Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Hạnh phúc sẽ tự mất đi khi nào người ta tự thỏa mãn về nó. Hạnh phúc sẽ chỉ bền vững khi người ta luôn luôn vươn tới và hoàn toàn khát vọng.
K.G. Paustopski
Trang 7 / 8 ĐầuĐầu ... 5678 Cuối Cuối
Results 61 to 70 of 75

Chủ Đề: Người Ru Ngủ

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Người Ru Ngủ



    Tác giả: Donato Carrisi




    Giới thiệu

    Nhân vật Mila Vasquez, nữ cảnh sát chuyên điều tra các vụ mất tích đã làm say lòng độc giả yêu thích tiểu thuyết trinh thám qua hơn 500 trang sách của Kẻ nhắc tuồng nay xuất hiện quyết đoán và gai góc hơn trong Người ru ngủ, anh em sinh đôi với Kẻ nhắc tuồng.

    Bảy năm trôi qua, Mila quyết định ẩn mình tại Minh Phủ - phòng điều tra chuyên trách những vụ mất tích không rõ nguyên nhân. Bản thân không có được sự thấu cảm dành cho người khác, cô đành gửi gắm con gái Alice cho bà ngoại chăm sóc. Trong khi đó, giáo sư tội phạm học Gavila vẫn đang hôn mê sâu và được canh gác cẩn mật. Mọi việc tưởng chừng trôi qua trong êm đềm, nhưng thật ra đó là khoảng lặng trước cơn bão.

    Tất cả bắt đầu bằng một cú điện gọi đến đường dây nóng của cảnh sát: Một tên sát nhân máu lạnh đã đột nhập vào gia đình một nhà tài phiệt trong lĩnh vực dược phẩm, giết hại toàn bộ thành viên trong gia đình sau khi cố tình để lộ danh tính. Hắn là Roger Valin, mất tích không rõ nguyên nhân 17 năm về trước, tái xuất hiện với bộ trang phục giống hệt trong bức ảnh chụp trước khi biến mất được lưu trữ tại Minh Phủ. Hắn đã ở đâu trong suốt thời gian qua? Bị người ngoài hành tinh bắt cóc chăng? Động cơ gây án là gì? Những câu hỏi ấy đòi hỏi sự vào cuộc của một chuyên gia tìm người mất tích, và không ai khác hơn, đó chính là đặc vụ Maria Elena Vasquez, hay Mila Vasquez.

    Càng dấn sâu vào điều tra, Mila nhanh chóng phải đối mặt với những vụ giết người liên tiếp xảy ra mà thủ phạm đều là những người mất tích từ lâu. Sau khi tái xuất để gây án, bọn chúng lại biến mất một lần nữa. Mọi cái chết dường như đều có liên hệ với một tên tội phạm sừng sỏ vẫn còn ngoài vòng pháp luật từ 30 năm nay: Người Ru Ngủ.

    Để chặn đứng “đạo quân bóng tối”, Mila buộc phải nhờ đến sự cộng tác của đặc vụ Simon Berish, người đã từng theo đuổi vụ án suốt 20 năm trời, và đã phải trả giá nặng nề khi bị cả trụ sở cảnh sát khinh bỉ, ruồng rẫy. Một nhân vật đặc biệt, một trợ thủ đắc lực của Mila Vasquez.

    Và những gì hai người phát hiện đã đưa cả hai vào vòng nguy hiểm chết người.

    Donato Carrisi sinh năm 1973 ở Ý, tốt nghiệp ngành luật và tội phạm học trước khi trở thành nhà viết kịch bản phim truyền hình. Cuốn tiểu thuyết trinh thám đầu tay Kẻ nhắc tuồng của ông đã gây được tiếng vang lớn với năm giải thưởng Văn học quốc tế, được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, và đưa tác giả lên vị trí “nhà văn Italia được đọc nhiều nhất trên thế giới”.

    Mời các bạn đón đọc Người Ru Ngủ của tác giả Donato Carrisi.





    MỞ ĐẦU
    Phòng số 13 trong nhà xác quốc gia được giành cho những người đang ngủ.
    Nó nằm ở tầng hầm thứ tư, cũng là tầng dưới cùng, giống như một tầng địa ngục. Một địa ngục buốt giá với nhiều gian phòng lạnh, nơi tiếp nhận các thi thể vô danh. Rất hiếm khi nó được thăm viếng.
    Thế nhưng đêm nay, một vị khách đang trên đường xuống tận nơi.
    Người trông xác chờ đợi vị khách trước cửa thang máy, mắt ngước nhìn những con số ghi nhận chuyển động đi xuống của buồng thang máy. Trong khi chờ đợi, ông ta tự hỏi vị khách bất ngờ này là ai, và nhất là, điều gì đã đưa đẩy anh ta đến cái tiền đồn xa xôi rất lạ lẫm với người sống này.
    Con số cuối cùng xuất hiện. Im lặng kéo dài hồi lâu trước khi cửa thang máy xịch mở. Người trông xác quan sát vị khách. Anh ta tầm bốn mươi tuổi, mặc một bộ comlê màu xanh thẫm. Giống như những người lần đầu tiên xuống dưới này, anh ta tỏ vẻ kinh ngạc khi thấy ở đây không được ốp gạch men trắng và chiếu sáng bằng đèn diệt khuẩn, thay vào đó các bức tường có màu xanh lá cây và ánh sáng có màu cam.
    - Màu sắc giúp ngăn chặn chứng lo âu. - Người trông xác giải thích khi nhận thấy câu hỏi không được nói ra, đồng thời đưa chiếc áo blu màu xanh da trời cho khách.
    Người khách không nói gì. Anh ta mặc áo vào, sau đó hai người bắt đầu đi dọc theo hành lang.
    - Các thi thể nằm ở tầng này chủ yếu là của người vô gia cư hoặc dân nhập cư bất hợp pháp. Bọn họ không có giấy tờ tùy thân, cũng chẳng có gia đình, và sau khi chết ngóm thì học được đưa vào đây. Tất cả được phân vào các phòng đánh số thứ tự từ 1 đến 9. Phòng số 10 và 11 được dành cho những người có đóng thuế đều đặn và xem được bóng đá trên truyền hình, giống như anh và tôi, nhưng nhồi máu cơ tim trên xe điện ngầm. Lấy cớ giúp đỡ, một hành khách móc ví của người xấu số và hấp, xảo thuật thành công, người kia biến mất mãi mãi. Cũng có khi, vấn đề chỉ là do quan liêu: một cán bộ nhầm lẫn giấy tờ của anh, và những thân nhân đến nhận dạng thi thể chỉ thấy trước mắt mình xác của một người khác. Như thể anh chưa chết, gia đình tiếp tục đi tìm anh. - Người trông xác kiêm hướng dẫn viên tự phong cố gây ấn tượng cho vị khách, nhưng hoài công. - Tiếp đến, các trường hợp tự tử hoặc tai nạn được đưa vào phòng số 12. Nhiều khi các thi thể ở tình trạng tệ hại đến nỗi không biết có phải là xác người hay không nữa. - Ông ta nói tiếp để thử bụng dạ của vị khách, nhưng có vẻ người này không phải loại non gan. - Dẫu sao thì, pháp luật đã dự tính một sự đối xử như nhau cho tất cả: họ phải nằm lại trong phòng lạnh ít nhất mười tám tháng. Sau đó, nếu thi thể vẫn không được nhận dạng hoặc được người thân đưa về, và nếu cảnh sát không có ý định mở lại cuộc điều tra, thi thể được phép đưa đi hỏa táng.- Ông ta trích dẫn điều luật theo trí nhớ.
    Đến đây, giọng nói của người trông xác trở nên hơi căng thẳng một chút, vì những gì ông ta nói tiếp theo có liên quan đến mục tiêu của chuyến viếng thăm khuya khoắt này.
    - Và rồi, chúng ta có các thi thể nằm trong phòng số 13.
    Nạn nhân vô danh của những tội ác chưa được làm sáng tỏ.
    Trong trường hợp giết người, luật pháp quy định thi thể chỉ là một vật chứng cho đến khi danh tính của nạn nhân được xác nhận. Chúng ta không thể buộc tội một kẻ sát nhân nếu không chứng minh người bị hắn giết đã từng tồn tại thật sự. Thi thể vô danh là bằng chứng duy nhất của sự tồn tại đó. Do vậy nó phải được bảo quản vô hạn định. Đó là một chi tiết lạ lùng nhất của luật pháp mà các luật sư rất thích thú.
    Luật pháp đã quy định chừng nào hành vi tội ác gây ra cái chết chưa được xác định, thi thể không thể bị tiêu hủy hoặc để phân rã tự nhiên.
    - Chúng tôi gọi họ là những người đang ngủ.
    Những người đàn ông, phụ nữ, trẻ con vô danh mà kẻ giết hại họ chưa được xác định. Họ chờ đợi suốt nhiều năm trời để được ai đó xuất hiện giải thoát khỏi lời nguyền khiến họ giống như còn sống. Như một câu chuyện cổ tích rùng rợn, tất cả những gì phải làm là đọc một thần chú.
    Tên của họ.
    Nơi tiếp nhận họ - căn phòng số 13 - nằm ở cuối hành lang.
    Khi đi đến trước cánh cửa sắt, người trông xác loay hoay một lúc với chùm chìa khóa để tìm đúng chìa. Ông ta mở cửa và tránh sang một bên nhường lối để khách bước vào phòng. Ngay khi anh ta bước vào, một dãy bóng đèn vàng trên trần lập tức được bật sáng nhờ cảm biến chuyển động. ở giữa phòng là một bàn giảo nghiệm tử thi, vây quanh bởi các dãy tủ lạnh cao ngất với hàng chục ngăn chứa xác.
    Một tổ ong bằng thép.
    - Anh phải ký vào đây. Quy định là thế. - Người trông xác vừa nói vừa đưa ra một quyển sổ đăng ký. - Anh quan tâm đến cái nào? - Ông ta hỏi tiếp với một chút sốt ruột.
    Cuối cùng người khách cũng lên tiếng.
    - Thi thể đã nằm ở đây lâu nhất.
    AHF-93-K999.
    Người trông xác thuộc nằm lòng số hiệu đó. Mừng thầm vì đã có lời giải cho bí ẩn lâu năm, ông ta lập tức chỉ vào ngăn tương ứng. Nó nằm ở vách tường bên trái, hàng thứ ba từ dưới lên. Ông ta chỉ nó cho vị khách.
    - Trong số các xác chết nằm lại nơi đây, câu chuyện về cái xác này chưa phải lạ lùng nhất. - Người trông xác nôn nóng giải thích. - Một chiều thứ Bảy, đám trẻ chơi bóng đá trong công viên đã sút quả bóng vào bụi rậm. Thế là anh ta được tìm thấy, với một viên đạn trong sọ. Anh ta không có giấy tờ, cũng không có chìa khóa nhà. Khuôn mặt anh ta vẫn còn trong tình trạng nhận dạng được, nhưng không có người nào gọi đến đường dây nóng để hỏi về anh ta, hoặc trình báo việc anh ta mất tích. Trong khi chờ người ta tìm ra thủ phạm, một việc có thể không bao giờ xảy ra, thi thể nằm đây là bằng chừng duy nhất của tội ác. Chính vì thế mà tòa án đã quyết định bảo quản anh ta trong này cho đến khi vụ giết người được làm sáng tỏ, công lý được thực thi. - Người trông xác ngừng lời một chút. - Đã nhiều năm trôi qua, nhưng anh ta vẫn nằm đây.
    Bấy lâu nay, người trông xác tự hỏi việc gì phải bảo quản bằng chứng của tội ác mà không ai nhớ đến. Ông ta luôn cho rằng mọi người đã quên mất người lưu trú vô danh của phòng xác số 13. Thế nhưng, khi được nghe yêu cầu của vị khách, ông ta cảm thấy bí mật được lưu giữ sau lớp thép dày vài xentimet kia sẽ còn hơn cả một cái tên đơn thuần.
    - Anh mở ra đi, tôi muốn xem anh ta.
    AHF-93-K999. Trong những năm qua, số hiệu gắn trên nhãn ngăn tủ vẫn là tên họ của thi thể. Đêm nay, điều đó có thể sẽ thay đổi. Người trông xác điều khiển van xả khí để mở ngăn đựng xác.
    Kẻ đang ngủ sắp được đánh thức.

  2. #61
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 60
    Trong buồng thẩm vấn, im lặng được sử dụng như một phương pháp tra tấn.
    Một màn tra tấn vô hình. Chẳng có luật lệ nào cấm sử dụng nó cả.
    Simon Berish bị nhốt trong chính nơi từng tiếp đón Michael Ivanovic vài tiếng đồng hồ trước.
    Khác với những nghi phạm từng ra vào căn buồng này, anh biết tại sao các vách tường được cách âm. Đó là nguyên tắc "căn phòng câm lặng", không để cho âm thanh lọt vào bên trong. Cơ thể bù trừ vào sự thiếu vắng này bằng cách tạo ra những âm thanh không có thật - những tiếng ù, tiếng ré trong tai. Theo thời gian, ta sẽ càng lúc càng khó khăn hơn trong việc phân biệt thực tế và ảo giác.
    Về lâu dài, tình trạng này có thể khiến người ta phát điên.
    Nhưng Berish biết anh sẽ không ở một mình lâu. Do vậy, anh tranh thủ sự im lặng để suy nghĩ.
    Anh tự hỏi mình bị buộc tội gì, nhưng không tìm ra câu trả lời. Anh ngồi đó, chờ đợi một người đến chiếm lấy phía bên kia bàn và cho anh vài lời giải thích. Từ giờ tới lúc đó, anh sẽ cố hết sức để tỏ ra thoải mái mà không quá mức, để trưng ra một hình ảnh trung tính trước các máy quay đang dò xét mọi góc cạnh của mình. Anh tin chắc không ai ngồi đằng sau tấm gương không tráng thuỷ kia.
    Berish đã nắm quá rõ các kỷ thuật thẩm vấn nên thừa biết rằng, trước khi xuất hiện, các đồng nghiệp sẽ để mình ngồi nẫu người trong vài tiếng đồng hồ. Chỉ cần anh trụ vững. Anh sẽ không đòi ăn uống hay đi vệ sinh, vì những yêu cầu này sẽ được nhìn nhận như dấu hiệu của sự yếu đuối. Để chứng minh mình vô can trước mọi lời buộc tội, anh phải làm đảo lộn các kế hoạch của bọn họ.
    Một nghi phạm tỏ ra quá hoặc không đủ căng thẳng đều gần như chắc chắn có tội. Một kẻ tình nghi luôn miệng hỏi sao mình lại ở đây cũng vậy. Một nghi can máu lạnh sẽ thú nhận rất nhanh chóng. Một kẻ bình thản là đang mang nguy cơ nhận án chung thân. Người vô tội thể hiện tất cả những điều đó cùng một lúc. Nhưng nhìn chung người ta không tin họ. Bí quyết chính là sự bàng quan.
    Sự bàng quan làm người ta mất phương hướng.
    Cánh cửa phòng bật mở sau ba tiếng đồng hồ trôi qua. Klaus Boris và Thẩm phán bước vào, trang bị sẵn sàng với các tập hồ sơ và một vẻ mặt quyết tâm.
    - Đặc vụ Berish, - Thẩm phán tuyên bố, - thanh tra Boris và tôi có vài câu cần hỏi anh.
    - Nếu hai người đã suy nghĩ trong chừng ấy thời gian thì hẳn là chúng nghiêm túc. - Tay đặc vụ mỉa mai, dù thật ra trong lòng anh đang căng thẳng.
    - Anh có đủ kinh nghiệm thẩm vấn để có thể giằng co với chúng tôi đến khuya. - Boris nói. - Do đó chúng ta sẽ không giở trò này nọ. Tôi hi vọng anh sẽ đơn giản hóa cuộc sống của chúng ta bằng cách hợp tác.
    - Trong trường hợp ngược lại, Simon ạ, chúng tôi sẽ buộc phải ngưng buổi thẩm vấn và chuyển hồ sơ cho bên công tố. Tôi đảm bảo trong đó có cái để buộc tội anh.
    - Vậy tại sao chúng ta còn ngồi đây? - Berish mỉm cười hỏi lại.
    - Chúng tôi biết hết rồi, nhưng chúng tôi muốn cho anh một cơ hội cuối cùng để có được tình tiết giảm nhẹ. - Joanna Shutton chỉ một ngón tay vào anh. - Cô ấy đâu?
    Tay đặc vụ im lặng, một phần vì anh không biết phải nói gì.
    - Đêm qua đã xảy ra chuyện gì?
    Trong một thoáng Berish quên mất mình đã ngủ say như chết cả đêm và tự hỏi liệu mình có thực sự làm điều gì chăng. Anh tiếp tục im lặng.
    Joanna Shutton cúi người xuống Berish, ghé mặt vào ngay phía trên tai anh. Berish cảm thấy bối rối vì hơi thở nóng ấm và mùi nước hoa ngọt ngào của chị ta.
    - Anh giữ vai trò gì trong vụ mất tích của đặc vụ Mila Vasquez?
    Câu hỏi khiến máu trong người Berish đông lại. Không phải vì sự thật cuối cùng đã được tiết lộ, mà vì anh không biết câu trả lời.
    - Mila đã biến mất á?
    Trước sự lo lắng chân thành của Berish, hai người kia nhìn nhau.
    - Đêm qua cô ấy đã rời nhà mẹ đẻ trong trạng thái rối trí. - Boris giải thích. - Sau đó, mẹ Mila đã gọi điện thoại đến nhà cô ấy nhưng không có ai ở nhà. Mila cũng không nghe điện thoại di động.
    - Tôi biết, tôi đã cố gọi cho cô ấy sáng nay. - Berish đáp.
    - Hẳn là để tạo chứng cứ ngoại phạm. - Thẩm phán bóng gió.
    - Ngoại phạm cho cái gì chứ? - Berish bực bội hỏi lại. - Hai người đã tìm cô ấy chưa?
    Câu hỏi bị phớt lờ. Boris ngồi xuống đối diện với Berish.
    - Hãy nói cho tôi biết, Berish, anh đã xới lại vụ Kairus như thế nào?
    Berish huy động toàn bộ sự kiên nhẫn của mình có để trả lời.
    - Chính Mila Vasquez là người đến tìm tôi. Tôi đã hợp tác với cô ấy trong đêm xảy ra vụ cháy ở tòa nhà gạch đỏ.
    Joanna Shutton ngồi ghé lên một góc bàn, truy vấn:
    - Anh đã ở đó? Tại sao anh không ra mặt? Tại sao anh để cho Mila Vasquez một mình gánh trách nhiệm vụ việc?
    - Vì cô ấy không muốn tôi liên lụy.
    - Anh thật sự nghĩ chúng tôi tin anh à? - Thẩm phán chậm rãi lắc đầu. - Chính anh đã tấn công cô ấy vào đêm đó, đúng không?
    - Gì cơ? - Berish sửng sốt.
    - Anh đã lấy vũ khí của Mila và dàn dựng vụ tấn công.
    - Có một kẻ nào đó trong tòa nhà, nhưng hắn đã trốn thoát. Ngay chính các người cũng nhận ra có lối thoát qua hệ thống cống mà.
    Berish đã mất kiểm soát, anh biết như vậy là không tốt.
    - Việc gì phải làm bẩn mình dưới cống trong khi người ta có thể đường hoàng đi ra bằng cửa chính? - Boris khích bác.
    - Hai người bị cái quái gì vậy?
    - Anh có chắc chúng tôi sẽ không tìm thấy súng của Mila khi lục soát căn hộ của anh không?
    - Tôi không hiểu tại sao các người cứ lôi vụ khẩu súng vào đây.
    Thẩm phán thở dài.
    - Bởi vì, anh thấy đấy... Sáng nay công việc khám nghiệm hiện trường vụ hỏa hoạn đã hoàn tất. Một cái xác người thì không thể kháng cự được một nhiệt độ cao như thế. Nhựa và giấy cũng vậy. Nhưng kim loại là một chuyện khác. Chúng tôi không tìm được dấu vết khẩu súng của Mila. Vậy thì, nó ở đâu?
    - Này, cần phải bịa ra thứ gì đó có hậu quả nghiêm trọng hơn, nếu hai người thực sự muốn lôi tôi vào vụ này. - Berish đùa giỡn. - Nếu không, e là cả hai sẽ phí phạm ngày thứ Sau một cách vô ích.
    Một lần nữa, hai vị thẩm vấn nhìn nhau. Tay đặc vụ có cảm giác họ đang nắm giữ một điều gì đó. Và họ đang vờn anh để che giấu lá bài này trong khi chờ thời cơ thuận lợi.
    - Anh là người đã lãnh hậu quả đắt nhất trong vụ án những người mất ngủ. - Joanna Shutton công nhận. - Tôi, Gurevich và tất nhiên là cả Stephanopoulos nữa, chúng tôi đã thoát ra và xây dựng sự nghiệp cho mình. Còn anh, anh đã để cho nó ám vào đầu, anh đã phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác, và trở thành kẻ bị cả trụ sở ruồng bỏ.
    - Cả hai chúng ta đều biết chuyện gì đã xảy ra, và ai là kẻ chịu trách nhiệm cho những tội lỗi làm tôi mang tiếng. - Berish lên tiếng thách thức. - Chị chỉ đang tìm cách bịt miệng tôi.
    - Tôi không cần anh phải im lặng về Gurevich. - Thẩm phán khẳng định chắc nịch. - Và tôi cũng không cần phải dùng thủ đoạn để gài anh. Hơn nữa, việc anh không phải là kẻ biến chất thực sự lại chính là một động cơ hoàn hảo...
    Lúc này Berish cảm thấy thực sự lo sợ, nhưng anh không để lộ ra điều đó.
    - Động cơ để làm gì?
    - Khó lắm chứ, việc mất đi sự quý trọng của đồng nghiệp. - Thẩm phán giả giọng thông cảm. - Chịu đựng sự sỉ nhục của họ, nghe họ nói xấu mình. Không chỉ sau lưng, mà thậm chí là trước mặt! Đau lắm chứ, nhất là khi người ta biết mình vô tội.
    Joanna Shutton đang muốn gì đây? Berish không hiểu được, nhưng chuyện này có vẻ bốc mùi.
    - Anh có lí do để nuôi mối hận thù trong lòng. Có lẽ anh nghĩ sớm muộn gì anh cũng sẽ bắt mọi người phải trả giá...- Thẩm phán kết luận.
    - Chị ám chỉ tôi đã âm mưu mọi chuyện sao? Không lẽ tôi là kẻ đạo diễn hành động quay lại của đám người mất tích và các vụ giết chóc à?
    - Anh đã thuyết phục bọn chúng bởi vì, cũng như chúng, đã từ lâu anh phải chịu đựng sự nhục nhã. Mục tiêu trả thù của anh là Gurevich, và cùng với anh ta là toàn bộ lực lượng cảnh sát. Một tổ chức khủng bố cần có một tư tưởng và một kế hoạch. Không có gì tốt hơn một sự kết hợp nhắm vào một cơ quan nhà nước. Người ta có thể phá hủy một thể chế bằng vũ lực, nhưng sẽ gây thiệt hại nặng nề hơn nếu làm nó mất uy tín. Anh luôn muốn điều này xảy ra cho trụ sở.
    Berish không nổi vào tai mình.
    - Vậy chuyện này có liên quan gì với việc Mila biến mất?
    - Cô ấy đã hiểu tất cả. - Boris đáp. - Ngay từ đầu anh đã coi Mila là một con tốt. Anh đã dụ dỗ cô ấy vào trong tòa nhà gạch đỏ.
    - Không hề.
    Thẩm phán tỏ ra nghi ngờ.
    - Anh đã khiến đặc vụ Vasquez tin là mình hợp tác với cô ấy, qua đó đảm bảo cô ấy không hé răng với cấp trên.
    - Thử nghĩ mà xem. - Boris nói. - Như vậy anh ở vào vị trí tốt nhất để theo dõi cuộc điều tra. Vô hình và đứng bên lề vụ việc.
    - Khi Mila Vasquez hiểu ra mọi chuyện, anh đã thủ tiêu cô ấy.
    - Cái gì?
    - Tôi đã nghe tiếng hai người cãi vã trong hành lang hôm qua. - Boris khẳng định.
    - Một vụ cãi nhau chẳng chứng tỏ được gì.
    - Quả thực, nó không thể là bằng chứng. - Thẩm phán bình tĩnh đáp. - Nhưng một nhân chứng đã thấy anh bắt cóc Mila từ nhà cô ấy đêm qua.
    Thoạt đầu tay đặc vụ tưởng đâu họ đang bịp mình.
    - Nhân chứng đó là ai vậy? - Anh hỏi lại bằng giọng thách thức.
    - Đại úy Stephanopoulos.

  3. #62
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 61
    Họ chẳng có gì.
    Ngồi một mình trong buồng thẩm vấn, anh tự nhắc đi nhắc lại với mình là Joanna Shutton và Boris đã bày ra vụ buộc tội bắt cóc để xem anh có sập bẫy hay không. Nhưng còn Steph? Tại sao ông ta lại làm điều này với anh?
    Trong một thoáng, anh đâm sợ hãi rằng họ đã không nói thật với anh về Mila, và một điều gì đó rất kinh khủng đã xảy ra với cô. Nhưng anh tự trấn an mình, nhủ thầm nếu thế họ sẽ lập tức buộc anh tội... Anh thậm chí không muốn nghĩ đến hai chữ "sát nhân".
    Trong lúc này, anh có những việc khẩn cấp hơn. Uống nước và đi vệ sinh. Chiến thuật giả vờ bàng quan đã bất thành, vì anh vẫn ở trong buồng thẩm vấn.
    Vào giờ này bên công tố lẽ ra đã thảo xong bản luận tội. Đáng lẽ anh đã bị đưa vào buồng giam.
    Hơn nữa, đã mấy giờ rồi? Trong buồng thẩm vấn không được treo đồng hồ để làm cho nghi can mất đi khái niệm thời gian. Lúc bị bắt, Berish đã bị tước mất chiếc đồng hồ đeo tay cùng vũ khí và phù hiệu. Sau khi nhẩm tính trong đầu một chút, Berish tin rằng hiện tại là khoảng 8 giờ tối.
    Mà ngày hôm nay đã bắt đầu một cách sáng sủa làm sao!
    Chuyến viếng thăm bà mẹ của Michael Ivanovic có lẽ đã cung cấp cho anh chiếc chìa khóa hóa giải vụ việc, nhưng trớ trêu thay lúc này anh không thể sử dụng nó. Thậm chí anh đã nghĩ đến việc đề nghị một sự đổi chác với Thẩm phán và Boris, nhưng họ có thể cho anh cái gì đây? Họ sẽ không đời nào để anh ra ngoài.
    Anh thậm chí không chắc họ sẽ tin mình.
    Hi vọng duy nhất của Berish là gieo vào đầu Joanna Shutton suy nghĩ rằng chị ta có thể đạt được thứ gì đó. Nếu anh hiểu Thẩm phán đủ rõ như anh tưởng, chị ta sẽ chấp nhận mọi điều kiện để xóa sạch tội lỗi của Gurevich. Nhưng để chuyện đó xảy ra, cần phải biến Joanna Shutton thành người thắng cuộc - người làm sáng tỏ vụ bí ẩn Kairus và nhóm người mất ngủ sau hai mươi năm. Berish chắc chắn báo chí đã đánh hơi được vụ việc và nó sẽ nhanh chóng được đưa ra công luận.
    Họ không thể giữ kín chuyện này lâu được.
    Bỗng cánh cửa buồng thẩm vấn bật mở. Berish ngồi thẳng người lại trên ghế. Các đối thủ của anh đã quay lại. Cố gắng kiềm chế cơn khát và mong muốn đi vệ sinh, anh chuẩn bị tinh thần cho vòng hai, cầu mong mình cầm cự được lâu nhất có thể.
    Người mới xuất hiện quay lưng với Berish mặc bộ quần áo thể thao màu xanh nước biển có phù hiệu cảnh sát, mũ đội sùm sụp che mắt. Anh cảm thấy lo ngại. Một người ngụy trang thế này thì không thể có ý định tốt được.
    Tay đặc vụ đứng dậy. Người kia quay lại. Chính là Stephanopoulos.
    Viên đại úy khép cửa lại. Berish hoang mang nhìn ông ta.
    - Chúng ta không có nhiều thời gian. - Steph vừa nói vừa bỏ mũ ra.
    - Ông làm gì ở đây? Chính ông là người đã gài tôi kia mà?
    - Đúng. Xin lỗi cậu, tôi bắt buộc phải làm thế.
    - Bắt buộc?
    - Nghe này. - Steph nắm lấy vai Berish. - Họ đã quyết định gài cậu từ lâu trước khi Mila biến mất. Cậu là đối tượng hoàn hảo: một tên cớm đầy thù hận cầm đầu tổ chức khủng bố. Họ không cần phải nhắc lại với báo chí vụ việc hai mươi năm trước, ngoại trừ chuyện xảy ra giữa cậu và Sylvia, để hạ uy tín của cậu.
    - Và ông đã cung cấp cho bọn họ chứng cứ còn thiếu.
    - Phải, nhưng tôi mà rút lại lời khai thì cáo buộc của họ sẽ không đứng vững được và họ sẽ phải đối mặt với giới truyền thông.
    Berish ngẫm nghĩ. Đó là một kế hoạch hay. Tất nhiên là nếu Steph sẵn sàng rút lại lời khai. Bỗng anh nhớ đến những chiếc máy quay đang ghi hình.
    - Họ đang quan sát chúng ta, và ông vừa mới thừa nhận...
    - Đừng lo. Tất cả bọn họ đang họp với Thẩm phán, hơn nữa trước khi vào đây tôi đã tắt hệ thống camera. Chúng ta hãy quay lại với nguyên nhân đưa tôi tới đây...
    Berish không biết phải chờ đợi điều gì.
    - Khi họ biết chuyện đã thực sự xảy ra thế nào, họ sẽ ngừng tìm kiếm cô ấy.
    - Cái gì? Ông đang nói gì?
    - Như cậu biết đấy, trong các vụ mất tích, cần phải chờ ba mươi sáu tiếng đồng hồ kể từ lần cuối đối tượng được nhìn thấy trước khi khởi động quy trình tìm kiếm. Đối với một nhân viên cảnh sát, khoảng thời gian này rút xuống còn hai mươi bốn tiếng, nhưng dù sao cũng là quá dài đối với cô ấy.
    - Tôi chưa hiểu ông.
    - Khi mẹ của Mila báo cảnh sát về vụ mất tích của con gái sáng nay, họ đã đến nhà cô ấy xem xét. Chiếc Hyundai của Mila đậu dưới chân chung cư nhà cô ấy. Không có dấu hiệu đột nhập, mặc dù điều đó chẳng có ý nghĩa gì. Mila đã bỏ lại điện thoại di động, chìa khóa, cũng như khẩu súng dự phòng mà cô ấy đem theo bên mình kể từ khi đánh mất vũ khí trong vụ hỏa hoạn.
    - Với giả thuyết bắt cóc thì không cần phải chờ đến một ngày. - Berish tiếp lời. Anh đã bắt đầu hiểu ra. - Như vậy ông đã tố cáo tôi bắt cóc Mila để đẩy nhanh công tác tìm kiếm.
    - Để cho cô ấy một cơ hội. - Steph chỉnh lại đồng thời biện minh cho mình. - Ngoài ra, dù sao thì cậu cũng đã bị vào tầm ngắm, biết đâu họ đã chuẩn bị sẵn cáo buộc khủng bố nhằm vào cậu rồi cũng nên.
    Berish nhìn viên đại uý không rời mắt.
    - Ông nghĩ cô ấy đã làm như thế, đúng không? Ông nghĩ cô ấy đã tự nguyện biến mất...
    Steph thở dài.
    - Tôi không biết nữa. Cũng có thể ai đó đã bắt cóc Mila, sau đó đem trả đồ đạc của cô ấy về lại căn hộ để khiến chúng ta tin cô ấy tự nguyện ra đi. Nhưng như có lần tôi đã nói với cậu: Mila rất cực đoan. Cô ấy có thói quen tự làm hại mình hoặc đến quá gần nguy hiểm. Giống như con bướm đêm bị ngọn lửa thu hút.
    Berish cố gắng nghĩ cho thấu đáo vấn đề.
    - Theo Joanna Shutton và Boris, đêm qua cô ấy đã rời nhà mẹ đẻ trong tâm trạng bấn loạn.
    Có khả năng chuyện này liên quan tới con gái Mila. Có thể một điều gì đó nung nấu trong lòng con bé từ lâu đã bung ra đêm qua. Berish hồi tưởng lại những lời nói của mẹ Michael Ivanovic: "Khi có nguy cơ bị mất một thứ, người ta không dễ đầu hàng. Nhưng đối diện với nguy cơ mất tất cả, anh nhận ra mình thực sự chẳng có gì để mất".
    Sự khác biệt giữa "một thứ" và "tất cả" là điều mà Kairus có thể đã khai thác, Berish thầm nghĩ.
    - Tôi tin Mila muốn tận mắt nhìn thấy thứ nằm ở trong bóng tối. - Steph khẳng định. - Nhưng trong đó chỉ có bóng tối mà thôi.
    Berish cảm thấy cần phải ra quyết định. Không còn thời gian để phí phạm nữa.
    - Tôi biết Kairus là ai.
    Steph không nói nên lời. Ông tái mặt.
    - Lúc này tôi không thể cho ông biết nhiều hơn, - Berish nói tiếp, - nhưng ông phải giúp tôi ra khỏi đây.
    Steph ngẫm nghĩ một lúc, rồi đáp:
    - Đồng ý.
    Đại úy Steph ra khỏi phòng và quay lại vài phút sau đó cùng với phù hiệu của Berish cùng một cặp còng. Anh đã không yêu cầu vũ khí - trong một cuộc săn người, việc kẻ đào tẩu có vũ trang là một khác biệt rõ rệt, và anh không có ý định cho các đồng nghiệp thêm một lí do để bắn mình.
    - Cậu định làm gì với cái phù hiệu?
    - Tôi cần nó để vào một nơi.
    Đại úy Stephanopoulos còng tay Berish, rồi giữ tay anh cùng đi ra hành lang.
    Các cảnh sát canh gác trước cửa phòng nhìn họ kinh ngạc. Steph mặc kệ. Thậm chí ông còn ra lệnh cho một người trong bọn họ hộ tống nghi phạm đi vệ sinh.
    Vì từ lúc vào buồng thẩm vấn, Berish chưa yêu cầu điều đó nên nó có thể chấp nhận được.
    Họ đi qua hành lang, vừa đi vừa nhìn quanh với hi vọng trông thấy Boris hoặc một trong số những kẻ thân cận của Joanna Shutton. Khi đến phòng vệ sinh dành cho người đang bị tạm giữ, Steph tiếp tục đi thẳng.
    - Ơ này, ông đi đâu vậy? - Tay cảnh sát đi theo thắc mắc.
    - Chừng nào trách nhiệm của người này chưa được chứng tỏ, tôi sẽ không để cho một người trong số chúng ta phải dùng nhà vệ sinh của phạm nhân.
    Thế là họ đi tiếp đến phòng vệ sinh của cảnh sát, nơi cửa sổ không được lắp chấn song. Steph để tay cảnh sát viên đứng ngoài và cùng Berish đi vào bên trong.
    - Tôi sẽ đợi năm phút trước khi báo động. - Steph vừa nói với Berish vừa chỉ cái cửa sổ. - Cậu có đủ thời gian để đến Minh Phủ. Ở đó có một lối đi ra phía sau trụ sở. - Ông tiếp lời và đưa cho anh chìa khóa văn phòng, chìa khóa nhà và chiếc Volkswagen của mình. - Nó đậu cạnh tiệm ăn Tàu.
    - Nhờ ông tạt qua nhà tôi đón Hicth. - Berish nói. - Tội nghiệp, đã nhiều giờ liền nó ở một mình. Nó cần uống nước và ra ngoài.
    - Đừng lo, tôi sẽ thu xếp chuyện đó ngay.
    - Cám ơn ông.
    - Tôi là người đã đưa cậu vào tình cảnh này, nên đừng có cám ơn tôi. - Nói đoạn Steph mở còng cho Berish và ấn chiếc mũ lên đầu anh. - Hãy tìm Kairus. Và Mila.

  4. #63
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 62
    Ngồi trong bóng tối, Berish lắng nghe tiếng còi hụ đằng xa.
    Họ đang tìm anh, họ đang truy lùng anh. Nấp ở nhà đại úy Stephanopoulos cũng không ổn. Các đồng nghiệp của anh sẽ sớm đến kiểm tra. Hiện tại họ đang bận đi lùng anh ở nơi khác, nhưng căn hộ này nằm trong lộ trình bắt buộc của họ, đặc biệt khi Steph chính là người để xổng nghi phạm.
    Tất nhiên họ sẽ thắc mắc vì sao nhân chứng chính lại đến gặp kẻ bị mình tố cáo tại buồng thẩm vấn. Có khả năng họ sẽ truy hỏi ông ta. Nhưng ngay cả có bị đe dọa, Steph cũng sẽ không khai.
    Tạm thời Berish vẫn còn có một ưu thế nho nhỏ.
    Anh ngồi thẳng người, ánh mắt cố định, hai bàn tay đặt trên đầu gối, trong tay là chiếc phù hiệu.
    Đây không chỉ là một cái thẻ định danh đơn giản, mà là chìa khóa mở vào vương quốc người chết.
    Berish nhìn đồng hồ. Đã quá nửa đêm. Anh đứng dậy. Anh có thể đến đó được rồi.
    Sau khi đậu chiếc Volkswagen của Steph, anh ngồi trên xe một lúc và quan sát phía trước.
    Một tòa nhà bốn tầng hình chữ nhật, với một hàng cửa con trên mái. Một cửa ra vào lớn và nhiều cửa sổ. Nhưng khác với bức vẽ của Michael Ivanovic, không có bóng người nào hiện ra bên cửa sổ.
    Tuy nhiên Berish biết người mà anh tìm kiếm đang ở trong đó.
    Nhà xác quốc gia là một khối bê tông nằm giữa một nơi vắng vẻ. Phần chính của tòa nhà nằm ở bên dưới mặt đất.
    Đôi khi, cần phải đi xuống tận cùng địa ngục để biết được sự thật về bản thân mình.
    Tên đồ đệ trẻ tuổi của Kairus nói đúng. Chính tầng hầm dưới cùng là nơi Berish quan tâm.
    Anh đi đến cửa ra vào. Bên cạnh cửa có một chốt gác nhỏ, ở đó một cậu gác cổng đang chăm chú xem một chương trình truyền hình. Tiếng cười và những tràng pháo tay của khán giả vang ra bên ngoài.
    Berish gõ lên lớp kính cách ly. Cậu lính gác bật dậy, ngạc nhiên vì chuyến viếng thăm khuya khoắt.
    - Ông cần gì?
    - Tôi đến để nhận dạng một thi thể. - Tay đặc vụ thông báo và đưa phù hiệu ra.
    - Sáng mai ông quay lại được không?
    Berish nhìn cậu ta không nói. Chỉ vài giây là đủ để làm cậu ta nao núng.
    Cậu ta gọi một cú điện thoại để thông báo có khách cho người đồng nghiệp ở dưới tầng hầm.
    Phòng số 13 trong nhà xác quốc gia được dành cho những người đang ngủ.
    Trong khi buồng thang máy thép chìm dần trong lòng đất, Berish nghĩ đến sự lựa chọn con số này.
    Ông có mê tín không, đặc vụ? Michael Ivanovic đã hỏi anh như thế.
    Thường thì các khách sạn hoặc những tòa nhà chọc trời sẽ bỏ qua con số mười ba trong hệ thống đánh số các phòng hoặc tầng. Ở đây thì việc đó là vô ích.
    Không, tôi không mê tín, Berish tự nhủ. Và những người đã chết cũng vậy, vì chẳng còn điều gì có thể xui xẻo hơn cái chết.
    Chuyến đi xuống dừng lại cùng một tiếng phanh rít nhẹ, và sau một khoảng im lặng tưởng như vô tận, cánh cửa buồng thang máy mở ra cho thấy khuôn mặt đỏ au của người trông xác.
    Phía sau lưng ông ta là một hành lang dài.
    Berish đã hình dung ra nó với lớp gạch men trắng và ánh sáng đèn diệt khuẩn lạnh lẽo nhằm tạo cho khách viếng thăm cảm giác đang ở trong một không gian rộng rãi dù đang ở sâu trong lòng đất, đồng thời giải tỏa nỗi sợ hãi bị nhốt kín của họ. Nhưng các bức tường lại có màu xanh lá cây, và dọc theo lớp ván ốp chân tường là các bóng đèn màu cam được đặt cách đều nhau.
    - Màu sắc giúp ngăn chặn chứng lo âu. - Người trông xác mặc áo màu xanh dương giải thích trong khi đưa cho anh chiếc áo blu cùng màu.
    Berish khoác áo vào, và họ bắt đầu đi.
    - Các thi thể nằm ở tầng này chủ yếu là của những người vô gia cư hoặc dân nhập cư bất hợp pháp. - Người trông xác giải thích. - Bọn họ không có giấy tờ tùy thân, cũng chẳng có gia đình, và sau khi chết ngóm thì họ được đưa vào đây. Tất cả được phân vào các phòng đánh số từ 1 đến 9. Phòng số 10 và 11 được dành cho những người có đóng thuế đều đặn và xem được bóng đá trên truyền hình, giống như anh và tôi, nhưng đột tử vì nhồi máu trên xe điện ngầm. Lấy cớ giúp đỡ, một hành khách móc ví của người xấu số và hấp, xảo thuật thành công, người kia biến mất mãi mãi. Cũng có khi, vấn đề chỉ là do quan liêu. Một cán bộ nhầm lẫn tờ giấy của anh, và những thân nhân đến nhận dạng thi thể chỉ thấy trước mắt mình xác của một người khác. Như thể anh chưa chết, gia đình tiếp tục đi tìm anh.
    Berish nhận thấy người trông xác đang cố gây ấn tượng với mình, nhưng anh phớt lờ.
    - Tiếp đến, các trường hợp tự tử hoặc tai nạn được đưa vào phòng số 12. Nhiều khi các thi thể ở trong tình trạng tệ hại đến nỗi không biết có phải là xác người không nữa. Dẫu sao thì, luật pháp đã dự tính một sự đối xử như nhau cho tất cả. Họ phải nằm lại trong phòng lạnh trong ít nhất mười tám tháng. Sau đó, nếu thi thể vẫn không được nhận dạng hoặc được người thân đưa về, và nếu cảnh sát không có ý định mở lại cuộc điều tra, thi thể được phép đưa đi hỏa táng.
    Tất cả đều chính xác, Berish thầm nghĩ. Nhưng với một số người thì chuyện không diễn ra như thế.
    - Và rồi, chúng ta có các thi thể nằm trong phòng số 13.
    Nạn nhân vô danh của những tội ác chưa được làm sáng tỏ.
    - Trong trường hợp giết người, luật pháp quy định thi thể chỉ là một vật chứng cho đến khi danh tính của nạn nhân được xác nhận. Chúng ta không thể buộc tội một kẻ sát nhân nếu không chứng minh được người bị hắn giết đã từng tồn tại thực sự. Thi thể vô danh là bằng chứng duy nhất của sự tồn tại đó. Do vậy nó phải được bảo quản vô hạn định. Đó là một trong những chi tiết lạ lùng của luật pháp mà các luật sư rất thích thú.
    Luật pháp đã quy định chừng nào hành vi tội ác gây ra cái chết chưa được xác định, thi thể không thể bị tiêu hủy hoặc để phân rã tự nhiên. Berish biết nếu không có nghịch lý này thì anh đã không có mặt ở đây đêm nay.
    - Chúng tôi gọi họ là những người đang ngủ.
    Những người đàn ông, phụ nữ, trẻ con vô danh mà kẻ giết hại họ chưa được xác định. Họ chờ đợi suốt nhiều năm trời để được ai đó xuất hiện giải thoát khỏi lời nguyền khiến họ giống như còn sống. Như trong một câu chuyện cổ tích rùng rợn, tất cả những gì cần phải làm là đọc một thần chú.
    Tên của họ.
    Nơi tiếp nhận họ - căn phòng số 13 - nằm ở cuối hành lang.
    Khi đi đến trước cánh cửa sắt, người trông xác loay hoay một lúc với chùm chìa khóa để tìm đúng chìa. Cánh cửa mở làm thoát ra một luồng khí khó ngửi. Thay cho mùi diêm sinh, Berish nhận thấy địa ngục có mùi của chất khử trùng và phoócmôn.
    Ngay khi anh bước vào trong bóng tối, một dãy bóng đèn vàng trên trần lập tức được bật sáng nhờ cảm biến chuyển động. Ở giữa phòng là một bàn giảo nghiệm tử thi, vây quanh bởi các dãy tủ lạnh cao ngất với hàng chục ngăn chứa xác.
    Một tổ ong bằng thép.
    - Anh phải ký vào đây. Quy định là thế. - Người trông xác vừa nói vừa chìa cho anh một quyển sổ.
    Berish cảm thấy việc đưa ra danh tính của mình trong căn phòng này quả là một trò đùa tàn nhẫn. Cái tên là thứ đầu tiên người ta biết về bản thân sau khi chào đời. Một đứa trẻ vài tháng tuổi đã có thể nhận ra âm thanh của tên mình và biết người ta đang nhắc tới nó. Khi lớn lên, cái tên của một người cho biết họ là ai, và nó là thứ đầu tiên người ta hỏi nhau. Người ta có thể nói dối hoặc chế ra một cái tên giả, nhưng chẳng ai có thể quên được tên thật của mình. Khi chết đi, cái tên là thứ còn lại, không phải thân xác, cũng chẳng phải giọng nói. Sớm hay muộn, những điều người chết đã làm sẽ rơi vào quên lãng, nhưng tên của anh ta sẽ đánh dấu những ký ức về anh ta. Nếu không có tên, người ta sẽ không bao giờ được nhớ đến.
    Một người không có tên thì không phải là con người, Simon Berish thầm chốt lại trong khi lơ đãng ký vào quyển sổ đăng ký.
    - Anh quan tâm đến cái nào? - Người trông xác hỏi, ông ta bắt đầu cảm thấy sốt rột.
    - Thi thể đã nằm ở đây lâu nhất.
    AHF-93-K999.
    Ngăn đựng xác có cái nhãn tương ứng nằm ở vách tường bên trái, hàng thứ ba từ dưới lên. Người trông xác chỉ nó cho Berish.
    - Trong số các xác chết nằm lại nơi đây, câu chuyện về cái xác này chưa phải lạ lùng nhất. Một chiều thứ Bảy, đám trẻ chơi bóng đá trong công viên đã sút quả bóng vào bụi rậm. Thế là anh ta được tìm thấy, với một viên đạn trong hộp sọ. Anh ta không có giấy tờ, cũng chẳng có chìa khóa nhà. Khuôn mặt anh ta vẫn còn trong tình trạng nhận dạng được, nhưng không có người nào gọi đến đường dây nóng để hỏi về anh ta, hoặc trình báo việc anh ta mất tích. Trong khi chờ người ta tìm ra thủ phạm - một việc có thể không bao giờ xảy ra - thi thể nằm đây là bằng chứng duy nhất của tội ác. Chính vì thế mà tòa án đã quyết định bảo quản anh ta trong này cho đến khi vụ giết người được làm sáng tỏ, công lý được thực thi. - Người trông xác ngừng lời một chút. - Đã nhiều năm trôi qua, nhưng anh ta vẫn nằm đây.
    Từ hai mươi năm nay, Berish nghĩ bụng.
    Có lẽ người trông xác kể cho anh nghe câu chuyện này vì ông ta ít có dịp nói chuyện với người sống. Nhưng Berish đã biết nó từ trước, mẹ của Michael Ivanovic đã kể cho anh nghe vào buổi sáng hôm nay.
    Điều mà người trông xác còn lâu mới tưởng tượng nổi, đó là bí mật được lưu giữ phía sau lớp thép dày vài xentimet kia sẽ còn hơn cả một cái tên đơn thuần. Nguyên nhân thúc đẩy Berish thực hiện chuyến viếng thăm nhà xác vào cái giờ khuya khoắt này gắn với một bí ẩn lớn lao hơn nhiều, và vì nó mà quá nhiều người đã bỏ mạng.
    Cái xác chính là lời giải.
    - Anh mở ra đi. - Berish yêu cầu. - Tôi muốn xem anh ta.
    Người trông xác làm theo. Ông ta điều khiển van xả khí để mở ngăn đựng xác và chờ đợi.
    Kẻ đang ngủ sắp được đánh thức.
    Chiếc băng ca trượt ra khỏi ngăn tủ lạnh. Nằm bên dưới một tấm nhựa là cái giá mà mẹ của Michael Ivanovic đã phải trả cho Người ru ngủ.
    Một thi thể.
    Người trông xác nhận ra thi thể vẫn còn trẻ cho dù hai mươi năm đã trôi qua. Đó là đặc quyền duy nhất của người chết. Anh ta không bị già đi.
    Quả vậy, đối chiếu với chân dung dựng lại theo mô tả của Sylvia thì Kairus chẳng hề già đi chút nào.
    Lẽ ra đặc vụ Berish chỉ dừng lại ở việc chính khuôn mặt này đã ám ảnh anh trong nhiều năm tháng. Hoặc việc đối thủ của anh đã khiến cho người ta phải truy lùng một người đã chết, trong khi kẻ thuyết giáo vẫn hoạt động mà không bị nhận dạng.
    Nhưng anh lại nghĩ đến sự mỉa mai khi phát hiện ra Người ru ngủ ở đây, giữa những người đang ngủ.
    Anh cũng nhận ra mình đang lâm vào một ngõ cụt. Những điều ít ỏi mà anh tưởng mình đã biết về vụ án, hoặc những gì đã được tiết lộ với anh trong mấy ngày vừa qua, có thể là một trò lừa dối.
    Hiện tại anh không biết, và cũng không có cách nào để kiểm chứng chuyện này.
    Anh không có cơ may tìm lại được Sylvia, nhưng hơn cả điều đó anh không biết số phận của Mila ra sao.
    - Thế nào, anh ta là ai vậy? Anh ta tên gì? - Người trông xác sốt ruột lên tiếng.
    Tay đặc vụ quay gót để đi lên mặt đất. Đột nhiên anh cảm thấy kiệt sức.
    Người trông xác che khuôn mặt của xác chết lại. Anh ta tiếp tục được gọi bằng số hiệu AHF-93-K999.
    Đôi khi, nếu người ta biết tên của con quỷ, chỉ cần gọi tên là nó sẽ đáp lại.
    Thế nhưng Berish vừa hiểu ra bí mật của con quỷ chính là ở chỗ anh không biết tên nó. Bây giờ điều duy nhất anh có thể làm là ra về.
    Phía sau lưng Berish, người trông xác đẩy băng ca trở vào trong ngăn lạnh và đóng cửa lại trong tiếng kim loại lạnh lùng. Nó sẽ tiếp tục đóng trong bao lâu nữa thì không ai biết được.
    - Người kia cũng đã nói y như vậy.
    Berish khựng lại.
    - Gì cơ?
    Người trông xác nhún vai, tiếp tục thao tác của mình.
    - Tay cảnh sát đã xuống đây mấy hôm trước ấy. Ông ta cũng không nhận ra anh ta.
    Berish nghẹn lời. Một lúc sau anh mới lên tiếng.
    - Ai vậy?
    Người trông xác chỉ vào quyển sổ mà anh vừa ký tên.
    - Tên của ông ta ở trong đó, ngay trước trang của anh.

  5. #64
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 63
    Kẻ hiện đang bị săn lùng ráo riết nhất quay trở lại trụ sở cảnh sát liên bang.
    Đã 2 giờ sáng. Trụ sở sôi động như đang giữa trưa, nhưng không có tay cớm nào dám tưởng tượng Simon Berish ngu ngốc đến mức quay trở lại.
    Tuy nhiên, anh đậu chiếc Volkswagen trong một con phố nhỏ rồi tiến đến cánh cổng mà mình đã thoát ra chỉ vài tiếng trước đó. Nó dẫn thẳng tới Minh Phủ.
    Anh bước vào Sảnh Đợi. Hàng ngàn đôi mắt câm lặng nhìn anh chằm chằm. Đi giữa những người mất tích, anh giống như một kẻ không mời đầy mặc cảm tội lỗi vì còn sống, hay ít ra cũng biết mình chưa chết.
    Anh tin chắc một điều là, cho dù đã rất khuya, có người vẫn đợi chuyến viếng thăm của anh.
    Anh nghe thấy tiếng sủa của Hitch. Có lẽ nó đã nhận ra chủ mình. Nó đang được buộc trước cửa văn phòng. Berish vuốt ve để trấn an con chó và tháo dây cho nó, nhưng ra hiệu cho nó ngồi xuống đợi mình.
    Cửa phòng làm việc khép hờ, ánh đèn vẫn bật sáng, và anh có thể trông thấy một bóng người.
    - Vào đi. - Một giọng nam giới cất lên.
    Berish chậm rãi đẩy cửa. Viên đại úy đang ngồi ở bàn làm việc, trên người vẫn là bộ quần áo thể thao màu xanh dương giống như hồi chiều. Cặp mắt kính trễ xuống trên chóp mũi ông. Steph đang viết.
    - Cậu ngồi đi, tôi gần xong rồi.
    Tay đặc vụ ngồi xuống phía trước bàn. Giây lát sau, người phụ trách Minh Phủ đặt bút xuống.
    - Tôi xin lỗi, nhưng chuyện này rất hệ trọng. - Ông bình thản gỡ mắt kính. - Tôi có thể làm được gì cho cậu?
    - Cho tới lúc này, chúng ta đang truy lùng một bóng ma.
    - Vậy là cậu đã tìm ra cái xác. - Steph đáp với một nụ cười tự mãn, nhưng khuôn mặt ông tái đi.
    - Khi Mila lần đầu tiên đến gặp tôi tại tiệm ăn Tàu, tôi đã nói với cô ấy Kairus không tồn tại, hắn chỉ là một nhân vật hoang tưởng. Tôi đã không nhầm. Chính ông đã làm cho những người này biến mất. Hai mươi năm trước, truyền thông và công chúng suýt nữa đã lật tẩy mọi chuyện khi kết nối bảy vụ mất tích đầu tiên trong số đó - những người mà chúng tôi đã ngây thơ gọi là người mất ngủ.
    - Lúc đó tôi vẫn còn thiếu kinh nghiệm. - Steph thừa nhận. - Sau đó tôi đã làm tốt hơn.
    - Hồi đó ông đã phải đổi hướng cuộc điều tra để không bị phát hiện. Chỉ có một cách: buộc tội cho một người khác. Sau đó, chỉ cần để cho một chút thời gian trôi qua, trước khi những vụ mất tích tiếp tục. Nhưng lần này thì không còn trở ngại gì nữa.
    - Cậu đã chuẩn bị rất kỹ, theo như tôi thấy.
    - Cách đây hai mươi năm, ông đã tiếp xúc với mẹ của Michael Ivanovic, một bác sĩ pháp y làm việc tại nhà xác. Ông đã cam đoan mình sẽ cứu đời con trai bà ta, bảo đảm cho cậu ta một gia đình mới, với chế độ chăm sóc y tế cần thiết... Ông đã thuyết phục bà ta với cùng lời hứa đổi đời giống như Sylvia.
    Steph chắp hai tay dưới cằm như một cử chỉ tán thành.
    - Nhưng ông đã ra một cái giá cho bà ta: một thi thể vô danh. Để thỏa mãn ông, mẹ của Michael đã phải đợi cho đến một dịp thích hợp, và nó đã nhanh chóng xuất hiện. Một thi thể không danh tính, được tìm thấy một cách tình cờ trong công viên do bọn trẻ chơi bóng đá. Không ai nhận ra trò gian lận - trong một nhà xác, những thi thể kiểu đó đến rồi đi, và cảnh sát còn những thứ khác để làm ngoài cái chết của một kẻ vô danh tiểu tốt bị đạn bắn vào đầu. Ngày chết trên biên bản giám định pháp y chẳng quan trọng gì, dẫu sao bà Ivanovic cũng phải dời lại một tháng. - Berish ngừng lời. - Kẻ xấu số chưa thể chết "một cách chính thức", phải không? Anh ta phải đợi ba mươi ngày, nhằm cho ông thời gian thực hiện kế hoạch của mình... Thế là ông đã tạo ra Kairus. Mẹ của Michael đã chụp một tấm ảnh khuôn mặt xác chết để ông có thể đưa nó cho Sylvia. Ông đã cho cô ấy những chỉ dẫn chính xác để ra làm chứng với cảnh sát.
    - Cũng không tồi, câu chuyện về nụ cười của Kairus khiến cô ấy nhớ mặt hắn ta, cậu nhỉ? - Steph mỉm cười tự mãn. - Mánh lới đó làm chính tôi cũng ngạc nhiên.
    - Sau khi Sylvia ra làm chứng, chúng ta đã đưa cô ấy vào vòng bảo vệ. Nhưng không lâu... Bởi vì, để mọi thứ vận hành trơn tru, ông phải làm cho nhân chứng biến mất.
    - Quả vậy.
    - Lọn tóc được gửi đến trụ sở vài ngày sau đó đã chứng tỏ Kairus là người bắt cóc cô ấy.
    - Do ngày chết được lùi lại, thi thể trong nhà xác vẫn còn sống vào cái ngày nhân chứng bị bắt cóc. Không ai có thể nhận ra trò gian lận. - Steph mỉm cười nói. - Sau này, nếu ai đó cương quyết đi tìm Người ru ngủ, tôi sẽ làm cho anh ta phát hiện thấy thi thể vô danh kia. Hết chuyện.
    - Cái chết đột ngột của thủ phạm: một phát đạn ân huệ, một món quà của định mệnh. Mặc dù nghe như chuyện đùa, vụ giả mạo danh tính lẽ ra đã có thể chấm dứt cuộc điều tra. - Berish chợt cảm thấy mình giống như một tên đồng loã. - Nhưng tất cả là không cần thiết, nó đã được chấm dứt trước đó. Nhờ tôi, Joanna Shuttton và Gurevich. Ông, thủ trưởng của chúng tôi, ông chỉ việc chấp nhận. Và nếu như có ai đó không chịu bỏ cuộc, như tôi chẳng hạn, cái thi thể trong phòng số 13 vẫn ở đó chờ sẵn.
    Stephanopoulos chậm rãi vỗ tay ba lần.
    - Nhưng còn một điều. Và tôi tin chắc cậu sắp hỏi tôi.
    Berish nhanh chóng làm ông ta thỏa nguyện.
    - Tại sao vậy?
    Môi Steph run lên, nhưng ông ta tỏ ra hài lòng với câu hỏi.
    - Vì những người được tôi giúp để biến mất là những kẻ bất hạnh khốn khổ. Cuộc đời đã tước đi mọi thú vui, thậm chí cả phẩm giá của họ. Ví dụ nhé, André García, người đầu tiên, anh ta bị ức hiếp đến nỗi phải rời khỏi quân ngũ vì đồng tính. Diana Muller thì buộc phải trả giá cho tội lỗi của người đàn bà đã sinh cô bé ra trên đời. Còn Nadia Niverman thì sao? Cô ta chưa bao giờ thoát được thằng chồng khốn nạn. Đó là chưa nói đến Eric Vincenti, một cảnh sát viên tự dằn vặt mình trước mắt tôi hết ngày này sang ngày khác, trong văn phòng này, chỉ vì những vụ mất tích mà cậu ta không thể làm sáng tỏ. Tất cả bọn họ đều đáng được nhận cơ hội thứ hai.
    - Ông đã sử dụng nguồn lực và kinh nghiệm của chương trình bảo vệ nhân chứng để thực hiện kế hoạch của mình. Ông có thể tiếp cận nguồn tài chính, cũng như những tài liệu cần thiết để tạo ra các danh tính giả, chính những công cụ mà chúng ta đã sử dụng để mang lại một cuộc đời mới cho những người hợp tác với pháp luật.
    - Bọn tội phạm thì có. - Steph chỉnh lại. - Những kẻ không đáng được chúng ta giúp đỡ.
    Steph cố tỏ ra bình thản, nhưng trán ông ta lấm tấm mồ hôi.
    - Làm thế nào ông thuyết phục được họ qua điện thoại? - Berish hỏi.
    - Bọn họ cần tôi. Họ đã chờ tôi cả đời, dù không ý thức điều đó. Bằng chứng là họ tin tôi dù tôi không bao giờ ra mặt. Tôi bảo họ nếu thực sự muốn có một thay đổi triệt để, họ phải đến căn phòng số 317 ở khách sạn Ambrus, uống thuốc ngủ rồi nằm xuống giường. Vé một chiều đi đến vô danh.
    - Hoặc địa ngục.
    - Sau đó, tôi đến và đưa họ đi bằng thang máy chuyển hàng, giải thoát họ khỏi cuộc đời bất hạnh, đôi khi khỏi chính bản thân họ.
    - Những lần sau này là cùng với sự giúp sức của Eric Vincenti.
    Steph mỉm cười.
    - Tôi cần người đỡ một tay, tôi già rồi!
    - Khi họ tỉnh dậy, chuyện gì sẽ xảy ra? - Berish hỏi với giọng không giấu nổi sự chua chát.
    - Cậu không hiểu à? - Steph lắc đầu hỏi lại, thất vọng ra mặt. - Tôi cho họ một cuộc đời mới. Họ có thể bắt đầu lại mọi chuyện từ con số không. Có mấy ai được cuộc sống ban tặng một cơ hội như thế?
    Berish cảm thấy có gì đó không vận hành bình thường trong đầu người thủ trưởng cũ.
    - Ông đã mất liên hệ với thực tế từ bao giờ vậy Steph? Từ khi nào ông không còn phân biệt được đúng sai vậy?
    Môi ông đại úy lại bắt đầu run bần bật.
    - Và tại sao lại là tôi? - Bất giác Berish thốt lên, với giọng gần như van nài. Anh thấy ghét chính bản thân mình vì điều này.
    - Cậu đang nghĩ đến Sylvia... - Steph chồm tới để nhìn thẳng vào mắt Berish. - Cậu cũng giống như những cảnh sát khác. Cậu không thực sự quan tâm tới cô gái đó, cậu chỉ quan tâm đến cảm giác mà cô ấy mang lại. Có bao giờ cậu nghĩ mình có thể không phải là người đàn ông thích hợp với cô ấy chưa?
    - Ông nhầm rồi.
    - Một bài học mà tôi đã học được khi làm cớm, đó là không ai thực sự quan tâm tới nạn nhân. Cảnh sát, truyền thông, lẫn công chúng. Về lâu dài, người ta sẽ chỉ nhớ đến tên của thủ phạm chứ không phải của nạn nhân. Minh Phủ đã chứng tỏ tôi có lý. Các cậu đều muốn tóm cổ con quái vật, kết án con quái vật trước tòa án của các cậu... Chính là do các cậu mà tôi tạo ra Kairus. - Steph tuyên bố và bật cười sằng sặc. - Đó là tên của con mèo nhà hàng xóm, hồi tôi còn bé. Tôi đã chọn nó như thế đấy, cậu có tin không?
    Berish cảm thấy như bị phản bội.
    - Và tôi đã biến hắn thành nỗi ám ảnh của cậu. Trong suốt những năm tháng qua, cậu sống sót là nhờ hắn.
    - Chính tôi đã giữ cho hắn sống sót! - Berish nện nắm đấm xuống bàn. - Hắn đã cướp lấy cuộc đời tôi để có một cuộc đời cho mình. Ngoài ra, ông mới là kẻ đã đánh cắp cuộc đời của tôi, vì Kairus chính là ông.
    Steph cười khẩy.
    - Cậu không biết mình đang nói gì đâu.
    - Giả thuyết về cái ác. - Berish thốt lên.
    - Cái gì?
    - Làm điều ác với mục đích tốt. Với nguy cơ điều thiện cũng có thể biến thành cái ác.
    - Tôi đã cứu đời họ! Tôi chẳng làm gì ác với ai hết.
    - Có chứ. Ông đã luôn theo dõi những người mất tích, rõ ràng là để chiêm ngưỡng thành quả của mình. Nó khiến ông cảm thấy mình giống người làm việc thiện. Và khi ông nhận ra họ không hài lòng với cuộc đời mới mà ông đã ban cho, ông đã thuyết phục họ quay lại để trả thù mọi người. Chính ông là kẻ thuyết giáo.
    - Không, không phải vậy. - Đại úy Steph phản đối lời buộc tội của Berish. - Người ru ngủ thực sự tồn tại. Chính là chúng ta. - Ông nói tiếp, mắt mở to đầy kinh hoàng. - Khi truy lùng hắn trong suốt những năm qua, chúng ta đã triệu hồi hắn lên. Và rốt cuộc hắn đã xuất hiện.
    - Điều ông nói thật phi lý. Ông điên rồi.
    Steph vươn tay qua bàn và nắm lấy cánh tay Berish.
    - Chính vì vậy mà tôi đã đi đến nhà xác vài ngày trước. Tôi muốn chắc chắn Kairus vẫn nằm trong ngăn lạnh, chưa thức giấc và bước ra ngoài trên đôi chân của hắn. Là người đã tạo ra hắn, tôi muốn nhìn hắn tận mắt sau chừng ấy năm.
    - Dừng lại đi, Steph. - Berish vừa nói vừa giằng tay ra. - Chính ông đã đưa Mila đến chỗ tôi mà.
    Nhưng ông đại úy không còn nghe anh nữa.
    - Tôi không thể dừng nó lại. Tôi không thể làm gì được nữa. - Nói đoạn ông ngả người ra lưng ghế, hai bàn tay đặt lên đùi.
    - Có chứ. Hãy cho tôi biết cô ấy đang ở đâu.
    Đôi mắt Steph bỗng chiếu vào Berish.
    Tay đặc vụ nhìn thấy Steph lôi một khẩu súng từ bên dưới gầm bàn rồi kê vào cằm mình. Tiếng súng nổ trùng với những lời nói sau cùng của ông ta:
    - Hãy tìm cô ấy.
    Stephanopoulos đổ gục xuống bàn. Giấy tờ của ông ta bay tứ tung trong phòng. Berish bật dậy.
    Ở phía ngoài, chó Hitch sủa vang. Berish đi vòng qua bàn và nhấc cái xác lên, dựa nó vào lưng ghế rồi nhẹ nhàng vuốt mắt.
    Nhận ra bàn tay mình dính đầy máu, anh lùi lại một bước. Lỗi là do anh. Cái trán đẫm mồ hôi, đôi môi run rẩy và khuôn mặt tái mét của Steph là những dấu hiệu báo trước của một hành vi điên rồ, nhưng anh đã không hiểu ra.
    Trong lúc cố hiểu ý nghĩa của biến cố vừa rồi, mắt anh bất giác nhìn vào khẩu súng đang nằm cạnh Steph.
    Anh đọc những gì ghi trên báng súng. Dãy số đăng ký và chữ viết tắt của viên cảnh sát sở hữu nó.
    MEV.
    Maria Elena Vasquez. Đây chính là khẩu súng mà Mila đã đánh mất trong tòa nhà gạch đỏ trong vụ hỏa hoạn. Berish không thể tin nổi, đêm hôm đó chính Stephanopoulos đã ở trong hang ổ của Kairus. Ông ta đã thoát thân khi bị anh bắn trượt. Nếu khi ấy anh bắn trúng thì câu chuyện này đã chấm dứt từ lâu.
    Nhưng anh cũng đã hiểu ra một sự thật khác: anh đã tiêu đời.
    Thẩm phán và Klaus Boris tin chính anh đã lấy khẩu súng đáng nguyền rủa này, và giờ đây họ sẽ buộc tội anh gây ra cái chết của Steph. Thủ tiêu món vũ khí cũng không đủ, một chuyên gia đạn đạo học sẽ chứng minh viên đạn được bắn từ khẩu súng của Mila... Mila!
    Trong một thoáng anh đã quên cô.
    Cái chết của Steph đã phá tan mọi hi vọng tìm thấy cô.
    Simon Berish quan sát cảnh tượng trước mắt một hồi lâu. Mọi thứ trong phòng đều buộc tội anh. Anh đã có câu trả lời mình muốn, nhưng với cái giá nào kia chứ? Anh không biết chuyện gì sẽ xảy đến với mình, cũng như với Mila.
    Nhất định anh phải tỉnh táo. Nếu không thì sẽ phải nộp mình ngay. Nếu có một khả năng để thoát khỏi chuyện này, anh phải tìm ra nó bây giờ. "Sau đó" là một từ không tồn tại, "sau đó" là một từ vô nghĩa.
    Đầu tiên, anh phải suy nghĩ đến những gì đã diễn ra trong văn phòng này kể từ khi anh đặt chân tới. Như vậy anh có thể tìm ra những điểm yếu tại hiện trường để có thể tự bảo vệ mình.
    Anh nhớ lại khoảng khắc mình mở cửa. Steph đã mời anh vào nhưng ông ta đang ngồi... Ông ta viết cái gì đó.
    Có thể là một lá thư giải thích nguyên nhân tự sát.
    Berish vội vàng chạy đến chỗ các tờ giấy vương vãi trên sàn. Anh không biết nội dung của điều Steph đã viết. Anh đã không để ý, của đáng tội! Anh cuống cuồng xem xét từng tờ. Một tờ giấy bỗng khiến anh chú ý vì nét chữ vội vàng run rẩy. Dù nó đưa anh đi con đường đúng hay sai, Berish chỉ có một lựa chọn.
    Hãy tìm cô ấy... Steph đã nói như thế trước khi tự sát.
    Trên tờ giấy là một địa chỉ.

  6. #65
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 64
    Thị trấn nằm cách thành phố chừng hai trăm cây số.
    Berish sử dụng luôn chiếc Volkswagen của Steph. Trong hoàn cảnh của anh, sẽ quá rủi ro nếu đi tàu hoặc xe buýt. Anh đi theo những tuyến đường phụ để tránh các chốt chặn của cảnh sát.
    Việc sử dụng chiếc xe hơi của một người chết, nhất là khi biết mình sẽ bị buộc tội giết hại ông ta, không phải là một ý hay, nhưng Berish không còn lựa chọn nào khác. Anh đã lái xe suốt đêm căn cứ theo - hay ít ra là hi vọng mong manh rằng việc phát hiện xác chết trong Minh Phủ sẽ chỉ xảy ra sau vài giờ đồng hồ nữa.
    Trước khi đi, anh đã giao Hitch lại cho một trại chó, giải thích với họ mình có việc khẩn cấp. Anh cảm thấy không thể đưa nó đi khi không biết điều gì đang chờ đợi mình. Anh muốn bảo vệ người bạn duy nhất.
    Những lo sợ của anh có thể vô căn cứ, nhưng gần đây Berish cảm thấy một sự hoang mang lạ lùng. Những người anh yêu quý cứ lần lượt biến mất khỏi cuộc đời anh. Đầu tiên là Sylvia, sau đó đến Mila. Anh đã không thôi nghĩ về cô cảnh sát trong khi lái xe. Anh cảm thấy có trách nhiệm về chuyện xảy ra với cô.
    Nhưng chuyện gì đã xảy ra với cô mới được?
    Sự bất lực trong việc tìm kiếm câu trả lời đẩy anh đến chỗ chấp nhận rủi ro. Chẳng hạn như việc lái xe đến một địa chỉ lạ hoắc trong một thị trấn lạ lẫm.
    Anh nhìn thấy những ngôi nhà đầu tiên của khu dân cư vào tầm 6 giờ sáng thứ Bảy. Đường sá vắng tanh vắng ngắt, chỉ có vài người chạy bộ hoặc dắt chó đi dạo. Những chiếc xe hơi đậu trên các lối đi đều tăm tắp.
    Nhờ tấm bản đồ đã mua tại một trạm dừng chân, Berish đi đến một khu phố yên tĩnh ở phía bên kia thị trấn. Cho đến dạo mới đây, nơi này rõ ràng còn là đồng không trống vắng.
    Số nhà mà anh đi tìm tương ứng với một ngôi nhà màu trắng hai tầng, có mái dốc và một mảnh vườn được chăm sóc cẩn thận. Anh dừng xe bên vệ đường, nhưng không xuống xe mà cố gắng quan sát bên trong nhà. Anh cũng thử xem xét những chi tiết không hiện ra trước mắt.
    Trước hết, ngôi nhà không giống với sào huyệt hay nhà tù, mà giống với nơi ở của những người có cuộc sống thoải mái. Những người sống tiết kiệm để cho con đi học đại học. Những người có gia đình.
    Dù sao thì những cái đó có thể chỉ là vỏ bọc.
    Berish không thể biết liệu những đồ đệ của kẻ thuyết giáo đang giam cầm Mila có ẩn náu trong đó hay không. Rất có thể anh sẽ thấy từ trong nhà bước ra một Eric Vincenti, cựu nhân viên của Minh Phủ, điều đó sẽ khẳng định anh không nhầm. Nhưng trong lúc này, anh ngồi đợi trên xe. Đi xác minh cũng chẳng để làm gì, hơn nữa anh không có vũ khí. Anh còn biết làm gì đây?
    Anh sẽ phải đối đầu với một nguy hiểm nghiêm trọng trong khi chỉ có một mình.
    Đạo quân bóng tối đang ở quanh anh, mọi nơi và không nơi nào cả. Đằng sau mỗi cá nhân là một số kẻ vô hình. Địch thủ của anh là như thế: một linh hồn độc ác với nhiều khuôn mặt. Thế nhưng chẳng có ma quỷ gì trong tất cả những chuyện này. Luôn tồn tại một sự giải thích logic. Chính vì vậy anh biết mình vẫn còn có thể chiến thắng.
    Berish bắt đầu cảm thấy mệt mỏi. Cơ cổ căng cứng do stress khiến anh đau nhức. Trong một thoáng anh tựa người vào vô lăng và cảm thấy dễ chịu không ngờ. Cảm giác căng thẳng trong đầu tan dần, mi mắt anh khép lại dưới tác động của không khí ấm áp trong xe. Anh ngủ thiếp đi.
    Berish nhắm mắt, quên đi mọi chuyện. Nó chỉ xảy ra trong tích tắc, và một luồng adrenaline đã lôi anh trở về với thực tại, vừa kịp để nhìn thấy người phụ nữ trong chiếc váy ngủ đang quay vào nhà sau khi vừa bước ra ngoài để nhặt tờ báo trên lối đi.
    Lần sau cùng anh nhìn thấy nàng là một buổi tối cuối tháng Sáu. Sau khi Sylvia biến mất, anh nhận ra mình thậm chí không có một tấm ảnh của nàng. Do đó, hình ảnh của nàng được anh lưu giữ bằng trí nhớ suốt hai mươi năm.
    Anh đã rất nỗ lực để không quên dù chỉ một nếp nhăn nhỏ trên khuôn mặt nàng. Đã nhiều lần ký ức về nàng đe dọa biến đi cùng với quá khứ. Ngày mà anh phát hiện ra mình không còn nhớ nổi giọng nói của nàng, anh đã cảm thấy vô cùng đau đớn.
    Buổi tối tháng Sáu đó, cái lần sẽ mãi mãi là "lần cuối", họ đã ăn tối ngoài sân, bất chấp nguy hiểm. Như một cặp vợ chồng thực sự.
    Bất cứ ai nhìn hai người cũng sẽ tin họ là một đôi vợ chồng trẻ, chủ nhân của căn hộ số 37G. Chẳng ai nghĩ họ là một cảnh sát viên và nhân chứng mà anh ta bảo vệ. Có lẽ bởi hai người thực sự yêu nhau.
    Khi tình cảm ấy nảy nở - sau nụ hôn đầu họ trao nhau - anh lẽ ra đã phải rút lui khỏi nhiệm vụ. Anh biết một mối quan hệ tình cảm sẽ nguy hiểm cho cả hai. Nhưng anh ở lại. Anh đã quyết định thay cho cả hai, một điều không được đúng đắn cho lắm.
    Anh đã hiểu ra chuyện đó quá trễ. Những gì xảy ra vào ngày hôm sau của buổi tối định mệnh ấy đã làm anh mở mắt.
    Trước khi đi ngủ, họ đã làm tình. Nàng tiếp nhận anh với một sự nhiệt tình rõ rệt. Nàng vùi mặt vào bờ vai trần của anh, hít thở làn da anh.
    Khi bình minh ló dạng, Simon chưa thỏa mãn với mùi hương của nàng. Anh vươn tay ra dưới lớp vải để chạm vào nàng. Sylvia đã thức dậy. Anh đã tưởng sẽ cảm nhận được hơi ấm của nàng, như thể nó đã ngấm vào chăn gối.
    Thế nhưng anh chỉ cảm thấy sự lạnh lẽo.
    Lúc đó cảm giác còn tồn tại nhiều năm sau ấy khiến anh phát hoảng. Anh bật dậy, quấn chăn ngang thắt lưng. Anh đi tìm nàng khắp căn hộ, nhưng trong thâm tâm anh đã biết sự thật.
    Khi sự hoảng loạn làm bụng dạ anh thắt lại, Simon đi vào buồng vệ sinh để nôn, một việc ít gặp đối với một cảnh sát có kinh nghiệm. Và lúc ngẩng đầu lên, anh đã trông thấy một vật nằm trên chiếc kệ bên trên bồn rửa mặt.
    Một lọ thuốc ngủ.
    Hai mươi năm sau, trong một buổi sáng giống như thế, Berish có cảm giác buồn nôn tương tự.
    "Hãy tìm cô ấy..."
    Không phải Stephanopoulos muốn nói đến Mila. Giờ thì anh đã hiểu.
    Anh hơi sợ, nhưng anh tin mình đã sẵn sàng. Tất cả những lần anh cho phép mình hình dung cảnh tìm ra nàng, trí tưởng tượng của anh chỉ đưa anh đến thời điểm nhìn thấy nàng. Điều diễn ra tiếp theo luôn là một bí ẩn mà anh phải tự tìm hiểu.
    Anh bước xuống xe và tiến đến cửa ra vào của ngôi nhà, bất chấp tất cả.

  7. #66
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 65
    Khi Sylvia ra mở cửa, nàng giống hệt như trong ký ức của anh.
    Bím tóc đen của nàng chỉ hơi pha sương một chút.
    Nàng siết chặt tấm áo choàng ngủ quanh cơ thể. Phải mất vài giây nàng mới nhận ra người đàn ông đang đứng trước mặt mình.
    - Ôi Chúa ơi. - Sylvia thình lình kêu lên.
    Berish ôm lấy nàng trong vòng tay, không biết phải làm gì. Sau khi nàng ra đi, anh đã không có nhiều sự tiếp xúc thể xác. Anh cảm thấy giận dữ, thất vọng, cay đắng. Nhưng những cảm xúc tiêu cực tan dần, nhường chỗ lại cho một cảm giác ấm áp dễ chịu, như thể một thế lực âm thầm đã ra tay để thu xếp mọi chuyện.
    Sylvia dịch người ra xa và nhìn anh lần nữa, với một nụ cười bán tính bán nghi trên môi. Nhưng sắc mặt nàng nhanh chóng chuyển sang lo âu:
    - Anh bị thương à?
    Berish nhìn theo ánh mắt Sylvia và thấy những vệt máu khô dính trên tay cũng như áo quần mình. Anh đã quên mất mình bị dây máu của Steph.
    - Không, đây không phải máu của anh. Anh sẽ giải thích với em.
    Sylvia nhìn quanh, rồi nắm lấy tay Berish và nhẹ nhàng kéo anh vào trong nhà.
    Sau khi giúp anh cởi áo khoác, nàng ấn anh ngồi xuống trường kỷ rồi đem ra một miếng mút ướt lau máu trên cổ anh.
    Berish ngạc nhiên trước cử chỉ thân mật này, nhưng anh để yên cho nàng làm.
    - Anh phải đi. Anh đang bị truy tìm, anh không thể ở lại.
    - Anh không cần đi đâu hết. - Nàng đáp lại, nhẹ nhàng nhưng cương quyết.
    Trong một thoáng, anh cảm thấy như đang ở nhà mình. Nhưng đây không phải là nhà anh. Những tấm ảnh đóng khung đặt trên đồ đạc trong nhà và treo trên tường chứng nhận điều đó. Chúng cho thấy chân dung của một Sylvia khác. Tươi cười. Berish cảm thấy bối rối khó chịu, vì anh chưa bao giờ làm nàng cười như thế.
    Trong những tấm ảnh, nàng xuất hiện cùng một đứa trẻ, rồi một thiếu niên - trước mắt Berish là toàn bộ hình ảnh biến đổi của cậu ta. Một gương mặt thân quen đến lạ. Simon nghĩ đến đứa con trai mà họ lẽ ra đã có với nhau.
    Nhưng điều khiến anh bứt rứt chính là gương mặt mà anh không nhìn thấy trên những tấm ảnh kia. Gương mặt của người chụp ảnh.
    - Con em đẹp trai đấy chứ, phải không anh?
    - Chắc em rất tự hào về thằng bé.
    - Đúng vậy. Trong ảnh kia nó vẫn còn nhỏ. Nhưng bây giờ nó đã lớn rồi, anh biết không? Anh nên gặp nó. Thằng bé khiến em thấy mình già đi.
    - Nhỡ đâu thằng bé có thể về nhà bất cứ lúc nào? Nếu nó nhìn thấy anh ở đây thì sao?
    Berish dợm người đứng lên, nhưng Sylvia khéo léo đặt một tay lên vai anh để buộc anh ngồi yên.
    - Anh yên tâm đi. Thằng bé ra riêng cũng được một thời gian rồi. Nó bảo nó phải tự mình "trải nghiệm". Xét cho cùng, em là ai mà có thể cản nó được? Con cái là thế đấy: hôm trước nó còn đòi anh mua socola cho, hôm sau đã nhất quyết sống tự lập.
    Khi đối diện với Sylvia trước đó ít phút, Berish đã lo sợ rằng Steph cũng đã đến gặp nàng để thuyết phục nàng giết hại ai đó, như một hình thức trả nợ cho việc thiện mà ông ta đã làm cho nàng hai mươi năm trước. Nhưng có lẽ ông ta đã không buồn thử chuyện đó, vì với nàng cuộc sống mới đã thành công tuyệt đối. Trong ngôi nhà này không có một dấu hiệu nào cho thấy sự thất vọng cũng như thù hận để ông ta lợi dụng.
    Đưa mắt nhìn đi chỗ khác, Berish hỏi Sylvia một câu mà anh đang rất nôn nóng muốn biết câu trả lời.
    - Anh đang tự hỏi, ai đã chụp những tấm ảnh của em và con trai. Ý anh là, em đã có chồng hay bạn trai chưa?
    - Chẳng có người đàn ông nào trong đời em hết. - Nàng khẳng định với một cái nhăn mặt thích thú.
    Simon mừng thầm với câu trả lời này. Nhưng anh cũng thấy hối hận vì sự ích kỷ của mình, bởi Sylvia vẫn cứ một thân một mình, trong khi nàng xứng đáng có một gia đình hơn bất cứ ai.
    - Em đã làm gì trong hai mươi năm qua?
    - Lãng quên. Cũng khó khăn đấy, anh biết không? Nó đòi hỏi một sự quyết tâm và kiên trì. Khi gặp anh, em chỉ là một thiếu nữ bất hạnh. Em chưa bao giờ gặp mặt bố. Em đã trải qua phần lớn tuổi thơ trong cô nhi viện. Không ai thực sự chăm lo cho em. - Nàng cụp mắt như thể muốn xin lỗi cho điều sắp nói ra. - Tất nhiên, em không nói đến chuyện đã xảy ra giữa hai chúng ta.
    - Còn anh thì ngược lại, anh đã dùng thời gian vào việc cố gắng nhớ từng chi tiết của em. Nhưng chúng cứ dần dần biến mất.
    - Em rất tiếc, Simon à. - Nàng ngắt lời anh. - Em rất tiếc vì đã gây phiền phức cho anh hai mươi năm trước. Dù gì anh cũng là cảnh sát.
    - Phiền phức? Anh yêu em mà, Sylvia.
    Căn cứ theo nét mặt của nàng, anh chợt hiểu tình cảm đó chỉ là đơn phương.
    Suốt hai mươi năm qua, anh đã sống trong ảo tưởng. Anh cảm thấy mình thật ngu ngốc vì đã không hiểu ra sớm hơn.
    - Anh sẽ không bao giờ có thể giải thoát em khỏi nỗi buồn của em. - Nàng nói trong nỗ lực an ủi anh. - Chỉ mình em làm được điều đó.
    Những lời nói vừa rồi của Sylvia khiến Berish nhớ lại câu chuyện mà Mila đã kể về người vô gia cư sống dưới chân chung cư nhà cô.
    Tôi muốn ông ta ra khỏi cái hốc trú ẩn đó để có thể nhìn vào mắt ông ta, thậm chí nói chuyện với ông ta. Tôi chỉ muốn biết ông ta có phải là một trong những cư dân của Minh Phủ hay không...
    Chuyện ông ta sung sướng hay bất hạnh với tôi không quan trọng. Dù sao thì, chúng ta chỉ quan tâm đến sự bất hạnh của người khác khi nó nhắc ta nhớ đến nỗi bất hạnh của chính mình...
    Với những câu nói ấy, Mila đã tổng kết tình trạng thiếu vắng khả năng thấu cảm của mình.
    Bỗng nhiên Berish hiểu ra anh không khác Mila là mấy. Anh chưa bao giờ thật sự tự hỏi mình những gì mà Sylvia cảm thấy. Anh luôn coi như hiển nhiên nàng hạnh phúc chỉ vì anh hạnh phúc.
    Chúng ta luôn chờ đợi một sự đền đáp cho tình cảm của mình, và khi không nhận được nó, chúng ta cảm thấy như bị phản bội. Berish đã nhanh chóng hiểu ra điều đó.
    - Em không cần phải biện minh gì cả. - Anh vừa trấn an Sylvia vừa vuốt ve nàng. - Người ta đã cho em một cuộc sống mới, và em đã chấp nhận.
    - Em đã nói dối để có được nó. - Sylvia muốn nói đến việc làm chứng giả của mình và chân dung dựng lại của Kairus. - Nhưng tệ nhất là, em đã lừa dối anh.
    - Điều quan trọng là em bình an.
    - Anh nói nghiêm túc chứ? - Sylvia hỏi lại, nước mắt lưng tròng.
    - Anh nghiêm túc mà. - Berish đáp rồi nắm lấy bàn tay nàng.
    Sylvia mỉm cười biết ơn.
    - Em sẽ pha cà phê và tìm cho anh một chiếc áo sơmi sạch. Có lẽ áo của con em sẽ vừa. Anh cứ nghỉ ngơi đi, em quay lại ngay.
    Đặc vụ Berish nhìn Sylvia đứng lên và rời phòng cùng với miếng mút đã sử dụng để lau cổ cho anh. Anh chưa kịp hỏi tên con trai nàng, nàng cũng chưa cho anh biết tên thằng bé. Có lẽ như vậy là hơn, phần đời này của Sylvia không thuộc về anh.
    Anh nhận ra mình đã nghiên cứu môn nhân học trong nhiều năm để hiểu con người, nhưng anh đã quên một điều là sự phân tích hành vi con người cần phải được thực hiện thông qua cảm xúc. Mỗi cử chỉ cho dù là tầm thường nhất cũng bị chi phối bởi một cảm xúc. Cuộc đối thoại ngắn giữa anh và Sylvia đã cho phép anh hiểu được điều có lẽ đã xảy ra với Mila.
    Theo lời Klaus Boris thì cô ấy đã rời nhà mẹ đẻ trong trạng thái xúc động.
    Cho đến hiện tại, Berish không chú trọng đến chi tiết đó. Giờ thì anh cảm thấy Mila rõ ràng đã bị tổn thương vào tối hôm trước ngày cô biến mất.
    Chắc chắn điều này có liên quan đến con gái cô.
    Anh còn nhớ, sau khi biết Kairus là một kẻ thuyết giáo, cô cảnh sát đã muốn rút khỏi cuộc điều tra. Cô sợ những điểm tương đồng với vụ án "Kẻ nhắc tuồng" và những tác động có thể xảy ra với con gái mình.
    Nếu có chuyện gì đó giữa Mila và con gái thì anh đã biết mình cần đi đến nơi nào.
    Nơi mà đối với nhiều người, trong đó có Sylvia, tượng trưng cho giải pháp của nỗi bất hạnh. Nơi mà như Stephanopoulos đã nói, Mila có thể tìm thấy tấm vé một chiều đi đến vô danh.
    - Sao mình có thể sơ suất đến thế? - Berish bất giác thốt lên thành tiếng.
    Sylvia đang đứng ở trước cửa phòng, trên tay là một chiếc áo sơmi sạch.
    - Anh có muốn nói cho em biết lí do anh bị truy lùng không?
    - Đó là một câu chuyện dài, và anh không muốn em bị liên lụy. Anh sẽ ra đi để em có thể sống tiếp cuộc đời của mình. Sẽ không ai liên hệ em và con trai em với anh, anh hứa.
    - Ít ra thì, anh hãy ngủ một chút. Anh có vẻ mệt mỏi. Anh có thể ngả lưng trên trường kỷ, em sẽ đi lấy cái chăn cho anh.
    - Không. - Berish nói một cách cương quyết. - Anh đã có một câu trả lời. Nó còn hơn cả sự mong đợi của anh. Giờ thì anh phải đi. Có người cần đến anh.

  8. #67
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 66
    Chiếc cửa xoay lại phóng Berish vào không gian lững lờ của khách sạn Ambrus.
    Một lần nữa, điều này giống như băng qua ranh giới của một thế giới song song - bản sao mờ nhạt của thế giới chúng ta, tác phẩm của một thượng đế lừa đảo. Berish sẽ không ngạc nhiên nếu ở đây trọng lực mất tác dụng và người ta có thể bước đi trên tường.
    Hitch cũng có vẻ lo lắng. Anh đã đến đón nó ở trại chó. Anh cần đến cái mũi thính của nó. Hitch vui mừng khôn tả.
    - Ê, con thú đó không được vào đâu. - Người trực ban khách sạn nói cộc lốc sau khi bước ra từ sau tấm màn đỏ.
    Berish nhận thấy ông ta ăn mặc giống lần trước - quần jean và áo thun đen. Nhưng anh dám thề là các hình xăm của ông ta ít phai màu hơn và mái tóc ông ta đỡ hoa râm hơn lần trước. Anh có cảm giác mình đã đi ngược thời gian và thấy ông ta trẻ lại.
    Nhưng cảm nhận này là kết quả của một sự lo ngại sâu sắc và việc cần thiết phải gán một ý nghĩa, cho dù là phi lý, cho những gì đã diễn ra trong bốn bức tường này suốt những năm qua.
    Nơi này ẩn chứa một năng lượng.
    Nó là dư lượng của những cuộc mây mưa lén lút, những chuyến ghé chân của hàng nghìn con người trong những căn phòng kia - những người chỉ ngủ ở đó hoặc thỏa mãn những bản năng thấp hèn nhất của họ. Sau mỗi lần, những chiếc giường đều được dọn, khăn và vải phủ giường được giặt giũ, thảm trải sàn được làm sạch, nhưng những dấu vết vô hình của bản tính con người nguyên thủy vẫn lưu lại.
    Người ta cố gắng che phủ chúng bằng giọng hát êm ái của Édith Piaf, nhưng vô ích.
    Mặc kệ lời phàn nàn nhắm vào Hitch, Berish tiến lại gần quầy lễ tân. Ông già da màu bị mù vẫn ngồi ở chiếc trường kỷ cũ sờn.
    - Ông còn nhớ tôi không? - Berish hỏi người trực ban.
    - Chúc sức khỏe anh. - Người kia đáp thay cho lời xác nhận.
    - Tôi cần biết cô bạn đi cùng tôi lần trước gần đây có quay lại đây không.
    Ông ta ngẫm nghĩ một lúc, rồi bĩu môi lắc đầu.
    - Không thấy.
    Berish tự hỏi liệu ông ta có nói thật hay không. Nhưng theo cái cách Hitch bồn chồn lôi kéo sự chú ý của anh, Berish hiểu nó đã bắt được mùi của cô.
    Mila đã đến đây.
    Chỉ có điều anh không có bằng chứng nào, và không thể buộc tội ông ta nói dối.
    - Gần đây có ai đặt phòng 317 không?
    - Dạo này tình hình cũng khá ế ẩm. - Ông ta vừa nói vừa hất đầu chỉ cái bảng phía sau lưng. - Như anh thấy đấy, chìa khóa vẫn còn kia.
    Tỉnh như không, Berish chồm người qua quầy và tóm lấy áo ông ta.
    - Ê. - Người kia phản đối. - Tôi không biết chuyện gì diễn ra trong căn phòng đó, tôi không kiểm soát những người ra vào trong đó. Tôi là người trực ban duy nhất ở đây, kể cả ban đêm. Tôi ở trong cái hốc của mình, tôi chỉ ra ngoài khi ai đó muốn lấy chìa khóa. Ở đây người ta thanh toán bằng tiền mặt, và trả trước.
    Berish buông ông ta ra.
    - Khi tôi đến đây lần đầu tiên, ông đã nhắc đến một tội ác trong phòng 317, cách đây ba mươi năm...
    Người đàn ông có vẻ không hài lòng khi nghe nhắc tới câu chuyện đó. Như thể nó làm ông ta sợ hãi.
    - Ba mươi năm trước, tôi đâu có ở đây. Hơn nữa, cũng chẳng có gì ghê gớm để mà kể.
    - Ông cứ kể đi, tôi tò mò muốn nghe.
    - Này anh bạn, ở đây tò mò có cái giá của nó.
    Berish đã hiểu ý. Anh thò tay vào trong túi lôi ra một tờ tiền.
    Người đàn ông nhét nó vào dưới quầy.
    - Một người phụ nữ đã bị sát hại bởi hai mươi tám nhát dao. Theo những gì tôi biết, thủ phạm không bao giờ được tìm thấy. Nhưng có một nhân chứng: con gái bà ta. Con bé thoát nạn nhờ nấp dưới gầm giường.
    Berish rất muốn hỏi xem có phải mọi chuyện chỉ có vậy. Anh đã trông đợi một manh mối, một điều gì đó để biết liệu có tồn tại hay không một mối liên hệ giữa đại úy Stephanopoulos và căn phòng số 317. Trực giác của anh ở lần trước vẫn còn nguyên giá trị.
    Kẻ thuyết giáo đã chọn căn phòng này làm căn cứ vì một nguyên nhân chiến lược. Căn phòng được nhiều người hỏi thuê nhất cũng là nơi ít bị nghi ngờ nhất. Thật hoàn hảo, khi thêm vào đó nó còn nằm ngay gần thang máy chuyển hàng.
    Nếu Mila thực sự quay lại khách sạn Ambrus - anh không nghi ngờ điều đó - và Steph đã giúp đỡ cô biến mất, thì đó là một sự ra đi tự nguyện.
    Cô cảnh sát đã đi đến điểm bất hồi của mình. Cô sẽ không quay lại.
    Không còn ai có thể gỡ tội cho Berish. Người ta sẽ buộc anh tội sát hại Steph, vậy là đủ để đồng thời kết tội anh những vụ việc còn lại.
    Một thủ phạm còn sống sẽ gây chú ý nhiều hơn một kẻ thuyết giáo đã chết.
    Steph nói có lý. Không ai quan tâm đến các nạn nhân. Mọi người đều muốn con quái vật.
    Và anh đã sẵn sàng.

  9. #68
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 67
    Hoàng hôn đang rút cạn ánh sáng trong thung lũng.
    Ngồi trên một băng ghế công viên, Berish chiêm ngưỡng quang cảnh, một tay vuốt ve Hitch. Hai người đi lang thang suốt cả buổi chiều và giờ đã thấm mệt.
    Hitch đã hiểu họ sắp phải chia xa, chuyến đi dạo lặng lẽ đến cái nơi yêu thích của nó là một lời từ giã. Nó gác mõm lên đầu gối Berish và nhìn anh chăm chú bằng đôi mắt nâu, giống mắt người một cách không thể tin nổi.
    Berish trực tiếp nhận nuôi Hitch từ trại nhân giống hồi nó còn nhỏ xíu. Anh còn nhớ vào cái đêm đầu tiên đem nó về nhà mình - cái hàng rào tạm bợ để không cho nó ra khỏi phòng, trái banh mua cùng lúc với thức ăn để cho nó chơi, sự kích động của chú chó con trong môi trường lạ lẫm, tiếng rên rỉ tuyệt vọng của nó khi ông chủ đi ngủ.
    Đêm đầu tiên ấy Berish đã không thể làm ngơ, mặc dù đã được cảnh báo bởi người nhân giống chó. Ông ta bảo anh phải lờ con chó đi nếu muốn nó quen với việc ở một mình. Nhưng sau một tiếng rưỡi nghe nó khóc lóc rên rỉ, anh trở dậy để an ủi nó. Anh ngồi bệt xuống sàn với con Hitch nằm trong lòng, và cứ thế anh vuốt ve nó cho đến khi cả người và chó ngủ thiếp đi.
    Anh đã nhận nuôi Hitch vì anh tin loài chó không biết phán xét - đối với một kẻ bị ruồng bỏ như anh, Hitch là một người bạn hoàn hảo. Cùng với thời gian, anh đã suy nghĩ khác đi. Loài chó phán xét giỏi hơn bất kỳ ai, nhưng may cho con người là chúng không biết nói.
    Berish đã quyết định nộp mình, nhưng anh muốn tận hưởng sự đồng hành của Hitch và tự do nửa vời của mình thêm chút nữa. Với anh, người ta mất tự do không phải khi tra tay vào còng, mà ngay từ lúc bắt đầu bị truy lùng.
    Sau vài tiếng nữa anh sẽ lại ở trong một buồng thẩm vấn, đối diện một ai đó, người mà anh thực lòng muốn thú nhận các tội lỗi của mình. Chỉ có điều, những gì mà các đồng nghiệp của anh muốn nghe lại là những tội anh không gây ra.
    Nhưng trước hết, anh còn một việc cuối cùng phải làm. Anh nợ người bạn duy nhất của mình việc này. Và nợ một cô bé gái.
    Một chút tiếc nuối vụt qua trong đầu anh và tan biến theo giọt nắng cuối cùng. Biển bóng tối dần lấp đầy thung lũng. Những bóng đen tiến đến chỗ anh tựa như những ngọn sóng triều.
    Berish quyết định đã đến lúc phải đi.
    Khi mẹ của Mila mở cửa, bà nhận ra ngay khuôn mặt của kẻ đào tẩu vừa nhìn thấy trên bản tin thời sự.
    - Cháu xin lỗi. - Berish nói ngay. - Cháu không đến để làm hại cô, và cháu cũng không biết con gái cô hiện đang ở đâu. Cháu xin thề.
    - Họ đã nói những điều kinh khủng về anh. - Mẹ Mila vừa nói vừa quan sát tay đặc vụ, cố trấn tĩnh lại sau cơn sợ hãi.
    Berish tưởng bà sắp đóng cửa và gọi cảnh sát, nhưng không.
    - Điều cuối cùng mà Mila nói với tôi vào cái đêm nó biến mất là nó tin tưởng anh.
    - Cô tin con gái mình chứ? - Berish hỏi, anh không dám đẩy cao hi vọng.
    Mẹ của Mila gật đầu.
    - Tôi tin. Bởi vì Mila hiểu rõ bóng tối.
    Berish nhìn quanh.
    - Chuyện này sẽ không mất nhiều thời gian. Cháu đã quyết định nộp mình ngay sau khi rời khỏi đây.
    - Tôi tin đó là lựa chọn đúng đắn. Ít ra anh cũng sẽ có cơ hội tự bào chữa cho mình.
    Không đâu, Berish muốn nói như thế. Nhưng anh im lặng.
    - Tôi tên Inès. - Mẹ của Mila vừa nói vừa chìa tay ra.
    Berish bắt tay bà.
    - Nếu cô đồng ý, cháu có một món quà cho cháu ngoại của cô.
    Anh nhích sang một bên để Hitch tiến lên.
    - Tôi đã nghĩ đến việc nhận nuôi một con chó đấy. - Bà Inès ngạc nhiên ra mặt. - Để con bé khuây khỏa trước sự mất tích của mẹ nó.
    Bà để cho cả hai vào nhà và khép cửa lại.
    - Nó ngoan và rất nghe lời. - Berish cam đoan.
    - Sao anh không trực tiếp nói điều này với Alice nhỉ? - Bà Inès đề nghị. - Con bé sẽ vui lắm, hôm nay nó đã trải qua một ngày không vui. Lúc chạy ngoài công viên nó đã bị ngã.
    - Trẻ con bị thế là thường.
    - Mila chưa nói với anh à? - Khuôn mặt bà Inès thoáng ưu tư. - Alice không nhận biết được nguy hiểm.
    - Cô ấy chưa bao giờ cho cháu biết chuyện này.
    - Có lẽ vì Mila tự coi mình là một mối nguy hiểm đối với con gái.
    Câu nói này đã khiến Berish vỡ lẽ nhiều điều.
    - Nếu anh muốn nói chuyện với con bé thì Alice đang ở trong phòng nó.
    Bà Inès dẫn cả hai đến nơi và đứng ngoài cửa phòng quan sát. Berish vào trước. Alice đang ngồi trên tấm thảm, trên người mặc chiếc áo ngủ, một bên đầu gối dán một miếng băng to đủ màu sắc.
    Cô bé đã chuẩn bị tiệc trà. Tất cả các búp bê đều được mời. Nhưng vị trí danh dự được dành cho con búp bê tóc hung.
    - Chào cháu, Alice.
    Cô bé quay lại để xem người nào vừa gọi tên mình.
    - Cháu chào bác. - Alice lên tiếng, rồi nhìn chú chó đứng phía sau lưng người khách.
    - Bác là Simon, còn đây là Hitch.
    - Chào Hitch. - Alice chấp nhận cái tên như thể nó là một món quà nhỏ.
    Con chó sủa một tiếng.
    - Bọn bác tham gia với các cháu được không?
    Alice ngẫm nghĩ một lúc rồi đáp:
    - Được ạ.
    Berish ngồi xuống sàn, Hitch lập tức nằm cạnh hai người.
    - Bác có thích trà không? - Cô bé hỏi.
    - Rất thích.
    - Bác có muốn uống một tách không?
    - Muốn chứ.
    Alice rót một chút thức uống tưởng tượng và đưa chiếc tách cho Berish. Anh cầm nó, cố huy động dũng khí để nói:
    - Bác là bạn của mẹ cháu.
    Alice không nói gì. Cứ như thể nó đang cố tự bảo vệ trước một chủ đề đau đớn.
    - Mẹ cháu đã nói chuyện với bác về cháu, và bác rất tò mò, vì vậy bác mới đến đây.
    - Bác không uống sao? - Alice chỉ vào tách trà.
    Berish đưa tách trà lên môi, tim anh đau nhói.
    - Mẹ cháu sẽ sớm quay về. - Anh nói luôn mà không cần biết là đúng hay sai.
    - Miss nói mẹ sẽ không bao giờ quay về nữa.
    Thoạt tiên Berish ngớ người, nhưng rồi anh sực nhớ Miss là tên con búp bê yêu thích của Alice. Mila đã cho anh biết điều đó khi hai người cãi nhau.
    Chính mình đã gây sự với cô ấy, anh tự nhủ.
    Vậy cho tôi biết đi, màu ưa thích của con bé là gì? Con bé thích làm nghề gì? Con bé có ngủ cùng một con búp bê vào những đêm cô không xuất hiện hay không?
    Đó là một con búp bê tóc hung, nó tên là Miss.
    - Mẹ cháu không thể sống thiếu cháu được đâu. - Berish khẳng định với cô bé, vừa nói anh vừa cầu cho lời tiên đoán của mình được linh ứng.
    - Miss nói mẹ không yêu Alice.
    - Nó nhầm rồi. - Berish khẳng định, có lẽ hơi quá mạnh mẽ, và nhận được một cái nhíu mày của Alice. - Ý bác là... Miss không biết đâu, làm sao Miss biết được.
    - OK. - Cô bé nói như thể đang ghi nhận điều đó trong đầu.
    Berish cảm thấy cần nói chuyện thêm, nhưng anh chưa biết Alice đủ lâu.
    - Ngày mà mẹ quay về, mẹ con cháu sẽ đi chơi công viên. Hoặc đi ra rạp xem phim hoạt hình. Và ăn bỏng ngô, nếu cháu muốn.
    Anh nhận ra nỗ lực của mình quá vụng về, vì Alice chỉ gật đầu. Trẻ con sở hữu tất cả trí khôn của thiên hạ, và đôi khi chúng giả vờ đồng ý với người lớn, giống như người ta vẫn làm thế với những người điên để chiều lòng họ.
    Khi lớn lên, Berish đã đánh mất khả năng quý báu đó, và trở thành một trong vô số những người ngu ngốc sống trên trái đất này. Chính vì vậy anh đã quyết định thế là đủ. Nhưng Alice ngăn anh lại trước khi anh kịp đứng lên.
    - Bác sẽ không đi chơi cùng mẹ con cháu sao?
    Câu hỏi khiến Berish bối rối.
    - Bác phải đi xa một thời gian, nên bác muốn nhờ cháu giúp một chuyện.
    Cô bé nhìn anh, chờ đợi.
    - Nơi bác sẽ đến không chấp nhận chó... Vì vậy, nếu cháu thích, cháu có thể chăm sóc Hitch.
    Alice há hốc mồm ngạc nhiên.
    - Thật ạ?
    Thật ra thì câu hỏi này là dành cho bà ngoại của cô bé đang khoanh tay đứng bên ngưỡng cửa. Sau khi nhận được cái gật đầu chấp thuận, cô bé cầm lấy con búp bê ưu thích và đưa cho Berish.
    - Cháu tin chắc nơi bác đến không cấm búp bê, nên nó có thể làm bạn với bác.
    Berish không biết phải nói thế nào.
    - Bác sẽ chăm sóc nó. Và bác thề là Miss cũng sẽ vui sướng khi ở với bác.
    - Tên nó có phải là Miss đâu ạ. - Alice ngơ ngác.
    - Thế á?
    - Vâng ạ. Miss không phải là con búp bê. Mà là một người.
    Berish bỗng cảm thấy ớn lạnh khủng khiếp. Cổ họng anh thắt lại.
    - Nghe bác nói đây. - Anh nắm lấy vai Alice để con bé nhìn thẳng vào mắt mình. - Người mà cháu nhắc đến là ai thế?
    Trong một thoáng, Alice tỏ ra bối rối một chút vì câu hỏi của Berish. Thế rồi, con bé trả lời như thể đó là điều hiển nhiên nhất trên thế giới.
    - Miss là người ru ngủ. Cô ấy đến để chúc cháu ngủ ngon.
    Khi nghe nhắc đến một phiên bản nữ của Kairus, đặc vụ Berish cảm thấy máu trong người mình đông lại.
    - Alice, chuyện này quan trọng lắm. Cháu đang nói thật, đúng không?
    Cô bé trịnh trọng gật đầu.
    Khi còn bé, phòng ngủ của chúng ta dường như là nơi ít an toàn nhất thế giới, Berish nghĩ bụng. Đó là nơi đêm đêm ta buộc phải ngủ một mình, trong bóng tối. Tủ tường là chốn ẩn mình của đám quái vật, và gầm giường luôn che giấu một thứ gì đó rất đáng sợ.
    Nhưng Alice không thể nhận biết được nguy hiểm, anh sực nhớ...
    Có lẽ chính vì thế mà mẹ Alice giám sát con gái từ xa.
    Bất chấp sự kinh hoàng, anh đã biết mình phải làm gì.


  10. #69
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 68
    Dèn đóm trong căn hộ nhỏ của Mila đã tắt hết, ngoại trừ một ánh sáng màu xanh do màn hình máy tính phản chiếu trên khuôn mặt Berish. Trên màn hình là hình ảnh phòng ngủ của Alice trong đêm tối. Xung quanh Berish là hàng trăm cuốn sách chồng chất như những đồng sự.
    Anh đã tìm kiếm những đoạn phim được ghi vào các đêm lưu trong ổ cứng máy tính xách tay của Mila, và tìm ra đoạn phim của cái đêm cô mất tích.
    Trên màn hình, anh thấy hình ảnh phản chiếu của cô cảnh sát trong tấm gương của tủ quần áo. Lúc này Mila đang đứng bất động ngoài hành lang. Cô đang lắng nghe. Những câu nói mà anh sắp nghe thấy có khả năng là nguyên nhân gây ra cơn xúc động mãnh liệt nơi Mila.
    Alice đang ngồi trên giường và trò chuyện khe khẽ.
    - Alice cũng yêu Miss lắm. Rồi Miss sẽ thấy, chúng ta sẽ luôn ở bên nhau.
    Nhưng con bé không nói với con búp bê đang ôm trên tay.
    Có ai đó đang đứng nép mình trong một góc. Một cái bóng sẫm màu hơn bóng tối xung quanh. Berish ghé sát vào màn hình để nhìn cho rõ.
    - Alice sẽ không bỏ Miss một mình đâu. Alice không giống mẹ, Alice sẽ luôn ở bên Miss.
    Berish không thể tin nổi. Nỗi sợ hãi như lưỡi dao lạnh ngắt chọc vào lưng anh.
    - Ngủ ngon nhé, Miss.
    Nói xong câu này, cô bé chui vào dưới tấm chăn. Cùng lúc đó, Mila cũng bỏ chạy.
    Đó là lúc cái bóng tách ra khỏi bức tường, tiến lên một bước để vuốt tóc cô bé.
    Miss là người ru ngủ. Cô ấy đến để chúc cháu ngủ ngon.
    Người ru ngủ không biết mình đang bị quay phim. Hành động ngẩng mặt lên hướng về phía ống kính của cô ta hoàn toàn tự phát.

  11. #70
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 69
    Một ngôi nhà tăm tối chìm trong yên lặng.
    Simon Berish chỉ là một cái bóng hiện lên trên lớp kính của cánh cửa hậu mà anh đã cẩn thận khép lại sau lưng mình.
    Anh thấy tiếc vì đã bỏ lại khẩu súng của Mila trong văn phòng của Stephanopoulos.
    Nhưng có lẽ Sylvia không chờ đợi chuyến viếng thăm lúc 3 giờ sáng này. Có lẽ cô ta chắc mẩm mình đã thắng. Nhưng anh không thể biết nếu cô ta vẫn giữ cảnh giác.
    Anh chẳng còn chắc chắn được gì nữa.
    Ánh đèn đường xuyên vào nhà như một màn sương trắng nhợt. Berish tận dụng nó để lẻn vào phòng ăn. Những bước chân của anh chỉ tạo ra tiếng động khe khẽ như một lời thì thầm. Tai anh căng ra đón nhận mọi âm thanh.
    Tiến đến hành lang, anh quay nhìn vào phòng khách. Ở đó là chiếc trường kỷ nơi Sylvia đã lau máu của Steph cho anh với một sự chăm sóc và yêu thương vô hạn. Anh vẫn còn cảm nhận thấy bàn tay ve vuốt của cô ta trên cổ - một vết nhơ vô hình và xúc phạm.
    Berish hướng về phía cầu thang. Anh muốn tìm ra Sylvia, vào giờ này anh tin cô ta đang ngủ. Anh bước lên từng bậc thang một. Bậc thang gỗ kêu cọt kẹt dưới chân anh. Cầu thang tưởng như dài vô tận.
    Khi lên đến nơi, Berish dừng bước để quan sát những tấm ảnh treo trên tường đang được ánh trăng chiếu sáng. Sáng nay, Sylvia đã nói với anh về con trai mình.
    Con em đẹp trai đấy chứ, phải không anh?
    Họ đây. Ở công viên, trên bãi biển, phía sau một chiếc bánh sinh nhật. Khi quan sát kỹ, anh mới thấy những nụ cười của hai người có vẻ không chân thành. Họ không hớn hở khoe chúng. Mà khoác chúng lên khuôn mặt.
    Anh lại có cảm giác quen biết cậu bé cứ lớn dần lên trong các tấm ảnh bên cạnh mẹ mình như có phép thần. Nhưng lần này anh đã nhận ra các đường nét khuôn mặt của Michael Ivanovic.
    Đó không phải là mẹ tôi.
    Berish đã không hiểu Michael có ý gì khi nói ra những lời ấy trong buổi thẩm vấn, nhưng giờ thì mọi thứ đã rõ. Anh đã tự hỏi Stephanopoulos đã giao thằng bé sáu tuổi cho ai sau khi đưa nó ra khỏi phòng 317 khách sạn Ambrus. Bây giờ anh đã biết. Ông ta đã hứa dành nó cho nhân chứng quý giá của mình. Sylvia đã chấp nhận giao kèo để đổi lấy món quà này.
    Cô ta đã nuôi nấng nó, đã nhào nặn nó theo những giới luật của giáo phái. Rồi cô ta phái nó quay về để hoàn thành sứ mạng giết chóc. Cô ta biết nếu bị bắt nó sẽ không bao giờ phản bội mình.
    Giả thuyết về cái ác lại một lần nữa được chứng thực. Cái thiện biến thành cái ác rồi biến thành cái thiện rồi lại trở thành cái ác, trong một chu kỳ bất diệt của sự sống và cái chết.
    Các mảnh ghép đang vào đúng chỗ. Nhưng một lần nữa, anh tự hỏi ai là người đã chụp những bức ảnh gia đình.
    Thế rồi anh nhận ra ở hậu cảnh của một tấm ảnh xuất hiện phần đầu của một chiếc xe hơi quen thuộc.
    Chiếc Volkswagen của Stephanopoulos.
    Berish đã có được sự xác nhận mà anh đang tìm kiếm.
    Hai kẻ thuyết giáo.
    Một nam một nữ. Anh không bao giờ có thể tưởng tượng. Người ru ngủ có một bản chất kép - thiện và ác.
    Hãy tìm cô ấy...
    Lời nói sau cuối của Steph. Nó nhắc đến Sylvia. Hay đúng hơn là Kairus.
    Chính là chúng ta. Khi truy lùng hắn trong suốt những năm qua, chúng ta đã triệu hồi hắn lên. Và rốt cuộc hắn đã xuất hiện.
    Steph khẳng định như thế. Còn anh, anh đã tưởng ông ta nói nhảm.
    Nhưng anh không còn thời gian để suy ngẫm các hệ lụy của khám phá vừa có được. Các cửa phòng nhìn ra hành lang đều đang mở. Berish kiểm tra từng cái một. Khi anh đến căn phòng cuối cùng, anh nhận ra nó là phòng ngủ của chủ nhà.
    Anh cúi xuống để quan sát dáng người Sylvia đang say ngủ. Anh đã nghĩ đến một cách để vô hiệu hóa cô ta.
    Nhưng chiếc giường trống không.
    Berish ngẫm nghĩ. Cô ta ở đâu? Có thể là bất cứ chỗ nào. Anh tin ngôi nhà chưa tiết lộ hết mọi bí mật với mình.
    Anh lui ra hành lang, định bụng tiếp tục tìm kiếm ở tầng dưới. Nhưng bản năng nghề nghiệp đã mách bảo anh không được bỏ qua bất cứ điều gì.
    Khi quay người để xuống cầu thang, lưng hướng về phía ô cửa sổ duy nhất, Berish nhác thấy một cái bóng đang đu đưa trên bức tường đối diện mình. Giống như một con lắc.
    Phía trên đầu mình, anh nhận ra một sợi dây thừng mảnh được gắn với trần nhà.
    Berish thò tay nắm sợi dây kéo xuống. Cánh cửa sập trượt theo bản lề và một chiếc thang trải ra trước mắt anh. Như một cái lưỡi thè ra từ miệng của một tên khổng lồ. Lối tiếp cận với thế giới song song.
    Berish trèo lên gác mái.
    Anh thò đầu lên và ngửi thấy trong không khí bụi bặm một mùi nến tắt. Một ô cửa con trên mái hắt xuống thứ ánh sáng lạnh lẽo, tạo thành một cái giếng màu trắng ở giữa phòng.
    Xung quanh anh, trên tường, có hàng trăm tấm ảnh.
    Hiệu ứng của chúng cũng tương tự như trong Sảnh Đợi ở Minh Phủ. Nhưng những khuôn mặt đang quan sát anh từ trên tường thuộc về những người biến mất khỏi căn phòng số 317 của khách sạn Ambrus.
    Những người sống không biết họ còn sống. Và người đã chết không thể chết đi.
    Họ nom buồn bã như những bóng ma già cỗi. Mệt mỏi như thể có quá nhiều thứ để quên đi.
    Ở phía cuối bộ sưu tập những ánh mắt, Berish nhận thấy một bóng người đang nằm dài trên chiếc giường gấp. Anh chạy đến nắm tay cô.
    - Mila. - Anh thì thào gọi tên cô.
    Không có phản ứng. Anh áp một tai vào miệng cô, hi vọng nghe thấy tiếng thở, hoặc cảm thấy hơi thở trên da mình. Nhưng anh quá căng thẳng và không thể xác định được cô còn sống hay đã chết. Anh bèn nghe tim cô.
    Nó đang đập. Rất yếu ớt, nhưng vẫn còn đập.
    Anh chỉ muốn tạ ơn trời đất. Nhưng rồi anh nhận ra tình trạng thảm hại của Mila: trên người chỉ mặc quần áo lót, mái tóc ướt đẫm mồ hôi, quần lót vàng nước tiểu, môi nứt nẻ khô khốc. Những vết sẹo trên da cô đã cũ, nhưng cánh tay trần của cô có những vết thương mới, sâu và mưng mủ.
    Thuốc ngủ tiêm tĩnh mạch, anh nghĩ thầm. Người ta đã làm cho cô hôn mê.
    Cũng như người mà cô đã từng yêu - Berish cũng biết chuyện này và nhận ra sự trùng hợp chết chóc. Trước khi chìm vào hôn mê, người đàn ông đó đã cho Mila một đứa con gái. Alice.
    Mila sẽ không phải chịu chung số phận như vậy. Berish tự thề với bản thân.
    Bất chấp nguy hiểm còn ẩn nấp trong ngôi nhà, Berish bế cô lên để đưa đi. Người cô nhẹ như băng. Khi quay lại, anh nhận ra Sylvia đang quan sát mình.
    - Em có thể giúp anh, nếu anh muốn.
    Câu nói bình thường, hợp lý và tỉnh táo đó khiến anh rùng mình còn hơn cả một lời đe dọa. Không có sự điên rồ trên khuôn mặt cô ta, không có vẻ độc ác trong giọng nói của cô ta.
    - Thật mà, em có thể giúp anh đưa cô ấy đi.
    - Đừng có lại gần cô ấy. - Berish lạnh lùng đáp.
    Sylvia không hề có vũ khí, trên người vẫn khoác chiếc áo ngủ ban sáng. Hai mươi năm sau, cô ta lại lừa dối anh lần nữa.
    Bế Mila trên tay, Berish bước đi dưới cái nhìn của những kẻ mất tích trên tường. Khi đến trước mặt Sylvia, anh đã tưởng cô ta sẽ chặn đường. Họ nhìn nhau như hai kẻ đang cố nhận ra nhau. Rồi cô ta tránh ra.
    Berish lần xuống thang, cố gắng giữ thăng bằng. Anh biết cô ta vẫn đang nhìn mình, nhưng anh mặc kệ. Anh xuống đến tầng trệt. Sylvia đi theo anh, cách một quãng, giống như một đứa trẻ.
    Con quái vật sao mà mỏng manh quá, con người quá.
    Trước khi ra ngoài bằng cửa trước, anh quay lại nhìn Sylvia.
    - Các cô có bao nhiêu người?
    Sylvia mỉm cười.
    - Cả một đạo quân.
    Khi Berish bước qua ngưỡng cửa, ánh đèn nhấp nháy làm anh lóa mắt. Các đồng nghiệp của anh đã bao vây ngôi nhà, nhưng họ tỏ ra không thù địch.
    Klaus Boris đi đến gặp anh, lo lắng ra mặt.
    - Cô ấy thế nào?
    - Cô ấy cần được hỗ trợ, ngay lập tức.
    Băng ca được đưa đến. Một y tá đỡ cho anh sức nặng của cơ thể bất động. Berish buông Mila ra và đưa tay vuốt mặt cô. Mila được đưa vào xe cứu thương. Nó lập tức hú còi rồi chạy đi.
    Berish nhìn theo chiếc xe.
    - Cám ơn anh đã gọi điện báo. - Boris nói với anh.
    Berish không nghe thấy câu nói đó. Anh cũng không nhìn thấy các đồng nghiệp còng tay Sylvia và lặng lẽ đưa cô ta đi.
    Simon Berish - tên cớm bị ruồng bỏ - chỉ có một mong muốn: biến mất.

Trang 7 / 8 ĐầuĐầu ... 5678 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-11-2017, 01:14 AM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-25-2016, 12:40 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-29-2016, 11:58 AM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-20-2016, 03:10 AM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-27-2015, 11:00 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •