Cây “con khỉ” chữa ung thư, kháng khối u hiệu quả



Cây Hoàn Ngọc, dân gian thường gọi là cây con khỉ. Với công dụng và giá trị dược liệu cao, cây thuốc Nam này được sử dụng nhiều trong các bài thuốc chữa nhiều bệnh nguy hiểm như ung thư, u ở phổi và tiền liệt tuyến…



Cây Hoàn ngọc được sử dụng nhiều trong các bài thuốc nam chữa bệnh. (Ảnh sưu tầm từ Internet)

Có lẽ chưa có một cây thuốc nào mang đến 10 loại tên như cây cây Hoàn ngọc. Cây Hoàn ngọc còn có tên là cây Con khỉ, cây Tu lình, cây Nhật Nguyệt, cây Mặt trăng Mặt trời, cây Trạc Mã, cây Thận tượng linh, cây Mật quỷ, gần đây có tên là cây Lan Điền…

Có 2 loại Hoàn ngọc

Loại cây có dạng lá nhỏ, màu đỏ tía là cây Hoàn ngọc dương, nhớt tím, Hoàn ngọc đỏ. Khoa học đã chứng minh và khẳng định đây không phải cây hoàn ngọc chữa bệnh mà là cây bán tự mốc, tên khoa học là Hemigraphis glaucescens C.B Clarke, họ Ô rô (Acanthaceae). Bán tự mốc chủ yếu được dùng trong dân gian, chưa có công trình nào nghiên cứu về tác dụng trị bệnh của loại cây này.

Còn loại cây mà dân gian gọi là Hoàn Ngọc âm hay nhật nguyệt, nội đồng, lay gàm, dièng tòn pièng (Dao), nhần nhéng (Mường), tu lình, nó mới chính là cây hoàn ngọc có tác dụng trị bệnh.

Hoàn ngọc vốn là cây mọc hoang trong rừng Cao Lạng, thân có bấc, mọc nhanh, một năm có thể mọc cao 30cm. Lá mềm, không xơ, hình lá thon dài, không cân đối, đuôi lá thường vẹo, mặt phải xanh sẫm hơi ráp, mặt trái xanh nhạt; lá mọc đối xứng tạo thành mắt, lá vàng dễ rụng.

Lá Hoàn ngọc già vị đắng ngọt như có bột; lá non nhớt, không có mùi vị; vỏ và rễ có mùi vị như lá già. Dùng lá cây tươi chưa phát hiện có độc tố gì, có tác dụng kích thích thần kinh. Dùng nhiều có cảm giác như say nhẹ một thời gian ngắn. Ăn chín không gây phản ứng.

Công dụng

Theo Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, cây Hoàn Ngọc không độc, có thể uống trong hay đắp ngoài, dùng tươi hay dùng khô đều được, có tác dụng chữa các bệnh: Viêm nhiễm đường tiêu hóa, cầm máu, lở loét, sẹo lồi, mụn lồi.

Ngoài ra, các nhà khoa học đã tìm ra nhiều hoạt chất quý trong lá và rễ cây hoàn ngọc có tác dụng hỗ trợ điều trị nhiều loại bệnh. Chẳng hạn như Flavonoid có lợi cho tim mạch, động mạch vành khi có khả năng làm tan xơ vữa động mạch, cặn máu.

Các bác sĩ Đông Y thường kết hợp cây thuốc nam này với một số loại thảo dược khác bào chế thành những bài thuốc nam chữa bệnh độc đáo và mang lại hiệu quả tốt so với những phương pháp điều trị bệnh khác.

Chữa các bệnh về đường tiêu hoá: Đi lỏng lỵ, rối loạn tiêu hoá, táo bón, đau bụng không rõ nguyên nhân.

Ăn từ 7–9 lá, khoảng 2 – 3 lần/ngày cho đến khi khỏi, có thể nấu canh nhạt để ăn.



Bệnh kèm theo chảy máu: Chảy máu dạ dày, đường ruột, đái ra máu, phân ra máu kể cả đái buốt và đái rắt…

Ăn lá khi đói hoặc sắc nước lá đặc để uống, có thể nấu canh độ 1 bát nhỏ. Ăn 1 – 5 lần máu sẽ cầm, nên ăn ngày 2 lần.

Các bệnh ung thư thời kỳ phát bệnh: Ăn lá xong cơn đau giảm dần, người tỉnh táo, ăn ngủ tốt, có cảm giác như khỏi bệnh. Qua một số bệnh ung thư dạ dày, gan, phổi… đều thấy có diễn biến tốt. Lượng lá dùng thường xuyên theo mức độ đau; thông thường ngày 2 lần mỗi lần 3 – 7 lá, tuỳ theo hiệu quả giảm đau.

Chữa các bệnh u ở phổi, tiền liệt tuyến: Liều lượng dùng như trên, sau 1 tuần các triệu chứng giảm hẳn, bệnh nhân ăn ngủ tốt. Riêng u xơ tiền liệt tuyến ăn vào cuối tháng, khoảng 3 tháng liên tục.

Ngoài ra, rễ cây hoàn ngọc có một số chất có khả năng kháng u cực hiệu quả, đặc biệt 2 chất betulin và lupenone thuộc tritecpen có hàm lượng cực lớn. Theo nhiều nghiên cứu sinh học trên thế giới, hai thành phần này có khả năng kháng khối u vô cùng hiệu quả.

Các bệnh về gan: Xơ gan cổ trướng, viêm gan…

Ăn lá tươi như trên ngày 2 lần khi đói. Bột lá khô cùng với bột Tam thất theo tỷ lệ 1/1 là thuốc trị xơ gan cổ trướng đặc hiệu

Bệnh về thận: Viêm thận cấp hoặc mãn, suy thận, các hiện tượng đái đục, đái ra máu.

Điều trị như trên sau 1 tuần. Ăn 1 lần/ngày, nước giải chỉ trong được nửa ngày thì cần tăng lên 2 lần/ngày. Trong thời gian 1/2 tháng các triệu chứng bệnh giảm rõ rệt.

Chữa viêm loét: Loét dạ dày, hoành tá tràng, đại tràng, trĩ nội ngoại, trực tràng…

Ăn lá tươi khi đói (tốt nhất vào buổi sáng). Với các vết thương thuộc phạm vi dạ dày, chỉ cần ăn trong 1 tuần, tránh uống rượu mạnh. Khi chữa vết loét thuộc phần ruột, liều lượng cần nhiều hơn tuỳ theo nặng nhẹ.


Điều chỉnh huyết áp, ổn định thần kinh: Khi biến đổi huyết áp (cao hay thấp) theo liều lượng trên, ăn xong chợp mắt nghỉ trong thời gian ngắn, huyết áp sẽ trở lại bình thường; khi lên cơn rối loạn thần kinh thực vật, tuỳ theo mức độ để định liều lượng, có thể ăn vào buổi sáng giúp cơ thể ổn định trong ngày và đề phòng khi thời tiết thay đổi đột ngột.

Chữa về chấn thương: Các loại chấn thương, đặc biệt chấn thương sọ não, va đập, gãy dập xương hay bắp thịt.

Lá thuốc có tác dụng cầm máu, khôi phục các mô cơ bị dập, chống viêm nhiễm, lá làm cả thuốc đắp và thuốc uống. Khi vết thương kín có thể nhai để đắp, vết thương hở nên giã để đắp.

Chữa cảm cúm: Nếu kéo theo rối loạn tiêu hoá, đau đầu, mệt mỏi nhiệt độ cao. Nên ăn lá cách 2 giờ, cơn sốt nhanh chóng hạ đồng thời rối loạn tiêu hoá cũng khỏi. Sau cơn sốt nên ăn cháo có lá thuốc trộn vào làm cho người bệnh mau chóng trở lại bình thường.

Khôi phục sức khoẻ: Khi mệt mỏi toàn thân hoặc cần nâng cao sức chịu đựng cường độ cao, nên ăn như liều định 5 – 7 lá trước nửa giờ. Trẻ con đi lỏng nên lấy từ 1 – 2 lá giã lấy nước cho uống.

Trong thực tế có những bệnh phải dùng liều ở độ ngưỡng (gây phản ứng nhẹ) mới có tác dụng chữa bệnh tốt như bệnh viêm thần kinh co thắt.

Số lần dùng trong ngày có tác động đến làm chuyển biến bệnh tật. Những bệnh đau cấp cần duy trì một nồng độ cao hơn trong một thời gian nhất định để chế ngự bệnh tật. Thông thường nên ăn lá vào buổi sáng hoặc khi đói. Sau khi ăn lá nên chợp mắt 15 phút. Đây là giai đoạn thần kinh tự điều chỉnh, sau đấy trạng thái cơ thể trở nên sảng khoái, bệnh tật chuyển biến nhanh, nếu không có giai đoạn nghỉ ngơi này, kết quả sẽ kém hẳn.



Vườn thuốc việt