle rồi vứt vào Hell Gate. Những kẻ xuất sắc lẻn vào nhà máy lọc dầu và làm nó bốc hơi trong lò nóng năm nghìn độ. Nghi phạm của chúng ta thông minh, chắc chắn rồi. Nhưng hắn cũng giống như tất cả các tên tội phạm khác trong lịch sử thế giới. Hắn cũng có giới hạn. Tôi cá là hắn nghĩ chúng ta không có thời gian hay ý định tìm kiếm hắn hay hang ổ của hắn vì chúng ta quá bận bịu với những manh mối để lại. Nhưng tất nhiên là hắn hoàn toàn sai lầm. Đó chính xác sẽ là cách chúng ta tìm ra hắn. Còn bây giờ, hãy xem liệu ta có đến gần được hang ổ của hắn hay không? Mel, có gì trong quần áo của nạn nhân từ hiện trường vừa rồi không?"

    Những đợt sóng thủy triều đã giặt sạch hầu hết mọi thứ trên quần áo của William Everett.

    "Cô nói là họ có đánh nhau, phải không Sahcs? Nghi phạm và ông Everett này."

    "Không hắn là một vụ đánh nhau. Everett tóm áo hắn."

    Rhyme tặc lưỡi. "Chắc là tôi mệt rồi. Nếu tôi nghĩ đến việc đó thì tôi đã bảo cô cạo móng tay ông ta. Kể cả khi ông ta chìm dưới nước thì vẫn có một chỗ..."

    "Đây này, cô nói và chìa ra hai cái túi nhựa."

    "Cô có cạo?"

    Cô gật đầu.

    "Nhưng sao lại hai túi?"

    Nhấc lần lượt từng cái lên, cô nói: "Tay phải, tay trái."

    Mel Cooper bật cười. "Ngay cả anh cũng chẳng bao giờ nghĩ đến việc dùng hai túi cho hai tay. Ý hay tuyệt."

    Rhyme gầm gừ. "Phân tích hai tay có khả năng cùng có giá trị giám định."

    "Ôi trời", Cooper vẫn cười. "Thế có nghĩa là anh ta nghĩ đó là một ý tuyệt vời và anh ta tiếc rằng mình không phải là người đầu tiên nghĩ ra nó."

    Kỹ thuật viên nghiên cứu chỗ cạo móng tay. "Ở đây có ít gạch."

    "Chẳng có tí gạch nào quanh ống cống hay ngoài hiện trường", Sachs nói.

    "Nó bị gãy vụn. Nhưng có cái gì dính vào đó. Tôi không biết đấy là thứ gì."

    Banks hỏi: "Có thể là từ đường hầm chỗ bãi chăn không? Ở đó có rất nhiều gạch, đúng không?"

    "Và tất cả xuất phát từ cô Annie Oakley 3 đây". Rhyme nói, buồn bã hất đầu về phía Sachs. "Không, nhớ lại đi, thủ phạm đã bỏ đi trước khi cô ta rút súng sáu." Sau đó anh nhăn nhó, thấy mình cố vươn ra phía trước. "Mel, tôi muốn xem mẩu gạch đó. Trên kính hiển vi. Có cách nào không?"

    Cooper nhìn ra chỗ máy tính của Rhhyme. "Tôi nghĩ ta có thể làm gì đó." Anh ta kéo một sợi cáp từ cổng video của chiếc kính hiển vi tới máy tính của anh ta và sau đó đào bới trong cái va li. Anh ta lôi ra một sợi cáp to, dây màu xám. "Đây là cáp nối tiếp". Anh ta kết nối hai máy tính với nhau và truyền một phần mềm gì đó sang chiếc Compaq của Rhyme. Sau năm phút, Rhyme phấn chấn nhìn được đúng những gì mà Cooper đang nhìn qua ống ngắm kính hiển vi của anh ta.

    Đôi mắt của nhà hình sự học quét qua mẩu gạch, đã được phóng đại khổng lồ. Anh cười thành tiếng. "Hắn ta đã tự đánh bẫy mình. Có thấy những đốm trắng màu trắng dính vào mẩu gạch không?"

    "Cái gì đấy?" Sellitto hỏi.

    "Trông giống như hồ dán", Cooper đề xuất.

    "Chính xác. Từ cuộn băng dính làm sạch lông thú vật trên quần áo. Những tên tội phạm thực sự cẩn thận dùng thứ này để xóa sạch dấu vết khỏi quần áo chúng. Nhưng chúng bị phản pháo. Vài mẩu hồ rơi ra khỏi cuộn băng dính và dính vào quần áo của hắn. Như vậy ta biết đó là từ nơi ẩn nấp an toàn của hắn. Chính mẩu hồ giữ sạch mẩu gạch lại cho tới khi móng tay của Everett nhặt nó lên."

    "Mẩu gạch ấy có nói cho ta biết điều gì không?" Sachs hỏi.

    "Nó đã cũ. Và đắt tiền - gạch rẻ tiền rất xốp có trộn chất làm đầy. Tôi nghĩ chỗ của hắn có thế là một cơ quan hay tòa nhà của ai đó rất giàu có. Tòa nhà ít nhất đã một trăm năm. Có thể cổ hơn."

    "À, đây rồi", Cooper nói. "Có vẻ là một mẩu găng tay nữa. Nếu thứ này cứ tiếp tục phân rã thì chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ có dấu vân tay của hắn thôi."

    Màn hình của Rhyme nhấp nháy và một khắc sau anh nhận thấy có một mẩu da nhỏ xuất hiện trên màn hình. "Có thứ trông buồn cười này", Cooper nói.

    "Không phải màu đỏ", Rhyme nhận xét. "Như mẩu kia. Mẩu này lại màu đen. Cho nó qua máy GC-MS xem."

    Cooper thử, sau đố gõ lên màn hình của anh ta. "Đó là da. Nhưng thuốc nhuộm khác. Có thể nó đã bị dây bẩn hoặc phai màu."

    Rhyme nghiêng người về phía trước, căng thẳng, nhìn kỹ mẩu da trên màn hình và anh nhận ra mình gặp rắc rối. Rắc rối nghiêm trọng.

    "Này, anh ổn chứ?" Sachs chính là người thốt lên.

    Rhyme không trả lời. Cổ và cằm anh bắt đầu rung bần bật. Một cảm giác như cơn rối loạn tràn lên từ cạnh cột sống đã gãy của anh và lan lên đầu. Sau đó, tựa như bộ điều chỉnh nhiệt được bật lên, cơn lạnh và gai ốc biến mất, anh bắt đầu toát mồ hôi. Mồ hôi túa ra trên mặt anh và cù anh buồn phát điên.

    "Thom!" Anh thì thầm. "Nó đến đấy."

    Sau đó anh thở hổn hển, cơn đau đầu dâng lên và lan tỏa theo thành hộp sọ. Anh nghiến chặt răng, lắc đầu, làm bất cứ điều gì có thể để ngăn chặn cơn đau không thể chịu đựng được. Nhưng chẳng có ích gì. Đèn trong phòng nhấp nháy. Cơn đau dữ dội tới mức phản ứng của anh là chạy trốn khỏi nó, chạy trên đôi chân bại liệt đã không nhúc nhích được trong nhiều năm.

    "Lincoln!" Sellitto la lớn.

    "Nhìn mặt anh ấy kìa", Sachs hổn hển, "nó đỏ rực".

    Còn tay anh thì trắng bệch như ngà voi. Cả người anh dước kinh độ C4 4 thần kỳ đang trắng bệch. Máu của Rhyme, trong một sứ mệnh tuyệt vọng, sai lầm là phải đến được chỗ nó nghĩ nó cần đến, đang dồn lên những ống mao dẫn trên não anh, khiến chúng dãn ra, đe dọa làm nổ tung những mạch máu yếu ớt.

    Dù cơ đột quỵ càng ngày càng tệ hại hơn, nhưng Rhyme vẫn biết được Thom đang vươn trên người anh, kéo tung cái chăn ra khỏi giường. Anh vẫn biết Sachs tiến về phía trước, đôi mắt xanh dương tỏa sáng của cô co lại vì lo lắng. Điều cuối cùng anh nhìn thấy trước khi bóng tối trùm xuống là con chim ưng đang tung bay ra khỏi bờ tường trên đôi cánh to lớn của nó, bị giật mình vì những hoạt động rối loạn bất ngờ trong phòng, tìm kiếm sự quên lãng dễ dàng trong làn không khí nóng bỏng bên trên những con phố trống vắng của thành phố.

    --------------------------------
    1 Upper East Side: Một khu vực thuộc Manhattan, New York, nằm giữa Công viên Trung tâm ở sông Đông.
    2 Crystal Palace: Cung điện Pha Lê, một địa danh ở New York.
    3 Annie Oakley: Nữ diễn viên, xạ thủ người Mỹ đầu thế kỷ XX.
    4 C4: Đốt sống C4.

  5. #24
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HAI MƯƠI BỐN

    Khi Rhyme ngất đi, Sellitto là người đầu tiên chạy tớ chỗ cái điện thoại.

    "Quay 911 gọi EMS", Thom ra lệnh. "Sau đó quay số này. Quay số nhanh. Đó là Peter Taylor, chuyên gia cột sống của chúng tôi."

    Sellitto gọi điện.

    Thom quát: "Tôi cần giúp đỡ. Có ai đó không?"

    Sachs đứng gần nhất. Cô gật đầu, bước lại phía Rhyme. Viên trợ lý ôm dưới nách người đàn ông bất tỉnh nhân sự và kéo anh ta nằm cao hơn. Anh ta giật tung chiếc áo sơ mi và ấn tay vào lồng ngực nhợt nhạt, vừa làm vừa nói. "Những người còn lại, làm ơn đi ra chỗ khác."

    Sellitto, Banks và Cooper vẫn ngần ngừ trong giây lát rồi bước ra ngoài. Sellitto đóng cánh cửa phía sau họ.

    Một chiếc hộp màu be xuất hiện trên tay viên trợ lý. Bên trên nó có mấy cái công tắc và núm xoay, một sợi dây nối từ đó ra một chiếc đĩa phẳng được người trợ lý đặt lên ngực Rhyme và dán xuống.

    "Bộ kích thích thần kinh cơ hoành. Nó giúp anh ta thở." Anh bật máy.

    Thom quấn cái vòng đo huyết áp và cánh tay trắng như thạch cao của Rhyme. Sachs nhận thấy ngay từ đầu là cơ thể anh ta gần như không có nếp nhăn. Anh ta khoảng bốn mươi tuổi nhưng cơ thể anh ta là của một thanh niên hai mươi nhăm tuổi.

    "Sao mặt anh ấy lại đỏ thế? Trông anh ta giống như sắp nổ tung."

    "Đúng thế", Thom nghiêm trọng nói, lôi bộ dụng cụ bác sĩ từ dưới cái bàn đầu giường. Anh mở nó ra rồi tiếp tục đo huyết áp. "Mất phản xạ... Sự căng thẳng ngày hôm nay. Tinh thần và thể chất. Anh ấy không quen với nó."

    "Anh ta nói suốt là bị mệt."

    "Tôi biết. Nhưng tôi không thường xuyên chú ý. Suỵt. Tôi phải nghe đã." Anh ta cắm ống nghe vào tai, thổi căng chiếc vòng đo huyệt áp và từ từ xả khí. Nhìn đồng hồ. Hai cánh tay anh ta vững như đá. "Tâm trương một trăm hai mươi lăm. Mẹ kiếp."

    Lạy Chúa, Sachs nghĩ. Anh ta sẽ bị đột quỵ mất.

    Thom hất đầu về phía cái túi đen. "Chị tìm một chai nifedipine. Rồi mở một cái ống rò ra." Trong khi cô tìm kiếm, Thom tụt chiếc quần pyjama của Rhyme xuống, vơ lấy một cái ống thông tiểu cạnh giường, xé luôn cái túi nhựa đựng nó. Anh ta bôi chất K-Y vào một đầu rồi nâng cái dương vật nhợt nhạt của Rhyme lên., nhẹ nhàng nhưng nhanh chóng nhét chiếc ống thông vào trong.

    "Đây là một phần của vấn đề. Áp lực trong ruột và bang quang cơ thể gây ra đột quỵ. Hôm nay anh ấy uống nhiều hơn mức cho phép."

    Cô mở kim tiêm dưới da ra, nhưng nói: "Tôi không biết tiêm."

    "Tôi sẽ làm." Anh ta ngẩng lên nhìn cô. "Tôi muốn nhờ cô... cô không thấy phiền khi làm việc này chứ? Tôi không muốn ống bị xoắn."

    "Được chứ. Chắc chắn rồi."

    "Cô cần găng tay không?"

    Cô đi găng tay, thận trong nắm lấy dương vật của Rhyme bằng tay trái, tay phải giữ ống. Đã rất, rất lâu rồi cô mới chạm vào chỗ đó của đàn ông. Da mềm mại và cô nghĩ thật lạ lùng khi gần như trung tâm của sự tồn tại của người đàn ông lúc nào cũng mềm như lụa.

    Thom tiêm thuốc rất thành thục.

    "Nào, Lincoln..."

    Có tiếng còn hụ vẳng lại từ xa.

    "Họ gần đến nơi rồi." Cô nói trong khi nhìn ra ngoài cửa sổ.

    "Nếu ta không làm anh ấy tỉnh lại ngay bây giờ thì họ cũng chẳng giúp được gì."

    "Phải bao lâu thuốc mới có tác dụng?"

    Thom liếc nhìn Rhyme đang vô cảm, nói: "Nó phải có hiệu lực ngay bây giờ. Nhưng nếu liều cao quá anh ấy có thể bị sốc." Viên trợ lý cúi xuống và lật mi mắt Rhyme ra. Đồng từ xanh lơ đờ đẫn, không tập trung.

    "Không tốt rồi." Anh ta lại đo huyết áp. "Một trăm năm mươi. Chúa ơi."

    "Nó giết anh ta mất", cô nói.

    "Ồ. Không vấn đề gì."

    "Cái gì?" Amelia Sachs choáng váng thì thầm.

    "Anh ấy không quan tâm đến cái chết." Anh thoáng nhìn cô như thể cô vẫn chưa hiểu ra chuyện gì. "Anh ấy chỉ không muốn bị bại liệt hơn bây giờ." Anh chuẩn bị một mũi tiêm khác. "Có thể anh ấy đã bị rồi. Ý tôi nói là một cơn đột quỵ. Điều đó làm anh ấy hoảng sợ."

    Thom cúi người về phía trước và tiêm thêm một liều thuốc nữa.

    Tiếng còi hụ đã rất gần. Cả tiếng còi xe. Xe hơi có thể chặn đường xe cấp cứu, không hề có ý định vội vã tránh đường - một đặc thù về thành phố làm cho Sachs giận giữ.

    "Cô có thể lấy ống thông ra được rồi."

    Cô thận trong rút cái ống ra. "Tôi có cần..." Cô hất đầu về phía túi nước tiểu.

    Thom cố nở một nụ cười yếu ớt. "Đó là việc của tôi."

    Vài phút trôi qua. Xe cứu thương có vẻ như không động đậy, nhưng rồi đột nhiên một giọng nói vang lên trong loa phóng thanh và tiếng còi hụ lại gần hơn.

    Bất thình lình Rhyme động đậy. Đầu anh lắc nhẹ. Sau đó ngẩng lên cúi xuống, dựa vào gối. Tông màu đỏ rực trên da anh đã nhạt bớt.

    "Lincoln, anh nghe tôi nói không?"

    Anh rên rỉ: "Thom..."

    Rhyme đang run rẩy dữ dội. Thom lấy chăn đắp cho anh.

    Sachs thấy mình đang vuốt mái tóc rối bời của Rhyme. Cô lấy khăn thấm mồ hôi trên trán anh.

    Tiếng bước chân thình thịch trên cầu thàng và hai nhân viên y tế lực lưỡng của EMS xuất hiện, tiếng bộ đàm khụt khịt. Họ chạy vội vào phòng, đo huyết áp Rhyme và kiểm tra bộ kích thích thần kinh. Một giây sau, bác sĩ Peter Taylor lao vào phòng.

    "Peter", Thom nói. "Là mất phản xạ."

    "Huyết áp."

    "Giảm rồi. Nhưng tệ lắm. Trên một trăn năm mươi."

    Ông bác sĩ nhăn mặt.

    Thom giới thiệu Taylor với các nhân viên y tế của EMS. Họ có vẻ chào mừng vì đã có chuyện gia ở đây và lùi lại khi Taylor đến gần giường.

    "Chào bác sĩ." Rhyme run rẩy nói.

    "Hãy kiểm tra mắt đã nào." Taylor chiếu đền vào đồng tử Rhyme. Sachs nhìn mặt ông bác sĩ để thăm dò phản ứng và cô thấy lo lắng vì vẻ mặt nhăn nhó của ông ta.

    "Không cần máy kích thích thần kinh làm gì", Rhyme thầm thì.

    "Cậu và lá phổi của cậu, đúng không?" Ông bác sĩ hỏi chế giễu. "Được rồi, cứ để nó đấy một lúc, sao lại không nhỉ? Chỉ cho tới khi ta biết chắc chuyện gì đang xảy ra." Ông ta nhìn Sachs. "Có thể cô nên đợi dưới nhà."

    Taylor cúi xuống gần hơn và Rhyme nhận thấy những giọt mồ hôi đang lấm tấm trên đầu ông ta, dưới lớp tóc mỏng.

    Ông bác sĩ khéo léo lật mi mắt và nhìn vào một đồng tử, sau đó là đồng tử còn lại. Ông ta đo huyết áp cho Rhyme, ánh mắt xa xắm vẻ tập trung cao độ của những bác sĩ trong giây phút quan trọng.

    "Đang trở lại bình thường", ông ta tuyên bố. "Nước tiểu thế nào?"

    "Bảy trăm cc", Thom nói.

    Taylor quắc mắt. "Coi thường mọi thứ rồi à? Hay chỉ là uống quá nhiều?"

    Rhyme quắc mắt nhìn lại: "Chúng tôi bị rối trí, thưa bác sĩ. Tối nay tôi bận quá."

    Taylor nhìn theo hướng đầu của Rhyme và đảo mắt quanh phòng, ngạc nhiên như thể ai đó đã đưa trộm thiết bị vào khi ông không nhìn. "Tất cả những thứ này là gì?"

    "Họ không cho tôi nghỉ hưu nữa."

    Vẻ mặt nhăn nhó của Taylor biến thành nụ cười. "Đúng lúc đấy. Tôi đã chạy theo cậu vài tháng để bắt cậu phải làm gì đó với cuộc sống của mình. Còn tình hình bụng dạ thế nào?"

    Thom nói: "Khoảng mười hai, mười bốn giờ."

    "Cậu vô tâm quá", Taylor rầy la.

    "Không phải lỗi của cậu ta", Rhyme càu nhàu. "Cả ngày hôm nay nhà tôi có rất nhiều người."

    "Tôi không muốn nghe thanh minh", ông bác sĩ quát lại. Đó chính là Peter Taylor, người không bao giờ nói chuyện với Rhyme qua bất kỳ ai và không bao giờ cho bệnh nhân bắt nạt ông.

    "Chúng ta cần chăm sóc mọi thứ một chút." Ông đi đôi găng tay phẫu thuật, cúi xuống thân hình Rhyme. Những ngón tay ông bắt đầu làm việc trên bụng Rhyme và bắt các cơ quan nội tạng phải làm công việc của mình. Thom nhấc chăn và lấy bỉm dùng một lần.

    Một lát sau, việc đã xong và Thom vệ sinh cho ông chủ.

    Taylor bất ngờ nói: "Tôi hy vọng cậu đã bỏ cái thứ vớ vẩn ấy đi rồi chứ?" Nghiên cứu Rhyme một cách kỹ lưỡng.

    Cái thứ vớ vẩn ấy...

    Ý ông ta là vụ tự tử. Liếc nhìn Thom, Rhyme nói: "Cũng không nghĩ đến nó được một lúc."

    "Tốt." Taylor nhìn vào các thiết bị trên bàn. "Đây là việc mà cậu phải làm. Có thể Sở sẽ lại trả lương cho cậu đấy."

    "Tôi không nghĩ là tôi có đủ sức khỏe."

    "Đầu cậu thế nào?"

    "Có thể dùng một tá cuốc chim để mô tả nó. Cổ tôi cũng thế. Bị hai lần chuột rút là rất tệ hại trong ngày hôm nay."

    Taylor đi ra sau chiếc giường Clinitron, ấn các ngón tay của ông vào hai bên cột sống của Rhyme, chỗ mà - Rhyme nghĩ, mặc dù tất nhiên là anh chưa bao giờ nhìn thấy chỗ đó - có những vết sẹo rõ ràng từ những cuộc phẫu thuật mà anh phải chịu đựng trong những năm qua. Taylor thành thục xoa bóp cho Rhyme, ấn sâu vào những sợi cơ căng cứng trên cổ và vai anh. Cơn đau từ từ biến mất.

    Anh cảm thấy những ngón tay cái của bác sĩ dừng lại ở chỗ mà anh đoán là đốt xương sống bị vỡ.

    Còn tàu vũ trụ, con cá đuối...

    "Một ngày nào đó họ sẽ chữa được", Taylor nói. "Một ngày nào đó, nó sẽ chẳng tệ hơn là gãy chân. Cậu nghe tôi. Tôi tiên đoán điều đó."

    Mười lăm phút sau, Peter Taylor xuống cầu thang và góp mặt với những viên cảnh sát đang đứng trên vỉa hè.

    "Anh ta ổn chứ?" Amelia Sachs lo lắng hỏi.

    "Huyết áp giảm rồi. Chủ yếu là cậu ta cần được nghỉ ngơi."

    Bác sĩ, một người đàn ông trông rất bình thường, chợt nhận ra rằng mình đang nói chuyện với một phụ nữ tuyệt đẹp. Ông vuốt lại mái tóc muối tiêu đang mỏng dần và phóng một cái nhìn vào thân hình yểu điệu của cô. Ánh mắt ông chuyển sang những chiếc xe đặc nhiệm đỗ trước nhà và hỏi: "Cậu ta giúp các bạn vụ nào vậy?"

    Sellitto lưỡng lự, như tất cả những thám tử khác trước câu hỏi tương tự của một thường dân. Những Sachs đoán Taylor và Rhyme rất gần gũi nên cô nói: "Những vụ bắt cóc. Ông có nghe nói về chúng không?"

    "Vụ tay lái xe taxi? Có trên tất cả các báo. Thế là tốt cho cậu ấy. Công việc là thứ tốt nhất có thể đến với cậu ấy. Cậu ấy cần bạn bè và cậu ấy cần mục đích."

    Thom xuất hiện bên trên cầu thang. "Anh ấy nói cám ơn, Peter. Thực ra anh ấy không nói cám ơn. Nhưng ‎ ý anh ấy thế. Ông biết anh ấy mà."

    "Với tôi thế là được", Taylor hỏi, giọng ông ta lúc này hạ xuống, đầy toan tính. "Cậu ta còn định nói chuyện với họ nữa không?"

    Và sau khi Thom nói "không", có cái gì đó trong giọng điệu anh ta nói với Sachs là anh ta đang nói dối. Cô không biết điều đó là gì và nó có thể quan trọng đến đâu. Nhưng nó làm cô khổ sở.

    Định nói chuyện với họ?

    Nhưng có vẻ như Thom không lừa được Taylor. Ông ta nói: "Ngày mai tôi quay lại, xem cậu ấy thế nào."

    Thom nói anh ta đánh giá cao việc đó và Taylor khoác túi lên vai rồi đi khỏi.Viên trợ ‎l‎ý‎ ra hiệu cho Sellitto. "Anh ấy muốn nói chuyện với anh một lúc." Viên thám tử nhanh chóng đi lên cầu thang. Anh ta biến mất vào trong phòng, sau khoảng vài phút anh ta và Thom cùng đi ra ngoài. Sellitto lúc này cũng nghiêm trang liếc nhìn cô. "Đến lượt cô đấy." Va hất đầu về phía sau cánh cửa.

    Rhyme nằm trên cái giường khổng lồ, tóc rối bù, mặt đã hết đỏ, tay không còn trắng bệch. Căn phòng bốc mùi nội tạng khắm khú. Trên giường đã có vải trải giường mới và anh đã được thay quần áo mới. Lần này là một bộ Pyjama màu xanh lá như bộ véc của Dellray.

    "Đây là bộ pyjama màu xấu xí nhất mà tôi từng nhìn thấy", cô nói. "Vợ cũ của anh mua đấy à?"

    "Làm thế nào cô đoán ra? Quà tặng kỷ niệm ngày cưới. Xin lỗi vì đã làm cô sợ." Anh ta nói, không nhìn vào cô. Anh ta bỗng có vẻ ngại ngùng và điều này làm cô khó chịu. Cô nghĩ đến cha mình trong phòng tiền phẫu thuật ở viện Sloan-Kettering trước khi họ đưa ông vào một cuộc phẫu thuật mang tính thăm dò mà sau đó ông không bao giờ tỉnh lại.

    "Xin lỗi?" Câu hỏi của cô thật đáng sợ. "Đừng làm trò khỉ ấy nữa, Rhyme."

    Anh ngắm nhìn cô khoảng một phút rồi nói: "Hai người sẽ ổn thôi."

    "Hai chúng tôi?"

    "Cô và Lon. Tất nhiên là cả Mel nữa. Và Jim Polling."

    "Ý anh là gì?"

    "Tôi rút lui."

    "Anh cái gì?"

    "Quá nặng nề đối với một hệ thống cũ kỹ. Tôi sợ là như thế."

    "Nhưng anh không thể rút lui dược." Cô vẫy tay về phía tấm áp phích Monet. "Hãy nhìn tất cả những thứ mà chúng ta tìm được về 823. Chúng ta gần hắn lắm rồi."

    "Thề thì các bạn càng không cần đến tôi nữa. Tất cả những gì các bạn cần là một chút may mắn."

    "May mắn? Phải mất mười mấy năm mới tóm được Bandy. Còn tên giết người Zodiac thì sao? Còn Người Sói?"

    "Chúng ta có thông tin tốt. Thông tin chắc chắn. Cô sẽ tìm được những manh mối tốt. Cô sẽ tóm được hắn, Sachs. Thiên thần may mắn của cô sẽ cất tiếng trước khi họ đưa cô sang Phòng Quan Hệ Công chúng. Tôi có cảm giác Đối tượng 823 đang trở nên tự mãn; thậm chí hắn có thể bị tóm ngay ở nhà thờ."

    "Trông anh ổn lắm", một lát sau cô nói. Mặc dù trông anh ta không hề ổn t‎‎‎í nào.

    Rhyme cười. Sau đó nụ cười nhạt đần. "Tôi rất mệt. Và đau. Quỷ thật, tôi nghĩ là tôi thấy đau ở những chỗ mà bác sĩ bảo tôi không thể cảm thấy đau."

    "Làm như tôi nói đi. Ngủ một lúc."

    Anh cố tạo ra một nụ cười nhạo báng nhưng giọng anh rất yếu. Cô ghét phải nhìn thấy anh như thế. Anh ho nhẹ, nhìn xuống cái máy kích thích thần kinh, nhăn mặt như thể anh cảm thấy ngượng ngùng vì mình phải phụ thuộc vào máy móc. "Sachs,... tôi không nghĩ là chúng ta sẽ tiếp tục làm việc cùng nhau. Tôi chỉ muốn nói rằng trước mắt cô là sự nghiệp sáng lạng, cô có những lựa chọn đúng đắn."

    "Được rồi, tôi sẽ quay lại và gặp anh sau khi đá đít hắn."

    "Tôi cũng muốn thế. Tôi rất mừng vì hôm qua sĩ quan đầu tiên lại là cô. Tôi không muốn đan lưới cùng ai khác.»

    "Tôi..."

    "Lincoln", một giọng nói vang lên. Cô quay lại và nhìn thấy một người đàn ông đang đứng ngoài cửa, Ông ta tò mò nhìn quanh phòng, để ‎ ý đến tất cả các loại thiết bị.

    "Ở đây trông có vẻ phấn khích quá nhỉ?"

    "Chào bác sĩ", Rhyme nói. Mặt anh ta tươi lên thành một nụ cười. "Làm ơn, vào nhà đi."

    "Bác sĩ William Berger, còn đây là Amelia Sachs."

    Nhưng Sachs có thể thấy cô không còn tồn tại trong vũ trụ của Lincoln Rhyme nữa. Tất cả những gì còn lại cần được nói - và cô cảm thấy có điều gì đó, rất nhiều điều - phải đợi. Cô đi ra cửa. Thom, đang đứng ở hành lang bên ngoài, đóng cửa sau lưng cô, và luôn đúng mực, ngừng lại gật đầu để cô đi trước anh ta.

    Khi Sahcs bước vào màn đêm nóng bức, cô nghe thấy một giọng nói gần đó. "Xin lỗi."

    Cô quay lại và thấy bác sĩ Peter Taylor đứng một mình dưới gốc cây bạch quả. "Tôi nói chuyện với cô một phút, được không?"

    Sachs đi theo Taylor lên vỉa hè cách đó mấy nhà.

    "Vâng?" Cô hỏi. Ông ta dựa vào bức tường đá và lại vô thức vuốt tóc. Sachs nhớ lại không biết bao nhiêu lần cô đã dọa nạt được những người đàn ông chỉ bằng một lời nói hay cái liếc mắt. Cô nghĩ, ‎ ý nghĩ thường xuyên đến với cô: Quyền lực của sắc đẹp mới vô dụng làm sao.

    "Cô là bạn cậu ấy, đúng không?" Ông bác sĩ hỏi cô. "Ý tôi là cô làm việc với cậu ấy nhưng cô cũng là bạn cậu ấy chứ."

    "Chắc rồi. Tôi đoán thế."

    "Người đàn ông vừa vào nhà. Cô biết ông ta là ai không?"

    "Tôi nghĩ là Berger. Ông ta là bác sĩ."

    "Ông ta có nói ông ta đến từ đâu không?"

    "Không."

    Taylor ngẩng nhìn cửa số phòng ngủ của Rhyme trong một khắc. Ông hỏi: "Cô có biết Hội Bến mê không?"

    "Không, ồ, đợi đã... đó là nhóm ủng hộ chết theo yêu cầu, đúng không?"

    Taylor gật đầu. "Tôi biết tất cả bác sĩ của Lincoln. Và tôi lại chưa bao giờ nghe nói đến Berger. Tôi vừa nghĩ không biết ông ta có phải là một trong số họ không?"

    "Cái gì?"

    Anh ta vẫn nói chuyện với họ...

    Như vậy họ nói về chuyện ấy.

    Cô có cảm giác mình trong trạng thái không trọng lượng vì bị sốc. "Anh ấy có... trước đây anh ấy có nói nghiêm túc về chuyện này không?"

    "Ồ, có chứ." Taylor thở dài, nhìn lên bầu trời đêm mờ sương. "Có chứ." Rồi ông nhìn vào tấm thẻ ghi tên của cô. "Sĩ quan Sachs, tôi đã nói chuyện hàng giờ, thuyết phục cậu ta từ bỏ ‎ý định ấy. Hằng ngày. Nhưng tôi cũng đã làm việc với những bệnh nhân bại liệt nhiều năm và tôi biết họ bướng bỉnh thế nào. Có thể cậu ta sẽ nghe cô. Chỉ vài lời thôi... Tôi đang nghĩ... Cô làm được không?..."

    "Ồ, quỷ tha ma bắt, Rhyme", cô lẩm bẩm, bắt đầu rời vỉa hè và chạy, không để ông bác sĩ nói hết câu.

    Cô đã ở cổng ngôi nhà đúng lúc Thom định đóng c ử a. Cô đẩy cửa, đi ngang qua anh ta. "Tôi quên cuốn nhật k‎ý tuần tra."

    "Của cô?..."

    "Tôi quay lại ngay."

    "Cô không thể lên trên đó. Anh ấy đang có bác sĩ."

    "Tôi chỉ cần một giây thôi."

    Cô đã ở cầu thang, trước khi Thom đuổi theo.

    Chắc anh ta biết đó là trò nói dối nên đã bước hai bậc một. Nhưng cô đã vượt trước và đẩy tung cửa phòng Rhyme trước khi người trợ lý leo hết các bậc cầu thang.

    Cô bước vào trong, làm cả Rhyme và ông bác sĩ giật mình. Ông ta đang đứng dựa lưng vào bàn, khoanh tay trước ngực. Cô đóng rồi khóa cửa. Thom bắt đầu đập cửa. Berger quay lại phía cô với một nét nhăn nhó, tò mò trên mặt.

    "Sachs", Rhyme buột miệng.

    "Tôi phải nói chuyện với anh."

    "Về cái gì?"

    "Về anh."

    "Để sau."

    "Để sau là bao lâu, Rhyme?" Cô mỉa mai hỏi. "Ngày mai? Tuần sau?"

    "Ý cô là gì?"

    "Anh muốn tôi sắp xếp lịch hẹn, một tuần sau từ thứ Tư? Liệu anh có làm được không? Anh có còn đó nữa không?"

    "Sachs..."

    "Tôi muốn nói chuyện với anh. Một mình."

    "Không."

    "Thế thì chúng ta sẽ dùng biện pháp mạnh." Cô bước tới chỗ Berger, "Ông đã bị bắt. Vì tội âm mưa giết người có trợ giúp." Chiếc còng tay sáng loáng lên. Cách, cách, luông sáng bạc siết chặt cổ tay ông ta.

    Cô đoán đây là một nhà thờ.

    Carole Ganz nằm trên nềm nhà dưới tầng hầm. Một tia sáng lạnh lẽo xiên chéo trên tường, chiếu sáng một bức hình Chúa Jesus bầu bĩnh và một chồng truyện Sách Vàng Kinh Thánh mốc meo. Một nửa tá ghế nhỏ xinh - cho học sinh ngoại khóa ngày Chủ nhật, cô đoán - được đặt giữa phòng.

    Chiếc còng và miếng băng dính dán miệng vẫn ở nguyên chỗ cũ. Hắn còn buộc cô vào đường ống gần tường bằng một sợi dây phơi dài khoảng bốn feet.

    Trên cái bàn cao gần đó, cô có thể nhìn thấy đỉnh của một chiếc bình thủy tinh lớn.

    Nếu làm nó rơi xuống, cô có thể dùng mảnh thủy tinh cắt sợi dây phơi. Cái bàn có vẻ nằm ngoài tầm với nhưng cô lật nghiêng ngừoi và bắt đầu bò như một con sâu về phía nó.

    Điều này làm cô nhớ tới Pammy lúc còn nhỏ, nó xoay vòng trên giường, giữa cô và Ron; cô nghĩ tới con gái, một mình trong tầng hầm kinh khủng và bật khóc.

    Pammy, gấu Pooh, ví.

    Trong một giây, một giây ngắn ngủi, cô thấy mình yếu đuối. Cô ước gì mình chưa bao giờ rời Chicago.

    Không, không được nghĩ thế nữa! Đừng tiếc nuối cho chính mình! Đó là một việc hoàn toàn đáng làm. Mày làm thế vì Ron. Và cho cả bản thân mày nữa. Anh sẽ tự hào vì mày. Kate đã nói với cô như vậy hàng nghìn lần. Và cô tin.

    Cố thêm một lần nữa. Cô dịch chân tới gần bàn hơn.

    Lảo đảo, không thể nào suy nghĩ chính xác được.

    Cổ họng cô rát bỏng vì khát. Vì bụi và mốc trong không khí.

    Cô bò ra xa hơn một chút, sau đó lật nghiêng, cố lấy hơi, nhìn lên trên bàn. Trông có vẻ vô vọng. Có ích gì chứ? Cô nghĩ.

    Không hiểu Pammy nghĩ gì.

    Thằng khốn! Carole nghĩ. Vì thế tao sẽ giết mày.

    Cô vặn vẹo, cố dịch xa hơn trên nền nhà. Nhưng thay vào đó, cô mất thăng bằng và ngã ngửa. Cô thở hổn hển, cô biết điều gì sắp đến! Không! Cổ tay bị gãy của cô phát ra một tiếng kêu lớn. Cô gào lên qua lớp băng dính. Ngất đi. Khi tỉnh lại, cơn buồn nôn xâm chiếm lấy cô.

    Không, không, không... Nếu nôn cô sẽ chết. Với miếng băng dính trên miệng, sẽ là kết thúc.

    Nén nó xuống. Nén nó xuống. Nào. Mày làm được. Đây rồi... cô nôn khan một lần. Lần nữa.

    Không được! Kiểm soát nó.

    Trào lên họng.

    Kiểm soát...

    Kiểm soát nó...

    Rồi cô cũng làm được. Thở bằng mũi, cô tập trung tư tưởng vào Kate, Eddie và Pammy, cái ba lô màu vàng đựng tất cả tài sản quý giá của cô. Nhìn thấy nó, chụp ảnh nó dưới mọi góc độ. Cả cuộc sống của cô nằm trong nó. Cuộc sống mới của cô.

    Ron, em không muốn làm hỏng chuyện này. Em đến đây vì anh, anh yêu...

    Cô nhắm mắt. Nghĩ: Thở sâu. Hít vào, thở ra.

    Cuối cùng thì cơn buồn nôn cũng qua đi. Một lát sau, cô thấy khá hơn và mặc dù cô đang khóc lóc vì cơn đau nơi cổ tay bị gãy, nhưng cô vẫn cố gắng vặn vẹo để bò được tới chỗ cái bàn. Một foot. Hai.

    Cô cảm thấy đỉnh đầu và vào chân bàn. Cô mới chỉ bám được vào nó và không thể di chuyển xa hơn được nữa. Cô ngửa đầu lấy đà, đập mạnh vào chân bàn vài lần. Cô nghe tiếng cái bình đổ khi bị xê dịch trên mặt bàn. Cô nhìn lên.

    Một phần của cái bình thò ra ngoài mặt bàn. Carole ngửa đầu và đập vào chân bàn lần cuối.

    Không! Cô đã đẩy chân bàn ra ngoài tầm với. Cái bình nghiêng đi một chút nhưng rồi lại đứng thẳng. Carole co người, cố gắng làm chùng sợi dây phơi nhưng không thể.

    Mẹ kiếp. Ôi mẹ kiếp! Khi tuyệt vọng ngẩng đầu lên nhìn cái bình bẩn thỉu, cô nhận ra rằng nó đựng đầy chất lỏng và thứ gì đó trôi nổi bên trong. Cái gì thế nhỉ?

    Cô bò lùi về phía tường một, hai feet và nhìn lên.

    Thứ bên trong trông giống cái bóng điện. Không, không phải là cả cái bóng điện mà chỉ có dây tóc và đế, được xoắn vào đui đèn. Một sợi dây dẫn chạy từ đui đèn ra khỏi cái bình đến một trong những cái đồng hồ định giờ mà ta hay dùng để tắt bật đèn khi đi nghỉ. Nó trông giống như...

    Một quả bom! Giờ thì cô đã nhận ra mùi xăng thoang thoảng.

    Không, không...

    Carole bắt đầu lăn lộn tránh xa cái bàn nhanh hết mức có thể, nghẹn ngào vì tuyệt vọng. Cạnh tường có một tủ hồ sơ. Nó sẽ bảo vệ cho cô. Cô giơ hai chân lên cao sau khi cảm thấy một cơn hoảng loạn lạnh người và vội vàng gỡ chúng ra. Cử động này làm cô mất thăng bằng. Cô kinh hoàng nhận ra rằng mình bị lật ngửa thêm một lần nữa. Ồ, dừng lại. Đừng... Cô cố gắng bình tĩnh, hoàn toàn bất động một lúc lâu, run rẩy trong lúc cố gắng dồn trọng lượng cơ thể về phía trước. Nhưng sau đó cô tiếp tục lăn, ngã đèn lên cánh tay bị còng, cổ tay gãy của cô chịu sức nặng của toàn cơ thể. Có một thoáng đau đớn cùng cực, và ơn phước, cô lại ngất đi lần nữa.


  6. #25
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HAI MƯƠI LĂM

    "Không đời nào, Rhyme. Anh không thể làm thế."

    Berger lo lắng quan sát. Rhyme cho rằng trong công việc của mình, ông ta đã từng nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng điên rồ xảy ra vào những lúc như thế này. Vấn đề lớn nhất của Berger không phải là những người muốn chết, mà là những người muốn tất cả những người còn lại phải sống.

    Thom đập cửa.

    "Thom", Rhyme gọi. "Được rồi. Cậu cứ để chúng tôi một mình." Sau đó nói với Sachs. "Chúng ta đã nói lời chia tay rồi mà. Tôi và cô. Còn đây là một cách tồi tệ để phá hỏng một sự ra đi hoàn mỹ."

    "Anh không thể làm thế."

    Ai là người thổi còi? Có thể là Peter Taylor. Ông bác sĩ này chắc đã đoán được anh và Thom nói dối.

    Rhyme nhìn thấy ánh mặt cô lướt qua ba đồ vật trên bàn. Những thứ quà tặng của Magi: rượu cô nhắc, những viên thuốc và cái túi nhựa. Có thêm sợi dây cao su giống như những sợi dây Sachs dùng buộc giày. (Đã bao nhiêu lần anh từ hiện trường vụ án về nhà và thấy Blaine nhìn chăm chăm vào những sợi dây buộc giày chồng mình, và hoảng sợ? "Mọi người sẽ nghĩ rằng chồng em không có tiền mua giày mới. Anh ấy phải lấy dây chun buộc để đế giày không bị rơi ra. Thật đấy, Lincoln!).

    "Sachs, tháo còng cho bác sĩ đây. Và lần cuối cùng, tôi mời cô ra khỏi nhà."

    Cô cười lên một tiếng. "Tôi xin lỗi. Đây là một hành vi phạm pháp ở Thành phố New York. Công tố viên quận có thể biến nó thành tội giết người nếu ông ấy muốn thế."

    Berger nói: "Tôi chỉ nói chuyện bình thường với bệnh nhân."

    "Đó là lý do vì sao tôi danh chỉ là âm mưu giết người. Cho tới lúc này. Có thể chúng tôi sẽ đưa tên và dấu tay của anh qua NCIC. Để xem chúng tôi tìm được gì."

    "Lincoln", Berger nói nhanh, vẻ lo lắng. "Tôi không thể..."

    "Chúng tôi sẽ giải quyết việc này", Rhyme nói. "Sachs, làm ơn đi."

    Đứng giạng chân, hai tay chống nạnh, khuôn mặt lộng lẫy của cô đầy vẻ độc đoán. "Đi thôi", cô quát viên bác sĩ.

    "Sachs, cô không biết điều này quan trọng đến thế nào đâu."

    "Tôi sẽ không cho phép anh tự giết chết mình."

    "Cho phép tôi?" Rhyme vặc lại. "Cho phép tôi? Chính xác là vì sao tôi lại cần đến sự cho phép của cô?"

    Berger nói: "Này cô,... sĩ quan Sachs, đấy là quyết định của anh ấy và quyết định này hoàn toàn có ý thức. Lincoln là người hiểu biết hơn tất cả những bệnh nhân tôi đã từng xử lý."

    "Bệnh nhân? Ý ông là nạn nhân?"

    "Sachs!" Rhyme buột miệng, cố gắng giấu sự tuyệt vọng trong giọng nói. "Mất cả năm tôi mới tìm được người trợ giúp đấy, cô biết không?"

    "Có thể vì điều đó không đúng. Đã bao giờ anh nghĩ thế chưa? Sao lại là bây giờ, Rhyme? Ngay giữa vụ án?"

    "Nếu tôi lên cơn một lần nữa và bị đột quỵ. Tôi có thể mất toàn bộ khả năng giao tiếp. Tôi có thể có ý thức trong bốn mươi năm nữa nhưng không thể cử động. Và nếu tôi chưa bị tê liệt não, sẽ chẳng có một ai trong cả vũ trụ chịu rút phích cắm. Ít nhất là lúc này, tôi vẫn còn có thể truyền đạt quyết định của mình."

    "Nhưng tại sao?" Cô buột miệng.

    "Sao lại không?" Rhyme trả lời. "Nói tôi nghe. Sao lại không?"

    "Được rồi..." Có vẻ như đối với cô những luận chứng chống lại việc tự sát quá rõ ràng tới mức cô cảm thấy khó mà nói được thành lời. "Là vì..."

    "Vì sao, Sachs?"

    "Thứ nhất, vì hèn nhát."

    Rhyme cười. "Cô có muốn tranh luận không, Sachs? Muốn không? Được rồi. Hèn nhát là điều cô nói. Điều đó dẫn ta đến với ngài Thomas Browne: Khi cuộc sống kinh khủng hơn cái chết, những người dũng cảm nhất sẽ sống. Can đảm đối mặt với muôn vàn khó khăn... Một luận cứ cổ điển ủng hộ sự sống. Nhưng nếu điều đó đúng thì tại sao lại đánh thuốc mê bệnh nhân khi phẫu thuật? Bán aspirin để làm gì? Sao lại phải bó bột cánh tay bị gãy? Hà cớ gì mà Prozac lại là loại thuốc được kê nhiều nhất ở Mỹ? Xin lỗi, nhưng đau đớn chẳng có gì là tốt đẹp cả.

    "Nhưng anh không đau đớn."

    "Cô định nghĩa thế nào là đau đớn, Sachs? Không có cảm giác cũng có thể là đau đớn chứ."

    "Anh có thể cống hiến rất nhiều. Hãy xem anh biết những gì. Mọi thứ về pháp y, mọi thứ về lịch sử."

    "Luận cứ cống hiến xã hội. Một luận cứ phổ biến." Anh liếc nhìn Berger nhưng viên bác sĩ giữ im lặng. Rhyme thấy ông ta tập trung sự quan tâm vào khúc xương trên bàn - một chiếc đĩa bạc thếch từ một đốt sống. Ông ta nhặt nó lên, xoa vuốt nó bằng đôi bàn tay bị còng của mình. Ông ta từng là bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình, Rhyme nhớ lại.

    Anh tiếp tục nói với Sachs: "Nhưng ai nói là chúng ta bắt buộc phải cống hiến gì đó cho cuộc đời? Ngoài ra, kết cuộc có thể là tôi đóng góp điều gì đó không tốt. Tôi cũng có thể gây tác hại nữa chứ. Cho bản thân tôi hay cho ai đó."

    "Nhưng cuộc sống là thế."

    Rhyme cười. "Nhưng tôi chọn cái chết, không phải cuộc sống."

    Sachs trông không thoải mái khi cô phải vắt óc suy nghĩ. "Chỉ có điều... cái chết không tự nhiên. Cuộc sống thì có."

    "Không? Freud sẽ không đồng ý với cô. Ông ta đã từ bỏ nguyên tắc khoái lạc và bắt đầu cảm thấy còn có một sức mạnh khác - sự hung dữ phi tình dục bản năng, đó là cách mà ông ta gọi nó. Làm việc để tháo gỡ nhưng kết nối mà chúng ta tạo dựng trong cuộc sống. Sự phá hoại của chính chúng ta là một sức mạnh thiên nhiên hoàn hảo. Mọi thứ đều chết; còn gì để tự nhiên hơn điều đó?"

    Một lần nữa cô lại phải động não.

    "Được rồi", cô nói. "Cuộc sống đối với anh thách thức hơn với nhiều người khác. Nhưng tôi nghĩ... mọi thứ mà tôi nhìn thấy ở anh nói với tôi rằng anh là một người thích thác thức."

    "Thách thức? Để tôi nói cô nghe về thách thức. Tôi nằm với ống thông phổi trong suốt một năm. Cô có nhìn thấy vết sẹo mở khí quản này trên cổ tôi không? Rồi nhờ các bài tập thở áp suất dương - và với sức mạnh ý chí vĩ đại nhất mà tôi có thể có - tôi đã thoát ra được cái máy đó. Trên thực tế, tôi có lá phổi hoàn toàn bình thường. Chúng khỏe như phổi của cô. Đối với một người tàn tật C4, đó là trường hợp điển hình, Sachs ạ. Điều nay tiêu tốn của tôi tám tháng cuộc đời. Cô có hiểu tôi nói gì không? Tám tháng chỉ để xử lý một chức năng động vật rất cơ bản. Tôi không nói đến việc vẽ Nhà thờ Sistine hay chơi violin. Tôi chỉ mới nói về sự hít thở chết tiệt ấy thôi."

    "Nhưng anh có thể khá hơn. Năm tới, họ có thể tìm ra cách chữa."

    "Không. Không phải năm sau. Không phải mười năm nữa."

    "Anh không biết việc đó. Chắc chắn là họ đang nghiên cứu."

    "Chắc chắn là như thế. Cô có muốn biết không? Tôi là một chuyên gia. Cấy mô thần kinh bào thai vào mô hỏng để thúc đẩy việc tái tạo theo trục." Những ngôn từ đó phát ra một cách dễ dàng từ đôi môi thật đẹp của anh ta. "Không có hiệu quả đáng kể. Một vài bác sĩ sử dụng phương pháp hóa học tại vùng bị ảnh hưởng để tạo ra những loài cấp cao. Những dạng thức thấp của sự sống cho thấy kết quả khá tốt. Nếu là một con ếch thì lúc này chắc tôi đã đi lại được. Thôi được, hy vọng là thế."

    "Như vậy là vãn có người nghiên cứu chuyện đó?" Sachs hỏi.

    "Tất nhiên rồi. Nhưng không ai trông đợi có bước đột phá trong khoảng hai mươi hay ba mươi năm."

    "Nếu họ đã trông đợi", cô đối đáp, "thì khi đó sẽ chẳng còn là đột phá nữa, đúng thế không?"

    Rhyme cười. Cô ấy giỏi thật.

    Sachs hất lọn tóc đỏ khỏi mắt và nói: "Sự nghiệp của anh là thực thi pháp luật, nhớ chứ. Tự tử là bất hợp pháp."

    "Đó còn là tội lỗi nữa", anh đáp lời. "Những người da đỏ Dakota tin rằng hồn ma của những kẻ tự tử bị kéo lê mãi mãi xung quanh cái cây mà họ tự treo cổ. Nhưng điều này có dừng được việc tự tử không? Không. Họ chỉ dùng những cái cây bé hơn."

    "Biết không, Rhyme. Đây là luận cứ cuối cùng của tôi." Cô hất đầu về phía Berger, và nắm lấy sợi xích còng. "Tôi mượn và đăng ký ông ta. Phản biện lại nó đi."

    "Lincoln", Berger căng thẳng nói, mắt ông ta hoảng loạn.

    Sachs nắm vai ông bác sĩ và dẫn ông ta ra cửa. "Đừng. Đừng làm thế." Ông ta nói.

    Nhưng Sachs đã mở cửa và Rhyme gọi với ra: "Sachs, trước khi cô làm thế, trả lời tôi mấy câu."

    Cô dừng lại. Một tay để trên tay nắm cửa.

    "Một câu hỏi."

    Cô quay lại.

    "Cô đã bao giờ muốn làm thế chưa? Tự tử?"

    Cô mở khóa cửa với một tiếng tách lớn.

    Anh nói: "Trả lời tôi đi!"

    Sachs không mở cửa. Cô đứng quay lưng lại phía anh. "Không. Không bao giờ."

    "Cô có hạnh phúc với cuộc sống của mình không?"

    "Giống như những người khác thôi."

    "Cô có bao giờ bị trầm cảm không?"

    "Tôi không nói thế. Tôi nói tôi chưa bao giờ muốn tự tử."

    "Cô có nói với tôi là cô thích lái xe. Những người thích lái xe thường thích lái xe nhanh. Cô cũng thế, đúng không?"

    "Đúng thế, đôi khi."

    "Tốc độ nhanh nhất của cô là bao nhiêu?"

    "Tôi không biết."

    "Trên tám mươi?"

    Một nụ cười không đồng tình. "Đúng."

    "Trên một trăm?"

    Cô chỉ ngón tay cái lên trên.

    "Một trăm mười? Một trăm hai mươi?" Anh hỏi, cười vì quá ngạc nhiên.

    "Đã có lần lên một trăm sáu mươi tám."

    "Trời ơi, Sachs. Cô thật là ấn tượng. Được rồi, lái xe nhanh như thể thì cô có nghĩ là có thể, chỉ có thể thôi, sẽ có chuyện gì đó xảy ra? Tay đòn hay trục xe có thể gãy, lốp có thể nổ, một vết dầu trên đường?"

    "Cũng khá an toàn. Tôi không điên."

    "Khá an toàn. Nhưng lúc lái xe nhanh như lái máy bay cỡ nhỏ thì cũng không an toàn tuyệt đối. Đúng không?"

    "Anh đang mớm cung đấy."

    "Không, tôi không mớm cung. Theo ý kiến của tôi nhé. Cô lái xe nhanh thì cô phải chấp nhận rằng cô có thể gặp tai nạn và chết, đúng không?"

    "Có thể", cô nhượng bộ.

    Berger, tay bị còng phía trước, sốt ruột theo dõi, tay vẫn mân mê chiếc đĩa xương sống màu vàng nhạt.

    "Như vậy, cô cũng đến rất gần giới hạn đó rồi, đúng không? À, cô biết tôi nói về điều gì rồi chứ. Tôi biết là cô hiểu - ranh giới giữa nguy cơ tử vong và chắc chắn tử vong. Thấy không, Sachs, nếu cô đem cái chết theo mình thì rất dễ bước qua ranh giới đó. Một bước ngắn là đến với chúng."

    Cô cúi đầu, khuôn mặt cô trở nên bất động khi mái tóc che lấp đôi mắt của cô.

    "Bỏ qua người đã chết", anh thầm thì, cầu mong cô đừng đem Berger đi, biết rằng anh đã tới rất gần để đẩy cô vượt qua ranh giới. "Tôi nói đến chuyện rất nhạy cảm. Cô muốn theo người chết đến đâu? Hơn một chút, Sachs ạ. Nhiều hơn một chút rất nhiều."

    Cô chần chừ. Anh biết anh đã đến rất gần trái tim cô.

    Cô giận dữ quay lại phía Berger, nắm lấy sợi dây còng. "Đi thôi." Đẩy ông ta ra cửa.

    Rhyme gọi theo: "Cô biết tôi nói gì, đúng không?"

    Cô dừng lại lần nữa.

    "Đôi khi... sự việc xảy ra, Sachs ạ. Đôi khi cô không thể trở thành người mà cô phải trở thành, cô không thể có thứ mà cô phải có. Và cuộc sống luôn thay đổi. Có thể chỉ một chút, có thể là rất nhiều. Và đến một lúc nào đó, không còn đáng để tiếp tục chiến đầu, sửa những sai lầm."

    Anh nhìn họ đứng đó, bất động ở ô cửa. Căn phòng im lặng một cách đáng sợ. Cô quay lại và nhìn anh.

    "Cái chết chữa lành sự cô đơn", Rhyme tiếp tục. "Nó chữa khỏi chứng căng cơ. Chữa khỏi những cơn ngứa." Giống như trước đó cô nhìn chân anh, lúc này anh liếc nhanh những ngón tay nát nhừ của cô.

    Cô thả tay khỏi chiếc còng của Berger và đi về phía cửa sổ. Những giọt lệ trên má cô lấp lánh trong ánh sáng vàng ngoài phố.

    "Sachs, tôi thấy mệt mỏi", anh nói một cách chân thành. "Tôi không thể nói với cô là tôi mệt mỏi đến thế nào. Cô biết cuộc sống khó nhọc như thế nào khi bắt đầu với. Hàng núi gánh nặng. Rửa ráy, ăn uống, bài tiết, gọi điện thoại, cài cúc áo, gãi mũi... Rồi thì hàng nghìn thứ khác. Và sau đó nữa."

    Anh im lặng. Sau một lúc lâu, cô nói: "Chúng ta sẽ thỏa thuận."

    "Gì thế?"

    Cô hất đầu về phía tấm áp phích. "823 đang giữ người mẹ và đứa bé... Giúp chúng tôi cứu họ. Chỉ họ thôi. Nếu anh đồng ý, tôi sẽ cho ông ta một giờ để nói chuyện riêng với anh." Cô liếc nhìn Berger. "Với điều kiện sau đó ông ta phải biến khỏi thành phố."

    Rhyme lắc đầu. "Sachs, nếu tôi bị đột quỵ, nếu tôi không còn giao tiếp được nữa..."

    "Nếu điều đó xảy ra", cô nói đều đều, "nếu anh không còn nói được một lời, thỏa thuận của chúng ta vẫn còn nguyên giá trị. Tôi sẽ bảo đảm để các anh có một giờ đồng hồ với nhau". Cô lại khoanh tay, đứng giạng chân, một hình ảnh yêu thích về Amelia Sachs đối với Rhyme. Anh ước anh có thể nhìn thấy cô ở đường tàu sáng nay, lúc chặn đoàn tàu. Cô nói: "Đó là điều tốt nhất tôi sẽ làm."

    Một khoảnh khắc trôi qua. Rhyme gật đầu. "Được rồi. Thỏa thuận." Anh nói với Berger: "Thứ Hai?"

    "Được rồi, Lincoln. Cũng được." Berger, vẫn còn đang run rẩy, cảnh giác nhìn Sachs khi cô mở còng. Có vẻ như ông ta sợ cô sẽ đổi ý. Khi được tự do, ông ta nhanh chóng đi ra cửa. Rồi nhận ra rằng mình vẫn đang cầm mẩu xương đốt sống, ông ta quay lại và đặt nó - gần như cung kính - bên cạnh báo cáo hiện trường vụ án giết người đầu tiên buổi sáng hôm nay.

    "Sướng như lợn vầy bùn", Sachs nhận xét, thả người xuống chiếc ghế mây kêu răng rắc. Đó là Sellitto và Polling, sau khi cô nói với họ rằng Rhyme đã đồng ý với vụ này thêm một ngày nữa.

    "Đặc biệt là Polling", cô nói. "Tôi nghĩ anh chàng nhỏ bé này sẽ ôm lấy tôi. Đừng nói với anh ta là tôi gọi anh ta như thế. Anh cảm thấy thế nào? Trông anh khá hơn đấy." Cô nhấp một ngụm whisky và đặt trả chiếc cốc vào cái bàn cạnh giường, bên cạnh tủ của Rhyme.

    "Không tệ."

    Thom đang thay ga giường. "Anh đổ mồ hôi như tắm", cậu ta nói.

    "Nhưng chỉ bên trên cổ", Rhyme nói. "Ý tôi là đổ mồ hôi."

    "Đúng thế à?" Sachs hỏi.

    "Đúng thế. Như thế đấy. Nhiệt kế phía dưới đã nổ. Tôi không bao giờ phải dùng đến nước hoa cho tứ trụ."

    "Trụ?"

    "Các chỗ lõm", Rhyme cằn nhằn. "Nách. Viên trợ lý thứ nhất của tôi không bao giờ nói nách. Anh ta nói: 'Lincoln, tôi sẽ cầm trụ nhấc anh lên.' À, và: 'Nếu anh muốn nôn, thì cứ thoải mái đi, Lincoln.' Anh ta tự gọi mình là 'săn sóc viên'. Anh ta viết cả từ này vào lý lịch. Tôi không hiểu vì sao tôi lại thuê anh ta. Chúng tôi rất mê tín, Sachs ạ. Chúng tôi nghĩ rằng gọi thứ gì đó bằng một cái tên khác có thể làm nó thay đổi. Tội phạm. Thủ phạm. Nhưng người trợ lý đó, anh ta chỉ là một ý tá bị ngập trong phân đến tận nách. Đúng không, Thom? Chẳng có gì phải ngượng ngùng. Đó là một nghề cao thượng. Hỗn loạn nhưng cao thượng."

    "Tôi lớn nhanh trong sự hỗn loạn. Vì thế mà tôi làm việc cho anh."

    "Cậu là gì? Trợ lý hay săn sóc viên?"

    "Tôi là một vị thánh."

    "Ha, đối đáp rất nhanh. Tiêm cũng rất nhanh. Cậu ta đem tôi trở về từ cõi chết. Hơn một lần rồi."

    Rhyme đột nhiên hoảng sợ, anh lo rằng Sachs đã nhìn thấy anh trần truồng. Mắt chăm chú nhìn vào hồ sơ thủ phạm, anh hỏi: "Nói xem tôi có nợ cô một lời xin lỗi nào không, Sachs? Cô có đóng vai Clara Barton 1 không đấy?" Anh căng thẳng chờ câu trả lời của cô, không biết là anh còn có thể nhìn nữa không nếu cô đã trông thấy.

    "Không", Thom trả lời. "Một mình tôi cứu anh. Không muốn bất cứ linh hồn nhạy cảm nào bị tổn thương bởi đôi mông xập xệ của anh."

    Cảm ơn Thom, anh nghĩ. Sau đó quát: "Giờ thì biến đi. Chúng tôi phải bàn về vụ án, Sachs và tôi."

    "Anh cần phải ngủ một chút."

    "Tất nhiên là tôi cần. Nhưng chúng tôi vẫn phải bàn về vụ này. Chúc ngủ ngon, chúc cậu ngủ ngon."

    Sau khi Thom ra về, Sachs rót một ly Macallan. Cô cúi đầu ngửi mùi rượu hơi oi khói.

    "Ai tiết lộ?" Rhyme hỏi. "Peter?"

    "Ai?" Cô hỏi.

    "Bác sĩ Taylor, người của SCI."

    Cô cố tỏ ra chần chừ để anh biết đó chính là Taylor. Cuối cùng cô nói: "Ông ấy rất quan tâm đến anh."

    "Tất nhiên là ông ta quan tâm. Đó là vấn đề... Tôi muốn ông ta quan tâm ít đi một chút. Ông ta có biết về Berger không?"

    "Ông ấy nghi ngờ."

    Rhyme nhăn mặt. "Nghe này, nói với ông ta Berger chỉ là một người bạn cũ. Ông ta... Sao?"

    Sachs chậm rãi thở ra, như thể thổi khói thuốc từ đôi môi mọng của cô. "Anh không chỉ muốn tôi để anh tự tử mà anh còn muốn tôi nói dối với người có thể thuyết phục anh đừng làm việc đó."

    "Ông ấy không thuyết phục được tôi đâu", Rhyme đáp lời.

    "Thế thì sao anh muốn tôi nói dối?"

    Anh cười. "Cứ để bác sĩ Taylor hoàn toàn không biết gì trong vài ngày nữa."

    "Được rồi", cô nói. "Lạy Chúa, anh là người rất khó xử lý đấy."

    Anh nhìn cô thật gần. "Sao cô không nói điều đó với tôi?"

    "Điều gì?"

    "Ai là người chết? Những người mà cô vẫn chưa bỏ qua?"

    "Họ, rất nhiều."

    "Ví dụ?"

    "Đọc báo mà xem."

    "Thôi nào, Sachs."

    Cô lắc đầu, uống cạn ly whisky Scotch với nụ cười nhạt nhòa trên môi. "Không, tôi không nghĩ thế."

    Anh coi sự im lặng của cô là do miễn cưỡng phải nói chuyện thân mật với một người mà cô mới được biết có một ngày. Mọi việc nghe có vẻ mỉa mai, nếu tính đến việc cô ngồi cạnh một tá ống thông tiểu, một ống kem K-Y và mộthộp Depends. Dù vậy anh vẫn không thúc ép và không nói thêm gì nữa. Vì thế anh ngạc nhiên khi bất ngờ cô ngẩng lên và buột miệng, "Chỉ là... chỉ là, ôi quỷ thật." Khi cơn nức nở bắt đầu, cô đưa tay lên mặt, gạt nửa chai whisky Scotch hạng nhất đổ lênh láng ra sàn.

    --------------------------------
    1 Clara Barton (1821 - 1912): Nữ y tá người Mỹ, nhà nhân đạo, người sáng lập Hội Chữ thập đỏ Mỹ.

  7. #26
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HAI MƯƠI SÁU

    "Không thể tin được em lại kể điều đó với anh." Cô ngồi cuộn mình trên ghế, chân co lên, đôi giày chuyên dụng được tháo ra. Lệ đã khô, mặc dù cô vẫn còn đỏ ửng như màu của mái tóc.

    "Tiếp đi", anh khuyến khích.

    "Anh chàng mà em đã kể với anh? Bọn em định cùng nhau mua một căn hộ."

    "Ồ, cùng với một con chó giống collie. Em không nói đó là một anh chàng. Bạn trai của em à?"

    Người tình bí mật? Rhyme băn khoăn.

    "Anh ấy đã từng là bạn trai của em."

    "Anh đã nghĩ có thể đó là người cha đã mất của em."

    "Không. Đúng là cha em đã mất - ba năm trước. Bị ung thư. Nhưng gia đình em biết điều đó sẽ đến. Nếu điều đó làm em phải sẵn sàng thì em nghĩ em đã sẵn sàng. Nhưng còn Nick..."

    "Anh ấy bị giết?" Rhyme dịu dàng hỏi.

    Nhưng cô không trả lời. "Nick Carelli. Một người trong hàng ngũ của chúng ta. Một cảnh sát. Một thám tử, cấp ba. Làm việc trong nhóm Tội phạm Đường phố."

    Cái tên nghe quen quen. Rhyme không nói gì để cô tiếp tục.

    "Bọn em sống với nhau một thời gian. Đã nói đến chuyện hôn nhân." Cô ngừng lại, có vẻ như đang sắp xếp lại ý nghĩ như sắp xếp lại các tấm bia trong trường bắn. "Anh ấy là mật vụ. Vì thế bọn em giữ bí mật về mối quan hệ của mình. Anh ấy không thể để tin đồn lan trên phố rằng bạn gái anh ấy là cảnh sát." Cô hắng giọng. "Rất khó giải thích. Anh biết không, bọn em có... một thứ đó giữa hai người. Đó là... điều đó không thường xuyên xảy ra với em. Quỷ thật, điều đó chưa bao giờ xảy ra trước Nick. Bọn em có mối quan hệ thực sự sâu sắc. Anh ấy biết em phải làm cảnh sát và đó không phải là vấn đề đối với anh ấy. Em cũng nghĩ như vậy về công việc cớm chìm của anh ấy. Như một dạng... bước sóng. Anh biết đấy, như lúc anh vừa hiểu được hoàn toàn về một người nào đó? Anh đã bao giờ cảm nhận được điều em đang nói không? Với vợ anh?"

    Rhyme mỉm cười nhợt nhạt. "Anh có cảm thấy. Đúng thế. Nhưng không phải với Blaine, vợ anh." Và đó là tất cả những gì anh muốn nói về vấn đề này. "Hai người gặp nhau thế nào?" Anh hỏi.

    "Bài giảng nhiệm vụ tại học viện. Khi có người đứng lên và nói cho anh nghe những nhiệm vụ mà đơn vị của họ thực hiện. Nick giảng bài về công tác mật vụ. Anh ấy rủ em đi chơi ngay lập tức. Lần hẹn hò đầu tiên của bọn em là ở Rodman's Neck."

    "Trường bắn?"

    Sachs gật đầu, sịt mũi. "Sau đó bọn em tới nhà mẹ anh ấy ở Brooklyn và ăn mì ống, uống một chai Chianti. Bà véo em rất mạnh và nói em quá gầy để có thể có con. Bắt em ăn hai suất cannoli. Bọn em về nhà em và tối hôm đó, anh ấy đã ở lại. Lần hẹn hò đầu tiên đáng kể đấy chứ? Từ đó, bọn em gặp nhau thường xuyên. Chắc chắn sẽ nên chuyện, Rhyme ạ. Em cảm thấy thế, chắc chắn mọi chuyện sẽ tốt đẹp."

    Rhyme nói: "Chuyện gì xảy ra?"

    "Anh ấy..."

    Một ngụm lớn. "Chuyện là anh ấy đã lợi dụng. Cả quãng thời gian em biết anh ấy..."

    "Thế à?"

    "Ăn trộm. Trộm lớn. Em không hề có bất kỳ manh mối nào. Không một manh mối khốn kiếp nào. Anh ấy giấu nó ở vài ngân hàng quanh thành phố. Anh ấy lấy khoảng hai trăm nghìn đô la."

    Lincoln im lặng một lúc. "Anh xin lỗi, Sachs. Ma túy?"

    "Không. Chủ yếu là đồ dùng. Đồ điện tử, ti vi. Và quần áo. Họ gọi đó là Liên kết Brooklyn. Báo chí."

    Rhyme gật đầu. "Đó là lý do anh nhớ đến nó. Có khoảng gần một tá người liên quan, đúng không? Tất cả đều là cảnh sát."

    "Chủ yếu. Một số người của ICC 1 nữa."

    "Chuyện gì xảy ra với cậu ấy? Nick ấy?"

    "Anh biết chuyện gì xảy ra khi cớm xử cớm rồi. Họ đánh anh ấy nhừ tử. Nói rằng anh ấy chống cự, nhưng em biết là không phải. Gãy ba xương sườn, hai ngón tay, mặt nát nhừ. Bị kết án nhưng anh ấy vẫn bị tù hai mươi đến ba mươi năm."

    "Vì tội chiếm đoạt tài sản?"

    "Anh ấy tự làm một, hai vụ. Dùng súng đập một lái xe, bắn người kia. Chỉ để dọa anh ta thôi. Em biết là chỉ để dọa anh ta. Nhưng quan tòa đã quăng anh ấy đi." Cô nhắm mắt, mím môi thật chặt.

    "Khi anh ấy bị bắt, bên Nội vụ theo anh ấy rất chặt. Họ kiểm tra điện thoại. Bọn em rất thận trọng trong việc gọi điện cho nhau. Anh ấy nói thỉnh thoảng bọn tội phạm nghe trộm điện thoại của anh ấy. Nhưng vẫn có mấy cuộc gọi đến chỗ em. Bên Nội vụ bám theo em luôn. Vì thế Nick gạt em ra. Ý em là anh ấy phải làm thế. Nếu không em sẽ xuống dốc luôn cùng anh ấy. Anh biết bên Nội vụ rồi đấy - lúc nào cũng là những tên thợ săn phù thủy."

    "Chuyện gì xảy ra?"

    "Để thuyết phục họ rằng em chẳng là gì đối với anh ấy... thì anh ấy đã nói vài câu về em." Cô nuốt khan, mắt nhìn xuống nền nhà. "Khi bên Nội vụ thẩm vấn, họ hỏi anh ấy về em. Nick nói: ' À, P.D. Sachs? Tôi có chơi cô ta vài lần. Hóa ra cô ta cũng vớ vẩn. Nên tôi đá cô ta." Cô ngửa đầu ra sau, lấy tay lau nước mắt. "Biệt hiệu? P.D."

    "Lon có nói với anh."

    Cô nhăn mặt. "Ông ấy có nói nó nghĩa là gì không?"

    "Con gái cớm tuần tra. Từ cha em."

    Cô cười uể oải. "Nó khởi đầu như thế đấy. Nhưng đó không phải là cách kết thúc. Trong cuộc điều tra, Nick nói em là thứ vớ vẩn đến mức nó phải có nghĩa là 'săn bướm', bởi vì có lẽ em thích con gái hơn. Anh đoán xem điều này lan truyền trong sở nhanh đến thế nào."

    "Chỗ đó có cùng mẫu số mà, Sachs."

    Cô hít một hơi dài. "Em thấy anh ấy ở tòa vào cuối cuộc điều tra. Anh ấy nhìn em một lần và... em không thể tả được điều gì trong mắt anh ấy. Thực sự là cõi lòng tan nát. Anh ấy làm điều đó để bảo vệ em. Nhưng vẫn cứ... Anh đã đúng, anh biết không. Về sự cô đơn."

    "Anh không có ý..."

    "Không", cô nói mà không cười. "Em đánh anh, anh đánh em. Thế là công bằng. Và anh đúng. Em ghét sự cô đơn. Em muốn ra ngoài, em muốn gặp ai đó. Nhưng sau Nick, em đã mất hứng thú với tình dục." Sachs cười chua chát. "Mọi người đều nghĩ rằng có ngoại hình như em là tuyệt vời. Em có thể chọn anh chàng của mình, đúng không? Thật vớ vẩn. Những thằng cha mời em đi chơi là những thằng cha muốn chơi em. Thế nên em đầu hàng. Tự làm còn dễ hơn. Em ghét điều đó, nhưng dễ hơn"

    Cuối cùng thì Rhyme đã hiểu phản ứng của cô khi lần đầu tiên nhìn thấy anh. Cô thoải mái với anh vì đấy là người đàn ông không phải là mối đe dọa đối với cô. Không thúc ép tình dục. Một người mà cô không phải phòng ngự. Có thể có một chút tình đồng nghiệp nữa - như thể họ cũng thiếu mất một loại gen thiết yếu.

    "Em biết đấy", anh đùa, "anh và em, ta cần đến với nhau và không được có chuyện gì".

    Cô cười. "Thế thì kể cho em nghe về vợ anh. Hai người lấy nhau được bao lâu?"

    "Bảy năm. Sáu năm trước tai nạn. Và một năm sau đó."

    "Và cô ấy bỏ anh?"

    "Không. Anh bỏ cô ấy. Anh không muốn cô ấy cảm thấy có lỗi trong việc này."

    "Anh quá tốt."

    "Cuối cùng thì anh cũng làm cô ấy bỏ đi được. Anh là một tên khốn. Em mới chỉ nhìn thấy mặt tốt của anh thôi." Một lúc sau, anh hỏi. "Câu chuyện của Nick... có liên quan gì tới lý do em bỏ Đội Tuần tra không?"

    "Không. Thực ra là có."

    "Chim bị tên sợ cây cong?"

    Cuối cùng cô gật đầu. "Cuộc sống ngoài phố giờ khác rồi. Đó là thứ đã làm cho Nick như vậy. Thứ làm biến đổi anh ấy. Nó không còn giống như khi cha em đi tuần trong khu của ông nữa. Khi đó mọi thứ tốt hơn."

    "Ý em là nó không giống như những câu chuyện cha kể cho em nghe?"

    "Có thể", cô nhượng bộ. Sachs ngồi thụp xuống ghế. "Bệnh than? Đúng như thế nhưng không nghiêm trọng đến mức như em giả bộ."

    "Anh biết", Rhyme hỏi.

    "Anh biết? Sao anh biết được?"

    "Anh chỉ cần nhìn vào chứng cứ và rút ra một số kết luận."

    "Đó là lý do anh theo vụ của em cả ngày? Anh biết là em giả vờ?"

    "Anh theo vụ của em", anh nói, "vì anh biết em giỏi hơn em nghĩ".

    Cô nhìn anh thăm dò.

    "À Sachs này, em làm anh nhớ đến chính mình."

    "Thế ư?"

    "Để anh kể cho em nghe một chuyện. Anh làm công việc khám nghiệm hiện trường được gần một năm thì nhận được một cuộc gọi từ Đội Trọng án. Có một người chết trong một ngõ hẻm ở Greenwich Village. Tất cả trung sĩ chỉ huy đã ra ngoài nên anh được chọn để khám nghiệm hiện trường. Lúc đó, anh nhớ anh mới hai mươi sáu tuổi. Anh tới đó, kiểm tra và phát hiện ra người chết là giám đốc Sở Y tế và Nhân đạo của thành phố. Lúc đó xung quanh ông ta có rất nhiều ảnh Palaroid. Chắc em đã nhìn thấy vài tấm ảnh đó - ông ta đã đến một trong những hộp đêm S&M 2 trên Phố Washington. À, anh quên không nói, khi họ tìm thấy ông ta thì ông ta mặc một bộ váy ngắn màu đen và đi đôi tất chân mắt lưới.

    Thế là anh bảo vệ hiện trường. Bất ngờ ông đại úy xuất hiện và đi qua dây chắn. Anh biết ông ấy có ý định làm cho những tấm ảnh đó biến mất trên đường đến phòng vật chứng nhưng anh lại ngây thơ tới mức không quan tâm đến những tấm ảnh - anh chỉ quan tâm đến việc ai đó đi ngang qua hiện trường."

    "Peretti là bảo vệ hiện trường vụ án."

    Rhyme tặc lưỡi. "Thế là anh không cho ông ấy vào. Lúc ông ấy đứng ngoài hàng rào quát tháo thì một nhân viên của Sở đến và cố gắng kết thúc sự việc. Anh nói không với ông ấy. Ông ấy cũng bắt đầu quát tháo anh. Hiện trường phải được giữ nguyên cho tới khi IRD xong việc, anh nói với họ thế. Đoán thử xem cuối cùng là ai đến?"

    "Thị trưởng?"

    "Gần đúng. Phó Thị trưởng."

    "Và anh bắt cả họ phải đứng ngoài."

    "Không ai vào được hiện trường, trừ bên chụp ảnh. Tất nhiên cái giá mà anh phải trả là sáu tháng làm nhân viên in ấn. Nhưng bọn anh bắt được thủ phạm nhờ vào một vài manh mối và dấu vân tay trên một bức hình Palaroid - hóa ra đấy là bức hình được tờ Bưu điện in trên trang nhất. Giống như việc em làm sáng hôm qua, Sachs ạ. Chặn tàu và xe trên Đại lộ Mười một."

    "Em không nghĩ tới điều đó", cô nói. "Em chỉ làm thôi. Sao anh lại nhìn em thế?"

    "Nào, Sachs. Em biết là em cần ở đâu mà. Ngoài phố. Tuần tra, Các vụ Trọng án, IRD, không quan trọng... Nhưng Phòng Quan hệ Công chúng ư? Ở đó em sẽ thối rữa. Đó là công việc tốt đối với một số người, nhưng không phải dành cho em. Đừng đầu hàng nhanh thế."

    "Ồ, thế còn anh thì không đầu hàng à? Còn Berger thì sao?"

    "Với anh mọi chuyện hơi khác."

    Cái nhìn của cô dò hỏi. Đúng thế không? Rồi cô đi quanh tìm khăn giấy. Khi quay lại ghế, cô hỏi: "Anh không đem xác chết nào theo anh đấy chứ?"

    "Cũng có khi. Nhưng giờ chúng đã được chôn cất rồi."

    "Kể em nghe đi."

    "Chẳng có gì cả đâu, thật đấy..."

    "Không đúng. Em thấy thế. Nào, em đã kể cho anh nghe chuyện của em rồi."

    Anh cảm thấy một cơn ớn lạnh lạ lùng. Anh biết đấy không phải cơn sai lệch phản xạ. Nụ cười của anh biến mất.

    "Rhyme, kể đi", cô dai dẳng. "Em muốn nghe."

    "Được rồi, có một vụ vài năm trước", anh nói. "Anh đã phạm sai lầm. Một sai lầm tệ hại."

    "Kể em nghe." Cô rót cho hai người thêm một ngấn whisky Scotch nữa.

    "Đó là một cuộc gọi nội địa báo giết người - tự sát. Một cặp vợ chồng trong một căn hộ ở Chinatown. Ông ta bắn vợ, rồi tự sát. Anh không có nhiều thời gian khám nghiệm hiện trường; anh làm rất nhanh. Và anh phạm một sai lầm cũ rích - anh đã biết trước mình sẽ tìm thấy gì trước khi anh bắt đầu tìm kiếm. Anh tìm thấy một ít sợi vải mà anh không biết đặt vào đâu nhưng anh giả định rằng cặp vợ chồng này đã lôi nó vào. Anh tìm thấy mảnh đạn nhưng không so nó với khẩu súng tìm được tại hiện trường. Anh nhận thấy phương cách nạp đạn tự động nhưng không đan lưới để tìm vị trí chính xác của khẩu súng. Anh tìm xong, ký giấy rồi về văn phòng."

    "Chuyện gì đã xảy ra?"

    "Hiện trường bị dàn cảnh. Thực ra, đó là một vụ cướp của giết người. Tên tội phạm chưa rời căn hộ."

    "Cái gì? Hắn vẫn ở đó?"

    "Sau khi anh ra về hắn bò từ gầm giường ra và bắt đầu bắn. Hắn giết chết một nhân viên pháp y và làm bị thương một người trợ lý. Hắn chạy ra phố và bắn nhau với mấy cảnh sát tuần tra chạy đến khi nghe gọi 10-13. Tên tội phạm bị bắn - sau đó cũng đã chết - nhưng hắn giết chết một cảnh sát và làm bị thương người khác. Hắn cũng bắn một gia đình vừa ra khỏi nhà hàng Trung Quốc gần đó. Dùng đứa con làm lá chắn."

    "Ôi, trời ơi."

    "Colin Stanton là tên người cha. Ông ta không hề bị thương và ông ta là một bác sĩ quân y - EMS nói ông ta đã có thể cứu được vợ và cả hai đứa con nếu ông ta cố gắng cầm máu, nhưng ông ta đã quá hoảng loạn và cứng đơ người. Ông ta cứ đứng, nhìn họ chết dần trước mắt mình."

    "Lạy chúa, Rhyme. Nhưng đó không phải lỗi của anh. Anh..."

    "Để anh kể nốt. Đó vẫn chưa phải là đoạn kết."

    "Chưa ư?"

    "Người chồng về nhà - ở phía bắc New York. Ông ta bị suy nhược thần kinh và phải vào bệnh viện tâm thần một thời gian. Ông ta thử tự tử. Đầu tiên ông ta tự cắt cổ tay mình bằng một mảnh giấy - bìa tạp chí. Sau đó ông ta lẻn vào thư viện và tìm thấy một cốc nước trong phòng tắm của người thủ thư, đập nó ra và dùng mảnh kính vỡ cứa vào cổ tay. Người ta đã khâu lại vết thương cho ông ta và giữ ông ta trong bệnh viện tâm thần khoảng một năm. Cuối cùng thì người ta cũng thả ông ra. Khoảng một tháng sau khi ra viện, ông ta lại thử lần nữa. Lần này thì dùng dao." Rhyme lạnh lùng nói thêm. "Lần này thì có kết quả."

    Anh biết về cái chết của Stanton nhờ một tờ cáo phó được fax từ nhân viên điều tra đột tử ở Albany tới Phòng Quan hệ Công chúng của NYPD. Ai đó đã gửi nó cho Rhyme bằng đường công văn nội bộ với một tờ giấy vàng dán kèm: FYI - có thể anh sẽ quan tâm, người sĩ quan đó viết.

    "IA điều tra nội bộ. Lỗi chuyên môn. Họ đập cổ tay anh. Anh nghĩ họ có thể đuổi việc anh."

    Cô thở dài và nhắm mắt trong giây lát. "Và anh nói với em là anh không thấy có lỗi trong chuyện này?"

    "Hết rồi."

    "Em không tin anh."

    "Anh đã chịu án rồi, Sachs ạ. Anh sống với những xác chết này một thời gian. Sau đó anh bỏ chúng đi. Nếu không, làm sao anh tiếp tục làm việc được."

    Sau một lúc lâu, cô nói: "Khi em mười tám tuổi, em bị phạt. Vì chạy quá tốc độ. Em chạy với tốc độ chín mươi ở chỗ chỉ được phép chạy bốn mươi."

    "Rồi."

    "Cha em nói, ông sẽ cho em vay tiền nộp phạt, nhưng em phải trả lại ông. Có lãi. Nhưng anh biết ông còn nói gì với em nữa không? Ông nói bố sẽ đánh đòn nếu con vượt đèn đỏ hay lái xe không cẩn thận. Nhưng chạy nhanh thì ông hiểu. Ông nói với em: 'Bố biết cảm giác của con, con yêu ạ. Khi ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta.'", Sachs nói với Rhyme. "Nếu em không thể lái xe, nếu em không thể chuyển động, có thể em cũng sẽ làm điều đó. Tự tử."

    "Anh đã từng đi bộ khắp nơi", Rhyme nói. "Anh lái xe không nhiều. Không có xe suốt hai mươi năm. Em có xe gì?"

    "Chẳng phải là thứ mà một người Manhattan kiêu kỳ như anh sẽ lái đâu. Một chiếc Chevy. Mác Camaro. Đó là xe của cha em."

    "Ông đã cho em một cái máy khoan hơi? Để sửa xe, anh đoán thế?"

    Cô gật đầu. "Và một máy hàn hơi. Một bộ tạo khe bugi. Cờ lê bánh cóc - món quà sinh nhật lần thứ mười ba của em." Cười nhẹ nhàng. "Chiếc Chevy ấy, thật là một chiếc xe với núm tay lỏng. Anh có biết đấy là gì không? Một chiếc xe Mỹ. Đài, quạt và công tắc điện đều lỏng lẻo và hạng bét. Nhưng bộ giảm xóc thì như đá, nhẹ như thùng trứng và em lúc nào cũng qua mặt được BMW 3."

    "Anh đoán là em đã làm rồi."

    "Một, hai lần gì đấy."

    "Xe hơi có địa vị trong thế giới của người tàn tật", Rhyme giải thích. "Bọn anh ngồi - hay nằm - trong khu cách ly của Viện Phục hồi Chức năng và nói chuyện về những thứ bọn anh có thể lấy được từ công ty bảo hiểm. Xe tải kiểu xe lăn thật là đỉnh. Sau đó là xe điều khiển bằng tay. Tất nhiên là những thứ đó chẳng giúp gì cho anh." Anh liếc mắt, kiểm tra bộ nhớ thuần thục của mình. "Anh không đi xe đã nhiều năm. Anh không nhớ lần cuối là khi nào cả."

    "Em có một ý", Sachs bất ngờ nói. "Trước khi ông bạn của anh - bác sĩ Berger - quay lại, để em đưa anh đi một vòng. Hay có vấn đề? Ngồi dậy? Anh nói là xe lăn không giúp được anh."

    "À, không, xe lăn không thành vấn đề. Nhưng còn xe hơi? Anh nghĩ chắc là được." Anh cười. "Một trăm sáu mươi tám? Dặm một giờ?"

    "Hôm ấy là một ngày đặc biệt", Sachs nói và nhớ lại. "Điều kiện tốt. Không có cảnh sát giao thông."

    Điện thoại reo và Rhyme tự trả lời. Đó là Lon Sellitto.

    "Chúng tôi đã có các nhóm S&S ở tất cả các nhà thờ mục tiêu trong khu Harlem. Dellray chịu trách nhiệm về việc này - anh ta trở thành một tín đồ thực sự rồi. Anh không còn nhận ra anh ta nữa đâu. Ồ, mà tôi còn có thêm ba mươi cảnh sát tuần tra và hàng tá nhân viên anh ninh Liên Hiệp Quốc để đến bất cứ nhà thờ nào mà chúng ta có thể bỏ qua. Nếu hắn không xuất hiện, chúng tôi sẽ càn quét tất cả các nhà thờ vào lúc bảy rưỡi, trong trường hợp hắn lẩn được vào mà chúng tôi không phát hiện ra. Tôi nghĩ chúng ta sẽ tóm được hắn, Linc ạ." Viên thám tử nói, nhiệt tình một cách đáng nghi ngờ so với một cảnh sát của Đội Trọng án Thành phố New York.

    "Được rồi, Lon. Khoảng tám giờ tôi sẽ cử Amelia tới Trung tâm chỉ huy của anh."

    Họ dập máy.

    Thom gõ cửa trước khi vào phòng.

    "Như thể cậu ta sẽ bắt được chúng ta trong tư thế tế nhị." Rhyme cười thầm.

    "Không lý do gì nữa", anh ta nói. "Đi ngủ. Ngay bây giờ."

    Đã 3:00. Từ lâu rồi, Rhyme đã không còn cảm giác kiệt sức. Anh đang bay lượn ở đâu đó. Phía trên cơ thể mình. Anh băn khoăn không hiểu có phải mình gặp ảo giác hay không.

    "Được rồi, thưa mẹ", anh nói. "Sĩ quan Sachs sẽ ngủ lại đêm nay, Thom. Cậu làm ơn lấy giúp một cái chăn."

    "Anh nói gì?" Thom quay lại phía anh.

    "Một cái chăn."

    "Không, trước đó cơ." Người trợ lý hỏi. "Cái từ ấy?"

    "Tôi không biết. 'Làm ơn'?"

    Mắt Thom mở to vì cảnh giác. "Anh ổn chứ? Anh có muốn tôi gọi Peter Taylor quay lại không? Hay cha cả của Tu viện Columbia? Bác sĩ phẫu thuật?"

    "Thấy thằng khốn này làm phiền tôi chưa?" Rhyme nói với Sachs. "Hắn không biết là hắn gần đến lúc bị đuổi việc thế nào rồi đâu."

    "Gọi dậy lúc mấy giờ?"

    "Sáu giờ ba mươi là ổn," Rhyme nói.

    Khi anh ta đi khỏi, Rhyme hỏi: "Này, Sachs, em có thích nghe nhạc không?"

    "Em thích."

    "Loại nào?"

    "Nhạc cổ, dòng doo-wop, Motown... Còn anh thì sao? Anh trông có vẻ giống một anh chàng cổ điển."

    "Em thấy cái tủ chỗ kia chứ?"

    "Cái này hả?"

    "Không, cái khác cơ. Phía bên phải. Em mở nó ra."

    Cô làm theo và há miệng vì ngạc nhiên. Cái tủ quả là một căn phòng chứa tới gần nghìn đĩa CD.

    "Giống như cửa hàng bán đĩa 4?"

    "Có một bộ dàn, em thấy nó trên giá không?"

    Cô lướt nhẹ tay trên dàn máy Harmon Cardon dính đầy bụi.

    "Đắt hơn cả chiếc xe hơi đầu tiên của anh", Rhyme nói. "Anh không dùng nó nữa."

    "Sao lại không?"

    Anh không trả lời mà nói: "Em cho đĩa gì đó vào đi. Điện còn cắm không? Thế à? Tốt. Em chọn nhạc đi."

    Một khắc sau, cô bước ra khỏi tủ và đi lại ghế sofa khi Levi Stabbs 5 và Four Tops 6 bắt đầu hát về tình yêu.

    Phải đến một năm rồi mới lại có âm nhạc vang lên trong nhà, Rhyme nghĩ. Anh im lặng, cố gắng trả lời câu hỏi của Sachs vì sao anh lại ngừng nghe nhạc. Nhưng anh không thể.

    Sachs dọn tài liệu và sách ra khỏi ghế. Nằm lên đó và lần giở cuốn Hiện trường vụ án.

    "Tặng em một cuốn được không?" Cô hỏi.

    "Em cứ lấy mười cuốn."

    "Anh sẽ...", giọng cô chợt ngừng lại.

    "Ký sách cho em?" Anh cười. Cô cười với anh. "Anh điểm chỉ, được không? Các nhà phân tích nét chữ không bao giờ cho em xác suất trùng lặp nét chữ quá tám mươi phần trăm. Nhưng còn dấu tay? Bất kỳ chuyên gia dấu vân tay nào cũng có thể khẳng định đó là dấu tay của anh."

    Anh nhìn cô đọc chương một. Mắt cô rũ xuống. Cô gập sách.

    "Anh làm cho em một việc, được không?" Cô hỏi.

    "Việc gì?"

    "Đọc cho em nghe..."

    "Đọc cho em nghe. Thứ gì đó trong sách. Khi Nick và em còn bên nhau...", giọng cô nhạt dần.

    "Sao cơ?"

    "Khi Nick và em còn ở bên nhau, nhiều lần Nick đọc cho em nghe trước khi bọn em ngủ. Bất cứ thứ gì: sách, báo, tạp chí... Một trong những thứ em nhớ nhất."

    "Anh đọc rất dở", Rhyme thú nhận. "Anh đọc như thể anh đang trích dẫn báo cáo khám nghiệm hiện trường. Nhưng anh có trí nhớ... khá là tốt. Để anh kể em nghe về vài hiện trường vụ án, được không?"

    "Thật không?" Cô nằm ngửa, cởi chiếc áo khoác màu xanh hải quân và tháo cái áo giáp chống đạn hiệu American Body Armor, vứt nó sang một bên. Phía trong cô mặc một chiếc áo phông nhàu nát và dưới đó là áo lót ngực thể thao. Cô lại mặc chiếc áo khoác rồi nằm lên ghế, kéo chăn. Xoay người sang bên rồi nhắm mắt.

    Rhyme giảm ánh sáng bằng điều khiển từ xa.

    "Anh luôn thấy ngạc nhiên với hiện trường chết chóc", anh bắt đầu. "Chúng giống như những đền thờ. Chúng ta luôn quan tâm đến nơi chôn cất người chết hơn là nơi họ được sinh ra. Ví dụ như John Kennedy. Mỗi ngày có hàng nghìn người đến thăm kho sách Texas ở Dallas. Em nghĩ có bao nhiêu người hành hương đến một phòng sản phụ ở Boston?"

    Rhyme ngả đầu vào chiếc gối mềm mại quý phái "Anh có làm em chán không?"

    "Không", cô nói. "Làm ơn đừng dừng lại."

    "Em có biết điều làm anh luôn băn khoăn là gì không, Sachs?"

    "Nói cho em biết đi"

    "Điều đó làm anh ngạc nhiên nhiều năm rồi - Tinh thần Hiệp sĩ. Hai nghìn năm trước. Còn bây giờ, có một hiện trường vụ án mà anh thích khám nghiệm. Anh biết em sẽ nói: Nhưng chúng ta biết bọn tội phạm rồi cơ mà. Có phải như vậy không? Điều mà chúng ta thực sự biết được là những gì nhân chứng nói với chúng ta. Em có nhớ là anh đã nói - đừng bao giờ tin nhân chứng. Có thể những câu chuyện trong Kinh thánh là không hề có thực. Bằng chứng đâu? Phải là chứng cứ vật lý. Móng tay, máu, mồ hôi, ngọn giáo, chữ thập, giấm ăn. Dấu dép và dấu vân tay."

    Rhyme hơi nghiêng đầu sang trái và tiếp tục kể chuyện về những hiện trường vụ án và chứng cứ cho tới khi ngực Sachs phập phồng đều đặn, hơi thở của cô làm những sợi tóc đỏ nhẹ nhàng bay. Ngón tay anh lần tìm nút tắt đèn trên bộ điều khiển ESU, và rồi anh cũng nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.

    Ánh sáng mờ mờ của buổi bình minh xuất hiện trên bầu trời.

    Hoàn toàn tỉnh táo, Carole Ganz có thể nhìn thấy lớp kính lõi lưỡi thép bên trên đầu cô. Pammy, con yêu... Rồi cô nghĩ tới Ron. Và tất cả tài sản của cô còn đang ở trong cái tầng hầm kinh khủng ấy. Tiền bạc, chiếc ba lô màu vàng...

    Cô nghĩ tới Pammy.

    Có thứ gì đó làm cho cô gián đoạn giấc ngủ chập chờn, bất ổn. Gì vậy nhỉ?

    Cơn đau ở cổ tay? Nó giật giật khủng khiếp. Cô xoay người một chút. Cô...

    Tiếng rống khó chịu của đàn organ và giọng hát của dàn đồng ca lại ngập tràn trong phòng.

    Đó là thứ đã đánh thức cô. Âm nhạc. Làn sóng âm nhạc ập tới. Nhà thờ không bị bỏ hoang. Có người ở đây. Cô mỉm cười. Có ai đó sẽ...

    Điều này nhắc cô nhớ tới quả bom.

    Carole nhìn qua khe tủ hồ sơ. Nó vẫn còn đó, bập bềnh ngoài cạnh bàn. Nó mang hình dáng thô thiển của một quả bom thật sự và một thứ vũ khí giết người - không giống những dụng cụ sáng bóng, dễ thương mà ta vẫn thấy trên phim ảnh. Băng dính quấn xộc xệch, dây dẫn bị bóc vỏ nham nhở, xăng vẩn đục... có thể chỉ là bom xịt, cô nghĩ. Trong ánh sáng ban ngày, trông nó không có vẻ nguy hiểm lắm.

    Âm nhạc lại vang lên. Nó vang lên ngay trên đầu cô. Kèm theo tiếng lê chân. Cửa đóng lại. Sàn nhà gỗ kêu kẽo kẹt khi mọi người đi lại. Bụi bay ra từ rầm nhà.

    Giọng hát đang vang lên nửa câu bỗng ngừng lại. Một giây lát sau, họ lại bắt đầu hát.

    Carole đạp chân, nhưng ở đây nền nhà bằng bê tông, tường gạch. Cô cố hét lên nhưng âm thanh bị miếng băng dính dán miệng nuốt chửng. Buổi diễn tập vẫn tiếp tục, tiếng nhạc nghiêm trang, đầy sinh lực lan xuống tận tầng hầm.

    Sau mười phút, Carole kiệt sức ngã vật xuống sàn. Mắt cô lại nhìn về phía quả bom. Lúc này đã sáng hơn và cô có thể nhìn thấy cái đồng hồ hẹn giờ.

    Carole nhăn mặt. Cái đồng hồ hẹn giờ!

    Đó không phải là một quả bom thối. Kim định giờ đặt ở mức 6:15. Kim đồng hồ lúc này chỉ 5:30.

    Bò xa hơn ra phía sau tủ hồ sơ, Carole lấy đầu gối đập vào thành tủ kim loại. Nhưng bất kỳ tiếng động yếu ớt nào phát ra đều ngay tức khắc bị tan biến trong tiếng rền vang của bài hát Sweet Low, Sweet Chariot từ trên cao vọng xuống, đang ngập tràn tầng nhà thờ.

    --------------------------------
    1 ICC (viết tắt của International Criminal Court): Tòa án Hình sự Quốc tế, một tòa án xử tội phạm chiến tranh, tội phạm chống nhân loại và diệt chủng.
    2 Hộp đêm S&M: Hộp đêm ở đó có các trò bạo dâm và khổ dâm.
    3 BMW: Một thương hiệu xe nổi tiếng của Đức.
    4 Nguyên văn: Tower Records: Chuỗi cửa hàng bán băng đĩa.
    5 Levi Stabbs (tên thật là Levi Stubbles): Sinh năm 1936, một ca sĩ người Mỹ, được biết tới như ca sĩ chính của nhóm nhạc R&B The Four Tops nổi tiếng của Motown.
    6 Four Tops: Nhóm tứ tấu vocal Mỹ, hát các thể loại doo-wop, jazz, nhạc soul, R&B, disco, nhạc hiện đại và nhạc trình diễn.

  8. #27
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    IV

    ĐẾN TẬN XƯƠNG

    Các vị thần chỉ chối từ một thứ: quyền năng thay đổi quá khứ.

    ARISTOTLE



    HAI MƯƠI BẲY

    5:45 AM Chủ nhật đến 7:00 PM thứ Hai

    Mùi hương làm anh tỉnh giấc. Như mọi khi.

    Và - cũng giống như rất nhiều buổi sáng - anh không vội vàng mở mắt mà giữ nguyên vị trí nửa nằm, nửa ngồi của mình, cố gắng suy đoán xem mùi hương không quen thuộc đó là gì.

    Mùi không khí buổi bình minh? Giọt sương trên những con phố bóng như dầu? Mùi vữa ẩm? Anh cố gắng phân biệt mùi hương của Amelia Sachs nhưng thấy rằng mình không thể.

    Ý nghĩ của anh bỏ qua cô và tiếp tục. Mùi gì thế nhỉ?

    Chất tẩy rửa? Không phải.

    Một thứ hóa chất từ phòng thí nghiệm ngẫu hứng của Cooper?

    Không, anh nhận ra được tất cả những thứ mùi đó.

    Đó là... à, đúng rồi... mùi bút viết bảng.

    Đến lúc này anh đã có thể mở mắt - sau khi liếc nhìn Sachs vẫn đang ngủ để chắc chắn là cô chưa bỏ đi - và thấy mình đang nhìn vào tấm áp phích Monet treo trên tường. Mùi tỏa ra từ đó. Không khí nóng bức, ẩm thấp của buổi sáng tháng tám này đã làm giấy khô đi và mùi xuất phát từ đó.





    - Hiểu biết quy trình khám nghiệm hiện trường

    - Có thể có tiền án

    - Hiểu biết về dấu vân tay

    - Súng = Colt .32

    - Trói nạn nhân bằng nút thắt khác thường

    - "Cổ xưa" hấp dẫn hắn

    - Gọi một nạn nhân là "Hanna"

    - Biết tiếng Đức cơ bản

    - Thích những chỗ dưới lòng đất

    Những con số nhợt nhạt trên đồng hồ chỉ 5:45. Ánh mắt anh quay lại chỗ tấm áp phích. Anh không thể nhìn thấy rõ ràng, chỉ thấy những hoa văn xám trên nền trắng tuyệt đối. Nhưng ánh sáng nhợt nhạt của bầu trời buổi sáng cũng đủ để đọc được phần lớn các từ.

    - Đa nhân cách

    - Có thể là thầy tu, nhân viên hoạt động xã hội, luật sư

    - Giày mòn kiểu khác thường, đọc nhiều?

    - Lắng nghe khi bẻ gãy ngón tay nạn nhân

    - Bỏ lại con rắn để chế giễu cuộc điều tra

    Những con chim ưng đã tỉnh giấc. Anh cảm thấy những tiếng đập cánh run rẩy bên ngoài. Ánh mắt Rhyme quay lại với tấm áp phích. Trong văn phòng của anh ở IRD, anh treo khoảng một tá bảng trắng và trên đó anh ghi lại những đặc tính quan trọng nhất của nghi phạm trong những vụ án lớn. Anh nhớ lại: đi lại, ngắm nghía, suy nghĩ về những người mà họ mô tả.

    Những phân tử sơn, bùn, phấn hoa, lá cây...

    - Tòa nhà cũ, đá cẩm thạch hồng.

    Nghĩ tới tên trộm đá quý gian xảo mà anh và Lon tóm mười năm trước. Tại Central Booking, tên trộm rụt rè nói họ sẽ không bao giờ tìm được những thứ hắn lấy từ những vụ trước đó, nhưng nếu họ xem xét lệnh ân xá, hắn sẽ nói cho họ biết hắn giấu ở đâu. Rhyme trả lời: " Được rồi, bọn tao có một chút rắc rối khi tìm xem chúng ở đâu."

    "Chắc chắn rồi", tên trộm nói.

    "Xem này", Rhyme nói. "bọn tao đã biết tới bức tường đá trong phòng đựng than của một ngôi nhà nông thôn kiểu thuộc địa trên sông Connecticut. Cách Long Island Sound khoảng năm dặm về phía bắc. Tao chỉ chưa biết là ngôi nhà này ở bờ phía đông hay bờ phía tây của dòng sông mà thôi".

    Khi câu chuyện lan ra ngoài, câu nói mà mọi người dùng để mô tả nét mặt của tên trộm lúc đó là: mẹ kiếp, chắc chắn là mày phải đến đấy rồi chứ.

    Có thể đấy chính là phép thuật, Sachs ạ. Anh nghĩ.

    - Ít nhất một trăm năm tuổi, có thể là một biệt thự hay cơ quan

    Anh nhìn lướt tấm áp phích một lần nữa rồi nhắm mắt, ngả đầu xuống chiếc gối tuyệt vời của mình. Đúng lúc đó anh cảm thấy choáng váng. Giống như có ai đó tát vào mặt mình. Cơn sốc lan lên đầu anh như lửa cháy. Mắt mở to, nhìn chằm chằm vào tấm áp phích.

    - "Cổ xưa" hấp dẫn hắn

    "Sachs!" Anh la lên. "Dậy ngay!"

    Cô giật mình và ngồi dậy. "Cái gì? Gì thế...?"

    Cổ xưa, cổ xưa, cổ xưa...

    "Anh sai mất rồi", anh nói cộc lốc. "Có vấn đề rồi."

    Đầu tiên cô nghĩ đó là vấn đề sức khỏe, vì thế cô nhảy khỏi ghế, vớ lấy túi cứu thương của Thom.

    "Không, manh mối cơ, Sachs, manh mối... Anh hiểu sai." Hơi thở của anh gấp gáp, anh nghiến răng trong lúc suy nghĩ.

    Cô mặc quần áo, ngồi thẳng dậy, những ngón tay cô tự động đưa lên gãi đầu. "Gì vậy, Rhyme? Điều gì vậy?"

    "Nhà thờ. Có thể nó không phải ở Harlem." Anh nhắc lại. "Anh sai rồi."

    Giống như với thủ phạm giết gia đình Colin Stanton. Trong ngành hình sự học, ta có thể xác định chính xác hàng trăm manh mối, nhưng manh mối mà ta bỏ qua lại khiến cho người ta mất mạng.

    "Mấy giờ rồi?" Cô hỏi.

    "Hơn sáu giờ kém mười lăm một chút. Lấy tờ báo đi. Lịch biểu lễ nhà thờ."

    Sachs tìm thấy tờ báo, lướt qua. Sau đó cô ngẩng lên. "Anh nghĩ gì vậy?"

    "823 đam mê những thứ cổ xưa. Nếu hắn muốn một nhà thờ cổ của người da đen thì có thể ý hắn không phải là khu phố trên. Philip Payton thành lập công ty bất động sản Mỹ-Phi tại Harlem năm 1900. Còn có hai khu người da đen nữa trong thành phố. Khu trung tâm, chỗ tòa án hiện nay và San Juan Hill. Ở đây chủ yếu là người da trắng... Ôi quỷ thật, anh đang nghĩ gì vậy nhỉ?"

    "San Juan Hill ở đâu?"

    "Phía bắc Hell's Kitchen. West side. Nó được đặt tên để tôn vinh tất cả những người lính da đen đã chiến đấu trong cuộc chiến Mỹ - Tây ban nha."

    Cô đọc lướt qua tờ báo.

    "Các nhà thờ trong khu trung tâm", cô nói. "Nếu ở khu Battery Park thì ở đó có viện Seamen. Có một nhà thờ tại đây, họ có làm lễ. Chúa ba ngôi. Thánh Paul."

    "Đó không phải khu của người da đen. Xa hơn nữa về phía bắc và phía đông."

    "Nhà thờ Trưởng lão trong khu Chinatown."

    "Có nhà thờ Tin lành hay Phúc âm nào khồng?"

    "Không, không có gì ở khu này. Đây... ôi, quỷ thật." Ánh mắt cam chịu, cô thở dài. "Ôi, không."

    Rhyme hiểu ra. "Lễ chào mặt trời."

    Cô gật đầu: "Tín lành bánh thánh... Không, Rhyme có một lễ hát thánh ca bắt đầu lúc sáu giờ sáng. Đại lộ năm mươi chin và Mười một."

    "Đó là San Juan Hill! Gọi cho họ đi!"

    Cô vơ lấy điện thoại và quay số. Cô đứng cúi đầu, nhíu mày trong lúc lắc đầu. "Trả lời đi, trả lời đi... Quỷ thật. Máy ghi âm. Mục sư chắc đã rời khỏi văn phòng." Cô nói vào ống nghe. "Đây là NYPD. Chúng tôi có lý do để tin rằng trong nhà thờ của ngài có bom. Hãy sơ tán càng nhanh càng tốt." Cô dập máy, rồi đi giày.

    "Đi đi, Sachs. Em phải tới đó ngay. Ngay bây giờ."

    "Em?"

    "Chúng ta ở gần đó hơn đồn gần nhất. Sau mười phút là em tới đó rồi."

    Cô chạy ra cửa, vừa chạy vừa đeo thắt lưng thiết bị vào eo.

    "Anh sẽ gọi điện cho đồn." Anh nói với theo khi cô nhảy xuống cầu thang, tóc như một đám mây đỏ quấn quanh đầu. "Sachs này, nếu em muốn lái xe thật nhanh thì bây giờ là lúc đấy."

    Chiếc xe RRV trượt bánh trên Phố Tám mươi mốt, lao nhanh về phía tây.

    Sachs lao đến ngã tư ở Broadway, trượt bánh và va phải chiếc máy bán báo Bưu điện New York, hất nó bắn qua cửa sổ hiệu Zabar trước khi cô điều khiển được chiếc xe. Cô nhớ tới tất cả các loại thiết bị khám nghiệm hiện trường vụ án chở phía sau. Một chiếc xe nặng mông, cô nghĩ; không được quặt khi đang chạy với tốc độ năm mươi.

    Sau đó chạy dọc Broadway. Phanh lại ở ngã tư. Nhìn phải, nhìn trái. Không có gì. Nhấn ga!

    Cô thoát ra Đại lộ Chín tại trung tâm Lincoln và sau đó chạy xuống phía nam. Mình chỉ...

    Quỷ tha ma bắt!

    Lốp xe rít lên khi bị phanh gấp.

    Phố bị cấm.

    Một dãy rào cản chặn Đại lộ Chín để chuẩn bị cho hội chợ đường phố buổi sáng nay. Một khẩu hiệu viết Đồ thủ công mỹ nghệ của tất cả các dân tộc. Tay trong tay, chúng ta là một.

    Ôi trời... quỷ tha ma bắt Liên Hiệp Quốc. Cô lùi lại một nửa khối nhà và tăng tốc độ lên năm mươi trước khi lao vào dây rào chắn đầu tiên. Rẽ tung những chiếc bàn gấp bằng nhôm và giá bày hàng gỗ, cô rẽ một đường qua hội chợ không người. Sau hai khối nhà, chiếc xe lao qua rào cản phía nam và cô rẽ về hướng tây sang Phố Năm mươi chín, lao lên vỉa hè một đoạn nhiều hơn cô muốn.

    Có một nhà thờ cách đó khoảng một trăm thước.

    Giáo dân đứng trên bậc cầu thang - cha mẹ, một cô bé con mặc bộ váy diềm màu trắng hồng, những cậu bé mặc vét tối màu và áo trắng, tóc nhuộm bạc hay tạo thành những núm lạ mắt.

    Từ dưới cửa sổ đường hầm, một đám khói xám nhỏ đang bốc lên.

    Cô đạp cần ga chạm sàn, động cơ gầm rú.

    Vớ lấy máy bộ đàm. "RRV Hai gọi trung tâm, nghe rõ?"

    Đúng lúc cô nhìn xuống chiếc bộ đàm Motorola để xem âm thanh đã được vặn lên hết cỡ hay chưa, một chiếc Mercedes lớn lao ra khỏi ngõ, đúng đường đi của cô.

    Một cái liếc nhìn rất nhanh gia đình đang ngồi trong xe, mọi người mắt mở to vì sợ hãi khi người cha đạp phanh.

    Sachs theo bản năng đánh mạnh tay lái sang trái, đưa chiếc xe sang trạng thái trượt có điều khiển. Nào, nào, cô van xin những cái lốp xe... bám vào, bám vào, bám vào! Nhưng mặt đường nhựa trơn trượt đã bị mềm đi dưới sức nóng của mấy ngày qua và bị phủ sương. Chiếc xe trôi trên đường như đi tàu cánh ngầm.

    Đuôi xe va mạnh vào đầu chiếc Mercedes với tốc độ năm mươi dặm một giờ. Sau một tiếng động lớn, chiếc 560 cắt đứt sườn bên trái của chiếc xe thùng. Những chiếc va li khám nghiệm hiện trường bay lên không, mở tung và đổ những thứ bên trong ra phố. Những người đi nhà thờ cúi xuống tránh mảnh kính vỡ, nhựa và kim loại.

    Túi khí tung ra và phồng lên làm Sachs giật mình. Cô lấy tay che mặt khi chiếc xe thùng nhảy tung qua một dãy xe hơi, qua một cửa hiệu báo và trượt trên đường cho tới khi dừng hẳn, lộn ngược. Báo và túi đựng vật chứng trên mặt đất như những người lính dù tí hon.

    Bị dây an toàn treo lộn ngược, tóc che kín mắt, Sachs gạt máu chảy ra từ vết thương trên trán và môi, cố gắng mở khóa. Nó chặt cứng. Xăng nóng chảy vào xe và chảy theo tay cô buồn buồn. Cô rút con dao gấp ở túi sau, mở ra và cắt dây an toàn. Chút nữa bị rơi vào con dao, cô nằm đó, thở hổn hển, ngạt vì khói xăng.

    Nào cô bé, ra thôi. Ra nào!

    Cửa xe bị kẹt, phía sau của chiếc xe thùng đã bị bẹp nên cũng không có đường thoát. Sachs bắt đầu đạp cửa sổ. Kính không vỡ. Cô co chân đạp thật mạnh vào lớp kính chắn gió đã bị nứt. Không ảnh hưởng gì, ngoại trừ việc cô suýt bong gân chân.

    Súng!

    Cô sờ vào hông; khẩu súng đã rơi khỏi bao và lăn lóc đâu đó trong xe. Cảm thấy làn mưa xăng nóng bỏng trên tay và trên vai, cô tìm kiếm điên cuồng trong đám giấy và thiết bị khám nghiệm hiện trường vương vãi trên nóc xe.

    Sau đó cô nhìn thấy khẩu Glock nặng nề của mình gần cái chao đèn. Cô phủi nó và nhắm vào cửa bên.

    Làm đi. Bên ngoài thoáng, vẫn chưa có ai đến xem.

    Sau đó cô ngần ngừ. Liệu lửa nòng có làm xăng bắt cháy không?

    Cô giữ khẩu súng cách xa bộ đồng phục thấm xăng của cô hết mức có thể, suy nghĩ. Rồi bấm cò.

  9. #28
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HAI MƯƠI TÁM

    Năm phát, theo hình sao. Mặc dù vậy kính của chiếc General Motors vẫn y nguyên.

    Ba phát nữa, nổ inh tai trong không gian chật hẹp của chiếc xe thùng. Nhưng kính vẫn không vỡ.

    Cô tiếp tục đạp. Cuối cùng cánh cửa sổ bung ra bên ngoài thành một dòng thác những viên băng nhỏ màu xanh. Đúng lúc cô vừa lăn ra ngoài, nội thất của chiếc xe thùng nổ.

    Cởi hết áo chỉ để lại áo phông, cô ném áo khoác và áo chống đạn ngấm xăng, ném tai nghe có mic sang bên cạnh. Cảm thấy mắt cá lung lay nhưng cô vẫn lao về cửa chính của nhà thờ, chạy qua những người đi lễ và dàn đồng ca đang chạy trốn. Tầng trệt đầy khói. Gần đó, một phần của nền nhà bị gợn sóng, nóng lên và bùng cháy.

    Bất ngờ vị mục sư xuất hiện, bị ngạt khói, nước mắt ròng ròng. Ông ta kéo theo một người phụ nữ bất tỉnh. Sachs giúp ông ta đưa người phụ nữ ra cửa.

    "Tầng hầm ở đâu?" Cô hỏi.

    Ông ta ho dữ dội, lắc đầu.

    "Ở đâu?" Cô quát lên, nghĩ tới Carole Ganz và đứa con nhỏ của cô. "Tầng hầm?"

    "Đằng kia, nhưng..."

    Phía bên kia nền nhà đang bốc cháy.

    Sachs gần như không nhìn thấy nó, khói quá dày. Một bức tường đổ xuống trước mặt họ, những cái rầm và cột nhà cũ đằng sau nó kêu lách tách, phun ra những tia lửa và những luồng khí nóng vào căn phòng mù mịt khói. Cô ngần ngại một chút, rồi bắt đầu đến cửa tầng hầm.

    Mục sư nắm tay cô. "Đợi đã." Ông ta mở kho và lấy một bình cứu hỏa, giật khóa bảo vệ . "Đi thôi."

    Sachs lắc đầu. "Ông không phải đi. Ông cứ kiểm soát khu vực này. Nói với lính cứu hỏa là có một sĩ quan cảnh sát và một nạn nhân khác đang ở dưới tầng hầm."

    Lúc này thì Sachs đang tăng tốc.

    Khi ta di chuyển...

    Cô nhảy qua lỗ thủng lớn trên nền nhà. Nhưng khói làm cho cô đánh giá sai khoảng cách tới bức tường, nó gần hơn cô tưởng nên cô va phải bức vách gỗ và ngã ra sau, lăn tròn khi tóc cô quét qua ngọn lửa, một vài lọn tóc bắt lửa. Nôn khan vì hít phải mùi, cô dập lửa và cố gắng đứng lên. Nền nhà, đã bị ngọn lửa phía dưới làm yếu đi, vỡ ra dưới chân làm cô ngã đập mặt xuống nền gỗ sồi. Cô cảm thấy lưỡi lửa dưới tầng hầm đang liếm cánh tay và cổ tay mình khi cô giật tay về.

    Lăn ra khỏi rìa lỗ thủng, cô đứng dậy và với tay đến cái nắm tay của cửa xuống tầng hầm. Bất ngờ cô dừng lại.

    Này cô bé, nghĩ cho kỹ vào! Hãy cảm nhận cánh cửa trước khi mở. Nếu bên trong quá nóng và mày lại để oxy lọt vào trong căn phòng siêu nóng, nó sẽ bùng nổ và hơi phản hồi sẽ thiêu cháy mày ngay. Cô chạm vào gỗ. Nóng như thiêu.

    Sau đó cô nghĩ: thế mình có thể làm được gì khác nào?

    Nhổ nước bọt vào tay, cô nắm rất nhanh cái tay nắm cửa, xoay cho nó mở và thả tay ra trước khi bàn tay kịp bị bỏng.

    Cánh cửa mở tung, một đám mây khói và tia lửa cuồn cuộn trào ra.

    "Có ai trong đó không?" Cô gọi và bắt đầu đi xuống.

    Những bậc thang dưới cùng đang cháy. Cô phun một lượt carbon dioxide rồi nhảy xuống tầng hầm ẩm mốc. Cô đạp gãy bậc thang gần cuối cùng, chúi người về phía trước. Bình cứu hỏa rơi loảng xoảng xuống nền nhà khi cô nắm vội lấy tay vịn cầu thang, vừa đúng lúc không để chân bị gãy.

    Kéo mình ra khỏi bậc thang gãy, Sachs liếc nhìn qua làn khói mịt mù. Dưới này khói không đến nỗi quá tệ - nó bay lên trời cao - nhưng còn lửa thì lại bốc cháy quanh cô.

    Bình cứu hỏa lăn xuống dưới cái bàn đang cháy. Quên nó đi! Cô chạy qua đám khói.

    "Có ai không?" Cô la lớn.

    Không ai trả lời.

    Sau đó cô nhớ ra thủ phạm 823 thường dùng băng dính; hắn thích những nạn nhân câm lặng.

    Cô đá tung một cánh cửa nhỏ và ngó vào trong phòng nồi hơi. Có một cánh cửa dẫn ra ngoài nhưng rác thải cháy đã chặn nó lại. Phía trong là một bình nhiên liệu, lúc này đang bị ngọn lửa bao vây.

    Nó sẽ không nổ, Sachs nhớ lại bài học từ học viện - bài giảng về hỏa hoạn. Dầu nhiên liệu không nổ. Đá rác rưởi sang một bên và đẩy cửa mở ra. Dọn đường rút lui cho mình. Sau đó mới đi tìm người phụ nữ và đứa bé.

    Cô chần chừ, nhìn những lưỡi lửa đang liếm quanh thùng dầu nhiên liệu.

    Nó sẽ không nổ, nó sẽ không nổ đâu.

    Cô bắt đầu tiến lên phía trước, lần bước ra cửa.

    Nó sẽ không...

    Thùng nhiên liệu bất thình lình nổ bục như một lon soda và nứt đôi ở đoạn giữa. Dầu phụt lên không trung, bùng cháy thành một đám bọt màu cam khổng lồ. Một bể lửa đang thành hình trên nền nhà và chảy về phía Sachs.

    Nó không nổ. Được rồi. Nhưng lại cháy không tệ chút nào. Cô nhảy lùi qua cửa, đóng sập nó lại. Đường rút lui của cô thế là hết.

    Đi giật lùi về phía cầu thang, ho sặc sụa, người cúi thấp, cố gắng tìm kiếm bất kỳ một dấu vết nào của Carole Ganz và Pammy. Liệu 823 có thay đổi quy luật hay không? Liệu hắn ta có bỏ qua tầng hầm và đưa những nạn nhân này lên tầng gác mái của nhà thờ hay không?

    Rắc ...

    Cô ngẩng đầu lên nhìn rất nhanh. Một thanh rầm gỗ sồi, bốc lửa đùng đùng bắt đầu rơi xuống.

    Sachs nhảy sang một bên với tiếng thét lớn nhưng bị vấp rồi ngã ngửa, nhìn lên một thanh gỗ khổng lồ đang lao thẳng xuống mặt và ngực cô. Cô giơ hai tay lên đỡ theo bản năng.

    Một tiếng động ầm ĩ phát ra khi thanh gỗ hạ cánh trúng chiếc ghế học sinh trường Chủ nhật. Nó dừng lại cách đầu cô chỉ vài inch. Cô bò ra và đứng lên.

    Nhìn quanh phòng, nhìn xuyên qua lớp khói đang đen dần.

    Quỷ thật. Không, mình sẽ không đánh mất thêm một nạn nhân nào nữa. Sặc sụa, Sachs quay lại chỗ đống lửa và lần bước tới góc phòng mà cô chưa kiểm tra.

    Lúc cô đang chạy tới trước, một cẳng chân thò ra từ phía sau tủ hồ sơ ngáng ngã cô.

    Tay bay tới trước, Sachs sấp mặt tiếp đất, chỉ cách bể dầu cháy vài cm. Cô lăn nghiêng, rút súng và chĩa nó vào khuôn mặt hoảng loạn của một người phụ nữ tóc vàng đang cố gắng ngồi dậy.

    Sachs gỡ băng dính ra khỏi miệng cô ta và người phụ nữ nhổ ra một bãi nước nhầy màu đen. Cô ta nôn khan một lúc, phát ra những âm thanh trầm, chết chóc.

    "Carole Ganz?"

    Cô ta gật đầu.

    "Con gái chị đâu?" Sachs la lớn.

    "Không có... ở đây. Tay tôi! Cái còng."

    "Không còn thời gian đâu. Đi nào." Sachs lấy dao cắt dây, giải phóng mắt cá chân cho Carole.

    Sau đó cô nhìn thấy một chiếc túi nhựa đang nóng chảy đối diện với bức tường gần cửa sổ.

    Manh mối để lại! Những manh mối nói cho ta biết đứa bé gái đang ở đâu. Cô bước lại chỗ nó. Nhưng với một tiếng nổ inh tai, phòng nồi hơi đứt làm đôi, phun ra một làn sóng cao sáu inch dầu sôi lên sàn nhà, bao vây chiếc túi. Nó tan biến tức khắc.

    Sachs nhìn nó trong giây lát rồi cô nghe thấy tiếng thét của người phụ nữ. Cả cầu thang lúc này đang cháy. Sachs đá bình cứu hỏa ra khỏi gầm cái bàn đang âm ỉ cháy. Cái tay cầm và vòi phun đã nóng chảy, không thể cầm vỏ bình kim loại vì quá nóng. Cô dùng dao cắt một mảnh áo khoác đồng phục và nắm cổ chiếc bình cứu hỏa nóng rẫy ném lên trên những bậc cầu thang đang bốc cháy. Nó dừng lại trong một khắc, giống như một con ky sau đó rơi xuống dưới.

    Sachs rút khẩu Glock và khi cái trục đỏ lăn được nửa đường, cô bắn hết một băng.

    Chiếc bình cứu hỏa nổ tung; những mảnh vỏ vỡ bay qua đầu họ. Một đám mây hình nấm carbon dioxide và bột xuất hiện trên cầu thang, ngay lập tức dập tắt phần lớn ngọn lửa.

    "Đi thôi!" Sachs la lớn.

    Họ cùng nhau nhảy ra hai bậc cầu thang một, Sachs mang trọng lượng của cả người cô và một nửa của người phụ nữ, cùng nhau lao qua cửa vào hỏa ngục của tầng trệt. Họ bám vào tường lần mò bước ra cửa, trong khi đó phía trên họ, những cánh cửa sổ kính màu vỡ tan tạo ra một cơn mưa mảnh vụn nóng bỏng - thân hình nhiều màu sắc của Jesus và Mathew, Mary và Chúa trời - xuống hai tấm lưng cúi gập của hai người phụ nữ đang trốn chạy.


  10. #29
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HAI MƯƠI CHÍN

    Bốn mươi phút sau, Sachs đã được xoa thuốc, băng bó, khâu và thở nhiều oxy nguyên chất đến mức cô có cảm giác mình đang say thuốc. Cô ngồi bên cạnh Carole Ganz. Họ đang nhìn những gì còn lại của nhà thờ. Thực ra chẳng còn lại gì ở đó. Chỉ là hai bức tường, thật lạ kỳ là một phần của tầng ba, vươn lên không gian phía bên trên đống tro tàn và mảnh vỡ trong tầng hầm, quang cảnh giống như trên mặt trăng.

    "Pammy, Pammy..." Carole rên rỉ, sau đó nôn khan rồi nhổ. Cô ta cầm chiếc mặt nạ oxy của mình đưa lên mặt, ngửa người ra sau, mệt mỏi và đau đớn.

    Sachs xem xét miếng giẻ tẩm cồn mà cô đang lau máu trên mặt. Đầu tiên chúng có màu nâu còn bây giờ bắt đầu chuyển sang màu hồng. Những vết thương không thực sự nghiêm trọng - một vết cắt trên trán, những vết bỏng độ hai trên cánh tay và cẳng tay. Môi cô không còn hoàn mỹ nữa, môi dưới đã bị cắt rất sâu trong vụ đâm xe, vết rách phải khâu ba mũi.

    Carole bị ngạt khói và gãy cổ tay. Một cái nẹp tạm thời bọc lấy cổ tay trái của cô ta, cô ta nâng nó, đầu cúi xuống, nói qua hàm răng nghiến chặt. Mỗi hơi thở là một tiếng khò khè đầy đe dọa. "Thằng khốn ấy." Ho. "Vì sao... lại là Pammy? Vì sao vậy? Một đứa trẻ ba tuổi!" Cô ta gạt những giọt nước mắt giận dữ bằng mu bàn tay không bị thương.

    `"Có thể hắn ta không muốn làm hại con bé. Cho nên hắn chỉ đưa một mình cô đến nhà thờ."

    "Không", cô ta giận dữ quát. "Hắn không quan tâm đến nó. Hắn là đồ bệnh hoạn! Tôi nhìn thấy cách hắn ta nhìn con bé. Tôi sẽ giết hắn. Tôi sẽ giết chết hắn." Ngôn từ ác nghiệt biến cơn ho thành ác nghiệt hơn.

    Sachs nhăn mặt vì đau. Cô lại vô thức chọc móng tay vào đầu ngón tay bỏng rát. Cô lấy cuốn nhật ký tuần tra. "Chị có thể kể lại cho tôi những gì xảy ra, được không?"

    Giữa những cơn ho sâu trong họng và tiếng nức nở, Carole kể lại cho cô câu chuyện về vụ bắt cóc.

    "Chị có muốn tôi gọi điện cho ai đó không?" Sachs hỏi. "Chồng chị chẳng hạn."

    Carole không trả lời. Cô ta kéo đầu gối lên tới cằm, tự ôm lấy mình, khò khè một cách nặng nhọc.

    Bằng cánh tay phải bị bỏng, Sachs bóp chặt bắp tay người phụ nữ và nhắc lại câu hỏi.

    "Chồng tôi...", cô ta nhìn Sachs với cái nhìn khủng khiếp. "Chồng tôi chết rồi."

    "Ồ, tôi xin lỗi."

    Thuốc an thần làm Carole cảm thấy lảo đảo, một nữ nhân viên y tế đưa cô vào nghỉ trong xe cứu thương.

    Sachs nhìn lên, thấy Lon Sellitto và Jerry Banks đang chạy lại phía cô từ nhà thờ cháy trụi.

    "Lạy chúa, sĩ quan." Sellitto đang khảo sát cảnh thương vong trên phố. "Bé gái sao rồi?"

    Sachs gật đầu: "Hắn ta vẫn giữ con bé."

    Banks nói : "Cô ổn chứ?"

    "Không có gì nghiêm trọng." Sachs nhìn về phía chiếc xe cấp cứu. "Nạn nhân, Carole, cô ta không còn tiền, không có chỗ nghỉ ngơi. Cô ta đến đây để làm việc cho Liên Hiệp Quốc. Tôi nghĩ anh có thể gọi vài cú điện thoại, được không thám tử? Để xem họ có bố trí được gì cho cô ta một thời gian không?"

    "Tất nhiên rồi", Sellitto nói.

    "Có để lại manh mối gì không?" Banks hỏi. Anh ta nhăn mặt khi chạm phải dải băng trên lông mày phải của mình.

    "Mất rồi", Sachs nói. "Tôi có nhìn thấy chúng. Ở dưới tầng hầm. Không lấy được chúng đúng lúc. Cháy và bị lấp mất tiêu rồi."

    "Ôi, trời." Banks lẩm bẩm. "Chuyện gì sẽ xảy ra với đứa bé đây?"

    Anh ta nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra với đứa bé?

    Cô đi lại chỗ chiếc xe thùng IRD và tìm thấy cái tai nghe. Cô đeo nó vào và đã định yêu cầu gọi cho Rhyme nhưng sau đó chần chừ rồi ngắt mic. Cô có thể nói gì với anh được? Cô nhìn nhà thờ. Khám nghiệm hiện trường thế nào được khi không có hiện trường.

    Cô đứng chống nạnh, nhìn chăm chăm vào đống tro tàn khổng lồ đang âm ỉ của tòa nhà, rồi cô nghe thấy một âm thanh mà cô không quen. Một âm thanh rền rĩ của máy móc. Cô không để ý thấy nó cho tới khi cô thấy Lon Sellitton dừng phủi bụi trên chiếc áo sơ mi. Anh ta nói: "Tôi không thể tin chuyện này."

    Cô quay về phía con phố.

    Một chiếc xe hòm lớn màu đen đỗ cách đó một dãy nhà. Một chiếc cầu thủy lực chìa ra ngoài, bên trên có thứ gì đó. Cô liếc nhìn. Có vẻ như một con rô bốt phá bom. Cái cầu hạ xuống vỉa hè và con rô bốt lăn bánh.

    Cô cười lớn.

    Chiếc máy kỳ quặc quay về phía họ và bắt đầu chuyển động. Chiếc xe lăn làm cô nhớ tới một chiếc Pontiac Thunderbird, màu đỏ kẹo. Đó là kiểu xe lăn chạy điện, bánh sau nhỏ, ắc quy lớn và động cơ lắp bên dưới.

    Thom đi bên cạnh nhưng chính Lincoln Rhyme lái xe - hoàn toàn kiểm soát, cô châm biếm nhận thấy - bằng một cọng rơm ngậm trong miệng. Kỳ lạ là chuyển động của anh trông lại trang nhã. Rhyme ghé vào chỗ cô và dừng lại.

    "Được rồi, anh đã nói dối", anh bất ngờ nói.

    Cô thở dài. "Về cái lưng của anh? Khi anh nói anh không dùng được xe lăn?"

    "Anh đang thú nhận mình nói dối. Em sẽ điên lên đấy, Amelia. Thế thì cứ điên lên đi rồi vượt qua nó."

    "Anh có nhận ra là, khi tâm trạng tốt anh gọi em là Sachs, còn lúc nào tâm trạng tệ hại anh gọi em là Amelia không?"

    "Tâm trạng anh không tệ", anh cáu kỉnh.

    "Anh đúng là rất tệ đấy", Thom đồng ý. "Anh ta rất ghét bị bắt quả tang." Người trợ lý hất đầu về phía chiếc xe lăn. Cô nhìn về phía đó. Nó được công ty Action chế tạo, hiệu Storm Arrow 1. Anh ta cất nó trong kho dưới nhà trong khi lại kể ra câu chuyện thảm hại của mình. Ồ, vì thế tôi sẽ để anh ta chịu đựng."

    "Không bình luận, Thom, cảm ơn cậu. Tôi đang xin lỗi, được chưa?Tôi. Xin. Lỗi."

    "Anh ta có nó mấy năm rồi", Thom tiếp tục. "Học điều khiển nó bằng cách thổi với hút. Điều khiển bằng cọng rơm đó. Anh ta thực sự rất giỏi chuyện này. Và anh ta lúc nào cũng gọi tôi là Thom. Tôi chưa bao giờ được goi bằng họ."

    "Tôi rất mệt khi bị nhìn ngó", Rhyme nói một cách thành thực. "Vì thế tôi lái xe nữa." Sau đó nhìn cánh môi rách của cô, anh hỏi. "Có đau không?"

    Cô chạm tay vào miệng, lúc này nó đã bị bẻ cong thành nét nhăn nhó. "Nhức kinh khủng."

    Rhyme nhìn sang bên: "Chuyện gì xảy ra với cậu thế, Banks? Cạo râu trên trán à?"

    "Đâm đầu vào xe cứu hỏa." Anh chàng nói và lại sờ vào chỗ dải băng.

    "Rhyme", Sachs bắt đầu, không cười nữa. "Chẳng có gì ở đây cả. Hắn ta có đứa bé còn em không kịp lấy được vật chứng để lại"

    "À, Sachs, bao giờ cũng có thứ gì đó. Hãy tin vào lý thuyết của ngài Locard."

    "Em nhìn thấy chúng cháy hết, manh mối ấy. Và nếu còn lại gì đó thì nó cũng bị chôn dưới hàng tấn mảnh vỡ rồi."

    "Thế thì ta sẽ tìm kiếm những manh mối mà hắn không định để lại. Ta sẽ cùng khám nghiệm hiện trường, Sachs ạ. Em và anh. Đi thôi."

    Anh thổi hai hơi ngắn vào cọng rơm và tiến lên phía trước. Họ tiến tới gần nhà thờ thêm ba mét thì bất ngờ cô nói. "Đợi đã."

    Anh phanh lại.

    "Anh bắt đầu lơ đễnh rồi đấy, Rhyme. Buộc ít dây cao su vào bánh xe đi chứ. Anh không muốn nhầm dấu vết của anh với dấu vết của tội phạm đấy chứ?"

    "Chúng ta nên bắt đầu từ đâu?"

    "Ta cần mẫu tro", Rhyme nói. "Có mấy hộp sơn sạch ở sau xe. Xem em có tìm được một hộp không?"

    Cô nhặt một cái hộp từ chỗ xác chiếc RRV.

    "Em biết lửa phát ra từ đâu không?" Rhyme hỏi.

    "Cũng biết."

    "Lấy một mẫu tro - khoảng một, hai hộp - càng gần chỗ phát lửa càng tốt."

    "Được rồi", cô nói, trèo lên một bức tường gạch cao năm feet - tất cả những gì còn lại ở mặt phía bắc của nhà thờ. Cô nhìn xuống cái hố bốc khói dưới chân mình.

    Một nhân viên cứu hỏa gọi: "Này sĩ quan, chúng tôi vẫn chưa dọn sạch khu này đâu. Nguy hiểm đấy."

    "Không nguy hiểm như lần trước tôi đến đây", cô trả lời. Răng cắn quai hộp sơn, cô bắt đầu trèo xuống.

    Khi Lincoln Rhyme nhìn cô, anh như đang nhìn thấy chính mình, ba năm rưỡi trước, lúc cởi áo vét để trèo xuống công trường xây dựng ở cửa vào của ga tàu điện ngầm gần Tòa Thị chính. "Sachs", Rhyme gọi. Cô quay lại. "Cẩn thận đấy. Anh đã nhìn thấy chiếc RRV còn lại những gì. Anh không muốn mất em hai lần trong một ngày đâu."

    Cô gật đầu và biến mất qua bờ tường.

    Sau vài phút, Rhyme quát Banks: "Cô ấy đâu rồi?"

    "Tôi không biết."

    "Ý tôi là cậu đi xem cô ấy thế nào, hiểu không?"

    "Ồ, tất nhiên rồi." Cậu ta đi ra chỗ bức tường, nhìn qua.

    "Ổn chứ?" Rhyme hỏi.

    "Lung tung lắm."

    "Tất nhiên là lung tung. Cậu có nhìn thấy cô ấy không?"

    "Không."

    "Sachs?" Rhyme la lớn.

    Có tiếng gỗ kẽo kẹt khá lâu, sau đó là tiếng chạm. Bụi bốc lên.

    "Sachs? Amelia?"

    Không có tiếng trả lời.

    Đúng lúc anh định gửi nhóm ESU vào tìm cô thì họ nghe thấy giọng của cô. "Tôi lên đây."

    "Jerry?" Rhyme gọi.

    "Sẵn sàng", viên thám tử trẻ tuổi trả lời.

    Chiếc hộp bay từ dưới tầng hầm lên. Banks dùng một tay bắt nó. Sachs trèo ra khỏi tầng hầm, chùi tay vào quần, nhăn mặt.

    "Ổn chứ?"

    Cô gật đầu.

    "Bây giờ thì khám nghiệm cái ngõ", Rhyme ra lệnh. "Chỗ này lúc nào cũng có xe cộ đi lại nên hắn sẽ không muốn đỗ xe ở phố khi hắn lôi cô ta vào trong. Đó là chỗ hắn đỗ xe. Dùng cái cánh cửa ở ngay đây."

    "Làm sao anh biết?"

    "Có hai cách để mở những cánh cửa khóa - không dùng chất nổ, thế thôi. Khóa và bản lề. Cánh cửa này đã bị bắt vít bên trong nên hắn tháo ốc bản lề. Thấy không, hắn không thèm bắt chúng lại đủ chặt khi hắn bỏ đi."

    Họ bắt đầu từ cánh cửa và đi dần ra phía sau một khe núi, tòa nhà đang âm ỉ bốc khói nằm phía bên phải họ. Di chuyển từng foot một, Sachs chiếu đèn PoliLight lên lớp sỏi. "Anh muốn tìm vết lốp xe", Rhyme nói. "Anh muốn biết xe tải của hắn đỗ ở đâu."

    "Ở đây", cô nói, kiểm tra mặt đất. "Dấu lốp. Nhưng em không biết lốp trước hay lốp sau. Hắn có thể lùi xe."

    "Nó mờ hay rõ? Vết lốp ấy?"

    "Hơi mờ."

    "Thế thì là lốp trước." Anh cười vẻ mặt hoang mang của Sachs. "Em là chuyên gia về xe cộ, Sachs. Lần sau em thử vào trong xe, khởi động xem thử em có xoay tay lái một chút trước khi đi không nhé. Để kiểm tra xem lốp có thẳng hướng hay không. Vết lốp trước luôn mờ hơn vết lốp sau. Còn bây giờ, chiếc xe bị mất là chiếc Ford Taurus những năm 1997. Chiều dài của nó là 195,7 inch từ đầu đến đuôi, khoảng cách giữa hai bánh là 108,5 inch. Khoảng cách từ tâm bánh sau đến cốp xe khoảng bốn mươi lăm inch. Đo khoảng cách ấy rồi hút bụi đi."

    "Nào Rhyme, sao anh biết được tất cả những thứ ấy?"

    "Vừa tra cứu sáng nay. Em lấy quần áo nạn nhân chưa?"

    "Rồi. Cả móng tay và tóc nữa. Mà Rhyme này, còn điều này nữa: đứa bé tên là Pammy nhưng hắn gọi nó là Maggie. Giống như hắn đã làm với cô gái người Đức - hắn gọi cô ta là Hanna, nhớ không?"

    "Ý em là nhân cách khác của hắn làm như thế", Rhyme nói. "Anh băn khoăn không biết ai là nhân vật trong vở kịch nhỏ của hắn."

    "Em sẽ hút bụi quanh cửa nữa", cô tuyên bố. Rhyme nhìn cô - mặt bị rạch, tóc rối bù, vài chỗ bị cháy sém. Cô hút bụi phía dưới cửa và đúng lúc anh định nhắc cô là hiện trường vụ án có ba chiều thì cô đã khua máy hút bụi lên lần theo khung cửa.

    "Có thể hắn nhìn vào trong trước khi đưa cô ta vào", cô nói và bắt đầu hút bụi cả bậu cửa sổ.

    Đó chính là mệnh lệnh tiếp theo của Rhyme.

    Anh lắng nghe tiếng động của máy hút bụi Dustbuster. Nhưng anh dần dần tan biến. Vào quá khứ, mấy giờ trước.

    "Em đang...", Sachs bắt đầu.

    "Suỵt...", anh nói.

    Như những lần dạo anh đã đi, như những buổi hòa nhạc anh đã dự, như rất nhiều cuộc trao đổi anh đã có, Rhyme trượt sâu dần vào tâm thức của mình. Và khi anh tới một nơi - anh cũng không biết đó là nơi nào - anh thấy không chỉ có một mình anh. Anh hình dung ra một người đàn ông thấp bé đeo găng tay, mặc bộ quần áo thể thao tối màu, đeo mặt nạ trượt tuyết. Trèo ra ngoài chiếc xe Ford Taurus, tỏa mùi chất tẩy rửa và mùi xe mới. Người phụ nữ - Carole Ganz - nằm trong cốp xe, đứa con gái của cô bị giữ trong một tòa nhà xây bằng đá cẩm thạch hồng và gạch đắt tiền. Anh nhìn thấy người đàn ông kéo người phụ nữ ra khỏi xe.

    Điều đó thật là rõ ràng. Gần như là ký ức.

    Bật bản lề, mở cửa ra, kéo cô ta vào, trói lại. Hắn bắt đầu đi ra nhưng rồi dừng lại. Hắn đến một nơi mà từ đó hắn có thể nhìn lại và thấy rõ Carole. Giống như hắn đã nhìn xuống người đàn ông mà hắn đã chôn cạnh đường ray buổi sáng hôm qua.

    Giống như hắn đã xích Tammie Jean Colfax vào đường ống giữa phòng. Để hắn có thể nhìn cô thật rõ.

    Nhưng mà vì sao? Rhyme băn khoăn. Vì sao hắn ta lại nhìn? Để đảm bảo nạn nhân không thể trốn chạy? Để đảm bảo hắn không để lại thứ gì? Để...

    Mắt anh bật mở; hình ảnh của thủ phạm 823 biến mất. "Sachs! Có nhớ hiện trường Coltfax không? Chỗ em tìm thấy dấu găng tay?"

    "Có chứ."

    "Em nói hắn nhìn cô ta, đó là lý do hắn xích cô ta ở chỗ thoáng. Nhưng em không biết tại sao. Được rồi, anh đã nghĩ ra. Hắn nhìn nạn nhân vì hắn phải nhìn."

    Vì đấy là bản chất của hắn.

    "Ý anh là gì?"

    "Nào!"

    Rhyme hút mạnh ống hút hai lần để xoay chiếc xe lăn Arrow ngược lại. Sau đó thổi thật mạnh và anh tiến lên phía trước.

    Anh lăn xe đến vỉa hè, hút mạnh để dừng xe. Anh liếc mắt nhìn xung quanh. "Hắn muốn nhìn nạn nhân, anh cá là hắn cũng muốn nhìn giáo dân nữa. Từ một chỗ nào đó mà hắn nghĩ là an toàn. Chỗ mà hắn không buồn quét trước khi bỏ đi."

    Anh đang nhìn qua phố, tập trung vào một vị trí hẻo lánh, thuận lợi trong khu nhà: hàng hiên ngoài đường của một nhà hàng đối diện nhà thờ.

    "Đằng kia! Quét nó thật sạch vào, Sachs."

    Cô gật đầu, nạp một băng đạn mới vào khẩu Glock, lấy chiếc túi đựng vật chứng, một cặp bút chì và cái máy hút bụi. Anh nhìn thấy cô chạy qua phố và thận trọng đi lên cầu thang, vừa đi vừa kiểm tra các bậc thang. Hắn đã ở đây, cô nói to. "Có vết găng tay, và cả dấu giày - nó bị mòn giống như cái dấu giày kia."

    Đúng rồi! Rhyme nghĩ. Ồ, cảm giác thật dễ chịu. Mặt trời ấm áp, không khí, những người xem. Và sự phấn khích của cuộc săn đuổi

    Khi ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta.

    Được rồi, nếu chúng ta di chuyển nhanh hơn, chúng ta có thể.

    Rhyme tình cờ nhìn vào đám đông và thấy có mấy người nhìn anh chằm chằm. Nhưng còn nhiều người nhìn Amelia Sachs hơn.

    Cô mải mê khoảng mười lăm phút tại hiện trường và khi quay lại cô giơ chiếc túi nhỏ đựng vật chứng.

    "Em tìm thấy gì thế, Sachs? Giấy phép lái xe của hắn? Giấy khai sinh?"

    "Vàng", cô mỉm cười nói. "Em tìm được một ít vàng."

    --------------------------------
    1 Storm Arrow: Mũi tên Bão táp.

  11. #30
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    BA MƯƠI

    "Nào mọi người", Rhyme nói. "Ta phải xử lý vụ này thôi. Trước khi hắn đưa đứa bé đến hiện trường tiếp theo. Ý tôi nói là di chuyển!"

    Thom chuyển Rhyme từ xe lăn lên giường, nhanh chóng nhấc anh lên một tấm bảng trượt rồi thả anh xuống chiếc giường Clinitron. Sachs nhìn vào chiếc thang nâng cái xe lăn được gắn vào một trong những cái tủ trong phòng ngủ - đó là cái tủ anh không muốn cô mở ra khi anh chỉ cho cô bộ dàn và đĩa CD.

    Rhyme nằm yên một lúc, thở sâu vì đã quá nỗ lực.

    "Manh mối đã bị mất", anh nhắc lại với họ. "Chẳng có cách nào giúp ta biết được hiện trường tiếp theo ở đâu. Vậy chúng ta sẽ đánh quả lớn - hang ổ của hắn."

    "Cậu nghĩ là chúng ta có thể tìm thấy chỗ đó ư?" Sellitto hỏi.

    Ta có lựa chọn nào khác không nhỉ? Rhyme nghĩ nhưng không nói gì.

    Banks vội vàng đi lên cầu thang. Anh ta không vào phòng trước khi Rhyme buột miệng. "Họ nói gì? Nói tôi nghe. Nói tôi nghe."

    Rhyme biết mảnh vàng Sachs tìm được nằm ngoài khả năng của phòng thí nghiệm ngẫu hứng của Mel Cooper. Do đó, anh đã yêu cầu viên thám tử trẻ tuổi chạy nhanh đến phòng thí nghiệm tại văn phòng PERT của FBI để phân tích nó.

    "Nửa tiếng nữa họ sẽ gọi cho chúng ta."

    "Nửa tiếng?" Rhyme lầm bầm. "Họ có ưu tiên cho nó không?"

    "Chắc chắn là họ sẽ ưu tiên. Dellray đang ở đấy. Anh phải gặp anh ta. Anh ta ra lệnh dừng tất cả các vụ khác lại và nói nếu báo cáo luyện kim đó không được đưa ngay cho anh thì họ sẽ rắc rối to - anh biết cách anh ta nói thế nào rồi đấy."

    "Rhyme", Sachs nói. "Cô Ganz còn kể một chuyện chắc cũng quan trọng. Hắn ta nói hắn sẽ để cô ấy đi nếu cô ấy đồng ý cho hắn vụt chân."

    "Vụt da chân?"

    "Lóc da chân."

    "À, lột da 1 chân", Rhyme chữa lại.\

    "Ồ. Nhưng hắn chẳng làm gì. Cô ta nói là có vẻ như cuối cùng hắn cũng không thể bắt bản thân hắn cắt vào chân cô ấy được."

    "Như ở hiện trường đầu tiên - người đàn ông cạnh đường tàu." Sellitto khuyến nghị.

    "Hay thật...", Rhyme trầm ngâm. "Tôi nghĩ hắn cắt ngón tay nạn nhân để không ai dám ăn trộm chiếc nhẫn. Nhưng có thể không phải như vậy. Hãy xem hành vi của hắn: Cắt đứt ngón tay người lái taxi và đem nó theo. Cắt tay chân cô gái người Đức. Ăn trộm xương và bộ xương rắn. Lắng nghe khi bẻ gãy ngón tay Everett... Có gì đó trong cách hắn nhìn nạn nhân. Cái gì đó mang tính..."

    "Giải phẫu."

    "Chính xác đấy, Sachs."

    "Ngoại trừ cô Ganz", Sellitto nói.

    "Quan điểm của tôi là", Rhyme nói. "Hắn có thể cắt chân cô ta mà vẫn giữ cô ta còn sống cho chúng ta. Nhưng có gì đó ngăn hắn lại. Cái gì vậy?"

    Sellitto nói: "Cô ta có gì khác biệt? Không thể chỉ vì cô ta là phụ nữ. Hoặc cô ta là người ngoại tỉnh. Cô gái Đức cũng vậy."

    "Có thể hắn không muốn làm đau cô ta trước mặt đứa con gái", Banks nói.

    "Không", Rhyme nói dứt khoát, "lòng thương không phải là thứ hắn có."

    Sachs bất ngờ nói: "Nhưng có một điều khác biệt - cô ấy là một bà mẹ."

    Rhyme xem xét điều này. "Cũng có thể. Mẹ và con gái. Không đủ sức nặng để hắn thả họ ra. Nhưng đủ để ngăn hắn không tra tấn cô ta. Thom, viết vào nhé. Với một dấu hỏi." Anh hỏi Sachs: "Cô ta có nói gì thêm về ngoại hình hắn không?"

    Sachs lật cuốn sổ.

    "Vẫn như trước", cô đọc, "mặt nạ trượt tuyết, thân hình nhỏ bé, găng tay đen, hắn..."

    "Găng tay đen?" Rhyme nhìn lên tờ giấy trên tường. "Không phải màu đỏ à?"

    "Cô ấy nói là màu đen. Em đã hỏi lại xem cô ấy có chắc không."

    "Mẩu da khác cũng có màu đen, đúng không, Mel? Có thể đó chính là đôi găng tay. Thế thì miếng da đỏ ở đâu ra?"

    Cooper nhún vai: "Tôi không biết nhưng ta tìm thấy một, hai miếng. Như vậy đó là thứ gần gũi với hắn."

    Rhyme nhìn vào những cái túi vật chứng. "Ta còn tìm được gì nữa nhỉ?"

    "Dấu vết ta hút được trong ngõ và trên bậc cửa." Sachs đổ túi lọc bụi ra một tờ báo và Cooper dùng kính lúp để soi. "Chẳng có gì hết", anh ta tuyên bố. "Chủ yếu là đất. Một ít khoáng chất. Đá phiến diệp thạch mica vùng Manhattan. Chất feldspar 2."

    Những thứ này có khắp nơi trong thành phố.

    "Tiếp tục đi."

    "Lá cây mục. Thế thôi."

    "Còn quần áo của cô Ganz thì sao?"

    Cooper và Sachs mở tờ báo ra và xem xét dấu vết.

    "Chủ yếu là đất", Cooper nói. "Vài mẩu trông giống như đá."

    "Tuyệt!" Rhyme la lớn. Nói với Cooper: "Đốt nó lên đi. Chỗ đất ấy."

    Cooper đặt một mẩu vào máy GC-MS. Họ nóng lòng chờ đợi kết quả. Cuối cùng thì màn hình máy tính cũng nhấp nháy. Tấm lưới trên màn hình gợi nhớ khung cảnh mặt trăng.

    "Được rồi, Lincoln. Thú vị đấy. Tôi đọc thấy có chất tannin và..."

    "Sodium carbonate?"

    "Ngạc nhiên chưa?" Cooper cười. "Sao anh biết?"

    "Người ta dùng nó trong các xưởng thuộc da thế kỷ XVIII và XIX. Tannic acid xử lý da sống còn kiềm làm cho nó chắc hơn. Như thế là nơi ẩn nấp an toàn của hắn ở gần một xưởng thuộc da cũ."

    Anh cười. Không thể dừng được. Anh nghĩ: Mày có nghe tiếng bước chân không, 823? Chúng ta đang theo sau mày đấy.

    Mắt anh lướt sang tấm bản đồ Randel Survey. "Vì chúng bốc mùi nên không ai muốn có xưởng thuộc da trong khu của họ, do đó ủy ban thành phố đã hạn chế chúng. Tôi biết một vài nơi ở bên Lower East Side. Và ở West Greenwich Village - khi nó thực sự còn là một khu làng, khu ngoại ô thành phố. Sau đó là phía West Side trong những năm 1950 - gần đường hầm ở bãi chăn, nơi ta tìm thấy cô gái người Đức. Ồ, cả ở Harlem trong những năm 1900."

    Rhyme nhìn danh sách những cửa hàng thực phẩm - vị trí những cửa hàng ShopRite có bán chân bê. "Chelsea bị loại. Không có thuộc da ở đây. Harlem cũng vậy - không có cửa hàng ShopRite ở đây. Như vậy còn lại West Village, Lower East Side hay Midtown West Side - lại là Hell's Kitchen. Có vẻ hắn thích chỗ này."

    Chỉ khoảng mười dặm vuông, Rhyme đánh giá sơ bộ. Từ ngày đầu tiên đi làm anh đã nhận ra rằng trốn ở Manhattan còn dễ hơn ở North Woods.

    "Tiếp tục đi. Còn hòn đá trong quần áo của Carole thì sao?"

    Cooper đang cúi xuống kính hiển vi. "Được rồi. Có rồi."

    "Chuyển sang cho tôi đi, Mel."

    Màn hình máy tính của Rhyme hoạt động trở lại, anh ngắm nghía những mảnh đá và tinh thể, trông như những thiên thạch kim cương.

    "Di chuyển nó đi", Rhyme hạ lệnh. Ba vật chất bám dính lấy nhau.

    "Mẩu bên trái là đá cẩm thạch hồng", Cooper nói. "Giống như mẫu đá trước đây ta tìm thấy. Ở giữa, thứ màu xám..."

    "Là vữa. Và cái kia là đá cát kết nâu." Rhyme tuyên bố. "Nó từ một ngôi nhà kiểu liên bang, như Tòa Thị chính năm 1812. Chỉ có mặt tiền được lát đá cẩm thạch; phần còn lại là đá cát kết nâu. Họ làm thế để tiết kiệm chi phí. À, họ làm thế để tiền mua đá cẩm thạch có thể tìm được đường vào túi. Còn bây giờ, chúng ta có gì nữa nhỉ? Tàn tro. Thử tìm chất phát hỏa xem."

    Cooper đưa mẫu tro vào máy GC-MS. Anh ta nhìn chăm chăm vào đường cong xuất hiện trên màn hình.

    Xăng mới được lọc, có chứa phẩm màu và chất phụ gia của nhà sản xuất, mang tính đặc thù và có thể lần ngược tới một nguồn duy nhất nếu các lô xăng khác nhau không bị trộn lẫn ở trạm mà tội phạm mua xăng. Cooper nói xăng tuyệt đối trùng với loại bán ở các trạm bảo dưỡng xe hơi Gas Exchange.

    Banks vớ lấy Những Trang Vàng và mở ra. "Ta có sáu trạm xăng ở Manhattan. Ba trạm trong nội thành. Một ở Đại lộ Sáu và Houston, một ở Delancey, 503 East. Một ở Đại lộ Mười chín và Tám."

    "Đại lộ Mười chín quá xa về phía Bắc", Rhyme nói. Anh nhìn bảng hồ sơ. "East Side hay West Side. Ở đâu nhỉ?"

    Cửa hàng thực phẩm, xăng...

    Một thân hình gầy guộc bất ngờ lấp đầy cánh cửa.

    "Tôi vẫn được mời dự tiệc ở đây đấy chứ?" Frederick Dellray hỏi.

    "Còn tùy", Rhyme đáp lời. "Xem anh có đem quà đến không?"

    "À, tha hồ mà quà." Viên đặc vụ nói, vẫy cái phong bì có trang trí hình tròn quen thuộc của biểu tượng FBI.

    "Anh có bao giờ gõ cửa không, Dellray?" Sellitto hỏi.

    "Mất thói quen đó rồi, anh biết đấy."

    "Vào đi", Rhyme nói. "Anh có gì nào?"

    "Không biết chắc lắm. Chẳng có ý nghĩa gì với tôi. Nhưng mà tôi biết gì nào?"

    Dellray đọc qua báo cáo rồi nói: "Tony Farco ở PERT, nhân tiện anh ta gửi lời chào anh đấy, Lincoln, đã phân tích mẫu vật chứng mà các cậu tìm thấy. Hóa ra đấy là một lá vàng. Có thể khoảng sáu mươi đến tám mươi năm tuổi rồi. Anh ta còn thấy mấy sợi cellulose dính ở đó nên anh ta nghĩ nó rơi ra từ một cuốn sách."

    "Tất nhiên rồi! Phần mạ vàng đầu trang", Rhyme nói.

    "Anh ta còn tìm thấy mấy hạt mực trên đó. Anh ta nói, tôi trích dẫn nhé: 'Nó không phải không nhất quán với loại mực Thư viện Công cộng New York dùng để đóng dấu ở đầu sách'. Anh ta nói thật khôi hài, phải không?"

    "Một cuốn sách thư viện", Rhyme trầm ngâm.

    Amelia Sachs nói: "Một cuốn sách bìa da đỏ của thư viện."

    Rhyme nhìn cô chăm chăm. "Đúng rồi!" Anh la lớn. "Đó chính là gốc của những miếng da đỏ. Không phải găng tay. Đó là một cuốn sách mà hắn luôn mang theo. Có thể là Kinh Thánh của hắn."

    "Kinh Thánh?" Dellray hỏi. "Anh nghĩ hắn là một kẻ cuồng tôn giáo hay sao?"

    "Không phải là Kinh Thánh đó, Fred. Banks, gọi lại cho thư viện đi. Có thể đó chính là cách hắn mài mòn đôi giày của hắn - trong phòng đọc. Tôi biết, đoán thế là quá xa. Nhưng chúng ta không có nhiều lựa chọn. Tôi muốn có danh sách tất cả các cuốn sách cổ bị lấy cắp từ các nơi trong phạm vi Manhattan trong năm qua."

    "Sẽ làm." Chàng thanh niên xoa xoa vết sẹo cạo râu khi anh ta gọi đến nhà Thị trưởng, thẳng thừng xin phép ngài liên hệ với giám đốc thư viện công cộng và nói với ông ta những gì họ cần.

    Nửa tiếng sau, máy fax reo chuông và nhả ra hai trang giấy. Thom kéo giấy ra khỏi máy. "Ôi trời, ngón tay của độc giả thành phố này dính quá", cậu ta nói khi đem nó đến cho Rhyme.

    Tám mươi tư cuốn sách có tuổi đời năm mươi năm hoặc lâu hơn đã biến khỏi các chi nhánh của thư viện công cộng trong vòng mười hai tháng qua, ba mươi lăm cuốn ở Manhattan.

    Rhyme lướt qua danh sách. Dickens, Austen 3, Hemingway, Dreiser 4... Sách về âm nhạc, triết học, rượu vang, phê bình văn học, truyện cổ tích. Giá của những cuốn sách này thấp đến mức đáng ngạc nhiên. Hai mươi, ba mươi đô la. Anh nghĩ rằng không cuốn nào trong số này là bản in lần thứ nhất, nhưng có lẽ bọn trộm không biết điều này.

    Anh tiếp tục lướt qua danh sách.

    Không có gì. Không có gì. Có thể là...

    Và rồi anh nhìn thấy nó.

    Crime in Old New York, tác giả Richard Wille Stephans, do Bountiful Press xuất bản năm 1919. Giá của nó được liệt kê là sáu mươi lăm đô la, và nó bị đánh cắp từ chi nhánh Phố Delancey của Thư viện Công cộng New York chín tháng trước. Nó được mô tả là có kích thước năm nhân bảy inch, được bọc bằng da dê mềm, bìa sau phủ cẩm thạch, gáy mạ vàng.

    "Tôi muốn một bản. Tôi không quan tâm làm sao mà có được. Cho ai đó đến Thư viện Quốc hội nếu cần."

    Dellray nói: "Để tôi lo vụ này."

    Cửa hàng thực phẩm, xăng, thư viện...

    Rhyme cần quyết định. Có khoảng ba trăm nhân viên tìm kiếm - cảnh sát, quân đội bang và đặc vụ liên bang - nhưng họ sẽ bị trải siêu mỏng nếu như họ phải tìm cả West Side và East Side của khu trung tâm New York.



    Anh nhìn lên bảng hồ sơ.

    Nhà máy ở West Village phải không? Rhyme lặng lẽ hỏi 823. Liệu mày có đánh cắp sách và mua xăng ở East Side để lừa bọn tao không? Hay đó thực sự là khu của mày? Không, vấn đề không phải là mày thông minh đến đâu, mà là mày nghĩ mày thông minh đến đâu. Mày tự tin về chuyện bọn tao không thể tìm những mảnh li ti của mày đến mức nào, những mảnh nhỏ mà Ngài Locard bảo đảm với bọn tao là mày sẽ phải để lại?

    Cuối cùng Rhyme ra lệnh. "Đi tìm ở Lower East Side. Quên West Village đi. Đưa tất cả mọi người tới đó. Tất cả lính của Bo, tất cả lính của anh nữa, Fred. Đây là thứ mà các anh cần tìm: một ngôi nhà lớn kiểu liên bang gần hai trăm năm tuổi, mặt tiền đá cẩm thạch hồng, hai bên và phía sau là đá cát kết nâu. Có thể đã từng là một biệt thự hay một tòa nhà công cộng. Có một cái ga ra hoặc nhà để xe ngựa bên cạnh. Một chiếc Taurus sedan hay Yellow Cab qua lại trong vài tuần qua. Thường xuyên hơn vào những ngày gần đây."

    Rhyme nhìn Sachs.

    Bỏ qua người đã chết...

    Sellitto và Dellray gọi điện.

    Sachs nói với Rhyme: "Em cũng đi."

    "Anh không trông chờ điều gì khác."

    Khi cánh cửa đóng lại phía dưới nhà, anh thì thầm. "Chúc may mắn, Sachs. Chúc may mắn."

    --------------------------------
    1 Lột da - Flail (vụt) và flay (lột da): Từ đồng âm khác nghĩa, một cách chơi chữ.
    2 Feldspar: Tên của nhóm các khoáng chất tạo thành đá và tạo thành sáu mươi phần trăm lớp vỏ Trái Đất.
    3 Austen: (1775 - 1817): Tiểu thuyết gia người Anh. Xã luận và cách sử dụng điệu nghệ ngôn ngữ tự do gián tiếp và mỉa mai đã làm cho Austen trở thành một trong những tiểu thuyết gia được tôn trọng và có ảnh hưởng lớn nhất trong văn học Anh.
    4 Dreiser: Theodore Herman Albert Dreiser (1871 - 1945), tác giả người Mỹ thuộc trường phái tự nhiên, nổi tiếng vì sự gai góc, mạnh bạo.

Trang 3 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Bắt bãi cát tập kết gỗ lậu
    By duyanh in forum Văn Hóa-Xã Hội-Kinh Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-21-2017, 01:39 PM
  2. Indonesia xác định danh tính kẻ tấn công
    By duyanh in forum Tin Tức Quốc Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-15-2016, 01:29 PM
  3. Cô gái muốn kết hôn với bố ruột tại Mỹ
    By sophienguyen in forum Chuyện Lạ Đó Đây
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-21-2015, 03:19 AM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 05-16-2014, 01:34 AM
  5. Cách kết hợp màu móng để diện Tết
    By sophienguyen in forum Thẩm Mỹ Nails
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-24-2014, 03:37 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •