Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tình yêu và hạnh phúc là hình với bóng, nếu biết bảo vê. thì hạnh phúc sẽ thành sự thậtt, ngược lại nêu không biết bảo vê. thì hạnh phúc chỉ là một hình ảnh ảo tưởng không bao giờ có thật
Pascal
Trang 2 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối
Results 11 to 20 of 31

Chủ Đề: Anne Tóc Đỏ Làng Avonlea

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Anne Tóc Đỏ Làng Avonlea



    Tác giả: Lucy Maud Montgomery





    TÓM TẮT TRUYỆN
    Mới ngày nào cô bé Anne mặt tàn nhang và dễ kích động vừa mới đặt chân lên đảo Hoàng Tử Edward đã gây bao xôn xao, xáo trộn. Vậy mà giờ đây Anne đã vụt lớn thành một thiếu nữ mười sáu tuổi tươi tắn và xinh đẹp. Tuổi mười sáu đặt lên vai cô nhiều trọng trách: một cô giáo làng với tham vọng gieo những ước vọng đẹp đẽ trong tâm hồn trẻ thơ, một sáng lập viên Hội Cải tạo với mong muốn biến Avonlea thành một ngôi làng xanh sạch đẹp hơn, và một người bảo hộ bất đắc dĩ của hai đứa bé sinh đôi mồ côi rất đáng yêu nhưng cũng gây lắm chuyện đau đầu. Nhưng tuổi mười sáu vẫn không làm mất đi trong Anne tính lãng mạn vô phương cứu chữa cũng như chẳng khiến Anne thôi vướng vào vô số sự cố dở khóc dở cười chẳng khác gì những học trò nhỏ tinh nghịch và hăng hái của cô.
    Mười một, mười sáu rồi mười tám, Anne từng bước trưởng thành nhưng vẫn không thôi là Anne thánh thiện, lạc quan và căng tràn sức sống – nguồn cảm hứng tinh khôi quyến rũ biết bao thế hệ bạn đọc đủ mọi lứa tuổi trên khắp thế giới.
    Lucy Maud Montgomery chào đời tại Clifton (hiện giờ là vùng New London), thuộc đảo Hoàng tử Edward, Canada vào ngày 30 tháng 11 năm 1874. Năm 1908, bà xuất bản cuốn đầu tiên của series kinh điển về cô bé Anne Tóc đỏ và thu được thành công vang dội. Đến nay, cuốn sách đã được xuất bản bằng hơn 30 ngôn ngữ, bán được tới hơn 50 triệu bản, đưa Montgomery thành một trong những nhà văn bestseller của mọi thời đại.
    Mời các bạn đón đọc Anne Tóc Đỏ làng Avonlea của tác giả L. M. Montogmery.






    MỤC LỤC
    Chương 1 - Người Hàng Xóm Nóng Nảy
    Chương 2 - Bán Vội Rồi Hối Hận Dài Dài
    Chương 3 - Ông Harrison Tại Gia
    Chương 4 - Ý Kiến Khác Nhau
    Chương 5 - Một Cô Giáo Đầy Bản Lĩnh
    Chương 6 - Đủ Loại Đủ Kiểu Đàn Ông... Và Cả Phụ Nữ Nữa
    Chương 7 - Nhiệm Vụ Vẫy Gọi
    Chương 8 - Bà Marilla Nhận Nuôi Hai Đứa Trẻ Song Sinh
    Chương 9 - Vấn Đề Màu Sắc
    Chương 10 - Davy Tìm Kiếm Sự Giật Gân
    Chương 11 - Sự Thật Và Tưởng Tượng
    Chương 12 - Một Ngày Xui Xẻo
    Chương 13 - Một Buối Dã Ngoại Tuyệt Vời
    Chương 14 - Tránh Khỏi Mối Nguy
    Chương 15 - Kỳ Nghỉ Bắt Đầu
    Chương 16 - Bản Chất Của Những Cao Vọng
    Chương 17 - Một Chuỗi Rủi Ro
    Chương 18 - Một Chuyến Phiêu Lưu Trên Đường Bảo Thủ
    Chương 19 - Chỉ Một Ngày Hạnh Phúc
    Chương 20 - Chuyện Vẫn Hay Xảy Ra Như Thế
    Chương 21 - Cô Lavendar Đáng Yêu
    Chương 22 - Những Chuyện Vụn Vặt
    Chương 23 - Chuyện Tình Của Cô Lavendar
    Chương 24 - Nhà Tiên Tri Trong Lãnh Địa Riêng
    Chương 25 - Vụ Bê Bối Ở Avonlea
    Chương 26 - Khúc Quanh
    Chương 27 - Một Buổi Chiều Ở Căn Nhà Đá
    Chương 28 - Hoàng Tử Quay Lại Tòa Lâu Đài Bị Phù Phép
    Chương 29 - Thơ Ca Và Văn Xuôi
    Chương 30 - Đám Cưới Ở Căn Nhà Đá
    Chương 31
    Chương 32

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 10 - DAVY TÌM KIẾM SỰ GIẬT GÂN
    Một chiều tháng Mười một nọ, trên đường từ trường về nhà qua lối Bạch Dương, một lần nữa Anne lại cảm thấy chắc chắn rằng cuộc đời thật tươi đẹp. Ngày hôm đấy là một ngày tốt lành, mọi chuyện đều suôn sẻ trong vương quốc nhỏ của cô. St. Clair Donnell không gây gổ với bất cứ đứa con trai nào vì chuyện tên tuổi; khuôn mặt của Prillie Rogerson sưng vù vì đau răng đến mức cô nàng không hề liếc mắt đưa tình với đám con trai chung quanh lấy một lần. Barbara Shaw chỉ gặp tai nạn mỗi một lần... đánh đổ một chén nước rửa bút xuống sàn... và Anthony Pye không đi học.
    “Tháng Mười một năm nay thật là tuyệt quá!” Anne thốt lên, cô vẫn chưa thoát khỏi thói quen trẻ con là hay nói chuyện một mình. “Tháng Mười một thường là một tháng khó chịu... như thể năm đột nhiên phát hiện mình đã về già và chỉ biết khóc than buồn bã vì điều đó. Năm nay đã già đi một cách duyên dáng... giống như một bà lão oai nghiêm biết mình có thể xinh đẹp ngay cả với mái tóc bạc và những nếp nhăn. Ngày thật đáng yêu và lúc chạng vạng thì tuyệt vời. Hai tuần vừa qua khá yên bình, đến cả Davy cũng cư xử gần như đâu vào đó. Mình thực sự nghĩ rằng thằng bé đã ngoan hơn nhiều. Hôm nay rừng cây thật im lặng quá... chẳng có tiếng thì thầm nào ngoại trừ tiếng gió vi vút nơi ngọn cây. Chẳng khác gì tiếng sóng vỗbờ xa. Rừng cây thật thân thương quá! Những hàng cây xinh đẹp ơi, mình yêu tất cả các cậu như bạn bè vậy.”
    Anne dừng lại choàng tay qua một cây bạch dương non và hôn thân cây màu trắng sữa. Diana vừa rẽ vào con đường, nhìn thấy cô và phá lên cười.
    “Anne Shirley, cậu chỉ giả vờ trưởng thành thôi. Tớ tin rằng khi có mỗi một mình, cậu lại hiện nguyên hình một cô bé.”
    “Ồ, không thể thoát khỏi thói quen là một cô bé ngay lập tức được,” Anne vui vẻ đáp.
    “Cậu thấy đấy, tớ bé bỏng suốt mười bốn năm trời, và tớ chỉ mới là người lớn được có mỗi ba năm thôi. Tớ chắc rằng mình luôn cảm thấy như một đứa trẻ khi ở trong rừng. Những chuyến đi từ trường về nhà này hầu như là khoảng thời gian duy nhất để tớ mơ mộng... à, còn khoảng nửa tiếng trước khi tớ chìm vào giấc ngủ nữa chứ. Tớ quá bận rộn vởi việc dạy học, tự học và giúp bác Marilla trông coi hai đứa trẻ song sinh đến mức chẳng có thời gian tưởng tượng nữa. Cậu không biết tớ đã trải qua những cuộc phiêu lưu tuyệt vời thế nào sau khi tớ leo lên giường ở chái Đông mỗi tối đâu. Tớ luôn tưởng tượng rằng mình là một ai đó hết sức lộng lẫy, thông minh và thành đạt... một nữ ca sĩ opera, một y tá chữ thập đỏ hay một nữ hoàng. Tối qua tớ là một nữ hoàng. Thật tuyệt diệu khi tưởng tượng cậu là một nữ hoàng. Cậu sẽ được hưởng mọi niềm vui mà chẳng phải chịu bất kỳ sự phiền phức nào của việc làm một bà hoàng, và cậu có thể không làm nữ hoàng nữa bất cứ khi nào cậu muốn, điều mà cậu không thể thực hiện được trên thực tế. Nhưng ở giữa rừng thế này, tớ nghĩ là nên tưởng tượng ra những điều hoàn toàn khác... Tớ là nữ thần rừng sống trong một cây thống già, hay một yêu cây màu nâu bé nhỏ ẩn mình sau một chiếc lá nhăn nheo. Cây bạch dương trắng mà cậu bắt gặp tớ hôn là em gái của tớ. Điểm khác biệt duy nhất là cô ấy là một cái cây, còn tớ là một cô gái, nhưng điều đó chẳng có gì quan trọng. Cậu đang đi đâu vậy, Diana?”
    “Xuống nhà Dickson. Tớ hứa sẽ giúp Alberta cắt bộ váy mới. Chiều tối nay cậu có thể xuống đó rồi cùng về nhà với tớ không?”
    “Có thể... vì Fred Wright đã ra tỉnh rồi,” Anne đáp với một khuôn mặt khá ngây thơ cụ.
    Diana đỏ mặt, hất đầu bỏ đi. Tuy nhiên cô không có vẻ giận.
    Anne định sẽ đi xuống nhà Dickson lúc chiều tối, nhưng cô không thể. Khi về đến Chái Nhà Xanh, cô gặp một chuyện khiến cô quên sạch mọi suy nghĩ khác. Bà Marilla chạy ra sân đón cô... vẻ mặt hốt hoảng.
    “Anne, Dora mất tích rồi!”
    “Dora! Mất tích!” Anne nhìn sang Davy đang đu mình lên cổng sân và thấy vẻ vui sướng trong mắt nó. “Davy, cháu có biết em ở đâu không?”
    “Không, cháu không biết,” Davy quả quyết. “Từ lúc ăn chiều cháu chẳng thấy nó đâu, thề đấy.”
    “Ta đi vắng từ một giờ,” bà Marilla nói. “Thomas Lynde đột nhiên ngã bệnh và Rachel nhắn ta ghé qua liền. Khi ta rời nhà thì Dora đang chơi búp bê trong bếp còn Davy thì làm bánh bùn đằng sau kho. Ta vừa về nhà nửa tiếng trước... và không thấy Dora đâu. Davy tuyên bố nó không nhìn thấy con bé từ khi ta đi.”
    “Cháu không thấy thật mà,” Davy thề thốt.
    “Chắc con bé ở quanh đây thôi,” Anne nói. “Con bé không đi đâu xa một mình đâu... bác biết nó nhútnhát thế nào mà. Có lẽ nó đang ngủ gục trong một phòng nào đó chăng.”
    Bà Marilla lắc đầu.
    “Ta đã tìm hết cả nhà chính rồi. Nhưng cũng có thể nó đang ở trong một công trình phụ nào đó.”
    Sau đó là một cuộc tìm kiếm kỹ càng. Mỗi góc nhà, vườn và nhà phụ đều bị lục tung lên bởi hai người đang phát điên vì lo lắng. Anne chạy khắp vườn cây ăn quả và rừng Ma Ám, cất tiếng gọi Dora. Bà Marilla cầm nến kiểm tra tầng hầm. Davy hết đi theo người này rồi lại chạy đến người kia, khá sáng tạo khi nghĩ ra những nơi Dora có thể chui vào.
    Cuối cùng họ gặp lại nhau ở sân.
    “Đúng là kỳ quái đến cực điểm,” bà Marilla rên rỉ.
    “Nó có thể ở đâu chứ?” Anne tuyệt vọng.
    “Nó có thể rơi xuống giếng,” Davy vui vẻ gợi ý.
    Anne và bà Marilla nhìn nhau vẻ sợ hãi. Trong khi tìm kiếm, hai người đã từng nghĩ đến khả năng này, nhưng chẳng ai dám nói ra miệng.
    “Nó... nó có thể lắm,” bà Marilla thì thầm.
    Anne cảm thấy chao đảo muốn ngất xỉu, chạy đến thành giếng và nhìn xuống. Thùng nước nằm trên cái giá bên trong. Sâu hơn phía dưới là một chút ánh lấp lánh của mặt nước phẳng lặng. Giếng nhà Cuthbert sâu nhất cả vùng Avonlea. Nếu Dora có mệnh hệ gì... nhưng Anne không thể nghĩ tiếp được. Cô rùng mình quay đi.
    “Chạy qua bên ông Harrison đi,” bà Marilla nói, tay vặn vẹo.
    “Ông Harrison và John Henry không có nhà... hôm nay họ ra tỉnh rồi. Cháu sẽ chạy qua nhờ ông Barry.”
    Ông Barry cùng quay lại với Anne, cầm theo một cuộn dây ở một đầu có gắn cái vuốt vốn là phần đuôi của chiếc đinh ba cũ. Bà Marilla và Anne đứng bên cạnh, lạnh cóng, run rẩy vì sợ hãi và khủng hoảng, trong lúc ông Barry dò dò dưới giếng, Davy đứng dạng chân bên cổng nhìn cả nhóm với vẻ sung sướng không tả nổi.
    Cuối cùng ông Barry lắc đầu vẻ nhẹ nhõm.
    “Cô bé không thể ở bên dưới đâu. Nhưng hiện giờ cô bé ở đâu thì vẫn là một câu hỏi lớn. Này, cậu trai trẻ, cậu có chắc là không biết em gái ở đâu không?”
    “Cháu đã nói hàng chục lần là cháu không biết rồi mà,” Davy đáp vẻ bị xúc phạm. “Chắc là một kẻ lang thang tới bắt cóc nó rồi.”
    “Nhảm nhí,” bà Marilla quát cộc lốc, giờ bà đã thoát khỏi nỗi sợ hãi cái giếng. “Anne, cháu có nghĩ nó đi lạc qua bên nhà ông Harrison không? Nó lúc nào cũng nói về con vẹt từ khi cháu dẫn nó qua chơi.”
    “Cháu không tin Dora sẽ đi xa như vậy, nhưng cháu sẽ kiểm tra,” Anne đáp.
    Lúc ấy không ai nhìn Davy, nếu không sẽ phát hiện ra vẻ mặt nó thay đổi rồ rệt. Nó lặng lẽ tuột khỏi cổng rồi co giò chạy hết tốc lực đến kho thóc.
    Anne tất tả băng qua cánh đồng đến nhà ông Harrison, cô cũng chẳng mấy hy vọng Dora có ở đó. Căn nhà khóa cửa, màn cửa sổ hạ xuống và chẳng có dấu hiệu sự sống nào ở đó. Cô đứng ở hàng hiên cất cao giọng gọi Dora.
    Gừng ở trong bếp phía sau ré lên và chửi rủa một cách hung hãn bất ngờ, nhưng giữa những tràng chửi rủa của nó, Anne nghe thấy một tiếng kêu cãu cứu từ gian nhà nhỏ trong sân nơi ông Harrison cất dụng cụ. Anne phi như bay tới mở cửa và nhìn thấy một bóng dáng nhỏ bé, mặt đẫm lệ đang ngồi cô độc trên một thùng đinh úp ngược.
    “Ôi, Dora, Dora, cháu làm cả nhà sợ chết khiếp! Sao cháu lại ở đây?”
    “Davy và cháu sang đây thăm Gừng,” Dora nức nở, “nhưng bọn cháu không nhìn thấy nó, Davy chỉ đá vào cửa để chọc cho nó chửi rủa thôi. Rồi sau đó Davy dẫn cháu đến đây, rồi chạy ra đóng cửa, cháu không sao ra ngoài được. Cháu khóc, khóc mãi, cháu sợ, và ôi chao, cháu vừa đói vừa lạnh, cháu sợ cô sẽ không bao giờ tới, cô Anne ơi.”
    “Davy ư?” Nhưng Anne không nói thêm được gì nữa. Cô ẵm Dora về nhà với trái tim nặng trĩu. Niềm vui khi tìm được đứa trẻ vẫn bình an vô sự đã bị nỗi đau đớn vì hành vi của Davy nhấn chìm. Cái tội nhốt Dora lại có thể được tha thứ dễ dàng. Nhưng Davy đã nói dối... nói dối thẳng thừng trắng trợn. Đó là sự thật xấu xa mà Anne không thể nhắm mắt bỏ qua được. Cô chỉ muốn ngồi sụp xuống mà òa khóc tuyệt vọng. Cô đã dần yêu Davy hết sức... cho đến tận phút này cô mới biết mình thương nó đến chừng nào... và cô đau đớn không chịu nổi khi khám phá ra nó đã cố ý nói dối.
    Bà Marilla lắng nghe câu chuyện của Anne trong sự im lặng đáng sợ báo trước điềm gở cho nhóc con Davy, ông Barry phá lên cười và khuyên rằng phải xử lý Davy cho rốt ráo. Khi ông Barry về nhà, Anne an ủi và sưởi ấm cô bé Dora đang lạnh run sướt mướt, cho cô bé ăn tối rồi đi ngủ. Sau đó cô quay lại nhà bếpngay lúc bà Marilla nghiêm nghị bước vào, dẫn theo, hay đúng hơn là kéo theo tên tội phạm Davy miễn cưỡng đầy mạng nhện. Bà đã tìm thấy nó trốn trong góc tối nhất của chuồng ngựa.
    Bà đẩy nó đến tấm thảm chùi chân đặt giữa sàn nhà rồi đi đến ngồi cạnh cửa sổ phía Đống. Anne thì ngồi thờ thẫn nơi cửa sổ phía Tây. Ở giữa bọn họ là tên đầu sỏ. Nó quay lưng lại bà Marilla, cái lưng yếu ớt, cam chịu và sợ hãi; nhưng mặt nó nhìn về phía Anne, và dẫu có chút xấu hố, mắt Davy vẫn lộ vẻ tinh nghịch thân thiết, cứ như nó biết nó làm sai và sẽ bị phạt, nhưng lát nữa vẫn có thể cười thỏa thích với Anne về chuyện đó.
    Nhưng chẳng có đến nửa nụ cười kín đáo đáp lại nó trong đôi mắt xám của Anne như lẽ ra vốn có, nếu đây chỉ là một trò tinh nghịch bình thường. Nhưng có những thứ khác... xấu xí đáng kinh tởm.
    “Sao cháu có thể cư xử như vậy hả Davy?” cô buồn bã hỏi.
    Davy lúng túng như gà mắc tóc.
    “Cháu chỉ làm vậy cho vui thôi. Đã lâu rồi mọi thứ ở đây cứ yên tĩnh khủng khiếp, nên cháu nghĩ sẽ rất vui nếu dọa người lớn được một trận. Và quả là như vậy.”
    Dẫu sợ hãi và có đôi chút hối hận, Davy vẫn nhăn răng cười khi nhớ lại thành tích của mình.
    “Nhưng cháu đã bịa đặt, Davy ạ,” Anne nói, buồn bã như chưa từng được buồn bã.
    Davy lộ vẻ không hiểu.
    “Bịa đặt gì cơ? Cô muốn nói là nói xạo hả?”
    “Ý cô là nói một chuyện không có thật.”
    “Đương nhiên rồi,” Davy thẳng thắn. “Nếu cháu không nói vậy thì mọi người đâu có sợ. Cháu phải nói mà.”
    Nãy giờ Anne đang phải chịu đựng phản ứng từ cơn sợ hãi và gắng sức. Thái độ hỗn xược của Davy là giọt nước làm tràn ly. Hai giọt nước mắt to lấp lánh trên mắt cô.
    “Ôi, Davy, sao cháu lại làm vậy?” cô nói, giọng run rẩy. “Cháu không biết làm vậy là rất sai hay sao?”
    Davy ngẩn người. Anne khóc... nó đã làm Anne khóc! Làn sóng hối hận thực sự dâng trào như thác lũ và nhấn chìm trái tim bé nhỏ của nó. Nó chạy lại gần Anne, chui vào lòng cô, choàng tay qua cổ cô rồi òa lên khóc.
    “Cháu không biết nói xạo là sai,” nó nức nở. “Sao cô lại tưởng cháu biết đó là sai chứ? Đám con nhà Sprott nói xạo thường xuyên mỗi ngày, và còn thề thốt nữa. Chắc Paul Irving không bao giờ nói xạo và cháu đang cố gắng khủng khiếp để ngoan như nó, nhưng giờ cháu cho rằng cô sẽ chẳng bao giờ thương cháu nữa. Nhưng cháu nghĩ lẽ ra cô phải dạy cháu đó là sai. Cháu hối hận khủng khiếp vì đã làm cô khóc, Anne ạ, và cháu sẽ không bao giờ nói xạo nữa.”
    Davy dúi đầu vào vai Anne và gào khóc thảm thiết. Anne vui sướng khi đột ngột hiểu Davy, ôm chặt lấynó và liếc nhìn bà Marilla qua mái tóc quăn lùm xùm của nó.
    “Nó không biết bịa chuyện là sai, bác Marilla ạ. Cháu nghĩ chúng ta nên tha thứ cho nó lần này nếu nó hứa không bao giờ bịa đặt nữa.”
    “Cháu sẽ không bao giờ vậy nữa, giờ cháu đã biết làm vậy là xấu rồi,” Davy khẳng định giữa những tiếng nức nở. “Nếu cô bắt gặp cháu nói xạo lần nào nữa, cô có thể...” Davy vò đầu bứt tóc để tìm hình phạt thích hợp... “cô có thể lột da cháu, Anne ạ.”
    “Đừng nói 'xạo', Davy... nói là 'bịa đặt,’” cô giáo trường làng chỉnh ngay.
    “Vì sao vậy?” Davy ngồi xuống cho thoải mái rồi nhìn lên với khuôn mặt tò mò đầy vệt nước mắt. Vì sao nói xạo lại không được hay như bịa đặt? Cháu muốn biết. Số chữ cũng như nhau mà.”
    “Đó là tiếng lóng, các cậu bé trai dùng tiếng lóng là sai.”
    “Ôi, số chuyện sai thật là nhiều khủng khiếp,” Davy thở dài. “Cháu chưa bao giờ nghĩ là có nhiều như vậy. Thật tiếc vì nói xạo... bịa đặt là sai, vì bịa đặt tiện khủng khiếp, nhưng vì nó là sai nên cháu sẽ không bao giờ bịa đặt nữa. Cô sẽ phạt cháu thế nào vì đã bịa đặt lần này? Cháu muốn biết.” Anne nhìn bà Marilla vẻ khẩn cầu.
    “Ta không muốn quá khắt khe với thằng nhóc,” bà Marilla nói. “Ta dám chắc chẳng ai dạy nó nói dối là sai, và đám con nhà Sprott không xứng là bạn của nó. Mary đáng thương quá bệnh không thể dạy nó đàng hoàng, và ta cho là chẳng thể mong đợi một đứa bé sáu tuổi biết thế nào là đúng sai nhờ vào bản năng. Có lẽ chúng ta cứ giả sử nó chẳng biết bất cứ thứ gì và dạy lại từ đầu. Nhưng nó phải bị phạt vì nhốt Dora lại, và ta chẳng nghĩ ra cách nào ngoại trừ nhốt nó nhịn đói trong phòng, mà cách này cũng được dùng quá nhiều rồi. Cháu có cách nào khác không Anne? Ta nghĩ cháu phải có chứ, ít nhất là nhờ vào trí tưởngtượng mà cháu hay khoe khoang ấy.”
    “Nhưng hình phạt rất đáng sợ, mà cháu chỉ thích tưởng tượng những gì dễ thương thôi,” Anne nựng nịu Davy. “Có quá nhiều điều đáng sợ trên thế giới này rồi, chẳng cần thiết phải tưởng tượng thêm nữa.”
    Cuối cùng như mọi khi, Davy bị nhốt vào phòng đến trưa hôm sau. Rõ ràng là nó đã chịu khó ngẫm nghĩ, vì lát sau khi Anne lên phòng, cô nghe nó khẽ gọi tên cô. Bước vào phòng nó, cô thấy nó ngồi trên giường, khuỷu tay chống lên đầu gối, tay chống cằm.
    “Cô Anne,” nó nói vẻ nghiêm túc, “ai nói xạo... bịa đặt cũng là sai phải không? Cháu muốn biết?”
    “Đúng vậy.”
    “Người lớn cũng vậy sao?”
    “Đúng.”
    “Vậy thì,” Davy quả quyết, “bà Marilla rất hư, vì chính bà đã bịa đặt. Và bà còn tệ hơn cháu, vì cháu không biết đó là sai, còn bà thì biết.”
    “Davy Keith, cả đời bác Marilla chưa từng nói dối,” Anne phẫn nộ.
    “Có mà. Thứ Ba tuần trước, bà nói với cháu rằng nếu cháu không cầu nguyện mỗi đêm thì sẽ gặp một chuyện gì đó hết sức đáng sợ. Cháu không cầu nguyện hơn một tuần nay rồi để xem chuyện gì sẽ xảy ra... thế mà chẳng có gì xảy ra cả,” Davy kết luận bằng giọng tổn thương.
    Anne cố nhịn mong muốn phá lên cười như điên bởi tin chắc rằng cười như vậy thì cô sẽ chết mất, rồi cô bắt đầu tích cực bảo tồn danh dự của bà Marilla.
    “Này, Davy Keith,” cô nghiêm túc, “chuyện hết sức đáng sợ vừa xảy ra với cháu ngay hôm nay thôi mà.”
    Davy lộ vẻ nghi ngờ.
    “Chắc ý cô là đi ngủ nhịn đói,” nó nói vẻ khinh thường, “nhưng chỉ như thế thì đâu có đáng sợ. Đương nhiên cháu không thích, nhưng cháu bị nhốt trong phòng quá nhiều lần kể từ khi đến đây đến mức cháu quen rồi. Và cô chẳng để dành được chút gì khi cắt phân ăn tối của cháu, vì lúc nào cháu cũng ăn sáng gấp đôi cả.”
    “Cô không muốn nói đến chuyện cháu bị nhốt trong phòng. Cô muốn nói hôm nay cháu đã bịa chuyện. Và Davy à,”... Anne chồm qua giường và lắc lắc ngón tay đầy vẻ biểu cảm với tên thủ phạm... “nói dối gần như là điều tệ hại nhất có thể xảy đến cho một cậu bé trai... gần như là điều tệ hại khủng khiếp nhất. Nên cháu thấy đấy, bà Marilla đã nói sự thực.”
    “Nhưng cháu nghĩ điều gì xấu phải hay ho lắm chứ,” Davy phản đối với giọng tổn thương.
    “Không thể trách bà Marilla về điều cháu nghĩ. Điều xấu không phải lúc nào cũng hay ho. Thường thì nó rất kinh tởm và ngu ngốc.”
    “Dù sao thì nhìn cảnh cô và bà Marilla nhìn xuống giếng cũng tức cười khủng khiếp,” Davy ôm gối.
    Anne cố giữ mặt nghiêm cho đến khi xuống dưới nhà, khi đó cô mới ngã xuống trường kỷ phòng khách mà cười đến đau cả bụng.
    “Ước gì cháu kể cho ta nghe câu chuyện làm cháu cười,” bà Marilla nói có chút u ám.
    “Hôm nay ta chẳng thấy có gì đáng cười cả.”
    “Bảo đảm bác sẽ cười mà.” Anne trấn an. Và bà Marilla quả thật cũng phá lên cười, cho thấy khả năng chấp nhận của bà đã tiến bộ kể từ khi nhận nuối Anne. Nhưng ngay sau đó bà thở dài.
    “Ta cho rằng lẽ ra ta không nên nói vậy với nó, dẫu ta từng nghe một mục sư nói vậy với một đứa bé. Nhưng nó cứ làm ta phát cáu lên. Đó là vào cái đêm cháu đi nghe nhạc ở Carmody và ta cho nó đi ngủ. Nó lý sự cầu nguyện chẳng ích gì cho tới khi nó đủ lớn để đủ quan trọng với Chúa. Anne à, ta chẳng biết mình phải làm gì với đứa bé đó nữa. Ta chưa từng thấy ai quậy hơn nó. Ta cảm thấy nản lòng quá.”
    “Ồ, đừng nói vậy bác Marilla. Nhớ cháu đã hư thế nào khi mới tới đây không.”
    “Anne, cháu chẳng bao giờ hư cả... Chẳng bao giờ. Bây giờ thì ta mới thấy vậy, khi hiếu được hư thực sự là thế nào. Ta phải công nhận là cháu luôn dính vào những vụ rắc rối khủng khiếp, nhưng động cơ của cháu là tốt. Còn Davy thì hư hỏng bởi vì nó quá yêu cái xấu.”
    “Ồ không, cháu không nghĩ nó hư hỏng thật sự đâu,” Anne van vỉ. “Chỉ là tinh nghịch thôi mà. Với lại ở đây cũng quá bình lặng đối với nó, bác biết mà. Nó chẳng có ai để chơi nên phải tưởng tượng ra đủ thứ trò. Dora thì nghiêm trang và đúng mực quá, không thể là bạn chơi của một cậu con trai được. Cháu nghĩ ta nên cho bọn chúng đi học, bác Marilla ạ.”
    “Không,” bà Marilla kiên quyết, “ba ta luôn nói rằng không nên nhốt trẻ em vào bốn bức tường trường học cho đến khi nó được bảy tuổi, và ông Allan cũng nói thế. Hai đứa song sinh có thể học vài bài vỡ lòng ở nhà, nhưng chúng sẽ không đi đến trường cho đến khi bảy tuổi.”
    “Vậy thì chúng ta phải cố cải tạo Davy ở nhà thôi,” Anne hào hứng. “Dẫu có nhiều khuyết điểm, nó vẫn là một cậu bé dễ thương. Cháu không thể không thương nó. Bác Marilla, có lẽ nói ra thì thật không phải, nhưng thật sự thì cháu thương Davy hơn Dora, vì cô bé quá ngoan đi.”
    “Ta chẳng biết tại sao nhưng ta cũng vậy đấy,” bà Marilla thú nhận, “Và thật không công bằng, vì Dora chẳng bao giờ gây chuyện cả. Không thể có một đứa trẻ ngoan hơn nó, thậm chí mình còn không biết nó đang ở trong nhà nữa.”
    “Dora quá ngoan,” Anne nói. “Cô bé sẽ cư xử đúng mực dẫu không ai nói cho cô bé biết phải làm gì. Cô bé trưởng thành bẩm sinh, nên không cần chúng ta; và cháu nghĩ,” Anne kết luận, chỉ ra một sự thật cốt lõi, “chúng ta chỉ yêu nhất những người nào cần chúng ta thôi. Davy rất cần chúng ta.”
    “Đúng là nó cần một thứ gì đó thật,” bà Marilla đồng ý. “Rachel Lynde sẽ nói là nó cần một trận đòn nhớ đời.”

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 11 - SỰ THẬT VÀ TƯỞNG TƯỢNG
    “Dạy học là một nghề rất thú vị,” Anne viết cho một cô bạn thân ở Học viện Queen. “Jane nói cậu ấy thấy nó đơn điệu, nhưng tớ không thấy vậy. Mỗi ngày đều gần như chắc chắn sẽ có chuyện gì đó buồn cười xảy ra, và trẻ em nói những lời thú vị không tả nổi. Jane nói cậu ấy phạt học trò mỗi khi chúng nói những điều ngớ ngẩn; chắc đó là lý do khiến cậu ấy thấy việc dạy học đơn điệu. Trưa nay,Jimmy Andrews bé bỏng cố gắng đánh vần từ 'lấm tấm' mà mãi không xong. ‘À,’ cuối cùng nó nói, 'em không đánh vần được nhưng em biết nghĩa của nó đấy.’
    “'Nghĩa gì?' mình hỏi.
    “'Khuôn mặt của St. Clair Donnell, thưa cô.’
    “St. Clair đúng là bị tàn nhang đầy mặt, dẫu tớ cố ngăn mấy đứa khác trêu chọc nó... bởi tớ từng bị tàn nhang, và ôi chao tớ nhớ rõ mồn một thời đó. Nhưng tớ không nghĩ là St. Clair quan tâm. Chỉ vì Jimmy gọinó là St. Clair mà St. Clair đã tẩn nó một trận trên đường về nhà. Tớ nghe nói là có đánh nhau, nhưng không chính thức, vì thế tớ nghĩ tớ chẳng can thiệp làm gì.
    “Hôm qua, tớ đang tìm cách dạy Lottie Wright làm tính cộng. Tớ nói, 'Nếu em có ba cục kẹo ở một tay và hai cục kẹo ở tay còn lại, vậy thì tổng cộng em có bao nhiêu?' 'Nguyên một miệng kẹo,’ Lottie đáp. Và trong giờ sinh vật, khi tớ hỏi đám trẻ cho lý do vì sao không nên giết cóc, Benjie Sloane nghiêm túc trả lời, 'Vì hôm sau trời sẽ mưa.'
    “Muốn không cười cũng khó, Stella à. Tớ phải nén cười cho tới khi về nhà, và bác Marilla nói bác ấy lo lắng khi nghe tiếng cười lanh lảnh vang lên từ chái Đông mà chẳng có lý do gì rõ ràng. Bác ấy nói đó là triệu chứng phát điên của một người đàn ông ở Grafton trước đây.
    “Cậu có biết rằng Thomas Becket[4] được xếp là một loại rắn hay không? Rose Bell nói như vậy đấy... vàWilliam Tyndale là người viết ra Tân ước. Claude White[5] còn nói 'băng hà' là người bán kem que!
    'Tớ nghĩ việc khó nhất trong nghê dạy học, và cũng là việc thú vị nhất, là làm cho học trò thổ lộ với mình suy nghĩ thật sự của chúng. Một ngày bão bùng tuần vừa rồi, tớ kêu đám học trò lại vào buổi ăn trưa và cố khiến chúng nói chuyện với tớ như một người bạn. Tớ hỏi chúng muốn điều gì nhất. Một vài câu trả lời khá bình thường... búp bê, ngựa, giày trượt. Nhưng những câu còn lại đúng là độc đáo. Hester Boulter muốn 'mặc áo đầm Chủ nhật suốt tuần và ăn trong phòng khách'. Hannah Bell muốn 'ngoan mà chẳng cần phải cố gắng gì'. Marjory White mới mười tuổi thì muốn là một góa phụ. Khi bị hỏi vì sao, cô bé nghiêm túc đáp rằng nếu không lập gia đình thì sẽ bị gọi là gái già, và nếu lấy chồng thì bị chồng ăn hiếp, nhưng nếu là góa phụ thì chẳng phải sợ gì. Điều ước đặc sắc nhất là của Sally Bell. Cô bé muốn có 'tuần trăng mật'. Tớ hỏi cô bé có biết đó nghĩa là gì không thì cô bé đáp đó là một loại xe đạp thật xịn, vì cậu họ của cô bé ở Montreal đi tuần trăng mật sau khi kết hôn, và anh ta luôn có xe đạp đời mới nhất!
    “Một hôm khác tớ lại yêu cầu chúng kể cho tớ nghe chuyện xấu nhất mà chúng từng làm. Tớ không cạy răng được đám trẻ lớn, nhưng đám học lớp ba thì trả lời khá thẳng thắn. Eliza Bell đã 'đốt cháy cuộn băng keo của bà cô'. Khi hỏi nó có cố ý không, nó đã trả lời, 'không hẳn'. Nó chỉ đốt thử một đầu xem cuộn băng keo có cháy không, và cả nguyên cuộn bốc lửa chỉ trong chốc lát sau đó. Emerson Gillis tiêu mười xu mua kẹo trong khi đáng lẽ phải quyên cho từ thiện. Tội lỗi lớn nhất của Annetta Bell là 'ăn quả việt quất mọc trong nghĩa trang'. Willie White đã 'trượt xuống mái chuồng cừu nhiều lần trong khi đang mặc quần dài Chủ nhật'. 'Nhưng em đã bị trừng phạt vì em phải mặc quần vá đến lớp học Chủ nhật suốt mùa hè, và khi đã bị phạt rồi thì không cần phải hối lỗi nữa,’ Willie tuyên bố.
    “Ước gì cậu được xem một số bài văn của đám học trò... giá như tớ có thể gửi cho cậu bản sao của vài bài luận được nộp gần đây nhỉ. Tuần trước, tớ nói với lớp bốn rằng tớ muốn chúng viết thư cho tớ về bất cứ điều gì, có gợi ý rằng chúng có thể kể cho tớ nghe về những nơi chúng đã viếng thăm hoặc ai hay cái gì thú vị mà chúng từng gặp. Chúng phải dùng giấy viết thư, bỏ vào bao rồi dán lại, ghi là gửi cho tớ, tự làm mà không được nhờ vả ai. Sáng thứ Sáu vừa rồi, tớ bắt gặp một chồng thư trên bàn, và chiều hôm đó, tớ một lần nữa nhận ra nghề dạy học có vui mà cũng có cả buồn. Nhưng những bài văn đó sẽ giúp tớ cân bằng. Đây là bức thư của Ned Clay, tên người nhận, ngữ pháp và chính tả giữ nguyên.
    “’Cô giáo ShiRley
    “’Trái nhà Xanh.
    “'Đảo hoành tử edward
    “ 'chim
    “ 'Cô thân mến em nghĩ em sẽ viết cho cô bài văn về chim, chim là động vật rất có lợi. mèo của em bắt chim. Tên nó là William nhưng ba gọi nó là tom, nó xọc vằng và có một lỗ tai bị đống băng mùa đông năm ngoái, nếu không có vậy thì nó là một con mèo dễ nhìn. Kậu của em có nuôi một con mèo. một ngày nọ nó tới nhà cậu ấy và không chiệu đi và kậu nói nó quên nhiều hơn đa số người ta biết. kậu cho nó ngủ trên ghế sích đu và mợ em nói kậu thích nó hơn cả con. như vậy là không đúng, chúng ta nên đối xử tốt với mèo và cho chúng sữa mới nhưng chúng ta không nên thích nó hơn cả con chúng ta. đó là tát cả em nghĩ ra bây giờ nên chẳng còn gì nữa từ
    “ 'edward blake ClaY.”'
    “Bài luận của St. Cair Donnell, như mọi khi, ngắn gọn vào thẳng đề. St. Clair không bao giờ nói lời dư thừa. Tớ không nghĩ rằng nó có ý châm chọc khi chọn đề tài hay viết dòng tái bút. Chỉ là nó không khéo léo và không có trí tưởng tượng phong phú cho lắm thôi.”
    '“Cô Shirley thân mến
    “ 'Cô nói chúng em phải mô tả thứ gì lạ mà chúng em từng thấy. Em sẽ miêu tả tòa thị chính Avonlea. Nó có hai cửa, một cửa trong và một cửa ngoài. Nó có sáu cửa sổ và một ống khói. Nó có hai đầu và hai mặt. Nó sơn màu xanh dương. Đó là điều khiến nó kỳ lạ. Nó được xây trên đường Carmody phía dưới. Đó là tòa nhà quan trọng thứ ba ở Avonlea. Các tòa nhà còn lại là nhà thờ và lò rèn. Ở đó họ tổ chức các cuộc tranh luận, thỉnh giảng và hòa nhạc.
    “’Trân trọng,
    '“Jacob Donnell.
    “’Tái bút: Tòa thị chính có màu xanh dương chói lọi.’
    “Lá thư của Annetta Bell khá dài làm tớ kinh ngạc, bởi viết văn không phải sở trường của cô bé và thường thì bài văn của cô bé ngắn y hệt như của St. Clair. Annetta là một cô bé trầm tính và luôn cư xử đúng mực, nhưng chẳng có chút óc sáng tạo nào. Đây là lá thư của cô bé.
    “ 'Cô thân yêu nhất trên đời,
    “ 'Em nghĩ em sẽ viết một lá thư để cô biết em yêu cô đến nhường nào. Em yêu cô bằng cả trái tim, linh hồn và tâm trí... bằng tất cả những gì em có... và em muốn phục tùng cô vĩnh viễn. Đó sẽ là đặc quyền lớn lao nhất của em. Đó là lý do em cố gắng ngoan ngoãn trong lớp và học bày.
    “ 'Cô thật xinh đẹp, cô giáo của em. Giọng cô như tiếng nhạc và đôi mắt cô như hoa păng xê đẫm sương. Cô giống như một nữ hoàng cao lớn uy nghi. Tóc cô như dát vàng. Anthony Pye nói tóc cô màu đỏ nhưng cô không cần để ý tới nó.
    “ 'Em chỉ mới biết cô trong vài tháng nhưng em không thể tưởng tượng ra khi nào em chưa biết cô... khi cô chưa bước vào đời em để ban phước và làm nó trĩu quả. Em sẽ luôn coi năm nay là thời gian tuyệt vời nhất trong đời em vì nó đem cô đến với em. Hơn nữa, đó là năm chúng em chuyển tới Avonlea từ Newbridge. Tình yêu của em dành cho cô đã khiến cho cuộc đời em vô cùng phong phú và nó đã bảo vệ em khỏi tổn thương và sự xấu xa. Tất cả đều nhờ cô, cô giáo ngọt ngào nhất của em.
    “ 'Em sẽ không bao giờ quên cô đáng yêu thế nào lần mới đây em gặp cô mặc váy đen với hoa cài trên tóc. Em sẽ luôn ghi khắc hình ảnh đó của cô, ngay cả khi cô trò mình đã bạc đầu. Với em, cô sẽ luôn trẻ đẹp, cô giáo yêu quý nhất đời. Lúc nào em cũng nghĩ đến cô... vào sáng sớm, lúc ban trưa và độ hoàng hôn. Em yêu cô khi cô cười, khi cô thở dài... thậm chí khi cô nhăn mặt. Em chưa bao giờ thấy cô bực dù Anthony Pye nói cô luôn có vẻ khó tính nhưng em không lấy làm ngạc nhiên khi cô nhìn nó vẻ bực bội vì nó thật đáng đời. Em yêu cô mặc mọi bộ váy... mỗi bộ váy mới cô lại càng trông đáng yêu hơn bộ váy cũ.
    “ 'Cô giáo thân yêu nhất đời, chúc cô ngủ ngon. Mặt trời đã lặn và sao trời đang lấp lánh... những ngôi sao sáng rực và mỹ miều như mắt của cô. Em hôn tay và má cô, cục cưng của em. Mong Chúa sẽ dõi theo cô và bảo vệ cô khỏi mọi tổn thương.
    “'Học trò ngon ngõn của cô,
    “ 'Annetta Bell.’
    “Lá thư bất thường này khiến tớ rất khó hiểu. Tớ biết rõ Annetta không thể viết ra những lời lẽ ấy cũng chắc chắn như cô bé không biết bay vậy. Hôm sau lúc đến trường, tớ dẫn cô bé đi dạo ven suối vào giờ nghỉ và nhanh chóng bảo cô bé nói thật về lá thư.
    Annetta òa khóc và thú thật. Cô bé nói cô bé chưa viết thư bao giờ và chẳng biết phải làm thế nào hay viết cái gì. Nhưng có một chồng thư tình ở ngăn trên cùng bàn làm việc của mẹ cô bé, do một 'tình nhân' cũ viết cho.
    “ 'Đó không phải là ba,’ Annetta nức nở, 'đó là một người lúc ấy đang học làm mục sư, do vậy ông ta có thể viết những lá thư tuyệt vời, nhưng cuối cùng mẹ không cưới ông ta. Mẹ nói phân nửa thời gian mẹchẳng hiểu ông ta nói gì. Nhưng em nghĩ những lá thư đó thật hay và em chép mỗi lá một chút rồi gửi cho cô. Em viết 'cô giáo' mỗi khi ông ta viết 'cô gái', thêm vào vài điều mỗi khi em nghĩ ra gì đó và đổi vài ba chữ. Em thay chữ 'tâm trạng' bằng 'bộ váy'. Em chẳng biết 'tâm trạng' là gì nhưng cho rằng đó là thứ gì đó để mặc. Em không nghĩ là cô sẽ nhận ra sự khác biệt. Chẳng hiểu sao cô lại biết không phải do một mình em viết. Cô thật thông minh quá, cô ơi'.
    “Tớ nói với Annetta rằng chép thư của người khác rồi nhận bừa là của mình thì thật xấu. Nhưng tớ e rằng Annetta chỉ hối hận vì bị phát hiện thôi.
    “ 'Nhưng em yêu cô thật mà, cô giáo,’ cô bé nức nở. Tất cả đều là thật, dẫu ông mục sư đó viết trước em. Em yêu cô bằng cả trái tim thật mà.”
    “Thật khó mà trách mắng nghiêm túc ai đó trong trường hợp thế này.
    “Đây là lá thư của Barbara Shaw. Tớ không thể tái hiện lại những vết mực nhòe trên bản gốc.
    “ 'Cô thân yêu,
    “ 'Cô nói chúng em có thể viết về một chuyến viếng thăm. Từ trước đến nay em mới chỉ đi thăm nhà người khác một lần thôi. Đó là nhà cô Mary của em mùa đông vừa rồi. Cô Mary của em là một người rất kỹ tính và là một bà nội trợ hoàn hảo. Đêm đầu tiên em đến hai cô cháu ngồi uống trà. Em đụng vào làm vỡ một cái bình. Cô Mary nói cô giữ cái bình đó từ khi mới kết hôn và chưa ai từng làm vỡ nó trước đây. Khi đứng dậy, em giẫm lên váy cô làm những nếp chun bị toạc ra. Sáng hôm sau khi thức dậy em va bình nước vào bồn làm bể cả hai và em còn làm đổ một tách trà xuống khăn trải bàn vào bữa sáng nữa. Khi em phụ cô Mary rửa chén, em làm rơi một cái đĩa sứ và nó vỡ tan. Chiều hôm đó em ngã cầu thang, bong gân mắt cá chân và phải nằm nghỉ suốt tuần. Em nghe cô Mary nói với dượng Joseph thật may vì nếu không em sẽ làm vỡ mọi thứ trong nhà. Khi em khỏe lại thì đã đến lúc phải về nhà rồi. Em không thích đi viếng thăm ai. Em thích đi học hơn, nhất là từ khi em đến Avonlea.
    “’Trân trọng,
    “'Barbara Shaw.’
    “Willie White bắt đầu như sau:
    '“Kính thưa cô,
    “'Em muốn kể cho cô nghe về bà dì dũng cảm của em. Dì sống ở Ontario và một ngày nọ, dì bước ra khỏi kho thóc và nhìn thấy một con chó trong sân. Con chó không được phép vào đó nên dì lấy gậy đập nó một cái đau điếng, đuổi nó vào kho và nhốt lại. Chẳng bao lâu sau một người đàn ông đến gõ cửa tìm một con sư tử siết' (Tự hỏi: có phải Willie muốn nói đến con sư tử làm xiếc?) Vừa chạy khỏi một rạp xiếc. Hóa ra con chó đó là một con sư tử và bà dì vô cùng dũng cảm của em đã đủi nó vào kho bằng một cây gậy. Thật lạ khi dì không bị ơn thịt nhưng dì rất dũng cảm. Emerson Gillis nói nếu dì nghĩ rằng đó là một con chó thì dì chẳng dũng cảm chút nào, vì đối với dì đó chỉ là một con chó thôi. Nhưng Emerson nó ghen tị vì nó chẳng có bà dì dũng cảm nào mà chỉ có toàn cậu.’
    “Tớ giữ bài luận hay nhất lại cuối cùng. Cậu từng cười tớ vì tớ cho rằng Paul là thiên tài, nhưng tớ chắc lá thư của cậu bé sẽ thuyết phục cậu rằng Paul không phải một đứa bé tầm thường. Paul sống gần bãi biển với bà nội và không có bạn cùng chơi... không có người bạn thực sự nào. Cậu nhớ giáo sư môn Quản lý Trường học từng nói rằng chúng ta không được thiên vị học trò nào, nhưng tớ không thể không thương Paul Irving nhất trong đám học trò của mình. Tớ không nghĩ làm vậy sẽ gây ra điều gì có hại, dù sao thì ai cũng mến Paul, kể cả bà Lynde, bà ấy nói rằng bà không thể tin là mình có thể thích một người Yankee đến vậy. Những đứa nhóc khác trong trường cũng thích cậu bé. Paul không hề yếu đuối hay giống con gái dẫu cậu bé hay mơ mộng và tưởng tượng. Cậu bé rất nam tính và dư sức chứng tỏ mình trong các trò chơi. Cậu vừa đánh nhau với St. Clair Donnell vì St. Clair nói là lá cờ Anh thì hơn xa lá cờ đây sọc và sao của Mỹ. Kết quả là một lần ầu đả, hai bên huề nhau và thỏa thuận từ nay trở đi sẽ tôn trọng lòng yêu nước của nhau. St. Clair nói cú đấm của nó mạnh nhất trong khi Paul có thể đánh ra nhiều lần nhất.”
    “Lá thư của Paul.
    “ 'Cô giáo thân yêu,
    “ 'Cô nói chúng em có thể viết cho cô về những người thú vị mà chúng em biết. Em nghĩ những người thú vị nhất mình biết là những người trên vách đá của em và em định kể cho cô nghe về bọn họ. Em chưa từng kể cho ai nghe về họ trừ bà nội và ba, nhưng em vẫn muốn cô biết họ vì cô luôn thấu hiểu. Có rất nhiều người không thể thấu hiếu, vì vậy có kể với họ cũng chẳng ích gì.’
    “ 'Những người trên vách đá của em sống ở bờ biển. Em thường đến thăm họ mỗi buổi chiều tối trước khi mùa đông đến. Giờ thì đến mùa xuân em mới có thể ra, nhưng họ sẽ vẫn còn đó, bởi những người như vậy không bao giờ thay đổi... đó là điều khiến họ thật tuyệt vời. Nora là người đầu tiên em quen, vậy nên em nghĩ em thích cô ấy nhất. Cô ấy sống ở vịnh Andrews, có mái tóc đen, mắt đen và biết hết mọi thứ về các nàng tiên cá và các thủy thần. Cô nên nghe những câu chuyện mà cô ấy kể. Rồi có cặp Thủy Thủ Song Sinh nữa. Họ chẳng sống cố định ở đâu, lúc nào họ cũng đi biển, nhưng họ thường lên bờ nói chuyện với em. Họ là một cặp vui vẻ da rám nắng, và họ đã nhìn thấy tất cả mọi điều trên thế giới... và còn nhiều hơn thế nữa. Cô biết chuyện gì đã xảy ra với cậu thủy thủ em không? Cậu ấy đang đi thuyền thì tiến thẳng vào làn trăng. Làn trăng là dấu vết trăng tròn để lại trên mặt nước khi nó nhô lên từ biến, cô biết rồi đấy, cô giáo. Thế là cậu thủy thủ em đi thuyền dọc theo làn trăng cho đến khi tới thẳng mặt trăng. Có một cánh cửa nhỏ xíu bằng vàng ở đó; cậu mở cửa rồi đi thuyền xuyên qua. Cậu ấy trải qua những cuộc phiêu lưu tuyệt vời ở mặt trăng nhưng nếu kể hết thì lá thư này sẽ rất dài.’
    “ 'Rồi còn Cô Gái Vàng trong hang động nữa. Một ngày nọ em phát hiện ra một hang động lớn dưới bãi biển, em bước vào đó và một lát sau, em tìm ra Cô Gái Vàng. Mái tóc vàng của cô ấy dài tới tận gót chân, và váy cô ấy lấp lánh chói lọi tựa như vàng sống vậy. Cô ấy còn có một cây đàn hạc bằng vàng, cô ấy chơi đàn suốt ngày... Đi dọc theo bãi biển, cô có thể nghe thấy tiếng nhạc bất cứ lúc nào nếu chịu khó lắng nghe, nhưng hầu hết mọi người đều nghĩ đó chỉ là tiếng gió lách qua kẽ đá. Em chẳng bao giờ kể cho Nora nghe về Cô Gái Vàng. Em sợ Nora sẽ buồn. Cô ấy thậm chí còn tổn thương nếu em nói chuyện quá lâu với cặp Thủy Thủ Song Sinh nữa mà.’
    “'Em luôn gặp cặp Thủy Thủ Song Sinh ở Vách Đá Sọc. Cậu em thủy thủ rất dễ tính, nhưng cậu anh thì thỉnh thoảng nhìn rất hung hãn. Em hơi nghi ngờ cậu anh thủy thủ. Em cho rằng cậu ta dư sức làm một tên cướp biển. Có điều gì đó rất bí ẩn ở cậu ta. Có lần cậu ta chửi thề, và em bảo rằng nếu cậu ta lặp lại lần nữa thì không cần lên bờ nói chuyện với em, vì em đã hứa với bà nội là không chơi với ai chửi thề. Cậu ta lộ vẻ khá sợ hãi, em có thể thấy rõ như vậy, và cậu ta nói nếu em tha lỗi, cậu ta sẽ đưa em tới hoàng hôn. Vậy là buổi chiều hôm sau, khi em đang ngồi trên Vách Đá Sọc, cậu anh thủy thủ lái chiếc thuyền phép từ biển ghé vào và em nhảy lên thuyền. Thân thuyền lấp lánh đủ màu cứ như bên trong vỏ trai, và cánh buồm trông tựa ánh trăng, ôi, chúng em lái thuyền đến thẳng hoàng hôn. Cô giáo ơi, cứ nghĩ xem, em đã đến được hoàng hôn. Và cô nghĩ nó như thế nào? Ở hoàng hôn, mặt đất phủ đầy hoa. Chúng em đi thuyền vào một khu vườn thật lớn, những đám mây là những luống hoa. Chúng em cập vào một bến cảng rộng lấp lánh ánh vàng, em bước khỏi thuyền và lập tức đặt chân lên một đồng cỏ lớn, nơi những bông mao lương to bằng bông hồng. Em ở đó lâu thật là lâu. Tưởng như cả năm trời vậy, nhưng cậu anh thủy thủ nói chỉ mới có vài phút thôi. Cô biết đấy, ở vùng đất hoàng hôn, thời gian trôi chậm hơn ở nơi đây nhiều.’
    “ 'Học trò yêu thương của cô,
    “ 'Paul Irving.
    “ ‘TB: Đương nhiên lá thư này không hoàn toàn là sự thật, cô giáo ạ.
    P. I.’”

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 12 - MỘT NGÀY XUI XẺO
    Ngày ấy bắt đầu từ đêm hôm trước, với cơn đau răng nhì nhằng khó chịu đến ngủ chẳng yên. Khi Anne thức dậy vào buổi sáng mùa đông lạnh lẽo u ám, cô cảm thấy cuộc đời thật chán chường vô vị và chẳng có gì đáng trông đợi.
    Cô đến trường với tâm trạng không mấy tốt. Má cô sưng lên, cả khuôn mặt đau nhức. Phòng học lạnh lẽo ngập khói bởi lò sưởi không chịu cháy và đám học trò ôm nhau run cầm cập xúm xít chung quanh lò sưởi. Anne bảo chúng quay về chỗ ngồi với giọng nghiêm khắc mà cô chưa bao giờ dùng tới. Anthony vênh vang về chỗ với dáng điệu xấc láo thường lệ, và cô thấy nó thì thầm gì đó với bạn cùng bàn rồi nhìn cô nhăn răng cười.
    Anne thấy có vẻ như chưa bao giờ có nhiều tiếng bút chì chít chít như sáng hôm đó; và khi Barbara Shaw lên bàn giáo viên nộp bài, cô bé vấp phải thùng đựng than và kết quả thật tai hại. Than lăn ra khắp phòng, bảng đen của cô bé vỡ tan tành, và khi cô bé đứng dậy được thì mặt đã dính đầy bụi than khiến bọn con trai rống lên cười.
    Anne quay lại khi đang nghe lớp hai đọc bài.
    “Thiệt tình, Barbara,” cô lạnh giọng, “nếu em không thể không ngã vào thứ gì đó khi di chuyển thì tốt nhất em hãy ngồi nguyên chỗ. Đến tuổi của em mà còn vụng về như vậy thì thật là đáng hổ thẹn.”
    Barbara đáng thương loạng choạng trở về bàn, nước mắt kết hợp với bụi than tạo thành một hiệu ứng thật kinh tởm. Chưa bao giờ cô giáo dễ thương yêu quý của cô bé lại dùng giọng hay tỏ vẻ như vậy khi nói với cô, vậy nên Barbara cảm thấy rất đau khổ. Chính bản thân Anne cũng thấy hơi cắn rứt lương tâm, nhưng điều đó chỉ làm tăng thêm sự bực bội của cô, và lớp hai nhớ rõ giờ tập đọc hôm đó cũng như giờ số học khốn khổ khốn sở kế tiếp. Khi Anne đang làm phép tính tổng, st. Clair Donnell hổn hển chạy vội vào.
    “Em trễ nửa tiếng đấy, St. Clair,” Anne lạnh giọng nhắc nhở. “Vì sao vậy?”
    “Xin lỗi cô, em phải giúp mẹ làm bánh pút đinh cho bữa tối vì nhà em có khách mà Clarice Almira lại bị bệnh,” St. Clair trả lời với giọng hết sức lễ phép nhưng dù sao vẫn gây ra một tràng cười hỉ hả trong đám bạn.
    “Quay về chỗ ngồi và làm sáu bài toán trang 84 trong sách để chuộc lỗi,” Anne nói. St. Clair khá ngạc nhiên trước giọng nghiêm khắc của Anne nhưng cũng ngoan ngoãn đi lại bàn lấy tấm bảng nhỏ của mình ra. Sau đó nó lén lút đưa một gói nhỏ cho Joe Sloane ở dãy bên kia. Anne bắt gặp tại trận và lập tức đưa ra án tử cho cái gói.
    Bà lão Hiram Sloane dạo này bắt đầu làm bánh quả hạch để bán kiếm thêm chút tiền còm. Loại bánh này đặc biệt được bọn học trò nam ưa thích, thế là mấy tuần nay Anne gặp nhiều rắc rối liên quan đến chúng.
    Trên đường đến trường, bọn nam sinh sẽ đầu tư số tiền tiêu vặt ở nhà bà Hiram, đem bánh đến trường và nếu có thể thì ăn và đãi bạn trong giờ học. Anne đã cảnh báo đám học trò là nếu còn đem bánh vào trường, cô sẽ tịch thu, thế mà St. Clair Donnell lại tỉnh bơ chuyền tay một hộp bánh bọc lớp giấy sọc trắng xanh mà bà Hiram hay dùng, ngay trước mũi cô.
    “Joseph,” Anne bình tĩnh, “đem cái gói đó lại đây.”
    Joe giật mình bối rối nhưng vẫn vâng theo. Nó là một thằng nhãi mập ú, lúc nào cũng đỏ mặt và lắp bắp khi sợ hãi. Thật chưa từng thấy ai trông tội lỗi như Joe đáng thương lúc đó.
    “Ném nó vào lửa đi,” Anne nói.
    Joe ngần ra.
    “Đ... đ... đừng mà, thưa... thưa... cô,” nó nói.
    “Làm như cô bảo, Joseph, và không cãi một tiếng nào nữa.”
    “Nhưng... nhưng... thưa... thưa cô... đó... đó là....”Joe ấp úng tuyệt vọng.
    “Joseph, em có nghe lời tôi hay không?” Anne hỏi.
    Kể cả một đứa gan dạ và tự tin hơn Joe Sloane cũng phải bị giọng nói và ánh mắt giận dữ của Anne khuất phục. Đây là một cô giáo Anne mới mà chẳng có học trò nào từng nhìn thấy trước nay. Joe nhìn St. Clair vẻ trách móc rồi đi đến lò sưởi, mở cánh cửa vuông lớn đằng trước và ném cái gói trắng xanh vào trước khi St. Clair - vừa đứng bật dậy - kịp nói tiếng nào. Sau đó nó nhảy qua một bên tránh vừa kịp lúc.
    Trong vài giây sau, những cư dân hoảng loạn của trường Avonlea không biết vừa xảy ra động đất hay là núi lửa phun trào. Cái hộp giấy vô tội mà Anne đã hấp tấp cho rằng chứa bánh quả hạch của bà Hiram trên thực tế chứa đây pháo nổ và pháo hoa mà hôm trước Warren Sloane nhờ ba của st. Clair Donnell ra tỉnh mua nhằm chuẩn bị cho một bữa tiệc sinh nhật tối nay. Pháo nổ đùng đùng như sấm và pháo hoa trào ra khỏi cửa quay cuồng khắp phòng, vừa kêu xì xì vừa nổ xèo xèo. Anne ngồi phịch xuống ghế, mặt tái nhợt kinh hoàng còn đám con gái thì rú rít trèo lên mặt bàn. Joe Sloane đứng như trời trồng giữa đám hỗn loạn còn St. Clair đang bò lăn ra cười sằng sặc giữa lối đi. Prillie Rogerson ngất xỉu còn Annetta Bell lên cơn kích động.
    Thời gian trôi qua tưởng như dài dằng dặc, dẫu thực tế chỉ mới vài ba phút, cho đến khi viên pháo hoa cuối cùng nổ tung. Anne định thần lại, chạy ra mở tung cửa ra vào và cửa sổ để hơi ga và khói đầy phòng bay ra ngoài. Sau đó cô giúp đám con gái khiêng Prillie bất tỉnh ra hiên, Barbara Shaw khao khát muốn làm người có ích đã dội một thùng đầy nước đá lên mặt và vai của Prillie trước khi bất cứ ai kịp ngăn lại.
    Phải mất cả tiếng đồng hồ mới lập lại được trật tự... nhưng sự yên tĩnh đó nặng nề hết mức. Mọi người nhận ra rằng ngay cả vụ nổ cũng không làm cho cơn giận của cô giáo giảm bớt. Không ai, ngoại trừAnthony Pye, dám thì thào một tiếng. Ned Clayvô tình làm gãy bút chì khi làm tính, bắt gặp ánh mắt của Anne lườm sang và ước gì sàn nhà nứt làm đôi nuốt trọn lấy mình. Lớp địa lý được dẫn dắt qua một lục địa với tốc độ chóng mặt. Lớp ngữ pháp bị ngắt câu và phân tích chính tả đến tận chân tơ kẽ tóc. Chester Sloane đánh vần chữ “thơm” thành “xơm” và cảm thấy nhục nhã đến mức chẳng muốn sống nữa, dẫu là trong kiếp này hay kiếp sau.
    Anne biết mình đã tự bêu riếu mình và vụ việc này sẽ được đem ra mà cười cợt bên hàng chục bàn trà tối nay, nhưng biết vậy chỉ khiến cô càng thêm tức giận. Trong một tâm trạng bình tĩnh hơn, cô có thể cười xòa bỏ qua, nhưng giờ thì điều đó là không thể; do vậy cô lờ sự vụ đi bằng sự lạnh lùng xem thường.
    Khi Anne quay lại trường sau bữa trưa, mọi học trò đều ngồi ngay ngắn tại chỗ như thường lệ, mọi khuôn mặt đều cúi xuống chăm chỉ học bài trừ Anthony Pye. Nó liếc nhìn Anne qua rìa sách, đôi mắt đen lấp lánh vẻ tò mò và nhạo báng. Anne mở ngăn kéo bàn làm việc tìm phấn và ở ngay bên dưới tay cô, một con chuột còn sống sờ sờ nhảy ra khỏi ngăn bàn, chạy loăng quăng trên mặt bàn rồi nhảy xuống đất.
    Anne rú lên và lùi lại như thể đó là con rắn vậy, thế là Anthony Pye phá lên cười lớn.
    Sau đó yên lặng bao trùm... một bầu không khí yên lặng đầy đe dọa và khó chịu. Annetta Bell phân vân không biết có nên lên cơn kích động hay không, nhất là khi cô bé chẳng biết con chuột chạy đi đâu. Nhưng cô bé quyết định không kích động. Ai mà thoải mái lên cơn kích động cho nổi với một cô giáo mặt tái nhợt và mắt rực lửa đứng trước mắt?
    “Ai bỏ con chuột đó vào bàn của tôi?” Anne hỏi. Giọng cô khá thấp nhưng vẫn khiến Paul Irving lạnh sống lưng. Joe Sloane bắt gặp ánh mắt của cô, cảm thấy có lỗi từ đầu đến chân, lắp bắp không kềm chếđược,
    “Không... không... không.... phải... em, cô... giáo, không... không phải em... em.”
    Anne không để ý gì đến cậu chàng Joseph khổ sở ấy. Cô nhìn Anthony Pye và Anthony Pye nhìn thẳng lại, không chớp mắt và không hổ thẹn.
    “Anthony, là em sao?”
    “Đúng vậy,” Anthony trả lời xấc láo.
    Anne rút cây thước từ trong bàn ra. Đó là một cây thước bằng gỗ cứng vừa dài vừa nặng.
    “Lại đây, Anthony.”
    Đó còn xa mới là hình phạt nặng nề nhất mà Anthony Pye từng gánh chịu. Dẫu có là cô nàng Anne tàn nhẫn vào lúc ấy, cô cũng không tài nào trừng phạt nặng một đứa trẻ. Nhưng cây thước cứ nhịp nhàng lên xuống và cuối cùng bề ngoài can đảm của Anthony đã sụp đổ; nó nhăn mặt và rơi nước mắt.
    Anne lương tâm cắn rứt buông thước xuống và cho Anthony về chỗ ngồi. Cô ngồi xuống bàn, cảm thấyxấu hổ, ân hận và mất thể diện một cách cay đắng. Cơn giận của cô đã trôi qua nhanh chóng, và cô sẵn sàng trả bất cứ giá nào để được òa lên khóc cho lòng dịu đi. Sau bao lời khoe khoang, cuối cùng cũng phải dùng tới chiêu này... cô đã thực sự đánh một học trò. Jane sẽ tha hồ lên mặt! Và ông Harrison tha hồ cười khành khạch! Nhưng tệ hơn nữa là suy nghĩ chua chát nhất: cô đã mất đi cơ hội cuối cùng để giành được tình thương của Anthony Pye. Nó sẽ không bao giờ thích cô.
    Anne, với sự nỗ lực như Hercule theo cách người ta thường nói, cố nén nước mắt cho đến buổi tối về đến nhà. Sau đó cô nhốt mình trong căn phòng chái Đông, trút hết mọi sự xấu hố, ân hận và thất vọng vào chiếc gối... Cô khóc lâu đến nỗi bà Marilla cảm thấy lo lắng và chạy vào phòng, khăng khăng hỏi chuyện gì đã xảy ra.
    “Vấn đề là lương tâm cháu bị cắn rứt,”Anne nức nở. “Ồ, và hôm nay đúng là một ngày xui xẻo, bác Marilla ạ. Cháu xấu hổ về bản thân quá. Cháu đã mất bình tĩnh và đánh Anthony Pye.”
    “Ta mừng khi cháu làm vậy,” bà Marilla quả quyết. “Lẽ ra cháu phải làm vậy từ lâu rồi.”
    “Ồ, không, không, bác Marilla. Cháu không biết mình còn mặt mũi nào mà nhìn đám trẻ nữa đây. Cháu cảm thấy nhục nhã đến từng tế bào trong cơ thể. Bác không biết cháu cư xử hung hãn, đáng ghét và quá quắt đến thế nào đâu. Cháu không thể quên ánh mắt của Paul Irving... cậu bé trông thật sửng sốt và thất vọng. Ôi, bác Marilla, cháu đã cố gắng biết mấy để kiên nhẫn lấy lòng Anthony... và bây giờ thì trắng tay.”
    Bàn tay chai cứng vì làm việc vất vả của bà Marilla dịu dàng vuốt ve mái tóc óng ả hơi rối của cô gái. Khi tiếng nức nở của Anne đã dịu đi, bà nhẹ nhàng khuyên cô,
    “Cháu để ý quá nhiều chuyện, Anne à. Chúng ta ai cũng phạm sai lầm... nhưng mọi người đều quên điđiều đó. Và ai cũng có ngày xui xẻo cả. Còn về Anthony Pye, vì sao cháu phải quan tâm nếu nó ghét cháu? Nó là đứa duy nhất mà.”
    “Cháu không thể làm khác được. Cháu muốn mọi người yêu cháu, và cháu cảm thấy tổn thương khi có ai đó không như vậy. Và giờ thì Anthony sẽ không bao giờ yêu cháu, ôi, hôm nay cháu cư xử như một con ngốc, bác Marilla ạ. Cháu sẽ kể cho bác từ đầu đến cuối.”
    Bà Marilla lắng nghe toàn bộ câu chuyện, và Anne không bao giờ biết bà có mỉm cười khi nghe một số chi tiết nào đó hay không. Sau khi nghe xong, bà nói ngay,
    “Ôi, không cần bận tâm đâu. Ngày hôm nay đã xong rồi, mai lại là một ngày mới, tinh khôi chẳng chút lỗi lầm như cháu thường nói đấy. Hãy xuống lầu ăn tối đi. Cháu sẽ thấy liệu một tách trà ngon và món bánh phồng mận ta làm hôm nay có làm cháu phấn khởi lên không.”
    “Bánh phồng mận không có tác dụng với tâm bệnh đâu ạ,” Anne ỉu xìu, nhưng bà Marilla thấy đó là dấu hiệu tốt cho thấy cô gái đã bình tĩnh lại đủ để nhớ tới một đoạn trích dẫn trong sách.
    Bàn ăn tối ấm áp với khuôn mặt tươi sáng của hai đứa sinh đôi cùng món bánh phồng mận vô đối của bà Marilla... Davy ăn tới bốn cái... quả thật đã làm cô vui vẻ hơn nhiều. Đêm đó cô ngủ một giấc ngon lành, và sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, cô thấy bản thân và cả thế giới đều thay đổi. Suốt đêm trời đổ tuyết nhẹ nhưng khá dày, và lớp tuyết trắng đẹp tuyệt lấp lánh dưới ánh mặt trời giá lạnh, trông chẳng khác gì một tấm áo choàng bao dung che phủ mọi sai lầm và nhục nhã của quá khứ.
    “Mỗi sớm mai là một khởi đầu mới.
    Mỗi sớm mai là một thế giới mới,”
    Anne vừa hát vừa mặc quần áo.
    Do trời tuyết cô phải đi vòng mới đến được trường, và cô cho rằng thật là một sự trùng hợp tinh quái khi Anthony Pye đang đạp tuyết tiến lại khi cô mới rời đường Chái Nhà Xanh. Cô cảm thấy có lỗi cứ như vị trí của họ vừa bị đảo ngược, nhưng trước sự ngạc nhiên không kể xiết của cô, Anthony không chỉ nhấc mũ... điều mà trước giờ nó chưa từng làm... mà còn nói một cách thoải mái,
    “Đi bộ thật là cực, phải không? Cô giáo, em cầm sách giúp cô nhé?”
    Anne đưa sách cho nó và tự hỏi liệu mình có đang nằm mơ không. Anthony đi bên cạnh, im lặng suốt đường đi, nhưng khi Anne lấy sách lại, cô mỉm cười với nó... không phải là nụ cười “thân thiện” khuôn sáo mà cô vẫn liên tục dùng để lấy lòng nó mà là ánh lửa bất ngờ của tình bạn. Anthony mỉm cười... à không, sự thật là, Anthony nhăn răng cười lại. Một nụ cười nhăn nhở thường không được coi là một hành động lễ phép; nhưng Anne đột nhiên cảm thấy mình không chỉ chiếm được cảm tình của Anthony mà bằng cáchnào đó, cô còn đã lấy được sự kính trọng của đứa bé nữa.
    Bà Rachel Lynde ghé nhà hôm thứ Bảy và khẳng định điều này.
    “Này, Anne, ta nghĩ cháu đã lấy lòng được thằng Anthony Pye, thế đấy. Nó nói nó tin là cháu cũng có chút ưu điểm, dẫu cháu là con gái. Nói rằng trận đòn cháu đánh nó y chang như đàn ông đánh.”
    “Cháu không ngờ có thể lấy lòng thằng bé bằng một trận đòn,” Anne nói với vẻ tiếc hận, cảm thấy lý tưởng của mình đã tự đá giò mình. “Làm thế chẳng đúng chút nào. Cháu chắc chắn lý thuyết về tình thương của mình không thể sai được.”
    “Không, nhưng họ nhà Pye vốn là ngoại lệ của mọi quy tắc mà, thế đấy,” bà Rachel tự tin khẳng định.
    Ông Harrison nói, “Biết là cháu sẽ phải xài chiêu này mà,” khi hay chuyện và Jane đã trêu chọc cô một cách chẳng thương tiếc.

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 13 - MỘT BUỐI DÃ NGOẠI TUYỆT VỜI
    Anne, trên đường đến dốc Vườn Quả, gặp Diana đang đi đến Chái Nhà Xanh, nơi cây cầu gỗ cũ phủ rêu bắc ngang qua con suối ở phía dưới rừng Ma Ám. Họ ngồi xuống bên bờ Bong Bóng Nữ Thần Rừng, nơi những cây dương xỉ bé xíu vừa tỉnh dậy từ một giấc ngủ ngắn đang lúc lắc những mái đầu xanh xoăn tít.
    “Tớ đang trên đường sang nhờ cậu giúp tớ tổ chức sinh nhật vào thứ Bảy này,” Anne nói.
    “Sinh nhật cậu? Nhưng sinh nhật cậu vào tháng Ba mà!”
    “Đó không phải là lỗi của tớ,” Anne phá lên cười. “Nếu bố mẹ tớ chịu hỏi ý tớ thì chuyện đó đã không bao giờ xảy ra. Tớ đương nhiên sẽ chọn sinh vào mùa xuân rồi. Thật tuyệt vời khi tiến vào thế giới này cùng với hoa tháng Năm và hoa violet. Cậu sẽ luôn cảm thấy chúng là em gái nuôi của cậu. Nhưng vì tớ không sinh vào mùa xuân, điều tốt nhất có thể làm là kỷ niệm ngày sinh của mình vào mùa xuân. Priscilla sẽ ghé thăm hôm thứ Bảy, và Jane sẽ về nhà. Bốn người chúng ta sẽ đi vào rừng, dành một ngày tuyệt vời làm quen với mùa xuân. Không ai trong chúng ta biết xuân là ai, nhưng chúng ta sẽ gặp gỡ nàng ở đó, điều mà chúng ta không tài nào làm được ở nơi khác. Dù sao thì tớ cũng muốn thám hiểm mọi cánh đồng và góc khuất. Tớ tin rằng có vô số góc khuất tuyệt đẹp chưa từng được phát hiện mặc dù có thể đã được nhìn thấy. Chúng ta cũng sẽ làm quen với gió, bầu trời và ánh nắng, rồi đem về mùa xuân trong trái tim.”
    “Nghe có vẻ hay khủng khiếp đấy,” Diana có đôi chút thầm nghi ngờ những lời ma thuật của Anne. “Nhưng chẳng phải ở vài ba nơi còn rất ẩm ướt hay sao?”
    “Ồ, chúng ta sẽ mang ủng cao su chứ,” Anne lùi bước trước thực tế. “Và tớ muốn cậu qua sớm vào sáng thứ Bảy giúp tớ chuẩn bị bữa trưa. Tớ sẽ chuẩn bị những món thanh nhã nhất có thể... những món hợp với mùa xuân, cậu hiểu mà... bánh tạc rau câu nhỏ, bánh lưỡi mèo, bánh quy bơ phủ kem vàng và hồng, bánh mao lương. Và chúng ta cũng phải làm bánh mì kẹp, dẫu chúng chẳng thi vị tí nào.”
    Thứ Bảy chứng tỏ là một ngày dã ngoại tuyệt vời... gió nhẹ, trời trong xanh, nắng ấm áp, làn gió nghịch ngợm lướt qua đồng cỏ và vườn cây. Nơi nào có ánh nắng chiếu tới cũng ngập tràn màu xanh điểm những bông hoa nhỏ li ti.
    Ông Harrison đang cày ruộng ở cuối nông trại, cảm nhận tác phẩm mê hoặc của nàng xuân lay động ngay trong bầu máu đứng tuổi nghiêm túc của mình, thì nhìn thấy bốn cô gái giỏ trĩu nặng trong tay, dung dăng dung dẻ đi qua phía cuối cánh đồng của ông, nơi giáp ranh với một rặng cây bạch dương và linh sam. Giọng nói cười vui tươi của họ vọng lại đến tận tai ông.
    “Hạnh phúc trong một ngày thế này thật dễ dàng, phải không?” Anne nói, trung thành với triết lý của Anne. “Hãy cố biến hôm nay thành một ngày tuyệt vời thực sự, một ngày chúng ta luôn có thể nhớ lại đầy hứng thú. Chúng ta đi tìm cái đẹp và cương quyết không nhìn thấy bất cứ gì khác. 'Những thứ chán phèo, hãy coi chừng!' Jane, cậu lại đang nghĩ tới vấn đề gì đó xảy ra ở trường hôm qua rồi.”
    “Sao cậu biết?” Jane ồ lên ngạc nhiên.
    “À, tớ biết rõ vẻ mặt đó... Tớ cảm thấy nó quá nhiều lần trên mặt của mình mà. Nhưng bỏ nó ra khỏi tâm trí của cậu đi, ngoan đi mà. Nó sẽ chờ được tới thứ Hai... nếu nó không chờ được thì càng tốt. ồ, các cô gái, nhìn cụm hoa violet kia kìa! Lại có thêm một cái gì đó cho bộ sưu tập hình ảnh trong trí nhớ của tớ. Khi tớ tám mươi tuổi... nếu tớ sống tới tuổi đó... tớ sẽ nhắm mắt lại và nhìn thấy những đóa violet đó rõ ràng như tớ nhìn thấy bây giờ. Đó là món quà tốt đẹp đầu tiên mà ngày hôm nay tặng cho chúng ta.”
    “Nếu có thể nhìn thấy một nụ hôn, chắc nó sẽ trông giống như đóa hoa violet,” Priscilla nói.
    Anne như bừng sáng.
    “Tớ rất vui khi cậu nói ra suy nghĩ đó, Priscilla ạ, thay vì chỉ giữ riêng cho mình. Thế giới này sẽ thú vị hơn nhiều... dẫu rằng nó vốn đã rất thú vị rồi... nếu mọi người chịu nói ra suy nghĩ thực sự của họ.”
    “Khi đó một số người sẽ gặp rắc rối đây,” Jane khôn ngoan nhận xét.
    “Tớ cho rằng cũng có thể thế, nhưng đó là lỗi của họ khi nghĩ những điều xấu xa. Dù sao thì hôm nay chúng ta có thể nói ra mọi suy nghĩ của mình, bởi chúng ta sẽ chỉ có những suy nghĩ đẹp đẽ mà thôi. Mọi người chỉ cần nói điều gì vừa hiện ra trong đầu. Đó mới là đối thoại thực sự. Ồ, đây là một lối mòn tớ chưa thấy bao giờ. Chúng ta hãy khám phá nó nào.”
    Lối đi quanh co, hẹp đến nỗi các cô gái phải đi nối đuôi nhau, và những cành linh sam cứ quét qua mặt họ. Dưới hàng linh sam là lớp đệm rêu mượt như nhung, và sau đó, khi cây cối bắt đầu nhỏ dần và thưathớt, đủ loại cây bụi xanh mọc đầy mặt đất.
    “Ôi, nhiều cây tai voi quá,” Diana kêu lên. “Tớ sẽ hái một bó to; chúng đẹp quá.”
    “Sao một loại cây duyên dáng và mềm mại thế kia lại có cái tên khủng khiếp như vậy nhỉ?” Priscilla hỏi.
    “Bởi vì người đầu tiên đặt tên cho chúng chẳng có chút trí tưởng tượng nào hoặc có quá nhiều trí tưởng tượng,” Anne nói. “ồ các cô gái, nhìn kìa!”
    “Kìa” là một cái hồ nông ở giữa một trảng rừng thưa nằm cuối lối đi. Đến giữa mùa xuân, hồ sẽ cạn khô và đáy phủ đầy dương xỉ; nhưng giờ thì nó như một tờ giấy phẳng lặng lấp lánh, tròn như cái đĩa và trong suốt như pha lê. Một hàng bạch dương non mảnh mai bao lấy hồ và những cây dương xỉ viền quanh nó.
    “Ôi thật là đáng yêu!” Jane lên tiếng.
    “Chúng ta hãy khiêu vũ vòng quanh nó như các nàng tiên rừng đi,” Anne kêu lên, đặt giỏ xuống và chìa tay ra.
    Nhưng bài khiêu vũ không được thành công vì mặt đất lầy lội và ủng cao su của Jane bị tuột ra.
    “Cậu không thể là tiên rừng nếu phải mang ủng cao su,” cô quyết định như vậy.
    “Ồ, chúng ta phải đặt tên cho nơi này trước khi rời đi,” Anne nói, chấp nhận sự thật hợp lý không thể chối cãi. “Mỗi người đề nghị một tên và chúng ta sẽ rút thăm. Diana?”
    “Hồ Bạch Dương,” Diana nói ngay.
    “Hồ Pha Lê,”Jane lên tiếng.
    Anne đứng đằng sau, dùng mắt van vỉ Priscilla đừng đặt những cái tên tầm thường tương tự và Priscilla tỏa sáng với cái tên “Thủy Tinh Lấp Lánh.” Anne chọn “Gương Tiên.”
    Những cái tên được viết trên những mảnh vỏ bạch dương bằng một cây bút chì do cô giáo làng Jane lấy ra, rồi những mảnh vỏ cây này được đặt vào mũ Anne.
    Sau đó Priscilla nhắm mắt rút ra một cái. “Hồ Pha Lê,” Jane đắc thắng. Vậy là nó có tên hồ Pha Lê, và nếu Anne có nghĩ rằng số phận đã chơi cái hồ một vố, cô cũng không nói ra miệng.
    Len qua đám cây bụi, các cô gái đi ra khoảnh rừng non khuất nẻo ở đằng sau đồng cỏ của ông Silas Sloane. Băng qua đó, họ phát hiện ra lối dẫn vào một con đường xuyên rừng và quyết định sẽ thám hiểm nó. Cuộc chinh phục của họ được tưởng thưởng hàng loạt những bất ngờ thú vị. Đầu tiên, ở rìa đồng cỏ của ông Sloane là một cổng vòm toàn cây anh đào dại đang nở hoa. Các cô gái hạ mũ mắc vào tay rồi lấy những đóa hoa mềm mại trắng nõn cài lên đầu. Sau đó lối đi rẽ sang phải, đâm thẳng vào khoảnh rừng vân sam vừa rậm vừa tối, họ đi trong ánh sáng lờ mờ như vào lúc chạng vạng, không nhìn thấy một mảnh trời hay một tia sáng nào.
    “Đây là nơi những yêu cây xấu sinh sống,” Anne thì thầm. “Bọn chúng rất tinh quái và hiểm độc nhưngkhông thể làm hại chúng ta, vì chúng không được làm điều ác trong mùa xuân. Vừa có một tên nhìn lén chúng ta từ sau cây linh sam cong queo già cỗi kia, và các cậu có thấy một đám bọn chúng trên cái nấm dù lốm đốm to đùng mà chúng ta vừa đi qua không? Tiên tốt thì luôn sống ở những nơi ngập tràn ánh nắng.”
    “Tớ ước gì tiên có thật,” Jane thốt. “Thật là tuyệt nếu có ba điều ước... một điều cũng được, chẳng phải sao? Này các cô gái, các cô sẽ ước gì nếu có một điều ước? Tớ ước sẽ giàu có, xinh đẹp và thông minh.”
    “Tớ ước mình sẽ cao và thanh mảnh,” Diana nói.
    “Tớ ước được nổi tiếng,” Priscilla nói. Anne nghĩ tới mái tóc của mình và lập tức bác bỏ suy nghĩ tầm thường đó.
    “Tớ ước gì lúc nào cũng là mùa xuân, trong trái tim mỗi người và trong cuộc đời của chúng ta,” cô nói.
    “Nhưng như vậy,” Priscilla nói, “chẳng khác gì ước cả thế giới này giống như thiên đường.”
    “Chỉ là một phần của thiên đường thôi, ở những nơi khác sẽ có mùa hè và mùa thu... ừ thì cả một chút mùa đông nữa. Tớ nghĩ tớ muốn có những cánh đồng lấp lánh tuyết và sương giá trắng muốt trên thiên đường, thỉnh thoảng thôi. Cậu có muốn vậy không, Jane?
    “Tớ... tớ không biết.” Jane cảm thấy bất an. Janelà một cô gái ngoan, thành viên của nhà thờ, luôn có ý thức cố gắng sống xứng đáng với nghề nghiệp đã chọn và tin vào những điều được dạy. Nhưng cô không bao giờ nghĩ tới thiên đường nhiều hơn mức cô phải nghĩ, vì những điều nói trên.
    “Một hôm Minne May hỏi tớ liệu chúng ta có thể mặc bộ áo váy đẹp nhất mỗi ngày trên thiên đường không,” Diana phá lên cười.
    “Thế cậu có nói với cô bé là được không?” Anne hỏi.
    “Chúa rủ lòng thương, không đâu! Tớ nói với nó là chúng ta sẽ không nghĩ gì đến váy áo ở trên đấy.”
    “Ồ, tớ nghĩ chúng ta sẽ nghĩ tới đấy... chỉ một chút thôi,” Anne hào hứng. “Chúng ta sẽ có rất nhiều thời gian trong vĩnh hằng để nghĩ tới váy áo mà không bỏ bê những chuyện quan trọng hơn. Tớ tin là chúng ta sẽ đều mặc những bộ váy xinh đẹp... hoặc tớ cho rằng dùng từy phục thì phù hợp hơn. Đầu tiên, tớ sẽ muốn mặc màu hồng ít nhất là vài thế kỷ... tớ đoán phải lâu cỡ vậy thì tớ mới chán màu hồng, tớ chắc thế đấy. Tớ thật sự yêu màu hồng, thế mà tớ chẳng thể nào mặc nó trong cuộc đời này.”
    Qua hàng vân sam, lối đi chúc xuống một khoảnh đất nhỏ ngập nắng, nơi một nhịp cầu gỗ bắc ngang qua một dòng suối; và sau đó là một rừng sồi dưới ánh nắng đẹp đến sững sờ, nơi không khí tựa như rượu vang vàng óng trong suốt, vòm lá tươi mới xanh ngăn ngắt, nên rừng bên dưới chẳng khác gì tranh ghép bởi những tia nắng mặt trời lung linh. Rồi thêm vài cây anh đào dại, một thung lũng nhỏ đầy những cây linh sam uyển chuyển, rồi một ngọn đồi dốc đứng đến mức mấy cô gái leo lên hết cả hơi; nhưng khi bọn họ lên đến đỉnh và bước ra ngoài khoảng đất trống, sự bất ngờ thú vị nhất đang chờ đợi bọn họ.
    Xa xa kia là cánh đồng phía sau của các trang trại, trải rộng tới tận đường Carmody phía trên. Còn ngay trước mặt họ, được viền quanh bởi sồi và linh sam và mở rộng về phía Nam là một góc khuất nhỏ, bên trong có một khu vườn... hay nơi đã từng là một khu vườn. Một bức tường đá xiêu vẹo rêu cỏ mọc đầy bao quanh khoảnh đất. Dọc theo sườn phía Đông là một hàng anh đào trổ hoa trắng xóa như bông, vẫn còn lại dấu vết lờ mờ của những lối đi cũ và một luống đôi toàn những bụi hồng ở chính giữa; nhưng phần còn lại đều phủ đầy thủy tiên trắng và vàng nở rộ đang đong đưa một cách duyên dáng theo làn gió nhẹ phía trên mặt cỏ xanh non.
    “Ôi, thật là tuyệt vời quá!” ba cô gái kêu lên. Anne chỉ giương mắt ngắm nhìn trong sự yên lặng còn hùng hồn hơn bao lời khen ngợi.
    “Trời ơi, làm sao ở nơi này lại có một khu vườn cơ chứ?” Priscilla ngạc nhiên.
    “Chắc là khu vườn của Hester Gray đấy,” Diana nói. “Tớ đã nghe mẹ tớ kể nhưng chưa từng thấy lần nào, và tớ cũng không đời nào ngờ rằng khu vườn ấy vẫn còn tồn tại. Cậu đã nghe câu chuyện đó chưa hả Anne?”
    “Chưa, nhưng cái tên nghe có vẻ quen quen.”
    “Ồ, chắc cậu đã nhìn thấy trong nghĩa trang. Cô ấy được chôn ở đó trong góc cây dương. Cậu biết bia mộ nâu nhỏ có khắc cánh cửa đang mở và dòng chữ ‘Tưởng nhớ tới Hester Gray, hai mươi hai tuổi’ chứ. Jordan Gray được chôn ngay bên cạnh cô ấy, nhưng không có bia mộ. Thật lạ khi bác Marilla không kể cho cậu nghe, Anne ạ. Đương nhiên, chuyện xảy ra ba mươi năm rồi, và mọi người đều đã lãng quên.”
    “Ồ, nếu có một câu chuyện thì chúng ta nhất định phải nghe,” Anne nói. “Hãy ngồi xuống ngay đây giữanhững đóa thủy tiên và Diana sẽ kể chúng ta nghe, ôi, các cô gái, có hàng trăm đóa thủy tiên... chúng che phủ mọi thứ. Cứ như khu vườn được trải một lớp thảm làm từ ánh trăng và ánh mặt trời kết hợp lại. Đây là một khám phá đáng ghi nhớ. Nghĩ xem, tớ sống cách nơi này chưa tới một dặm suốt sáu năm trời mà chưa từng nhìn thấy nó lần nào! Giờ thì kể đi, Diana.”
    “Lâu lắm rồi,” Diana bắt đầu, “trang trại này thuộc về ông lăo David Gray. Ông ấy không sống ở đây... mà sống ở nơi Silas Soane đang ở. Ông ấy có một đứa con trai tên là Jordan, một mùa đông nọ; anh ta đến Boston làm việc, và ở đó anh đem lòng yêu một cô gái tên Hester Murray. Cô ấy làm ở một cửa hàng và căm ghét công việc của mình. Cô lớn lên ở vùng quê và luôn muốn quay trở về đó. Khi Jordan cầu hôn, cô ấy nói sẽ đồng ý nếu anh chịu đưa cô tới một nơi nào yên tĩnh mà cô chỉ thấy toàn đồng ruộng và cây cối. Thế là anh ấy dẫn cô tới Avonlea. Bà Lynde nói anh ấy quá sức mạo hiếm khi cưới một người Yankee, và rõ ràng là Hester khá yếu ớt và chẳng giỏi tề gia nội trợ, nhưng mẹ tớ nói cô ấy rất xinh đẹp và dịu dàng, Jordan tôn thờ cô ấy. À, ông Gray cho Jordan nông trại này, anh ấy xây một căn nhà nhỏ ở đây và sống cùng Hester ở đó suốt bốn năm. Cô ấy chẳng hay ra ngoài và hầu như chẳng có ai đến thăm ngoại trừ mẹ tớ và bà Lynde. Jordan làm khu vườn này cho cô ấy, cô ấy mê tít và dành phần lớn thời gian của mình cho nó. Cô ấy không giỏi nội trợ nhưng đặc biệt mát tay trồng hoa. Rồi sau đó cô ấy bị bệnh. Mẹ tớ cho rằng cô ấy bị lao phổi từ trước khi đến đây. Cô ấy chưa bao giờ thực sự nằm liệt giường mà chỉ mỗi ngày một yếu hơn. Jordan không nhờ bất cứ ai chăm sóc cô ấy. Anh ấy tự làm mọi chuyện và mẹ nói rằng anh ấy dịu dàng chu đáo như một phụ nữ. Mỗi ngày anh ấy lại quấn cô trong tấm khăn choàng để đưa cô ấy ra vườn và cô ấy vui vẻ nằm ngả người trên một băng ghế. Nghe đồn cô ấy từng yêu cầu Jordan quỳ xuống bên cô mỗi sáng và mỗi tối, cùng cầu nguyện với cô để cô có thể nhắm mắt trong vườn khi thời điểm định mệnh ấy đến. Và lời cầu nguyện của cô đã được chấp thuận. Một ngày nọ, Jordan ẵm cô ra băng ghế, rồi hái tất cả hoa hồng vừa nở chất đầy trên người cô; và cô ấy mỉm cười với chồng... rồi nhắm mắt... và,” Diana khe khẽ kết luận, “đó là kết thúc.”
    “Ôi, đúng là một câu chuyện cảm động,” Anne thở dài lau nước mắt.
    “Chuyện gì xảy ra với Jordan?” Priscilla hỏi.
    “Anh ấy bán nông trại sau khi Hester mất rồi quay lại Boston. Ông Jabez Sloane mua nông trại và chuyển căn nhà nhỏ ra sát mép đường. Jordan chết mười năm sau đó, anh ấy được đưa về nhà chôn cất bên cạnh Hester.”
    “Tớ không hiểu nổi vì sao cô ấy lại muốn sống ở tít nơi này, cách xa mọi thứ,” Jane nói.
    “Ồ, tớ có thể dễ dàng hiểu được lý do.” Anne trầm ngâm “Bản thân tớ thì không muốn mãi sống như vậy, bởi vì dẫu yêu đồng ruộng và cây cối, tớ cũng yêu con người nữa. Nhưng tớ có thể hiểu được quyết định của Hester. Cô ấy đã chán tiếng ồn ào nơi thành phố lớn và đám người đông đúc hết đến rồi đi mà chẳng quan tâm gì đến mình. Cô ấy chỉ muốn thoát khỏi tất cả, đến một nơi yên tĩnh, xanh tươi và thân thiện để nghỉ ngơi. Và cô có được đúng điều mình mong muốn, chẳng mấy người được như thế đâu, tớ biết mà. Cô ấy có bốn năm tuyệt đẹp trước khi chết... bốn năm hạnh phúc hoàn hảo, nên tớ nghĩ rằng nên ghen tị chứ không nên thương hại cô ấy. Và rồi có thể nhắm mắt ngủ giữa những đóa hồng, với người chồng yêu nhất trên đời đang mỉm cười với mình... ồ, tớ cho rằng điều đó thật tuyệt!”
    “Cô ấy trồng những cây anh đào đằng kia.” Diana nói. “Cô ấy nói với mẹ tớ rằng cô ấy sẽ chẳng sống đến khi chúng kết quả, nhưng cô ấy muốn nghĩ rằng những thứ mình trồng sẽ tiếp tục sống và tô điểm cho thế gian ngay cả sau khi cô ấy qua đời.”
    “Tớ thật vui vì chúng ta đã đi lối này.” Anne mắt long lanh. “Hôm nay là ngày tớ được nhận nuôi, các cậu biết đấy, và khu vườn này và câu chuyện về nó là món quà sinh nhật dành cho tớ. Mẹ cậu có bao giờ nói với cậu Hester Gray trông thế nào không, Diana?”
    “Không... chỉ nói là cô ấy xinh đẹp.”
    “Tớ lại khá thích như vậy, vì tớ có thể tưởng tượng ra vẻ ngoài của cô ấy mà không bị sự thật cản trở. Tớ cho rằng cô ấy nhỏ con và rất mảnh dẻ, với mái tóc đen loăn xoăn mềm mại, đôi mắt to màu nâu ngọt ngào dịu dàng và khuôn mặt nhỏ nhợt nhạt đăm chiêu.”
    Mấy cô gái để giỏ lại trong khu vườn của Hester để đi lang thang trong rừng và những cánh đồng bao quanh suốt buổi chiều, phát hiện ra rất nhiều lối đi và góc khuất lãng mạn. Khi đói bụng, bọn họ ngồi ăn trưa ở nơi đẹp nhất... trên bờ dốc của một dòng suối róc rách, nơi những cây bạch dương trắng vươn lên khỏi lớp cỏ mềm mại. Các cô gái ngồi lên rễ cây và tận tình thưởng thức những món ăn kiểu cách của Anne, ngay cả món bánh mì kẹp chẳng chút thi vị cũng được ủng hộ nhiệt tình bởi cơn đói sau khi thưởng thức không khí trong lành và những chuyến thám hiểm vất vả. Anne có mang theo ly và nước chanh cho các vị khách mời, còn phần cô chỉ uống nước suối mát lạnh trong chiếc cốc làm bằng vỏ cây bạch dương. Chiếc cốc bị rò, và nước có mùi đất ẩm, nước suối thường có mùi vị như vậy vào mùa xuân, nhưng Anne cảm thấy thứ thức uống đó hợp với hoàn cảnh hơn là món nước chanh.
    “Này, các cậu có nhìn thấy bài thơ đó không?” cô đột nhiên chỉ tay ra.
    “Ở đâu?” Jane và Diana dõi theo như hy vọng sẽ nhìn thấy những vần thơ chữ cố ngoằn ngoèo trên những thân cây bạch dương.
    “Ở kia... dưới dòng suối... nước luồn lách qua khúc gỗ mục đầy rêu xanh tạo thành gợn sóng mượt mà cứ như dùng lược để chải, và tia nắng cô đơn chiếu xiên qua khúc gỗ sâu xuống lòng hồ. ôi, đó là bài thơ đẹp nhất mà tớ từng thấy.”
    “Gọi nó là một bức tranh thì đúng hơn.” Jane thốt. “Một bài thơ thì phải có chữ và vần.”
    “Ôi trời ơi, không phải.” Anne lúc lắc mái đâu cài vòng hoa anh đào dại mềm mại. “Chữ và vần chỉ là lớp áo bên ngoài một bài thơ, và chẳng thể nào nói diềm đăng ten và viền ren kia là cậu, Jane ạ. Bài thơ thực sự là linh hồn bên trong... và khúc gỗ mục đẹp đẽ kia chính là linh hồn của một bài thơ chưa được viết nên. Không phải ngày nào cũng có dịp nhìn thấy một linh hồn, dẫu đó là linh hồn của một bài thơ.”
    “Tớ tự hỏi một linh hồn... linh hồn của con người... sẽ trông thế nào,” Priscilla mơ màng.
    “Tớ nghĩ giống như thế này này.” Anne chỉ vào một vệt nắng rực rỡ chiếu xiên qua một cây bạch dương. “Đương nhiên là có hình dạng và màu sắc nữa. Tớ thích tưởng tượng linh hồn được tạo thành từ ánhsáng. Và một số thì nhìn xuyên qua được với những vệt loang màu hồng run rẩy... một số lấp lánh dịu dàng như ánh trăng trên biển... một số thì nhạt màu và trong suốt như sương mờ bình minh.”
    “Tớ từng đọc ở đâu đó nói rằng linh hồn giống như hoa vậy,” Priscilla nói.
    “Vậy thì linh hồn của cậu là một đóa thủy tiên vàng óng,” Anne nói, “còn của Diana thì giống như một đóa hồng đỏ thầm. Jane là một đóa hoa táo màu hồng, trong trẻo và ngọt ngào.”
    “Còn linh hồn của cậu là một đóa violet trắng, với những vệt tím gân trong nhụy,” Priscilla tiếp lời.
    Jane thì thào với Diana là cô thật chẳng hiểu hai người kia đang nói chuyện gì. Cô có thể hiểu được sao?
    Các cô gái về nhà trong ánh chiều vàng óng bình yên, giỏ chất đầy những đóa thủy tiên từ vườn của Hester, ngày hôm sau Anne đem vài đóa đến nghĩa trang đặt lên mộ Hester. Những chú chim cổ đỏ hát rong đang huýt sáo trong vòm linh sam, những chú ếch đang đồng ca trên đầm lầy. Những chỗ trũng dọc theo các ngọn đồi đều lấp lánh ánh sáng hoàng ngọc và lục ngọc.
    “Ôi, chúng ta đã thực sự có một khoảng thời gian thú vị,” Diana nói cứ như cô chẳng trông đợi được như thế khi khởi hành.
    “Hôm nay đúng là một ngày thực sự tuyệt vời,” Priscilla lên tiếng.
    “Bản thân tớ cũng rất thích rừng cây,” Jane nói.
    Anne chẳng nói gì. Cô dõi nhìn xa xăm vào bầu trời phía Tây và nghĩ tới Hester Gray bé nhỏ.

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 14 - TRÁNH KHỎI MỐI NGUY
    Một tối thứ Sáu nọ, Anne từ bưu điện về nhà thì gặp bà Lynde, bà vẫn đang bận túi bụi như thường lệ với việc vác tù và hàng tổng.
    “Tôi vừa xuống nhà Timothy Cotton để xem có thể nhờ Alice Louise giúp vài ngày được không,” bà nói. “Tuần trước cô nàng tới giúp tôi, dẫu cô ta quá chậm chạp khó mà lo toan mọi chuyện nhưng có vẫn còn hơn không. Nhưng giờ cô ta bị ốm không đến được. Timothy cũng ngồi thừ ở đó; ho hen và than thở. Ông ta đã hấp hối suốt mười năm trời và sẽ còn tiếp tục hấp hối thêm mười năm nữa. Loại người đó đến chết cũng không thể chết cho dứt khoát được... họ chẳng thể kiên nhẫn đến cùng với bất cứ việc gì, không thể bệnh cho thật lâu để cho chết quách đi. Các gia đình ấy lười biếng khủng khiếp, chuyện gì sẽ xảy đến với họ tôi chịu không biết được, nhưng có lẽ Chúa thì biết đấy.”
    Bà Lynde thở dài cứ như nghi ngờ cả Chúa trời cũng phải bó tay.
    “Hôm thứ Ba Marilla đi khám lại mắt, phải không? Bác sĩ chuyên khoa nói sao?” bà tiếp.
    “Ông ta rất hài lòng,” Anne vui vẻ. “ông ta nói mắt bác ấy tiến triển tốt và không còn nguy cơ bị mù hẳn nữa. Nhưng ông ta nói bác ấy không thể đọc sách nhiều hay thêu thùa may vá được. Bà chuẩn bị cho buổi bán hàng từ thiện sao rồi?”
    Hội Từ thiện Phụ nữ đang chuẩn bị cho một hội chợ và bữa ăn tối, bà Lynde là người đứng đâu và đảm nhiệm việc giao tế cho hội.
    “Khá ổn... và câu hỏi của cháu làm tôi nhớ ra một chuyện. Cô Allan nghĩ rằng sẽ thật hay nếu làm một gian hàng giống như nhà bếp thuở xưa và phục vụ một bữa ăn gồm đậu hầm, bánh rán vòng, bánh nhân thịt, vân vân. Chúng tôi đang thu thập những đồ dùng kiểu cũ từ mọi nơi. Bà Simon Fletcher sẽ cho chúngtôi mượn tấm thảm bện của mẹ bà ấy, bà Levi Boulter vài ba chiếc ghế cũ và dì Mary Shaw một tủ ly cửa kính. Tôi cho rằng Marilla sẽ cho mượn giá nến bằng đồng chứ? Và chúng tôi cần càng nhiều chén đĩa kiểu cũ càng tốt. Cô Allan rất muốn có một cái đĩa sứ men xanh Trung Hoa nếu ta có thể tìm ra một cái. Nhưng dường như chẳng ai có cả. Cháu có biết chúng ta có thể kiếm được nó ở đâu không?”
    “Cô Josephine Barry có một cái đó. Cháu sẽ viết thư hỏi mượn cô ấy,” Anne nói.
    “Ừ, tôi cũng mong cháu làm thế. Chắc chúng ta sẽ tổ chức bữa ăn trong vòng nửa tháng tới. Bác Abe Andrew dự báo lúc ấy sẽ có mưa bão; và đó là dấu hiệu khá chắc chắn rằng thời tiết hôm ấy sẽ tốt.”
    Vị được mệnh danh là bác Abe có thể coi là một nhà tiên tri, ít nhất thì cũng như các nhà tiên tri khác, ông ta cũng có chút ít tiếng tăm ở quê nhà. Thực ra ông ta được coi là trò đùa sống của cả vùng vì chẳng có mấy lời dự báo thời tiết của ông ta thành hiện thực, ông Elisha Wright, người luôn hành xử cứ như mình là nhà thông thái địa phương, thường nói rằng chẳng ai ở Avonlea cần phải xem dự báo thời tiết hằng ngày trong báo Charlottetown. Không, họ chỉ cần hỏi bác Abe ngày mai trời thế nào và chờ đợi kết quả ngược lại. Không hề nản lòng, bác Abe vẫn tiếp tục tiên tri.
    “Chúng ta muốn lo cho xong hội chợ trước khi cuộc bầu cử bắt đầu,” bà Lynde tiếp, “Vì các ứng cử viên chắc chắn sẽ đến tiêu rất nhiều tiền. Đám Đảng Bảo thủ đút lót tứ tung, vậy ta nên cho họ một cơ hội tiêu tiền cho chính đáng, ít nhất là một lần.”
    Anne là một ủng hộ viên tích cực của Đảng Bảo thủ vì trung thành với những ký ức về bác Matthew, nhưng cô chẳng nói gì. Cô biết đừng nên tạo cơ hội cho bà Lynde mở đài nói về chính trị.
    Cô nhận được một lá thư gửi cho bà Marilla, dấu bưu điện từ một thị trấn ở British Columbia.
    “Chắc là từ cậu của mấy đứa trẻ,” cô kêu lên hồi hộp khi về đến nhà. “ôi, bác Marilla, không hiếu ông ta sẽ nói gì nhỉ.”
    “Tốt nhất là cứ mở thư ra coi đi,” bà Marilla cộc lốc. Quan sát kỹ càng thì sẽ phát hiện ra bà cũng khá hồi hộp, nhưng thà chết chứ bà chẳng bao giờ chịu thú nhận như vậy.
    Anne xé thư ra, liếc nhanh qua nội dung được viết khá tháu và sai chính tả bên trong.
    “Ông ta nói không đón mấy đứa trẻ vào mùa xuân này được... ông ta bị bệnh gần cả mùa đông và phải hoãn đám cưới, ông ta hỏi liệu chúng ta có thể giữ chúng đến mùa thu, khi ấy ông ta sẽ cố tới đón chúng. Đương nhiên chúng ta sẽ làm vậy, phải không bác Marilla?”
    “Ta cũng thấy chúng ta chẳng còn cách nào khác,” bà Marilla khô khan đáp lời, dẫu bà cảm thấy có phần nhẹ nhõm. “Dù sao thì bọn trẻ không còn gây chuyện nhiều như trước nữa... hay là chúng ta đã quen vớibọn chúng không biết. Davy đã tiến bộ rất nhiều.”
    “Riêng về cách cư xử thì thằng bé rõ ràng đã khá hơn,” Anne dè dặt, cứ như cô không dám chắc về đạo đức của thằng bé.
    Tối qua Anne từ trường về nhà, thấy bà Marilla đã đi họp Hội Từ thiện, Dora ngủ trên ghế xô pha trong bếp, Davy trong tủ phòng ăn, đang đê mê thưởng thức lọ mứt mận vàng ngon nổi danh của bà Marilla... “Mứt dành cho khách,” Davy gọi như vậy... mà nó bị cấm không cho động tới. Nó lộ vẻ biết lỗi khi Anne xông tới kéo nó ra khỏi tủ.
    “Davy Keith, cháu không biết ăn món mứt đó là rất hư sao, nhất là khi cháu đã được dặn dò không được động vào bất cứ thứ gì trong cái tủ đó?”
    “Vâng, cháu biết là sai,” Davy lúng túng thú nhận, “nhưng mứt mận ngon khủng khiếp, cô Anne à. Cháu chỉ thò đầu nhìn một chút, nhưng trông nó ngon quá nên cháu định nếm một tí xíu xiu thôi. Cháu thò mộtngón tay vào...” Anne rên rỉ... “rồi liếm sạch. Và nó còn ngon hơn cháu tưởng tượng gấp nhiều lần, nên cháu lấy một cái thìa và bắt đầu đánh chén.”
    Anne giảng cho Davy một bài dằng dặc về tội ăn vụng mứt mận đến mức lương tâm nó bắt đầu cắn rứt và nó liên tục hôn cô vẻ hối hận, hứa là sẽ không bao giờ lặp lại nữa.
    “Dù sao thì trên thiên đường sẽ có rất nhiều mứt, cũng an ủi được đôi chút,” nó cười mãn nguyện.
    Anne cố nén nụ cười.
    “Có lẽ thế... nếu chúng ta muốn vậy,” cô nói, “nhưng vì sao cháu lại nghĩ vậy?”
    “Ơ, trong giáo lý có viết thế mà,” Davy đáp.
    “Ồ không, trong giáo lý không hề có nội dung như vậy, Davy ạ.”
    “Nhưng cháu nói là có mà,” Davy khăng khăng. “Trong câu hỏi bà Marilla dạy cháu Chủ nhật tuần trước. 'Vì sao chúng ta yêu kính Chúa?' Câu trả lời là, 'Bởi vì Ngài làm bảo quản và cứu rỗi chúng ta.' Bảo quản là một cách gọi cao xa của mứt mà.”
    “Cô phải đi uống một ly nước đã,” Anne vội nói. Khi quay lại, cô tốn không ít thời gian và công sức giải thích cho Davy rằng một dấu phẩy sẽ làm thay đổi nghĩa trong đoạn giáo lý trên rất nhiều.
    “Ôi, cháu cũng nghĩ là đâu dễ có mứt ăn thế,” cuối cùng nó thở dài vẻ thất vọng. “Hơn nữa, cháu chẳng biết Ngài tìm đâu ra thời gian để làm mứt nếu trên thiên đường lúc nào cũng là một ngày Chủ nhật dài vô tận, như trong Thánh ca. Cháu không muốn lên thiên đường. Chẳng lẽ trên thiên đường không có ngày thứ Bảy sao, cô Anne?”
    “Có chứ, thứ Bảy và đủ loại ngày tươi đẹp khác nữa. Và mỗi ngày trên thiên đường lại đẹp hơn ngày trước đó, Davy ạ,” Anne trấn an, mừng vì bà Marilla không có ở đó; nếu không bà sẽ bị sốc mất. Khỏi nói, bà Marilla dạy dổ hai đứa song sinh theo kiểu cũ trong Kinh thánh và không khuyến khích bất cứ mơ mộng hão huyền nào. Mỗi Chủ nhật, Davy và Dora lại được dạy một bài thánh ca, một câu hỏi giáo lý và hai tiết Kinh thánh. Dora ngoan ngoãn học thuộc và đọc lại như máy, có lẽ cũng với độ thấu hiểu và hứng thú của một cái máy. Ngược lại, Davy có trí tò mò sâu sắc, thường xuyên đặt những câu hỏi khiến bà Marilla run sợ cho số phận của nó sau này.
    “Chester Sloane nói trên thiên đường chúng ta chẳng làm gì cả mà chỉ mặc váy trắng đi vòng vòng và chơi đàn hạc, nó còn nói nó hy vọng đến lúc già mới phải lên đó, may ra tới lúc ấy nó sẽ thích thiên đường hơn. Và nó cho rằng mặc váy thật tởm, cháu cũng nghĩ thế. Vì sao thiên thần nam không thể mặc quần hả cô Anne? Chester Sloane quan tâm đến những chuyện đó vì gia đình nó muốn nó thành mục sư. Nó phải trở thành mục sư vì bà nội nó để lại tiền cho nó học đại học, nhưng nó không thể lấy số tiền đó trừ phi trở thành mục sư. Bà nó cho rằng mục sư sẽ mang lại danh giá cho gia đình. Chester nói nó cũng chẳng phiền gì... dù nó thích làm thợ rèn hơn... nhưng nó nhất định sẽ chơi cho thỏa thích trước khi bắt đầu làm mục sư, vì sau khi làm mục sư thì chẳng còn gì vui vẻ nữa. Cháu sẽ không làm mục sư đâu. Cháu muốn làm chủ cửa hàng, như ông Blair, và có hàng đống kẹo với cả chuối. Nhưng cháu khá thích đi đến thiên đường kiểu cô miêu tả, nếu họ cho cháu chơi kèn thay vì đàn hạc. Cô nghĩ họ có đồng ý không?”
    “Ừ, cô nghĩ nếu cháu muốn thì họ sẽ cho phép,” Anne chỉ nói được đến thế.
    Tối hôm đó Hội cải tạo Làng Avonlea họp ở nhà ông Harmon Andrew và yêu cầu mọi thành viên phải có mặt, vì họ phải thảo luận một chuyện quan trọng. Hội đang phát triển và đạt được những thành tích vang dội. Hồi đầu xuân, ông Major Spencer đã thực hiện lời hứa của mình, đào gốc cây, san đất và gieo hạt cỏ ở lề đường phía trước nông trại. Hàng chục người khác, một số quyết tâm không để một người nào nhàSpencer giành lấy hết vinh quang, một số bị các cải tiến viên trong nhà thuyết phục, đã học theo ông ta. Kết quả là có một dải cỏ nhung mịn ven đường nơi trước đây chỉ là những bụi cây hay cỏ dại xấu xí. Những nông trại không làm như vậy ở phía trước nhìn xấu hơn hẳn, khiến cho chủ nhân của chúng cảm thấy thầm xấu hổ và quyết tâm sẽ làm thử vào mùa xuân tới. Mảnh đất tam giác ở ngã ba đã được dọn sạch và gieo hạt xong xuôi, luống hoa phong lữ của Anne được gây dựng ở giữa mà không bị con bò tham ăn nào tàn phá.
    Tóm lại, các cải tiến viên cho rằng họ đang đi đúng hướng, dẫu khi một ủy ban được lựa chọn cẩn thận của bọn họ đến tiếp xúc với ông Levi Boulter về việc ngồi nhà cũ ở nông trại phía trên, ông ta đã lỗ mãng bảo không muốn ai động vào nhà ông ta hết.
    Vào buổi họp đặc biệt hôm nay, bọn họ định sẽ viết đơn thỉnh nguyện cho ủy ban trường học xin xây một hàng rào quanh vườn trường, và thảo luận kế hoạch trồng vài ba cây cảnh bên cạnh nhà thờ nếu quỹ hội cho phép... bởi vì, như Anne nói, khi tòa thị chính vẫn còn được sơn xanh dương thì đừng hòng xin thêm được một đồng quyên góp nào. Các thành viên đang tụ tập trong phòng khách nhà Andrews và Jane vừa đứng dậy chuẩn bị đề cử một ủy ban có trách nhiệm tìm hiểu và báo cáo giá cả của cây cảnh thì Gertie Pye xông vào, tóc chải bóng bẩy và ăn mặc diện đến tận răng. Gertie có thói quen đến trễ... “đế gây ấn tượng đấy mà,” những người ác ý gièm pha. Lần này cô nàng quả thật đã gây ấn tượng, bởi cô nàng làm điệu làm bộ dừng lại giữa phòng, giơ tay lên trời, đảo mắt rồi kêu lên, “Tớ vừa nghe một chuyện thực sự khủng khiếp. Các cậu biết gì không? Judson Parker sẽ cho thuê toàn bộ hàng rào nhìn ra đường cái của nông trại anh ta để cho một công ty sáng chế thuốc sơn biển quảng cáo.”
    Lần đầu tiên trong đời, Gertie Pye khiến mọi người chấn động như mình muốn. Dẫu có quăng bom thẳng vào các Cải tiến viên đang tự mãn, cô cũng chẳng làm họ sững sờ hơn thế này.
    “Điều đó không thế là sự thật,” Anne ngẩn người.
    “Tớ cũng nói y hệt như thế khi vừa nghe tin, cậu không biết sao,” Gertie nói với vẻ hết sức đắc ý. “Tớ nói điều đó không thể là sự thật... rằng Judson Parker không đời nào nỡ làm như thế, cậu không biết sao. Nhưng hồi trưa nay ba tớ gặp anh ta hỏi về việc đó và anh ta đã khẳng định như vậy. Cứ tưởng tượng thử xem! Nông trại của anh ta nằm ngay đường Newbridge, và nó sẽ trông khủng khiếp thế nào nếu được sơn đầy quảng cáo thuốc uống và thuốc cao, các cậu không biết sao?”
    Các Cải tiến viên thực sự biết rõ, rất rõ là đằng khác. Ngay cả người kém sức tưởng tượng nhất cũng có thể hình dung cái hình ảnh kinh tởm là hàng rào gỗ dài nửa dặm được tô điểm toàn những loại quảng cáo kê trên. Mọi suy nghĩ về nhà thờ và sân trường đều biến mất trước mối nguy mới này. Luật dân chủ và các quy tắc đều bị bỏ quên, và Anne đã bó tay không thể tiếp tục ghi chép biên bản vì tuyệt vọng. Mọi người nhao nhao lên náo loạn không thể chịu nổi.
    “Ôi, hãy bình tĩnh,” Anne van nài dẫu là người xúc động nhất trong bọn, “ráng nghĩ thử xem có cách nào ngăn anh ta lại hay không.”
    “Tớ không biết cậu có thể làm sao để ngăn anh ta lại,” Jane kêu lên chua chát. “Ai cũng biết Judson Parker là hạng người gì. Anh ta sẵn sàng làm mọi thứ vì tiền. Anh ta chả có chút xíu tinh thần cộng đồng hay tí tẹo khiếu thẩm mỹ nào.”
    Tinh hình có vẻ không mấy tươi sáng. Judson Parker và chị gái anh ta là những người họ Parker duy nhất ở Avonlea, nên không thể nhờ người trong nhà khuyên ngăn được. Martha Parker là một quý bà đã đứng tuổi, bà ta phản đối đám thanh niên nói chung và các Cải tiến viên nói riêng. Judson là một người vui vẻ dẻo miệng, luôn tươi cười và ôn tồn đến mức thật đáng ngạc nhiên là anh ta có quá ít bạn. Có lẽ anh ta đã chiếm phần hơn trong quá nhiều vụ làm ăn... điều khiến sự mến mộ dành cho anh ta giảm đáng kể. Anh ta nổi tiếng là “ma mãnh” và mọi người cho rằng anh ta “chẳng có nguyên tắc.”
    “Nếu Judson Parker có cơ hội 'làm ăn lương thiện', như anh ta vẫn ra rả, anh ta sẽ không bao giờ buông tay đâu,” Fred Wright tuyên bố.
    “Không ai có thể tác động đến anh ta à?”Anne tuyệt vọng.
    “Anh ta tán tỉnh Louisa Spencer ở White Sands,” Carrie Sloane đê xuất. “Có lẽ cô ta có thể khuyên anh ta đừng cho thuê hàng rào.”
    “Không đời nào,” Gilbert nhấn mạnh. “Tớ biết rõ Louisa Spencer. Cô ta không 'tin' vào các Hội cải tạo Làng quê, mà chỉ tin vào tiền mà thôi. Cô ta có khi còn khuyến khích Judson không chừng chứ đời nào mà khuyên anh ta.”
    “Chỉ còn cách bổ nhiệm một ủy ban đến gặp anh ta để phản đối,”Julia Bell nói, “Và ta phải chọn các cô gái, bởi vì anh ta chẳng tử tế gì với đám con trai đâu... nhưng tớ sẽ không đi, nên đừng ai đề cử tớ.”
    “Tốt nhất là cho Anne đi một mình,” Oliver Sloane nói. “Nếu có ai thuyết phục được Judson thì đó là cậu ấy.”
    Anne phản đối. Cô sẵn sàng đi thuyết phục anh ta, nhưng phải có ai khác đi theo để “ủng hộ tinh thần.” Do vậy, Diana và Jane được chỉ định đi ủng hộ cô, và các Cải tiến viên giải tán, phẫn nộ như ong vỡ tổ. Anne quá lo lắng đến mức gần sáng mới chợp mắt được, rồi cô mơ thấy ủy ban trường học đặt hàng rào quanh trường, trên đó sơn kín dòng chữ: “Hãy dùng thử thuốc tím.”
    Chiều hôm sau ủy ban cải tiến đến gặp Judson Parker. Anne van vỉ anh ta với những lý lẽ hùng hồn chống lại ý định cho thuê đáng kinh tởm, Janevà Diana dũng cảm đứng bên ủng hộ tinh thần cho cô. Judson ăn nói khéo léo ngọt xớt, khen ngợi bọn họ dịu dàng như hoa hướng dương, cảm thấy thật khó xử khi từ chối các quý cô yêu kiều như vậy... nhưng làm ăn là làm ăn, không thể để tình cảm xen vào thời buổi khó khăn thế này được.
    “Nhưng tôi sẽ làm thế này này,” anh ta nói, đôi mắt to màu nhạt lấp lánh. “Tôi sẽ bảo người đại diện chỉ được dùng các màu đẹp đẽ ngon mắt... đỏ, vàng, vân vân. Tôi sẽ bảo ông ta không được phép sơn màu xanh dương với bất cứ giá nào.”
    Ủy ban cải tiến ảm đạm rút lui, trong đầu suy nghĩ những điều quá kinh khủng không thể nói ra miệng.
    “Chúng ta đã làm hết sức và giờ thì chỉ tùy ý trời thôi,” Jane nói, bất giác bắt chước giọng điệu và thái độ của bà Lynde.
    “Tớ tự hỏi ông Allan có làm gì được không,” Diana trầm ngâm.
    Anne lắc đầu.
    “Không, làm phiền ông Allan cũng vô ích thôi, nhất là hiện giờ con ông ấy đang bệnh như thế. Judson sẽtuột ra khỏi tay ông ấy trơn tru như với chúng ta thôi, dẫu hiện giờ anh ta bắt đầu đi nhà thờ khá thường xuyên. Đó chỉ vì cha của Louisa Spencer đã lớn tuổi và rất khó tính về những chuyện như thế.”
    “Judson Parker là người duy nhất ở Avonlea dám nghĩ đến chuyện cho thuê hàng rào,” Jane căm phẫn. “Ngay cả Levi Boulter hay Lorenzo White cũng chẳng đến mức tệ hại như vậy, dẫu họ khá là keo kiệt tính toán. Họ rất để ý đến công luận.”
    Công luận đương nhiên đã ném đá vào Judson Parker khi mọi người biết chuyện, nhưng cũng chẳng giải quyết được gì. Judson cười thầm và bất chấp tất, trong cuộc họp kế tiếp, khi các cải tiến viên đang cố gắng cam chịu viễn cảnh phần đẹp nhất của đường Newbridge sẽ bị dán đầy quảng cáo thì Anne lặng lẽ đứng dậy lúc hội trưởng đề nghị các ủy ban báo cáo, cô tuyên bố rằng Judson Parker đã nhờ cô báo cho hội rằng anh ta sẽ không cho công ty sáng chế thuốc thuê hàng rào nữa.
    Jane và Diana sững sờ như không tin vào tai mình. Quy tắc dân chủ được các cải tiến viên nghiêm ngặt tuân thủ không cho phép họ nhao nhao đặt câu hỏi để thỏa mãn trí tò mò; nhưng sau khi cuộc họp kết thúc, Anne bị vây lấy đòi giải thích. Anne chẳng có gì để giải thích. Judson Parker đuổi kịp cô trên đường chiều hôm trước, nói rằng anh ta đã quyết định chiều theo cái ý kiến kỳ lạ của Hội cải tạo đối với các quảng cáo. Lúc đó và cả về sau nữa, câu trả lời của Anne chỉ có vậy thôi và đó cũng là sự thật. Nhưng trên đường về nhà, Jane Andrews thú thật với Oliver Sloane rằng cô tin chắc có gì đó nằm sau sự thay đổi bí ẩn của Judson Parker nhiều hơn những gì Anne Shirley tiết lộ, và cô cũng đã nói sự thật.
    Chiều hôm trước, Anne đi xuống nhà bà già Irving theo đường ven biển rồi về nhà bằng con đường tắt dẫn qua cánh đồng thấp ven biến, xuyên qua khu rừng sồi dưới nhà của Robert Dickson, men theo một lối mòn dẫn ra đường chính ngay phía trên hồ Lấp Lánh... mà những người không giàu óc tưởng tượng gọi là hồ Barry.
    Có hai người đang ngồi trên xe ngựa ghìm cương tấp vào lề đường, ngay trước lối ra của con đường tắt. Một là Judson Parker; người kia là Jerry Corcoran, một người sống ở Newbridge mà chưa ai chứng tỏ được là ông ta có hành vi mờ ám nào, bà Lynde sẽ nhấn mạnh một cách hùng hồn như vậy. Ông ta là đại diện bán công cụ nông nghiệp và là một nhân vật nổi bật trong các vấn đê chính trị. Ông ta luôn nhúng tay... một số người nói là nhúng cả hai tay... vào mọi miếng bánh chính trị, và vì sắp có tổng tuyến cử ở Canada, Jerry Corcoran bận bịu suốt mấy tuần liền đi vận động khắp hạt cho các ứng cử viên đảng ông ta. Anne vừa bước ra khỏi lùm cây sồi um tùm thì nghe thấy Corcoran nói,
    “Parker, nếu cậu bầu cho Amesbury... ừm, tôi sẽ tặng không cặp bừa cậu vừa mua vào mùa xuân. Tôi cho rằng cậu không phản đối lấy lại tiền chứ, thế nào?”
    “Ààà..., nếu ông đã nói thế,” Judson dài giọng cười nhăn nhở, “tôi nghĩ là tôi sẽ làm thế. Phải biết tự bảo vệ lợi ích riêng trong thời buổi nhiễu nhương này.”
    Cả hai chợt nhìn thấy Anne và cuộc nói chuyện đột ngột gián đoạn. Anne lãnh đạm cúi chào rồi bước tiếp, cằm hơi hất lên so với bình thường. Chẳng mấy chốc Judson Parker đã đuổi kịp cô.
    “Cần đi nhờ không, Anne?” anh ta ân cần.
    “Không, cảm ơn,” Anne lịch sự đáp, giọng khinh khỉnh sắc như dao đủ để đâm xuyên qua lương tâm chẳng mấy nhạy cảm của Judson Parker. Mặt anh ta đỏ bừng lên, tay vặn vẹo dây cương một cách giận dữ; nhưng ngay sau đó, sự cân nhắc cẩn trọng quay lại với anh ta. Anh ta lo lắng nhìn Anne đang thoăn thoắt bước đi, mặt hướng thẳng về phía trước. Liệu cô có nghe thấy lời đề nghị trắng trợn của Corcoran và lời đồng ý rõ ràng của anh ta không? Corcoran chết tiệt! Nếu anh ta không nói năng cân nhắc, sớm muộn gì anh ta cũng sẽ gặp rắc rối to. Lũ giáo làng chết tiệt tóc đỏ quạch với thói quen nhảy bổ từ rừng sồi ra nơi mình chẳng có phận sự gì. Nếu Anne đã nghe thấy, Judson Parker lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử như lời xưa từng nói, rồi tự lừa dối mình như hạng tiểu nhân thường làm, tin chắc Anne sẽ bêu riếu chuyện đó khắp nơi. Judson Parker vốn không quá quan tâm đến dư luận, nhưng chuyện nhận hối lộ nếu bị lộ ra thì thật chẳng khác gì một vố điếng người; và nếu bằng cách nào đó Isaac Spencer biết được chuyện này, anh ta chỉ có nước vĩnh biệt hy vọng cưới được Louisa Jane với triển vọng thừa kế một nông trại sung túc. Judson Parker biết hiện giờ ông già Spencer cũng chẳng mấy đánh giá cao mình, anh ta không thể mạo hiếm được.
    “Hừm... Anne, tôi đang định gặp cô về chút chuyện nhỏ chúng ta vừa thảo luận hôm trước. Tôi đã quyết định không cho thuê hàng rào nữa. Một hội với mục đích cao cả như các cô cần được ủng hộ.”
    Anne dịu xuống một chút bé xíu gần như không nhận ra được.
    “Cảm ơn,” cô nói.
    “Và... và... cô không cần đề cập với ai về cuộc trò chuyện giữa tôi và Jerry.”
    “Tôi không hề định đê cập chuyện này trong bất cứ trường hợp nào,” Anne lạnh lùng đáp, vì cô thà để mọi hàng rào của Avonlea bị sơn quảng cáo còn hơn là khom lưng mặc cả với một kẻ đi bán phiếu bầu.
    “Chính thế... chính thế,” Judson đồng ý, tưởng lầm rằng cả hai đều hiểu ý nhau. “Tôi cũng không cho là cô sẽ làm vậy. Đương nhiên là tôi chỉ lừa Jerry thôi... hắn cứ tưởng hắn thông thái tháo vát lắm. Tôi không hề có ý định bầu cho Amesbury. Tôi sẽ bầu cho Grant như vẫn làm trước giờ... cô sẽ biết khi có kết quả bầu cử. Tôi chỉ dẫn dụ Jerry để xem hắn định đi đến đâu. Và đừng lo về vụ hàng rào... cô có thể báo với các cải tiến viên như thế.”
    “Phải có đủ loại người từ thượng vàng đến hạ cám mới tạo nên được thế giới này, mình thường nghe nói vậy, nhưng mình nghĩ một số loại không có còn tốt hơn,” tối hôm đó Anne nói với bóng mình trong gương ở chái Đông. “Dù sao thì mình cũng sẽ không bao giờ nói cái chuyện đáng xấu hổ này cho bất cứ ai, do vậy lương tâm mình hoàn toàn trong sạch về vụ đó. Mình thật không biết phải cảm ơn ai hay cái gì cho kết quả này. Mình chẳng hề nhúng tay chút nào, và thật khó tin rằng Chúa trời làm việc theo cách giống như những trò chính trị mà Judson Parker và Jerry Corcoran hay chơi.”


  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 15 - KỲ NGHỈ BẮT ĐẦU
    Một buổi chiều vàng yên tĩnh, Anne khóa cửa trường học khi gió âu yếm vuốt ve hàng vân sam quanh sân chơi và những bóng cây lười biếng ngả dài ven rừng. Cô đút chìa khóa vào túi rồi thở dài sung sướng. Năm học đã kết thúc, và cô được nhận tiếp tục dạy cho năm sau, với nhiều lời khen ngợi hài lòng... chỉ có ông Harmon Andrews nói là cô nên dùng roi da thường xuyên hơn... và hai tháng nghỉ hè thú vị xứng đáng đang vẫy gọi cô. Cô cảm thấy bản thân mình và cả thế giới đều bình yên khi đi dọc xuống đồi, tay cầm một giỏ hoa. Từ khi những bông hoa tháng Năm sớm nhất bừng nở, Anne chưa hề bỏ lỡ chuyến viếng thăm hằng tuần đến mộ của Matthew. Mọi người ỞAvonlea, trừ bà Marilla, đã quên đi ông Matthew Cuthbert lặng lẽ, nhút nhát và tầm thường, nhưng hình bóng ông vẫn còn rất rõ rệt trong tim Anne, và sẽ luôn luôn ghi khắc nơi đó. Cô không thể nào quên được ông già tốt bụng là người đầu tiên cho cô tình yêu và sự cảm thông mà thời thơ ấu thiếu thốn của cô luôn khao khát.
    Ở dưới chân đồi, một cậu bé đang ngồi trên hàng rào dưới bóng cây vân sam... một cậu bé với cặp mắt to mơ màng và khuôn mặt đẹp trai nhạy cảm. Cậu nhảy xuống chạy lại gần Anne, mỉm cười nhưng má vẫn còn vương lệ.
    “Em định đợi cô, cô giáo, vì em biết cô sẽ đến nghĩa trang,” cậu nói, luồn tay vào tay cô. “Em cũng đến đó... Em sẽ đặt bó hoa phong lữ này lên mộ của ông nội Irving thay cho bà nội. Và nhìn này, cô giáo, em sẽ đặt bó hoa hồng trắng này bên cạnh mộ của ông để tưởng nhớ đến người mẹ nhỏ bé của em... bởi vì em không thể đi đặt nó lên mộ mẹ. Nhưng cô có nghĩ rằng mẹ cũng sẽ biết hay không?”
    “ừ, cô chắc là mẹ em sẽ biết, Paul ạ.”
    “Cô thấy đấy, cô giáo, hôm nay là ba năm kể từ ngày mẹ em mất. Thời gian đã lâu, lâu lắm rồi nhưng cảm giác vẫn đau đớn như thuở nào... và em vẫn nhớ mẹ nhiều như thuở nào. Đôi lúc em tưởng như mình không chịu đựng nổi, thật là đau đớn quá.”
    Giọng Paul nghẹn lại và môi cậu run rẩy. Cậu nhìn xuống bó hồng, hy vọng cô giáo sẽ không để ý thấy nước mắt trong mắt cậu.
    “Ấy thế nhưng,” Anne dịu dàng, “em lại không muốn nỗi đau ấy ngừng lại... em không muốn quên mẹ em, ngay khi em có thể quên.”
    “Không, quả thực em không muốn... đó chính là điều em cảm thấy. Cô thật thấu hiểu em, cô giáo ạ. Chẳng ai hiểu em như vậy... ngay cả bà nội, dẫu bà đối xử rất tốt với em. Ba em cũng hiểu, nhưng em chẳng thể nói nhiều với ba về mẹ, vì điều đó làm ba rất đau. Khi ba lấy tay che mặt, em luôn biết đó là lúc nên dừng lại. Ba đáng thương, ba nhất định là vô cùng cô đơn khi không có em, nhưng cô thấy đấy, giờ thì ba chỉ có một bà quản gia thôi, mà ba cho rằng quản gia thì không thể nuôi dạy một cậu bé nên người, nhất là khi ba phải vắng nhà thường xuyên vì công việc làm ăn. Bà thì tốt hơn, chỉ kém mẹ thôi. Một ngày nào đó, khi lớn lên rồi, em sẽ quay về với ba và hai ba con sẽ không bao giờ chia ly nữa.”
    Paul đã kể với Anne rất nhiều về ba mẹ cậu đến mức cô cảm thấy như mình quen biết họ. Cô nghĩ mẹ cậu bé nhất định rất giống cậu, cả tính cách và khí chất, và cô cho rằng Stephen Irving là một người khá khép kín với bản tính sâu sắc và dịu dàng mà ông luôn giấu kín trước người ngoài.
    “Ba không dễ thân cận đâu,” Paul từng kể. “Em chưa từng thực sự thân thiết với ba, cho đến khi mẹ em mất. Nhưng ba thật tuyệt vời một khi cô đã hiểu ông. Em yêu ba nhất trên đời, bà Irving kế tiếp, sau đó là cô, cô giáo ạ. Em sẽ yêu cô ngay sau ba, nếu em không có trách nhiệm phải yêu bà nội Irving nhiều nhất, bởi vì bà đã làm rất nhiều việc cho em. Cô biết mà, cô giáo. Dù sao thì em vẫn ước bà cho em để đèn trong phòng cho đến khi em ngủ hẳn. Bà đem đèn ra ngoài ngay sau khi đắp chăn cho em, vì bà nói rằng em không thể nhát gan như vậy. Em không sợ, nhưng em thích có ánh sáng hơn. Người mẹ bé nhỏ của em luôn ngồi bên cạnh cầm tay em cho đến khi em ngủ. Em nghĩ mẹ chiều em đến hư. Thỉnh thoảng các bà mẹ thường vậy, cô biết mà.”
    Không, Anne không biết điều đó, dẫu cô có thể tưởng tượng ra được. Cô buồn bã nghĩ tới “người mẹ nhỏ bé” của cô, người nghĩ cô “hoàn toàn xinh đẹp”, đã qua đời từ lâu và được chôn cất bên cạnh người chồng trẻ măng của mình trong một ngồi mộ không người thăm dọn ở xa rất xa. Anne không thể nhớ ra khuôn mặt của mẹ, vì vậy cô gần như ghen tị với Paul.
    “Sinh nhật em vào tuần tới,” Paul nói khi họ leo lên con đồi đất đỏ tắm mình dưới ánh mặt trời tháng Sáu, “Và ba viết thư nói sẽ gửi cho em thứ gì đó mà em thích nhất, hơn bất cứ món quà nào khác mà ba có thể gửi. Em tin là món quà đã đến nơi, vì bà khóa chặt ngăn kéo tủ sách, và đó là chuyện lạ. Khi em hỏi vì sao thì bà lộ vẻ bí mật mà nói rằng các cậu bé không nên quá tò mò. Được tổ chức sinh nhật thật là thích cô nhỉ? Em sẽ được mười một tuổi. Nhìn em cô cũng không ngờ, phải không cô? Bà nói em trông nhỏ con quá so với tuổi và tất cả là do em không ăn đủ lượng cháo cần thiết. Em cố hết sức nhưng bà múc đầy quá... Bà không hề keo kiệt đâu, em đảm bảo với cô là vậy. Kể từ cái hôm từ lớp học Chủ nhật về nhà, cô và em trò chuyện về việc cầu nguyện, cô giáo ạ... khi cô nói chúng ta nên cầu nguyện về mọi khó khăn của chúng ta... mỗi đêm em đều cầu Chúa ban ơn để em đủ sức ăn sạch cháo vào bữa sáng. Nhưng em chưa hề làm được điều đó, và em thực sự không biết đó là vì em nhận được quá ít ân phúc hay vì cháo quá nhiều. Bà nói ba em lớn lên nhờ món cháo, và trong trường hợp của ba em thì cháo đã có tác dụng tốt, cô cứ nhìn bờ vai vạm vỡ của ba em là thấy. Nhưng có lúc,” Paul kết luận với tiếng thở dài vẻ trầm tư, “em thật sự tin rằng cháo sẽ làm em chết mất.”
    Anne cho phép mình mỉm cười, vì Paul không nhìn cô. Cả Avonlea biết bà già Irving nuôi dạy cậu cháu trai theo chế độ ăn uống và đạo đức lỗi thời.
    “Hãy hy vọng không đến nỗi vậy, bé cưng,” cô vui vẻ. “Những người bạn ở vách đá của em sao rồi? Cậu anh thủy thủ vẫn cư xử đàng hoàng chứ?”
    “Cậu ta phải như vậy,” Paul nhấn mạnh. “Cậu ta biết em sẽ không chơi với cậu ta nếu cậu ta hư. Em nghĩ cậu ta rất đáng gờm.”
    “Và Nora đã biết về Cô Gái Vàng chưa?”
    “Chưa, nhưng em nghĩ cô ấy có nghi ngờ. Em gần như chắc rằng cô ấy theo dõi em lần gân đây nhất khi em chui vào hang. Em không ngại nếu cô ấy tìm ra... chỉ vì cô ấy mà em không muốn cô ấy biết thôi... để cô ấy khỏi đau lòng. Nhưng nếu cô ấy quyết tâm bị đau lòng thì chẳng còn cách nào.”
    “Nếu cô ra bãi biến cùng với em một tối nào đó, em nghĩ cô có thể gặp những người bạn đá của em không?”
    Paul nghiêm túc lắc đầu.
    “Không, em không nghĩ cô có thể nhìn thấy những người bạn đá của em. Em là người duy nhất có thể nhìn thấy họ. Nhưng cô có thể nhìn thấy những người bạn đá của cô. Cô là kiểu người có thể nhìn thấy họ. Chúng ta cùng một típ người mà. Cô biết đấy, cô giáo,” cậu nói thêm, siết chặt tay cô một cách thân thiết. “Là típ người đó thì thật là tuyệt, phải không cô?”
    “Rất tuyệt,” Anne đồng ý, đôi mắt xám lấp lánh nhìn xuống đôi mắt xanh lơ lấp lánh. Anne và Paul đều biết
    “Vùng đất tươi đẹp,
    Nơi trí tưởng tượng mở lối,”
    và cả hai đều biết cách đi tới vùng đất hạnh phúc ấy. Những đóa hồng của niềm vui vĩnh viễn nở rộ trong thung lũng và bên dòng suối, mây không bao giờ che bóng bầu trời nắng đẹp, tiếng chuông ngọt ngào không bao giờ lạc nhịp và tri âm tri kỷ đâu đâu cũng có. Hiểu biết về vị trí của vùng đất ấy... “phía Đông mặt trời, phía Tây mặt trăng”... là truyền thuyết vô giá, không bán ở bất cứ khu chợ nào. Đó chắc phải là món quà của bà tiên thiện khi ta vừa mới sinh ra, và năm tháng chẳng thể nào làm phai nhòa hay mang nó đi mất. Thà có nó mà sống trong một túplều tranh còn hơn sống trong lâu đài mà chẳng có nó.
    Nghĩa trang Avonlea là một nơi yên ả cỏ mọc xanh um như xưa nay vẫn thế. Đương nhiên, các cải tiến viên đã chú ý đến nó và Priscilla Grant đã đọc một bản tham luận về các nghĩa trang trước buổi họp mới đây của Hội. Trong tương lai gãn, các cải tiến viên định sẽ thay hàng rào gỗ nghiêng ngả bám đầy địa y bằng dây kẽm gai gọn gàng, cắt ngắn cỏ và dựng thẳng lại các bia mộ.
    Anne đặt hoa lên mộ Matthew rồi đi đến góc nhỏ dưới bóng cây dương nơi Hester Gray yên nghỉ. Kể từ ngày xuân dã ngoại hôm ấy, Anne bắt đầu đặt hoa lên mộ Hester mỗi lần cô đến thăm Matthew. Chiều hôm trước, cô đã làm một cuộc hành hương trở lại khu vườn nhỏ bỏ hoang trong rừng và hái vài đóa hồng trắng của Hester đem đến đây.
    “Em nghĩ chị sẽ thích chúng hơn bất cứ loại hoa nào khác, chị yêu quý,” cô dịu dàng nói.
    Anne vẫn còn ngồi đó cho đến khi một bóng người phủ lên cỏ, cô nhìn lên và thấy cô Allan. Họ cùng quay về nhà.
    Khuôn mặt cô Allan không còn là khuôn mặt của cô dâu trẻ mà mục sư đưa đến Avonlea năm năm về trước. Nó đã mất đi một ít tươi thắm và những đường nét trẻ trung, thay vào đó là những nếp nhăn nhỏ kiên định ở quanh miệng và mắt. Một số gây ra bởi một ngồi mộ bé xíu trong chính nghĩa trang này; một số nếp nhăn mới hơn đến trong cơn bệnh mới rồi của cậu con trai nhỏ, giờ đã may mắn bình phục. Nhưng nụ cười lúm đồng tiền của cô Allan vẫn ngọt ngào và bất ngờ như trước, đôi mắt trong trẻo, sáng rực và chân thành, và khuôn mặt cô có thêm phần dịu dàng và nghị lực thay cho vẻ trẻ trung vô tư ngày cũ.
    “Chắc cháu rất trông ngóng kỳ nghỉ này, phải không Anne?” cô hỏi khi họ rời nghĩa trang.
    Anne gật đầu.
    “Vâng... 'Kỳ nghỉ', từ ấy cứ như một viên kẹo ngọt cuộn tròn trong lưỡi của cháu vậy. Cháu nghĩ mùa hè sẽ đáng yêu lắm đây. Bởi vì bà Morgan sẽ đến đảo vào tháng Bảy, và Priscilla sẽ dẫn bà ấy đến đây. Chỉ nghĩ đến thôi mà cháu đã cảm thấy cơn 'hưng phấn' cũ quay trở lại.”
    “Cô mong cháu sẽ có một khoảng thời gian vui vẻ, Anne ạ. Năm vừa qua cháu đã làm việc vất vả, và cháu đã thành công.”
    “Ôi, cháu cũng không biết nữa. Cháu vẫn còn quá nhiều thứ chưa đạt được. Cháu chưa thực hiện được những điều cháu muốn làm khi bắt đầu dạy học mùa thu trước. Cháu đã không sống được theo lý tưởng của mình.”
    “Có ai làm được chứ,” cô Allan thở dài. “Nhưng này, Anne, cháu biết Lowell từng nói đấy, ‘Thà thất bại chứ đừng hạ thấp mục tiêu,’ Chúng ta phải có lý tưởng và cố sống trung thành với nó, dẫu chẳng bao giờ thành công hoàn toàn cả. Nếu không có lý tưởng thì cuộc đời thật chán. Có lý tưởng, đời sẽ vĩ đại và tuyệt vời. Hãy giữ vững lý tưởng của mình, Anne ạ.”
    “Cháu sẽ thử. Nhưng cháu đã từ bỏ hầu hết các lý thuyết của mình rồi,” Anne cười một thoáng. “Cháu có một tập hợp lý thuyết đẹp đẽ vô cùng khi cháu bắt đầu làm cô giáo làng, nhưng từng cái một đã thất bại, lúc này hay lúc khác.”
    “Ngay cả lý thuyết về đánh đòn học trò à,” cô Allan trêu.
    Nhưng Anne đỏ bừng mặt.
    “Cháu sẽ không bao giờ tha thứ cho mình vì đã đánh đòn Anthony.”
    “Đừng nói bậy, cưng à, thằng nhóc đáng bị thế. Và điều đó tốt cho nó. Kể từ đó cháu chẳng gặp vấn đề gì với nó nữa, và nó bắt đầu cho rằng chẳng có ai được như cháu. Lòng tốt của cháu đã chiếm được tình yêu của nó, sau khi ý tưởng 'con gái là đồ bỏ' được nhổ ra khỏi đầu óc bướng bỉnh của thằng bé.”
    “Có thể nó đáng bị thế, nhưng đó không phải là vấn đề. Nếu cháu bình tĩnh và cương quyết đánh nó vì cháu cho rằng đó là một hình phạt xứng đáng, cháu sẽ không cảm thấy khó chịu như vậy. Nhưng sự thật là, cô Allan ạ, chỉ vì cháu phát điên lên nên mới đánh nó. Lúc đó cháu không nghĩ gì đến chuyện xứng đáng hay không... nếu nó không đáng tội thì cháu vẫn cứ đánh. Đó là điều làm cháu cảm thấy nhục nhã.”
    “Ồ, tất cả chúng ta đều phạm sai lầm, cưng ạ, vì vậy hãy bỏ nó lại phía sau. Chúng ta phải hối tiếc sai lầm và rút kinh nghiệm từ nó, nhưng đừng bao giờ vác nó theo vào tương lai. À, Gilbert Blythe đang đánh xe kìa... chắc là cũng về nhà nhân kỳ nghỉ. Hai đứa học hành thế nào rồi?”
    “Khá tốt ạ. Chúng cháu định kết thúc tuyển tập Virgil tối nay... chỉ còn hai mươi dòng nữa thôi. Sau đó chúng cháu sẽ chẳng học thêm gì cả cho tới tháng Chín.”
    “Liệu cháu có vào đại học không?”
    “Ôi, cháu cũng không biết nữa.” Anne mơ màng nhìn về chân trời sắc trắng đục nơi xa. “Mắt bác Marilla sẽ không bao giờ khá hơn bây giờ, dẫu hai bác cháu rất biết ơn Chúa vì chúng đã không tệ hơn. Lại còn hai đứa trẻ song sinh nữa... chẳng hiểu sao cháu không tin rằng ông cậu chúng sẽ có ngày đến đón chúng. Có lẽ trường đại học đang nằm ở khúc quanh phía trước, nhưng cháu vẫn chưa đi tới khúc quanh ấy, và cháu không nghĩ nhiều về nó vì sợ rằng mình sẽ dần trở nên bất mãn.”
    “Ồ, cô rất muốn cháu đi học đại học, Anne ạ, nhưng nếu không được thì cũng đừng bất mãn. Xét cho cùng, chúng ta có thể sống tốt dù ở đâu chăng nữa... đại học chỉ giúp làm việc đó dễ dàng hơn thôi. Cuộc đời rộng hay hẹp là do chúng ta đem đến cho đời những gì, không phải chúng ta lấy được những gì. Cuộc đời phong phú và đầy đủ ở đây... ở mọi nơi... chỉ cần chúng ta học được cách mở rộng trái tim để đón nhận.”
    “Cháu nghĩ mình hiếu ý cô,” Anne trầm ngâm, “và cháu biết mình phải tạ ơn Chúa vì rất nhiều việc... ồ, nhiều lắm... công việc của cháu này, Paul Irving này, cặp song sinh và tất cả bạn bè của cháu. Cô Allan, cô biết không, cháu rất biết ơn vì có bạn bè. Tinh bạn làm cuộc đời này đẹp biết bao.”
    “Tinh bạn chân chính thực sự rất hữu ích,” cô Allan nói, “và chúng ta phải đặt nó ở một tầm rất cao, đừng để nó nhơ bẩn bởi sự dối trá hay không chân thành. Cô e là tình bạn thường hay bị hạ xuống thành một loại cảm giác gần gũi mà chẳng có chút tình cảm chân thành nào.”
    “Vâng... cũng như Gertie Pye và Julia Bell vậy. Hai người họ rất thân thiết và đi đâu cũng có nhau, nhưng lúc nào Gertie cũng nói xấu sau lưng Julia, và mọi người cho rằng cô nàng ghen với Julia vì cô nàng luôn hài lòng khi có ai phê bình Julia. Nếu gọi đó là tình bạn thì thật xúc phạm cho tình bạn quá. Nếu là bạn bè, chúng ta chỉ nên nhìn vào điểm tốt của nhau và cho họ điều tốt đẹp nhất của mình, cô có nghĩ vậy không? Khi đó tình bạn sẽ là điều đẹp đẽ nhất trên thế giới này.”
    “Tình bạn đúng là rất đẹp đẽ,” cô Allan mỉm cười, “nhưng một ngày nào đó...”
    Cô dừng lại đột ngột. Khuôn mặt thanh tú, vầng trán trắng ngằn, đôi mắt thẳng thắn và những đường nét linh động bên cạnh cô vẫn còn mang nhiều vẻ trẻ thơ hơn là của một người phụ nữ. Cho tới giờ, trong tim Anne chỉ ấp ủ những giấc mơ về tình bạn và khát vọng, và cô Allan không muốn làm mất đi sự ngây thơ ngọt ngào ấy. Nên cô bỏ lửng câu nói của mình cho những năm tháng tương lai.

  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 16 - BẢN CHẤT CỦA NHỮNG CAO VỌNG
    “Cô Anne,” Davy nài nỉ, trèo lên chiếc ghế xô pha bọc da bóng bẩy trong bếp Chái Nhà Xanh nơi Anne đang ngồi đọc thư, “Cô Anne, cháu đói bụng khủng khiếp. Cô không biết đâu.”
    “Cô sẽ lấy một miếng bánh mì bơ ngay cho cháu,” Anne lơ đãng. Lá thư rõ ràng mang tin tức gì đó thú vị, vì đôi má của cô ửng đỏ như những đóa hồng ở bụi hoa lớn ngoài kia, và đôi mắt cô lấp lánh theo kiểu chỉ mình cô mới có được.
    “Nhưng cháu không đói bánh mì bơ,” Davy phẫn nộ. “Cháu đói bánh mận cơ.”
    “Ồ,” Anne phá lên cười, đặt lá thư xuống và choàng tay ôm chặt Davy, “đó là loại đói có thể dễ dàng chịu đựng được, cậu bé Davy à. Cháu biết đấy, một trong những quy tắc của bà Marilla là các cháu không được ăn gì trừ bánh mì bơ giữa hai bữa ăn.”
    “Ồ, vậy thì cho cháu một miếng đi... làm ơn.”
    Cuối cùng Davy đã được dạy phải nói “làm ơn”; nhưng thường thì nó hay bỏ quên hai tiếng đó ở tận cuối câu. Nó hài lòng nhìn lát bánh mì dày cộm mà Anne đem tới. “Cô Anne, cô lúc nào cũng trét rất nhiều bơ lên. Bà Marilla thì chỉ phết một lớp mỏng dính. Có nhiều bơ thì dễ nuốt hơn nhiều.”
    Nhìn vào sự biến mất nhanh chóng của miếng bánh mì thì xem ra nó đã được “nuốt trôi” một cách khá dễ dàng. Davy trượt khỏi xô pha, lộn nhào hai lần trên tấm thảm rồi ngồi dậy và cương quyết tuyên bố,
    “Cô Anne, cháu đã có quyết định về việc lên thiên đường rồi. Cháu không muốn đến đó.”
    “Sao vậy?” Anne nghiêm túc hỏi.
    “Bởi vì thiên đường ở gác xép nhà Simon Fletcher, mà cháu thì chẳng ưa ông ấy.”
    “Thiên đường ở... gác xép nhà Simon Fletcher!” Anne nghẹn giọng, quá ngạc nhiên đến nỗi không thể phá lên cười nổi. “Davy Keith, cái gì khiến cháu có một ý nghĩ kỳ quặc đến thế?”
    “Milty Boulter nói vậy mà. Chủ nhật tuần trước ở trường Chủ nhật ấy. Bài giảng nói về Elijah và Elisha, cháu đứng dậy hỏi cô Rogerson là thiên đường ở đâu. Cô Rogerson nhìn có vẻ bực bội kinh khủng. Dù sao thì cô ấy cũng khó chịu nãy giờ rồi, vì khi cô ấy hỏi tụi cháu Elijah để lại cái gì cho Elisha khi ông ta lên thiên đường, Multy Boulter đáp, 'Quần áo cũ', thế là cả đám bọn cháu phá lên cười chẳng ý tứ chút nào. Cháu ước gì mình có thể suy nghĩ kỹ trước khi làm, vì khi ấy cháu sẽ chẳng làm như vậy nữa. Nhưng Milty không có ý báng bổ gì đâu. Chỉ là nó không nghĩ ra tên của vật đó mà thôi. Cô Rogerson nói thiên đường là nơi Chúa ở nên cháu không được hỏi những câu hỏi như vậy. Milty huých cháu thì thầm, ‘Thiên đường ở trên gác xép nhà chú Simon, tớ sẽ giải thít kỹ hơn trên đường về nhà,’ Vậy là trên đường về nhà, nó đã giải thít cho cháu nghe. Milty giỏi giải thít lắm. Dẫu nó không biết gì cả, nó vẫn có thể bịa ra một đống chuyện, và thế là cô nghe giải thít là hiểu liên. Mẹ nó là chị của bà Simon, và nó đi chung với mẹ đến lễ tang của bà chị họ Jane Ellen. Mục sư bảo là chị ấy lên thiên đường, dẫu Milty nói rằng rõ ràng chị ấy đang nằm trong quan tài ngay trước mặt họ. Nhưng nó cho rằng sau đó người ta sẽ đưa quan tài lên gác xép. Khi Milty và mẹ nó lên lầu lấy mũ sau khi lễ tang hoàn tất, nó hỏi mẹ thiên đường mà Jane Ellen đi đến là ở đâu, thế là mẹ nó chỉ lên trần nhà nói, ‘Trên đó.' Milty biết phía trên trần nhà chẳng có gì ngoài cái gác xép, nhờ vậy mà nó mới vỡ lẽ ra. Và từ đó nó sợ khủng khiếp mỗi lần tới nhà chú Simon của nó.”
    Anne đặt Davy lên đầu gối rồi gắng sức gỡ thằng bé ra khỏi mớ bòng bong lý luận viển vông này. Cô hợp với công việc này hơn là bà Marilla, vì cô còn nhớ rõ tuổi thơ của mình và có một sự thông cảm bản năng với những ý tưởng đôi khi kỳ quặc của những đứa bé bảy tuổi về những vấn đề vốn vô cùng đơn giản và rõ ràng với người trưởng thành. Cô vừa thuyết phục Davy thành công rằng thiên đường không nằm ở gác xép nhà Simon Fletcher thì bà Marilla từ vườn bước vào, bà và Dora đang hái đậu ở ngoài ấy nãy giờ. Dora là một cô bé chăm chỉ và vui sướng hết mức khi được tham gia “giúp đỡ” các công việc vặt phù hợp với đôi tay mũm mĩm của mình. Cô bé cho gà ăn, nhặt củi vụn, lau đĩa và làm vô số việc vặt. Cô bé gọn gàng, nghe lời và giỏi quan sát, không cần phải chỉ cách làm việc đến lần thứ hai và chẳng bao giờ quên những nhiệm vụ bé nhỏ của mình. Ngược lại, Davy thì lơ đãng và hay quên, nhưng nó có tài thu hút lòng người bẩm sinh, và cả Anne và bà Marilla đều yêu thương nó hơn.
    Khi Dora tự hào tách hạt đậu và Davy lấy vỏ đậu làm thuyền, với cột buồm bằng que diêm và buồm bằng giấy, Anne kể cho bà Marilla nghe về nội dung tuyệt vời trong lá thư của mình.
    “Ồ, bác Marilla, bác biết gì không? Cháu nhận được thư từ Priscilla và cậu ấy nói bà Morgan hiện đang ở đảo, và nếu trời đẹp thì thứ Năm này họ sẽ đánh xe đến Avonlea và đến nơi vào khoảng mười hai giờ. Họ sẽ ở lại suốt buổi chiều với chúng ta và đến khách sạn ở White Sands vào buổi tối, vì vài người bạn Mỹ của bà Morgan cũng đang ngụ ở đó. Ồ, bác Marilla, thật tuyệt quá phải không? Cháu không thể tin mình đang tỉnh nữa.”
    “Ta dám chắc bà Morgan cũng chẳng khác người bình thường mấy đâu,” bà Marilla nói khô khốc, dẫu bản thân bà cũng cảm thấy đôi chút hào hứng. Bà Morgan là một phụ nữ nổi tiếng, chuyến viếng thăm của bà không thể coi là chuyện thường được. “Vậy họ sẽ ăn trưa ở đây sao?”
    “Vâng, và ôi, bác Marilla, cháu có thể nấu tất cả các món được không? Cháu muốn mình có thể làm gì đó cho nữ tác giả quyển 'Vườn nụ hồng', dẫu chỉ là một bữa ăn trưa mà thôi. Bác sẽ không phiền, phải không bác?”
    “Trời ơi, ta không ham quần quật bên ngọn lửa hừnghực vào tháng Bảy đến mức giận dỗi khi có ai chịu làm thay mình đâu. Cháu muốn làm thì cứ làm đi.”
    “Ôi, cảm ơn bác,” Anne nói cứ như bà Marilla vừa ban cho cô một ân huệ thật to lớn, “Đêm nay cháu sẽ suy nghĩ thực đơn.”
    “Tốt nhất là cháu đừng có làm quá cầu kỳ,” bà Marilla cảnh báo, hơi lo lắng khi nghe đến từ “thực đơn”. “Nếu không cháu sẽ làm khổ mình đấy.”
    “Ôi, cháu không làm gì 'cầu kỳ' đâu, nếu ý bác là làm những món chúng ta không thường dùng trong các dịp lễ hội,” Anne trấn an. “Làm thế thì màu mè quá, và dẫu cháu không đủ khôn ngoan chín chắn như một cô gái mười bảy tuổi và một cô giáo làng lẽ ra phải thế, cháu cũng không ngốc đến vậy đâu. Nhưng cháu muốn mọi thứ tốt đẹp và ngon lành hết mức có thể. Bé Davy, đừng để vỏ đậu lên cầu thang đằng sau... sẽ dễ trượt chân lắm. Cháu sẽ khai vị bằng một món xúp nhẹ... bác biết cháu làm món xúp kem hành rất ngon mà... rồi một vài con gà quay. Cháu sẽ làm thịt hai con gà trống trắng. Cháu thực sự rất mến hai con gà này, chúng chẳng khác gì vật cưng trong nhà kể từ khi con gà mái xám chỉ ấp nở ra mỗi hai con gà con... những túm lông vàng như quả bóng. Nhưng cháu biết sớm muộn gì cũng phải hy sinh chúng, và chắc chắn không có dịp nào xứng đáng hơn dịp này. Nhưng bác Marilla ơi, cháu không thể giết chúng... ngay cả là vì bà Morgan. Cháu sẽ phải nhờ John Henry Carter ghé qua làm giúp cháu thôi.”
    “Để cháu làm cho,” Davy xung phong, “nếu bà Marilla giữ chặt chân chúng, vì cháu nghĩ mình phải dùng cả hai tay để giữ cái rìu. Thật là vui kinh khủng khi nhìn thấy lũ gà nhảy loi choi với cái đầu cụt.”
    “Rồi cháu sẽ làm món đậu Hà Lan, đậu cô ve, khoai tây xốt kem và rau diếp trộn, đó là món rau,” Anne tiếp, “còn món tráng miệng sẽ là bánh chanh phủ kem đánh bông, cà phê, pho mát và bánh lưỡi mèo. Mai cháu sẽ làm bánh chanh và bánh lưỡi mèo rồi giặt ủi cái váy xa tanh màu trắng. Và cháu sẽ phải báo cho Diana ngay tối nay, vì cậu ấy cũng sẽ muốn giặt ủi cái váy của mình. Những nữ nhân vật chính trong truyện của bà Morgan gần như lúc nào cũng mặc váy xa tanh trắng, Diana và cháu đã quyết định sẽ mặc váy xa tanh trắng nếu có dịp gặp bà ấy. Đó chính là một lời khen ngợi tế nhị, bác có nghĩ vậy không? Davy yêu quý, cháu không được nhét vỏ đậu vào vết nứt trên sàn. Cháu phải mời ông bà Allan và cô Stacy đến dùng bữa trưa nữa, bởi vì họ cũng rất mong mỏi được gặp bà Morgan. Thật may là bà ấy đến đây lúc cô Stacy ghé thăm. Davy yêu quý, đừng thả vỏ đậu vào thùng nước... hãy ra ngoài máng xối ấy. Ồ, cháu thực sự hy vọng thứ Năm trời đẹp, và cháu tin là thế, vì bác Abe khi đến thăm ông Harrison tối qua đã nói là trời sẽ mưa gần như suốt tuần.”
    “Đó là dấu hiệu tốt đấy,” bà Marilla đồng ý.
    Tối hôm đó Anne chạy băng qua dốc Vườn Quả để báo tin cho Diana, cô nàng cũng hết sức phấn khởi khi nghe tin, hai người bạn bắt đầu tính toán công việc trên chiếc võng đong đưa dưới cây liễu cổ thụ trong vườn nhà Barry.
    “Ồ, Anne, tớ có thể giúp cậu nấu ăn được không?” Diana van nài. “Cậu biết là tớ làm món rau diếp trộn ngon tuyệt mà.”
    “Được, cậu cứ làm đi.” Anne không ích kỷ chút nào. “Và tớ cũng muốn cậu giúp tớ trang trí nhà cửa nữa. Tớ muốn biến phòng khách thành một vườn hoa... và cắm hoa hồng dại trên bàn ăn. Ôi, tớ hy vọng mọi chuyện sẽ suôn sẻ. Các bậc anh thư của bà Morgan chẳng bao giờ gặp rắc rối do cư xử dại dột hoặc bị rơi vào tình thế bất lợi, bọn họ lúc nào cũng bình tĩnh và là những người nội trợ tuyệt vời. Họ dường như bẩm sinh đã là như vậy. Cậu còn nhớ nhân vật Gertrude trong 'Những ngày ở Edgewood' trông coi nhà cửa cho cha lúc cô bé chỉ mới tám tuổi không? Hồi tám tuổi, ngoài trông trẻ ra thì tớ chẳng biết làm gì. Bà Morgan nhất định phải là một chuyên gia về con gái vì bà ấy đã viết nhiều như vậy về các cô gái cơ mà, vậy nên tớ muốn bà ấy đánh giá cao chúng mình. Tớ đã tưởng tượng đến chục lần... bà ấy trông như thế nào, bà ấy sẽ nói gì và tớ sẽ đáp lại ra sao. Và tớ lo cho cái mũi của tớ quá. Cậu thấy đấy, bên trên có tới bảy nốt tàn nhang lận. Đó là do bữa dã ngoại của Hội cải tạo, tớ ra ngoài nắng mà không đội mũ. Tớ cho rằng thật vô ơn khi lo lắng về chúng khi mà lẽ ra tớ phải tạ ơn trời vì chúng đã không lan ra khắp mặt tớ như hồi xưa; nhưng thực sự là tớ mong chúng đừng có xuất hiện... Các bậc anh thư của bà Morgan đều có làn da hoàn hảo cả. Tớ chả nhớ được có ai có tàn nhang hay không.”
    “Mấy nốt tàn nhang của cậu không rõ rệt lắm đâu,” Diana an ủi. “Tối nay thoa một ít nước chanh lên thử xem.”
    Ngày hôm sau, Anne làm bánh nướng và bánh lưỡi mèo, ủi cái váy xa tanh, quét và phủi bụi mọi phòng trong nhà... một quy trình tương đối không cần thiết vì cũng như thường lệ, Chái Nhà Xanh sạch bong ngăn nắp như ý bà Marilla. Nhưng Anne vẫn cảm thấy chỉ một hạt bụi thôi cũng làm ô uế căn nhà sắp có vinh dự được Charlotte E. Morgan viếng thăm. Cô thậm chí còn dọn dẹp sạch sẽ cái tủ chứa đồ tạp nhạp dưới gầm cầu thang, dẫu chẳng có tí xíu khả năng bà Morgan sẽ nhìn ngó vào bên trong đó chút nào.
    “Nhưng cháu muốn cảm thấy nó thực sự ngăn nắp, dẫu bà ấy không có dịp thấy nó,” Anne nói với bà Marilla. “Bác biết đấy, trong quyển 'Chìa khóa vàng', bà ấy đã để hai nữ nhân vật chính Alice và Louisa chọn phương châm làm việc theo đoạn thơ của Longfellow:
    “'Vào những ngày nghệ thuật xa xưa,
    Các thợ xây làm việc cần cù
    Vào mỗi giây phút và tại mỗi góc khuất,
    Bởi các vị thần nhìn khắp muôn nơi,’
    Và vì vậy bọn họ luôn cọ sạch cầu thang xuống tầng hầm và không bao giờ quên quét bụi dưới gầm giường. Lương tâm cháu sẽ cắn rứt nếu cháu biết cái tủ này lộn xộn khi bà Morgan đang ở trong nhà. Kể từ khi đọc quyển 'Chìa khóa vàng' tháng Tư vừa rồi, Diana và cháu cũng đã chọn đoạn thơ trên làm kim chỉ nam cho mình.”
    Tối hôm đó, John Henry Carter và Davy hợp tác xử tử hai con gà trống trắng, Anne vặt lông hai con gà mập ú, công việc đáng tởm thường ngày giờ lại có vẻ đẹp đẽ hơn trong mắt cô.
    “Cháu không thích vặt lông gà,” cô nói với bà Marilla, “nhưng thật may chúng ta không cần phải đặt cả tâm hồn vào việc mà tay chúng ta đang làm. Cháu dùng tay vặt lông gà, nhưng trí tưởng tượng của cháu đang dạo chơi trên dải Ngân Hà.”
    “Ta thấy cháu làm vung vãi lông ra sàn nhiều hơn bình thường đấy,” bà Marilla nhận xét.
    Sau đó Anne cho Davy đi ngủ và bắt nó hứa mai sẽ cư xử ngoan ngoãn.
    “Nếu cháu cố gắng ngoan hết mức vào ngày mai, liệu cô có thể cho phép cháu tha hồ hư vào ngày mốt không?” Davy hỏi.
    “Cô không thể làm vậy,” Anne thận trọng dụ dỗ, “nhưng cô sẽ dẫn cháu và Dora đi bơi thuyền tới cuối hồ, và rồi chúng ta sẽ lên bờ cát ăn uống ngoài trời.”
    “Đúng là một món hời,” Davy kêu lên. “Cháu sẽ ngoan mà, cô yên tâm đi. Cháu vốn định chạy sang nhà ông Harrison bắn hạt đậu từ súng hơi mới vào con Gừng, nhưng chuyện đó để sang hôm khác cũng được. Cháu cứ nghĩ ngày mai sẽ chán như Chủ nhật, nhưng dã ngoại ở bờ hồ thì cũng đủ để đền bù rồi.”

  9. #18
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 17 - MỘT CHUỖI RỦI RO
    Anne tỉnh giấc ba lần trong đêm và lò dò mò ra cửa sổ để đảm bảo rằng lời dự đoán của bác Abe không trở thành sự thật. Cuối cùng, ánh bình minh trong suốt lấp lánh chiếu trên bầu trời rực rỡ ánh bạc, và một ngày tuyệt vời bắt đầu.
    Ngay sau bữa sáng Diana đã có mặt, một tay cầm giỏ hoa, tay kia vắt chiếc váy xa tanh của mình... vì phải chuẩn bị xong bữa trưa mới mặc được cái váy đó. Trong lúc chờ đợi, cô mặc một chiếc váy in họa tiết màu hồng và tạp dề vải ba tít diềm xếp nếp đẹp nhưng diêm dúa đến phát sợ, nhìn cô thật gọn gàng, xinh đẹp và tươi tắn.
    “Trông cậu đáng yêu cực kỳ,” Anne thán phục.
    Diana thở dài.
    “Nhưng tớ vừa phải nới tất cả các bộ váy của mình một lần nữa. Tớ nặng thêm gần hai ký so với hồi tháng Bảy. Anne, chừng nào tớ mới thôi phì ra đây? Các bậc anh thư của bà Morgan đều cao và thanh mảnh cả.”
    “Ồ, hãy quên đi ưu phiền và nghĩ tới những điều may mắn mà chúng ta có được,” Anne vui vẻ khuyên. “Cô Allan nói rằng mỗi khi có thứ gì khiến chúng ta khó chịu, chúng ta nên nghĩ đến những điều tốt đẹp để giúp chúng ta chống lại nó. Nếu cậu hơi tròn một chút thì cậu sẽ có nụ cười lúm đồng tiền dễ thương hết mức, và nếu tớ có một cái mũi đầy tàn nhang thì dù sao hình dáng của nó vẫn ổn. Cậu thấy nước chanh có tác dụng không?”
    “Ừ, tớ thấy vậy mà,” Diana nghiêm túc nhận xét, và Anne vui sướng dẫn đường ra vườn, nơi bóng cây mát rượi và những tia nắng vàng óng rung rinh.
    “Mình sẽ trang trí phòng khách trước. Chúng mình còn ối thời giờ, vì Priscilla nói họ sẽ đến đây vào khoảng mười hai giờ hoặc muộn nhất là mười hai rưỡi, vậy chúng ta sẽ dùng bữa trưa lúc một giờ.”
    Dám chắc là chẳng có cô gái nào ở Canada hay ở Mỹ vui vẻ và hào hứng hơn hai người bạn này bây giờ. Mỗi khi một cành hồng, mẫu đơn, hoa chuông xanh rơi xuống, tiếng kéo xành xạch lại như reo vui, “Hôm nay bà Morgan tới.” Anne tự hỏi làm sao ông Harrison có thể thản nhiên cắt cỏ khô trên cánh đồng bên kia đường cứ như chẳng có chuyện gì xảy ra.
    Phòng khách ở Chái Nhà Xanh vốn là một gian khá nặng nề và ảm đạm với nội thất màu lông ngựa cứng nhắc, màn đăng ten hồ cứng, áo ghế trắng luôn nằm ngay ngắn đúng nơi đúng chỗ, trừ những lúc nó bị vướng vào nút áo của một người không may mắn nào đó. Ngay cả Anne cũng chẳng tài nào nhúng tay làm phòng khách duyên dáng hơn, vì bà Marilla khăng khăng không cho phép thay đổi gì. Nhưng có điều kỳ diệu gì mà hoa lá không thể làm khi ta cho chúng cơ hội chứ; khi Anne và Diana trang trí xong, căn phòng đã hoàn toàn khác hẳn.
    Một bát hoa tuyết xanh thật lớn xòe tung giữa cái bànlên nước bóng. Bệ lò sưởi đen bóng đặt đầy hoa hồng và dương xỉ. Mỗi ngăn tủ đều được trang trí một bó hoa chuông xanh, góc tối hai bên lò sưởi sáng lên bởi hai lọ hoa mẫu đơn đỏ thắm, còn trong lò như được thắp lửa bởi màu vàng của hoa anh túc. Với những đóa hoa lộng lẫy đủ màu ấy, kết hợp với ánh mặt trời xuyên qua đám dây kim ngân rợp lá leo trên cửa sổ tạo thành những bóng xám nhảy nhót trên tường và sàn nhà, căn phòng nhỏ ảm đạm thường ngày đã biến thành một “Vườn hoa” thực sự như trong trí tưởng tượng của Anne, đến bà Marilla cũng phải thốt lên ngưỡng mộ khi bước vào để phê phán nhưng rồi lại phải dừng chân khen ngợi.
    “Giờ thì chúng ta phải bày bàn ăn thôi,” Anne nói với giọng của một nữ tu đang chuẩn bị thực hiện những nghi lễ thiêng liêng vinh danh một vị thần. “Chúng ta sẽ đặt một cái bình lớn cắm đầy hoa hồng dại ở giữa bàn và một bông hồng đằng trước đĩa của từng người - riêng đĩa của bà Morgan thì sẽ đặt một bó đầy những nụ hồng, ám chỉ quyển sách 'Vườn nụ hồng' đấy, cậu biết mà.”
    Bàn ăn được dọn trong phòng ăn, với khăn ăn vải lanh đẹp nhất cũng như đồ sứ, thủy tinh và đồ bạc hạng nhất của bà Marilla. Có thể hoàn toàn chắc chắn rằng mỗi dụng cụ trên bàn đều được đánh bóng, kỳ cọ đến mức long lanh lấp lánh hoàn hảo nhất.
    Rồi các cô gái nhún nhảy bước xuống bếp, mùi thơm phức tỏa ra từ lò nướng nơi hai con gà đang kêu xèo xèo. Anne gọt khoai tây và Diana nhặt đậu cô ve cùng đậu Hà Lan. Sau đó, khi Diana chui vào phòng lương thực để chế biến món rau diếp trộn, Anne với đôi má đã bắt đầu ửng đỏ vì ánh lửa cũng như vì hào hứng, ra tay chuẩn bị nước xốt bánh mì cho món gà, băm nhỏ hành cho món xúp rồi đánh kem cho món bánh nướng chanh.
    Trong suốt thời gian kể trên, Davy đang ở đâu? Liệu nó có tuân thủ lời hứa sẽ ngoan ngoãn không? Nó quả có nghe lời. Đương nhiên, nó nằng nặc đòi ở lại trong bếp vì tò mò muốn quan sát mọi chuyện. Nhưng vì nó ngồi ngoan ngoãn trong góc, bận bịu tháo những nút thắt trong một mảng lưới đánh cá trích mang về từ lần ra bãi biển kỳ trước, chẳng ai phản đối sự có mặt của nó cả.
    Lúc mười một rưỡi, món rau diếp trộn đã xong xuôi, bánh nướng vàng rộm được phủ đầy kem tươi, mọi thứ cần sôi xèo xèo hay sôi sùng sục đều đang xèo xèo và sùng sục.
    “Chúng ta đi thay váy thôi,” Anne nói, “Vì có thể bọn họ sẽ đến vào mười hai giờ. Chúng ta phải ăn trưa đúng một giờ, vì món xúp phải được dọn lên ngay sau khi sôi.”
    Những nghi thức trang điểm diễn ra hết sức nghiêm túc ở chái Đông. Anne lo lắng quan sát cái mũi và vui sướng nhận thấy mấy nốt tàn nhang không hề nổi rõ, không biết là do nước chanh hay nhờ vào vẻ ửng hồng khác thường của đôi má cô. Khi đã sẵn sàng, hai cô gái trông ngọt ngào, gọn gàng và trong sáng như mọi “bậc anh thư của bà Morgan”.
    “Tớ thực sự hy vọng thỉnh thoảng mình có thể nói được chút gì chứ không ngồi câm như hến,” Diana lo lắng. “Mọi nhân vật nữ chính của bà Morgan đều nói chuyện rất hay. Nhưng tớ sợ mình sẽ ngọng nghịu và ngu ngốc. Và chắc chắn tớ sẽ nói thành 'tôi tháy'. Từ khi học với cô Stacy tớ không thường nói vậy nữa, nhưng vào những lúc quá hồi hộp, nhất định là tớ sẽ buột miệng thôi. Anne, nếu tớ mà lỡ nói “tôi tháy” trước mặt bà Morgan, tớ sẽ chết vì nhục mất. Nhưng nếu không có gì để nói thì cũng tệ không kém.”
    “Tớ lo lắng về nhiều chuyện lắm,” Anne nói, “nhưng riêng chuyện có thể nói được hay không thì tớ không nghĩ rằng có gì đáng e ngại”.
    Và quả tình Anne không cần sợ thật.
    Anne phủ một chiếc tạp dề lớn lên trên bộ đồ xa tanh lộng lẫy của mình và đi xuống khuấy xúp. Bà Marilla cũng ăn diện cho mình và hai đứa song sinh, nhìn bà có vẻ hào hứng hơn hẳn lúc trước. Lúc mười hai giờ rưỡi, ông bà Allan và cô Stacy tới. Mọi thứ đều ổn nhưng Anne bắt đầu cảm thấy bất an. Rõ ràng giờ này Priscilla và bà Morgan phải đến nơi rồi chứ. Cô không ngừng chạy ra cửa và lo lắng nhìn xuôi con đường cứ như nhân vật trùng tên với mình trong truyện “Yêu râu xanh” nhòm xuống từ cửa sổ tháp canh.
    “Lỡ họ không tới thì sao?” cô rên rỉ.
    “Đừng có giả sử vậy. Nếu thế thì quá rủi đi,” Diana nói nhưng cũng bắt đầu cảm thấy có chút nghi ngại.
    “Anne,” bà Marilla gọi, bước ra khỏi phòng khách, “cô Stacy muốn xem cái đĩa men Trung Hoa của cô Barry.”
    Anne vội chạy đến cái tủ trong phòng ăn để lấy đĩa. Theo đúng lời hứa với bà Lynde, cô đã viết thư cho cô Barry ở Charlottetown xin mượn cái đĩa. Cô Barry là một người bạn lâu năm của Anne, vì vậy cô đã nhanh chóng gửi cái đĩa cho Anne cùng một lá thư dặn dò Anne phải giữ gìn nó hết sức cẩn thận, vì cô đã mua cái đĩa đó mất hai mươi đô la. Cái đĩa đã làm tròn trách nhiệm của mình ở hội chợ từ thiện và sau đó quay trở về kệ tủ ở Chái Nhà Xanh, vì Anne không tin tưởng ai ngoại trừ chính mình có thể đem nó lên thị trấn an toàn.
    Cô cẩn thận đem cái đĩa men ra cửa trước nơi các vị khách đang ngồi tận hưởng làn gió mát từ suối thổi tới. Mọi người vừa xem xét vừa tấm tắc khen ngợi cái đĩa, rồi khi Anne vừa định chính tay đem trả nó về chỗ cũ thì chợt có tiếng rơi vỡ loảng xoảng vang lên từ phòng lương thực. Bà Marilla, Diana và Anne chạy ào vào, Anne chỉ kịp dừng lại chốc lát để đặt vội cái đĩa quý giá lên bậc thang thứ hai của cầu thang.
    Bước vào phòng lương thực, trước mắt họ là một cảnh tượng thật đau lòng... một cậu bé vẻ hối lỗi lúi húi tuột từ trên bàn xuống, cái áo vải in họa tiết sạch sẽ lúc đầu giờ dính đầy nhân bánh vàng, và trên bàn là dấu tích còn lại của thứ đã từng là hai cái bánh nướng chanh phết kem ngon mắt.
    Davy đã gỡ xong cái lưới cá trích rồi quấn dây cước thành một cuộn tròn. Sau đó nó đi vào phòng lương thực để cất cuộn cước lên cái kệ phía trên bàn, nơi hiện đang cất giữ mấy chục cuộn tương tự. Tác dụng duy nhất được khám phá cho đến nay của đống cước chỉ là mang lại niềm vui sở hữu cho cậu chủ nhỏ của chúng. Davy phải leo lên bàn rồi chồm lên kệ ở một góc độ nguy hiểm... Bà Marilla đã cấm tiệt nó không được làm vậy vì nó đã nếm mùi đau đớn một lần rồi. Lần này kết quả thật là thảm họa. Davy trượt chân té thẳng úp người vào bánh nướng chanh. Cái áo sạch bị vấy bẩn tạm thời, còn hai chiếc bánh nướng thì vĩnh viễn không còn cơ hội lên đĩa được nữa. Dù sao thì cái rủi của người này lại là cái may của người khác, con lợn cuối cùng lại là kẻ hưởng lợi từ vụ rủi ro của Davy.
    “Davy Keith,” bà Marilla lắc mạnh vai nó, “chẳng phải ta đã cấm cháu không được trèo lên bàn nữa sao? Có hay không?”
    “Cháu quên mất,” Davy thút thít. “Bà cấm cháu nhiều điều khủng khiếp nên cháu chẳng tài nào nhớ được hết cả.”
    “Hừ, cháu hãy lên lầu và ở đó cho tới sau bữa trưa đi. Có lẽ đến lúc ấy cháu sẽ nhớ ra hết đấy. Không, Anne, cháu không cần bào chữa cho nó. Ta không phạt vì nó làm hỏng bánh của cháu... đó chỉ là rủi ro. Ta phạt vì nó không vâng lời. Đi, Davy, ta đã bảo rồi mà.”
    “Vậy cháu có được ăn trưa không?” Davy gào lên.
    “Sau bữa trưa cháu có thể đi xuống ăn trong bếp.”
    “Ồ, vậy thì được,” Davy được an ủi phần nào. “Cháu biết cô Anne sẽ để dành vài miếng ngon cho cháu, phải không cô Anne? Cô biết đấy, cháu không cố ý ngã lên bánh mà. Cô Anne ơi, dù sao thì chúng cũng đã hỏng rồi, cháu có thể lấy một miếng lên lầu được không?”
    “Không, cậu Davy, không một miếng bánh nào cả,” Bà Marilla đầy nó ra hành lang.
    “Vậy chúng ta làm gì để tráng miệng đây?” Anne tiếc nuối nhìn đống bánh vụn vỡ tan.
    “Lấy một lọ mứt dâu đi,” bà Marilla an ủi. “Còn nhiều kem tươi trong bát mà.”
    Một giờ chiều... nhưng chẳng thấy Priscilla hay bà Morgan đâu. Anne như bò trên chảo nóng. Các món ăn đều đâu vào đó còn xúp thì ngon lành cành đào, nhưng không thể để lâu hơn nữa.
    “Ta nghĩ là họ sẽ không tới đâu,” bà Marilla bực bội.
    Anne và Diana nhìn vào mắt nhau tìm kiếm sự an ủi.
    Tới một giờ rưỡi, bà Marilla một lần nữa đi ra khỏi phòng khách.
    “Các cô gái, chúng ta phải dùng bữa trưa thôi. Mọi người đã đói meo rồi và đợi lâu hơn cũng chẳng để làm gì. Rõràng là Priscilla và bà Morgan sẽ không tới, và chờ đợi cũng chẳng ích gì.”
    Anne và Diana lúi húi dọn bữa trưa, nhưng chẳng cònchút hào hứng nào.
    “Chắc tớ sẽ chẳng ăn nổi một miếng nào mất,” Diana buồn rũ.
    “Tớ cũng thế, nhưng tớ hy vọng bữa ăn sẽ tốt đẹp vì cô Stacy và ông bà Allan,” Anne thờ thẫn đáp.
    Khi Diana múc đậu ra, cô nếm một miếng rồi mặt lộ vẻ kỳ quái.
    “Anne, cậu có cho đường vào không?”
    “Có,” Anne tán nhuyễn khoai tây một cách miễn cưỡng. “Tớ bỏ một muỗng đường vào. Nhà tớ luôn làm vậy. Cậu không thích sao?”
    “Nhưng tớ cũng cho một muỗng khi đặt lên bếp,” Diana nói.
    Anne bỏ cái nghiền khoai xuống và nếm thử đậu. Rồi cô nhăn mặt.
    “Ghê quá! Tớ không ngờ cậu bỏ đường vào, vì tớ biết mẹ cậu không bao giờ làm vậy. Không hiểu sao tớ lại tình cờ nhớ tới chuyện đó... tớ vốn hay quên lắm... nên tớ bỏ vào một muỗng đầy.”
    “Chắc là quá nhiều đầu bếp nên mới ra nông nỗi này,” bà Marilla nói với vẻ mặt khá hối hận sau khi lắng nghe cuộc trò chuyện của hai cô gái. “Ta không nghĩ là cháu nhớ bỏ đường, Anne ạ, vì ta hoàn toàn chắc là trước nay cháu chẳng bao giờ nhớ cả... nên ta cũng bỏ vào một muỗng.”
    Các vị khách trong phòng khách nghe hết tràng cười này đến tràng cười khác vang lên từ bếp, nhưng họ chẳng bao giờ biết được nguyên nhân cả. Dù sao thì cũng không có món đậu trên bàn ăn trưa hôm đó.
    “Ôi,” Anne bình tĩnh lại rồi thở dài điểm danh các món ăn, “dù sao thì chúng ta cũng còn món rau trộn, và món đậu cô ve chắc chẳng bị ảnh hưởng gì. Hãy dọn đồ ăn lên cho xong việc thôi.”
    Không thể nói bữa ăn trưa hôm đó thành công về mặt xã giao. Gia đình Allan và cô Stacy cố gắng hết sức cứu vãn tình hình và vẻ thản nhiên thường lệ của bà Marilla cũng không bị khuấy động mấy. Nhưng Anne và Diana thì chìm đắm trong nỗi thất vọng và sau cú sốc hồi sáng họ chẳng thể nói năng ăn uống gì được. Anne anh dũng cố gắng tham gia vào cuộc trò chuyện vì các vị khách của mình, nhưng bây giờ mọi ánh sáng đã rời khỏi cô và mặc dù cô rất yêu quý gia đình Allan và cô Stacy, cô vẫn không thể không nghĩ sẽ tuyệt vời biết bao nếu mọi người về nhà ngay để cô có thể đập đầu vào gối, chìm đắm trong mệt mỏi và thất vọng ở chái Đông.
    Có một câu ngạn ngữ cũ rất ứng nghiệm: “Họa vô đơn chí.” Những khổ nạn của ngày hôm đó vẫn chưa kết thúc. Ngay khi ông Allan vừa nói xong lời cảm ơn, một âm thanh kỳ lạ đáng sợ vang lên nơi cầu thang, như thể có một vật cứng nặng nảy xuống từng bậc rồi kết thúc bằng một tiếng vỡ lớn ở dưới cùng. Mọi người chạy ngay ra hành lang. Anne rú lên kinh hãi.
    Dưới chân cầu thang là một vỏ ốc xà cừ lớn màu hồngnằm giữa những mảnh vỡ vốn từng là cái đĩa men xanh của cô Barry, và ở đầu cầu thang, Davy quỳ gối vẻ khiếp hãi, mắt mở to nhìn cảnh tàn phá bên dưới.
    “Davy,” bà Marilla gầm lên, “cháu cố ý ném con ốc xà cừ ấy xuống hả?”
    “Không, cháu không mà,” Davy thút thít. “Cháu chỉ quỳ gối ở đây, im phăng phắc quan sát mọi người qua tay vịn cầu thang, rồi chân cháu va phải cái đồ cũ rích ấy khiến nó lăn xuống... và cháu đói khủng khiếp... và cháu thực sự mong bà cứ đánh quách cháu cho xong, chứ đừng tống cháu lên lầu buồn chán chết đi được.”
    “Đừng trách Davy,” Anne vừa nói vừa dọn dẹp những mảnh vỡ, tay run lẩy bẩy. “Đó là lỗi của cháu. Cháu để cái đĩa ở đó rồi quên khuấy mất. Cháu đáng bị trừng phạt vì sự vô ý của mình, nhưng chao ôi, cô Barry sẽ nói gì đây?”
    “Ồ, cậu biết là cô ấy chỉ mua cái đĩa này thôi, nên nó không quan trọng như một món đồ gia truyền đâu,” Diana cố an ủi.
    Các vị khách rời đi ngay sau đó, cho rằng đó là điều lịch thiệp nhất nên làm, rồi Anne và Diana rửa chén đĩa, những lời trao đổi với nhau ít đến kỷ lục. Sau đó Diana quay về nhà vởi cái đâu nhức ong ong, còn Anne thì mang một cái đầu nhức khác lên chái Đông, ở lì trong đó cho tới khi bà Marilla từ bưu điện về nhà lúc hoàng hôn, cầm theo một lá thư của Priscilla gửi ngày hôm trước. Bà Morgan bị bong gân mắt cá nặng đến mức không thể rời phòng.
    “Và chao ôi, Anne yêu quý,” Priscilla viết, “tớ hết sức xin lỗi nhưng tớ e là dì cháu tớ không thể nào ghé qua Chái Nhà Xanh được, vì lúc mắt cá của dì tớ khỏi hẳn thì dì ấy phải quay lại Toronto mất rồi. Dì ấy không thể dời ngày về được.”
    “Ôi,” Anne thở dài, đặt lá thư xuống bậc thềm đá đỏ ở cổng sau, cô đang ngồi đó trong ánh chiều chập choạng phủ xuống từ bầu trời loang lổ, “mình luôn cho rằng việc bà Morgan đến đây quá tốt đẹp để trở thành sự thật. Nhưng này... câu nói đó nghe bi quan như là giọng của cô Eliza Andrews vậy, và mình thật xấu hổ khi thốt ra miệng. Dù sao chăng nữa, chuyện đó đâu có quá tốt đẹp đến mức không thực... còn nhiều việc tốt đẹp hơn thế nữa vẫn thường xuyên xảy đến với mình đấy thôi. Với lại mình cho rằng những chuyện xảy ra trong ngày hôm nay cũng có mặt tức cười của chúng. Có lẽ khi mình và Diana đã già héo cả ra, chúng mình sẽ có thể phá lên cười khi nhớ lại. Nhưng giờ thì mình cảm thấy mình chưa làm được vậy, vì hôm nay đúng là một ngày thất vọng cay đắng.”
    “Cháu có thể còn gặp rất nhiều thất vọng nặng nề hơn thế trong cuộc đời,” bà Marilla nói, cho rằng mình đang an ủi Anne. “Anne ạ, ta thấy cháu sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi cái thói dốc hết lòng hết sức để làm một việc gì đó, rồi sau đó rơi xuống tuyệt vọng vì không đạt được nó.”
    “Cháu biết là cháu có khuynh hướng đó thật,” Anne buồn bã đồng ý. “Khi cháu nghĩ sắp có chuyện gì đó thật hay xảy ra, cháu như được chắp đôi cánh chờ mong bay lên thật cao; rồi sau đó cháu đột nhiên nhận ra mình bị rớt cái bịch xuống mặt đất. Nhưng thật ra, bác Marilla ạ, bay bổng như vậy hết sức tuyệt vời, ít nhất là trong khi còn đang bay... cứ như vút lên trong ánh hoàng hôn vậy. Cháu nghĩ có ngã cái rầm cũng gần như là đáng giá.”
    “Ừ, có lẽ là thế thật,” bà Marilla thừa nhận. “Có điều ta thà đi bộ thong dong mà chẳng cần bay hay té ngã làm gì. Nhưng mỗi người có một cách sống khác nhau... ta từng nghĩ chỉ có một cách đúng đắn mà thôi... nhưng từ khi ta nuôi dạy cháu và hai đứa sinh đôi, ta không còn chắc chắn về điều đó nữa. Cháu định xử lý chuyện cái đĩa men của cô Barry thế nào?”
    “Trả lại cho cô ấy số tiền hai mươi đô mà cô ấy đã bỏ ra mua nó, chắc thế thôi ạ. Cháu hết sức biết ơn Chúa khi nó không phải là một vật quý gia truyền, bởi vì nếu vậy thì chẳng tiền nào có thể thay thế được.”
    “Có lẽ cháu nên tìm xem có cái đĩa nào giống vậy mà mua trả lại cho cô ấy.”
    “Cháu e là không được. Cái đĩa xưa như vậy rất hiếm. Bà Lynde còn chẳng tìm được cái nào cho bữa tối từ thiện mà. Cháu chỉ ước chi mình có thể tìm được, vì đương nhiên cô Barry sẽ không để ý nếu cháu trả lại cho cô ấy cái đĩa cổhàng thật giống cái bị vỡ. Bác Marilla ơi, nhìn ngôi sao to phía trên khu rừng phong của ông Harrison kìa, với bầu trời bạc mang vẻ thần thánh xung quanh nữa. Nó khiến cháu có cảm giác như mình đang cầu nguyện. Xét cho cùng, một khi có thể nhìn thấy bầu trời và những ngôi sao như vậy, những thất vọng và rủi ro nhỏ nhoi chẳng đáng gì, phải không?”
    “Davy đâu?” Bà Marilla liếc nhìn ngôi sao chẳng có chút hứng thú gì.
    “Trên giường. Cháu đã hứa mai sẽ dẫn nó và Dora đi dã ngoại ở bờ hồ. Đương nhiên, thỏa thuận ban đâu là nó phải ngoan ngoãn. Nhưng nó đã cố gắng ngoan ngoãn... mà cháu thì không nỡ làm nó thất vọng.”
    “Cháu hay hai đứa nhỏ sẽ chết đuối mất thôi khi chèo cái thuyền dỏm đó trên hồ,” bà Marilla làu bàu. “Ta đã sống ở đây sáu chục năm trời mà chẳng bao giờ đặt chân tới cái hồ đó.”
    “Ồ, vẫn chưa quá muộn đâu,” Anne tinh nghịch. “Hay là mai bác đi với bọn cháu đi. Chúng ta sẽ đóng cửa Chái Nhà Xanh và dành cả ngày trên bờ hồ, gạt bỏ cả thế giới qua một bên.”
    “Không, cảm ơn,” bà Marilla gằn giọng phẫn nộ. “Nhìn ta chắc sẽ đẹp mặt lắm khi chèo lòng vòng quanh hồ trên một cái thuyền nhỉ? Chưa gì ta đã nghe thấy tiếng Rachel bày tỏ ý kiến về hành động đó rồi đây này. Kìa, ông Harrison đang đánh xe đi đâu đó thì phải. Cháu có cho lời đồn ông Harrison đang cưa cẩm Isabella Andrews là thật không?”
    “Không, cháu chắc là không đúng đâu. Ông ấy chỉ ghé qua một buổi chiều để bàn chuyện làm ăn với ông Harmon Andrews, bà Lynde nhìn thấy và tuyên bố là biết ngay ông ấy đang đi cưa cẩm vì ông ấy mặc áo cổ cồn trắng. Cháu không tin ông Harrison chịu lập gia đình đâu. Ông ấy dường như có thành kiến với hôn nhân.”
    “Ôi, đám đàn ông độc thân già đấy khó nói lắm. Và nếu ông ta mặc áo cổ cồn trắng thật thì ta đồng ý với Rachel là rất đáng nghi, vì ta chắc chắn chưa từng thấy ông ta mặc áo cổ cồn trắng lần nào.”
    “Chắc ông ấy mặc thế chỉ vì muốn ký một hợp đồng làm ăn với ông Harmon Andrews mà thôi,” Anne nói. “Cháu có nghe ông ấy nói rằng đó là lúc duy nhất một người đàn ông cần phải quan tâm đến bề ngoài, vì nếu ông ta nhìn có vẻ giàu có thì phía bên kia ít có khả năng lừa ông ta hơn. Cháu cảm thấy thương cho ông Harrison; cháu không tin rằng ông ấy hài lòng với cuộc sống hiện tại của mình. Chắc là rất cô đơn khi chẳng có ai khác để quan tâm ngoài một con vẹt, bác có nghĩ vậy không? Nhưng cháu để ý thấy ông Harrison không thích bị thương hại. Không ai thích thế, cháu nghĩ vậy.”
    “À, Gilbert đến kìa,” bà Marilla nói. “Nếu cậu ta muốn rủ cháu đi chèo thuyền thì cháu đừng quên mặc áo khoác và đi ủng cao su vào nhé. Tối nay sương nhiều đấy.”

  10. #19
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 18 - MỘT CHUYẾN PHIÊU LƯU TRÊN ĐƯỜNG BẢO THỦ
    “Cô Anne,” Davy ngồi trên giường, hai tay chống cằm, “cô Anne ơi, giấc ngủ ở đâu? Mọi người đi ngủ mỗi đêm, và đương nhiên cháu biết giấc ngủ là nơi để cháu làm những điều cháu mơ ước, nhưng cháu muốn biết nó ở đâu, làm sao cháu đến đó rồi quay về mà chẳng biết tí gì về nó cả... mà còn mặc đồ ngủ nữa chứ. Nó ở đâu vậy?”
    Anne đang quỳ bên cửa sổ chái Tây nhìn bầu trời hoàng hôn tựa như một bông hoa lớn với cánh hoa nghệ tây và nhụy hoa màu vàng chói lọi. Cô quay lại khi nghe câu hỏi của Davy và lơ đãng đáp,
    “Qua dãy núi trên mặt trăng,
    Dưới thung lũng của bóng tối.”
    Paul Irving sẽ hiểu ý của cô, hoặc tự rút ra ý tưởng của mình; nhưng Davy là một cậu bé thực tế như Anne thường thất vọng nhận xét, chẳng có chút xíu trí tưởng tượng nào nên nó chỉ bối rối và bực tức.
    “Cô Anne, cháu nghĩ cô chỉ toàn nói vở vẩn.”
    “Đương nhiên là thế rồi, cậu bé đáng yêu. Cháu không biết là chỉ những người rất ngu si mới nói chuyện có lý mọi lúc mọi nơi sao?”
    “Ồ, cháu nghĩ cô nên trả lời hợp lý khi cháu hỏi một câu hỏi có lý,” Davy lộ vẻ tổn thương.
    “Ôi, cháu còn bé quá chẳng hiểu được đâu,” Anne nói. Nhưng cô cảm thấy khá xấu hổ khi nói vậy, vì chẳng phải chính cô, luôn ghi khắc những lần bị lờ đi tương tự thời thơ ấu, đã long trọng thề rằng sẽ không bao giờ nói với bất cứ đứa trẻ nào rằng nó còn quá nhỏ để hiếu một điều gì đó? Thế mà giờ cô lại làm đúng như vậy... đôi khi khoảng cách giữa lý thuyết và thực tế quá xa nhau.
    “Ồ, cháu đang cố hết sức để lớn lên đây,” Davy nói, “nhưng đó là chuyện không thể quá hấp tấp được. Nếu bà Marilla không quá keo giữ khư khư hũ mứt thì cháu tin là cháu còn lớn nhanh hơn nữa.”
    “Bác Marilla không keo, Davy à,” Anne nghiêm giọng. “Cháu thật vô ơn khi nói thế.”
    “Có một từ khác ý y hệt vậy nhưng nghe lịch sự hơn, nhưng cháu không nhớ ra,” Davy nhăn tít trán. “Hôm nọ cháu nghe bà Marilla tự nhận mình như thế mà.”
    “Nếu cháu muốn nói là tiết kiệm thì đó hoàn toàn khác hẳn với keo đấy nhé. Tiết kiệm là một đức tính tốt. Nếu bác Marilla keo kiệt thì bác ấy sẽ không nhận nuôi cháu và Dora khi mẹ cháu qua đời đâu. Cháu có thích sống với bàWiggins không?”
    “Ôi, cô có thể cược là cháu không thích rồi!” Davy hoàn toàn chắc chắn về điều đó. “Cháu cũng không muốn đến chỗ cậu Richard nữa. Cháu thích sống ở đây hơn nhiều, ngay cả nếu bà Marilla khá là tiết-tiết gì đấy với hũ mứt, vì có cô ở đây, cô Anne ạ. Nói xem, cô Anne, cô sẽ kể truyện cho cháu trước khi cháu ngủ nhé? Cháu không muốn nghe truyện cổ tích, cổ tích chỉ dành cho bọn con gái thôi, cháu muốn truyện gì hồi hộp hơn kia... nhiều chém giết và bắn nhau ấy, nhà bốc cháy và những chuyện thú vị tương tự.”
    Thật may cho Anne, bà Marilla gọi cô từ trong phòng.
    “Anne, Diana nháy tín hiệu liên tục kìa. Cháu đi xem nó cần gì đi.”
    Anne chạy sang chái Đông và nhìn thấy ánh sáng từ cửa sổ phòng Diana chấp chới xuyên qua ánh chiều chạng vạng, năm lần mỗi lượt, theo mật mã tuổi thơ của họ, điều đó có nghĩa là, “Hãy sang đây ngay vì tớ có chuyện quan trọng cần nói.” Anne quấn khăn choàng trắng lên đầu rồi hấp tấp đi qua rừng Ma Ám, băng ngang góc đồng cỏ của ông Bell để tới dốc Vườn Quả.
    “Tớ có tin tốt cho cậu đây, Anne ạ,” Diana nói. “Hai mẹ con tớ vừa từ Carmody về, và tớ gặp Mary Sentner ở Spencervale trong cửa hàng của ông Blair. Cô ta nói mấy bà cô già nhà Copp trên đường Bảo Thủ có một cái đĩa men Trung Hoa trông y hệt như cái đĩa chúng ta dùng ở bữa tối từ thiện. Cô ta nói họ rất có thể sẽ bán nó, vì Martha Copp chẳng bao giờ giữ lại thứ gì mà cô ta có thể bán cả, nhưng nếu họ không bán thì còn một cái đĩa khác ở nhà Wesley Keyson ở Spencervale, và cô ta biết họ muốn bán, nhưng không chắc liệu nó có cùng kiểu như của cô Josephine hay không.”
    “Mai tớ sẽ đi ngay đến Spencervale,” Anne cương quyết, “và cậu phải đi với tớ. Nếu được thì đúng là nhẹ cả người, vì ngày mốt tớ phải ra tỉnh và làm sao tớ có thể nhìn mặt cô Josephine của cậu nếu không có cái đĩa men xanh? Chuyện ấy còn tệ hơn cái lần tớ phải thú tội là đã nhảy trên cái giường trong phòng dành cho khách.”
    Hai cô gái phá lên cười trước kỷ niệm ngày cũ... và nếu có bất cứ độc giả nào tò mò không biết, thì xin hãy tham khảo câu chuyện thời thơ ấu của Anne.
    Trưa hôm sau, hai cô gái lên đường bắt đầu chuyến săn tìm đĩa cổ. Spencervale cách đó mười dặm và thời tiết chẳng dễ chịu lắm cho việc đi lại. Trời rất nóng và không có gió, bụi đường nhiều kinh khủng sau sáu tuần không mưa.
    “Ôi, tớ ước gì trời sẽ sớm mưa,” Anne thở dài. “Mọi thứ đều khô như ngói. Những cánh đồng tội nghiệp nhìn thật đáng thương, và hàng cây như đang vươn tay ra khẩn cầu trời mưa. Còn khu vườn của tớ nữa, mỗi lần ra vườn tớ lại thấy đau lòng. Tớ cho rằng mình không nên than phiền vì một khu vườn trong khi vụ mùa của nhiều nông dân đang bị tàn phá. Ông Harrison nói đồng cỏ của ông ấy khô cháy đến mức mấy con bò cái chẳng tìm được chút gì để ăn, và ông ấy cảm thấy mình tàn ác với thú vật quá mỗi khi nhìn vào mắt chúng.”
    Sau chuyến đánh xe mệt mỏi, hai cô gái đến Spencervale và quẹo vào đường “Bảo Thủ”... một con đường đơn độc rợp bóng cây, cỏ mọc giữa những vệt bánh xe cho thấy nơi đây hiếm có người qua lại. Dọc theo phần lớn con đường là hàng cây vân sam non um tùm mọc tràn cả xuống đường, đôi chỗ lại điểm xuyết khoảng ruộng phía sau một trang trại vươn ra sát hàng rào, hay những gốc cây rực màu cỏ lá liễu và hoa roi vàng.
    “Vì sao nó lại có tên là đường Bảo Thủ nhỉ?” Anne hỏi.
    “Ông Allan nói việc này chẳng khác gì gọi một nơi là rừng khi nơi đó chẳng có một cái cây nào,” Diana nói, “Vì chẳng có ai ngoài chị em nhà Copp và ông già Martin Bovyer ở đầu bên kia sống trên con đường này, mà bọn họ đều theo đảng Tự do cả. Chính quyền đảng Bảo thủ làm con đường này khi họ nắm quyền, chỉ để cho thấy là họ có làm cái gì đó.”
    Cha của Diana theo đảng Tự do, đó là lý do cô và Anne không bao giờ bàn luận chuyện chính trị. Những người ở Chái Nhà Xanh luôn luôn theo đảng Bảo thủ.
    Cuối cùng hai cô gái cũng đến nhà của chị em Copp... một nơi ngân nắp sạch sẽ đến mức Chái Nhà Xanh cũng phải thấy xấu hố. Ngôi nhà xây theo kiểu rất xưa, nằm trên một cái dốc, chính vì vậy ở một đâu nhà phải xây móng bằng đá. Ngôi nhà và các công trình phụ đều được quét vôi trắng đến mức hoàn hảo, lóa cả mắt, không thấy bóng dáng một ngọn cỏ dại nào trong khu vườn ngăn nắp bao quanh bởi hàng rào sơn trắng.
    “Mành cửa kéo xuống hết cả,” Diana thất vọng. “Tớ nghĩ chả có ai ở nhà.”
    Quả thật là như vậy. Hai cô gái ngẩn ngơ nhìn nhau.
    “Tớ chẳng biết phải làm gì nữa,” Anne nói. “Nếu tớ biết chắc cái đĩa đúng là loại mình cần tìm thì tớ không ngại đợi đến khi họ về đâu. Nhưng nếu không phải thì có thể sẽ muộn quá không kịp đến nhà Wesley Keyson.”
    Diana nhìn vào một ô cửa sổ nhỏ phía trên tầng hầm. “Đó là cửa sổ phòng lương thực, tớ chắc đấy,” cô nói, “Vì nhà này y hệt như nhà cậu Charles ở Newbridge, và họ cũng để phòng lương thực ở đó. Mành cửa không hạ xuống, nên nếu chúng ta leo lên nóc cái chuồng nhỏ kia thì có thể nhìn xuống phòng lương thực và may ra thì thấy được cái đĩa. Cậu nghĩ thế có hại gì không?”
    “Chắc không sao đâu,” Anne dứt khoát sau khi đã suy nghĩ kỹ, “Vì động cơ của chúng ta không phải là tò mò rảnh hơi.”
    Khi đã giải quyết xong vấn đề đạo đức quan trọng, Anne chuẩn bị leo lên “cái chuồng nhỏ” nói trên, một công trình bằng gỗ; mái nhọn, có thuở từng được dùng để nuôi vịt. Các cô gái già nhà Copp đã từ bỏ việc nuôi vịt... “bởi vì chúng là loại ở dơ”... nên cái chuồng bị bỏ hoang vài năm, chỉ dùng làm nơi cho gà mái đẻ. Dẫu được quét vôi trắng kỹ lưỡng, nó cũng đã khá xiêu vẹo và Anne cảm thấy hơi lo lắng khi cô leo lên từ điểm tựa là một cái thùng đặt trên một hộp gỗ.
    “Tớ sợ là nó không chịu nổi sức nặng của tớ,” Anne rón rén đặt chân lên nóc chuồng.
    “Tựa vào bệ cửa sổ ấy,” Diana khuyên và Anne nghe theo. Nhòm qua mặt kính, cô hết sức vui sướng thấy cái đĩa men xanh Trung Hoa đúng loại cô cần tìm đang nằm trên cái kệ ngay trước cửa sổ. Cô chỉ nhìn thấy được như vậy trước khi thảm họa ập đến. Trong lúc vui sướng, Anne quên béng chỗ đặt chân bấp bênh của mình, vô ý không tựa vào bệ cửa sổ mà bốc đồng nhảy lên mừng rỡ... và ngay sau đó cô bị rơi thụt xuống mái tới tận nách, và cứ treo lơ lửng ở đó không sao thoát ra được. Diana chạy vào chòi vịt, ôm lấy eo cố kéo người bạn xui xẻo của mình xuống.
    “Úi... đừng,” Anne đáng thương hét tướng lên. “Có mấy cái dằm dài đâm vào tớ. Cậu xem có đặt được vật gì đó dưới chân tớ không... có lẽ nhờ đó mà tớ chui ra được.”
    Diana vội vã kéo cái thùng nói ở trên tới và Anne nhận ra nó vừa đủ cao để bảo đảm cho chân cô trụ vững. Nhưng cô vẫn không chui ra được.
    “Nếu tớ bò lên thì có kéo cậu ra được không?” Diana đềnghị.
    Anne lắc đầu tuyệt vọng.
    “Không... mấy cái dằm đâm đau quá. Nếu kiếm được rìu thì cậu có thể phá chúng để cứu tớ ra. ôi trời ơi, giờ thì tớ thực sự tin rằng mình được sinh ra dưới một ngôi sao xấu.”
    Diana lục tung lên nhưng không tìm ra cái rìu nào.
    “Tớ phải đi tìm người giúp đỡ thôi,” cô nói, quay lại với kẻ tù nhân bất đắc dĩ.
    “Không, đừng, cậu đừng đi,” Anne kịch liệt phản đối. “Nếu cậu làm vậy thì câu chuyện sẽ lan ra khắp nơi và tớ sẽ xấu hổ không dám chường mặt ra mất. Không, chúng ta phải đợi đến khi các bà cô nhà Copp về nhà và buộc họ giữ bí mật. Họ sẽ biết chỗ cất rìu và giúp tớ thoát ra. Tớ không khó chịu lắm đâu, miễn là tớ đứng yên không động đậy... ít nhất là không khó chịu trên cơ thể, ý tớ là vậy. Tớ tự hỏi các cô gái nhà Copp có coi trọng cái chuồng này không. Tớ sẽ phải trả tiền cho những thiệt hại mình đã gây ra, nhưng tớ không phiền, chỉ cần chắc chắn là họ hiểu rõ động cơ của tớ khi nhòm qua cửa sổ phòng lương thực của họ thôi. Niềm an ủi duy nhất của tớ là cái đĩa đó đúng loại tớ cần, và nếu cô Copp chịu bán nó cho tớ thì tớ sẵn sàng chấp nhận những gì đã xảy ra.”
    “Nếu các bà cô nhà Copp đến tối... hoặc đến mai mới về thì sao?” Diana hỏi.
    “Nếu lúc hoàng hôn mà họ vẫn chưa về thì chắc cậu phải đi nhờ giúp đỡ thôi, tớ nghĩ vậy,” Anne miễn cưỡng, “nhưng cậu không cần đi khi chưa thực sự cần thiết. Ôi trời ơi, tình cảnh này thật khủng khiếp. Tớ không phiền nếu những nỗi bất hạnh của tớ lãng mạn một chút, như những bậc anh thư trong truyện của bà Morgan đấy, nhưng bất hạnh của tớ toàn là thứ nhảm nhí mà thôi. Nghĩ xem các bà cô nhà Copp sẽ nghĩ thế nào khi họ đánh xe vào sân, thấy đầu và vai của một cô gái thò ra khỏi nóc chuồng vịt nhà họ.
    Nghe kìa... một chiếc xe hả? Không, Diana, tớ nghĩ là tiếng sấm đấy.”
    Không nghi ngờ gì nữa, đó là tiếng sấm, Diana sau khi rảo bước một vòng quanh căn nhà đã quay lại tuyên bố: một đám mây đen kịt đang ùn ùn kéo tới ở phía Tây Bắc.
    “Tớ nghĩ sắp có một cơn mưa dông lớn,” cô kêu lên tuyệt vọng. “Ôi Anne ơi, chúng ta phải làm sao đây?”
    “Chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng,” Anne bình tĩnh nói. Một cơn mưa dông chỉ là thứ vặt vãnh sau những chuyện vừa xảy ra. “Tốt nhất cậu nên đánh xe ngựa vào cái kho mở đằng kia. Thật may là trên xe có dù của tớ. Này... cầm theo cái mũ của tớ đi. Bác Marilla bảo tớ thật ngốc khi đội chiếc mũ đẹp nhất để đi đến đường Bảo Thủ, và bác ấy đã đúng, như từ trước đến giờ.”
    Diana tháo ngựa và đánh xe vào kho, vừa lúc những hạt mưa to đùng đầu tiên rơi xuống. Cô ngồi đó quan sát trận mưa như trút nước, làn mưa dày nặng đến mức cô chỉ thấy Anne lờ mờ, tay dũng cảm cầm cây dù che trên mái đầu trần. Sấm sét không nhiều lắm, nhưng cơn mưa vui vẻ rơi suốt gần một tiếng đồng hồ. Thỉnh thoảng Anne ngả dù ra sau một chút rồi vẫy tay khích lệ bạn, nhưng xa như vậy thì không thể nào trò chuyện được. Cuối cùng cơn mưa cũng tạnh, mặt trời ló dạng và Diana băng qua khoảnh sân sũng nước.
    “Cậu có ướt lắm không?” cô lo lắng hỏi.
    “Ồ không,” Anne vui vẻ đáp. “Đầu và vai tớ khá khô ráo, còn váy tớ chỉ ẩm một chút khi mưa luồn qua vách ván. Đừng thương hại tớ, Diana ạ, vì tớ chẳng để tâm gì chuyện ướt át đâu mà. Tớ cứ nghĩ cơn mưa này thật tốt quá, khu vườn của tớ chắc đang vui sướng lắm đây, và tớ tưởng tượng những đóa hoa và mầm cây nghĩ gì khi những giọt mưa bắt đầu rơi. Tớ tưởng tượng ra một đoạn đối thoại cực kỳ thú vị giữa cây cúc tây, cây đậu ngọt, chim hoàng yến hoang ẩn trong bụi tử đinh hương cùng với vị thần giám hộ khu vườn. Khi về nhà tớ sẽ viết nó ra. Tớ ước gì có bút chì và giấy để ghi ngay lúc này, vì tớ dám chắc là tớ sẽ quên khá nhiều khi về đến nhà đấy.”
    Diana, người bạn trung thành, có đem theo bút chì và phát hiện một tờ giấy gói trong một cái hộp trên xe ngựa. Anne gấp cây dù ướt sũng lại, đội mũ vào, trải tấm giấy gói trên một tấm ván Diana chuyên lên và viết câu chuyện lãng mạn về khu vườn của mình trong hoàn cảnh khó có thể coi là thích hợp cho văn chương. Dù sao chăng nữa, kết quả khá là tuyệt vời và Diana “thích mê” khi Anne đọc cho cô nghe.
    “Ôi Anne, thật đáng yêu quá... đáng yêu quá. Hãy gửi nó tới báo Phụ nữ Canada đi.”
    Anne lắc đầu.
    “Ồ không, không hợp đâu. Không có cốt truyện, cậu thấy đấy. Chỉ là một chuỗi tưởng tượng mà thôi. Tớ thích viết những đoạn văn như thế, nhưng đương nhiên, chẳng hềthích hợp để đăng báo, vì các biên tập viên đòi phải có cốt truyện, Priscilla nói vậy đấy. Ồ, cô Sarah Copp đã về rồi kìa. Làm ơn, Diana, đi giải thích cho tớ đi.”
    Cô Sarah Copp có thân hình nhỏ bé, mặc bộ đồ màu đen tồi tàn, đội chiếc mũ theo phong cách che mưa gió chứ không phải để ăn diện màu mè. Cô ngạc nhiên như đã dự đoán khi nhìn thấy hoạt cảnh kỳ lạ trong sân, nhưng khi nghe xong lời giải thích của Diana, cô hết sức thông cảm. Cô vội vẵ mở cửa sau, lôi cây rìu ra và sau vài cú bổ ngoạn mục, Anne đã được giải phóng. Anne có chút mệt mỏi và người cứng đờ, mau chóng chui ra khỏi nhà tù trở lại kiếp tự do, lòng đầy biết ơn.
    “Cô Copp,” cô chân thành nói. “Cháu bảo đảm với cô là cháu nhòm vào cửa sổ phòng lương thực chỉ để xem cô có cái đĩa sứ men xanh hay không. Cháu không nhìn bất cứ thứ gì khác... cháu không tìm bất cứ thứ gì khác.”
    “Chúa ban phước lành, mọi chuyện ổn rồi mà,” cô Sarah thân thiện nói. “Cháu đừng lo, không có gì tai hại cả. Tạ ơn Chúa, những người nhà Copps luôn giữ ngăn nắp phòng lương thực nên chúng tôi chẳng thấy phiền nếu có ai nhòm vào. Còn về cái chòi vịt cũ đó, tôi mừng vì nó bị sụp, có lẽ giờ thì Martha sẽ đồng ý giật sập nó. Trước đây chị ấy không muốn vì e là nó còn dùng được vào dịp nào đó; và tôi phải sơn trắng lại nó mỗi mùa xuân. Nhưng thà cãi với đầu gối còn hơn tranh luận với Martha. Bữa nay chị ấy ra tỉnh, tôi đánh xe đưa chị ấy ra ga. Thế cháu muốn mua đĩa của tôi à? Vậy cháu trả bao nhiêu?”
    “Hai mươi đô,” Anne đáp vì chưa bao giờ bàn việc làm ăn với một người nhà Copp, nếu có thì cô đã không nói thẳng giá ngay từ đầu như vậy.
    “Ồ, để xem xem,” cô Sarah dè dặt. “May là cái đĩa là của tôi, nếu không tôi không đời nào dám bán nó khi Martha vắng mặt. Bởi vì dám chắc là chị ấy sẽ làm trận làm thượng cho coi. Martha là bà chủ của nơi này, tôi cho các cháu biết thế. Tôi đã chán khủng khiếp khi phải sống cảnh vâng vâng dạ dạ với một người phụ nữ khác rồi. Nhưng mời vào, mời vào, chắc các cháu mệt và đói lắm. Tôi sẽ pha trà ngon nhất có thể, nhưng nói trước là các cháu đừng hy vọng gì hơn ngoài món bánh mì bơ và dưa chụt. Martha đã cất hết bánh ngọt, pho mát và mứt trước khi đi. Chị ấy luôn làm thế vì cho rằng tôi quá phung phí mỗi khi có khách.”
    Các cô gái đã đói meo nên sẵn sàng chén sạch bất cứ thứ gì, và họ đã thưởng thức nhiệt tình bánh mì bơ ngon tuyệt cùng với món “dưa chụt” của cô Sarah. Khi xong bữa, cô Sarah nói,
    “Tôi không biết tôi có muốn bán cái đĩa không, Nhưng nó có giá đến hai mươi lăm đô đấy. Nó đã xưa lắm rồi.”
    Diana đá nhẹ chân Anne dưới bàn, ý muốn nhắc nhở, “Đừng có đồng ý, nếu cậu cứng tay một chút thì cô ấy sẽ bán với giá hai mươi đô thôi.” Nhưng Anne không muốn mạo hiểm tí nào với cái đĩa quý giá đấy. Cô lập tức đồng ý trả hai mươi lăm đô và cô Sarah có vẻ tiếc nuối vì không đòi tới ba mươi.
    “Ồ, vậy thì cháu cứ lấy đi. Tôi cần phải gom tiền càng nhiều càng tốt. Sự thật là...” - cô Sarah hất đầu vẻ quan trọng, đôi má hóp ửng hồng tự hào - “... tôi sắp lập gia đình, với Luther Wallace. Anh ấy muốn cưới tôi từ hai mươi năm trước. Tôi rất thích anh ấy nhưng lúc đó anh ấy nghèo nên cha tôi đã đá anh ấy đi. Tôi cho rằng tôi không nên ngoan ngoãn mà bỏ anh ấy đi như thế, nhưng tôi quá nhát và sợ cha. Hơn nữa, tôi không biết đàn ông lại chẳng kiên trì đến thế.”
    Khi đã đi được một khoảng an toàn, Diana đánh xe còn Anne cẩn thận ôm cái đĩa quý giá trên đùi, con đường Bảo Thủ tĩnh mịch xanh mướt tươi tắn sau cơn mưa, sinh động hơn hẳn bởi tiếng cười giòn tan của hai cô gái.
    “Mai ra tỉnh tớ sẽ làm bà Josephine của cậu cười ngất với 'câu chuyện sôi động lạ kỳ' về buổi chiều hôm nay mất thôi. Chúng ta đã khá vất vả, nhưng giờ tất cả đã xong xuôi. Tớ có được cái đĩa và cơn mưa làm bụi lắng xuống một cách tuyệt vời. Thật là 'một kết thúc mỹ mãn'.”
    “Chúng ta chưa về đến nhà đâu,” Diana có vẻ bi quan, “và không biết được còn chuyện gì có thể xảy ra trước khi chúng ta về đến nhà. Cậu đúng là một người có máu phiêu lưu, Anne ạ.”
    “Phiêu lưu dường như là máu thịt của một số người,”Anne tỉnh như không. “Hoặc có năng khiếu, hoặc là không.”

  11. #20
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 19 - CHỈ MỘT NGÀY HẠNH PHÚC
    “Xét cho cùng,” có lần Anne nói với bà Marilla, “cháu tin rằng những ngày tươi đẹp và ngọt ngào nhất không phải là ngày diễn ra những việc vĩ đại, phi thường hay hứng khởi, mà chỉ là ngày đem lại những niềm vui nho nhỏ giản dị nối tiếp nhau, cứ như những viên ngọc trai trượt khỏi dây đeo vậy.”
    Cuộc sống ở Chái Nhà Xanh tràn ngập những ngày như thế, vì các cuộc phiêu lưu và sự cố không mong muốn của Anne, cũng như những người khác, không xảy ra cùng lúc mà rải rác suốt năm, ở giữa là những ngày hạnh phúc vô hại kéo dài, tràn đầy công việc, ước mơ, tiếng cười và những bài học quý giá. Một ngày như thế bắt đầu vào cuối tháng Tám.
    Buổi sáng, Anne và Diana chèo thuyền đưa hai đứa trẻ sinh đôi háo hức đến bãi cát để hái “cỏ ngọt” và lướt trên đầu những ngọn sóng, gió vi vút một khúc nhạc cổ xưa học được khi thế giới này còn ở thời tuổi trẻ.
    Buổi trưa, Anne đi xuống nhà cô Irving để gặp Paul. Cô thấy cậu bé đang nằm dài trên bờ cỏ cạnh khu rừng linh sam rậm rạp che chắn phía Bắc căn nhà, chìm đắm trong một quyển truyện cổ tích. Cậu bé đứng dậy, hớn hở ra mặt khi nhìn thấy cô.
    “Ôi, em rất vui vì cô đã đến, cô giáo ạ,” cậu nhiệt tình chào đón, “Vì bà nội không có nhà. Cô sẽ ở lại dùng trà với em nhé, được không cô? Dùng trà một mình thì cô đơn lắm. Cô biết mà, cô giáo. Em đã nghiêm túc định bảo chị Mary Joe ngồi dùng trà với em, nhưng em cho là bà nội sẽ không ưng. Bà nói là phải đặt bọn người Pháp vào đúng chỗ. Với cả dù sao cũng thật khó mà trò chuyện với Mary Joe. Chị ta cứ cười mà nói, ‘ồ, cậu kác ẳn nững đứa trẻ mà tôi bít.’ Đó không phải cuộc đối thoại mà em muốn.”
    “Đương nhiên là cô sẽ ở lại dùng trà,” Anne vui vẻ đáp. “Cô đang mòn mỏi chờ lời mời của em đây. Cô đã ứa nước miếng thèm món bánh bơ giòn ngon tuyệt kể từ lần trước dùng trà ở đây.”
    Paul lộ vẻ trầm tư.
    “Nếu em có quyền quyết định, cô giáo ạ,” cậu đứng trước mặt Anne, tay đút túi và khuôn mặt đẹp trai bé bỏng đột nhiên bị nỗi lo lắng che phủ, “cô muốn ăn bánh bơ giòn bao nhiêu tùy thích. Nhưng tất cả phụ thuộc vào Mary Joe. Em nghe bà nội dặn chị ta trước khi đi rằng chị ta không được cho em ăn bánh bơ giòn vì nó không tốt cho bao tử của các bé trai. Nhưng có thể Mary Joe sẽ lấy một ít cho cô nếu em hứa là em sẽ không đụng tới. Hãy hy vọng vào điều tốt nhất thôi.”
    “Ừ, cứ vậy đi,” Anne đồng ý, cô rất hợp với tư tưởng lạc quan này, “và nếu Mary Joe cứng rắn không cho cô ăn bánh bơ giòn thì cũng chẳng sao, nên em không cần phải lo đâu.”
    “Cô chắc là cô không sao nếu chị ta không đem bánh ra chứ?” Paul lo lắng hỏi lại.
    “Trăm phần trăm, bé cưng ạ.”
    “Vậy thì em sẽ không lo lắng nữa,” Paul thở dài nhẹnhõm, “nhất là vì em nghĩ Mary Joe sẽ nghe theo lẽ phải thôi. Chị ta không phải là một người vô lý bẩm sinh, nhưng chị ta đã có kinh nghiệm xương máu rằng không nên cãi lời bà nội. Bà nội rất tuyệt nhưng mọi người phải nghe theo lời bà. Bà rất hài lòng với em sáng nay vì cuối cùng em đã ăn sạch đĩa cháo. Phải nỗ lực dữ lắm nhưng mà em đã thành công. Bà nội nói coi bộ có thể biến em thành một người đàn ông chân chính được. Nhưng cô giáo ơi, em muốn hỏi cô một câu hết sức quan trọng. Cô sẽ trả lời thực cho em chứ, phải không cô?”
    “Cô sẽ cố gắng,” Anne hứa.
    “Cô có nghĩ thần kinh của em có vấn đê không?” Paul hỏi với vẻ nghiêm túc cứ như sự tồn tại của cậu được quyết định bởi câu trả lời của Anne.
    “Trời ơi, không đâu Paul,” Anne kêu lên ngạc nhiên. “Đương nhiên là em bình thường rồi. Ai khiến em có ý nghĩ như thế?”
    “Mary Joe... nhưng chị ta không biết là em nghe thấy. Cô gái giúp việc cho bà Peter Sloane, Veronica, đến thăm Mary Joe chiều hôm trước và em nghe họ nói chuyện trong bếp khi em đi qua hành lang. Em nghe Mary Joe nói, ‘Cậu Paul đó, cậu ta là một cậu pé kìa lạ. Cậu ta nói năng ết sứt kìa lạ. Tôi ngĩ tần kin cậu ta có vấn đề.’ Suốt đêm qua em không ngủ được, em cứ nghĩ về điều đó và tự hỏi liệu Mary Joe có đúng không. Em không dám hỏi bà nhưng em quyết định sẽ hỏi cô. Em rất mừng khi cô nghĩ là thần kinh em vẫn ổn.”
    “Đương nhiên là vậy rồi. Mary Joe là một cô gái ít học ngớ ngẩn, em không bao giờ cần quan tâm đến những điều cô ta nói đâu,” Anne phẫn nộ thốt, thầm quyết định sẽ khéo léo nhắc nhở bà Irving rằng cần ghìm bởi cái lưỡi nhiều chuyện của Mary Joe.
    “Ôi, thế là nhẹ cả người,” Paul nói. “Giờ em hoàn toàn vui sướng rồi, cô giáo à, nhờ cô đó. Có gì đó không ổn trong thần kinh của mình thì thật chẳng hay ho, phải không cô? Em cho là Mary Joe tưởng em như vậy là vì thỉnh thoảng em kể cho chị ta nghe suy nghĩ của em về sự vật.”
    “Đó là một hành động mạo hiểm đấy,” Anne công nhận, dựa vào kinh nghiệm của chính mình.
    “Ồ, lát nữa em sẽ kể cho cô những suy nghĩ em đã nói với Mary Joef và cô hãy tự quyết định xem có gì kỳ quặc không nhé,” Paul nói, “nhưng em phải đợi đến lúc trời sập tối đã. Đó là lúc em khao khát muốn nói chuyện với người khác nhất, và khi không có ai ở cạnh bên, em phải nói với Mary Joe. Nhưng sau này em sẽ không làm vậy nữa, nếu điều đó làm chị ta cho rằng thần kinh em có vấn đê. Em khao khát nhưng sẽ cố nén.”
    “Và nếu nỗi khao khát quá trào dâng, em có thể đến Chái Nhà Xanh kể cho cô nghe suy nghĩ của mình,” Anne đề nghị với vẻ nghiêm túc khiến cô trở nên hết sức gần gũi với trẻ em, vì những đứa trẻ lúc nào cũng thích được coi trọng cả.
    “Vâng, em sẽ làm vậy. Nhưng em hy vọng Davy không có đó khi em tới, vì nó cứ nhăn mặt dọa em. Em không bực lắm vì nó còn bé tí mà em đã khá lớn rồi, nhưng bị nhăn mặt dọa thì chẳng dễ chịu tí nào. Với cả Davy nhăn mặt nhìn khủng khiếp lắm. Thỉnh thoảng em sợ mặt nó không trở về bình thường được mất. Nó làm mặt quỷ dọa em trong nhà thờ, khi lẽ ra em nên nghĩ đến những điều thiêng liêng. Nhưng Dora thích em, em cũng thích cô bé, nhưng không thích nhiều như lúc em chưa nghe cô bé nói với Minnie May Barry rằng cô bé sẽ lấy em khi em lớn lên. Khi lớn chắc em sẽ cưới ai đó, nhưng giờ thì em còn quá trẻ để nghĩ đến những việc kiểu ấy, cô có nghĩ vậy không cô giáo?”
    “Quá trẻ thật,” cô giáo đồng ý.
    “Nói đến đám cưới em lại nhớ ra một chuyện làm em băn khoăn dạo gần đây,” Paul tiếp.
    “Tuần trước bà Lynde có ghé xuống đây một bữa để dùng trà với bà nội, và bà nội bảo em cho bà Lynde coi tấm ảnh của mẹ em... tấm ảnh ba gửi cho em làm quà sinh nhật ấy. Em không muốn cho bà Lynde coi lắm. Bà Lynde là một phụ nữ tốt, đôn hậu nhưng bà ấy không phải loại người mình muốn cho coi ảnh của mẹ. Cô biết mà, cô giáo. Nhưng đương nhiên là em vâng lời bà nội. Bà Lynde nói mẹ rất đẹp nhưng có vẻ màu mè và chắc là trẻ hơn ba kinh khủng. Rồi bà ấy nói, ‘Có lẽ một ngày nào đó ba cháu sẽ tái hôn. Cháu có thích một người mẹ mới không, cậu Paul?’ Ồ, phải nói ý tưởng đó làm em gần như không thở nổi, cô giáo ạ, nhưng em không đời nào cho bà Lynde thấy phản ứng ấy. Em chỉ nhìn thẳng vào mặt bà ấy... như thế này này... và em nói, ‘Bà Lynde, ba đã lựa chọn rất đúng người mẹ đầu tiên của cháu, và cháu có thể tin tưởng ba sẽ chọn một người tốt như vậy lần thứ hai.’ Và em có thể tin tưởng ba, cô giáo ạ. Nhưng em vẫn hy vọng, nếu ba có đem về cho em một người mẹ mới, ba sẽ hỏi ý kiến em về cô ấy trước khi quá muộn. Kìa, Mary Joe đến gọi chúng ta dùng trà kìa. Em sẽ đi bàn bạc với chị ta về món bánh bơ giòn.”
    Kết quả của cuộc “bàn bạc” là Mary Joe cắt bánh bơ giòn và thêm một đĩa mứt vào danh mục món ăn. Anne rót trà, cô và Paul có một bữa ăn vui vẻ trong phòng ăn cũ mờ mờ ảo ảo, cửa sổ mở rộng đón gió từ vịnh thổi vào, và họ nói toàn những lời “Vớ vẩn” đến mức Mary Joe bị sốc và kể với Veronica chiều hôm sau rằng “kô dáo làn” cũng kỳ quặc y hệt Paul. Sau bữa trà, Paul dẫn Anne lên phòng để khoe tấm ảnh của mẹ, đó chính là món quà sinh nhật bí ẩn được bà Irving cất trong tủ sách. Căn phòng nhỏ trần thấp của Paul là sự kết hợp của ánh sáng đỏ xoay nhẹ từ mặt trời đang lặn xuống mặt biến và bóng râm đu đưa của những cây linh sam mọc gần vuông cửa sổ sâu. Giữa vầng sáng mềm mại và duyên dáng này nổi bật một khuôn mặt phụ nữ đáng yêu trẻ trung với đôi mắt dịu dàng của người mẹ, bức ảnh được treo trên tường ở chân giường.
    “Đó là người mẹ bé nhỏ của em,” Paul nói tràn đầy yêu thương và tự hào. “Em xin bà treo nó ở đó để em có thể nhìn thấy ngay khi mở mắt vào buổi sáng. Giờ thì em không còn cần ánh sáng khi đi ngủ nữa, vì cứ như mẹ đang ở ngay đây với em. Ba biết rõ em muốn thứ gì cho quà sinh nhật, dẫu ba chẳng hề hỏi em. Thật tuyệt khi những người cha biết được nhiều đến thế, phải không cô?”
    “Mẹ em rất đẹp, Paul ạ, và em có nét giống mẹ. Nhưng mắt và tóc của bà ấy sẫm màu hơn của em.”
    “Mắt em có màu y hệt mắt ba,” Paul nói, chạy vòng quanh phòng để chất mọi tấm đệm lên chỗ ngồi nơi cửa sổ, “nhưng tóc ba đã hoa râm. Ba có rất nhiều tóc, nhưng đều bạc hết cả rồi. Cô biết đấy, ba đã gần năm mươi. Tuổi đó là già lắm rồi, phải không? Nhưng ba chỉ già ở bên ngoài thôi. Bên trong ba trẻ như bất kỳ ai khác. Nào, cô giáo ơi, xin hãy ngồi ở đây, và em sẽ ngồi dưới chân cô. Em có thể dựa đầu vào đầu gối cô được không? Em và mẹ thường hay ngồi thế này. Ôi, thật là tuyệt vời, em nghĩ thế đấy.”
    “Bây giờ thì cô muốn nghe những suy nghĩ mà Mary Joe cho rằng hết sức kỳ quái,” Anne nói, vuốt ve mái đầu loăn xoăn bên cạnh. Paul không cần bất cứ lời khuyến khích nào để nói lên suy nghĩ của mình... ít nhất là đối với những tâm hồn tri kỷ.
    “Em nghĩ ra chúng vào một đêm trong rừng linh sam,” cậu mơ màng. “Đương nhiên em không tin vào chúng, nhưng em vẫn cứ nghĩ. Cô biết mà, cô giáo. Và rồi em muốn kể với một ai đó, mà chẳng có ai khác ngoài Mary Joe. Mary Joe đang nhào bột bánh mì trong phòng lương thực, em ngồi xuống băng ghế bên cạnh chị ta và nói, ‘Mary Joef chị có biết em nghĩ gì không? Em nghĩ Sao Hôm là ngọn hải đăng ở xứ tiên.’ Và Mary Joe nói, ‘ồ, cậu đún là kìa quặt. Làm rì có tiên tiếc chứ.’ Em đã hết sức tức giận. Đương nhiên em biết tiên không có thật, nhưng cứ nghĩ là có thì có sao đâu. Cô hiểu mà, cô giáo. Nhưng em còn kiên nhẫn thử thêm một lần nữa. Em nói, ‘Vậy thì, Mary Joe, chị biết em nghĩ gì không? Em nghĩ một thiên thần đi dạo khắp thế gian sau khi mặt trời lặn... một thiên thần vĩ đại, cao lớn, trắng toát với đôi cánh gập lại óng ánh bạc... và hát ru những bông hoa cùng chim chóc vào giấc ngủ. Trẻ con có thể nghe được tiếng của thiên thần nếu chúng biết cách lắng nghe.’ Thế là Mary Joe giơ đôi tay dính đầy bột lên và nói, ‘ồ, cậu đún là cậu pé kìa quặt. Cậu lèm tôi xợ.’ Và nhìn chị ta có vẻ sợ hãi thật. Thế là em ra ngoài thì thầm những suy nghĩ còn lại của mình cho khu vườn. Có một cây bạch dương nhỏ trong vườn bị chết. Bà nội nói rằng muối phun đã giết nó, nhưng em nghĩ nữ thần ngự ở cái cây đó là một cô nàng ngốc nghếch, đi lang thang tìm hiểu thế giới và lạc đường. Và cái cây nhỏ bé quá cô đơn, nó chết vì trái tim tan vỡ.”
    “Và khi nữ thần cây bé bỏng, ngu ngốc, đáng thương chán đi lang thang và quay về với cái cây của mình, trái tim của nàng ta cũng sẽ tan vỡ,” Anne tiếp.
    “Vâng, nhưng các nữ thần cây phải chịu trách nhiệm về sự ngu ngốc của mình, như là người thực vậy,” Paul nghiêm túc. “Cô có biết em nghĩ trăng non là gì không, cô giáo? Em nghĩ nó là một con thuyền vàng nhỏ chất đầy những giấc mơ.”
    “Và khi nó vấp phải một đám mây, vài giấc mơ sẽ bị sánh ra ngoài rơi vào giấc ngủ của chúng ta.”
    “Chính xác, cô giáo ạ. ôi, cô hiếu hết cả. Và em nghĩ hoa violet là mảnh trời rơi xuống khi các thiên thần khoét lỗ trên bầu trời để ánh sáng của các vì sao có thể chiếu xuyên qua. Và hoa mao lương được tạo thành từ ánh mặt trời xưa cũ, hoa đậu sẽ biến thành bươm bướm khi lên thiên đường. Giờ thì cô giáo ơi, cô thấy những suy nghĩ này có gì kỳ quặc không?”
    “Không đâu, chàng trai yêu quý, chúng không có gì kỳ quặc cả; đối với một bé trai thì những ý nghĩ ấy thật khác lạ và đẹp đẽ, vậy nên những kẻ dẫu có cố cả trăm năm trời vẫn không thể nghĩ ra những điều tương tự mới cho là chúng kỳ quặc. Nhưng cứ tiếp tục suy nghĩ như vậy đi, Paul ạ... một ngày nào đó em sẽ trở thành một nhà thơ, cô tin là vậy.”
    Khi Anne về nhà, cô nhìn thấy một cậu bé kiểu khác hẳn đang chờ được đưa đi ngủ. Davy có vẻ sưng sỉa, và khi Anne thay áo cho nó xong, nó nhảy phắt lên giường rồi vùi đầu vào gối.
    “Davy, cháu quên cầu nguyện rồi,” Anne trách móc.
    “Không, cháu không quên,” Davy bướng bỉnh, “nhưng cháu sẽ không bao giờ cầu nguyện nữa. Cháu sẽ không thèm cố gắng ngoan ngoãn nữa, vì dẫu cháu có ngoan đến chừng nào thì cô cũng thích Paul Irving hơn. Vậy thì cháu thà hư và tận hưởng niềm vui của riêng mình còn hơn.”
    “Cô không thích Paul Irving hơn,” Anne nghiêm túc. “Cô thương cháu cũng như thế, chỉ là theo một cách khác thôi.”
    “Nhưng cháu muốn cô thương cháu theo đúng kiểu đó,” Davy phụng phịu.
    “Cháu không thể thích những người khác nhau theo cùng một kiểu được. Cháu đâu có thích Dora và cô y hệt nhau, phải không?”
    Davy ngồi dậy ngẫm nghĩ.
    “Khôngggg,” cuối cùng nó cũng thừa nhận, “cháu thương Dora vì nó là em gái cháu, nhưng cháu thương cô vì cô là cô.”
    “Và cô thương Paul vì cậu ấy là Paul, cô thương Davy vì cậu ấy là Davy,” Anne vui vẻ tiếp lời.
    “Ồ, giờ thì cháu lại ước giá như mình đã cầu nguyện,” Davy đã bị thuyết phục bởi lý luận này của Anne. “Nhưng giờ mà chui ra khỏi giường cầu nguyện thì phiền quá. Sáng mai cháu sẽ cầu nguyện gấp đôi, cô Anne nhé. Vậy cũng được mà, phải không?”
    Không, Anne thực sự cho rằng thế là không ổn. Vậy là Davy bò ra quỳ xuống bên gối cô. Khi đã cầu nguyện xong, nó đứng dậy trên đôi chân trần nhỏ bé rám nắng mà ngước nhìn cô.
    “Cô Anne ơi, cháu ngoan hơn hồi trước rồi đó.”
    “Ừ, đúng vậy đấy, Davy ạ,” Anne không bao giờ ngần ngại ban phát lời khen cho người xứng đáng.
    “Cháu biết là cháu ngoan hơn mà,” Davy tự tin, “và cháu sẽ cho cô biết vì sao cháu biết. Hôm nay bà Marilla đưa cho cháu hai miếng bánh mì phết mứt, một cho cháu, một cho Dora. Một miếng lớn hơn hẳn miếng kia và bà Marilla không nói miếng nào của cháu. Nhưng cháu đưa miếng lớn cho Dora. Làm vậy là ngoan, phải không?”
    “Rất ngoan, rất nam tính, Davy ạ.”
    “Đương nhiên,” Davy đồng ý, “Dora không đói bụng lắm nên chỉ ăn có nửa miếng rồi đưa phần còn lại cho cháu. Nhưng khi đưa miếng lớn cho nó, cháu không biết nó sẽ làm vậy cho nên cháu đã rất ngoan, cô Anne ạ.”
    Trong ánh chiều chạng vạng, Anne đang thơ thẩn tản bộ ra suối Bong Bóng Nữ Thần Rừng thì thấy Gilbert Blythe đang đi xuyên qua rừng Ma Ám u tối. Đột nhiên cô nhận ra Gilbert không còn là một cậu học sinh nữa. Và nhìn anh mới nam tính làm sao - cao lớn, khuôn mặt bộc trực, đôi mắt trong sáng chân thành, bờ vai rộng. Anne nghĩ Gilbert là một cậu thanh niên rất đẹp trai, dẫu anh chẳng giống người đàn ông lý tưởng của cô chút nào. Từ thuở xa xưa, cô và Diana đã xác định loại đàn ông nào khiến họ ngưỡng mộ, và gu của họ y hệt nhau. Anh ta phải cao, bề ngoài ấn tượng, đôi mắt buồn sâu thẳm khó dò và một giọng trầm ấm cảm thông. Chẳng có gì buồn bã hay khó dò trên nét mặt của Gilbert, nhưng đương nhiên, là bạn bè thì đâu cần phải xét nét đến thế!
    Gilbert bước khỏi đám dương xỉ cạnh suối Bong Bóng và nhìn Anne vẻ khen ngợi. Nếu phải miêu tả người phụ nữ lý tưởng, câu trả lời của Gilbert sẽ giống Anne đến từng chi tiết nhỏ, kể cả sự tồn tại đáng ghét của bảy nốt tàn nhang bé xíu vẫn đang làm cho cô bứt rứt chẳng yên. Gilbert chỉ mới lớn hơn một cậu bé chút ít, nhưng ngay cả một cậu bé cũng có những giấc mơ như mọi người, và trong tương lai của anh luôn có một cô gái với đôi mắt xám to trong vắt cùng khuôn mặt dịu dàng và tinh tế như một đóa hoa. Anh cũng đã quyết tâm xây dựng tương lai xứng đáng với nữ thần của mình. Ngay cả chốn Avonlea yên tĩnh cũng có nhiều cám dỗ cần đối mặt. Đám thanh niên ở White Sands có tiếng là khá “ăn chơi”, và Gilbert rất được mến mộ ở bất cứ nơi nào anh đặt chân tới. Nhưng anh luôn giữ cho mình xứng đáng với tình bạn của Anne, và ở một ngày xa xôi nào đó, với tình yêu của cô. Và anh khống chế nghiêm ngặt mọi lời nói, suy nghĩ và hành động của mình cứ như đôi mắt trong sáng của cô nhìn thấu tất cả. Cô đã bất giác ảnh hưởng đến anh, loại ảnh hưởng mà mọi cô gái có lý tưởng cao cả và trong sáng thường gây ra cho những người bạn mình, loại ảnh hưởng sẽ tồn tại chừng nào cô còn trung thành với lý tưởng của mình, và đương nhiên, sẽ mất đi nếu cô lỡ đi ngược lại chúng. Trong mắt Gilbert, nét quyến rũ nhất của Anne là cô chẳng bao giờ hạ mình làm những hành động nhỏ nhen như rất nhiều cô gái Avonlea khác: ghen tuông lặt vặt, tị nạnh lừa dối, giành giật cảm tình. Anne tự đặt mình ra ngoài những hành động đó một cách vô thức và chẳng chủ định, vì chúng hoàn toàn xa lạ với bản chất trong sáng và bốc đồng của cô, mọi động cơ và khát vọng của cô đều hết sức trong trẻo.
    Nhưng Gilbert không cố diền tả những suy nghĩ của mình thành lời nói, vì anh có rất nhiều kinh nghiệm cho thấy Anne sẽ lạnh lùng không thương tiếc bẻ gãy mọi cố gắng tỏ tình từ trong trứng, hay là tệ hơn gấp mười lần, phá lên cười vào mặt anh.
    “Cậu trông như một nữ thần rừng thực sự dưới cây bạch dương đó,” anh trêu cô.
    “Tớ yêu những cây bạch dương,” Anne nói, áp má vào lớp vỏ cây mượt mà như nhung, một cử chỉ âu yếm đáng yêu hết sức tự nhiên đối với cô.
    “Vậy thì chắc cậu vui lắm khi biết ông Major Spencer đã quyết định trồng một hàng bạch dương dọc theo con đường trước nông trại của mình, để ủng hộ Hội Cải tạo,” Gilbert nói.
    “Ông ấy đã nói với tớ hôm qua. Major Spencer là người tiến bộ và có tinh thần cộng đồng nhất ở Avonlea. Và ông William Bell sẽ trồng một hàng rào vân sam dọc theo con đường phía trước và lối rẽ vào nông trại. Hội của chúng ta đang phát triển rất tuyệt, Anne ạ. Nó đã trải qua giai đoạn thử nghiệm và đã được chấp nhận. Người lớn bắt đầu quan tâm đến nó và người dân ở White Sands đang bàn tính lập một hội tương tự. Ngay cả Elisha Wright cũng đã bị thuyết phục kể từ ngày những người Mỹ ở khách sạn đi dã ngoại ở bờ biến. Họ tấm tắc khen những con đường của chúng ta, nói chúng đẹp hơn bất cứ nơi nào khác trên đảo. Và khi các trại chủ khác chịu theo gương ông Spencer mà tròng cây cảnh, dựng hàng rào dọc theo con đường trước mặt, Avonlea sẽ là vùng đất đẹp nhất tỉnh.”
    “Hội Từ thiện đang tính sửa sang lại nghĩa trang,” Anne nói, “và tớ hy vọng họ sẽ làm vậy, vì nếu làm thì phải quyên tiền, hội của chúng ta đừng hòng quyên tiền thêm lần nào nữa sau vụ tòa thị chính. Nhưng Hội Từ thiện sẽ chẳng bao giờ đụng đến việc này nếu Hội chúng ta không ngấm ngầm gieo suy nghĩ đó vào đầu họ. Đám cây chúng ta trồng trên đất nhà thờ đang tươi tốt, và ủy ban trường học đã hứa năm tới sẽ rào lại sân trường. Nếu họ làm vậy, tớ sẽ tổ chức ngày trồng cây, mỗi học sinh sẽ trồng một cây, rồi chúng ta sẽ có một khu vườn ngay góc sân cạnh con đường.”
    “Chúng ta đã thành công trong hầu hết các kế hoạch, ngoại trừ việc giật sập căn nhà cũ của nhà Boulter,” Gilbert nói, “Và tớ đành tuyệt vọng buông tay thôi. Levi không giật sập nó chỉ để chọc tức chúng ta thôi. Người nhà Boulter luôn có thói chống đối, và đến ông ta thì cái thói đó mọc rễ mạnh mẽ.”
    “Julia muốn đưa một ủy ban nữa tới nói chuyện với ông ta, nhưng tớ cho rằng tốt hơn nên để cho ông ta yên thân,” Anne nói vẻ thông hiểu.
    “Và tin vào ý trời, như bà Lynde nói,” Gilbert mỉm cười. “Đương nhiên, không một ủy ban nào nữa. Chỉ chọc tức thêm ông ta thôi. Julia Bell cho rằng cứ có ủy ban ủy biếc thì sẽ làm được mọi thứ. Mùa xuân tới, Anne ạ, chúng ta phải phát động phong trào làm đẹp sân vườn và bãi cỏ. Chúng ta sẽ gieo rắc ý tưởng đó trong mùa đông này. Tớ có một quyển chuyên đề về bãi cỏ và gieo trồng cỏ, tớ sẽ sớm viết một bản tham luận về chủ đề này. ồ, tớ thấy là kỳ nghỉ hè của chúng ta sắp kết thúc rồi. Trường học khai giảng vào thứ Hai. Ruby Gillies có được nhận dạy ở trường Carmody không?”
    “Có, Priscilla viết thư nói là cậu ấy nhận dạy trường ở ngay quê nhà, nên ủy ban trường Carmody đã giao vị trí Priscilla bỏ lại cho Ruby. Thật tiếc vì Priscilla sẽ không quay lại, nhưng cũng vì vậy, tớ mừng khi Ruby dạy ở trường đó. Cậu ấy sẽ về nhà thứ Bảy hằng tuần, và mọi thứ sẽ y như xưa, cậu ấy, Jane, Diana và tớ sẽ lai đươc ở bên nhau.”
    Bà Marilla vừa quay về từ nhà bà Lynde, khi Anne trở lại thì bà đang ngồi trên bậc thềm hiên sau.
    “Rachel và ta đã quyết định mai sẽ ra tỉnh,” bà nói. “Ông Lynde tuần này đã khá hơn và Rachel muốn đi trước khi ông ấy bị ốm lần nữa.”
    “Sáng mai cháu định sẽ dậy thật sớm vì cháu có quá nhiều việc phải làm,” Anne tràn đầy quyết tâm. “Trước tiên, cháu phải chuyển lông ngỗng từ chăn cũ sang chăn mới. Lẽ ra cháu phải làm từ lâu rồi nhưng cháu cứ trì hoãn mãi... đó đúng là một công việc đáng ghét. Trì hoãn những việc đáng ghét là một thói quen rất xấu, và cháu sẽ không bao giờ lặp lại nữa, nếu không thì cháu không thể đường hoàng khuyên nhủ học sinh đừng làm vậy. Như thế là giả dối. Rồi sau đó cháu sẽ làm một cái bánh ngọt cho ông Harrison, viết cho xong bản tham luận về vườn tược cho Hội cải tạo, rồi viết thư cho Stella, giặt và hồ bột cái váy xa tanh, may tạp dề mới cho Dora.”
    “Cháu không làm được một nửa số việc ấy đâu,” bàMarilla bi quan. “Cứ khi nào ta tính làm thật nhiều việc là thể nào cũng có chuyện gì đó xảy ra ngăn cản kế hoạch ấy.”

Trang 2 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 3
    Bài Viết Cuối: 04-18-2017, 12:33 AM
  2. 4 Kiểu Tết Tóc Đơn Giản Dễ Thương Cho Tóc Ngắn
    By sophienguyen in forum Nghệ Thuật Làm Đẹp
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-24-2015, 03:08 AM
  3. Chiếc áo dài làm từ tóc
    By khieman in forum Quán Ông 8 Bà 8
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 07-21-2015, 11:31 AM
  4. Anne Sophie Mutter
    By Santafe in forum Violin
    Trả Lời: 7
    Bài Viết Cuối: 08-15-2014, 12:18 AM
  5. Nhật Ký Anne Frank
    By giahamdzui in forum Audio Tiểu Thuyết Tinh Cảm
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-24-2014, 01:23 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •