Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Khi bắt đầu yêu tức là bắt đầu bước vào cuộc sống.
Tục ngữ Pháp
Trang 2 / 8 ĐầuĐầu 1234 ... Cuối Cuối
Results 11 to 20 of 75

Chủ Đề: Người Ru Ngủ

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Người Ru Ngủ



    Tác giả: Donato Carrisi




    Giới thiệu

    Nhân vật Mila Vasquez, nữ cảnh sát chuyên điều tra các vụ mất tích đã làm say lòng độc giả yêu thích tiểu thuyết trinh thám qua hơn 500 trang sách của Kẻ nhắc tuồng nay xuất hiện quyết đoán và gai góc hơn trong Người ru ngủ, anh em sinh đôi với Kẻ nhắc tuồng.

    Bảy năm trôi qua, Mila quyết định ẩn mình tại Minh Phủ - phòng điều tra chuyên trách những vụ mất tích không rõ nguyên nhân. Bản thân không có được sự thấu cảm dành cho người khác, cô đành gửi gắm con gái Alice cho bà ngoại chăm sóc. Trong khi đó, giáo sư tội phạm học Gavila vẫn đang hôn mê sâu và được canh gác cẩn mật. Mọi việc tưởng chừng trôi qua trong êm đềm, nhưng thật ra đó là khoảng lặng trước cơn bão.

    Tất cả bắt đầu bằng một cú điện gọi đến đường dây nóng của cảnh sát: Một tên sát nhân máu lạnh đã đột nhập vào gia đình một nhà tài phiệt trong lĩnh vực dược phẩm, giết hại toàn bộ thành viên trong gia đình sau khi cố tình để lộ danh tính. Hắn là Roger Valin, mất tích không rõ nguyên nhân 17 năm về trước, tái xuất hiện với bộ trang phục giống hệt trong bức ảnh chụp trước khi biến mất được lưu trữ tại Minh Phủ. Hắn đã ở đâu trong suốt thời gian qua? Bị người ngoài hành tinh bắt cóc chăng? Động cơ gây án là gì? Những câu hỏi ấy đòi hỏi sự vào cuộc của một chuyên gia tìm người mất tích, và không ai khác hơn, đó chính là đặc vụ Maria Elena Vasquez, hay Mila Vasquez.

    Càng dấn sâu vào điều tra, Mila nhanh chóng phải đối mặt với những vụ giết người liên tiếp xảy ra mà thủ phạm đều là những người mất tích từ lâu. Sau khi tái xuất để gây án, bọn chúng lại biến mất một lần nữa. Mọi cái chết dường như đều có liên hệ với một tên tội phạm sừng sỏ vẫn còn ngoài vòng pháp luật từ 30 năm nay: Người Ru Ngủ.

    Để chặn đứng “đạo quân bóng tối”, Mila buộc phải nhờ đến sự cộng tác của đặc vụ Simon Berish, người đã từng theo đuổi vụ án suốt 20 năm trời, và đã phải trả giá nặng nề khi bị cả trụ sở cảnh sát khinh bỉ, ruồng rẫy. Một nhân vật đặc biệt, một trợ thủ đắc lực của Mila Vasquez.

    Và những gì hai người phát hiện đã đưa cả hai vào vòng nguy hiểm chết người.

    Donato Carrisi sinh năm 1973 ở Ý, tốt nghiệp ngành luật và tội phạm học trước khi trở thành nhà viết kịch bản phim truyền hình. Cuốn tiểu thuyết trinh thám đầu tay Kẻ nhắc tuồng của ông đã gây được tiếng vang lớn với năm giải thưởng Văn học quốc tế, được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, và đưa tác giả lên vị trí “nhà văn Italia được đọc nhiều nhất trên thế giới”.

    Mời các bạn đón đọc Người Ru Ngủ của tác giả Donato Carrisi.





    MỞ ĐẦU
    Phòng số 13 trong nhà xác quốc gia được giành cho những người đang ngủ.
    Nó nằm ở tầng hầm thứ tư, cũng là tầng dưới cùng, giống như một tầng địa ngục. Một địa ngục buốt giá với nhiều gian phòng lạnh, nơi tiếp nhận các thi thể vô danh. Rất hiếm khi nó được thăm viếng.
    Thế nhưng đêm nay, một vị khách đang trên đường xuống tận nơi.
    Người trông xác chờ đợi vị khách trước cửa thang máy, mắt ngước nhìn những con số ghi nhận chuyển động đi xuống của buồng thang máy. Trong khi chờ đợi, ông ta tự hỏi vị khách bất ngờ này là ai, và nhất là, điều gì đã đưa đẩy anh ta đến cái tiền đồn xa xôi rất lạ lẫm với người sống này.
    Con số cuối cùng xuất hiện. Im lặng kéo dài hồi lâu trước khi cửa thang máy xịch mở. Người trông xác quan sát vị khách. Anh ta tầm bốn mươi tuổi, mặc một bộ comlê màu xanh thẫm. Giống như những người lần đầu tiên xuống dưới này, anh ta tỏ vẻ kinh ngạc khi thấy ở đây không được ốp gạch men trắng và chiếu sáng bằng đèn diệt khuẩn, thay vào đó các bức tường có màu xanh lá cây và ánh sáng có màu cam.
    - Màu sắc giúp ngăn chặn chứng lo âu. - Người trông xác giải thích khi nhận thấy câu hỏi không được nói ra, đồng thời đưa chiếc áo blu màu xanh da trời cho khách.
    Người khách không nói gì. Anh ta mặc áo vào, sau đó hai người bắt đầu đi dọc theo hành lang.
    - Các thi thể nằm ở tầng này chủ yếu là của người vô gia cư hoặc dân nhập cư bất hợp pháp. Bọn họ không có giấy tờ tùy thân, cũng chẳng có gia đình, và sau khi chết ngóm thì học được đưa vào đây. Tất cả được phân vào các phòng đánh số thứ tự từ 1 đến 9. Phòng số 10 và 11 được dành cho những người có đóng thuế đều đặn và xem được bóng đá trên truyền hình, giống như anh và tôi, nhưng nhồi máu cơ tim trên xe điện ngầm. Lấy cớ giúp đỡ, một hành khách móc ví của người xấu số và hấp, xảo thuật thành công, người kia biến mất mãi mãi. Cũng có khi, vấn đề chỉ là do quan liêu: một cán bộ nhầm lẫn giấy tờ của anh, và những thân nhân đến nhận dạng thi thể chỉ thấy trước mắt mình xác của một người khác. Như thể anh chưa chết, gia đình tiếp tục đi tìm anh. - Người trông xác kiêm hướng dẫn viên tự phong cố gây ấn tượng cho vị khách, nhưng hoài công. - Tiếp đến, các trường hợp tự tử hoặc tai nạn được đưa vào phòng số 12. Nhiều khi các thi thể ở tình trạng tệ hại đến nỗi không biết có phải là xác người hay không nữa. - Ông ta nói tiếp để thử bụng dạ của vị khách, nhưng có vẻ người này không phải loại non gan. - Dẫu sao thì, pháp luật đã dự tính một sự đối xử như nhau cho tất cả: họ phải nằm lại trong phòng lạnh ít nhất mười tám tháng. Sau đó, nếu thi thể vẫn không được nhận dạng hoặc được người thân đưa về, và nếu cảnh sát không có ý định mở lại cuộc điều tra, thi thể được phép đưa đi hỏa táng.- Ông ta trích dẫn điều luật theo trí nhớ.
    Đến đây, giọng nói của người trông xác trở nên hơi căng thẳng một chút, vì những gì ông ta nói tiếp theo có liên quan đến mục tiêu của chuyến viếng thăm khuya khoắt này.
    - Và rồi, chúng ta có các thi thể nằm trong phòng số 13.
    Nạn nhân vô danh của những tội ác chưa được làm sáng tỏ.
    Trong trường hợp giết người, luật pháp quy định thi thể chỉ là một vật chứng cho đến khi danh tính của nạn nhân được xác nhận. Chúng ta không thể buộc tội một kẻ sát nhân nếu không chứng minh người bị hắn giết đã từng tồn tại thật sự. Thi thể vô danh là bằng chứng duy nhất của sự tồn tại đó. Do vậy nó phải được bảo quản vô hạn định. Đó là một chi tiết lạ lùng nhất của luật pháp mà các luật sư rất thích thú.
    Luật pháp đã quy định chừng nào hành vi tội ác gây ra cái chết chưa được xác định, thi thể không thể bị tiêu hủy hoặc để phân rã tự nhiên.
    - Chúng tôi gọi họ là những người đang ngủ.
    Những người đàn ông, phụ nữ, trẻ con vô danh mà kẻ giết hại họ chưa được xác định. Họ chờ đợi suốt nhiều năm trời để được ai đó xuất hiện giải thoát khỏi lời nguyền khiến họ giống như còn sống. Như một câu chuyện cổ tích rùng rợn, tất cả những gì phải làm là đọc một thần chú.
    Tên của họ.
    Nơi tiếp nhận họ - căn phòng số 13 - nằm ở cuối hành lang.
    Khi đi đến trước cánh cửa sắt, người trông xác loay hoay một lúc với chùm chìa khóa để tìm đúng chìa. Ông ta mở cửa và tránh sang một bên nhường lối để khách bước vào phòng. Ngay khi anh ta bước vào, một dãy bóng đèn vàng trên trần lập tức được bật sáng nhờ cảm biến chuyển động. ở giữa phòng là một bàn giảo nghiệm tử thi, vây quanh bởi các dãy tủ lạnh cao ngất với hàng chục ngăn chứa xác.
    Một tổ ong bằng thép.
    - Anh phải ký vào đây. Quy định là thế. - Người trông xác vừa nói vừa đưa ra một quyển sổ đăng ký. - Anh quan tâm đến cái nào? - Ông ta hỏi tiếp với một chút sốt ruột.
    Cuối cùng người khách cũng lên tiếng.
    - Thi thể đã nằm ở đây lâu nhất.
    AHF-93-K999.
    Người trông xác thuộc nằm lòng số hiệu đó. Mừng thầm vì đã có lời giải cho bí ẩn lâu năm, ông ta lập tức chỉ vào ngăn tương ứng. Nó nằm ở vách tường bên trái, hàng thứ ba từ dưới lên. Ông ta chỉ nó cho vị khách.
    - Trong số các xác chết nằm lại nơi đây, câu chuyện về cái xác này chưa phải lạ lùng nhất. - Người trông xác nôn nóng giải thích. - Một chiều thứ Bảy, đám trẻ chơi bóng đá trong công viên đã sút quả bóng vào bụi rậm. Thế là anh ta được tìm thấy, với một viên đạn trong sọ. Anh ta không có giấy tờ, cũng không có chìa khóa nhà. Khuôn mặt anh ta vẫn còn trong tình trạng nhận dạng được, nhưng không có người nào gọi đến đường dây nóng để hỏi về anh ta, hoặc trình báo việc anh ta mất tích. Trong khi chờ người ta tìm ra thủ phạm, một việc có thể không bao giờ xảy ra, thi thể nằm đây là bằng chừng duy nhất của tội ác. Chính vì thế mà tòa án đã quyết định bảo quản anh ta trong này cho đến khi vụ giết người được làm sáng tỏ, công lý được thực thi. - Người trông xác ngừng lời một chút. - Đã nhiều năm trôi qua, nhưng anh ta vẫn nằm đây.
    Bấy lâu nay, người trông xác tự hỏi việc gì phải bảo quản bằng chứng của tội ác mà không ai nhớ đến. Ông ta luôn cho rằng mọi người đã quên mất người lưu trú vô danh của phòng xác số 13. Thế nhưng, khi được nghe yêu cầu của vị khách, ông ta cảm thấy bí mật được lưu giữ sau lớp thép dày vài xentimet kia sẽ còn hơn cả một cái tên đơn thuần.
    - Anh mở ra đi, tôi muốn xem anh ta.
    AHF-93-K999. Trong những năm qua, số hiệu gắn trên nhãn ngăn tủ vẫn là tên họ của thi thể. Đêm nay, điều đó có thể sẽ thay đổi. Người trông xác điều khiển van xả khí để mở ngăn đựng xác.
    Kẻ đang ngủ sắp được đánh thức.

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 10
    Tiếng chuông báo trộm mà Mila đã nghe thấy trong lúc đến vẫn văng vẳng phía xa.
    Khi trèo lên các bậc thang dẫn tới tầng áp mái, bất giác cô đặt tay lên bao súng. Mila không nghĩ mình sẽ chạm trán Roger Valin ở đó, nhưng phản ứng của bà Walcott trước câu hỏi cuối cùng đã khiến cô bối rối. Có thể đó chỉ là sự hoang tưởng của một bà già cô độc, nhưng Mila tin rằng những nỗi sợ luôn phải có một căn cứ nào đó.
    Biết đâu trong ngôi nhà này có một kẻ cư trú không mời câm lặng.
    Lần thứ hai trong ngày Mila đi lục soát một căn nhà. Vào buổi sáng, tại nhà của gia đình Conner, cô đã phát hiện ra một con ma nhỏ dưới hầm. Theo xác suất mà nói thì cô không thể có may mắn như thế trên tầng áp mái của ngôi nhà này, nhưng ai biết được.
    Cánh cửa bị khoá, nhưng bà Walcott đã đưa cho Mila chiếc chìa. Khi cô chuẩn bị mở cửa, tiếng chuông báo động lại vang lên đằng xa, như thể vừa cảnh báo vừa chế giễu cô.
    Mila đặt bàn tay lên tay nắm cửa và ấn xuống, hồi hộp chờ đợi. Cô tưởng cánh cửa sẽ nghiến ken két, nhưng nó chỉ mở ra với một tiếng xì nhẹ.
    Trước mặt Mila, căn hộ áp mái trải dài suốt chiều dọc ngôi nhà. Có một cái rương, một chiếc giường, một tấm nệm cuộn tròn trong một góc, một gian bếp nhỏ với bếp ga hai mâm lửa, và một buồng tắm nằm trong một hốc tường. Ở cuối phòng có một cửa sổ nhỏ đang hắt ánh sáng xuống chiếc bàn làm việc kê sát tường. Trên bàn là một tủ kính bụi bặm. Mila hạ vũ khí và chậm rãi tiến tới. Cô có cảm giác mình đang xâm phạm một không gian riêng tư.
    Một sào huyệt của ai đó, cô nghĩ thầm.
    Không có bất cứ dấu vết nào của Roger Valin. Các món đồ có vẻ như đã nằm yên không được sử dụng từ nhiều năm nay. Mila ngồi vào bàn làm việc. Một cái ê tô được gắn vào một góc bàn, bên cạnh chiếc kính lúp tròn có đèn. Mắt cô lướt qua vài thứ dụng cụ được xếp ngăn nắp: tua vít, kẹp, dao nhỏ, và một chiếc kính độc tròng của thợ đồng hồ. Những cái hộp đựng đầy linh kiện và bánh răng. Một vòng bi nhỏ, một cái búa gỗ, một vịt dầu, cùng những thứ khác mà Mila không biết tên.
    Nếu không có tiếng chuông báo động quái quỷ vẫn đang vang lên từng chập thì Mila đã chìm đắm vào sự tĩnh lặng của những món đồ kia. Cô ngước mắt nhìn tủ kính gắn phía trên bàn làm việc. Trong tủ là bộ sưu tập đồng hồ của ông Walcott, được bày trên hai ngăn kệ.
    Tất cả đều im lìm dưới trò phù phép của thứ quyền lực duy nhất có thể thắng được sức mạnh thời gian: cái chết.
    Thoạt nhìn, Mila ước chừng có khoảng năm chục chiếc đồng hồ, dạng đeo tay hoặc bỏ túi. Cô thấy có nhiều chiếc Longines, một chiếc Tissot, một chiếc Revue Thommen vỏ bạc dây da xanh, một chiếc Girard-Perregaux tuyệt đẹp bằng thép. Cô không rành đồng hồ, nhưng có cảm giác ông Walcott đã để lại cho vợ một kho báu nhỏ mà bà không biết. Chỉ cần bán đi vài chiếc là bà đã có thể sống thoải mái hơn. Nhưng một người phụ nữ cô độc thì còn muốn gì hơn thế này kia chứ?Tất cả những gì bà cần là sự bầu bạn của một chú mèo và vô số kỷ niệm dưới dạng đồ lưu niệm hoặc các tấm ảnh cũ.
    Cửa sổ của tầng áp mái trông ra ngôi nhà đối diện. Mila cố gắng đi vào trong đầu của Roger Valin.
    Từ chỗ này mày có thể nhìn thấy ngôi nhà của mình, như vậy mày sẽ có cảm giác không bỏ rơi mẹ một mình. Cùng lúc đó, việc giết thời gian ở đây cho phép mày thoát khỏi bà ấy một chút. Tại sao mày biến đi sau khi bà chết? Mày đã đi đâu? Tại sao lại quay trở lại? Sự trả thù muộn màng của mày có ý nghĩa gì? Và bây giờ mình sẽ làm gì?
    Những câu hỏi hòa lẫn với tiếng chuông báo trộm mỗi lúc một lớn. Tại sao khi ra tay sát hại gia đình Belman, Roger Valin lại mặc cùng bộ quần áo hắn đã mặc trước khi mất tích? Tại sao hắn lại gọi điện cho một hiệu giặt tự động vào đêm hôm đó? Tại sao không ai trả lời điện thoại?
    Hãy chứng tỏ cho tao thấy mày đã đến đây đi Roger. Hãy chứng tỏ trong thâm tâm mày vẫn nhớ cái nơi mày từng từ bỏ, và mày muốn quay trở về quá khứ, về với cái sào huyệt trước kia của mày.
    Bỗng chuông báo động ngừng bặt, mặc dù nó tiếp tục vang lên trong đầu Mila. Sự im lặng phải mất một lúc lâu để lấp đầy khoảng trống của tầng áp mái và trong lòng cô.
    Lúc đó cô mới nhận ra tiếng tích tắc.
    Đều đặn như một thông điệp mã hóa, dai dẳng như một lời nhắc nhở kín đáo, nó thu hút sự chú ý của Mila như thể ai đó đang lặp đi lặp lại tên cô, Mila mở cửa tủ và tìm chiếc đồng hồ đang phát ra tín hiệu mờ ám.
    Đó là một chiếc đồng hồ cũ hiệu Lanco chẳng mấy giá trị với vỏ máy han gỉ, dây đeo bằng da cá sấu giả, lớp kính sứt mẻ và mặt số bằng ngà đã xỉn màu theo thời gian.
    Đôi khi một chiếc đồng hồ bắt đầu chạy trở lại nhờ một vòng dây cót còn tích lại sau nhiều năm. Thế nhưng, khi cầm nó trên tay, Mila nhận ra đây không phải là một trường hợp tự động chạy trở lại.
    Ai đó đã lên dây nó gần đây, vì nó chỉ giờ chính xác.

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 11
    Hắn đã đến đây, không còn nghi ngờ gì nữa.
    Mila đang ngồi trong chiếc xe hơi đậu trước cửa nhà bà Walcott. Đã quá 10 giờ tối, và cô chỉ vừa mới gọi điện được cho Boris. Anh đã họp suốt cả buổi chiều để tranh luận về việc tiết lộ hay giữ kín với báo chí thông tin của vụ thảm sát, cùng với nó là danh tính và hình ảnh của thủ phạm. Boris cho rằng việc này sẽ cô lập Roger Valin, nếu ai đó nhận ra hắn thì họ có thể giải quyết được ít nhất là một phần của bí ẩn mười bảy năm qua. Tuy nhiên, Gurevich tỏ ra không khoan nhượng. Anh ta khăng khăng cho rằng việc công bố rộng rãi vụ việc sẽ làm tên sát nhân phổng mũi và khiến hắn phạm tội trở lại. Cuối cùng mưu sĩ của sở cảnh sát đã chiến thắng.
    - Rất tốt. - Anh bạn thanh tra của Mila nói với cô. - Nhưng lúc này chúng ta có các ưu tiên khác.
    Sau vụ thảm sát, Roger Valin đã biến mất tăm. Cảnh sát chẳng có dấu vết gì của hắn, và một đêm nữa đã bắt đầu.
    Lần này hắn sẽ đột nhập vào ngôi nhà nào đây? Hắn sẽ trút hận thù vào đâu?
    - Vấn đề ở chỗ ta đã có động cơ đưa đẩy tên sát nhân đến chỗ tàn sát gia đình Belman, nhưng nó quá chông chênh. Việc giết hại gia đình ông chủ hãng dược phẩm đã sản xuất ra loại thuốc quá đắt đỏ không gợi lên một mô típ thường thấy, đúng không? Bây giờ hắn sẽ trả thù ai? Chủ tịch hội những ông chồng bỏ rơi vợ bệnh con thơ à?
    Mila hiểu sự bực bội của Boris.
    - Tôi xin lỗi. - Anh nói tiếp. - Ngày hôm nay vất vả quá. Dù sao thì cô đã làm rất tốt. Tôi sẽ cho người canh chừng ngôi nhà của bà Walcott, với hi vọng đối tượng của chúng ta xuất đầu lộ diện.
    - Tôi không nghĩ hắn sẽ làm thế. - Mila đáp trong khi quan sát ngôi nhà bên kia đường. - Valin đã để lại cái đồng hồ như một dạng chỉ dẫn cho chúng ta.
    - Liệu cô có chắc chắn bà già đã không lên dây đồng hồ? Đó là một manh mối khá yếu, tôi không biết nó có giúp ích gì cho chúng ta trong việc tìm ra Roger Valin.
    Boris nói không sai, dù Mila nghĩ anh vẫn còn những ẩn ý khác. Tuy nhiên lúc này thật khó mà tranh luận về chúng, xét theo nguy cơ biểu hiện của việc tên giết người ra tay lần nữa.
    - Thôi, mai chúng ta sẽ bàn chuyện này. - Cô nói rồi chào tạm biệt Boris, sau đó lái xe về nhà.
    Vào giờ muộn thế này, Mila chỉ tìm được một chỗ đậu xe cách nhà mình ba khu phố. Khi đêm xuống, nhiệt độ mùa hè của ban ngày được thay thế bằng hơi ẩm tê buốt. Trên người mặc mỗi quần jean và áo thun nên cô vội bước thật nhanh.
    Khu dân cư này được xây dựng từ khoảng một thế kỷ trước, dạo gần đây nó được giới trẻ thừa tiền nhắm vào và các kiến trúc sư nổi tiếng dần dần biến nó thành tâm điểm phong cách mới. Chuyện này diễn ra ngày một thường xuyên hơn. Đô thị là một khối mắc ma liên tục đổi dòng. Chỉ có những tội lỗi của nó là bất biến. Các khu phố được tái cấu trúc, đường sá được đổi tên để các cư dân có thể cảm thấy mình hợp thời và quên đi rằng họ đang sống cùng một cuộc sống của những người đi trước, lặp lại cùng những hành vi và sai lầm.
    Những nạn nhân tiền định của những đao phủ tiền định.
    Có lẽ khi tiến hành vụ thảm sát, Valin đã cố gắng đổi chiều chu trình. Belman là một nhân vật quan trọng, giống như một vị thánh ngoại giáo, ông ta có khả năng chữa bệnh và mang lại sự sống, nhưng lại phân phát nó tùy hứng. Điều Mila không hiểu được là tại sao Valin lại bắt vợ con Belman phải trả giá cho những tội lỗi của ông ta.
    Trên đường trở về nhà, Mila đã dừng lại để mua hai chiếc hamburger trong một cửa hàng bán thức ăn nhanh. Cô ăn một chiếc trên xe, chiếc còn lại để nguyên trong túi giấy. Khi đi ngang qua một cái ngõ, cô để lại nó trên nắp một thùng rác. Sau đó cô trèo lên bậc thềm của một tòa chung cư nhỏ cao bốn tầng. Trong khi đút chìa khoá vào ổ, cô nhìn thấy hai bàn tay bẩn thỉu vươn ra từ trong bóng tối để cầm lấy túi thức ăn quý giá. Người vô gia cư kia rồi cũng sẽ rời khu vực này sớm thôi. Ông ta không còn chỗ trong quanh cảnh mới mẻ được minh họa rất rõ bằng tấm biển quảng cáo cỡ lớn bao phủ mặt tiền toà nhà đang hoàn thiện ở phía đối diện: một bức tranh đánh lừa thị giác vẽ những cư dân tương lai của khu phố.
    Như một nghi thức, Mila ngừng tay để quan sát cặp đôi hạnh phúc đang cười trên tấm biển quảng cáo. Nhưng cô không tài nào ghen tị với họ được.
    Sau khi đã khép cửa căn hộ, Mila lắng nghe trong vài giây trước khi bật đèn. Cô mệt rã rời và tranh thủ sự yên tĩnh trong đầu. Nhưng nó không kéo dài.
    Mày là của hắn. Mày thuộc về hắn. Mày biết mày sẽ thích thứ mày sắp nhìn thấy.
    Đúng vậy. Cô đã lại nhận thấy một cảm giác quen thuộc khi đặt chân đến một hiện trường án mạng và tiếp xúc trực tiếp với những dấu hiệu của cái ác.
    Những người xem qua bản tin thời sự tưởng mình đã biết, nhưng thật ra họ không hiểu việc đứng trước thi thể một nạn nhân đồng nghĩ với điều gì. Nơi các nhân viên cảnh sát luôn diễn ra một thứ gì đó rất kỳ lạ, giống như một quy trình tự nhiên mà tất cả bọn họ đều trải qua. Lúc đầu, họ cảm thấy kinh tởm, sau đó quen dần, và cuối cùng nó trở thành một thói nghiện. Đầu tiên họ liên hệ cái chết với sự sợ hãi - sợ bị giết, sợ giết, sợ thấy người ta bị sát hại. Sau đó, tựa như một gen xấu, nó chèn vào chuỗi ADN, nhân lên và cuối cùng trở thành một phần của họ. Cái chết là thứ duy nhất khiến chúng ta cảm thấy mình đang sống. Đối với Mila, đó là di sản của vụ án "Kẻ nhắc tuồng". Nhưng không phải chỉ có vậy.
    Cuối cùng cô cũng vươn tay đến công tắc điện, và ở đầu kia căn phòng một ngọn đèn bật sáng. Những chồng sách chất đống trong phòng khách, phòng ngủ, phòng tắm, thậm chí trong bếp. Tiểu thuyết, tiểu luận, sách triết và lịch sử. Mới có, cũ có. Mila đã mua chúng ở các hiệu sách hoặc tiệm sách cũ.
    Cô bắt đầu tích cóp sách không lâu sau vụ mất tích của người đồng nghiệp trong Minh Phủ, Eric Vincenti. Cô sợ sẽ có kết cục giống như anh, bị nuốt chửng bởi nỗi ám ảnh dành cho những người mất tích.
    Tôi tìm kiếm họ khắp nơi. Tôi tìm kiếm họ mọi lúc.
    Hoặc là bị nhấn chìm trong chính thứ bóng tối mà cô đang thăm dò. Xét về phương diện nào đó, những cuốn sách là cái neo để giữ Mila ở lại với cuộc sống, vì chúng có kết thúc. Bất luận kết thúc đó có hậu hay không, nó vẫn là một đặc quyền mà những câu chuyện khiến cô bận tâm hàng ngày không phải lúc nào cũng có được. Hơn nữa, những cuốn sách là một thứ thuốc giải tuyệt vời cho sự im lặng, vì chúng lấp đầy tâm trí cô bằng chữ nghĩa, bù đắp cho khoảng trống mà các nạn nhân để lại. Nhưng trên hết, sách là con đường thoát của Mila. Sự biến mất theo cách riêng của cô. Khi chú tâm vào đọc sách, tất cả những thứ khác, kể cả chính bản thân cô, sẽ không còn tồn tại. Trong những cuốn sách, Mila có thể là bất kỳ người nào cô muốn. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc không là ai cả.
    Chỉ có những quyển sách chào đón Mila khi cô trở về nhà.
    Cô tiến lại gần quầy bar nằm ngăn giữa phòng khách và gian bếp nhỏ, rồi đặt bao súng, phù hiệu cùng chiếc đồng hồ thạch anh lên đó. Khi cởi áo thun, Mila nhìn thấy trong cửa kính hình ảnh phản chiếu của một cơ thể gầy gò đầy sẹo. Cô hài lòng vì mình không có các đường cong, chứ nếu không cô sẽ lại bị cám dỗ bởi việc cắt cứa chúng bằng dao lam. Những vết thương mà cô khoác lên người theo năm tháng là chứng nhân cho nỗi đau mà cô không thể cảm thấy đối với nạn nhân của những hành vi sai trái do người khác gây ra. Việc tự cắt xẻo bản thân là cách duy nhất Mila tìm được để tự nhắc nhở mình rằng cô là một con người, sau tất cả mọi chuyện.
    Không bao lâu nữa Mila sẽ có thể kỷ niệm một năm ngày cứa vết sẹo cuối cùng. Mặc dù không thể hứa trước được, nhưng cô đang cố gắng. Đó là một phần trong quá trình cải thiện bản thân của cô. Ba trăm sáu mươi lăm ngày không cắt cứa, thật khó tin. Thế nhưng việc nhìn thấy bản thân mình trong gương vẫn là một lời mời gọi, cơ thể trần truồng khiến cô thèm cắt. Mila bèn quay mặt đi. Trước khi vào trong nhà tắm, cô bật máy tính xách tay đang để trên bàn.
    Cô có một cuộc hẹn.

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 12
    Việc này đã trở thành một nghi thức.
    Quấn mình trong chiếc áo choàng, khăn tắm buộc trên đầu, Mila đem chiếc máy tính vào giường. Cô đặt nó lên đùi, mở một chương trình, rồi tắt đèn và chờ kết nối internet. Ở đâu đó, một chương trình tương tự đáp trả và một cửa sổ đen mở ra trên màn hình. Mila lập tức nhận ra một âm thanh. Nó rất khẽ nhưng liên tục. Nó đến từ trong bóng tối, nhưng không thù địch.
    Tiếng thở.
    Mila lắng nghe nó một lúc, để mình được ru trong nhịp điệu chậm rãi của nó. Sau vài giây, cô ấn vào một cái phím và màn hình đen nhường chỗ cho một hình ảnh.
    Một căn phòng nhỏ chìm trong ánh sáng xanh lục.
    Chiếc máy quay - cùng loại với chiếc mà cô đã lắp ở nhà Conner - do thám trong bóng tối bằng tia hồng ngoại. Nó chỉ đủ mạnh để cho thấy một cái tủ âm tường ở bên phải, một tấm thảm mềm bên trên để đầy đồ chơi nằm giữa phòng, một áp phích các nhân vật hoạt hình, một ngôi nhà búp bê, và ở phía bên trái là một chiếc giường đơn.
    Bên dưới lớp chăn là một cô bé đang ngủ.
    Mila không ghi nhận bất kì sự khác lạ nào, tất cả mọi thứ đều có vẻ yên bình. Cô quan sát thêm một lúc nữa, như thể bị thôi miên bởi sự yên bình của cảnh tượng đó. Bất giác cô nhớ đến một cô bé khác, con ma nhỏ bị nhốt dưới hầm mà mình vừa giải thoát vài giờ trước. Nếu tập trung, cô vẫn có thể cảm nhận trọng lượng của con bé trên tay mình. Mila không cảm thấy thương cảm hay âu yếm chút nào. Không có gì ngoài một trí nhớ xúc giác, một chút buồn bã vì mình không có được sự thấu cảm. Nhưng dù sao thì, cuộc gặp gỡ với bà Conner đã để lại dấu ấn trong cô theo một cách nhất định.
    Tôi là mẹ kiểu gì, nếu không biết tên con búp bê ưa thích nhất của con gái mình?
    Có điều gì đó diễn ra trong căn phòng nhỏ. Ánh sáng lọt vào qua cánh cửa mở ra hành lang và nhanh chóng bị một bóng người che khuất. Cái bóng ngắn đi khi người kia bước vào phòng. Đó là một phụ nữ, mặc dù Mila không nhìn thấy được khuôn mặt. Người phụ nữ đi đến dém chăn cho con bé, rồi nhìn nó ngủ.
    Vậy còn bà, bà có biết tên con búp bê ưa thích nhất của con bé không? Mila thầm hỏi người phụ nữ trên màn hình.
    Bỗng nhiên Mila cảm thấy như một vị khách không mời. Cứ để nguyên kết nối, cô mở một tập tin trên máy tính. Hồ sơ của Roger Valin xuất hiện, che khuất cửa sổ đang truyền đoạn phim trực tiếp. Cô muốn đọc lại hồ sơ trước khi đi ngủ. Còn một điểm cơ bản cần được giải quyết.
    Cuộc gọi bí ẩn đến hiệu giặt tự động.
    Mila không hiểu tại sao hung thủ lại cần phải gọi điện cho ai đó. Nếu đặt nghi vấn về một kẻ đồng lõa thì tại sao tên này không nhấc máy?
    Có điều gì đó không ăn khớp ở đây. Chắc chắn phải có một sự giải thích. Động thái này của hung thủ, cũng như việc hắn mặc cùng bộ trang phục như trong tấm ảnh chụp mười bảy năm trước khiến cô không tài nào hiểu được.
    Comlê xám nhạt, sơmi kẻ sọc nhuyễn, cà vạt xanh lá cây.
    Sau vụ thảm sát, tên sát nhân đã ngồi ăn sáng với con trai của Belman và đã tranh thủ lúc đó để tiết lộ danh tính của mình. Thậm chí hắn còn cất công bảo Jes viết tên hắn ra giấy, để cậu bé không nhầm lẫn khi khai báo với cảnh sát. Hơn hết, hắn muốn Jes nghi nhận khuôn mặt và bộ trang phục của mình.
    Sự giống nhau của bộ trang phục đã khiến Gurevich mỉa mai rằng hung thủ từng trải qua mười bảy năm trong tay người ngoài hành tinh. Sau chuyến viếng thăm nhà bà Walcott và khám phá ra những chiếc đồng hồ, Mila lại thấy Valin giống một nhà du hành thời gian có thể nhảy qua một lỗ đen nối liền hai thời điểm. Dù cả hai giả thuyết đều phi lý, chúng cho thấy cách tiếp cận vụ án khác nhau của họ.
    Gurevich đến từ đội điều tra hình sự, anh ta đã quen tập trung vào hiện tại, vào những thứ "ở đây, bây giờ", theo một tiêu chí đi từ nguyên nhân đến kết quả. Ngược lại, tại Minh Phủ, người ta nghiên cứu nhiều hơn về quá khứ.
    Chính Eric Vincenti đã giải thích cho Mila về sự khác biệt này. Cô còn nhớ cuộc nói chuyện với anh chàng đồng nghiệp trước khi anh nối gót những người mất tích mà họ đi tìm.
    "Án mạng có tính chất thời điểm. Ngược lại trong một vụ mất tích thì bản thân sự biến mất là không đủ, phải có một khoảng thời gian trôi qua. Không chỉ là ba mươi sáu tiếng đồng hồ theo luật định trước khi bắt đầu tìm kiếm, mà nhiều hơn thế. Sự biến mất được cụ thể hóa khi những gì người mất tích để lại bắt đầu hư hại: công ty điện lực cắt điện, cây xanh trồng ngoài ban công chết héo vì không ai tưới nước, quần áo trong tủ trở thành lỗi mốt. Chúng ta phải đi tìm nguyên nhân của tất cả sự tàn tạ này bằng cách lần ngược về quá khứ". Eric có hơi phóng đại một chút, nhưng Mila biết về cơ bản anh có lý.
    Người ta bắt đầu biến mất từ lâu trước khi biến mất thật sự.
    Những vụ bắt cóc có khởi điểm là lúc kẻ bắt cóc lần đầu tiên để ý nạn nhân và thâm nhập cuộc sống của nạn nhân như một cái bóng vô hình, lén lút quan sát họ từ xa. Trong những trường hợp tự nguyện ra đi, nó bắt đầu vào hôm mà người mất tích tương lai lần đầu tiên cảm thấy một cảm giác bứt rứt mà họ không giải thích được. Cảm giác đó tăng dần như một khao khát chưa được thỏa mãn, một vết thương ngứa ngáy. Người ta biết việc chiều theo thôi thúc này chỉ làm tình hình tồi tệ thêm, nhưng không thể tự kìm lại được. Cách duy nhất để dập tắt thôi thúc đó là đáp lại nó, và theo nó vào trong bóng tối. Hẳn đó là điều đã xảy ra với Roger Valin, cũng như anh chàng Eric Vinceti tội nghiệp.
    Nguyên nhân của một vụ mất tích nằm trong quá khứ, Mila tự nhủ.
    Cô tập trung trở lại vào Roger Valin. Không một lá thư hay lời nhắn nào giải thích cho hành động của mình. Một kẻ giết người tập thể hành động bằng sự thù hận, oán giận hoặc báo thù. Một kẻ giết người tập thể bộc lộ bản thân thông qua các hành vi phạm tội mà không bận tâm người ta có hiểu mình hay không, Mila tự nhắc mình.
    Vậy nếu như bộ trang phục, cú điện thoại đến hiệu giặt và chiếc đồng hồ chạy đúng giờ ở nhà bà Walcott thuộc về cùng một thông điệp?
    Câu trả lời sẽ là "thời gian".
    Valin muốn người ta chú ý vào thời điểm hắn mất tích.
    Mila mở một trang tìm kiếm trên máy tính. Qua việc mặc cùng một bộ trang phục, Valin cho chúng ta biết cần phải tư duy như thể đang ở mười bảy năm về trước, cô tự nhủ. Khi gọi cho hiệu giặt, hắn đã không nhầm số.
    Đối với hắn, đó là số điện thoại chính xác.
    Mila tìm thấy trang web của công ty điện thoại. Ở đó có một mục dành cho việc tra cứu danh bạ cũ. Cô nhập số điện thoại của hiệu giặt để truy tìm tên và địa chỉ thuê bao tương ứng vào thời điểm Valin mất tích, sau đó bấm nút "Tìm kiếm".
    Trên màn hình xuất hiện một biểu tượng chờ hình đồng hồ cát nhỏ xíu. Mila nhìn nó chăm chú, răng cắn môi dưới vì nôn nóng. Câu trả lời nhanh chóng xuất hiện. Cô đã không nhầm: số điện thoại này có hoạt động mười bảy năm về trước.
    Nó thuộc về Thánh đường Tình yêu, nằm trên đường quốc lộ dẫn ra hồ.
    Mila tìm tiếp số nhà hiện tại, nhưng hóa ra Thánh đường Tình yêu đã ngưng hoạt động từ nhiều năm. Cô ngẫm nghĩ giây lát. Phải làm gì đây? Báo Boris ngay, hay đợi đến mai? Manh mối này rõ ràng rất mong manh, rất có thể nó chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên.
    Mila quan sát một lần cuối cửa sổ ghi hình bé gái đang ngủ yên bình. Cô không do thám mà bảo vệ con bé. Cô lại nhớ đến chuyện đã xảy ra với gia đình Conner. Mình là người đã đột nhập nhà người ta để lắp camera quay lén. Chính nhờ hành động hấp tấp đó mà sáng nay, một con ma nhỏ bé đã được giải thoát khỏi nơi giam cầm.
    Mila biết mình không thể chờ đợi.
    Cô tắt máy tính, rồi đứng dậy mặc quần áo.

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 13
    Vầng trăng sáng lấp lánh trên nền trời trong.
    Con đường ven hồ vắng lặng, không phải chỉ vì đang là ban đêm. Ban ngày nó cũng như vậy. Ngày xưa nơi này từng là một khu nghỉ mát, người ta có thể tìm thấy ở đây các khách sạn, nhà hàng và một bãi tắm. Khoảng một chục năm về trước, vào độ xuân, cá và các động vật trong hồ bỗng chết một cách không giải thích được. Nhà chức trách không thể xác định nguyên nhân, nhưng một số người quy trách nhiệm cho ô nhiễm nước. Sự hoảng hốt lan rộng nơi những khách du lịch và họ rời bỏ nơi này. Không lâu sau đó, vấn đề đã được giải quyết: quần thể động vật được tái tạo, hệ sinh thái được cân bằng trở lại. Tuy nhiên tiếng xấu đã loang xa, khách du lịch không quay lại nữa. Những cơ sở hạ tầng từng tiếp đón họ trong nhiều thế hệ đành phải đóng cửa và xuống cấp dần vì không được tu bổ, kéo theo sự suy sụp không tránh khỏi của cả một khu vực.
    Thánh đường Tình yêu chắc hẳn cũng chịu chung số phận.
    Đó là một trong những nơi mà người ta đến để làm đám cưới. Nó cung cấp dịch vụ cưới ngoại đạo cho những cặp đôi không có tôn giáo nhưng lại muốn có điều gì đó nhiều hơn một buổi lễ ở tòa thị chính.
    Khi vượt qua một gờ giảm tốc, Mila nhìn thấy qua kính chắn gió của chiếc Hyundai một kết cấu vòm vừa là bảng hiệu. Ở chính giữa là hai trái tim bằng bóng đèn huỳnh quang có kích thước khác nhau, nay đã tắt. Bên trên chúng là một tượng thần tình yêu bằng sắt tây với khuôn mặt biến dạng một phần do rỉ sét. Nét mặt của pho tượng do vậy cũng thay đổi và giống với một thiên thần sa ngã đang canh giữ cho một thiên đường xảo trá.
    Toà nhà chính nằm ở phía bên kia của bãi đậu xe. Đó là một loạt các kiến trúc thấp vây quanh thứ giống như một nhà thờ hậu hiện đại. Ánh trăng bảo vệ chúng khỏi bóng tối, nhưng đồng thời cũng lạnh lùng phơi bày tình trạng tàn tạ của tất cả.
    Mila dừng xe cạnh một ngôi nhà nhỏ từng được dùng như nơi tiếp tân. Cô tắt máy rồi bước xuống. Tiếp đón cô là một sự im lặng hoang vắng và lạnh nhạt của một thế giới đã học được cách tồn tại mà không cần đến con người.
    Thánh đường Tình yêu nằm trên một ngọn đồi quay ra hồ. Nó không có tầm nhìn bao quát nhất, nhưng đứng từ đây vẫn có thể trông thấy các khách sạn bỏ hoang mọc lên ở nhiều nơi bên bờ hồ.
    Mila bước lên bậc tam cấp và nhận ra lối vào khu lễ tân đã bị chặn lại bằng ván gỗ, không thể mở được. Bên cạnh cổng là một cửa sổ bị bít kín bởi những miếng ván có kích thước khác nhau, nhưng người đứng ngoài có thể nhòm vào bên trong qua các khe hở. Cô lấy đèn pin trong túi áo khoác ra rồi tiến đến gần và chiếu đèn vào bên trong.
    Một khuôn mặt cười bắt quả tang cô đang nhìn trộm.
    Mila lùi lại một bước. Khi đã định thần, cô nhận ra đó là một thần tình yêu giống trên cổng vào. Trong một thoáng cô đã tưởng ngài dời chỗ để dọa mình, nhưng hóa ra đó chỉ là một hình cắt bằng bìa cứng.
    Cô lại tiến đến gần và trông thấy ở bên kia lớp kính phản chiếu khuôn mặt mình có một cái quầy bụi bặm, một kệ đựng những tờ rơi quảng cáo phần lớn đang nằm vương vãi trên sàn. Trên một bức tường dán tấm áp phích thể hiện những cảnh trí khác nhau để các cặp đôi lựa chọn làm phông nền cho hôn lễ trong mơ của mình. Thánh đường có thể được trang trí theo nhiều cách, mang những cái tên đầy chất hương xa. Người ta tha hồ lựa chọn Venice, Paris, bối cảnh trong phim Cuốn theo chiều gió hoặc Chiến tranh giữa các vì sao. Phía dưới cùng của tấm áp phích có để giá thành của các buổi lễ, tất cả đều kèm một chai sâm panh nhỏ miễn phí.
    Một cơn gió thổi qua lưng Mila. Cô rùng mình quay lại. Cơn gió đi tiếp đến lối vào thánh đường khiến một cánh cửa kêu cọt kẹt.
    Dường như ai đó đã để ngỏ cửa.
    Ánh trăng đủ sáng để soi đường nên Mila tắt đèn pin. Cô tiến tới quảng trường nằm giữa các tòa nhà. Những bước chân cô kêu lạo xạo trên lớp nhựa đường đã vỡ vụn sau nhiều mùa đông dài. Cơn gió hắc ám bám theo cô, quấn quanh đôi chân cô. Trong lúc bước đi, Mila rút súng ra. Những ngôi nhà thấp xung quanh cô nom như tàn tích của một thảm họa hạt nhân. Các cửa ra vào và cửa sổ tựa như những cái miệng mở vào những hang hốc tối tăm, canh giữ trạng thái âm u của những thế giới bí ẩn, hoặc đơn giản là sự trống rỗng hãi hùng. Mila di chuyển tới trước, bỏ chúng lại phía sau. Từ bên trong, bóng tối dõi theo cô bằng những con mắt đen hù của nó.
    Lẽ ra cô nên gọi cho một người, Boris. Mình đang hành động như nhân vật chính của một bộ phim kinh dị chỉ chực chờ bị kết liễu. Nhưng cô biết tại sao. Đó là trò mới của một thử thách thường trực. Con quái vật giả vờ ngủ yên trong Mila đang bảo cô bước tới. Cũng chính nó đã điều khiển bàn tay cô mỗi lần dùng dao cứa vào da thịt mình. Mila đã nuôi dưỡng nó bằng sự đau đớn và sợ hãi của bản thân, với hi vọng làm dịu đi cơn đói của nó. Nếu không, cô không biết nó có thể làm những gì. Hoặc bắt cô làm gì.
    Đến trước lối vào thánh đường, Mila dừng lại trong một giây rồi bước lên các bậc thềm. Khi chồm người nhìn vào bên trong, cô cảm thấy hơi thở của bóng tối trên khuôn mặt mình. Cô đã nhận ra thứ mùi đặc trưng. Đó là một khía cạnh tích cực của cái chết: nó không thể giấu được mình, thông điệp mà nó gửi cho người sống luôn rõ ràng. Rồi cô nghe thấy tiếng động. Nhẹ như những lời thì thầm, gấp gáp như một guồng máy.
    Mila chĩa đèn pin vào bên trong. Một đám sinh vật lúc nhúc tức thì tản ra. Một số trong chúng không buồn để ý mà tiếp tục nán lại để làm nốt công việc của mình.
    Trung tâm của cảnh tượng gợi nhắc tới thời Trung cổ ấy là một tấm nệm bẩn thỉu, bên trên có một người nằm bất động, bị trói bởi những sợi dây đai.
    Mila bắn chỉ thiên một phát. Tiếng súng vang rền trong không gian, vẳng ra ngoài hồ, khiến đám chuột lập tức dạt ra xa. Một con còn do dự, nó trân trối nhìn cô trong vài giây, đôi mắt đầy căm hận vì kẻ đã phá ngang bữa ăn của mình. Thế rồi nó cũng lỉnh đi mất.
    Cô quan sát cái xác. Đó là một người đàn ông ở độ tuổi chưa thể xác định. Ông ta mặc một chiếc áo thun và quần đùi màu xanh.
    Đầu ông ta bị bọc trong một cái túi nhựa dán băng keo.
    Mila lùi lại một bước, hạ đèn pin xuống để tìm chiếc điện thoại trong túi. Nhưng một đốm sáng vẫn nán lại trên tấm nệm. Ánh trăng từ phía sau lưng cô đã làm sáng lấp lánh thứ gì đó trên bàn tay của người chết. Cô tiến lại gần để nhìn kĩ hơn.
    Nơi ngón tay áp út đã bị chuột gặm trơ xương của bàn tay trái là một chiếc nhẫn cưới.

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 14
    Toàn khu vực giờ đây đã bị cấm lai vãng.
    Đường đi vào đã bị chặn, và để làm nản lòng những vị khách du lịch tiềm năng, người ta đã lắp một tấm biển phản quang cảnh báo đất lở trên đường. Hiện tại các nhân viên cảnh sát là những người duy nhất xuất hiện ở nơi hoang vắng này.
    Trong khi chờ đồng nghiệp đến, Mila ngồi xuống bậc thềm của thánh đường. Cô nhận thấy ánh bình minh đã vượt qua đường chân trời để tràn vào thung lũng. Mặt nước hồ chuyển sang màu đỏ rực và càng nổi bật hơn bởi những chiếc lá đầu thu.
    Ánh sáng ban ngày yếu ớt đã phơi bày toàn bộ sự kinh hoàng của khung cảnh sau lưng cô, nhưng Mila điềm tĩnh lạ lùng. Kiệt sức vì mệt mỏi và sợ hãi, cô không cảm thấy gì hết. Cô ngồi yên lắng nghe tiếng còi hụ đến gần, sau đó những ánh đèn chớp xuất hiện từ xa và chạy về phía cô, tựa như một đội quân giải phóng.
    Khi hiện trường đã được chiếu sáng bằng những ngọn đèn halogen, kinh hoàng nhường chỗ cho sự lạnh lùng của công việc phân tích.
    Đội khoa học hình sự đã khoanh vùng, thu nhập các hiện vật, chụp ảnh và cố định mọi bằng chứng có thể. Trong màn vũ đạo thường thấy xung quanh một tử thi, đây là lúc bác sĩ pháp y biểu diễn solo cùng đội khai quật.
    - Mọi thứ tưởng vậy mà không phải vậy. - Chang lên tiếng trong lúc cúi xuống nạn nhân.
    Trong khi các cảnh sát viên đi tới đi lui ở phía ngoài, ở bên trong nhà thờ ngoài các chuyên gia chỉ có Mila và Gurevich.
    - Anh có thể nói cụ thể hơn được không? - Tay thanh tra hỏi lại.
    Một lần nữa, Chang nhìn thi thể đang nằm giữa tấm nệm bẩn thỉu, trên người không mặc gì ngoài bộ đồ lót và chiếc túi nhựa bọc kín đầu.
    - Thật tình là không.
    Câu trả lời của Chang thể hiện rõ sự nể sợ đối với thanh tra. Nó khiến Gurevich bực mình.
    - Chúng ta phải biết thật nhanh thời điểm tử vong.
    Vấn đề là lũ chuột đã làm hỏng tình trạng của tử thi, đặc biệt là phần tay và chân, nơi có thịt gần như đã bị gặm sạch. Nách và bẹn là chỗ có những tổn thương sâu nhất. Sự phá hoại này gây cản trở cho việc truy ngược lại thời điểm nạn nhân bị giết thông qua quan sát bên ngoài, do đó việc quy kết vụ án mạng cho Roger Valin càng khó khăn hơn.
    Tuy nhiên, Mila nhận thấy nếu đây thực sự là tác phẩm của Roger Valin thì nó thể hiện một sự thay đổi triệt để về phương thức gây án. Thật khó mà hiểu được làm thế nào hắn chuyển từ việc sử dụng súng trường bán tự động Bushmaster 5,56 ly, vốn không cần đến bất cứ sự tiếp xúc cơ thể nào với nạn nhân, sang thứ mà mọi người đang thấy trước mắt. Đó chính là điều khiến họ lo ngại.
    Boris cũng vừa đến nơi. Anh đứng vào trong một góc và lắng nghe.
    - Để xây dựng một giả thuyết chấp nhận được và xác định xem nạn nhân đã ở đây từ bao lâu, ta cần phải khám nghiệm tử thi. - Bác sĩ pháp y Chang vẫn đang giải thích loanh quanh.
    Điều này khiến Gurevich càng bực bội hơn.
    - Tôi chưa yêu cầu anh làm báo cáo, tôi chỉ cần anh nêu ý kiến thôi. - Tay thanh tra ra lệnh.
    Chang ngẫm nghĩ một chút, như thể đã có câu trả lời nhưng lại sợ nói ra và mắc một sai lầm có thể khiến mình bị khiển trách sau này.
    - Tôi nghĩ nạn nhân đã chết được ít nhất hai mươi bốn tiếng.
    Câu trả lời dẫn đến hai điều. Điều thứ nhất, ít quan trọng, đó là cho dù có ai giải mã số điện thoại bí ẩn sớm hơn, thì người đàn ông bị bịt đầu bằng túi nhựa kia cũng không thể được cứu sống. Còn điều thứ hai, quan trọng hơn, chính là việc thủ phạm không phải Roger Valin.
    Đương nhiên khả năng này không làm Gurevich hào hứng.
    - Một tên sát nhân khác. Một thủ phạm thứ hai. - Anh ta lắc đầu, nghĩ đến những hệ quả của phát hiện này. - Thôi, hãy xem người chết là ai cái đã.
    Rốt cuộc họ cũng có thể khám phá gương mặt của nạn nhân. Mila hi vọng nó sẽ góp phần giải quyết bí ẩn mới mẻ này.
    - Tôi sẽ gỡ cái túi khỏi đầu tử thi. - Chang thông báo.
    Anh thay đôi găng tay cao su khác và đeo một chiếc đèn LED lên trán. Sau đó anh cầm con dao mổ tiến lại gần xác chết.
    Dùng hai ngón tay, Chang vén một mép của tấm vải liệm khác thường đang dính vào lớp da, trong khi tay kia thực hiện thao tác rạch chuẩn xác vào cái túi nhựa, bắt đầu từ phần xương đỉnh.
    Trong lúc tất cả mọi người có mặt đều tập trung vào thao tác của bác sĩ pháp y và sốt ruột chờ câu trả lời, Mila vẫn tiếp tục nhìn chiếc nhẫn đeo ở ngón áp út trái của nạn nhân. Cô nghĩ đến người đàn bà có thể vẫn còn chưa biết mình đã trở thành góa phụ.
    Chang hoàn tất đường rạch ở phía dưới cổ nạn nhân. Anh đặt dao xuống trước khi nhẹ nhàng gỡ phần túi nhựa vừa cắt.
    Khuôn mặt của người đàn ông được phơi bày.
    - Mẹ kiếp. - Gurevich buộc miệng chửi. Anh ta đã nhận ra kẻ xấu số.
    - Đây là Randy Philips. - Boris xác nhận. - Trang ba. - Anh vừa nói thêm vừa rút tờ bản tin sáng trong túi ra.
    Anh mở tờ báo ngay chỗ có hình chụp một người đàn ông trang nhã với nụ cười ngạo mạn. Không còn nghi ngờ gì nữa, nhưng Gurevich vẫn đối chiếu gương mặt trong ảnh với tử thi, rồi đọc tít báo:
    - "Philips lỡ hẹn"..."Thẩm phán kết án bị cáo vì luật sư của bên bị không xuất hiện tại toà".
    Trong khi Chang hoàn tất khám nghiệm phần đầu của cái xác, Boris nói với cả đội:
    - Randall "Randy" Philips, ba mươi sáu tuổi, chuyên phụ trách các vụ bạo hành hôn nhân. Đa phần anh ta bảo vệ cho những gã đàn ông vũ phu. Chiến lược của anh ta là bới móc ra những thứ tồi tệ nhất nơi các bà vợ hoặc các cô bạn gái. Khi tìm không thấy, anh ta sẽ sáng chế ra. Anh ta rất sành sỏi nghệ thuật bôi tro trát trấu các cô nàng bất hạnh và hạ nhục họ bằng những thứ vớ vẩn nhất. Anh ta thật đáng kinh ngạc: ngay cả khi nữ nạn nhân đáng thương đến tòa với hàng loạt vết bầm dập trên người, một con mắt thâm tím hoặc phải ngồi xe lăn, Philips vẫn thuyết phục được bồi thẩm đoàn rằng cô ta đáng bị như vậy.
    Mila nhận ra những cái nhìn trêu chọc mà các cấp dưới của Chang trao đổi với nhau. Sự thông cảm đầy thô thiển và tầm thường của cánh đàn ông ấy khiến cô nhớ đến những lần xuất hiện trên truyền hình của Randy Philips. Khẩu hiệu của tay luật sư là: "Phán xét một phụ nữ luôn dễ dàng... Ngay cả khi người phán xét là những phụ nữ khác". Anh ta giành được sự miễn tố cho các thân chủ của mình trong đa số các vụ kiện, những trường hợp còn lại thì hình phạt được giảm nhẹ đến mức tối thiểu. Anh ta đã được người ta gọi bằng biệt danh "nỗi kinh hoàng của các bà vợ", hoặc theo một cách ít trìu mến hơn là "Randy thối tha".
    - Có lẽ chúng ta đã có thể tái hiện tiến trình của các sự kiện. - Chang tuyên bố sau khi hoàn thành bản khám nghiệm sơ lược. - Đầu tiên anh ta bị gây choáng bằng kìm chích điện, súng điện hoặc gậy chích điện dành cho gia súc. - Chang vừa giải thích vừa chỉ vào một vết bỏng do bị gí điện chớp nhoáng nơi cổ họng nạn nhân. - Sau đó, người ta đã trùm một cái túi nhựa vào đầu nạn nhân. Sự nhiễm toan hô hấp nhanh chóng dẫn tới cái chết.
    Câu nói cuối cùng của Chang khiến mọi người im lặng.
    - Randy Philips đã kết hôn chưa vậy?
    Bị bất ngờ với câu hỏi, họ quay về nhìn phía Mila. Gurevich nhìn cô với vẻ hoài nghi.
    - Có thể tôi nhầm, nhưng hình như là chưa. - Boris đáp.
    Mila chỉ vào bàn tay trái của thi thể, nơi cô đã nhận ra chiếc nhẫn nhờ tia phản chiếu của ánh trăng vào thời điểm phát hiện thi thể.
    Không ai nói tiếng nào.
    Một kiểu ân đền oán trả.
    - Randy buộc phải chấp nhận cái chết của mình trong Thánh đường Tình yêu, ai mà tin nổi kia chứ! - Chang mỉa mai, đủ nhỏ để Gurevich không nghe thấy. - Tựa như bị mắc kẹt trong một cuộc hôn nhân mà anh ta không thể thoát ra.
    Cũng giống như những người đàn bà mắc bẫy trong một giấc mơ tình ái nhuốm màu ác mộng, Mila thầm nghĩ. Họ không thể yêu cầu ly dị vì không có thu nhập và việc làm, họ buộc phải chịu đựng sự ngược đãi vì nỗi sợ bị đánh không lớn bằng nỗi sợ bị mất tất cả. Một số đã có đủ dũng khí để tố giác, nhưng rồi chứng kiến tên đao phủ của đời mình tự do rời phòng xử án, nhờ tài bào chữa của Randy.
    - Cần phải xem xét liệu thủ phạm có ra tay một mình hay không. - Gurevich nói trong khi Krepp và đội của mình tiếp quản khu vực, hoàn tất công việc đã bị gián đoạn trước đó để nhường chỗ cho bác sĩ pháp y.
    - Thủ phạm chỉ có một. - Chuyên gia khoa học hình sự nói với giọng ngang tàng thường lệ, xua tan mọi giả thuyết khác.
    - Anh chắc chứ? - Boris hỏi lại.
    - Khi đến đây và phong toả hiện trường, tôi đã yêu cầu người của mình kiểm tra các dấu vết trên mặt sàn của thánh đường. Lớp bụi dày tích tụ qua nhiều năm tháng giúp ích cho chúng tôi rất nhiều. Ngoài các dấu giày của cảnh sát Vasquez, những dấu vết còn lại thuộc về nạn nhân và một người đi giày cỡ ba mươi tám.
    - Nói tiếp đi. - Gurevich khích lệ Krepp.
    - Trên quảng trường phía trước nhà thờ, chúng tôi không tìm thấy vết bánh xe. Như vậy ta sẽ phải tìm hiểu xem Philips và hung thủ đến đây bằng cách nào. Tôi nghĩ ta nên phái thợ lặn mò tìm dưới hồ.
    Nguyên nhân duy nhất khiến thủ phạm muốn phi tang chiếc xe hơi của Randy Philips là để tránh phá hỏng nỗi kinh ngạc khi người ta phát hiện ra xác chết, Mila nghĩ thầm. Một sự dàn dựng hoàn hảo.
    - Có lẽ ta phải xem xét cái nhẫn kỹ hơn. - Krepp chỉ vào chiếc nhẫn.
    - Nếu có dấu tay trên đó thì anh tìm ngay đi. - Gurevich ra lệnh.
    Krepp làu bàu gì đó không rõ trước khi quỳ gối và nhấc cánh tay đã bị gặm trơ xương của thi thể, với một điệu bộ khá là trịnh trọng. Ông rút chiếc nhẫn ra và mang nó tới chiếc xe du lịch nhỏ của đội khoa học hình sự đang đậu ở phía ngoài.
    Trên quảng trường nằm giữa các tòa nhà, một cảnh sát viên đem cà phê tới cho Gurevich và Boris. Anh ta không bận tâm đến Mila. Cô đứng cách xa hai người nhưng vẫn căng tai nghe ngóng.
    - Chưa ai báo cảnh sát về việc Randy mất tích.
    - Nếu anh ta sống một mình thì không có gì bất ngờ. Chắc chắn anh ta đã từng không đến văn phòng hoặc không thông báo cho thư ký về lịch trình đi lại của mình. Anh ta là một người giao du nhiều và có kha khá bí mật. Tuy nhiên, - Boris trầm ngâm, - nếu loại trừ Roger Valin - tôi không nghĩ hắn có động cơ - vậy thì ai là kẻ giết người?
    Mila có cảm giác vụ việc này là một phần của một ý đồ phức tạp hơn. Nhưng cho dù rất muốn tham gia vào cuộc nói chuyện, cô vẫn không tiến lại gần.
    - Cô nghĩ sao, Vasquez? - Rốt cuộc Gurevich lên tiếng hỏi Mila. - Ai đã bắt cóc tay luật sư và đưa anh ta đến đây để sát hại? Cô lí giải chuyện đó như thế nào?
    Mila tiến vài bước về phía họ.
    - Tôi không nghĩ thủ phạm đã bắt cóc luật sư Philips. Như thế quá liều lĩnh và phức tạp. Tôi nghĩ hắn đã dùng mưu mẹo để dẫn dụ anh ta tới đây. Sau khi chích điện gây choáng, hắn trói nạn nhân và làm phần việc còn lại.
    - Luật sư Philips không phải là thằng ngu. Tại sao anh ta lại đến cái nơi khỉ ho cò gáy này?
    Câu hỏi của Gurevich không nhằm phản bác nhận định của Mila, mà để đẩy suy luận của cô đi xa hơn.
    - Tôi nghĩ đến nhiều giả thuyết có thể đã khiến tay luật sư chấp nhận đến đây: thủ phạm có, hoặc giả vờ có một thứ gì đó mà anh ta muốn. Những thông tin bất lợi cho vợ hoặc nhân tình của một thân chủ chẳng hạn. Hoặc cũng có thể hai người đã biết nhau từ trước nên nạn nhân không có lí do gì phải e ngại.
    - Cảnh sát Vasquez, cô cứ nói hết đi, đừng ngại. - Gurevich thúc giục khi nhận thấy Mila đang đoán chắc một điều gì đó mà chưa muốn nói ra.
    - Theo tôi, hung thủ là một phụ nữ.
    Boris nhướng mày trước phán đoán của Mila và hỏi lại:
    - Vì sao?
    - Philips đặt mình cao hơn người khác, anh ta tin mình có thể kiểm soát tình hình. Anh ta quá tự tin. Hơn nữa, phải là một phụ nữ mới có thể có lí do để trả thù tay luật sư.
    - Cô nghĩ đến một vụ trả thù à? Cũng giống như trường hợp của Valin sao? - Boris hỏi.
    - Tôi không nghĩ gì hết, vẫn còn quá sớm. Nhưng với vẻ không hề có sự phòng bị của Philips và kích thước chiếc nhẫn anh ta đeo, vốn thích hợp hơn cho một phụ nữ, khiến tôi nghiêng về sự lí giải đó.
    - Tôi đã tìm thấy một thứ. - Krepp lên tiếng từ ngoài xe, ngắt lời bọn họ.
    Ông ta đang ngồi bên bàn đặt thiết bị và quan sát chiếc nhẫn bằng kính hiển vi.
    - Không có dấu tay nào. - Krepp thông báo. - Nhưng chữ khắc trên này khá thú vị đấy.
    Ông thò tay bật một màn hình nối với kính hiển vi, và dòng chữ khắc trên chiếc nhẫn hiện lên: "22 tháng 9".
    - Đó là ngày cưới, tôi đoán vậy.
    - Đó là ngày hôm nay! - Boris thốt lên.
    - Phải, nhưng dòng chữ đã được khắc từ nhiều năm trước. - Krepp nói thêm. - Nó đã bị bao phủ bởi một lớp gỉ mờ.
    - Mừng kỷ niệm ngày cưới. - Gurevich bình phẩm.
    - Còn một điều nữa. - Krepp xoay chiếc nhẫn dưới kính hiển vi, để lộ một dòng chữ khác được thêm vào sau này. Kiểu chữ rất khác với dòng chữ kia. Nó thô mộc hơn, và chắc chắn không thể là tác phẩm của một thợ kim hoàn. Trông các rãnh gần giống như vết cạo, bề mặt kim loại sáng hơn. - Nó mới được làm gần đây. - Krepp khẳng định.
    h21.
    Gurevich nhìn Boris một cách lo lắng.
    - Ngày 22 tháng 9, 21 giờ. Rõ ràng là ngoài hai hung thủ cần phải truy lùng, giờ đây chúng ta còn có một hạn định.

  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 15
    Không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra vào lúc 21 giờ.
    Trong khi chờ đợi, họ đã xác định được Randy Philips đến Thánh đường Tình yêu trên chiếc Mercedes của mình. Chiếc xe đã được tìm thấy dưới đáy hồ, đúng như dự đoán của Krepp. Như vậy hung thủ có phương tiện riêng và đã dùng nó để ra đi sau khi gây án.
    Sau khi khả năng bắt cóc đã bị loại trừ, cần phải tìm hiểu xem làm thế nào tay luật sư lại rơi vào bẫy và đến cái nơi bị bỏ hoang này. Trực giác của Mila về sự liên đới của một phụ nữ là có cơ sở.
    Một nhóm cảnh sát đã khám xét kỹ lưỡng văn phòng làm việc của luật sư Randy Philips để tìm một vụ kiện hôn nhân có ngày cưới trùng với ngày ghi trên nhẫn.
    Ngày 22 tháng 9 đã trở thành một cột mốc duy nhất giữa vô vàn những điểm mà họ còn mơ hồ.
    Đầu tiên là sự liên hệ giữa vụ thảm sát tại ngôi biệt thự và vụ giết người trong nhà thờ giả. Liên hệ này được phát hiện nhờ vào trực giác của Mila về số điện thoại mà Roger Valin đã gọi. Có vẻ như các nạn nhân không quen biết nhau, do đó có thể mối liên quan nằm ở các thủ phạm.
    Trong những năm tháng mất tích, Roger Valin đã gặp một người - một phụ nữ chăng? - và cả hai đã cùng nhau vạch ra một kế hoạch.
    Đó là sự lí giải duy nhất mà Mila có thể nghĩ đến trong khi đi lang thang khắp các hành lang của trụ sở cảnh sát. Tuy thế, những gì đã diễn ra giờ không còn là việc quan trọng hàng đầu nữa. Những gì có thể xảy đến mới là thứ cần quan tâm.
    Điều cấp bách giờ đây chính là thời hạn mà họ đã nhận được.
    Nhiều giờ trôi qua, các biện pháp đã được nghĩ ra để phòng ngừa hoặc ngăn cản một tội ác mới. Nhiều cảnh sát được huy động, các phiên gác được tăng cường. Phải làm cho thủ phạm nghĩ rằng thành phố đã được canh phòng, do đó họ đặt các chốt chặn và tăng số lượng xe tuần tra. Họ yêu cầu những nguồn tin thường lệ căng tai nghe ngóng và mở mắt quan sát. Sự hiện diện đông đảo của lực lượng cảnh sát trong thành phố buộc vài cái tên cộm cán trong giới tội phạm có tổ chức phải hợp tác, ít nhất là để chấm dứt nhanh chóng việc canh gác các tuyến đường, điều vốn không có lợi cho các hoạt động của bọn chúng.
    Để không gây ra sự nghi ngờ nơi giới truyền thông, một thông cáo đã được phát đi để tuyên bố một chiến dịch truy quét trộm cướp đang diễn ra. Báo giấy, truyền hình và internet lập tức xúm vào chỉ trích người phát ngôn vô dụng thứ không biết bao nhiêu của sở cảnh sát, vì tội phung phí tiền nộp thuế của dân.
    Trong khi chờ đợi, tại trụ sở chính, các cuộc họp nối tiếp nhau để vạch ra một chiến lược. Các cuộc họp ở cấp cao nhất được chủ trì bởi Thẩm phán. Đối với những cuộc họp còn lại, cấp bậc tham dự thấp dần xuống. Mặc cho những đóng góp của Mila cho đến thời điểm này, cô được sắp xếp tham dự các cuộc họp ít quan trọng nhất. Cô có cảm giác rất rõ ràng là vai trò của mình bị giới hạn, như thể họ muốn gạt cô ra khỏi cuộc điều tra.
    Vào khoảng 5 giờ chiều, cô rời các tầng trên của trụ sở để quay xuống Minh Phủ. Buổi tối đang đến gần, nỗi lo sợ trước điều sắp xảy ra càng tăng thêm, nhưng Mila đã không ngủ từ rất lâu, cô cảm thấy mình cần nghỉ ngơi nếu muốn giữ một cái đầu sáng suốt.
    Mila trốn vào trong một nhà kho cũ, nơi cô đã kê một chiếc giường gấp để dùng trong những ngày phải ở lại muộn tại cơ quan. Cô tháo đôi giày thể thao và dùng chiếc áo khoác da làm chăn đắp. Căn buồng nhỏ ấm cúng như một góc ẩn náu bí mật chìm vào bóng tối, ngoại trừ lằn sáng màu vàng nhạt lọt qua bên dưới cánh cửa. Vậy là đủ để Mila cảm thấy an toàn, như thể ở bên ngoài có ai đó đang trông chừng cô. Nằm nghiêng người, co chân, hai tay khoanh lại, cô tìm kiếm giấc ngủ một cách khó khăn. Cuối cùng lượng adrenaline cũng tụt xuống và sự mệt mỏi thắng thế.
    - Chúng ta tìm được rồi.
    Mila mở choàng mắt, tự hỏi có phải mình đang mơ. Câu nói vang lên với một giọng bình thản để không làm Mila hốt hoảng, và cánh cửa được mở hé để ánh sáng không làm cô chói mắt. Ngồi ở cuối giường là đại úy Steph với một cái tách bốc khói trong tay. Ông đưa cho Mila, nhưng thay vì cầm nó, cô nhìn đồng hồ.
    - Mới 7 giờ, thời hạn chưa hết đâu.
    - Chúng ta tìm được gì vậy? - Cô vừa hỏi vừa ngồi dậy và cầm lấy tách cà phê.
    - Việc lục soát văn phòng của Philips đã mang lại kết quả: chúng ta đã tìm thấy một cái tên... Nadia Niverman.
    Mặc dù là người đầu tiên đoán ra, Mila vẫn ngạc nhiên khi nghe thấy cái tên của một phụ nữ.
    - Nadia Niverman. - Cô lặp lại, không nhận ra mình đang giơ cái tách giữa không khí.
    - Đó là vụ mất tích cuối cùng mà Eric Vinceti phụ trách. - Steph thông báo. - Họ vừa gọi cho tôi, có vẻ như các sếp vẫn còn cần đến cô.
    Trong mười phút tiếp theo Mila nói chuyện điện thoại với Boris. Trước tiên, từ máy tính của Eric Vincenti, cô gửi qua mail cho Boris hồ sơ về vụ mất tích hai năm trước của người phụ nữ.
    Nadia Niverman là một bà nội trợ ba mươi lăm tuổi, cao một mét bảy, tóc vàng. Chị ta kết hôn vào ngày 22 tháng 9. Ba năm sau, Nadia được chấp nhận ly hôn vì bị chồng đánh đập.
    - Đương nhiên, luật sư của ông chồng chính là Randy Philips. - Boris nói qua điện thoại. - Chuyện đó tạo ra một động cơ trả thù hợp lý.
    Mila tỏ ra chưa bị thuyết phục.
    -Mila, có chuyện gì vậy? Làm thế quái nào mấy người mất tích này lại quay trở về?
    - Tôi không biết. - Mila chỉ nói được có thế.
    Cô không hiểu được. Chuyện này thật khó hiểu, và đó chính là điều khiến cô sợ hãi.
    Roger Valin và Nadia Niverman mất tích cách nhau nhiều năm.
    - Nếu đám truyền thông mà biết được chuyện này, chắc chắn hai kẻ đó sẽ được đặt biệt danh là "cặp đôi sát thủ". Ở đây mọi người phát điên hết cả rồi. Thẩm phán đã triệu tập một cuộc họp khẩn cấp.
    - Tôi biết. Steph vừa mới đi lên.
    - Tôi không hiểu được tại sao Nadia không giết gã chồng mình thay vì tay luật sư. Có lẽ thời hạn kia được dành cho gã.
    - Anh có báo cho anh ta chưa?
    - Chúng tôi đã đưa John Niverman đến một nơi an toàn. Gã được canh chừng cẩn thận, nhưng cô có thể hình dung gã sợ như thế nào.
    Cũng giống như Valin, ảnh chụp của Nadia đã được truyền thông phát đi. Khác với tay kế toán, vụ mất tích của chị ta tương đối gần, cơ hội khám phá nơi chị ta đã ở trong thời gian qua cũng cao hơn.
    - Boris, anh muốn tôi làm gì đây? Tôi có nên lên trên đó không?
    - Không cần. Chúng tôi sẽ truy gã chồng để biết liệu thằng cha nhát cáy khốn nạn đó có che giấu các chi tiết về cuộc sống của vợ gã trước khi chị ta mất tích hay không. Sau đó, nhờ vào hồ sơ của Nadia, chúng ta sẽ cố gắng tìm hiểu xem có ai giúp đỡ chị ta đi trốn, một người quen, hoặc một người bạn chẳng hạn. Tôi muốn cô cũng làm chuyện tương tự. Phiền cô tìm những ghi chép không có trong hồ sơ chính thức do Eric Vinceti thực hiện, nếu có.
    Họ gác máy, và Mila lập tức bắt tay vào việc.
    Cô xem một lượt các hồ sơ trên màn hình máy tính. Anh chàng đồng nghiệp của cô đã sắp xếp chúng theo trình tự thời gian. Cách thức này chỉ được sử dụng trong các vụ mất tích. Ở bên hình sự chẳng hạn, người ta luôn bắt đầu từ sự kết thúc, tức là từ thời điểm chết của nạn nhân.
    Eric Vinceti rất chăm chút cho việc soạn báo cáo, có thể nói đọc chúng giống như đọc truyện ngắn vậy.
    "Cần phải giữ gìn tác động về mặt cảm xúc". Anh luôn nói như vậy. "Nó là cách duy nhất để nuôi dưỡng ký ức. Những người sẽ đọc hồ sơ trong tương lai phải cảm thấy gắn bó với người mất tích".
    Vincenti tin rằng đó là phương pháp duy nhất khiến cho người tiếp quản công việc của mình thực sự dồn tâm trí vào việc đi tìm sự thật. Giống như anh, Mila thầm nghĩ.
    Tôi tìm kiếm họ khắp nơi. Tôi tìm kiếm họ mọi lúc.
    Mila nhìn những tấm ảnh có trong hồ sơ. Cô thấy tác động của năm tháng trên Nadia Niverman, nhưng ánh mắt của chị ta lão hoá nhanh hơn mọi thứ khác. Và chỉ có một điều duy nhất có thể gây ra kết quả như vậy.
    Mila hiểu rất rõ sự tàn phá từ từ của nỗi đau.

  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 16
    Nadia Niverman đã từng có một thời tươi đẹp. Cô nữ sinh mà mọi thằng con trai đều muốn cưới làm vợ. Một nhà vô địch điền kinh, một học sinh xuất sắc, một diễn viên trong nhóm kịch của trường trung học. Nadia tiếp tục duy trì thành tích xuất sắc trong những năm đại học chuyên ngành triết. Vào năm hai mươi tư tuổi, Nadia đã là một phụ nữ trưởng thành và độc lập. Chị ta đã có bằng thạc sĩ báo chí trước khi được tuyển dụng vào làm bán thời gian cho phòng biên tập của một kênh truyền hình. Sự nghiệp của Nadia có vẻ rất xán lạn. Nhưng một ngày kia, chị ta đã gặp phải một người đàn ông xấu xa.
    John Niverman chẳng là gì nếu so sánh với Nadia. Gã bị tống khỏi trường trung học, đi nghĩa vụ thì bị đuổi cổ, ngay đến cuộc hôn nhân cũng chấm dứt sớm. Gã thừa hưởng một hãng vận tải từ cha mình, hãng nhỏ nhưng phát đạt, và gã đã đánh đắm nó thành công.
    Một kẻ phá hoại, Mila nghĩ bụng.
    Nadia đã gặp John trong một buổi tiệc. Đẹp trai, cao ráo, phong cách trai hư đáng mến, gã làm mọi người thích thú. Và Nadia rơi luôn vào bẫy. Hai người kết hôn hai tháng sau đó.
    Mila hình dung ra phần tiếp theo. Nadia đã biết ngay từ đầu John là một bợm nhậu, nhưng chị ta tự thuyết phục mình rằng gã ta là một người biết điều và có thể thay đổi được theo thời gian.
    Đó chính là sai lầm to lớn nhất của Nadia.
    Theo những gì Nadia đã kể với nhân viên bảo trợ xã hội, các rắc rối bắt đầu chỉ vài tháng sau tuần trăng mật. Họ cãi nhau cũng vì những lí do tầm phào như trước đó, nhưng từ lúc này Nadia cảm thấy trong cuộc cãi vã có một điều mới mẻ mà chị không xác định được. Đó là một cảm giác gắn với những hành xử nhất định của John. Chẳng hạn như, gã bắt đầu sỉ nhục Nadia, và cứ mỗi lần lại áp sát chị ta thêm một chút. Mỗi lần một chút. Nhưng rụt lại vào khoảng khắc cuối cùng.
    Thế rồi một ngày, gã đánh Nadia.
    "Anh sai rồi", gã đã nói như thế. Nadia tin gã. Tuy vậy, chị ta cũng nhận thấy một tia khác lạ trong đôi mắt gã.
    Một tia độc ác.
    Eric Vincenti đã tập hợp tất cả những thông tin riêng tư và cá nhân đó sau khi đọc những lá đơn tố cáo mà Nadia nộp cho cảnh sát theo thời gian. Tất cả đều được rút lại chỉ sau vài ngày. Rõ ràng là vì sự làm phiền của bạn bè và người thân, hoặc vì lo ngại phải ra tòa. Hoặc cũng có thể là khi John về nhà trong tình trạng tỉnh táo và nói lời xin lỗi, gã ta tỏ ra thuyết phục đến nỗi Nadia đồng ý cho gã một cơ hội thứ hai. Gã đã có một số lượng kha khá những cơ hội thứ hai đó. Nhưng không nhiều bằng những vết thâm tím trên người vợ gã. Lúc đầu chúng chỉ là những vết bầm được che giấu bằng áo cổ lọ và một lượng kem nền kha khá. Nadia cho rằng mình không phải lo lắng chừng nào chưa có đổ máu. Mila biết câu chuyện diễn biến như thế nào đối với một số phụ nữ: chỉ cần tăng ngưỡng chịu đựng lên một chút, bạn có thể tiếp tục sống như bình thường. Khi các vết thương xuất hiện, bạn sẽ thở phào vì không bị gãy xương. Đến lúc bị đánh gãy xương, bạn lại tự thuyết phục mình rằng, xét cho cùng mọi chuyện đã có thể tệ hơn.
    Thế nhưng những cú đánh không phải là thứ gây đau đớn nhiều nhất. Nadia luôn sống trong một cảm giác bất lực và sợ hãi, hiểu rằng bạo hành luôn chực chờ và có thể bùng phát chẳng vì lí do gì. Chỉ cần một lời nói, một cử chỉ không làm vừa lòng John là đòn trừng phạt giáng xuống ngay. Chỉ cần hỏi thêm một câu, cho dù là tầm thường như "bao giờ anh về ăn tối?". Hoặc đơn giản chỉ cần gã chồng thấy cái gì đó không phù hợp trong cách xưng hô hay trong giọng điệu của vợ. Một chi tiết nhỏ nhất cũng có thể bị lấy làm cái cớ.
    Mila biết những người chưa từng trải nghiệm chuyện đó sẽ ngạc nhiên vì Nadia không bỏ đi ngay, và đi đến kết luận là có lẽ mọi chuyện không tệ đến thế nếu chị ta vẫn sẵn lòng chấp nhận. Thế nhưng Mila biết cơ chế của bạo hành gia đình, với các vai trò rõ ràng và bất di bất dịch. Ngược đời thay, chính sự sợ hãi là thứ giữ nạn nhân ở lại với kẻ bạo hành.
    Trong tâm hồn thương tổn của Nadia, người duy nhất có thể bảo vệ chị ta khỏi John chính là John.
    Nadia chỉ chống đối chồng ở một điểm. Gã ta muốn có một đứa con, nhưng chị ta bí mật uống thuốc ngừa thai.
    Dẫu tin rằng những lần quan hệ tình dục trong trạng thái say xỉn và lú lẫn mà John ép mình phải chịu hết lần này đến lần khác chẳng thể tạo ra bất cứ nguy cơ gì, Nadia vẫn giữ quyết định của mình. Chị ta không thể để cho một sinh linh mới phải hứng chịu những gì mà mình đang chấp nhận.
    Tuy nhiên, một buổi sáng tháng Ba, Nadia đi siêu thị về với một cảm giác khang khác trong bụng. Bác sĩ phụ khoa của chị ta đã nói rằng, cho dù có uống thuốc, vẫn tồn tại một khả năng cấn thai rất nhỏ. Nadia hiểu ngay mình đã có em bé.
    Que thử thai khẳng định điều đó.
    Nadia muốn bỏ thai, nhưng không thể thuyết phục mình rằng đó là lựa chọn đúng.
    Nadia đã thông báo cho John biết. Chị ta cứ sợ gã sẽ nổi khùng, nhưng thật bất ngờ, có vẻ như cái tin đó khiến gã bình tâm lại một thời gian. Những lần cãi vã sau khi John chè chén vẫn tiếp tục, nhưng gã không động đến chị ta nữa. Cái bụng bầu đã trở thành tấm khiên che chắn cho Nadia. Chị ta khó khăn lắm mới tin nổi điều đó. Và dần dần, chị ta bắt đầu cảm thấy hạnh phúc trở lại.
    Một buổi sáng, trong khi Nadia chuẩn bị đi siêu âm, John đề nghị đưa vợ đi vì trời đang có tuyết rơi. Gã có cái vẻ lơ đãng và sầu đời của những kẻ nát rượu khi tỉnh dậy.
    Không có dấu hiệu nào của sự giận dữ.
    Naida khoác áo măng tô, xách túi và bắt đầu xỏ găng tay trong lúc đứng ở đầu cầu thang. Mọi chuyện diễn ra chỉ trong tích tắc. Cú đẩy thô bạo và bất ngờ từ sau lưng, mặt sàn dưới chân hẫng đi, và Nadia không còn biết đâu vào đâu nữa. Cú đập đầu tiên vào một bậc thang, đôi tay chị ta ôm lấy bụng trong một cử chỉ bảo vệ đầy bản năng. Rồi cú đập thứ hai, lần này mạnh hơn. Bức tường lao đến mặt Nadia, góc lan can đập vào má, đôi tay do lực ly tâm đã buông cái bụng ra. Một cú đập nữa, rồi một cú nữa, dưới tác động của trọng lực. Cái bụng của Nadia đã đỡ cho sự va chạm. Vụ ngã cuối cùng cũng dừng lại. Không đau đớn, không tiếng động, và tệ hơn là, không phản ứng. Mọi thứ trong nhà thật tĩnh lặng, quá sức tĩnh lặng. Nadia còn nhớ nét mặt của John ở trên đầu cầu thang khi gã nhìn xuống mình. Tỉnh bơ. Rồi gã bỏ đi, để mặc vợ nằm dưới đất.
    Do không có sự thấu cảm nên Mila không thể hiểu được cảm giác của Nadia. Cảm xúc duy nhất mà cô tiếp cận được là sự tức giận. Tất nhiên cô thấy tiếc cho người phụ nữ này, nhưng cô sợ mình giống với John nhiều hơn.
    Cảnh sát không thể bỏ qua vụ việc, dù có hay không có đơn tố cáo. Chuyện đã xảy ra quá giống với một mưu toan giết người. Các cảnh sát đã cho Nadia thấy rõ là nếu chị ta kể những chuyện vớ vẩn để bảo vệ John, chẳng hạn như bị sảy chân, thì gã ta sẽ lại ra tay lần nữa. Và lần này, người chết sẽ không phải là đứa con, mà chính là chị ta.
    Vậy nên Nadia đã tìm được can đảm. Sau khi nộp đơn tố cáo, chị ta đã liên hệ với một nhà tá túc dành cho các nạn nhân nữ bị bạo hành, nơi John không thể tìm được mình. Khi John bị bắt, gã đã chống lại cảnh sát và không được phép bảo lãnh tại ngoại. Chiến thắng lớn nhất của Nadia không phải là chịu đựng được tất cả những năm tháng sống cùng con quỷ đó, mà là đạt được một thoả thuận ly hôn chóng vánh.
    Thế rồi Randy Philips xuất hiện.
    Tay luật sư trưng ra trước toà một đôi giày cao gót. Không một nhân chứng, không một bằng chứng nào khác về con người của Nadia. Một người phụ nữ bầu bì mà không chịu từ bỏ việc làm điệu, cho dù nó gây nguy hiểm cho việc đi lại vào một ngày có tuyết. Một người phụ nữ không biết nghĩ đến sự an nguy của sinh linh mà chị ta đang mang trong bụng.
    Ngày hôm đó, John đã được tự do. Và Nadia đã biến mất.
    Chị ta không mang theo quần áo hay bất cứ vật dụng gì của cuộc sống trước đó, có lẽ là để khiến mọi người tin rằng mình bị chồng thủ tiêu. John đã bị thẩm vấn. Tuy nhiên, theo Randy Philips thì không có bằng chứng nào chống lại anh ta. Nadia đã thua nốt ván đấu cuối cùng.
    Sau khi đọc xong hồ sơ, Mila trầm ngâm suy nghĩ. Cô phải giữ đầu óc sáng suốt, không được để cảm giác giận dữ chi phối. Sau những gì đã trải qua, Nadia không đáng bị người ta săn đuổi như một tội phạm thông thường. Valin thì có thể. Cho dù sự tuyệt vọng của một người đàn ông sau cái chết của mẹ mình là hợp lý và thông cảm được, anh ta vẫn có thể vượt qua. Nói gì thì nói, Roger đã có mười bảy năm trời để phục hồi.
    Cặp đôi sát thủ, theo cách gọi của Boris, thật ra là hai cá nhân hoàn toàn khác biệt. Vào một thời điểm trong quãng đời lẩn trốn của mình, Nadia đã gặp Valin, họ đã kể cho nhau nghe chuyện đời mình, nhận ra có cùng một bí mật và cùng một lòng căm thù đối với con người. Khi hợp nhất hai nỗi oán hận, họ đã làm nên một bộ đôi tội phạm.
    "Tôi không hiểu được tại sao Nadia không giết gã chồng mình thay vì tay luật sư. Có lẽ thời hạn kia được dành cho gã". Boris đã nói như thế qua điện thoại.
    Mila không chắc lắm về điều đó. Nếu Nadia thực sự muốn giết chồng, lẽ ra chị ta phải bắt đầu với gã trước. Việc giết chết Randy theo cách thức ghê rợn như thế để làm gì kia chứ? Khi làm vậy, chị ta thừa hiểu gã chồng cũ của mình sẽ được cảnh sát bảo vệ. Còn nếu đảo ngược thứ tự và giết John trước thì chẳng ai nghi ngờ việc chị ta sẽ sát hại cả tay luật sư.
    Thời hạn không phải dành cho John Niverman, dù Boris khẳng định gã ta đang rất hoảng sợ. Sự trừng phạt mà nữ sát thủ chọn cho tay luật sư là một chiếc nhẫn cưới và một cái chết đau đớn trong thánh đường của các cặp vợ chồng. Còn đối với gã chồng cũ, sự trừng phạt là nỗi sợ hãi. Nadia không muốn John chết một cách chóng vánh. Gã phải trải qua những gì chị ta đã từng nếm trải, phải thấy mình đang sống trong nguy hiểm, hiểu được mình có thể bị xử lý bất cứ lúc nào, và trải nghiệm sự chờ đợi không thể chịu đựng nổi trước một định mệnh đã an bài.
    Điện thoại trên bàn Eric Vincenti đổ chuông. Mila giật nảy người và ngần ngừ một chút trước khi nhấc máy.
    - Cô còn làm gì ở đây vậy?. - Steph hỏi. - 11 giờ đêm rồi đấy, thời hạn đã trôi qua khá lâu rồi.
    Mila nhìn lên chiếc đồng hồ treo tường. Cô đã không để ý đến thời gian.
    - Tình hình thế nào ạ? - Cô lo lắng hỏi.
    - Chẳng có gì sất. Chỉ có mấy gã đâm nhau trong một quán bar, và một kẻ định thanh toán cộng sự của mình.
    - Ông gặp Thẩm phán chưa?
    - Thẩm phán đã giải tán chúng tôi được mười lăm phút rồi. Tôi biết ngay cô vẫn còn ngồi lại. Về nhà đi Vasquez. Rõ chưa?
    - Rõ, thưa thủ trưởng.

  9. #18
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 17
    Màn sương mỏng lạnh lẽo trùm kín mặt đường như một dòng sông ma quái.
    Vào tầm nửa đêm, Mila đi lấy xe hơi của mình ở bãi đậu xe phía ngoài trụ sở. Cô phát hiện ra hai lốp xe bị xịt. Điều này khiến cô lo lắng. Trong đầu cô, sự bất ngờ chuyển thành mối nguy hiểm. Có lẽ kẻ nào đó đã xì lốp xe để tạo cơ hội tấn công cô trên phố. Nhưng Mila gạt đi sự hoang tưởng của mình: nó là hiệu ứng phụ của vụ án mà cô đang phụ trách. Chắc đây chỉ là tác phẩm của một tên du đãng nào đó muốn trả đũa cảnh sát. Một vụ việc tương tự đã từng xảy ra vào tháng trước.
    Mila bèn đi về phía trạm xe điện ngầm gần nhất.
    Đường phố vắng tanh, đế giày Mila kêu kin kít trên mặt đường ẩm ướt, những bước chân của cô vang vọng giữa các toà nhà. Ở lối vào trạm tàu điện ngầm, luồng gió do chuyến tàu đang lao đến thổi thốc vào người Mila. Cô chạy vội xuống các bậc thang với hi vọng bắt kịp nó. Cô đút vé để mở cửa kiểm soát, nhưng chiếc vé bị đẩy ra. Thử thêm lần nữa vẫn vô hiệu. Nghe thấy tiếng đoàn tàu chạy đi, Mila bỏ cuộc và tiến lại chỗ máy bán vé để mua một chiếc vé mới.
    - Xin rủ lòng thương.
    Mila quay ngoắt lại. Một thanh niên mặc chiếc áo thun nỉ có nón đang chìa tay xin tiền. Bản năng xui cô đấm cậu ta một cú. Nhưng cô chỉ đưa cậu ta toàn bộ chỗ tiền thừa mà chiếc máy vừa nhả ra, rồi nhìn cậu ta bỏ đi với vẻ hài lòng.
    Rốt cuộc Mila cũng qua được cửa soát vé và đặt chân lên cầu thang cuốn. Nó vận hành tự động ngay khi có người bước lên. Cô xuống bến đúng lúc một chuyến tàu chạy theo chiều ngược lại nhả ra một nhóm hành khách. Vài giây sau nó lại chạy đi với các toa tàu trống một nửa.
    Mila ngước mắt nhìn màn hình. Chuyến tàu kế tiếp sẽ đến sau bốn phút nữa.
    Cô đứng một mình trên bến, nhưng tình trạng này không kéo dài. Nghe thấy tiếng máy chạy, cô quay lại và thấy chiếc thang cuốn bắt đầu vận hành. Một hành khách thứ hai đáng lẽ phải xuất hiện, nhưng Mila chẳng thấy người nào. Các bậc thang vẫn trôi xuống như một dòng suối thép, nhưng trống không. Lâu thế nhỉ? Đúng lúc đó, cô nhớ lại một bài học từ vụ "Kẻ nhắc tuồng".
    Kẻ thù không bao giờ xuất hiện ngay lập tức, trước tiên hắn tạo ra một màn đánh lạc hướng.
    Mila đặt tay lên súng và quay lại nhìn bến tàu đối diện. Lúc đó cô mới trông thấy chị ta.
    Phía bên kia đường tàu, Nadia đang nhìn cô đăm đăm với đôi mắt trống rỗng, khuôn mắt già xọm đi như thể vừa trải qua một hành trình dài. Hai cánh tay chị ta buông xuôi theo thân mình. Nadia có vẻ mệt mỏi. Chị ta mặc một chiếc áo khoác da rộng thùng thình.
    Hai người đứng bất động trong một khoảng khắc dài như vô tận, rồi Nadia đưa một ngón tay lên môi ra dấu hiệu im lặng.
    Vài mảnh giấy rác bay lên từ dưới đường ray, nom như những con rối treo lơ lửng trên các sợi dây vô hình. Chúng nhảy múa trong một thoáng ngắn ngủi trước mặt họ. Mila không nhận ra ngay làn hơi khiến chúng di chuyển là dấu hiệu báo trước một luồng gió lạnh, nhưng cô hiểu ra khi nghe thấy tiếng đoàn tàu ở chiều ngược chạy đến.
    Đoàn tàu sắp trở thành hàng rào ngăn cách họ.
    - Nadia. - Cô cất tiếng gọi, hoảng hồn khi nhìn thấy người phụ nữ bước tới trước một bước.
    Trái tim cô đã chỉ ra điều cần làm trước cả lý trí. Không nghĩ ngợi, cô chuẩn bị tư thế nhảy xuống đường ray, định bụng vượt qua dòng sông vô hình của gió và bụi. Ánh sáng của đoàn tàu xuất hiện trong đường hầm. Nó đang đến rất nhanh, cô không thể sang kịp bên kia.
    - Chờ đã. - Cô nói với người phụ nữ đang đứng yên quan sát mình.
    Chuyến tàu chỉ còn cách đó năm chục mét. Mila bị một luồng không khí ập vào người.
    - Tôi xin chị, đừng làm vậy. - Cô khẩn khoản đúng lúc âm thanh kim loại điếc tai át mất tiếng mình.
    Nadia mỉm cười. Thêm một bước nữa.
    Khi toa tàu đầu tiên giảm tốc, người phụ nữ buông mình xuống đường ray với một vẻ duyên dáng mà Mila không bao giờ quên được. Một tiếng "thịch" duy nhất lập tức vang lên, sau đó là tiếng chạm nghiến ken két.
    Mila sững sờ trong giây lát, trố mắt nhìn tấm màn sắt chắn ngang giữa mình và cảnh tượng vừa trông thấy. Rồi cô chạy bổ lên cầu thang, lao xuống bến tàu đối diện, chỗ Nadia đã đứng vài giây trước đó.
    Một vài hành khách vừa xuống tàu đang xúm lại ở cuối bến, ngay trước miệng đường hầm. Mila len qua chỗ họ.
    - Cảnh sát đây. - Cô vừa tuyên bố vừa rút phù hiệu ra.
    Người lái tàu đang vô cùng tức giận.
    - Mẹ kiếp, lần thứ hai trong năm nay tôi đụng chuyện này. Sao họ không chọn chỗ khác chứ? Mẹ kiếp!
    Mila quan sát đường ray. Cô không mong nhìn thấy máu hay những phần còn lại của thi thể. Luôn là như thế, người ta vẫn nói đoàn tàu nuốt chửng nạn nhân.
    Ở giữa hai đường tàu, Mila nhìn thấy một chiếc giày phụ nữ.
    Lạ lùng thay, hình ảnh này khiến cô nhớ đến mẹ mình lần bà sảy chân trên đường đưa cô đi học. Mẹ Mila, một người luôn tươm tất và chăm chút cho vẻ ngoài, đã ngã lăn ra đất vì một gót giày bị gãy. Cô còn nhớ hình ảnh bà đầu tóc xổ tung, một bên giày văng mất, chiếc vớ màu da bị tuột xuống đầu gối. Vẻ đẹp kín đáo của bà, thứ luôn khiến đàn ông nhìn hau háu, đã bị sỉ nhục bằng điệu cười của một gã thậm chí không buồn dừng lại để giúp đỡ. Mila cảm thấy phẫn nộ trước kẻ thô lỗ đó và đau đớn thay cho mẹ. Đó là lần cuối cùng cô cảm thấy một điều gì đó trong tim, trước khi sự trống rỗng thế chỗ.
    - Mọi người tránh ra. - Mila ra lệnh cho nhóm người đang túm tụm sau lưng mình.
    Cô bắt gặp người thanh niên mặc áo thun nỉ có nón ban nãy. Bị thu hút bởi đám người lộn xộn, cậu ta đã đi xuống bến để xem xét, tuy vẫn đứng không quá cách xa các bậc cầu thang. Sự chú ý của Mila tập trung vào vật cậu ta đang cầm trong tay với điệu bộ lúng túng.
    - Ê nhóc. - Cô gọi.
    Cậu thanh niên quay về phía cô.
    - Đưa nó đây. - Cô ra lệnh.
    Cậu ta lui lại một bước, hoảng sợ ra mặt.
    - Tôi tìm thấy nó ở kia. - Cậu ta vừa nói vừa chỉ tay vào bến tàu. - Tôi không ăn cắp, tôi xin thề đó.
    Cậu ta đưa cho Mila một cái hộp nhẫn bọc nhung.
    - Biến đi. - Mila ra lệnh.
    Cậu thanh niên lập tức chuồn lẹ. Mila quan sát món đồ, lập tức liên hệ nó với cái chết của Randy Philips. Nhưng nếu cái nhẫn đã nằm trên tay của gã luật sư thì trong hộp đựng gì đây?
    Mila cẩn thận mở nắp hộp, trong lòng thầm lo sợ về thứ mà nó sắp tiết lộ. Mặc dù nhận ra thứ đó không chút khó khăn, cô vẫn trố mắt nhìn nó, ngơ ngác.
    Một cái răng dính máu. Răng người.

  10. #19
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 18
    Tin tôi đi, tôi từng nhìn thấy nhiều thi thể không toàn vẹn rồi.
    Tay trung sĩ trẻ tuổi đã tự hỏi cái răng hàm trước của nạn nhân đi đâu, và tại sao kẻ giết người lại lấy đi vật kỷ niệm lạ lùng đó.
    - Một số kẻ chọn một cái tai, hoặc một ngón tay. Có lần, ở dưới gầm giường của một tên buôn ma tuý, chúng tôi tìm thấy thủ cấp của một con nghiện mà gã đã kết liễu vài giờ trước. Có Chúa mới biết tại sao gã lại có ý tưởng đem vật đó về nhà.
    Câu chuyện của tay trung sĩ không làm Mila và Boris ngạc nhiên. Nếu họ không xuất hiện, vụ chiếc răng chắc đã được xếp vào kho chuyện kỳ dị dành để tán phét với đồng nghiệp nghe trong giờ nghỉ trưa. Mila không muốn nghe những câu chuyện man rợ trong khi chỉ cách chỗ cô vài cây số, đội khai quật đang kéo thi thể Nadia ra khỏi đường ray, nơi đoàn tàu oan nghiệt đã chạy qua.
    May mắn thay, tay trung sĩ trẻ đã thôi nói. Họ băng qua một nhà bếp kiểu nông thôn, phòng ngủ sơn màu xám, phòng khách mang phong cách nữ hoàng Victoria, và một căn bếp khác hiện đại hơn. Đó là những phòng trưng bày của một cửa hàng bán đồ nội thất đã qua sử dụng. Mila lại nghĩ đến những chuyện đã xảy ra tối hôm ấy, đầu tiên là hai bánh xe xịt lốp của chiếc Hyundai, chắc chắn là cái bẫy được Nadia nghĩ ra để dụ cô xuống tàu điện ngầm. Trước khi tự sát, chị ta còn ra dấu bảo cô giữ im lặng. Và chị ta đã để lại cho cô một manh mối. Mila vẫn còn chưa hết ngạc nhiên về tính chất dễ dàng khi tìm ra hiện trường tội ác mới này. Họ đã nhập từ khoá "răng" vào máy tính và có ngay một vụ giết người xảy ra vào rạng sáng hôm đó, đúng vào thời điểm các nhân viên ưu tú của sở cảnh sát liên bang đang tập trung tại Thánh đường Tình yêu.
    - Chúng tôi đã không tìm được dấu vết của thủ phạm. - Tay trung sĩ trẻ công nhận. - Không một dấu vân tay nào, trong khi máu thì đầy một vũng. Đây là tác phẩm của một tay chuyên nghiệp, tin tôi đi.
    Nạn nhân tên Harash là một người tầm năm mươi tuổi, gốc gác Ả rập.
    - Biệt danh của ông ta là "Người đào mộ", chuyên đi dọn nhà của người chết. Khi một người nào đó về nơi chín suối, ông ta sẽ đến gặp gia đình và đề nghị mua bán. Ông ta mua toàn bộ. Có rất nhiều người sống một mình, hai người biết không? Họ để lại mọi thứ cho con hoặc cháu, những người không biết phải làm gì với các món đồ nội thất và gia dụng. Harash giải quyết vấn đề, và người thừa kế kia không khỏi ngạc nhiên khi thu được tiền từ những món đồ cổ lỗ. Người đào mộ đọc các mẩu cáo phó để chọn ra những thương vụ tốt nhất. Ngoài ra, mọi người đều biết ông ta đã khởi nghiệp bằng việc cho vay nặng lãi. Dẫu sao thì, khác với các chủ nợ, khi một ai đó không còn khả năng chi trả, Harash không bẻ xương người ta. Ông ta chỉ vét sạch đồ đạc của họ rồi bán đi, giữ luôn phần lời coi như tạm ứng của tiền lãi.
    Mila quan sát những món đồ quanh mình. Chúng đến từ một thời kỳ khác, từ những cuộc đời khác. Mỗi món đồ có một lịch sử riêng. Ai đã từng ngồi lên chiếc ghế sa lông này? Ai đã từng ngủ trên chiếc giường kia hoặc xem cái tivi nọ? Chúng là phần còn lại của những kiếp người, giống như tờ giấy gói được tái sử dụng sau cái chết của họ.
    - Nhờ vậy mà Harash đã có thể mở cửa hiệu này. - Tay trung sĩ nói tiếp. - Sau một thời gian thì ông ta không cần phải cho vay tiền nữa. Các hoạt động làm ăn của ông ta trở nên hợp pháp. Ông ta quả là may mắn vì chỉ ngồi tù tổng cộng hai năm. Lẽ ra ông ta đã có thể rửa tay gác kiếm, nhưng bản tính cho vay nặng lãi của ông ta đã trỗi dậy. Ngựa quen đường cũ, như người ta vẫn nói. Harash là kẻ tham lam, phải, nhưng tôi nghĩ động cơ của ông ta trước hết là sự chi phối cuộc sống của những người khốn khổ cần tiền.
    Tay trung sĩ dừng lại trước một cánh cửa chống cháy. Anh ta nhấn tay nắm cửa to tướng và mở ra một nhà kho chất đầy các món đồ có chất lượng kém hơn những món được trưng bày bên ngoài. Tay trung sĩ dẫn họ tới cuối kho, nơi có một phòng làm việc nhỏ.
    - Vụ việc diễn ra ở đây.
    Anh ta chỉ nơi xác chết đã được tìm thấy trên sàn nhà. Ở đó chỉ còn lại đường viền của thi thể được vạch bằng băng dính màu vàng.
    - Thủ phạm đã nhổ răng ông ta, từng chiếc một, bằng kiềm. Hắn muốn nạn nhân khai ra mã số của cái này. - Tay trung sĩ vừa giải thích vừa chỉ vào két sắt âm tường. - Đó là một cái két kiểu cũ có hai núm vặn.
    Trên tường, ai đó đã viết xiên vẹo một dãy chữ số bằng bút dạ đen.
    6 - 7 - d - 5 - 6 - f - 8 - 9 - t
    Mila và Boris xem xét cái két sắt. Nó vẫn chưa được mở.
    - Hắn đã không thành công. - Đoán được suy nghĩ của hai người, tay trung sĩ nói luôn. - Người đào mộ hám tiền đã tỏ ra ngoan cố, ông ta nghĩ mình có thể chống cự được. Tên cướp đã bắt ông ta khai ra từng số và chữ của mã két, nhưng Harash đã chết trước khi khai hết. Bác sĩ pháp y khẳng định quả tim bọc mỡ của ông ta đã không chịu nổi cú sốc. Hai người có biết khi bị nhổ một cái răng mà không được gây tê thì người ta cảm thấy đau tương đương như bị trúng một phát đạn không? - Tay trung sĩ vừa hỏi vừa lắc đầu, nửa không tin, nửa thích thú. - Hung thủ đã nhổ tám cái răng. Chúng tôi tìm được bảy, anh chị có chiếc cuối cùng. Tôi cứ tự hỏi tại sao thủ phạm lại lấy nó đi...
    - Bởi vì anh không phải là người cần tìm ra nguyên nhân thủ phạm đến đây. - Mila nói.
    - Gì cơ?
    - Với anh đây chỉ là một vụ cướp đã diễn ra không suôn sẻ.
    Mila rút từ trong túi ra đôi găng cao su, đeo vào tay rồi tiến lại gần két sắt.
    - Chị ấy làm gì thế? - Tay trung sĩ trẻ tuổi hỏi Boris, nhưng thay cho câu trả lời anh ta chỉ nhận được dấu hiệu giữ im lặng và quan sát.
    Mila vặn hai cái núm số và chữ. Cô lần lượt nhập dãy chữ số được viết bằng bút dạ đen.
    - Không phải là hung thủ đã không khai thác được hết mã két. Chỉ có điều đoạn cuối của nó được viết ở chỗ khác.
    Tiếp sau dãy chữ số trên tường, Mila thêm vào h - 2 - 1.
    Khi mở cửa chiếc két, cô đã khẳng định hàng chữ khắc ở mặt trong chiếc nhẫn đeo nơi ngón tay Randy Philips không phải là một thời hạn.
    - Trời đất quỷ thần ơi! - Tay trung sĩ thốt lên.
    Bên trong két sắt chất đầy các cọc tiền, cộng thêm một khẩu súng lục. Tuy vậy, có vẻ như tất cả chưa bị đụng tới.
    - Tôi sẽ gọi Krepp. - Boris mừng rỡ nói. - Tôi muốn một chuyên gia lật tung nơi này lên để tìm dấu vết.
    - Đội cảnh sát khoa học tại đây đã làm rất tốt công việc của mình. - Tay trung sĩ biện bạch, tổn thương ra mặt vì sự thiếu tin tưởng của thượng cấp.
    Xét cho cùng đối với anh ta Boris và Mila không phải là hai đồng nghiệp, mà là hai vị khách không mời do sở cảnh sát phái đến để xem xét phương pháp làm việc của anh ta.
    - Đây không phải vấn đề cá nhân, trung sĩ. - Thanh tra Boris nói. - Nhờ anh chuyển lời cám ơn người của anh đã giúp chúng tôi, nhưng chúng tôi đã mất quá nhiều thời gian. Chúng tôi cần các chuyên gia giỏi nhất.
    Boris bước ra xe để gọi điện bằng chiếc di động của mình.
    Mila vẫn đang xem xét bên trong két sắt. Cô khá thất vọng. Cô đã tưởng sẽ tìm được một manh mối mang tính quyết định.
    Có vậy thôi sao? Cô gần như hi vọng mình nhầm lẫn. Không thể nào, tôi không tin.
    Trong lúc đó, ở sau lưng Mila, cuộc tranh cãi vẫn tiếp tục diễn ra.
    - Anh muốn làm gì thì tuỳ, nhưng anh đang phạm sai lầm đấy, thưa thanh ta. - Tay trung sĩ khăng khăng, bực dọc ra mặt. - Nếu anh có thể nghe tôi nói chỉ một phút nữa thôi, tôi sẽ cho anh biết rằng tên sát nhân...
    - Chính thế đấy. Tên sát nhân. - Boris ngắt lời anh ta. - Anh cứ nói như thể chỉ có một thủ phạm duy nhất, nhưng rất có thể chúng gồm hai hoặc ba tên. Vẫn chưa có cách nào xác định điều đó, không phải sao?
    - Không thưa thanh tra, hắn ta chỉ có một mình. - Tay trung sĩ nói chắc như đinh đóng cột.
    - Làm sao anh chắc chắn được chuyện đó?
    - Chúng tôi đã có đoạn video quay hắn.

  11. #20
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 19
    Doạn phim có thể tạo ra một bước ngoặt cho cuộc điều tra.
    Tay trung sĩ tổ chức chiếu đoạn phim trong văn phòng mình, tranh thủ sự nhiệt tình bất ngờ do tiết lộ của anh ta gây ra.
    Đã hơn 2 giờ sáng, Mila đang cảm thấy tác động của sự thiếu ngủ và hạ đường huyết. Trước khi xem phim, cô đã mua một thanh socola ở một máy bán hàng tự động cạnh thang máy.
    - Tôi không rõ tại sao, nhưng lúc này tôi đang chờ đợi bất cứ chuyện gì. - Boris hạ giọng nói với Mila trong lúc họ yên vị trước màn hình.
    Mila không đáp.
    - Chúng tôi tin rằng thủ phạm đã đi vào tiệm bán đồ nội thất bằng cửa chính. - Tay trung sĩ tuyên bố. - Hắn đã xuất hiện ngay trước lúc đóng cửa, cùng với các khách hàng khác, sau đó nấp lại trong khi chờ thời điểm tốt nhất để ra tay, những điều này thì chúng tôi không chắc. Nhưng ngược lại, sau khi đã thực hiện thành công tội ác, hắn ra ngoài bằng lối cửa hậu. May mắn là cách đó vài bước có một chiếc camera an ninh của một hiệu thuốc.
    Cảnh sát địa phương đã nhanh chóng trưng thu đoạn video mà họ sắp xem.
    Chiếc máy chiếu được kết nối với một máy tính điều khiển bởi một cảnh sát biết công nghệ thông tin.
    - Mọi chuyện diễn ra khá nhanh. Hai người hãy chú ý nhé. - Tay trung sĩ thông báo.
    Con phố vắng lặng xuất hiện dưới góc quay rộng. Có nhiều chiếc xe hơi đang đậu. Ở phía trên của màn hình, một hàng chữ ghi lại thời điểm: 5 giờ 45 phút sáng. Chất lượng video khá tệ, hình ảnh vỡ và thỉnh thoảng bị giật. Mila và Boris cùng chờ đợi, cả hai không nói tiếng nào. Bỗng một bóng người đi qua bên dưới máy quay, và biến mất nhanh chóng.
    - Đây là thủ phạm rời hiện trường sau khi gây án. - Tay trung sĩ tuyên bố.
    - Có vậy thôi á? - Borus hỏi lại.
    - Bây giờ mới là phần hay nhất.
    Viên cảnh sát điều khiển máy tính ấn vào một phím và hình ảnh trên màn hình thay đổi: một con phố khác, được máy quay ghi hình theo chiều dài. Ngày và giờ trùng khớp.
    - Sau khi ghi nhận kẻ tình nghi, chúng tôi đã theo dõi hắn bằng các camera an ninh khác trong khu vực, và chúng tôi đã có thể tái hiện lại sự di chuyển của hắn. Chiếc camera này chẳng hạn, là máy quay an ninh của một siêu thị.
    Lần này thì hung thủ đi qua tiêu điểm của ống kính. Họ có thể nhận ra rõ ràng hắn mặc một chiếc áo khoác chống thấm nước và đội mũ lưỡi trai.
    - Đáng tiếc là khuôn mặt hắn bị che khuất bởi phần lưỡi trai của chiếc mũ. - Tay trung sĩ tiếc rẻ.
    Sau đó họ xem xét các hình ảnh thu được từ camera của một máy rút tiền, một phòng tập thể dục và camera giao thông ở một ngã tư. Tuy nhiên, không có ống kính nào ghi lại rõ nét khuôn mặt của nghi phạm.
    - Hắn biết. - Mila nói. - Hắn biết phải làm thế nào di chuyển mà không bị lộ mặt. Hắn thật tinh ranh.
    - Tôi không nghĩ như vậy. - Tay trung sĩ nói. - Có ít nhất bốn chục cái camera an ninh trong khu vực, và không phải cái nào cũng có thể bị nhận ra. Không ai có thể tránh chúng được.
    - Thế nhưng hắn đã làm được đấy thôi. - Mila khẳng định.
    Họ xem tất cả các đoạn video với hi vọng kẻ sát nhân phạm sai lầm. Đoạn phim dựng lại còn kéo dài thêm năm phút nữa. Bỗng dưng nghi phạm rẽ vào sau một góc tường và biến mất.
    - Chuyện gì thế này? - Boris chưng hửng thốt lên.
    - Chúng tôi đã mất dấu hắn.
    - Ý anh nói mất dấu là sao?
    - Tôi có hứa cho các anh xem khuôn mặt nghi phạm đâu, tôi chỉ chứng minh hắn hành động đơn độc.
    - Vậy thì việc gì phải cho chúng tôi xem cả mười phút phim? - Thanh tra Boris phát cáu.
    Tay trung sĩ bối rối ra mặt. Anh ta ra hiệu cho viên cảnh sát ngồi cạnh máy tính.
    - Chúng ta sẽ xem lại nó ở tốc độ chậm.
    - Tôi hi vọng lần này chúng ta ghi nhận được điều gì đó.
    - Khoan đã. - Mila ngăn họ lại. - Anh có các đoạn phim quay vào buổi chiều trước vụ án mạng không?
    - Có. Chúng tôi đã thu thập tất cả các đoạn phim được quay trong ngày. Tại sao chị hỏi vậy?
    - Hắn biết các máy quay được đặt ở đâu. Hắn đã đi tiền trạm.
    - Nhưng như vậy không đồng nghĩa hắn đã làm điều đó vào hôm gây án. - Tay trung sĩ nói.
    Trong đầu Mila bỗng nảy ra một ý. Hung thủ muốn được nhận diện, nhưng không phải bởi những cảnh sát thông thường. Cũng giống như bộ quần áo của Roger Valin và chiếc nhẫn của Nadia Niverman. Hắn thách thức chúng ta. Tên sát nhân muốn đảm bảo ngồi trước màn hình là những người hắn muốn, hay nói cách khác là những người đã theo vụ án này. Tại sao?
    - Chúng ta cứ thử đi. - Mila nói. - Biết đâu gặp may.
    Tuy nhiên, cô tin chắc đây không phải là chuyện may rủi.
    - Nếu thế thì chỉ cần đoạn phim của một camera là đủ rồi. - Boris nói. - Chúng ta chọn cái nào đây?
    - Camera giao thông. Góc quay của nó rộng hơn và hình ảnh sắc nét hơn.
    Tay trung sĩ ra hiệu cho kĩ thuật viên.
    Trên màn hình hiện lên quang cảnh con phố lúc nãy, nhưng là vào ban ngày. Những chiếc xe hơi và khách bộ hành qua lại tấp nập.
    - Anh tua nhanh đi. - Mila yêu cầu.
    Con người và xe cộ tăng tốc, giống như một đoạn phim câm hài hước. Nhưng không ai cười nổi. Sự căng thẳng có thể được cảm thấy rõ ràng. Mila thầm cầu nguyện để mình không sai lầm. Đây là cơ hội duy nhất của họ, nhưng trực giác của cô có thể nhầm lẫn.
    - Đây rồi. - Tay trung sĩ reo lên và chỉ tay vào một góc màn hình.
    Viên cảnh sát điều khiển máy tính cho hình ảnh chiếu chậm lại. Họ nhìn thấy một người đội mũ lưỡi trai đang đi bộ trên vỉa hè, ở phía hậu cảnh. Hắn ta vẫn cúi mặt, tay đút túi chiếc áo khoác chống thấm nước. Hắn dừng lại ở ngã tư, cùng với những người khách bộ hành đang chờ đèn qua đường chuyển xanh.
    Mày phải nhìn lên. Nếu không, làm sao mày xác định được vị trí máy quay? Mila thầm hối thúc hắn. Coi nào, làm đi.
    Những người bộ hành bước tới khi đèn chuyển màu, nhưng đối tượng của họ vẫn đứng yên.
    - Hắn làm gì vậy? - Tay trung sĩ tỏ ra hoang mang.
    Mila bắt đầu hiểu ra hành vi lạ lùng đó. Hắn đã chọn chiếc camera giao thông cũng vì cùng một lí do: góc quay của nó rộng hơn, và hình ảnh nét hơn. Cô tin chắc hắn sắp cho họ thấy một điều gì đó.
    Nghi phạm cúi xuống cạnh một miệng cống để buộc lại dây giày. Sau đó, hắn nhìn vào ống kính máy quay. Rồi với một sự bình thản tuyệt đối, hắn đưa một tay lên, nhấc mũ và vẫy.
    Hắn vẫy chào họ.
    - Đây không phải Roger Valin. - Boris nói.
    - Thằng khốn. - Tay trung sĩ thốt lên.
    Họ không nhận ra hắn ta.
    Chỉ có một người duy nhất trong phòng còn nhớ mặt hung thủ: Mila. Không phải chỉ vì khuôn mặt đó đã được gắn lên bức tường trong Sảnh Đợi. Thật ra Mila đã nhìn thấy khuôn mặt đó hàng ngày, bằng xương bằng thịt, trong một thời gian dài. Nơi chiếc bàn làm việc đối diện với bàn của cô, tại Minh Phủ.
    Tôi tìm kiếm họ khắp nơi. Tôi tìm kiếm họ mọi lúc.
    Eric Vincenti từng nói như thế trước khi mất tích.


Trang 2 / 8 ĐầuĐầu 1234 ... Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-11-2017, 01:14 AM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-25-2016, 12:40 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-29-2016, 11:58 AM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-20-2016, 03:10 AM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-27-2015, 11:00 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •