Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Xứ nào đẹp nhất ư ?
Xin thưa, xứ mà người yêu của mình đang ở.
I.A.Krylov„
Trang 4 / 8 ĐầuĐầu ... 23456 ... Cuối Cuối
Results 31 to 40 of 75

Chủ Đề: Người Ru Ngủ

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Người Ru Ngủ



    Tác giả: Donato Carrisi




    Giới thiệu

    Nhân vật Mila Vasquez, nữ cảnh sát chuyên điều tra các vụ mất tích đã làm say lòng độc giả yêu thích tiểu thuyết trinh thám qua hơn 500 trang sách của Kẻ nhắc tuồng nay xuất hiện quyết đoán và gai góc hơn trong Người ru ngủ, anh em sinh đôi với Kẻ nhắc tuồng.

    Bảy năm trôi qua, Mila quyết định ẩn mình tại Minh Phủ - phòng điều tra chuyên trách những vụ mất tích không rõ nguyên nhân. Bản thân không có được sự thấu cảm dành cho người khác, cô đành gửi gắm con gái Alice cho bà ngoại chăm sóc. Trong khi đó, giáo sư tội phạm học Gavila vẫn đang hôn mê sâu và được canh gác cẩn mật. Mọi việc tưởng chừng trôi qua trong êm đềm, nhưng thật ra đó là khoảng lặng trước cơn bão.

    Tất cả bắt đầu bằng một cú điện gọi đến đường dây nóng của cảnh sát: Một tên sát nhân máu lạnh đã đột nhập vào gia đình một nhà tài phiệt trong lĩnh vực dược phẩm, giết hại toàn bộ thành viên trong gia đình sau khi cố tình để lộ danh tính. Hắn là Roger Valin, mất tích không rõ nguyên nhân 17 năm về trước, tái xuất hiện với bộ trang phục giống hệt trong bức ảnh chụp trước khi biến mất được lưu trữ tại Minh Phủ. Hắn đã ở đâu trong suốt thời gian qua? Bị người ngoài hành tinh bắt cóc chăng? Động cơ gây án là gì? Những câu hỏi ấy đòi hỏi sự vào cuộc của một chuyên gia tìm người mất tích, và không ai khác hơn, đó chính là đặc vụ Maria Elena Vasquez, hay Mila Vasquez.

    Càng dấn sâu vào điều tra, Mila nhanh chóng phải đối mặt với những vụ giết người liên tiếp xảy ra mà thủ phạm đều là những người mất tích từ lâu. Sau khi tái xuất để gây án, bọn chúng lại biến mất một lần nữa. Mọi cái chết dường như đều có liên hệ với một tên tội phạm sừng sỏ vẫn còn ngoài vòng pháp luật từ 30 năm nay: Người Ru Ngủ.

    Để chặn đứng “đạo quân bóng tối”, Mila buộc phải nhờ đến sự cộng tác của đặc vụ Simon Berish, người đã từng theo đuổi vụ án suốt 20 năm trời, và đã phải trả giá nặng nề khi bị cả trụ sở cảnh sát khinh bỉ, ruồng rẫy. Một nhân vật đặc biệt, một trợ thủ đắc lực của Mila Vasquez.

    Và những gì hai người phát hiện đã đưa cả hai vào vòng nguy hiểm chết người.

    Donato Carrisi sinh năm 1973 ở Ý, tốt nghiệp ngành luật và tội phạm học trước khi trở thành nhà viết kịch bản phim truyền hình. Cuốn tiểu thuyết trinh thám đầu tay Kẻ nhắc tuồng của ông đã gây được tiếng vang lớn với năm giải thưởng Văn học quốc tế, được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, và đưa tác giả lên vị trí “nhà văn Italia được đọc nhiều nhất trên thế giới”.

    Mời các bạn đón đọc Người Ru Ngủ của tác giả Donato Carrisi.





    MỞ ĐẦU
    Phòng số 13 trong nhà xác quốc gia được giành cho những người đang ngủ.
    Nó nằm ở tầng hầm thứ tư, cũng là tầng dưới cùng, giống như một tầng địa ngục. Một địa ngục buốt giá với nhiều gian phòng lạnh, nơi tiếp nhận các thi thể vô danh. Rất hiếm khi nó được thăm viếng.
    Thế nhưng đêm nay, một vị khách đang trên đường xuống tận nơi.
    Người trông xác chờ đợi vị khách trước cửa thang máy, mắt ngước nhìn những con số ghi nhận chuyển động đi xuống của buồng thang máy. Trong khi chờ đợi, ông ta tự hỏi vị khách bất ngờ này là ai, và nhất là, điều gì đã đưa đẩy anh ta đến cái tiền đồn xa xôi rất lạ lẫm với người sống này.
    Con số cuối cùng xuất hiện. Im lặng kéo dài hồi lâu trước khi cửa thang máy xịch mở. Người trông xác quan sát vị khách. Anh ta tầm bốn mươi tuổi, mặc một bộ comlê màu xanh thẫm. Giống như những người lần đầu tiên xuống dưới này, anh ta tỏ vẻ kinh ngạc khi thấy ở đây không được ốp gạch men trắng và chiếu sáng bằng đèn diệt khuẩn, thay vào đó các bức tường có màu xanh lá cây và ánh sáng có màu cam.
    - Màu sắc giúp ngăn chặn chứng lo âu. - Người trông xác giải thích khi nhận thấy câu hỏi không được nói ra, đồng thời đưa chiếc áo blu màu xanh da trời cho khách.
    Người khách không nói gì. Anh ta mặc áo vào, sau đó hai người bắt đầu đi dọc theo hành lang.
    - Các thi thể nằm ở tầng này chủ yếu là của người vô gia cư hoặc dân nhập cư bất hợp pháp. Bọn họ không có giấy tờ tùy thân, cũng chẳng có gia đình, và sau khi chết ngóm thì học được đưa vào đây. Tất cả được phân vào các phòng đánh số thứ tự từ 1 đến 9. Phòng số 10 và 11 được dành cho những người có đóng thuế đều đặn và xem được bóng đá trên truyền hình, giống như anh và tôi, nhưng nhồi máu cơ tim trên xe điện ngầm. Lấy cớ giúp đỡ, một hành khách móc ví của người xấu số và hấp, xảo thuật thành công, người kia biến mất mãi mãi. Cũng có khi, vấn đề chỉ là do quan liêu: một cán bộ nhầm lẫn giấy tờ của anh, và những thân nhân đến nhận dạng thi thể chỉ thấy trước mắt mình xác của một người khác. Như thể anh chưa chết, gia đình tiếp tục đi tìm anh. - Người trông xác kiêm hướng dẫn viên tự phong cố gây ấn tượng cho vị khách, nhưng hoài công. - Tiếp đến, các trường hợp tự tử hoặc tai nạn được đưa vào phòng số 12. Nhiều khi các thi thể ở tình trạng tệ hại đến nỗi không biết có phải là xác người hay không nữa. - Ông ta nói tiếp để thử bụng dạ của vị khách, nhưng có vẻ người này không phải loại non gan. - Dẫu sao thì, pháp luật đã dự tính một sự đối xử như nhau cho tất cả: họ phải nằm lại trong phòng lạnh ít nhất mười tám tháng. Sau đó, nếu thi thể vẫn không được nhận dạng hoặc được người thân đưa về, và nếu cảnh sát không có ý định mở lại cuộc điều tra, thi thể được phép đưa đi hỏa táng.- Ông ta trích dẫn điều luật theo trí nhớ.
    Đến đây, giọng nói của người trông xác trở nên hơi căng thẳng một chút, vì những gì ông ta nói tiếp theo có liên quan đến mục tiêu của chuyến viếng thăm khuya khoắt này.
    - Và rồi, chúng ta có các thi thể nằm trong phòng số 13.
    Nạn nhân vô danh của những tội ác chưa được làm sáng tỏ.
    Trong trường hợp giết người, luật pháp quy định thi thể chỉ là một vật chứng cho đến khi danh tính của nạn nhân được xác nhận. Chúng ta không thể buộc tội một kẻ sát nhân nếu không chứng minh người bị hắn giết đã từng tồn tại thật sự. Thi thể vô danh là bằng chứng duy nhất của sự tồn tại đó. Do vậy nó phải được bảo quản vô hạn định. Đó là một chi tiết lạ lùng nhất của luật pháp mà các luật sư rất thích thú.
    Luật pháp đã quy định chừng nào hành vi tội ác gây ra cái chết chưa được xác định, thi thể không thể bị tiêu hủy hoặc để phân rã tự nhiên.
    - Chúng tôi gọi họ là những người đang ngủ.
    Những người đàn ông, phụ nữ, trẻ con vô danh mà kẻ giết hại họ chưa được xác định. Họ chờ đợi suốt nhiều năm trời để được ai đó xuất hiện giải thoát khỏi lời nguyền khiến họ giống như còn sống. Như một câu chuyện cổ tích rùng rợn, tất cả những gì phải làm là đọc một thần chú.
    Tên của họ.
    Nơi tiếp nhận họ - căn phòng số 13 - nằm ở cuối hành lang.
    Khi đi đến trước cánh cửa sắt, người trông xác loay hoay một lúc với chùm chìa khóa để tìm đúng chìa. Ông ta mở cửa và tránh sang một bên nhường lối để khách bước vào phòng. Ngay khi anh ta bước vào, một dãy bóng đèn vàng trên trần lập tức được bật sáng nhờ cảm biến chuyển động. ở giữa phòng là một bàn giảo nghiệm tử thi, vây quanh bởi các dãy tủ lạnh cao ngất với hàng chục ngăn chứa xác.
    Một tổ ong bằng thép.
    - Anh phải ký vào đây. Quy định là thế. - Người trông xác vừa nói vừa đưa ra một quyển sổ đăng ký. - Anh quan tâm đến cái nào? - Ông ta hỏi tiếp với một chút sốt ruột.
    Cuối cùng người khách cũng lên tiếng.
    - Thi thể đã nằm ở đây lâu nhất.
    AHF-93-K999.
    Người trông xác thuộc nằm lòng số hiệu đó. Mừng thầm vì đã có lời giải cho bí ẩn lâu năm, ông ta lập tức chỉ vào ngăn tương ứng. Nó nằm ở vách tường bên trái, hàng thứ ba từ dưới lên. Ông ta chỉ nó cho vị khách.
    - Trong số các xác chết nằm lại nơi đây, câu chuyện về cái xác này chưa phải lạ lùng nhất. - Người trông xác nôn nóng giải thích. - Một chiều thứ Bảy, đám trẻ chơi bóng đá trong công viên đã sút quả bóng vào bụi rậm. Thế là anh ta được tìm thấy, với một viên đạn trong sọ. Anh ta không có giấy tờ, cũng không có chìa khóa nhà. Khuôn mặt anh ta vẫn còn trong tình trạng nhận dạng được, nhưng không có người nào gọi đến đường dây nóng để hỏi về anh ta, hoặc trình báo việc anh ta mất tích. Trong khi chờ người ta tìm ra thủ phạm, một việc có thể không bao giờ xảy ra, thi thể nằm đây là bằng chừng duy nhất của tội ác. Chính vì thế mà tòa án đã quyết định bảo quản anh ta trong này cho đến khi vụ giết người được làm sáng tỏ, công lý được thực thi. - Người trông xác ngừng lời một chút. - Đã nhiều năm trôi qua, nhưng anh ta vẫn nằm đây.
    Bấy lâu nay, người trông xác tự hỏi việc gì phải bảo quản bằng chứng của tội ác mà không ai nhớ đến. Ông ta luôn cho rằng mọi người đã quên mất người lưu trú vô danh của phòng xác số 13. Thế nhưng, khi được nghe yêu cầu của vị khách, ông ta cảm thấy bí mật được lưu giữ sau lớp thép dày vài xentimet kia sẽ còn hơn cả một cái tên đơn thuần.
    - Anh mở ra đi, tôi muốn xem anh ta.
    AHF-93-K999. Trong những năm qua, số hiệu gắn trên nhãn ngăn tủ vẫn là tên họ của thi thể. Đêm nay, điều đó có thể sẽ thay đổi. Người trông xác điều khiển van xả khí để mở ngăn đựng xác.
    Kẻ đang ngủ sắp được đánh thức.

  2. #31
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 30
    Khu phố mục tiêu nằm trên bờ sông.
    Những tòa nhà cao tầng lấp lánh chủ yếu dùng để làm văn phòng vào giờ muộn thế này giống như những thánh đường trong suốt trống rỗng. Đội ngũ nhân viên đã nhường chỗ cho các bà lao động đang đẩy những chiếc máy đánh bóng sàn nhà và đi gom rác.
    Mila đếm được ba khối nhà trước khi tìm thấy con đường nhỏ mà cô quan tâm.
    Cô rẽ trái và đi tiếp cho đến khi bị một vách tôn nối liền hai tòa nhà văn phòng chắn ngang đường. Các tấm biển lớn cho biết công trình xây dựng còn đang dang dở.
    Mila dừng xe, bước xuống và nhìn quanh. Địa chỉ nằm ở phía bên kia vách chắn. Cô gọi cho phòng điều động để kiểm tra xem tín hiệu điện thoại của Diana còn hay đã mất.
    - Nó vẫn còn ở đó. - Nhân viên trực trả lời cô.
    Mila gác máy và tìm một khe hở trên vách tôn. Tìm thấy một cái ở phía bên phải, cô khom người chui qua.
    Trước mặt Mila là công trình xây dựng vắng lặng. Cô đã chắc mẩm sẽ phải đụng đầu một bảo vệ, nhưng chẳng có ai trông coi nơi này. Tòa nhà đang xây có mười tầng, và căn cứ theo quy mô của nền móng, chắc chắn nó còn cao hơn nữa. Bên cạnh đó, một cái hố đã được đào để chuẩn bị xây một tòa nhà tương tự. Ở phía xa, các công trình phụ đang còn dang dở.
    Nằm giữa số này là một tòa nhà bằng gạch đỏ có lẽ được xây từ thế kỷ trước - vết tích cuối cùng của khu phố cũ đã bị san phẳng để nhường chỗ cho tòa cao ốc. Mila nhìn số trên mặt tiền tòa nhà và tiến đến gần. Thay vì giữ cô lại, bàn tay vô hình mang tên sợ hãi cứ thúc cô bước tới.
    Mila đi đến gần tòa nhà. Nó dường như cũng tiến về phía cô.
    Tòa nhà gạch đỏ có hai tầng. Các ô cửa sổ đã bị bịt kín từ phía bên trong bởi các tấm ván ép. Những dòng chữ viết bằng sơn xịt cảnh báo nguy cơ sụp đổ. Nằm giữa những mẫu kiến trúc hiện đại, tòa nhà nom như một cái răng sâu. Có vẻ nó bị bỏ hoang hoàn toàn.
    Mila đứng trước cánh cửa ra vào đồ sộ bằng gỗ, trên đó có dán một tờ giấy. Đó là công văn của hội đồng thành phố, được ban hành hai mươi ngày trước đó.
    Theo quyết định của thị trưởng, tòa nhà sẽ bị đập bỏ để nhường chỗ cho các công trình xây dựng theo quy hoạch đô thị mới. Những chủ nhà được yêu cầu dọn đi trong vòng ba tuần lễ.
    Mila nhẩm tính trong đầu. Theo công văn này, việc phá dỡ sẽ bắt đầu ngay ngày mai.
    Cô đẩy cửa, nó không nhúc nhích. Cô tìm cách phá khóa, nhưng vô ích.
    Mila bèn lui lại một bước để lấy đà rồi huých vai vào lớp gỗ. Một, hai lần. Chẳng được gì.
    Cô đảo mắt nhìn quanh tìm một thứ gì có thể giúp được mình. Cách đó vài mét có một chiếc xẻng. Nhặt nó lên, Mila tách lưỡi xẻng vào khe hở bên dưới cánh cửa. Cô ấn nó vào sâu một chút, khiến các mảnh gỗ bung ra. Dồn hết trọng lượng cơ thể vào cán xẻng, cô bẩy thật mạnh. Cánh cửa gỗ nghiền ken két và bắt đầu lỏng đi. Mila không lơi tay mà tiếp tục nỗ lực, những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán cô.
    Có thứ gì đó bên trong rơi ra và cánh cửa bật mở.
    Mila vứt xẻng đi rồi tiến lên trước một bước. Hành động xâm nhập của cô được chào đón bằng tiếng vọng trong gian sảnh tăm tối. Một mùi hôi thối không chịu được xộc vào mũi Mila. Nó giống như mùi của một thứ trái cây khổng lồ bị hỏng. Cô chưa hiểu ngay nguồn gốc của thứ mùi này.
    Đầu tiên, Mila lôi chiếc đèn pin trong túi ra, bật lên rồi chĩa về phía trước. Cô thấy một gian phòng lớn trống rỗng, cùng một cầu thang dẫn lên tầng trên.
    Quay người về phía cửa, cô nhìn thấy một thanh sắt được dùng để chặn cửa. Thanh sắt còn nguyên vẹn, trong khi hai cái khoen móc han gỉ đã bị bung ra dưới tác động của lực bẩy.
    Mila lắng nghe vọng âm, hi vọng nó tiết lộ một sự hiện diện của ai đó.
    Tiếng động, mùi và sự đậm đặc của bóng tối khiến cô nhớ đến những cái hầm chứa bí mật, nơi người ta vứt các thứ vô dụng vào đó để cho khuất mắt.
    Cô tìm trong túi chiếc khăn tay Berish đã đưa cho và buộc nó quanh đầu để bịt miệng.
    Nó vẫn còn đượm mùi nước hoa.
    Mila dò xét bóng tối đang thách thức phía trước. Cô không sợ bóng tối, vì từ khi còn bé cô đã quen với nó. Nhưng điều đó không làm cô trở nên gan dạ. Chỉ là cô không bỏ chạy trước nỗi sợ hãi, vì cô cần nó. Sự lệ thuộc vào cảm xúc đó khiến Mila bất cần, cô biết. Lẽ ra cô phải quay lại xe hơi và gọi cho các đồng nghiệp. Nhưng thay vào đó cô rút súng ra và chậm rãi bước lên các bậc thang.

  3. #32
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 31
    Trên đầu cầu thang có một cánh cửa.
    Mùi hôi thối kinh khủng phát ra từ trong đó. Cô vẫn ngửi thấy dù đã bịt khăn cả mũi lẫn miệng. Mila giơ tay kiểm tra độ chắc của cánh cửa, nhưng cửa mở ngay khi những ngón tay của cô đẩy nhẹ.
    Cô chĩa đèn pin về phía trước.
    Những chồng báo cũ nằm chất lên nhau đến tận trần nhà cao ba mét. Nằm san sát nhau, chúng tạo thành một cái vách tường không thể vượt qua, và chừa lại một không gian chỉ vừa đủ để mở cánh cửa.
    Mila vừa tiến vào vừa tự hỏi làm thế nào băng qua vật cản này, nhưng chiếc đèn pin đã chỉ ra một khoảng hở.
    Không ngần ngại, cô lách người qua đó.
    Trước mắt Mila là một hành lang trải dài, rộng vừa đủ cho một người đi, hai bên là những món đồ chồng chất. Cô tiến tới. Như một người dạy thú với cái roi trong tay, Mila soi đèn pin để xua đi bóng tối luôn chực chờ tấn công.
    Xung quanh cô là đủ thứ linh tinh.
    Bao bì nhựa, chai rỗng, vỏ đồ hộp. Cả sắt phế liệu nữa. Quần áo đủ kiểu dáng và màu sắc. Một cái máy khâu từ thời những năm 1920. Những cuốn sách cổ được bọc da hoặc sách mới hơn với bìa in màu, tuy đã phai nhạt theo năm tháng. Những cái đầu búp bê. Vỏ hộp thuốc lá đã rách. Tóc người. Vali. Hộp. Một dàn âm thanh cũ. Các cấu điện động cơ. Một con chim nhồi rơm.
    Có thể nói đây là nhà kho của một tay đồng nát điên rồ. Hoặc là cái bụng của một con cá voi đã nhặt nhạnh tất cả mọi thứ trong các chuyến hải trình.
    Sự hỗn độn này có một ý nghĩa.
    Mila không hiểu, nhưng cô cảm nhận được nó. Thật khó giải thích. Như thể nó có một phương pháp. Như thể mỗi món đồ đều được ấn định một vị trí chính xác. Như thể ai đó đã cố gắng bày ra, vì một lí do bất kỳ, một bãi đồ phế thải khổng lồ, sắp xếp các thứ vứt đi theo một tiêu chí bí mật, trong đó mỗi cái đều có một vai trò riêng.
    Câu trả lời cho thứ mà cô đang thấy trước mắt đã rõ ràng: rối loạn ám ảnh tích trữ. Căn bệnh của Diana Muller.
    Lần này thì cô ta đã làm mọi thứ ở quy mô lớn. Một kho chứa đồ đầy ắp. Một mê cung.
    Mila bước tới trước trên lối đi. Cô cảm thấy các đồ vật dưới chân mình. Chúng đã rơi xuống từ các núi đồ ở hai bên, qua đó cho thấy sự chông chênh của những thứ xung quanh Mila. Cô càng thận trọng gấp bội.
    Khi đi đến cuối con đường, lối đi tạo thành một ngã ba. Mila soi đèn vào hai ngã, tìm kiếm một lí do để chọn bên này hoặc bên kia. Cô quyết định rẽ phải, vì có vẻ như nó dẫn vào trung tâm của mê cung.
    Giống như kho lưu trữ của Minh Phủ, nơi này tiếp nhận tàn dư của hàng ngàn cuộc sống. Những bằng chứng duy nhất cho sự tồn tại trên trái đất của những người đã không còn nữa.
    Đạo quân bóng tối, Mila nhớ lại. Tôi đang ở đâu đây? Điện thoại của Diana Muller nằm đâu? Cô ta đâu?
    Bỗng một tiếng động vang lên. Tiếng sột soạt. Mila dừng phắt lại. Lũ chuột. Chắc chúng ở khắp mọi nơi, giống như bọn gián. Cô quét đèn pin trên mặt sàn, và sự nghi ngờ của cô được khẳng định. Sàn nhà đầy phân chuột.
    Mila cảm thấy những đôi mắt đang chiếu vào mình, có lẽ phải đến hàng ngàn. Chúng quan sát cô từ trong chỗ nấp, tự hỏi kẻ xâm nhập là một mối đe doạ hay một bữa tiệc ngon lành.
    Để xua đi ý nghĩ đó, Mila bước nhanh hơn. Một đầu gối của cô va phải vách đồ. Cô chỉ ngước lên để nhìn thấy đống đồ đạc rơi từ trên đỉnh xuống, rắp tâm chôn vùi mình. Mila lấy tay che đầu. Dòng thác các món đồ cứng có mềm có tuôn xuống người cô trong âm thanh rào rào. Chiếc đèn pin tuột khỏi tay Mila và tắt phụt. Khẩu súng của cô cũng cùng chung số phận. Một phát súng vang lên, dội lại đinh tai trong không gian kín. Mila khom người, chờ thật lâu để cho sự sụp đổ chấm dứt.
    Một lúc sau, nó ngừng lại. Thật chậm rãi, cô mở mắt.
    Tai cô vẫn còn ong ong - một âm thanh duy nhất, dai dẳng, xuyên thấu. Cơn đau trộn lẫn với sự sợ hãi. Lưng và hai tay cô nhức nhối dưới lớp vải áo. Thật may là chiếc áo khoác da đã giảm bớt chấn động. Tim cô đập mạnh. Nhận ra mình cần phải hít thở, Mila tháo chiếc khăn bịt miệng, và mặc kệ mùi hôi thối, cô tìm cách kìm hãm quả tim đang đập cuồng loạn trong lồng ngực như một chiếc pít tông. Kinh nghiệm của những năm tháng tự làm đau mình cho biết cô không bị gãy cái gì hết.
    Cô dứng dậy và gạt các đồ vật đang trùm lên mình. Bóng tối đã thừa dịp tấn công Mila. Cô cảm thấy hơi thở hung ác của nó trên khuôn mặt mình. Đầu tiên, cô mò chiếc đèn pin.
    Nếu có thứ gì tồi tệ hơn việc chết ngạt dưới núi đồ phế thải, chắc chắn đó là bị kẹt trong bóng tối mà không thể tìm thấy lối ra.
    Cuối cùng Mila cũng tìm được thứ cần tìm. Hai bàn tay cô run bắn lúc bấm đèn, khi ánh sáng không xuất hiện ngay, suýt nữa cô lên cơn đau tim.
    Mila dùng đèn pin để tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra và tìm vũ khí. Xung quanh cô, một ngọn đồi đã hình thành. Cô nhấn tay xuống thật sâu, hi vọng các ngón tay của mình nhận ra được khẩu súng. Cúi xuống hết mức có thể, cuối cùng Mila cũng nhìn thấy nó. Khẩu súng nằm cách cô một mét, nhưng bị kẹt trong những thứ đang chống đỡ cho vách đồ phế thải. Nếu cô kéo dù chỉ một món, cả núi đồ sẽ lại rơi xuống.
    Khỉ thật.
    Một tay Mila đưa lên miệng, tay kia đặt trên cái hông đau ê ẩm. Cô cố suy nghĩ, một việc không đơn giản giữ tiếng vo ve trong tai. Cần phải đi tiếp, sau đó sẽ quay lại tìm khẩu súng. Không còn giải pháp nào khác. Mila nhìn quanh và tìm thấy một thanh sắt. Cô cầm lấy nó. Chắc cũng làm vũ khí được.
    Vụ sụp đổ đã mở ra một lỗ hổng trên vách đồ. Mila bước qua đống rác trên sàn và thấy mình ở trong một lối đi song song.
    Mila thận trọng tiến lên. Thỉnh thoảng, cô trông thấy thứ gì đó giống với một đống côn trùng lúc nhúc, như cô quyết định lờ chúng đi. Tai cô vang lên tiếng chuột chạy.
    Như thế chúng đang dẫn cô đến một nơi cụ thể.
    Theo tính toán của mình, Mila đã đi qua quãng đường ít nhất năm mươi mét, theo lối dích dắt. Ánh đèn chiếu vào một vật cản cách đó vài bước chân: một vách đồ khác đã sụp đổ. Mila định quay lại thì thấy một thứ lòi ra từ trong đống rác. Nó dài và có màu trắng nhợt. Cô tiến lại gần.
    Một cái xương chày.
    Đây không phải là một ảo giác. Mila chiếu đèn vào, và nhận ra các phần khác của bộ xương. Một cái xương cùi chỏ, những cái xương ngón tay.
    Mila không còn nghi ngờ gì nữa. Diana Muller.
    Cô ta đã chết từ bao giờ? Có lẽ ít nhất cũng phải được một năm rồi. Mình suýt nữa cũng có kết thúc giống cô ta. Nếu vụ sụp đổ không ngừng lại, cô đã chịu chung số phận. Xua đi ý nghĩ đó, Mila tìm cách vượt qua vật cản, cẩn thận tránh giẫm lên phần còn lại của thi thể.
    Sau đó một chút, lối đi mở rộng ra.
    Mila phát hiện một cái hốc, bên trong có một cái nệm đặt dưới sàn cùng với chăn gối bẩn thỉu - có phải là giường của Diana không nhỉ? Trên một chiếc bàn có các hộp đồ ăn bốc mùi và đủ thứ đồ vật linh tinh: nĩa nhựa, đĩa CD, những món đồ chơi mà không hiểu vì lí do nào lại được trân trọng hơn các thứ còn lại và được cất ở một nơi ưu tiên.
    Giữa đống đồ lộn xộn, Mila nhận ra một vật có hình thiên thần màu xanh da trời. Ở đầu kia của sợi dây là chiếc điện thoại di động của Diana.
    Mila dùng răng giữ đèn pin, đồng thời bỏ thanh sắt xuống. Cô cầm lấy chiếc điện thoại, quan sát cẩn thận lớp vỏ có hình những ngôi sao mạ vàng.
    Màn hình bật sáng, nhưng không cho thấy bất cứ cuộc gọi đến hay đi nào.
    Mila mở phần nắp lưng của chiếc điện thoại để đi tìm lời khẳng định cuối cùng cho thấy đây chính là món đồ của cô gái - dòng chữ "Đồ của Diana Muller" và tên viết tắt của người con trai được cô bé để ý. Cô phát hiện ra pin điện thoại mới được thay. Quả thực, Diana từng than phiền chiếc điện thoại rất nhanh hết pin. Với tình trạng trước đây thì nó không thể hoạt động suốt một buổi chiều.
    Cái xác đã thối rữa ở cách đó vài mét không thể là người thay pin. Cũng không phải người đã bật điện thoại lên sau chín năm không sử dụng.
    Bóng tối lại phả vào lưng Mila, khiến cô thẳng người dậy. Cô cầm lấy thanh sắt và chiếc đèn pin, từ từ quay lại. Phía sau lưng cô, nằm kín đáo giữa các món đồ phế thải, là một lỗ hổng khác của mê cung.
    Mila phải bò trên đầu gối mới chui được qua miệng của đường hần. Bàn tay cầm thanh sắt của cô lướt trên mặt sàn bẩn thỉu phủ một lớp giấy báo. Cô dùng bàn tay kia chĩa đèn pin về phía trước. Đường hầm cuối cùng cũng kết thúc.
    Một căn phòng thứ hai.
    Khác với cái đầu tiên, nó cực kỳ ngăn nắp. Rất trật tự. Một chiếc giường nghiêm chỉnh được đặt ở giữa, có vải phủ và chăn, bên cạnh đó là bàn ngủ. Những ngọn nến đủ kích cỡ được chất đầy trên một cái bàn thấp. Sự chăm chút trong cách sắp xếp các đồ vật khiến Mila nhớ đến phòng dành cho khách mà mẹ cô rất đỗi tự hào.
    Mila có cảm giác là ngoài Diana Muller, nơi này còn là chỗ cư ngụ của một người khác. Một người quan trọng, đáng nể. Xét cho cùng, đây là chỗ hoàn hảo để trốn mọi người.
    Mila đang mải mê suy nghĩ thì nghe thấy tiếng đổ sụp ở một chỗ khác của mê cung, và cô không ngần ngại tắt ngay đèn pin.
    Có ai đó đang ở đây.

  4. #33
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 32
    Tiếng vo ve không dứt trong tai Mila đã khiến cô không phát hiện ra sự hiện diện này.
    Cô chỉ nhận ra nó nhờ vào âm thanh rào rào của vụ sạt lở. Rồi cô thấy phản chiếu trên trần nhà và nhận ra kẻ kia cũng có một chiếc đèn pin.
    Hắn đã tránh được đống đồ sạt lở và đang tiến đến gần.
    Không muốn bị kẹt trong một ngõ cụt, Mila rời khỏi "căn phòng của khách". Lẽ ra cô đã quay lại lối đi chính, để chí ít cũng có được một con đường thoát. Nhưng do cô không bật đèn pin nhằm tránh bị phát hiện, việc di chuyển thế nào để không làm rơi đồ vật trở nên rất khó khăn.
    Cần phải nghĩ ra một điều gì đó. Cô không còn súng trong tay, thanh sắt có lẽ cũng hữu dụng trong một cuộc đấu tay đôi. Nhưng sẽ thế nào nếu kẻ kia có súng?
    Nếu đó là người cư ngụ ở đây thì hắn sẽ đi tới hang ổ của mình, Mila nghĩ thầm. Tiến đến chỗ cô. Giải pháp duy nhất là đối đầu với hắn. Gay rồi đây!
    Mila cố gắng giữ bình tĩnh và áp dụng những nguyên tắc đã được học trong trường cảnh sát mà cô thấy hữu ích trên thực địa trong những năm qua. Trước tiên, cần phải nghiên cứu nơi mình đang đứng. Trong bóng tối, Mila cố nhớ lại cách sắp xếp của gian phòng đầy đồ phế thải.
    Cô nhớ lại cái ổ của Diana. Trên tấm nệm nằm dưới đất, cô đã thấy mấy cái chăn. Cô lấy một cái rồi rón rén quay trở lại, bước qua thi thể đã phân hủy.
    Có lẽ cô đã có cách để thoát khỏi địch thủ.
    Để làm được điều đó, cần phải tìm một vị trí thích hợp. Ở một chỗ, lối đi mở rộng quanh một cái hình như là cột nhà. Mila thấy nó đủ rộng. Cô nằm xuống đất và quấn mình trong tấm chăn hôi hám.
    Cô dự định ẩn mình chờ cho kẻ thù đi qua.
    Sau đó, đường sẽ thông và cô có thể ra đến cửa. Không còn giải pháp nào khác, lựa chọn này có vẻ là một ý hay. Nhưng phải tiến hành nhanh chóng - dù kẻ kia là ai thì hắn cũng đang ở rất gần.
    Có đủ không gian để cho hắn đi ngang qua chỗ Mila nấp mà không nhận ra sự hiện diện của cô. Trong trường hợp ngược lại, cô sẽ chui ra khỏi tấm chăn và dùng thanh sắt để chống cự hắn.
    Nhưng cô không thích khả năng này. Mọi chuyện sẽ ổn thôi, Mila tự nhủ.
    Mila vào chỗ và nghe ngóng. Tai cô vẫn chưa hết ù sau phát súng. Cô trùm chăn qua người, chừa lại một lỗ nhỏ để quan sát. Tuy thế, vị trí hiện tại chỉ cho cô một tầm nhìn rất hạn chế.
    Đầu tiên, cô nhìn thấy luồng ánh sáng đang dò xét ở phía cuối lối đi. Cô không nghe thấy tiếng những bước chân đang tiến lại gần, âm thanh của chúng bị hãm lại do các món đồ phế thải nằm dưới đất, nhưng cô biết địch thủ tiến lên một cách cẩn thận, thậm chí là thận trọng.
    Hắn biết có kẻ đột nhập. Hắn đã biết.
    Khi hắn đến gần, Mila nghe thấy tiếng thở. Rồi một cái bóng dừng lại ngay bên cạnh cô. Một đôi giày đàn ông. Cô nín thở.
    Tại sao hắn dừng lại ở đây? Tại sao hắn không di chuyển?
    Thời gian ngừng trôi. Nỗi sợ mà Mila thường xuyên cầu viện lan dần như một đợt thuỷ triều đen trong các tĩnh mạch của cô. Trong một thoáng, cô tưởng tiếng vo ve vang dội trong đầu mình đã khiến cô phát điên.
    Cái bóng quay về phía Mila, và đúng lúc luồng sáng chiếu vào chỗ mình nấp, cô thu hết sức mạnh bước ra khỏi tấm chăn, tay vung thanh sắt. Bị chói mắt vì ánh sáng, cô đánh trượt mục tiêu. Cô đập thêm cú nữa, lần này thì trúng. Đối thủ của cô mất thăng bằng và ngã xuống đất. Chiếc đèn pin tuột khỏi tay hắn, và một lần nữa, bóng tối lại trùm lên mọi vật.
    - Mila. - Cô nghe thấy tiếng hét dưới sàn. - Khoan đã!
    Với hơi thở dồn dập, tay vẫn mò mẫm khua thanh sắt tìm kiếm đối phương, cô cảnh sát thét lớn:
    - Ai đó?
    Người kia không nói gì.
    - Ai đó? - Cô lặp lại một cách cứng rắn hơn.
    - Là tôi, Berish.
    Đôi tai ù đi đã khiến cô không nhận ra giọng nói của anh ta.
    - Làm sao anh tìm được tôi?
    - Tôi đã gọi cho trụ sở. Họ bảo cô đang ở đây.
    - Anh đến đây làm gì?
    - Vụ việc rất nghiêm trọng. Tôi đã đổi ý, tôi quyết định giúp cô.
    - Quỷ tha ma bắt anh đi, Berish. - Mila nói, buông thanh sắt trong tay ra. - Giờ thì anh tìm cái đèn pin chết tiệt kia đi. Tôi xin anh đấy. Tôi không thể đứng trong bóng tối được nữa.
    - Vậy cô giúp tôi đứng lên đi.
    Mila cúi xuống để làm tìm Berish. Nhưng đúng lúc đó, từ đằng sau, ai đó nắm lấy tay cô. Theo bản năng, cô quay lại. Mũi cô ngửi thấy một cái mùi quen thuộc. Cô hoảng hốt, nhưng không phản ứng. Thời gian như trôi chậm lại. Kẻ ở sau lưng Mila lôi cô về phía mình, rồi những tiếng súng văng lên. Âm thanh nổ rền trong lối đi hẹp, ánh sáng loé lên giúp Mila biết người bắn là Simon Berish thật, và cái mùi quen thuộc làm cô dịu lại chính là mùi nước hoa của anh.
    Kẻ nằm dưới đất đã lừa Mila. Trong ánh chớp của những phát súng, cô không nhận ra khuôn mặt của hắn, vì hắn đã nhanh chóng quay lưng bỏ chạy. Cô nhìn thấy hắn biến mất sau một khúc quanh. Các vách đồ phế thải đổ xuống, khép lối đi sau lưng hắn, như để che chở cho sự trốn chạy của hắn.
    Khi những phát súng đã ngừng, Berish thật hét với Mila:
    - Ta ra khỏi đây thôi, mau lên!
    Anh kéo cô đi trong bóng tối vài mét, rồi bật đèn pin của mình lên. Mila nắm chặt tay anh, thận trọng đặt từng bước chân. Berish đang chạy, có vẻ như anh đã học thuộc lòng lộ trình để quay ra cửa.
    Cơn hoảng loạn đã chế ngự Mila, những bước chạy của cô nặng nề - giống như sự chậm rãi đáng sợ đặc trưng của những lần bỏ chạy trong cơn ác mộng của cô. Mila vung đầu gối về phía trước, nhưng cô có cảm giác như mình đang chạy trên một lớp dầu, như thể bóng tối đã quánh lại.
    Một lát sau, Mila nhận ra hành lang nơi cô đã bước vào ban nãy. Cánh cửa vẫn ở đó, thật gần mà ngỡ như không thể tiếp cận được. Ý tưởng vượt qua nó tỏ ra tuyệt vời đến không tưởng. Cô cảm thấy gió mát từ bên ngoài thổi vào, như thể khung cửa kia biết thở.
    Họ vượt qua biên giới đó và ra đến cầu thang. Mila có cảm giác như những bậc thang chao nghiêng dưới chân họ, giống như những cái răng của một con quái vật đang há miệng. Đúng lúc đó, cô nghe thấy tiếng chó sủa. Tự do gần lắm rồi.
    Ngay trước khi băng qua cửa chính, Mila có cảm giác như tòa nhà gạch đỏ đổ ụp xuống họ. Cô nhắm mắt lại và đếm từng bước.
    Berish cúi xuống vuốt ve Hitch.
    - Ngoan nào, Hitch. Mọi chuyện ổn rồi.
    Họ lấy lại hơi thở. Con chó đã bình tĩnh lại. Anh chàng đặc vụ quan sát Mila. Cô vẫn còn run rẩy, khuôn mặt nhăn nhó đau đớn, hai tay bịt tai.
    - Tôi đã tìm ra cô nhờ gọi điện cho trụ sở. Họ bảo cô đến đây. - Anh cất cao giọng nói khi nhận thấy cô nghe không rõ.
    - Như vậy kẻ đóng giả anh đã biết tôi tiếp xúc với anh, biết tôi nhờ anh giúp. Vậy là hắn theo dõi tôi. Người đàn ông đó là ai? - Mila vừa hỏi vừa chỉ tay về phía toà nhà.
    Berish né tránh câu hỏi của cô.
    - Chết tiệt, nơi này đúng là một sào huyệt. Tôi chưa từng thấy cái gì như thế.
    - Anh đang nói gì vậy?
    - Hang ổ của một kẻ bị rối loạn ám ảnh tích trữ.
    Sào huyệt để âm mưu chuyện gì? Mila rùng mình. Diana Muller đã giấu mình trong toà nhà này, chối bỏ thế giới bên ngoài, sửa soạn cho hang ổ của một ai đó khác.
    - Có một căn phòng ở trong đó. Cô ta có một người khách trọ.
    - Cô phải gọi cho những người khác, bảo họ đến đây. - Berish đặt tay lên vai Mila và đáp. - Hắn bị kẹt ở trong đó rồi, cô hiểu không. Hắn không thể thoát được.
    Mila nhận thấy một tia lo ngại trong cái nhìn của tay đặc vụ. Cô rút điện thoại ra định gọi cho Boris, nhưng Hitch lại sủa tiếp, lần này lớn hơn. Con chó cảnh báo thứ gì đó phía sau lưng họ.
    Đôi mắt của Mila và Berish đồng loạt hướng về toà nhà bằng gạch đỏ.
    Các ô cửa sổ bị bịt ván đang phả khói. Vài giây sau ngọn lửa bùng lên dữ dội.
    Hai cảnh sát viên lấy tay che mặt và thoái lui cùng với con chó khi ngôi nhà biến thành địa ngục.
    Khi đã ra đủ xa, hai người quay nhìn vụ hoả hoạn.
    - Ôi không, không. - Berish thốt lên với một giọng bất lực và đau đớn.
    - Nhìn tôi đây này. - Mila bắt anh quay về phía mình. - Người đàn ông đó là ai? Anh biết hắn.
    Berish cụp mắt.
    - Tôi chưa bao giờ nhìn thấy khuôn mặt hắn, nhưng tôi nghĩ đó chính là hắn.
    - Là ai vậy?
    - Kairus.

  5. #34
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    ALICE
    Chứng cứ 443 - Y/27
    Tường trình của nhân viên y tế trên xe cấp cứu tối ngày 26 tháng 9 năm XXXX:
    "Chúng tôi đến nhà người bị thương ngay trước nửa đêm. Qua liên lạc vô tuyến, chúng tôi đã biết đây là một nhân viên cảnh sát. Khi chúng tôi đến nơi, tình trạng bệnh nhân cho thấy các vết bỏng độ ba và độ bốn diện tích rộng, cùng với triệu chứng ngạt thở nghiêm trọng. Bất chấp các tổn thương nghiêm trọng trên lâm sàng, bệnh nhân vẫn tỉnh táo. Trong khi chúng tôi chuẩn bị áp dụng quy trình tiêu chuẩn để tránh các biến chứng và cố gắng giữ ổn định hơi thở cho bệnh nhân, anh ta tỏ ra rất lo lắng và nhất quyết muốn nói chuyện với chúng tôi. Anh ta đã tháo mặt nạ thở một lúc và nhắc đi nhắc lại những câu rời rạc, trong đó chúng tôi nghe ra được mấy chữ: "Xin làm ơn, tôi không muốn chết". Đáng tiếc là bệnh nhân đã tắt thở trên đường đến bệnh viện".

    CHƯƠNG 33
    Tất cả mọi người đều chờ đợi Thẩm phán.
    Các nhân viên cảnh sát đứng chật kín trong khu vực công trường xây dựng, nhưng không ai lên tiếng hay hành động gì trước khi sếp tổng của sở cảnh sát đến nơi. Quang cảnh tựa hồ như bị đông cứng.
    Vụ hoả hoạn đã được khống chế, nhưng tòa nhà gạch đỏ đã đổ sụp. Các món phế liệu tích trữ trong nhà khi cháy tạo ra một đám mây khí độc đỏ ối trên nền trời rạng đông.
    Nó gây ra một hiệu ứng vừa choáng ngợp vừa rùng rợn. Ngay cả những thứ kinh khủng cũng có thể rất đẹp.
    Lính cứu hỏa đã phải sơ tán cả khu phố.
    - Đúng là màn quảng cáo chúng ta cần. - Boris bình phẩm.
    Anh đang không muốn nói chuyện với cô. Anh giận lắm, nhưng Mila sợ trong sự tức giận đó có cả nỗi thất vọng. Cô đã không cho anh biết các khám phá của mình. Cô đã không tin ở anh. Một thứ gì đó đã đổ vỡ không sao hàn gắn được giữa họ.
    Gurevich cũng lờ Mila đi. Cô đã gọi điện cho anh ta đêm qua, chứ không phải Boris, vì cô muốn tránh không để anh ta nghĩ mình và người bạn cũ thông đồng với nhau. Khi lực lượng tiếp viện kéo đến, viên thanh tra đã nghe báo cáo của cô mà không chớp mắt. Mila đã thuật lại những tiến triển của cuộc điều tra cá nhân mà cô thực hiện, từ bài báo cắt rời được giấu cạnh miệng cống cho đến vụ án Diana Muller, kể cả tin nhắn có nhắc đến Kairus.
    Cô chỉ bỏ qua một chi tiết: Simon Berish.
    Chính cô đã yêu cầu tay đặc vụ ra đi. Cô không muốn các cấp trên của mình gặp Berish ở đây. Danh tiếng của anh ta đã bị tổn hại đủ rồi, anh ra không cần lộ diện trong một vụ việc mà mình không phụ trách. Mila đã hứa sẽ đến gặp Berish sau đó để thông báo tình hình.
    Từ khoảng mười phút vừa qua, đội cứu hỏa đã cho phép họ tháo mặt nạ chống hơi độc. Nguồn khói độc tỏa ra từ tàn dư của đám cháy đã được phun bọt để trung hòa.
    Tai Mila đã hết ù, nhưng cô không tài nào gạt bỏ được giọng nói của người đàn ông bí ẩn ra khỏi đầu.
    Hắn đã dụ cô vào hang ổ. Hắn đã quan sát mình. Hắn biết mình không cưỡng được tiếng gọi của sự sợ hãi.
    Berish đã khẳng định đó là Kairus, qua đó thừa nhận sự tồn tại của Người ru ngủ. Vậy tại sao anh ta lại không nói sự thật cho cô biết ở lần gặp đầu tiên?
    Một chiếc BMW kính đen vượt qua rào chắn mà các cảnh sát đã dựng lên để cách ly khu vực với cánh nhà báo và những kẻ hiếu kỳ. Chiếc xe dừng lại ngay bên dưới tòa cao ốc đang xây dở. Mila nhận ra đó là xe của Thẩm phán. Gurevich và Boris vội rảo bước đến tiếp đón sếp.
    Thay vì bước xuống, vị khách mới đến vẫn ngồi trong xe và hạ cửa sổ để nói chuyện với hai thuộc cấp. Mila đứng ở phía bên kia của chiếc xe nên không thể nghe được đoạn đối thoại. Nhiều phút trôi qua. Cuối cùng, hai thanh tra cảnh sát lui lại để nhường chỗ cho cửa xe mở ra.
    Một chiếc gót giày hai tấc đặt xuống nền đất bụi bặm. Một mái tóc vàng xuất hiện. Bộ trang phục đen tuyền, đương nhiên rồi, và lớp trang điểm hoàn hảo ngay cả vào cái giờ tinh mơ này.
    Như mọi khi, Joanna Shutton, biệt danh Thẩm phán, xuất hiện một cách không thể chê vào đâu được.
    Ở sở cảnh sát có vô số giai thoại xoay quanh chị ta. Không cái nào vượt qua được cái mác "tin đồn" - người ta chỉ biết Joanna độc thân, và cuộc sống riêng tư của chị ta cực kỳ bí mật - nhưng quan trọng nhất là, không có tin đồn nào ám chỉ xa gần đến vấn đề giới tính. Đó là minh chứng rõ ràng cho khả năng đe dọa của Joanna. Sự thăng tiến đến chức vụ chỉ huy trưởng của chị ta đúng là kiểu mẫu.
    Sau khi tốt nghiệp thủ khoa học viện cảnh sát, Joanna Shutton không có được ngay một vị trí tốt. Cô gái trẻ rất có tiềm năng, nhưng điều đó khiến các đồng nghiệp nam giới không hài lòng, hơn nữa cô ta là một kẻ cứng đầu. Chỉ được giao cho những vụ án nhỏ, nhưng Joanna luôn tìm được cách để chứng tỏ bằng khả năng học hỏi, sự tận tụy và quên mình. Thậm chí cô ta còn thành công trong việc biến biệt danh hàm ý chế nhạo của mình thành một tước hiệu danh dự.
    Cánh nhà báo mê Joanna như điếu đổ.
    Với vóc dáng như người mẫu, tính cách ngang tàng của một cảnh sát kiểu truyền thống, Joanna Shutton là sự lựa chọn hoàn hảo cho truyền hình.
    Điều mà các thượng cấp của chị ta lo sợ đã trở thành hiện thực: cảnh sát liên bang đã được biểu tượng hóa bằng hình ảnh của một cô nàng tóc vàng nóng bỏng.
    Chỉ trong hai năm, sau một loạt những nhiệm vụ khó, Joanna Shuttton đã trở thành nữ thanh tra trẻ tuổi nhất trong lịch sử sở cảnh sát. Kể từ đó, không còn ai ngáng trở con đường thăng tiến của chị ta.
    Thẩm phán gỡ kính mát và đi những bước quyết đoán đến trung tâm hiện trường, đưa mắt đánh giá quang cảnh điêu tàn của tòa nhà gạch đỏ.
    - Có ai tóm tắt sự việc cho tôi được không?
    Ngay lập tức, Gurevich, Boris và trưởng nhóm cứu hoả tập hợp lại xung quanh chị ta. Tay đội trưởng lên tiếng:
    - Chúng tôi đã khống chế được ngọn lửa từ một giờ trước, nhưng tòa nhà sụp đổ ngay sau đó. Theo đặc vụ của bà, ngọn lửa đột ngột bùng lên. Tôi không thể khẳng định vụ hỏa hoạn có tính chất cố ý hay không, với tất cả những vật liệu dễ cháy ở bên trong, chỉ cần một tia lửa là đủ.
    - Một tia lửa đã chờ đợi suốt bao năm tháng qua để chọn đúng đêm nay mà phát ra. - Thẩm phán trầm ngâm.
    Sự mỉa mai của Joanna Shutton rơi vào thinh lặng tựa như một hòn đá được ném xuống ao nước. Người ta không bao giờ biết được phải phản ứng thế nào với chị ta. Họ không biết Thẩm phán chỉ đùa hay là sử dụng trò mỉa mai như ngọn roi khuất phục đám thuộc cấp.
    - Đặc vụ Vasquez. - Thẩm phán lên tiếng, mắt thậm chí không nhìn vào người được gọi tên.
    Cô cảnh sát tiến lại gần. Mùi nước hoa Chanel của Thẩm phán lan toả ra xung quanh như một quả cầu quyền lực.
    - Vâng, thưa sếp.
    - Người ta nói với tôi là cô đã nhìn thấy một người đàn ông ở trong đó, và hắn ta đã cố gắng tấn công cô.
    Sự việc không diễn ra chính xác như thế, nhưng Mila tôn trọng phiên bản mà cô đã thống nhất với Berish.
    - Đã xảy ra một vụ đụng độ tay đôi chớp nhoáng, đèn pin của tôi đã bị rơi trong lúc đó. Bóng tối trùm xuống chúng tôi, nhưng tôi đã nổ súng và khiến hắn hoảng sợ chạy mất.
    - Như vậy là cô đã không làm hắn bị thương.
    - Tôi cũng nghĩ vậy. Tôi đã trông thấy hắn tẩu thoát. Sau đó tôi cũng chạy ra khỏi ngôi nhà, vì tất cả có nguy cơ đổ sụp.
    - Và cô đã làm mất khẩu súng của mình. Đúng không?
    Mila cụp mắt xuống. Thật xấu hổ khi một cảnh sát đánh rơi vũ khí. Không thể tiết lộ người nổ súng là Berish, cô chỉ có thể thừa nhận đã làm mất khẩu súng trong một khoảng khắc lơ đãng. Thật là mất mặt.
    - Vâng, thưa sếp.
    Joanna Shutton tạm thời không quan tâm đến Mila nữa.
    - Chang đâu rồi?
    Tay bác sĩ pháp y bước ra khỏi đống gạch đổ nát, trên người khoác bộ đồ bảo hộ amiăng. Anh ta gỡ chiếc mũ bảo hộ và tiến đến chỗ họ.
    - Sếp gọi tôi ạ?
    - Anh có tìm thấy thi thể chưa?
    - Trong tòa nhà, có một lượng đáng kể các chất hóa học, hydrocarbon và chất dẻo. Tất cả đã tạo ra một nhiệt lượng cực cao khi ngọn lửa bùng lên. Thêm vào đó, lớp gạch của toà nhà có vai trò như một lò nung. Trong điều kiện như vậy, tất cả mọi thi thể đều bị tiêu hủy. - Chang khẳng định.
    - Nhưng hắn ta ở trong đó. - Mila nói gần như gắt lên, không nhận ra rằng chẳng ai buộc tội cô nói dối. - Còn có cả bộ xương của Diana Muller, cô gái trẻ mất tích lúc mười bốn tuổi và bặt vô âm tín suốt chín năm trời.
    - Làm thế nào mà không ai phát hiện ra chuyện gì hết vậy? - Thẩm phán thắc mắc.
    - Toà nhà nằm trong một khoản thừa kế chưa chia. - Gurevich lên tiếng. - Theo công ty lẽ ra phụ trách việc phá dỡ ngày hôm nay thì không có ai sống trong đó. Tuy nhiên cũng khá ngạc nhiên là không ai báo cáo với ban công tác xã hội suốt bấy lâu nay. Hãy nhìn chung quanh mà xem, đâu phải chúng ta đang đứng ở một khu ngoại ô hoang vắng. Chúng ta đang ở giữa một khu văn phòng với hàng ngàn con người đến đây làm việc mỗi ngày.
    Phải, nhưng khi mặt trời lặn thì chỗ này cũng trở thành nơi không người. Mila muốn đáp lại như thế, nhưng cô chỉ khẽ lắc đầu.
    Boris là người duy nhất không coi thường Mila, nhưng anh tránh không nhìn cô. Sự im lặng làm cô tổn thương nhiều hơn những lời nói của Gurevich. Ngược lại, Joanna Shutton có vẻ điềm tĩnh.
    - Nếu sự việc diễn ra như đặc vụ Vasquez đã nói thì kẻ tấn công cô ấy đã phóng hỏa, và quyết định tự thiêu trong đám cháy. - Gurevich nói. - Tại sao? Thật vô lý.
    Thẩm phán nói với trưởng nhóm cứu hỏa:
    - Tôi nghĩ anh đã nói chuyện với công ty chủ quản của công trình xây dựng này.
    - Vâng ạ, chúng tôi đã gọi cho họ để tìm hiểu cách bố trí của khu vực mà chúng tôi cần can thiệp.
    - Nói tôi nghe, ngoài lối vào chính, có cách nào khác để tiếp cận tòa nhà không?
    Tay đội trưởng ngẫm nghĩ một lát, rồi đáp:
    - À, có hệ thống cống đi qua bên dưới tòa nhà. Có thể ai đó đã tìm được cách chui xuống dưới đó từ bên trong tòa nhà.
    Thẩm phán quay lại nhìn các thuộc cấp.
    - Đây là một khả năng mà các anh chị đã không tính đến. Những kẻ cư ngụ trong tòa nhà đã sử dụng một lối khác để ra vào mà không bị nhìn thấy. Kẻ tấn công đặc vụ Vasquez có thể đã sử dụng nó để thoát thân sau khi phóng hỏa.
    Mila lấy làm cảm kích trước sự ủng hộ bất ngờ của Joanna Shutton, nhưng cô không vì thế mà ảo tưởng.
    Cuối cùng Thẩm phán nhìn sang phía Mila.
    - Tâm trạng hoang mang của các đồng nghiệp của cô, đặc vụ thân mến ạ. - Thẩm phán nói với Mila và nhìn thẳng vào mắt cô. - Là do cô đã hành động mà không chờ mệnh lệnh, minh chứng rõ ràng của một sự thiếu tôn trọng cấp bậc. Ngoài ra, cô đã làm hỏng cuộc điều tra. Sẽ rất khó để tháo dỡ vụ việc, do tất cả các bằng chứng nếu có đều đã bị đám cháy tiêu hủy.
    Mila chỉ muốn nói lời xin lỗi, nhưng những chữ đó sẽ nghe rất giả tạo. Thế nên cô im lặng cúi đầu chịu trận.
    - Nếu tự cho mình giỏi hơn chúng tôi, cô cứ nói thẳng ra. Tôi biết những gì cô đã làm được. Tôi biết cô rất giỏi. Nhưng tôi không bao giờ mong đợi một thái độ như vậy nơi một nữ cảnh sát dạn dày kinh nghiệm. - Joanna Shutton tuyên bố trước khi nói với những người kia. - Hãy để chúng tôi trao đổi riêng với nhau.

  6. #35
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 34
    Ba người đàn ông tản ra xa sau khi đã trao đổi ánh mắt chớp nhoáng với nhau.
    Mặc dù họ chiếm đa số, nhưng trước một phụ nữ như Thẩm phán, cánh đàn ông luôn cảm thấy thua kém.
    Khi chỉ còn lại một mình cùng với Mila, Thẩm phán đợi vài giây trước khi lên tiếng, như thể muốn cân nhắc những lời nói của mình.
    - Tôi muốn giúp cô, đặc vụ Vasquez ạ.
    Tưởng sắp bị nghe một lời khiển trách nữa, Mila sững người.
    - Sao ạ?
    Đây còn hơn là một sự ủng hộ. Một đề nghị liên minh.
    - Trên đường đi, thanh tra Gurevich đã cho tôi biết tình hình. Anh ta nói cô định đưa vào báo cáo những tham chiếu với các sự kiện đã xảy ra cách đây hai mươi năm.
    - Vâng, thưa sếp.
    - Ảo thuật gia, Kẻ chiêu hồn, Người ru ngủ... Có đúng thế không?
    - Kairus nữa.
    - Phải. Giờ lại có cả biệt danh đó nữa.
    Mila tin chắc Thẩm phán đã biết đến nó. Đó có lẽ là một phần của sự thật chỉ dành cho vài người được ưu tiên.
    - Tôi còn nhớ rõ vụ án những người mất ngủ. Nó đã đặt dấu chấm hết cho chương trình bảo vệ nhân chứng. Vài năm sau, một trong những đặc vụ có liên quan đã đánh mất uy tín của mình trong một vụ án bẩn thỉu khác.
    Mila hiểu chị ta đang nói tới Simon Berish. Cô không hỏi xem chuyện gì đã xảy ra, nhưng Thẩm phán vẫn kể tiếp.
    - Anh ra đã chấp nhận một khoản tiền để thu xếp cho một tên tội phạm hối cải trốn mất, người mà lẽ ra anh ta phải bảo vệ và theo dõi.
    Mila không thể tin nổi đó là điều đã biến Berish thành kẻ bị ruồng bỏ, cô không nghĩ anh là một gã cớm tha hóa. Nhưng cô biết Joanna Shutton đang rất muốn kể cho cô nghe tất cả. Cô quyết định thử vận may.
    - Tay cảnh sát đó chắc đã không còn trong ngành, tôi đoán vậy.
    - Đáng tiếc là chúng tôi chưa bao giờ tìm được bằng chứng để buộc tội anh ta.
    - Tại sao sếp lại kể cho tôi nghe chuyện này?
    - Vì tôi không muốn cô tìm kiếm sự trợ giúp của anh ta. - Thẩm phán nói thẳng. - Dù có thế nào, tôi mới là người cô cần thông báo mọi chuyện, cô rõ chưa?
    - Rõ. Sếp có thấy phiền khi tôi nhắc đến cái tên Kairus trong báo cáo không ạ? - Mila khích tướng.
    - Không hề. - Thẩm phán đáp, rồi hạ giọng nói tiếp. - Nhưng nếu cô muốn một lời khuyên, giữa phụ nữ với nhau ấy, nếu tôi là cô, tôi sẽ không làm thế. Đó là một vụ án cũ cách đây đã hai mươi năm, chẳng có bằng chứng hay manh mối nào, nó có nguy cơ khiến chúng ta mắc kẹt. Thêm nữa, mấy cái biệt danh đó chẳng có ý nghĩa gì. Chúng chỉ là một con ngoáo ộp đối với công chúng, được truyền thông bơm lên để bán được nhiều báo hơn. Đừng tự biến mình thành trò cười bằng cách truy đuổi một nhân vật truyện tranh.
    Tuy nhiên, Mila không thể không nghĩ tới kẻ cô đã đụng độ đêm qua. Đó là một con người, bằng xương bằng thịt. Bối cảnh tăm tối pha lẫn sợ hãi có thể khiến cô lý tưởng hóa hắn, nhưng hắn không phải là một con quái vật.
    Hắn tồn tại, hắn có thật.
    - Thế nếu trong báo cáo tôi chỉ ghi là bị tấn công bởi một kẻ không xác định?
    - Khá hơn hẳn rồi đấy. - Thẩm phán mỉm cười. - Tôi đã theo dõi cô từ đầu cuộc điều tra, và tôi tin cô làm rất tốt. Tôi biết cô đã bày tỏ sự nghi ngờ trước giả thuyết về tổ chức khủng bố đứng sau các vụ giết chóc.
    - Thật ra, tôi vẫn chưa thay đổi ý kiến.
    - Cho phép tôi nói rõ một chuyện nhé, đặc vụ Vasquez?
    Mila chưa hiểu Thẩm phán định đi tới đâu.
    - Gurevich đã yêu cầu tôi rút cô ra khỏi cuộc điều tra, nhưng tôi nghĩ cô có thể hữu ích theo một cách khác.
    Joanna Shutton ra hiệu cho người tài xế xuống xe cùng với một bìa hồ sơ màu nâu. Chị ta đưa nó cho Mila. Cô nhìn tập hồ sơ. Nó rất mỏng.
    - Đây là hồ sơ gì vậy?
    - Tôi muốn cô lần theo một hướng mới. Trong này có một thứ mà tôi tin chắc sẽ khiến cô rất quan tâm.

  7. #36
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 35
    Phòng làm việc luôn là nơi lánh mình của anh, nhưng giờ đây nó đã trở thành buồng giam.
    Berish đi tới đi lui trong lúc tìm một cách thức để thoát ra ngoài.
    - Tao để tuột mất hắn rồi. - Anh nói với con Hitch đang nằm trong cái góc của mình và dõi theo những bước chân căng thẳng của chủ.
    Anh vẫn còn chưa quên những sự kiện đêm hôm qua. Trong bóng tối, anh đã run tay bắn trượt mục tiêu. Nhưng đã khá lâu anh không cầm súng. Con người của hành động đã trở thành con người của suy nghĩ, anh tự nhắc mình một cách mỉa mai.
    Nhưng điều tệ hại nhất là anh không nhìn thấy khuôn mặt kẻ đã giày vò anh suốt hai mươi năm qua. Và giờ đây anh sẽ lại tiếp tục bị quấy rầy bởi các câu hỏi.
    Kairus đã quay lại.
    Đêm hôm đó, trước khi Berish rời hiện trường, Mila đã tóm tắt lại cho anh những sự kiện mấy ngày vừa rồi, đáng chú ý là vụ thảm sát của Roger Valin, cùng các vụ giết người do Nadia Niverman và Eric Vincenti thực hiện. Những người đã biến mất nhiều năm và quay lại, nhưng chỉ để giết chóc, giống như André García.
    Khi Berish nghe Mila thuật lại những tội ác thoạt đầu được xem như những vụ trả thù, sau lại bị quy là hành vi khủng bố, một nỗi sợ trước đây lại len lỏi vào đầu anh, đi theo một con đường mà nhiều năm nay nó không lai vãng. Sự hoài nghi và e dè tạo thành một cục nghẹn trong cổ Berish.
    Chuyện gì đã xảy ra? Tại sao có những vụ án nối tiếp nhau như thế này?
    Mỗi khi Berish lo lắng, ký ức về Sylvia làm anh bình tâm. Nó vượt qua lớp màn u tối của nỗi sợ hãi tựa như một luồng sáng huyền diệu xua tan sương mù. Nàng đến trấn an anh bằng nụ cười và cái vuốt ve nơi bàn tay anh.
    Không có ngày nào trôi qua mà Berish không nghĩ đến Sylvia.
    Khi anh tưởng đã chôn chặt những kỷ niệm về nàng trong một nơi không thể tiếp cận đối với chính bản thân anh, Sylvia vẫn tìm được cách để quay lại. Tựa như một con mèo luôn tìm được đường về nhà. Nàng bất ngờ xuất hiện trong những đồ vật, hoặc một khung cảnh nào đó. Hay là thì thầm với anh qua những ca từ của một bài hát.
    Mối quan hệ của họ tuy ngắn ngủi nhưng anh vẫn mãi yêu nàng.
    Chỉ có điều không theo cách thức mê đắm như anh từng yêu - đam mê đó đã điên cuồng quay lại tấn công anh khi mọi chuyện kết thúc, bắt anh đi tìm lời giải thích, trách móc anh. Giờ đây nó chỉ là một hoài niệm xa xôi. Khi nó hiện lên trong tim mình, anh sẽ nâng niu nó một lúc trên tay, ngắm nhìn nó như một bức tranh tuyệt mỹ, rồi lại buông rơi.
    Trong lần đầu tiên họ gặp nhau, anh đã bị hạ gục bởi cái bím tóc đen tuyền của nàng. Không lâu sau đó, anh biết khi nàng thắt bím tức là nàng đang khao khát làm tình. Ngày hôm đó, nàng không đẹp. Nhưng anh lập tức hiểu ra mình không thể sống thiếu nàng.
    Ba tiếng gõ cửa đưa viên đặc vụ trở về với thực tại.
    Berish khựng lại giữa phòng. Hitch cũng trở nên cảnh giác.
    Lâu lắm rồi chẳng ai gõ cửa phòng làm việc của anh.
    - Kẻ mà chúng ta gặp trong toà nhà đó có thể đã thoát khỏi đám cháy thông qua đường cống.
    Mila tức phát điên. Berish kéo cô vào trong phòng, thầm hi vọng các đồng nghiệp của mình không để ý đến cô.
    - Sao cô lại đến đây?
    Mila vung vẩy tập hồ sơ màu nâu.
    - Joanna Shutton đã nói với tôi về anh. Thẩm phán đã đề xướng việc này và khuyên tôi... hay đúng hơn là ra lệnh cho tôi không tiếp xúc với anh nữa. Nhưng khi một sếp lớn hành động như thế, tức là phải có chuyện gì đó phía sau.
    Berish vô cùng hoang mang. Anh tự hỏi Thẩm phán có thể kể những gì với Mila. Hay đúng hơn, anh hình dung chuyện đó rất rõ, và anh hi vọng cô cảnh sát không rơi vào bẫy. Nhưng cô đã đến tận đây, tức là khả năng đó có thể được loại trừ.
    - Tôi biết anh cảm thấy an toàn trong vai một kẻ bị ruồng bỏ. - Mila nói. - Tôi hiểu điều đó. Nhưng giờ thì nó hơi quá an toàn. Tôi muốn biết tất cả.
    Tay đặc vụ cố gắng làm Mila dịu giọng lại.
    - Tôi đã kể hết với cô rồi mà.
    - Ngoài kia, - Mila vừa nói vừa chỉ tay ra cửa. - trong thế giới thực tại ấy, tôi đã phải nói dối vì anh. Tôi đã tán hươu tán vượn với sếp lớn để không gây rắc rối cho anh. Tôi nghĩ anh nợ tôi đấy.
    - Việc tôi đã cứu mạng cô đêm qua còn chưa đủ sao?
    - Bây giờ cả hai chúng ta đều đã dính chàm. - Mila nói và đặt tập hồ sơ lên bàn.
    Berish nhìn bìa hồ sơ như thể nó là một quả bom sắp nổ.
    - Có gì trong đó vậy?
    - Bằng chứng cho thấy chúng ta không nhầm.
    Berish bước đến ngồi xuống ghế, hai tay chắp lại, chống cằm.
    - Thôi được. Cô muốn biết gì?
    - Tất cả.
    Vụ mất tích của bảy người mất ngủ hai mươi năm về trước đã không kết thúc ở đó.
    Cảnh sát liên bang đã điều tra về các mối liên hệ giữa một cựu quân nhân đồng tính, một người giao hàng, một nữ sinh viên, một giáo sư khoa học về hưu, một goá phụ, bà chủ một tiệm bán đồ bằng vải và nữ nhân viên bán hàng của một trung tâm thương mại.
    Nếu phát hiện được một mối liên hệ chung, có lẽ cảnh sát đã tìm ra một người nào đó quan tâm đến những người này và làm họ biến mất. Thế nhưng, mối liên hệ duy nhất và cũng hết sức mong manh là tất cả bọn họ đều bị mất ngủ.
    Vụ việc giống như đã được hoàn toàn dựng lên bởi báo chí từ những sự trùng hợp ngẫu nhiên. Suy cho cùng, mỗi ngày có bao nhiêu người mất tích trong thành phố? Và bao nhiêu người trong số đó dùng thuốc ngủ? Nhưng dư luận thích cái ý tưởng rùng rợn là có một kẻ nào đó đã gây ra vụ việc. Về phần mình, những người điều tra không chắc lắm về điều này.
    Đó là lúc các nhân chứng xuất hiện.
    - Luôn có một ai đó nhìn thấy, hoặc tin là mình nhìn thấy điều gì đó. Tại trụ sở, chúng tôi đã được huấn luyện để nhận ra những kẻ khoác lác hoặc dựng chuyện vì muốn nổi tiếng, chúng tôi biết phải xử lý những người này như thế nào. Trước tiên, chúng tôi sẽ xem liệu họ có chờ quá lâu trước khi ra mặt. Thứ đến, thường thì các lời khai của họ ít nhiều đều giống nhau - đây là một chi tiết kinh điển. Họ kể với chúng ra về một kẻ tình nghi lảng vảng ở gần nhà một người mất tích. Thế là chúng ta đưa họ đi dựng chân dung nghi phạm. Tôi không biết tại sao, nhưng hễ nói đến tội phạm là mọi người đều mô tả gần như cùng một khuôn mặt, với đôi mắt nhỏ và trán rộng. Theo nhân học thì đó là một di sản mà sự tiến hoá đã chừa lại: kẻ thù nheo mắt mỗi khi lấy chúng ta làm mục tiêu, và vầng trán là thứ đầu tiên chúng ta chú ý đến khi phải tìm kiếm một địch thủ ẩn mình giữa một không gian mở. Dù sao thì, khi có hai đặc điểm đó, người ta sẽ nghi ngờ tính xác thực của bức chân dung dựng lại. Tuy vậy, một người trong số họ đã cung cấp cho chúng tôi một mô tả có vẻ chấp nhận được.
    Tay đặc vụ mở một ngăn kéo và đưa cho Mila xem một bức chân dung.
    Kairus, kẻ đã làm người khác biến mất, có một khuôn mặt lưỡng tính.
    Đó là chi tiết đầu tiên mà Mila nhận thấy khi cô vừa quan sát vừa cố tự hỏi xem liệu mình có nhận ra gương mặt thoáng hiện giữa các phát súng đêm qua. Mặc dù bức vẽ không có bối cảnh, nó vẫn toát lên sự tinh tế trong các đường nét. Chúng hội tụ quanh đôi mắt đen, giống như hai lỗ xoáy hút lấy ánh sáng xung quanh. Mái tóc sẫm màu nom như một cái vương miệng trên vầng trán xương xẩu. Hai gò má cao, đôi môi dày. Cái rãnh ở giữa cằm cho thấy đồng thời sức mạnh và sự duyên dáng.
    Như đã dự kiến, Kairus không có nét gì của một con quái vật.
    - Lời khai của nhân chứng rất tỉ mỉ, rõ ràng và dễ kiểm chứng. Tất cả các chi tiết đều có thể thẩm tra. Theo lời kể, Kairus cao khoảng một mét bảy, cơ thể lực lưỡng, tuổi trạc bốn mươi. Nhân chứng đã để ý đến hắn vì lúc họ gặp nhau, một cử chỉ đặc biệt đã khiến cô ta ghi nhớ hình ảnh của hắn.
    Người ru ngủ đã mỉm cười.
    - Cười không có lí do, như thể hắn chỉ muốn được nhớ đến. Và hắn đã thành công. Nụ cười của hắn đã gây ra một cảm giác khó chịu pha lẫn lo lắng. Nhân chứng đã được đưa vào chương trình bảo vệ. Nhưng bấy nhiêu thôi không đủ. Trong lúc được chúng tôi bảo vệ, nhân chứng đã biến mất.
    Gương mặt Berish xuất hiện biểu cảm đặc trưng cho một người biết mình phải đương đầu với một mối đe doạ mà anh ta không thể hiểu nổi.
    - Giống như khi cô vào rạp xem phim kinh dị và con quái vật xuất hiện trên màn ảnh, nỗi sợ mà cô đã bỏ tiền ra mua bỗng trở thành một cảm giác không thể gọi tên. Một sự kinh hoàng, nhưng còn hơn thế nữa, nó là cảm giác không có đường thoát. Sự nhận thức bất thình lình và tất yếu rằng không có khoảng cách nào có thể giữ an toàn cho cô. Và tử thần biết tên cô. - Anh luồn tay vào mái tóc muối tiêu. - Chúng tôi đã gọi tên hắn, và hắn đã xuất hiện. Người ru ngủ đã ở giữa chúng tôi. Hắn không chỉ có một khuôn mặt, hắn còn tự chọn cho mình một cái tên.
    Kairus. Ba ngày sau khi người duy nhất từng nhìn thấy khuôn mặt hắn biến mất, một phong thư đã được gửi đến trụ sở. Trong đó có một lọn tóc của nhân chứng. Kèm theo đó là một mảnh giấy. Chỉ một từ duy nhất. Một cái tên. Kairus.
    Đó không chỉ là một sự ra mặt. Mà là một thách thức hẳn hoi. Như thể hắn muốn nói: "Các người đã không nhầm. Luôn là ta. Các người đã có chân dung của ta, giờ là tên ta. Tìm ta đi".
    Trong sở cảnh sát mọi người đều sợ hãi. Bởi lẽ nếu sự khiêu khích đã đến mức ấy thì tất cả mọi người đều bị đe doạ.
    - Mọi chuyện đã kết thúc như thế. Chúng tôi đã không nghe thấy nhắc đến Kairus, và cũng không có các vụ mất tích khác. - Berish nói tiếp. - Mánh lới thành công nhất của Người ru ngủ chính là bỏ mặc chúng tôi với một dấu hỏi lớn. Hắn không thể bị coi là kẻ sát nhân, vì làm gì có thi thể nào. Hắn cũng không thể bị kết tội bắt cóc, vì không có bằng chứng cho thấy các vụ mất tích có tính chất cưỡng ép. Còn về danh tính cũng như động cơ của hắn, chúng tôi chỉ có các giả thuyết.
    Kairus là tác giả của những tội ác không thể đặt tên. Nếu hắn bị bắt, người ta cũng không biết phải khép hắn vào tội danh gì. Nhưng những người đã mất tích vẫn được xem là nạn nhân.
    - Nhân chứng đó tên gì vậy?
    - Sylvia.

  8. #37
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 36
    Nhân chứng là một phụ nữ.
    Mila nhận thấy Berish có vẻ ngần ngại khi nói ra cái tên này, như thể nó làm anh đau đớn.
    - Cái cô Sylvia đó đã cung cấp cho các anh chân dung của Kairus, việc gì hắn phải làm cho cô ta biến mất?
    - Để chứng tỏ cho chúng tôi thấy hắn có thể làm được những gì. Và sự quyết tâm của hắn.
    - Hắn đã thành công. - Mila nói với giọng chua chát. - Bởi lẽ rõ ràng khi chân dung nghi phạm chẳng giúp ích gì, các anh đã khép lại vụ việc với một cảm giác thất bại khủng khiếp. Thật ra, các anh đã che giấu nó, trong kho lưu trữ của Minh Phủ, tôi chỉ tìm thấy một hồ sơ đã được tẩy sạch. Các anh tự bào chữa bằng cách khẳng định Người ru ngủ chỉ là sự bịa đặt, một kiểu truyền thuyết hiện đại. - Mila nói tiếp một cách giận dữ. - Trong khi hắn hoàn toàn có thật. Chúng ta đã có bằng chứng đêm qua, khi chạm trán với hắn.
    Berish có vẻ vẫn còn chấn động vì sự việc đã xảy ra trong tòa nhà gạch đỏ.
    - Anh từng là thuộc cấp của Steph trong chương trình bảo vệ nhân chứng, như vậy anh là người đã giám sát cô Sylvia kia, đúng không? Anh và đại úy Steph có liên quan, ngoài ra còn ai khác nữa.
    Berish thu hết can đảm nhìn vào cô cảnh sát.
    - Joanna Shutton và Gurevich.
    Mila sững người. Thẩm phán á? Hoá ra đây là nguyên nhân chị ta đề nghị giúp cô.
    - Với sự đồng thuận của thủ trưởng Steph, các anh đã thoả thuận với nhau để cứu vớt sự nghiệp của mỗi người. Cuộc tìm kiếm những người mất tích đã bị chấm dứt. Không ai trong các anh quan tâm đến họ.
    - Cô đang dùng chữ "sự nghiệp" với tôi đấy à? - Berish mỉa mai hỏi lại. - Ngoài ra Stephanopoulos đã yêu cầu được thuyên chuyển về Minh Phủ, vì ông ta không muốn bỏ cuộc.
    - Nhưng anh đã cho phép hai người kia bỏ cuộc, vì lợi ích cá nhân. Anh là đồng loã của họ.
    Berish cảm thấy mình đáng bị kết tội, nhưng anh vẫn đáp trả.
    - Nếu tôi có thể quay về quá khứ, tôi sẽ không thay đổi gì hết, vì Joanna Shutton và Gurevich là những cảnh sát xuất sắc. Không phải tôi giúp họ, mà là giúp sở cảnh sát đấy.
    Mila tự hỏi tại sao tay đặc vụ lại bảo vệ cho những người đồng nghiệp đã khinh rẻ anh ta. Cô nhớ lại câu chuyện mà Thẩm phán đã kể, trong đó chị ta nói Berish là một gã cớm biến chất. Trong một thoáng, cô đâm nghi ngờ: tất cả mọi chuyện có thật không đây?
    Tuy vậy, cô đã bắt đầu hiểu ra nguyên nhân của việc giữ bí mật các tội ác gần đây, bắt đầu từ vụ Roger Valin. Với việc tránh để rò rỉ thông tin, các thượng cấp của cô không tìm cách bảo vệ sự toàn vẹn của cuộc điều tra, mà bảo vệ chính bản thân họ trước một vụ tai tiếng hai mươi năm về trước.
    - Klaus Boris có biết chuyện này không?
    - Cô và anh bạn của cô chỉ là những con tốt trên bàn cờ.
    Mila cảm thấy nhẹ nhõm một chút. Cô không dám tin đó là sự thật, nhưng dù sao câu nói của Berish cũng làm cô an tâm.
    - Vậy thì tại sao Thẩm phán lại đưa cho tôi hồ sơ này?
    - Tôi không biết. Lẽ ra Thẩm phán phải rút cô ta khỏi cuộc điều tra. Những với Joanna thì chúng ta chẳng bao giờ biết được, chị ta ranh ma lắm.
    - Nếu anh đọc nó, anh sẽ thấy Thẩm phán đã cung cấp cho tôi một chìa khóa để tôi có thể khám phá ra sự thật về quyết định của các anh hai mươi năm trước.
    - Và cô tin tưởng Joanna? - Berish mỉm cười chua chát. - Có lẽ Thẩm phán đã hiểu dù thế nào thì sự thật cũng sẽ bị phanh phui. Chị ta chỉ đang chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất, tin tôi đi.
    Có lẽ anh ta nói đúng. Mila quyết định sẽ bất chấp việc trước mặt mình là một gã cớm có khả năng đã từng ăn tiền của một tên tội phạm đã hối cải.
    - Sao anh không xem qua tập hồ sơ nhỉ? Nó có thể khiến anh quyết định giúp tôi...
    Berish thở dài. Anh nhìn Mila, rồi nhìn bìa hồ sơ màu nâu. Cuối cùng anh vươn tay qua bàn, cầm lấy hồ sơ, mở nó ra, và bắt đầu đọc.
    Mila quan sát Berish lướt mắt theo các dòng chữ của tờ giấy duy nhất. Khi đọc xong, anh đặt nó xuống.
    - Nếu những gì viết trong này là đúng thì nó sẽ thay đổi mọi chuyện.

  9. #38
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 37
    Người ta tưởng như vẫn đang trong mùa hè ở ngày thứ Ba cuối tháng Chín ấy.
    Không khí nóng bao trùm họ như một vòng tay ấm áp. Hitch thò đầu ra khỏi cửa sổ của chiếc Hyundai, tranh thủ luồng gió được tạo ra bởi sự di chuyển của chiếc xe.
    Mila quan sát con đường trong khi lái xe. Bên cạnh cô, Berish đọc lại nội dung của bìa hồ sơ nâu một lần nữa.
    Cổ tay áo sơmi của anh bị dính một vệt cà phê, và anh cứ tìm cách che nó đi bằng cách kéo ống tay áo khoác xuống. Hành động của anh giống như một phản xạ. Mila liếc nhìn anh qua khoé mắt. Berish quan tâm đến vẻ ngoài của mình, vì lịch sự hơn là vì phù phiếm. Mila còn nhớ bố cô đánh giày vào mỗi buổi sáng. Ông bảo việc xuất hiện chỉn chu là rất quan trọng, vì nó thể hiện thái độ tôn trọng dành cho người khác. Berish không ở tuổi của bố cô, nhưng anh có cung cách của những người đàn ông truyền thống. Điều đó làm cô yên tâm.
    - Cô không ngủ từ bao lâu rồi? - Anh lơ đãng hỏi cô.
    - Tôi ổn mà.
    Trong vòng hai mươi bốn giờ qua, các sự kiện đã diễn ra một cách dồn dập, nhưng giờ đây không khí ấm áp của buổi chiều có tác dụng xoa dịu thần kinh đối với Mila. Hai người băng qua một khu ngoại ô yên bình, với những ngôi nhà riêng lẻ mang phong cách hoàn toàn khác nhau, chủ yếu do giới công nhân làm chủ. Họ lao động và nuôi dạy con cái, chẳng mong gì hơn là một cuộc sống yên ổn. Đây là một cộng đồng gần gũi, nơi mọi người đều quen biết nhau.
    Hai người chạy ngang qua nhà thờ báp-tít ở cuối cụm dân cư. Đó là một tòa nhà màu trắng có một gác chuông nhọn, tọa lạc giữa thảm cỏ xanh rộng rãi. Một chiếc xe tang đậu ở trước nhà thờ, nhưng họ lại nghe thấy những bài thánh ca hoan hỉ.
    Mila rẽ ngay sau khi qua khỏi nhà thờ và dừng xe trước ngôi nhà thứ ba trên đường, dưới bóng mát của một cây du đồ sộ.
    Một luồng gió nóng chào đón hai người khi họ bước xuống xe. Trong mảnh vườn nằm cạnh một ngôi nhà khiêm tốn không có tầng gác, ba đứa trẻ con đang chơi - hai cậu bé và một cô bé. Chúng ngừng lại để quan sát hai người khách lạ. Khuôn mặt chúng đầy những vết đỏ li ti.
    - Mẹ các cháu có nhà không? - Berish vừa hỏi vừa cho Hitch xuống xe.
    Bọn trẻ không đáp, chúng mải nhìn con chó.
    Đúng lúc đó, một người phụ nữ bế một đứa bé chừng hai tuổi xuất hiện trên ngưỡng cửa ngôi nhà, chị ta nghi ngại nhìn hai người khách một lúc, rồi mỉm cười khi trông thấy con chó.
    - Chào anh chị. - Người phụ nữ lên tiếng.
    - Chào cô. - Berish đáp với giọng cũng rất chân tình. - Cô Robertson?
    - Là tôi đây.
    Hai cảnh sát viên băng qua lối đi nhỏ, vòng tránh các món đồ chơi và một chiếc xe đạp ba bánh, rồi bước lên bậc thềm trước hiên nhà.
    - Chúng tôi đến từ sở cảnh sát liên bang.
    Lúc lên đến cửa, tay đặc vụ rút ra tờ giấy độc nhất trong tập hồ sơ màu nâu và giơ nó cho người phụ nữ xem.
    - Cô có nhận ra đơn trình báo này không?
    - Có. - Người phụ nữ trả lời, hơi hoang mang một chút. - Nhưng tôi chẳng có thông tin gì hơn.
    - Chúng tôi vào trong nhà được không? - Berish hỏi, sau khi đã đưa mắt dò xét Mila.
    Một lát sau, Hitch chơi đùa trong vườn với mấy đứa lớn nhà Robertson, trong khi hai cảnh sát ngồi với mẹ chúng trong phòng khách của ngôi nhà.
    Nằm rải rác trên tấm thảm dưới chân họ là những tòa nhà và các mảnh ghép hình. Trên bàn có một cái rổ đầy những quần áo cần là. Một cái đĩa bẩn nằm chênh vênh trên tay tựa của một chiếc ghế bành.
    - Xin thứ lỗi, nhà tôi bề bộn quá. - Bà chủ lên tiếng trong lúc đặt đứa bé trên tay vào cũi. - Thật không dễ để giữ nhà cửa ngăn nắp với năm đứa con.
    Theo lời giải thích của chị, những đứa lớn không đi học vì bị sởi Đức. Đứa áp út cũng ở nhà vì nhà trẻ sợ lây bệnh. Còn đứa bé nhất mới ba tháng tuổi đang nằm ngủ trong một chiếc nôi đặt cạnh lối vào.
    - Không sao đâu. - Mila nói. - Chúng tôi xin lỗi vì đã đến mà không báo trước.
    Camilla Robertson, tuổi ngoài ba mươi, là một phụ nữ nhỏ bé chắc nịch. Đôi tay mạnh mẽ của chị lộ ra khỏi chiếc áo sơmi màu vàng. Trên cổ chị ta đeo lủng lẳng một sợi dây chuyền có chiếc thánh giá bằng bạc. Mái tóc nâu cắt ngắn, làn da sáng và đôi mắt xanh trong veo làm tôn lên đôi má ửng hồng. Ở chị toát lên ấn tượng của một bà mẹ bận rộn nhưng hạnh phúc.
    - Nhà tôi là mục sư của nhà thờ báp-tít ở góc đường. - Người phụ nữ vừa nói vừa ngồi xuống. - Anh ấy đang cử hành tang lễ cho một người trong cộng đồng, vừa mất hôm qua. Đáng lẽ lúc này tôi phải ở cùng anh ấy.
    - Chúng tôi rất lấy làm tiếc cho người bạn của cô. - Berish nói.
    - Không cần phải thế, giờ ông ấy đang ở trong tay Chúa.
    Ngôi nhà được bày biện đơn giản. Những vật trang trí duy nhất là các khung ảnh với hình chụp của gia đình, và các bức tranh vẽ Chúa Giêsu, Đức mẹ Đồng trinh, hoặc bức Tiệc ly. Mila không nghĩ chúng được treo để phô trương. Chúng thể hiện lòng thành kính sâu sắc gắn liền với mọi khía cạnh của cuộc sống gia đình.
    - Tôi mời anh chị dùng chút gì nhé? - Người phụ nữ hỏi.
    - Xin đừng bận tâm, thưa cô Robertson. - Berish đáp.
    - Camilla chứ. - Người phụ nữ chỉnh lại.
    - Vâng, nếu cô muốn... Camilla.
    - Cà phê nhé? Tôi pha loáng cái là xong ấy mà.
    - Thật mà, chúng tôi đang vội lắm.
    Nhưng Camilla đã nhanh chân bước vào bếp.
    Hai cảnh sát ngồi đợi vài phút dưới ánh mắt quan sát của đứa bé hai tuổi. Camilla quay lại cùng với hai cái tách bốc khói đặt trên một chiếc khay.
    - Chị có thể kể cho chúng tôi nghe về vụ việc chị đã trình báo được không? - Mila hỏi.
    Camilla ngồi xuống trở lại.
    - Tôi có thể nói gì được nhỉ... Chuyện đã lâu rồi. Gần như là một cuộc sống khác.
    - Không cần phải quá chi tiết đâu, cứ nói những gì cô còn nhớ. - Berish khích lệ người phụ nữ.
    - Để xem nào... Hồi đó tôi gần mười sáu tuổi. Tôi ở với bà ngoại trong một tòa nhà gần ngã giao của các tuyến đường sắt. Mẹ gửi tôi cho ngoại từ khi tôi mới được vài tháng tuổi, mẹ tôi bị phụ tình và không biết cách chăm sóc tôi. Tôi chưa bao giơ biết mặt bố. Nhưng tôi không trách họ. Tôi tha thứ cho họ. - Camilla nói, đoạn nhoẻn miệng cười với cậu con trai. Thằng bé nhe mấy cái răng sún cười lại. - Ngoại Nora cũng không muốn nhận tôi, luôn miệng nói tôi là gánh nặng của mình. Ngoại nhận được một khoản trợ cấp vì hồi còn trẻ đã bị gãy xương chậu khi làm việc ở nhà máy. Ngoại luôn nói là nếu không có tôi thì khoản tiền đó đủ dùng, nhưng vì tôi mà bà phải sống như một kẻ khốn khổ. Ngoại đã mấy lần tìm cách đưa tôi vào viện mồ côi, nhưng lần nào tôi cũng trốn về nhà. Tôi cũng không rõ vì sao mình làm thế... Một lần nọ, khi tôi lên tám tuổi, tôi được gửi cho một gia đình. Họ là những con người tử tế, với ít nhất sáu đứa con, một số là con nuôi, giống như tôi. Họ sống chan hoà, hạnh phúc lắm. Còn tôi thì thấy mình lạc lõng, vì tôi không hiểu tại sao họ lại yêu thương mình một cách không vụ lợi như thế. Người mẹ chẳng có họ hàng gì với tôi, nhưng vẫn chăm sóc tôi, giặt quần áo cho tôi, nấu ăn cho tôi. Tôi nghĩ mình phải biết ơn bà, theo cách này hay cách khác, hoặc ít ra bà cũng mong chờ tôi biết ơn bà. Thế là một đêm tôi cởi quần áo và lẻn vào giường của chồng bà, giống như trong một cuốn phim mà tôi đã từng xem ở nhà ngoại vào một buổi tối khuya. Ông ấy không nổi giận, ông ấy rất tử tế bảo rằng hành vi đó là không đúng đắn đối với một cô bé gái, rằng tôi phải mặc quần áo vào. Nhưng tôi nhận thấy ông ấy tỏ ra thất vọng. Làm sao tôi biết mình vừa đề nghị ông ta ngoại tình? Có ai giải thích chuyện đó với tôi bao giờ đâu. Ngày hôm sau, một nhân viên bảo trợ xã hội đã đến tìm tôi. Tôi không bao giờ gặp lại họ nữa.
    Camilla Robertson kể lại chuyện đó với một vẻ bình thản khiến Mila bất ngờ. Như thể chị ta đã đoạn tuyệt với quá khứ, đã tìm thấy sự yên bình và không còn gì phải che dấu. Không có chút hằn thù nào trong giọng nói của chị ta, chỉ có một nỗi buồn man mác.
    Berish muốn Camilla đi thẳng vào sự việc, nhưng anh hiểu phải để cho chị ta nói.
    - Cú điện thoại đầu tiên gọi đến vào sinh nhật lần thứ mười sáu của tôi. Chiếc điện thoại đã đổ chuông nhiều lần, lúc đó là hai giờ chiều, và theo thói quen thì ngoại tôi ngủ cho đến sáu giờ tối. Chuông reo chán thì ngừng, rồi lại reo. Thế là tôi nhấc máy. Ở đầu dây bên kia, một người đàn ông chúc tôi sinh nhật vui vẻ. Chuyện đó thật kỳ lạ, vì chẳng ai nhớ ngày sinh của tôi. Cho tới lúc đó, tôi chỉ được một lần duy nhất cắt bánh sinh nhật vào một trong những dịp phải ở trong viện mồ côi, và tôi đã phải thổi nến với năm đứa bé sinh cùng tháng. Cũng hay, nhưng không có gì đặc biệt. Ngược lại, khi người đàn ông trên điện thoại nói ông ta gọi đến chỉ vì tôi, tôi đã cảm thấy... hãnh diện.
    Mila quan sát các tấm ảnh của gia đình Robertson treo rải rác trong phòng khách. Khoảng một chục cái bánh sinh nhật và những khuôn mặt tươi cười dính đầy kem bơ.
    - Người đàn ông đó có cho cô biết ông ta là ai hay không? - Berish hỏi.
    - Tôi thậm chí còn không hỏi. Có quan trọng mấy đâu. Những người khác gọi tôi là "cháu bà Nora", còn khi ngoại cần nói chuyện với tôi, bà dùng những từ đầy sỉ nhục. Điều quan trọng là ông ta biết tên tôi. Ông ta hỏi xem tôi có ổn không, ông ta muốn biết những chuyện khác trong cuộc sống của tôi, chẳng hạn như tôi học hành thế nào, bạn tôi là ai, ca sĩ hoặc nhóm nhạc mà tôi yêu thích. Ông ta đã biết khá nhiều thứ. Tôi thích màu tím này, ngay khi có tiền trong túi là tôi lao thẳng ra rạp chiếu bóng này, tôi thích phim tài liệu về động vật, và cả chuyện tôi muốn có một con chó tên Ben nữa.
    - Chị không ngạc nhiên vì sao ông ta biết tất cả những cái đó sao? - Mila kinh ngạc hỏi lại.
    Camilla mỉm cười lắc đầu.
    - Tôi đã nói rồi, điều quan trọng nhất với tôi là được ai đó quan tâm đến mình.
    - Chuyện gì đã xảy ra sau đó?
    - Những cuộc gọi trở nên đều đặn. Thường thì ông ta gọi vào buổi chiều thứ Bảy. Chúng tôi trò chuyện với nhau trong khoảng hai mươi phút, chủ yếu là tôi nói. Thật dễ chịu, tôi không quan tâm việc mình chẳng biết ông ta là ai, mặt mũi thế nào. Đôi khi, tôi thích thú với ý nghĩ rằng ông ta đã chọn mình để dựng lên mối quan hệ đặc biệt ấy. Ông ta không bao giờ yêu cầu tôi giấu giếm việc trò chuyện giữa chúng tôi với những người khác, nên tôi chẳng mảy may nghi ngờ ông ta có ý đồ xấu. Ông ta chưa bao giờ đòi gặp mặt tôi, chưa bao giờ yêu cầu tôi làm bất cứ việc gì. Đó là người bạn bí mật của tôi.
    - Việc liên lạc qua điện thoại kéo dài trong bao lâu? - Berish hỏi.
    - Khoảng một năm thì phải... Sau đó thì chấm dứt. Nhưng tôi vẫn còn nhớ cuộc gọi áp chót. Giọng điệu của ông ta đổi khác. Ông ta đã hỏi tôi một câu mà ông ta chưa bao giờ hỏi, đại loại là: "Cô nghĩ sao nếu được sống một cuộc đời mới?". Sau đó ông ta giải thích điều mình muốn nói. Nếu tôi muốn, tôi có thể thay đổi tên họ, đến thành phố khác, bắt đầu từ con số không, thậm chí là cùng với một con chó tên Ben.
    Mila và Berish nhìn nhau.
    - Ông ta không giải thích sự thay đổi đó phải diễn ra như thế nào, ông ta chỉ nói rằng nếu tôi muốn thì chuyện đó là có thể.
    Mila đặt tách cà phê xuống, thật chậm rãi, để không phá vỡ bầu không khí đã được tạo ra.
    - Tôi thấy chuyện đó thật điên rồ. Tôi đã tưởng đó là một trò đùa. Thế nhưng ông ta nghiêm túc. Tôi đã đảm bảo với ông ta là tôi ổn và không muốn một cuộc đời khác. Sự thật là tôi chỉ muốn trấn an ông ta, vì không muốn ông ta cảm thấy thương hại tôi. Ông ta đã bảo tôi suy nghĩ và trả lời vào thứ Bảy sau. Khi ông ta gọi lại, tôi vẫn một mực từ chối. Ông ta không tỏ ra phật lòng. Chúng tôi đã nói chuyện như không có gì xảy ra. Tôi không hề biết đó là lần trò chuyện cuối cùng của chúng tôi. Tôi còn nhớ khi điện thoại không còn reo nữa vào ngày thứ Bảy kế tiếp, tôi cảm thấy bị bỏ rơi hơn bao giờ hết. Tôi xin lỗi. - Camilla Robertson nói và đứng dậy để đến chỗ đứa con vừa cất tiếng khóc.
    - Tôi có cảm giác chị ta có nhiều thứ để kể. - Mila nói khẽ với Berish.
    Anh chỉ vào bìa hồ sơ màu nâu.
    - Còn cả cái này nữa...

  10. #39
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 38
    Giây lát sau, Camilla Robertson quay lại cùng với đứa bé.
    Chị đứng ru con để nó ngủ lại.
    - Thằng bé không chịu được nóng, mà nói thật là tôi cũng thế. Năm nay Chúa đã cho chúng ta một mùa hè dài, xin vinh danh Người.
    - Chị Camilla này, - Mila nối lại câu chuyện, - chị có nói chuyện lần nữa với người đàn ông trên điện thoại không?
    - Chuyện đó xảy ra nhiều năm về sau. Tôi hai mươi lăm tuổi, và không thể nói là có một cuộc sống nề nếp. Khi đến tuổi trưởng thành, ngoại đã đẩy tôi ra khỏi nhà và bảo là không còn trách nhiệm gì với tôi nữa. Không lâu sau thì ngoại mất, và ngày nào tôi cũng cầu nguyện để bà lên thiên đường.
    - Không nhà không cửa. - Berish chen vào. - Tôi đoán là mọi việc hẳn rất tồi tệ.
    - Vâng, quả vậy. Lúc đầu, dù sợ hãi, tôi vẫn tin một cuộc sống hạnh phúc đang chờ đợi mình. Chỉ có Chúa mới biết tôi nhầm lẫn đến mức nào... Đêm đầu tiên tôi ở ngoài đường, người ta đã cướp mất chút tiền ít ỏi mà tôi có. Ngày thứ hai, tôi phải đi cấp cứu với một chiếc xương sườn bị rạn. Sau một tuần lễ, tôi đã nhận ra cách duy nhất để sống sót là đi bán dâm. Một tháng sau, tôi đã khám phá bí mật của sự sung sướng trong cái địa ngục đó khi hít liều ma túy đầu tiên.
    Càng nhìn người phụ nữ thanh thản trước mặt mình, Berish càng thấy khó mà tin được chị ta đang kể câu chuyện của bản thân.
    - Tôi đã bị bắt nhiều lần, qua lại nhà tù và trại cai nghiện như đi chợ, nhưng vẫn cứ ngựa quen đường cũ. Thỉnh thoảng tôi không ăn gì trong nhiều ngày để có tiền mua thuốc. Tôi nhận thuốc thay cho tiền từ những khách hàng ít ỏi đủ can đảm để quan hệ với một đứa da bọc xương, đầu trụi tóc và mồm đầy răng sâu như tôi.
    Trong khi Camilla nói, đứa bé dũi dũi tìm vú mẹ qua lần vải áo.
    Cảnh tượng thuần khiết diễn ra trước mắt hai cảnh sát tương phản khủng khiếp với câu chuyện mà người phụ nữ kể lại.
    - Tôi còn nhớ, vào một đêm đông, trời mưa như trút. Ngoài phố chẳng có ai, trong khi tôi muốn kiếm đủ tiền mua thuốc bằng mọi giá. Tôi chẳng biết đi đâu. Phần lớn thời gian tôi trải qua trong một thế giới song song. Không chỉ trong những lúc phê thuốc, mà cả những lúc khác, vì bản năng khiến tôi không thiết ăn uống ngủ nghê gì nữa, để chỉ khao khát phê ma tuý thôi. Trong mưa gió, tôi đành trú vào một buồng điện thoại công cộng. Tôi không còn nhớ mình đã ở trong đó bao lâu. Tôi ướt sũng và lạnh buốt. Tôi đã cố gắng làm ấm người bằng cách chà xát tay vào người, nhưng vô ích. Đúng lúc đó, chiếc điện thoại công cộng đổ chuông. Tôi còn nhớ mình đã nhìn nó hồi lâu, không hiểu chuyện gì đang diễn ra. Tôi để mặc nó đổ chuông, vì không có đủ can đảm để nhấc ống nghe. Linh tính trong tôi mách bảo rằng đây không phải một cuộc gọi nhầm số. Rằng ai đó đang tìm tôi.
    Mila chờ đợi. Cô muốn để cho người phụ nữ có đủ thời gian cần thiết để cân nhắc, như thể chị ta đang ở trong buồng điện thoại kia và chuẩn bị nhấc cái ống nghe lên như đã làm nhiều năm về trước.
    - Từ đầu tiên mà ông ta nói là tên tôi, Camilla. Tôi nhận ra giọng nói đó ngay tức khắc. Tôi nhớ ông ta đã hỏi tôi có ổn không, trong khi tôi biết ông ta đã có câu trả lời, thế là tôi bật khóc tức tưởi. Hai người không thể tưởng tượng nó nhẹ nhõm đến thế nào khi được khóc sau nhiều năm không rơi lệ dù có cả ngàn lí do để làm thế. Chỉ một giọt nước mắt thôi là tôi sẽ chết trong cái thế giới nghiệt ngã này, nên đó là điểm yếu duy nhất mà tôi không cho phép mình phạm phải. Đó là lần thứ hai, - người phụ nữ run run nói tiếp, - ông ta hỏi tôi: "Cô nghĩ sao nếu được sống một cuộc đời mới?". Và tôi đã chấp nhận.
    Đứa bé đã ngủ say trong vòng tay mẹ, thằng anh kế vẫn chơi trong một góc phòng. Ngoài vườn, ba đứa lớn chạy nhảy vui vẻ cùng với Hitch. Trong ngôi nhà nhỏ, Camilla được bao bọc bởi những thứ quý giá nhất đối với mình. Chị đã dồn tâm trí và sức lực xây dựng nên thế giới nho nhỏ này, như thể chưa bao giờ khao khát điều gì khác.
    - Ông ta có giải thích những việc cô phải làm để có được một cuộc đời mới không? - Berish hỏi.
    - Ông ta đã cho tôi những chỉ dẫn cặn kẽ. Tối hôm sau tôi phải mua thuốc ngủ và đến một khách sạn, ở đó một phòng đã được đặt trước với tên tôi.
    Chi tiết mua thuốc ngủ khiến Mila và Berish càng chú ý hơn, có lẽ họ đang đi gần đến lời giải thích cho bí mật của những người mất ngủ. Nhưng họ tránh không nhìn nhau để không làm ảnh hưởng tới lời kể của Camilla.
    - Tôi phải uống thuốc ngủ rồi nằm trên giường. - Camilla nói tiếp. - Sau đó, ông ta nói tôi sẽ thức dậy tại một địa điểm khác, nơi tôi có thể bắt đầu lại từ con số không.
    - Vậy chị đã làm gì? Chị có đi đến đó không? - Mila hỏi, cô thấy khó mà tin được tất cả những chuyện này là thật.
    - Có. Căn phòng đã được đặt trước với tên tôi. Tôi bước lên cầu thang, rồi mở cửa. Nó khá bẩn, nhưng ngoài chuyện đó ra thì chẳng có gì khiến tôi khó chịu hoặc cảm thấy nguy hiểm. Tôi cầm lọ thuốc ngủ và nằm dài trên giường, vẫn mặc nguyên quần áo. Tôi còn nhớ mình đã nhìn lên trần nhà với cái lọ trong tay. Tôi đã dùng ma tuý trong suốt bảy năm, nhưng lúc đó tôi lại thấy sợ việc nuốt một viên thuốc. Tôi tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra, và liệu mình đã sẵn sàng cho một cuộc đời mới chưa.
    - Sau đó chuyện gì đã xảy ra? - Berish hỏi.
    - Với một sự tỉnh táo khiến bản thân mình cũng phải bất ngờ, tôi tự nhủ nếu không cố gắng để tự thoát ra thay vì buông mình vào khoản trống, chắc chắn tôi sẽ chết. Anh có hiểu không? Lần đầu tiên trong đời tôi nhận ra rằng, bất chấp bản năng tự huỷ hoại, tôi không muốn chết. Tôi đã đứng lên khỏi chiếc giường và ra về.
    Bẻish rút từ trong túi ra bức chân dung dựng lại của Kairus và đưa nó cho người phụ nữ.
    - Cô có bao giờ nhìn thấy người này chưa?
    Camilla Robertson ngần ngừ trong một thoáng trước khi cầm lấy tờ giấy. Mắt chị ta nhìn vào khuôn mặt của gã đàn ông, nghiên cứu các đường nét trên khuôn mặt.
    Berish và Mila nín thở.
    - Không, tôi chưa bao giờ nhìn thấy người này.
    Hai đặc vụ cố nén thất vọng.
    - Chị Robertson này, vẫn còn hai, ba câu hỏi nữa, nếu chị không phiền. - Mila nói. - Chị còn nhận được những cuộc gọi khác không?
    - Không bao giờ nữa.
    Mila tin chị ta.
    - Không còn cần thiết nữa. - Camilla nói thêm. - Sau lần trải nghiệm đó tôi đã đi cai nghiện, và lần này thì cai nghiêm túc. Ở đó tôi đã gặp mục sư Robertson, chúng tôi đã kết hôn. Như anh chị thấy, tôi đã tự mình vượt qua. - Camilla chốt lại câu chuyện với giọng đắc thắng.
    Berish mỉm cười tha thứ cho tội tự mãn của người phụ nữ.
    - Tại sao cô tố cáo người đàn ông này vài năm sau đó?
    - Theo thời gian, tôi đã thay đổi quan điểm về ông ta. Tôi không còn chắc chắn về sự tốt đẹp trong ý đồ của ông ta.
    - Điều gì khiến cô nghĩ như vậy?
    - Tôi không biết chính xác. Khi tôi gặp chồng tôi, khi tôi nhìn thấy cách anh ấy tận tụy với người khác, tôi đã thắc mắc tại sao một người có ý định tốt lại phải giấu mình trong bóng tối. Với cả...
    Mila và Berish chờ đợi.
    - Chuyện này có gì đó... ang ác.
    Berish cân nhắc một câu trả lời. Anh không muốn khiến Camilla cảm thấy mình vừa nói ra một câu vô nghĩa, vì anh cảm nhận được ý nghĩa của nó.
    - Một điều cuối cùng. - Mila xen vào. - Chị có nhớ tên cái khách sạn đó và số phòng không?
    - Tất nhiên rồi... - Camilla Robertson ngước mắt nhìn trần nhà như thể ký ức của chị ta nằm trên đó. - Phòng 317, khách sạn Ambrus.

  11. #40
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 39
    Khách sạn Ambrus chẳng có gì đáng nhớ.
    Đó là một hình hộp dẹp nằm kẹt giữa một loạt các tòa nhà đồng dạng.
    Mặt tiền khách sạn sáu tầng lầu không khác gì những tòa nhà kia. Hai mươi bốn cửa sổ của nó nhất loạt trông ra một cây cầu đường sắt mà cứ mỗi ba phút lại có một đoàn tàu chạy qua. Trên mái khách sạn có dựng một bảng hiệu bằng đèn tuýp, nhưng chưa được bật vì đang là buổi chiều.
    Ở bên ngoài khách sạn, một vụ ùn tắc đang diễn ra. Tiếng còi xe hòa lẫn với tiếng nhạc sàn của một chiếc radio gắn trên xe. Những người đi làm trong khu trung tâm phải băng qua khu vực này của thành phố để đến được tuyến đường vành đai dẫn về các khu ngoại ô trung lưu. Nhưng nhiều người trong số họ, đặc biệt là các nhân viên nam, vẫn nán lại nơi đây trong vài giờ. Khu vực này đầy rẫy các quán bar trá hình, những câu lạc bộ thoát y và các cửa tiệm bán đồ chơi tình dục. Chúng tạo nên một thứ cám dỗ không thể cưỡng nổi với những người đàn ông muốn tìm kiếm khoái lạc. Nhiều phụ nữ trang điểm đậm đang tụ tập quanh lối ra của trạm xe điện ngầm.
    Chức năng của khách sạn Ambrus đối với công việc làm ăn trong khu vực đã khá rõ ràng.
    Mila và Berish băng qua cửa xoay và bước vào một tiền sảnh bụi bặm. Cây cầu đường sắt ngăn không cho ánh nắng ban ngày lọt vào, còn những ngọn đèn vàng vọt trên tường không đủ mạnh để đưa nơi này ra khỏi bóng tối. Mùi thuốc lá thấm đẫm trong không khí.
    Họ vẫn có thể nghe thấy tiếng xe cộ lưu thông, nhưng âm thanh đã được cản bớt. Tiếng nhạc xa xôi vang lên trong gian phòng. Berish nhận ra đó là một đĩa hát cũ của Édith Piaf - chút không khí lãng mạn để chào đón những kẻ cố ý sa chân vào chốn địa ngục vô tình này.
    Ngồi trên một chiếc trường kỷ bọc da cũ sờn là một người đàn ông da màu luống tuổi, trên người khoác một chiếc áo vest kẻ ô kèm với sơmi cài nút không cà vạt. Ông ta nhìn vào một điểm trong không gian trước mặt mình và lẩm nhẩm hát theo bài hát của Piaf. Một tay ông ta đặt trên chiếc gậy chống màu trắng.
    Mila và Berish băng qua chỗ ông ta ngồi để đến quầy lễ tân vắng bóng người. Họ chờ đợi.
    - Nhìn kìa. - Berish vừa nói vừa chỉ vào bảng treo chìa khoá. Mỗi chiếc chìa được gắn vào một cục đồng tròn có khắc số. Phòng 317 đang trống.
    Tấm màn nhung đỏ che lối đi ra phía sau được vén lên, hé lộ một người đàn ông rất gầy, tầm năm mươi tuổi, trong trang phục quần jean và áo thun đen. Ông ta là người đang nghe nhạc Piaf.
    - Chúc sức khoẻ anh chị. - Ông ta vừa nói vừa nhét miếng bánh mì cuối cùng vào miệng.
    - Chúc sức khoẻ. - Berish đáp lại để hưởng ứng câu đùa của ông ta.
    Người đàn ông lau tay vào một chiếc khăn giấy. Hai cánh tay của ông ta nổi đầy gân xanh, làn da phủ đầy các hình xăm đã mờ. Mái tóc muối tiêu cắt húi cua, cái khoen vàng lủng lẳng nơi vành tai trái và cặp kính lão gác trên chóp mũi tạo nên chân dung hoàn hảo của một ngôi sao nhạc rock hết thời.
    - Hai anh chị cần phòng nào? - Ông ta vừa hỏi vừa ngồi xuống phía sau quầy để xem sổ ghi tên khách trọ.
    Rõ ràng các khách hàng thường xuyên của khách sạn không thích bị dò xét, nên ông ta quan sát họ ít nhất có thể.
    Mila và Berish nhìn nhau trong thoáng chốc. Họ đang bị tưởng lầm là một cặp đôi đi tìm chốn hành sự kín đáo.
    - Vâng. - Mila đáp. - Cám ơn ông.
    - Hai người đã nghĩ ra tên chưa, hay để tôi tự nghĩ?
    - Phiền ông nghĩ hộ. - Berish đáp.
    - Hai anh chị có cần khăn không?
    - Không cần đâu, thế này là được rồi. - Mila chốt lại. - Chúng tôi thuê phòng 317 được không ạ?
    - Tại sao vậy? - Người đàn ông ngước mắt lên hỏi.
    - Đó là con số may mắn của chúng tôi. - Berish đáp, rồi tì người lên quầy. - Có vấn đề gì à?
    - Hai người thích quỷ sứ, mê tín, hay đơn giản chỉ là tò mò?
    Berish không hiểu ý ông ta.
    - Ai đã bảo hai anh chị tới đây? Nếu không thì tôi không thấy có sự giải thích nào cả.
    - Giải thích về chuyện gì? - Mila thắc mắc.
    - Thôi, đừng vờ như không biết. Tôi báo trước, nếu thực sự muốn căn phòng đó, hai người phải trả thêm mười lăm phần trăm phụ thu tiền phòng. Tôi không đùa đâu.
    - Chúng tôi sẽ trả tiền, không thành vấn đề. - Berish xoa dịu ông ta. - Giờ thì hãy nói cho chúng tôi biết cái phòng 317 đó có gì đặc biệt.
    - À, toàn chuyện nhảm nhí ấy mà... - Người đàn ông phẩy tay đáp. - Nghe đồn cách đây ba mươi năm, có người đã bị giết trong đó, nên lâu lâu lại có cặp thuê nó để hú hí với nhau. Mà này, hai người không thuộc loại bạo dâm chứ hả? Tuần trước tôi đã phải giải thoát cho một tay mặc sịp da bị một ả điếm trói vào tủ áo.
    - Ông yên tâm, chúng tôi không gây rắc rối đâu. - Berish trấn an ông ta.
    - Cái bọn thần kinh ấy, bọn nó kéo đến hàng đàn hàng lũ. Nếu tôi bắt được kẻ đã phao tin đồn về căn phòng 317, hắn sẽ trải qua mười lăm phút địa ngục đấy. - Người đàn ông tuyên bố trong khi lấy chiếc chìa khoá treo trên bảng. - Một giờ nhé, được không?
    - Quá được. - Berish đáp.
    Họ thanh toán tiền trước và cầm lấy chìa khoá phòng.
    Hai người đi lên phòng trong một buồng thang máy gỗ chậm chạp và kêu cọt kẹt, chỉ vừa đủ chỗ cho hai người. Nó khựng lại với một cú giật khi lên đến tầng ba.
    Berish mở cửa thang máy và đẩy cánh cửa sắt dẫn ra hành lang.
    Họ tìm thấy căn phòng không chút khó khăn vì nó nằm ở cuối hành lang, cạnh thang chuyển hàng. Cánh cửa gỗ sơn màu đen bóng, giống như những cánh cửa khác, trên đó nổi lên ba con số bằng kim loại bóng loáng.
    317.
    - Anh nghĩ sao? - Mila hỏi Berish khi anh sắp sửa đút chìa vào ổ khoá.
    - Cự ly gần của thang nâng hàng tạo thuận lợi cho việc vận chuyển những người đang ngủ ra khỏi khách sạn mà không bị chú ý.
    - Vậy là anh tin là Người ru ngủ luôn sử dụng cùng căn phòng này để nhử các nạn nhân của hắn?
    - Sao lại không? Tôi không biết liệu ai đó từng bị giết trong này có phải thật hay không, nhưng dù sao thì câu chuyện đó chỉ càng hữu ích cho Kairus.
    - Chắc chắn rồi. Nếu hắn luôn đặt cùng một phòng, ngay cả bằng tên giả, thì sẽ có ai đó nghi ngờ. Nhưng nhờ vào tiếng tăm của nó, phòng 317 là căn phòng đắt người thuê nhất của khách sạn. Một sự lựa chọn hoàn hảo, có thể nói như vậy.
    Berish xoay chìa trong ổ khoá.
    Họ bước vào.
    Phòng 317 giống với một buồng khách sạn tầm thường. Các vách tường được dán giấy màu đỏ thẫm. Thảm trải sàn có cùng màu, nhưng được điểm thêm các bông hoa to màu xanh dương - lựa chọn này là để cho các khách trọ không nhận ra những vết bẩn qua năm tháng. Một chùm đèn bụi bặm được treo bên trên chiếc giường đôi bằng gỗ sơn bóng màu nâu. Vải trải giường bằng satanh màu đỏ rượu, có những vết cháy do tàn thuốc lá. Hai cái bàn đầu giường bằng đá hoa màu xám, trên một bàn có đặt chiếc điện thoại đen. Nơi bức tường đầu giường, có thể nhìn thấy dấu vết của một cây thánh giá đã bị tháo xuống. Chiếc cầu đường sắt nằm cách đó khoảng ba mươi mét.
    Không nói không rằng, Berish bắt đầu tìm kiếm thứ gì đó trong phòng.
    - Anh tin chúng ta sẽ tìm được manh mối để làm sáng tỏ động cơ của Kairus à? - Mila hỏi.
    - Hắn tiếp xúc với các nạn nhân qua điện thoại và dần dần chinh phục họ bằng lời hứa hẹn về một cuộc sống mới. - Anh vừa đáp vừa mở tủ quần áo và các ngăn kéo. - Hắn chọn những người đã chỉ biết đến nỗi đau và sự thờ ơ, như thế sẽ không mất nhiều công sức để ve vãn họ. Hắn tỏ ra thân tình, dành cho họ sự chú ý mà họ chưa bao giờ có. Thế rồi, khi đến đúng thời điểm, hắn yêu cầu họ đến đây cùng một lọ thuốc ngủ. Giấc ngủ chính là tình trạng dễ bị tổn thương nhất của con người. Hắn đã thuyết phục họ tự đưa mình vào tình trạng đó. Cô có nhận ra cần phải có sức thuyết phục cỡ nào không? Kairus đấy.
    Ngoài những cái mắc áo trơ trọi, vài thứ chăn gối bụi bặm và một quyển Kinh thánh cũ có bìa bọc simili dập tên khách sạn, Berish không tìm được gì. Anh quay sang xem xét buồng tắm.
    Vách buồng tắm được ốp gạch men trắng, sàn lát gạch trắng đen như bàn cờ. Trong buồng tắm có một chậu rửa mặt, một bồn cầu và một bồn tắm.
    Đứng ở phía ngoài, Mila nhìn Berish lấy từ trong tủ phía sau tấm gương soi một lọ gel tắm đã cạn hơn nửa, và một hộp bao cao su rỗng.
    - Anh chưa trả lời câu hỏi của tôi... Tại sao Người ru ngủ lại muốn những người ấy?
    - Hắn xây dựng một đạo quân... Đạo quân bóng tối, cô không nhớ à?
    - Có chứ, nhưng hắn đưa họ quay lại để giết chóc nhằm mục đích gì?
    Đúng lúc Berish sắp trả lời thì một hồi chuông ré lên inh ỏi. Hai cảnh sát viên cùng quay lại.
    Chiếc điện thoại màu đen vừa đổ chuông.
    Berish bước ra khỏi buồng tắm, nhưng Mila không thể nhúc nhích để tránh lối cho anh.
    - Phải nghe máy thôi. - Berish tuyên bố.
    Cô nhìn tay đặc vụ như thể anh ta vừa đề nghị họ cùng nhau nhảy qua cửa sổ.
    Trong lúc đó, chiếc điện thoại vẫn tiếp tục đổ chuông. Mila tiến về phía chiếc bàn đầu giường, nhưng khi cô đặt tay lên ống nghe, câu nói mà Người ru ngủ dành cho các nạn nhân của hắn bỗng hiện lên trong đầu cô.
    Cô nghĩ sao nếu được sống một cuộc đời mới?
    Mila đoán chắc mình sắp được nghe cùng câu nói đó. Cô nhấc ống nghe, áp vào tai và không nghe thấy gì. Chỉ có sự im lặng trống rỗng như thể đến từ một cái giếng không đáy.
    Berish nhìn cô dò hỏi. Mila muốn nói gì đó để chấm dứt sự im lặng đáng sợ, nhưng những ngôn từ khựng lại trên môi cô. Chúng bị chặn đứng bởi một tiếng nhạc.
    Một bản nhạc cổ điển, giai điệu rất cổ xưa và xa vắng.
    Mila đưa ống nghe về hướng của Berish để anh cũng nghe thấy.
    Thông điệp kỳ bí này khẳng định hai người đang đi đúng đường. Có lẽ nó là manh mối dẫn họ đến vụ giết người kế tiếp. Dù sao thì, rõ ràng Kairus đã lường trước các nước đi của họ. Và hắn đang quan sát họ từ xa.
    Cú điện thoại đột ngột chấm dứt.
    Ngay lúc đó, Mila cảm thấy rùng mình dữ dội hơn bao giờ hết. Cô nhìn đặc vụ Berish, rồi nhắc lại câu hỏi đã đặt ra cho anh hai lần dưới những hình thức khác nhau kể từ khi họ bước chân vào căn phòng 317 này, mà vẫn chưa nhận được câu trả lời. Lần này, cô hỏi thẳng.
    - Berish, đạo quân bóng tối là gì vậy?
    - Tôi có thể khẳng định đó không phải là bọn khủng bố.
    - Vậy thì là gì?
    - Một giáo phái.

Trang 4 / 8 ĐầuĐầu ... 23456 ... Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-11-2017, 01:14 AM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-25-2016, 12:40 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-29-2016, 11:58 AM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-20-2016, 03:10 AM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-27-2015, 11:00 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •