Ảnh hưởng của chất phóng xạ lên con người


Mai Thanh Truyết (Danlambao) - Qua những cuộc đấu khẩu gay gắt giữa hai lãnh đạo Bắc Triều Tiên và Hoa Kỳ, cuộc chiến có thể trở thành hiện thực và có nguy cơ biến thành cuộc chiến tranh nguyên tử. Tinh thần chủ nghĩa dân tộc cực đoan trong hiện tại đang nở rộ ra trên thế giới. Nếu không có sự tự chế của những lãnh tụ cuồng tín, và nếu không có giải pháp thích ứng giữa các siêu cường, lò lữa chiến tranh sẽ khởi động. Bài viết nhằm nêu ra nguy cơ của chất phóng xạ ảnh hưởng lên con người hầu cảnh báo những điều tệ hại nhất có thể xảy ra trong trường hợp có chiến tranh. Tại Việt Nam, chất phóng xạ còn dùng để triệt hạ đối thủ vì tranh giành quyền lực và quyền lợi làm biến đi tính chất đạo đức và hiền hòa cố hửu của dân tộc Việt. Tất cả vì sự… "đói quyền lực" và "tính nô lệ" Tàu Cộng của đảng CSVN!



Cây rêu mọc bao trùm các bậc thềm ở thị trấn Pripyat, nơi chịu ảnh hưởng nặng nề của thảm kịch Chernobyl xảy ra vào năm 1986.



Chúng ta hãy còn nhớ hai tai nạn thảm khốc trên thế giới đã xảy ra tại Ukraina và Nhật Bản. Đó là tai nạn nhà máy điện phóng xạ Chernobyl nổ ngày 16/4/1986 và nhà máy Fukushima ngày 11/3/2011.


Có bao nhiêu người đã chết vì Chernobyl?

56 người thiệt mạng trực tiếp (47 công nhân tai nạn và 9 trẻ em mắc bệnh ung thư tuyến giáp trạng) là kết quả của thảm họa Chernobyl năm 1986 và ước tính có thể có thêm 4.000 ca tử vong vì ung thư trong số khoảng 600.000 người bị tiếp nhiễm nhiều nhất.



Cho dù đã trôi qua 30 năm, nhưng thảm họa hạt nhân Chernobyl trở thành một nỗi ám ảnh với nhiều người. Cũng bởi nguyên nhân đó, thị trấn Pripyat - nơi vốn là một khu dân cư đông đúc - nay trở thành một vùng đất ma, không có bóng người.


Có bao nhiêu người bị ảnh hưởng bởi thảm họa Chernobyl?

Hiện tại, hơn năm triệu người sống trong các khu vực được coi là 'bị ô nhiễm' bằng chất phóng xạ xảy ra từ tai nạn Chernobyl 1. Diện tích gần khu vực lò phản ứng bị ô nhiễm nặng nhất và 116.000 người sống ở đó đã được sơ tán sớm sau vụ tai nạn. (ước tính vào năm 2006 và ảnh hưởng có thể kéo dài trên 50 năm).


Nhật Bản nhớ đến 18.000 nạn nhân thảm họa tháng ba năm 2011. Hơn 18.000 người đã chết vào ngày 11 tháng 3 năm 2011 sau khi trận động đất mạnh nhất được ghi nhận trong lịch sử Nhật Bản, gây ra một cơn sóng thần gây lãng phí cho toàn thể các thị trấn và làng mạc và vụ sụp đổ ba nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi.

Con người tiếp xúc với các loại phóng xạ đến từ thiên nhiên cũng như từ nguồn nhân tạo. Tiếp xúc tự nhiên được tiếp nhận từ vũ trụ, đất, và qua sự kết hợp radionuclides. Trong số các nguồn phóng xạ do con người gây ra, việc tiếp xúc bằng các phương pháp chẩn đoán và trị liệu bằng phóng xạ. Mới đây, Cơ quan quản lý nguyên tử Nhật Bản, ngày 04/10/2017, nhận định hai lò phản ứng nguyên tử của tập đoàn Tepco, đơn vị chịu trách nhiệm về tai nạn Fukushima, là an toàn về mặt kỹ thuật và phù hợp với các tiêu chuẩn mới. Nhận định trên được coi như việc bật đèn xanh để tái khởi động tổ máy 6 và 7 của nhà máy điện Kashiwasaki-Kariwa ở tây bắc Nhật Bản, được cho là đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn nghiêm ngặt đặt ra sau thảm họa Fukushima.


Theo lý thuyết, phóng xạ ion hóa xảy ra khi hạt nhân của một nguyên tử không ổn định phân rã và bắt đầu phóng thích các hạt ion hoá. Phóng xạ ion hóa phát sinh ra từ các loại bom nguyên tử và lò phản ứng hạch nhân. Khi các hạt này tiếp xúc với vật liệu hữu cơ, chẳng hạn như mô (tissue) người, chúng sẽ dẫn đến sự thay đổi cấu trúc và sự biến tính của protein trong cơ thể, từ đó, đưa đến sự liên kết chéo giữa các phân tử khác nhau hoặc với DNA bằng sự tương tác gốc-gốc (radical-radical) và sự mất hoạt động của các diếu tố (enzyme). Và DNA được coi là phân tử bị ảnh hưởng chính do độc tính của phóng xạ dẫn đến chứng ung thư hoặc tử vong nếu liều lượng cao hơn mức tới hạn (threshold limit) của mỗi con người.

1. Các vụ nhiễm độc phóng xạ ở Việt Nam trong quá khứ

Vào ngày 5 tháng sáu 2006, một vụ thất thoát 54,8 mg đồng vị phóng xạ Europium- 125 tại Hà Nội. Cũng như, ngày 30 tháng 7 cùng năm đó, một hộp chứa nguồn phóng xạ Gamma từ Ceasium-137 biến mất. Nguồn phóng xạ nầy dùng để đo mức xả tự động của lò clinker thuộc Cty Ciment Sông Đà, Hà Nam.

Như vậy, chúng ta thấy rằng ở Việt Nam, việc kiểm soát an toàn phóng xạ chưa được lưu tâm đúng mức, do đó chưa được đặt trên căn bản tổ chức hoàn chỉnh, đặc biệt là đối với những công nghệ hầm mõ, công nghệ ciment, công nghệ chuyển vận tàu biển, và công nghệ nhà máy lọc dầu, những nới cần một công nghệ thật chính xác sử dụng các sensor điện tử và phóng xạ. Thậm chí, trong lãnh vực nghiên cứu ở các phòng thí nghiệm và trong bệnh viện, một số hóa chất chứa đồng vị phóng xạ hay bức xạ dùng để trị liệu cũng không được lưu tâm đến vấn đề an toàn.

Trong quá khứ, vào tháng 10 năm 2002, tại công ty Nhà Máy Tàu biển Hyundi-Vinashin ở Khánh Hòa cũng đã xảy ra thất thoát nguồn phóng xạ gamma có hoạt độ 42,45 mCi. Và tháng 12 năm 2003, Cty cổ phần Ciment Việt Trung, Hà Nam cũng đã đánh mất nguồn phóng xạ Cs-137 dùng để đo mức xả tự động của lò clinker. Cho đến nay, hai sự thất thoát nầy vẫn chưa có thông tin công bố tìm lại được nguồn phóng xạ trên. Cũng như Cty Ciment Sông Đà vừa treo giải thưởng 10 triệu đồng cho người tìm thấy nguồn phóng xạ bị mất vào ngày 30/7/2002.

2. Chất phóng xạ


Chất phóng xạ và những tia bức xạ đã hiện hữu trước khi loài người có mặt trên trái đất nầy. Chúng hiện diện trong đất, đá, cây cỏ, không khí qua các tia bức xạ phóng chiếu từ mặt trời. Nồng độ của phóng xạ trong môi trường thay đổi từng vùng địa chất. Phổ biến nhất là các đồng vị phóng xạ Kalium40, Uranium238, Thorium232, và Radium220. Đó là những phóng xạ có trong thiên nhiên. Đó là phóng xạ tự nhiên. Tuy nhiên, trên thế giới qua gần một thế kỷ phát triển công nghệ hạch nhân, chất phóng xạ nhân tạo dược hình thành trong nghiên cứu, chữa trị, và các công nghiệp sản xuất. Đó là những đồng vị phóng xạ của các kim loại như Ceasium, Strontium, và khí Hydro nặng (H3).

Phóng xạ Alpha không nguy hiểm vì không có khả năng tiếp cận các tế bào sống trong cơ thể. Phóng xạ Beta và Gamma là những nguồn nguy hiểm nhất vì chúng có thể xâm nhập vào da và làm hỏng các tế bào phía dưới da.

Chất phóng xạ trong thiên nhiên có thể xâm nhập vào con người qua da, hoặc đường tiêu hóa hay hơi thở. Còn phóng xạ nhân tạo xâm nhập vào cơ thể qua các phương cách trị liệu. Sự tác động của phóng xạ vào cơ thể qua nhiều loại bức xạ khác nhau như tia alpha, beta, gamma. Mức tác động của bức xạ lên con người được tính bằng đơn vị mSilvert (hay ký hiệu mSv), hay pico Curie (ký hiệu (pCi).

Một số người lo lắng rằng tia X không an toàn vì bức xạ phát xuất trong quá trình chẩn bịnh có thể gây ra các đột biến tế bào có thể dẫn đến ung thư. Hàm lượng phóng xạ đang tiếp nhiễm trong suốt quá trình chụp quang tuyến X phụ thuộc vào mô hoặc bộ phận đang được chẩn đoán.

Theo Ủy ban An toàn Bức xạ Quốc tế, liều lượng giới hạn cho phép được tiếp nhiễm các loại bức xạ trong một năm là 1 mSv; điều đó có nghĩa là trong vòng một năm, mỗi người dân bình thường không nên nhận một liều lượng bức xạ nhân tạo quá 1 mSv. Sở dĩ có mức giới hạn cho phép trên là Ủy ban đã xuyên qua tính xác suất và đưa ra kết luận như sau, nếu có một triệu người bị chiếu xạ bởi một liều phóng xạ có cường độ 1 mSv thì có 40 người có nguy cơ bị ung thư.

Trong không khí, khí Radon là một đồng vị phóng xạ tự nhiên của chuổi hóa chất Uranium238 như Radon222, và Radon119 đến từ chuổi Uranium235. Radon222 có nguy cơ tiếp nhiễm rất cao, vì thời gian bán hủy của chúng là 3,8 ngày, trong lúc đó, các đồng vị thông thường trong thiên nhiên có thời gian bán hủy chi một vài giây mà thôi. Do đó, Radon 222 là chất phóng xạ có nguy cơ tạo ra ung thư phổi rất cao. Theo tiêu chuẩn của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IAEA), nồng độ khí Radon cơ thể chúng ta có thể tiếp xúc trong một năm không quá 2 đến 2,5 pCi. Ngoài ra, Radon còn tìm thấy trong các vật liệu xây dựng có nguồn gốc như đá granite, trong đất sét, các nguyên vật liệu làm nhà cửa lấy từ gốc than đá.

Hiện nay, trên thế giới, có nhiều nơi có mật độ phóng xạ thiên nhiên cao như Ramsar (Iran), Kerale (Ấn Độ), Guarpapi (Brazil), và Yanjang (Trung Quốc). Nhiều nơi có độ bức xạ lên đến 130 pCi/năm.

Ở Việt Nam có một số vùng có bức xạ lên đến 4 pCi/năm. Đặc biệt, tại huyện Thanh Sơn, Phú Thọ, Cục Kiểm soát và An toàn Bức xạ đã lấy nhiều mẫu đất và đo đạc vào tháng 9/2010, đã khám phá rằng mức phóng xạ là 10,27 mSv/năm, gấp 10 lần mức phóng xạ trung bình mà một người dân bình thường tiếp nhận trong một năm.

3. Nguy cơ tiếp nhiễm do phóng xạ tự nhiên hay phóng xạ nhân tạo

Các triệu chứng do ảnh hưởng của sự tiếp nhiễm phóng xạ trong trường hợp nặng là chết tức khắc. Sau đó, các chứng sau đây xảy ra từ nặng đến nhẹ như: Buồn nôn và ói mửa - Chảy máu - Tiêu chảy ra máu - Bong tróc da (Sloughing of skin) - Rụng tóc - Mệt mỏi trầm trọng - Loét miệng v.v…

Tại Việt Nam hiện có Cục Kiểm soát và An toàn Bức xạ (KSATBX) trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ. Còn Pháp lệnh An toàn và Kiểm soát Bức xạ đã được ban hành vào năm 1996. Xuyên qua các tai nạn thất thoát kể trên đây, Cục KSATBX đã gửi công văn cho các Sở KH&CN địa phương yêu cầu kiểm soát nguồn phóng xạ thường gặp trong công tác tháo gỡ mức xả tự động trong công nghệ ciment (các sensor đóng mở trong chu trình nầy đòi hỏi thật chính xác, do đó thiết bị được điều chỉnh tự động bằng “điện tử”). Cục cũng yêu cầu các cơ quan quản lý nguồn phóng xạ cần phải học tập Pháp lệnh an toàn bức xạ cũng như Nghị định 51 về xử phạt khi vi phạm.

Ngoài ra, vào năm 2006, Cục KSATBX và Viện Battelle Memorial thuộc Cơ quan Quản lý Hạch nhân của Hoa Kỳ đã ký thỏa thuận hợp tác tham gia "Chương trình giảm thiểu nguy cơ phóng xạ toàn cầu"(IRTR). Chương trình có mục đích nhằm giảm thiểu nguy cơ sử dụng nguồn phóng xạ gây hại cho sức khỏe con người và ảnh hưởng lên môi trường.

Đây cũng là một vấn đề thuộc lãnh vực an ninh các nguồn phóng xạ, và hiện nay, được các chuyên gia quốc tế chú ý sau khi phát hiện một số hoạt động khủng bố có ý định sử dụng "bom bẩn". Những quả bom bẩn nầy được chế từ các nguồn phóng xạ có thể phát tán ra các bức xạ có thể gây ra tử vong, hoặc ô nhiễm phóng xạ tại các vùng đông dân cư hay khu công nghiệp, hoặc gây nên sự hoảng sợ và bất ổn trong dân chúng.

Theo thỏa thuận trên, Hoa Kỳ qua Bộ Năng lượng sẽ viện trợ kỹ thuật không bồi hoàn cho Việt Nam nhằm tăng cường bảo vệ tại những cơ sở xạ trị, trung tâm chiếu xạ, và cơ sở lưu giữ chất thải phóng xạ. Trước đó, hai bên đã đồng phối hợp tổ chức một buổi hội thảo dưới chủ đề "Bảo vệ thực thể và quản lý an ninh các nguồn phóng xạ". Cho đến hôm nay, người viết vẫn chưa biết được, sự việc đã được thực hiện hay chưa?

Ngoài biện pháp xử lý, kiểm soát, và khám mức ô nhiễm lên môi trường và con người, hiện nay (2-17), Bộ KH&CN đang tiến hành tổng kiểm tra công tác quản lý và sử dụng nguồn phóng xạ tại 117 cơ sở sản xuất có nguồn phóng xạ đã đăng ký hay chưa đăng ký, cũng như kiểm soát nguồn phóng xạ trên toàn quốc. Nói như vậy, nhưng sự thực như thế nào, cũng không dám khẳng quyết!

4. Một số đề nghị

Như tất cả chúng ta đều biết, nguy cơ và ảnh hưởng của những chất phóng xạ lên con người xảy ra tùy theo mức độ tiếp nhiễm:

- Gọi là cấp tính, nếu con người bị tiếp nhiễm trực tiếp một liều lượng bức xạ cao, có thể gây ra tử vong.

- Gọi là mãn tính, tùy theo thời gian bị tiếp nhiễm lâu dài nhiều khi kéo dài hàng chục năm dưới một liều lượng nhỏ nhưng thường xuyên.

Theo thống kê năm 2014 của Cục Kiểm soát và An toàn Bức xạ hạch nhân, trên toàn quốc có 2000 máy quang tuyến X để dùng chẩn đoán bịnh trong ngành y tế, 14 máy xạ trị Cobalt 60, 4 máy gia tốc để tách đồng vị, 524 nguồn xạ trị áp sát các bộ phận trong cơ thể bịnh nhân, và hơn 300 nguồn phóng xạ dùng để kiểm soát trong các công nghệ như than và ciment.

Hy vọng, các số liệu chính xác trên sẽ giúp cho các cơ quan quản lý dễ dàng kiểm soát phẩm chất và số lượng phóng xạ nếu có sự bất trắc xảy ra. Do đó, tình trạng tiếp nhiễm cấp tính khó có cơ hội thành hình ở Việt Nam.

Tuy nhiên, vì trong thiên nhiên và một số vật liệu xây dựng trong nhà ở có chứa một số bức xạ, như gạch men Đà Nẵng, gạch men nâu, đá granite có hàm lượng thay đổi từ 0,6 đến 1,22 mSv/năm. Điều đó có thể gây tác hại cho người sống thường xuyên trong nhà được xây dựng bằng những vật liệu trên.

Thêm nữa, trong môi trường sống của chúng ta hiện tại, có khoảng 80% bức xạ tự nhiên do khí Radon từ thiên nhiên góp phần vào. Do đó, biện pháp an toàn hay nhất là làm thế nào để giảm thiểu tối đa việc tiếp nhiễm trong điều kiện sinh sống hàng ngày, nghĩa là nhà phải thoáng khí để các nguồn phóng xạ không tích tụ nhiều trong nhà.

Và sau cùng, lời khuyên của những chuyên gia quốc tế về an toàn bức xạ hạch nhân là nguyên lý ALARA tức là As Low As Reasonable & Achievable, được tạm dịch là cần phải giảm thiểu càng nhiều càng tốt.

5. Nhiễm độc phóng xạ ở Việt Nam


Nhiễm độc phóng xạ là gì? Đó là do tiếp xúc quá trực tiếp một hàm lượng bức xạ ion hoá hoặc ion-hóa hoặc không-ion-hóa nào đó. Phóng xạ vào miệng hoặc cổ họng, hoặc các bộ phận của hệ tiêu hóa (như dạ dày hoặc ruột) có thể ảnh hưởng trực tiếp trong vấn đề ăn uống và tiêu hóa. Ví dụ, bạn có thể bị loét miệng hoặc cổ họng, buồn nôn, nôn mửa, hoặc ăn mất ngon.

Nếu, liều lượng phóng xạ lớn hơn, có thể gây ra các tác hại như buồn nôn và nôn. Và trầm trọng hơn nữa là gây ra những cái chết từ từ theo thời gian qua sự đột biến của DNA trong cơ thể. Đây là trường hợp ám sát bằng phóng xạ.

Nhiễm độc phóng xạ ở Việt Nam không còn là một vấn nạn trong phạm vì một nhà máy sản xuất, hay một bệnh viện, hoặc trung tâm nghiên cứu, mà hiện nay nguy cơ nầy có thể lan rộng ra thành một khu vực rộng lớn một khi nhà máy điện hạch nhân thành hình ở Ninh Thuận cũng như việc khai quật quặng mỏ Uranium ở Cao nguyên Trung phần Việt Nam do Trung Cộng khai thác trở thành hiện thực.

Đây là một cảnh báo quan trọng, mong tất cả các nhà làm khoa học trong và ngoài nước tiếp tục nêu lên những thảm trạng có thể xảy ra qua việc sử dụng nguồn phóng xạ, cũng như khuyến cáo và ngăn chận những đề án trong đó có nguồn phóng xạ góp dự phần vào ngõ hầu giúp đỡ người dân thấp cổ bé miệng có thể tránh được những tai nạn xảy ra trong một tương lai không xa.

Cũng không quên nhắc đến, việc nhiễm độc phóng xạ cũng do chính con người tạo ra. Những cái chết mờ ám trong xã hội trong thời cộng sản quốc tế ngự trị như Liên Sô, Ukraina, Trung Cộng và nhất là ở Việt Nam trong những năm gần đây, những cái chết của Nguyễn Bá Thanh, cựu Bí thư Đà Nẵng, tình trạng sức khỏe của Phùng Quang Thanh, và “việc mất tích” của Đinh Thế Huynh, người đúng thứ 5 trong Bộ Chính trị sẽ được CSVN giải thích như thế nào đây? Phải chăng những cái chết bí mật (?) trên chỉ là để dọn đường cho Nguyễn Phú Trọng ở lại ngôi vị Tổng Bí Thứ cho hết nhiệm kỳ?

Và còn bao nhiêu cái chết do việc đầu, độc giết người âm thầm do phóng xạ vẫn còn nằm trong bóng tối do âm mưu triệt hạ lẫn nhau vì quyền lợi và quyền lực của đảng CSVN?

Hội Bảo vệ Môi trường Việt Nam (VEPS)


Mai Thanh Truyết
danlambaovn.blogspot.com