Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Hạnh phúc chỉ dành riêng cho những kẻ nào làm cho nhiều người được sung sướng.
Abbé Delille
Trang 8 / 8 ĐầuĐầu ... 678
Results 71 to 75 of 75

Chủ Đề: Người Ru Ngủ

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,677
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Người Ru Ngủ



    Tác giả: Donato Carrisi




    Giới thiệu

    Nhân vật Mila Vasquez, nữ cảnh sát chuyên điều tra các vụ mất tích đã làm say lòng độc giả yêu thích tiểu thuyết trinh thám qua hơn 500 trang sách của Kẻ nhắc tuồng nay xuất hiện quyết đoán và gai góc hơn trong Người ru ngủ, anh em sinh đôi với Kẻ nhắc tuồng.

    Bảy năm trôi qua, Mila quyết định ẩn mình tại Minh Phủ - phòng điều tra chuyên trách những vụ mất tích không rõ nguyên nhân. Bản thân không có được sự thấu cảm dành cho người khác, cô đành gửi gắm con gái Alice cho bà ngoại chăm sóc. Trong khi đó, giáo sư tội phạm học Gavila vẫn đang hôn mê sâu và được canh gác cẩn mật. Mọi việc tưởng chừng trôi qua trong êm đềm, nhưng thật ra đó là khoảng lặng trước cơn bão.

    Tất cả bắt đầu bằng một cú điện gọi đến đường dây nóng của cảnh sát: Một tên sát nhân máu lạnh đã đột nhập vào gia đình một nhà tài phiệt trong lĩnh vực dược phẩm, giết hại toàn bộ thành viên trong gia đình sau khi cố tình để lộ danh tính. Hắn là Roger Valin, mất tích không rõ nguyên nhân 17 năm về trước, tái xuất hiện với bộ trang phục giống hệt trong bức ảnh chụp trước khi biến mất được lưu trữ tại Minh Phủ. Hắn đã ở đâu trong suốt thời gian qua? Bị người ngoài hành tinh bắt cóc chăng? Động cơ gây án là gì? Những câu hỏi ấy đòi hỏi sự vào cuộc của một chuyên gia tìm người mất tích, và không ai khác hơn, đó chính là đặc vụ Maria Elena Vasquez, hay Mila Vasquez.

    Càng dấn sâu vào điều tra, Mila nhanh chóng phải đối mặt với những vụ giết người liên tiếp xảy ra mà thủ phạm đều là những người mất tích từ lâu. Sau khi tái xuất để gây án, bọn chúng lại biến mất một lần nữa. Mọi cái chết dường như đều có liên hệ với một tên tội phạm sừng sỏ vẫn còn ngoài vòng pháp luật từ 30 năm nay: Người Ru Ngủ.

    Để chặn đứng “đạo quân bóng tối”, Mila buộc phải nhờ đến sự cộng tác của đặc vụ Simon Berish, người đã từng theo đuổi vụ án suốt 20 năm trời, và đã phải trả giá nặng nề khi bị cả trụ sở cảnh sát khinh bỉ, ruồng rẫy. Một nhân vật đặc biệt, một trợ thủ đắc lực của Mila Vasquez.

    Và những gì hai người phát hiện đã đưa cả hai vào vòng nguy hiểm chết người.

    Donato Carrisi sinh năm 1973 ở Ý, tốt nghiệp ngành luật và tội phạm học trước khi trở thành nhà viết kịch bản phim truyền hình. Cuốn tiểu thuyết trinh thám đầu tay Kẻ nhắc tuồng của ông đã gây được tiếng vang lớn với năm giải thưởng Văn học quốc tế, được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, và đưa tác giả lên vị trí “nhà văn Italia được đọc nhiều nhất trên thế giới”.

    Mời các bạn đón đọc Người Ru Ngủ của tác giả Donato Carrisi.





    MỞ ĐẦU
    Phòng số 13 trong nhà xác quốc gia được giành cho những người đang ngủ.
    Nó nằm ở tầng hầm thứ tư, cũng là tầng dưới cùng, giống như một tầng địa ngục. Một địa ngục buốt giá với nhiều gian phòng lạnh, nơi tiếp nhận các thi thể vô danh. Rất hiếm khi nó được thăm viếng.
    Thế nhưng đêm nay, một vị khách đang trên đường xuống tận nơi.
    Người trông xác chờ đợi vị khách trước cửa thang máy, mắt ngước nhìn những con số ghi nhận chuyển động đi xuống của buồng thang máy. Trong khi chờ đợi, ông ta tự hỏi vị khách bất ngờ này là ai, và nhất là, điều gì đã đưa đẩy anh ta đến cái tiền đồn xa xôi rất lạ lẫm với người sống này.
    Con số cuối cùng xuất hiện. Im lặng kéo dài hồi lâu trước khi cửa thang máy xịch mở. Người trông xác quan sát vị khách. Anh ta tầm bốn mươi tuổi, mặc một bộ comlê màu xanh thẫm. Giống như những người lần đầu tiên xuống dưới này, anh ta tỏ vẻ kinh ngạc khi thấy ở đây không được ốp gạch men trắng và chiếu sáng bằng đèn diệt khuẩn, thay vào đó các bức tường có màu xanh lá cây và ánh sáng có màu cam.
    - Màu sắc giúp ngăn chặn chứng lo âu. - Người trông xác giải thích khi nhận thấy câu hỏi không được nói ra, đồng thời đưa chiếc áo blu màu xanh da trời cho khách.
    Người khách không nói gì. Anh ta mặc áo vào, sau đó hai người bắt đầu đi dọc theo hành lang.
    - Các thi thể nằm ở tầng này chủ yếu là của người vô gia cư hoặc dân nhập cư bất hợp pháp. Bọn họ không có giấy tờ tùy thân, cũng chẳng có gia đình, và sau khi chết ngóm thì học được đưa vào đây. Tất cả được phân vào các phòng đánh số thứ tự từ 1 đến 9. Phòng số 10 và 11 được dành cho những người có đóng thuế đều đặn và xem được bóng đá trên truyền hình, giống như anh và tôi, nhưng nhồi máu cơ tim trên xe điện ngầm. Lấy cớ giúp đỡ, một hành khách móc ví của người xấu số và hấp, xảo thuật thành công, người kia biến mất mãi mãi. Cũng có khi, vấn đề chỉ là do quan liêu: một cán bộ nhầm lẫn giấy tờ của anh, và những thân nhân đến nhận dạng thi thể chỉ thấy trước mắt mình xác của một người khác. Như thể anh chưa chết, gia đình tiếp tục đi tìm anh. - Người trông xác kiêm hướng dẫn viên tự phong cố gây ấn tượng cho vị khách, nhưng hoài công. - Tiếp đến, các trường hợp tự tử hoặc tai nạn được đưa vào phòng số 12. Nhiều khi các thi thể ở tình trạng tệ hại đến nỗi không biết có phải là xác người hay không nữa. - Ông ta nói tiếp để thử bụng dạ của vị khách, nhưng có vẻ người này không phải loại non gan. - Dẫu sao thì, pháp luật đã dự tính một sự đối xử như nhau cho tất cả: họ phải nằm lại trong phòng lạnh ít nhất mười tám tháng. Sau đó, nếu thi thể vẫn không được nhận dạng hoặc được người thân đưa về, và nếu cảnh sát không có ý định mở lại cuộc điều tra, thi thể được phép đưa đi hỏa táng.- Ông ta trích dẫn điều luật theo trí nhớ.
    Đến đây, giọng nói của người trông xác trở nên hơi căng thẳng một chút, vì những gì ông ta nói tiếp theo có liên quan đến mục tiêu của chuyến viếng thăm khuya khoắt này.
    - Và rồi, chúng ta có các thi thể nằm trong phòng số 13.
    Nạn nhân vô danh của những tội ác chưa được làm sáng tỏ.
    Trong trường hợp giết người, luật pháp quy định thi thể chỉ là một vật chứng cho đến khi danh tính của nạn nhân được xác nhận. Chúng ta không thể buộc tội một kẻ sát nhân nếu không chứng minh người bị hắn giết đã từng tồn tại thật sự. Thi thể vô danh là bằng chứng duy nhất của sự tồn tại đó. Do vậy nó phải được bảo quản vô hạn định. Đó là một chi tiết lạ lùng nhất của luật pháp mà các luật sư rất thích thú.
    Luật pháp đã quy định chừng nào hành vi tội ác gây ra cái chết chưa được xác định, thi thể không thể bị tiêu hủy hoặc để phân rã tự nhiên.
    - Chúng tôi gọi họ là những người đang ngủ.
    Những người đàn ông, phụ nữ, trẻ con vô danh mà kẻ giết hại họ chưa được xác định. Họ chờ đợi suốt nhiều năm trời để được ai đó xuất hiện giải thoát khỏi lời nguyền khiến họ giống như còn sống. Như một câu chuyện cổ tích rùng rợn, tất cả những gì phải làm là đọc một thần chú.
    Tên của họ.
    Nơi tiếp nhận họ - căn phòng số 13 - nằm ở cuối hành lang.
    Khi đi đến trước cánh cửa sắt, người trông xác loay hoay một lúc với chùm chìa khóa để tìm đúng chìa. Ông ta mở cửa và tránh sang một bên nhường lối để khách bước vào phòng. Ngay khi anh ta bước vào, một dãy bóng đèn vàng trên trần lập tức được bật sáng nhờ cảm biến chuyển động. ở giữa phòng là một bàn giảo nghiệm tử thi, vây quanh bởi các dãy tủ lạnh cao ngất với hàng chục ngăn chứa xác.
    Một tổ ong bằng thép.
    - Anh phải ký vào đây. Quy định là thế. - Người trông xác vừa nói vừa đưa ra một quyển sổ đăng ký. - Anh quan tâm đến cái nào? - Ông ta hỏi tiếp với một chút sốt ruột.
    Cuối cùng người khách cũng lên tiếng.
    - Thi thể đã nằm ở đây lâu nhất.
    AHF-93-K999.
    Người trông xác thuộc nằm lòng số hiệu đó. Mừng thầm vì đã có lời giải cho bí ẩn lâu năm, ông ta lập tức chỉ vào ngăn tương ứng. Nó nằm ở vách tường bên trái, hàng thứ ba từ dưới lên. Ông ta chỉ nó cho vị khách.
    - Trong số các xác chết nằm lại nơi đây, câu chuyện về cái xác này chưa phải lạ lùng nhất. - Người trông xác nôn nóng giải thích. - Một chiều thứ Bảy, đám trẻ chơi bóng đá trong công viên đã sút quả bóng vào bụi rậm. Thế là anh ta được tìm thấy, với một viên đạn trong sọ. Anh ta không có giấy tờ, cũng không có chìa khóa nhà. Khuôn mặt anh ta vẫn còn trong tình trạng nhận dạng được, nhưng không có người nào gọi đến đường dây nóng để hỏi về anh ta, hoặc trình báo việc anh ta mất tích. Trong khi chờ người ta tìm ra thủ phạm, một việc có thể không bao giờ xảy ra, thi thể nằm đây là bằng chừng duy nhất của tội ác. Chính vì thế mà tòa án đã quyết định bảo quản anh ta trong này cho đến khi vụ giết người được làm sáng tỏ, công lý được thực thi. - Người trông xác ngừng lời một chút. - Đã nhiều năm trôi qua, nhưng anh ta vẫn nằm đây.
    Bấy lâu nay, người trông xác tự hỏi việc gì phải bảo quản bằng chứng của tội ác mà không ai nhớ đến. Ông ta luôn cho rằng mọi người đã quên mất người lưu trú vô danh của phòng xác số 13. Thế nhưng, khi được nghe yêu cầu của vị khách, ông ta cảm thấy bí mật được lưu giữ sau lớp thép dày vài xentimet kia sẽ còn hơn cả một cái tên đơn thuần.
    - Anh mở ra đi, tôi muốn xem anh ta.
    AHF-93-K999. Trong những năm qua, số hiệu gắn trên nhãn ngăn tủ vẫn là tên họ của thi thể. Đêm nay, điều đó có thể sẽ thay đổi. Người trông xác điều khiển van xả khí để mở ngăn đựng xác.
    Kẻ đang ngủ sắp được đánh thức.

  2. #71
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,677
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    PHÒNG 317 KHÁCH SẠN AMBRUS
    Chứng cứ 2121 - CLLT/6
    Biên bản băng ghi âm ngày 29 tháng 2 năm XXXX lúc 23h21.
    Chủ đề: cuộc gọi đến số điện thoại khẩn cấp XXXX của người trực đêm khách sạn Ambrus.
    Trực tổng đài: cảnh sát Clive Irving.
    Tổng đài: Cảnh sát xin nghe.
    Người trực đêm (giọng hốt hoảng): Tôi gọi từ khách sạn Ambrus, tôi là người trực đêm khách sạn. Một phụ nữ đã chết trong phòng khách sạn của chúng tôi.
    Tổng đài: Nguyên nhân cái chết là gì vậy?
    Người trực đêm: Thi thể cô ta đầy vết thương. Cô ta đã bị giết hại.
    Tổng đài: Ông có biết ai là thủ phạm không?
    Người trực đêm: Tôi không biết.
    Tổng đài: Được rồi, thưa ông. Thủ phạm chắc vẫn còn ở trong khách sạn phải không?
    Người trực đêm:...
    Tổng đài: Này ông, ông có nghe rõ câu hỏi của tôi không?
    Người trực đêm: Có, tôi nghe thấy rồi.
    Tổng đài: Vậy ông có câu trả lời không?
    Người trực đêm: Có một bé gái ở trong phòng, con bé đã mở khóa cửa cho chúng tôi lúc chúng tôi chạy đến nơi sau khi nghe thấy những tiếng la hét.
    Tổng đài: Ông vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi, thưa ông.
    Người trực đêm: Nghe này, tôi không muốn bất lịch sự, nhưng anh có hiểu những gì tôi vừa nói không đấy? Căn phòng số 317 bị khóa từ bên trong lúc chúng tôi đến nơi.
    Tổng đài: Tôi hiểu rồi, tôi sẽ cử đội tuần tra đến ngay.
    Kết thúc ghi âm.

  3. #72
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,677
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 70
    Anh đã mua hoa cho cô.
    Sau mười ngày ở trong phòng chăm sóc tích cực, chiến đấu giữa sự sống và cái chết, cộng thêm mười mấy ngày nằm nội trú, Mila đã sẵn sàng để ra viện.
    Berish không muốn bỏ lỡ thời điểm này. Anh đã đến thăm cô gần như mỗi ngày. Đêm đêm, anh ngồi sau cửa kính của phòng hồi sức, quan sát từng cử động nhỏ nhất của cơ thể đang mê man. Anh đã ở đó khi cô hồi tỉnh khỏi cơn hôn mê dược lý sau những liều thuốc ngủ rất nặng do mụ cai ngục tiêm vào cơ thể. Mila đã đối mặt với một tình thế nguy hiểm trầm trọng, vì các dẫn xuất á phiện ức chế hô hấp, và cô có thể chết dần do thiếu oxy.
    Thế nhưng các bác sĩ đã cứu sống Mila thành công. Các xét nghiệm cho thấy tình trạng thiếu oxy đã không gây quá nhiều tác hại.
    Mila gặp phải một số khó khăn trong cử động, nhất là ở chân, nhưng những phần cơ thể còn lại của cô vẫn ổn.
    Sau khi cô tỉnh lại và được đưa về phòng, Berish đến thăm cô ít hơn. Anh muốn tránh chạm mặt các vị chức sắc và chóp bu của sở cảnh sát. Họ lũ lượt kéo đến đầu giường của nữ anh hùng mới được truyền thông ca tụng.
    Vụ việc đã gây ra một chấn động mạnh.
    Người duy nhất chẳng đạt được bất kỳ điều gì là đặc vụ Berish. Tuy nhiên, việc tiếp tục là một nhân vật gây khó chịu trong giới cảnh sát đã tránh cho anh các phiền phức, chẳng hạn như phải xuất hiện như một con rối trước rừng micro và ống kính máy quay.
    Xét cho cùng, tình trạng bị ruồng bỏ cũng có ưu điểm của nó.
    Tuy thế, có một điều gì đó đã thay đổi. Tại tiệm ăn Tàu, các đồng nghiệp của Berish thôi giở trò gây sự với anh. Vài ngày trước đó, một người trong số họ thậm chí còn cất tiếng chào anh. Đó chỉ là tiểu tiết, anh biết. Ngay cả khi kẻ biến chất thực sự là Gurevich, anh vẫn không được gỡ tội hoàn toàn dưới con mắt của họ. Dẫu vậy, từ nay anh đã có thể vào quán ăn và biết chắc mình sẽ được dùng bữa sáng trong yên bình.
    Trong lúc đi bộ đến cổng bệnh viện, Berish cảm thấy mình thật ngớ ngẩn với bó hoa layơn trên tay. Anh đã bị thuyết phục bởi cô nàng bán hoa, nhưng anh không nghĩ đây là món quà thích hợp nhất đối với Mila. Cô chẳng có gì đặc biệt nữ tính, nhưng cũng không ra nam tính. Đúng hơn cô có một vẻ gì đó rất hoang dại. Chính điều này đã thu hút anh.
    Khi đến cửa kính tự động, anh vứt bó hoa vào một thùng hứng tàn thuốc cỡ lớn nằm giữa khu vực dành cho người hút thuốc.
    Sau đó anh đi vào.
    Mila được hưởng một phòng riêng biệt tại một khu vực được cảnh sát canh gác. Khi Berish đến nơi, quang cảnh thật náo nhiệt. Các cảnh sát viên đứng đầy trong hành lang, họ vừa hộ tống nhân vật nào đó vào trong phòng.
    Tay đặc vụ nhận ra Klaus Boris, người đã gọi điện triệu tập anh đêm qua và hiện đang tiến đến chỗ anh, tay bắt mặt mừng.
    - Hôm nay tình hình cô ấy thế nào? - Berish vừa bắt tay anh ta vừa hỏi.
    - Khá hơn hôm qua. Và ngày mai sẽ còn khá hơn nữa.
    - Chúng ta vào chứ?
    - Lần này thì tôi không được mời. - Boris vừa đáp vừa đưa cho anh một bìa hồ sơ màu vàng. - Có vẻ như anh là người đàn ông duy nhất đấy. Chúc may mắn.
    - Chúng ta có vài thông tin cần kiểm chứng. - Joanna Shutton lên tiếng. Thẩm phán đang ngồi trên một trong hai chiếc giường đơn, hai chân bắt chéo khoe khéo đôi tất lụa. Mùi nước hoa Chanel số 5 thơm ngát cả căn phòng.
    Mila ngồi trên chiếc giường còn lại. Khuôn mặt cô xanh xao và có nhiều quầng thâm. Cô mặc một chiếc áo khoác bằng nỉ có mũ, chân không xỏ giày. Hai bàn chân cô đu đưa bên trên mặt sàn. Bên cạnh cô là một cái nạng. Cách đó không xa, túi đồ của cô đã sẵn sàng.
    - Cậu vào đi, Simon.
    Thẩm phán nói với anh bằng giọng thân mật, giống như hồi xưa, khi họ còn là bạn bè.
    - Tôi đang giải thích cho cô ấy những diễn biến gần đây của vụ việc. - Joanna Shutton nói tiếp. - Như tôi đã nói, Roger Valin, Eric Vincenti và André García vẫn bặt tăm. Chúng tôi nghi ngờ bọn họ vẫn nhận được sự trợ giúp từ các môn đồ khác của giáo phái.
    Berish rất hài lòng khi nhận thấy các cấp lãnh đạo của sở cảnh sát đã không còn nhắc đến hai chữ khủng bố.
    - Như ta đã biết, Nadia Niverman và Diana Muller đã chết. Michael Ivanovic đang ở trong một bệnh viện tâm thần. Cuối cùng, nữ thuyết giáo mà chúng ta biết đến với cái tên Sylvia đang ngồi tù và giấu mình trong một sự câm lặng tuyệt đối.
    Berish nhận thấy một thoáng lo âu trên khuôn mặt Mila.
    - Dẫu vậy, bây giờ mọi người đã có khái niệm về số lượng những người mất tích gia nhập giáo phái. - Cô lên tiếng.
    - Phải. Tại tầng áp mái nơi cô bị giam giữ, có rất nhiều tấm ảnh được gắn trên tường. - Joanna thừa nhận.
    Mila gật đầu.
    - Nhưng vẫn còn một số câu hỏi chưa có lời giải. - Thẩm phán kết luận, mắt nhìn vào Berish như thể muốn nhường lời cho anh.
    - Vậy là Stephanopoulos đã tự sát. - Mila vẫn còn chưa tin nổi chuyện đó.
    Berish hiểu cảm giác của cô.
    - Ông ta đã tự sát ngay trước mặt tôi, sau khi trút bỏ gánh nặng lương tâm của mình. - Tay đặc vụ giải thích.
    Mọi người đều muốn trò chuyện với Simon Berish.
    - Steph biết ông ta là người đồng chịu trách nhiệm cho những việc Sylvia đã làm. Nhưng với ông ta, sẽ đơn giản hơn nếu viết ra một địa chỉ, qua đó tặng anh lời giải của vụ bí ẩn, thay vì thừa nhận lỗi lầm của mình.
    - Như vậy họ thực sự là hai... - Mila buột miệng thốt lên, hoang mang.
    Joanna tranh thủ lúc Mila ngập ngừng để trao đổi nhanh bằng ánh mắt với Berish, rồi nhìn đồng hồ.
    - Tôi có một cuộc họp với ngài thị trưởng trong bốn mươi phút nữa. Tôi phải đi thôi. Nếu cô không phiền, Berish sẽ kể nốt cho cô nghe phần cuối câu chuyện và trả lời các câu hỏi của cô. - Thẩm phán tuyên bố, đồng thời chìa bàn tay đeo đầy nhẫn và được sơn móng cẩn thận ra. - Cố tĩnh dưỡng cho khỏe lại nhé, em gái. Chúng tôi vẫn cần cô đấy.
    Lúc đi ra, Joanna Shutton tránh nhìn vào mắt Berish. Trong phòng chỉ còn lại mình anh và Mila.
    Cô nhận thấy tập hồ sơ vàng anh đang cầm trên tay.
    - Cái gì đây?
    - Hừm... - Anh trịnh trọng hắng giọng và ngồi xuống cạnh cô. - Chúng ta hãy quay trở lại từ ngọn nguồn câu chuyện...

  4. #73
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,677
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 71
    Em còn nhớ Giả thuyết về cái ác mà anh đã nói không?
    - Thiện và ác không tách rời mà cùng tồn tại, hòa trộn với nhau à?
    - Đúng vậy. Phần thiện trong câu chuyện này chính là Stephanopoulos. Như em đã biết, cách đây hai mươi năm, ông ta đã quyết định sử dụng nguồn lực của chương trình bảo vệ nhân chứng để giúp người khác biến mất. Những người mà ông ta thấy đáng được nhận cơ hội thứ hai. Ông ta tin rằng giải pháp dành cho họ là làm lại từ con số không... Steph trù liệu cho họ một danh tính mới, một khoản tiền để bắt đầu lại, và cơ hội sống tại một nơi mà chẳng ai biết đến quá khứ của họ.
    - Steph là một người tử tế. - Mila bảo vệ thủ trưởng của mình.
    - Ông ta nghĩ mình là người làm từ thiện, nhưng ông ta đã có một cái nhìn méo mó về thực tế, và theo thời gian nó càng ngày càng tồi tệ hơn.
    Berish tránh không nói với Mila là Steph đã mất trí.
    - Anh tin Steph là nạn nhân của một thế lực mạnh hơn ông ta. Khi hiểu ra một điều gì đó đã vượt khỏi sự kiểm soát trong hệ thống mà mình tạo ta, Steph đáng lẽ phải nói ra sự thật. Nhưng ông ta không nói, và những kẻ như Valin hoặc Vincenti đã có thể giết người mà không bị trừng phạt. Hành động cụ thể duy nhất mà Steph thực hiện để ngăn chặn sự leo thang bạo lực là sắp xếp cho chúng ta gặp nhau, bằng cách hướng em đến chỗ anh.
    - Steph trông đợi chúng ta có thể làm sáng tỏ vụ việc vì bản thân ông ấy không còn biết chuyện gì đang thực sự diễn ra nữa.
    - Để chắc ăn, ông ta đã theo đuôi chúng ta trong ngôi nhà gạch đỏ, hang ổ của Kairus. Khi bị phát hiện, ông ta đã gây ra vụ hỏa hoạn để xóa đi mọi dấu vết.
    Mila giương mắt hỏi Berish, sau đó thắc mắc thành tiếng:
    - Nhiều năm về trước, Steph đã không dự kiến được điều gì?
    - Một thành phần độc ác đã len lỏi vào kế hoạch thiện nguyện của ông ta, lại vẫn là Giả thuyết về cái ác. Có hai người thuyết giáo: một tuyên truyền điều thiện, một rao giảng cái ác. Phần ác trong câu chuyện này là Sylvia. - Berish vẫn còn cảm thấy khó khăn khi nhắc đến cái tên này. - Steph đã chọn cô ta để làm nhân chứng xác nhận sự tồn tại của Kairus, với mục đích làm rối cuộc điều tra. Ông ta đã tin tưởng Sylvia đủ để giao phó cậu bé Michael cho cô ta. Nhưng Sylvia không phải như người ta tưởng. Ngoài việc biến người con trai nuôi thành một tên cuồng lửa, cô ta còn lợi dụng những người mà Steph đã giúp biến mất. Cô ta là cái bóng của Steph, cô ta hành động sau lưng ông ta, không để ông ta biết. Theo cách đó Sylvia đã tiếp xúc với những người mà Steph đã hỗ trợ. Cô ta đã thuyết phục họ gia nhập giáo phái, bởi vì - đây chính là sai lầm thực sự của Steph - việc mang đến cơ hội thứ hai cho những người chưa từng thích nghi với cuộc sống là không đủ. Những con người bị cuộc đời bạc đãi đó không được trang bị để làm lại từ đầu, vì họ vẫn bị đeo bám bởi hiềm thù và oán hận. Chuyện này có thể dự kiến được. Đối với họ, sự đổi đời hóa ra chỉ là một ảo tưởng đau đớn.
    - Sylvia đã biết cách biến mình thành người dẫn dắt của họ. Như thể Steph đã tuyển chọn họ cho cô ta vậy. - Mila kết luận. - Người phụ nữ này và Steph đã gắn bó với nhau từ đầu, nhưng họ gặp gỡ nhau như thế nào?
    - Trong căn phòng số 317 của khách sạn Ambrus.
    Mila nhướng mày.
    - Khi lần đầu tiên chúng ta đến đó, người trực khách sạn đã nhắc đến một tội ác đẫm máu xảy ra ba mươi năm về trước. Chúng ta đã không nhận ra nó đi trước các vụ mất tích của nhóm người mất ngủ mười năm. Đó là một sai lầm.
    - Chuyện gì đã xảy ra trong căn phòng 317 mười năm trước khi Kairus xuất hiện?
    - Một án mạng. - Berish đáp, cố không để lộ ra câu chuyện này đã làm anh rúng động đến mức nào. - Khách sạn mới mở được vài ngày. Một đêm nọ, một phụ nữ đã bị đâm chết bằng dao. Nhưng điều khiến người ta chú ý và khiếp sợ chính là con gái bà ta đã chứng kiến vụ giết người. Con bé đã thoát chết nhờ trốn dưới gầm giường.
    - Sylvia.
    Berish gật đầu xác nhận.
    - Vì có thể nhận dạng hung thủ, Sylvia đã được tiếp nhận bởi chương trình bảo vệ nhân chứng. Và Stephanopoulos là người đảm trách vụ việc.
    - Thủ phạm có được tìm thấy không?
    - Không. Hắn không bao giờ được tìm thấy. Nhưng thế chưa hết, còn một chi tiết khác thường... Ai đó đã nghe thấy tiếng hét của người phụ nữ, nhưng khi chạy đến nơi ứng cứu thì căn phòng bị khóa từ bên trong.
    - Ý anh tức là có thể con gái bà ta đã...
    - Ai mà biết được. Có thể cô con gái đã khóa cửa phòng sau khi hung thủ tẩu thoát vì sợ hắn sẽ quay lại giết mình. Dù sao thì, cảnh sát cho rằng cô bé vô tội, hung khí không bao giờ được tìm thấy, và theo lời bác sĩ pháp y, căn cứ vào độ sâu của vết thương trên thi thể bà mẹ, một cô bé mười tuổi không thể có đủ sức mạnh để gây ra chúng.
    Mila nhận thấy Berish vẫn còn muốn tiết lộ điều gì đó nhưng anh e ngại không muốn nói ra.
    - Còn một chuyện khác nữa, phải không anh?
    - Phải. - Anh gật đầu và đưa cho cô bìa hồ sơ màu vàng.
    Mila mở nó ra. Cô nhìn tấm ảnh.
    - Nó đã được chụp tại hiện trường vụ án. - Anh giải thích.
    Mila nhận ra căn phòng số 317 - giấy dán tường đỏ thẫm, thảm cùng màu điểm những bông hoa to màu xanh. Chiếc giường giống y như trong trí nhớ của cô. Một cây thánh giá được gắn trên tường và trên một chiếc bàn đầu giường có đặt quyển Kinh thánh. Sự xuống màu và hư hại theo thời gian còn chưa hình thành, vì vào lúc tấm ảnh được chụp vẫn chưa có nhiều người khách đi trên lớp thảm và ngủ lại trên chiếc giường. Tất cả có vẻ mới mẻ và nguyên vẹn. Nhiều nhân viên của khách sạn đang đứng trên ngưỡng cửa: một người chạy việc da màu mặc đồng phục kẻ sọc trắng đỏ, hai cô hầu phòng chít khăn và đeo tạp dề trắng. Tấm ảnh thể hiện một sự tiện nghi nhất định, lúc này khách sạn Ambrus chưa trở thành một địa điểm của những cuộc gặp gỡ qua đường hoặc lén lút.
    Đây là một tấm ảnh chụp hiện trường, nên có thể thấy các cảnh sát và kỹ thuật viên đang làm việc. Nạn nhân nằm trên giường, được phủ kín từ đầu đến chân bởi một tấm vải lấm máu. Xa hơn một chút, một bé gái chừng mười tuổi với gương mặt đầm đìa nước mắt đang níu vào một nữ cảnh sát để được dẫn ra ngoài. Sylvia. Bên cạnh họ, một Stephanopoulos trẻ trung dường như đang chỉ đạo người đồng nghiệp chăm sóc đứa bé.
    Mila nhìn tấm ảnh kỹ hơn. Mọi người hoặc bận rộn với nhiệm vụ của mình, hoặc rúng động vì thi thể nằm trên giường.
    Chỉ một người duy nhất nhìn vào ống kính.
    Đứng trong một góc phòng, và cũng là trong góc tấm ảnh, anh ta cầm trong tay cục đồng gắn chìa khóa phòng 317. Anh ta mặc một bộ chế phục màu đỏ đô - đồng phục của nhân viên trực khách sạn. Gương mặt anh ta phảng phất một nụ cười. Anh ta chính là Kẻ nhắc tuồng.
    Mila không thể rời mắt khỏi gã.
    Berish nắm lấy tay cô.
    - Tại sao em lại đến khách sạn Ambrus? Tại sao em uống viên thuốc ngủ để sẵn trên bàn?
    - Vì em từ bóng tối chui ra. Và thỉnh thoảng em phải quay lại với bóng tối.
    - Ý em là sao, Mila? Anh không hiểu.
    - Có gì mà phải hiểu? Gã ta biết điều đó, gã hiểu em rất rõ. Gã tin chắc em sẽ làm điều đó, vì cám dỗ với em vẫn quá mạnh, không thể cưỡng lại được. Và nếu anh không hiểu điều đó...
    Mila không nói hết câu, nhưng Berish đã hiểu. Anh không thể gần gũi cô nếu không hiểu những nguyên nhân đã đẩy cô về phía sự vô danh.
    - Em đã gặp gã ta đúng một lần, cách đây bảy năm. - Mila nói thêm. - Những gì gã nói đã để lại ấn tượng sâu sắc trong em. Nó giống như một lời tiên đoán. Cũng có thể gã chỉ chơi trò đoán mò. Nói thật tình, em không tin vào loại phép thuật hắc ám đó. Và lần này cũng vậy. Bởi lẽ, cũng như chính anh đã nói, ta luôn có một lời giải thích logic. - Mila tuyên bố và gấp bìa hồ sơ đựng tấm ảnh lại. - Gã ta cũng giống như những người khác: cũng ăn, cũng ngủ, cũng có các nhu cầu. Và các điểm yếu. Gã cũng có thể chết như ai. Chúng ta chỉ phải bắt gã. Phần còn lại chỉ là một sự huyễn hoặc vớ vẩn gớm ghiếc.
    Câu nói vừa rồi của cô làm Berish cảm thấy nhẹ người. Anh hỏi cô:
    - Thực sự em không nhớ gì về những ngày đã trải qua trên gác mái nhà Sylvia sao?
    - Như em đã nói với anh, em mê man suốt. - Mila đưa trả Berish bìa hồ sơ. - Nhưng em ổn rồi. - Cô mỉm cười trấn an. - Giờ thì em chỉ muốn đi gặp con gái.
    Berish gật đầu và bước ra cửa.
    - Anh Simon. - Cô gọi anh.
    Anh quay lại.
    - Cám ơn anh.

  5. #74
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,677
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG KẾT
    Ngày 22 tháng Mười
    Mẹ con bé sắp về nhà.
    Để chào mừng mẹ, bà ngoại đã mặc cho nó cái váy đẹp nhất, được may bằng nhung xanh, và cho nó đi đôi giày bóng lộn. Alice không thích cái váy. Khi ngồi váy bị co lên tận bụng, làm nó cứ phải luồn tay kéo xuống. Với lại, khi mặc cái váy đó, nó chẳng thể chơi đùa gì được, vì cứ mỗi ba mươi giây là bà ngoại Inès lại nhắc nó không được làm bẩn váy.
    Cái váy đó là một cục nam châm hút toàn những lời trách mắng.
    Ngoại đã nói với con bé hôm nay là một ngày trọng đại, vì mẹ nó đã trải qua một giai đoạn rất là khó khăn, và mẹ nó cần được ủng hộ. Alice đã đồng ý tham gia vì không hình dung ra chuyện này sẽ dẫn tới nhiều thay đổi rõ rệt - không ai nói với nó, không ai tham khảo ý kiến của nó về những thay đổi đó. Bà chỉ chuẩn bị cho nó một chiếc vali nhỏ, và giải thích rằng nó sẽ dọn về ở với mẹ, vì mẹ muốn dành thời gian bên nó.
    Nhưng tạm thời nó chỉ có thể đem theo ba món đồ chơi. Sự lựa chọn quả là khó khăn, vì con búp bê tóc hung mà nó thích nhất nghiễm nhiên lọt vào nhóm này, hai vị trí còn lại nó phải lựa chọn giữa tất cả các búp bê khác, chưa kể thú nhồi bông. Mà nó thì không muốn mắc lỗi với ai hết.
    Làm thế nào chúng có thể ngủ khi không có nó trong căn phòng ở nhà bà ngoại đây? Bản thân nó có cảm thấy cô độc vì thiếu bạn không?
    Thật may mắn là nó có Hitch. Bác cảnh sát tên Simon đã không đòi lại bạn chó, mặc dù bác ấy đã không đi đến chỗ mà người ta cấm chó, như bác ấy đã nói. Bác Simon đến thăm Hitch mỗi ngày để cả hai đi dạo công viên với nhau. Alice biết là sớm muộn gì thì người bạn mới của mình cũng sẽ quay về nhà với ông chủ thật sự, nhưng nó hi vọng được giữ Hitch thêm một thời gian nữa.
    Bác Simon đã nói Hitch sẽ ở lại với nó để dạy nó nhận biết nguy hiểm và đánh giá rủi ro. Khi nó học xong chắc là bác sẽ đón Hitch về.
    Nó thích bác Simon. Chủ yếu là nó rất thích cách bác nói chuyện với mình. Bác chẳng bao giờ bảo nó phải làm thế này thế nọ, bác đợi cho đến khi nó tự hiểu ra.
    Người lớn chẳng bao giờ kiên nhẫn cả, Alice nghĩ bụng. Nhưng bác Simon thì khác. Thậm chí bác ấy đã hỏi nó về Miss. Nhưng khi đặt câu hỏi, bác ấy không nhìn nó như thể nó đã làm chuyện gì đó xấu thật xấu.
    Alice đã cho bác biết Miss vào được nhà là nhờ chiếc chìa khóa dự phòng giấu ngoài vườn, dưới một chậu thu hải đường.
    Mọi chuyện diễn ra cũng vì con búp bê tóc hung.
    Nó đã đưa con búp bê đến trường, cất trong balo. Cô giáo không muốn các bạn học sinh đem theo đồ chơi, nhưng với Alice con búp bê này đâu phải đồ chơi. Đó là người bạn thân nhất của nó mà. Như vậy là khác lắm chứ.
    Nhưng rồi đã xảy ra một việc đáng sợ.
    Một hôm ở trường, Alice bận rộn đến nỗi quên mất con búp bê. Sau giờ học, khi xe đưa rước chở nó về nhà, con búp bê tóc hung đã mất tích.
    Hốt hoảng, nó không biết phải làm thế nào. Nó không thể nói với bà ngoại, vì chắc chắn ngoại sẽ phạt. Nó đã nghĩ đến việc đưa tấm ảnh chụp con búp bê cho mẹ, vì có lần bà ngoại đã nói mẹ nó chuyên đi tìm người mất tích.
    Và nó tin chắc mẹ sẽ tìm được con búp bê.
    Nhưng tối hôm đó mẹ nó không đến. Alice trằn trọc mãi không ngủ được. Nó tự hỏi người bạn thân nhất của mình đang ra sao. Chắc là cô độc và sợ hãi ngoài đường trong giá lạnh.
    Trong đêm mất ngủ, nó đã cảm thấy một bàn tay đặt trên trán. Lúc đầu nó đã tưởng là mẹ đến và lời khẩn cầu của nó đã ứng nghiệm. Nhưng khi mở mắt ra, nó trông thấy một người phụ nữ khác ngồi trên giường mình. Mọi người luôn trách mắng nó vì không nhận thức được nguy hiểm, nhưng lần này chẳng có gì phải sợ, vì người lạ mặt đang cầm con búp bê tóc hung của nó trên tay.
    Cô ấy đến trả cho nó con búp bê.
    - Cô tên là gì thế ạ? - Alice hỏi người phụ nữ.
    - Ta không có tên.
    Thế là nó quyết định gọi người phụ nữ lạ mặt đơn giản là "Miss".
    Sau khi trả cho Alice thứ mà nó tưởng đã vĩnh viễn mất đi, Miss đã hỏi nó có muốn cô thỉnh thoảng quay lại hay không. Alice đáp có. Không phải đêm nào Miss cũng đến, chỉ thỉnh thoảng thôi. Miss hỏi nó chuyện trường lớp và vui chơi của nó. Miss lúc nào cũng tử tế. Alice tự hỏi liệu nó có vi phạm một trong những nguyên tắc mà bà ngoại đã đặt ra là không bao giờ được nói chuyện với người lạ hay không. Nhưng nếu Miss đã vào được trong nhà thì cô ấy không thể là người lạ.
    Bác Simon cũng đồng ý với nó về điều này, do đó Alice rất tin tưởng bác ấy.
    Tuy nhiên, vẫn còn một bí mật mà nó không muốn tiết lộ cho bác nghe.
    Nó đã hứa với Miss - tay đặt lên tim đàng hoàng - vào lần cuối cùng cô ấy đến thăm nó. Mọi người đều biết một lời hứa với bàn tay đặt trên ngực thì không được phá bỏ. Một trong các bạn cùng lớp đã kể với Alice rằng người anh họ của mình có quen một thằng bé, thằng bé này vì phá vỡ một lời hứa có đặt tay trên ngực mà sau đó đã biến mất. Không ai biết chuyện gì đã xảy ra, và bố mẹ thằng bé vẫn còn đi tìm nó.
    Alice không muốn biến mất mãi mãi. Do đó, chỉ có Miss mới có khả năng giải thoát nó khỏi lời hứa.
    Tuy thế, lúc mẹ đón nó vào nhà của mẹ sau khi ra viện, nó đã định kể hết cho mẹ nghe. Nhưng rồi mẹ đã ôm nó vào lòng. Mẹ chưa bao giờ làm thế. Và lúc được mẹ ôm, Alice chẳng cảm thấy chút ấm áp nào. Nó thấy chuyện đó thật lạ. Không giống như những lần được bà ngoại ôm ấp. Có cái gì đó... không ổn.
    Mẹ dẫn nó đi xem căn nhà mới. Trong nhà đầy sách, sách nhiều đến nỗi người ta khó mà di chuyển được, ngay cả trong phòng tắm cũng có sách.
    Tối hôm đó, hai mẹ con ăn tối cùng nhau. Mẹ nó đã nấu mì ống với thịt viên - không ngon tí nào. Alice không nói gì, nhưng Hitch mừng húm vì được ăn thỏa thích. Mẹ cư xử không giống mọi lần, chẳng hạn như mẹ đứng ngoài cửa phòng tắm quan sát khi nó đang đánh răng. Sau đó Hitch leo lên nằm trên một chiếc ghế bành, còn hai mẹ con vào phòng ngủ. Chiếc giường quá bé cho hai người, gối cũng chẳng êm như Alice muốn. Hai mẹ con tắt đèn và không nói chuyện nữa, nhưng Alice biết mẹ không ngủ. Thật nhẹ nhàng, nó nhích lại gần mẹ. Thế là mẹ giơ tay kéo nó vào lòng.
    Lần này thì nó không còn cảm giác có điều gì không ổn nữa.
    Alice cuộn mình nép vào mẹ, và mẹ đã vuốt ve mái tóc dài màu vàng bạch kim của nó. Động tác của mẹ chậm dần rồi dừng hẳn. Nó hiểu là mẹ đã ngủ. Nó thì chưa thể ngủ được. Đến một lúc, mẹ có nói chuyện, nhưng chắc là nói mớ. Alice lại nghĩ đến việc kể cho mẹ nghe bí mật mà Miss đã tiết lộ với mình.
    - Có một người đặc biệt muốn làm quen với cháu.
    - Ai vậy ạ?
    - Một người có thể biến những điều ước của cháu thành sự thật.
    - Bất cứ điều gì á?
    - Bất cứ điều gì.
    Nó không chắc chuyện đó có thật hay không, nhưng nó muốn tin. Chỉ có một cách để biết được sự thật. Nó phải làm theo những hướng dẫn mà Người ru ngủ đã bảo nó học thuộc lòng. Thế là nó gỡ mình khỏi vòng tay mẹ, rồi đi chân đất ra phía cửa sổ.
    Ở bên ngoài, phía trước Alice, trên tòa nhà đối diện có một tấm áp phích rất lớn, với hai người khổng lồ đang cười. Nó cụp mắt nhìn xuống, và trông thấy người ấy. Miss đã nói đúng. Ông ấy đứng đó, mắt ngước lên nhìn về phía cửa sổ. Một mảnh giấy nhảy nhót dưới chân ông ta, giống như một đứa bé ma quái đang đòi được để ý.
    Alice giơ tay chào ông ta.
    Đáp lại nó, người vô gia cư mỉm cười.

  6. #75
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,677
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    SYLVIA
    Chứng cứ 2573 - KL/777
    Nhà tù XXXX
    Trại giam số 45
    Báo cáo của giám đốc, Jonathan Stern
    Ngày 25 tháng 10
    Kính gửi: Chánh biện lý Bertrand Owen
    Chủ đề: MẬT
    Thưa ngài Owen,
    Đáp lại yêu cầu cung cấp thông tin của ngài về nữ phạm nhân GS - 997/11, tôi xin thông báo với ngài rằng Sylvia vẫn tiếp tục tự cô lập mình. Cô ta không giao tiếp với nhân viên quản giáo và dành phần lớn thời gian để ngủ. Cô ta không có hành vi làm trái nội quy và không yêu sách gì.
    Tuy nhiên, tôi phải lưu ý với ngài là từ vài ngày nay, thái độ của cô ta rất kỳ quặc. Cô ta lau chùi và cọ sạch mọi thứ mình chạm vào, nhặt hết tóc vương trên gối hoặc trong bồn rửa mặt, rửa sạch dụng cụ ăn uống và các thiết bị vệ sinh sau mỗi lần sử dụng.
    Trong những trường hợp khác, chúng tôi hoàn toàn có cơ sở để nghi ngờ rằng người phụ nữ điên rồ này muốn ngăn cản chúng tôi lấy các vật chất hữu cơ để giám định ADN.
    Tuy vậy, sau khi tiến hành kiểm tra di truyền và không thu được kết quả ăn khớp nào, chúng tôi vẫn chưa rõ nguyên nhân của thái độ kỳ quặc đó.
    Chúng tôi vẫn chưa có câu trả lời.
    Tôi không thể không lưu ý ngài một sự tương đồng kỳ lạ với câu chuyện về một phạm nhân khác, người cách đây nhiều năm đã có liên quan với vụ việc được biết đến với tên gọi "Kẻ nhắc tuồng".
    Tôi hi vọng đã giải đáp thỏa đáng yêu cầu của ngài, và xin hẹn ngài những báo cáo tiếp theo.
    Rất trân trọng,
    Giám đốc Jonathan Stern




    LỜI TÁC GIẢ
    Tất cả chúng ta đều từng có mong muốn biến mất, ít nhất là một lần trong đời.
    Vào một thời điểm thối chí, chúng ta đã từng nghĩ đến việc ra ga xe lửa, trèo lên một chuyến tàu ngẫu nhiên, để tạm lánh đi, có thể là trong vài giờ vào một buổi sáng thứ Ba ngập nắng giữ mùa đông. Nếu có làm chuyện đó thì chúng ta cũng không bao giờ kể lại. Nhưng chúng ta vẫn giữ trong lòng cảm giác tự do khi tắt điện thoại, phớt lờ mạng Internet, vượt qua các rào cản công nghệ để phó thác mình cho định mệnh.
    Từ lâu tôi đã có trong đầu ý tưởng viết một tiểu thuyết về những người mất tích quay trở lại. Thậm chí tôi có thể khẳng định chính từ ý tưởng đó đã sinh ra nhân vật Mila Vasquez.
    Trước khi chấp bút, tôi đã phỏng vấn một số người đại diện pháp luật, thám tử tư và nhà báo. Nhưng trên hết, tôi đã trò chuyện với bạn bè thân hữu của những người đã chọn bóng tối hoặc được bóng tối lựa chọn.
    Tuy vậy, trong tất cả những cuộc gặp gỡ ấy, tôi luôn có cảm giác mình chỉ khám phá được một phần của hiện tượng: phần ở ngoài ánh sáng. Phần còn lại ít nhiều không được biết đến.
    Sự ám ảnh của tôi đối với những người mất tích lẽ ra đã không thể giải quyết nếu một người trong số họ không tiếp xúc với tôi.
    Sau khi xuất bản Kẻ nhắc tuồng, tôi đã nhận được lá thư từ một người đàn ông khẳng định mình đã "xóa" phần đời trước đây để sống một cuộc đời mới - dưới một danh tính khác, và một phạm vi quan hệ xã hội khác.
    Tôi không có phương tiện để kiểm chứng lời anh ta nói là thật hay chỉ là một trò lừa gạt khéo léo. Nhưng dù sao chúng tôi cũng đã trao đổi thư từ, và qua đó tôi biết được một số sự thật - tất cả đều rất đáng tranh cãi. Những điều này đã bồi đắp ý tưởng ban đầu, mang lại cho nó sự vững chắc của một câu chuyện.
    Người vô danh đã mô tả chi tiết với tôi làm thế nào người ta thực hiện cái việc ban đầu chỉ giống như một ảo tưởng, nhưng theo thời gian đã trở thành một dự án thực sự. Những nhượng bộ duy nhất người này dành cho tôi, vi phạm mong muốn giữ gìn sự vô danh của anh ta là quốc tịch của mình - một người Ý - và tên con mèo của anh ta: Kairus.
    Sau những trao đổi ngắn giữa chúng tôi, tôi đã nhận ra cách duy nhất để hiểu được ý nghĩa của việc biến mất là... tự mình biến mất.
    Lần trốn nhà của tôi chỉ kéo dài vài tuần lễ, thời gian vừa đủ để chuẩn bị cho cuốn tiểu thuyết. Tất nhiên, người thân của tôi đã được thông báo, và tôi không bao giờ cắt đứt sợi dây đã gắn tôi với phần đời trước đó. Dẫu vậy, tôi đã tắt chuông điện thoại, bỏ mặc hộp thư điện tử và trang cá nhân trên mạng xã hội. Tôi đã ném mình vào một thế giới song song.
    Vì nhiều lí do khác nhau, trải nghiệm của tôi khá là êm đềm, chủ yếu do tôi đã biết vụ mất tích của mình rồi sẽ chấm dứt. Tuy nhiên, tôi cũng khám phá ra việc biến mất không phải luôn đồng nghĩa với một sự giải phóng: lúc đầu bóng tối xoa dịu chúng ta, sau đó nó tóm lấy chúng ta, và cuối cùng nó chỉ thả chúng ta dưới một số điều kiện nhất định.
    Khi tôi quay về nhà, gia đình và bạn bè đã hỏi tôi đi đâu. Tôi đã cho họ một phiên bản ngắn gọn của sự thật: "Tôi đã đi thăm nhà xác".
    Giờ đây, họ đã biết phiên bản dài chính là quyển sách này.
    Khi nhắc đến các vụ mất tích, người ta luôn dẫn ra các số liệu thống kê. Thế nhưng thật vô ích khi liệt kê ở đây một loạt các con số, hay nhấn mạnh rằng mỗi ngày có trung bình hai mươi mốt người mất tích trên một triệu dân - thông tin này đã được báo chí đăng tải rồi.
    Điều mà không ai nói ra, đó là chúng ta không thể tưởng tượng được có bao nhiêu người mất tích đi qua chúng ta hàng ngày. Ngoài đường phố, trên xe buýt, trong khu chợ. Chúng ta quan sát họ, nhưng không biết họ là những người mất tích.
    Và họ cũng vậy, từ phía sau tấm bình phong của một danh tính giả, họ cũng quan sát chúng ta.
    Từ đáy lòng mình, tôi cám ơn người bạn thư vô danh đã giúp tôi hiểu tất cả chuyện này - dù anh ta có phải là một người mất tích thực sự hay không, dù con mèo của anh ta có tên là Kairus hay không. Dù anh là ai và anh làm gì, tôi hi vọng với anh biến mất là một việc thỏa đáng.
    DONATO CARRISI.
    Hết.

Trang 8 / 8 ĐầuĐầu ... 678

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-11-2017, 01:14 AM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-25-2016, 12:40 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-29-2016, 11:58 AM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-20-2016, 03:10 AM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-27-2015, 11:00 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •