Tiếw việt mới: Pgs – ts bùi hiền tên “đặc công văn hóa”” của bọn chệt bắc kinh




Trong thời gian vừa qua, dư luận tiếp tay ném đá đề xuất cải tiếng chữ Việt của PGS-TS Bùi Hiền. Rất nhiều ý kiến phản đối gay gắt ý tường sáng tạo ra một kiểu chữ mới. Nhỉều chuyên gia giáo sư, nhà nghiên cứu văn hóa nổi tiếng trong và ngoài nước phản bác với đề xuất “quái đản” này. Tuy nhiên, trước dư luận bất bình, phản ứng dữ dội của các nhà nghiên cứu, sinh viên học sinh…Nhưng, PGS-TS Bùi Hiền với sự ủng hộ của TS Đoàn Hương tiếp tục ngoan cố bảo vệ quan điểm của mình. Mục đích của PGS-TS Bùi Hiền là hủy diệt “văn hóa truyền thống” dân Việt theo lệnh của bọn Chệt Trung Nam Hải. Ông ta muốn chuyển chữ viết quốc ngữ và phát âm tiếng Việt mới cho giống tiếng Chệt nhằm đốt giai đoạn “Hán hoá” cho nhanh chóng. Phải chăng ông ta và bà Đoàn Hương nhất quyết cải tiến tiếng Việt cho giống phiên âm Ping Ying kiểu tiếng Chệt để ngôn ngữ Việt hội nhập nhanh chóng và dễ dàng với tiếng Chệt.

Liên quan đến vấn đề này, mới đây trên trang cá nhân của mình, GS-TS Trần Đình Sử thẳng thắng lên tiếng phản bác PGS-TS Bùi Hiền: “Đề xuất của ông có tính hủy hoại Văn Hóa.” ông viết: “Tôi đã định không phát biểu về đề nghị tào lao, có hại của ông Bùi Hiền, nhưng thấy một số người vẫn khuyến khích ông ấy và ông ấy quyết tâm làm đến cùng nên phải nói đôi lời, nhân có một phóng viên phỏng vấn. Ông Hiền không hiểu cái chữ mà ông ấy đề xuất sẽ có hại thế nào đối với chữ viết Việt Nam,” chỉ cần nói thế này là rõ: “Nếu cái chữ của ông ấy mà được thông qua, thì toàn dân Việt Nam đang thoát nạn mù chữ lại mù chữ trở lại. Toàn bộ sách báo hơn một trăm năm qua không thể đọc được, muốn đọc phải học lại chữ cũ, hoặc lại phải phiên dịch lại theo chữ viết mới, mới đọc được. Thế là cắt đứt các mọi liên hệ với văn hóa mà người Việt đã tích lũy được trong hơn một thế kỷ. Người Việt ở các nước trên thế giới đều phải học lại tiếng Việt.” Ông kết luận: “MỘT ĐỀ XUẤT CÓ TÍNH HỦY HOẠI VĂN HÓA”.

VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG, CÁI KHIÊN BẢO VỆ NÒI GIỐNG:

Văn hóa truyền thống là gì? Định nghĩa theo triết gia Alfred Krober dùng đám san hô tĩnh lặng dưới đáy biển sâu thẳm để định nghĩa và diễn tả cái cấu trúc biến chuyển không ngừng của cái văn hóa truyền thống của một dân tộc, thật tuyệt vời như sau:

“Văn hóa được tạo thành như đám san hô,

Lớp san hô mới này nằm trên lớp san hô cũ

Năm tháng trôi dần qua…”


Theo Cliffford Geertz, tác giả quyển sách nổi tiếng “The Interpretation of Cultures” xuất bản năm 1973, phân tách văn hóa như: “Những mạn tơ ý nghĩa do chính con người dệt chằng chịt xung quanh mình để rồi bị vướng mắc vào trong đó.” (Webs of signifiance which man himself has spun and in which he is suspended) đã nói lên đầy đủ ý nghĩa rằng: “Giá trị đặc thù của một nền văn hóa nằm bên trong hệ thống đã sản sinh ra nó.”

Theo Edward B. Tyler: “Văn hóa là những năng khiếu và tập quán thủ đắc bởi con người với tư cách là một thành viên trong xã hội”. Tyler đồng hóa văn hóa với “văn minh” (civilization).

Theo K.H. Lowie: “Văn hóa là tất cả những gì mà cá nhân tụ đắc từ xã hội của mình như một “di sản” của quá khứ, chớ không phải do cố gắng của bản thân”. Lowie đã đồng hóa văn hóa với “tập quán truyền thống” (traditions).

Theo nhà xã hội học Talcott Parsons viết trong tác phẩm “The Social System” rằng: “Cơ cấu của một xã hội gồm những sắc thái “văn hóa đặc thù” của xã hội đó như tín ngưỡng, phong tục, tập quán, ngôn ngữ…được hệ thống hóa thành cơ cấu xã hội; đồng thời những thành viên trong xã hội đó, tự mình hấp thụ những sắc thái văn hóa, mặt khác được xã hội hóa, tự mình hấp thụ những sắc thái văn hóa, mặt khác được xã hội hóa để chấp nhận những cơ cấu xã hội nói trên”. Parsons đồng hóa “văn hóa” với “cơ cấu xã hội” (social system).

Theo ông Thái văn Kiểm, một học giả VN, đã viết một khảo luận đặc sắc: “Le traits fondamentaux de la civilization Vietnamiene” đăng trong tập san Văn Lang tháng 12/1995. Ông viết: “Ảnh hưởng của những điều kiện lịch sử, khí hậu và địa lý, nhu cầu và ý chí đấu tranh liên tục để tồn tại, sự nể trọng giá trị tinh thần và đạo lý, bẩm sinh say mê thi phú, tập quán dân chủ lâu đời, quy chế tự trị làng xã…”. Ông Thái văn Kiểm đã đồng hóa “VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG” với “LỊCH SỬ ĐẤU TRANH” kiên cường và bất khuất của dân tộc Việt Nam trước kẻ thù truyền kiếp dân tộc từ phương Bắc để tồn tại cho đến ngày hôm nay.

Tóm lại: Văn hóa truyền thống đó là bản sắc riêng của dân tộc là một hệ thống giá trị tín ngưỡng, phong tục tập quán, ngôn ngữ lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và mỗi cá nhân trong xã hội đó đều góp phần vào việc bảo vệ nền văn hóa truyền thống của dân tộc mình.

SỨC MẠNH CỦA NỀN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC:

Theo GS Ali A. Mazrui, học giả gốc Kenya, viết trong cuốn “Cultural forces in World politics” xuất bản năm 1944 tại London, đã chứng giải rằng: “Ý thức hệ (Ideology) và kỷ thuật (technology) cả hai đều bắt nguồn từ “văn hóa” (culture). Ông Mazrui còn đi xa hơn nữa, quả quyết rằng: “Một nền văn hóa hùng mạnh là một cái khiên bảo vệ tự do” (The power of culture is a protective shield for freedom). Sau Thế chiến II, sự trỗi dậy của Nhật Bản từ đám tro tàn của chiến tranh đã minh chứng một cách hùng hồn về quan điểm này của học giả Ali A. Mazrui.

Từ năm 1968, Nhật Bản xác quyết rằng: “Một quốc gia có thể du nhập “kỷ thuật” phương Tây mà không cần du nhập “văn hóa ngoại bang”. Nước Nhật đã áp dụng công thức nầy để canh tân đất nước Phù Tang: “ Kỷ nghệ phương Tây + Văn hóa truyền thống Nhật Bản” và chưa đầy 2 thập niên sau đó, dân Nhật lại trỗi dậy thành cường quốc kinh tế số 2 hoàn vũ, chỉ đứng sau Hoa Kỳ.

Sức mạnh của nền “văn hóa truyền thống dân tộc” là sức mạnh nội lực vô địch để dân tộc đó dựng nước và giữ nuớc mà nước Nhật Bản là bài học thực tế vô giá. Vì vậy, sau khi cưỡng chiếm và áp đặt ách thống trị đượcc một nước nào thì mục tiêu hàng đầu của bọn thống trị là phải tiêu diệt cho bằng được nền văn hóa truyền thống của dân tộc đó, làm cho họ mất dần bản sắc dân tộc đó để mới dễ bề đồng hóa. Việt Nam là một thí dụ điển hình:

Vào đầu thế kỷ thứ 15, sau khi nhà Minh đặt ách thống trị Việt Nam đã có ý đồ cực kỳ thâm độc là muốn tiêu diệt toàn bộ nền “văn hóa tuyền thống” dân tộc ta, để dễ dàng đồng hóa. Minh Thành Tổ ban hành “3 chỉ dụ” gởi cho các tướng sĩ và quân Minh sang xâm lăng và đô hộ nước ta vào thời đó:

[1] Chỉ dụ thứ nhất (ban hành ngày 21/8/1406): Bắt hết thợ thuyền và người tài giỏi mang về Trung Hoa. Đốt hết toàn bộ kinh sách, ca lý nhân gian, sách giáo dục trẻ, phá hủy các mộ bia thuộc về di tích lịch sử…

[2] Chỉ dụ thứ hai (ban hành ngày 16/6/1407): Nay nghe nói, những sách vở do quân sĩ bắt được, không ra lệnh đốt ngay, phải xem trước rồi mới đốt. Từ nay, các ngươi phải thi hành đúng những lời chỉ dụ đã ban hành trước. Hễ thấy sách vở, văn tự ở bất kỳ nơi nào là phải đốt sạch ngay, không được lưu lại.

[3] Chỉ dụ thứ ba (ban hành ngày 24/6/1407): Một lần nữa, Minh Thành Tổ lại ra lệnh cho các tướng sĩ phải triệt để thi hành chánh sách tiêu diệt nền văn hóa truyền thống Việt Tộc. Năm 1479, tên Ngô Sĩ Liên viết trong bài biểu dâng sách “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” như sau: “Giáo mác đầy đường, đâu chẳng là giặc Minh cường bạo, sách vở cả nước đều trở thành một đống to tàn”.
TẠI SAO HCM & ĐCSVN MUỐN TIÊU DIỆT NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM:

Nhân loại bước vào thế kỷ XX. Mao Trạch Đông khôn ngoan và mưu mô xảo quyệt hơn tổ tiên của hắn gắp trăm lần. Mao không cần sử dụng Hồng Quân sang xâm lược Việt Nam, tiêu diệt nền văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, như đã từng làm đối với dân tộc Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông, Mãn Châu. Mao Trạch Đông đã sử dụng tên Việt gian Hồ Chí Minh thất học, ngu dốt từng bước làm công việc này thay cho Mao.

Trong 1.000 năm bị Rợ Hán đô hộ và sau 100 năm bị giặc Pháp cai trị. Dân tộc Việt Nam chưa ai lẫn lộn căn cước. Dân Việt Nam vẫn là người Việt Nam. Nhưng từ khi tên gian tặc HCM thi hành độc kế của Mao, đem nền “VĂN HÓA XƯỞNG ĐẺ”, học thuyết “Duy vật” Marxism – Leninism du nhập vào VN đã tạo nên một thế hệ thanh niên VN miền Bắc XHCN lẫn lộn căn cước và vong bản.

Tên gian tặc HCM & ĐCSVN đã từng bước tấn công trực diện, phá nát nền “Văn hóa truyền thống” Việt tộc để mở đường cho bọn lãnh đạo Trung Nam Hải kế tục sự nghiệp của Mao thực hiện giấc mộng hoang tưởng là muốn “Hán Hóa Việt Tộc”. Đây là chiêu hết sức thâm độc của Mao mà tên HCM & ĐCSVN ăn hại đái nát thừa hành.

Cổ nhân nói rằng: “Làm thầy thuốc sai lầm chỉ giết chết một người. Làm chánh trị sai lầm tiêu vong cả một thế hệ. Làm văn hóa sai lầm di hại đến nhiều thế hệ”. Phải nói lên điều này, mới lột trần hết tội ác của tên gian tặc HCM và ĐCSVN đã từng bước gây nên đại thảm họa cho dân tộc VN cho mãi đến tận bây giờ.

BUỚC THỨ NHẤT:

Trong chiến dịch cải cách ruộng đất (1954-1956), tên HCM đã đào tận gốc, trốc tận rễ môi quan hệ thiêng liêng giữa cha con, chồng vợ, anh em, giữa con người đối với con người nhằm thay đổi con người VN trở thành con người XHCN “vô tổ quốc”, “vô gia đình”, “vô tổ quôc” được tên thi sĩ bưng bô Tố Hữu thể hiện qua những bài thơ vong bản, phủ nhận công đức sanh thành của cha mẹ:

“Stalin! Stalin!

Yêu biết mấy khi con tập nói

Tiếng đầu lòng con gọi Stalin

Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương mình thương một, thương ông thương mười.

Dưới sức ép của những của những tên cố vấn Tàu Cộng, HCM & ĐCSVN gây áp lực các thành viên trong gia đình đấu tố lẫn nhau, con tố cha mẹ, vợ tố cáo chồng, họ hàng đấu tố lẫn nhau, ép buộc con gái các địa chủ lấy bần cố nông, vợ các địa chủ bị ép lấy cán bộ cộng sản đã làm cho biết bao nhiêu gia đình tan nát nhằm triệt tiêu nền tảng gia đình, mối quan hệ tự trị làng xã là tế bào gốc của nền “văn hóa truyền thống” dân tộc, hạ tầng cơ sở của xã hội bị đào xới tận gốc. HCM gọi đó là “đấu tranh giai cấp”, một lối trả thù đẫm máu, tàn nhẫn và khốc liệt.

Chưa hết, tên gian tặc Hồ Chí Minh và Trường Chinh mất hết nhân tính, phóng tay thảm sát hàng chục vạn đống bào ruột thịt theo lệnh của quan thầy MAO. Cho tới nay, chính ĐCSVN vẫn chưa biết chính xác số người chết trong phong trào CCRĐ là bao nhiêu? Nhưng, người ta nghĩ một con số ghê rợn. Một nguồn tin cho biết, cuộc thảm sát tập thể này lên đến mấy trăm ngàn người. Phân tích theo Machiavel, gọi đó là sự “tàn sát điên rồ” (cruautés malpratiquées), giết người để thỏa mãn thú tính bệnh hoạn của Mao – Hồ, chứ không phải vì nhu yếu chính trị.

“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ

Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong

Cho Đảng bền lâu cùng rập bước chung lòng

Thờ Mao chủ tịch, thờ Stalin bất diệt”.


Đây là thời đại của những tên đồ tể lên ngôi: Stalin giết dân Nga, Mao Trạch Đông giết dân Tàu, Hồ Chí Minh giết dân Việt…Đó là đỉnh cao của thời đại đại gian, đại ác, bất nhân, vô đạo…Trong cuốn “Kinh bổn Cách mạng” (Cathechisme révolutionnaire) của Netchaev, viết rằng: “Chỉ biết có cách mạng, cách mạng thay thượng đế. Lấy luật lệ cách mạng làm nguyên tắc sống, lấy sức mạnh sắt thép hoạt động. Người cách mạng không còn tình cảm, liên hệ riêng tư nữa…” Vì vậy, các chế độ cộng sản toàn trị trên thế giới giết nguời khủng khiếp hơn bọn Nazi và dã man tàn bạo hơn cả bọn Fascist. Có một thời cổ máy xây thịt người khổng lồ chạy bằng máu đã ngốn hết của nhân loại trên hàng trăm triệu người. Riêng tại VN, tên giặc HCM & ĐCSVN đã cống hiến máu của trên 200 triệu người VN để cho cổ máy nầy chạy đều.

BƯỚC THỨ HAI:

Triệt phá các công trình văn hóa lịch sử như đập phá đình chùa, miếu mạo, lăng tẩm được Hồ & ĐCSVN thực hiện công khai và quy mô trên toàn quốc có tính toán, phát động chiến dịch đào mồ cuốc mả tổ tiên mà trong đó có nhiều vị anh hùng dân tộc. Trong bài phóng sự “Tiếng kêu cứu một vùng văn hóa”, ông Võ Văn Trực, một cựu đảng viên ĐCSVN, đã mô tả nỗi kinh hãi, đau xé ruột gan khi thấy những di tích lịch sử ở khắp quê ông bị đập phá không thương tiếc do một đám thanh niên mới lớn lên trong thời kỳ cải cách ruộng đất.

Về việc phá hoại các di tích lịch sử dưới mắt của một chuyên gia Ba lan đã phát biểu: “Hiếm có một đất nước nào như VN, làng nào cũng có đình chùa miếu mạo là mặt biểu hiện của nền văn hóa dân tộc. Lạ thay, nền văn hóa ấy đã và đang bị hủy hoại”. Sự đập phá ấy diễn ra từ trong lòng Thủ đô Hà Nội lan ra toàn quốc. Ở Nghệ An, trong thời kỳ “cởi trói” cho văn nghệ sĩ 1987, một cán bộ văn hóa của tỉnh nói mỉa mai rằng: “Về cơ bản, tỉnh nhà đã pá xong những di tích lịch sử”. Đó là lời nói của một cán bộ CS làm công tác văn hóa.

Phá sạch sẽ những đình chùa, miếu mạo…những biểu tượng của nền “văn hóa dân tộc” là hủy diệt truyền thống đạo lý, nhân nghĩa làm biến dạng khuôn mặt phúc hậu của hệ thống làng xã VN là hạ tầng cơ sở vững chắc để bảo tồn và duy trì sức sống của dân tộc mà biết bao nhiêu thế hệ cha ông đã đổ xương máu vun đắp. Bao nhiêu tầng cao văn hóa được xếp lên với chiều cao trải qua hơn 4.000 năm lịch sử như một một lớp san hô mới nằm chồng lên lớp san hô cũ năm tháng trôi dần qua…bỗng đổ vỡ tan tành.

Hèn hạ hơn cả là việc lén lút, giấu mặt để bè đảng Việt gian đào mổ mả, phá đền thờ các vị vua của nhiều triều đại trước đây. Những cuộc tấn công đầu tiên nhắm vào các vị anh hùng dân tộc, nỗi tiếng như vua Trần Nhân Tông, Lê Đại Hành, Hai Bà Trưng…Rõ ràng, điều này chứng tỏ Hồ Chí Minh đích thực là thiếu tá Hồ Quang của QĐNDTQ đã có thù hận ghê gớm với lịch sử Việt Nam, cho nên HCM và đồng bọn đã đập phá tàn bạo, hủy diệt các di tích lịch sử của đất nước chúng ta. Điển hình như di tích nơi vua Trần Nhân Tông tịch ở Am Ngọc Vân phía Tây núi Yên Tử ở độ cao 1.000 thước, nơi vị vua anh hùng dân tộc đã lãnh đạo đất nước, oanh liệt chống giặc Nguyên.

Trong lịch sử 4.000 năm dựng nướcc và giữ nước, đã sản sinh ra những anh thư, anh hùng hào kiệt như Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trân Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ….Những vị đại anh hùng kiệt xuất đã giúp giống nòi Việt Tộc trường tồn mà ngày hôm nay đã bị tên Việt gian HCM và bọn côn đồ ĐCSVN đào mồ, cuốc mả, phá đền thờ, miếu mạo, lăng tẩm…Đây là đòn xâm lược vô cùng thâm độc của Mao Trạch Đông và bọn lãnh đạo Trung Nam Hải mà tên quái vật Hồ Chí Minh và đến bọn lãnh đạo ĐCSVN hiện nay là những tên thừa hành”.

Ngày hôm nay, những ai còn có lòng yêu quê cha đất tổ, khi có dịp đứng trước những địa danh lịch sử lẫy lừng như sông Bạch Đằng, sông Như Nguyệt, rừng núi Lam Sơn, gò Đống Đa…mà tổ tiên anh hùng của chúng ta đã oanh liệt đập tan quân Tàu xâm lược. Chính những địa danh lịch sử vô giá nầy đã và đang làm chuyển dộng lòng yêu nước vô bờ bến của giống nòi Việt Tộc qua nhiều thế hệ. Chúng ta sẽ cảm nhận hình bóng của tiền nhân cùng với hồn thiêng sông núi còn phảng phất trên sông núi, biển cả mênh mông…

Dòng lịch sử đấu tranh kiên cường bất khuất của dân tộc VN chống bọn xâm lược phương Bắc vẫn tồn tại thiên thu vạn cổ, xuyên suốt 4.000 năm từ thời Vua Hùng dựng nước và giữ nước. Danh tướng Ngô Quyền, vị đại anh hùng dân tộc, đã chấm dứt thời kỳ bị người Tàu thống trị hơn 1.000 năm, khôi phục nền độc lập dân tộc, giành lại chủ quyền lãnh thổ.

BƯỚC THỨ BA:

Ngay sau khi cưỡng chiếm MNVN, việc làm ưu tiên của ĐCSVN là tiêu hủy toàn bộ nền văn hóa truyền thống của VNCH. Chúng ra lệnh niêm phong, tịch thu sách báo tại các thư viện. Những sách báo của các nhà xuất bản và nhà sách lớn tại Sài Gòn như Khai Trí, Sống Mới, Tiếng Chuông, Tiền tuyến…đều bị niêm phong và cấm lưu hành.

Sau đó là đốt sách, những cảnh tượng tang thương vào tháng 5/1975 ở Sài Gòn. Có khoảng 180 chục triệu cuốn sách đủ loại ở MNVN nằm trong danh sách phải bị tiêu hủy và có khoảng 2.500 nhà sách trên toàn MNVN bắt buộc phải đóng cửa. Sách báo của nhà sách Khai Trí bị vứt bừa bãi trên mặt đường phố Lê Lợi, nó bọc lộ hết cái bản chất ngu dốt, tàn bạo, thất học của bọn CSBV để phù hợp với những chuyển đổi quyền lực chính trị từ chế độ “tự do-dân chủ” của MNVN, sang chế độ cộng sản “độc tài – toàn trị”.

Tên các con đuờng ở Sài Gòn và 18 tỉnh thành ở MNVN đuợc đặt theo tên của các nhân vật lịch, anh thư, anh hùng hào kiệt đã có công dựng nước và giữ nước từ thời vua Hùng Vương, Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn và các nhà lãnh đạo các cuộc kháng chiến chống Pháp và kẻ thù truyền kiếp của dân tộc từ phương Bắc. ĐCSVN ra lệnh xóa sạch hầu hết các tên đường này và thay vào đó là tên các nhân vật lãnh đạo đảng hoặc công với đảng như Lê Duẩn, Trường Chinh, Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai…

Trong những năm sau biến cố 30/4/1975, ĐCSVN ra chỉ thị: “Phải nhổ tận gốc rễ những nọc độc về tư tưởng văn hóa thực dân mới mà đế quốc Mỹ đã gieo trồng ở MNVN. Đó là thứ văn hóa nô dịch, lai căn, đồi trụy cục kỳ phản động cùng những hủ tục, mê tín, dị đoan lan tràn.”

Cụ Vuơng Hồng Sển, nguyên Giám Đốc Viện Bảo Tàng VN, rất đau lòng chứng kiến cảnh phá hoại tang thương trước việc bạo quyền CS tàn phá những di vật cổ xưa vô giá của tiền nhân. Tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN đã cướp giựt biết bao nhiêu cổ vật vô giá và phá hủy bao nhiêu di tích lịch sử của dân tộc, thay vì gìn giữ, bảo vệ chu đáo trong Viện Bảo Tàng Quốc Gia lại bị giành giựt đem bán, vàng bạc được nấu chảy thành của riêng.

BƯỚC THỨ TƯ:


Bước này là bưóc quyết định do tên quái thú PGS – TS Bùi Hiền vâng lệnh quan thầy Trung Nam Hải tấn công trực diện, triệt tiêu tận gốc rễ nền văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam bằng âm mưm bẩn thỉu là “đề xuất cải tiến chữ viết tiếng Việt” để phù hợp với phát âm tiếng Việt sao cho giống tiếng “Ping Ying” của Chệt, nhằm đốt giai đoạn “HÁN HÓA” cho nhanh chóng. Nhìn vào ký tự của Bùi Hiền, chúng ta đều thấy rõ “những phát âm tiếng nói Việt mới” bị cải tiến theo cách Ping Ying na ná tiếng Chệt. Phải vạch mặt PGS – TS Bùi Hiền và TS Đoàn Hương là những tên “đặc công văn hóa” tay sai của bọn chệt Trung Nam Hải.

Tiện đây, tôi cũng xin phản bác nhận định Thạc sỹ Ngô Thị Kim Chi: “Chúng ta nên trân trọng những nghiên cứu của PGS Bùi Hiền vì ông đã dành hết tâm huyết 20 năm không vì danh lợi mà chỉ vì muốn đóng góp cho sự phát triển của dất nước. Dù nghiên cứu của ông có được sử dụng hay không thì chúng ta cũng nên ủng hộ ông trên tinh thần khoa học và tôn trọng”. Theo lời khuyên của bà, kêu gọi “đám quần chúng” chúng tôi nên ủng hộ những tên “đặc công văn hóa” tay sai của bọn chệt Bắc Kinh, hủy diệt nền “văn hóa truyền thống” dân tộc Việt Nam? Với học vị “thạc sĩ” mà kiến thức của bà thật ấu trĩ và nông cạn thua kém đám quần chúng thất học chúng tôi.

Được biết tên Việt gian Bùi Hiền từng theo học tại ĐHND Tàu Cộng từ năm 1954. Mục đích của Bùi Hiền đưa ra đề xuất cải cách tiếng Việt mới của mình mà hắn ta tự nói là “ngắn gọn” và “tiết kiệm thời gian” và tiền bạc, để che đậy âm mưu đen tối của hắn ta là giúp bọn Chệt Bắc Kinh tiết kiệm thời gian “ĐỒNG HÓA” Việt Tộc cho nhanh chóng, vì theo “Mật ước Thành Đô” thời điểm năm 2020 gần kề, ĐCSVN “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi về dày mả tổ” sẵn sàng biến Việt Nam thành một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương Bắc Kinh như Bắc Kinh đã dành theo quy chế Nội Mông, Tây Tạng, Tân Cương…

TIẾNG TA CÒN THÌ NƯỚC TA CÒN:


Đây là câu trả lời chính xác nhất, tại sao nước Việt Nam không bị các triều đại phong kiến Trung Hoa “đồng hóa” sau hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc. “Đồng hóa dân tộc” (national assimilation) luôn được diễn ra dưới hình thức “đồng hóa ngôn ngữ” đây là chiêu thông dụng nhất, hiệu quả nhất trước khi đồng hóa toàn bộ lịch sử – văn hóa truyền thống của nước thuộc địa. Khi một dân tộc bị mất tiếng mẹ đẻ của mình và phải học nói tiếng của nói của một dân tộc khác thì chắc chắn dân tộc đó sẽ không còn giữ bản sắc dân tộc được nữa. Thế nhưng, trường hợp nước Việt Nam sau hơn 1.000 năm bị bọn phong kiến Trung Hoa thống trị và cưỡng bức đồng hóa, thế mà dân tộc Việt Nam vẫn không bị “Hán hóa”, vẫn giữ được bản sắc dân tộc, vẫn giữ nguyên được nói giống Việt Tộc, ngôn ngữ và phong tục tập quán. Tinh thần đề kháng, kiên trì và vô cùng mãnh liệt của tổ tiên Việt Tộc đã làm ngạc nhiên các sử gia trên thế giới. Trong cuốn “The Smaller Dragon” (Praeger, New York 1958), tác giả Joseph Buttinger đã cho đó là một phép lạ (miracle) khó mà giải thích nổi. Đây quả là một điều kỳ diệu, có lẽ chưa có dân tộc nào khác làm được.

KẾT LUẬN:

Ngôn ngữ là yếu tố quyết định sự thành hình và tồn tại của một dân tộc. Một dân tộc để mất tiếng mẹ đẻ thì có nguy cơ bị tiêu diệt, tan biến vào một nền văn hóa khác, có nghĩa là bị dân tộc khác “đồng hóa”. Nếu giữ được tiếng mẹ đẻ thì dù nước bị mất, nhưng dân tộc đó vẫn không bị tiêu diệt. Điển hình là dân tộc Do Thái dù mất nước 2.000 năm, lang thang, phiêu bạt khắp 5 châu, nhưng nhờ giữ được tiếng Hebrew nên dân tộc Do Thái vẫn tồn tại, cuối cùng tái lập nên quốc gia Israel hùng mạnh.

Riêng tại Việt Nam, trong lễ kỷ niệm ngày sinh đại thi hào Nguyễn Du năm 1924, ông Phạm Quỳnh long trọng thề: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn!” Nói cách khác, ông Phạm Quỳnh thề gìn giữ Tổ quốc ta trường tồn trên lãnh vực ngôn ngữ “Tiếng ta còn, nước ta còn!”, đây là một chân lý bất di, bất dịch đã được dân tộc Việt Nam chứng minh hùng hồn. Trải qua suốt 1.000 năm Bắc Thuộc, nước ta đã trở thành một quận huyện của nước Tàu phong kiến, tổ tiên Việt Tộc của chúng ta nhờ giữ được nguyên vẹn tiếng mẹ đẻ, đó là cái khiên bảo vệ giống nòi kiên cố mà tổ quốc ta vẫn trường tồn đến ngày hôm nay.

Thượng Chi Phạm Quỳnh đã thấu triệt chân lý bất hủ nầy, suốt đời ông phấn đấu thực hiện chân lý nói trên. Ông Phạm Quỳnh thực sự là một học giả yêu nước và tầm nhìn xa hiểu rộng hiếm có của dân tộc VN và trải qua hơn một thế kỷ, tiếng Việt truyền thống là cái “hồn dân tộc” ngày càng được hoàn chỉnh thật tốt đẹp, hoàn mỹ và trong sáng.

Rút kinh nghiệm tích lủy từ các triều đại phong kiến Trung Hoa đã thất bại cay đắng và nhục nhã trong việc muốn “đồng hóa” giống nòi Việt Tộc sau cả ngàn Bắc thuộc. Bọn lãnh đạo Trung Nam Hải muốn đốt giai đoạn “Hán hóa” dân tộc Việt Nam là phải làm thế nào triệt tiêu “ngôn ngữ” tiếng Việt trước. Nhưng, muốn loại bỏ ngôn ngữ của một dân tộc bị họ chinh phục, đó không phải là chuyện đơn giãn và dễ dàng.

Chính vì vậy, bọn lãnh đạo Bắc Kinh phải đào tạo một tên “đặc công văn hóa” làm công việc này thay chúng, đó là tên quái thú PGS – TS Bùi Hiền nằm vùng trong hệ thống giáo dục VNCS cực kỳ thối nát chờ thời cơ. Hắn tung ra sáng kiến “Tiếng Việt mới” đánh phá trực tiếp, phá hoại “văn hóa truyền thống” dân Việt trước thời điểm năm 2020 gần kề. Yêu cầu đồng bào trong và ngoài nước, giới trí thức, sinh viên học sinh… hãy mạnh dạng vạch trần, lột mặt nạ tên “đặc công văn hóa” và đồng bọn tay sai của bọn Chệt Bắc Kinh vô cùng nguy hiểm, đó là tên quái thú PGS – TS Bùi Hiền!!!

tổng hợp và nhận định

NGUYỄN VĨNH LONG HỒ