Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Một khoảnh khắc hạnh phúc là một niềm vui bất diệt.
Figuiere
Trang 3 / 8 ĐầuĐầu 12345 ... Cuối Cuối
Results 21 to 30 of 75

Chủ Đề: Người Ru Ngủ

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Người Ru Ngủ



    Tác giả: Donato Carrisi




    Giới thiệu

    Nhân vật Mila Vasquez, nữ cảnh sát chuyên điều tra các vụ mất tích đã làm say lòng độc giả yêu thích tiểu thuyết trinh thám qua hơn 500 trang sách của Kẻ nhắc tuồng nay xuất hiện quyết đoán và gai góc hơn trong Người ru ngủ, anh em sinh đôi với Kẻ nhắc tuồng.

    Bảy năm trôi qua, Mila quyết định ẩn mình tại Minh Phủ - phòng điều tra chuyên trách những vụ mất tích không rõ nguyên nhân. Bản thân không có được sự thấu cảm dành cho người khác, cô đành gửi gắm con gái Alice cho bà ngoại chăm sóc. Trong khi đó, giáo sư tội phạm học Gavila vẫn đang hôn mê sâu và được canh gác cẩn mật. Mọi việc tưởng chừng trôi qua trong êm đềm, nhưng thật ra đó là khoảng lặng trước cơn bão.

    Tất cả bắt đầu bằng một cú điện gọi đến đường dây nóng của cảnh sát: Một tên sát nhân máu lạnh đã đột nhập vào gia đình một nhà tài phiệt trong lĩnh vực dược phẩm, giết hại toàn bộ thành viên trong gia đình sau khi cố tình để lộ danh tính. Hắn là Roger Valin, mất tích không rõ nguyên nhân 17 năm về trước, tái xuất hiện với bộ trang phục giống hệt trong bức ảnh chụp trước khi biến mất được lưu trữ tại Minh Phủ. Hắn đã ở đâu trong suốt thời gian qua? Bị người ngoài hành tinh bắt cóc chăng? Động cơ gây án là gì? Những câu hỏi ấy đòi hỏi sự vào cuộc của một chuyên gia tìm người mất tích, và không ai khác hơn, đó chính là đặc vụ Maria Elena Vasquez, hay Mila Vasquez.

    Càng dấn sâu vào điều tra, Mila nhanh chóng phải đối mặt với những vụ giết người liên tiếp xảy ra mà thủ phạm đều là những người mất tích từ lâu. Sau khi tái xuất để gây án, bọn chúng lại biến mất một lần nữa. Mọi cái chết dường như đều có liên hệ với một tên tội phạm sừng sỏ vẫn còn ngoài vòng pháp luật từ 30 năm nay: Người Ru Ngủ.

    Để chặn đứng “đạo quân bóng tối”, Mila buộc phải nhờ đến sự cộng tác của đặc vụ Simon Berish, người đã từng theo đuổi vụ án suốt 20 năm trời, và đã phải trả giá nặng nề khi bị cả trụ sở cảnh sát khinh bỉ, ruồng rẫy. Một nhân vật đặc biệt, một trợ thủ đắc lực của Mila Vasquez.

    Và những gì hai người phát hiện đã đưa cả hai vào vòng nguy hiểm chết người.

    Donato Carrisi sinh năm 1973 ở Ý, tốt nghiệp ngành luật và tội phạm học trước khi trở thành nhà viết kịch bản phim truyền hình. Cuốn tiểu thuyết trinh thám đầu tay Kẻ nhắc tuồng của ông đã gây được tiếng vang lớn với năm giải thưởng Văn học quốc tế, được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, và đưa tác giả lên vị trí “nhà văn Italia được đọc nhiều nhất trên thế giới”.

    Mời các bạn đón đọc Người Ru Ngủ của tác giả Donato Carrisi.





    MỞ ĐẦU
    Phòng số 13 trong nhà xác quốc gia được giành cho những người đang ngủ.
    Nó nằm ở tầng hầm thứ tư, cũng là tầng dưới cùng, giống như một tầng địa ngục. Một địa ngục buốt giá với nhiều gian phòng lạnh, nơi tiếp nhận các thi thể vô danh. Rất hiếm khi nó được thăm viếng.
    Thế nhưng đêm nay, một vị khách đang trên đường xuống tận nơi.
    Người trông xác chờ đợi vị khách trước cửa thang máy, mắt ngước nhìn những con số ghi nhận chuyển động đi xuống của buồng thang máy. Trong khi chờ đợi, ông ta tự hỏi vị khách bất ngờ này là ai, và nhất là, điều gì đã đưa đẩy anh ta đến cái tiền đồn xa xôi rất lạ lẫm với người sống này.
    Con số cuối cùng xuất hiện. Im lặng kéo dài hồi lâu trước khi cửa thang máy xịch mở. Người trông xác quan sát vị khách. Anh ta tầm bốn mươi tuổi, mặc một bộ comlê màu xanh thẫm. Giống như những người lần đầu tiên xuống dưới này, anh ta tỏ vẻ kinh ngạc khi thấy ở đây không được ốp gạch men trắng và chiếu sáng bằng đèn diệt khuẩn, thay vào đó các bức tường có màu xanh lá cây và ánh sáng có màu cam.
    - Màu sắc giúp ngăn chặn chứng lo âu. - Người trông xác giải thích khi nhận thấy câu hỏi không được nói ra, đồng thời đưa chiếc áo blu màu xanh da trời cho khách.
    Người khách không nói gì. Anh ta mặc áo vào, sau đó hai người bắt đầu đi dọc theo hành lang.
    - Các thi thể nằm ở tầng này chủ yếu là của người vô gia cư hoặc dân nhập cư bất hợp pháp. Bọn họ không có giấy tờ tùy thân, cũng chẳng có gia đình, và sau khi chết ngóm thì học được đưa vào đây. Tất cả được phân vào các phòng đánh số thứ tự từ 1 đến 9. Phòng số 10 và 11 được dành cho những người có đóng thuế đều đặn và xem được bóng đá trên truyền hình, giống như anh và tôi, nhưng nhồi máu cơ tim trên xe điện ngầm. Lấy cớ giúp đỡ, một hành khách móc ví của người xấu số và hấp, xảo thuật thành công, người kia biến mất mãi mãi. Cũng có khi, vấn đề chỉ là do quan liêu: một cán bộ nhầm lẫn giấy tờ của anh, và những thân nhân đến nhận dạng thi thể chỉ thấy trước mắt mình xác của một người khác. Như thể anh chưa chết, gia đình tiếp tục đi tìm anh. - Người trông xác kiêm hướng dẫn viên tự phong cố gây ấn tượng cho vị khách, nhưng hoài công. - Tiếp đến, các trường hợp tự tử hoặc tai nạn được đưa vào phòng số 12. Nhiều khi các thi thể ở tình trạng tệ hại đến nỗi không biết có phải là xác người hay không nữa. - Ông ta nói tiếp để thử bụng dạ của vị khách, nhưng có vẻ người này không phải loại non gan. - Dẫu sao thì, pháp luật đã dự tính một sự đối xử như nhau cho tất cả: họ phải nằm lại trong phòng lạnh ít nhất mười tám tháng. Sau đó, nếu thi thể vẫn không được nhận dạng hoặc được người thân đưa về, và nếu cảnh sát không có ý định mở lại cuộc điều tra, thi thể được phép đưa đi hỏa táng.- Ông ta trích dẫn điều luật theo trí nhớ.
    Đến đây, giọng nói của người trông xác trở nên hơi căng thẳng một chút, vì những gì ông ta nói tiếp theo có liên quan đến mục tiêu của chuyến viếng thăm khuya khoắt này.
    - Và rồi, chúng ta có các thi thể nằm trong phòng số 13.
    Nạn nhân vô danh của những tội ác chưa được làm sáng tỏ.
    Trong trường hợp giết người, luật pháp quy định thi thể chỉ là một vật chứng cho đến khi danh tính của nạn nhân được xác nhận. Chúng ta không thể buộc tội một kẻ sát nhân nếu không chứng minh người bị hắn giết đã từng tồn tại thật sự. Thi thể vô danh là bằng chứng duy nhất của sự tồn tại đó. Do vậy nó phải được bảo quản vô hạn định. Đó là một chi tiết lạ lùng nhất của luật pháp mà các luật sư rất thích thú.
    Luật pháp đã quy định chừng nào hành vi tội ác gây ra cái chết chưa được xác định, thi thể không thể bị tiêu hủy hoặc để phân rã tự nhiên.
    - Chúng tôi gọi họ là những người đang ngủ.
    Những người đàn ông, phụ nữ, trẻ con vô danh mà kẻ giết hại họ chưa được xác định. Họ chờ đợi suốt nhiều năm trời để được ai đó xuất hiện giải thoát khỏi lời nguyền khiến họ giống như còn sống. Như một câu chuyện cổ tích rùng rợn, tất cả những gì phải làm là đọc một thần chú.
    Tên của họ.
    Nơi tiếp nhận họ - căn phòng số 13 - nằm ở cuối hành lang.
    Khi đi đến trước cánh cửa sắt, người trông xác loay hoay một lúc với chùm chìa khóa để tìm đúng chìa. Ông ta mở cửa và tránh sang một bên nhường lối để khách bước vào phòng. Ngay khi anh ta bước vào, một dãy bóng đèn vàng trên trần lập tức được bật sáng nhờ cảm biến chuyển động. ở giữa phòng là một bàn giảo nghiệm tử thi, vây quanh bởi các dãy tủ lạnh cao ngất với hàng chục ngăn chứa xác.
    Một tổ ong bằng thép.
    - Anh phải ký vào đây. Quy định là thế. - Người trông xác vừa nói vừa đưa ra một quyển sổ đăng ký. - Anh quan tâm đến cái nào? - Ông ta hỏi tiếp với một chút sốt ruột.
    Cuối cùng người khách cũng lên tiếng.
    - Thi thể đã nằm ở đây lâu nhất.
    AHF-93-K999.
    Người trông xác thuộc nằm lòng số hiệu đó. Mừng thầm vì đã có lời giải cho bí ẩn lâu năm, ông ta lập tức chỉ vào ngăn tương ứng. Nó nằm ở vách tường bên trái, hàng thứ ba từ dưới lên. Ông ta chỉ nó cho vị khách.
    - Trong số các xác chết nằm lại nơi đây, câu chuyện về cái xác này chưa phải lạ lùng nhất. - Người trông xác nôn nóng giải thích. - Một chiều thứ Bảy, đám trẻ chơi bóng đá trong công viên đã sút quả bóng vào bụi rậm. Thế là anh ta được tìm thấy, với một viên đạn trong sọ. Anh ta không có giấy tờ, cũng không có chìa khóa nhà. Khuôn mặt anh ta vẫn còn trong tình trạng nhận dạng được, nhưng không có người nào gọi đến đường dây nóng để hỏi về anh ta, hoặc trình báo việc anh ta mất tích. Trong khi chờ người ta tìm ra thủ phạm, một việc có thể không bao giờ xảy ra, thi thể nằm đây là bằng chừng duy nhất của tội ác. Chính vì thế mà tòa án đã quyết định bảo quản anh ta trong này cho đến khi vụ giết người được làm sáng tỏ, công lý được thực thi. - Người trông xác ngừng lời một chút. - Đã nhiều năm trôi qua, nhưng anh ta vẫn nằm đây.
    Bấy lâu nay, người trông xác tự hỏi việc gì phải bảo quản bằng chứng của tội ác mà không ai nhớ đến. Ông ta luôn cho rằng mọi người đã quên mất người lưu trú vô danh của phòng xác số 13. Thế nhưng, khi được nghe yêu cầu của vị khách, ông ta cảm thấy bí mật được lưu giữ sau lớp thép dày vài xentimet kia sẽ còn hơn cả một cái tên đơn thuần.
    - Anh mở ra đi, tôi muốn xem anh ta.
    AHF-93-K999. Trong những năm qua, số hiệu gắn trên nhãn ngăn tủ vẫn là tên họ của thi thể. Đêm nay, điều đó có thể sẽ thay đổi. Người trông xác điều khiển van xả khí để mở ngăn đựng xác.
    Kẻ đang ngủ sắp được đánh thức.

  2. #21
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    BERISH
    Chứng cứ 511 - GJ/8
    Biên bản nội dung tin nhắn được gửi bởi hung thủ sát hại Vitor Moustak - chết do ngạt nước tại XXXX, ngày 19 tháng 9 năm XXXX - từ điện thoại di động của nạn nhân:
    "Đêm dài đã bắt đầu. Đạo quân bóng tối đã vào thành. Họ chuẩn bị cho sự xuất hiện của ngài, vì không lâu nữa ngài sẽ ở đây. Ảo thuật gia, Kẻ chiêu hồn, Người ru ngủ... Kairus có cả ngàn cái tên".

    CHƯƠNG 20
    Mọi người đều muốn trò chuyện với Simon Berish.
    Có gì đó nơi anh thôi thúc người ta mở lòng, thổ lộ những tâm tư sâu kín và riêng tư nhất. Chuyện này không phải là một phát hiện mới mẻ. Khi nhìn lại, anh nhận ra đó là một năng khiếu anh đã có từ lâu. Như khi cô giáo của Simon thú nhận với anh mình đang quan hệ tình cảm với thầy hiệu phó. Không nói thẳng ra, nhưng bóng gió như thế. "Simon này, hôm nọ thầy Jordan đã đọc bài tập làm văn của em khi thầy ở nhà cô. Thầy bảo em viết văn không tồi chút nào".
    Một hôm Wendy, nữ sinh xinh xắn nhất trường, tiết lộ với Simon rằng cô đã hôn một người bạn học. "Tuyệt con cú mèo", cô bạn đã bình luận như thế và sáng chế ra hẳn một chữ mới để diễn đạt ý của mình. Nhưng sao lại đi nói chuyện đó với thằng học sinh thảm hại nhất trường kia chứ?
    Xa hơn nữa, nhiều năm trước vụ Wendy và cô giáo, bố Simon cũng từng làm chuyện tương tự: "Nếu một ngày không nghe thấy tiếng xe bố chạy lên lối vào nhà, con đừng giận bố, hãy chăm sóc mẹ nghe con". Đó chẳng phải là điều hay ho nhất để nói với một cậu bé tám tuổi. Không phải bố anh nói như thế để con trai có ý thức trách nhiệm, chẳng qua ông ta muốn trút bỏ một gánh nặng mà thôi.
    Những kỉ niệm đó ùa về một lượt, lấp đầy tâm trí Simon. Chúng không buồn, cũng không khó chịu. Chỉ là, sau chừng ấy thời gian, anh không biết phải làm thế nào với chúng.
    -... Julius xỉn tới mức vào lộn chuồng, và thay vì một con bò cái, cậu ta đụng đầu con bò đực nặng cả tấn.
    Fontaine cười khanh khách khi kể xong câu chuyện, và Berish cười theo, mặc dù anh bỏ lỡ hơn một nửa diễn biến. Những câu chuyện vụng về của anh chàng nông dân đã kéo dài suốt nửa tiếng vừa qua. Anh ta đang thư giãn, đó là một dấu hiệu tốt.
    - Anh thu hoạch được bao nhiêu yến mạch? - Berish hỏi.
    - Hai xi lô đầy mỗi vụ. Cũng không tệ, có thể nói như thế.
    - Quả thực, tôi không tin nổi đấy. Còn năm nay mọi việc thế nào? Tôi nghe nói anh có chút lo lắng với lượng mưa.
    - Khi tình hình xấu đi, chúng tôi thắt lưng buộc bụng một chút, tăng tỉ lệ đất bỏ không và năm tiếp theo tôi trồng bắp để gỡ lại.
    - Tôi tưởng đó là một chu trình liên tục và không cần phải để cho đất nghỉ.
    Berish moi móc những gì còn nhớ được từ bài học nông nghiệp ở trường trung học, nhưng anh đã dùng hết các lá bài. Anh không thể để tuột mất sự liên hệ với Fontaine, anh cảm thấy họ đã nhích lại gần hơn rất nhiều trong một tiếng đồng hồ vừa qua. Cần phải đổi chủ đề, nhưng không được quá đột ngột.
    - Tôi cá là phân nửa những gì anh thu hoạch được dùng để đóng thuế.
    - Phải, bọn khốn ấy luôn thò tay vào túi tôi.
    Thuế là chủ đề trò chuyện tuyệt vời, và luôn phát huy hiệu quả. Nó tạo ra sự đồng tình, đúng thứ mà Simon cần. Anh bồi thêm cú nữa:
    - Có hai người khiến tôi toát mồ hôi hột khi bị họ gọi: cố vấn tài chính và vợ cũ của tôi.
    Cả hai cùng cười. Thật ra Simon Berish chưa bao giờ kết hôn. Anh dùng lời nói dối này để cài một chữ cấm kỵ vào mẩu đối thoại.
    Vợ.
    Đã 4 giờ sáng rồi và họ vẫn còn chưa nói đến chuyện cô vợ cũ Fontaine, mặc dù đó là nguyên nhân thực sự khiến họ ngồi đây, khiến Simon Berish phải vượt qua quãng đường bảy mươi cây số. Anh tự nhủ ai nhìn thấy hai người lúc này chắc sẽ nhầm với hai ông bạn gặp nhau trong quán nhậu và tán gẫu để giết thời gian bên cốc bia. Khác biệt nằm ở chỗ họ không ngồi trong quán.
    Họ đang ngồi trong buồng thẩm vấn, tại một đồn cảnh sát nhỏ giữa miền thôn quê. Một nơi chật chội và hôi mùi thuốc lá.
    Các đồn cảnh sát là nơi công cộng cuối cùng cho phép hút thuốc. Berish đã cho phép Fontaine mang theo thuốc rê và giấy quấn. Các đồng nghiệp của anh xem thuốc lá như một phần thưởng. Theo đúng luật, họ không thể cấm các đối tượng thẩm vấn đi vệ sinh, cũng như phải cung cấp thức ăn, nước uống nếu người ta yêu cầu. Tuy nhiên, họ trì hoãn việc cho phép các đối tượng được xả hơi, họ mang ra những chai nước nóng, bất chấp nguy cơ bị tố cáo ép cung. Ngược lại, thuốc lá không nằm trong danh sách các quyền, nên nếu đối tượng thẩm vấn là người hút thuốc thì việc thiếu nó có thể là một phương tiện gây áp lực hiệu quả. Berish không tin vào điều đó. Anh cũng không tin vào những lời dọa dẫm, hoặc chiến thuật "cớm tốt/cớm xấu". Có lẽ vì anh không bao giờ cần đến những thứ đó, hoặc vì anh biết được những lời khai thu được trong trạng thái căng thẳng là không đáng tin cậy. Một số cảnh sát bằng lòng với chúng. Nhưng Berish tin rằng chỉ có một sự thú nhận duy nhất, thu được tại một nơi duy nhất, vào một thời điểm duy nhất, và một số tội ác không thể được thú nhận từng phần.
    Đặc biệt là những vụ giết người dự mưu.
    Tất cả những cái sau đó - các lời khai với công tố viên, hoặc những lời nhắc lại trước bồi thẩm đoàn tại toà - đều bị bóp méo do nhu cầu phải thương lượng với lương tâm về tội ác đã gây ra của thủ phạm. Bởi lẽ, khó khăn thật sự không nằm ở việc đối diện với sự phán xét của người khác, mà là sống hết ngày này đến đêm nọ với suy nghĩ mình không giống với hình ảnh mà người ta đã hình dung.
    Do vậy, để tự giải toả trước lương tâm của bản thân, chỉ có một khoảng khắc kỳ diệu duy nhất.
    Khoảng khắc đó của Fontaine đã ở rất gần, Berish cảm thấy như vậy. Anh hiểu điều đó khi ghi nhận phản ứng của anh chàng nông dân với chữ "vợ".
    - Mấy bà vợ ấy mà, mệt đầu lắm đấy. - Berish bình luận với giọng đùa cợt.
    Nhưng anh đã vừa mở cửa cho bóng ma của Bernadette Fontaine lặng lẽ vào ngồi giữa họ.
    Đây là lần thứ tư người chồng bị triệu tập để hỏi về cô vợ đã biến mất không có tin tức gì suốt gần một tháng qua. Chưa thể nói là mất tích, càng khó kết luận là bị giết, vì còn thiếu các yếu tố khiến cán cân ngả sang phía này hoặc phía kia.
    Theo luật mà nói, thuật ngữ chính xác dành cho cô ta là "không tìm thấy".
    Mọi chuyện xuất phát từ thói quen bỏ nhà đi hoang của Bernadette ngay khi một người đàn ông nào đó hứa hẹn kéo cô ta ra khỏi anh chồng khờ khạo hôi mùi phân. Thường thì đó là các tay lái xe đường dài, hoặc những gã đại lý thương mại. Nhận thấy cô ta thích được tán tỉnh, bọn họ bảo Bernadette quá xinh đẹp và thông minh so với cái xó xỉnh này. Cô ta luôn rơi vào bẫy và trèo lên xe của họ, nhưng chưa bao giờ đi quá nhà nghỉ ven đường gần nhất. Đôi tình nhân ở đó vài ngày, và khi đã chơi chán, gã đàn ông tát cho cô ta vài cái rồi trả về cho anh chàng kém cỏi mà cô ta đã lấy làm chồng. Fontaine đón vợ về mà chẳng hề thắc mắc gì. Có khi chính vì thế mà Bernadette càng coi khinh anh ta. Có lẽ cô ta thích thi thoảng bị ăn tát. Vậy nhưng ngược lại, tất cả những gì cô ta có trong đời là một gã bất tài vô dụng mà cô ta tin chắc chưa bao giờ yêu mình.
    Bởi lẽ có yêu thì mới ghét được.
    Người chồng cũng là cai tù của Bernadette. Anh ta trói buộc cô ta với niềm tin rằng cô ta sẽ chẳng bao giờ tìm được người tốt hơn. Ngày qua ngày, việc nhìn thấy anh ta nhắc cho Bernadette thêm nhớ, rằng mặc dù xinh xắn và thông minh hơn người, cô ta vẫn chẳng xứng với cái gì khá khẩm hơn anh ta.
    Những lần bỏ nhà đi của Bernadette luôn chấm dứt sau chưa đầy một tuần, nhưng lần này nó lại kéo dài hơn bình thường.
    Chẳng ai nghi ngờ gì, nếu như sau lần cô ta trốn đi với gã buôn phân bón, các nhân chứng không khẳng định đã nhìn thấy Bernadette quay về nông trại. Ấy vậy nhưng cô ta không còn đi chợ trong làng, cũng không đi lễ ngày Chủ nhật nữa. Tiếng đồn cho rằng Fontaine đã chán đóng vai anh chồng khờ khạo và giết quách mụ vợ cho xong chuyện.
    Cảnh sát địa phương đã tin vào câu chuyện ngồi lê đôi mách đó, vì theo lời một cô bạn của Bernadette, người đã đến tận nhà để xem tại sao cô ta không nghe điện thoại và không ra ngoài, mọi đồ đạc của Bernadette vẫn nằm nguyên ở nhà. Khi một đội tuần tra đến hỏi, anh chồng khẳng định vợ mình đã bỏ đi trong đêm tối, trên người mặc đúng bộ đồ ngủ và chiếc áo choàng. Không mang theo giày lẫn tiền bạc.
    Đương nhiên câu chuyện của anh ta chẳng thuyết phục được ai. Dẫu vậy, cảnh sát không có bằng chứng nào để buộc tội Fontaine.
    Nếu anh ta thực sự giết vợ thì cách đơn giản nhất để giấu cái xác là chôn dưới ruộng.
    Các cảnh sát đã dùng chó nghiệp vụ để lùng sục một phần khu đất, nhưng với quy mô của nông trại thì phải cần đến cả trăm người và nhiều tháng tìm kiếm.
    Thế nên Fontaine đã được triệu tập đến đồn cảnh sát ba lần. Anh ta đã bị truy vấn trong nhiều giờ liền, các cảnh sát luân phiên nhau hỏi cung, nhưng vô hiệu. Anh ta vẫn một mực phủ nhận. Lần nào họ cũng phải thả anh ta về nhà. Đến lần thứ tư này, họ đã mời một chuyên gia từ trên thành phố xuống. Một người mà nghe nói rất thành thạo nghiệp vụ.
    Mọi người đều muốn trò chuyện với Simon Berish.
    Đặc vụ Berish biết các đồng nghiệp của mình đã không làm tốt nhiệm vụ. Cái khó bắt người ta thú nhận không phải là việc giết người, mà là nơi giấu xác nạn nhân. Chính vì nguyên nhân đó mà trong bốn phần trăm các vụ giết người, thi thể nạn nhân không bao giờ được tìm thấy. Ngay cả nếu như Berish buộc Fontaine thừa nhận tội giết vợ, anh cũng sẽ không biết gì về chỗ giấu xác, anh chắc chắn như thế.
    Đó là một hành vi thường gặp. Nó cho phép kẻ sát nhân chối bỏ suy nghĩ về điều hắn đã gây ra. Lời thú nhận trở thành đối tượng thoả hiệp: tôi thừa nhận với ông chính tôi là kẻ giết người, nếu ông cho phép tôi quên nạn nhân mãi mãi bằng việc để yên thi thể ở chỗ nó nằm.
    Đương nhiên, một thoả hiệp như vậy không thể được chấp nhận dưới quan điểm pháp luật. Nhưng Berish biết đối với người hỏi cung, cần phải nuôi ý tưởng hoang đường đó của thủ phạm là đủ.
    - Tôi đã kết hôn một lần, nhưng với tôi một lần đó là quá đủ. - Anh nói, tiếp tục vở diễn của mình. - Ba năm địa ngục, và may mắn là không có con cái. Cho dù hiện nay tôi buộc phải chu cấp cho mụ vợ và con chó Chihuahua của cô ta. Anh không tưởng tượng nổi con chó đáng nguyền rủa đó làm tôi tốn kém thế nào đâu. Nó lại còn ghét tôi nữa chứ.
    - Tôi thì có hai con chó lai rất khỏe để giữ nhà.
    Anh ta đổi chủ đề, điều này không tốt, Berish tự nhủ. Cần phải lôi anh ta trở lại.
    - Từ nhiều năm nay, tôi nuôi một con Hovawart.
    - Giống ấy như thế nào?
    - Tên của nó có nghĩa là "người gác nông trại". Đó là một con chó đẹp, lông dài, màu vàng.
    Điều này thì Berish không nói dối. Anh đặt tên con chó là Hitch.
    - Con chó của vợ tôi vô dụng chẳng khác nào ruồi muỗi. Thế nhưng bố tôi luôn nói: khi con cưới một người phụ nữ, con chịu trách nhiệm về cô ta và tất cả những gì cô ta yêu thương.
    Điều này thì không đúng. Bố anh, con người khốn nạn ấy, đã chối bỏ mọi trách nhiệm bằng cách trút chúng lên vai thằng con tám tuổi. Nhưng lúc này anh cần một người cha mẫu mực, có thể làm tấm gương sống đáng ghi nhớ.
    - Bố tôi đã dạy tôi phải lao động cần cù. - Fontaine nói, mặt thoáng sa sầm. - Chính nhờ ông mà tôi trở thành con người như ngày hôm nay. Tôi đã thừa kế nông trại cùng tất cả những hy sinh mà nó đòi hỏi. Đó không phải là một cuộc sống dễ dàng đâu, tin tôi đi.
    Anh chàng nông dân chậm rãi lắc đầu, chìm đắm trong một sự buồn bã lạ lùng.
    Anh ta đang khép lòng.
    Berish cảm thấy ánh mắt của vong hồn Bernadette chiếu vào anh, trách anh đã để cho chồng mình đánh lạc hướng. Anh phải lôi anh ta lại, nếu không muốn để mất anh ta. Cơ hội duy nhất của anh là chơi một canh bạc, nhưng nếu anh thua thì mọi chuyện sẽ kết thúc. Nếu anh đoán đúng thì bố của Fontaine ít nhất cũng khốn nạn như bố anh, thế nên anh nói:
    - Chúng ta trở thành người như thế nào không phải do lỗi của chúng ta. Nó tuỳ thuộc vào những người đã đi trước chúng ta trong cái cuộc đời khốn nạn này.
    Anh đã đưa ra một khái niệm quan trọng: "lỗi lầm". Nếu Fontaine là kẻ dễ tự ái, hoặc nếu anh ta cho rằng mình có người bố tốt nhất trên đời, anh ta sẽ phật ý, và cuộc "tán gẫu" kéo dài sáu tiếng đồng hồ sẽ tan tành mây khói. Trong trường hợp ngược lại, nếu Fontaine cảm thấy oán hận vì đã sống như một kẻ yếu kém, thì Berish vừa mở cho anh ta một cơ hội để trút mọi lỗi lầm lên người khác.
    - Bố tôi rất nghiêm khắc. - Anh ta công nhận. - Tôi phải dậy từ năm giờ sáng để chăm sóc nông trại trước khi đến trường. Bố tôi đã quyết định như thế. Tôi mà cãi lời thì chỉ thiệt thân.
    - Tôi cũng từng bị ăn bạt tai đấy.
    - Còn tôi thì ăn dây lưng. Nhưng bố tôi làm đúng. Nhiều khi tôi chẳng chú tâm vào công việc, đầu óc tôi cứ để đâu đâu.
    - Hồi còn bé, tôi thích xem truyện tranh khoa học viễn tưởng, tôi mơ đến các chuyến du hành ngoài không gian suốt ngày.
    - Tôi thì chẳng biết mình đã nghĩ cái gì nữa. Tôi cố tập trung, nhưng chỉ được một lúc là tâm trí lại bỏ đi nơi khác, chẳng thể làm được gì. Tất cả các thầy cô giáo của tôi đều bảo là tôi chậm phát triển. Nhưng bố tôi không muốn nghe thanh minh này nọ, vì trong nghề làm nông chúng tôi không được quyền lơ đãng. Vậy nên mỗi khi tôi làm hỏng việc gì đó, bố cho tôi một bài học. Và tôi đã học.
    - Tôi dám cá là sau đó anh không phạm lỗi nữa.
    Fontaine ngừng lời một chút, rồi nói với một giọng gần như không thể nghe nổi.
    - Có một rẻo đất ở cạnh cái đầm, chỗ đó năm nay sẽ chẳng có gì mọc được.
    Trong một thoáng, Berish không tin nổi anh ta vừa nói ra câu đó. Anh không đáp mà để cho im lặng len vào giữa họ như một tấm màn. Nếu Fontaine thấy khó chịu, anh ta sẽ vén nó lên để cho anh thấy thứ mà nó đang che giấu - đoạn kết kinh khủng của câu chuyện.
    - Là lỗi của tôi cả. - Anh ta nói tiếp. - Tôi đã dùng quá nhiều thuốc diệt cỏ ở đó.
    Anh ta dùng chữ "lỗi", và nói ở ngôi thứ nhất, trong cùng một câu.
    - Anh dẫn tôi đi xem rẻo đất cạnh cái đầm nhé? Tôi rất muốn xem nó... - Berish bình thản đề nghị.
    Fontaine gật đầu và nhìn Berish. Trên khuôn mặt anh ta phảng phất một nụ cười. Giữ câu chuyện này cho riêng mình là một việc thật khó khăn, nhưng khi rốt cuộc cũng được giải phóng, anh ta có thể khỏi giả vờ.
    Đặc vụ Berish quay lại. Vong hồn của Bernadette đã biến mất.
    Sau đó ít phút, một tốp xe cảnh sát nhanh chóng băng qua những cánh đồng. Trên đường đi, kẻ sát nhân tỏ ra rất bình thản. Hắn đáng được một chút thanh thản, Berish nghĩ bụng. Fontaine đã hoàn thành nhiệm vụ, hắn đã lo liệu xong cho vợ mình. Beradette sẽ được mai táng và có một phần mộ tử tế.
    Mọi người đều muốn nói chuyện với Simon Berish.
    Nhưng thật ra, sẽ chính xác hơn khi nói rằng, mọi người đều muốn thú nhận với Simon Berish những chuyện không thể thú nhận.

  3. #22
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 21
    Eric Vincenti từng cất một cuốn Moby Dick trong ngăn kéo bàn làm việc của mình.
    Mila cảm thấy khó mà hình dung nổi một người đã tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời mình qua tác phẩm của Melville lại là một tên giết người có khả năng nhổ răng để tra tấn nạn nhân đến chết.
    Người cựu đồng nghiệp của Mila đã nói với cô cuốn tiểu thuyết đó chứa đựng tất cả những điều cần phải biết về nghề nghiệp của họ, bởi lẽ nhân vật Ahab đi tìm con cá voi trắng theo cách giống y hệt họ tìm kiếm những người biến vào đại dương hư vô.
    "Đôi khi chúng ta không hiểu ai mới là kẻ xấu, là con quái vật thật sự của câu chuyện này", Eric đã nói như vậy, "Moby Dick hay thuyền trưởng Ahab? Tại sao Ahab cứ nhất quyết đi tìm thứ không muốn bị tìm thấy?"
    Câu hỏi này đã tổng kết lại những nghi ngờ của cô về ý nghĩa công việc họ đang làm.
    Thủ phạm giết "Người đào mộ" Harash từng là một người sâu sắc đáng kinh ngạc, có thể làm những việc tốt bụng đến nao lòng, chẳng hạn như đi lấy cà phê cho Mila mỗi sáng, hồi anh còn làm việc ở Minh Phủ. Trong lúc làm việc, Vincenti luôn để chiếc dài nhỏ của mình ở kênh nhạc cổ điển, với một âm lượng gần như không nghe được, và lầm rầm hát theo những khúc nhạc opera. Eric Vincenti khi nói chuyện với thân nhân của người mất tích luôn cẩn thận đem theo một chiếc khăn tay sạch, phòng trường hợp họ rơi lệ. Eric Vincenti sẵn sàng cho đi những chiếc kẹo bạc hà trong túi, Eric Vincenti không bao giờ nổi nóng. Eric Vincenti, tay cớm ít chất cớm nhất mà Mila từng gặp.
    - Eric nghiện rượu. - Steph trầm giọng thú thật với Mila. - Cậu ta là đệ tử lưu linh.
    - Tôi chưa bao giờ nhận thấy điều đó.
    - Bởi vì Eric không giống như chồng của Nadia Niverman, kẻ thoả mãn thú tính của mình bằng việc đánh đập vợ. Eric là người mà ta có thể gọi là "bợm chuyên nghiệp". Những người đó biết chia đều hơi men cho cả ngày, không để lộ bất cứ điều gì, vì họ không bao giờ xỉn. Cậu ta có thể tỏ ra giống như người bình thường, nhưng phần đen tối trong cậu ta luôn nhận được sự cống nạp. Mọi người đều đeo một cái mặt nạ để che giấu phần tồi tệ của mình. Mặt nạ của Eric chính là những chiếc kẹo bạc hà.
    Trong lúc đó, các cảnh sát viên của đội trọng án mang đi mọi vật dụng của Vincenti, ngoại trừ cuốn Moby Dick đã biến mất cùng anh ta nhiều năm trước đây. Họ hi vọng tìm được một manh mối dẫn tới vụ án tiếp theo.
    Lần này thì họ không tìm được bất cứ manh mối gì.
    Không có chỉ dẫn nào trong két sắt của Harash, cũng như trên thi thể của ông ta. Đây có thể là một thông tin mang tính trấn an khẳng định mọi chuyện đã kết thúc, nhưng bản tính của các cảnh sát là luôn nghi ngờ. Và thường thì nghi ngờ là đúng. Mila chẳng hạn, cô đã tin tưởng Eric, và rồi giờ đây phải nhận hậu quả.
    - Nadia tự sát ngay trước mặt tôi, dưới bến tàu điện ngầm, để lại cho tôi manh mối là chiếc răng... Bởi chỉ có tôi mới có thể nhận ra Eric trong đoạn video. - Mila thốt lên, nửa hoang mang nửa chua xót. - Nhưng tại sao lại là Harash? Một kẻ cho vay nặng lãi thì có liên quan gì với Vincenti hay thói nghiệm rượu của anh ta chứ?
    Động cơ trả thù cá nhân từng tỏ ra hợp lý với Roger Valin và Nadia Niverman có vẻ không ăn khớp ở lần này. Thêm vào đó, sát thủ nữ đã tự sát, trong khi Eric và Valin lại biến vào hư không. Vụ án này thật phức tạp.
    - Nỗi bất hạnh của Eric chính là nơi này. - Steph nói tiếp. - Khuôn mặt của cậu ta đã nằm giữa các tấm hình của Sảnh Đợi, chỉ có điều cậu ta chưa nhận ra điều đó, và tôi cũng vậy. Lẽ ra tôi phải cảm thấy Eric đã tiến đến điểm tới hạn, cậu ta không thể gánh nổi trách nhiệm trước tất cả những mảnh đời chưa được giải quyết kia. Mỗi cảnh sát viên phải tự xoay sở với công việc của mình và những thứ tồi tệ mà nó chứa đựng. Nhưng ở Minh Phủ này, chúng ta không truy lùng bọn trộm cướp giết người, đối thủ của chúng ta là khoảng trống làm từ không khí và bóng tối. Càng nhìn, ta càng thấy nó thật. Nó nuốt chửng người ta mà không nhả ra, hoặc có nhả ra thì họ cũng không còn như trước. Đồng nghiệp của chúng ta ở những phòng ban khác ít có nguy có bị những gì họ điều tra làm hỏng con người họ. Nhưng chúng ta thì ngược lại, một ngày kia khoảng trống bắt đầu nói chuyện với các cô, và đối với một số người, nó có thể trở nên hấp dẫn. Nó cho các cô một gợi ý, và thuyết phục rằng cô có thể nhận được những cái khác. Cùng lúc ấy, cô bắt đầu nhường cho nó một phần con người mình. Nhưng cô không thể sống với khoảng trống, cô không thể thương lượng với khoảng trống. Rốt cuộc, cô mở cửa cho nó như đón một người bạn đến giúp đỡ mình. Khoảng trống tiến vào và bắt đầu ngấu nghiến cướp đoạt mọi thứ.
    - Cũng giống như một kẻ cho vay nặng lãi. - Mila nói.
    Steph khựng lại, bất ngờ với điều mà chính ông cũng không nghĩ ra.
    - Đúng rồi, giống như Harash. - Ánh mắt của ông đại uý ngây ra trong khi ngẫm nghĩ. - Tôi tin rằng Vincenti đa chọn giết ông ta vì "Người đào mộ" là một con ký sinh trùng, kẻ chuyên lợi dụng sự khốn khổ vốn hay đẩy con người ta đến chỗ biến mất.
    Ai là con quái vật, Ahab hay Moby Dick?
    Khuôn mặt của Steph giãn ra.
    - Thật tình mà nói, tôi cảm thấy không thể kết tội Eric vì điều cậu ta đã làm với gã khốn nạn đó.
    Đây là một lời khẳng định quyết liệt của Steph, một thoả ước với bóng tối. Lẽ ra ông ta nên rạch ròi: "Chúng ta bên này, cậu ta bên kia".
    Nhưng bóng tối bao giờ chẳng tìm cách lấn sân, Mila nghĩ thầm. Và đôi khi ngay chính những con người của lẽ phải cũng không thể cưỡng lại cám dỗ của việc nhòm qua phía mặt trái để xem bên đó có gì. Xét cho cùng, cả hai phía đều cần một con cá voi trắng để giả vờ săn đuổi.
    - Cuộc họp sắp bắt đầu bên kia. Cho dù họ nói gì về Eric, chúng ta sẽ không thay đổi quan điểm về cậu ta. - Steph khẳng định trước khi nói thêm. - Những tội lỗi của Minh Phủ sẽ ở lại Minh Phủ.
    Mila gật đầu. Cử chỉ đó của cô cũng có giá trị tương đương một lời xá tội.

  4. #23
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 22
    Tại sở cảnh sát, một cuộc họp đã được tổ chức khẩn cấp.
    Các vị quan chức cao cấp đều có mặt, cùng với trưởng các phòng ban và những chuyên gia phân tích của đội phòng chống tội phạm có tổ chức. Cả thảy có chừng năm mươi người. Việc giữ bí mật tuyệt đối là bắt buộc.
    Mila bước vào phòng cùng với đại úy Stephanopoulos. Thường thì một cảnh sát quèn như cô không được phép tham dự vào những cuộc họp cấp cao như thế này, nên Mila cảm thấy khá lạc lõng. Steph nháy mắt với cô, lúc này họ phải đoàn kết, vì một tội lỗi tập thể đang đè nặng trên các thành viên Minh Phủ, sau sự liên đới của Eric Vincenti. Hai người bị nhìn với ánh mắt nghi ngờ chỉ vì họ từng làm việc với anh ta. Nhưng thêm vào đó, Mila cảm thấy khó chịu còn vì cô là người phụ nữ duy nhất trong phòng.
    Tuy vậy, trong cuộc họp gần như chỉ toàn nam giới này, điều gây ngạc nhiên nhất chính là sự vắng mặt của Thẩm phán.
    Mặc dù sếp tổng không thèm hạ cố tham dự, sếp vẫn hiện diện về mặt tinh thần. Mila tin chắc cái camera an ninh gắn ở một góc trên trần nhà không ù lì như vẻ ngoài của nó.
    - Xin mời mọi người an tọa, chúng ta sắp sửa bắt đầu họp. - Boris thông báo để dẹp yên những mẩu đối thoại trong nhóm người ngồi quanh một chiếc bàn thấp, nơi có đặt hai phích cà phê nóng.
    Vài giây sau, ánh đèn tắt phụt, và một màn hình bật sáng. Mila có một cảm giác khó tả. Một chút gai lạnh nơi gáy, điềm báo một sự thay đổi sắp xảy ra và không thể vãn hồi được.
    Đã bảy năm rồi cô không cảm thấy nó.
    Nó không nhất thiết là một mối nguy hiểm. Nó có thể chỉ là cái bóng tối bên trong cô trỗi dậy, đòi hỏi một mức độ quan tâm dành cho mình.
    Một chùm ánh sáng vương bụi vượt qua gian phòng và dừng lại trên màn hình phía sau lưng Boris. Những hình ảnh của Roger Valin, Nadia Niverman và Eric Vincenti xuất hiện.
    - Sáu nạn nhân trong chưa đầy bốn mươi tám tiếng đồng hồ. - Boris bắt đầu nói. - Về những kẻ chịu trách nhiệm, hiện tại chúng ta chỉ có các câu hỏi. Tại sao những người này quyết định biến mất nhiều năm về trước? Bọn chúng đã ở đâu trong suốt thời gian qua? Tại sao quay lại để giết người? Ý đồ ẩn sau tất cả những chuyện này là gì? - Anh dừng lời một chút để tạo hiệu quả mạnh hơn. - Như các vị đã thấy, còn rất nhiều điểm mơ hồ, và việc kết nối chúng không phải dễ dàng. Tuy nhiên, có một điều chúng ta đã chắc chắn: bất luận nguyên nhân là gì, chúng ta sẽ ngăn chặn bọn chúng.
    Trong ngôn ngữ của giới cảnh sát, câu nói vừa rồi chuyển tải một cảm giác an toàn và thể hiện sự quyết tâm. Tuy nhiên, trong những dịp phô trương sức mạnh như thế này, Mila chỉ đọc thấy trong đó sự bất lực và phân vân.
    Khi kẻ thù tấn công chúng ta, thay vì hành động, chúng ta lại đi che giấu sự yếu đuối của mình.
    Ngay bản thân Mila, cô cũng đã phạm một sai lầm. Cô đã tin rằng Valin và Nadia gặp nhau sau khi bỏ trốn, rằng hai người đó đã gộp các bi kịch và sự hận thù của họ lại để vạch ra một kế hoạch chết chóc. Thế nhưng sự xuất hiện của một kẻ thứ ba khiến giả thuyết về cặp đôi sát thủ cần được xét lại. Sự hiện diện của Eric Vincenti chứng tỏ đây là một hiện tượng rộng lớn hơn và rất khó lường. Điều này khiến Mila rất lo ngại, cô hi vọng cuộc họp này sẽ đưa ra được những biện pháp đối phó hiệu quả.
    -Sau khi tham khảo ý kiến của Thẩm phán, chúng tôi đã vạch ra một chiến lược. Để ngăn chặn những gì đang diễn ra, trước hết cần phải giải mã chúng. - Boris vừa nói vừa ra hiệu cho Gurevich. Anh ta đứng dậy để thế chỗ Boris trên bục phát biểu.
    - Chúng ta đang đối mặt với một tổ chức bán quân sự có tính chất cực đoan. - Gurevich khẳng định.
    Trong một thoáng, Mila tự hỏi liệu mình có hiểu đúng. Nhưng rồi cô nhận ra Gurevich đang nói nghiêm túc. Khủng bố á? Điên vừa thôi.
    - Rất hiển nhiên. - Viên thanh tra nói tiếp. - Vụ giết người gần nhất trong chuỗi vụ việc đã mở mắt cho chúng ta. Nếu ta loại trừ khả năng trả thù, và trong khi mối liên hệ giữa thủ phạm với nạn nhân còn chưa được chứng minh, ta chỉ có một cách giải thích duy nhất. - Gurevich nhìn một lượt khắp phòng, rồi nhấn mạnh. - Một sự phá hoại.
    Những tiếng rì rầm lo ngại nổi lên từ phía cuối phòng.
    - Vui lòng giữ trật tự. - Thanh tra Gurevich cắt ngang. - Các đơn vị tấn công của tổ chức này chỉ gồm một cá nhân duy nhất. Chúng hành động vì những lí do tưởng như là trả thù, nhưng trên thực tế mục đích của chúng là gây hoảng loạn thông qua việc gây mất ổn định cho trật tự đã thiết lập. Chúng ta biết rõ sự sợ hãi có sức mạnh còn hơn cả ngàn quả bom. Bọn chúng muốn gây tiếng vang, nhưng chúng ta đã từ chối điều đó bằng cách áp đặt tính bảo mật nghiêm ngặt nhất đối với vụ án.
    Chuyện này đúng là điên rồ, Mila nghĩ thầm. Nhưng xét cho cùng, các cảnh sát đã quen bẻ cong thực tế: khi họ bị dồn vào chân tường, thay vì thừa nhận mình đang gặp khó khăn, họ diễn đạt các sự kiện theo cách cho thấy chỉ chậm hơn địch thủ một bước. Ngoài ra, đối với họ động cơ phạm tội chỉ là việc của toà án. Cảnh sát quan tâm đến "ai" và "thế nào", còn "tại sao" hoặc chỉ mang tính tương đối, hoặc coi như chuyện hiển nhiên.
    Phía sau lưng Gurevich, trên màn hình chiếu đoạn phim Eric Vincenti đi bộ trên vỉa hè cùng với những người khách bộ hành, rồi cuối xuống bên cạnh một miệng cống để buộc dây giày, trước khi nhấc mũ chào một cách ngạo mạn những người đang quan sát anh ta.
    Mila cảm thấy nực cười khi bọn họ coi cựu đồng nghiệp của cô như một kẻ cuồng tín chống lại xã hội và các biểu tượng của nó. Nhưng Eric có vẻ rất khác trong đoạn phim chiếu trên màn hình.
    - Không cần phải phủ nhận, việc dự đoán mục tiêu kế tiếp sẽ rất khó khăn. - Gurevich chắp tay lại sau cái lưng hơi gù và nói tiếp. - Ngoài ra, ba sát thủ đã ra tay cho đến lúc này đều không có tiền án, do vậy chúng không có hồ sơ lưu. Roger Valin được nhận dạng vì hắn đã tiết lộ danh tính cho nạn nhân duy nhất còn sống, Nadia Niverman thì nhờ vào chiếc nhẫn trên ngón tay nạn nhân, và Eric Vincenti được nhận dạng bởi một đồng nghiệp.
    Mila thầm cám ơn tay thanh tra đã không nói ra tên mình.
    - Điều này khẳng định giả thuyết cho rằng đây không phải là những tên tội phạm chuyên nghiệp, như vậy trong tương lai rất có thể chúng ta sẽ không tìm thấy dấu vân tay, nhóm máu cũng như mẫu ADN của các thủ phạm trong hồ sơ lưu trữ. Nhưng chúng ta không cần điều đó. Chúng ta bắt đầu kế hoạch chống khủng bố. Ưu tiên sẽ là truy lùng thủ phạm: phải bắt cho được Roger Valin và Eric Vincenti, xác định những kẻ đồng lõa của chúng, và những người đã bao che cho sự lẩn trốn của chúng. Thứ nhất: Valin đã sử dụng một khẩu Bushmaster 5,56 ly. Hắn đã có nó từ đâu? Một tay kế toán không thể tự tìm ra một món đồ chơi như thế. Thứ hai: chúng ta sẽ rà soát trên Internet để tìm ra các tuyên cáo điên loạn, phân tích các trang web nơi bọn cuồng tín tập hợp để bày mưu và trao đổi các quan điểm chống chính phủ cũng như những lời khuyên thiết thực để thực hiện các kế hoạch hoang tưởng của mình. Thứ ba: tôi muốn mọi người theo dõi sát sao những kẻ vận động chính trị, buôn bán vũ khí và tất cả những ai trong quá khứ từng đưa ra ý kiến, dù là mơ hồ, về việc lật đổ trật tự xã hội đã thiết lập. Khẩu hiệu của chúng ta sẽ là: "Không khoan nhượng". Chúng ta sẽ bắt được bọn khốn nạn này, chắc chắn như vậy.
    Những tràng pháo tay vang lên. Tuy nhiên động cơ của chúng là sự lưỡng lự chứ không phải niềm tin, bằng cách vỗ tay họ xua đuổi nó, nhưng chẳng khác nào hất bụi vào bên dưới tấm thảm. Mila biết tất cả những người tham dự đều sợ bị mắc kẹt trong một vụ án không lý giải được. Gurevich đã chỉ cho họ một lối thoát dễ dàng, và mặc dù các yếu tố củng cố cho giả thuyết của ông bị khiếm khuyết một cách trầm trọng, các cảnh sát cảm thấy rõ ràng họ không có lựa chọn khác. Thế nhưng viên thanh tra đã phạm một sai lầm lớn: việc quy những kẻ sát nhân là bọn khủng bố có tác dụng trấn an chỉ vì nó tránh cho họ việc tự vấn xem chuyện gì đang thực sự diễn ra.
    - Nếu ta dùng chiến thuật tiêu thổ với chúng và phá tan mọi ý đồ của chúng, ta sẽ ngăn chặn được những vụ tấn công mới. - Gurevich kết luận một cách hài lòng.
    Mila bất giác lắc đầu hơi quá mạnh bạo, khiến thanh tra Gurevich chú ý.
    - Không đồng ý sao, đặc vụ?
    Khi tất cả mọi người quay lại nhìn Mila, cô mới nhận ra đối tượng của câu nói vừa rồi là mình. Cô cảm thấy da mặt nóng bừng như đang ở trong một lò vi sóng khổng lồ.
    - Có chứ, thưa thanh tra, nhưng...
    - Nào, đặc vụ Vasquez. Hẳn là cô đang có một đề xuất.
    - Tôi không nghĩ đây là những kẻ khủng bố. - Cô khiến bản thân mình ngạc nhiên khi lên tiếng, nhưng cô không còn đường lui nữa. - Roger Valin là một người yếu đuối. Vấn đề không phải ở chỗ anh ta đã thay đổi thế nào trong suốt những năm qua, mà là cái gì đã gây ra sự thay đổi, thúc đẩy anh ta cầm súng giết người. Thành thật mà nói, tôi không nghĩ cuộc trả thù của anh ta có một động cơ chính trị. Nó phải có một sự giải thích riêng tư hơn, cá nhân hơn.
    - Với tôi, đó là trường hợp điển hình của một kẻ vô danh nung nấu ý định trả thù cái xã hội đã bỏ mặc anh ta.
    - Còn trong trường hợp của Nadia Niverman. - Mila nói tiếp. - Ngay đến người chồng đã làm mình chết hụt chị ta còn không thể phản kháng. Nói thật lòng, tôi thấy khó mà tin được chị ta có thể gây ra một vụ khủng bố.
    Những lời chỉ trích vang lên trong phòng. Boris và Steph lo lắng nhìn Mila.
    - Chưa nói đến Eric Vincenti, một động nghiệp đã dành toàn tâm toàn ý cho việc tìm kiếm những người mất tích, đã sống giữa những bóng ma. - Mila tiếp lời bất chấp sự chống đối ra mặt của các đồng nghiệp.
    - Cô định làm chúng tôi mềm lòng với câu chuyện này sao? Chắc cô tin bọn chúng chỉ là nạn nhân? Tôi khuyên cô xem lại cách nói năng của mình, đặc vụ Vasquez, vì nó có nguy cơ bị hiểu sai đấy.
    - Tôi muốn nhắc đến thực tế là, như anh đã nói, không có ai trong ba người từng có tiền án, và đó là những người mà chúng ta đã bỏ rơi từ lâu trước khi họ từ bỏ chúng ta.
    - Chính xác. Như vậy bọn chúng là đối tượng hoàn hảo của một tổ chức phản động: chẳng có gì để mất, xung đột lâu dài với xã hội, khao khát trả thù cho những thiệt hại mà chúng phải chịu. Rõ ràng ai đó đã thu nhận chúng, giúp chúng biến mất. Chính kẻ đó đã cung cấp cho chúng một vỏ bọc và huấn luyện chúng, sau đó giao cho chúng một nhiệm vụ.
    - Anh nói có lý, ở đây có một mục đích nào đó. - Mila công nhận. - Nhưng chúng ta không thể phạm sai lầm khi bằng lòng với một ấn tượng ban đầu chỉ bởi vì kinh nghiệm mách bảo như thế.
    Trong phòng, những tiếng chỉ trích vang lên càng lớn. Mila bèn ngước mắt về phía chiếc camera đã theo dõi cuộc họp từ đầu đến giờ trong sự im lặng và bất động.
    - Tôi công nhận là rõ ràng có một ý đồ đằng sau tất cả chuyện này. Tôi công nhận là không có cách nào dự báo nạn nhân kế tiếp, hoặc thủ phạm kế tiếp. - Cô buộc phải cất cao giọng để át đi tiếng lao xao chung quanh. - Nhưng tôi chỉ muốn nói tôi rất hi vọng trường hợp này là khủng bố. Bởi vì nếu không phải vậy thì sẽ rất khó để ngăn nó lại.

  5. #24
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 23
    Mila đã cho thay lốp chiếc Hyundai hơn một tiếng trước đó.
    Sau khi cuộc họp kết thúc, cô muốn về thẳng nhà. Tuy nhiên khi ra đến bãi đậu xe, cô mới nhớ ra sự cố bất ngờ mà mình hoàn toàn quên bẵng mất. Chuyện này giống như trải qua nó lần nữa, với tất cả nỗi bực tức mà cô vừa nhận thêm sau cuộc họp.
    Mila đã phải gọi cho hãng sửa xe để đưa xe mình về gara. Bây giờ, dù đang theo dõi công việc thay lốp với một vẻ mặt bình thản, trong đầu cô các suy nghĩ cứ chạy đi nơi khác.
    Mila đã không bị đuổi ra khỏi cuộc họp, nhưng sau khi cô lên tiếng, cuộc thảo luận tiếp tục diễn ra như thể cô chưa bao giờ mở miệng. Cô lại ngồi xuống và im lặng chờ cho cuộc họp kết thúc, trong sự phớt lờ của mọi người. Cái khiến Mila bực nhất là bị coi thường. Ngoài ra, cô tức điên với Eric Vincenti vì cảm thấy như bị phản bội bởi một người mà mình yêu quý.
    Anh là Ahab hay Moby Dick? Chẳng là ai, hoặc có thể là cả hai, chính vì thế mà tôi không bao giờ nhận ra.
    Một động cơ rõ ràng là thứ còn thiếu trong vụ giết người do đồng nghiệp cũ của Mila gây ra - nếu có thể gọi hành vi nhổ từng cái răng của ai đó cho đến khi người đó chết là giết người. Mila cảm thấy lo ngại vì sự tàn bạo vô lý đến như vậy. Thêm vào đó, cô không có bất cứ manh mối nào về tội ác tiếp theo. Chuyện này là một nguyên nhân nữa khiến cho mọi người căng thẳng.
    Họ không biết ai sẽ ra tay, và ở đâu. Vì họ có chung một niềm tin chắc chắn: vụ này còn lâu mới kết thúc.
    Cho đến hiện tại, chuỗi vụ việc đã được tiết lộ thông qua các chỉ dẫn cụ thể, các mật thư, giống như một trò đi tìm kho báu: bộ trang phục của Valin, chiếc răng của Harash, đoạn phim quay Vincenti... Phải, nhưng tại sao Vincenti lại cẩn thận xoá sạch mọi dấu vân tay và dấu vết ADN tại hiện trường? Và tại sao anh ta lại bày ra cái trò lố trước chiếc camera giao thông?
    Lời giải có lẽ rất đơn giản, đến nỗi chúng ta không nhìn ra, Mila tự nhủ.
    Tuy vậy, thay vì tập trung vào mắt xích kế tiếp của chuỗi sự kiện, tại sở cảnh sát người ta đang mất dần phương hướng với những trò phỏng đoán điên rồ. Khủng bố à? Họ nghĩ rằng chỉ cần đặt một cái tên cho nỗi sợ là đủ sao?
    Rất mau chóng, chiếc Hyundai của Mila được lắp lốp mới. Cô lôi kính mát từ trong hộc găng tay ra rồi khởi động máy. Thời tiết hôm nay rất đẹp, chỉ có vài đám mây rải rác vương trên nền trời xanh và phân phát ra khắp nơi những bóng mát thoáng qua.
    Nhưng Mila không chỉ nhìn mỗi con đường. Những hình ảnh trong đoạn phim về Eric Vincenti tuần tự lướt qua trước mắt cô, cứ chạy đến hết thì quay lại từ đầu.
    Cô luôn có một niềm tin rằng một ngày nào đó, người đồng nghiệp của mình sẽ quay về. Rằng bóng tối sẽ khạc anh ra như một thứ không tiêu hoá được, trả anh về Minh Phủ như nhân chứng sống cho thấy sự quay trở lại luôn là có thể.
    Cô hình dung Eric lại bước qua cửa văn phòng, mang cho cô tách cà phê, ngồi vào bàn như thể chẳng có gì xảy ra, bật đài và làm việc trên nền nhạc opera.
    Nhưng trên thực tế, Mila đã gặp lại anh ta ở nơi mà cô ít mong đợi nhất.
    Cô sẽ không bao giờ quên dáng người trong đoạn video. Người đàn ông mặc chiếc áo khoác chống thấm nước cúi xuống bên miệng cống để buộc lại dây giày, rồi nhấc mũ chào chiếc camera, một cử chỉ trâng tráo và đáng sợ.
    Tại sao làm điệu bộ đó? Chỉ để được nhận ra thôi sao?
    Có lẽ đó là một sự khiêu khích, một yếu tố để củng cố giả thuyết khủng bố. Nhưng Mila còn nhìn thấy một thứ khác trong hình ảnh ấy: người đồng nghiệp mà cô vẫn còn thấy khó khăn khi thêm vào chữ "cựu" đã trải qua một thử thách nhập môn của bóng tối. Trò diễn trước camera cho thấy một điều.
    Đó là từ nay, Eric Vincenti đã nhảy múa trong bóng tối.
    Mặt trời chiều tuôn ánh nắng ban ngày vào khắp căn hộ của Mila, truy lùng đám bụi quanh những chồng sách như thể muốn đánh bật chúng đi. Ở phía bên kia đường, trên tấm biển quảng cáo, cặp đôi khổng lồ vẫn đang cười với người qua đường và với cả người vô gia cư đang đẩy chiếc xe hàng siêu thị chất đầy túi nhựa và giẻ rách. Lát nữa Mila sẽ để lại một phần thức ăn trên nắp cái thùng rác ở đầu ngõ. Lần này không phải là bánh mì kẹp thịt băm nữa, mà có thể là món súp gà.
    Sau khi đã bình tâm lại, cô ngồi vào máy tính và bật nó lên. Vài phút sau, chương trình kết nối với chiếc camera bé xíu được kích hoạt. Màn hình hiện lên cảnh căn phòng của bé gái mà Mila đang theo dõi từ xa.
    Con bé đang ngồi bên chiếc bàn tròn thấp, hí hoáy vẽ. Xung quanh nó là cả một hội đồng búp bê được xếp ngay ngắn.
    Con bé thích nhất con búp bê nào?
    Mái tóc dài màu bạch kim của con bé được cột đuôi ngựa, để lộ một nửa khuôn mặt trong máy quay. Nó đang cầm một chiếc bút dạ màu và tỏ ra rất tập trung vào công việc. Đúng là một bé gái ngoan hiền mười tuổi điển hình. Mila vặn to âm lượng nhưng chỉ nghe thấy tiếng ồn.
    Người phụ nữ tối hôm trước lại bước vào. Bà bê một cái khay trên đó có một cốc sữa, vài chiếc bánh quy và những viên thuốc màu vàng. Bà vẫn còn rất đẹp so với độ tuổi ngoại ngũ tuần của mình.
    - Ăn đi cháu. - Bà lên tiếng.
    Cô bé quay lại nhưng không buông bức vẽ của mình ra.
    - Tí nữa ạ.
    - Để lát vẽ nốt, bây giờ phải uống vitamin. - Người phụ nữ cương quyết.
    - Cháu không uống đâu.
    Người phụ nữ tiến lại gần và thu lại chiếc bút dạ. Con bé không nói gì.
    Không có gì nguy hiểm, mọi chuyện vẫn ổn.
    Sau đó, nó cầm lấy một con búp bê tóc hung và ôm vào lòng như thể dựng lên một rào cản. Trên khuôn mặt nó hiện lên một cái bĩu môi hờn dỗi.
    Tôi là mẹ kiểu gì, nếu không biết tên con búp bê ưa thích nhất của con gái mình?
    - Buông nó ra. - Người phụ nữ trên màn hình ra lệnh cho con bé.
    Bà không biết. Ôi trời, cả bà cũng không biết.
    - Không được gọi là "nó". - Con bé phản kháng.
    Người phụ nữ thở hắt ra rồi đưa cho cô bé mấy viên vitamin và cốc sữa.
    - Chỗ này bừa bộn quá thể!
    Lợi dụng giây phút lơ đãng của người phụ nữ, cô bé giả vờ buộc dây giày và giấu mấy viên thuốc vào trong váy của con búp bê.
    Mila mỉm cười vì sự nhanh trí của con bé. Nhưng nụ cười của cô nhanh chóng tắt ngấm. Mắt cô không còn nhìn thấy màn hình trước mặt nữa. Như thể trong đầu cô những hình ảnh của chiếc máy quay bí mật đã bị thay thế bởi hình ảnh của một máy quay khác.
    Eric Vincenti dừng lại ở một ngã tư và đợi cho đèn qua đường chuyển màu xanh. Thay vì sang đường, anh ta cúi xuống bên một miệng cống để buộc lại dây giày. Và anh ta nhấc mũ chào.
    Không, không phải thế. Anh ta không chỉ chào. Anh ta muốn được nhận ra, tất nhiên rồi, nhưng ngoài ra... còn muốn lôi kéo sự chú ý nữa.
    Eric hiểu rõ các cảnh sát, anh ta biết cách làm họ rối trí. Anh ta biết họ đang bối rối trong những phán đoán phức tạp, để không phải thừa nhận mình gặp khó khăn. Giả thuyết khủng bố là một minh chứng.
    Tuy vậy, lời giải đơn giản đến nỗi chúng ta không nhìn ra.
    Mila nhớ lại từng khoảng khắc của đoạn phim như thể đang xem chiếu chậm.
    Chính trò giấu thuốc của cô bé đã khiến cô nghĩ ra một điều.
    Có lẽ Eric Vincenti đã giấu thứ gì đó cho họ trên vỉa hè.

  6. #25
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 24
    Dường phố đầy những người đi bộ vội vã trở về nhà.
    Từ phía bên kia đường, Mila quan sát sự di chuyển qua lại của những đôi giày cao gót, giày thể thao, giày lười và dép có quai hậu. Những người kia không hề biết dưới chân mình có thể đang che giấu một manh mối quan trọng, quyết định sự sống chết của một ai đó.
    Mila không muốn phó thác bất cứ điều gì cho may mắn. Cô băng qua đường để thực hiện cùng những động tác mà Eric Vincenti đã làm trong đoạn phim.
    Đầu tiên, cô vừa đi bộ trên vỉa hè vừa đưa mắt nhìn xuống. Cách đi của cô khác hẳn với những người khách bộ hành khác, nên thỉnh thoảng có vài người càu nhàu vì bị làm chậm bước. Bất chấp điều đó, Mila tiếp tục quét mắt trên vỉa hè từng xentimet một, cho đến cái miệng cống mà bên cạnh đấy Vincenti đã cúi người xuống.
    Cô lặp lại động tác của Eric. Lưng khom xuống, bất động giữa luồng di chuyển của những người đi bộ bị buộc phải đi vòng qua để tránh, Mila quan sát cái nắp cống bằng gang có khắc biểu trưng của toà thị chính và tên của xưởng đúc đã sản xuất ra nó. Những chi tiết mà bình thường chẳng ai thèm để ý. Một vật mà mọi khách bộ hành đều giẫm lên, nhưng chẳng mấy khi lọt vào mắt họ.
    Mila lướt ngón tay trên cái rãnh quanh nắp cống và phát hiện một mẩu giấy được gấp nhỏ. Cô tìm cách moi nó ra, nhưng nó lại tụt xuống sâu hơn. Không bỏ cuộc, Mila cố thêm nhiều lần nữa, đến nỗi làm móng tay bị gãy và chảy máu. Cuối cùng, cô cũng thành công.
    Miệng mút ngón tay để cầm máu, Mila đứng dậy. Không rời mắt khỏi mẩu giấy, trong lòng háo hức như một đứa trẻ vừa khám phá ra chỉ dẫn kho báu trước các bạn khác, cô bước vào trong một đường nhánh để tránh đám đông. Dùng hai bàn tay run rẩy, cô mở mẩu giấy.
    Đó là một bài báo được cắt.
    Chính xác hơn nó là một mục báo ngắn, tường thuật lại một vụ án mạng xảy ra vào ngày 19 tháng 9 - một ngày trước vụ thảm sát của Roger Valin.
    Vụ việc được đăng báo trong phần tin vắn do thể thức tàn bạo và phi lý của cái chết. Tuy nhiên, nạn nhân chỉ là một gã bán ma tuý tép riu. Cái tin được đẩy xuống tận dưới cùng của trang báo.
    Mila đọc nó.
    Theo lời người em trai, Victor Moustak rất sợ nước. Thế nhưng hắn lại chết do ngạt nước. Trong ba xentimet nước. Kẻ giết người đã trói chặt chân tay hắn và ấn đầu hắn xuống một cái bát sắt thường được dùng để cho chó uống nước.
    Các điều tra viên đã lấy được dấu tay của hung thủ trên một trong những sợi dây trói. Do dấu tay không có trong hồ sơ lưu trữ, thủ phạm vẫn chưa được nhận dạng.
    Tác giả mẩu tin còn kể thêm một câu chuyện lạ khác.
    Trước khi bỏ đi, hung thủ đã dùng điện thoại di động của Moustak để gửi một tin nhắn cho em trai của nạn nhân, nhưng rất có thể hắn đã chọn ngẫu nhiên một cái tên trong danh bạ. Cảnh sát chưa công bố nội dung tin nhắn.
    Khi đọc hết mẩu tin, Mila nhận thấy có vài chữ cái được viết bằng bút chì ở bên dưới trang báo.
    P.H.V ( viết tắt của Potential Homicide Victim: nạn nhân án mạng tiềm năng )
    Cô rút di động ra và gọi cho một người.
    - Stephanopoulos đây. - Người phụ trách Minh Phủ lên tiếng.
    - Chuỗi tội ác có thể đã diễn ra trước vụ Roger Valin.
    - Làm sao cô biết?
    - Eric Vincenti đã để lại cho tôi một chỉ dẫn.
    Steph ngập ngừng. Mila hiểu ngay ông không ở một mình.
    - Chúng ta nói chuyện sau được không? - Ông hỏi.
    - Tôi cần ông tra cứu hồ sơ lưu trữ của sở.
    - Cho tôi mười phút. Tôi sẽ gọi lại cho cô từ máy bàn.
    Mười lăm phút sau, điện thoại của Mila đổ chuông.
    - Chuyện quái gì vậy? Lẽ ra cô nên báo cáo cho Boris và Gurevich.
    - Để củng cố cho giả thuyết khủng bố của bọn họ á? Không đời nào. Tôi sẽ gọi cho họ sau khi đã có ý tưởng rõ ràng hơn về chuyện đang diễn ra.
    - Làm ơn đi, Mila.
    - Ông bình tĩnh nào.
    Cô kể tóm tắt cho Steph về cách thức cô đã làm để phát hiện ra bài báo nhét cạnh miệng cống, sau đó yêu cầu ông xem lại hồ sơ vụ án Victor Moustak.
    - Tôi muốn biết nội dung tin nhắn đó.
    Steph mất một chút thời gian để đọc lướt các báo cáo khác nhau của cảnh sát. Khi đến phần nội dung tin nhắn, ông bật cười khe khẽ.
    - Có gì vui vậy?
    - Cô nhầm rồi, Mila à. Tin tôi đi.
    - Ông đọc nó cho tôi nghe được không?
    - Đêm dài đã bắt đầu. Đạo quân bóng tối đã vào thành. Họ chuẩn bị cho sự xuất hiện của ngài, vì không lâu nữa ngài sẽ ở đây. Ảo thuật gia, Kẻ chiêu hồn, Người ru ngủ... Kairus có cả ngàn cái tên.
    - Chuyện quái gì thế này? - Mila hỏi lại, tuy vẫn nghĩ rằng đạo quân bóng tối là một định nghĩa hoàn hảo.
    - Đó là nguyên nhân khiến cảnh sát vẫn chưa thể hé răng với báo chí. Vụ án này thật nực cười. Kệ nó đi, Mila, hãy tin tôi.
    - Tôi muốn tìm hiểu thêm. - Mila nhấn mạnh. - Sau đó có thể tôi sẽ mặc kệ nó.
    Steph thở dài, ông cảm thấy mình đang nói chuyện với một bức tường.
    - Chỉ có một người duy nhất có thể kể cho cô nghe mọi chuyện. Nhưng trước khi cô gặp người này, tôi cần phải cho cô biết đôi ba chi tiết về anh ta.
    - Nghĩa là sao?
    - Anh ta từng là một cảnh sát kiểu cũ, loại "bắn trước hỏi sau". Nhưng anh ta đã tự làm mới mình, bằng cách nghiên cứu môn nhân học.
    - Nhân học á?
    - Anh ta đã trở thành chuyên gia thẩm vấn giỏi nhất sở cảnh sát.
    - Vậy sao tôi chưa bao giờ nghe nói tới chuyện đó nhỉ?
    - Đó là một khía cạnh khác của con người anh ta, nhưng cô sẽ tự mình khám phá ra điều đó. Tôi chỉ muốn báo trước một điều: đừng có đùa với tay này. Cô sẽ phải thuyết phục anh ta hợp tác, chuyện đó không đơn giản đâu.
    - Anh ta tên gì vậy?
    - Simon Berish.
    - Tôi có thể tìm thấy anh ta ở đâu?
    - Sáng nào anh ta cũng dùng bữa tại một tiệm ăn mà cảnh sát hay ghé vào, trong khu phố Tàu.
    - Tốt. Tôi vẫn cần ông kiểm tra xem trong vụ Victor Moustak các dấu vân tay của hung thủ có nằm trong hồ sơ PHV hay không. Đó là ghi chú bằng bút chì ở bên dưới bài báo.
    - Tôi sẽ chuyển yêu cầu của cô cho Krepp mà không nói với anh ta tại sao tôi cần.
    - Cảm ơn ông.
    - Vasquez này...
    - Vâng?
    - Coi chừng Berish đấy.
    - Tại sao vậy?
    - Đó là một kẻ bị ruồng bỏ.

  7. #26
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 25
    Tiệm ăn Tàu là nơi lui tới thường xuyên của cảnh sát.
    Cũng giống như lính cứu hỏa, các cảnh sát chọn cho mình một nơi ăn uống cố định. Tiêu chí quyết định sự lựa chọn của họ vẫn là một bí mật - thường thì nó không phụ thuộc vào chất lượng thức ăn, thái độ phục vụ lẫn khoảng cách so với nơi công tác. Rất khó để tìm lại nguồn gốc của những chọn lựa như vậy. Nhân viên cảnh sát nào là người đầu tiên đặt chân tới quán ăn này? Tại sao những người khác bắt chước theo anh ta? Dẫu sao thì, những chỗ như thế này đã trở thành lãnh địa độc chiếm, nơi khách hàng "thường dân" chỉ là một bộ phận nhỏ được chấp nhận nhưng ít được chào đón. Các ông bà chủ không phàn nàn về chuyện này, đối với họ đây vẫn là một món hời: không chỉ doanh thu luôn ổn định, sự hiện diện của cảnh sát còn là một sự bảo kê đặc biệt chống lại bọn trộm cướp, những kẻ có ý đồ mờ ám và những nhà cung cấp gian trá.
    Lúc Mila bước qua cửa, cô được chào đón bằng mùi dầu chiên sực nứt. Tiếng ồn ào của những người mặc đồng phục xanh đang ngồi đầy trong quán ăn khiến cô khó chịu không kém. Một nữ phục vụ bàn người Trung Quốc đón Mila. Nhận thấy đây là một khách hàng mới, cô gái thông báo các món ăn truyền thống được phục vụ vào giờ ăn trưa, còn thức ăn sáng thì mang tính quốc tế. Mila rất muốn hỏi cô gái tại sao một quán ăn Quảng Đông lại phục vụ trứng và thịt muối vào lúc 9 giờ sáng, nhưng cô chỉ cảm ơn rồi quan sát chung quanh. Một cú quét mắt là đủ để Mila hiểu Steph hàm ý gì khi dùng chữ "bị ruồng bỏ" với người mà cô sắp gặp mặt.
    Giữa hàng chục cảnh sát viên đang vừa ăn uống vừa tán gẫu cười đùa, Simon Berish là người duy nhất ngồi một mình.
    Mila lách người qua các bàn ăn để đi đến chiếc bàn trong cùng, nằm kẹt giữa hai vách ngăn. Người đàn ông mặc comlê đeo cà vạt, mắt tập trung vào tờ báo, miệng nhâm nhi tách cà phê. Ở bên trái anh ta là một chiếc dĩa đựng phần còn lại của món trứng chiên thịt muối cùng một cốc nước chanh đá. Dưới chân anh ta là một con chó lông vàng kích thước trung bình đang lim dim ngủ.
    - Tôi xin lỗi. - Mila lên tiếng. - Đặc vụ Berish phải không ạ?
    - Phải. - Người đàn ông đáp, ngạc nhiên hạ tờ báo xuống.
    - Tôi là Mila Vasquez, đồng nghiệp của anh.
    Cô chìa tay ra, nhưng thay vì bắt tay, Simon Berish nhìn như thể đó là một khẩu súng. Mila nhận thấy mọi ánh mắt trong phòng đều chiếu vào họ, tựa như cô vừa vi phạm một điều cấm kỵ.
    - Tôi muốn nói chuyện với anh về một vụ án mà anh từng phụ trách.
    - Vụ nào?
    - Ảo thuật gia, Kẻ chiêu hồn, Người ru ngủ. Kairus.
    Tay cảnh sát cứng người lại. Mila cảm thấy càng lúc càng lúng túng.
    - Tôi chỉ xin anh vài phút thôi.
    - Tôi không nghĩ đó là một việc sáng suốt. - Berish xẵng giọng và nhìn quanh để đảm bảo chưa ai nghe thấy họ.
    - Ít nhất hãy cho tôi biết lí do và tôi sẽ để anh yên. Ảo thuật gia, Kẻ chiêu hồn, Người ru ngủ là ai?
    - Một nhân vật hoang đường. Hắn bầu bạn với ông ba bị và thủy quái hồ Loch Ness. Cách đây hai chục năm, người ta đã khai sinh ra hắn trong một sự cuồng loạn của đám đông. Truyền thông lôi hắn ra mỗi khi có ai đó biến mất, họ thêm một trong những biệt danh của hắn vào tin tức để làm tăng lượt đọc. Giống như một bộ trang phục tối màu trong tủ quần áo: người ta có thể mặc nó đi đám ma, nhưng đi đám cưới cũng vẫn ổn.
    - Vậy nhưng anh vẫn tin, đúng không?
    - Chuyện lâu lắm rồi, hồi đó chắc cô chỉ là một đứa trẻ. Bây giờ xin phép cô, tôi muốn dùng nốt bữa sáng - Anh ta nói và lại chúi mũi vào tờ báo.
    Mila sắp bỏ đi thì những cảnh sát viên ở chiếc bàn bên cạnh đứng dậy. Một người trong số họ đi qua bên cạnh bàn của Berish và đụng vào chiếc dĩa thức ăn anh để ở gần mép bàn. Những mẩu trứng bắn vào cà vạt của Berish. Một hành động có chủ ý. Không khí căng thẳng có thể cảm nhận được, ngay cả chú chó dưới bàn cũng hếch mũi lên.
    Mila đã nghĩ đến tình huống xấu nhất, nhưng Berish đã vuốt ve con chó để dỗ nó ngủ lại. Sau đó, với một sự bình thản phi thường, anh rút từ trong túi áo vét ra một chiếc khăn tay đã giặt là cẩn thận, chấm nó vào trong cốc nước rồi lau chiếc cà vạt. Mila muốn rụng rời tay chân. Một thuộc cấp công khai tỏ ra không tôn trọng cấp trên, lại còn giữa bàn dân thiên hạ nữa, nhưng vẫn ra đi mà không phải trả giá. Thậm chí anh ta còn cười hả hê với đồng nghiệp. Mila đã định can thiệp vào thì Berish nắm cổ tay cô giữ lại.
    - Thôi bỏ đi. - Anh ta nói mà không nhìn Mila, một tay chìa chiếc khăn cho cô.
    Giọng điệu từ tốn của anh ẩn chứa nhiều điều. Trong đó có lí do anh không mời cô ngồi xuống. Berish không lỗ mãng, chỉ là anh không quen với việc có bạn ngồi cùng. Lạ lùng thay, Mila hiểu điều đó. Không phải do sự thương cảm, mà bởi kinh nghiệm.
    Theo quy tắc danh dự ngầm của cớm, những nguyên nhân khiến người ta bị ruồng bỏ không nhiều, nhưng không thể xoá đi được. Tệ nhất là tội phản bội đồng nghiệp và mách lẻo. Hình phạt tương đương với sự mất mát một phần của quyền công dân, nhưng trên hết là sự an toàn. Bởi những người lẽ ra có quyền bảo vệ bạn sẽ không buồn động tay nữa. Tuy vậy, Berish có vẻ chịu đựng tình trạng đó khá tốt.
    Mila nhận lấy chiếc khăn tay và lau những mẩu thức ăn vương trên áo khoác da của mình.
    - Cô ăn gì không? - Berish đột ngột hỏi. - Tôi mời.
    - Trứng và cà phê ạ, cám ơn anh. - Cô cảnh sát đáp và ngồi xuống đối diện với Berish.
    Anh gọi một cô phục vụ, chuyển yêu cầu của Mila cùng với một tách cà phê thứ hai.
    - Tại sao một người phụ nữ mang cái tên Tây Ban Nha xinh đẹp như cô lại quyết định tự gọi mình là Mila? - Anh hỏi trong khi gấp tờ báo lại.
    - Ai nói với anh đó không phải là tên thật của tôi?
    - Maria Elena, đúng không?
    - Cái tên đó không thuộc về tôi, hoặc tôi không thuộc về nó.
    Berish ghi nhận điều này. Anh nhìn Mila bằng đôi mắt sẫm màu, nhưng cái nhìn của anh không làm cô khó chịu. Anh có một ánh mắt đẹp, và Mila không ngại khi bị nhìn như thế.
    Berish có vẻ thoải mái. Thái độ chín chắn, thân hình săn chắc, các cơ bắp gồ lên dưới lớp vải áo sơmi khiến cho bộ comlê lịch lãm của anh trở nên giống như một cái áo giáp. Anh không phải luôn như thế từ trước đến giờ. Steph đã nói với Mila là Berish nghiên cứu môn nhân học. Nhưng lúc này cô chưa muốn tìm hiểu xem nguyên nhân nào đã dẫn anh tới sự thay đổi mạnh mẽ đó.
    - Vậy, anh sẽ nói với tôi về Kairus chứ?
    - Trong mười lăm phút nữa chỗ này sẽ vắng ngắt. - Berish vừa đáp vừa xem đồng hồ. - Cô cứ thoải mái dùng bữa, sau đó tôi sẽ giải đáp các thắc mắc của cô. Rồi chúng ta sẽ chia tay và không gặp lại nhau nữa. Cô hiểu chứ?
    - Nhất trí.
    Thức ăn được dọn lên. Mila ăn trứng trong khi Berish uống cà phê của mình. Sau đó ít phút, nhà hàng trở nên vắng lặng. Các cô phục vụ đi dọn dẹp bàn. Tiếng cười nói ồn ào nhường chỗ cho tiếng đĩa tách lanh canh.
    Con chó dưới chân Berish vẫn ngủ.
    - Tôi không muốn biết tại sao cô đến đây, tôi không quan tâm chuyện đó. - Đặc vụ Berish nói ngay. - Tôi đã chôn chặt câu chuyện này từ nhiều năm trước. Tôi sẽ nói với cô những gì tôi biết, mặc dù cô có thể đọc nó trong hồ sơ.
    - Chính thủ trưởng Stephanopoulos của tôi là người khuyên tôi đến nói chuyện với anh.
    - Già Steph. Ông ta là cấp chỉ huy đầu tiên của tôi, hồi tôi mới ra trường.
    - Tôi không biết đấy. Tôi cứ tưởng Steph luôn làm việc ở Minh Phủ.
    - Không đâu, ông ta từng nắm chương trình bảo vệ nhân chứng.
    - Chuyện đó tôi chưa hề nghe.
    - Thật ta thì nó không còn tồn tại nữa. Đó là thời còn bọn tội phạm có tổ chức và chính quyền phải tiến hành hàng loạt phiên toà để bắt các thủ lĩnh băng đảng. Sau đó, đơn vị đã được giải tán và chúng tôi được điều chuyển đi các nơi khác. Nhưng mà này, cô...
    - Tôi sao cơ?
    Berish nhìn Mila kỹ hơn nữa.
    - Chính là cô, đúng không?
    - Tôi không hiểu.
    - Cô từng tham gia vụ "Kẻ nhắc tuồng", giờ thì tôi nhớ ra rồi.
    - Anh có trí nhớ tốt đấy. Nhưng nếu anh không phiền, lần này chúng ta sẽ bàn đến các bóng ma của anh, chứ không phải của tôi. Hãy cho tôi biết về Kairus.
    Berish hít một hơi thật sâu. Như thể anh đang mở một cánh cửa đã khép chặt từ lâu trong lòng mình. Như Mila đã dự cảm, sau cánh cửa đó những bóng ma đe doạ vẫn đang nhảy múa. Chúng lần lượt hiện lên trên gương mặt của người đặc vụ khi anh bắt đầu kể lại.

  8. #27
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 26
    Nhìn chung, ngày trước tận thế thường trôi qua trong yên bình.
    Mọi người đi làm, bắt tàu điện ngầm, nộp thuế. Chẳng ai nghi ngờ gì. Mà tại sao phải nghi ngờ? Họ làm những điều mà họ luôn làm, dựa trên một nhận định cực kỳ đơn giản: nếu ngày hôm nay cũng giống như ngày hôm qua, thì tại sao ngày mai phải khác đi? Đó đại loại là ý nghĩa câu chuyện của Berish, và Mila cũng đồng tình.
    Đôi khi thế giới chấm dứt với mọi cư dân của nó. Đôi khi chỉ với một số nhất định.
    Một sáng nọ, một người thức dậy mà không hay biết đó là ngày cuối cùng của đời mình. Trong một số trường hợp, sự kết thúc rất lặng lẽ, thậm chí vô hình. Nó bình thản chín muồi để rồi xuất hiện trong một chi tiết không phù hợp, hoặc một thủ tục.
    Như vụ "Người ru ngủ" chẳng hạn, nó khởi đầu bằng một vé phạt đậu xe.
    Trên kính chắn gió của chiếc xe có dán con tem tròn cho phép cư dân được đậu xe trên con phố. Tuy nhiên hai bánh xe của nó đã vượt ra khỏi vùng giới hạn. Các nhân viên tận tụy của chính quyền địa phương đã ghi nhận sự vi phạm. Tấm vé phạt được kẹp dưới cần gạt nước vào một buổi sáng thứ Ba. Ngày hôm sau, thêm một tấm vé khác nhập hội với nó. Và cứ như thế suốt cả tuần lễ, cho đến khi một mảnh giấy được dán vào lớp kính, yêu cầu chủ phương tiện lập tức dời chỗ chiếc xe của mình.
    Hai mươi ngày sau, một chiếc xe cẩu của toà thị chính lên đường. Chiếc xe hơi vi phạm - một chiếc Ford màu xám ánh kim - được kéo về bãi giam xe. Để lấy nó ra, người chủ phương tiện sẽ phải trả một khoản phạt kha khá. Theo quy định của pháp luật, bốn tháng sau ngày bắt đầu giam xe, chiếc xe sẽ bị chính thức tịch thu. Người chủ phương tiện được gia hạn thêm sáu mươi ngày nữa để đóng phạt trước khi chiếc xe bị đem bán đấu giá để bù đắp chi phí mà hội đồng thành phố đã bỏ ra.
    Tuy nhiên, buổi đấu giá không có ai tham gia, và chiếc Ford bị đem tiêu huỷ. Để bù vào chi phí này, toà thị chính đã phái một thừa phát lại đến tịch biên tài sản của người chủ xe tại nơi cư trú.
    Đến lúc đó, người ta mới nhận ra chủ xe đã biến mất từ nhiều tháng trước. Anh chàng tên André García, không có gia đình, xuất ngũ do bị phát hiện đồng tính và phải sống nhờ tiền trợ cấp.
    Thư khuyến mại và tờ rơi quảng cáo chất đầy trong hộp thư của anh ta. Điện, nước và khí đốt đã bị cắt vì nợ tiền. Thực phẩm trong tủ lạnh đã hoàn toàn thối hỏng.
    Cùng thời gian này, cánh nhà báo đang săn lùng những vụ tai tiếng về việc các chính trị gia chiếm đoạt tiền của công dân bằng những biện pháp đồi bại nhất, dưới vỏ bọc hợp pháp cùng sự đồng loã của bộ máy chính quyền.
    Thế là, André García được đưa lên báo.
    Bài báo mô tả cách thức một cơ cấu ngược đãi dân đen được thiết lập, và làm thế nào, trước khi có sự can thiệp của thừa phát lại, không ai buồn đến gõ cửa nhà người công dân để hỏi xem tại sao anh ta không nhích chiếc xe hơi chết tiệt của mình thêm nửa mét. Báo chí giật những tít như: "MỌI NGƯỜI QUÊN ANH, NHƯNG HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ THÌ KHÔNG!" hoặc "THỊ TRƯỞNG TUYÊN BỐ: GARCÍA, TRẢ TIỀN CHO CHÚNG TÔI MAU!".
    Trên thực tế, không ai thắc mắc về số phận của anh chàng André bất hạnh. Chắc anh ta đã rời bỏ thành phố hoặc quăng mình xuống sông, nhưng do không một dấu hiệu gì cho thấy anh ra là nạn nhân của một tội ác, nên việc chọn kết cục nào là quyền của anh ta. Tuy thế André đã được ghi công: anh ta được dùng làm dẫn chứng. Và vì công chúng có nhu cầu phẫn nộ, nên các phương tiện truyền thông đã tìm kiếm các vụ việc tương tự, trong đó toà thị chính, ngân hàng hoặc kho bạc nhà nước tiếp tục lấy tiền của những người quá cố hoặc đang chìm trong hôn mê sau tai nạn.
    Do vậy mọi thứ gần như một trò hề khi sáu vụ việc khác đã được phanh phui. Bốn phụ nữ và hai nam giới, tuổi nhỏ nhất mười tám, lớn nhất năm mươi chín, đã biến mất trong vòng mười hai tháng trước đó.
    Những người mất ngủ.
    - Đó là những người bình thường, giống như cô phục vụ bàn mang thức ăn cho chúng ta mỗi buổi sáng, cậu trai rửa xe cho chúng ta dịp cuối tuần, hoặc người cắc tóc cho chúng ta hàng tháng. - Berish giải thích. - Họ đơn độc. Giống như nhiều người khác, cô có thể nói như vậy. Tuy nhiên sự cô độc của họ thì khác. Một cái dây leo đã mọc bên trong họ. Tùng chút một, nó quấn lấy họ, chiếm toàn bộ không gian, che giấu thứ nằm bên trong. Họ sống giữa những người đồng loại với loài cây ký sinh đó trong cơ thể. Chúng sống không phải bằng máu, mà bằng tâm hồn của họ. Những người này không vô hình, chúng ta có thể tương tác với họ, trao đổi dăm ba câu hoặc một nụ cười trong khi chờ lấy cà phê hay nhận tiền thối. Chúng ta gặp họ rất thường xuyên, nhưng rồi lập tức quên họ ngay, như thể họ chưa bao giờ tồn tại. Họ quay lại cuộc sống ở lần tiếp theo cô gặp họ, để rồi lại biến mất. Bởi vì họ vô vị. Điều đó còn tệ hơn là sự vô hình. Định mệnh đã quy định họ không được để lại bất kỳ dấu vết nào trong cuộc sống của những người khác. Trong cuộc đời mình, họ không gợi lên bất kỳ sự quan tâm nào nơi những người xung quanh. Sau khi biến mất, bỗng dưng không chỉ mọi người để ý đến họ, mà họ còn trở thành đối tượng của một sự trân trọng muộn màng. Làm sao tôi có thể quên cậu giao hàng trẻ tuổi, hay cô sinh viên thích sưu tập kỳ lân? Thầy giáo dạy khoa học đã về hưu và bà quả phụ bị ba đứa con bỏ rơi? Hay là người phụ nữ bị tật ở chân đã mở một cửa hàng chuyên bán các vật dụng bằng vải, cô bán hàng ở trung tâm thương mại tối thứ Bảy nào cũng đi đến cùng một quán bar với hi vọng được ai đó chú ý? Theo một cách hơi tuỳ tiện, các phương tiện truyền thông đã gắn bảy người mất tích đó với nhau, cho rằng họ đã được dẫn dắt bởi cùng một nguyên do, và có thể bị bắt cóc bởi cùng một bàn tay. Như thường lệ, cảnh sát đã đi theo chỉ dẫn của truyền thông và điều tra về trách nhiệm nếu có của một bên thứ ba. Tuy không nói thẳng ra, nhưng một số đã ám chỉ đến khả năng tồn tại của một tên giết người hàng loạt. Có thể nói nó giống như một chương trình truyền hình thực tế, vào thời kỳ mà những chương trình kiểu này chưa xuất hiện, trong đó bảy người mất tích là những nhân vật chính. - Berish giải thích. - Mọi người cảm thấy mình có quyền nói về họ, lục lọi đời tư của họ, phán xét họ. Ngay cả cảnh sát liên bang cũng bị soi và có nguy cơ biến mình thành trò hề. Kẻ vắng mặt duy nhất chính là ngôi sao thực sự: sát thủ. Tất nhiên là giả định, vì làm gì có thi thể. Do không ai biết tên hắn, hung thủ đã được gán cho nhiều biệt danh. Ảo thuật gia, vì hắn làm người ta biến mất. Kẻ chiêu hồn, vì không ai tìm được cái xác nào. Định nghĩa này hơi ghê rợn nhưng "ăn tiền". Dù sao thì, biệt danh Người ru ngủ gây được ấn tượng mạnh nhất, do một thông tin duy nhất được tiết lộ từ cuộc điều tra: điểm chung của bảy người mất tích là tất cả đều có sử dụng thuốc ngủ. Nếu không có nhiều áp lực đến thế thì cảnh sát liên bang đã không quá xem trọng một vụ án được dựa trên sự liên hệ mong manh như vậy. Sự chú ý mạnh đến nỗi chúng tôi không thể phớt lờ vụ việc. Cho dù chẳng ai tin đó thực sự là một tội ác. Nó đã chấm dứt như nhiều người dự đoán: không có người mất ngủ nào biến mất nữa, người ta dần chán câu chuyện, và giới truyền thông đã tìm ra một khúc xương khác để gặm. Vụ việc đã bắt đầu như một trò đùa, với cái vé phạt đỗ xe không đúng quy định của anh lính André García tội nghiệp, để rồi kết thúc cũng như một trò đùa: chẳng có tội ác, chẳng có thủ phạm nào, và cũng chẳng có gì thay đổi kể từ đó.
    - Cho đến ngày nay. - Mila thêm vào.
    - Đó là nguyên nhân khiến cô đến đây, tôi đoán thế. - Berish nói. - Còn tôi thì, tôi không muốn biết gì hết về chuyện đó.
    Đã quá 10 giờ, tiệm ăn Tàu đang đón những người khách mới. Những người dân thường tranh thủ sự vắng bóng của các cảnh sát để gọi thức ăn và đòi hỏi một chút sự chú ý.
    - Anh đã giải thích cho tôi các biệt danh của thủ phạm giả định đó, nhưng anh chưa nói tôi biết lí do của cái tên Kairus. - Mila nói.
    - Thật ra thì, đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy nó.
    Mila nhận thấy tay đặc vụ cẩn thận né tránh cái nhìn của cô. Có thể Berish là chuyên gia thẩm vấn giỏi nhất của sở, nhưng anh ta nói dối rất kém. Tuy vậy, Mila cũng không dám chắc về điều này. Anh ta đã hợp tác, và Mila không muốn chọc vào chỗ nhạy cảm với việc buộc tội anh ta che giấu sự thật.
    - Để tôi giặt nó cho. - Cô vừa nói vừa chỉ vào chiếc khăn tay mà Berish đã cho cô mượn. - Cám ơn về bữa sáng.
    - Không có gì.
    Điện thoại di động của Mila kêu bíp một tiếng, báo hiệu một tin nhắn vừa đến. Cô đọc nó rồi nhét điện thoại vào túi cùng với cái khăn tay.
    - Steph đã nói gì với cô về tôi? - Berish hỏi khi Mila đứng lên chuẩn bị ra về.
    - Anh là kẻ bị ruồng bỏ, và tôi cần phải dè chừng.
    - Rất tinh đời.
    Mila cúi xuống để vuốt ve con chó.
    - Tuy vậy, tôi tự hỏi... Tại sao Steph lại khuyên tôi đến gặp anh, đồng thời bảo tôi phải cảnh giác?
    - Cô thừa biết chuyện gì sẽ xảy ra với những ai dây dưa với một gã cớm bị ruồng bỏ rồi mà, đúng không? Nó cũng giống như bệnh truyền nhiễm ấy.
    - Tôi chẳng việc gì phải sợ, vì cái mác đó có làm anh hề hấn gì mấy đâu.
    Berish thanh toán tiền và cười nhẹ trước lời mỉa mai của Mila.
    - Cô thấy nơi này không? - Anh hỏi, tay chỉ cái nhà hàng. - Nhiều năm về trước, hai cảnh sát tuần tra đã bước qua cái cửa kia vào giờ ăn sáng, rồi cũng giống như cô, họ đã gọi món trứng chiên và cà phê. Người chủ, nghe nói là vừa từ Trung Quốc sang, chỉ có hai khả năng: đáp rằng món đó không có trong thực đơn và có nguy cơ mất hai khách hàng, hoặc đi đánh vài quả trứng trong bếp. Ông ta đã chọn khả năng thứ hai, và kể từ hôm đó, trong vòng ba tiếng đồng hồ mỗi ngày, ông ta phục vụ thứ thức ăn chẳng liên quan gì với ẩm thực truyền thống Quảng Đông, nhưng lại giúp ông ta kiếm tiền. Chỉ là ông ta đã học được một bài học rất quan trọng.
    - Khác hàng luôn đúng à?
    - Không phải. Mà là cải biên một nền văn hoá hàng ngàn năm sẽ dễ hơn thay đổi ý định của một tay cớm cứ muốn ăn trứng chiên thịt muối trong một nhà hàng Tàu ngớ ngẩn.
    - Không biết chuyện này có an ủi anh hay không, nhưng tôi cóc cần biết những gì mấy gã đồng nghiệp nghĩ về mình.
    - Cô coi đó là một cuộc chơi mà người ta ghi điểm khi chơi rắn? Cô nhầm rồi.
    - Vì thế nên anh đã không phản ứng khi bị một tay thuộc cấp sỉ nhục chăng?
    - Chắc cô coi thường tôi lắm, nhưng cái tay đó không nhắm vào tôi đâu. - Berish thích thú khẳng định. - Khi tôi ngồi một mình, chẳng ai quấy rầy tôi cả. Người ta vờ như tôi không có mặt ở đây, cùng lắm thì họ cũng chỉ xem tôi như một sợi tóc nằm lẫn trong dĩa thức ăn của mình, nó làm người ta kinh tởm, nhưng rồi người ta kéo nó ra và tiếp tục ăn như không có chuyện gì... Chuyện xảy ra sáng nay là do sự hiện diện của cô. Người mà họ muốn cảnh báo là cô đấy. Và thông điệp rất rõ ràng: "Tránh xa gã này ra, nếu không cô sẽ nhận lấy những thứ tương tự". Ở địa vị cô, tôi sẽ nghe theo lời khuyên của họ.
    Mila vừa ngạc nhiên vừa bực mình trước sự thẳng thừng của Berish.
    - Vậy tại sao sáng nào anh cũng đến đây? Steph đã bảo đảm tôi sẽ tìm thấy anh. Anh thích bị xử tệ hay sao?
    Berish mỉm cười đáp:
    - Tôi đến đây từ hồi mới vào ngành cảnh sát, và tôi chưa bao giờ có ý định đổi chỗ ăn sáng. Mặc dù, nói thật nhé, thức ăn ở đây cũng chẳng ngon lành cho lắm, tôi lại còn bị mùi chiên xào ám vào quần áo. Nhưng nếu không đến nữa thì, chẳng hoá ra tôi đồng tình với những kẻ muốn hất tôi ra khỏi ngành à?
    Mila không biết Berish bị trừng phạt vì tội gì, cô chỉ biết là không có cách gì hoá giải được nó, nhưng cô hiểu sự việc này ít nhiều có liên quan gì đó với vụ Kairus. Cô đặt một tay lên bàn và chồm người về phía tay đặc vụ.
    - Steph đã cử tôi đến đây bởi vì, không giống những người khác, anh đã không để yên mọi chuyện, có phải thế không? Anh đã tiếp tục đi tìm sự thật về bảy vụ mất tích kia. Thế là anh phạm sai lầm đã khiến anh trở thành kẻ bị ruồng bỏ. Tuy nhiên, theo tôi, anh chưa bao giờ từ bỏ, kể cả bây giờ. Anh muốn tiếp tục, nhưng một phần trong anh ngăn cản điều đó. Anh ra vẻ bàng quan như một thầy chùa, chẳng qua là do nỗi tức giận được biến thành sự câm lặng. Sự thật là, nếu anh bỏ cuộc, anh sẽ không bao giờ tha thứ cho mình.
    - Sao cô biết điều đó?
    - Vì tôi cũng sẽ làm như vậy.
    Tay đặc vụ có vẻ cảm động vì câu trả lời của Mila. Đã quen với những lời phán xét nặng nề, đôi khi bất công, nhưng trong ngành cảnh sát, Berish chưa bao giờ gặp một người nào không e dè trước lời nguyền anh ta đang gánh chịu.
    - Hãy quên câu chuyện này đi, tôi nói thế chỉ tốt cho cô thôi. Kairus không tồn tại. Toàn bộ câu chuyện này chỉ là một sự hoang tưởng của đám đông.
    - Anh có biết PHV nghĩa là gì không? - Mila hỏi thẳng.
    - Cô muốn đi đến đâu đây?
    - Potential Hominide Victim. Nạn nhân án mạng tiềm năng. Ở Minh Phủ có một kho lưu trữ dành riêng cho họ. Nó chứa các dấu vân tay, mẫu máu, mẫu ADN của những người mất tích có khả năng đã bị giết, cũng như các vật dụng cá nhân của họ. Điều khiển tivi, bàn chải đánh răng, sợi tóc mắc kẹt trên chiếc lược, hoặc một món đồ chơi. Những thứ đó được lưu trữ đề phòng trường hợp phải nhận dạng các phần thi thể không toàn vẹn.
    - Tại sao cô kể cho tôi nghe chuyện này?
    - Cách đây bốn ngày, một gã buôn ma tuý đã bị giết. Chính xác hơn là người ta đã làm hắn chết ngạt với ba xentimet nước bẩn đựng trong một cái bát ăn của chó. Hung thủ đã để lại các dấu tay trên sợi dây trói nạn nhân, nhưng bất chấp điều đó hắn vẫn chưa được nhận diện.
    - Vì hắn không có trong hồ sơ lưu trữ.
    - Có đấy, nhưng không phải trong hồ sơ tội phạm, mà là trong hồ sơ của nạn nhân... Nạn nhân án mạng tiềm năng. Mới năm phút trước đây, tôi đã nhận được tin nhắn này. - Mila vừa nói vừa rút chiếc di động trong túi ra để đưa cho Berish xem. - Theo cảnh sát khoa học, các dấu tay thuộc về một người mang tên André García, cựu quân nhân đồng tính đã mất tích hai mươi năm về trước.
    Berish tái mặt.
    - Bây giờ, nếu muốn, anh cứ việc nói với tôi là anh cóc cần biết thêm gì nữa. Thế nhưng, có vẻ như một trong các nạn nhân giả định của Người ru ngủ đã quay trở lại.

  9. #28
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 27
    Cô ấy đã hiểu.
    Không còn nghi ngờ gì nữa. Khi rời khỏi tiệm ăn Tàu, cô đã bỏ anh ra lại một mình với dư âm của câu nói cuối cùng.
    Nó thông báo sự quay trở về từ bóng tối của André García.
    Đó không phải là một sự việc ngẫu nhiên và không dự kiến. Hắn ta đã quay về để giết người. Điều đó đe doạ nhiều thứ. Những thứ mà Simon Berish đã quyết lòng bảo vệ, dù không chủ ý.
    Tay đặc vụ đung đưa người trên chiếc ghế trong văn phòng làm việc, mắt nhìn vào khoảng trống, tựa như một người đi trên dây đang giữ thăng bằng với các suy nghĩ của mình.
    Hitch quan sát anh từ trong cái góc thường nằm của nó - một trong những ưu điểm của việc bị ruồng bỏ là người ta có thể đưa chó vào văn phòng mà không ai phản đối.
    Ở phía ngoài, trụ sở cảnh sát đang rộn rã như mọi khi. Nhưng sự ồn ào không bao giờ vượt qua ngưỡng cửa văn phòng anh, cũng giống như các đồng nghiệp của Berish, những người luôn giữ khoảng cách với anh. Họ chỉ là những cái bóng ở phía sau lớp kính cửa mờ đục.
    Văn phòng này là chốn lưu đày của anh.
    Tuy vậy, anh vẫn giữ cho nó ngăn nắp, như thể đang đợi một vị khách. Các hồ sơ được sắp xếp ngay ngắn trên kệ. Trên bàn anh, chiếc kính lúp gắn đèn, cốc đựng bút chì, chiếc gạt tàn và cái điện thoại nằm ngay hàng thẳng lối. Phía trước bàn là hai cái ghế.
    Nếp quen chính là thứ đã cứu anh trong suốt những năm tháng bị cô lập.
    Berish đã xây lên một rào cản của các thói quen cho phép mình kháng cự lại sự khinh bỉ của người khác và sự cô độc. Sau khi bị bỏ rơi, anh đã phải tự mình vực dậy và tìm ra một cách thức làm nghề mới. Mất đi sự tôn trọng của các đồng nghiệp, lẽ ra anh đã bỏ việc, vì đó là giải pháp hợp lý duy nhất. Tuy nhiên, anh không chấp nhận một sự kết án khi không được kháng cáo. Nếu từ bỏ chiếc phù hiệu cảnh sát của mình, chắc anh sẽ rơi xuống vực thảm. Nhờ bám trụ với nghề, anh đã ngăn được cú rơi.
    Mặc cho cái giá mà Berish phải trả mỗi ngày, những cử chỉ thiếu tôn trọng và những cái nhìn ác ý cho anh một cái cớ để tiếp tục đấu tranh.
    Cuộc chiến đấu bắt đầu khi anh mua cuốn sách nhân học đầu tiên. Vốn luôn thiên về hành động, anh đã quyết định khai thác phần con người đã bị che lấp trong một thời gian dài của mình, và dùng nó để thay thế cho khẩu súng.
    Cái đầu đã trở thành vũ khí của Berish.
    Anh đã dành toàn tâm toàn ý cho việc nghiên cứu môn nhân học. Chuyện này khởi đầu chỉ đơn thuần vì tò mò, nhưng anh mau chóng nhìn thấy được tiềm năng của nó, cũng như cách thức áp dụng những kiến thức của nó trong công việc hàng ngày.
    Nhân học đã mở ra cho Berish những chân trời mới, cho phép anh hiểu bản thân và người khác tốt hơn.
    Trong đơn vị, mọi người xem Berish như thằng hâm. Anh dùng giờ làm việc để thu mình trong văn phòng ngồi học. Xét cho cùng, anh cũng chẳng có việc gì khác để làm. Các thượng cấp không giao việc cho anh nữa, đồng nghiệp cũng từ chối cộng tác với anh.
    Bọn họ đã hi vọng anh bỏ việc.
    Anh phải lấp đầy các khoảng trống trong ngày, và sách giáo trình là một giải pháp kỳ diệu. Lúc đầu, anh tưởng chúng được viết bằng một thứ ngôn ngữ không thể hiểu được, đã hơn một lần anh định ném chúng vào tường. Nhưng dần dà, ý nghĩa của các câu chữ bắt đầu hiện lên qua từng trang sách, tựa như tàn tích của một nền văn minh đã mất nay lại trồi lên từ trong lòng đại dương.
    Các đồng nghiệp nghi hoặc nhìn Berish khi anh khuân những thùng to đựng đầy sách vào văn phòng. Họ không hiểu anh đang bày trò gì. Thật ra, chính bản thân Berish còn không biết tất cả những thứ này sẽ dẫn mình đến đâu. Nhưng anh tin sớm muộn rồi mình sẽ tìm thấy câu trả lời.
    Và nó đã đến vài năm sau đó, khi anh thẩm vấn một nghi can. Thay vì mớm hoặc ép cung, anh đặt mình ngang hàng với đối tượng và biến cuộc thẩm tra thành buổi tán gẫu. Bí mật thành công của anh nằm ở một quan sát đơn giản.
    Nhiều người không thích nói, nhưng chắc chắn họ thích được lắng nghe.
    Đối với một số người, chuyện này giống như một nghịch dụ. Những người nắm bắt được sự khác biệt không nhiều. Berish nằm trong số đó, và kể từ lúc ấy anh không dừng lại nữa. Tiếng tăm về biệt tài của anh không thể xóa đi sự tẩy chay của mọi người, nhưng họ coi anh như một vũ khí bí mật, một giải pháp tối thượng cho các trường hợp không còn hi vọng. Khi không thể làm khác đi, họ sẽ mời anh đến.
    Thế là Berish đã có một vị thế riêng so với các đồng nghiệp, đồng thời vẫn làm kẻ vô hình.
    Mila Vasquez gây nguy hiểm cho trạng thái cân bằng mong manh mà anh đã nhọc nhằn tạo dựng qua nhiều năm. Cho dù cô không nói gì thêm, anh vẫn có cảm giác còn nhiều vụ án khác ngoài vụ André García.
    Những kẻ mất tích quay về để giết chóc.
    Dạo gần đây, Berish nhận thấy một sự căng thẳng nhất định trong sở cảnh sát. Tất nhiên không ai nói chuyện với anh, nhưng anh dám chắc có điều gì đó đang diễn ra. Nếu Mila chỉ nói cho Berish các dấu tay của André García đã được tìm thấy tại hiện trường vụ sát hại một gã buôn ma túy, sự lo ngại của anh sẽ chỉ có chừng mực.
    Nhưng cô đã nhắc đến cái tên Kairus. Và điều đó khiến anh sợ.
    Lúc ở tiệm ăn Tàu, anh đã cố che giấu sự ngạc nhiên của mình và khẳng định với Mila đây là lần đầu tiên anh nghe thấy biệt danh đó. Nhưng không phải vậy.
    Cô ấy đã hiểu, Berish tự lập lại trong đầu. Cô ấy biết mình đã nói dối.
    Thường thì trong những cuộc điều tra nhạy cảm, người ta tránh lan truyền một số chi tiết quan trọng nhầm lột mặt nạ những tay dựng chuyện hoặc xác định tính chuẩn xác của một lời chứng. Việc không thông báo rộng rãi cái tên Kairus đã được áp dụng vì các nguyên nhân nghiêm trọng hơn nhiều. Chỉ có những người thật sự có liên quan đến vụ án mới biết cái tên này.
    Stephanopoulos đã khuyên thuộc cấp của mình đi gặp anh. Nếu thủ trưởng cũ của Berish mạo hiểm đến mức như vậy thì phải có một lí do.
    Simon Berish có cảm giác một bóng ma đã lại xuất hiện sau một thời gian dài ẩn nấp.
    Có lẽ anh đã hơi vội vàng khi chấm dứt sớm cuộc nói chuyện với Mila.

  10. #29
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết





    CHƯƠNG 28
    Dã hơn ba mươi sáu tiếng đồng hồ trôi qua. Không có án mạng nào khác được phát hiện.
    Trong khi mọi người tại trụ sở chờ đợi thủ đoạn tiếp theo của cái mà họ tin là một tổ chức khủng bố, Mila càng lúc càng tin tưởng mình đang đi đúng hướng. Nhưng trong lúc này, cô không có ý định chia sẻ các phát hiện của mình với thượng cấp.
    Đó có thể là một nguy cơ, nhưng nó là một phần bản tính của cô.
    Cuộc đối thoại với đặc vụ Berish đã mở mắt cho Mila. Cô chắc chắn anh ta chưa kể hết sự thật. Steph đã nhắc cô dè chừng người này, nhưng ông lại không nói mình đã từng là sếp của anh ta trong quá khứ. Khi đó Berish vừa mới ra trường, còn Steph là người lãnh đạo chương trình bảo vệ nhân chứng.
    Tuy nhiên, Mila đã hiểu ra một điều. Cho dù chuyện gì đã xảy ra trong sự nghiệp và biến anh ta thành kẻ bị ruồng bỏ, Berish chưa bao giờ bỏ cuộc. Anh ta đã không chọn bia rượu để tìm niềm an ủi cho nỗi phẫn uất và sự hận thù của mình, như nhiều tay cớm thất chí khác. Anh ta đã chọn một chiến lược khác.
    Berish đã thay đổi bản thân.
    Sau khi rời tiệm ăn Tàu, Mila quay về trụ sở. Kể từ sau cuộc họp cô dám phát biểu ý kiến và bị chế nhạo, Boris và Gurevich không liên hệ với cô nữa. Chắc họ còn bận săn đuổi tên giết người tập thể và một cựu cảnh sát đã biến thành sát thủ.
    Họ chưa biết chuỗi án mạng không dừng lại ở vụ giết người do Eric Vincenti thực hiện. Nó đã tiếp tục với cái chết do ngạt nước của gã buôn bán ma túy, diễn ra vào ngày 19 tháng 9, một ngày trước vụ thảm sát gia đình Belman do Roger Valin thực hiện. Phương pháp điều tra như vậy là đã rõ, Mila sẽ tìm thấy lời giải đáp cho các câu hỏi của mình bằng cách đi ngược dòng thời gian. Cô phải tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra hai mươi năm trước và ghép nó với các sự kiện đang diễn ra.
    Chắc chắn có một sự liên hệ giữa hiện tại và quá khứ.
    Và cỗ máy thời gian có thể giúp cô tìm ra mối liên hệ đó chính là kho lưu trữ dưới tầng hầm Minh Phủ.
    Mila bước xuống các bậc thang mất hút trong bóng tối của căn hầm. Khi xuống đến nơi, cô giơ tay lần mò trong bóng tối và ấn một công tắc. Các bóng đèn huỳnh quang lần lượt bật lên, chiếu sáng một loạt các hành lang quanh co với những vách tường được phủ kín bằng các tủ tài liệu.
    Mùi hầm sâu và hơi ẩm bao vây Mila. Đây là một nơi xa cách với thế giới, ánh sáng ban ngày không xuống được, sóng điện thoại di động cũng dừng lại bên ngoài. Như thể chúng sợ đi vào trong.
    Mila tiến một bước quyết đoán về phía bên trái.
    Những cái tủ nằm san sát bên cạnh cô được đánh số tiến. Chúng được lắp cửa kính để cho phép người ta nhìn thấy thứ ở bên trong: những món đồ đa dạng cất trong các túi nhựa có dán nhãn. Có những chồng quần áo gấp gọn ghẽ, những chiếc bàn chải đánh răng, những chiếc giày lẻ - chẳng việc gì phải lưu trữ theo đôi. Mắt kính, mũ nón, lược chải tóc. Đầu lọc thuốc lá. Có cả điều khiển tivi, áo gối và vỏ nệm nhem nhuốc, muỗng nĩa bẩn và những chiếc điện thoại.
    Tất cả những gì có thể chứa đựng các dấu vết hữu cơ của người mất tích đều được lưu trữ kèm theo hồ sơ của họ.
    Các nhân viên của Minh Phủ luôn lấy một món đồ đã từng tiếp xúc với cá nhân mà họ tìm kiếm, để thu được mẫu ADN hoặc dấu vân tay của người đó. Khi họ cho rằng đối tượng không tự nguyện biến mất, người này được xếp loại PHV - nạn nhân án mạng tiềm năng.
    Đây là quy trình chuẩn đối với trẻ em, nhưng nó cũng được tuân thủ chặt chẽ trong trường hợp vụ mất tích gợi ra giả thuyết tội ác.
    Tất cả những người lớn khỏe mạnh về thể chất và tinh thần đều có quyền tự do biến đi nếu muốn. "Ở Minh Phủ này, chúng ta không ép ai phải quay về cả. Chúng ta chỉ muốn đảm bảo không có gì nghiêm trọng xảy ra", Steph luôn nói như vậy.
    Mỗi khi đi xuống kho lưu trữ, Mila lại nhớ đến lời của thủ trưởng.
    Sau một lộ trình ngắn đã thuộc nằm lòng qua nhiều lần ghé xuống, Mila đi đến chỗ giống như một căn phòng ở trung tâm của mê cung. Thật ra đó là một khoảng không gian vuông vức nằm giữa các dãy tủ.
    Ở giữa các khoảng trống có một chiếc ghế và một cái bàn bằng phoócmica, kèm theo một chiếc máy tính cũ.
    Mila treo áo khoác vào lưng ghế rồi bỏ các món đồ trong túi lên một chiếc kệ. Ngoài chùm chìa khóa nhà, chìa khóa xe và điện thoại di động, cô lấy ra cả chiếc khăn tay mà Berish cho mượn lúc ở trong tiệm ăn Tàu. Bất giác cô hít mùi của nó.
    Chiếc khăn có mùi nước hoa.
    Hơi nồng quá, Mila tự nhủ để xua đi suy nghĩ mình thích mùi hương này. Cô đặt chiếc khăn cạnh các thứ còn lại và quyết định gạt nó ra khỏi đầu, trước khi đi tìm hồ sơ của bảy vụ mất tích hai mươi năm về trước. Việc số hóa kho lưu trữ chỉ bắt đầu từ một năm sau thời điểm đó, nên cô chỉ có thể xem các văn bản trên giấy.
    Mila đi tìm chúng rồi quay lại chiếc bàn bằng phoócmica.
    Khi mở hồ sơ, cô thấy trong đó chỉ có các biên bản có liên quan đến những cá nhân mất tích - tất cả đều được xếp loại PHV. Ngoài ra, không còn gì nữa. Không hề có sự đề cập nào tới Ảo thuật gia, Kẻ chiêu hồn hay Người ru ngủ, Kairus lại càng không. Chỉ có một gợi ý mơ hồ rằng một người nào đó có thể đứng sau các vụ mất tích.
    Mila có cảm giác hồ sơ đã bị "tẩy xóa", nghĩa là các dữ liệu thật sự của vụ việc nằm ở nơi khác, và đây chỉ là một bản lưu "dự phòng" - người ta gọi như thế đối với các tài liệu được đánh dấu mật do tình thế đòi hỏi hoặc vì lí do an ninh.
    Nhưng cô đã có được André García.
    Kẻ không đóng tiền phạt vi cảnh, cựu quân nhân, người có thể được ví như bệnh nhân đầu tiên của một dịch bệnh. Nguồn gốc của mọi chuyện.
    Trong số bảy người mất tích hai mươi năm về trước, hắn là người đầu tiên biến mất. Và trong số bốn sát thủ của những ngày vừa qua, hắn cũng là kẻ quay lại đầu tiên.
    Để ra tay, Mila tự nhủ.
    Do đó, cô có thể biết được nhiều điều từ André García. Cũng giống như một nhà dịch tễ học đi tìm ổ dịch để tìm hiểu xem căn bệnh đã lây lan như thế nào.
    Cô bỗng nảy ra một ý tưởng về mối liên hệ có thể tồn tại giữa André García, Roger Valin, Nadia Niverman và Eric Vincenti.
    Khi ai đó quyết định biến đi, thường thì anh ta không chuẩn bị hành lý. Một phần vì những thứ anh ta sở hữu sẽ nhắc nhớ đến cuộc sống mà anh ta đang muốn trốn chạy. Nếu người biến mất mang theo thứ gì đó, thì có thể đồ vật này - hoặc còn hơn thế, mối liên hệ tình cảm mà nó đại diện - có chức năng như một sợi dây an toàn, cho phép người ta có thể lần ngược lại để quay về nhà. Nhưng các cuộc ra đi không được tính toán trước thường được gặp nhiều hơn. Và đó là những vụ khó làm sáng tỏ nhất.
    Đôi khi người ta cứ thế mà ra đi, Mila thầm nghĩ. Họ trốn chạy một điều gì đó: một sự ám ảnh, một nỗi đau, một ai đó và giải pháp duy nhất là biến mất hoàn toàn. Để tìm ra những người này, các nhân viên của Minh Phủ trông cậy vào một số thủ thuật và may mắn.
    Luôn tồn tại một cơ may người biến mất thay đổi ý định, hoặc thiếu thận trọng, chẳng hạn như sử dụng thẻ ngân hàng để rút tiền hoặc thanh toán. Hoặc là mua các loại thuốc mà họ thường dùng. Ví dụ như, nếu đối tượng bị tiểu đường, anh ta sẽ cần đến insulin. Đó là lí do các nhân viên Minh Phủ luôn hỏi chuyện các bác sĩ của người mất tích, đồng thời kiểm kê tủ thuốc trong lần đầu tiên xem xét nơi ở của họ.
    Chính điều này đã làm nảy ra một ý trong đầu Mila.
    Cô mở máy tính, để khỏi quay lên văn phòng, rồi truy cập vào kho lưu trữ số hóa của Minh Phủ.
    Cô nhập vào máy những cái tên Roger Valin, Nadia Niverman và Eric Vincenti. Hồ sở của họ lần lượt được mở ra trên màn hình. Vừa xem xét chúng, Mila vừa ghi chép vào một tập giấy nhỏ đặt cạnh con chuột máy tính. Sau khi đã hoàn tất việc tìm kiếm, cô nhìn những gì mình vừa viết. Bảy người mất tích hai mươi năm về trước đều sử dụng thuốc ngủ - do vậy mới có cái biệt danh Người ru ngủ.
    Quả nhiên, ở nhà Roger Valin có vỏ thuốc Halcion, vốn được kê cho mẹ hắn. Nadia Niverman thì vừa mới mua một lọ Minias. Còn Eric Vincenti thì được kê toa Rohypnol, mặc dù người ta không tìm thấy nó trong căn hộ của anh.
    Như vậy họ có một mối liên hệ với André García và những người mất tích hai mươi năm về trước - những người mất ngủ.
    Mila không biết nên mừng hay lo trước phát hiện này. Một vụ mất tích hàng loạt từ lâu, một bàn tay ai đó phía sau. Một sát thủ chăng? Không có sự khẳng định nào ở đây. Những vụ mất tích xảy ra không có lí do và chấm dứt cũng không có lí do.
    Tuy nhiên, với điều mà cô vừa phát hiện được, có vẻ như chúng chưa chấm dứt.
    Cứ cho là các vụ mất tích của những người mất ngủ có gián đoạn một thời gian, Mila suy nghĩ. Ba năm yên ắng, để cho sự chú ý qua đi, sau đó đến lượt Roger Valin, kẻ đã biến mất mười bảy năm trước. Không ai kết nối vụ mất tích của tay kế toán viên với các vụ trước đó ba năm, và tất cả lại bắt đầu diễn ra như trước.
    - Nhưng nếu những người này quay lại, có nghĩa là họ không chết, vậy thì đâu thể gọi họ là nạn nhân. - Mila buộc miệng nói thành tiếng.
    Và như vậy giả thuyết về một thủ phạm nào đó đứng sau các vụ mất tích - Ảo thuật gia, Kẻ chiêu hồn, Người ru ngủ - cũng trở nên chông chênh.
    Tuy nhiên, Berish đã có một phản ứng khác lạ khi nghe mình nhắc tới cái tên Kairus.
    Mila tắt máy tính. Còn thiếu một thứ gì đó. Một miếng ghép của sự thật. Tay đặc vụ đã giấu cô một thông tin cực kỳ quan trọng đối với những gì xảy ra hai mươi năm trước.
    Kairus không phải là một sự hoang tưởng tập thể, cô tin chắc như vậy.
    Mila cầm lấy tập giấy ghi chú và chiếc khăn tay của Berish rồi quay lên Minh Phủ. Đã quá 9 giờ tối.
    Chiếc điện thoại trong túi áo khoác rung lên lôi Mila ra khỏi dòng suy nghĩ về những hệ quả của sự tồn tại một kẻ xấu phía sau vụ án. Cô nhìn màn hình, chừng một chục tin nhắn cho biết ai đó đã cố gọi cho cô nhiều lần.
    Đó là số điện thoại của phòng điều động trong sở cảnh sát. Chỉ có một lí do duy nhất khiến họ gọi cho một nhân viên Minh Phủ, và một thoáng rùng mình nhanh chóng chạy dọc lưng Mila.
    Khi lên đến Sảnh Đợi, Mila quay số.
    - Đặc vụ Vasquez ạ? - Một giọng đàn ông cất lên.
    - Vâng, là tôi đây.
    - Chúng tôi đã cố liên lạc với cô suốt buổi chiều hôm nay. Chúng tôi vừa có một báo động.
    Mila đã hiểu câu đó có ý nghĩa là gì.
    Các vụ mất tích của trẻ vị thành niên thường là do tự ý đi bụi. Chúng được giải quyết rất nhanh gọn. Thế hệ trẻ bây giờ quá lệ thuộc công nghệ. Khi một đứa trẻ cầm theo điện thoại di động thì việc tìm ra nó chỉ là vấn đề thời gian.
    Thường thì bọn trẻ sẽ tắt máy để không ai gọi được, qua đó làm tăng thêm tâm trạng lo lắng của phụ huynh. Nhưng nhìn chung, chúng chẳng thể chịu nổi hơn hai mươi bốn tiếng đồng hồ mà không kiểm tra xem đứa bạn thân có nhắn nhót gì mình không. Ngay khi chúng bật điện thoại lên, cho dù không gọi điện hoặc gửi tin nhắn, thẻ sim vẫn kết nối với mạng điện thoại và cảnh sát lập tức biết ngay chúng đang ở nơi nào.
    Khi họ không gặp may như thế và bọn trẻ bặt tăm trong một thời gian dài, các điều tra viên của Minh Phủ sẽ yêu cầu công ty điện thoại không được khóa số điện thoại của người mất tích, vì đã có trường hợp phải đến vài năm sau chiếc di động hoặc thẻ sim mới hoạt động trở lại. Phòng điều động của sở cảnh sát chỉ việc chờ đợi một tín hiệu trên màn hình.
    - Chúng ta vừa có một sự tái kích hoạt. - Viên cảnh sát nói. - Chúng tôi đã cho kiểm tra, đó không phải là tín hiệu nhầm lẫn, cho dù không có cuộc gọi nào được thực hiện. Việc tái kích hoạt đã được xác nhận.
    Mila có linh cảm một chuyện gì đó đang diễn ra.
    - Là ai vậy?
    - Chủ thuê bao là một Diana Muller nào đó.
    Mười bốn tuổi. Tóc nâu, mắt nâu. Biến mất vào một buổi sáng tháng Hai trên đường đi học. Theo thông tin thuê bao, điện thoại của cô bé đã ngừng hoạt động vào lúc 8 giờ 18 phút.
    Sau chín năm im lặng, chiếc điện thoại đó lại được bật lên.
    - Anh có định vị được tín hiệu không?
    - Tất nhiên là được.
    - Tốt rồi, anh cho tôi xin địa chỉ nhé.

  11. #30
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 29
    Dó là một chiếc Nokia cũ.
    Diana Muller đã tìm thấy nó trên một băng ghế công viên, chắc do chủ nhân của nó bỏ quên, nhưng để tìm ra người đó thì chịu. Chiếc điện thoại không phải là loại tốt - tốn pin và màn hình bị rạn - và không thể cạnh tranh được với các mẫu điện thoại thông minh tân tiến mà khi đó còn chưa xuất hiện. Nhưng nó nghe gọi được.
    Đối với Diana, một cô bé chưa từng sở hữu điện thoại di động thì chỉ thế thôi đã là nhiều lắm rồi.
    Chiếc điện thoại tựa như tấm giấy thông hành để bước vào đời. Cô bé nâng niu nó như một món đồ mới. Thậm chí còn trang trí nó với một cái dây nhỏ xinh gắn hình thiên thần và một cái bao điện thoại in đầy các ngôi sao vàng lấp lánh. Dưới nắp đậy, cô bé viết hàng chữ "Đồ của Diana Muller" và vẽ một trái tim nhỏ cùng với tên viết tắt của người con trai mình thích, như một kiểu bùa thuật để khiến một ngày kia cậu ta gọi đến.
    Chiếc điện thoại mà cô bé rất tự hào ấy ngày nay chắc hẳn chằng làm đứa thiếu niên nào hứng thú. Nó không truy cập được Internet, cũng chẳng xem được thư điện tử, chơi game hay tải các ứng dụng. Không thể dùng nó như thiết bị định vị, máy chụp hình thì càng không.
    Nó chỉ cho phép nghe gọi và nhắn tin.
    - Cháu bỏ lỡ biết bao nhiêu thứ đấy, Diana. - Mila nói thầm trên đường đến nơi chiếc điện thoại được định vị.
    Điều đáng lo là địa điểm đó nằm cách không xa nơi cô bé mất tích.
    Chín năm về trước, một thiếu nữ đã tan biến vào không khí. Theo Mila, bí ẩn nằm ở chỗ chiếc điện thoại đang phát tín hiệu từ trong bóng tối đó tượng trưng cho điều gì đối với Diana.
    Một sự ám ảnh.
    Ở cái tuổi mà một cô gái nhỏ có thể quay về nhà cùng với một con chó lạc, một hôm Diana đi học về với một chiếc đài cũ, mà cô bé bảo là nhặt được trên phố. Cô bé quả quyết rằng bỏ nó ở đó thì tiếc quá, và người chủ thật vô ý thức khi vứt nó đi.
    Tuy nhiên, không giống chiếc điện thoại di động, cái đài đã bị hỏng và không thể sửa chữa được. Nhưng đối với Diana, chuyện này không thành vấn đề.
    Lần đó mẹ Diana lại tiếp tục để cho cô con gái làm theo ý mình mà không biết rằng kể từ lúc ấy, Diana tha lôi về nhà đủ thứ đồ vật linh tinh - một cái chăn, một chiếc xe đẩy, mấy cái hũ thủy tinh, đống tạp chí cũ. Lần nào cô bé cũng lý giải bằng một câu chuyện thuyết phục.
    Lúc đầu, mẹ của Diana ý thức được tính chất khác thường trong hành vi của con gái nhưng không tìm ra lý lẽ đủ mạnh để ngăn con mình lại. Bà đã không nhận ra hành vi này che giấu một loại bệnh tâm thần được biết đến với cái tên rối loạn ám ảnh tích trữ.
    Khác với bà ta, Mila biết đó là một bệnh lý ám ảnh cưỡng chế. Những người mắc bệnh này tích trữ các thứ đồ vật linh tinh và không thể vứt bỏ chúng.
    Trong trường hợp của Diana, việc đó cứ tiếp tục tiếp diễn cho đến khi các món đồ tích tụ trong phòng cô bé trở nên quá cồng kềnh. Ngoài việc thiếu không gian di chuyển, vấn đề vệ sinh cũng được đặt ra: thật sự thì "kho báu" mà Diana khăng khăng bảo là nhặt nhạnh tình cờ xuất xứ từ các thùng rác.
    Mẹ của Diana hiểu ra vấn đề vào hôm cả căn hộ bị xâm lăng bởi lũ gián. Chúng ở khắp nơi: trong tủ, chạn bếp hoặc dưới thảm. Chúng xuất phát từ trong phòng của Diana, và khi vào kiểm tra, bà kinh hoàng nhận ra các túi rác của chính gia đình mình. Không hiểu vì nguyên nhân gì, con gái bà đã đem chúng vào phòng và cất giấu giữa đống đồ đạc của mình.
    Mila hình dung cảm giác ghê rợn và chấn động khi thấy trước mặt mình thứ mà theo thói thường của xã hội tiêu thụ, người ta cứ tưởng đã vứt bỏ khỏi cuộc sống cũng như trí nhớ của mình. Chúng ta vứt bỏ thức ăn thừa và các đồ dùng vô dụng. Chúng ta tin rằng chúng không còn dính dáng đến mình nữa. Cái ý tưởng nhìn thấy những thứ chúng ta đã loại bỏ tự dưng quay lại đeo bám cũng ghê rợn chẳng kém gì việc nhìn thấy sự xuất hiện trở lại của một người mà ta tin chắc rằng đã chết.
    Nó vừa không thể hiểu nổi, vừa đáng sợ. Tựa như các động cơ không thể lường được của những kẻ điên hoặc các khao khát bệnh hoạn của những người mắc chứng ái tử thi.
    Trong cơn hoảng loạn, mẹ của Diana đã quyết định vứt tất cả. Khi đi học về, cô con gái buộc phải đối diện với sự trống trải. Và vài ngày sau thì sự trống trải đó nuốt chửng cô bé.
    Mẹ của Diana tên là Chris. Bà chỉ có mỗi mình Diana trên đời. Trong đầu Mila hiện lên cái nhìn thất thần của một người mẹ. Hồi Diana mất tích, cô chưa làm trong Minh Phủ. Cô và mẹ của Diana gặp nhau sau đó, vì bà đều đặn ghé qua trụ sở cảnh sát để hỏi thăm tin tức con. Mỗi chuyến viếng thăm của Chris là một lần khốn khổ đối với ngay chính các thành viên của Minh Phủ.
    Đứng trên ngưỡng cửa Sảnh Đợi, bà tìm kiếm khuôn mặt của Diana để chắc chắn tấm ảnh vẫn còn nằm đúng chỗ và không ai quên cô bé. Sau đó, bà rón rén đi vào, chờ đợi xem có ai chú ý đến mình hay không.
    Thường thì Eric Vincenti là người tiếp đón Chris. Anh sẽ bảo bà ngồi xuống và đem trà cho bà uống. Sau đó, hai người sẽ tán gẫu một chút, cho đến khi anh chắc chắn bà đã sẵn sàng để quay về nhà. Sau khi Eric biến mất, Mila là người an ủi Chris.
    Không có chút thấu cảm nào, cô khó có thể hình dung những gì đang diễn ra trong trái tim người mẹ. Mila rất giỏi trong việc phân loại các cơn đau của mình: dao cứa, bỏng, bầm dập. Cùng với sự tức giận và sợ hãi, đó là nguồn cảm xúc duy nhất mà cô có. Cũng chính vì thế mà khác với Vincenti, cô chưa bao giờ thật sự kết nối được với người mẹ. Tuy nhiên, cô cũng hiểu được kha khá chuyện về bà.
    Chẳng hạn như, Chris không phải là một bà mẹ tồi tệ. Bà biết nuôi dạy con gái và nghiêm khắc khi cần thiết, dù thiếu vắng một người chồng hoặc bạn trai đóng vai người cha. Bà đã dung thứ cho chứng bệnh vô lí của Diana, vì bà biết mình cũng không hoàn hảo. Một hôm, Chris nói với Mila là bà tin chắc con gái mình không hạnh phúc và ngầm căm ghét mẹ. Trong khi cô bé Diana dịu dàng và ngọt ngào ấy chẳng ghét ai cả.
    Lỗi của Chris chính là yêu bọn đàn ông.
    Bà toàn để bọn họ lợi dụng mình - xu hướng khổ dâm khiến bà phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác.
    Diana là nạn nhân thực sự của thái độ sống đó.
    Đã bao nhiêu lần vợ của nhân tình tấn công Chris tại siêu thị để bắt bà buông tha chồng người ta? Và đã bao nhiêu lần bà phải đổi chỗ làm vì bị gã sếp sa thải sau khi đã lạm dụng xong? Hai mẹ con cứ phải chuyển nhà liên tục để tránh sự soi mói và những lời chửi bới.
    Do vậy, khi Diana bắt đầu "nhặt nhạnh", đó có lẽ là một cách gửi tín hiệu cho mẹ, đồng thời đánh dấu một lãnh địa rốt cuộc đã là của cô bé. Không có một quá khứ được xây dựng bởi các đồ vật quen thuộc, hoặc những thứ có thể gắn bó, Diana đành nhặt lấy quá khứ bị vứt bỏ của người khác.
    Chris hiểu ra điều đó quá muộn, và bà đã đối xử với con gái mình như một bệnh nhân tâm thần. Có lần, Chris nói với Mila là bà tin chắc Diana không biến mất hoặc bị bắt cóc. Bà tin cô bé đã tự tử vì người mẹ đàng điếm, căn cứ theo việc một lọ Rohypnol trong nhà đã biến mất.
    Mila phanh gấp khiến chiếc Hyundai chết máy. Cô ngồi yên giữa con đường vắng tanh, với tiếng tích tích trong capô và những lời nói vang trong đầu.
    Lọ thuốc ngủ trong vụ mất tích của Diana không thể chỉ là trùng hợp được.
    Không thể là sự thật. Không thể nào. Mình không tin. Lần này phải báo cho Boris thôi. Cô không thể liều lĩnh.
    Nhưng mày đã đi quá xa, một giọng nói trong đầu bảo Mila. Chắc chắn họ đã loại mày khỏi cuộc điều tra rồi.
    Tín hiệu phát ra từ trước điện thoại đã im tiếng suốt chín năm trời là một lời mời gọi dành cho Mila. Một thứ gì đó hay một ai đó đang đợi cô. Mila lại cho xe chạy tiếp.
    Cô không muốn bỏ lỡ cuộc hẹn này.

Trang 3 / 8 ĐầuĐầu 12345 ... Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-11-2017, 01:14 AM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-25-2016, 12:40 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-29-2016, 11:58 AM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-20-2016, 03:10 AM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-27-2015, 11:00 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •