Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tất cả hạnh phúc của mình có đều do hạnh phúc của mình cho.
Sully Prudhomme
Trang 1 / 8 123 ... Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 75

Chủ Đề: Người Ru Ngủ

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Người Ru Ngủ



    Tác giả: Donato Carrisi




    Giới thiệu

    Nhân vật Mila Vasquez, nữ cảnh sát chuyên điều tra các vụ mất tích đã làm say lòng độc giả yêu thích tiểu thuyết trinh thám qua hơn 500 trang sách của Kẻ nhắc tuồng nay xuất hiện quyết đoán và gai góc hơn trong Người ru ngủ, anh em sinh đôi với Kẻ nhắc tuồng.

    Bảy năm trôi qua, Mila quyết định ẩn mình tại Minh Phủ - phòng điều tra chuyên trách những vụ mất tích không rõ nguyên nhân. Bản thân không có được sự thấu cảm dành cho người khác, cô đành gửi gắm con gái Alice cho bà ngoại chăm sóc. Trong khi đó, giáo sư tội phạm học Gavila vẫn đang hôn mê sâu và được canh gác cẩn mật. Mọi việc tưởng chừng trôi qua trong êm đềm, nhưng thật ra đó là khoảng lặng trước cơn bão.

    Tất cả bắt đầu bằng một cú điện gọi đến đường dây nóng của cảnh sát: Một tên sát nhân máu lạnh đã đột nhập vào gia đình một nhà tài phiệt trong lĩnh vực dược phẩm, giết hại toàn bộ thành viên trong gia đình sau khi cố tình để lộ danh tính. Hắn là Roger Valin, mất tích không rõ nguyên nhân 17 năm về trước, tái xuất hiện với bộ trang phục giống hệt trong bức ảnh chụp trước khi biến mất được lưu trữ tại Minh Phủ. Hắn đã ở đâu trong suốt thời gian qua? Bị người ngoài hành tinh bắt cóc chăng? Động cơ gây án là gì? Những câu hỏi ấy đòi hỏi sự vào cuộc của một chuyên gia tìm người mất tích, và không ai khác hơn, đó chính là đặc vụ Maria Elena Vasquez, hay Mila Vasquez.

    Càng dấn sâu vào điều tra, Mila nhanh chóng phải đối mặt với những vụ giết người liên tiếp xảy ra mà thủ phạm đều là những người mất tích từ lâu. Sau khi tái xuất để gây án, bọn chúng lại biến mất một lần nữa. Mọi cái chết dường như đều có liên hệ với một tên tội phạm sừng sỏ vẫn còn ngoài vòng pháp luật từ 30 năm nay: Người Ru Ngủ.

    Để chặn đứng “đạo quân bóng tối”, Mila buộc phải nhờ đến sự cộng tác của đặc vụ Simon Berish, người đã từng theo đuổi vụ án suốt 20 năm trời, và đã phải trả giá nặng nề khi bị cả trụ sở cảnh sát khinh bỉ, ruồng rẫy. Một nhân vật đặc biệt, một trợ thủ đắc lực của Mila Vasquez.

    Và những gì hai người phát hiện đã đưa cả hai vào vòng nguy hiểm chết người.

    Donato Carrisi sinh năm 1973 ở Ý, tốt nghiệp ngành luật và tội phạm học trước khi trở thành nhà viết kịch bản phim truyền hình. Cuốn tiểu thuyết trinh thám đầu tay Kẻ nhắc tuồng của ông đã gây được tiếng vang lớn với năm giải thưởng Văn học quốc tế, được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, và đưa tác giả lên vị trí “nhà văn Italia được đọc nhiều nhất trên thế giới”.

    Mời các bạn đón đọc Người Ru Ngủ của tác giả Donato Carrisi.





    MỞ ĐẦU
    Phòng số 13 trong nhà xác quốc gia được giành cho những người đang ngủ.
    Nó nằm ở tầng hầm thứ tư, cũng là tầng dưới cùng, giống như một tầng địa ngục. Một địa ngục buốt giá với nhiều gian phòng lạnh, nơi tiếp nhận các thi thể vô danh. Rất hiếm khi nó được thăm viếng.
    Thế nhưng đêm nay, một vị khách đang trên đường xuống tận nơi.
    Người trông xác chờ đợi vị khách trước cửa thang máy, mắt ngước nhìn những con số ghi nhận chuyển động đi xuống của buồng thang máy. Trong khi chờ đợi, ông ta tự hỏi vị khách bất ngờ này là ai, và nhất là, điều gì đã đưa đẩy anh ta đến cái tiền đồn xa xôi rất lạ lẫm với người sống này.
    Con số cuối cùng xuất hiện. Im lặng kéo dài hồi lâu trước khi cửa thang máy xịch mở. Người trông xác quan sát vị khách. Anh ta tầm bốn mươi tuổi, mặc một bộ comlê màu xanh thẫm. Giống như những người lần đầu tiên xuống dưới này, anh ta tỏ vẻ kinh ngạc khi thấy ở đây không được ốp gạch men trắng và chiếu sáng bằng đèn diệt khuẩn, thay vào đó các bức tường có màu xanh lá cây và ánh sáng có màu cam.
    - Màu sắc giúp ngăn chặn chứng lo âu. - Người trông xác giải thích khi nhận thấy câu hỏi không được nói ra, đồng thời đưa chiếc áo blu màu xanh da trời cho khách.
    Người khách không nói gì. Anh ta mặc áo vào, sau đó hai người bắt đầu đi dọc theo hành lang.
    - Các thi thể nằm ở tầng này chủ yếu là của người vô gia cư hoặc dân nhập cư bất hợp pháp. Bọn họ không có giấy tờ tùy thân, cũng chẳng có gia đình, và sau khi chết ngóm thì học được đưa vào đây. Tất cả được phân vào các phòng đánh số thứ tự từ 1 đến 9. Phòng số 10 và 11 được dành cho những người có đóng thuế đều đặn và xem được bóng đá trên truyền hình, giống như anh và tôi, nhưng nhồi máu cơ tim trên xe điện ngầm. Lấy cớ giúp đỡ, một hành khách móc ví của người xấu số và hấp, xảo thuật thành công, người kia biến mất mãi mãi. Cũng có khi, vấn đề chỉ là do quan liêu: một cán bộ nhầm lẫn giấy tờ của anh, và những thân nhân đến nhận dạng thi thể chỉ thấy trước mắt mình xác của một người khác. Như thể anh chưa chết, gia đình tiếp tục đi tìm anh. - Người trông xác kiêm hướng dẫn viên tự phong cố gây ấn tượng cho vị khách, nhưng hoài công. - Tiếp đến, các trường hợp tự tử hoặc tai nạn được đưa vào phòng số 12. Nhiều khi các thi thể ở tình trạng tệ hại đến nỗi không biết có phải là xác người hay không nữa. - Ông ta nói tiếp để thử bụng dạ của vị khách, nhưng có vẻ người này không phải loại non gan. - Dẫu sao thì, pháp luật đã dự tính một sự đối xử như nhau cho tất cả: họ phải nằm lại trong phòng lạnh ít nhất mười tám tháng. Sau đó, nếu thi thể vẫn không được nhận dạng hoặc được người thân đưa về, và nếu cảnh sát không có ý định mở lại cuộc điều tra, thi thể được phép đưa đi hỏa táng.- Ông ta trích dẫn điều luật theo trí nhớ.
    Đến đây, giọng nói của người trông xác trở nên hơi căng thẳng một chút, vì những gì ông ta nói tiếp theo có liên quan đến mục tiêu của chuyến viếng thăm khuya khoắt này.
    - Và rồi, chúng ta có các thi thể nằm trong phòng số 13.
    Nạn nhân vô danh của những tội ác chưa được làm sáng tỏ.
    Trong trường hợp giết người, luật pháp quy định thi thể chỉ là một vật chứng cho đến khi danh tính của nạn nhân được xác nhận. Chúng ta không thể buộc tội một kẻ sát nhân nếu không chứng minh người bị hắn giết đã từng tồn tại thật sự. Thi thể vô danh là bằng chứng duy nhất của sự tồn tại đó. Do vậy nó phải được bảo quản vô hạn định. Đó là một chi tiết lạ lùng nhất của luật pháp mà các luật sư rất thích thú.
    Luật pháp đã quy định chừng nào hành vi tội ác gây ra cái chết chưa được xác định, thi thể không thể bị tiêu hủy hoặc để phân rã tự nhiên.
    - Chúng tôi gọi họ là những người đang ngủ.
    Những người đàn ông, phụ nữ, trẻ con vô danh mà kẻ giết hại họ chưa được xác định. Họ chờ đợi suốt nhiều năm trời để được ai đó xuất hiện giải thoát khỏi lời nguyền khiến họ giống như còn sống. Như một câu chuyện cổ tích rùng rợn, tất cả những gì phải làm là đọc một thần chú.
    Tên của họ.
    Nơi tiếp nhận họ - căn phòng số 13 - nằm ở cuối hành lang.
    Khi đi đến trước cánh cửa sắt, người trông xác loay hoay một lúc với chùm chìa khóa để tìm đúng chìa. Ông ta mở cửa và tránh sang một bên nhường lối để khách bước vào phòng. Ngay khi anh ta bước vào, một dãy bóng đèn vàng trên trần lập tức được bật sáng nhờ cảm biến chuyển động. ở giữa phòng là một bàn giảo nghiệm tử thi, vây quanh bởi các dãy tủ lạnh cao ngất với hàng chục ngăn chứa xác.
    Một tổ ong bằng thép.
    - Anh phải ký vào đây. Quy định là thế. - Người trông xác vừa nói vừa đưa ra một quyển sổ đăng ký. - Anh quan tâm đến cái nào? - Ông ta hỏi tiếp với một chút sốt ruột.
    Cuối cùng người khách cũng lên tiếng.
    - Thi thể đã nằm ở đây lâu nhất.
    AHF-93-K999.
    Người trông xác thuộc nằm lòng số hiệu đó. Mừng thầm vì đã có lời giải cho bí ẩn lâu năm, ông ta lập tức chỉ vào ngăn tương ứng. Nó nằm ở vách tường bên trái, hàng thứ ba từ dưới lên. Ông ta chỉ nó cho vị khách.
    - Trong số các xác chết nằm lại nơi đây, câu chuyện về cái xác này chưa phải lạ lùng nhất. - Người trông xác nôn nóng giải thích. - Một chiều thứ Bảy, đám trẻ chơi bóng đá trong công viên đã sút quả bóng vào bụi rậm. Thế là anh ta được tìm thấy, với một viên đạn trong sọ. Anh ta không có giấy tờ, cũng không có chìa khóa nhà. Khuôn mặt anh ta vẫn còn trong tình trạng nhận dạng được, nhưng không có người nào gọi đến đường dây nóng để hỏi về anh ta, hoặc trình báo việc anh ta mất tích. Trong khi chờ người ta tìm ra thủ phạm, một việc có thể không bao giờ xảy ra, thi thể nằm đây là bằng chừng duy nhất của tội ác. Chính vì thế mà tòa án đã quyết định bảo quản anh ta trong này cho đến khi vụ giết người được làm sáng tỏ, công lý được thực thi. - Người trông xác ngừng lời một chút. - Đã nhiều năm trôi qua, nhưng anh ta vẫn nằm đây.
    Bấy lâu nay, người trông xác tự hỏi việc gì phải bảo quản bằng chứng của tội ác mà không ai nhớ đến. Ông ta luôn cho rằng mọi người đã quên mất người lưu trú vô danh của phòng xác số 13. Thế nhưng, khi được nghe yêu cầu của vị khách, ông ta cảm thấy bí mật được lưu giữ sau lớp thép dày vài xentimet kia sẽ còn hơn cả một cái tên đơn thuần.
    - Anh mở ra đi, tôi muốn xem anh ta.
    AHF-93-K999. Trong những năm qua, số hiệu gắn trên nhãn ngăn tủ vẫn là tên họ của thi thể. Đêm nay, điều đó có thể sẽ thay đổi. Người trông xác điều khiển van xả khí để mở ngăn đựng xác.
    Kẻ đang ngủ sắp được đánh thức.

  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    MILA
    Chứng cứ 397 - H/5
    Biên bản ghi âm lúc 6h40 ngày 21 tháng 9 năm XXXX.
    Chủ đề: cuộc gọi đến số điện thoại khẩn cấp đồn cảnh sát XXXX.
    Trực tổng đài: cảnh sát viên Clara Salgado.
    Tổng đài: Cảnh sát đây. Ai ở đầu dây bên kia thế ạ?
    X:...
    Tổng đài: Xin lỗi, tôi chưa nghe rõ. Ai ở đầu dây thế ạ?
    X: Cháu tên là Jes.
    Tổng đài: Vui lòng cho biết tên họ đầy đủ.
    X: Jes Belman.
    Tổng đài: Cháu bao nhiêu tuổi vậy Jes?
    X: Mười tuổi ạ.
    Tổng đài: Cháu gọi từ đâu đến?
    X: Từ nhà cháu.
    Tổng đài: Cháu có thể cho cô xin địa chỉ được không?
    X:...
    Tổng đài: Jes, cháu vui lòng cho cô xin địa chỉ nhà cháu, được không?
    X: Nhà cháu ở XXXXXX.
    Tổng đài: Tốt. Chuyện gì đã xảy ra vậy? Cháu biết đây là số điện thoại của cảnh sát đúng không? Tại sao cháu gọi đến số này?
    X: Dạ, cháu biết. Mọi người chết hết rồi.
    Tổng đài: Cháu vừa nói là "mọi người" hả Jes?
    X:...
    Tổng đài: Jes, cháu còn ở đó không? Ai đã chết vậy?
    X: Dạ. Mọi người chết hết cả rồi.
    Tổng đài: Chuyện này không phải trò đùa, phải không Jes?
    X: Dạ.
    Tổng đài: Cháu có thể kể cho cô nghe chuyện gì đã xảy ra không?
    X: Dạ.
    Tổng đài: Jes, cháu còn ở đó không?
    X: Dạ.
    Tổng đài: Tại sao cháu không kể cho cô nghe. Cháu cứ từ tốn mà kể.
    X: Anh ta đến tối hôm qua. Nhà cháu đang ăn tối.
    Tổng đài: Ai đã đến?
    X:...
    Tổng đài: Ai vậy, Jes?
    X: Anh ta đã bắn.
    Tổng đài: Được rồi, Jes. Cô muốn giúp cháu, nhưng bây giờ, cháu là người phải giúp cô. Ok không?
    X: Ok.
    Tổng đài: Cháu vừa báo cho cô biết là vào giờ ăn tối hôm qua, một người đàn ông đã vào nhà cháu và nổ súng, đúng không Jes?
    X: Dạ.
    Tổng đài: Sau đó người này đã bỏ đi mà không bắn cháu. Cháu vẫn ổn, đúng không?
    X: Không phải.
    Tổng đài: Cháu muốn nói là cháu bị thương, phải không Jes?
    X: Không phải. Anh ta chưa đi.
    Tổng đài: Người nổ súng vẫn còn ở đó sao?
    X:...
    Tổng đài: Jes, làm ơn trả lời cô.
    X: Anh ta nói các cô phải đến. Các cô phải đến ngay.
    Liên lạc bị cắt đứt. Kết thúc ghi âm.




    CHƯƠNG 1

    Con phố bắt đầu trở nên sống động khi còn vài phút nữa là đến 6 giờ.
    Xe rác đi thu gom rác thải từ những chiếc thùng xếp thành hàng như những chú lính đồ chơi phía trước các ngôi nhà. Tiếp theo đến lượt chiếc xe rửa đường có gắn các bàn chải xoay tít. Vài chiếc xe tải nhỏ của những người chăm sóc cây xanh xuất hiện sau đó ít phút. Các thảm cỏ và lối đi được giải phóng khỏi lá cây và cỏ dại, những bờ dậu được cắt xuống một chiều cao lý tưởng. Sau khi nhiệm vụ đã hoàn thành, tất cả lại ra đi, bỏ lại phía sau một thế giới ngăn nắp, yên tĩnh và im lìm.
    Chốn hạnh phúc này đã sẵn sàng để trình diện dưới mắt những cư dân vui vẻ của nó, Mila thầm nghĩ.
    Đêm hôm qua vẫn yên tĩnh như mọi khi ở khu vực này. Vào tầm 7 giờ, những ngôi nhà nhỏ uể oải thức dậy. Sau những ô cửa sổ, các ông bố bà mẹ và con cái của họ vui vẻ chuẩn bị cho một ngày mới bắt đầu.
    Một ngày nữa của một cuộc sống hạnh phúc.
    Ngồi trong chiếc xe Huyndai đậu ở đầu phố, Mila không cảm thấy ghen tị một chút nào. Cô biết chỉ cần cào nhẹ lớp bề mặt dát vàng kia, một hình ảnh khác sẽ xuất hiện. Có khi là bức tranh thực sự, được vẽ từ ánh sáng và bóng tối, như nó phải thế. Nhưng cũng có lúc, một lỗ đen hiện ra. Hơi thở hôi thối của một vực xoáy háu đói khiến bạn bất ngờ, và dường như từ sâu bên dưới có ai đó thì thầm gọi tên bạn.
    Mila Vasquez biết rất rõ tiếng gọi của bóng tối. Cô đã nhảy múa với những cái bóng từ khi mới ra đời.
    Mila bẻ các khớp ngón tay, ấn mạnh vào ngón trỏ trái. Cơn đau lay động cô vừa đủ để giữ sự tập trung của mình. Chẳng bao lâu nữa, cánh cửa của những ngôi nhà sẽ mở. Các gia đình sẽ rời tổ ấm của mình để đối mặt với thế giới - một thử thách quá dễ đối với họ, Mila thầm nghĩ.
    Cô trông thấy gia đình Conner ra khỏi nhà. Ông bố là luật sư, tầm bốn mươi tuổi, cơ thể săn chắc trong bộ comlê xám hoàn hảo, mái tóc muối tiêu càng tôn thêm khuôn mặt rám nắng. Người mẹ có mái tóc vàng, vẫn giữ được vóc dáng và khuôn mặt của một phụ nữ trẻ. Mila dám chắc thời gian sẽ không bao giờ động đến bà. Tiếp đến là mấy cô con gái. Cô chị đi đến trường trung học, còn cô em với suối tóc xoăn thì đi nhà trẻ. Nếu có ai còn nghi ngờ về thuyết tiến hóa, Mila có thể xua tan sự ngờ vực của họ bằng hình ảnh của gia đình Conner. Họ xinh đẹp và hoàn hảo, đương nhiên họ chỉ có thể sống tại một nơi hạnh phúc như khu dân cư này.
    Sau khi hôn vợ con, ông luật sư leo lên chiếc Audi A6 màu xanh và lái đi, để tiếp tục theo đuổi sự nghiệp lẫy lừng của mình. Bà mẹ đưa hai cô con gái tới trường trên chiếc SUV hiệu Nissan màu xanh lá cây. Khi cả gia đình đã đi khuất, Mila rời chiếc xe hơi cũ kỹ của mình, sẵn sàng đột nhập vào ngôi nhà, cũng như cuộc sống của họ. Bất chấp nóng nực, cô vẫn quyết định ngụy trang bằng bộ quần áo thể thao dài. Mùa hè mới chỉ trôi qua được một ngày, nhưng nếu mặc quần cộc và áo thun ngắn tay, những vết sẹo của cô sẽ thu hút sự chú ý. Theo những tính toán của Mila kể từ lúc bắt đầu theo dõi ngôi nhà này vài ngày trước đó, cô có khoảng bốn mươi phút trước khi bà Conner quay về.
    Bốn mươi phút để khám phá xem liệu tổ ấm hạnh phúc này có che giấu một bóng ma hay không.
    Gia đình Conner là mục tiêu điều tra của Mila từ vài tuần nay. Mọi chuyện bắt đầu một cách tình cờ.
    Những cảnh sát viên phụ trách các vụ mất tích không thể chỉ ngồi ở bàn làm việc và chờ một lời khai báo. Đôi khi những người mất tích không có gia đình cũng chẳng có bạn bè để thực hiện việc báo cảnh sát. Có thể vì họ là những người ngoại quốc, vì họ cắt đứt mọi liên lạc, hoặc đơn giản họ là những người sống cô độc một mình.
    Mila gọi họ là "những người tiền định".
    Những cá nhân sống trong một khoảng trống mà không ngờ rằng một ngày kia mình sẽ bị nó nuốt chửng. Như vậy trước hết Mila phải đi tìm vụ mất tích, sau đó mới đến người mất tích. Cô rong ruổi qua các nẻo đường, sàng lọc những chốn tuyệt vọng, nơi bóng tối bám riết từng bước chân và không bao giờ để người ta một mình. Tuy nhiên người ta vẫn có thể biến mất tại một môi trường cảm xúc lành mạnh và được bảo vệ.
    Chẳng hạn như những vụ trẻ em mất tích.
    Đôi khi - đúng hơn là thường khi - các vị phụ huynh sơ suất vì nếp quen, họ không nhận sự thay đổi dù nhỏ nhưng lại rất căn bản. Ai đó ở bên ngoài gia đình có thể tiếp cận con cái họ mà họ không hay biết. Bọn trẻ có xu hướng cảm thấy có lỗi khi nhận được sự chú ý của một người lớn, bởi vì chúng bị giằng co giữa hai lời dặn dò thường gặp và rất khó dung hòa của bố mẹ: lễ phép với người lớn tuổi hơn mình, và không nói chuyện với người lạ. Cho dù chọn thái độ nào thì bọn trẻ cũng đều có thứ phải giấu diếm. Tuy nhiên, Mila đã khám phá ra một cách thức tuyệt vời để phát hiện những gì đang diễn ra trong cuộc sống của một đứa trẻ.
    Mỗi tháng, cô ghé thăm một ngôi trường khác nhau.
    Cô xin phép được vào các lớp học khi không có học sinh ở đó, và quan sát các tranh vẽ treo trên tường. Những thế giới tưởng tượng đó thường che giấu các yếu tố của cuộc sống thực tế. Nó chứa đựng những cảm xúc bí mật và đôi khi vô thức mà bọn trẻ đã hấp thu trước khi trút ra ngoài trở lại, tựa như một miếng bọt biển. Mila thích đi thăm những ngôi trường. Cô đặc biệt thích mùi của chúng - phấn viết bảng, keo dán giấy, sách vở mới, kẹo cao su. Tất cả gợi nên một cảm giác thanh thản kỳ lạ, như thể không gì có thể xảy ra với cô.
    Bởi lẽ, đối với một người lớn, nơi an toàn nhất chính là những chỗ có trẻ em.
    Trong một chuyến viếng thăm như thế, giữa hàng chục bức vẽ trên tường, Mila đã phát hiện ra tranh của cô bé út nhà Conner. Cô đã chọn nhà trẻ này một cách tình cờ hồi đầu năm học và đến thăm nó vào giờ giải lao, khi bọn trẻ đang ở ngoài sân chơi. Cô nấn ná lại trong thế giới của bọn trẻ, khoan khoái lắng nghe tiếng la hét vui vẻ vọng lại từ ngoài sân.
    Điều khiến Mila chú ý nơi bức tranh của cô bé nhà Conner là gia đình hạnh phúc được thể hiện trên đó. Cô bé, mẹ, bố và chị gái đứng trên bãi cỏ trước nhà, vào một ngày nắng đẹp. Bốn người họ nắm tay nhau. Tuy thế, bên cạnh nhóm người, có một thứ thật lạc lõng. Một nhân vật thứ năm. Mila cảm thấy lo lắng. Nhân vật kia không có khuôn mặt và trông như đang lơ lửng.
    Một con ma, thoạt đầu Mila đã nghĩ như thế.
    Cô đã định bỏ qua, nhưng khi tìm xem các tranh vẽ khác của cô bé nhà Conner trên tường, cô nhận thấy con ma đó luôn hiện diện.
    Chi tiết này quá đặc biệt nên không thể là ngẫu nhiên được. Linh tính mách bảo Mila phải tìm hiểu kỹ hơn.
    Cô hỏi giáo viên phụ trách lớp, một người rất tử tế. Cô giáo xác nhận vụ bóng ma đã diễn ra được một thời gian. Theo kinh nghiệm của cô giáo, chuyện này không có gì đáng ngại. Thường thì nó xảy ra sau cái chết của một người thân hoặc một người quen, và đó là cách bọn trẻ bày tỏ sự thương tiếc của mình. Cô giáo đã cẩn thận hỏi chuyện bà Conner và được biết gần đây gia đình không có ai qua đời, nhưng một thời gian trước đó, cô bé có gặp ác mộng, đó có thể là nguyên nhân của sự việc.
    Tuy vậy, theo những gì Mila đã học được từ các chuyên gia tâm lý trẻ em, bọn trẻ hay miêu tả những người có thật như các nhân vật tưởng tượng, và không nhất thiết là phản diện. Một người lạ mặt có thể là một con ma cà rồng, cũng có thể là một chú hề dễ mến, hoặc thậm chí là anh chàng Người Nhện. Nhưng dù thế nào đi nữa, luôn tồn tại một chi tiết giúp tiết lộ hình mẫu thật của nhân vật trong tranh. Mila còn nhớ vụ việc của Samantha Hernandez. Cô bé đã vẽ người đàn ông râu trắng đến tiếp cận mình hàng ngày tại công viên trong bộ dạng của ông già Noel. Trong bức vẽ, cũng như trên thực tế, ông già Noel có một hình xăm trên cánh tay. Tuy nhiên, đã không có ai chú ý đến điều đó. Thế là tên gian ác chỉ cần hứa tặng quà để bắt cóc thành công rồi sát hại cô bé.
    Trong trường hợp của cô bé út nhà Conner, yếu tố tiết lộ chính là sự lặp đi lặp lại.
    Mila tin rằng cô bé đang lo sợ điều gì đó. Cô phải khám phá xem đó có phải là nhân vật có thật và vô hại hay không.
    Như mọi lần, Mila đã quyết định không báo trước cho ông bà Conner. Không cần phải khơi lên sự sợ hãi dựa trên một mối nghi ngờ rất có thể là vô căn cứ. Cô đã bắt đầu quan sát bé Conner, để xác định xem cô bé đã tiếp xúc với ai ở bên ngoài ngôi nhà, hoặc trong những dịp hiếm hoi thiếu vắng sự kiểm soát của bố mẹ, chẳng hạn như ở nhà trẻ hay ở lớp học múa.
    Không có người lạ nào đặc biệt quan tâm đến cô gái nhỏ.
    Những nghi ngờ của Mila đúng là vô căn cứ. Chuyện này cũng thường xảy ra, nhưng cô không tiếc khi phí phạm hai mươi ngày làm việc, vì đổi lại cô được nhẹ lòng.
    Tuy vậy, để cho chắc ăn, cô vẫn quyết định đi đến trường trung học, nơi cô gái lớn của gia đình Conner theo học. Những bức tranh của cô chị không có bất kỳ yếu tố khó hiểu nào. Điều bất thường nằm trong bài tập sáng tác truyện mà giáo viên đã giao cho cô bé về nhà làm.
    Cô bé đã chọn một câu chuyện kinh dị, với nhân vật chính là một con ma.
    Rất có thể câu chuyện đó chỉ là sản phẩm tưởng tượng của cô chị, và nó đã tác động lên cô em gái, khiến cô bé hoảng sợ. Nếu không thì đây có thể là bằng chứng cho thấy nhân vật bí ẩn kia tồn tại thật sự. Việc không xác định được người lạ mặt nào khả nghi có nghĩa là mối đe dọa ở gần hơn nhiều so với hình dung ban đầu của Mila.
    Nói cách khác, đó không phải là một người xa lạ, mà là một kẻ ở ngay trong nhà.
    Do vậy, Mila đã quyết định đi xa hơn và quan sát bên trong ngôi nhà của gia đình Conner.
    Cô sẽ phải biến đổi bản thân. Từ người đi tìm trẻ con thành người săn ma.
    Vào khoảng trước 8 giờ một chút, Mila đeo tai nghe chiếc máy mp3 không có nhạc rồi chạy bộ tới ngôi nhà của gia đình Conner. Khi đến nơi, cô vòng qua phía bên phải của ngôi nhà. Cửa hậu và cửa sổ đều đóng. Nếu tìm được một lối ra vào bỏ ngỏ và bị ai đó bắt gặp, cô hoàn toàn có thể nói là mình vào trong nhà do nghi ngờ có trộm đột nhập. Cô sẽ không xóa được sự trách móc vì xâm nhập gia cư trái phép, nhưng sẽ có cơ hội để ra đi. Ngược lại, trong trường hợp phải bẻ khóa, cô sẽ đối diện với một nguy cơ vô ích và ngu ngốc.
    Mila lại nghĩ đến lí do mình đến đây. Thật khó để giải thích một linh cảm thuộc về bản năng, các cảnh sát viên thừa biết điều đó, nhưng trong trường hợp của cô, mong muốn băng qua giới hạn thật khó cưỡng. Mặc dù vậy, cô cũng không thể tự dưng đến gõ của nhà Conner và nói thẳng: " Xin chào, có điều gì đó mách bảo tôi rằng hai cô con gái của ông bà gặp nguy hiểm vì một bóng ma rất có thể đang tồn tại bằng xương bằng thịt ". Thế là, như thường khi, cảm giác bứt rứt khó chịu đã lấn át lý trí Mila, cô quay lại cửa hậu và bẻ khóa.
    Cô bất ngờ vì hơi mát của máy lạnh. Trong bếp, bàn ăn sáng vẫn còn chưa được dọn dẹp. Trên tủ lạnh có gắn các tấm ảnh khi mọi người đi nghỉ và các bài tập được điểm tốt.
    Mila lấy từ trong túi áo ra một túi nhựa màu đen. Trong đó có một chiếc camera siêu nhỏ kích thước chỉ bằng nút áo và được nối với một sợi dây dùng để phát tín hiệu. Nhờ vào mạng không dây, cô có thể theo dõi những gì diễn ra trong nhà từ xa. Chỉ cần tìm chỗ tốt nhất để lắp đặt nó. Mila xem giờ và kiểm tra các phòng còn lại. Do có ít thời gian, cô tập trung vào những nơi diễn ra phần lớn hoạt động của gia đình.
    Trong phòng khách, bên cạnh bộ xalông và chiếc tivi có một kệ sách dát gỗ thạch lam. Thay cho những cuốn sách là các bằng danh dự hoặc được trao cho luật sư Conner trong quá trình hành nghề, hoặc vinh danh những đóng góp cho cộng đồng của ông. Đây là một công dân gương mẫu và rất được kính trọng. Chễm chệ trên một ngăn kệ là chiếc cúp trượt băng do cô con gái lớn giành được. Mila thấy ý tưởng chia sẻ vị trí danh dự với một thành viên khác trong gia đình thật là hay.
    Trên lò sưởi, một tấm hình chụp gia đình Conner cười tươi và cùng mặc một chiếc áo chui đầu màu đỏ giống nhau. Có vẻ như đó là một truyền thống của gia đình vào mỗi dịp Giáng sinh. Mila sẽ không bao giờ chụp ảnh như thế, cuộc sống của cô quá khác biệt. Cô cũng quá khác biệt. Cô nhanh chóng quay nhìn đi chỗ khác vì không thể chịu nổi hình ảnh đó.
    Mila quyết định xem xét tầng trên của ngôi nhà.
    Trong các phòng ngủ, những chiếc giường ngổn ngang chăn gối đang chờ đợi sự quay lại của bà Conner, người đã từ bỏ sự nghiệp của mình để chăm sóc nhà cửa và hai cô con gái. Mila chỉ xem qua loa phòng ngủ của hai cô bé gái. Trong phòng của ông bà Conner, tủ quần áo đang mở. Cô xem xét trang phục của bà Conner. Cuộc sống của bà mẹ hạnh phúc này khiến cô tò mò. Sâu trong đầu Mila luôn có một thứ kháng thể làm bất hoạt các cảm xúc, khiến cô không thể biết những gì người ta cảm thấy. Nhưng cô vẫn có thể tưởng tượng.
    Một người chồng, hai cô con gái, một ngôi nhà tiện nghi bảo bọc như một tổ ấm.
    Tạm thời Mila quên đi mục tiêu của cuộc điều tra mình đang thực hiện, Mila ghi nhận một số trang phục treo trong tủ có kích thước khác biệt.
    Ngay cả những phụ nữ rất đẹp cũng có thể béo lên, Mila hài lòng nhủ thầm. Một người siêu gầy như cô thì không. Dù sao thì, căn cứ theo những bộ trang phục rộng rãi mà bà Conner từng sử dụng để che đi cân nặng dư thừa của mình, hẳn là bà ta đã rất vất vả để lấy lại vóc dáng.
    Bỗng Mila nhận ra việc mình đang làm. Cô đã đánh mất kiểm soát. Thay vì đi tìm các hiểm họa, cô đang tự biến mình thành một mối nghi cho gia đình này.
    Một kẻ lạ mặt đột nhập vào không gian sống của họ.
    Mila cũng đã quên mất khái niệm thời gian, bà Conner có lẽ đang trên đường về. Cô nhanh chóng nhận định căn phòng lí tưởng để đặt camera theo dõi là phòng khác.
    Cô tìm ra chỗ thích hợp nhất nằm bên trong tủ sách, nơi cất những chiếc cúp lưu niệm của gia đình. Sử dụng một đoạn băng keo hai mặt, cô giấu chiếc camera một cách khéo léo nhất có thể giữa những món kỷ vật. Trong khi đang loay hoay, cô bỗng nhận ra một chấm màu đỏ ở góc mắt bên phải, tựa như một bóng đèn nhấp nháy gắn vào tường ngay phía bên trên lò sưởi.
    Mila ngừng tay để quan sát một lần nữa bức ảnh chụp cả gia đình mặc áo chui đầu mào đỏ mà lúc đầu cô đã không muốn nhìn vì một sự ghen tị vô lí. Khi quan sát nó kỹ hơn, cô nhận ra bức tranh hoàn hảo vẫn có các tì vết. Đặc biệt là sự im lìm trong đôi mắt của bà Conner, chẳng khác nào hai ô cửa sổ của một ngôi nhà hoang lạnh. Ngài luật sư cố tỏ ra hân hoan, nhưng hai cánh tay choàng qua người bà vợ và các cô con gái cho thấy một sự sở hữu nhiều hơn là che chở. Ngoài ra, trong tấm hình, còn có một thứ khác mà Mila không tài nào xác định được. Có một điều gì đó ẩn giấu trong vẻ hạnh phúc giả tạo của gia đình Conner.
    Các cô con gái đã có lý. Giữa họ có một bóng ma.
    Ở hậu cảnh của tấm ảnh, thay cho cái tủ sách hiện tại là một cánh cửa.


  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 2
    Thường thì một con ma sẽ ẩn mình ở đâu?
    Trong một nơi tối tăm và ít bị thăm viếng. Trên tầng áp mái. Hoặc là, trong trường hợp này, ở dưới hầm nhà. Và mình là người nhận công việc bạc bẽo là trục nó ra khỏi đó.
    Mila nhìn xuống và nhận thấy những vết xước trên lớp ván sàn, dấu hiệu cho biết cái tủ thường xuyên bị dịch chuyển. Di chuyển sang bên hông tủ sách, cô trông thấy cánh cửa. Cô luồn ngón tay vào trong khe hở và kéo cái tủ ra. Các món đồ lưu niệm kêu lanh canh, tủ sách nghiêng đi một cách đáng sợ, nhưng Mila đã tạo ra được một khoảng hở đủ rộng để lách người qua.
    Khi cô mở cánh cửa, ánh sáng ban ngày tràn vào trong cái hốc bí mật. Nhưng cô vẫn có cảm giác bóng tối trong đó chỉ trực chờ tấn công mình. Cánh cửa được lót cách âm nhằm ngăn chặn tiếng ồn từ bên ngoài hoặc nhốt chúng vào bên trong.
    Trước mắt Mila là cầu thang dẫn xuống tầng hầm, nằm giữa hai vách tường bằng bê tông thô.
    Cô rút một chiếc đèn pin nhỏ trong túi ra, rồi đi xuống trong trạng thái cảnh giác, cơ bắp cô căng lên, sẵn sàng hành động.
    Sau vài bậc thì cầu thang rẽ sang bên phải và hình như dẫn vào phần chính của căn hầm. Khi xuống đến nơi, Mila thấy mình ở trong một gian phòng tối mò. Cô lia đèn pin qua lại, rọi sáng nhiều đồ đạc đáng lẽ không nên ở dưới này: một bàn thay tã, một chiếc cũi, và một cái giường trẻ con. Từ trong giường phát ra một âm thanh điều đặn.
    Một âm thanh sống động.
    Mila chầm chậm tiến đến gần, cẩn trọng đặt từng bước chân để không đánh thức sinh vật đang ngủ. Hệt như một con ma, nó cuộn mình trong một tấm vải, quay lưng về phía cô. Một cái chân bé xíu lộ ra. Cái chân cho thấy dấu hiệu suy dinh dưỡng. Việc thiếu thốn ánh sáng đã cản trở sự phát triển của nó. Da nó tái mét. Chắc nó chỉ chừng một tuổi.
    Mila phải chạm vào để chắc chắn đó là người thật.
    Có một mối liên hệ giữa thứ đang ở trước mắt Mila, vấn đề sinh dưỡng và nụ cười giả tạo của bà Conner. Không phải bà ta bị béo phì. Mà là có thai.
    Sinh linh bé nhỏ cựa mình vì bị ánh đèn đánh thức. Nó quay về phía Mila, tay ôm chặt một con búp bê vải. Mila tưởng đứa bé sẽ khóc, nhưng nó chỉ nhìn cô. Rồi nó mỉm cười.
    Con ma có đôi mắt rất to.
    Nó giơ tay về phía Mila, đòi bế. Cô chiều theo. Sinh linh nhỏ bé lập tức ôm chặt lấy cổ Mila. Chắc nó cảm thấy cô đến đây để cứu mình. Cô nhận thấy mặc dù sức khỏe kém, đứa trẻ khá sạch sẽ. Nó vẫn được chăm sóc. Sự chăm sóc này cho thấy một mâu thuẫn giữa yêu thương và thù ghét - giữa thiện và ác.
    - Con bé thích được bế lắm.
    Đứa bé nhận ra giọng nói ấy và sung sướng vỗ vỗ hai tay vào nhau. Mila quay lại. Bà Conner đang đứng ở chân cầu thang.
    - Ông ấy không giống như những người khác. Ông ấy luôn muốn kiểm soát mọi thứ, còn tôi, tôi không muốn làm ông ấy thất vọng. Khi ông ấy phát giác chuyện tôi có bầu, ông ấy đã không nổi khùng. - Bà nói về người chồng của mình, nhưng tránh không nói đến tên ông ta. - Ông ấy không bao giờ hỏi tôi bố đứa bé là ai. Cuộc sống của chúng tôi lẽ ra rất hoàn hảo, nhưng tôi đã làm hỏng các kế hoạch của ông ấy. Chính điều ấy mới làm ông ấy bực mình, chứ không phải vụ ngoại tình.
    Mila sững người, câm lặng nhìn bà ta. Cô không biết phải phán xét người đàn bà này như thế nào. Bà ta không tỏ ra tức giận, thậm chí bà ta không ngạc nhiên khi phát hiện một người lạ ở dưới tầng hầm. Như thể bà ta đã chờ đợi điều này từ lâu rồi. Có lẽ bà ta cũng chờ đợi một sự giải thoát.
    - Tôi đã cầu xin ông ấy để tôi đi phá thai, nhưng ông ấy không muốn. Ông ấy bắt tôi giấu diếm việc mang bầu với tất cả mọi người, và trong suốt chín tháng trời tôi đã nghĩ ông ấy muốn giữ đứa bé. Thế rồi một hôm, ông ấy đã chỉ cho tôi căn hầm đã được cải tạo này, và lúc đó tôi mới vỡ lẽ. Khinh bỉ tôi còn chưa vừa lòng, ông ấy muốn trừng phạt tôi.
    Mila cảm thấy cổ họng thắt lại vì phẫn nộ.
    - Ông ấy đã bắt tôi đẻ con dưới này, rồi để lại đứa bé ở đây. Cho đến bây giờ, tôi vẫn nhắc đi nhắc lại là chúng tôi có thể bỏ đứa bé trước một đồn cảnh sát hoặc một bệnh viện, sẽ chẳng có ai biết. Nhưng ông ấy chẳng buồn trả lời tôi nữa.
    Đứa bé trên tay Mila mỉm cười. Dường như chẳng có điều gì làm nó phiền lòng.
    - Thỉnh thoảng vào ban đêm, khi ông ấy vắng nhà, tôi đưa con bé lên trên kia, và cho nó xem hai chị đang ngủ. Tôi nghĩ chúng cũng cảm nhận được sự hiện diện của em gái mình, nhưng lại tưởng là mơ.
    Hoặc ác mộng, Mila tự nhủ khi nhớ lại con ma trong những bức tranh vẽ và câu chuyện kinh dị. Cô đã nghe đủ. Cô quay lại chiếc giường để nhặt con búp bê và rời khỏi chỗ này thật nhanh.
    - Nó tên là Na. - Bà Conner nói. - Ít ra thì đó là cái tên mà con bé đặt cho nó. Tôi là mẹ kiểu gì, nếu không biết tên con búp bê ưa thích nhất của con gái mình?
    Vậy còn con bé, nó có tên chứ? Mila tò mò muốn biết, nhưng cô không hỏi. Thế giới bên ngoài chẳng biết gì về sinh linh bé nhỏ này. Cô không thể hình dung điều gì sẽ xảy ra nếu mình không xuất hiện.
    Chẳng ai đi tìm kiếm một đứa bé không tồn tại.
    Cảm nhận được sự ghê tởm trong ánh nhìn của Mila, người phụ nữ tỏ ra phản đối.
    - Tôi biết cô đang nghĩ gì, nhưng chúng tôi không phải bọn sát nhân. Chúng tôi đã không giết con bé.
    - Đúng. - Mila thừa nhận. - Các người chỉ chờ nó chết đi.

  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 3
    Tôi là mẹ kiểu gì, nếu không biết tên con búp bê ưa thích nhất của con gái mình?
    Mila tự nhắc đi nhắc lại câu hỏi đó trong suốt chặng lái xe. Và câu trả lời vẫn luôn như thế.
    Mình chẳng hơn gì bà ta.
    Mỗi khi nhận thức điều đó, dường như cô lại mở toang một vết thương cũ.
    Vào lúc 11 giờ 40 phút, cô bước qua cửa Minh Phủ.
    Họ dùng cái tên đó để gọi ban phụ trách tìm người mất tích tại trụ sở cảnh sát liên bang. Nó nằm ở tầng hầm của một tòa nhà thuộc cánh tây, nơi xa trung tâm nhất. Chính điều này, cùng với tên gọi của nó cho thấy dường như chẳng ai quan tâm đến sự tồn tại của Minh Phủ.
    Cô được chào đón bằng tiếng rì rầm thường trực của chiếc máy điều hòa cổ lỗ và mùi khói thuốc cũ - di sản của một thời đã xa - khi mà người ta có thể hút thuốc trong phòng làm việc - pha trộn với hơi ẩm của móng nhà.
    Minh Phủ gồm nhiều phòng và một tầng hầm để lưu trữ hồ sơ tài liệu. Nó có ba phòng làm việc, mỗi phòng được trang bị bốn bàn giấy, ngoại trừ phòng dành cho thủ trưởng. Tuy nhiên, căn phòng rộng nhất chính là phòng đầu tiên khi người ta tiến vào Minh Phủ.
    Sảnh đợi.
    Đây là nơi kết thúc con đường đời của nhiều người. Khi đi vào đây, bạn sẽ bị ấn tượng bởi ba điều. Đầu tiên là sự trống trải: do không có đồ đạc, tiếng vang di chuyển tự do mà không bị cản trở. Tiếp đến là cảm giác sợ bị nhốt: trần nhà khá cao nhưng lại không có cửa sổ, nguồn ánh sáng duy nhất được cung cấp nhờ những ngọn đèn huỳnh quang xám xịt. Và điều thứ ba khiến bạn chú ý là hàng trăm đôi mắt.
    Các bức tường được phủ kín bởi ảnh chụp của những người mất tích.
    Đàn ông, đàn bà. Trẻ, già. Những đứa trẻ khiến bạn lập tức chú ý. Mila đã thắc mắc trong một thời gian dài, trước khi hiểu ra những đứa trẻ nổi bật lên giữa đám đông vì sự hiện diện của chúng gợi nên cảm giác khó chịu của sự bất công. Trẻ con đâu thể tự quyết định biến mất, như vậy rõ ràng một bàn tay của người lớn đã tóm lấy và lôi chúng vào một chiều không gian vô hình. Tuy nhiên, những khuôn mặt trẻ thơ trên các bức tường không nhận được bất kì sự đối xử đặc biệt nào, chúng được xếp chung với những hình ảnh khác theo trật tự thời gian thuần túy.
    Tất cả những cư dân của bức tường câm lặng đều ngang hàng. Không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới tính hay tuổi tác. Hình ảnh của họ là bằng chứng mới nhất về sự tồn tại của họ trên đời. Đó có thể là những tấm ảnh được chụp từ bữa tiệc sinh nhật, hay được lấy ra từ một đoạn video an ninh. Có người cười vô tư, có người còn không biết mình bị chụp ảnh. Nhưng trên hết, trong số họ chẳng mảy may nghi ngờ rằng đây sẽ là tấm ảnh cuối cùng của mình.
    Kể từ khoảng cách đó, trái đất đã tiếp tục quay không cần biết đến họ. Tuy nhiên, không ai bị bỏ rơi, không người nào làm việc tại Minh Phủ lãng quên họ.
    "Họ không phải là con người". Thủ trưởng Steph của Mila đã từng nói như thế. "Mà là đối tượng làm việc của chúng ta. Nếu cô không thể nhìn nhận như thế, cô sẽ không thể trụ lâu ở đây được đâu. Tôi á, tôi đã ở đây được hai mươi năm rồi".
    Nhưng Mila không tài nào xem những con người này là "đối tượng làm việc" được. Trong các phòng ban khác của trụ sở, họ sẽ được gọi là "nạn nhân". Thuật ngữ chung chung này cho biết họ đã hứng chịu một loại tội ác nào đó. Các đồng nghiệp ngoài Minh Phủ của Mila không biết họ may mắn đến thế nào khi có được cái thuật ngữ chung chung ấy.
    Trong các vụ mất tích, người ta không thể xác định ngay được người mất tích là một nạn nhân hay tự nguyện bỏ đi.
    Các điều tra viên của Minh Phủ không thực sự biết họ đang điều tra cái gì, một vụ bắt cóc, giết người hay sự ra đi tự nguyện. Phần thưởng họ nhận được không phải là công lý. Họ không bị thôi thúc bởi ý nghĩ phải lùng bắt cho được một tên gian ác. Các điều tra viên của Minh Phủ phải bằng lòng với cơ hội tìm ra sự thật. Quả vậy, sự mơ hồ có thể trở thành một nỗi ám ảnh, không chỉ đối với người yêu quý người mất tích - những người không chấp nhận chuyện đó.
    Mila đã học được một bài học. Trong bốn năm đầu tiên ở Minh Phủ, cô từng có một đồng nghiệp là Eric Vincenti, một anh chàng trầm tính, tốt bụng, người có lần đã cho cô biết các cô gái luôn bỏ rơi anh vì cùng một lí do: khi anh đưa họ đi ăn tối hoặc uống gì đó, anh cứ nhìn các bàn khác hoặc những người qua lại.
    "Họ nói chuyện với tôi, nhưng tôi cứ nhìn đi chỗ khác. Tôi cố lắng nghe, nhưng không thể. Có cô còn yêu cầu tôi chấm dứt nhòm ngó các phụ nữ khác trong khi đi chơi với cô ấy".
    Mila còn nhớ nụ cười héo hắt của Eric khi kể lại chuyện đó. Chất giọng mỏng, hơi khàn và cái gật đầu chấp nhận của anh. Như thể anh đã bỏ cuộc và coi nó như một câu chuyện phiếm vui vẻ. Nhưng sau đó anh trở nên nghiêm túc.
    "Tôi tìm kiếm họ khắp nơi. Tôi tìm kiếm họ mọi lúc".
    Câu nói cay đắng đó, Mila không bao giờ quên.
    Eric Vicenti đã biến mất vào một ngày chủ nhật của tháng Ba. Trong căn hộ độc thân của anh, chăn nệm được xếp gọn ghẽ, những chiếc chìa khóa được đặt trên cái bàn nhỏ cạnh cửa ra vào, quần áo còn nguyên trong tủ đồ. Trong tấm ảnh duy nhất của anh mà họ tìm thấy, Eric tươi cười đứng giữa hai người bạn, hãnh diện khoe con cá mèo vừa câu được. Khuôn mặt anh đã được đặt cạnh những khuôn mặt khác trên bức tường phía đông.
    "Cậu ta đã không trụ được". Steph đã tuyên bố như thế.
    Bóng tối đã chộp được anh ấy, Mila đã nghĩ như vậy.
    Trong khi đi đến bàn làm việc của mình, cô quan sát tấm ảnh của Eric Vincenti, người mà sau hai năm mất tích vẫn chưa có manh mối nào được phát hiện. Tấm ảnh là dấu vết cuối cùng về sự tồn tại của anh.
    Và do vậy hiện nay chỉ còn hai người làm việc tại Minh Phủ.
    Trong các phòng ban khác của trụ sở cảnh sát, số lượng nhân viên đông đúc đến nỗi họ phải chen chúc nhau trong các văn phòng và phải cố gắng đạt tiêu chí hiệu quả công việc do cấp trên áp xuống. Mila và đại úy Steph thì ngược lại, hai người có cả một không gian mênh mông, chẳng phải báo cáo ai về phương pháp lẫn kết quả làm việc. Tuy nhiên, không một cảnh sát có chút tham vọng tối thiểu nào muốn nhập bọn với họ - hi vọng về một sự nghiệp lẫy lừng của bạn tắt dần khi các vụ việc bế tắc cứ dõi theo bạn từ trên các bức tường.
    Về phần mình, Mila đã tự nguyện chọn Minh Phủ sau khi được đề nghị thăng chức nhờ phá thành công một vụ án lớn, hồi bảy năm về trước. Các cấp trên của cô đã không che giấu được sự kinh ngạc của mình. Việc chôn vùi bản thân trong cái lỗ này thật không thể hiểu nổi đối với họ. Nhưng Mila nhất quyết không đổi ý.
    Sau khi thay bộ trang phục chạy bộ để ngụy trang lúc sáng, Mila mặc quần áo như thường lệ - một chiếc áo thun dài tay tầm thường, chiếc quần jean và đôi giày thể thao, rồi ngồi vào máy tính để viết báo cáo về vụ Conner. Bóng ma nhỏ tuổi vô danh đã được giao cho bên bảo trợ xã hội. Hai nhà tâm lý được hộ tống bởi một chiếc xe tuần tra đã đến tìm hai chị gái của cô bé tại trường học. Bà Conner đã bị bắt, và theo những gì Mila được biết thì chồng bà ta cũng cùng chung số phận.
    Trong khi chờ máy tính khởi động, Mila lại nghe thấy giọng nói đã đeo bám cô suốt buổi sáng.
    Mình chẳng hơn gì bà ta.
    Đúng lúc đó, cô ngước lên và nhìn về phía cửa phòng của đại úy Steph. Khác với thường lệ, nó khép chặt. Cô đang thắc mắc về sự việc lạ lùng này thì ông đại úy thò đầu qua cửa.
    - A, cô đây rồi. Cô vào đây được không? - Ông nói bằng giọng điềm tĩnh, nhưng Mila cảm nhận được một sự căng thẳng trong đó.
    Trước khi cô kịp phản ứng, Steph rụt đầu vào trong, để ngỏ cửa cho cô. Mila đứng lên và tiến về phía cánh cửa. Khi đi đến gần, cô nghe thấy tiếng trò chuyện.
    Chẳng ai quá bộ xuống dưới Minh Phủ này.
    Thế nhưng hôm nay có vẻ Steph không ở một mình.

  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 4
    Nguyên nhân của chuyến viếng thăm này chắc là quan trọng.
    Các đồng nghiệp ở tầng trên giữ khoảng cách với Minh Phủ như thể nơi này bị nguyền rủa. Thượng cấp thì chẳng buồn ngó ngàng đến họ. Người ta muốn quên họ như quên một mặc cảm tội lỗi. Hoặc có thể tất cả đều sợ bị giữ lại bởi các bức tường trong Sảnh Đợi và bị cầm tù trong cái nơi nằm giữa đường dương gian và âm phủ này.
    Khi Mila mở cửa phòng, cô trông thấy Steph tại bàn làm việc và một người đàn ông ngồi đối diện với ông ta, với đôi vai rộng và bộ comlê màu nâu khó nhọc lắm mới ôm khít được. Mặc cho số cân thừa, cái đầu hói và chiếc cà vạt dường như thít lấy cái cổ thay vì tạo ra vẻ lịch lãm, Mila không khó nhận ra nụ cười đôn hậu của Klaus Boris.
    - Cô thế nào rồi, Vasquez? - Anh vừa nói vừa đứng lên.
    Anh định dang tay ôm lấy cô nhưng khựng lại khi nhớ ra cô không thích bị người khác đụng chạm. Anh lúng túng thả tay xuống.
    - Tôi ổn, còn anh, anh gầy đi đấy. - Mila đáp lại để xua đi sự khó xử.
    - Thế cô còn muốn gì nữa, tôi là con người của hành động mà! - Anh vừa cười vang vừa xoa tay trên cái bụng mỡ.
    Đây không còn là Boris mà cô đã biết. Anh đã lấy vợ, có hai nhóc tì, và với cương vị thanh tra, giờ đây anh là thượng cấp của cô. Điều này càng khiến cô không tin anh đến để thăm hỏi xã giao.
    - Thẩm phán chúc mừng cô vì phát hiện sáng nay.
    Thẩm phán cơ đấy, Mila tự nhủ. Khi người đứng đầu bộ phận quan tâm đến một cảnh sát quèn dưới Minh Phủ thì tình hình khá đơn giản: nếu đằng sau vụ mất tích có bàn tay của một tên sát nhân, nó sẽ tự động được chuyển lên đội điều tra hình sự, cùng với nó là cơ hội được hưởng mọi công trạng sau khi vụ án được làm sáng tỏ.
    Không có huân chương cho những cảnh sát viên của Minh Phủ.
    Vụ việc của gia đình Conner cũng tuân theo cơ chế này. Đổi lại, Mila đã nhận được một sự khoan hồng cho phương pháp điều tra không mấy chính thống của mình. Đội hình sự rất hài lòng vì được tiếp nhận cuộc điều tra. Xét cho cùng đây là một vụ giam giữ người trái phép, không hơn không kém.
    - Thẩm phán cử anh đến đây để nói với tôi chuyện này sao? Lẽ ra chỉ cần gọi điện là được rồi.
    Boris lại cười, nhưng lần này là một nụ cười gượng.
    - Chúng ta thoải mái một chút nhé.
    Mila liếc nhìn Steph dò hỏi, nhưng ông ta nhìn đi chỗ khác. Ông ta không phải là người nói. Boris ngồi xuống trở lại và chỉ cho Mila cái ghế đối diện mình. Nhưng Mila đi đóng cửa phòng rồi tiếp tục đứng.
    - Boris này, chuyện gì đã xảy ra thế? - Cô hỏi mà không nhìn vào anh.
    Một nếp nhăn hiện lên trên trán Boris. Ánh sáng trong phòng đột nhiên như tối hẳn đi. Thôi xong, không đùa bỡn được nữa rồi, Mila nghĩ bụng.
    - Điều tôi sắp tiết lộ với cô thuộc loại tối mật. Chúng ta đang cố giữ cho đám nhà báo đứng ngoài tất cả chuyện này.
    - Sao phải thận trọng như thế? - Steph hỏi.
    - Thẩm phán đã yêu cầu giữ bí mật tối đa, tất cả những người biết thông tin vụ việc sẽ được ghi nhận để có thể xác định mọi sự rò rỉ nếu có.
    Đây không chỉ là một sự dặn dò, mà là một lời răn đe ngầm.
    - Điều đó đồng nghĩa hai chúng tôi đều nằm trong danh sách. - Ông đại úy nói. - Bây giờ liệu chúng tôi có thể biết chuyện được chưa?
    Boris dành cho mình vài giây suy nghĩ, rồi nói:
    - Sáng hôm nay, vào lúc 6 giờ 40 phút, một đồn cảnh sát ở ngoài thành phố đã nhận được một cú điện thoại.
    - Ở đâu thế? - Mila hỏi.
    - Đợi đã. - Boris giơ tay ngăn cô lại. - Trước hết là những chi tiết khác.
    Mila ngồi xuống đối diện với anh ta.
    Boris đặt hai bàn tay trên đầu gối như để tăng thêm dũng khí.
    - Một đứa bé mười tuổi tên Jes Belman báo với cảnh sát là một người nào đó đã đột nhập vào nhà mình vào giờ ăn tối rồi xả súng. Và tất cả mọi người đều đã chết.
    Mila có cảm giác như ánh sáng trong phòng lại bị giảm thêm.
    - Địa chỉ tương ứng với một căn nhà trên núi, cách khu dân cư gần nhất mười lăm cây số. Chủ nhà là Thomas Belman, người sáng lập kiêm chủ tịch hãng dược phẩm mang tên ông.
    - Tôi biết tay này. - Steph lên tiếng. - Hãng đó sản xuất loại thuốc huyết áp tôi đang dùng.
    - Jes là thành viên nhỏ nhất trong gia đình. Ngài Belman từng có hai người con khác, một trai và một gái. Chris và Lisa.
    Động từ ở thì quá khứ làm bật lên một ngọn đèn đỏ trong đầu Mila. Sắp đến phần đau đớn nhất.
    - Mười sáu và mười chín tuổi. - Boris bổ sung. - Vợ của Belman tên là Cynthia, bốn mươi bảy tuổi. Khi cảnh sát địa phương lên đến nơi để xác minh thì... Thôi, có dài dòng cũng vô ích... - Đôi mắt Boris mờ đi vì phẫn nộ. - Cậu bé đã nói sự thật. Tối qua mọi người đều có mặt ở nhà. Một cuộc thảm sát đã xảy ra. Tất cả đều thiệt mạng. Ngoại trừ Jes.
    - Tại sao? - Mila hỏi.
    - Chúng tôi nghĩ tên sát nhân có thù oán với ông chủ gia đình.
    - Điều gì khiến anh nghĩ như vậy? - Steph xen vào, lông mày chau lại.
    - Ông ta bị giết sau cùng.
    Ý đồ tàn bạo của vụ việc đã quá rõ. Thomas Belman chắc chắn biết những người thân của mình đã bị giết, ông ta hẳn là rất đau đớn.
    - Thằng bé trốn được hay là ẩn nấp thành công?
    Mila cố tỏ ra bình tĩnh, nhưng lời tường thuật của Boris đã khiến cô rúng động.
    Boris cười, vẻ khó tin hiện rõ trên gương mặt.
    - Tên sát nhân tha mạng cho thằng bé để nó gọi điện cho chúng ta và thuật lại chuyện đã xảy ra.
    - Ý anh là thằng khốn ấy đã có mặt tại chỗ khi cậu bé gọi điện thoại á? - Steph thốt lên.
    - Hắn muốn chắc ăn.
    Bạo lực cực điểm và mong muốn gây chú ý. Tập tính điển hình của một loại hung thủ đặc biệt, những tên giết người tập thể.
    Chúng nguy hiểm và khó đoán hơn những kẻ giết người hàng loạt, mặc dù truyền thông và mọi người thường xuyên nhầm lẫn hai loại. Bọn giết người hàng loạt chừa những khoảng thời gian tương đối dài giữa các phi vụ của chúng, ngược lại những tên giết người tập thể tập trung tất cả vào một cuộc thảm sát duy nhất, với sự chuẩn bị và đầu óc lạnh lùng. Chẳng hạn như một nhân viên mới bị sa thải quay lại công ty để giết chết các đồng nghiệp, hoặc một gã sinh viên xách súng đến trường bắn gục các giáo sư và bạn học như trong một trò chơi điện tử.
    Động cơ của chúng là thù hận. Hận chính quyền, xã hội, thế lực đương quyền, hoặc đơn giản là con người.
    Khác biệt cơ bản giữa những kẻ giết người hàng loạt và giết người tập thể là loại đầu tiên có thể bị bắt giữ - người ta có thể còng tay chúng và sung sướng nhìn thẳng vào mắt chúng, nói với chúng câu "Kết thúc rồi" - trong khi loại thứ hai chỉ dừng lại một khi chúng đã đạt được con số hoàn hảo trong danh sách nạn nhân bí mật của mình. Đối với bản thân, chúng chọn một lần xuống tay duy nhất để tự giải thoát, bằng chính thứ vũ khí đã sử dụng trong cuộc thảm sát. Hoặc chúng cố tình để cho cảnh sát bắn hạ trong một màn thách thức sau cuối. Những tên sát nhân này luôn để lại cho cảnh sát cảm giác họ đến quá muộn, bởi chúng đã hoàn thành mục tiêu gây án.
    Và đưa rất nhiều linh hồn theo chúng xuống địa ngục.
    Nếu không bắt được, không xét xử được kẻ thủ ác, các nạn nhân sẽ theo hắn rơi vào quên lãng, để lại khoảng trống khủng khiếp của một sự trả thù vô nghĩa. Như vậy thủ phạm cuộc tàn sát đã tước mất nơi các cảnh sát viên niềm an ủi được làm gì đó cho những người thiệt mạng.
    Nhưng trường hợp này thì khác, Mila nhủ thầm. Nếu vụ án đã khép lại với vụ tự sát của hung thủ thì Boris đã nói ngay với cô rồi.
    - Hắn vẫn đang tự do ở một nơi chỉ có Chúa mới biết. - Thanh tra Boris khẳng định luôn trước khi cô đưa ra nhận định. - Hắn vẫn đang ở ngoài kia, hai người có hiểu không? Hắn có vũ khí. Và có lẽ hắn chưa xong việc.
    - Anh có biết gã tâm thần đó là ai không? - Steph hỏi.
    Boris lảng tránh câu hỏi.
    - Chúng tôi biết hắn đến từ trong rừng và ra đi cũng theo hướng đó. Ngoài ra chúng tôi biết hắn đã sử dụng một khẩu súng trường Bushmaster bán tự động cỡ nòng 5,56 ly và một khẩu súng lục.
    Mila có cảm giác Boris vẫn chưa kể hết. Và những điều anh chưa nói có liên quan đến việc anh đích thân xuống tận Minh Phủ.
    - Thẩm phán muốn cô xem qua vụ này.
    - Không.
    Câu trả lời tự động bật ra khiến chính bản thân Mila cũng ngạc nhiên. Như trong một ánh chớp, cô nhìn thấy bốn thi thể, chỗ máu trên tường và dưới sàn, loang rộng như một vệt dấu. Cô ngửi thấy cái mùi đó. Thứ chướng khí khủng khiếp đó dường như nhận ra bạn và nói với bạn một cách bỡn cợt rằng, một ngày kia, cái chết cuả bạn cũng sẽ có cái mùi y hệt.
    - Không. - Mila lặp lại một cách cương quyết. - Tôi không tham gia. Tôi xin lỗi.
    - Khoan đã, tôi không hiểu. - Steph xen vào. - Tại sao cô ấy phải tham gia? Mila đâu phải dân tội phạm học, dựng chân dung tội phạm lại càng không.
    Boris phớt lờ ông.
    - Thủ phạm đang có một kế hoạch, hắn sẽ sớm hành động trở lại và những người vô tội khác sẽ chết. Tôi biết chúng tôi đang đòi hỏi ở cô quá nhiều.
    Đã bảy năm trời Mila không đến một hiện trường tội ác nào. Mày là của hắn. Mày thuộc về hắn. Mày biết mày sẽ thích...
    - Không. - Cô lặp lại lần thứ ba, để xua tan giọng nói trong đầu.
    - Tôi sẽ giải thích mọi chuyện với cô tại hiện trường. Vụ này chỉ cần nhiều nhất là một tiếng đồng hồ, tôi hứa. Chúng tôi đã cho rằng...
    Steph buộc miệng cười chế giễu.
    - Kể từ lúc anh bước vào căn phòng này, anh cứ mở miệng là nói chúng tôi thế này chúng tôi thế nọ... Chúng tôi thừa biết Thẩm phán là người đã xem xét và quyết định, anh chỉ chuyển lời mà thôi. Vậy thì anh nói đi, đằng sau vụ này là chuyện gì?
    Gus Stephanopoulos, người mà ai cũng gọi là Steph cho thuận miệng, là một cảnh sát lão luyện và đủ gần cái tuổi về hưu để có thể bất chấp mọi hậu quả từ những lời nói khó nghe của mình. Mila thích Steph ở chỗ, cho dù luôn tỏ ra tuân thủ các luật lệ và không xen vào việc của người khác, dù luôn cố gắng nói và làm điều đúng đắn, cái bản chất của một ông già Hy Lạp vẫn lộ ra vào thời điểm người ta ít mong đợi nhất. Cô hiểu sự ngỡ ngàng trên khuôn mặt của Boris. Steph nói với cô bằng giọng hài hước:
    - Theo cô thì tôi cần phải làm thế nào? Đá đít tay thanh tra này để tống anh ta trở lại tầng trên nhé?
    Mila im lặng. Cô nhìn Boris.
    - Anh đã có một hiện trường tội ác hoàn hảo, không thể mơ thứ gì hơn thế. Ngoài ra, anh có một nhân chứng trực tiếp, cậu con trai của Belman, và tôi đoán anh đã có một chân dung dựng lại của hung thủ. Có thể anh còn thiếu một chút động cơ gây án, nhưng anh sẽ chẳng khó khăn gì trong việc khám phá điều đó, vì thường trong những trường hợp như thế này động cơ là hận thù. Thêm vào đó có vẻ như không ai mất tích cả, vậy tại sao lại phải mời người của Minh Phủ? Tôi thì có liên quan gì trong truyện này chứ? Hay là, - cô nói thêm sau một chút ngập ngừng, - anh đến đây vì có một vấn đề với danh tính của kẻ sát nhân...
    Cô để cho lời nói của mình phát huy hiệu quả. Boris tiếp tục nín thinh.
    - Các anh không thể nhận dạng được hắn, đúng không? - Steph gặng hỏi.
    Đôi khi các đơn vị khác nhờ đến sự giúp đỡ của họ để tìm ra cái tên cho một khuôn mặt: nếu không tìm được người, ít ra họ cũng có một cái tên.
    - Anh cần Mila, như thế nếu các anh không thể nhận dạng được hắn trước cuộc thảm sát kế tiếp, các anh có thể đổ tội cho Minh Phủ chúng tôi. Chúng tôi là bọn đổ vỏ, có phải thế không?
    - Ông nhầm rồi, đại úy. - Boris đáp. - Chúng tôi biết người đó là ai.
    Cả Mila lẫn Steph đều không biết phải nói gì nữa.
    - Hắn tên là Rogen Valin.
    Cái tên này giải phóng một loạt những thông tin lộn xộn trong đầu Mila. Kế toán. Ba mươi tuổi. Mẹ bệnh. Buộc phải chăm sóc đến khi mẹ mất. Không có gia đình và bạn bè. Sưu tập đồng hồ. Nhã nhặn. Vô hình. Một kẻ sống bên lề cuộc đời.
    Trong một thoáng, tâm trí của Mila bay ra khỏi văn phòng, lần theo cái hành lang của Minh Phủ đến Sảnh Đợi, dừng lại trước bức tường bên trái, rồi đi lên cao. Và cô nhìn thấy anh ta.
    Rogen Valin. Khuôn mặt hốc hác, ánh mắt lơ đãng. Mái tóc bạc trước tuổi. Tấm ảnh duy nhất họ có là ảnh thẻ ra vào công ty của anh ta: comlê xám nhạt, áo sơmi kẻ sọc nhuyễn, cà vạt xanh lá cây.
    Mất tích không rõ nguyên nhân vào một sáng tháng Mười.
    Mười bảy năm về trước.

  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 5
    Con đường men theo địa hình đồi núi.
    Trong khi đi lên dốc, họ để lại sau lưng hình ảnh thành phố chìm ngập trong một lớp sương mù. Rồi khung cảnh đột ngột thay đổi. Không khí trở nên trong hơn, những cây linh sam lấy đi sức nóng còn dai dẳng sau khi mùa hè qua đi.
    Ở bên ngoài cửa xe, mặt trời chơi trò ú tim giữa đám cành lá, hắt những cái bóng loang loáng xuống tập hồ sơ để mở trên đầu gối Mila. Toàn bộ câu chuyện của Roger Valin nằm ở trong đó. Mila vẫn còn cảm thấy chưa tin nổi người nhân viên sầu não trong tấm ảnh dán trên vách tường Minh Phủ ấy lại có thể gây ra một tội ác man rợ đến thế. Như thường thấy ở những kẻ giết người tập thể khác, không hề có bất cứ dấu hiệu bạo lực nào trong quá khứ của hắn ta. Sự hung hãn của hắn đã đột ngột bùng nổ mà không hề báo trước. Và vì Valin không có rắc rối nào với cảnh sát, hắn không bị đưa vào hồ sơ phạm pháp.
    Vậy làm thế nào họ có thể phát hiện ra danh tính của hắn?
    Khi Mila đặt câu hỏi này với Boris, anh đã yêu cầu cô kiên nhẫn và đảm bảo rằng cô sẽ sớm được biết mọi chi tiết.
    Lúc này thì viên thanh tra đang lái một chiếc xe con đã gỡ toàn bộ dấu hiệu của cảnh sát. Mila tự hỏi nguyên nhân của tất cả sự thận trọng này. Việc tưởng tượng ra câu trả lời càng làm tăng thêm cảm giác lo lắng của cô.
    Nếu nguyên nhân thật sự rất kinh khủng thì cô không muốn biết nó.
    Cô đã phải mất bảy năm trời để học cách sống với những gì đã xảy ra trong vụ "Kẻ nhắc tuồng". Cô vẫn còn gặp ác mộng, nhưng không phải vào ban đêm. Trong giấc ngủ mọi thứ đều biến mất. Nhưng giữa thanh thiên bạch nhật đôi khi cô gặp một nỗi sợ đột ngột, tựa như một con mèo đánh hơi thấy mối nguy hiểm, cô cảm thấy một sự hiện diện ở ngay cạnh mình. Sau khi hiểu ra mình sẽ không xóa bỏ được những ký ức đó, cô đã đi đến một kiểu thỏa thuận ngầm với bản thân. Nó đồng nghĩa với việc áp đặt một vài quy tắc nghiêm ngặt cho chính mình. Chúng là tấm lưới an toàn của cô, là vạch giới hạn mà cô không bao giờ bước qua. Quy tắc đầu tiên quan trọng nhất.
    Đừng bao giờ gọi tên con quái vật.
    Thế nhưng cô sắp sửa vi phạm một trong những quy tắc an toàn đó vào sáng hôm nay. Mila có thể sẽ không bao giờ đi xem một hiện trường vụ án nữa. Cô sợ điều mình sẽ cảm thấy khi đối diện với các dấu hiệu của bạo lực. Mình sẽ cảm thấy điều mọi người cảm thấy thôi mà, cô tự thuyết phục mình. Nhưng một giọng nói u ám trong đầu khẳng định với Mila điều ngược lại.
    Mày là của hắn. Mày thuộc về hắn. Mày biết mày sẽ thích...
    - Chúng ta sắp đến rồi. - Boris lên tiếng, dập tắt giọng nói ám ảnh kia.
    Mila gật đầu, tìm cách che dấu sự bối rối của mình. Khi liếc mắt ra ngoài cửa xe, nỗi sợ hãi của cô càng tăng lên: hai cảnh sát đang bắn tốc độ các phương tiện lưu thông. Đó chỉ là một sự ngụy trang, nhiệm vụ thật sự của họ là quan sát con đường tiếp cận hiện trường vụ thảm sát. Khi chiếc xe đi qua máy bắn tốc độ, các cảnh sát viên đưa mắt nhìn theo họ. Sau đó vài mét, Boris đánh xe vào một lối đi hẹp.
    Con đường đất khá mấp mô, các nhánh cây đan cài vào nhau tạo thành một đường hầm như chực chờ chụp xuống chiếc xe. Khu rừng cúi xuống để vuốt ve sự di chuyển của họ một cách dịu dàng và đầy thuyết phục, như thể đang che giấu một âm mưu xấu xa. Tuy vậy, họ có thể nhìn thấy mặt trời rực rỡ ở phía trước. Rồi họ ra khỏi bóng tối và đột ngột thấy trước mặt hiện lên một ngôi biệt thự.
    Đó là một tòa nhà ba tầng, chia thành các cấp độ khác nhau. Nó kết hợp kiểu dáng cổ điển của các ngôi nhà gỗ trong vùng - mái dốc và dầm gỗ - với một lối kiến trúc hiện đại. Phần hiên nhà nâng cao được lắp kính toàn bộ.
    Một ngôi nhà của người khá giả, Mila nghĩ bụng.
    Họ bước xuống xe và Mila nhìn quanh. Năm chiếc xe đã gỡ biển hiệu cảnh sát đang đậu: bốn chiếc xe con và một chiếc xe du lịch nhỏ của đội khoa học hình sự. Một sự huy động lực lượng rõ rệt.
    Hai cảnh sát viên tiến đến báo cáo tình hình với Boris. Mila không nghe thấy những điều họ trao đổi với nhau. Cô theo họ bước lên bậc thềm đá dẫn tới cửa ra vào, vừa đi vừa giữ một khoảng cách nhất định.
    Trong chuyến đi, Boris đã giải thích với Mila nhiều chi tiết. Chủ nhà là Thomas Belman, một bác sĩ đã trở thành doanh nhân khi lập nên một hãng dược phẩm phát đạt. Ông ta tuổi ngoài năm mươi, đã có vợ và ba người con. Đam mê máy bay và xe mô tô cổ. Một người đàn ông từng gặp nhiều may mắn, nhưng lại có một kết cục tệ hại nhất có thể hình dung được: bị giết sau khi chứng kiến gia đình mình bị sát hại.
    - Ta đi nào. - Boris giục Mila.
    Cô nhận ra mình đang đứng trên ngưỡng cửa. Trong gian phòng khách rộng rãi và ngăn nắp, vây quanh một lò sưởi trung tâm lớn là khoảng hai mươi cảnh sát, tất cả đều quanh lại nhìn cô chăm chú. Họ biết cô, và Mila cố đoán suy nghĩ của họ. Cô cảm thấy lúng túng, nhưng hai bàn chân cứ từ chối bước đi. Cô cụp mắt nhìn chúng, như thể chúng thuộc về một ai khác.
    Nếu mình tiến lên, mình sẽ không thể đổi ý được nữa. Nếu mình bước tới, mình sẽ không thể lùi. Những lời nói trong đầu một lần nữa khiến cô hoảng sợ.
    Mày là của hắn. Mày thuộc về hắn. Mày biết mày sẽ thích... thứ mày sắp nhìn thấy, Mila tự nhủ, hoàn tất câu nói dang dở.
    Bàn chân trái của cô tiến lên. Cô đã bước vào trong.
    Có một nhóm những kẻ giết người tập thể mà không cảnh sát viên nào muốn chạm mặt. Đó là bọn giết người rải rác, những hung thủ thực hiện một số vụ thảm sát trong một khoảng thời gian tương đối ngắn. Roger Valin có thể thuộc nhóm này. Và trong lúc này, thời gian không ủng hộ cho nhóm điều tra. Đó là nguyên nhân của cảm giác phẫn nộ và bất lực đang bao trùm ngôi biệt thự. Mila quan sát các đồng nghiệp làm việc. Hãy nhớ rằng họ không thể làm gì hơn cho những người đã chết, Mila tự nhủ.
    Sự thù hận mà Roger Valin đã đem tới ngôi nhà này vẫn còn cộng hưởng như một dạng bức xạ lên những người có mặt ở hiện trường sau vụ thảm sát.
    Các cảnh sát cũng chìm ngập cảm giác oán hận, dù không hữu ý.
    Rất có thể cũng chính cảm giác đó đã thôi thúc hung thủ, nuôi dưỡng sự điên cuồng của hắn, đến mức buộc hắn cầm lấy một món vũ khí. Thứ mà với tiếng động chính xác, liên tục của mình nó sẽ át đi những giọng nói trong đầu đã bám riết, xúi giục hung thủ báo thù cho những bất công và nhục nhã mà hắn phải hứng chịu.
    Hiện trường khu trú ở tầng trên, nhưng trước khi để Mila tiếp cận, họ đưa cho cô bao bảo vệ giày, găng tay cao su và mũ trùm tóc. Trong khi chuẩn bị, Mila trông thấy một cảnh sát viên đưa điện thoại di động cho Boris.
    - Vâng, cô ấy đã tới. cô ấy đang ở đây. - Cô nghe thấy anh nói vào điện thoại.
    Mila dám cá anh bạn thanh tra đang nói chuyện với Thẩm phán. Thật ra thì người lãnh đạo mới của cơ quan không liên quan với thẩm phán đoàn hay các tòa án. Đó chỉ là một biệt danh được gán ghép từ nhiều năm trước, do cung cách khô khan của nhân vật này. Thay vì phật ý, Thẩm phán lại chấp nhận biệt danh đó như một danh hiệu vẻ vang. Cùng với sự thăng tiến của Thẩm phán, ý nghĩ chế nhạo biến mất dần, nhường chỗ cho một sự tôn kính đầy nể sợ. Còn người đầu têu cho trò giễu cợt thì sống trong nỗi khiếp sợ phải trả giá, sớm hay muộn. Tuy vậy, Thẩm phán không thể hiện sự thù oán ra mặt với những kẻ thù của mình mà thích để họ sống với sợi dây thòng lọng quanh cổ hơn.
    Mila và Thẩm phán chỉ gặp nhau một lần, hồi bốn năm trước, khi một cơn đau tim đã chấm dứt nhiệm kỳ của Terence Mosca, người lãnh đạo tiền nhiệm. Sếp mới đã làm một chuyến thăm chớp nhoáng xuống Minh Phủ để chào các cấp dưới, động viên và khuyên răn họ. Xong rồi thôi. Cho đến buổi sáng hôm nay.
    Boris cúp máy, và sau khi đã định thần, anh tiến lại chỗ Mila.
    - Cô sẵn sàng chưa?
    Họ bước vào buồng thang máy nhỏ kết nối cả ba tầng của ngôi nhà - một trò xa xỉ hơn là một sự cần thiết. Thanh tra Boris đeo tai nghe.
    - Cám ơn cô đã đến. - Anh nói trong khi chờ tín hiệu bộ đàm cho phép đi lên.
    - Anh kể cho tôi nghe chuyện đã xảy ra tối qua đi. - Mila nói luôn để chặn đứng những lời sáo rỗng.
    - Vào khoảng 9 giờ tối, cả gia đình họ đang ngồi ăn, ít nhất là theo nhân chứng nhỏ tuổi Jes nhớ được. Phòng ăn nằm ở tầng trệt, trông ra hiên nhà phía sau. Valin băng qua rừng, do vậy họ không nhìn thấy hắn leo lên các bậc thang bên ngoài nhà. Cậu bé cho biết họ nhận thấy một người đàn ông đứng bất động ở ngoài cửa, nhưng thoạt đầu không ai hiểu nguyên nhân sự xuất hiện của anh ta.
    Lúc đầu không có gì phải hốt hoảng, Mila nghĩ thầm. Họ chỉ ngừng nói chuyện để nhìn hắn. Trong những tình huống nguy hiểm, phản ứng thường gặp nhất không phải là sự sợ hãi, mà là hoài nghi.
    - Thế rồi Belman đã đứng dậy và mở cửa để hỏi xem hắn muốn gì.
    - Ông ta đã mở cửa cho hắn á? Ông ta không nhìn thấy khẩu súng à?
    - Có chứ, tất nhiên rồi, nhưng chắc ông ta nghĩ mình kiểm soát được tình hình.
    Điển hình của những người đàn ông quyền thế, Mila nghĩ bụng. Thomas Belman không chấp nhận bị ai đó áp đặt luật lệ, nhất là ở nhà mình. Ngay cả khi người đó đang cầm trong tay một khẩu súng trường bán tự động Bushmaster 5,56 ly. Là một doanh nhân giỏi, ông ta định thương lượng, như thể mình thật sự có thứ gì đó để đề nghị.
    Nhưng Roger Valin không đến để thương lượng.
    Đúng lúc đó, Mila nhận thấy Boris đưa tay lên tai. Có lẽ họ đã được phép đi lên. Quả đúng như vậy, anh đưa tay ấn nút tầng trên.
    - Khi gọi điện thoại, cậu bé chỉ nói là Valin đã nổ súng. - Boris nói tiếp trong lúc thang máy đi lên. - Thật ra thì chuyện đã không diễn ra hoàn toàn như thế. Lúc đầu có một cuộc đối thoại ngắn, sau đó hung thủ đã nhốt Jes xuống hầm và bắt những người khác lên gác.
    Thang máy giảm tốc độ khi chuẩn bị lên đến nơi. Mila hít một hơi thật sâu.
    Chúng ta đến nơi rồi, cô tự nhủ.

  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết





    CHƯƠNG 6
    Cửa buồng thang máy mở ra.
    Boris và Mila lóa mắt vì các ngọn đèn halogen đặt dọc theo hành lang. Việc khám nghiệm hiện trường thường được thực hiện với rèm cửa che kín hoặc cánh cửa đóng kín, vì ánh sáng ban ngày làm sai lệch kết quả phân tích của các kĩ thuật viên. Mila còn nhớ cảm giác này. Nó giống như đi vào một hang động băng. Hiệu ứng ở đây càng mạnh mẽ hơn vì máy điều hòa được bật hết cỡ. Nhưng cái ấm áp của buổi sáng tháng Chín hôm nay không thể len lỏi vào trong nhà là do một nguyên nhân rất đặc biệt.
    Các thi thể vẫn còn ở đây, Mila tự nhủ. Rất gần.
    Đoạn hành lang nối các phòng ngủ được lấp đầy bởi sự hối hả của những nhân viên cảnh sát khoa học. Trong bộ áo liền quần màu trắng, họ di chuyển quanh hiện trường như những người ngoài hành tinh im lìm và đầy kỷ luật. Mila bước qua ranh giới giữa thế giới của người sống và người chết. Sau lưng cô, cửa thang máy khép lại. Con đường thoát của cô đã bị cắt đứt.
    - Hung thủ đã không sát hại mọi người vào cùng một thời điểm. - Boris nói trong khi đi trước dẫn đường. - Hắn tách riêng họ ra, sau đó kết liễu từng người một.
    Mila đếm được bốn cánh cửa phòng.
    - Xin chào. - Leonard Vross, tay bác sĩ pháp y có biệt danh Chang vì những nét châu Á trên khuôn mặt cất tiếng chào họ.
    - Chào bác sĩ. - Boris đáp.
    - Hai người đã sẵn sàng tham quan thế giới huyền diệu của Roger Valin chưa?
    Mặc dù tỏ ra hài hước, tay bác sĩ có vẻ đang chịu áp lực. Anh ta đưa cho họ một cái hũ nhỏ đựng kem long não để bôi lên mũi át đi mùi hôi thối.
    - Chúng ta có bốn hiện trường sơ cấp ở tầng hai. Cộng với một hiện trường thứ cấp ở dưới nhà. Như hai người thấy đấy, chúng tôi không bỏ sót gì hết.
    Sự phân biệt giữa hiện trường sơ cấp và thứ cấp tùy thuộc vào phương thức ra tay của hung thủ. Hiện trường thứ cấp ít quan trọng hơn trong việc xác định trình tự diễn ra tội ác, nhưng có thể mang tính quyết định đối với việc thiết lập động cơ gây án.
    Boris chưa nhắc đến hiện trường thứ cấp, nên Mila tự hỏi có thứ gì ở tầng dưới.
    Bác sĩ Chang dẫn họ đến phòng của Chris Belman, cậu con trai mười sáu tuổi.
    Áp phích hình các ngôi sao nhạc heavy metal dán trên tường. Vài đôi giày thể thao. Một túi đồ thể thao trong góc phòng. Một chiếc máy tính, một tivi màn hình plasma và một máy chơi điện tử. Một cái áo thun tôn vinh quỷ Satan mắc trên lưng dựa của một chiếc ghế. Nhưng con quỷ thật sự không giống với hình in trên áo. Hắn đã vào căn phòng này trong bộ dạng vô hại của một nhân viên kế toán.
    Một kĩ thuật viên đang phân tích đạn đạo giữa một chiếc ghế xoay và thi thể nằm trên tấm vải giường đẫm máu.
    - Thi thể có một vết thương lớn ở bụng do đạn bắn.
    Mila xem xét bộ quần áo: nạn nhân đã chảy máu đến chết.
    - Hắn đã không bắn nạn nhân vào đầu hoặc vào tim. Hung thủ đã chọn bắn vào bụng để kéo dài tình trạng hấp hối. - Cô nói.
    - Valin đã tận hưởng tấn tuồng này. - Boris vừa nói vừa chỉ tay vào chiếc ghế đặt phía trước giường.
    - Tấn tuồng này không phải dành cho hắn. - Mila chỉnh lại. - Nó dành cho bố của nạn nhân, người có thể nghe tiếng kêu khóc của con trai từ phòng mình.
    Cô cảnh sát hình dung ra cảnh tượng bi thảm. Các nạn nhân bị nhốt trong những căn phòng đã thành xà lim, tại ngôi nhà mà gia đình họ đã trải qua những kỉ niệm thân thương nhất, bên tai văng vẳng những diễn biến đang xảy ra với người thân, và trong đầu run rẩy với suy nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa sẽ đến lượt mình.
    - Roger đúng là một thằng khốn tàn ác. - Chang văng tục. - Có lẽ hắn đã dành thời gian để nói chuyện với từng nạn nhân trong mỗi căn phòng. Chắc hắn muốn làm họ tin rằng mình có thể thoát nạn. Rằng nếu nói ra đúng ý hắn và ngoan ngoãn vâng lời, số phận của họ sẽ thay đổi.
    - Như một dạng xét xử. - Mila nói.
    - Hoặc tra tấn. - Chang chỉnh lại.
    Một phát đạn, và Valin chuyển sang người kế tiếp. Tổ điều tra cũng vậy. Phòng bên cạnh là của cô con gái. Lisa, mười chín tuổi. Rèm cửa màu hồng, giấy dán tường in hình những bông cúc tím. Dù không còn là một đứa trẻ con, cô gái vẫn giữ nguyên căn phòng thời thơ ấu của mình. Búp bê, thú bông nằm cạnh những hộp trang điểm và son môi. Những tấm bằng khen thành tính học tập, những tấm ảnh chụp ở Disneyland cùng chó Pluto và nàng tiên cá chia sẻ diện tích tường với áp phích của các ban nhạc rock.
    Trên lớp thảm sàn sáng màu, thi thể cô gái ở trong một tư thế kì quặc. Trước khi giết, cô đã đập vỡ kính cửa sổ hòng tìm cách thoát thân, nhưng dũng khí của cơn tuyệt vọng đã không đủ để khiến cô thực hiện cú nhảy từ độ cao bốn mét. Cô gái đã bỏ cuộc trong hi vọng hão huyền được hưởng sự khoan hồng: thi thể cô ở trong tư thế quỳ gối.
    - Hắn đã bắn vào phổi phải của nạn nhân. - Chang vừa giải thích vừa chỉ vào cái lỗ ở sau lưng, nơi viên đạn đi ra.
    - Valin không mang theo dao, đúng không?
    Mila có lí do rõ ràng khi đặt ra câu hỏi này.
    - Không có bất kỳ sự tiếp xúc thân thể nào. - Chang xác nhận khi đoán ra suy nghĩ của Mila. - Hắn luôn giữ một khoảng cách với các nạn nhân.
    Đó là một chi tiết quan trọng. Việc không muốn tay mình vấy máu đã loại trừ khả năng bị tâm thần của tên giết người. Mila đã tìm ra chữ miêu tả hoàn hảo nhất cho sự việc đã diễn ra trong ngôi nhà này.
    Hành quyết.
    Họ bước sang căn phòng thứ ba, đây là một phòng tắm. Bà Belman nằm co quắp cạnh cửa phòng.
    Bác sĩ pháp y chỉ về phía cửa sổ.
    - Nó trông ra một nền đất cao. Khác với phần còn lại của tầng nhà, phòng tắm chỉ nằm cách mặt đất hai mét. Bà ta có thể nhảy xuống. Có khả năng gãy chân đấy, nhưng cũng có thể không. Bà ta có thể đi được đến con đường, dừng một chiếc xe hơi lại để cầu cứu.
    Tuy vậy, Mila biết tại sao bà ta đã không làm thế. Tư thế của xác chết nằm ngay cạnh cửa phòng đã chứng tỏ điều đó. Cô hình dung ra bà Belman khóc lóc, van xin kẻ sát nhân và gọi tên con mình để chúng biết mẹ chúng đang ở bên. Bà sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng, dù là để tự cứu mình. Bản năng người mẹ đã chiến thắng bản năng sinh tồn.
    Tên sát nhân đã lạnh lùng bắn nhiều phát vào chân bà ta. Cũng vẫn bằng khẩu súng trường, dù rằng hắn có mang theo một khẩu súng lục. Mila chưa hiểu được nguyên nhân của việc này.
    - Tôi tin chắc quý vị sẽ không thất vọng với phần còn lại của chuyến khám nghiệm hiện trường. - Chang khẳng định. - Valin đã để dành thứ hay ho nhất cho hồi kết.

  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 7
    Phòng ngủ của ông bà chủ nằm ở cuối hành lang.
    Nó đã trở thành lãnh địa dành riêng cho các chuyên gia khoa học hình sự cao cấp nhất của sở cảnh sát. Khuôn mặt trái xoan khắc khổ của Krepp ló ra dưới mũ trùm của bộ đồ bảo hộ tiệt trùng và là phần nhận dạng được duy nhất của ông. Trên đó nổi bật cái mũi xỏ khoen và đôi lông mày. Con người với cung cách thanh lịch và dáng vẻ thông thái nhưng trên người đầy hình xăm cùng khoen móc luôn gây được một ấn tượng nhất định với Mila. Sự lố lăng của Krepp cũng tương đương với năng lực chuyên môn của ông.
    Căn phòng hoàn toàn đảo lộn. Có vẻ như Thomas Belman đã cố thoát ra khỏi xà lim của mình bằng cách điên cuồng ném đồ vật vào cánh cửa.
    Thi thể ngồi dựa lưng vào phần đầu giường bọc mút, đôi mắt mở to, hai tay dang rộng như thể chờ đợi sự giải phóng của viên đạn. Thứ đã xuyên vào ngực ông ngay vị trí quả tim.
    Trong phòng, ngoài nhóm kỹ thuật viên, còn một người nữa cũng chỉ mang bao giày, găng tay cùng mũ trùm tóc giống như Mila và Boris. Bộ comlê sẫm màu, đôi mắt nhỏ và chiếc mũi khoằm. Tay đút túi, anh ta quan sát các cảnh sát làm việc. Khi anh ta quay lại, Mila nhận ngay ra người quen.
    Gurevich có cùng cấp bậc với Boris, nhưng mọi người đều biết anh ta là cánh tay phải của Thẩm phán. Nhờ ảnh hưởng của sếp, anh ta được xem như một mưu sĩ của sở cảnh sát. Mới nổi nhưng chính trực, nghiêm khắc, không khoan nhượng. Và cứng rắn đến mức được gán cho biệt danh đầu bò. Những thành tích ít ỏi của anh ta được bơm thổi cực đại tới nỗi trở thành khuyết điểm.
    Bác sĩ Chang rõ ràng không thoải mái với sự hiện diện của tay thanh tra. Anh cáo lui:
    - Các vị cứ tiếp tục vui vẻ nhé. Tôi xin lỗi, nhưng còn mấy cái xác phải di dời.
    Boris phớt lờ người đồng cấp và hỏi Krepp:
    - Vậy giả thuyết của ông có được khẳng định không?
    - Tôi nghĩ là có. Tôi sẽ cho mọi người thấy.
    Ông liếc mắt nhìn Mila và nhướng một bên lông mày chào cô, không phí phạm thời gian cho những câu hỏi khách sáo.
    Mila chú ý đến khẩu súng lục trên giường và thấy hơi lạ khi tên sát nhân bỏ nó lại. Trừ phi đó là một phần của màn trình diễn, và Valin muốn cảnh sát dựng lại vụ việc chính xác đến từng chi tiết nhỏ nhất.
    Krepp đã bỏ hung khí vào một cái túi nhựa trong trước khi đặt nó tại đúng chỗ được phát hiện, và đánh dấu bằng một tấm bìa ghi chữ A. Hai tấm bìa khác đánh dấu một vỏ đạn nằm trên chiếc bàn đầu giường, vật được Belman chừa lại mà không dùng để phá cửa phòng, và bàn tay phải của tử thi với các ngón tạo thành dấu hiệu chiến thắng.
    Krepp đi quanh phòng một lần cuối để đảm bảo mọi thứ nằm đúng chỗ trước khi bắt đầu dựng hiện trường.
    - Được rồi. - Ông mở lời và sửa lại chiếc găng tay. - Đây là hiện trường được duy trì như khi chúng tôi đến. Hung khí, một khẩu Smith & Wesson 686 được đặt trên giường. Ổ đạn sáu viên bị thiếu mất hai. Một ghăm trong tim của ngài Belman quá cố. Và một còn nguyên vỏ nằm trên chiếc bàn đầu giường.
    Tất cả cùng quay về phía chiếc bàn, nơi có viên đạn Magnum 9,07 ly.
    - Cách giải thích cũng khá đơn giản. - Krepp nói tiếp. - Valin đã muốn tặng một cơ hội sống sót cho tay chủ nhà. Một trò cò quay ngược. Hắn đã bỏ đi một viên đạn, tức là viên đạn nằm trên chiếc bàn đầu giường, rồi yêu cầu Belman chọn một con số.
    Mila lại nhìn vào bàn tay của xác chết. Thứ giống như ký hiệu chiến thắng thật ra là một con số được nạn nhân lựa chọn.
    Số 2.
    - Belman có một phần sáu cơ hội thoát chết. Ông ta đã không gặp may. - Krepp kết luận.
    - Valin cũng muốn thử mong muốn sống sót của Belman sau khi người thân của ông ta đã chết. - Mila lên tiếng, gây bất ngờ cho những người khác. - Khiến ông ta phải cảm thấy như thể một ngày nào đó mình sẽ có cơ hội trả thù kẻ đã sát hại cả gia đình mình. Cũng như nhấn mạnh với ông ta tình trạng mong manh của bản thân, chông chênh giữa sự sống và cái chết. Nhưng điều đó vẫn không giải thích được động cơ gây án của hắn...
    Đúng lúc đó thanh tra Gurevich rời khỏi cái góc của mình và bắt đầu vỗ tay khe khẽ.
    - Tốt, rất tốt. - Anh ta vừa nói vừa tiến lại. - Tôi rất hài lòng vì cô đã đến, thưa đặc vụ Vasquez. - Gurevich nói thêm bằng giọng ngọt như mía lùi trước khi ngừng vỗ tay.
    Mình làm gì có lựa chọn, Mila nghĩ thầm. Cô đáp:
    - Tôi chỉ làm theo phận sự, thưa thanh tra.
    Có lẽ Gurevich đã cảm nhận được sự giả tạo trong giọng nói của Mila. Anh ta tiến lại gần cô hơn nữa. Mila quan sát khuôn mặt được án ngữ bằng chiếc mũi mảnh như sống dao của Gurevich. Tóc hai bên trán bị hói nhiều khiến cho trán anh ta giống như bị một cái mai rùa chụp lên.
    - Đặc vụ Vasquez, hãy nói cho tôi biết, với những gì cô vừa nghe, liệu cô có thể phát họa chân dung của hung thủ được không?
    Mila đã in một bản sao hồ sơ để đọc lại lý lịch hung thủ trên đường đi, nên cô tự tin đáp ngay:
    - Suốt cả cuộc đời mình, Roger Valin chăm sóc người mẹ bệnh tật. Hắn chỉ có mỗi bà ta trên đời. Mẹ của Valin bị mắc một chứng bệnh thoái hóa hiếm gặp và phải cần đến một sự chăm sóc thường trực. Valin là kế toán. Vào ban ngày, trong khi đi làm, hắn giao phó mẹ mình cho một y tá chuyên trách, có thù lao cao gần bằng lương tháng của hắn. Khi hắn biến mất, các đồng nghiệp đã không thể mô tả hành tung của hắn một cách chính xác. Một số người thậm chí còn không biết tên hắn. Valin không nói chuyện với ai hết, hắn không có mối quan hệ nào ở chỗ làm, thậm chí hắn còn không xuất hiện trong các tấm ảnh chụp vào dịp lễ Giáng sinh.
    - Chân dung hoàn hảo của một gã tâm thần nung nấu hận thù trong suốt cuộc đời mình để một ngày kia xách súng đến chỗ làm. - Gurevich kết luận.
    - Tôi nghĩ chuyện này phức tạp hơn, thưa thanh tra.
    - Điều gì khiến cô nhận định như vậy?
    - Chúng ta nhìn nhận cuộc đời của Valin theo quan điểm của mình. Thế nhưng cuộc đời bất hạnh của một người đàn ông bị cầm tù bởi căn bệnh của người mẹ trên thực tế lại khác hẳn.
    - Nghĩa là...
    - Tôi không hoài nghi việc hoàn cảnh sống có thể lúc đầu đã đè nặng lên hắn ta, nhưng theo thời gian Roger Valin đã biến khó khăn của mình thành một sứ mệnh. Chăm sóc mẹ, phụng dưỡng mẹ đã trở thành mục tiêu sống của hắn. Nói cách khác, đó mới chính là công việc thật sự của hắn. Tất cả những thứ khác - văn phòng, quan hệ với đồng nghiệp - đều khiến hắn mệt mỏi. Sau cái chết của mẹ, thế giới của hắn đã sụp đổ, và hắn cảm thấy mình vô dụng.
    - Làm thế nào cô có thể khẳng định chuyện đó?
    - Tôi đã đọc được một chi tiết trong lý lịch của hắn. Một chi tiết chắc chắn có thể giải thích được nhiều chuyện. Khi mẹ qua đời, Valin đã canh giữ thi hài của bà suốt bốn ngày trời. Chính những người hàng xóm đã báo cảnh sát vì ngửi thấy mùi hôi thối. Ba tháng sau tang lễ, tay kế toán biến mất. Rõ ràng đây là một cá nhân rất mong manh về mặt cảm xúc, không thể kiểm soát được nỗi đau của mình. Trong những trường hợp như thế này, kết quả thường không phải là giết chóc, mà là tự sát.
    - Cô có cho rằng hắn sẽ làm như thế không, đặc vụ Vasquez? - Gurevich hỏi với một giọng khiêu khích.
    - Tôi không biết. - Cô thừa nhận.
    Cái nhìn của Krepp chiếu vào cô ngầm tỏ ý thông cảm. Lúc đó Mila với vỡ lẽ.
    - Anh đã biết chuyện này, đúng không?
    - Phải thừa nhận là chúng tôi đã xử sự với cô không hoàn toàn đúng đắn. - Gurevich nói.
    Lời thừa nhận này khiến Mila rúng động. Tay thanh tra đưa cho cô một chiếc túi nhựa trong đựng một bài báo của một tạp chí khoa học. Bên cạnh cột báo là hình ảnh của Thomas Belman.
    - Tôi đã không cho cô đọc cái này. Nói ngắn gọn là thế này, bài báo cho biết công ty của Belman giữ bằng sáng chế của loại thuốc duy nhất có thể giúp nạn nhân của một chứng bệnh hiếm gặp sống sót. - Gurevich nói một cách chậm rãi. - Một loại thuốc kì diệu, có thể cải thiện tình trạng của người bệnh, kéo dài sự sống cho họ. Nhưng tiếc thay nó rất đắt tiền. Cô có thể đoán được căn bệnh hiếm gặp đó là gì!
    - Với đồng lương của mình, Roger Valin không thể cầm cự lâu hơn nữa trong việc chữa bệnh cho mẹ. - Boris xen vào. - Hắn đã bán đi tất cả đồ đạc, và khi không còn gì hết, hắn đã bất lực nhìn mẹ mình qua đời.
    Vậy ra đây là nguồn cơn của sự trả thù, Mila nghĩ thầm. Cô bỗng hiểu ra ý nghĩa của trò cò quay ngược lạ lùng.
    - Một viên đạn thiếu trong ổ đạn: hắn đã cho nạn nhân một cơ hội sống sót, cơ hội mà mẹ hắn không có.
    - Chính xác. - Boris khẳng định. - Bây giờ, chúng tôi cần một báo cáo đầy đủ về vụ mất tích của Valin, gồm cả hồ sơ tâm lý của hắn.
    - Tại sao lại yêu cầu tôi làm điều đó. Không phải một chuyên gia tội phạm học sẽ thích hợp hơn à?
    - Ai đã thông báo việc Valin mất tích cách đây mười bảy năm? - Gurevich xen vào.
    Câu hỏi không liên quan, nhưng Mila vẫn trả lời:
    - Công ty của hắn, sau một tuần lễ vắng mặt không nguyên do. Họ không thể gọi điện được cho hắn.
    - Lần cuối người ta nhìn thấy hắn là khi nào?
    - Không ai nhớ.
    - Anh chưa nói với cô ấy, đúng không? - Tay thanh tra hỏi Boris.
    - Chưa. - Boris đáp khẽ.
    Mila nhìn hai người, thắc mắc:

    - Nói với tôi chuyện gì?

  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 8
    Màn dạo đầu của vụ thảm sát diễn ra ngay trong bếp.
    Đó là nơi Rogen Valin đã bước vào sau khi băng qua khu vườn và xuất hiện ở cửa sau. Tuy nhiên, gian phòng này được xếp loại là "hiện trường thứ cấp" vì một nguyên nhân khác.
    Nó là sân khấu cho màn kết của một bi kịch đêm dài dằng dặc.
    Gurevich, Borin và Mila quay xuống tầng dưới. Mila im lặng đi theo hai cấp trên, chắc mẩm mình sắp có mọi câu trả lời. Họ bước xuống cầu thang bằng gỗ và bước vào một gian phòng rộng, nom giống với phòng khách hơn là nhà bếp. Gian phòng được bao quanh bởi nhiều cửa kính rộng lớn nhìn ra vườn, chúng không bị phủ vải đen bởi đội khoa học hình sự.
    Không có xác chết nào tại đây. Tuy thế Mila không cảm thấy nhẹ nhõm chút nào, vì cô hiểu điều chờ đợi mình sẽ còn tệ hơn thế.
    - Các cô đã dùng tấm ảnh nào để tìm Valin sau khi hắn biến mất? - Gurevich hỏi Mila.
    - Tấm ảnh trên bảng tên nhân viên vừa được hắn làm lại.
    - Hắn trông như thế nào trên tấm ảnh đó?
    Mila hồi tưởng lại hình ảnh trên bức tường của Sảnh Đợi trong Minh Phủ.
    - Tóc hoa râm, gương mặt hốc hác. Hắn mặc một bộ comlê màu xám nhạt, sơmi kẻ sọc nhuyễn và đeo cà vạt màu xanh lá cây.
    - Comlê xám nhạt, sơmi kẻ sọc nhuyễn, cà vạt màu xanh lá cây. - Gurevich chậm rãi lặp lại.
    Mila thầm thắc mắc về lí do anh ta đặt câu hỏi lạ lùng. Chắc hẳn anh ta đã biết về các chi tiết đó.
    Tuy nhiên, Gurevich không đưa ra bất kỳ sự giải thích nào. Anh ta tiến về phía trung tâm của gian phòng, nơi có một đảo bếp trang bị đầy đủ, bên trên là một thiết bị hút mùi bằng đá khảm đồng. Xa hơn một chút là một chiếc bàn ăn bằng gỗ đặc, nơi bát dĩa bẩn của bữa ăn tối qua vẫn còn nằm chỏng chơ, cùng với phần còn lại của một bữa ăn khác.
    Bữa sáng.
    Nhận ra Mila đã để ý thấy sự kỳ lạ kia, Gurevich đến đứng trước mặt cô.
    - Chúng tôi có nói cho cô biết làm thế nào chúng tôi nhận dạng được Roger Valin chưa nhỉ?
    - Chưa.
    - Vào lúc 6 giờ hơn, khi trời rạng sáng, Valin đã đưa Jes từ dưới hầm nhà lên đây, rồi làm cho thằng bé một bát yến mạch, nước cam và bánh kếp sôcôla.
    Sự bình thường giữa một câu chuyện khủng khiếp. Chính những lệch lạc bất ngờ này là điều làm Mila lo ngại nhất. Thường thì khoảng lặng giữa các cơn điên rồ là một điềm gở.
    - Valin đã ngồi cùng thằng bé và đợi cho nó ăn xong. - Gurevich nói tiếp. - Như chính lời cô đã kể, cách đây mười bảy năm hắn đã trông xác mẹ trong bốn ngày trời. Sáng hôm nay, có lẽ hắn đã để cho Jes được sống để bắt thằng bé có cùng một trải nghiệm như thế. Hắn đã tranh thủ bữa ăn sáng để nói cho thằng bé biết hắn là ai. Và để bảo đảm Jes không quên gì hết, hắn đã bắt thằng bé ghi chép lại.
    - Vì sao hắn lại làm vậy? - Mila hỏi.
    Gurevich ra hiệu cho cô kiên nhẫn.
    - Jes là một cậu bé can đảm, đúng không Boris?
    - Rất can đảm. - Boris đáp.
    - Mặc cho tất cả những chuyện đã xảy ra, thằng bé vẫn giữ được bình tĩnh cho đến mới đây, khi nó buông xuôi và bật khóc. Tuy vậy, trước lúc đó nó đã trả lời mọi câu hỏi của chúng tôi.
    - Khi chúng tôi cho thằng bé xem ảnh của Valin, tấm ảnh chụp một nhân viên kế toán mặc comlê xám nhạt, sơmi kẻ sọc nhuyễn và cà vạt xanh lá cây, nó đã nhận ra ngay. - Boris thêm vào. - Nhưng khi chúng tôi bảo Jes mô tả thêm các chi tiết khác về hung thủ, chẳng hạn như hắn ăn mặc như thế nào, thằng bé chỉ vào tấm ảnh lần nữa và đáp: "Như thế này".
    - Không thể nào. - Mila buột miệng, trong đầu nhớ lại tấm ảnh gắn ở Sảnh Đợi.
    - Quả vậy. - Gurevich thừa nhận. - Một kẻ biến mất năm ba mươi tuổi, sau đó xuất hiện trở lại năm bốn mươi bảy tuổi với cùng bộ trang phục đã mặc mười bảy năm trước. Hắn đã ở đâu trong suốt thời gian đó? Bị người ngoài hành tinh bắt cóc chắc. Hắn đã bất ngờ xuất hiện ngoài khu rừng. Có phải một cái đĩa bay đã thả hắn xuống trước cửa nhà Belman?
    - Còn một điều nữa. - Boris vừa nói vừa chỉ vào chiếc điện thoại gắn trên tường. - Theo lệnh Valin, sáng nay Jes đã gọi cho cảnh sát bằng chiếc điện thoại này. Nhưng theo dữ liệu lưu lại, vào khoảng 3 giờ đêm qua, tên sát nhân đã tạm dừng hành động thảm sát của mình để gọi một cú điện thoại khác.
    - Số điện thoại trùng với hiệu giặt ủi mở cửa 24/7. - Gurevich giải thích. - Nó thường được người già và dân nhập cư lui tới, nên được trang bị một điện thoại công cộng.
    - Hiệu giặt không có nhân viên hay bảo vệ, chỉ có hệ thống camera an ninh để làm nản lòng bọn phá hoại và trộm cắp.
    - Vậy là các anh đã biết người nghe máy. - Mila khẳng định.
    - Đó mới chính là vấn đề. - Boris thú nhận. - Không ai bắt máy. Valin đã để điện thoại reo một lúc, sau đó gác máy và không gọi lại.
    - Chuyện này thật vớ vẩn, đúng không đặc vụ Vasquez? - Gurevich nhận xét.
    Mila đã hiểu vì sao hai cấp trên của mình lo ngại, nhưng đây không phải việc của cô.
    - Các anh chờ đợi gì ở tôi?
    - Chúng tôi cần mọi chi tiết về cuộc đời trước kia của Valin để biết hắn sẽ làm gì tiếp theo, vì chúng tôi chắc chắn hắn có thứ gì đó trong đầu. - Gurevich khẳng định. - Hắn đã muốn gọi cho ai đêm hôm qua? Tại sao chỉ gọi một lần? Hắn có đồng phạm không? Bước tiếp theo sẽ làm gì? Hắn đi đâu với một khẩu Bushmaster 5,56 ly?
    - Tất cả mọi câu trả lời đều có liên quan đến một câu hỏi. - Boris chốt lại. - Roger Valin đã làm gì trong mười bảy năm qua?

  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 9
    Sự hung bạo của một kẻ giết người rải rác có tính chất chu kỳ.
    Mỗi chu kỳ kéo dài khoảng mười hai tiếng đồng hồ và được chia làm ba giai đoạn: bình thản, nung nấu và bùng nổ. Giai đoạn thứ nhất xuất hiện sau vụ tấn công ban đầu, khi đó tên giết người có cảm giác thỏa mãn tạm thời. Tiếp theo là giai đoạn nung nấu trở lại, trong đó lòng thù hận pha trộn với sự giận dữ. Hai cảm xúc này giống như các nguyên tố hóa học: tách riêng thì không quá độc hại, nhưng khi trộn với nhau chúng tạo thành một hỗn hợp cực kỳ bất ổn. Thế nên giai đoạn thứ ba là không tránh khỏi. Kết cục duy nhất khả dĩ của các quá trình là cái chết.
    Nhưng Mila hi vọng mình hành động kịp thời.
    Kết thúc tất yếu của một kẻ giết người tập thể là tự sát, nếu như Valin chưa làm điều đó tức là hắn đang có một kế hoạch và muốn thực hiện nó.
    Lần này hắn sẽ ra tay ở đâu, và ai sẽ là nạn nhân của hắn?
    Buổi chiều đã kết thúc, bầu trời nhuốm những màu sắc của một mùa hè đang lụi tàn. Chiếc Hyundai chậm rãi tiến lên trong khi Mila khom người trên tay lái để đọc số các ngôi nhà.
    Tất cả đều giống hệt nhau: hai tầng, mái dốc, có vườn. Duy chỉ màu sắc của chúng là thay đổi: trắng, be, xanh lá cây và nâu, nhưng luôn ở tông nhạt. Vào một thời kỳ đã xa, các ngôi nhà này từng là nơi sinh sống của những gia đình trẻ, với đám con nít vui đùa trên thảm cỏ, và một bầu không khí đầm ấm tràn ngập sau mỗi ô cửa sổ.
    Ngày nay, nơi này là khu vực của người già.
    Hàng rào gỗ trắng bao quanh các ngôi nhà đã được thay thế bằng lưới mắt cáo. Các khu vườn đã bị cỏ dại mọc um tùm, xen lẫn nhiều rác rưởi và sắt phế liệu. Khi đi đến ngôi nhà số 42, Mila dừng lại. Phía bên kia đường là ngôi nhà mà Roger Valin từng cư ngụ.
    Mười bảy năm đã trôi qua, hiện giờ ngôi nhà đã thuộc về một gia đình khác, nhưng đây chính là nơi tên giết người đã lớn lên. Hắn đã chập chững những bước đi đầu tiên, chơi đùa trên bãi cỏ, tập tành đạp xe. Mỗi ngày hắn đều bước qua cánh cổng kia để đến trường, sau này là đến cơ quan. Đây là bối cảnh cho cuộc sống thường nhật của hắn. Cũng chính tại nơi đây Valin đã chăm sóc người mẹ ốm đau, cùng bà chờ đợi một kết thúc chậm rãi và không tránh khỏi.
    Trong sự nghiệp tìm kiếm người mất tích của mình, Mila đã học được rằng, dù có trốn đi xa đến đâu, ngôi nhà vẫn luôn theo chân chúng ta. Cho dù thường xuyên chuyển chỗ ở, ta vẫn luôn gắn với một nơi trú quán. Như thể chúng ta thuộc về nó, chứ không phải ngược lại. Như thể nó và ta được làm từ cùng chất liệu: đất cát là máu, gỗ là khớp và xi măng là xương.
    Hi vọng duy nhất mà Mila có thể bám víu vào để tìm thấy Roger Valin là, bất chấp sự hung hãn và ý định giết chóc của hắn, sau một khoảng thời gian dài sống xa nhà, ở một nơi mà chỉ có Chúa mới biết, rốt cuộc hắn đã đầu hàng ký ức để tìm về chốn xưa.
    Cô đậu chiếc Hyundai cạnh lề đường và bước xuống, đưa mắt nhìn quanh. Gió thổi qua đám cây cối, mỗi đợt không khí mới lại mang theo âm thanh của tiếng chuông báo trộm xa xa, vang lên từng hồi đứt quãng. Trong mảnh vườn ngôi nhà cũ của Valin có một chiếc xe thùng cũ nát đã mất bánh được đỡ bởi bốn chồng gạch. Trong nhà thấp thoáng bóng dáng của những chủ nhân mới. Khó có khả năng Roger tiếp cận nơi đây gần hơn nữa.
    Để tìm kiếm bằng chứng về chuyến viếng thăm của hắn, Mila phải đi tìm chỗ khác. Cô nhìn quanh rồi tiến đến ngôi nhà đối diện.
    Một người phụ nữ đứng tuổi đang rút quần áo trên sợi dây phơi căng giữa hai cây cọc. Với đống quần áo trên tay, bà bước trở lên bậc thềm nhà. Mila vội tiến nhanh đến chỗ người phụ nữ.
    - Xin phép bác cho cháu hỏi thăm một chút.
    Người phụ nữ ném cho Mila một cái nhìn ngờ vực. Cô rút thẻ cảnh sát ra để trấn an bà ta.
    - Cháu chào bác, xin lỗi đã làm phiền bác, nhưng cháu có chuyện cần phải hỏi bác.
    - Không sao đâu cháu. - Người phụ nữ mỉm cười đáp lại. Bà ta đi đôi vớ dày, một bên bị tụt xuống tận mắt cá. Chiếc váy của bà ta lấm lem và bị sờn ở khuỷu tay.
    - Bác sống ở đây lâu chưa ạ?
    Người phụ nữ có vẻ thích thú với câu hỏi, nhưng rồi đưa mắt nhìn xung quanh với vẻ buồn rầu.
    - Bốn mươi ba năm rồi.
    - Vậy là cháu hỏi đúng người rồi. - Mila nói bằng giọng thân thiện. Cô không muốn làm bà ta hốt hoảng bằng việc hỏi thẳng xem dạo gần đây bà có nhìn thấy anh chàng Roger Valin hàng xóm, người đã mất tích mười bảy năm hay không. Hơn nữa, căn cứ theo tuổi tác của người phụ nữ, cô sợ làm bà ta rối trí.
    - Cháu có muốn vào trong nhà không?
    Mila chỉ đợi có thế. Cô đáp luôn:
    - Có ạ.
    Người phụ nữ đi trước dẫn đường. Cơn gió làm cho mái tóc lưa thưa của bà càng thêm rối.
    Bà Walcott lê bước trên đôi dép lê bằng len, băng qua tấm thảm và sàn gỗ đã cũ mòn theo một lối chính xác giữa những món đồ nội thất cồng kềnh chất đầy các loại đồ lưu niệm: những con giống bằng thủy tinh, đồ sứ sứt mẻ, cùng những khung ảnh lưu lại một thời đã xa. Bà bưng một chiếc khay đựng ấm trà và hai cái tách. Mila đứng dậy khỏi ghế xalông để giúp bà đặt nó xuống cái bàn thấp.
    - Cảm ơn cháu.
    - Phiền bác quá ạ.
    - Không có gì đâu. Chẳng mấy khi tôi tiếp khách khứa.
    Mila quan sát người phụ nữ, và tự hỏi liệu một ngày nào đó mình có đối diện với tình trạng cô độc như thế này hay không.
    Con mèo có bộ lông màu hung nằm cuộn mình trên chiếc ghế, thỉnh thoảng mở mắt ra để thăm dò tình hình trước khi ngủ tiếp. Có lẽ đó là người bạn đồng hành duy nhất của bà Walcott.
    - Satchmo không quen giao tiếp với người lạ, nhưng nó ngoan lắm.
    Mila chờ cho người phụ nữ ngồi xuống trước mặt mình.
    - Điều mà cháu sắp hỏi có lẽ hơi kỳ lạ, vì chuyện đã khá lâu rồi. Bác có tình cờ biết gia đình Valin, những người từng sống trong ngôi nhà đối diện không?
    - Một gia đình tội nghiệp. - Bà Walcott đáp, mặt bỗng sa sầm lại. - Khi ông Arthur nhà tôi và tôi mua ngôi nhà này thì họ cũng vừa mới dọn đến. Họ cũng còn trẻ giống như chúng tôi, và khu dân cư này mới được hình thành cách đó chưa lâu. Một môi trường hòa nhã, lý tưởng để nuôi dạy bọn trẻ con. Đó là điều mà tay cò nhà đất đã nói với chúng tôi, và anh ta không nói sai. Ít nhất là trong những năm đầu tiên. Nhiều cặp vợ chồng chuyển về đây từ trung tâm thành phố. Chủ yếu là các nhân viên văn phòng và thương nhân. Không có cái đám công nhân hay bọn nhập cư.
    Định kiến sai lệch này là điều bình thường đối với bà Walcott, họ thuộc về một thế hệ khác. Tuy hơi khó chịu, Mila vẫn giữ thái độ thân thiện.
    - Bác kể cho cháu nghe về họ đi.
    - Họ là những con người bình dị. Bà vợ chăm sóc nhà cửa, ông chồng là một người buôn bán giỏi. Bà ấy rất đẹp, và hai người có vẻ hạnh phúc. Chúng tôi nhanh chóng trở thành bạn bè. Chủ nhật nào chúng tôi cũng làm đồ nướng ngoài trời, các dịp lễ chúng tôi đều kỷ niệm cùng nhau. Arthur và tôi vừa làm đám cưới, còn họ thì đã có một đứa con.
    - Roger, có phải không bác?
    - Làm sao tôi quên được thằng bé đáng yêu ấy chứ? Lên năm tuổi nó đã biết chạy xe đạp, nó hay đạp xe tới lui trên con đường này. Arthur rất yêu thằng bé, thậm chí ông ấy còn làm một cái chòi trên cây cho nó. Một thời gian sau, chúng tôi đã biết mình không thể có con, nhưng cả ông ấy lẫn tôi đều không nghiêm trọng hóa vấn đề, trước hết là để không gây đau khổ cho nhau. Arthur là một người đàn ông tử tế, cháu biết không? Lẽ ra ông ấy đã là một người bố tuyệt vời, nếu được trời thương.
    Mila gật gù. Giống như phần lớn những người lớn tuổi, bà Walcott nói lạc đề khá nhiều và thỉnh thoảng cần được lái trở về câu chuyện.
    - Sau đó chuyện gì đã xảy ra với bố mẹ Roger ạ?
    - Bà Valin ốm rất nặng. - Người phụ nữ vừa nói vừa lắc đầu. - Các bác sĩ đã thông báo bệnh tình của bà ấy không thể chữa được, nhưng họ cũng nói là Chúa sẽ chưa gọi bà ấy về bên Người ngay. Trước tiên bà ấy sẽ phải chịu đau đớn và khổ sở một thời gian. Có lẽ cũng vì nguyên nhân này mà ông chồng đã bỏ rơi gia đình.
    - Bố của Roger đã bỏ hai mẹ con họ sao?
    Mila không thấy thông tin này trong hồ sơ.
    - Phải. - Bà Walcott đáp với giọng không hài lòng. - Ông ta đã có gia đình mới và cắt đứt quan hệ với hai mẹ con. Thậm chí ông ta chẳng buồn hỏi han tin tức của họ. Roger từ một thằng bé hiếu động và tích cực bắt đầu sa sút dần từ thời điểm đó. Arthur và tôi thấy nó càng ngày càng thu mình lại. Thế mà trước đấy nó chẳng thiếu bạn đâu nhé. Nó lủi thủi một mình hoặc túc trực bên mẹ hàng giờ. Một thanh niên rất có trách nhiệm.
    Sự chua xót trong giọng nói của bà Walcott là thành thật. Có lẽ bà sẽ rất đau đớn nếu biết được những tội ác mà Roger Valin vừa gây ra.
    - Ông nhà tôi thương thằng bé và giận bố nó lắm. Thỉnh thoảng tôi nghe ông ấy nói rất nặng nề về ông ta. Trong khi hai người đã từng gắn bó. Nhưng dẫu vậy, ông không bao giờ nói xấu bố của Roger trước mặt thằng bé. Arthur và thằng bé có một mối quan hệ rất đặc biệt, ông ấy là người duy nhất có thể kéo được nó ra khỏi nhà.
    - Bằng cách nào ạ?
    - Mấy cái đồng hồ ấy mà. - Bà Walcott đáp và đặt tách trà đã uống cạn xuống chiếc khay. - Arthur sưu tập đồng hồ. Ông ấy mua chúng ngoài chợ hoặc trong các buổi đấu giá, và cặm cụi nhiều ngày liền để tháo lắp, sửa lại chúng. Khi ông ấy về hưu, tôi toàn phải nhắc ông giờ ăn uống hoặc đi ngủ. Chung quanh là đồng hồ, vậy mà ông ấy quên hết giờ giấc, thật khó tin, đúng không cháu?
    - Và bác trai đã truyền đam mê của mình cho Roger. - Mila nhắc khéo. Cô đã biết về sở thích này của tên sát nhân.
    - Ông ấy đã dạy cho thằng bé tất cả những gì mình biết. Thằng bé cực kỳ thích cái thế giới của tiếng tích tắc và sự chuẩn xác. Arthur bảo nó rất có năng khiếu.
    Nhỏ bé vô cùng là điều mà những người bất hạnh hay mơ tới, Mila nghĩ thầm. Nó giống như việc biến khỏi tầm nhìn của người khác mà vẫn giữ một chức năng trong cuộc đời, chức năng thiết yếu như là đo đếm thời gian. Nhưng cuối cùng Roger Valin đã quyết định biến mất hẳn.
    - Trên kia có một tầng áp mái. Lúc đầu nó được để dành cho những đứa con mà chúng tôi không bao giờ có. Chúng tôi luôn bàn tính chuyện cho thuê nó, nhưng rồi nó đã trở thành xưởng đồng hồ của Arthur. Roger và ông ấy ẩn mình trên đó, đôi khi suốt cả buổi chiều. Sau này ông nhà tôi bị ốm, thế là đùng một cái, thằng bé không sang nhà chơi nữa. Arthur luôn bào chữa cho thằng bé, ông ấy bảo con trai mới lớn đứa nào chả thế, và Roger cũng không có ác ý gì. Với lại, thằng bé đã chứng kiến mẹ mình suy kiệt dần, nó không muốn nhìn sự tuột dốc của một người khác, chưa nói đó là người bạn duy nhất của nó. - Bà Walcott rút chiếc khăn tay từ trong túi của cái váy mặc ở nhà và chấm một giọt lệ nơi khóe mắt. Sau đó bà vo tròn chiếc khăn và đặt nó vào trong lòng, để sẵn sàng dùng lại nếu cần. - Nhưng tôi thì, tôi tin Arthur đã rất đau khổ. Tôi thừa biết trong thâm tâm ngày nào ông ấy cũng mong nhìn thấy Roger bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà này.
    - Vậy là mối quan hệ giữa hai bác và Roger đã gián đoạn từ đó. - Mila kết luận.
    - Không đâu. - Bà Walcott nói, giọng thoáng ngạc nhiên. - Khi ông nhà tôi qua đời, Roger thậm chí không đến dự đám tang. Thế nhưng sáu tháng sau, vào một buổi sáng, thằng bé đã gõ cửa. Nó xin tôi cho phép lên tầng áp mái để lên dây đồng hồ. Sau đó thì nó quay lại thường xuyên, và luôn đi một mình.
    - Trên kia ấy ạ? - Mila bất giác ngước mắt lên.
    - Phải. Nó đi học về là chăm sóc mẹ ngay, rồi khi bà ấy không cần đến nó nữa, nó trèo lên đó trong vài giờ. Nó vẫn tiếp tục làm như thế sau khi bắt đầu đi làm kế toán, cho đến lúc bặt tin.
    Mila hiểu bà Walcott muốn nói đến sự mất tích của Roger.
    - Theo những gì bác đã kể cho cháu thì, ngoại trừ mẹ của Roger, bác là người gặp anh ta nhiều nhất ngoài giờ làm việc. Thế nhưng bác lại không phải là người đã báo tin Roger mất tích với chính quyền. Cháu xin lỗi, nhưng bác không thấy ngạc nhiên là tại sao anh ta không đến nữa hay sao?
    - Không, vì thằng bé toàn tự đến rồi tự đi. Có một cầu thang bên ngoài để trèo lên tầng áp mái, nên đôi khi chúng tôi thậm chí còn không chạm mặt nhau. Nó lặng lẽ lắm, nhưng lạ một điều là tôi luôn biết khi nó ở trên đó. Tôi không thể giải thích được... Linh cảm mách bảo tôi như vậy. Tôi cảm nhận được sự hiện diện của Roger ở trong ngôi nhà này.
    Mila nhận thấy một chút băn khoăn trong ánh mắt và trên khuôn mặt của bà già. Cảm giác sợ người ta không tin, sợ người ta coi mình như một bà già lẩm cẩm. Nhưng còn một điều khác. Nỗi sợ hãi. Cô chồm người tới và đặt tay mình lên tay bà.
    - Bác Walcott, bác nói thật với cháu nhé. Trong mười bảy năm qua, có bao giờ bác cảm thấy sự hiện diện của Roger ở đây không?
    Đôi mắt người phụ nữ ngấn lệ, bà cố kìm nén lại bằng cách mím chặt môi. Rồi bà xác nhận bằng một cái gật đầu dứt khoát.
    - Nếu bác không phiền thì, cháu xin phép được ngó qua tầng áp mái.

Trang 1 / 8 123 ... Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-11-2017, 01:14 AM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-25-2016, 12:40 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-29-2016, 11:58 AM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-20-2016, 03:10 AM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-27-2015, 11:00 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •