Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Những luyến tiếc về tình yêu vẫn còn tạo nên hạnh phúc.
Lermontov
Trang 3 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối
Results 21 to 30 of 31

Chủ Đề: Anne Tóc Đỏ Làng Avonlea

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Anne Tóc Đỏ Làng Avonlea



    Tác giả: Lucy Maud Montgomery





    TÓM TẮT TRUYỆN
    Mới ngày nào cô bé Anne mặt tàn nhang và dễ kích động vừa mới đặt chân lên đảo Hoàng Tử Edward đã gây bao xôn xao, xáo trộn. Vậy mà giờ đây Anne đã vụt lớn thành một thiếu nữ mười sáu tuổi tươi tắn và xinh đẹp. Tuổi mười sáu đặt lên vai cô nhiều trọng trách: một cô giáo làng với tham vọng gieo những ước vọng đẹp đẽ trong tâm hồn trẻ thơ, một sáng lập viên Hội Cải tạo với mong muốn biến Avonlea thành một ngôi làng xanh sạch đẹp hơn, và một người bảo hộ bất đắc dĩ của hai đứa bé sinh đôi mồ côi rất đáng yêu nhưng cũng gây lắm chuyện đau đầu. Nhưng tuổi mười sáu vẫn không làm mất đi trong Anne tính lãng mạn vô phương cứu chữa cũng như chẳng khiến Anne thôi vướng vào vô số sự cố dở khóc dở cười chẳng khác gì những học trò nhỏ tinh nghịch và hăng hái của cô.
    Mười một, mười sáu rồi mười tám, Anne từng bước trưởng thành nhưng vẫn không thôi là Anne thánh thiện, lạc quan và căng tràn sức sống – nguồn cảm hứng tinh khôi quyến rũ biết bao thế hệ bạn đọc đủ mọi lứa tuổi trên khắp thế giới.
    Lucy Maud Montgomery chào đời tại Clifton (hiện giờ là vùng New London), thuộc đảo Hoàng tử Edward, Canada vào ngày 30 tháng 11 năm 1874. Năm 1908, bà xuất bản cuốn đầu tiên của series kinh điển về cô bé Anne Tóc đỏ và thu được thành công vang dội. Đến nay, cuốn sách đã được xuất bản bằng hơn 30 ngôn ngữ, bán được tới hơn 50 triệu bản, đưa Montgomery thành một trong những nhà văn bestseller của mọi thời đại.
    Mời các bạn đón đọc Anne Tóc Đỏ làng Avonlea của tác giả L. M. Montogmery.






    MỤC LỤC
    Chương 1 - Người Hàng Xóm Nóng Nảy
    Chương 2 - Bán Vội Rồi Hối Hận Dài Dài
    Chương 3 - Ông Harrison Tại Gia
    Chương 4 - Ý Kiến Khác Nhau
    Chương 5 - Một Cô Giáo Đầy Bản Lĩnh
    Chương 6 - Đủ Loại Đủ Kiểu Đàn Ông... Và Cả Phụ Nữ Nữa
    Chương 7 - Nhiệm Vụ Vẫy Gọi
    Chương 8 - Bà Marilla Nhận Nuôi Hai Đứa Trẻ Song Sinh
    Chương 9 - Vấn Đề Màu Sắc
    Chương 10 - Davy Tìm Kiếm Sự Giật Gân
    Chương 11 - Sự Thật Và Tưởng Tượng
    Chương 12 - Một Ngày Xui Xẻo
    Chương 13 - Một Buối Dã Ngoại Tuyệt Vời
    Chương 14 - Tránh Khỏi Mối Nguy
    Chương 15 - Kỳ Nghỉ Bắt Đầu
    Chương 16 - Bản Chất Của Những Cao Vọng
    Chương 17 - Một Chuỗi Rủi Ro
    Chương 18 - Một Chuyến Phiêu Lưu Trên Đường Bảo Thủ
    Chương 19 - Chỉ Một Ngày Hạnh Phúc
    Chương 20 - Chuyện Vẫn Hay Xảy Ra Như Thế
    Chương 21 - Cô Lavendar Đáng Yêu
    Chương 22 - Những Chuyện Vụn Vặt
    Chương 23 - Chuyện Tình Của Cô Lavendar
    Chương 24 - Nhà Tiên Tri Trong Lãnh Địa Riêng
    Chương 25 - Vụ Bê Bối Ở Avonlea
    Chương 26 - Khúc Quanh
    Chương 27 - Một Buổi Chiều Ở Căn Nhà Đá
    Chương 28 - Hoàng Tử Quay Lại Tòa Lâu Đài Bị Phù Phép
    Chương 29 - Thơ Ca Và Văn Xuôi
    Chương 30 - Đám Cưới Ở Căn Nhà Đá
    Chương 31
    Chương 32

  2. #21
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 20 - CHUYỆN VẪN HAY XẢY RA NHƯ THẾ
    Sáng hôm sau, Anne dậy thật sớm, vui sướng đón chào một ngày mới khi lá cờ bình minh đang tung bay chiến thắng giữa bầu trời màu ngọc trai. Chái Nhà Xanh nằm trong biển ánh nắng điểm xuyết những bóng cây linh sam và dương liễu nhún nhảy. Bên kia đường là ruộng lúa mì của ông Harrison, cánh đồng mênh mông vàng óng dập dềnh trong gió.
    Thế giới tươi đẹp đến mức Anne tốn tới mười phút bình yên lẩn quẩn quanh cửa vườn, say sưa với vẻ yêu kiều của cảnh vật.
    Sau bữa sáng, bà Marilla chuẩn bị lên đường. Dora sẽ đi với bà, đây là phần thưởng được hứa hẹn từ lâu của cô bé.
    “Nào Davy, cháu phải ngoan và đừng làm phiền cô Anne,” bà nghiêm khắc cảnh cáo nó. “Nếu cháu ngoan, ta sẽ mua cho cháu một cây kẹo sọc từ thị trấn.”
    Than ôi, bà Marilla cũng đã hạ mình dính vào thói quen xấu: hối lộ để người khác chịu cư xử tốt!
    “Cháu sẽ không cố ý hư, nhưng giả sử cháu lỡ hư thì sao?” Davy muốn hỏi cho cặn kẽ.
    “Cháu phải ý thức được hành động của mình chứ,” bà Marilla khuyên nhủ. “Anne, nếu ông Shearer ghé qua hôm nay, cháu hãy mua một miếng thịt quay ngon và vài miếng bít tết nhé. Nếu ông ấy không ghé thì bữa trưa mai cháu phải giết gà đấy.”
    Anne gật đầu.
    “Hôm nay cháu chẳng vơ việc mà nấu cả bữa trưa cho chỉ mình hai cô cháu đâu,” cô nói. “Khúc thịt nguội kia cũng đủ cho bữa trưa rồi, và cháu sẽ chiên vài miếng bít tết cho bác khi bác về tối nay.”
    “Sáng nay cháu sẽ giúp ông Harrison vận chuyển tảo đỏ,” Davy tuyên bố. “ông ấy đã nhờ cháu và chắc ông ấy sẽ mời cháu dùng bữa trưa luôn, ông Harrison tốt khủng khiếp, ông ấy rất dễ gần. Cháu ước gì lớn lên giống như ông ấy. Ý cháu là cư xử như ông ấy... Cháu không muốn trông như ông ấy... Nhưng cháu nghĩ chẳng cần phải lo, vì bà Lynde nói cháu rất xinh trai. Cô có nghĩ là cháu sẽ giữ được vẻ đẹp trai không hả cô Anne? Cháu muốn biết.”
    “Cô dám chắc là được mà,” Anne nghiêm túc đáp. “Cháu quả là một cậu bé đẹp trai, Davy ạ,”... bà Marilla lộ vẻ không tán thành... “nhưng cháu phải sống cho xứng đáng với vẻ ngoài của mình và phải đáng yêu nhã nhặn hết mức có thể.”
    “Nhưng bữa trước, khi thấy Minnie May Barry khóc vì bị trêu là xấu xí, cô bảo nó là nếu nó ngoan, tử tế và đáng yêu, người ta sẽ không để ý tới vẻ ngoài của nó nữa,” Davy bất bình. “Cháu thấy không thể thoát khỏi chuyện phải ngoan ngoãn trên thế giới này, dù là vì lý do này hay lý do khác. Cuối cùng thì vẫn phải cư xử cho tốt thôi.”
    “Cháu không muốn là một cậu bé ngoan à?” Bà Marilla hỏi, bà đã học được rất nhiều nhưng vẫn chưa tránh được thói quen hỏi những câu hỏi vô ích như vậy.
    “Vâng, cháu muốn ngoan, nhưng đừng có ngoan quá,” Davy cẩn trọng. “Không cần phải ngoan quá để rồi trở thành giám thị trường Chủ nhật. Như thầy Bell đấy, thầy ấy là một người xấu thực sự.”
    “Không đời nào,” bà Marilla phẫn nộ.
    “Đúng mà... chính miệng thầy ấy nói thế,” Davy long trọng xác nhận. “Tuần trước khi cầu nguyện ở trường Chủ nhật, thầy ấy nói vậy mà. Thầy ấy nói thầy ấy là một con sâu thấp hèn, một tội đồ đau khổ và phải chịu trách nhiệm cho những tội ác đen tối nhất. Thầy ấy làm gì mà tệ như vậy hả bà Marilla? Thầy ấy giết ai hả? Hay là trộm một bộsưu tập tiền xu? Cháu muốn biết.”
    Thật may, ngay lúc đó bà Lynde đánh xe vào lối đi và bà Marilla chạy đi, cảm giác như mình vừa thoát khỏi bẫy rập và tha thiết ước mong ông Bell đừng có cầu nguyện quá hình tượng bóng bẩy ở nơi công cộng như thế nữa, nhất là trong tầm nghe của những cậu bé lúc nào cũng “muốn biết.”
    Ở lại một mình trong tâm trạng vui vẻ, Anne hăng say làm việc. Cô quét sàn, dọn giường, cho gà ăn, giặt váy xa tanh và phơi trên dây. Sau đó cô chuẩn bị chuyển lông ngỗng. Cô trèo lên gác xép và mặc cái váy cũ tóm được đầu tiên... một chiếc váy len casơmia màu xanh dương cô mặc hồi mười bốn tuổi. Nó ngắn cũn cỡn và “ôm sát” người như bộ váy len trứ danh Anne từng mặc vào lần đầu tiên xuất hiện ở Chái Nhà Xanh, nhưng ít nhất nó sẽ không bị lông tơ và lông vũ làm hư. Anne hoàn tất phục sức của mình bằng cách buộc quanh đầu tấm khăn tay đỏ chấm trắng to đùng từng thuộc về Marilla, và trong bộ dạng ấy, cô hùng dũng tiến vào bếp, bà Marilla đã giúp cô mang tấm chăn lông tới đó trước khi lên đường.
    Bên cửa sổ treo một tấm gương nứt, và trong một phút giây xui xẻo, Anne nhìn vào gương. Có bảy nốt tàn nhang trên mũi cô, rõ ràng hơn bao giờ hết, hay ít nhất thì chúng cũng có vẻ như vậy trong ánh sáng chói lọi xuyên qua cửa sổ không che màn.
    “Ôi, tối qua mình lại quên bôi kem rồi,” cô nghĩ bụng.“Tốt nhất là mình nên chạy xuống phòng lương thực bôi ngay bây giờ.”
    Anne đã chịu đựng rất nhiều phương pháp để cố loại bỏ mấy nốt tàn nhang này. Có lần da mũi của cô tróc ra hết nhưng tàn nhang thì vẫn còn nguyên. Vài ngày trước, cô đọc thấy công thức kem trị tàn nhang trong một quyển tạp chí, và vì các thành phần đều có sẵn, cô lập tức pha chế, không để ý gì tới sự ghê tởm của bà Marilla - bà cho rằng nếu Chúa trời đã đặt tàn nhang lên mũi ta thì ta phải có trách nhiệm để yên chúng ở đó.
    Anne hấp tấp chạy xuống phòng lương thực, căn phòng lúc nào cũng tranh tối tranh sáng vì bị cây liễu lớn mọc gần cửa sổ chắn sáng, giờ lại gần như tối om vì màn che đã được kéo xuống để chặn ruồi. Anne chộp lấy cái lọ đựng kem bôi trên giá và hào phóng bôi lên mũi bằng một miếng bọt biển nhỏ dành riêng cho việc bôi trát này. Làm xong nhiệm vụ quan trọng ấy, cô quay lại công việc chính. Ai đã từng chuyển lông ngỗng từ tấm chăn này sang tấm chăn khác sẽ biết ngay Anne trông khủng khiếp thế nào khi làm xong việc. Cái váy của cô trắng xóa đầy lông tơ và nùi bông, tóc mái của cô tuột ra khỏi vòng buộc của tấm khăn tay, lông ngỗng bám vào đó như một vầng hào quang. Đúng giây phút ngặt nghèo này thì có tiếng gõ vang lên ở cửa nhà bếp.
    “Chắc là ông Shearer đây,” Anne nghĩ bụng. “Trông mình thật lôi thôi phát sợ, nhưng mình phải để nguyên mà chạy xuống thôi, vì lúc nào ông ấy cũng vọi cả.”
    Lông tơ bay theo Anne cho tới tận cửa bếp. Nếu có một sàn nhà tốt bụng nào từng nứt ra nuốt chửng một cô nương đau khổ dính đầy lông thì sàn hàng hiên Chái Nhà Xanh lẽ ra nên kéo ngay Anne xuống vào thời điểm đó. Trên bậc cửa là Priscilla đang đứng, xinh đẹp tuyệt trần trong bộ váy lụa, một quý bà thấp lùn mập mạp tóc muối tiêu mặc áo vải tuýt, một quý bà khác cao lớn, ăn mặc đẹp đẽ sang trọng với khuôn mặt mỹ lệ cao quý và đôi mắt tím với hàng mi đen dài cong vút, người mà Anne “linh cảm” thấy, theo cách nói thời thơ ấu của cô, chính là bà Charlotte E. Morgan.
    Vào giây phút bối rối đó, một suy nghĩ tách ra khỏi mớ bòng bong trong đầu Anne, cô bám vào đó như bám vào phao cứu sinh. Tất cả các nhân vật chính của bà Morgan đều có đặc điểm là “giỏi ứng phó.” Dẫu gặp phải rắc rối gì, họ đều ứng phó một cách dễ dàng và cho thấy sự ưu việt của mình trước mọi bất hạnh về thời gian, không gian hay số lượng. Do vậy, Anne cảm thấy mình phải có trách nhiệm ứng phó với tình hình, và cô làm đúng như vậy một cách hoàn hảo đến mức sau đó, Priscilla phải tuyên bố rằng cô chưa bao giờ khâm phục Anne Shirley đến thế. Dẫu cảm xúc dâng trào nhộn nhạo đến đâu, cô cũng không hề để lộ ra mặt. Cô chào Priscilla, được giới thiệu làm quen với những người đồng hành với vẻ bình tĩnh và tự chủ cứ như cô đang mặc bộ váy áo lộng lẫy nhất. Đương nhiên, cô cảm thấy hơi choáng váng khi phát hiện quý bà mà cô linh cảm là bà Morgan không phải bà Morgan, mà là một bà Pendexter không rõ nào đó, trong khi người phụ nữ thấp bé mập mạp tóc muối tiêu mới chính là bà Morgan, nhưng so với cú sốc ban đầu thì lần choáng váng này chẳng đáng gì. Anne rối rít mời các vị khách vào phòng nghỉ rồi sang phòng khách, sau đó cô vội vã chạy ra ngoài giúp Priscilla tháo ngựa.
    “Thật tệ khi đến nhà cậu bất ngờ thế này,” Priscilla xin lỗi, “nhưng tới tối qua tớ mới biết là chúng tớ sẽ đến đây. Dì Charlotte sẽ đi vào thứ Hai, và dì ấy đã hứa đến thăm một người bạn ở thị trấn vào hôm nay. Nhưng tối qua bạn dì ấy gọi điện bảo đừng đến bởi họ bị cách ly vì sốt ban đỏ. Thế là tớ đề nghị tới nhà cậu, vì tớ biết cậu mong ngóng gặp dì tớ biết nhường nào. Bọn tớ ghé qua khách sạn White Sands và đón bà Pendexter theo. Bà ấy là bạn của dì tớ, sống ở New York và có chồng là tỉ phú. Chúng tớ không thể ở lại quá lâu, vì bà Pendexter phải quay về khách sạn vào lúc năm giờ.”
    Khi cất ngựa, vài lần Anne thấy Priscilla lén nhìn cô với vẻ khó hiểu.
    “Cậu ấy không nên nhìn mình như thế,” Anne nghĩ bụng với đôi chút hậm hực. “Dẫu cậu ấy không biết đổi lông ngỗng cực đến chừng nào thì cậu ấy cũng phải tưởng tượng ra được chứ.”
    Khi Priscilla quay lại phòng khách, trước khi Anne kịp chạy lên lầu, Diana bước vào bếp. Anne chộp lấy tay người bạn đang sững sờ của mình.
    “Diana Barry, cậu đoán xem ai đang ở trong phòng khách ngay lúc này nào? Bà Charlotte E. Morgan... và bà vợ của một tỉ phú New York... và tớ thì trông thế này... và trong nhà chẳng có gì cho bữa trưa ngoài khúc thịt nguội, Diana ơi!”
    Đến lúc này, Anne nhận thấy Diana đang nhìn mình với vẻ ngỡ ngàng y hệt như Priscilla khi nãy. Thật là quá đáng.
    “Ôi, Diana, đừng nhìn tớ như thế,” cô van nài. “It nhất thì cậu phải biết là người chỉnh tề nhất thế giới cũng không thể dốc hết lông ngỗng từ một tấm chăn này sang một tấm chăn khác mà vẫn giữ được vẻ chỉnh tề chứ”
    “Không... không... không phải là lông ngỗng,” Diana ngần ngừ. “Đó... đó... là mũi của cậu, Anne ạ.”
    “Mũi của tớ? Ôi trời, Diana, chắc là không có gì tồi tệ xảy ra với nó chứ!”
    Anne chạy đến trước tấm gương nhỏ đặt phía trên bồn rửa chén. Một cái liếc mắt đã tiết lộ sự thật chết người. Mũi của cô đỏ chói!
    Anne ngồi phịch xuống xô pha, tinh thần bất khuất của cô cuối cùng cũng bị khuất phục.
    “Có chuyện gì thế?” Diana hỏi, nỗi tò mò đã chiến thắng sự tế nhị.
    “Tớ cứ nghĩ mình thoa kem trị tàn nhang lên mũi, nhưng nhất định tớ đã lấy lộn lọ thuốc nhuộm đỏ mà bác Marilla dùng để đánh dấu hoa văn trên thảm,” đó là câu trả lời tuyệt vọng của Anne. “Tớ phải làm gì đây?”
    “Rửa sạch đi,” Diana thực tế.
    “Nhỡ nó không trôi thì sao. Lần đầu tớ nhuộm tóc, rồi sau đó thì nhuộm mũi. Bác Marilla cắt tóc của tớ khi tớ nhuộm nó, nhưng biện pháp này không thể áp dụng đối với cái mũi. Ôi, đây là một sự trừng phạt nữa cho thói phù phiếm của tớ, tớ cho rằng thế cũng thật đáng đời... dẫu rằng nói vậy chẳng đem lại chút an ủi nào. Thực sự điều này làm tớ tin vào vận rủi, dẫu bà Lynde nói làm gì có vận rủi, vì mọi thứ đều được định sẵn hết rồi.”
    Thật may là lớp thuốc nhuộm trôi đi dễ dàng, Anne cảm thấy an ủi được một chút bắt đầu lê bước lên chái Đông trong khi Diana chạy về nhà. Bây giờ Anne lại xuống lầu, ăn mặc chỉnh tề và đầu óc bình tĩnh trở lại. Chiếc váy xa tanh cô từng mong được mặc giờ đang tung bay vui vẻ trên dây phơi bên ngoài, vì vậy cô buộc phải hài lòng với bộ váy vải ba tít đen. Cô bật bếp đun trà khi Diana trở lại. ít nhất thì Diana cũng mặc bộ váy xa tanh của mình, tay cầm một cái đĩa có đậy nắp.
    “Mẹ tớ gửi cho cậu này,” cô nói, nhấc nắp đĩa phô ra món gà được chặt rất khéo trước đôi mắt biết ơn của Anne.
    Món gà đi chung với bánh mì mới trắng muốt, bơ và pho mát ngon tuyệt, bánh trái cây của bà Marilla và một đĩa mứt mận trôi bồng bềnh trên nước xi rô vàng óng như ánh nắng hè ngưng đọng. Có một bát lớn thả đầy hoa cúc tây hồng trắng để trang trí, nhưng mọi thứ có vẻ thật khiêm tốn so với lần bài trí lộng lẫy lúc trước dành riêng cho bà Morgan.
    Tuy nhiên, những vị khách đang đói ngấu của Anne dường như không để ý tới bất cứ thiếu sót gì, họ tận hưởng bữa ăn đơn giản với vẻ hứng thú rõ rệt. Nhưng sau vài phút đầu tiên thì Anne không còn để ý tới thứ gì đang có mặt hay vắng mặt trong thực đơn của mình nữa. Bềngoài của bà Morgan có thể hơi đáng thất vọng, ngay cả những tín đồ trung thành của bà cũng buộc phải thừa nhận như thế, nhưng rõ ràng bà là một người nói chuyện hết sức thú vị. Bà đi du lịch rất nhiều nơi và là một người kể chuyện tuyệt vời. Bà đã gặp rất nhiều loại người và kết tinh kinh nghiệm của mình trong những câu nói dí dỏm và những lời trào phúng khiến người nghe cảm thấy họ đang lắng nghe một nhân vật thông thái từ trong sách. Nhưng bên dưới vẻ ngoài lấp lánh đó là một luồng nước ngầm mạnh mẽ của sự chân thành, sự cảm thông đầy nữ tính và sự tốt bụng, khiến bà chiếm được cảm tình của người khác một cách dễ dàng cũng như sự tài hoa của bà khiến người ta ngưỡng mộ vậy. Bà cũng không hề độc thoại. Tài cạy miệng người khác của bà cũng chẳng kém gì tài ăn nói, Anne và Diana thấy mình nói chuyện với bà hết sức thoải mái. Bà Pendexter nói rất ít, bà chỉ mỉm cười với đôi môi và ánh mắt đẹp tuyệt trần, ăn gà, bánh trái cây và mứt với vẻ yểu điệu tinh tế khiến người ta có cảm giác như bà đang nếm phấn hoa và mật ong vậy. Nhưng như Anne nói riêng với Diana sau đó, một người đẹp tuyệt trần như bà Pendexter không cần phải nói chuyện, chỉ để cho người ta ngắm là đủ rồi.
    Sau bữa trưa, họ đi dạo qua đường Tình Nhân và thung lũng Tím rồi đến lối Bạch Dương, băng qua rừng Ma Ám đến suối Bong Bóng Nữ Thần Rừng, ở đó họ ngồi xuống trò chuyện vui vẻ nửa tiếng đồng hồ. Bà Morgan muốn biết vì sao rừng Ma Ám lại có tên như vậy, và phá lên cười đến chảy nước mắt khi nghe đầu đuôi câu chuyện đầy kịch tính của Anne về chuyến đi đáng ghi nhớ qua rừng Ma Ám vào giờ hoàng hôn đầy ma thuật.
    “Đó đúng là một bữa tiệc tinh thần hết sức thú vị, phải không?” Anne lên tiếng khi các vị khách đã ra về, cô và Diana chỉ còn lại một mình. “Tớ không biết mình thích lắng nghe bà Morgan hay ngắm nhìn bà Pendexter hơn. Tớ nghĩ chúng mình đã có một khoảng thời gian thú vị hơn hẳn lần chúng mình biết trước họ đến và bỏ công bỏ sức ra chuẩn bị. Cậu phải ở lại dùng trà với tớ, Diana ạ, và chúng ta sẽ tha hồ bàn tán.”
    “Priscilla nói chị chồng của bà Pendexter cưới một bá tước người Anh, thế mà bà ấy ăn món mứt mận đến hai lần,” Diana nói cứ như hai chuyện này không hề tương thích với nhau.
    “Tớ dám chắc ngay cả vị bá tước người Anh đó cũng không dám nhăn cái mũi quý tộc của mình trước món mứt mận bác Marilla đâu,” Anne tự hào.
    Tối hôm đó, Anne không nhắc gì đến nỗi bất hạnh giáng xuống cái mũi của cô khi cô kể cho bà Marilla nghe chuyện trong ngày. Nhưng cô lấy lọ kem trị tàn nhang đổ ra ngoài cửa sổ.
    “Mình sẽ không bao giờ đụng vào cái mớ đồ làm đẹp nào nữa,” cô quyết tâm sắt đá. “Chúng có thể hợp với những người cẩn thận để ý, nhưng với một kẻ lúc nào cũng phạm lỗi một cách không sửa chữa được như mình thì thể nào cũng có chuyện.”

  3. #22
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 21 - CÔ LAVENDAR ĐÁNG YÊU
    Trường học khai giảng và Anne quay lại làm việc, với ít lý thuyết nhưng rõ ràng là nhiều kinh nghiệm hơn hẳn. Cô có vài học trò mới, những đứa bé mới sáu hay bảy tuổi ngơ ngác bước vào thế giới đầy mới lạ. Trong đó có cả Davy và Dora. Davy ngồi cạnh Milty Boulter, cậu này đã đi học được một năm, do vậy có thể coi là một người khá từng trải. Tuần trước ở trường Chủ nhật, Dora đã hứa hẹn ngồi chung với Lily Sloane, nhưng Lily Sloane không đi học bữa đầu tiên, thế là cô bé tạm thời được phân ngồi cạnh Mirabel Cotton, cô nàng này đã được mười tuổi, vì vậy được coi là một “cô gái trưởng thành” trong mắt Dora.
    “Cháu nghĩ trường học rất thú vị,” Davy nói vởi bà Marilla khi nó về nhà tối hôm đó. “Bà nói cháu sẽ thấy khó mà ngồi yên, đúng như vậy... bà gần như toàn nói đúng, cháu để ý thế... nhưng cháu có thể co duỗi chân dưới gầm bàn, nhờ vậy cũng đỡ được nhiều lắm. Có nhiều cậu bạn chơi chung thật là tuyệt. Cháu ngồi kế Milty Boulter và nó cũng hay. Nó cao hơn cháu nhưng bề ngang cháu to hơn. Ngồi ở ghế chót thì thích hơn, nhưng ta không thể ngồi ở đó cho tới khi chân dài đủ để chạm đất. Milty vẽ hình cô Anne trên bảng của nó, cái hình xấu khủng khiếp và cháu dọa là nếu nó dám vẽ hình Anne như vậy nữa thì cháu sẽ uýnh nó vào giờ ra chơi. Ban đầu cháu định vẽ hình nó có sừng và đuôi, nhưng cháu sợ làm tổn thương cảm xúc của nó, cô Anne bảo là không bao giờ được làm tổn thương cảm xúc của người khác. Dường như là bị tổn thương cảm xúc thì đáng sợ lắm. Thà đánh gục một thằng con trai còn hơn là làm tổn thương cảm xúc của nó, nếu mà phải cho nó một bài học. Milty nói nó không sợ cháu, nhưng nó liền đổi tên bức tranh để triều ý cháu, thế là nó xóa tên cô Anne và viết tên Barbara Shaw vào. Milty không thích Barbara, dzì con bé gọi nó là bé trai đáng yêu và có lần còn xoa đầu nó nữa.”
    Dora nghiêm nghị nói rằng thích đi học, nhưng cô bé trở nên quá sức yên lặng hơn hẳn ngày thường, và khi trời chập choạng, bà Marilla bảo cô bé lên lầu đi ngủ, cô bé ngần ngừ rồi òa lên khóc.
    “Cháu... cháu sợ,” cô bé nức nở. “Cháu... cháu không muốn lên lầu một mình trong bóng tối.”
    “Cháu nghĩ cái quái gì trong đầu thế?” bà Marilla hạch hỏi. “Rõ ràng cháu đi ngủ một mình suốt mùa hè mà có sợ hãi khi nào đâu.”
    Dora vẫn thút thít, thế là Anne ẵm cô bé lên, đu đưa dịu dàng và thì thầm hỏi,
    “Kể cho cô Anne nghe đi, bé yêu. Cháu sợ gì vậy?”
    “Sợ... sợ chú của Mirabel Cotton,” Dora nức nở. “Hôm nay khi ở trường Mirabel Cotton kể hết cho cháu nghe về gia đình của chị ấy. Gằn như mọi người trong gia đình chị ấy đều đã chết., ông này, bà này, rồi vô số cậu và dì nữa. Họ quen thói chết, Mirabel nói thế. Mirabel tự hào khủng khiếp khi có nhiều họ hàng chết như vậy, và chị ấy kể cho cháu nghe lý do họ chết, họ đã nói gì và họ trông thế nào trong quan tài. Và Mirabel nói rằng một người chú của chị ấy đi vòng vòng trong nhà sau khi đã được chôn cất. Mẹ chị ấy đã chính mắt thấy. Cháu không ngại những người còn lại, nhưng cháu không thể không nghĩ tới người chú đó.”
    Anne lên lầu chung với Dora và ngồi bên cạnh cho đến khi cô bé ngủ thiếp đi. Ngày hôm sau, Mirabel Cotton bị giữ lại trong lớp vào giờ ra chơi và được khuyên nhủ một cách “nhẹ nhàng nhưng cương quyết” rằng dẫu cô bé quá xui xẻo khi có một người chú cứ cương quyết đi loanh quanh trong nhà ngay sau khi được chôn cất đàng hoàng, thì cô bé cũng nên tế nhị mà không kể về quý ông lập dị đó cho bạn cùng bàn còn nhỏ tuổi nghe. Mirabel cho rằng lời khuyên này thật khắc nghiệt. Nhà Cotton chẳng có bao nhiêu thứ để mà kiêu hãnh. Làm sao cô bé có thể giữ uy tín với bạn học khi mà bị cấm khoe mẽ về các hồn ma trong gia đình chứ?
    Tháng Chín lùi đi nhường lối cho vẻ đẹp đỏ vàng thanh lịch của tháng Mười. Một chiều thứ Sáu nọ, Diana ghé sang chơi.
    “Hôm nay tớ nhận được thư của Ella Kimball, Anne ạ, và cậu ấy muốn chúng mình đến nhà dùng trà vào trưa mai để gặp chị họ của cậu ấy, Irene Trent, mới từ thành phố về. Nhưng tớ không thể lấy ngựa của nhà đi được, vì mai chúng bị dùng hết cả rồi, còn con ngựa của cậu thì bị đau chân... nên tớ cho rằng chúng ta không thể đi được.”
    “Sao chúng ta không đi bộ?” Anne đề nghị. “Nếu chúng ta đi thẳng xuyên qua khu rừng, chúng ta sẽ đến đường Tây Grafton không xa nhà Kimball mấy. Mùa đông năm ngoái tớ đã đi đường đó và tớ biết đường mà. Không đến bốn dặm, và chúng ta sẽ không phải đi bộ về, vì chắc chắn Oliver Kimball sẽ đánh xe đưa chúng ta về. Anh ta sẽ rất vui trước cái cớ này, vì anh ta đang tán tỉnh Carrie Sloane nhưng nghe đồn ba anh ta hiếm khi nào đưa ngựa cho anh ta.”
    Theo đó, họ quyết định rằng sẽ đi bộ, và buổi trưa hôm sau, họ khởi hành, đi theo đường Tình Nhân đến mặt sau nông trại nhà Cuthbert, ở đó họ nhìn thấy một con đường dẫn sâu vào hàng mẫu rừng sồi và rừng phong, cả vạt rừng nhuốm màu vàng đỏ rực rỡ, chìm đắm trong ánh chiều yên bình và tĩnh lặng.
    “Cứ như tháng năm đang quỳ gối cầu nguyện trong một giáo đường mêng mông đây ánh sáng êm dịu vậy, phải không?” Anne mơ màng. “Đi vội đi vàng qua rừng có vẻ như thật không nên không phải nhỉ? Có vẻ bất kính, như là chạy trong nhà thờ vậy.”
    “Nhưng chúng ta phải nhanh chân lên,” Diana liếc nhìn đồng hồ. “Chúng ta chỉ còn rất ít thời gian.”
    “Ồ, tớ sẽ đi nhanh nhưng đừng yêu cầu tớ nói chuyện,” Anne nói, chân bước nhanh hơn.
    “Tớ chỉ muốn tận hưởng vẻ đáng yêu của ngày hôm nay... Tớ cảm thấy ngày hôm nay ngọt ngào như một ly rượu bồng bềnh ngay môi tớ, và tớ nhấm nháp từng ngụm một theo mỗi bước đi.”
    Có lẽ bởi vì quá chuyên tâm “tận hưởng” mà Anne quẹo trái khi họ đi đến một ngẵ ba. Lẽ ra cô nên quẹo sang phải, nhưng sau này cô cho rằng đó là sai lầm may mắn nhất trong cuộc đời mình. Cuối cùng họ đi đến một con đường vắng vẻ cỏ xanh um, không có gì trong tầm mắt ngoại trừ những hàng cây vân sam non.
    “Ôi, chúng ta đang ở đâu đây?” Diana kêu lên bối rối. “Đây không phải là đường Tây Grafton.”
    “Không, đó là đường ranh giới ở Trung Grafton,” Anne nói vẻ xấu hổ. “Chắc tớ đã quẹo sai hướng lúc ở ngã ba. Tớ không biết chính xác mình đang ở đâu, nhưng chắc chắn là phải cách nhà Kimball ba dặm.”
    “Vậy thì chúng ta không thể đến đó đúng năm giờ, vì giờ đã là bốn giờ rưỡi rồi,” Diana nhìn đồng hồ vẻ tuyệt vọng. “Chúng ta sẽ đến sau khi họ đã dùng trà xong, và thế là phải phiền họ dọn ra cho chúng ta lần nữa.”
    “Thế thì ta hãy quay về nhà thôi vậy,” Anne yếu ớt đềnghị. Nhưng Diana sau khi suy nghĩ kỹ đã phủ quyết.
    “Không, tốt nhất chúng ta cứ đi dung dăng dung dẻ suốt buổi chiều, dù gì cũng đã bỏ công đến tận đây.”
    Đi thêm vài thước nữa, các cô gái lại tới một ngẵ ba đường.
    “Chúng ta đi lối nào đây?” Diana băn khoăn.
    Anne lắc đầu.
    “Tớ không biết, nhưng chúng ta không thể mắc thêm bất cứ sai lầm nào nữa. Ở đây có một cánh cổng và một lối đi dẫn thẳng vào rừng. Chắc sẽ có một căn nhà ở đầu bên kia. Mình đi xuống hỏi thăm đi.”
    “Đúng là một lối mòn lãng mạn,” Diana nói khi họ đi dọc theo lối đi ngoằn ngoèo. Nó chạy dưới hàng linh sam cổ thụ cành lá đan xen vào nhau, bóng râm u ám khiến chẳng có gì bên dưới mọc được trừ rêu. Hai bên lối đi đều là nên rừng nâu sẫm, thỉnh thoảng lại có vài vệt nắng chấp chới. Bầu không khí yên tĩnh và xa vắng, cứ như cả thế giới và mọi mối ưu tư đều bị cách ly ở rất xa.
    “Tớ cảm giác như chúng mình đang đi qua một khu rừng bị phù phép,” Anne thì thầm.
    “Cậu có cho rằng mình sẽ tìm được lối trở về thế giới thực không, hả Diana? Chúng ta sẽ sớm đi đến một cung điện có một nàng công chúa đang ngủ say, tớ nghĩ vậy đó.”
    Đến khúc quanh kế tiếp, đập vào mắt họ không hẳn làmột lâu đài nhưng cũng là một căn nhà nhỏ hết sức đặc biệt, chẳng khác gì một tòa cung điện giữa những căn nhà nông trại bằng gỗ trong tỉnh vốn giống nhau đến từng chi tiết cứ như là mọc lên từ cùng một hạt giống vậy. Anne dừng phắt lại vẻ hân hoan và Diana kêu lên, “Ôi, tớ biết chúng mình đang ở đâu rồi. Đó là căn nhà đá nhỏ nơi cô Lavendar Lewis sống... Nhà Vọng, cô ấy gọi nó như vậy đó, tớ nhớ thế. Tớ thường nghe kể về nó nhưng chưa bao giờ chính mắt nhìn thấy. Nơi đây thật lãng mạn phải không?”
    “Đây là nơi xinh đẹp đáng yêu nhất mà tớ từng thấy hay từng tưởng tượng ra,” Anne vui sướng reo lên. “Nhìn cứ như một ngôi nhà từ quyển sách truyện hay từ một giấc mơ vậy.”
    Ngôi nhà có mái sà xuống thấp, dựng lên từ những khối sa thạch đỏ trên đảo được để trơ không hề tô điểm, từ mái nhà chóp nhọn trổ ra hai cửa sổ mái che bằng gỗ nhìn hay hay là lạ cùng hai ống khói khổng lồ. Cả căn nhà bao phủ dây thường xuân tươi tốt bám chặt vào mặt đá xù xì và được sương giá mùa thu nhuộm màu đồng ửng màu rượu vang đỏ đẹp tuyệt.
    Trước nhà là một khu vườn hình chữ nhật, cánh cổng nơi hai cô gái đang đứng mở rộng dẫn vào vườn. Căn nhà một mặt trông ra vườn, ba mặt còn lại được một bờ tường đá cũ kỹ bao quanh, rêu, cỏ, dương xỉ um tùm đến mức nó chẳng khác gì một dải đất cao xanh ngắt, ở bên phải và bên trái, hàng vân sam cao vút sẫm màu vươn dài cành lá như lòng bàn tay che bóng mát; nhưng bên dưới lại là một cánh đồng nhỏ xanh ươm cỏ ba lá, chạy dốc xuống vệt xanh lờ mờ của con sông Grafton. Không có căn nhà hay khoảnh đất trống nào trong tầm mắt... chỉ có đồi núi và thung lũng phủ đầy cây linh sam non tơ.
    “Tớ tự hỏi cô Lewis là người thế nào,” Diana suy đoán khi họ mở cửa bước vào vườn.
    “Họ nói cô ấy khá kỳ lạ.”
    “Vậy cô ấy chắc sẽ thú vị đây,” Anne quả quyết. “ít nhất thì những người kỳ lạ luôn như vậy, dẫu họ có hoặc không có những đặc tính khác. Tớ có nói với cậu là chúng ta sẽ đến một cung điện bị phù phép mà, phải không? Tớ biết những yêu tinh đã không bõ công giăng mắc pháp thuật trên con đường đó mà.”
    “Nhưng cô Lavendar Lewis đâu có gì giống với một nàng công chúa ngủ say,” Diana phá lên cười. “Cô ấy là một cô gái già... bốn mươi lăm tuổi và tóc đã muối tiêu rồi, tớ nghe đồn thế.”
    “Ôi, đó chỉ là do bùa phép giáng xuống mà thôi,” Anne tự tin. “Trái tim cô ấy vẫn còn trẻ trung và tươi đẹp... và nếu chúng ta biết cách cởi bỏ lời nguyền, cô ấy sẽ bước ra sáng rực và mỹ lệ như xưa. Nhưng chúng ta không biết cách... luôn luôn chỉ có hoàng tử biết được biện pháp mà thôi... và hoàng tử của cô Lavendar vẫn chưa tới. Có lẽ anh ta đã gặp phải rủi ro chí tử nào... dẫu như thế là trái với luật của mọi truyện cổ tích.”
    “Tớ e là anh ta đã đến đây từ lâu rồi lại bỏ đi rồi,” Diana nói. “Nghe đồn cô ấy từng đính hôn với Stephen Irving... cha của Paul... khi cả hai còn trẻ. Nhưng họ cãi vã rồi chia tay nhau.”
    “Suỵt,” Anne cảnh báo. “Cửa mở kìa.”
    Hai cô gái đứng ở hiên nhà dưới những tua thường xuân, gõ vào cánh cửa đang để ngỏ. Có tiếng bước chân lộp cộp bên trong và một bóng người nhỏ bé khá kỳ lạ xuất hiện... một cô bé khoảng mười bốn, mặt tàn nhang, mũi hếch, miệng rộng cứ như kéo dài từ “lỗ tai này đến lỗ tai kia” và hai bím tóc vàng dài thượt thắt nơ xanh to đùng.
    “Cô Lewis có nhà không?” Diana hỏi.
    “Vâng, thưa cô. Mời vào, thưa cô... Lối này, thưa cô... và mời cô ngồi, thưa cô. Cháu sẽ nói với cô Lavendar là các cô đã đến, thưa cô. Cô ấy đang ở trên lầu, thưa cô.”
    Nói đoạn, cô giúp việc bé nhỏ vụt thoát khỏi tầm mắt, hai cô gái còn lại một mình nhìn quanh vẻ hứng thú. Nội thất bên trong căn nhà nhỏ tuyệt vời này cũng lý thú như bề ngoài của nó vậy.
    Căn phòng có trần thấp và hai cửa sổ vuông nhỏ lắp kính, màn cửa diềm xa tanh. Đồ đạc đều theo kiểu xưa nhưng được giữ gìn cẩn thận và khéo léo gây cảm giác rất dễ chịu.
    Nhưng phải thẳng thắn thừa nhận rằng điểm hấp dẫn nhất, đối với hai cô gái khỏe mạnh vừa đi bộ bốn dặm đường trong khí thu se lạnh, là một cái bàn bày đầy đồ sứ xanh nhạt và những món ăn ngon lành, những cành dương xỉ ngả vàng lắc rắc trên tấm khăn trải đem lại cho nó một “không khí lễ hội” như Anne vẫn thường hay gọi.
    “Chắc cô Lavendar đang đợi khách tới dùng trà,” cô thì thầm. “Có sáu chỗ. Nhưng cô bé khi nãy thật tức cười. Cứ như một sứ giả từ vùng đất thần tiên vậy. Tớ cho rằng cô bé chỉ đường cho chúng ta cũng được rồi, nhưng tớ cứ tò mò muốn gặp cô Lavendar. C... c... cô ấy xuống kìa.”
    Và thế là cô Lavendar Lewis đang đứng ở ngưỡng cửa. Hai cô gái quá kinh ngạc đến quên cả phép lịch sự, chỉ giương mắt nhìn chằm chằm. Trong vô thức, họ mong đợi sẽ nhìn thấy hình ảnh một bà cô ế chồng như mình vẫn hay gặp... một người khá góc cạnh, tóc muối tiêu chải gọn cứng nhắc và cặp kính lăo. Không thể tưởng tượng ra điều gì đối lập với cô Lavendar đến thế.
    Cô là một quý cô nhỏ nhắn, tóc bạch kim dày gợn sóng được khéo léo uốn thành lọn. Mái tóc ôm lấy khuôn mặt còn rất trẻ, má hồng, môi mềm, mắt nâu to dịu dàng và lúm đồng tiền... lúm đồng tiền thực sự. Cô mặc váy xa tanh thanh nhã màu kem in hoa hồng màu nhạt... một chiếc váy có vẻ trẻ trung đến mức lố bịch cho phần lớn phụ nữ ở lứa tuổi của cô nhưng lại hợp với cô Lavendar một cách kỳ lạ khiến người ta không hề nhớ đến vấn đề tuổi tác.
    “Charlotta Đệ Tứ nói là các cháu muốn gặp tôi,” giọng nói của cô rất hợp với bề ngoài.
    “Chúng cháu muốn hỏi đường tới Tây Grafton,” Diana nói. “Chúng cháu được mời dùng trà ở nhà ông Kimball nhưng đã đi sai đường trong rừng và đến đường ranh giới thay vì đường Tây Grafton. Giờ chúng cháu nên rẽ trái hay rẽ phải từ cổng nhà cô đây ạ?”
    “Rẽ trái,” cô Lavendar nói, ngẳn ngừ liếc sang bàn trà. Sau đó cô kêu lên như vừa có một quyết định đột ngột.
    “Nhưng ồ, sao các cháu không ở lại dùng trà với tôi? Làm ơn đi mà. Khi các cháu tới nơi thì bữa trà nhà ông Kimball cũng xong rồi. Và Charlotta Đệ Tứ cùng tôi sẽ rất vui được đón tiếp các cháu.”
    Diana im lặng hỏi ý Anne.
    “Chúng cháu muốn ở lại lắm,” Anne nói ngay vì cô đã quyết định rằng mình muốn biết thêm về cô Lavendar kỳ thú này, “nếu không làm phiền cô. Nhưng cô còn các vị khách khác nữa, phải không?”
    Cô Lavendar liếc nhìn bàn trà lần nữa rồi đỏ mặt.
    “Tôi biết các cháu sẽ cho rằng tôi thật ngu ngốc,” cô nói.“Tôi quả thật là ngu ngốc... và luôn cảm thấy xấu hổ vì điều đó khi bị phát hiện, nhưng chỉ khi tôi bị phát hiện thôi. Tôi chẳng có vị khách nào cả... Tôi chỉ giả vờ thế thôi. Các cháu thấy đấy, tôi rất cô đơn. Tôi thích có khách khứa đến chơi... đương nhiên là những vị khách hợp với tôi ấy... nhưng có rất ít người ghé qua đây vì nó quá xa đường cái. Charlotta Đệ Tứ cũng cô đơn lắm. Cho nên tôi giả vờ mình sắp tổchức một buổi tiệc trà. Tôi nấu nướng... trang trí bàn ăn... rồi bày ra bộ đồ sứ mà mẹ tôi được tặng dịp đám cưới... rồi ăn diện sửa soạn.”
    Diana nghĩ bụng cô Lavendar này cũng kỳ dị đúng như những người khác hình dung. Cứ nghĩ xem, một phụ nữ bốn mươi lăm chơi trò tổ chức tiệc trà, cứ như cô ta còn bé bỏng lắm vậy! Nhưng Anne với đôi mắt lấp lánh kêu lên vui sướng, “ồ, cô cũng hay tưởng tượng các thứ sao?”
    Chữ “cũng” đó đã để lộ một tâm hồn tri âm với cô Lavendar.
    “Vâng, đúng thế,” cô mạnh dạn thú nhận. “Đương nhiên thật ngớ ngẩn với một người vào độ tuổi như tôi. Nhưng làm một bà cô già độc lập có lợi gì nếu ta không được quyền ngớ ngẩn như ta muốn, một khi nó chẳng ảnh hưởng đến ai? Một người phải có chút đền bù chứ. Tôi không tin tôi còn sống được đến giờ nếu không giả vờ chuyện này chuyện kia. Dù sao thì tôi cũng không thường bị bắt tại trận, và Charlotta Đệ Tứ không bao giờ bép xép. Nhưng tôi vui vì bị phát hiện hôm nay, vì các cháu đã đến thực sự, và tôi có sẵn thức ăn chờ đón các cháu. Các cháu lên phòng nghỉ cất mũ nhé? Đó là căn phòng có cánh cửa màu trắng ở ngay đầu cầu thang. Tôi phải chạy xuống bếp xem Charlotta Đệ Tứ có để trà quá lửa không. Charlotta Đệ Tứ là một cô bé rất ngoan, nhưng luôn để trà quá lửa.”
    Cô Lavendar hấp tấp chạy vào bếp với mục đích tận tình chiêu đãi khách, hai cô gái đi một mình lên phòng nghỉ, căn phòng sơn trắng muốt như màu cửa, được chiếu sáng bởi cửa sổ áp mái đầy dây thường xuân, và như Anne luôn nói, y hệt nơi những giấc mơ hạnh phúc nảy mầm.
    “Đây đúng là một cuộc phiêu lưu nhỉ?” Diana hỏi. “Và cô Lavendar thật dễ thương phải không, dẫu cô ấy có đôi chút kỳ lạ? Cô ấy nhìn chẳng giống một bà cô già gì cả.”
    “Cô ấy trông như tiếng nhạc vậy, tớ nghĩ thế.” Anne trả lời.
    Khi họ xuống nhà, cô Lavendar đang bưng ấm trà vàphía sau là Charlotta Đệ Tứ cầm đĩa bánh quy nóng vẻ hết sức mãn nguyện.
    “Bây giờ các cháu phải cho tôi biết tên nhé,” cô Lavendar nói. “Tôi rất mừng khi các cháu là những cô gái trẻ. Tôi rất yêu các cô gái trẻ. Thật dễ giả vờ như mình vẫn còn trẻ khi được ở bên cạnh họ. Tôi rất ghét”... cô hơi chau mày... “nghĩ rằng mình đã già. Nào, các cháu tên gì... để gọi cho tiện ấy mà? Diana Barry? Và Anne Shirley? Vậy thì tôi có thể vờ như tôi đã quen các cháu được cả trăm năm và gọi thẳng các cháu là Anne và Diana được không?”
    “Vâng được ạ,” hai cô gái đồng thanh.
    “Vậy thì hãy ngồi xuống cho thoải mái và ăn sạch mọi thứ đi,” cô Lavendar vui vẻ nói.
    “Charlotta, cháu ngồi ở cuối bàn giúp cắt thịt gà nhé. Thật là may vì tôi đã làm bánh xốp và bánh rán vòng. Đương nhiên, làm những món đó cho các vị khách tưởng tượng thì thật là ngốc... tôi biết Charlotta Đệ Tứ đã nghĩ vậy, phải không Charlotta? Nhưng cháu thấy chưa Charlotta, mọi chuyện đã đâu vào đó. Đương nhiên dù sao thì đồ ăn cũng không bỏ phí đâu, vì Charlotta Đệ Tứ và tôi có thể ăn từ từ. Nhưng món bánh xốp không phải là loại để dành được lâu.”
    Đó là một bữa ăn vui vẻ đáng nhớ; khi ăn xong, họ đi cả ra vườn và nằm xuống dưới ánh chiều rực rỡ.
    “Cháu nghĩ chỗ ở của cô là nơi tuyệt vời nhất ở đây,” Diana nhìn quanh vẻ thán phục.
    “Vì sao cô lại gọi nơi này là Nhà Vọng?” Anne hỏi.
    “Charlotta,” cô Lavendar gọi; “Vào nhà đem cái còi thiếc nhỏ treo trên kệ đồng hồ ra đi.”
    Charlotta Đệ Tứ tung tăng chạy đi và quay lại với chiếc còi.
    “Thổi đi, Charlotta,” cô Lavendar ra lệnh.
    Charlotta thổi, tiếng còi khàn khàn khá là nhức óc. Im lặng một thoáng... rồi từ cánh rừng bên kia sông, một chuỗi tiếng vọng kỳ diệu truyền lại, ngọt ngào, lấp lánh, khó nắm bắt, cứ như “còi của xứ thần tiên” vừa thổi lên hòa vào buổi hoàng hôn. Anne và Diana kêu lên vui sướng.
    “Giờ thì cười đi, Charlotta... cười to lên.”
    Charlotta chắc cũng sẽ vâng lời nếu cô Lavendar yêu cầu đi đâu xuống đất, cô bé trèo lên cái ghế đá, phá lên cười thật to và chân thành. Tiếng vọng vẳng lại, như thể có một nhóm tiểu tiên đang bắt chước tiếng cười của cô bé trong cánh rừng tím sẫm và dọc theo những khoảng đất được cây linh sam vây quanh.
    “Mọi người đều thán phục những tiếng vọng của tôi,” cô Lavendar nói cứ như đó là tài sản riêng của cô vậy. “Tôi cũng rất thích chúng. Chúng là những người bạn tốt... với một chút tưởng tượng. Vào những buổi chiều tối yên ả, Charlotta Đệ Tứ và tôi thường ngồi ngoài đây đùa giỡn với chúng. Charlotta, cất cái còi vào đúng chỗ nhé.”
    “Vì sao cô lại gọi cô bé ấy là Charlotta Đệ Tứ?” Diana nãy giờ đang hết sức hiếu kỳ.
    “Chỉ để phân biệt cô bé khỏi những Charlotta khác trong đầu tôi thôi,” cô Lavendar nghiêm túc đáp. “Bọn họ trông giống nhau quá đến mức chẳng phân biệt được. Tên của cô bé vốn không phải là Charlotta. Đó là... để tôi nhớ xem... là gì nhỉ? Tôi nghĩ đó là Leonora... đúng, chính là Leonora. Các cháu hiếu không, chuyện là thế này. Khi mẹ tôi qua đời mười năm trước, tôi không thể sống một mình ở đây... mà tôi lại không đủ tiền để trả lương cho một cô gái trưởng thành. Thế là tôi gọi Charlotta Bowman đến ở chung bao ăn bao mặc. Tên của cô nàng chính thật là Charlotta... đó là Charlotta Đệ Nhất. Lúc đó cô nàng mới mười ba tuổi. Cô nàng ở với tôi cho đến mười sáu rồi đến Boston, vì ở đó thì tìm được việc tốt hơn. Thế là cô em đến ở với tôi. Tên cô bé là Julietta... Bà Bowman thích những cái tên thật kêu, tôi nghĩ thế... nhưng cô bé trông y hệt như Charlotta làm tôi cứ gọi sai mãi... và cô bé cũng không phiền. Thế là tôi từ bỏkhông cố nhớ tên thật của cô bé làm gì nữa. Đó là Charlotta Đệ Nhị, và khi cô bé đi, Evelia đến và đó là Charlotta Đệ Tam. Giờ thì tôi có Charlotta Đệ Tứ, nhưng khi cô bé lên mười sáu tuổi... hiện giờ cô bé chỉ mới mười bốn... cô bé sẽ muốn đi Boston, và khi ấy tôi sẽ ra sao thì thực sự tôi cũng không biết nữa. Charlotta Đệ Tứ là cô con gái cuối cùng của nhà Bowman, và là cô gái tuyệt nhất. Những Charlotta kia luôn cho tôi thấy rằng họ nghĩ tôi ngốc nghếch khi chơi trò giả vờ, nhưng Charlotta Đệ Tứ chẳng bao giờ làm vậy, dẫu cô bé có nghĩ gì trong đầu. Tôi không quan tâm mọi người nghĩ gì về tôi nếu họ không để lộ cho tôi thấy suy nghĩ của họ.”
    “Ôi,” Diana liếc nhìn mặt trời lặn một cách tiếc nuối. “Cháu nghĩ chúng cháu phải đi thôi, nếu muốn tới nhà ông Kimball trước khi trời tối. Chúng cháu đã rất vui, cô Lewis ạ.”
    “Các cháu sẽ quay lại thăm tôi chứ?” cô Lavendar van nài.
    Anne cao lớn choàng tay qua vai quý cô bé nhỏ.
    “Nhất định mà,” cô hứa. “Giờ khi chúng cháu đã phát hiện ra cô; chúng cháu sẽ lợi dụng tối đa lòng hiếu khách để đến gặp cô. Vâng, chúng cháu phải đi rồi... 'buộc mình phải rời đi', như Paul Irving thường nói mỗi lần cậu bé đến Chái Nhà Xanh.”
    “Paul Irving?” Giọng cô Lavendar hơi run một thoáng. “Là ai vậy? Tôi không nghĩ ra ai có tên như thế ở Avonlea.”
    Anne cảm thấy bực bội trước sự vô tâm của mình. Cô đã quên mất chuyện tình cũ của cô Lavendar mà buột miệng nhắc đến tên của Paul.
    “Đó là một cậu học trò nhỏ của cháu,” cô từ từ giải thích. “Năm ngoái cậu bé từ Boston chuyển về đây sống với bà nội, bà Irving trên đường bờ biển.”
    “Cậu bé là con trai của Stephen Irving sao?” cô Lavendar hỏi, cúi xuống hàng rào hoa oải hương trùng tên với cô để giấu đi khuôn mặt của mình.
    “Đúng vậy.”
    “Tôi sẽ tặng cho mỗi cháu một bó oải hương,” cô Lavendar vui vẻ nói cứ như không hề nghe thấy câu trả lời. “Mùi hương của nó rất ngọt ngào, các cháu có nghĩ vậy không? Mẹ tôi rất yêu mùi hương đó. Mẹ tôi trồng những hàng rào này lâu lắm rồi. Ba tôi đặt tên cho tôi là Lavendar vì ông rất thích loài hoa này. Lần đầu tiên ông gặp mẹ tôi là khi ông cùng với anh trai bà đến thăm nhà bà ở Đông Grafton. Ông yêu bà ngay từ cái nhìn đầu tiên, họ mời ông vào ngủ trong phòng dành riêng cho khách, tấm ga trải giường thoang thoảng mùi oải hương, ông thao thức suốt đêm mơ mộng về bà. Từ đó về sau, ông đã đem lòng yêu mùi oải hương... đó là lý do ông đặt tên tôi là Lavendar. Đừng quên sớm ghé thăm tôi nhé, các cô gái yêu dấu. Chúng tôi sẽ chờ các cháu, cả Charlotta Đệ Tứ và tôi.”
    Cô mở cánh cửa dưới tàng linh sam để họ đi qua. Cô chợt có vẻ già nua và mệt mỏi, vầng sáng rạng rỡ trên khuôn mặt đã mờ đi; nụ cười tạm biệt của cô vẫn ngọt ngào và thanh xuân vĩnh viễn như trước, nhưng khi hai cô gái quay đầu nhìn lại trước khúc quanh, họ thấy cô ngồi trên băng ghế đá cũ kỹ dưới tàng cây dương óng ánh bạc giữa khu vườn, đầu gục lên tay mệt mỏi.
    “Cô ấy có vẻ cô đơn,” Diana nhẹ nhàng thốt. “Chúng ta nên đến thăm cô ấy thường xuyên.”
    “Tớ nghĩ cha mẹ cô ấy đã đặt cho cô ấy cái tên duy nhất có thể hợp với cô ấy,” Anne nói. “Nếu họ mù quáng đặt tên cô ấy là Elizabeth, Nellie hay Muriel, cô ấy vẫn chỉ là Lavendar mà thôi, tớ nghĩ thế. Cái tên đó gợi nhớ đến hương vị ngọt ngào, vẻ duyên dáng xưa cũ và 'trang phục bằng lụa bồng bềnh'. Thế mà tên của tớ thì đầy mùi bánh mì bơ, mụn vá và việc nhà.”
    “Ồ, tớ không nghĩ vậy đâu,” Diana nói. “Đối với tớ, tên Anne rất oai nghiêm như một vị nữ hoàng. Nhưng nếu cậu có tên là Kerrenhappuch thì tớ cũng yêu cái tên đó. Tớ nghĩ người thế nào thì tên sẽ đẹp hay xấu như thế ấy. Giờ thì tớ chẳng chịu được những cái tên như Josie hay Gertie, nhưng trước khi quen mấy đứa con gái nhà Pye, tớ từng nghĩ chúng rất đẹp.”
    “Đó là một ý tưởng thật đáng yêu, Diana ạ,” Anne hào hứng. “Sống sao để cho tên mình đẹp lên, dẫu ban đầu nó không được đẹp cho lắm... khiến nó tượng trưng cho điều gì đó thật đáng yêu và dễ chịu trong suy nghĩ của người khác mà họ không cảm nhận được từ riêng mỗi cái tên. cảm ơn Diana.”

  4. #23
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 22 - NHỮNG CHUYỆN VỤN VẶT
    “Vậy là cháu dùng trà ở ngôi nhà đá của Lavendar Lewis?” bà Marilla hỏi trên bàn ăn sáng vào sáng hôm sau. “Giờ cô ta thế nào? Lần cuối ta gặp cô ta là mười lăm năm trước... một ngày Chủ nhật ở nhà thờ Grafton. Ta cho rằng cô ta đã thay đổi rất nhiều. Davy Keith, khi cháu cần thứ gì ở ngoài tầm tay, hãy yêu cầu người khác đưa nó cho cháu chứ đừng chồm qua bàn cái kiểu như thế. Cháu có bao giờ thấy Paul Irving làm vậy mỗi lần đến dùng bữa không?”
    “Nhưng tay của Paul dài hơn tay cháu,” Davy lúng búng trong miệng. “Chúng phát triển trong suốt mười một năm, còn tay cháu mới có bảy năm thôi. Mới cả, cháu có hỏi đấy chứ, nhưng bà và cô Anne quá bận nói chuyện nên không để ý. Mới cả, Paul đã bao giờ đến ăn bữa nào khác ngoại trừ bữa trà đâu, và dễ lịch sự vào bữa trà hơn là bữa sáng. Lúc đó thì đâu có đói bằng. Khoảng cách giữa bữa tối và bữa sáng lâu khủng khiếp. Này cô Anne, cái muỗng đó trông chẳng to hơn năm ngoái chút nào, nhưng cháu thì đã lớn hơn nhiều.”
    “Đương nhiên cháu không biết cô Lavendar lúc trước trông ra sao, nhưng chẳng hiểu sao cháu không nghĩ là cô ấy đã thay đổi nhiều lắm,” Anne nói sau khi đã múc hai muỗng đầy xi rô nhựa phong để cho thằng bé đừng phàn nàn nữa. “Tóc cô ấy bạc trắng nhưng gương mặt vẫn tươi tắn và trẻ trung, và cô ấy có đôi mắt nâu vô cùng dịu dàng... màu sẫm như màu gỗ với ánh vàng lấp lánh bên trong... và giọng cô ấy khiến người ta nghĩ tới xa tanh trắng, nước róc rách và tiếng chuông cổ tích hòa trộn với nhau.”
    “Khi còn trẻ thì cô ta nổi danh xinh đẹp,” bà Marilla nói.“Ta không biết rõ cô ta lắm, nhưng với những gì ta biết thì ta quý cô ta. Ngay từ hồi ấy đã có người cho rằng cô ta khá kỳ quặc. Davy, nếu bà còn bắt gặp cháu giở trò như vậy thì cháu sẽ phải ăn sau mọi người đấy nhé, như đám người giúp việc người Pháp vậy.”
    Đa số các cuộc trò chuyện giữa Anne và bà Marilla khi có mặt hai đứa trẻ sinh đôi đều bị đứt quãng bởi những lời trách móc hướng về phía Davy. Lần này, thật buồn khi phải kể rằng Davy khi không thể dùng muỗng vét sạch giọt xi rô cuối cùng, đã giải quyết khó khăn bằng cách cầm lấy đĩa bằng cả hai tay rồi thè lưỡi liêm. Anne nhìn nó với ánh mắt khiếp hãi đến mức kẻ tội phạm bé nhỏ đỏ bừng mặt và ấp úng nửa hối lỗi nửa bào chữa,
    “Làm vậy để không bỏ phí chút nào.”
    “Những ai khác người thì thường bị kẻ khác gọi là kỳ lạ,” Anne nói. “Và cô Lavendar thì quả thật là khác thường, dẫu khó mà nói rõ khác ở chỗ nào. Có lẽ bởi vì cô ấy là kiểu người không bao giờ già đi.”
    “Khi tất cả những người cùng thời đều già đi thì tốt nhất là nên già theo,” bà Marilla sẵng giọng. “Nếu không thì chối mắt lắm. Theo như ta biết thì Lavendar Lewis dứt bỏ tất cả. Cô ta sống ở cái chỗ khỉ ho cò gáy đó cho đến khi mọi người quên hẳn mình. Căn nhà đá đó là một trong những căn nhà xưa nhất trên đảo. Ông lão Lewis xây nó tám mươi năm về trước khi vừa từ Anh quốc tới. Davy, đừng có lắc khuỷu tay của Dora. Ồ, ta chính mắt nhìn thấy! Đừng có làm bộ vô tội nữa. Sao sáng nay cháu lại cư xử như thế hả?”
    “Có lẽ vì cháu bước xuống giường sai hướng đấy,” Davy gợi ý. “Milty Boulter nói rằng nếu xuống giường sai hướng thì mọi việc trong ngày sẽ đảo lộn cả lên. Bà nội nó nói với nó như vậy. Nhưng hướng nào mới là đúng đây? Và phải làm sao nếu giường được đặt sát tường? Cháu muốn biết.”
    “Ta lúc nào cũng tự hỏi chuyện gì đã xảy ra giữa Stephen Irving và Lavendar Lewis;” bà Marilla lờ Davy đi. “Rõ ràng họ đã đính hôn hai mươi lăm năm trước rồi bất thình lình hủy hôn. Ta không biết có vấn đê gì, nhưng chắc chuyện phải khủng khiếp lắm, vì anh ta bỏ sang Mỹ và không bao giờ quay về nhà nữa.”
    “Có thể đó không phải chuyện gì đáng sợ cả. Cháu nghĩ những chuyện vặt vãnh trong cuộc sống còn phiền phức hơn hẳn những việc lớn nữa,” Anne nói trong một khoảnh khắc sâu sắc bất chợt mà ngay cả kinh nghiệm cũng phải cúi đâu. “Bác Marilla, đừng kể gì về việc cháu đến nhà cô Lavendar với bà Lynde nhé. Bà ấy chắc sẽ hỏi cả trăm câu hỏi và chẳng hiếu sao cháu không thích như vậy chút nào... nếu cô Lavendar biết thì cô ấy cũng không vui đâu, cháu chắc thế.”
    “Bác dám chắc là Rachel sẽ tò mò lắm đây,” bà Marilla công nhận, “dẫu bà ấy không còn nhiều thời gian quan tâm đến chuyện của người khác như trước nữa. Bây giờ bà ấy bị giữ rịt ở nhà lo cho Thomas và cảm thấy khá buồn bã, vì có vẻ như bà ấy bắt đầu mất niềm tin rằng ông chồng sẽ khỏe lên được. Rachel sẽ còn lại cô đơn một mình nếu có chuyện gì xảy ra với Thomas, vì con cái họ đều đi về phía Tây sống cả, trừ Eliza trên thị trấn, mà bà ấy lại không ưa thằng chồng.”
    Cách nói của bà Marilla dễ gây hiểu lầm rằng Eliza không yêu chồng, mà thực ra thì hoàn toàn ngược lại.
    “Rachel nói nếu Thomas chịu gồng mình quyết tâm thì ông ta sẽ khỏe thôi. Nhưng sao lại phí công bắt một con sứa ngồi thẳng làm gì?” bà Marilla tiếp. “Thomas Lynde làm gì có quyết tâm mà gồng mình chứ. Ông ta bám váy mẹ cho tới khi lấy vợ, và rồi Rachel tiếp tục truyên thống của mẹ chồng. Thật lạ khi ông ta dám bệnh mà không hỏi ý Rachel. Nhưng thôi, ta không nên nói như vậy. Rachel là một người vợ tốt đối với ông ta. Ông ta sẽ không làm nên trò trống gì nếu không có bà ấy, rõ là thế. Ông ta sinh ra là để bị đè đầu cưỡi cổ, và cũng may là ông ta rơi vào tay một người tháo vát thông minh như Rachel. Ông ta cũng chẳng lấy cung cách độc đoán của vợ làm phiền. Có vợ như thế thì ông ta đỡ phải mất công ra quyết định về bất cứ việc gì mà. Davy, đừng có vặn vẹo như một con lươn thế.”
    “Cháu chẳng có gì khác để làm cả,” Davy phản đối. “Cháu không thể ăn thêm nữa, mà nhìn bà và cô Anne ăn cũng chẳng vui vẻ gì.”
    “À, vậy thì cháu và Dora ra ngoài cho gà ăn lúa mì đi,” bà Marilla nói. “Và đừng có nhổ thêm một sợi lông đuôi nào của con gà trống trắng đấy nhé.”
    “Cháu muốn có vài cọng lông để làm mũ kiểu người da đỏ,” Davy dỗi. “Milty Boulter có một cái thiệt ngon, làm từ lông con gà tây già mà mẹ nó giết thịt. Bà cũng phải cho cháu vài cái lông chứ. Lông con gà trống đó dư cho nó xài mà.”
    “Cháu có thể lấy cái chổi lông gà cũ trên gác xép,” Anne nói, “rồi cô sẽ nhuộm xanh đỏ vàng cho cháu.”
    “Cháu chiều thằng nhóc đó quá đi,” bà Marillfa nói khi Davy mặt sáng rỡ đi theo cô bé Dora nghiêm trang ra ngoài. Sáu năm qua bà Marilla đã tiến được những bước khá dài trong lĩnh vực giáo dục trẻ em, nhưng bà vẫn chưa thể bỏ đi ý nghĩ rằng không nên quá chiều trẻ em vì chúng sẽ trở nên hư hỏng.
    “Tất cả đám con trai trong lớp nó đều có mũ kiểu người da đỏ, và Davy cũng muốn có mộtcái,”Anne đáp. “Cháu biết nó cảm thấy thế nào... Cháu không bao giờ quên được mình từng thèm có áo tay phồng thế nào khi tất cả đám bạn gái đều mặc áo tay phồng. Với lại Davy không bị chiều đến hư đâu. Mỗi ngày nó mỗi ngoan hơn. Nghĩ đến sự khác biệt giữa nó bây giờ và nó khi mới tới đây một năm trước xem.”
    “Rõ ràng là nó không nghịch ngợm nhiều nữa kể từ khi đi học,” bà Marilla thừa nhận. “Bác cho rằng nó đã tiêu hết năng lượng với đám con trai kia. Nhưng thật lạ là chúng ta không nhận được lá thư nào từ Richard Keith trước khi trường khai giảng. Không một tin tức nào kể từ tháng Năm năm ngoái.”
    “Cháu lại sợ biết tin từ ông ta,” Anne thở dài, bắt đầu dọn dẹp chén đĩa. “Nếu thư đến, cháu sẽ không dám mở ra, vì sợ nó yêu cầu chúng ta gửi hai đứa trẻ sinh đôi đến chỗ ông ta.”
    Một tháng sau đó, một lá thư đến nơi thật. Nhưng không phải do Richard Keith gửi. Một người bạn của ông ta viết thư báo rằng Richard Keith chết vì lao phổi hai tuần trước. Người viết thư là người chấp hành di chúc của ông ta, và theo di chúc, một khoản tiền hai ngàn đô la được ủy thác lại cho bà Marilla Cuthbert giữ giùm cho David và Dora cho đến khi chúng đến tuổi trưởng thành hoặc kết hôn. Trong thời gian chờ đợi, số tiền lời được dùng để nuôi dưỡng hai đứa trẻ.
    “Thật đáng sợ khi lại vui mừng về bất cứ chuyện gì có liên quan đến cái chết,” Anne bình tĩnh lại. “Cháu lấy làm tiếc cho ông Keith đáng thương, nhưng cháu thực sự vui vì chúng ta có thể giữ hai đứa trẻ sinh đôi lại.”
    “Số tiền đó đến rất đúng lúc,” bà Marilla luôn thực tế.“Ta muốn nuôi hai đứa trẻ nhưng thực sự không biết lấy tiền từ đâu, nhất là khi chúng lớn lên một chút nữa. Tiền cho thuê nông trại chỉ đủ để giữ căn nhà này, và bà cương quyết không để cháu bỏ ra một xu nào cho bọn chúng. Cháu đã làm quá nhiều cho bọn chúng rồi. Dora chẳng cần cái mũ mới cháu mua tặng cũng như chẳng con mèo nào cần tới hai cái đuôi. Nhưng giờ thì con đường phía trước đã rõ ràng và bọn trẻ đã có nguồn chu cấp rồi.”
    Davy và Dora rất vui sướng khi biết sẽ ở lại Chái Nhà Xanh “mãi mãi”. Cái chết của một ông cậu chưa hề gặp chẳng đáng buồn một tí xíu nào so với niềm vui đó. Nhưng Dora vẫn còn chút băn khoăn.
    “Cậu Richard được chôn cất đàng hoàng phải không?” cô bé thì thầm hỏi Anne.
    “Ừ, đương nhiên rồi bé cưng.”
    “Cậu... cậu ấy sẽ không giống như ông chú của Mirabel Cotton chứ?” giọng thì thầm thêm phần kích động. “Cậu ấy sẽ không đi lòng vòng quanh nhà dẫu đã mồ yên mả đẹp, phải không cô Anne?”

  5. #24
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 23 - CHUYỆN TÌNH CỦA CÔ LAVENDAR
    “Cháu định chiều nay sẽ đi bộ đến Nhà Vọng,” Anne nói vào một buổi trưa thứ Sáu tháng Mười hai.
    “Có vẻ như tuyết sắp rơi đấy,” bà Marilla băn khoăn.
    “Cháu sẽ đến nơi trước khi tuyết xuống, và cháu định ở lại cả đêm. Diana không đi được vì có khách đến, và cháu chắc tối nay cô Lavendar sẽ rất ngóng cháu. Đã hai tuần rồi cháu không ghé qua.”
    Kể từ ngày tháng Mười đó, Anne rất thường đến thăm Nhà Vọng. Thỉnh thoảng cô và Diana đánh xe đi, thỉnh thoảng họ đi bộ băng qua rừng. Khi Diana không đi được, Anne đi một mình. Giữa cô và cô Lavendar đã bừng nở một tình bạn nhiệt thành và hữu ích chỉ có thể có giữa một phụ nữ vẫn giữ được sự tươi mới của tuổi thanh xuân trong trái tim và tâm hồn cùng một cô gái có trí tưởng tượng và trực giác mạnh mẽ thay cho bề dày kinh nghiệm. Cuối cùng Anne cũng tìm được một “tri âm” thực sự, đồng thời Anne và Diana bước vào cuộc đời cô quạnh lẻ loi của cô Lavendar, đem theo niềm vui và niềm hứng khởi lành mạnh của cuộc sống bên ngoài, bởi từ lâu cô đã không còn giữ lại mối liên hệ gì với “thế giới lãng quên và bị lăng quên” nữa. Nhờ có bọn họ, căn nhà đá nhỏ xinh tràn đầy bầu không khí trẻ trung và sống động. Charlotta Đệ Tứ luôn chào đón họ với nụ cười rộng nhất của mình... và nụ cười của Charlotta lúc nào cũng rộng đến đáng sợ... cô bé yêu quý họ vì cô chủ kính yêu và cũng vì chính bản thân họ. Chưa bao giờ có nhiều “trò đùa tinh nghịch” diễn ra trong ngồi nhà đá như vào mùa thu nấn ná tươi đẹp năm đó, tháng Mười một tựa như tháng Mười lặp lại lần thứ hai, và ngay cả tháng Chạp cũng ngập tràn ánh nắng và hào quang của mùa hè.
    Nhưng vào ngày đặc biệt này, dường như chợt nhớ ra mùa đông đã đến, tháng Chạp trở nên buồn chán ủ ê, gió ngưng đọng như đang chờ đợi những bông tuyết sắp rơi. Dù sao chăng nữa, Anne vẫn vui vẻ tận hưởng chuyến đi bộ xuyên qua mê cung rừng sồi xám xịt khổng lồ, dẫu đi một mình nhưng cô chẳng bao giờ cảm thấy cô độc cả; trí tưởng tượng lấp đầy lối đi của cô bằng những người bạn đồng hành vui vẻ, và cô giả vờ trò chuyện vui nhộn với bọn họ, còn dí dỏm và thú vị hơn trong đời thực, khi người đối thoại thỉnh thoảng lại không được hợp ý như mong đợi. Trong một tập hợp “ảo như thật” gồm những linh hồn được lựa chọn kỹ lưỡng, mọi người luôn nói đúng điều ta muốn họ nói, và vì vậy, ta có cơ hội nói lên đúng điều mà ta muốn nói ra. Vây quanh bởi những người bạn vô hình, Anne băng qua khu rừng đến lối đi linh sam ngay khi những bông tuyết lớn mềm mại bắt đầu phất phơ rơi xuống.
    Ở khúc quanh đầu tiên, cô bắt gặp cô Lavendar đang đứng dưới một cây linh sam lớn cành lá xum xuê. Cô Lavendar mặc bộ váy màu đỏ sẫm ấm áp, đầu và vai quấn khăn choàng lụa màu xám bạc.
    “Cô trông như nữ hoàng của các nàng tiên trong rừnglinh sam,” Anne vui vẻ cất tiếng gọi.
    “Tôi biết tối nay cháu sẽ tới mà Anne,” cô Lavendar chạy vội tới. “Và tôi vui mừng gấp đôi bình thường, vì Charlotta Đệ Tứ không có nhà. Mẹ cô bé bị bệnh nên cô bé phải về nhà tối nay. Nếu cháu không tới thì chắc tôi sẽ cô đơn lắm... những giấc mơ và tiếng vọng không đủ để bầu bạn với tôi. ôi, Anne, cháu đẹp quá,” cô đột nhiên kêu lên, ngẩng nhìn cô gái cao thanh mảnh với khuôn mặt ửng hồng sau chuyến đi bộ dài. “Đẹp và trẻ trung quá! Mười bảy tuổi thật tuyệt vời, phải không cháu? Tôi thật ghen tỵ với cháu,” cô Lavendar thẳng thắn.
    “Nhưng tâm hồn cô cũng chỉ mới mười bảy tuổi mà,” Anne mỉm cười.
    “Không, tôi già rồi... hay đúng hơn là đứng tuổi, nghe còn tệ hại hơn thế,” cô Lavendar thở dài. “Thỉnh thoảng tôi có thể giả vờ là mình chưa già, nhưng những lúc còn lại thì tôi ý thức rồ điều đó. Và tôi không thể dễ dàng chấp nhận như nhiều phụ nữ từng làm được. Hiện giờ tôi vẫn còn không cam lòng chẳng khác gì khi mới phát hiện sợi tóc bạc đầu tiên. Này, Anne, đừng làm ra vẻ như đang thấu hiểu nữa. Mười bảy tuổi không thể hiểu được đâu. Bây giờ tôi sẽ giả vờ là mình cũng mười bảy tuổi, tôi có thể làm được khi cháu có mặt ở đây. Cháu lúc nào cũng mang lại tuổi thanh xuân trong lòng bàn tay cứ như một món quà vậy. Chúng ta sẽ có một buổi tối vui vẻ. Uống trà trước đã... cháu muốn dùng trà với món gì nào? Chúng ta sẽ ăn bất cứ thứ gì cháu thích. Hãy nghĩ đến món gì đó ngon lành nhưng không dễ tiêu hóa đi.”
    Tối hôm đó, những tràng cười lanh lảnh vui tươi tràn ngập căn nhà đá nhỏ bé. Nấu ăn, đánh chén, làm kẹo, cười đùa và “giả vờ”, rõ ràng cô Lavendar và Anne cư xử chẳng phù hợp chút nào với phẩm giá của một phụ nữ độc thân bốn mươi lăm tuổi và một cô giáo làng nghiêm trang. Và rồi khi đã mệt mỏi, họ ngồi xuống tấm thảm trước lò sưởi phòng khách, căn phòng chỉ được thắp sáng bởi ánh lửa dịu dàng và phảng phất mùi thơm ngọt ngào tỏa ra từ lọ hoa hồng mở nắp của cô Lavendar trên bệ lò sưởi. Gió bắt đầu nổi lên, thở dài và gào rú quanh mái hiên, tuyết nhẹ nhàng va vào cửa sổ cứ như hàng trăm yêu tinh tuyết đang gõ cửa xin vào.
    “Tôi rất vui khi có cháu ở đây, Anne ạ,” cô Lavendar nhấm nháp thanh kẹo của mình. “Nếu không có cháu, tôi sẽ buồn lắm đấy... buồn hiu... buồn quạnh. Thật tuyệt khi mơ mộng với tưởng tượng vào ban ngày dưới ánh mặt trời, nhưng khi bóng đêm và bão táp kéo tới, chúng không khiến ta thỏa mãn được nữa. Khi ấy những thứ có thật trở nên cần thiết hơn. Nhưng cháu không hiểu đâu... mười bảy tuổi chẳng bao giờ hiếu được. Thuở mười bảy tuổi, mơ mộng là đủ lắm rồi, vì cháu biết thực tế đang chờ đợi mình phía trước. Khi tôi mười bảy, Anne ạ, tôi không nghĩ rằng ở tuổi bốn lăm, tôi chỉ là một cô gái già tóc bạc, chẳng có gì khác ngoài những giấc mơ trong đời.”
    “Nhưng cô đâu phải là gái già,” Anne mỉm cười nhìn vào đôi mắt nâu sẫm khát khao của cô Lavendar. “Gái già là bẩm sinh... ta không thể trở thành gái già được.”
    “Một số người sinh ra đã là gái già, một số chấp nhận cuộc sống độc thân, và một số bị buộc phải sống độc thân,” cô Lavendar nhại lại một cách châm biếm.
    “Vậy thì cô là người chấp nhận cuộc sống độc thân rồi,”An ne phá lên cười, “Và cô đã làm rất tuyệt đến mức nếu mỗi cô gái già đều được như cô thì gái già sẽ trở thành mốt mất, cháu nghĩ thế.”
    “Tôi luôn muốn làm mọi chuyện ở mức tốt nhất có thể,” cô Lavendar trầm tư, “Và vì tôi phải là gái già, tôi quyết tâm phải trở thành một cô gái già hết sức dễ thương. Nhiều người nói tôi kỳ quặc, nhưng đó chỉ vì tôi làm gái già theo cách riêng của tôi và không chịu bước theo lối mòn truyền thống. Anne, có ai kể cho cháu nghe chuyện giữa Stephen Irving và tôi không?”
    “Có ạ,” Anne thành thật, “cháu nghe nói cô và ông ấy từng đính hôn.”
    “Đúng vậy... hai mươi lăm năm trước... cả đời người. Và chúng tôi định sẽ cưới nhau vào mùa xuân năm sau đó. Tôi đã may áo cưới, dẫu chẳng ai ngoài mẹ tôi và Stephen biết được điều đó. Chúng tôi dường như đã đính hôn với nhau cả cuộc đời rồi, có thể nói như vậy. Khi Stephen còn nhỏ, mẹ anh ấy đưa anh ấy đi cùng mỗi khi đến thăm mẹ tôi; lần thứ hai đến chơi... anh ấy chín tuổi còn tôi sáu tuổi... ở trong vườn anh ấy bảo tôi rằng anh ấy quyết tâm cưới tôi khi lớn lên. Tôi nhớ mình đã nói 'cám ơn'; và khi anh ấy đi rồi, tôi nghiêm túc bảo mẹ mình rằng tôi nhẹ nhõm cả người vì không còn sợ sẽ trở thành một cô gái già nữa. Ôi, người mẹ tội nghiệp của tôi đã phá lên cười giòn giã!”
    “Rồi chuyện gì đã xảy ra?” Anne như dừng thở.
    “Chúng tôi cãi nhau về một chuyện ngốc nghếch tầm thường ngớ ngẩn. Tầm thường tới mức, cháu tin không, tôi còn không nhớ nó đã bắt đầu thế nào. Tôi chẳng biết ai mới là người có lỗi nhiều hơn. Stephen là người bắt đầu cuộc cãi vã, nhưng có lẽ tôi đã kích động anh ấy bằng những lời ngu ngốc của mình. Cháu biết đấy, anh ấy có một vài đối thủ cạnh tranh. Tôi tự phụ, thích làm đỏm và muốn trêu anh ấy một chút. Anh ấy lại là một người đàn ông nhạy cảm dễ kích động. Và thế là chúng tôi giận dữ chia tay nhau. Nhưng tôi nghĩ mọi chuyện sẽ ổn thôi, và lẽ ra mọi chuyện đã ổn nếu Stephen không quay lại quá sớm. Anne thân yêu, tôi lấy làm tiếc phải nói rằng”... cô Lavendar hạ giọng như là sắp thú nhận tội giết người, “tôi là một người giận dai khủng khiếp, ồ, cháu đừng cười... đó là sự thật. Tôi rất hay dỗi, và Stephen quay lại khi tôi vẫn chưa nguôi cơn giận. Tôi không thèm nghe anh ấy, không chịu tha thứ cho anh ấy, vì vậy anh ấy đã ra đi vĩnh viễn. Anh ấy quá kiêu hãnh để quay lại van xin. Và rồi tôi giận vì anh ấy không chịu đến. Lẽ ra tôi nên nhắn cho anh ấy, nhưng tôi không thể hạ mình làm thế. Tôi cũng kiêu hãnh như anh ấy vậy... kiêu hãnh và giận dai là một sự kết hợp tồi tệ, Anne ạ. Nhưng tôi chẳng thể đem lòng thương bất cứ ai khác, mà tôi cũng chẳng muốn làm thế. Tôi biết tôi thà làm gái già một nghìn năm còn hơn là cưới bất kỳ ai không phải Stephen Irving. ôi, mọi chuyện giờ chẳng khác gì một giấc mơ. Cháu nhìn có vẻ cảm thông quá, Anne ạ... cảm thông đúng kiểu chỉ mười bảy tuổi mới có được. Nhưng đừng làm quá nhé. Tôi thực sự rất hạnh phúc và hài lòng về bản thân, mặc dù trái tim tôi tan vỡ. Tim tôi đã tan vỡ, nếu một trái tim có thể tan vỡ thật, khi tôi hiểu ra Stephen Irving sẽ không quay trở lại. Nhưng Anne ơi, một trái tim tan vỡ trong đời thực không đáng sợ bằng một nửa như trong tiểu thuyết đâu. Nó khá giống như một chiếc răng sâu... dẫu cháu không cho rằng cách ví von ấy lãng mạn tí nào. Thỉnh thoảng nó lại đau nhói từng cơn và khiến cháu mất ngủ, nhưng giữa những cơn đau đó, nó vẫn để cháu tận hưởng cuộc sống, những giấc mơ, tiếng vọng và kẹo đậu phộng cứ như chẳng có gì đáng kể. Và giờ thì cháu có vẻ thất vọng rồi. Cháu nghĩ tôi chẳng thú vị bằng một nửa so với năm phút trước đây, khi cháu cho rằng tôi luôn là nạn nhân của một quá khứ đau thương dũng cảm nép mình dưới nụ cười mạnh mẽ. Đó là điều tồi tệ nhất... hay cũng là điều tốt đẹp nhất... của đời thực, Anne ạ. Nó sẽ không làm cháu tuyệt vọng. Nó cứ liên tục cố gắng làm cháu cảm thấy dễ chịu... và thành công... ngay cả khi cháu quyết trở nên buồn bã một cách lãng mạn. Thanh kẹo này ngon tuyệt phải không? Tôi đã ăn quá nhiều rồi nhưng tôi cứ mặc kệ.”
    Sau một khoảng lặng ngắn, cô Lavendar đột ngột lên tiếng,
    “Tôi bị sốc khi nghe về con trai của Stephen ngày đầu tiên cháu đến đây, Anne ạ. Từ đó đến nay, tôi vẫn chưa thể nhắc đến thằng bé với cháu, nhưng tôi luôn muốn biết tất cả mọi chuyện về thằng bé ấy. Nó là người thế nào?”
    “Cậu bé ấy là đứa trẻ đáng yêu ngọt ngào nhất mà cháu biết, cô Lavendar ạ... và cậu bé cũng hay tưởng tượng nhiều thứ, cũng như cô cháu mình vậy.”
    “Tôi rất mong được gặp thằng bé,” cô Lavendar khẽ thốt, như đang tự nói với mình. “Tôi tự hỏi liệu thằng bé có giống như cậu bé trong mơ sống với tôi ở đây không... cậu bé trong mơ của tôi.”
    “Nếu cô muốn gặp Paul thì lúc nào đó cháu sẽ dẫn cậu bé tới cùng,” Anne nói.
    “Tôi muốn chứ... nhưng đừng nhanh quá nhé. Để tôi làm quen với suy nghĩ đó đã. Có thể việc gặp Paul sẽ đau đớn nhiều hơn vui vẻ... lỡ thằng bé quá giống Stephen... hay lỡ thằng bé không đủ giống anh ấy. Một tháng nữa cháu hãy dẫn cậu bé lại nhé.”
    Theo đó, một tháng sau, Anne và Paul đi bộ băng rừng tới căn nhà đá và gặp cô Lavendar đang thơ thẩn trên lối đi. Cô không ngờ là họ tới lúc đó, và mặt cô tái nhợt đi.
    “Vậy đây là con trai Stephen,” cô Lavendar thì thào, cầm lấy tay Paul và quan sát cậu trong khi cậu đứng đó, đẹp trai và ngây thơ trong bộ áo choàng và mũ lông bé nhỏ bảnh bao. “Thằng... thằng bé rất giống cha.”
    “Ai cũng nói cháu giống ba như tạc,” Paul thoải mái công nhận.
    Anne thở ra một hơi nhẹ nhõm khi quan sát cảnh gặp gỡ này. Cô nhận ra cô Lavendar và Paul đã “hợp” nhau ngay và sẽ không có sự gò bó hay miễn cưỡng nào giữa bọn họ. Cô Lavendar là một người rất khéo léo, dẫu ưa thích mơ mộng và lãng mạn, và sau giây phút thất thần ngắn ngủi đầu tiên, cô giấu đi cảm xúc của mình và vui vẻ chơi đùa với Paul một cách tự nhiên cứ như cậu chỉ là con của một người quen bất kỳ đến thăm cô. Họ có một buổi chiều tuyệt vời bên nhau cùng một bữa đại tiệc toàn những món béo ngậy thay cho bữa tối, nếu bà Irving biết được thì sẽ giơ tay kinh hãi vì cho rằng những món ăn đó sẽ hủy diệt hệ tiêu hóa của Paul mãi mãi.
    “Hãy đến lần nữa nhé, chàng trai,” cô Lavendar bắt tay từ biệt Paul.
    “Nếu cô muốn thì cô có thể hôn cháu,” Paul nghiêm túc nói.
    Cô Lavendar cúi xuống hôn cậu.
    “Vì sao cháu biết cô muốn hôn cháu?” cô khẽ hỏi.
    “Bởi vì cách cô nhìn cháu hệt như mẹ cháu từng nhìn khi mẹ muốn hôn cháu. Nói chung cháu không thích hôn hít. Bọn con trai là vậy. Cô biết đấy, cô Lewis. Nhưng cháu nghĩ cháu cũng thích cô hôn cháu. Và đương nhiên cháu sẽ đến thăm cô nữa. Cháu nghĩ cháu muốn cô trở thành một người bạn đặc biệt của cháu, nếu cô không phản đối.”
    “Cô... cô không nghĩ là mình sẽ phản đối,” cô Lavendar đáp rồi quay lưng bước vội vào nhà. Nhưng một lát sau đó; cô đã đứng bên cửa sổ vẫy tay cười chào tạm biệt họ.
    “Em thích cô Lavendar,” Paul tuyên bố khi họ đi bộ qua rừng sồi. “Em thích cách cô ấy nhìn em, thích căn nhà đá và thích cả Charlotta Đệ Tứ nữa. Em ước bà nội Irving có Charlotta Đệ Tứ thay vì Mary Joe. Em chắc là Charlotta Đệ Tứ sẽ không nghĩ em bị tâm thần khi nghe em kể về những suy nghĩ của mình. Bữa trà hôm nay thật tuyệt vời, phải không cô giáo? Bà nội nói một cậu bé không nên suy nghĩ nhiều về thức ăn, nhưng thỉnh thoảng điều đó không thể tránh được khi cậu ta đang đói ngấu. Cô hiểu mà, cô giáo. Em không cho rằng cô Lavendar sẽ ép một cậu bé ăn cháo vào buổi sáng nếu cậu ta không muốn. Cô ấy sẽ làm những thức ngon mà cậu ta thích. Nhưng đương nhiên”... Paul luôn là một cậu bé công bằng... “như vậy thì sẽ không tốt lắm cho cậu ta. Nhưng dù sao thì thỉnh thoảng thay đổi chút cũng tốt, cô giáo ạ. Cô biết mà.”

  6. #25
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 24 - NHÀ TIÊN TRI TRONG LÃNH ĐỊA RIÊNG
    Một ngày tháng Năm nọ, cư dân Avonlea xôn xao vì vài mẩu “Tin vắn Avonlea” ký tên là “Người quan sát” xuất hiện trên tờ Tin hằng ngày của Charlottetown. Người ta đồn tác giả của hàng loạt mẩu tin trên chính là Charlie Sloane, một phần vì anh chàng Charlie này từng dấn thân vào nghiệp viết lách trong quá khứ, một phần vì một trong những mẩu tin vắn trên có ý chế nhạo Gilbert Blythe. Giới trẻ Avonlea khăng khăng cho rằng Gilbert Blythe và Charlie Sloane hiện đang là đối thủ tranh giành tình cảm của một cô nàng có đôi mắt xám và giàu trí tưởng tượng.
    Như thường lệ, tin đồn hoàn toàn sai bét. Gilbert Blythe được Anne tiếp tay và hỗ trợ, đã viết các mẩu tin trên, đồng thời viết một bài tự châm chọc mình để làm bình phong che giấu thân phận. Chỉ có hai mẩu tin vắn có liên quan đến câu chuyện này:
    “Nghe đồn rằng sẽ có một đám cưới diễn ra trong làng chúng ta trước mùa hoa cúc. Một công dân mới đáng kính trọng sẽ dẫn một trong những quý cô được ngưỡng mộ nhất của chúng ta ra trước bàn thờ Chúa.”
    “Bác Abe, nhà tiên tri thời tiết nổi tiếng của chúng ta, dự đoán rằng sẽ có một cơn bão sấm sét dữ dội vào chiều tối ngày 23 tháng Năm, bắt đầu vào đúng bảy giờ. Khu vực ảnh hưởng của cơn bão mở rộng ra gần khắp tỉnh. Những người cần phải ra ngoài vào chiều tối hôm đó nhớ cầm theo dù và áo mưa.”
    “Bác Abe quả có dự đoán một cơn bão diễn ra vào mùa xuân này,” Gilbert nói, “nhưng cậu cho rằng ông Harrison đi tán tỉnh Isabella Andrews thật sao?”
    “Không đâu,” Anne phá lên cười, “tớ chắc là ông ấy chỉ đi chơi cờ với ông Harmon Andrews thôi, nhưng bà Lynde nói rằng bà ấy biết chắc Isabella sắp kết hôn, vì cô ấy trông rất vui vẻ mùa xuân này.”
    Bác Abe đáng thương khá bất bình với những mẩu tin trên. Ông nghi ngờ rằng “Người quan sát” muốn giễu cợt mình, ông giận dữ phủ nhận việc xác định ngày cụ thể cơn bão xảy ra, nhưng chẳng ai tin ông cả.
    Cuộc sống ở Avonlea vẫn tiếp diễn theo nhịp điệu êm đềm vốn có và thỉnh thoảng có chút thăng trầm. Kế hoạch “trồng cây” bắt đầu tiến hành, các cải tiến viên tổ chức ngày trồng cây. Mỗi cải tiến viên xung phong, hoặc được yêu cầu phải xung phong, trồng năm cây non. Vi hội hiện có bốn mươi thành viên, tổng cộng có hai trăm cây non được trồng. Yến mạch non xanh ngắt phủ lên những cánh đồng đất đỏ; những cây táo trổ hoa rực rỡ vây quanh các nông trại tựa như nữ hoàng tuyết đang trang điểm cho ngày cưới. Anne thích mở cửa sổ khi ngủ để hương hoa anh đào phất phơ trên mặt suốt đêm. Cô cho rằng như vậy rất nên thơ. Bà Marilla lại nghĩ rằng cô đang đùa với tính mạng.
    “Lễ Tạ ơn nên được tổ chức vào mùa xuân,” Anne nói với bà Marilla vào một buổi chiều nọ, khi họ ngồi trên bậc cửa trước lắng nghe điệp khúc âm vang của lũ ếch nhái. “Cháu nghĩ như vậy sẽ tốt hơn là tổ chức vào tháng Mười một, khi vạn vật đều tàn rụi hay say ngủ. Thế thì chúng ta phải cố nhớ lại mới có thể cảm thấy biết ơn Chúa; nhưng vào tháng Năm thì ta không thể không cảm thấy biết ơn Chúa trời... rằng ta đang sống, nếu không vì bất cứ điều gì khác. Cháu có cảm giác y hệt như Eve có lẽ đã cảm thấy trong Vườn Địa đàng trước khi rắc rối nảy sinh, cỏ ở thung lũng đằng kia màu xanh hay vàng rực vậy? Với cháu, bác Marilla ạ, một ngày đẹp đẽ đến nhường này, hoa tươi nở rộ, làn gió chẳng biết thổi tiếp đi đâu vì cảm thấy sung sướng đến điên cuồng, nhất định chẳng khác gì mấy với thiên đường.”
    Bà Marilla trông choáng váng, lo lắng nhìn quanh để đảm bảo rằng hai đứa trẻ sinh đôi không đứng trong tầm nghe. Ngay lúc đó, chúng bước ra từ góc nhà.
    “Chiều nay đúng là một buổi chiều thơm khủng khiếp, phải không?” Davy hít hà vui sướng, bàn tay cáu bẩn vung vẩy cây cuốc. Khi nãy nó vừa làm việc trong mảnh vườn của mình. Mùa xuân này, bà Marilla muốn tận dụng niềm đam mê nghịch bùn nghịch đất sét của Davy thành chuyện có ích hơn nên đã phân cho nó và Dora một mảnh đất nhỏ để làm vườn, cả hai đều hăng hái bắt tay làm việc, đương nhiên với hai phong cách đặc trưng khác nhau. Dora gieo hạt, nhổ cỏ dại, tưới nước một cách chăm chỉ, có hệ thống và thản nhiên. Kết quả là mảnh đất của cô bé xanh um những luống rau và hoa ngắn ngày ngay hàng thẳng lối đều tăm tắp. Còn Davy thì làm việc sốt sắng có thừa nhưng lại thận trọng không đủ, nó đào, xới, cào cỏ, tưới nước, ghép cành một cách hăng hái đến mức những hạt giống chẳng có cơ hội để nảy mầm.
    “Vườn của cháu sao rồi, cậu bé Davy?” Anne hỏi.
    “Khá là chậm,” Davy thở dài. “Cháu chẳng hiểu nổi vì sao mấy thứ đó chẳng phát triển tốt hơn được. Milty Boulter nói chắc cháu đã gieo hạt lúc không có trăng, đó là nguyên nhân của mọi rắc rối. Nó nói không bao giờ được gieo hạt, giết heo, cắt tóc hay làm những chuyện quan trọng khi trăng tàn. Có phải vậy không cô Anne? Cháu muốn biết.”
    “Có lẽ nếu cháu không nhổ cây lên xem mỗi ngày để xem chúng lớn ra sao ở 'đầu bên kia' thì chúng sẽ phát triển tốt hơn đấy,” bà Marilla châm biếm.
    “Cháu chỉ nhổ có sáu cây thôi mà,” Davy phản đối. “Cháu muốn xem có giòi ở rễ hay không. Milty Boulter nói nếu không phải lỗi của mặt trăng thì nhất định là giòi giở trò. Nhưng cháu chỉ tìm thấy mỗi một con giòi. Con giòi đó to đùng béo mập mọng nước lại còn xoăn xoăn nữa chứ. Cháu đặt nó lên một cục đá rồi dùng một cục đá khác đập nó bẹp dí. Nó kêu chót một tiếng thiệt vui tai. Cháu tiếc là không có nhiều giòi hơn. Vườn của Dora gieo hạt cùng lúc vởi cháu, nhưng mấy thứ cây cỏ của nó mọc ngon lành. Vậy thì không thể do mặt trăng gây nên được,” Davy kết luận với vẻ trầm tư.
    “Bác Marilla, nhìn cây táo kia kìa,” Anne nói. “ôi, y hệt như người thật vậy. Nó đang vươn những cánh tay dài rón rén vén chiếc váy hồng lên khiến chúng ta ngắm nhìn một cách ngưỡng mộ.”
    “Những cây táo Nữ Công Tước Vàng luôn sai quả,” bà Marilla hài lòng nhận xét. “Cái cây đó năm nay sẽ lúc lỉu quả cho coi. Bác rất mừng... quả của nó làm bánh nướng ngon tuyệt.”
    Nhưng không có bất kỳ ai, kể cả bà Marilla và Anne có phúc được làm bánh nướng từ những trái táo Nữ Công Tước Vàng năm đó.
    Ngày hai mươi ba tháng Năm đã đến... một ngày ấm áp lạ thường, không ai nhận ra điều đó rõ ràng hơn Anne và đám học trò nhỏ đông đúc như một bầy ong của cô, bọn họ đổ mồ hôi nhễ nhại, tính toán, chia động từ trong phòng học Avonlea. Gió nóng hực thổi suốt buổi sáng, nhưng sau buổi trưa thì trời lặng gió, không khí nặng nề. Lúc ba giờ rưỡi, Anne nghe thấy tiếng sấm ì ầm. Cô lập tức cho nghỉ học để đám trẻ có thể về kịp nhà trước khi cơn bão tới.
    Khi họ đi ra sân chơi, Anne cảm nhận thấy bóng tối và bầu không khí ảm đạm bao trùm dẫu mặt trời vẫn đang chiếu sáng rực rỡ. Annetta Bell níu chặt tay cô vẻ lo lắng.
    “Ôi, cô giáo ơi, nhìn cái đám mây khủng khiếp kia kìa!”
    Anne nhìn theo và kêu lên hốt hoảng. Phía Tây Bắc, mây ùn ùn kéo tới, cả đời cô chưa từng thấy cảnh tượng như thế lần nào. Mây đen kìn kịt, viền xoắn lam nham ửng màu trắng lóa. Nó lan ra khắp bầu trời trong xanh, đem lại cảm giác đe dọa không diễn tả nổi. Thỉnh thoảng một tia chớp lóe sáng xuyên qua đám mây đen, kéo theo một tiếng gầm man rợ. Mây đen sà thấp xuống đến nỗi dường như chạm vào ngọn cây trên các đỉnh đồi.
    Ông Harmon Andrews đánh chiếc xe thùng của mình lách cách chạy lên đồi, thúc mấy con ngựa xám chạy hết tốc lực. Ông cho xe dừng lại ngay đối diện trường học.
    “Xem ra bác Abe cũng đoán trúng được một lần trong đời, Anne ạ,” ông gọi lớn. “Cơn bão của bác ấy tới sớm hơn dự đoán một chút. Cháu có bao giờ thấy đám mây nào như thế chưa? Này, mấy cậu bé cô bé, ai đi về hướng nhà tôi thì leo lên nào, số còn lại nếu nhà cách trường hơn một phần tư dặm thì chạy ngay vào bưu điện và ở trong đó cho đến khi tạnh mưa.”
    Anne nắm chặt tay của Davy và Dora rồi chạy như bay xuống đồi, băng qua lối Bạch Dương, thung lũng Tím và hồ Liễu Rủ với tốc độ nhanh nhất mà cặp chân bụ bẫm của hai đứa trẻ sinh đôi chịu nổi. Họ tới Chái Nhà Xanh vừa kịp lúc và gặp bà Marilla vừa chạy đến cửa, sau khi đã đuổi gà vịt vào nơi trú ẩn. Khi họ lao vào bếp thì ánh sáng đã tắt lịm như bị thổi bay đi; đám mây khủng khiếp che khuất mặt trời, bóng tối bao trùm khắp nơi như thể đang lúc chiều muộn. Vào đúng lúc đó, sau tiếng sấm vang rền và ánh chớp lóa mắt, những hạt mưa đá ào ào trút xuống, cơn cuồng nộ trắng xóa làm mờ hết cảnh vật.
    Trong cơn bão táp ầm ầm, lờ mờ nghe được tiếng cành gãy va vào nhà và tiếng kính vỡ chói tai. Trong vòng ba phút, tất cả kính cửa sổ ở phía Tây và phía Bắc đều vỡ tan, mưa đá ập vào qua lỗ hổng, phủ đầy sàn nhà, hạt nhỏ nhất cũng to bằng quả trứng gà. Suốt bốn mươi lăm phút, cơn bão thịnh nộ hoành hành liên tục, không ai từng trải qua có thể quên được nó. Lần đầu tiên trong đời, bà Marilla mất đi sự bình tĩnh thường ngày mà phát hoảng thực sự, bà quỳ xuống cạnh chiếc ghế bập bênh trong góc bếp, nức nở và thổn thức giữa những chuỗi tiếng sấm inh tai. Anne mặt trắng bệch, kéo chiếc xô pha ra xa cửa sổ rồi ngồi xuống ôm lấy hai đứa trẻ ở hai bên. Ngay tiếng sấm đầu tiên, Davy đã rú lên, “Cô Anne ơi, cô Anne ơi, có phải đây là Ngày Tận thế không? Cô Anne ơi, cô Anne ơi, cháu sẽ không bao giờ dám hư nữa,” rồi cứ vùi mặt vào lòng Anne, thân hình bé nhỏ run lên cầm cập. Dora mặt hơi tái một chút nhưng vẫn còn khá bình tĩnh, tay bíu chặt lấy tay Anne, lặng thinh bất động. Kể cả một cơn động đất cũng chưa chắc có thể lay động Dora.
    Thế rồi, cũng đột ngột như khi bắt đầu, cơn bão chấm dứt. Mưa đá tạnh hẳn, tiếng sấm lầm bầm lẩn về phía Đông, ánh mặt trời sáng rực vỡ òa chiếu rọi một khung cảnh đã đổi khác hẳn, thật không tin nỗi sự cải biến đó chỉ diễn ra trong vòng bốn mươi lăm phút ít ỏi.
    Bà Marilla chống gối đứng dậy, lả người run lẩy bẩy rồi ngồi phịch xuống ghế bập bênh của mình. Mặt bà xanh xao và trông bà như già thêm mười tuổi.
    “Chúng ta sống sót hết cả chứ?” bà nghiêm trang hỏi.
    “Hết chứ, cá luôn,” Davy vui vẻ đáp lời, giờ đã khá bình tĩnh lại. “Cháu chả sợ tí nào... chỉ hơi ớn một chút lúc đầu thôi. Nó đến bất ngờ quá. Cháu đã vội vàng quyết định sẽ không đánh thằng Teddy Sloane vào thứ Hai như đã hứa, nhưng giờ có lẽ cháu sẽ cứ tẩn nó thôi. Này, Dora, nói đi, em có sợ không?”
    “Vâng, em có sợ một chút,” Dora nghiêm túc đáp, “nhưng em nắm chặt tay cô Anne và lặp đi lặp lại lời cầu nguyện.”
    “Ồ, anh chắc cũng sẽ cầu nguyện nếu nhớ ra,” Davy nói, “nhưng,” nó đắc thắng thêm vào, “em thấy đó, anh cũng thoát thân an toàn như em dẫu chẳng hề cầu nguyện tí nào.”
    Anne rót cho bà Marilla một ly rượu phúc bồn tử cực mạnh... món rượu ấy mạnh thế nào thì hồi nhỏ Anne đã có cơ hội nếm thử... rồi mọi người bước ra cửa để nhìn quang cảnh kỳ lạ trước mắt.
    Một tấm thảm trắng rộng mênh mông toàn là tinh thể đá sâu đến đầu gối, đá chất đống dưới mái hiên và trên bậc thềm. Ba bốn ngày sau, khi những hạt mưa đá tan chảy, sự tàn phá chúng gây ra có thể nhìn thấy rõ ràng, bởi bất cứ cành cây ngọn cỏ nào trong vườn hay ngoài đồng đều bị đánh bẹp. Trên những cây táo, chẳng những không còn bông hoa nào mà cành cây tán lá đều bị bẻ gãy. Và toàn bộ hai trăm cây non do các Cải tiến viên trồng đều bị bật gốc hay nát tan từng mảnh.
    “Chẳng lẽ đây chính là thế giới cách đây một tiếng đồng hồ trước hay sao?” Anne ngây người. “Tàn phá nhiều đến vậy phải tốn nhiều thời gian hơn chứ.”
    “Cơn bão lớn thế này chưa từng xảy ra ở đảo Hoàng Tử Edward,” bà Marilla nói, “chưa bao giờ. Bác nhớ khi bác còn nhỏ cũng có một trận bão tệ hại, nhưng chẳng đáng gì so với lần này. Chúng ta sẽ nghe được nhiều vụ thiệt hại khủng khiếp đây, cháu cứ chắc chắn là như thế đi.”
    “Cháu thực sự hy vọng sẽ không có đứa trẻ nào bị kẹt lại trong cơn bão,” Anne lo lắng lẩm bẩm. Sau đó, cô được biết không có đứa trẻ nào xảy ra chuyện, vì những đứa ở xa trường đều nghe theo lời khuyên khôn ngoan của ông Andrews mà lánh nạn trong bưu điện.
    “John Henry Carter đến kìa,” bà Marilla nói.
    John Henry lội qua những hạt mưa đá, miệng cười nhăn nhưng vẫn đượm vẻ sợ hãi.
    “Ôi, thật khủng khiếp quá phải không, bác Cuthbert? Ông Harrison bảo cháu sang đây xem mọi người có ổn không.”
    “Không có ai chết cả,” bà Marilla u ám đáp, “Và không nhà chính nhà phụ nào bị sét đánh cả. Tôi hy vọng bên ấy cũng được như vậy.”
    “Ồ bác ơi, không được tốt vậy đâu ạ. Bên nhà cháu bị sét đánh trúng. Tia sét đánh gãy ống khói nhà bếp, xuyên xuống hất đổ lồng của Gừng, xoáy một lỗ sâu trên sàn tới tận tầng hầm. Chính thế đấy bác ạ.”
    “Gừng có sao không?” Anne hỏi.
    “Thưa cô. Nó bị thương rất nặng. Chết toi rồi.”
    Lát sau, Anne đi sang an ủi ông Harrison. Cô thấy ông ngồi bên bàn, run rẩy vuốt ve xác của Gừng.
    “Gừng đáng thương sẽ không mắng cháu nữa đâu, Anne ạ,” ông buồn bã thốt.
    Anne không bao giờ có thể tưởng tượng ra mình sẽ khóc vì Gừng, nhưng nước mắt của cô chợt ứa ra.
    “Nó là bầu bạn duy nhất của tôi, Anne ạ... vậy mà giờ nó chết rồi. ôi, ôi, tôi đúng là một lão già ngốc khi buồn đau như thế. Tôi sẽ tỏ vẻ chẳng quan tâm gì. Tôi biết cháu sẽ nói vài lời an ủi ngay khi tôi câm miệng lại... nhưng đừng nhé. Nếu cháu làm thế thì tôi sẽ òa lên khóc như một đứa bé mất. Cơn bão này thật khủng khiếp phải không? Tôi đoán mọi người sẽ không dám chê cười những lời tiên đoán của bác Abe nữa. Dường như mọi cơn bão không-xảy-ra mà ông ta từng tiên đoán cả đời mình đã đồng loạt ập tới. Thật không ngờ nó lại diễn ra đúng boong ngày luôn, phải không? Nhìn cái đống hỗn độn mà chúng ta phải chịu này. Tôi phải nhanh chân kiếm vài tấm ván lấp cái lỗ trên sàn thôi.”
    Ngày hôm sau, người dân Avonlea chẳng làm gì khác ngoại trừ đi thăm viếng lẫn nhau và so sánh mức độ thiệt hại. Xe ngựa không chạy được vì đá chắn đường, vì vậy họ phải đi bộ hay cưỡi ngựa. Thư từ đến trễ với đủ mọi tin xấu từ khắp tỉnh. Nhà bị sét đánh, người chết và bị thương, hệ thống điện thoại và điện tín hỗn loạn, những gia súc nhỏ thả ngoài đồng đều chết sạch.
    Sáng sớm hôm sau, bác Abe lội ra lò rèn, vào và ở đó cả ngày. Đó là giây phút chiến thắng của bác ta và bác ta tha hồ mà tận hưởng. Nói bác ta vui vì cơn bão đã xảy ra là sai, nhưng dù gì cơn bão cũng đã diễn ra, nên bác ta vui vì đã dự đoán đúng... ngày cũng chính xác nữa. Bác Abe quên mất là mình từng phủ nhận ngày cụ thể diễn ra cơn bão. Còn chênh lệch vài giờ đồng hồ thì chẳng đáng gì.
    Tối hôm đó, Gilbert ghé qua Chái Nhà Xanh thấy bà Marilla cùng Anne đang bận bịu đóng đinh vải dâu lên các ô cửa sổ vỡ.
    “Có trời mới biết chừng nào chúng ta mới mua được kính thay,” bà Marilla nói. “Trưa nay ông Barry đi Carmody nhưng chẳng kiếm được một mảnh kính nào dù trả giá bao nhiêu. Tiệm Lawson và Blair đã bị dân Carmody vét sạch từ mười giờ. ở White Sands cơn bão có khủng khiếp lắm không, Gilbert?”
    “Phải nói là có. Cháu bị kẹt lại trường với đám học trò, và cháu nghĩ một vài đứa sợ đến mất trí. Ba đứa ngất xỉu, hai cô bé lên cơn kích động và Tommy Blewett gân cổ rú lên suốt thời gian cơn bão diễn ra.”
    “Cháu chỉ hét có mỗi một tiếng,” Davy tự hào. “Khu vườn của cháu nát bấy cả,” nó buồn bã thốt, “nhưng vườn của Dora cũng thế,” nó thêm vào với giọng trong rủi cũng có may.
    Anne chạy xuống từ chái Tây.
    “Ôi, Gilbert, cậu có nghe tin chưa? Ngôi nhà cũ của ông Levi Boulter bị sét đánh trúng cháy rụi rồi. Tớ cảm thấy mình thật chẳng ra sao khi vui vì điều đó, khi mà khắp nơi bị thiệt hại đến vậy. Ông Boulter nói rằng Hội Cải tạo đã cố ý phù phép ra cơn bão này.”
    “Ồ, có một chuyện hoàn toàn chắc chắn,” Gilbert phá lên cười, “ 'Người quan sát' đã khiến danh tiếng nhà tiên tri thời tiết Abe nổi như cồn. 'Cơn bão của bác Abe' sẽ được ghi vào lịch sử địa phương. Đúng là một sự trùng hợp khác thường, nó xảy ra đúng vào ngày chúng ta đã chọn. Thực sự tớ có cảm giác hơi tội lỗi, cứ như là tớ 'phù phép' gọi nó vậy. Dù sao thì chúng ta cứ vui vẻ vì căn nhà cũ đó bị xóa bỏ đi, bởi chẳng có mấy chuyện để mà vui vẻ nữa, nhất là liên quan đến mấy cái cây non. Chưa tới mười cây còn sống sót.”
    “À, chúng ta sẽ phải trồng lại từ đầu vào mùa xuân tới thôi,” Anne nói vẻ đầy tư lự. “Đó là một trong những điểm tốt của thế giới này... chắc chắn sẽ luôn có thêm nhiều mùa xuân nữa.”

  7. #26
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 25 - VỤ BÊ BỐI Ở AVONLEA
    Một sáng tháng Sáu tươi đẹp nọ, hai tuần sau cơn bão của bác Abe, Anne từ vườn chầm chậm đi xuyên qua sân trước Chái Nhà Xanh, tay cầm hai cành thủy tiên trắng ẽo ợt.
    “Nhìn này, bác Marilla,” cô buồn bã thốt, giơ hai cành hoa lên trước mặt một bà đeo tạp dề vải bông kẻ ô xanh, vẻ mặt nghiêm nghị, tóc cuộn, đang đi vào nhà tay cầm một con gà đã nhổ sạch lông, “chúng là những nụ hoa duy nhất mà cơn bão bỏ qua... nhưng đến cả chúng cũng không hoàn hảo nữa. Cháu buồn quá... cháu muốn đặt hoa lên mộ bác Matthew. Bác ấy lúc nào cũng thích hoa loa kèn tháng Sáu cả.”
    “Ta cũng thấy hơi nhơ nhớ mấy bông hoa,” bà Marilla thú nhận, “dù thương xót hoa hoét như thế thì thật không nên không phải khi có quá nhiều chuyện tồi tệ hơn xảy ra... trái cây lẫn hoa màu đều bị hư hỏng hết cả.”
    “Nhưng mọi người đã bắt đầu gieo hạt lại,” Anne an ủi, “và ông Harrison nói nếu mùa hè thời tiết tốt thì hạt giống sẽ nảy mầm thôi mặc dù có muộn một chút. Và mấy cái cây thường niên của cháu lại nhú mầm lên lại... nhưng chao ôi, chẳng gì có thể thay thế những đóa loa kèn tháng Sáu. Hester Grey bé bỏng đáng thương cũng chẳng có đóa hoa nào. Tối qua cháu đi đến tận vườn của cô ấy, nhưng hoa đều bị hư hết cả. Chắc cô ấy sẽ nhớ chúng lắm.”
    “Ta cho rằng cháu không nên nói những điều như thế, Anne ạ, thực sự là không nên,” bà Marilla nghiêm khắc. “Hester Gray đã chết ba mươi năm nay rồi, và linh hồn cô ta đang ở trên thiên đường... ta hy vọng thế.”
    “Vâng, nhưng cháu tin cô ấy vẫn yêu thương nhớ nhung khu vườn của mình ở đây,” Anne nói. “Cháu dám chắc dẫu cháu có sống bao lâu trên thiên đường đi nữa, cháu vẫn sẽ thích nhìn xuống xem xem có ai đặt hoa lên mộ mình không. Nếu cháu có riêng một khu vườn như Hester Gray thì chắc phải mất hơn ba mươi năm trời, dẫu là đang ở thiên đường, mới có thể phù phép làm cháu khuây khỏa nỗi nhớ nhung nó.”
    “Trời ơi, đừng để hai đứa trẻ sinh đôi nghe cháu nói chuyện như thế,” bà Marilla phản đối một cách yếu ớt rồi đem gà vào trong nhà.
    Anne gắn bông thủy tiên lên tóc rồi đi ra cổng, cô đứng đó một lúc tắm mình trong ánh nắng tháng Sáu rực rỡ trước khi tất tả đi làm những công việc sáng thứ Bảy của mình, cảnh sắc đang dần tươi đẹp trở lại, mẹ thiên nhiên đang làm hết sức để gỡ bỏ dấu vết của cơn bão, và dẫu trong nhiều tháng tới việc đó vẫn chưa thể hoàn thành, kết quả đạt được lúc này cũng hết sức ấn tượng.
    “Ta ước gì được rảnh rỗi nguyên ngày hôm nay,” Anne nói với chú chim sơn ca đang líu lo trên cành liễu, “nhưng một cô giáo làng đang có trách nhiệm phụ giúp nuôi lớn hai đứa trẻ sinh đôi thì không thể đắm mình trong sự lười nhác được, chim cưng à. Giọng hát của mi ngọt ngào quá, chú chim bé nhỏ. Mi đưa mọi cảm xúc của trái tim ta vào bài hát còn thuần thục hơn cả ta nữa. Ồ, ai đang đến thế nhỉ?”
    Một chiếc xe ngựa tốc hành đang lóc cóc chạy ngược con đường, hai người ngồi ở ghế trước và một cái hòm lớn đằng sau. Khi nó chạy lại gầnr Anne nhận ra người đánh xe là con ông quản lý trạm xe lửa ở Bright River, nhưng người đồng hành thì không biết là ai... một bóng phụ nữ nhanh chóng nhảy xuống trước cổng khi ngựa còn chưa kịp dừng lại hẳn. Bà là một phụ nữ nhỏ bé xinh đẹp, tuổi rõ ràng là gần năm mươi hơn là bốn mươi, nhưng má đỏ hồng, mắt đen lay láy, tóc đen óng ả, đầu đội chiếc mũ đính hoa và lông chim xinh hết chỗ nói. Mặc dầu đi xe dọc đoạn đường bụi bặm dài gần tám dặm, nhìn bà vẫn gọn gàng tề chỉnh cứ y như vừa bước ra khỏi hộp quà.
    “Đây có phải là nơi ông James A. Harrison sống không?” bà hỏi nhanh.
    “Không, ông Harrison sống ở đằng kia,” Anne ngẩnngười ngạc nhiên.
    “Ồ, tôi đã nghĩ rằng nơi này quá sạch sẽ mà... quá sạch nên không thể là nơi ở của James A., trừ phi ông ta đã thay đổi chóng mặt kể từ lần cuối tôi gặp,” quý bà nhỏ nhắn ríu ran. “Có phải James A. sắp cưới một phụ nữ nào đó sống ở vùng này không?”
    “Không, không đâu,” Anne kêu lên, đỏ bừng mặt vẻ hối lỗi khi thấy người phụ nữ lạ mặt này tò mò nhìn mình, cứ như bà ta nghi ngờ rằng cô có ý đồ hôn nhân gì đó với ông Harrison vậy.
    “Nhưng tôi đọc thấy vậy trên một tờ báo của đảo mà,” quý bà xinh đẹp lạ mặt khăng khăng. “Một người bạn gửi một bản có đánh dấu cho tôi... bạn bè lúc nào cũng sẵng sàng làm những việc kiểu ấy. Tên của James A. được viết ngay phía trên 'công dân mới.’”
    “Ồ, mẩu tin ấy chỉ là để đùa thôi,” Anne nghẹn lời kinh ngạc. “Ông Harrison không có ý định kết hôn với bất cứ ai cả. Cháu đảm bảo với bác như thế.”
    “Tôi rất vui khi biết thế,” quý bà hồng hào đáp, thoăn thoắt leo lên chỗ của mình trên xe ngựa, “bởi vì ông ta lỡ lập gia đình trước rồi. Tôi là vợ của ông ta. Ồ, cô cứ tự nhiên mà lộ vẻ ngạc nhiên đi. Tôi cho rằng ông ta đã giả danh là một người độc thân và làm hàng đống trái tim tan vỡ đây. Hừ hừ, James A.” bà gục gặc đầu về căn nhà trắng dài ở bên kia cánh đồng, “trò vui của ông đã kết thúc rồi. Tôi đã đến đây... dẫu tôi chẳng định đến làm gì cho phiền nếu không nghĩ rằng ông đang giở trò quỷ quái. Tôi cho rằng,” bà quay sang Anne, “cái con vẹt của ông ta vẫn láo toét như thường lệ, phải không?”
    “Con vẹt của ông ấy... đã chết... hình như thế,” Anne lắp bắp, lúc này đến tên mình là gì cô còn không chắc nữa là.
    “Chết! Vậy thì mọi việc sẽ ổn thỏa thôi,” quý bà hồng hào reo lên vui sướng. “Tôi có thể xử lý James A. nếu con chim đó khuất mắt tôi.”
    Nói xong những lời bí ẩn như vậy, bà vui vẻ tiếp tục lên đường còn Anne chạy ngay tới cửa bếp để tìm bà Marilla.
    “Anne, người phụ nữ đó là ai vậy?”
    “Bác Marilla,” Anne long trọng nói nhưng ánh mắt lộ vẻ tinh nghịch, “trông cháu có giống như đang phát điên không?”
    “Cũng chẳng điên hơn thường ngày bao nhiêu,” bà Marilla nói, nhưng chẳng có ý châm biếm nào.
    “Ồ, vậy thì bác nghĩ cháu có tỉnh táo không?”
    “Anne, cháu lại nói nhảm gì thế? Ta hỏi là người phụ nữ đó là ai?”
    “Bác Marilla, nếu cháu không điên và không ngủ say, vậy thì bà ấy không phải xuất hiện trong giấc mơ của cháu... bà ấy là người thực. Dù sao chăng nữa, cháu chắc chắn mình không thể tưởng tượng ra một cái mũ như thế. Bà ấy nói mình là vợ ông Harrison, bác Marilla ạ.”
    Đến phiên Marilla sững sờ nhìn cô.
    “Vợ ông ta! Anne Shirley! Vậy thì ông ta giả vờ độc thân để làm quái gì?”
    “Thực ra cháu không cho rằng ông ấy cố ý làm thế,” Anne cố đánh giá công bằng, “ông ấy chả bao giờ nói là mình chưa lập gia đình. Mọi người chỉ mặc định thế thôi. Ôi bác Marilla, bà Lynde sẽ nói thế nào về chuyện này đây?”
    Họ biết được bà Lynde đã nói gì khi bà ghé thăm vào chiều hôm đó. Bà Lynde thậm chí cũng không ngạc nhiên nữa! Bà Lynde lúc nào cũng trông chờ một điều gì đó tương tự! Bà Lynde luôn biết có điều gì đó không ổn ở ông Harrison!
    “Ai mà ngờ là ông ta bỏ rơi vợ chứ!” bà phẫn nộ. “Cứ như chuyện trong mấy tờ báo bên Mỹ vậy, nhưng ai ngờ lại xảy ra ở ngay Avonlea này?”
    “Nhưng chúng ta đâu có chắc là ông ấy đã bỏ rơi vợ,” Anne phản đối, kiên quyết tin tưởng sự vô tội của bạnmình khi chưa có bằng chứng xác thực. “Chúng ta còn không biết chuyện xảy ra thế nào nữa là.”
    “Ồ, sẽ sớm biết thôi. Tôi đi thẳng qua bên đó đây,” trong từ điển của bà Lynde chẳng có từ “tế nhị”. “Cứ cho là tôi chẳng biết gì về chuyện bà ta đến, và hôm nay ông Harrison có đem vài loại thuốc từ Carmody về cho Thomas, cho nên đó là một lý do tốt để ghé qua. Tôi sẽ tìm hiểu đầu đuôi câu chuyện rồi kể lại với cả nhà trên đường về.”
    Bà Lynde hấp tấp đến nơi mà Anne ngại ngần không dám đặt chân vào. Chẳng có gì có thể khiến cô ghé qua nhà ông Harrison bây giờ, nhưng dù sao thì cô cũng có tính tò mò bẩm sinh kha khá, và cô mừng thầm rằng bà Lynde sẽ lần ra manh mối của vụ bí ẩn này. Cô và bà Marilla bồn chồn chờ đợi bà Lynde quay về, nhưng đợi mãi mà chẳng có ai. Tối đó bà Lynde không ghé qua Chái Nhà Xanh như đã hứa. Lúc chín giờ, Davy từ nhà Boulter về, đã cho họ biết lý do.
    “Cháu gặp bà Lynde và một phụ nữ lạ mặt ở dưới thung lũng,” nó giải thích. Và trời ơi, cứ nhìn hai người họ nói chuyện cùng lúc xem! Bà Lynde bảo cháu nói với mọi người bà ấy xin lỗi vì đã quá muộn nên không thể ghé qua. Anne, cháu đói khủng khiếp. Bọn cháu dùng trà ở nhà Milty lúc bốn giờ, và cháu nghĩ bà Boulter thật là keo kiệt. Bà ta chẳng cho cháu chút mứt hay bánh ngọt nào... đến bánh mì còn khô nữa là.”
    “Davy, khi đến chơi nhà người khác thì không được chê bai đồ ăn người ta mời,” Anne nghiêm giọng. “Cư xử như vậy không hay chút nào.”
    “Được rồi... cháu chỉ nghĩ thôi chứ không nói nữa,” Davy vui vẻ thốt. “Nhưng hãy cho cậu bé này ăn chút gì đi, cô Anne ơi.”
    Anne nhìn sang bà Marilla, bà đã theo cô vào phòng lương thực và cẩn thận đóng cửa lại.
    “Cháu phết ít mứt lên bánh mì của nó đi, bác biết bữa trà ở nhà Levi Boulter là như thế nào rồi.”
    Davy cầm lát bánh mì phết mứt của mình rồi thở dài.
    “Xét cho cùng thế giới này cũng khá là đáng chán,” nó nhận xét. “Milty có một con mèo hay ngất xỉu... nó ngất xỉu đều đặn mỗi ngày suốt ba tuần liên. Milty nói nhìn nó tức cười khủng khiếp. Hôm nay cháu cố ý xuống để xem nó ngất xỉu, nhưng cái đồ mèo già nhỏ nhen ấy chẳng chịu ngất xỉu gì cả mà cứ khỏe như vâm, dẫu Milty và cháu lẩn quẩn quanh nó chờ đợi suốt cả buổi chiều. Nhưng chẳng sao”... Davy tươi hẳn nét mặt khi được món mứt mận tuyệt vời xoa dịu linh hồn đang đói khát của mình... “có lẽ cháu sẽ xem được vào dịp nào đó. Chẳng có lý nào nó thôi không ngất xỉu hẳn khi đã có thói quen làm vậy lâu rồi, phải không? Món mứt này ngon khủng khiếp.”
    Chẳng có nỗi buồn nào của Davy mà món mứt mận không chữa được.
    Ngày Chủ nhật trời mưa tầm tã đến mức chẳng thò chân ra ngoài được, nhưng đến thứ Hai thì mọi người đều nghe được một phiên bản nào đó của câu chuyện gia đình Harrison. Tin đồn rì rầm lan truyền trong trường học, Davy về nhà với hàng đống tin tức mới.
    “Bà Marilla, ông Harrison có một bà vợ mới... à, không hẳn là mới, nhưng họ đã ngừng kết hôn trong một thời gian dài, Milty nói vậy đó. Cháu luôn nghĩ rằng người ta phải giữ cuộc hôn nhân đến cùng khi đã lỡ bắt đầu, nhưng Milty nói không phải vậy, có nhiều cách chấm dứt kết hôn nếu hai bên không thống nhất được ý kiến. Milty nói một trong những cách đó là cứ bỏ ra ngoài để vợ ở lại nhà, và ông Harrison đã làm như vậy. Milty nói ông Harrison bỏ vợ vì bà ấy ném đồ đạc vào người mình... những vật cứng ấy... và Arty Sloane nói lý do là vì bà ấy không cho ông ấy hút thuốc, còn Ned Clay nói là vì bà ấy cứ quở trách ông ấy liên tục. Cháu sẽ không đời nào để vợ của cháu làm những chuyện như thế. Cháu sẽ kiên quyết phản đối, và nói rằng, 'Bà Davy, bà phải làm theo ý của tôi, bởi vì tôi là đàn ông.' Khi ấy cô nàng sẽ ngoan ngoãn hẳn, cháu chắc thế. Nhưng Annetta Clay lại nói bà ấy bỏ ông ấy vì ông ấy không chịu chùi chân trước khi vào nhà, và nó hoàn toàn không trách bà ấy. Cháu sẽ sang nhà ông Harrison ngay bây giờ để xem bà ấy là người thế nào.”
    Davy mau chóng quay lại, có chút tiu nghỉu.
    “Bà Harrison không có nhà... bà ấy đi Carmody với bà Rachel Lynde để mua giấy dán tường mới cho phòng khách. Và ông Harrison dặn cháu bảo côAnnesang gặp vì ông ấy muốn nói chuyện với cô Anne. Cho mọi người biết nhé, sàn nhà được chùi sạch, ông Harrison cũng cạo râu đàng hoàng, dẫu hôm qua không phải đi lễ.”
    Căn bếp nhà Harrison nhìn hoàn toàn xa lạ với Anne. Quả thật, sàn nhà sạch như li như lau, và mọi đồ đạc trong phòng cũng y như thế, bếp lò được đánh bóng đến mức có thể soi gương được, tường quét vôi trắng và kính cửa sổ lấp lánh trong ánh nắng, ông Harrison bận bộ đồ lao động ngồi bên bàn, hôm thứ Sáu bộ quần áo đó vẫn còn rách rưới te tua, nhưng giờ nó đã được vá víu và ủi phẳng. Mày râu ông nhằn nhụi, túm tóc ít ỏi còn lại cũng được tỉa tót cẩn thận.
    “Ngồi xuống đi, Anne, ngồi xuống đi,” ông Harrison nói với giọng hơi giống giọng người Avonlea chuyên dùng trong những dịp tang lễ. “Emily đã đi Carmodỵ với Rachel Lynde... bà ấy và Rachel Lynde đã trở thành bạn chí cốt rồi. Đúng là phụ nữ thật là trái ngược. Ôi, Anne, thời gian dễ chịu của tôi đã hết rồi... hết thực rồi. Phải sống ngăn nắp và sạch sẽ cho đến cuối cuộc đời, chắc là thế.”
    Ông Harrison cố hết sức để giữ giọng u sầu hết mức có thể, nhưng ánh mắt lấp lánh không thể che giấu được đã phản bội ông.
    “Ông Harrison, ông rất vui vì vợ mình quay lại,” Anne kêu lên, lúc lắc ngón tay trước mặt ông. “ông không cần giả vờ ngược lại đâu, vì cháu thấy rõ mồn một mà.”
    Ông Harrison mặt giãn ra và nở một nụ cười bẽn lẽn.
    “À... ừ... thì tôi cũng đang quen dần thôi,” ông thừa nhận. “Không thể nói là tôi không vui khi gặp lại Emily. Một người đàn ông cần phải có ai đó bảo vệ trong một cộng đồng như thế này, nơi ông ta chẳng thể sang chơi cờ với hàng xóm mà không bị buộc tội là đang đi tán tỉnh em gái hàng xóm và còn bị đăng lên báo nữa chứ.”
    “Chẳng ai nghi ngờ bác đi tán tỉnh Isabella Andrews nếu bác không giả vờ là mình còn độc thân đâu,” Anne nghiêm khắc trách cứ.
    “Tôi có giả vờ đâu. Nếu có ai hỏi thì tôi sẽ trả lời ngay là mình đã lập gia đình. Nhưng mọi người cứ cho chuyện tôi độc thân là đương nhiên. Tôi chẳng mấy hào hứng muốn nói về việc này... tôi vẫn còn chua chát lắm. Bà Rachel Lynde chắc sẽ sướng đến phát điên nếu biết vợ tôi đã bỏ tôi, có phải thế không?”
    “Nhưng có người nói ông đã bỏ bà ấy.”
    “Bà ấy bắt đầu trước, Anne ạ, bà ấy bắt đầu trước. Tôi sẽ kể cho cháu nghe toàn bộ câu chuyện, vì tôi không muốn cháu suy nghĩ xấu về tôi hơn mức tôi đáng nhận... và cả về Emily nữa. Nhưng chúng ta hãy đi ra hàng hiên đi. ở đây mọi thứ ngăn nắp phát sợ, đến mức làm tôi cảm thấy lạc lõng. Chắc một thời gian nữa tôi sẽ quen dần, nhưng nhìn ra sân khiến tôi dễ thở hơn. Emily chưa có thời gian dọn dẹp cái sân.”
    Ngay khi họ thoải mái ngồi xuống ghế ở hàng hiên, ông Harrison bắt đầu câu chuyện buồn của mình.
    “Tôi sống ở Scottsford, New Brunswick trước khi đến đây, Anne ạ. Chị tôi coi sóc nhà cửa cho tôi và chị ấy rất hợp với tôi, chị ấy chỉ sạch sẽ ở mức vừa phải, để tôi yên và chiều chuộng tôi quá đáng... Emily nói thế đấy. Nhưng chị ấy qua đời ba năm trước. Trước khi qua đời, chị ấy rất lo lắng về sau tôi sẽ thế nào và cuối cùng đã bắt tôi hứa là sẽ lập gia đình. Chị ấy khuyên tôi nên hỏi cưới Emily Scott vì Emily có thu nhập riêng và là một bà nội trợ mẫu mực. Tôi đã nói, 'Emily Scott không thèm để mắt đến em đâu.’’Em cứ hỏi đi rồi biết,’ chị tôi bảo thế, và để chị yên tâm tôi đã hứa sẽ hỏi. Và tôi đã làm thế thật. Và Emily bảo rằng bà ấy chịu lấy tôi. Chưa bao giờ tôi ngạc nhiên đến thế, Anne ạ... một phụ nữ bé nhỏ xinh đẹp thông minh như bà ấy và một lão già như tôi. Nói cho cháu biết, ban đầu tôi nghĩ mình thật may mắn. À, chúng tôi cưới nhau, đi nghỉ hai tuần ở St. John rồi về nhà. Chúng tôi về đến nhà lúc mười giờ tối, và tôi thề với cháu, Anne ạ, chỉ sau nửa tiếng, bà ấy đã bắt đầu dọn dẹp nhà cửa. ôi, tôi biết cháu đang nghĩ nhà tôi cần được dọn dẹp... cháu có khuôn mặt rất biểu cảm, Anne ạ, mọi suy nghĩ của cháu hiện rõ mồn một ấy... nhưng nhà tôi không đến nỗi tệ thế. Tôi phải thú nhận là nó khá bừa bãi khi tôi sống có một mình, nhưng trước đám cưới tôi có nhờ một bà đến dọn dẹp và còn sơn sửa lại đáng kể nữa. Tôi nói cho cháu biết, nếu cháu dẫn Emily vào một tòa lâu đài cẩm thạch trắng mới tinh, bà ấy sẽ bắt tay lau chùi ngay sau khi tìm được một chiếc váy cũ để mặc. À, bà ấy lau chùi căn nhà tới tận một giờ đêm, và bốn giờ sáng bà ấy thức dậy để lau chùi tiếp. Và bà ấy cứ tiếp tục như thế... tôi chẳng thấy bà ấy dừng tay bao giờ cả. Lúc nào cũng chà, quét, phủi bụi, ngoại trừ Chủ nhật, vào Chủ nhật thì bà ấy chỉ mong mỏi mau đến thứ Hai để bắt tay làm tiếp. Nhưng đó là cách giải trí của bà ấy, và tôi cũng sẽ chiều theo nếu bà ấy để tôi yên. Nhưng bà ấy chẳng dễ thế. Bà ấy quyết tâm cải tạo tôi, nhưng tiếc là bà ấy không tóm được tôi khi tôi còn đủ trẻ. Tôi không được phép bước vào nhà trừ phi thay đôi bốt ra và mang đôi dép đặt sẵn ở cửa vào. Tôi chẳng dám hút lấy một điếu thuốc trừ phi chui vào kho. Và tôi nói chuyện không đúng ngữ pháp như bà ấy muốn. Hồi trẻ Emily từng là cô giáo làng, vậy nên bà ấy không tài nào chấp nhận được cách nói sai ngữ pháp. Rồi bà ấy ghét cái kiểu ăn bằng dao của tôi. Vâng, cứ thế đấy, cằn nhằn càu nhàu mãi không dứt. Nhưng Anne ạ, nói cho cùng, tôi cho rằng mình cũng thuộc loại quạu quọ khó ưa. Tôi không cố cải thiện hành vi như lẽ ra tôi có thể làm... Tôi chỉ phát cáu và bực bội mỗi khi bị bà ấy bới móc. Một ngày nọ, tôi nói với bà ấy là khi tôi cầu hôn thì bà ấy có chê tôi nói không đúng ngữ pháp đâu. Đó không phải là một lời nói khéo léo cho lắm. Một phụ nữ sẽ dễ tha thứ cho một người đàn ông đánh vợ hơn là kẻ dám ám chỉ rằng mình quá hăng hái muốn lấy chồng, ôi, chúng tôi cứ cãi cọ qua lại như thế và mọi chuyện không hẳn dễ chịu cho lắm, nhưng có thể chúng tôi sẽ chấp nhận nhau sau một thời gian ngắn nếu không có Gừng. Gừng chính là giọt nước làm tràn ly. Emily không thích vẹt và càng không chịu nổi cách nói chuyện thô tục của nó. Tôi thì thương con chim vì ông anh thủy thủ của mình, ông anh thủy thủ rất thân với tôi khi chúng tôi còn bé xíu, và anh ấy gửi Gừng cho tôi khi anh ấy đang hấp hối. Tôi thấy chả việc gì phải nóng máu vì thói chửi thề của nó. Tôi ghét nhất cái thói hỗn xược ở con người, nhưng bọn vẹt thì chỉ lặp lại những gì chúng nghe mà chẳng hiểu tí gì, cũng như tôi chẳng hiểu tiếng Tàu vậy, nên có thể thông cảm được. Nhưng Emily không chịu nhìn nhận như thế. Phụ nữ chẳng có lý chút nào. Bà ấy cố bắt Gừng không được chửi bậy, nhưng chẳng thành công lắm, cũng như khi bắt tôi không được nói là 'tôi tháy’ hay 'cái lũ chúng nó'. Dường như bà ấy càng cố thì Gừng càng tồi tệ, tôi cũng thế.
    “Ôi, chuyện cứ tiếp diễn như thế, cả hai chúng tôi càng lúc càng gay gắt hơn, cho đến đỉnh điểm. Emily mời vợ chồng mục sư chỗ chúng tôi cùng vợ chồng một mục sư khác đang ở chơi nhà họ đến dùng trà. Tôi hứa là sẽ nhốt Gừng vào một góc khuất để không ai nghe thấy tiếng của nó... Emily chẳng bao giờ chịu chạm vào cái lồng dù có cách nó chừng chục bước... tôi định sẽ làm theo, vì tôi không muốn các vị mục sư nghe những lời khó chịu trong nhà mình. Nhưng tôi quên khuấy mất... Emily giày vò tôi quá nhiều về cổ áo sạch với lại ngữ pháp nên tôi có quên vài chuyện cũng chẳng có gì lạ... và tôi chẳng nhớ gì đến con vẹt đáng thương ấy cho đến khi ngồi vào bàn. Ngay khi mục sư số một đang nói lời cầu nguyện, Gừng ở hàng hiên bên ngoài cửa sổ phòng ăn bắt đầu cất giọng. Một con gà tây vừa bước vào sân, mà cứ thấy gà tây là Gừng lại phản ứng tồi tệ. Lần đó nó xuất sắc hơn hẳn ngày thường. Cháu cứ cười đi, Anne, và tôi không phủ nhận mình cũng cười khùng khục sau này khi nhớ lại, nhưng lúc ấy thì tôi thấy xấu hổ chẳng kém gì Emily. Tôi chạy ra đem Gừng vào chuồng bò. Tôi ăn không ngon miệng nữa. Nhìn Emily tôi biết ngay Gừng và James A. sắp gặp rắc rối to rồi. Khi khách khứa ra về, tôi đi ra đồng cỏ chăn bò, và trên đường đi, tôi suy nghĩ dữ lắm. Tôi cảm thấy tội cho Emily và cho rằng mình không thông cảm với bà ấy như đáng ra phải thế; ngoài ra, tôi còn lo không biết các mục sư có cho rằng Gừng học mấy lời chợ búa ấy từ tôi hay không. Nghĩ tới nghĩ lui, tôi quyết định tốt nhất là nên tống khứ Gừng đi, và khi đưa bò về nhà, tôi bước vào định nói với Emily như vậy. Nhưng bà ấy không ở nhà, và trên bàn có một lá thư... y chang như trong truyện vậy. Emily viết rằng tôi phải chọn giữa bà ấy và Gừng, bà ấy quay về nhà mình và ở nguyên đấy cho tới khi tôi đến đón và bảo với bà ấy là tôi đã tống khứ con vẹt đi.
    “Tôi tức điên lên, Anne ạ, tôi nói bà ấy cứ ở đó mà chờ cho tới ngày tận thế đi, và tôi cứ kiên quyết tới cùng như thế. Tôi dọn đồ của bà ấy và gửi hết sang cho bà ấy. Chuyện đó khiến mọi người bàn tán phát khiếp lên được... Scottsford cũng bà tám y hệt như Avonlea này vậy... và mọi người đều thông cảm với Emily. Điều đó làm tôi quạu quọ khó chịu, và tôi thấy rằng mình phải đi thôi nếu muốn yên thân. Tôi quyết định ra đảo. Hồi còn nhỏ tôi từng đến đây và thích vùng này, nhưng Emily lúc nào cũng nói rằng bà ấy sẽ không sống ở một nơi mà người dân không dám bước ra khỏi nhà vào buổi tối vì sợ té xuống nước. Thế là,để làm trái ý bà ấy, tôi chuyển tới đây. Và đó là toàn bộ câu chuyện. Tôi không biết tí tin tức gì về Emily cho đến khi tôi từ cánh đồng phía sau về nhà hôm thứ Bảy thì thấy bà ấy đang cọ sàn, nhưng trên bàn có bữa trưa ngon lành đầu tiên mà tôi có được từ khi bà ấy bỏ đi. Bà ấy bảo tôi cứ ăn đi rồi nói chuyện... do đó tôi kết luận rằng Emily đã học được cách sống hòa hợp với một người đàn ông. Thế là bà ấy ở đây, và sẽ ở lại luôn... khi thấy rằng Gừng đã chết và đảo lớn hơn hẳn so với điều bà ấy nghĩ trước đây. Bà Lynde và bà ấy về rồi kìa. Không, đừng đi, Anne. ở lại làm quen với Emily đi. Bà ấy khá ấn tượng với cháu hôm thứ Bảy rồi.... muốn biết cô gái tóc đỏ xinh đẹp ở nhà bên cạnh là ai.”
    Bà Harrison nồng nhiệt chào đón Anne và nhất định ép cô ở lại dùng trà.
    “James A. đã kể rất nhiều về cháu, cháu đã tốt bụng làm bánh trái và đủ thứ cho ông ấy ra sao,” bà nói. “Tôi muốn làm quen với tất cả các láng giêng mới của mình càng sớm càng tốt. Bà Lynde là một phụ nữ dễ mến, phải không? Hết sức thân thiện.”
    Khi Anne đi về nhà trong ánh hoàng hôn dịu dàng tháng Sáu, bà Harrison cùng đi băng qua cánh đồng với cô, nơi đom đóm đang thắp lên những ngọn đèn nhấp nháy như sao.
    “Chắc,” bà Harrison tâm tình, “James A. đã kể cho cháu nghe câu chuyện của chúng tôi?”
    “Đúng vậy.”
    “Thế thì tôi cũng chẳng cần kể lại nữa, vì JamesA. là một người công bằng và chỉ nói sự thật. Lỗi còn xa mới chỉ thuộc về ông ấy. Giờ tôi mới nhận ra điều đó. Về nhà chưa được một tiếng tôi đã bắt đầu hối hận giá như mình đừng có hấp tấp như vậy, nhưng tôi không chịu lùi bước. Giờ tôi mới thấy mình mong đợi quá nhiều ở một người đàn ông. Và tôi thật ngốc nghếch khi để ý đến ngữ pháp tồi tệ của ông ấy. Đàn ông có nói sai ngữ pháp cũng chẳng sao, chỉ cần ông ấy kiếm tiền nuôi gia đình và đừng có đo lọ nước mắm đếm củ dưa hành là được. Tôi cho rằng James A. và tôi giờ sẽ hạnh phúc thực sự. Tôi ước gì mình biết 'Người quan sát' là ai để nói lời cảm ơn. Tôi quả thật đã mang nợ ân tình của ông ta.”
    Anne giữ im lặng và bà Harrison không bao giờ biết rằng lòng biết ơn của bà đã được gửi cho đúng đối tượng. Anne cảm thấy khá hoang mang trước những hệ quả sâu rộng của những “mẩu tin” ngớ ngẩn đó. Chúng đã giúp hai vợ chồng làm hòa với nhau và khiến một nhà tiên tri trở nên nổi tiếng.
    Bà Lynde đang ở trong bếp Chái Nhà Xanh. Bà đang kể đầu đuôi câu chuyện cho bà Marilla.
    “Ồ, cháu có thích bà Harrison không?” bà Lynde hỏi Anne.
    “Rất thích. Cháu nghĩ bà ấy là một phụ nữ thực sự dễthương.”
    “Hoàn toàn chính xác,” bà Rachel nhấn mạnh, “và như tôi vừa nói với Marillla, tôi nghĩ chúng ta nên bỏ qua tính lập dị của ông Harrison vì bà ấy, và giúp bà ấy làm quen với cuộc sống ở đây, thế đấy. ôi, tôi phải về nhà thôi. Thomas chắc đang trông tôi lắm. Tôi đi ra ngoài được một chút vì Eliza tới, và ông ấy trông khá hơn nhiều mấy bữa nay, nhưng tôi chẳng bao giờ muốn rời ông ấy quá lâu. Nghe nói Gilbert Blythe đã xin nghỉ dạy học ở White Sands. Tôi cho rằng cậu ta sẽ đi học đại học vào mùa thu.”
    Bà Rachel liếc mắt sắc lẻm nhìn sang Anne, nhưng Anne đang cúi xuống bé Davy đang ngủ gà ngủ gật trên xô pha và mặt cô kín bưng bưng. Cô ẵm Davy đi, gò má con gái của cô áp lên mái tóc xoăn vàng của nó. Khi họ đi lên cầu thang, Davy quàng cánh tay mệt mỏi quanh cổ Anne, ôm chặt cô và hôn một cái hôn ướt nhẹp lên má cô.
    “Cô dễ thương khủng khiếp, cô Anne ạ. Milty Boulter viết lên bảng cho Jenni Sloane coi hôm nay,
    'Hoa hồng thì đỏ, violet thì xanh.
    Đường thì ngọt và em cũng thế.’
    Và những lời đó diễn tả chính xác cảm xúc của cháu đối với cô, cô Anne ạ.”

  8. #27
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 26 - KHÚC QUANH
    Thomas Lynde rời bỏ cõi đời một cách lặng lẽ không kèn không trống đúng như cách sống của ông. Vợ ông là một nữ hộ lý dịu dàng kiên nhẫn và không hề mệt mỏi. Thỉnh thoảng Rachel cũng khá là nghiêm khắc với Thomas khi ông còn khỏe mạnh, khi sự chậm chạp hay nhút nhát của ông làm bà phát điên. Nhưng khi ông lâm bệnh, giọng bà luôn hết sức khẽ khàng, bàn tay luôn hết sức dịu dàng khéo léo và chẳng ai trông nom ông tỉ mỉ không than vãn như bà.
    “Bà là một người vợ tốt, Rachel ạ,” một lần ông nói như vậy, khi bà ngồi cạnh ông trong ánh hoàng hôn, bàn tay chai sần của bà giữ chặt lấy đôi tay gầy guộc tái nhợt của ông.
    “Một người vợ tốt. Tôi xin lỗi vì không để lại được gì cho bà, nhưng đám con sẽ chăm sóc bà chu đáo. Chúng là những đứa trẻ thông minh có năng lực, hệt như mẹ của chúng. Một người mẹ tốt... một phụ nữ tốt...”
    Ông gà gật thiếp đi, và sáng hôm sau, khi bình minh sáng rỡ dâng lên khỏi ngọn linh sam trong thung lũng, bà Marilla rón rén bước vào chái Đông đánh thức Anne dậy.
    “Anne, Thomas Lynde qua đời rồi... cậu bé làm thuê của họ vừa báo tin. Ta xuống chỗ Rachel ngay đây.”
    Hôm sau lễ tang của Thomas Lynde, bà Marilla đi khắp Chái Nhà Xanh với vẻ suy tư lạ thường. Thỉnh thoảng bà liếc nhìn Anne, dường như định nói gì đó rồi lại lắc đầu và ngậm miệng lại. Sau bữa trà, bà đi xuống thăm bà Rachel, trở về bà đi thẳng tới chái Đông nơi Anne đang chấm bài.
    “Bà Lynde tối nay thế nào rồi ạ?” Anne hỏi.
    “Bà ấy đã bình tĩnh lại,” bà Marilla đáp rồi ngồi xuống giường của Anne... hành động này để lộ ra tâm thần bà kích động khác thường, vì theo luật gia đình của bà Marilla, ngồi lên một chiếc giường đã được dọn gọn gàng là một hành vi không thể tha thứ. “Nhưng bà ấy rất cô đơn. Eliza phải về nhà hôm nay... con cô ta không khỏe nên cô ta cảm thấy không thể ở lâu hơn nữa.”
    “Chấm bài xong cháu sẽ chạy qua nói chuyện một lát với bà Lynde,” Anne nói. “Cháu định học một ít tiếng Latinh tối nay, nhưng để sau cũng được.”
    “Chắc Gilbert Blythe sẽ đi học đại học mùa thu này đấy,”bà Marilla ngập ngừng nói.
    “Cháu có muốn đi luôn không Anne?”
    Anne nhìn lên vẻ ngạc nhiên.
    “Đương nhiên là cháu muốn rồi, bác Marilla ạ. Nhưng không thể nào.”
    “Ta cho rằng có thể được chứ. Lúc nào ta cũng nghĩ cháu nên đi. Ta chẳng bao giờ thấy thoải mái được khi nghĩ cháu từ bỏ tất cả vì ta.”
    “Nhưng bác Marilla ơi, cháu chẳng hối hận một giây phút nào vì đã ở nhà. Cháu rất hạnh phúc... ôi, hai năm vừa qua thật tuyệt vời.”
    “Ồ, phải, ta biết cháu khá thỏa mãn. Nhưng đó không phải là câu hỏi của ta. Cháu nên tiếp tục việc học của mình. Cháu đã để dành đủ để học một năm ở Redmond, và tiền bán gia súc sẽ đủ cho một năm nữa... lại còn học bổng và những thứ tương tự mà cháu có thể giành được.”
    “Vâng, nhưng cháu không thể đi được, bác Marilla ạ. Đương nhiên giờ mắt bác đã tốt hơn, nhưng cháu không thể để bác lại một mình với hai đứa bé sinh đôi. Chúng cần phải được chăm sóc rất nhiều.”
    “Ta sẽ không ở một mình với chúng. Đó là điều ta định bàn với cháu. Tối nay ta vừa nói chuyện khá lâu với Rachel. Anne ạ, bà ấy cảm thấy buồn bã kinh khủng về rất nhiều chuyện. Bà ấy chẳng còn lại bao nhiêu tiền. Hình như tám năm trước họ đã thế chấp nông trại để cho tiền đứa con trai út khởi nghiệp ở miền Tây, và họ chẳng thể trả nhiều hơn số tiền lãi mỗi năm. Và rồi dĩ nhiên căn bệnh của Thomas cũng tiêu tốn không ít, về mặt này hay mặt khác. Phải bán nông trại, và Rachel nghĩ rằng sau khi trả hết nợ thì cũng chẳng còn lại được bao nhiêu. Bà ấy nói bà ấy phải đến ở với Eliza, và trái tim bà ấy tan vỡ khi nghĩ đến chuyện phải rời Avonlea. Một phụ nữ vào tuổi bà ấy không dễ kết bạn mới hay thay đổi mối quan tâm của mình. Và này, Anne ạ, khi bà ấy tâm sự, ta chợt nảy ra ý đềnghị bà ấy đến sống với ta, nhưng ta nghĩ mình nên bàn với cháu trước khi nói với bà ấy. Nếu Rachel đến sống với ta, cháu có thể đi học đại học. Cháu thấy sao?”
    “Cháu thấy... như là... ai đó... đưa cho cháu... mặt trăng... và cháu không biết... chính xác... phải làm gì... với nó,” Anne ngấn người. “Nhưng chuyện mời bà Lynde đến đây thì phải do bác quyết định, bác Marilla ạ. Bác có nghĩ... bác có chắc... là bác sẽ thích điều đó không? Bà Lynde là người tốt và là một hàng xóm đáng mến, nhưng... nhưng...”
    “Nhưng bà ấy cũng có khuyết điểm, cháu muốn nói vậy phải không? Ồ, đương nhiên là bà ấy có khuyết điểm, nhưng ta nghĩ ta thà chịu đựng những khiếm khuyết kinh khủng hơn thế nhiều còn hơn để Rachel rời khỏi Avonlea. Ta sẽ nhớ bà ấy khủng khiếp. Bà ấy là người bạn thân duy nhất của ta ở đây, ta sẽ rất cô đơn nếu không có bà ấy. Bọn ta đã là láng giêng bốn mươi lăm năm mà chưa cãi nhau bao giờ... dẫu có lần suýt cãi nhau khi cháu nổi cơn với Rachel vì bà ấy dám bảo cháu tóc đỏ và thô kệch. Cháu còn nhớ không Anne?”
    “Có chứ ạ,” Anne rầu rĩ nói. “Không dễ quên những chuyện như thế đâu. Lúc ấy cháu ghét bà Rachel đáng thương biết nhường nào!”
    “Và rồi lời 'xin lỗi' của cháu với bà ấy nữa chứ. ôi, thật lòng mà nói, cháu thật khó dạy, Anne ạ. Ta từng cảm thấy hết sức bối rối hoang mang chẳng biết xử trí cháu thế nào. Matthew hiểu cháu rồ hơn ta.”
    “Bác Matthew hiểu rõ mọi điều,” Anne nói với giọng dịu dàng như mỗi khi nhắc tới ông.
    “Ồ, ta nghĩ mình có thể thu xếp để ta và Rachel không xung đột với nhau. Đối với ta, lý do hai phụ nữ không thể sống hòa thuận một nhà là vì họ cố dùng chung một gian bếp và làm rối chân nhau. Bây giờ, nếu Rachel đến đây, bà ấy có thể ngủ ở chái Bắc và nấu ăn ở phòng dành riêng cho khách, vì chúng ta chẳng cần căn phòng đó làm gì. Bà ấy có thể đặt bếp ở đó và đặt những đồ nội thất mà bà ấy muốn giữ lại, đồng thời cảm thấy thoải mái và độc lập. Đương nhiên bà ấy có đủ tiền để sống... đám con bà ấy sẽ lo việc này... nên ta chỉ giúp bà ấy chỗ ở thôi. Anne à, đối với ta thì ta sẽ thích như vậy.”
    “Vậy thì bác hỏi ý bà ấy đi,” Anne nói ngay. “Cháu cũng sẽ rất buồn nếu bà Rachel đi khỏi Avonlea.”
    “Và nếu bà ấy đến đây,” bà Marilla tiếp, “cháu có thể đi học đại học tùy thích. Bà ấy sẽ bầu bạn với ta và giúp cặp sinh đôi những chuyện mà ta không làm được, vì vậy chẳng có lý do gì trên đời khiến cháu không nên đi cả.”
    Đêm đó, Anne trầm tư thật lâu bên cửa sổ. Niềm vui và nỗi tiếc nuối giằng xé trong tim cô. Cuối cùng cô cũng đi đến khúc quanh của con đường... một cách đột ngột, bất ngờ; và trường đại học ở ngay bên kia, với hàng trăm hy vọng và viễn cảnh lấp lánh cầu vồng; nhưng đồng thời Anne cũng nhận ra, khi rẽ ở khúc quanh đó, cô sẽ phải bỏ lại rất nhiều thứ tốt đẹp đằng sau... những mối quan tâm và trách nhiệm nho nhỏ không những đã trở nên vô cùng thân thiết với cô trong hai năm qua mà còn nở rộ thật đẹp đẽ hân hoan nhờ bao nhiệt tình tâm sức cô dồn vào. Cô phải rời bỏ ngôi trường của mình... và cô yêu từng đứa học trò, ngay cả những đứa ngốc nghếch và nghịch ngợm nhất. Chỉ nghĩ đến Paul Irving thôi đã khiến cô tự hỏi Redmond có đáng giá đến vậy hay không.
    “Hai năm qua mình đã bén rễ khá nhiều ở nơi đây,” Anne nói với vầng trăng trên cao, “và khi phải nhổ rễ lên, mình sẽ đau đớn lắm đây. Nhưng mình nghĩ đi là tốt nhất, và cũng như bác Marilla nói, chẳng có lý do nào khiến mình không đi cả. Mình phải lấy hết khát vọng khỏi rương và phủi bụi cho chúng thôi.”
    Hôm sau, Anne gửi đơn xin nghỉ việc, còn bà Rachel sau một cuộc nói chuyện chân thành với bà Marilla đã vui vẻ chấp nhận lời đề nghị đến sống ở Chái Nhà Xanh. Tuy vậy, bà vẫn quyết định ở lại nhà mình hết mùa hè, đến mùa thu bà mới bán nông trại vì vẫn còn rất nhiều việc phải thu xếp.
    “Rõ ràng mình chẳng bao giờ ngờ là mình sẽ sống ở một nơi xa đường chính như Chái Nhà Xanh,” bà Rachel thở dài tự nhủ. “Nhưng thực sự thì Chái Nhà Xanh không còn khỉ ho cò gáy như lúc trước nữa... Anne có rất nhiều bạn, và cặp song sinh cũng khiến nơi đó sinh động hơn. Với cả, dù sao thì mình thà sống ở đáy giếng còn hơn rời Avonlea.”
    Hai quyết định này khi được tiết lộ ra ngoài đã gây chấn động trong mạng lưới ngồi lê đôi mách địa phương hơn hẳn vụ bà Harrison chuyển đến. Những mái đầu thông thái lúc lắc không tán thành hành vi hấp tấp của bà Marilla Cuthbert khi mời bà Rachel đến ở chung. Mọi người đoán là họ sẽ chẳng hợp nhau. Cả hai đều thuộc loại “chỉ thích làm theo ý mình” và nhiều dự đoán âu sầu đã được đưa ra, nhưng chẳng gì có thể làm phiền những bên liên quan. Họ đã hiểu rõ ràng rành mạch những nghĩa vụ và quyền lợi tương ứng trong cuộc sống mới của mình và quyết tâm tuân thủ chúng.
    “Tôi sẽ không can thiệp vào chuyện của cô và cô cũng thế,” bà Rachel quả quyết, “còn về cặp song sinh, tôi sẽ rất vui khi làm hết sức cho chúng, nhưng tôi sẽ không lãnh phần trả lời những câu hỏi của Davy đâu, thế đấy. Tôi chả phải bách khoa toàn thư, cũng càng không phải là một luật sư ở Philadelphia. Cô sẽ nhớ Anne vì điều đó đấy.”
    “Nhiều lúc câu trả lời của Anne cũng quái dị như những câu hỏi của Davy vậy,” bà Marilla khô khan đáp. “Cặp song sinh sẽ nhớ Anne lắm, chắc chắn thế, nhưng con bé không thể hy sinh tương lai vì lòng khao khát tri thức của Davy được. Khi nó đặt câu hỏi mà tôi không trả lời được, tôi sẽ bảo nó con nít đừng có nhiều chuyện. Đó là cách tôi được nuôi dạy, tôi chẳng biết nhưng cách đó cũng hay chẳng kém những khái niệm mới lạ trong việc dạy trẻ em hiện nay.”
    “Hừm, phương pháp của Anne khá hữu hiệu với Davy đấy,” bà Lynde mỉm cười. “Nó đã cải tà quy chính, thế đấy.”
    “Bản chất nó không phải là tệ,” bà Marilla thừa nhận.“Tôi chẳng bao giờ ngờ mình sẽ thương đám trẻ đến vậy. Davy bằng cách nào đó đã khiến chúng ta phải mến nó... và Dora rất đáng yêu, dẫu có chút... có chút... ồ, có chút...”
    “Đơn điệu? Chính xác,” bà Rachel xen vào. “Giống như một quyển sách mà mọi trang y hệt nhau, thế đấy. Dora sẽ là một phụ nữ tốt đáng tin cậy nhưng nó chẳng bao giờ lộn tung nhà lên cả. Ồ, típ người đấy thì dễ chịu thật, dẫu không thú vị như típ người kia.”
    Gilbert Blythe có lẽ là người duy nhất hoàn toàn vui mừng khi biết tin Anne xin nghỉ dạy. Đám học trò của cô coi đó là một thảm họa khủng khiếp. Annetta Bell lên cơn co giật khi về đến nhà. Anthony Pye đánh lộn hai trận kịch liệt mà chẳng có nguyên do gì với đám con trai, để giải tỏa cảm xúc của nó. Barbara Shaw khóc suốt đêm. Paul Irving bướng bỉnh nói với bà nội rằng đừng mong cậu ăn chút cháo nào suốt tuần.
    “Cháu không ăn nổi, bà ạ,” cậu nói. “Cháu thực sự không biết mình có thể ăn nổi bất cứ thứ gì không. Cháu cảm thấy có một cục nghẹn to đùng trong cổ họng. Cháu lẽ ra đã khóc trên đường về nhà nếu Jake Donnell không nhìn cháu. Cháu nghĩ cháu sẽ khóc sau khi lên giường. Chắc sáng mai mắt cháu sẽ không sưng đâu, phải không? Nếu được như vậy thì thật nhẹ người. Nhưng dù sao chăng nữa, cháu không thể ăn cháo đâu. Cháu cần vận hết tâm trí để chịu đựng điều này, bà nội ạ, nên cháu chẳng còn hơi đâu mà chiến đấu với tô cháo nữa. ôi bà nội ơi, cháu chẳng biếtphải làm gì khi cô giáo xinh đẹp ra đi. Milty Boulter nói nó cá là cô Jane Andrews sẽ dạy tiếp. Cháu nghĩ cô Andrews rất tốt. Nhưng cháu biết cô ấy sẽ chẳng thấu hiếu như cô Shirley đâu.”
    Diana cũng có cái nhìn rất bi quan về mọi chuyện.
    “Mùa đông tới ở đây sẽ cô đơn khủng khiếp,” cô than vãn. Một buổi chiều muộn khi ánh trăng đang “dát bạc” lên những cành anh đào và chái Đông tràn ngập ánh sáng mềm mại mơ mộng, hai cô gái cùng nói chuyện tâm tình, Anne ngồi trên ghế bập bênh thấp bên cửa sổ, Diana ngồi xếp bằng trên giường. “Cậu và Gilbert đều đi cả... và gia đình Allan nữa. ÔngAllan được gọi đến Charlottetown, và đương nhiên ông ấy sẽ đồng ý. Thật bất công. Chắc chúng ta sẽ không có mục sư suốt cả mùa đông và phải nghe hàng chuỗi các ứng cử viên thuyết giảng... phân nửa số đó chẳng hay ho gì.”
    “Dù sao thì tớ hy vọng mọi người sẽ không mời ông Baxter ở Đông Grafton,” Anne quả quyết, “ông ấy muốn chuyển tới đây, nhưng những bài giảng của ông ấy thật là u ám hết sức. Ông Bell nói ông ấy là mục sư theo trường phái cũ, nhưng bà Lynde bảo ông ấy chẳng có vấn đề gì ngoại trừ chứng khó tiêu. Hình như vợ ông ấy nấu ăn không giỏi, bà Lynde nói là khi một người đàn ông cứ ba tuần thì đến hai tuần phải ăn bánh mì ôi thì lý luận thần học của ông ấy chắc chắn sẽ bị tắc nghẽn ở đâu đó. Cô Allan cảm thấy rất nặng nề khi phải rời đi. Cô nói mọi người đã đối xử rất tốt với mình từ khi cô tới đây với tư cách một cô dâu mới cưới, vậy nên cô cảm thấy như phải rời bỏ những người bạn từng sống với mình cả cuộc đời vậy. Và rồi còn có cả ngôi mộ của đứa bé nữa, cậu biết đó. Cô ấy bảo làm sao có thể bỏ đi để lại đứa nhỏ một mình như thế... nó còn bé tí xíu, chỉ mới ba tháng tuổi, cô ấy bảo sợ nó sẽ nhớ mẹ, dẫu biết là thực tế không phải như vậy, và cô ấy không đời nào nói thế với ông Allan. Cô ấy kể rằng gần như đêm nào cô ấy cũng băng qua khu rừng bạch dương sau nhà mục sư để đến nghĩa trang hát ru một bài cho đứa bé. Cô ấy kể cho tớ nghe mọi chuyện vào chiều qua khi tớ đi lên đặt vài đóa hồng dại nở sớm lên mộ bác Matthew. Tớ hứa với cô là một khi tớ còn ở Avonlea, tớ sẽ đặt hoa lên mộ đứa bé, và khi tớ đi vắng, tớ chắc là...”
    “Tớ sẽ làm thay cho cậu,” Diana chân thành thốt. “Đương nhiên tớ sẽ làm vậy. Và tớ cũng sẽ đặt hoa lên mộ bác Matthew, vì cậu, Anne ạ.”
    “Ôi, cảm ơn cậu. Tớ cũng định nhờ cậu như vậy. Và cậu cũng đặt hoa lên mộ của Hester Gray nữa nhé? Xin đừng quên cô ấy. Cậu có biết không, tớ suy nghĩ và mơ mộng về Hester Gray nhiều đến nỗi đối với tớ cô ấy đã trở nên chân thực một cách lạ lùng. Ngồi nơi góc vườn tĩnh mịch xanh um mát mẻ của Hester, tớ nghĩ đến cô ấy và tưởng tượng rằng nếu tớ có thể lẻn đến đó một buổi chiều xuân nào đấy, vào đúng giây phút huyền diệu khi ánh sáng và bóng tối trộn lẫn, rón rén thật khẽ bước qua khu rừng sồi trên đồi sao cho bước chân mình không làm kinh động cô ấy, tớ sẽ nhìn thấy khu vườn đúng như nó thuở trước, ngập tràn loa kèn tháng Sáu và hoa hồng nở sớm ngọt ngào, căn nhà nhỏ phía xa xanh ngắt dây leo, và Hester Gray bé nhỏ ở ngay đó, với đôi mắt dịu dàng cùng mái tóc sẫm màu rối tung trong gió, đi lang thang trong vườn, đặt đầu ngón tay bên dưới cằm từng bông loa kèn và thủ thỉ tâm sự bí mật với những đóa hồng, và tớ sẽ bước tới, bước thật khẽ khàng, chìa tay ra nói với cô ấy, 'Hester Gray bé nhỏ ơi, chị sẽ cho em chơi cùng chứ, vì em cũng yêu hoa hồng lắm?' Và rồi bọn tớ sẽ ngồi xuống băng ghế cũ kỹ, nói chuyện một tí, mơ mộng một tí, hay chỉ ngồi im lặng bên cạnh nhau mà thôi. Và rồi mặt trăng nhô lên, tớ nhìn quanh... chẳng có Hester Gray, chẳng có ngồi nhà phủ đầy dây leo, chẳng có hoa hồng... chỉ còn một khu vườn cũ bỏ hoang, hoa loa kèn tháng Sáu điểm xuyết trên mặt cỏ, làn gió thở dài, ôi, thật là buồn thương, lướt qua những cây anh đào. Và tớ chẳng biết đó là thật hay chỉ là trí tưởng tượng của mình nữa.”
    Diana bò lên dựa lưng vào đầu giường. Khi phải nghemột người bạn kể những câu chuyện liêu trai vào lúc trời chạng vạng, tốt nhất là đừng để cho mình có cơ hội tưởng tượng có thứ gì đó đang ở sau lưng.
    “Tớ sợ Hội Cải tạo sẽ xuống dốc khi cả cậu và Gilbert cùng đi,” cô buồn thảm thốt.
    “Chẳng sợ tí nào,” Anne nói nhanh, từ cõi mơ quay trở lại với những vấn đê thực tế. “Gốc rễ nó đã bám rất chắc rồi, nhất là khi người lớn đã trở nên hết sức nhiệt tình. Hãy nhìn họ đã làm gì với lối đi và bãi cỏ nhà mình trong mùa hè này đi. Hơn nữa, tớ sẽ tham khảo thêm nhiều ý tưởng hay ở Redmond, viết một bản tham luận vào mùa đông tới và gửi về đây. Đừng có nhìn sự việc một cách ảm đạm thế, Diana ạ. Và đừng tỏ vẻ không bằng lòng với những giờ phút vui sướng hân hoan ngắn ngủi của tớ. Sau này, khi phải ra đi, tớ sẽ chẳng vui nổi đâu.”
    “Cậu vui cũng phải mà... cậu đi học đại học, cậu sẽ có một khoảng thời gian tuyệt vời và có hàng đống bạn bè đáng yêu mới.”
    “Tớ hy vọng mình sẽ có bạn bè mới,” Anne trầm tư. “Có thêm được nhiều bạn, cuộc đời này sẽ hấp dẫn hơn hẳn. Nhưng dẫu tớ có thêm bao nhiêu bạn bè nữa, họ sẽ không bao giờ thân thương như những người bạn cũ đâu... đặc biệt là một cô gái có đôi mắt đen và má lúm đồng tiền. Cậu có đoán ra cô ấy là ai không, Diana?”
    “Nhưng ở Redmond sẽ có vô số cô gái thông minh,” Diana thở dài, “còn tớ chỉ là một cô gái quê khờ khạo bé nhỏ, thỉnh thoảng còn nói 'tôi tháy'... dẫu tớ có khá hơn rồi khi chịu suy nghĩ trước khi mở miệng, ôi, đương nhiên hai năm vừa qua quá sức tốt đẹp đến mức chẳng thể kéo dài được lâu hơn. Dù sao thì tớ biết có người sẽ rất vui khi cậu đi học ở Redmond. Anne, tớ hỏi cậu một câu nhé... hỏi nghiêm túc đấy. Đừng có bực và hãy trả lời thực lòng. Cậu có để ý tí nào đến Gilbert không?”
    “Rất nhiều, như một người bạn, nhưng chẳng có chút nào theo ý cậu nói cả,” Anne đáp bình tĩnh và quả quyết; cô cũng nghĩ rằng câu trả lời của mình rất thật lòng.
    Diana thở dài. Chẳng hiếu sao, cô ước Anne trả lời khác đi.
    “Cậu có nghĩ là khi nào đó cậu sẽ kết hôn không, Anne?”
    “Có lẽ... một ngày nào đó... khi tớ gặp được đúng người,” Anne mỉm cười mơ màng với ánh trăng.
    “Nhưng sao cậu dám chắc khi nào cậu gặp được đúng người?” Diana vẫn chưa thôi.
    “Ôi, tớ sẽ biết ngay chứ... có thứ gì đó sẽ cho tớ biết. Cậu biết tiêu chuẩn của tớ mà, Diana.”
    “Nhưng tiêu chuẩn của con người thỉnh thoảng cũng thay đổi chứ.”
    “Tớ thì không đâu. Và tớ không thể chấp nhận một người đàn ông không thỏa mãn được tiêu chuẩn của tớ.”
    “Nếu cậu không bao giờ gặp được anh ta thì sao?”
    “Thì tớ sẽ làm gái già đến chết chứ sao,” cô vui vẻ trả lời. “Tớ dám nói đó chẳng phải là cái chết khổ sở nhất.”
    “Ôi, tớ cho rằng chết thì dễ thôi, nhưng tớ chẳng thích sống đời gái già đâu,” Diana chẳng có ý đùa chút nào. “Mặc dù tớ không ngại làm một cô gái già lắm nếu tớ được như cô Lavendar. Nhưng tớ không đời nào được thế. Khi tớ bốn lăm tuổi, tớ sẽ mập khủng khiếp. Một cô gái già thanh mảnh thì may ra còn có chút lăng mạn, nhưng một cô gái già béo phị thì chắc chắn sẽ trắng tay. ôi, cậu biết không, ba tuần trước Nelson Atkins đã cầu hôn Ruby Gillis. Ruby kể hết cho tớ nghe. Cậu ấu nói cậu ấy không hề có ý định chấp nhận anh ta, bởi vì ai cưới anh ta sẽ phải sống với cả gia đình chồng; nhưng Ruby nói lời cầu hôn của anh ta thật lãng mạn và đẹp đẽ đến mức hoàn hảo, nó khiến cậu ấy hết sức xúc động. Nhưng cậu ấy không muốn hành động hấp tấp nên xin một tuần để suy nghĩ; rồi hai ngày sau, cậu ấy đến dự một buổi gặp mặt của Hội May vá ở nhà mẹ, và có một quyển sách 'Hướng dẫn các quy tắc xã giao' nằm trên bàn phòng khách. Ruby nói cậu ấy không thể diễn tả được cảm xúc của mình khi đọc thấy dưới mục 'Các cách tán tỉnh và cầu hôn' toàn bộ lời cầu hôn của Nelson, đúng đến từng chữ một. Cậu ấy về nhà viết cho anh ta một lời từ chối cực kỳ gay gắt; cậu ấy còn kể cha mẹ anh ta phải thay phiên theo dõi con trai vì sợ anh ta nhảy sông tự tử; nhưng Ruby nói họ không cần phải lo, vì trong phần 'Các cách tán tỉnh và cầu hôn' có chỉ cách một người bị từ chối nên cư xử thế nào, trong đó chẳng nhắc gì đến nhảy sông cả. Cậu ấy nói W ilbur Blair thực sự tiều tụy héo hon vì cậu ấy nhưng cậu ấy bó tay chẳng biết làm sao.”
    Anne phác một cử chỉ thiếu kiên nhẫn.
    “Tớ ghét phải nói ra lời như thế này... có vẻ thật không một lòng một dạ với bạn bè... nhưng, ôi chao, giờ tớ chả thích Ruby Gillis chút nào. Tớ thích cậu ấy dạo chúng tớ đi học ở đây và ở trường Queen... đương nhiên là không thích bằng cậu và Jane rồi. Nhưng năm vừa rồi ở Carmody, cậu ấy có vẻ khác quá... quá... quá...”
    “Tớ hiểu,” Diana gật đầu. “Đó là máu của nhà Gillis đấy... cậu ấy cũng chả có cách nào khác. Bà Lynde nói rằng từ dáng đi tới lời nói, các cô gái nhà Gillis chẳng để lộ ra mối quan tâm nào khác ngoại trừ đám con trai. Cậu ấy chỉ toàn kể về bọn con trai, nào là những lời khen tặng họ dành cho cậu ấy, nào là tất cả bọn họ đều điên cuồng thế nào vì cậu ấy ở Carmody. Và điều lạ là, bọn họ thực sự điên cuòng vì cậu ấy...” Diana thừa nhận có chút chua chát. “Tối qua, khi tớ gặp cậu ấy ở tiệm nhà ông Blair, cậu ấy thì thầm với tớ rằng mình vừa có một 'người hâm mộ' mới. Tớ không hỏi đó là ai vì tớ biết cậu ấy chờ mong được hỏi đến chết được, ôi, tớ cho rằng đó là điều Ruby luôn mong mỏi. Cậu còn nhớ khi còn nhỏ cậu ấy luôn miệng nói rằng muốn có hàng chục bạn trai khi lớn lên và chơi bời cho thỏa thích trước khi ổn định cuộc sống. Cậu ấy hoàn toàn khác hẳn vởi Jane, phải không? Jane là một cô gái hiền hòa dễ mến và cư xử đúng đắn.”
    “Jane là một viên ngọc quý đấy,” Anne đồng ý, “nhưng,” cô nghiêng mình vỗ nhẹ vào bàn tay mũm mĩm xinh xắn phía trên gối, “xét cho cùng chẳng có ai bằng được Diana của tớ. Cậu còn nhớ buổi chiều chúng mình gặp lần đầu tiên không, Diana, và 'thề thốt' tình bạn vĩnh cửu trong vườn nhà cậu đấy? Tớ nghĩ chúng mình đã giữ được 'lời thề' ấy... chúng mình chưa bao giờ cãi nhau hay chơi trò chiến tranh lạnh. Tớ sẽ không bao giờ quên cảm giác kích động ngày cậu nói là cậu yêu tớ. Trái tim trẻ thơ của tớ cô đơn và khao khát tình yêu biết bao. Đến giờ tớ mới nhận ra nó thật sự cô đơn và khao khát tình yêu đến mức nào. Chẳng ai thèm quan tâm hay muốn dính dáng gì tới tớ. Tớ sẽ khổ sở lắm nếu không có cuộc-đời-ảo tự mình dựng lên, nơi tớ tưởng tượng ra tất cả bạn bè và tình yêu mà tớ thèm khát. Nhưng khi đến Chái Nhà Xanh, tất cả đã thay đổi. Rồi tớ gặp được cậu. Cậu không biết tình bạn của cậu có ý nghĩa thế nào với tớ đâu. Ngay lúc này đây tớ muốn cảm ơn cậu, người bạn yêu quý ạ, vì những tình cảm chân thành và ấm áp mà cậu luôn dành cho tớ.”
    “Luôn luôn, luôn luôn như vậy,” Diana nức nở. “Tớ sẽ không bao giờ yêu bất cứ ai... bất cứ cô gái nào... bằng một nửa tớ yêu cậu. Và nếu có khi nào tớ lập gia đình và có một cô con gái, tớ sẽ đặt tên nó là Anne.”

  9. #28
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 27 - MỘT BUỔI CHIỀU Ở CĂN NHÀ ĐÁ
    “Cô đi đâu mà diện vậy, Anne?” Davy muốn biết. “Nhìn cô đẹp tít thò lò trong cái váy đó.”
    Anne đi xuống ăn trưa trong bộ váy muxơlin màu xanh lá cây nhạt... chiếc váy màu mè đầu tiên cô mặc kể từ khi Matthew qua đời. Nó hợp với cô một cách hoàn hảo, tôn lên sắc tinh tế như một đóa hoa của khuôn mặt cô và ánh đồng lấp lánh trên mái tóc cô.
    “Davy, bao nhiêu lần cô đã dặn cháu là không được dùng cái từ đó mà,” cô trách móc. “Cô sẽ đi Nhà Vọng.”
    “Dẩn cháu đi với,” Davy năn nỉ.
    “Nếu đánh xe đi thì cô đã dẫn rồi. Nhưng cô sẽ đi bộ; mà đường thì quá xa so với cặp chân mới có tám tuổi của cháu. Hơn nữa, Paul sẽ đi cùng cô, và cô sợ rằng cháu không thích đi chung với cậu ấy.”
    “Ồ, cháu thích Paul nhiều hơn trước rồi,” Davy nói, bắtđầu hùng hục tấn công món bánh pút đinh. “Kế từ khi cháu bắt đầu ngoan ngoãn được kha khá, cháu không để ý lắm đến việc anh ta ngoan hơn cháu nữa. Nếu cháu tiếp tục cố gắng thì một ngày nào đó cháu sẽ bắt kịp anh ta thôi, cả chiều dài chân và sự ngoan ngoãn. Hơn nữa, Paul cư xử rất tốt với đám con trai lớp hai bọn cháu ở trường. Anh ta không để đám con trai lớn bắt nạt bọn cháu, và chỉ cho bọn cháu rất nhiều trò hay.”
    “Sao trưa hôm qua Paul lại rơi xuống suối vậy?”Anne hỏi. “Cô thấy cậu ấy ở sân chơi, ướt nhem ướt nhẹp đến mức cô phải bảo cậu ấy về nhà thay áo mà không kịp hỏi han gì.”
    “Ồ, một phần là do tai nạn,” Davy giải thích. “Anh ta cố ý cúi đầu xuống, nhưng cả người anh ta rơi xuống theo là do tai nạn. Bọn cháu đang ở bên suối, Prillie Rogerson nổi điên với Paul vì chuyện gì đó... chị ta xấu tính và khó ưa kinh khủng, dẫu chị ta có xinh thật... và nói rằng hằng đêm bà nội anh ta đều cuộn tóc anh ta lại để làm lọn xoăn. Cháu cho rằng Paul chẳng để ý gì đến những lời chị ta nói, nhưng Gracie Andrews phá lên cười, và Paul đỏ bừng mặt, vì Gracie là bồ của anh ta mà, cô biết đấy. Anh ta mê tít chị ấy... tặng hoa, cầm sách giúp tới tận đường bờ biển. Mặt anh ta đỏ như củ cải và anh ta gân cổ bảo rằng bà nội anh ta không làm những chuyện như thế, anh ta tóc quăn từ nhỏ rồi. Thế rồi anh ta nằm sấp bên bờ suối, chúi đầu xuống nước để chứng minh, ồ, đó không phải là dòng suối mà bọn cháu uống nước đâu...” Davy vội nói khi thấy vẻ hãi hùng trên mặt bà Marilla... “đó là một nhánh nhỏ hơn bên dưới. Nhưng bờ suối trơn khủng khiếp và cả người Paul trượt đi. Phải nói anh ta té xuống cái ầm, thật là tít thò lò. ôi, Anne, Anne, cháu không định nói từ đó đâu... cháu chỉ buột miệng mà chưa kịp nghĩ. Anh ta té xuống cái ầm rất oách. Nhưng khi bò lên thì trông anh ta thật tức cười, ướt mẹp đầy bùn. Đám con gái cười còn dữ hơn nữa nhưng Gracie không cười. Chị ấy lộ vẻ ân hận. Gracie cũng xinh nhưng chị ấy có cái mũi hếch. Khi cháu đủ lớn để có bồ; cháu không quen đứa nào mũi hếch đâu... cháu sẽ chọn người có cái mũi xinh như cô, Anne ạ.”
    “Một cậu bé dính xi rô lem nhem đầy mặt khi ăn pút đinh thì chẳng có cô gái nào thèm để ý đâu,” bà Marilla nghiêm khắc.
    “Nhưng cháu sẽ rửa mặt trước khi đi cưa cẩm chứ,” Davy phản đối, cố gắng cải thiện tình hình bằng cách dùng lưng bàn tay chùi lấy chùi để. “Và cháu cũng rửa lỗ tai mà không cần nhắc nhở nữa. Sáng nay cháu nhớ rồi đó, bà Marilla ơi. Cháu không hay quên thường xuyên như trước nữa. Nhưng...” Davy thở dài... “có quá nhiều ngóc ngách trên người, nhớ toàn bộ chúng thật là khó kinh khủng, ôi, nếu cháu không thể qua nhà cô Lavendar, cháu sẽ chạy sang nhà bà Harrison. Phải nói bà Harrison là một phụ nữ dễ thương khủng khiếp. Bà ấy để một lọ bánh quy trong phòng lương thực, dành riêng cho các cậu bé, và bà ấy luôn luôn cho cháu những phần thừa trong chảo khi làm bánh mận. Có rất nhiều mận còn dính lại một bên, cô biết mà.Ông Harrison luôn là người tốt, nhưng từ khi cưới vợ lại thì ông ấy tốt gấp đôi. Chắc kết hôn làm người ta tốt hơn. Vi sao bà không lập gia đình vậy, bà Marilla? Cháu muốn biết.”
    Tinh trạng độc thân hạnh phúc của bà Marillla chẳng bao giờ khiến bà xót xa, do vậy sau khi liếc nhìn đầy ý nghĩa sang Anne, bà trả lời một cách vui vẻ rằng có lẽ vì chẳng ai chịu lấy bà.
    “Nhưng có thể vì bà chẳng chịu hỏi thử ai cả,” Davy phản đối.
    “Ôi Davy,” Dora nghiêm khắc thốt, cô bé quá sững sờ đến nỗi nói khi chưa được hỏi, “đàn ông phải đi hỏi vợ chứ.”
    “Hừ, anh chả hiếu vì sao đàn ông luôn luôn phải làm thế,” Davy làu bàu. “Anh thấy có vẻ như đàn ông phải gánh vác tất cả mọi việc trên đời này rồi. Cháu ăn thêm một miếng bánh pút đinh được không, bà Marilla?”
    “Cháu ăn quá đủ rồi đấy,” bà Marilla đáp nhưng vẫn cắt cho nó một miếng vừa phải nữa.
    “Cháu ước gì có thể ăn pút đinh mà sống. Vi sao không thể như vậy, hả bà Marilla? Cháu muốn biết.”
    “Bởi vì cháu sẽ sớm ngán tới tận cổ thôi.”
    “Cháu muốn thử một lần xem sao,” Davy hoài nghi. “Nhưng cháu nghĩ chỉ được ăn pút đinh vào ngày ăn cá và ngày có khách còn hơn là không được ăn pút đinh. Nhà Milty Boulter không có tí pút đinh nào. Milty nói khi có khách thì mẹ nó chỉ cho họ ăn pho mát và còn tự tay cắt nữa... mỗi người một miếng nhỏ, và thêm một miếng cho ra vẻ hào phóng.”
    “Nếu Milty Boulter nói như vậy về mẹ nó thì ít nhất cháu không nên nhắc lại làm gì,” bà Marilla nghiêm khắc.
    “Chúa rủ lòng thương linh hồn tôi,”... Davy khoái trá bắt chước câu nói cửa miệng của ông Harrison...
    “Milty muốn khen mẹ nó đấy chứ. Nó tự hào kinh khủng về mẹ, vì người ta đồn mẹ nó có thể vắt cổ chày ra nước.”
    “Hình... hình như đám gà mái hỗn hào lại chạy vào luống hoa păng xê nữa rồi,” bà Marilla đứng dậy hấp tấp chạy ra ngoài.
    Đám gà mái bị vu oan không hề lảng vảng ở gần luống hoa păng xê, và bà Marilla cũng chẳng thèm liếc mắt nhìn qua. Thay vào đó, bà ngồi xuống cửa sập hầm rượu mà cười rũ rượi cho đến khi cảm thấy xấu hổ vì hành vi của mình.
    Chiều hôm đó, khi Anne và Paul đến ngồi nhà đá, họ thấy cô Lavendar và Charlotta Đệ Tứ đang ở trong vườn, hăng hái nhổ cỏ, cào cỏ, cắt tỉa lá cây. Cô Lavendar, vui tươi ngọt ngào trong bộ váy đính đầy diềm xếp nếp và đăng ten ưa thích, buông rơi cây kéo và hớn hở chạy ra đón khách, trong khi Charlotta Đệ Tứ nhăn răng cười.
    “Chào cháu, Anne. Tôi đã nghĩ hôm nay cháu sẽ đến mà. Cháu thuộc về buổi chiều, nên buổi chiều đưa cháu tới. Những thứ thuộc về nhau sẽ luôn gắn bó với nhau. Người ta sẽ tránh được rất nhiều rắc rối nếu hiếu được điều đó. Nhưng họ không hiếu... và thế là họ tốn vô khối sức lực dời non lấp biển để ép những thứ không thuộc về nhau ở gần nhau. Và cháu nữa, Paul... ôi chao, cháu lớn quá! Cháu cao hơn cả nửa cái đầu so với lần trước.”
    “Vâng, cháu bắt đầu nhổ giò rồi, như bà Lynde nói đấy,”Paul vui sướng chân thành. “Bà nội nói thế là món cháo cuối cùng cũng có hiệu lực. Có lẽ thế. Có trời mới biết...” Paul thở dài... “Số lượng cháu ăn đủ để bất cứ ai trưởng thành. Cháu chỉ hy vọng, một khi đã bắt đầu, cháu sẽ cao đến khi bằng ba cháu. Ba cháu cao hơn mét tám, cô biết đấy, cô Lavendar.”
    Vâng, cô Lavendar có biết, đôi má xinh đẹp của cô lại hồng thêm một chút, một tay dắt Paul, một tay dắt Anne, cô im lặng bước vào nhà.
    “Hôm nay thời tiết có thích hợp để tạo những tiếng vọng không, cô Lavendar?” Paul lo lắng hỏi. Lần đầu tiên cậu đến thăm, trời quá nhiều gió nên không thể tạo tiếng vọng, và Paul hết sức thất vọng.
    “Ừ, là ngày thích hợp nhất luôn ấy chứ,” cô Lavendar trả lời, bừng tỉnh khỏi luồng hồi tưởng. “Nhưng trước tiên chúng ta phải kiếm cái gì ăn đã. Tôi biết hai cháu nhất định rất đói bụng sau khi đi bộ qua rừng sồi đến tận đây, và Charlotta Đệ Tứ cùng tôi có thể ăn vào bất cứ lúc nào trong ngày... chúng tôi háu ăn lắm. Nên chúng ta chỉ cần đột kích vào phòng lương thực thôi. Thật may là nó đầy nhóc những thứ ngon lành. Tôi linh cảm rằng mình sẽ có khách hôm nay, thế là Charlotta Đệ Tứ và tôi đã chuẩn bị sẵn sàng.”
    “Cháu nghĩ cô là kiểu người luôn có sẵn đồ ăn ngon trong tủ,” Paul tuyên bố. “Bà nội cũng thế. Nhưng bà không thích ăn vặt giữa hai bữa chính. Cháu tự hỏi,” cậu trầm ngâm, “liệu cháu có nên ăn dẫu biết là bà chẳng ưa hay không.”
    “Ôi, cô cho rằng bà cháu sẽ không phản đối nếu cháu ăn sau một chuyến đi bộ dài. Thế thì lại khác đấy,” cô Lavendar nói rồi trao đối ánh mắt ý vị với Anne phía trên mái tóc xoăn nâu của Paul. “Cô cho rằng các món ăn vặt quả thật chẳng tốt chút nào. Đó là lý do bọn cô luôn có sẵn chúng ở Nhà Vọng này. Bọn cô... Charlotta Đệ Tứ và cô... sống thách thức với mọi chế độ ăn uống. Bọn cô ăn đủ món khó tiêu mỗi khi chợt nhớ đến chúng, bất kể ngày hay đêm, và bọn cô phát triển như cây nguyệt quế vậy. Bọn cô luôn muốn sửa đổi. Mỗi khi đọc thấy bài báo nào ngăn không nên ăn một món gì bọn cô thích, bọn cô cắt bài đó ra, dán lên tường bếp để nhớ. Nhưng chẳng hiểu sao bọn cô không làm được... nhất định phải đi bỏ món đó vào bụng mới cam tâm. Chưa có món nào giết được bọn cô, dẫu Charlotta Đệ Tứ từng bị ác mộng sau khi ăn bánh rán vòng, bánh thịt băm và bánh trái cây trước khi đi ngủ.”
    “Bà nội cho cháu uống một ly sữa, ăn một lát bánh mì bơ trước khi đi ngủ, vào tối Chủ nhật thì bà phết thêm mứt lên bánh mì,” Paul nói. “Do vậy cháu có thêm một lý do để luôn thích tối Chủ nhật. Chủ nhật là một ngày dài lê thê trên đường bờ biển. Bà nội nói ngày Chủ nhật quá ngắn với bà, và ba cháu chẳng bao giờ thấy Chủ nhật là nhàm chán khi còn nhỏ. Ngày sẽ không quá dài nếu cháu có thể nói chuyện với những người bạn trên vách đá của cháu, nhưng cháu chẳng bao giờ làm vậy vì bà nội không cho phép cháu làm vào ngày Chủ nhật. Cháu suy nghĩ nhiều lắm, nhưng cháu e là những suy nghĩ của cháu quá trần tục. Bà nội nói rằng vào Chủ nhật chúng ta chẳng được nghĩ gì ngoài những ý nghĩ tôn giáo thiêng liêng. Nhưng cô giáo nói là mỗi ý nghĩ đẹp đều thiêng liêng cả, dẫu là về cái gì, hay vào bất cứ ngày nào. Nhưng cháu chắc rằng bà nội nghĩ bài giảng kinh và bài học ở trường Chủ nhật là những điều duy nhất thiêng liêng mà chúng ta có thể nghĩ tới. Và khi ý kiến của bà nội và cô giáo khác nhau, cháu chẳng biết phải làm sao. Trong thâm tâm”... Paul đặt tay lên ngực và ngước đôi mắt xanh hết sức nghiêm túc nhìn lên khuôn mặt lập tức trở nên đầy cảm thông của cô Lavendar... “cháu đồng ý với cô giáo. Nhưng mà, cô thấy đấy, bà nội đã tự mình nuôi dạy ba và đã thành công rực rỡ, mà cô giáo thì chưa nuôi lớn ai hết, tuy cô ấy có giúp nuôi Davy và Dora một chút. Nhưng không biết chúng sẽ ra sao cho tới khi chúng thực sự lớn. Do vậy, thỉnh thoảng cháu nghĩ nghe lời bà nội thì an toàn hơn.”
    “Cô nghĩ thế là đúng đấy,” Anne nghiêm nghị. “Dù sao chăng nữa, cô dám nói nếu bà nội em và cô đi đến tận cùng vấn đề, dẫu cách diễn đạt có khác nhau, điều bọn cô muốn nói sẽ hoàn toàn giống nhau. Em nên nghe theo cách nói của bà, vì đó là kết tinh của kinh nghiệm. Chúng ta phải đợi đến khi cặp song sinh trưởng thành thì mới dám chắc cách của cô cũng tốt tương đương.” Sau bữa ăn, họ quay lại khu vườn, ở đó Paul tha hồ làm quen với những tiếng vọng kỳ thú, trong khi Anne và cô Lavendar ngồi trò chuyện trên băng ghế đá dưới bóng cây dương.
    “Vậy mùa thu này cháu sẽ đi phải không?” cô Lavendar bâng khuâng. “Lẽ ra tôi phải mừng cho cháu, Anne ạ... nhưng tôi lại buồn khủng khiếp, thật là ích kỷ quá. Tôi sẽ nhớ cháu nhiều lắm. ôi, thỉnh thoảng tôi nghĩ kết bạn để làm quái gì. Chẳng bao lâu họ sẽ rời khỏi cuộc đời của mình và để lại vết thương còn đau đớn hơn khoảng trống vắng trước khi họ đến.”
    “Nghe cứ như một câu cô Eliza Andrews hay nói, nhưng đó không phải là tính cách của cô Lavendar,” Anne thốt. “Chẳng có gì tệ hơn khoảng trống vắng... và cháu đâu có rời khỏi cuộc đời cô. Còn có thư từ và những kỳ nghỉ nữa mà. Cô thân yêu, cháu e là cô hơi xanh xao mệt mỏi đó.”
    “Ô... hú... hú... hú...” Paul đứng trên bức tường liên tục tạo ra đủ loại tiếng động... không phải tiếng động nào cũng du dương lọt tai, nhưng khi vẳng lại, chúng dường như được các bà tiên tôi luyện thành những âm thanh đáng giá tựa bạc vàng. Cô Lavendar phẩy đôi tay xinh đẹp vẻ thiếu kiên nhẫn.
    “Tôi chán tất cả mọi thứ... kể cả những tiếng vọng nữa. Chẳng có gì trong đời tôi ngoại trừ những tiếng vọng... tiếng vọng của niềm vui, giấc mơ và hy vọng đã mất đi. Chúng đẹp nhưng thật trêu ngươi, ôi Anne, tôi thật tệ vì ăn nói như vậy khi có khách. Chỉ là tôi đang già đi và tuổi già không hợp với tôi. Tôi biết mình sẽ khó tính khủng khiếp khi đến sáu mươi tuổi. Nhưng có lẽ tôi chỉ cần một liều thuốc chữa bệnh buồn thôi.”
    Đúng lúc ấy, Charlotta Đệ Tứ, vốn biến mất sau bữa ăn trưa, giờ quay trở lại tuyên bố rằng ở góc Đông Bắc đồng cỏ nhà ôngJohn Kimball dâu chín sớm đỏ rực và hỏi xem cô Shirley có muốn đi hái không.
    “Dâu chín sớm cho buổi trà!” cô Lavendar kêu lên. “ôi, tôi không già như tôi nghĩ... và tôi chẳng cần một thuốc chữa bệnh buồn nào nữa! Các cô gái, khi các cô đem dâu trở lại, chúng ta sẽ dùng trà dưới cây dương bạc này. Tôi sẽ chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ vởi món kem cây nhà lá vườn.”
    Thế là Anne cùng Charlotta Đệ Tứ đi tới đồng cỏ của ông Kimball, một chốn xanh mướt đằng xa nơi không khí mịn như nhung, thơm ngát như một luống violet và óng ánh như hổ phách.
    “Ôi, ở đây không khí mới ngọt ngào và tươi mát làm sao!” Anne hít sâu một hơi. “Chị có cảm giác như đang uống một hơi ánh mặt trời vậy.”
    “Vâng, thưa cô, em cũng thế. Chính xác đó là điều em cảm thấy, thưa cô,” Charlotta đồng ý, cô bé sẽ nói y hệt như vậy nếu Anne bảo cô cảm thấy mình giống như một con bồ nông hoang dại. Sau mỗi lần Anne đến thăm Nhà Vọng, Charlotta Đệ Tứ lại leo lên căn phòng nhỏ của mình phía trên gian bếp, làm bộ làm dạng trước gương, cố gắng nói chuyện, làm dáng và di chuyển như Anne. Charlotta Đệ Tứ chẳng bao giờ có thể tự gạt mình rằng mình đã khá thành công, nhưng có chí thì nên, Charlotta được dạy thế ở trường mà, và cô bé hy vọng tha thiết rằng đến lúc nào đó, cô sẽ học được cái cách hất cằm thanh nhã, ánh mắt lanh lợi long lanh, cách đi đứng cứ như cành cây đung đưa trong gió. Nhìn Anne làm thì có vẻ thật dễ dàng. Charlotta Đệ Tứ ngưỡng mộ Anne từ tận đáy lòng. Không phải vì cô bé nghĩ Anne quá xinh đẹp. vẻ đẹp của Diana Barry với má hồng tóc đen hợp với gu của Charlotta Đệ Tứ hơn là sức quyến rũ của Anne với đôi mắt xám long lanh cùng đôi má phơn phớt hồng.
    “Nhưng em thà giống cô hơn là xinh đẹp,” cô bé thú thật với Anne.
    Anne phá lên cười, nhấm nháp mật ngọt của lời khen tặng và lờ đi vết gai đâm. Cô quen nhận được những lời đánh giá mâu thuẫn. Công chúng chẳng bao giờ đồng ý với nhau về bề ngoài của Anne. Những người nghe đồn cô xinh đẹp gặp cô rồi thất vọng. Những người nghe đồn cô bình thường gặp cô rồi tự hỏi mắt của những kẻ khác để ở đâu. Chính bản thân Anne cũng chẳng bao giờ tin rằng mình có chút mỹ lệ nào. Khi nhìn vào gương, cô chỉ thấy khuôn mặt nhợt nhạt cùng với bảy vết tàn nhang trên mũi. Tấm gương chẳng thể lộ ra cho cô thấy hàng loạt cảm xúc luôn biến ảo hết đến lại đi trên nét mặt cô cứ như một ngọn lửa hồng lấp lánh, hay vẻ quyến rũ của niềm vui và ước mơ xen kẽ trong đôi mắt to của cô.
    Dầu Anne không đẹp theo đúng định nghĩa hẹp của từ đó, cô sở hữu một nét quyến rũ mơ hồ và vẻ bề ngoài đặc biệt, khiến những người gặp cô cảm thấy dễ chịu và hài lòng với tuổi thanh xuân dịu dàng cùng bao tiềm năng mạnh mẽ bên trong. Những người quen biết Anne vô thức cảm nhận được rằng điểm thu hút nhất của Anne là vầng hào quang đầy triển vọng bao quanh cô... sức mạnh của những tiềm năng tương lai tích tụ bên trong cô. Tương lai dường như lẩn quẩn theo từng bước chân cô.
    Trong lúc hái dâu, Charlotta Đệ Tứ tâm sự với Anne về nỗi lo của cô bé với cô Lavendar. Cô bé giúp việc tốt bụng thực lòng lo lắng cho tình trạng của cô chủ đáng yêu của mình.
    “Cô Lavendar không khỏe, cô Shirley ơi, thưa cô. Em chắc là thế, dẫu cô ấy chẳng bao giờ than phiền. Cô ấy không còn là chính mình lâu lắm rồi, thưa cô... kể từ cái ngày cô và Paul cùng đến đây lần trước ấy. Em chắc là cô ấy bị cảm đêm đó, thưa cô. Sau khi cô và cậu Paul đi, cô ấy ra ngoài rồi đi dạo trong vườn thật lâu trong bóng tối mà chỉ khoác có mỗi tấm khăn choàng mỏng dính. Trên lối đi còn rất nhiều tuyết đọng, và em chắc là cô ấy bị cảm, thưa cô. Kể từ đó, em để ý thấy cô ấy cư xử có vẻ mệt mỏi và buồn bã. Cô ấy dường như chẳng quan tâm đến bất cứ thứ gì cả, thưa cô. Cô ấy chẳng giả vờ là có khách tới, không nấu ăn sửa soạn, không làm bất cứ gì cả, thưa cô. Chỉ khi cô đến thăm thì cô ấy dường như mới vui vẻ được một chút. Và dấu hiệu tệ nhất là, cô Shirley ơi, thưa cô...” Charlotta Đệ Tứ hạ giọng cứ như chuẩn bị nói ra một triệu chứng kỳ lạ và cực kỳ khủng khiếp... “cô ấy chẳng bao giờ nổi giận mỗi khi em làm bể đồ. Cô biết không, cô Shirley, thưa cô, hôm qua em làm bể cái chén màu xanh vàng luôn đặt trên kệ sách. Bà nội cô ấy đem từ bên Anh sang và cô Lavendar luôn nâng niu nó. Em cũng phủi bụi nó cẩn thận lắm, cô Shirley ạ, thưa cô, nhưng nó tuột ra thật bất ngờ, trước khi em kịp giữ lại, rồi vỡ tan thành bốn triệu mảnh. Thú thật với cô là em hối hận và sợ lắm. Em nghĩ cô Lavendar sẽ mắng em một trận kinh khủng, thưa cô, và thà là cô ấy cứ mắng em như trước còn hơn. Nhưng cô ấy bước vào phòng, chẳng thèm nhìn đến cái bát vỡ mà chỉ nói, 'Không sao cả, Charlotta. Gom mảnh vỡ lại rồi vứt đi,’ Y sì như vậy đấy, thưa cô, cô Shirley... 'gom mảnh vỡ lại rồi vứt đi,’ cứ như đó không phải cái bát bà nội cô ấy đem từ Anh sang vậy. Ôi, cô ấy không khỏe, và em cảm thấy tồi tệ vì điều đó. Chẳng có ai chăm sóc cô ấy ngoài em.”
    Charlotta Đệ Tứ ứa nước mắt. Anne thông cảm vuốt ve bàn tay rám nắng của cô bé đang cầm chiếc cốc hồng bị nứt.
    “Chị nghĩ là cô Lavendar cần thay đổi, Charlotta ạ. Cô ấy ở đây một mình quá sức cô độc đi. Chúng ta có thể lôi kéo cô ấy đi đâu chơi một chuyến không?”
    Charlotta lắc đầu, những cái nơ to đùng lúc lắc buồn bã.
    “Em không nghĩ vậy đâu, thưa cô, cô Shirley. Cô Lavendar ghét đi thăm viếng lắm. Cô ấy chỉ từng đi thăm viếng có ba người họ hàng, và cô ấy nói đó chỉ là trách nhiệm mà thôi. Lần chót, sau khi về nhà, cô ấy nói sẽ không đi thăm viếng vì trách nhiệm thêm lần nào nữa. ‘Tôi về nhà và đem lòng yêu sự cô đơn, Charlotta ạ,’ cô ấy nói với em thế, 'và tôi không bao giờ muốn rời khỏi mái nhà thương yêu của mình nữa. Họ hàng của tôi cứ cố biến tôi thành một bà già, và điều đó ảnh hưởng tồi tệ đến tôi,’ Như thế đấy, thưa cô, cô Shirley. 'Điều đó ảnh hưởng tồi tệ đến tôi,’Cho nên em nghĩ có dỗ dành cô ấy đi đâu cũng chẳng ích gì.”
    “Chúng ta phải xem xem có cách nào khác không,” Anne quả quyết rồi bỏ trái dâu cuối cùng có thể vào cái cốc hồng của mình. “Ngay khi kỳ nghỉ hè bắt đầu, chị sẽ tới ở nguyên tuần với em và cô Lavendar. Chúng ta sẽ ăn uống ngoài trời mỗi ngày, tưởng tượng đủ điều thú vị xem có làm cô Lavendar vui lên được không.”
    “Thế là đúng cách rồi đấy, thưa cô; cô Shirley,” Charlotta Đệ Tứ reo lên hân hoan. Cô bé vui giùm cho cô Lavendar và cũng vì chính mình nữa. Có cả một tuần để liên tục quan sát Anne, chắc chắn cô bé sẽ học được cách đi đứng và cư xử như thần tượng của mình.
    Khi các cô gái quay lại Nhà Vọng, họ thấy cô Lavendar và Paul đã khiêng cái bàn vuông nhỏ từ bếp ra vườn và sắp sẵn mọi thứ cho bữa trà. Chẳng có gì ngon hơn món dâu tươi và kem nhà làm, nhấm nháp thức ăn dưới bầu trời xanh ngăn ngắt điểm những cụm mây trắng nhỏ như bông gòn, trong bóng mát của cây rừng thì thầm xào xạc. Sau khi dùng bữa xong, Anne giúp Charlotta rửa chén trong bếp, trong khi cô Lavendar ngồi trên ghế đá với Paul nghe cậu kể về những người sống trên vách đá. Cô Lavendar dễ thương là một người biết lắng nghe, nhưng cuối cùng, Paul nhận ra cô đột ngột mất hứng thú với cặp thủy thủ song sinh.
    “Cô Lavendar, sao cô nhìn cháu như thế?” cậu nghiêm túc hỏi.
    “Nhìn thế nào, hả Paul?”
    “Cứ như cô đang nhìn xuyên qua cháu vào một người được cháu gợi nhớ trong tâm trí cô,” Paul đáp, thỉnh thoảng cậu lại có sự hiểu biết sâu sắc kỳ lạ đến mức chẳng dễ giữ kín bí mật nào khi ở quanh cậu.
    “Cháu quả thật gợi cho cô nhớ đến một người cô biết đã lâu,” cô Lavendar mơ màng.
    “Khi cô còn trẻ?”
    “Ừ, khi cô còn trẻ. Cháu thấy cô có già lắm không, Paul?”
    “Cô biết không, cháu chẳng biết trả lời thế nào,” Paul thổ lộ. “Tóc của cô nhìn già... cháu chưa biết người trẻ nào có tóc trắng cả. Nhưng mỗi khi cô cười, mắt cô trẻ trung chẳng kém gì cô giáo xinh đẹp của cháu. Cháu nói điều này với cô nhé, cô Lavendar”... Khuôn mặt và giọng nói của Paul trang trọng như một quan tòa... “Cháu nghĩ cô sẽ là một người mẹ tuyệt vời. Cô có ánh mắt thật hợp... ánh mắt mà người mẹ bé nhỏ của cháu luôn có. Cháu nghĩ thật đáng tiếc khi cô chẳng có cậu con trai nào.”
    “Tôi có một cậu con trai trong mơ, Paul ạ.”
    “Ồ, thật ạ? Bạn ấy bao nhiêu tuổi?”
    “Tôi nghĩ là khoảng tuổi cháu đấy. Đáng lẽ cậu bé phải lớn hơn một chút, vì tôi mơ về cậu bé từ lâu lắm trước khi cháu ra đời. Nhưng tôi chưa bao giờ để cậu bé lớn hơn mười một hay mười hai tuổi, vì nếu như vậy thì một ngày nào đó cậu bé sẽ hoàn toàn trưởng thành, khi đó tôi sẽ mất cậu bé.”
    “Cháu hiểu,” Paul gật đầu. “Đó là cái hay của nhữngngười trong mơ... muốn họ ở tuổi nào là họ ở tuổi đó. Cô, cô giáo xinh đẹp của cháu và cháu là những người duy nhất trên thế giới mà cháu biết là có những người trong mơ. Thật thú vị và thật vui khi chúng ta đều biết nhau, phải không? Nhưng cháu cho rằng người như chúng ta luôn tự tìm đến nhau. Bà nội cháu chẳng có người trong mơ nào, và Mary Joe nghĩ rằng cháu bị tâm thần khi nghĩ về họ. Nhưng cháu nghĩ có họ thật tuyệt. Cô biết mà, cô Lavendar. Hãy kể cho cháu nghe về cậu bé trong mơ của cô đi.”
    “Cậu bé có mắt xanh, tóc quăn. Mỗi sáng cậu bé lẻn vào phòng đánh thức tôi dậy bằng một nụ hôn. Rồi cả ngày cậu bé chơi trong vườn... và tôi cùng chơi với cậu bé. Những trò chơi như chúng ta chơi khi nãy. Bọn cô chạy thi, trò chuyện với những tiếng vọng, và cô kể chuyện cho cậu bé nghe. Rồi khi hoàng hôn buông xuống...”
    “Cháu biết,” Paul hăm hở cắt lời. “Cậu ấy sẽ đến ngồi cạnh bên cô... như thế này này... bởi vì đương nhiên, mười hai tuổi thì quá lớn không ngồi vào lòng cô được... và ngả đầu lên vai cô... như thế này này... và cô choàng tay quanh cậu bé, ôm chặt, thật chặt, rồi áp má lên đầu cậu bé... đúng thế, y hệt như thế. ôi, cô cũng biết hết, cô Lavendar ơi.”
    Khi bước ra khỏi căn nhà đá Anne thấy hai người họ ngồi đó, và có gì đó trên khuôn mặt của cô Lavendar khiến cô chẳng muốn quấy rầy họ chút nào.
    “Cô e là chúng ta phải đi thôi, Paul ạ, nếu chúng ta muốn về đến nhà trước khi trời tối. Cô Lavendar ơi, sắp tới cháu sẽ tự mời mình đến Nhà Vọng ở suốt một tuần liền nhé.”
    “Nếu cháu đến ở một tuần, tôi sẽ giữ cháu đến hai tuần luôn,” cô Lavendar đe dọa.

  10. #29
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 28 - HOÀNG TỬ QUAY LẠI TÒA LÂU ĐÀI BỊ PHÙ PHÉP
    Ngày bế giảng năm học đến rồi lại đi. Một buổi “kiểm tra giữa năm học” để tổng kết thành quả được tổ chức và các học trò của Anne đã đạt kết quả đáng kinh ngạc. Vào cuối buổi, đám học trò tặng cô một bài diễn văn cùng một cái bàn viết. Các bà các cô có mặt đều òa lên khóc, vài đứa trong đám con trai về sau cũng bị trêu là có ứa nước mắt, dẫu đứa nào cũng kiên quyết phủ nhận.
    Bà Harmon Andrews, bà Peter Sloane và bà W illiam Bell cùng nhau đi bộ về nhà và trò chuyện về buổi bế giảng.
    “Thật tiếc vì Anne sẽ đi, nhất là khi đám trẻ con có vẻ gắn bó với cô gái như vậy,” bà Peter Sloane thở dài, bà này có thói quen thở dài vào cuối câu nói, kể cả câu nói đùa.
    “Đương nhiên,” bà ta vội nói thêm, “chúng ta đều biết năm sau chúng ta sẽ có một cô giáo mới cũng rất tốt.”
    “Jane sẽ hoàn thành trách nhiệm của mình, tôi không nghi ngờ gì về điều đó,” bà Andrews nói có vẻ bực bội. “Tôi cho rằng con bé sẽ không kể nhiều truyện cổ tích cho đám học trò nghe hay dành nhiều thời gian lang thang trong rừng với chúng như thế. Nhưng dù gì con bé cũng có tên trên bảng danh dự của Thanh tra trường học và cư dân New bridge đang rối tinh rối mù lên khi con bé nghỉ việc.”
    “Tôi thực sự vui khi Anne đi học đại học,” bà Bell nói. “Con bé luôn ao ước được thế và đó sẽ là một điều tuyệt vời cho nó.”
    “Ồ, tôi không chắc đâu.” Bà Andrews quyết tâm không hoàn toàn đồng ý với bất cứ ai trong ngày hôm đó. “Tôi không thấy Anne cần học thêm làm gì. Có lẽ con bé sẽ cưới Gilbert Blythe, nếu tình cảm của thằng bé dành cho Anne còn giữ được đến sau khi tốt nghiệp, rồi thì tiếng Latinh với lại tiếng Hy Lạp được dùng vào việc gì đây? Nếu ở đại học có dạy cách quản lý đàn ông thì đi còn có lý.”
    Theo những nguồn tin ngồi lê đôi mách ỞAvonlea, bà Harmon Andrews vẫn chưa học được cách quản lý “người đàn ông” của mình, kết quả là gia đình Andrews không hẳn là một mô hình hạnh phúc mẫu mực.
    “Nghe nói hạn chót để ông Allan lên nhận việc ở Charlottetown là trước ngày họp Giáo hội trưởng lão,” bà Bell nói. “Có nghĩa là ông ấy sẽ sớm rời chúng ta mà đi, tôi nghĩ thế.”
    “Họ không đi trước tháng Chín đâu,” bà Sloane nói. “Đó là một tổn thất lớn cho cộng đồng... dẫu tôi luôn nghĩ rằng cô Allan ăn mặc quá lòe loẹt với tư cách là vợ một mục sư. Nhưng chẳng ai trong chúng ta hoàn hảo cả. Các chị có thấy hôm nay ông Harrison gọn gàng và hớn hở thế nào không? Tôi chưa thấy người đàn ông nào thay đổi nhiều đến vậy.Ông ta đi nhà thờ mỗi Chủ nhật và còn góp tiền trả lương mục sư nữa chứ.”
    “Paul Irving đã lớn tướng rồi đấy nhỉ?” bà Andrews lên tiếng. “Khi mới tới đây thằng bé còn nhỏ tí ti so với tuổi. Phải nói là hôm nay tôi gần như chẳng nhận ra nó. Thằng bé lớn lên sẽ giống ba nó lắm đây.”
    “Đó là một cậu bé thông minh,” bà Bell nói.
    “Nó thông minh đấy, nhưng”... bà Andrews hạ giọng... “nghe bảo nó nói chuyện kỳ lạ lắm. Một hôm tuần trước, Gracie từ trường về nhà cứ huyên thuyên không dứt về một câu chuyện thằng bé kể, về những người sống bên bờ biển ấy... những câu chuyện chẳng có chữ nào là thật cả, các chị biết đó. Tôi bảo Gracie đừng có tin, con bé đáp là Paul cũng chẳng có ý muốn nó tin. Nhưng nếu vậy thì còn kể làm quái gì?”
    “Anne nói Paul là một thiên tài,” bà Sloane nói.
    “Có lẽ. Ta không bao giờ biết được đám người Mỹ có thể làm những gì,” bà Andrews nói. Bà Andrews chỉ biết đến từ “thiên tài” trong cụm từ “thiên tài quái dị” hay được dùng để chỉ những người điên khùng. Có lẽ bà cũng nghĩ y hệt như Mary Joe, rằng đó là loại người có vấn đề về mặt tâm thần.
    Trong phòng học, Anne ngồi một mình trước bàn giáo viên, y hệt như cô đã từng ngồi vào ngày khai giảng hai năm về trước, tay chống cằm, đôi mắt đẫm lệ đăm chiêu nhìn ra hồ Lấp Lánh bên ngoài cửa sổ. Trái tim cô quá nhức nhối sau khi chia tay với đám học trò đến mức, trong một thoáng, đại học chẳng còn chút gì hấp dẫn nữa. Cô vẫn còn cảm thấy vòng ôm bíu chặt của Annetta Bell quanh cổ và nghe tiếng nức nở trẻ thơ, “Em sẽ không bao giờ yêu cô giáo nào như yêu cô, cô Shirley ơi, không bao giờ, không bao giờ.”
    Trong hai năm vừa qua, cô đã làm việc nghiêm túc và nhiệt tình, phạm phải nhiều sai lầm và rút ra kinh nghiệm từ chúng. Cô đã nhận được phần thưởng. Cô đã dạy đám học trò vài điều, nhưng cô cảm thấy chúng dạy cô được nhiều hơn thế... những bài học về sự dịu dàng, tự chủ, trí tuệ trẻ thơ và hiểu biết về trái tim con trẻ. Có lẽ cô vẫn chưa thành công trong việc “khêu gợi” những khát vọng cao quý trong lòng đám học trò, nhưng cô đã dạy cho chúng, bằng chính nhân cách dịu dàng của riêng cô hơn là những bài học được chuẩn bị kỹ lưỡng, rằng những năm về sau, cần phải sống đẹp và độ lượng, luôn trung thực, lịch sự và thương người, xa rời những điều dối trá, xấu xa và thô tục. Có lẽ đám trẻ vẫn chưa ý thức rằng mình đã học được những bài học như vậy, nhưng chúng sẽ ghi nhớ và thực hành những điều được dạy rất lâu về sau, dẫu chúng đã quên mất thủ đô Aíghanistan tên gì hay Chiến tranh Hoa hồng diễn ra vào ngày mấy.
    “Thêm một chương của cuộc đời mình khép lại,” Anne nói to khi khóa bàn lại. Cô thực sự cảm thấy rất buồn, nhưng sự lãng mạn trong ý tưởng “một chương khép lại” cũng an ủi cô đôi chút.
    Cô ở Nhà Vọng hai tuần vào đầu kỳ nghỉ, và mọi người có liên quan đều có một khoảng thời gian vui vẻ.
    Cô đưa cô Lavendar đến thị trấn mua sắm và thuyếtphục cô ấy mua một chiếc váy vải phin nõn mới, rồi tiếp theo là hết cắt rồi may một cách phấn khích, trong khi Charlotta Đệ Tứ khâu lược và dọn dẹp những mẩu vải vụn. Cô Lavendar từng than phiền là mình chẳng mấy hứng thú về mọi chuyện, nhưng đôi mắt cô lấp lánh trở lại trước chiếc váy xinh đẹp của mình.
    “Tôi thật là một người ngớ ngẩn và phù phiếm biết bao,” cô thở dài. “Tôi vô cùng xấu hổ khi nghĩ rằng một chiếc váy mới lại làm tôi vui sướng phát điên như vậy... dẫu nó có là một chiếc váy phin nõn màu tím lưu ly đi chăng nữa, trong khi một lương tâm thanh thản và phần quyên góp cho Hội Truyền giáo Nước ngoài không sao làm được.”
    Vào giữa chuyến viếng thăm, Anne về Chái Nhà Xanh một ngày để vá vở cho cặp song sinh và giải quyết hàng đống câu hỏi tích lũy của Davy. Buổi chiều, cô đi xuống đường bờ biển để gặp Paul Irving. Khi cô băng qua ô cửa sổ thấp của phòng khách nhà Irving, cô thoáng thấy Paul đang ngồi trong lòng ai đó, nhưng ngay lập tức Paul đã chạy vọt xuống hành lang.
    “Ôi, cô Shirley,” cậu kêu lên đầy kích động, “cô không ngờ chuyện gì đã xảy ra đâu! Một chuyện thật tuyệt vời. Ba đang ở đây... nghĩ mà xem! Ba đang ở đây! Mời cô vào. Ba ơi, đây là cô giáo xinh đẹp của con. Ba biết rồi đó.”
    Stephen Irving bước tới mỉm cười chào Anne. Ông là một người đàn ông trung niên cao lớn đẹp trai, tóc xám, mắt sâu xanh sẫm, khuôn mặt mạnh mẽ nhưng u buồn, cằm và trán hết sức hài hòa. Đúng như khuôn mặt của nhân vật nam chính trong các truyện lăng mạn, Anne nghĩ thầm, lòng rộn ràng thỏa mãn. Thật thất vọng nếu gặp phải một người là nhân vật nam chính nhưng lại hói đầu, lưng còng hay thiếu vẻ nam tính. Anne sẽ cảm thấy khủng khiếp lắm nếu đối tác tình yêu của cô Lavendar lại không xứng với vai trò của mình.
    “Vậy đây là 'cô giáo xinh đẹp' của cậu con trai bé nhỏcủa tôi, tôi đã nghe kể rất nhiều về cô,” ông Irving nói với cái bắt tay thật chặt. “Thư của Paul viết đầy về cô, cô Shirley ạ, đến mức tôi cảm thấy mình đã quen với cô từ lâu rồi. Tôi muốn cảm ơn cô về những điều cô đã làm cho Paul. Tôi cho rằng ảnh hưởng của cô chính là điều thằng bé cần. Mẹ tôi là một trong những phụ nữ tốt đẹp và thân yêu nhất, nhưng tính cách thực tế thẳng thừng kiểu Scotch của bà chẳng thể luôn thông hiếu được cậu bé trai của tôi. Những gì bà thiếu, cô đã bù đắp cho thằng bé. Nhờ vào hai người, tôi cho rằng hai năm qua Paul đã được giáo dục ở mức tốt nhất mà một cậu bé mồ côi mẹ có thể có được.”
    Ai cũng thích được đánh giá cao. Dưới lời khen ngợi của ông Irving, khuôn mặt Anne “Ửng hồng như đóa hoa đào,” và người đàn ông bận rộn mệt mỏi với trò đời nhìn cô, nghĩ thầm rằng mình chưa bao giờ nhìn thấy cô gái nào xinh đẹp đáng yêu như cô giáo làng ở “tít rìa Đông” với đôi mắt tuyệt vời và mái tóc đỏ.
    Paul ngồi giữa bọn họ, hạnh phúc mê người.
    “Em chẳng bao giờ mơ là ba sẽ tới,” mặt cậu rạng rỡ. “Ngay cả bà nội cũng không biết. Đó là một bất ngờ tuyệt vời. Nói chung thì...” Paul lúc lắc mái tóc xoăn nâu vẻ nghiêm trang...
    “Em không thích bất ngờ. Khi bị bất ngờ thì ta mất hết cả niềm vui thích khi chờ đợi. Nhưng trong trường hợp thế này thì hoàn toàn ổn. Ba tới vào tối hôm qua sau khi em đã đi ngủ. Và sau khi bà nội cùng Mary Joe đã qua cơn kinh ngạc, ba và bà nội lên lầu chỉ để nhìn em thôi, định đến sáng mới đánh thức em dậy. Nhưng em tỉnh dậy ngay và nhìn thấy ba. Phải nói là em lao thẳng vào ba ấy chứ.”
    “Và ôm chầm lấy tôi mạnh như một con gấu,” ông Irving choàng tay qua vai Paul và mỉm cười. “Tôi gần như không nhận ra cậu con trai của mình nữa, nó lớn quá, rám nắng và chắc nịch.”
    “Em không biết ai vui hơn khi nhìn thấy ba, bà nội hay em,” Paul tiếp. “Bà nội loay hoay trong bếp cả ngày để làm những món ba thích ăn. Bà không tin tưởng Mary Joef bà nói vậy đấy. Đó là cách bà thể hiện niềm vui sướng của mình. Em thì thích nhất là chỉ ngồi nói chuyện với ba. Nhưng nếu cô cho phép thì em phải chạy ra ngoài một chút. Em phải dắt bò vào cho Mary Joe. Đó là một trong những nhiệm vụ hằng ngày của em.”
    Trong khi Paul vội vàng đi “làm nhiệm vụ”, ông Irving nói chuyện với Anne về nhiều việc. Nhưng Anne cảm thấy ông đang nghĩ đến một điều gì khác trong suốt thời gian đó. Cuối cùng thì ông cũng nhắc đến điều mình đang canh cánh trong lòng.
    “Trong lá thư cuối cùng của Paul, cháu có kể chuyện đi với cô đến thăm một... người bạn cũ của tôi... cô Lewis ở ngôi nhà đá ở Grafton. Cô thân với cô ấy lắm sao?”
    “Vâng, đúng vậy, cô ấy là một người bạn rất thân của cháu,” Anne trả lời một cách nghiêm túc, không hề để lộ cảm giác kích động đột ngột đang lan tỏa từ đầu đến chân cô khi nghe câu hỏi của ông Irving. Anne đã “linh cảm” thấy tình yêu lãng mạn đang lấp ló ở một góc quanh.
    Ông Irving đứng dậy bước tới cửa sổ, ô cửa này nhìn ra mặt biển mênh mông óng ánh cuộn sóng và ngọn gió hoang đang ngân nga tiếng nhạc. Trong một thoáng, im lặng buông xuống căn phòng nhỏ với những bức tường sẫm màu. Rồi ông quay sang, mỉm cười nửa dịu dàng, nửa như trêu cợt xuống khuôn mặt đầy cảm thông của Anne.
    “Tôi tự hỏi cháu biết được bao nhiêu chuyện,” ông nói.
    “Cháu biết tất cả,” Anne đáp nhanh, “ông biết đấy,” cô vội giải thích thêm, “cô Lavendar và cháu rất thân với nhau. Không phải ai cô ấy cũng kể những chuyện thâm kín thiêng liêng như thế đâu. Chúng cháu là tri âm tri kỷ.”
    “Ừ, tôi tin là thế. Ồ, tôi muốn nhờ cháu một việc. Tôi muốn đến thăm cô Lavendar nếu cô ấy cho phép. Cháu có thể hỏi ý cô ấy giúp tôi không?”
    Có giúp hay không? ôi, đương nhiên là cô sẽ giúp rồi! Đúng, đó chính là tình yêu lãng mạn, tình yêu thực sự với vẻ duyên dáng của những vần điệu, cổ tích và giấc mơ. Có lẽ nó đến hơi muộn một chút, giống như một đóa hồng nở vào tháng Mười trong khi đáng lẽ phải nở vào tháng Sáu, nhưng dù sau cũng vẫn là một đóa hồng, dịu dàng thơm ngát với nhị hoa lấp lánh ánh vàng. Chưa bao giờ đôi chân Anne thoăn thoắt với nhiều nhiệt tình đến thế như trong chuyến đi băng qua rừng sồi đến Grafton vào sáng hôm sau. Cô thấy cô Lavendar đang ở trong vườn. Anne hồi hộp khủng khiếp. Tay cô lạnh giá, giọng run rẩy.
    “Cô Lavendar, cháu có chuyện muốn nói với cô... một chuyện vô cùng quan trọng. Cô có thể đoán đó là gì không?”
    Anne không bao giờ cho rằng cô Lavendar có thể đoán được, nhưng khuôn mặt cô Lavendar trở nên tái nhợt, rồi cô cất giọng dè dặt run rẩy, bao nhiêu màu sắc lấp lánh ngày thường đột ngột biến mất.
    “Stephen Irving về rồi ư?”
    “Làm sao cô biết? Ai kể cho cô?” Anne kêu lên vẻ thất vọng, bực bội khi bí mật tuyệt vời của cô đã bị bật mí.
    “Chẳng ai cả. Tôi biết thôi, chỉ từ cách nói của cháu.”
    “Ông ấy muốn tới thăm cô,” Anne thốt. “Cháu có thể cho ông ấy biết là cô đồng ý không?”
    “ừ, đương nhiên rồi,” cô Lavendar lộ vẻ bâng khuâng. “Chẳng có lý do gì mà không nên cả. Anh ấy chỉ đến như một người bạn cũ thôi mà.”
    Anne có ý kiến riêng của mình về chuyến viếng thăm này, cho nên cô vội vã bước vào nhà để viết một lời nhắn tại bàn của cô Lavendar.
    “Ôi, sống ngay trong một cuốn truyện thật là thú vị,” cô vui sướng nghĩ bụng. “Mọi chuyện đương nhiên sẽ kết thúc tốt đẹp thôi... phải như thế... và Paul sẽ có một người mẹ đúng ý mình, và mọi người sẽ đều hạnh phúc cả. Nhưng ông Irving sẽ đưa cô Lavendar đi... và có trời mới biết chuyện gì sẽ xảy đến với căn nhà đá nhỏ bé này... vậy là luôn có hai mặt của vấn đề, như mọi điều khác trên thế giới này vậy.” Lời nhắn quan trọng đã được viết xong, Anne đích thân đem nó tới bưu điện Grafton, ở đó, cô chặn người phát thư lại và dặn dò ông ta nhớ đem nó đến bưu điện Avonlea.
    “Nó hết sức quan trọng đấy ạ,” Anne lo lắng lặp đi lặp lại với ông ta. Người phát thư là một ông già gắt gỏng chẳng giống bộ dạng sứ giả của thân Ái tình tí xíu nào, Anne cũng chẳng dám chắc là ông ta sẽ nhớ. Nhưng ông ta hứa sẽ cố hết sức ghi nhớ, và cô đành phải bằng lòng với lời hứa đó.
    Charlotta Đệ Tứ cảm thấy có một bí ẩn nào đó đang bao trùm căn nhà đá vào chiều hôm ấy... một bí ẩn mà cô bé bị ra rìa. Cô Lavendar lang thang trong vườn với vẻ thẫn thờ. Anne dường như cũng bị con quỷ bất an chiếm ỉĩnh, cứ đi qua đi lại, đi lên đi xuống mãi không thôi. Charlotta Đệ Tứ chịu đựng điều đó cho đến khi kiên nhẫn không còn là một đức tính tốt nữa, cô bé chặn Anne lại khi cô gái lãng mạn này đang đi chuyến hành trình vô định thứ ba qua gian bếp.
    “Làm ơn mà, thưa cô, cô Shirley.” Charlotta Đệ Tứ năn nỉ, những chiếc nơ xanh biếc lúc lắc bất bình, “rõ ràng cô và cô Lavendar đang có một bí mật gì đó, và em nghĩ, xin lỗi nếu em quá sỗ sàng, thưa cô, cô Shirley, rằng thật nhỏ mọn khi cô không cho em biết, nhất là khi chúng ta thân thiết với nhau như vậy.”
    “Ôi, Charlotta yêu quý, nếu là bí mật của chị thì chị đã kể hết cho em nghe rồi, nhưng em thấy đấy... đây là bí mật của cô Lavendar. Dù sao thì chị cũng bật mí tí xíu với em nhé... và nếu chuyện không có kết quả thì em không bao giờ được hé lộ cho bất cứ ai nhé. Em thấy đấy, bạch mã hoàng tử sẽ đến vào tối nay. Chàng đã từng đến một lần hồi lâu lắm rồi, nhưng trong một giây phút bốc đồng chàng đã bỏ đi, lang thang quá xa và quên mất bí mật của con đường kỳ diệu dẫn tới lâu đài bị phù phép, nơi nàng công chúa chung thủy đang nhỏ lệ nhớ thương. Nhưng cuối cùng chàng cũng nhớ ra, và nàng công chúa vẫn đang chờ đợi... bởi vì chẳng ai trừ chàng hoàng tử yêu quý ấy có thể đưa nàng rời đi.”
    “Ôi, thưa cô, cô Shirley, diễn ra văn xuôi là thế nào vậy?” Charlotta hoang mang kêu lên.
    Anne phá lên cười.
    “Diễn ra văn xuôi thế này này, một người bạn cũ của cô Lavendar sẽ đến thăm cô ấy tối nay.”
    “Ý cô muốn nói là người yêu cũ của cô ấy ư?” Charlotta phàm tục hỏi kỹ lại.
    “Đó có lẽ là điều chị muốn nói đấy... dưới dạng văn xuôi,” Anne nghiêm túc đáp. “Đó là ba của Paul... Stephen Irving. Và có trời mới biết chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng chúng ta cứ hy vọng vào điều tốt nhất đi, Charlotta.”
    “Em ước gì ông ấy sẽ cưới cô Lavendar,” Charlotta dứt khoát tuyên bố. “Có vài phụ nữ số định sẵn phải làm gái già, và em e rằng em là một trong số đó, thưa cô, cô Shirley, bởi vì em chẳng có chút xíu xìu xiu kiên nhẫn nào với bọn đàn ông. Nhưng cô Lavendar thì không như thế. Và em lo lắng khủng khiếp, chẳng biết cô ấy sẽ sống sót thế nào khi em quá lớn và phải đi Boston. Nhà em chả còn đứa con gái nào, và trời mới biết cô ấy sẽ ra sao nếu phải sống chung với một người lạ nào đó, họ sẽ cười cợt khi cô ấy tưởng tượng giả vờ, để đồ đạc lung tung và không chịu lấy tên Charlotta Đệ Ngũ. Cô ấy có thể kiếm được một người không hay xui xẻo làm bể chén đĩa như em, nhưng chẳng có ai yêu cô ấy hơn em đâu.”
    Và cô bé giúp việc trung thành thút thít chạy vọt tới cửa bếp lò.
    Tối hôm đó ở Nhà Vọng, mọi người dùng bữa trà như thường lệ, nhưng chẳng ai ăn uống được gì. Sau bữa trà, cô Lavendar lên phòng, mặc chiếc váy phin nõn mới màu tím lưu ly trong khi Anne chải tóc cho cô. Cả hai đều hồi hộp khủng khiếp, nhưng cô Lavendar giả vờ bình tĩnh và lạnh lùng.
    “Mai tôi phải vá lại vết rách trên tấm rèm mới được.”
    Cô lo lắng xem xét tấm rèm cứ như chỉ có nó là đáng kể vào lúc này. “Những tấm rèm này không xứng với giá tiền mà tôi trả. Trời ơi, Charlotta lại quên quét bụi lan can cầu thang rồi. Tôi phải nhắc nhở cô bé mới được.”
    Anne đang ngồi trên bậc thềm trước hiên nhà khi Stephen Irving Thiên đường xuôi lối đi và băng qua khu vườn.
    “Đây chính là nơi thời gian đứng lại,” ông nói và nhìn quanh với vẻ hân hoan. “Ngôi nhà và khu vườn này chẳng có gì thay đổi kể từ lần chót tôi ở đây hai mươi lăm năm trước. Nó làm tôi cảm thấy trẻ trung trở lại.”
    “Ông biết đấy, thời gian luôn dừng lại trong tòa lâu đài bị phù phép,” Anne nói một cách chân thành. “Chỉ khi hoàng tử đặt chân tới thì mọi việc mới thực sự bắt đầu.”
    Ông Irving mỉm cười có chút buồn bã với khuôn mặt đầy hy vọng của cô; khuôn mặt chói ngời vẻ thanh xuân và hứa hẹn.
    “Đôi khi hoàng tử đến quá muộn,” ông nói. Ông không cần đề nghị Anne diễn đạt lời nói của mình ra dạng văn xuôi. Như mọi tri âm tri kỷ khác, ông “hiểu” hết.
    “Ồ không, không đâu, nhất là khi đó là hoàng tử thực sự đến tìm nàng công chúa chân chính,” Anne quả quyết lúc lắc mái tóc đỏ rồi mở cửa phòng khách. Khi ông bước vào trong, cô đóng chặt cửa lại, quay người đối diện với Charlotta Đệ Tứ, cô bé đang đứng ở hành lang, “gật gù ủng hộ và mặt tươi hơn hớn.”[6]
    “Ôi, thưa cô, cô Shirley,” cô bé hít hà, “em nhìn lén từ cửa sổ nhà bếp... Ông ấy đẹp trai khủng khiếp... vừa đúng độ tuổi hợp với cô Lavendar. Và chao ôi, thưa cô, cô Shirley, cô nghĩ nghe lén ở cửa thì có hại gì không?”
    “Điều đó tệ khủng khiếp, Charlotta ạ,” Anne quả quyết, “cho nên em hãy đi cùng với chị ra xa để tránh khỏi sự cám dỗ thôi.”
    “Em chẳng làm gì nổi cả, và cứ thẫn thờ chờ đợi thì thật khủng khiếp,” Charlotta thở dài. “Nếu lỡ ông ấy không chịu cầu hôn thì sao, thưa cô, cô Shirley? Ta chẳng bao giờ có thể tin tưởng vào bọn đàn ông cả. Chị cả của em, Charlotta Đệ Nhất, có lần nghĩ là chị ấy đã đính hôn với một người. Nhưng hóa ra anh chàng lại nghĩ khác và chị ấy nói sẽ không bao giờ tin một tên đàn ông nào nữa cả. Em còn nghe một trường hợp khác nữa cơ, một người đàn ông tưởng mình mê tít cô em, trong khi hóa ra người anh ta thực sự muốn lại là cô chị. Khi một người đàn ông còn không biết mình nghĩ gì, thưa cô, cô Shirley, thì làm sao một phụ nữ đáng thương có thể biết được chứ?”
    “Chúng ta vào bếp rửa bộ thìa bạc đi,” Anne nói. “Công việc đó chẳng đòi hỏi phải suy nghĩ gì nhiều... vì tối nay chị không thể nghĩ ngợi gì. Và nó cũng giúp mình giết thời gian nữa.”
    Một giờ trôi qua. Khi Anne đặt xuống cái thìa bóng loáng cuối cùng, họ nghe tiếng cửa trước đóng lại. cả hai hoảng hốt nhìn vào mắt nhau tìm sự an ủi.
    “Ôi, thưa cô, cô Shirley,” Charlotta thổn thức, “nếu ông ấy đi sớm như vầy thì chẳng thể trông đợi gì vào cả hiện tại và tương lai đâu.” Họ chạy như bay ra cửa sổ. Ông Irving không hề có ý định rời đi. Ông và cô Lavendar đang chầm chậm rảo bước trên lối đi chính giữa dẫn ra băng ghế đá.
    “Ôi, thưa cô, cô Shirley, ông ấy choàng tay qua eo của cô Lavendar,” Charlotta Đệ Tứ thì thầm vui sướng. “Nhất định là ông ấy đã cầu hôn, nếu không cô ấy không đời nào cho phép.”
    Anne ôm chầm lấy vòng eo tròn trĩnh của Charlotta Đệ Tứ và hai người khiêu vũ vòng quanh nhà bếp cho đến khi hết cả hơi.
    “Ôi, Charlotta,” cô kêu lên sung sướng, “chị không phải là nhà tiên tri cũng chẳng phải là con gái của một nhà tiên tri, nhưng giờ chị có thể đưa ra một lời tiên đoán. Sẽ có một đám cưới tổ chức ở căn nhà đá cổ kính này trước khi lá phong đổi màu. Em có cần chị dịch ra văn xuôi không hả Charlotta?”
    “Không, em hiểu được mà,” Charlotta đáp. “Một đám cưới đâu phải là thơ thẩn gì đâu. Ôi, thưa cô, cô Shirley, cô đang khóc kìa! Vì sao vậy?”
    “Ồ, bởi vì mọi chuyện thật đẹp... như trong truyện vậy... vừa lãng mạn... vừa phảng phất buồn,” Anne chớp mắt cho giọt lệ rơi xuống. “Mọi chuyện hoàn toàn tuyệt vời... nhưng chẳng hiểu sao vẫn có chút buồn lẫn trong đó.”
    “Ôi, đương nhiên cưới ai thì cũng có mạo hiểm cả,” Charlotta Đệ Tứ thừa nhận, “nhưng nói gì thì nói, thưa cô, cô Shirley, còn nhiều thứ tệ hơn một ông chồng nhiều.”

  11. #30
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,678
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 29 - THƠ CA VÀ VĂN XUÔI
    Trong tháng kế tiếp, cuộc sống của Anne có thể gọi là một vòng xoáy phấn khích, ít nhất là đối với vùng Avonlea nhỏ bé. Tầm quan trọng của công cuộc chuẩn bị các bộ quần áo khiêm tốn để mặc ở Redmond chỉ đứng ở hàng thứ hai thôi. Cô Lavendar chuẩn bị kết hôn, và căn nhà đá trở thành nơi diễn ra vô số các cuộc tư vấn, tính toán và thảo luận bất tận, Charlotta Đệ Tứ nhấp nhỏm chầu rìa mọi công việc trong tâm trạng kích động và vui sướng khôn xiết. Khi thợ may đến, việc lựa chọn và thử các bộ áo váy bắt đầu vởi bao niềm vui và cả mệt mỏi nữa. Anne và Diana dành phân nửa thời gian ở Nhà Vọng, nhiều đêm Anne không ngủ được vì băn khoăn không biết mình đã đúng hay sai khi khuyên cô Lavendar chọn màu nâu thay cho màu xanh dương cho bộ váy đi đường, hay chọn vải lụa xám làm bộ váy công chúa.
    Mọi người có liên quan trong câu chuyện của cô Lavendar đều hết sức hạnh phúc. Paul Irving lao đến Chái Nhà Xanh để báo tin mừng cho Anne ngay khi ba kể cho cậu nghe.
    “Em biết mình có thể tin tưởng rằng ba sẽ chọn cho em một người mẹ thứ hai thật tốt mà,” cậu tự hào. “Có được một người cha đáng tin cậy thì thật là tuyệt, cô giáo ạ. Em rất mến cô Lavendar. Bà nội cũng rất vui. Bà nói bà mừng khi ba không chọn một cô người Mỹ làm vợ thứ hai, bởi vì dẫu lần đầu ba đã chọn đúng, nhưng vận may chẳng đến hai lần. Bà Lynde nói bà ấy hết sức tán thành cuộc hôn nhân này, và nghĩ có lẽ cô Lavendar sẽ bớt đi những suy nghĩ kỳ dị để giống người bình thường, vì giờ cô ấy sắp lấy chồng rồi. Nhưng em mong là cô ấy sẽ không mất đi những ý tưởng đặc biệt của mình, cô giáo ạ, vì em rất thích những ý tưởng ấy. Và em không muốn cô ấy giống như mọi người. Chung quanh ta đã có quá đủ người bình thường rồi mà. Cô biết rõ mà, cô giáo.”
    Charlotta Đệ Tứ cũng sướng mê tơi.
    “Ôi, thưa cô, cô Shirley, mọi chuyện hóa ra đều thật tốt đẹp. Khi ông Irving và cô Lavendar quay lại từ tháp ngà của bọn họ, em sẽ đến Boston để sống cùng... mà em chỉ mới mười lăm tuổi đấy nhé, trong khi các chị em tới mười sáu tuổi mới được đi. Ông Irving thật tuyệt vời phải không? ông ấy tôn thờ cả mảnh đất dưới chân cô Lavendar bước, và em thỉnh thoảng cảm thấy thật xốn xang khi nhìn ánh mắt của ông ấy mỗi khi ông ấy ngắm cô Lavendar. Không sao diễn tả nổi bằng lời, thưa cô, cô Shirley. Em biết ơn chúa khủng khiếp khi họ yêu thương nhau đến vậy. Sau tất cả, đó là kết cục tốt nhất, dẫu nhiều người vẫn sống chung vui vẻ mà không có tình yêu. Em có một bà cô từng lấy chồng tới ba lần và nói rằng cô ấy kết hôn lần đầu vì tình yêu, hai lần sau chỉ là vì thuận tiện, cả ba lần cô đều hạnh phúc trừ thời điểm chồng chết. Nhưng em nghĩ cô em đã mạo hiểm, thưa cô, cô Shirley.”
    “Ôi, mọi chuyện thật là lãng mạn quá,” Anne thổn thức kể cho bà Marilla vào tối hôm đó. “Nếu cháu không đi nhầm đường hôm sang nhà ông Kimball, cháu sẽ không bao giờ biết cô Lavendar, và nếu cháu không gặp cô ấy thì cháu đã không dẫn Paul theo... và em ấy sẽ không bao giờ viết thư cho ba kể về chuyến viếng thăm cô Lavendar ngay khi ông Irving chuẩn bị đi San Francisco. Ông Irving nói rằng ngay khi nhận được lá thư đó, ông lập tức quyết định nhờ người cộng sự của mình đi San Francisco để quay trở lại đây ngay, ông ấy không hề biết chút tin gì về cô Lavendar suốt mười lăm năm nay. Có người từng bảo ông ấy cô ấy sắp cưới, ông ấy cứ đinh ninh là thế nên chẳng hỏi ai về tin tức của cô ấy nữa. Và bây giờ mọi chuyện đã đi đúng hướng. Và cháu cũng giúp được một tay. Có lẽ, như bà Lynde nói, mọi việc đều được định sẵn, nó nhất định sẽ phát triển theo chiều hướng ấy. Nhưng dẫu có vậy thật, cháu cũng vui khi nghĩ mình là một công cụ của số phận. Vâng, đúng vậy, thật là lãng mạn quá chừng.”
    “Bác thì chẳng thấy có gì gọi là lãng mạn lãng xẹt cả,” bà Marilla nói với giọng quả quyết. Bà nghĩ Anne hơi quá tham công tiếc việc, chẳng cần cứ ba ngày thì mất đến hai hôm phải “chạy như vịt” lên Nhà Vọng để giúp cô Lavendar, cô cháu của bà đã có quá nhiều việc phải làm để chuẩn bị đi học đại học rồi. “Ban đầu, hai người trẻ tuổi khờ khạo cãi nhau rồi dỗi hờn, sau đó Steve Irving đi sang Mỹ, sau một thời gian thì lấy vợ ở đó và hoàn toàn hạnh phúc về mọi mặt. Rồi vợ anh ta chết, chờ một khoảng thời gian cho phải phép, anh ta nghĩ muốn về nhà xem mối tình đầu có chịu chấp nhận lại mình không. Trong thời gian đó, cô nàng sống độc thân, có lẽ bởi vì chẳng ai đủ tốt chịu hỏi cưới, cuối cùng thì họ gặp lại và quyết định cưới nhau. Nào, nói cho bác biết, lãng mạn ở chỗ nào?”
    “Ôi, nếu nói như bác thì chẳng có chút lãng mạn nào thật,” Anne thở hắt ra như có ai vừa dội nước lạnh vào người. “Cháu cho rằng mọi chuyện có vẻ là như thế trong văn xuôi. Nhưng nếu nhìn qua lăng kính thơ ca thì hoàn toàn khác hẳn... và cháu nghĩ mọi thứ sẽ đẹp đẽ hơn...” Anne bình tĩnh lại, mắt cô lấp lánh, má ửng hồng... “khi được nhìn qua lăng kính thơ ca.”
    Bà Marilla nhìn khuôn mặt thanh xuân sáng rỡ và kiềm chế không nói thêm lời châm biếm nào nữa. Có lẽ cuối cùng bà cũng nhận ra rằng đúng như Anne nói, có “óc tưởng tượng và khả năng tiên đoán” vẫn tốt hơn... đó là khả năng bẩm sinh mà trần gian không thể ban cho hay lấy đi được... khả năng đó giúp con người có thể nhìn cuộc đời qua một lăng kính luôn biến đổi... hay là đầy tính phát lộ nhỉ?... nơi mọi vật dường như được bao phủ bởi một luồng ánh sáng thiên đường đầy vẻ mỹ lệ và tươi mới mà những người như bà và Charlotta Đệ Tứ, vốn nhìn đời qua những áng vãn xuôi khô khan, không tài nào cảm nhận được.
    “Đám cưới tổ chức khi nào?” bà hỏi sau một thoáng im lặng.
    “Ngày thứ Tư cuối cùng trong tháng Tám. Họ sẽ kết hôn trong vườn dưới giàn kim ngân... nơi ông Irving cầu hôn cô ấy hai mươi lăm năm về trước. Bác Marilla, điều đó quả thật là lãng mạn, dẫu được diễn đạt bằng văn xuôi. Chẳng có nhiều khách tham gia, ngoại trừ bà Irving, Paul, Gilbert, Diana, cháu và mấy người anh em họ của cô Lavendar. Rồi cô chú ấy sẽ đi chuyến tàu sáu giờ chiều để đến bờ biến Thái Bình Dương. Khi họ trở về vào mùa thu, Paul và Charlotta Đệ Tứ sẽ đến Boston sống chung với họ. Nhưng Nhà Vọng sẽ được để nguyên như cũ... đương nhiên họ sẽ bán đám gà mái và con bò, dùng ván đóng kín cửa sổ... họ sẽ trở về đó nghỉ vào mỗi mùa hè. Cháu rất vui. Mùa đông tới ở Redmond, chắc cháu sẽ đau đớn lắm nếu căn nhà đá đáng yêu ấy bị tước sạch hết mọi đồ đạc, phòng ốc bỏ hoang... hay tệ hơn, có những người lạ sống trong đó. Nhưng giờ thì cháu có thế nhớ về nó đúng như nó hiện giờ, vui vẻ chờ đợi cuộc sống và nụ cười mà mùa hè sẽ mang lại.”
    Trên thế giới này có nhiều tình yêu lãng mạn hơn những gì đang xảy ra với hai người trung niên đang yêu trong căn nhà đá. Anne tình cờ bắt gặp một mối tình lãng mạn khác vào một buổi chiều khi theo lối mòn trong rừng xuyên qua dốc Vườn Quả tiến vào vườn nhà Barry. Diana Barry và Fred Wright đang đứng dưới cây liễu cổ thụ. Diana tựa vào thân cây màu xám, hàng mi chấp chới phía trên đôi má ửng đỏ. Một tay của cô nằm trong tay Fredf anh đang đứng cúi mặt sát vào cô, thì thầm gì đó bằng một giọng trầm tha thiết. Vào giây phút thần tiên đó, trên thế giới như chẳng còn ai khác ngoại trừ bọn họ, vì vậy chẳng ai nhìn thấy Anne. Anne sững sờ nhìn họ một thoáng, hiểu ra rồi lặng lẽ quay vào khu rừng linh sam, không dừng bước cho tới khi vào đến căn phòng trên gác của mình, ở đó, cô thở hổn hển ngồi xuống bên cửa sổ và cố gắng ổn định lại những suy nghĩ rối bời của mình.
    “Diana và Fred yêu nhau,” cô thở gấp. “ôi, họ dường như đã quá... quá... quá sức trưởng thành rồi.”
    Dạo gần đây, Anne cũng nghi ngờ rằng Diana đã quyết định bỏ rơi giấc mơ thuở nhỏ về người anh hùng u buồn kiểu Byron. Nhưng “mắt thấy bằng mấy tai nghe”, huống gì lúc trước Anne chỉ sinh nghi mà thôi, giờ thì cô gần như là bị sốc nặng khi thấy điều mình e sợ trở thành sự thật. Tiếp theo đó là một cảm giác lạ kỳ, có chút cô đơn... cứ như, bằng một cách nào đó, Diana đã bước tiếp vào một thế giới mới, đóng lại cánh cửa sau lưng, để Anne ở bên ngoài.
    “Mọi thứ thay đổi quá nhanh khiến mình phát sợ,” Anne nghĩ bụng với chút tủi thân. “Và mình e là chuyện này sẽ khiến mình và Diana trở nên có chút xa cách. Chắc là mình chẳng thể kể cho cậu ấy mọi bí mật của mình được nữa... cậu ấy có thể mách vởi Fred. Mà cậu ấy thấy gì ở Fred chứ? Anh ta dễ thương vui tính... nhưng chỉ là Fred Wright thôi.”
    Đó luôn là một câu hỏi rất khó trả lời... một người thấy cái gì hay ở một người khác? Nhưng dù sao thì như vậy cũng là may, vì nếu mọi người đều có sở thích giống nhau... à, trong trường hợp đó, thì “Ai cũng muốn mụ vợ của tôi” như ông già người da đỏ nói vậy. Rõ ràng là Diana có nhìn thấy cái gì đó hay ho ở Fred Wright, dẫu đôi mắt của Anne có thể không phát hiện ra được. Chiều hôm sau, Diana ghé sang Chái Nhà Xanh, một cô gái trẻ e thẹn trầm ngâm, và kể cho Anne toàn bộ câu chuyện trong căn phòng chái Đông được ánh tà dương bao bọc. Cả hai cô gái òa lên khóc, ôm hôn nhau rồi phá lên cười.
    “Tớ hạnh phúc quá,” Diana nói, “nhưng thật là kỳ cục khi nghĩ rằng tớ đã đính hôn.”
    “Cảm giác đính hôn như thế nào?” Anne tò mò.
    “À, điều đó phụ thuộc vào người mà cậu đính ước,” Diana nói với vẻ biết tuốt kênh kiệu của những người đã đính hôn trước những người còn độc thân. “Đính hôn với Fred thì vô cùng tuyệt vời... nhưng tớ nghĩ tớ sẽ cảm thấy tệ hại nếu phải đính hôn với bất cứ ai khác.”
    “Vậy thì thật xui xẻo cho những người còn lại, vì chỉ có mỗi một Fred trên đời này thôi,” Anne phá lên cười.
    “Ôi Anne, cậu chẳng hiểu gì cả,” Diana bực bội. “Ý tớ không phải là thế... thật khó giải thích mà. Bỏ qua đi, rồi cậu sẽ hiểu, khi đến lượt cậu.”
    “Chúa ban phúc lành cho cậu, Diana thương yêu nhất trần đời, giờ thì tớ hiểu rồi. Trí tưởng tượng dùng để làm gì nếu nó không thể giúp ta nhìn cuộc đời thông qua đôi mắt của người khác chứ?”
    “Cậu phải làm phù dâu cho tớ, Anne ạ, cậu nhớ đấy. Hứa với tớ đi... dẫu cậu có đang ở bất cứ đâu khi tớ lập gia đình.”
    “Tớ sẵn sàng đi cùng trời cuối đất nếu cần,” Anne long trọng hứa hẹn.
    “Đương nhiên là còn phải đợi rất lâu,” Diana đỏ mặt. “ít nhất là ba năm... vì tớ mới mười tám, và mẹ nói không đứa con gái nào của bà có thể lấy chồng trước hai mươi mốt tuổi. Hơn nữa, cha Fred sẽ mua nông trại của Abraham Fletcher cho anh ấy, và nói là anh ấy phải trả hết hai phần ba số nợ trước khi được chuyển giao sở hữu. Nhưng ba năm cũng chẳng phải là quá nhiều cho việc chuẩn bị đồ nội thất, vì tớ chưa làm được tí đồ đạc nào coi được cả. Nhưng từ ngày mai tớ sẽ bắt tay vào việc đan khăn lót chén đĩa ngay. Myra Gillis có tới ba mươi bảy tấm khăn lót khi lấy chồng, và tớ quyết tâm mình sẽ không thua kém chị ta.”
    “Tớ cho rằng không thể nào lo việc nội trợ khi chỉ có ba mươi sáu tấm khăn lót được,” Anne gật gù với nét mặt nghiêm trang nhưng ánh mắt lại lấp lánh.
    Diana lộ vẻ tổn thương.
    “Tớ không ngờ cậu lại lấy tớ làm trò đùa, Anne ạ,” cô trách móc.
    “Bạn yêu quý ơi, tớ đâu có lấy cậu làm trò đùa,” Anne kêu lên vẻ ân hận. “Tớ chỉ trêu cậu một chút xíu thôi. Tớ biết cậu sẽ là người nội trợ bé bỏng tài giỏi nhất trên thế giới này mà. Và tớ nghĩ thật dễ thương làm sao khi cậu lo toan trước cho tổ ấm trong mơ của cậu.”
    Vừa mới thốt ra từ “tổ ấm trong mơ”, Anne đã bị nó cuốn hút và bắt đầu dựng lên một tổ ấm trong mơ cho riêng mình. Đương nhiên, nam chủ nhân lý tưởng của cô phải là một quý ông da sẫm, cao ngạo và u buồn, nhưng lạ thay, bóng dáng Gilbert Blythe cũng xuất hiện trong đó, giúp cô treo tranh ảnh, sắp xếp vườn tược, làm những công việc lặt vặt khác mà một vị anh hùng cao ngạo u buồn coi là không xứng với phẩm giá của anh ta. Anne cố xóa đi hình ảnh của Gilbert trong tòa lâu đài ở Tây Ban Nha của mình, nhưng chẳng hiểu sao, bóng dáng anh vẫn cứ cương quyết ở lại. Thế là Anne vì quá bận bịu đành để mặc anh ở đó và tiếp tục theo đuổi công trình trên mây của mình một cách quyết liệt đến mức “tổ ấm trong mơ” của cô đã xây xong và trang bị đầy đủ trước khi Diana kịp lên tiếng lần nữa.
    “Anne ạ, tớ nghĩ chắc cậu tức cười lắm khi thấy tớ thích Fred đến vậy trong khi anh ấy khác hẳn kiểu người mà tớ luôn nói là muốn lấy làm chồng... kiểu vừa cao vừa ốm đấy? Nhưng chẳng hiểu sao tớ không muốn Fred cao hay ốm làm gì... bởi vì, cậu không thấy sao, khi đó thì anh ấy chẳng còn là Fred nữa. Đương nhiên,” Diana ủ rũ nói tiếp, “chúng tớ sẽ trở thành một cặp vợ chồng béo ú ù u. Nhưng dù sao chăng nữa, vẫn còn hơn là một người vừa lùn vừa mập, người còn lại vừa cao vừa ốm như Morgan Sloane và vợ ông ta. Bà Lynde nói họ luôn làm bà nghĩ tới số 10 khi đi chung với nhau.”
    “Ôi chao,” Anne tự nhủ vào đêm hôm đó, khi chải tóc trước tấm gương đóng khung mạ vàng, “mình mừng khi Diana hạnh phúc và thỏa mãn như vậy. Nhưng khi đến lượt mình... nếu quả thật có ngày đấy... mình ước sẽ có gì ly kỳ hồi hộp hơn cơ. Nhưng Diana cũng từng nghĩ thế đó thôi. Mình nghe cậu ấy lặp đi lặp lại rằng cậu ấy sẽ không bao giờ chịu đính hôn một cách làng nhàng không kèn không trống đâu... anh chàng phải làm điều gì đó thật tuyệt vời mới thuyết phục được cậu ấy. Nhưng cậu ấy đã thay đổi. Có lẽ mình cũng sẽ thay đổi giống cậu ấy. Nhưng mình sẽ không thế đâu... mình quyết tâm rồi. Ôi, mình nghĩ các cuộc đính hôn thật rối bời, nhất là khi chúng xảy đến với những người bạn thân thiết của mình.”

Trang 3 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 3
    Bài Viết Cuối: 04-18-2017, 12:33 AM
  2. 4 Kiểu Tết Tóc Đơn Giản Dễ Thương Cho Tóc Ngắn
    By sophienguyen in forum Nghệ Thuật Làm Đẹp
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-24-2015, 03:08 AM
  3. Chiếc áo dài làm từ tóc
    By khieman in forum Quán Ông 8 Bà 8
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 07-21-2015, 11:31 AM
  4. Anne Sophie Mutter
    By Santafe in forum Violin
    Trả Lời: 7
    Bài Viết Cuối: 08-15-2014, 12:18 AM
  5. Nhật Ký Anne Frank
    By giahamdzui in forum Audio Tiểu Thuyết Tinh Cảm
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-24-2014, 01:23 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •