Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tình yêu chân thật không phân biệt giai cấp tuổi tác, địa vị danh vọng... Nó sang bằng tất cả. Nó là vị thần của tình cảm.
Lope De Vegas
Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12
Results 11 to 17 of 17

Chủ Đề: Ta Đã Làm Chi Đời Ta

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Ta Đã Làm Chi Đời Ta

    Ta Đã Làm Chi Đời Ta

    Tác giả :Vũ Hoàng Chương






    MỤC LỤC [−]

    Một bước đi ngang
    Hà, Bắc, Hải, Đông...
    Mây xuống... gió lên...
    Duyên thơ nợ kịch
    Bơ vơ
    Đoản đình trường đình
    Vớt lại trần ai…
    Người xưa giờ đâu?
    Nhất Thống tiên sinh
    Sao lại thế được?
    Đại Ẩn am không
    Tâm tư thời đại




    Một bước đi ngang



    Cuộc Bắc du tiết tháng Bảy năm Nhâm Ngọ (1942) xuất phát từ Hà đô; phương tiện di chuyển là xe lửa.

    Vai chính không ai khác hơn Đỗ Quân, tác giả nhiều truyện ngắn truyện dài được anh em làng văn tán thưởng. Vì, không xảy ra chuyện Đỗ sắp dời bỏ anh em để sang Quảng Châu, thì đâu có chuyện tiễn đưa ấy, mà cuộc Bắc du chỉ là một trong nhiều chặng đoản đình trường đình.

    Ôi, "đi là chết ở trong lòng một ít"! Có thật thế chăng, hay nhà thơ Pháp quốc nào kia đã khéo bịa đặt? Điều đó "bất túc luận". Chỉ cần biết rằng "có đi, phải có tiễn". Mặc dầu người ra đi chẳng nhất khứ như Kinh Kha sang Tần; cũng chẳng vì nghệ thuật thứ bảy như Ân Ngũ Tuyên sang Hương Cảng. Và mặc dầu kẻ ở lại vẫn có thể đọc được văn của bạn mình trên một vài tuần báo hữu danh ở Hà đô; thí dụ truyện Bốc đồng và nhất là chuyện Đứa con đang đăng tải trên tuần báo Thanh nghị.

    Vai phụ quan trọng hơn cả là Hoàng. Bởi lẽ chính Hoàng đã cổ động cuộc tiễn đưa, dốc hết túi vào việc thực hiện, và phất tay áo cho gió lên. Nhưng vai phụ thứ hai cũng quan trọng không kém; người ấy là Lê Quân, tác giả thi tập Thực và Mộng, người được tiếng là ngâm thơ hay hơn làm thơ, và bản thân cũng cổ kính ngang với những bình cổ, chóe cổ, ấm chén cổ, thư tịch cổ, v.v. bày ngổn ngang trong căn nhà vừa hẹp vừa sâu tọa lạc ở giữa phố Hàng Điếu. Quan trọng vì chính Lê đã định hướng cho cuộc "tống biệt trường kỳ" này.

    "Chúng ta hãy ngược lên Kinh Bắc vài ba ngày cái đã; rồi sẽ đổ xuôi… vào Vinh… vào Huế… đâu thì đâu! Cam đoan không ai phải thất vọng; Kinh Bắc là nơi thiết lập "Đệ nhị phòng" của đệ mà! Tiểu Kiều vốn sinh trưởng tại làng Ó, bạn hát Quan họ rất đông, lại rất chân truyền, không nhiễm mảy may cát bụi đô thị!... À, mà suýt nữa quên, chính Hoàng cũng đã sang Dương Ổ rồi đấy thôi; và chẳng đã nuôi mộng "kim ốc tàng kiều" ngay tại trận rồi là gì!"

    Đỗ ngồi nghe từ nãy, mặt lạnh như "người Hồng Mao" bỗng nhiên khởi sắc… rồi đưa mắt nhìn Hoàng, như vừa bắt được trên đài Khí tượng một tin gió mây kỳ dị nào. Và, trong tia mắt ranh mãnh thâm trầm kia, lại kèm theo cả một lời tra vấn mỗi giây phút cường độ càng gia tăng…

    Hoàng đang bối rối thì may quá, đã có người đến cứu nguy. Chưa cần trông thấy người; chỉ nghe cái giọng nói thẽo thợt từ nhà ngoài bay vào là bộ ba Đỗ – Hoàng – Lê đã đoán biết ai rồi.

    Ôi, cái giọng nửa Thổ nửa Kim, lên bổng xuống trầm như đưa võng, khoan thai làm điệu, vừa khách khí như giọng trên sân khấu, lại vừa bí hiểm như giọng nhà thám tử trong tiểu thuyết! Không phải tác giả "Vàng và Máu" thì còn ai vào đây!

    Thế là Nguyễn Quân Thứ Lễ tự mắc luôn vào đoàn xe sắp khởi hành! Cái toa xe thứ tư này kể ra cũng khá nặng; nhưng cứ như lời phát nguyện: "Gió đã lên, ông Trời làm Đầu tàu, thì mắc vào mấy mươi toa cũng được, quý hồ phải có toa thứ nhất (toa của xa trưởng, tiếng Pháp gọi là fourgon) và toa thứ hai (toa cung cấp thực phẩm, tiếng Pháp gọi: Wagon-Restaurant). Lẽ dĩ nhiên, từ toa thứ ba trở xuống, mắc vào hay tháo ra tùy ý, bất cứ ở đâu, và lúc nào!".

    Đúng Ngọ, giờ Hoàng đạo rồi; Đỗ, Hoàng, Lê, Nguyễn cùng trực chỉ ga Hàng Cỏ.

    Chuyến xe lửa Hà Nội – Phủ Lạng Thương khởi hành lúc 12g hơn. Ngồi trên xe, Hoàng trông ra ngoài khuôn cửa, mà bất giác như không còn nhớ gì hiện tại, quên luôn cả ba ông bạn quý ngồi bên. Điệu nhạc khô gầy của bánh xe nghiến trên đường sắt đã chầm chậm đưa tâm trí Hoàng trôi ngược thời gian, trở về làng Dương Ổ ba tháng trước, khi lửa lựu mới lập lòe trên đầu mảnh tường hoa.

    Một buổi chiều tháng tư, Hoàng tới làng này lần thứ nhất, và được Lê Quân giới thiệu như một quý khách từ Hà Nội sang, có thừa phong nhã, lại thừa cả gấm vóc ngựa xe… Hoàng cũng không cải chính; vì lẽ chỉ sang đây nghe hát Quan họ thôi mà; đâu có định lập "Đệ nhị phòng" như kiểu ông bạn đứng tuổi! Bất quá, sau một đêm vui, có trăng sáng, có bạn tốt, có giọng ca êm… thì cũng đến cái giây phút:

    Cô nhạn Nam phi, hồng Bắc khứ;
    Nhàn vân Tây vãng, thủy Đông lưu 1

    Một đêm hội ngộ, rồi cá nước chim trời; mà muốn hiểu mình theo cách nào thì hiểu; mất công cải chính làm chi!

    Nhưng, trái với cái ý nghĩ khinh bạc trên đây của Hoàng, Lê tỏ ra thành khẩn và cao hứng đến cực độ. Nhà này là nhà của "dì nó", tức là của… Dương Quý Phi! Ấy là ông bạn bảo thế! Mà tấn phong đã từ lâu rồi kia! Dương Quý Phi của Lê rất hiếu khách; bất cứ người bạn nào do Lê đưa từ Hà Nội sang giới thiệu cũng được nàng tiếp đãi cung kính, nồng hậu và thân tình. Cho nên, chiếu y cựu lệ, nàng sửa soạn một mâm rượu bưng lên, mời Lê và Hoàng nâng chén nâng đũa… Rồi… chính nàng thì chỉnh đốn lại mái tóc, vạt áo… để thoăn thoắt bước ra cổng, đi về phía cuối làng. Mặc dầu lúc ấy đã chập choạng tối và hai cô em nàng đã thắp lửa vào cây đèn lớn treo giữa nhà, ánh sáng lung lay, tỏa rộng. Hoàng không cần hỏi, cũng đoán biết "dì nó" của Lê đang đi mời các "bạn hát"; nhà đã có sẵn ba chị em, nhưng hát Quan họ phải đông mới hào hứng. Vả lại, trong ba người, không ai có giọng hát đáng kể vào bậc nhất, đủ làm "đàn chị" cho những giọng khác hòa theo.

    Ấy là ông bạn họ Lê giải thích như vậy.

    Rồi Hoàng xem! Lát nữa đây, dưới bóng trăng Dương Ổ, Hoàng sẽ được sống những giờ thần tiên, đẹp hơn cả thời gian trên Nguyệt điện, khi cô Hằng tự điều khiển lấy khúc Nghê thường vũ y…

    Câu nói vừa buông lửng, theo một nhịp cười dài, Lê đã cất giọng ngâm sang sảng:

    Gió hây hẩy… Cô nàng nhanh nhẹ biến
    Rồi phút giây lại hiện sau hàng hiên…
    Sống lụa thâm phần phật đổ bên thềm;

    Những câu thơ ngộ nghĩnh này, chẳng hiểu Lê đã sáng tác từ bao giờ. Nhưng thơ là "Thơ mới" kiểu "Tình già" của Phan Khôi hay "Cây đàn muôn điệu" của Thế Lữ, mà Lê ngâm được theo lối "ngâm nhà Nho", lại ngâm rất hay, rất gợi cảm nữa mới tuyệt chứ!

    Hoàng phục quá, yêu cầu ngâm tiếp, liền bị Lê chặn lại ngay: "Hẵng biết thế! Đi đâu mà vội!".

    Trăng vừa lên khỏi chân trời, hãy còn khuất sau lũy tre đằng xa; chỉ thấy ánh sáng chập chờn hư ảo… Hết chén này đến chén khác, Hoàng say mềm, phục xuống chồng giấy Dó đã được chủ nhân xếp thành một chiếc gối thật cao. Rồi ngủ lúc nào không biết!

    Cho đến, khi Lê Quân lay gọi, Hoàng cũng chưa tỉnh hẳn. Xuyên qua bức rèm sương kỳ ảo của cơn say đang nhạt và của giấc mộng đang phai dần, Hoàng nghe thấy nhiều tiếng hát, trong veo như suối, tròn xinh như ngọc… khiến Hoàng liên tưởng ngay đến tiếng đàn trong bài "Tỳ bà hành":

    Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy
    Mâm ngọc đâu bổng nẩy hạt châu…

    Kịp đến lúc ngồi dậy được và mở mắt ra được, Hoàng mới chợt hiểu rằng mình đã lầm. Tiếng đàn nào mà so sánh nổi với tiếng hát ở đây! Làng Dương Ổ còn vượt xa bến Tầm Dương cả ngàn năm tốc độ ánh sáng, trên chiều cao của nghệ thuật và nhất là chiều cao của rung động tâm linh.

    Thật vậy, trong số chín mười người đang ngồi quay vòng tròn trên chiếc "bục" rộng trải chiếu hoa kia, đã hiện hữu cả một "giấc mơ người đẹp" mà bấy lâu nay Hoàng ôm ấp.

    Trời! Bao nhiêu trăm ngàn câu thơ diễn tả thanh sắc mỹ nhân, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, đối với Hoàng lúc này đều vô nghĩa… Vầng trăng đã lên cao ở ngoài hiên đó, và chứng giám điều nghĩ này của Hoàng!...

    … Tay tiên rót chén rượu đào,
    Đổ đi thì tiếc uống vào thì say…

    Chưa bao giờ tiếng Việt lại thấm vào con người toàn diện của Hoàng đến thế! Cũng chưa bao giờ một câu hát Quan họ, cấu tứ theo thể điệu ca dao, mà lại có ma lực đoạt hồn phách đến thế!

    Lúc nãy Hoàng Say Rượu; bây giờ Hoàng tỉnh rượu để Say Tình. Và, thừa dịp các cô tạm nghỉ hát, ngồi uống trà, Hàng trao đổi kín đáo một vài câu với Lê, rồi cất giọng cao ngâm bài thơ tứ tuyệt vừa sáng tác ngay "tại trận":

    Ánh rượu đào trên má đỏ hây,
    Tiếng ca tròn với khuôn trăng đầy,
    Ngọn cau, trăng cũng tròn theo tiếng,
    Tròn não nùng như tuổi của Mây.

    Tiếng cười khúc khích nổi lên ở phía các cô. "Người đẹp" của Hoàng thẹn thùng cúi mặt, nhưng cặp môi rung động rất tươi. Vì lẽ bài thơ vừa ngâm đã "có nàng ở trong". Vâng! Tên nàng chính là Mây, và tuổi nàng cũng trăng tròn vừa kịp.

    Ai hay nét rung động rất tươi kia đã như phóng ra một luồng điện cảm thông kỳ dị nó cứ lan tràn mãi không ngớt dư ba, khiến cho Hoàng bị điên đảo từ mấy tháng nay, và chính Mây, người làm nên sóng gió, cũng đã thổn thức bao đêm, chẳng còn thiết gì với ca hát.

    Hỡi ơi, tại sao Lê Quân đã có vợ con đông đảo tại Hà đô, mà lập "đệ nhị phòng" ở đây dễ dàng đến vậy? Mà Hoàng, chưa có gia đình, lại không thể nào tính cuộc trăm năm được với cô Mây?... Tại sao?... Tại sao?...
    ° ° °

    Điệp khúc đều đều và buồn nản của đường sắt như dâng từng đợt "Tại sao" vào tâm hồn tê tái của Hoàng; đột nhiên đầu máy ré lên một hồi còi, lại càng như xoáy mãi cơn sầu trên da thịt kẻ "tình duyên lỡ dở". Qua lại hàng trăm lần quãng thiết lộ này, Hoàng chẳng cần nhìn ra ngoài cũng thừa biết đây là ga Phủ Từ Sơn. Vội lên tiếng:

    "Ga sau là Chùa Lim rồi đấy nhé. Sửa soạn để xuống xe thì vừa!".

    Lê Quân mỉm cười, giơ cao một cánh tay lên:

    "Khoan đã! Cứ thong thả. Ba chúng tôi vừa bàn nhau, thay đổi chương trình lại chút ít. Không xuống ga Chùa Lim nữa đâu!".

    Thì ra, trong lúc Hoàng ngồi mơ mộng, Lê Quân đã thuyết phục Đỗ và Nguyễn cứ thẳng đường lên tỉnh lỵ Bắc Ninh cùng với Hoàng. Chỉ một mình Lê xuống Lim để vào Ó thôi. Báo trước cho "sở tại" họ lo chu tất việc đón tiếp cả bọn! Tối nay ta ngủ lại Bắc Ninh – đã có Hoàng nó đảm trách – rồi sáng mai tà tà chừng 10 giờ, điểm tâm xong bọn ta sẽ từ Bắc Ninh đi xuôi về Ó, đường còn gần hơn là xuống Lim để ngược lên!

    "Yên trí" – Lê nói tiếp – "Các ông cứ vào xóm Niềm đi! Tối nay tôi sẽ lên với các ông mà! Chỉ tạt qua "đệ nhị phòng" từ giờ đến chiều thôi, cam đoan không thất hứa!"

    Hoàng giận lắm. Nhưng cũng không nói gì. Lên Bắc Ninh thì lên; càng vui chứ sao! Đối với Hoàng, xóm Niềm cũng có không khí "gia đình" như làng Dương Ổ đối với Lê; mấy năm trước Hoàng đã chẳng là "Xếp ga tỉnh Bắc" đó thôi! Và khi rũ áo ra khỏi sở Hỏa xa, trao lại ấn tín và tiền "caisse", Hoàng còn ngâm một bài trường ca, lúc này đã quên gần hết, chỉ còn nhớ lõm bõm mấy câu đầu:

    Quải ấn phong kim, hề, xa Bắc Ninh:
    Đại ga sáu tháng, hề, bao nhiêu tình!
    Khói hề thơm… Rượu hề ngọt…
    Xóm Niềm ran tiếng trống, hề, gái Niềm tươi xinh!...

    Quả nhiên chiều nay gái xóm Niềm đã tươi xinh thật! Âu cũng hả dạ cho Hoàng! Tiễn Đỗ quân nay mai sang tận Quảng Châu, lại có Nguyễn quân tự ý tham dự, và cả Lê quân – rất đúng hẹn, chưa xẩm tối đã lật đật từ Ó lên nhập cuộc rồi - cuộc tiễn đưa phải vang lừng y trúc men khói ngút trời mới xứng đáng chứ!

    Câu chuyện "tình hận" với cô Mây làng Dương Ổ, hãy gác ra một bên. Cả đến buổi "nghe hát Quan họ" chiều mai do Lê quân hứa hẹn tổ chức, cũng để lấy đã! Hạ hồi phân giải, nghe! Giờ đây, giữa xóm hát đông vui bậc nhất xứ Kinh Bắc, muốn gọi cô Tuyết thì có Tuyết, muốn gọi Vân thì có Vân… tội gì vấn vương những sợi dây oan nghiệt khác. Đỗ quân có vẻ cao hứng nhất, bàn chuyện sau đây sẽ vào Vinh vào Huế, cứ y như lúc nào Trời cũng phải chiều người!

    Nguyễn quân thì hơi mệt mỏi. Vả lại còn nhiều công việc ở Hà Nội quá; đi xa không được đâu!

    Nhưng Lê quân lại khác. Mặc dầu nhất phòng, nhị phòng… lung tung, và mặc dầu chuyện kinh doanh bề bộn, Lê cũng nhất quyết theo Đỗ cho đến cùng. Nghĩa là cho đến cái phút Đỗ xuống con tàu thủy tếch với nơi đất… khách!

    Bởi vậy Hoàng càng vui, tiếng trống có vẻ "chắc tay" hơn mọi khi nhiều. Và có viết mấy câu để làm ghi; cả Hán tự, cả quốc âm cho trọn vẹn.

    Bài Hán tự:

    Ngẫu ư: Kinh Bắc phiếm du; Niềm thôn dạ bạc.
    Bồ đào mỹ tửu; thắng hữu như vân.
    Điểm cổ văn ca; thuần yên diễm sắc.
    Hoa gian ty trúc; nguyệt hạ y thường.
    Vũ hóa đăng tiên; Xích bích Tầm dương chi tùy mộng; tình căn vị liễu, thanh sam hồng phấn chi lưu duyên 2.

    Dịch Nôm:

    Chợt nay: Kinh Bắc chơi rông; Xóm Niềm đêm ghé.
    Bồ đào rượu ngọt: bạn tốt như mây.
    Điểm trống nghe ca; khói thơm người đẹp.
    Trong hoa xênh phách; dưới nguyệt xiêm hài.
    Chắp cánh lên tiên, Xích bích Tầm dương say mộng cũ; nợ tình chưa dứt, áo xanh má phấn còn duyên ghi.
    ° ° °

    Sáng hôm sau, cả bọn bốn người ra khỏi Niềm thôn. Nhưng xem ra phần hào hứng có giảm sút trông thấy.

    Nhất là Nguyễn, chẳng biết có phải vì đêm qua gặp đúng Hồ ly tinh hiện thân hay không, mà sớm nay tác giả "Vàng và Máu" chẳng còn một chút sinh lực nào!

    Men theo đường bờ ruộng, Nguyễn cứ đổ xiêu đổ vẹo, suýt quỵ tới mấy lần. Nguy quá! Rồi Hoàng biết nói sao với chị Song Kim đây?

    Đỗ thì cũng lử khử, và hình như "cảm nặng" dì Vân người mới gắn bó đêm qua nhưng đã từ lâu quen biết. Sang Quảng Châu một mình, buồn chết người! Giả thử có cách gì mang cả Vân đi theo thì đỡ cơn sầu biết mấy! Đỗ cứ thủ thỉ vấn kế, khiến cho Hoàng đã rối ruột lại càng rối ruột thêm.

    Chỉ có Lê quân là phớn phở ra mặt. Đi lên trước dẫn đường, chốc chốc lại dừng chân lắc đầu lắc cổ:

    "Các cậu xoàng quá! Mới du hí có một mục mở màn, mà đã xơ xác thế rồi. Còn trường chinh sao được!"

    Hoàng cố gượng dìu Nguyễn vào làng, trong bụng lo quá:

    "Anh có sao không? Chắc chỉ mệt thôi chứ gì? Để lát nữa uống mấy tuần trà là khỏi".

    "Không anh ạ. Tôi thấy đau ngực quá! Hình như bệnh cũ tái phát hay sao? Có lẽ vào ngồi một lúc, rồi tôi xin kiếu, về Hà Nội ngay trưa nay thôi".

    "Về thì cùng về cả chứ; đâu có chuyện để anh về một mình! Bực quá! Chỉ tại anh chàng Lê Trọng Quỹ khéo giở trò; đảo lộn thứ tự các tiết mục trong chương trình mới ra nông nổi này chứ! Việc gì cũng bàn, bàn đi bàn lại, bàn tới bàn lui, nát bét cả. Không trách trong anh em thân tình, đã có thơ truyền tụng:

    Áo trứng sáo, mũ béret,
    Râu hai máu, chính là Lê trọng... Bàn!".

    Lê quân thoáng nghe lọt câu thơ này, quay xuống nguýt một cái thật dài:

    "Lại thằng Hoàng nói xấu gì mỗ phỏng? Ừ "thì tôi là cái bàn; còn các ông… các ông là những "con sứa"; mở cờ gióng trống thì hăng lắm, rốt cuộc ông nào cũng "ỉu xìu xìu".
    ° ° °

    Thế là cuộc Bắc du bị chấm dứt bất ngờ. Chẳng ai được nghe một câu Quan họ nào cả! Phải chăng vì quá mê chốn gió bụi giang hồ, nên không có duyên đến được với linh hồn đồng quê trong sạch chất phác?

    Đằng nào thì cái toa thứ tư cũng đã xin rút ra khỏi đoàn xe. Chỉ còn lại Đỗ, Hoàng, Lê ngồi trầm ngâm trên lầu Đông Hưng Viên, cùng bài thơ của Hoàng vừa sáng tác:

    Bốc đồng hãy còn thiếu đoạn kết,
    Đứa con dở dang đăng chưa hết
    Tiền lấy lâu rồi, nhưng còn văn?
    Thế mà ông nỡ bỏ đi biệt!...
    Đi xa, xa lắm nhỉ ông Thu?
    Muôn dặm quan san lìa đất Việt.
    Rồi đây vắng bạn vắng thê nhi,
    Đất khách tiêu sầu chỉ có viết…
    Bây giờ hãy tạm treo bút lên
    Nam Bắc chơi rong chỗ quen biết.
    Một bầy son phấn đấy mà thôi,
    Nhưng tình giang hồ thật thắm thiết…
    Đầu tiên Kinh Bắc sang dì Vân,
    Má đỏ xem còn để dấu vết?
    Rồi vào ty trúc ở trong Vinh,
    Khoản ấy ông Đoàn đã hẹn thết
    Tiện đường vô Huế rủ ông Cung
    Thăm thú đàn ca trôi bóng nguyệt.
    Tầm Dương mai một nước non người,
    Đất trích bao la nhớ Kinh khuyết!...
    Hành trình thế đó, rượu lang thang,
    Cạnh nách sẵn hai thằng bạn kiết.
    Tôi và ông Quỹ gắng bước theo,
    Say cứ bừa say, miễn đừng chết.
    Rồi ông ra đi tôi nằm mèo;
    Công thuốc roi chầu bỏ mốc meo!
    --------------------------------
    1 Hai câu thơ cổ, không nhớ rõ là của ai.
    2 Hán tự như sau:
    Last edited by giavui; 04-07-2018 at 07:26 PM.

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Đoản đình trường đình



    Yên vị trên phi cơ, Hoàng lơ đãng nhìn xuống cánh đồng mây đang trải rộng, và mênh mông bàng bạc không biết đâu là tận cùng. Chợt nhớ hai câu thơ thất ngôn nào đó, Hoàng cao hứng ngâm vang:

    Làm mây ải Nhạn chiều heo hút
    Rồi cũng lang thang kiếp độc hành.

    Ngâm xong thơ mới nhớ ra được xuất xứ: câu dưới của nữ sĩ Ngân Giang và câu trên của chính Hoàng, nguyên là hai câu liên ngâm ra đời ở Hà Nội, tính đến nay đã vừa đôi-tám-xuân-xanh.

    Tuy vậy, bảo là "ngâm vang" thì hơi quá. Vì nếu có tiếng vang thật sự trên chiếc phi cơ tràn đầy hành khách này, hẳn người ngồi đối diện với Hoàng kia đã nghe thấy và đã không ngạc nhiên, cái ngạc nhiên của người tưởng mình đối diện với một gã khùng đầu lắc lư, môi mấp máy chẳng biết có phải đang tự diễn thuyết để tự làm thính giả chăng.

    Người ngồi trước mặt Hoàng? Đến lúc này Hoàng mới để ý: một thiếu nữ trang điểm kín đáo và nhan sắc chỉ bình thường, phục sức lại giản dị, quá giản dị là khác. Áo dài màu hồ thủy, chuỗi ngọc trai và chiếc vòng huyền… Có thế thôi! À quên, còn mớ tóc bới cao, chứ không cắt ngắn hoặc buông xõa; mặc dầu có thể là tóc mây được lắm, nhưng không cởi mở, không hấp dẫn bao nhiêu.

    "Ông sang Pháp ạ?"

    "Thưa cô, tôi đi La Mã; nhưng vì một lý do nào chả biết, Tân Sơn Nhất cho tôi hay rằng chuyến phi cơ này chỉ có nhiệm vụ chở tôi đến Vọng Các thôi; tôi phải xuống đó chờ một chuyến khác".

    "May quá, Yến cũng bị đặt vào trường hợp giống y như trường hợp của ông vậy… À quên, xin lỗi ông, em chưa tự giới thiệu: Em là Yến, nữ y tá…"

    Qua mấy câu trao đổi, Hoàng được cô bạn đồng hành cho biết rằng đây là lần đầu tiên cô ra khỏi nước, lại đi một mình… nên lúng túng lắm. Gia tư chỉ bậc trung thôi, và may mắn được học bổng nên mới có cơ hội sang tận kinh đô Ánh Sáng đấy chứ. Điều may mắn nữa là cô có một người chị em thúc bá hiện đang ở kinh đô này, và sẵn sàng cung cấp cho cô nơi ăn chốn ở, chỉ cốt sao đặt được chân xuống đất Pháp là cô yên trí rồi.

    "Ông…"

    "Cứ gọi tôi là Hoàng cho tiện".

    "Vâng, vâng! Ông Hoàng đã từng xuất ngoại nhiều lần, có phải thế không ạ?"

    "Tôi ngại xê dịch lắm nhưng việc bắt buộc phải đi thì đành vậy chứ biết sao, thưa cô!"

    "Đành thế; ông vẫn có nhiều kinh nghiệm về xê dịch. Và điều tôi mong mỏi là ông sẽ giúp tôi…"

    Giúp Yến? Thì Hoàng đã sẵn sàng. Vả lại, có gì phiền phức lắm đâu. Một vài thủ tục giấy tờ khi xuống Bangkok, một vài trao đổi điện thoại với sứ quán… thế là xong. Hoàng và Yến thong dong về khách sạn bằng xe của hãng hàng không, Hãng A.F. thì phải. Họ có trách nhiệm cung phụng hai khách hàng đặc biệt này cho đến khi một người lên được chiếc phi cơ đi Paris và một người tìm ra được chuyến bay thích hợp để trực chỉ La Mã.

    Lẽ dĩ nhiên sự cung phụng, dầu khả ái đến đâu, vẫn chỉ giới hạn ở hai khoản: ăn và ở. Còn như các chuyện lặt vặt khác, như đi dạo phố mua quà kỷ niệm, đi coi múa hát, xem phong cảnh, v.v. thì ai nấy phải tự túc, kể cả cô Yến và ông… Hoàng!

    Thế gian cứ thế mà trôi. Không ai nóng lòng sốt ruột, tuy thời tiết ở Bangkok chẳng êm dịu chút nào. Còn nóng hơn cả Sài Gòn nữa!

    Cái phiền là ở chỗ Hoàng phải lên phi cơ tiếp tục cuộc hành trình ngay nửa đêm hôm đó; mà Yến thì phải lưu lại Bangkok mãi cho đến năm giờ chiều hôm sau.

    Cuộc chia tay nào chẳng buồn? Huống hồ cuộc chia tay này còn đeo theo nó cả một cuộc bàn giao… bất đắc dĩ.

    Nguyên nhân là hồi chiều cùng đi dạo phố với Yến, Hoàng đã cao hứng nhắc đến chùa Phật Ngọc và hết sức ca tụng vẻ đẹp huyền bí của nơi này, vẻ đẹp từng gợi cho Hoàng xiết bao thi cảm trong chuyến du ngoạn tám tháng trước đây:

    Ôi! Chùa Phật Ngọc mái long lanh
    Đất Phật từng gieo hạt Ngọc Lành.
    Du tử dâng hồn lên Vọng Các
    Gương soi chẳng chút úa màu xanh…

    Thế là Yến nhất định đòi thực hiện chuyến hành hương tới ngôi chùa vương giả đó. Nhưng thời gian quá gấp, Hoàng đành phải điện thoại cho một ông bạn tòng sự tại sứ quán để nhờ ông ấy thay thế Hoàng trong cái sứ mạng làm hướng đạo cho "người đẹp". Chứ biết sao!

    Cuộc bàn giao diễn ra – rất tốt đẹp – ngay tại phòng khách lớn của khách sạn lúc tám giờ tối. Hoàng chia tay với Yến lúc mười một giờ, và tới phi trường vào đúng nửa đêm.

    Mặc dầu Bangkok là một phi cảng lớn bậc nhất Đông Nam Á, và lúc này – tháng Bảy dương lịch – đang là mùa phiếm du, hành khách đợi các chuyến bay đêm cũng chỉ thưa thớt, khiến cho quang cảnh đột nhiên trở thành hiu hắt tiêu sơ. Gió lạnh như mùa thu Hà Nội. Và tưởng đâu có mưa bụi lất phất, hay mưa phùn dai dẳng từng đợt ly sầu. Không khí bỗng trầm xuống, màu sắc Đường thi tỏa ra, mỗi phút một thêm hư ảo. Hoàng thấy mơ hồ như có ai nhắc khẽ vào tai – hay vào tiềm thức? – mấy câu thơ đời Đường (của ai, không nhớ nữa!):

    Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô
    Bình minh tống khách Sở cơn cô…

    Và, đúng như định luật về phản ứng dây chuyền, thơ đã gọi ra thơ… Một viên cuội nhỏ vừa ném xuống mặt ao trầm tư; một vòng tròn nhỏ hiện ra, phút giây sau hàng trăm ngàn chiếc vòng đồng tâm lần lượt hiện hữu, lớn dần, lớn dần… Mấy câu thơ trên đã tự xóa mờ trên cái dốc êm đềm của ký ức Hoàng, để được thay thế bằng những câu khác. Cứ thế… cho đến khi một hình ảnh vút bay ra, tràn ngập cả câu thơ. Và những câu tốt số này ngưng đọng hẳn lại; như phía trước mặt, con dốc không còn nữa, nhường chỗ cho một âm hưởng hay một mùi hương man mác nào.

    Hoàng nghe thấy chính mình ngâm lên, sương khói bay theo từng tiếng bằng tiếng trắc; và có lẽ là thơ trong kịch Tây Sương:

    Thi ông lão khứ Oanh Oanh tại,
    Công tử quy lai Yến Yến mang.

    Và ngay tức khắc, Hoàng ngâm luôn bốn câu phỏng dịch, tưởng như mình đã dịch sẵn từ bao giờ:

    Vương tôn có lúc hồi hương
    Thi nhân có lúc điểm sương mái đầu.
    Oanh còn tiếng hót giọt châu
    Yến còn ngơ ngác vòng sầu nắng mưa?
    ° ° °


    Thế rồi… lại yên vị trên phi cơ. Lại lơ đãng nhìn xuống… Nhưng chỉ là nhìn xuống cả một rừng đèn sáng rực đủ màu, xa dần như ảo ảnh, nhường chỗ cho đêm tối mênh mang.

    Tiếng hót của Oanh cũng chìm theo, vòng sầu của Yến cũng liệng sâu mãi vào tiềm thức để cùng nối lại trong đó giấc trường miên. Vọng Các – một đoản đình bất ngờ – đã chỉ còn là kỷ niệm đối với Hoàng. Cái bóng lớn của thủ đô La Mã bắt đầu lấp ló rồi kia! La Mã, một trường đình có ghi sẵn chứ đâu phải bất ngờ như đoản đình Vọng Các. Theo truyền thuyết Tây phương, thủ đô tráng lệ này phải là điểm tận cùng của mọi con đường; nhưng theo ý Hoàng lại khác hẳn.

    Đó là khởi điểm của nhiều con đường, mặc dầu đối chiếu vào trường hợp của Hoàng, khởi điểm đó còn mang tính chất tất yếu và bất khả kháng nữa, chứ có phải Hoàng lựa chọn nó, hoặc tha thiết gì với nó đâu. Thật vậy, Hoàng không xuống La Mã không xong; nghĩa là không thể nào đến được nơi mình định đến, nếu chẳng ghé vào La Mã ít nhất ba hôm, ban ngày thì lo thủ tục nhập cảnh, ban đêm thì ngửa trông vòm sao du mục, tiên đoán một vài chuyện sắp xảy ra, hoặc tiên liệu một vài thái độ thích nghi nào đó.

    Ôi, trường đình La Mã, dầu sao ta cũng có chút duyên với mi! Sáu năm trước ta cùng mi sơ ngộ đúng nửa đêm; lần này thì đúng nửa đêm ta dời bỏ Vọng Các, vượt muôn trùng gió mây để cùng mi tái ngộ. Không duyên mà thế sao?

    Bởi vậy, ngay từ khi chưa vào tới không phận của Âu châu, Hoàng đã viết được trọn vẹn sáu giòng thơ mở đầu cho bài "Đêm vào La Mã":

    Ai xưa mưa tạnh liền sông,
    Ta liền đêm rối phiêu bồng đường bay.
    Gió sương đổ hết về đây,
    Phi trường La Mã khoác dày áo đêm.
    Vòng theo khoảng cách đôi kim
    Thời gian buông bắt trái tim giang hồ.
    ...


    Vòng kim thời gian đã vậy; chẳng biết có còn vòng Yến-bay-hoang nào nữa không, hỡi kẻ độc hành mang nặng Nghiệp?

    Sài Gòn, tháng Tám dương lịch 1971
    (Ghi lại chuyến đi 1965)

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Vớt lại trần ai…



    Khó mà quên được Tết năm đó, mỗi khi ngồi uống trà một mình. Không bắt buộc phải trà ướp sen. Quý hồ đợt khói trên miệng chén trà có hồn sen là đủ!

    Hồn sen thoảng ngát trà dâng đượm
    Ai biết mình sen rụng xác xơ… 1

    Năm đó, phải chăng năm Quý Mùi, tây lịch 1943? Hoàng ăn Tết dưới mái gia đình, như thường lệ. Nhưng khác thường lệ ở chỗ ngay từ mồng Hai Tết, Hoàng đã lấy xe lửa di chuyển từ Nam Định lên Hà Nội, và có mặt giữa đám anh em làng Say ròng rã từ chiều mồng Hai cho đến hết tháng Giêng mới rã đám.

    Chẳng hiểu vì lý do nào mầu nhiệm, mà Tết năm ấy xem chừng bạn văn của Hoàng, anh nào cũng phong lưu cả. Không dám nói là tiền bạc như nước, nhưng cái khoản chi phối vào tửu quán ca trường thì ai cũng đủ sức chu biện cho ba ngày tròn là ít.

    Thoạt tiên chỉ có bốn người, Hoàng cũng ở trong số ấy. Rồi sau bốn ngày, mỗi người lại tìm được ba người khác để tách rời ra khỏi nhóm nguyên thủy. Rồi cứ thế… cứ thế! Mấy chốc mà chẳng bay vèo hết sạch cái "tháng ăn chơi".

    Tuổi Hoàng chưa đến ba mươi; chẳng cần mang kính màu hồng màu biếc, Hoàng cũng thấy cảnh trước mắt toàn hoa nở lá tươi, vừa đẹp vừa say như chén rượu Đào-viên-kết-nghĩa.

    Huống hồ từ lâu nay Hoàng đã quyết mang vào thân cái nghiệp của một kẻ làm thơ viết kịch! Nên càng tin rằng cảnh trước mắt kia đang là "cảnh khói", đúng như câu văn bất hủ của Lý Bạch: "Dương xuân triệu ngã dĩ yên cảnh, Đại khối giả ngã dĩ văn chương".

    Cảnh xuân tại Hà đô mướt dịu như khói, mình được triệu thỉnh đến thưởng thức, không lẽ mình chối từ! Lại được trời đất kia cho vay tạm cái hồn văn trong một kiếp người, đâu lẽ mình để cho khối ngọc bị hoen mờ nơi bùn bụi trên các nẻo lợi danh! Có ngọc quý – dầu chỉ vay tạm trong thời hạn một trăm năm – tất phải đưa nó lên những đỉnh cao nhất của tình cảm để nó có dịp hội tụ được tối đa những tia sáng vạn năng từ đó bùng cháy lên ngọn lửa sáng tạo.

    Các bạn văn bạn chơi của Hoàng dĩ nhiên cũng chung một ý nghĩ. Mà không thể sao được, khi bốn chung quanh, thời tiết đang mê hoặc mọi cảm quan, và miền ngoại ô Hà Nội đang biến dần thành giấc mơ những sự thật phũ phàng nhỏ mọn nhất.

    Ôi, mùa rét ngọt mưa bay rượu,
    Thành gấm thôn hoa mộng nở bừng!...

    Hoa thôn với Cẩm thành nào đây mà nghe như trong kịch Tây sương hoặc truyện Liêu trai chí dị? Không! Nơi đây chỉ là một ngã tư, trông lên phía Bắc là đô thành Hà Nội, nhìn xuống phía Nam là nối tiếp nhau từng thôn xóm có lũy tre xanh bao bọc. Còn hai ngả kia thì một dẫn tới ngoại ô Bạch Mai và một đưa bước kẻ du hành qua vùng Láng, vòng sang Cầu Giấy, hồ Lãng Bạc, đường Cổ Ngư. Giống như hai cánh tay mở rộng ôm lấy cố đô Thăng Long. Ngã tư đó, nơi Hoàng họp bạn lúc bấy giờ – tháng Giêng năm Quý Mùi – chính là Ngã tư Sở.

    Và câu chuyện phải bắt đầu từ nhà văn họ Lê, tác giả cuốn tiểu thuyết "Cánh sen trong bùn". Người đã từng nổi danh trên văn đàn cũng như trong cái thế giới đặc biệt của khói men, của xênh phách. Người giữ được tiếng tăm rất lâu, chứng minh được rằng ba chữ "sống để viết" có thể kéo theo chúng cả một định lý đảo: "viết để sống"; và chứng minh rất hùng hồn nữa kia! Người mà tuần báo Phong hóa đã giễu cợt bằng cách gọi đích danh để mắc theo vào một biệt hiệu dễ gây ngộ nhận: "Lê Văn Trương, huênh-hoang-tôn-ông".

    Phải! Cái dáng điệu hùng dũng như sắp "thanh gươm yên ngựa" đến nơi, cái giọng điệu "đao to búa lớn" vang dậy trong câu hỏi ngắn và sắc đi liền theo tiếng gọi như sấm nổ:

    "Hoàng Say đại huynh, vi hành đâu đấy? Chẳng phải Lê Văn Trương thì còn ai!"

    "Lê tôn ông đó ư? Tiểu đệ đang "lêu têu", và sẵn sàng nghe lệnh".

    Câu trả lời của Hoàng – có vẻ phường chèo đối với người khác – đã được Trương đón nhận như những lời nghiêm chỉnh nhất của một kẻ đồng điệu, một bạn tri âm. Và Trương quay về phía sau nói như quát:

    "Anh em, sửa soạn nghênh tiếp Hoàng đại huynh nghe! Nói với chị Ba rằng chuyện gì cũng phải dẹp đi hết. Nếu cần, đuổi bọn tục khách ra đường! Khách quen cũng đuổi. Nhớ nhé! Bảo rằng lệnh của "anh".

    Lúc này Hoàng mới kịp nhận diện hai người bạn tháp tùng họ Lê. Tưởng ai xa lạ, chẳng hóa ra vẫn Hồng với Hiến, tả hữu mà cũng đồng thời là tâm phúc, là "anh em kết nghĩa vườn đào" với Trương. Nhưng Hoàng chưa kịp chào hỏi thì họ đã quay gót chạy vụt đi như một cơn gió.

    Mà… mà… gió lên thật, mới thú chứ! Vì chỉ năm phút sau, hai người "anh em" đã hoàn tất sứ mạng, trở về phụng chỉ rất đàng hoàng.

    "Nào, xin mời đại huynh!"

    Trương vừa nói vừa kéo mạnh tay Hoàng dắt đi, lại còn ngoái cổ dặn tả hữu:

    "Hiến, về báo cho cả bọn nó biết rồi ra ngay. Còn Hồng, đi chu biện gấp. Hôm nay đại yến, phải một "quả cà" mới đủ được, nghe! Thêm một cóng "ngoại thủy" nữa cho đậm. Nhớ chứ?"

    Rồi chẳng cần "hướng đạo quan", Hoàng và Trương – oai vệ như hai bậc đế vương – từ xóm Vĩnh Hồ đổ xuống ngã tư, rồi rẽ tay trái. Lầu hao của Bạch Liên thư thư.

    Đêm ấy họ Lê "hùng" lắm. Ăn nhiều, nói lớn, uống cũng khỏe và… mây khói đi về cũng tan tác Vu Sơn…

    "Quả cà" do Hồng đem tới mới lợi hại làm sao! Ít khi Hoàng say đến thế. Tự hỏi: Không biết có phải là "cà độc dược" chăng?

    Cơn say "lơ mơ" kéo dài qua những cung bậc quen thuộc, đến độ rơi hẳn vào cõi "vô cùng thiên địa" lúc nào chẳng hay…

    Kịp đến khi phân biệt nổi nhịp phách "Dựng" líu ríu đổ theo cung đàn tuôn thác lũ xuống ghềnh, và phảng phất nghe như rơi rụng từng hạt châu hiện thành tiếng:

    Xa… từ xa kinh khuyết bấy lâu
    Tầm dương đất trích ư… ư… gối sầu hôm mai.

    Thì mở mắt nhìn ra đã… "đông tây lặng ngắt". Lê Tôn Ông, nhị vị Hồng, Hiến và cả bọn đã rút lui từ bao giờ.

    Hoàng định thần một phút, toan ngồi dậy. Nhưng Bạch Liên đã dồn phách dứt câu, rồi đặt phách xuống, khoát tay cho nghỉ đàn, và thong thả tiến lại, nơi Hoàng cao ngọa…

    Khoảng cách giữa hai cái sập gụ trải chiếu hoa chỉ vào khoảng ba thước rưỡi Tây, thế mà Hoàng có cảm giác nó dài như dãy núi nào ở miền Trung nước ta, hay con sông nào ở miền Nam nước Tàu. Mới lạ chứ!

    Hẳn là vì Hoàng nằm đối diện với chiếc gương lớn chạy dọc theo bức tường phía bên này. Trong khi, chênh chếch về phía bên kia, Bạch Liên đang hài tơ nhẹ chuyển.

    Mắt Hoàng dán vào gương. Như muốn giữ chặt lấy màu da vẻ tóc… Như muốn giữ luôn cả hơi hướng tiết ra từ đàng sau nét son, cả những rung động truyền đi từ chiều sâu khóe hạnh của người đẹp… Con người bao năm trước, tháng trước, tuần trước, Hoàng chỉ thấy đẹp có một vài phần, đáng tin cũng chỉ một vài phần hay ít hơn nữa. Thế mà lúc này, giây phút này, Hoàng bỗng thấy đẹp cả mười, và đáng tin cả trăm ngàn ức triệu…

    Giây phút quý báu thật. Lẽ nào không bắt nó ngưng lại, đứng hẳn lại! Nếu dòng thời gian chẳng thuận tình, thì tách nó ra khỏi thời gian. Bằng đủ mọi cách. Đủ mọi cách… Đủ mọi cách…

    Và lần này, Hoàng mê đi khá lâu.

    Trong cơn mê, hồn Thơ tỉnh táo hơn lúc nào hết. Vì khi thức giấc, đêm đã quá khuya, Hoàng phải khêu lại bấc để ghi vội tám câu lục bát vừa lẻn vào tâm trí như một mùi hương nhẹ thoáng mà lấn át cả "hương nâu". Ghi vội kẻo sáng mai quên hết mất. Lấy gì tạ lòng ai cho xứng đáng bằng?

    Nhưng sáng hôm sau, chờ mãi chẳng thấy Bạch Liên xuất hiện. Các em trong "Lầu hoa" đều không biết rõ "mợ" đi đâu và đến bao giờ mới về. Hoàng đành gửi lại tám câu đó:

    Gót sen vừa nở đã tàn
    Bóng gương chết lặn âm đàn phai theo
    Mùi hương sứ giả bay vèo
    Dễ đâu tâm ý cùng gieo ngắn dài
    Chông chênh vần lạc phách sai
    Lỡ nhau Bông trắng lầm ai Thơ vàng
    Ôi, nàng… sen dời lầu trang
    Đường tơ ai nối cho chàng say đây.
    ° ° °

    Bẵng đi đến cả tháng. Một hôm bất ngờ dậy sớm, Hoàng ra đứng ngoài bao lơn nhìn xuống lòng đường. Con đường nhỏ hẹp của phố Hàng Đàn, chỗ sắp rẽ ra Hàng Quạt. Chừng chín giờ thì phải. Đường vắng hoe. Chợt thấy một chiếc xe nhà từ miệt Cửa Nam đi tới. Người kéo xe thả chậm bước, chừng như người ngồi xe đang muốn tìm nhà ai. Cứ thế, chiếc xe tiến dần về ngã ba Hàng Quạt. Rồi… xe quay trở lại. Vừa lúc Hoàng nhận ra được Bạch Liên, bệ vệ như một "bà lớn".

    Tiếng Chu Ngọc vang lên sau lưng Hoàng:

    "Chết cha! Cậu còn "kẻ râu" ở dưới ấy hả?"

    Hoàng chột dạ, toan quay vào. Nhưng không kịp nữa. Bạch Liên đã nhanh mắt trông lên và nhận diện được cả hai gã rồi.

    Tuy nhiên, căn gác này Hoàng và Ngọc bày ra bề bộn quá; chỗ thuê để tập kịch ấy mà! Đồ đạc có thứ nào vào với thứ nào đâu! Mời người đẹp lên thì bất tiện quá. Ấm chén cọc cạch, lại chẳng có gói trà nào ra hồn; chẳng lẽ mời khách lầu hoa uống nước theo kiểu dân lao động?

    May sao lúc đó Hoàng đã đóng bộ được một nửa 2. Nghĩa là chỉ cần xỏ giày, thắt cờ-ra-vát nữa là xong. Liền vội vã xuống đường. Ngọc còn dặn với theo:

    "Chớ có mời lên đấy!"

    Rõ khéo anh chàng Ngọc vô duyên! Đã dễ "người ta" lên cái ổ chuột này đâu mà mời với chẳng mời!

    Hoàng nghĩ thế mà đúng. Vì xe dừng phía bên kia đường. Hoàng vượt sang hội diện.

    Câu chuyện trao đổi rất nhanh. Vì Bạch Liên vẫn ngồi trên xe chứ không xuống…

    Thế rồi xe lại "như bay trong cõi hồng trần" đưa nàng "trở gót trướng hoa"… Phố xá lại vắng ngắt. Hoàng lại vượt qua đường, vào nhà, lên gác. Như không có chuyện gì xảy ra.

    Mà… không có chuyện gì thực! Đâu phải Hoàng nói dối ai. Mùa xuân đã sắp ngả màu, thiên hạ đều vô sự. Cả cái sự "diễn kịch" của Ngọc và Hoàng. Ban Kịch Hà Nội vừa tái diễn hai vở Vân Muội (của Hoàng) và Cái tủ chè (của Vũ Trọng Can) ở rạp Hàng Bạc. Thuê căn gác phố Hàng Đàn này là để nghỉ xả hơi, và sửa soạn tập vở mới. Lần này định diễn một vở thoại kịch dài: Lệ chi viên (của Vi Huyền Đắc). Các vai đã phân phối đâu và đấy rồi. Hoàng Cầm sẽ thủ vai vua Lê; Lê Trọng Quỹ vai Nguyễn Trãi, được quá đi chứ! Vai Thị Lộ – cái đinh của vở kịch – thì đã thương lượng với cô Hạc Đình, ái nữ nhà thơ ngụ ngôn họ Bùi, thanh sắc gồm đủ, thế là nhất còn gì! Tuần sau mới bắt đầu tập. Vả lại tập thì tập chứ Hoàng có ăn thua chút nào vào đấy đâu. Diễn viên, không! Đạo diễn, cũng không! Chạy hiệu, cũng không nốt! Thế thì Ngọc lấy quyền gì ngăn trở Hoàng. Người ta muốn đi đâu thì đi chứ. Kể cả đi theo tiếng gọi của… Bạch Liên, nữ chúa Mê Cung. Huống nữa, từ ba hôm nay, Hoàng cứ như người bị ma ám, lúc nào cũng gật gù lẩm nhẩm, ai kéo ra đường thì ra, đưa cơm rượu đến tay thì đỡ lấy ăn, uống, đưa thuốc đến miệng thì hút liên miên; chẳng cần biết mùi vị ra sao nữa. Và nhất là không cần biết ai trả tiền. Hoàng đang "làm thơ" đó! Bài hát Cuồng viết mới được một nửa. Mới đến những câu:

    Sao chiều xuống chênh song, hề, còn đau thân thế?
    Còn tủi bình sinh, hề, khi gió lên đầy trời?

    Ngọc sốt ruột quá. Ra đường đã mất công dẫn đi, lôi đi. Về đến nhà lại khổ cái lỗ tai vì phải nghe từng nhịp bách bộ quanh sân gác. "Thôi, cho ông mãnh xuống núi, càng đỡ mệt. Cũng chẳng đòi theo hắn làm gì!". Ngọc nghĩ vậy là biết điều quá. Vì theo Hoàng thế nào được lần này!
    ° ° °

    Xuống đến Ngã Tư Sở cuối giờ Tỵ, Bạch Liên chờ đã nóng lòng. Ấy là nàng bảo thế, Hoàng có tin nổi thì cứ tin.

    "Có chuyện gì mà triệu thỉnh gấp vậy? Để đến chiều tối không được sao?"

    "Chiều tối lại là chuyện khác…"

    "Thế còn chuyện này?"

    "Cứ thong thả. Hãy lên gác đã nào!

    Thì ra Bạch Liên không chịu bốn chữ trong câu thứ hai của bài thơ Hoàng gửi lại hôm tháng Giêng.

    "Sao lại "… âm đàn phai theo"? Rất có thể Hoàng định nói những tiếng đàn đáy hòa theo nhịp phách. Nhưng lỡ thiên hạ lầm tưởng đó là tiếng đàn của chính Liên? Mà… đàn của Liên thì… phai… thế nào được! Liên tin rằng nếu Hoàng lắng nghe – để hết tâm hồn mà nghe cơ! – Tất phải nhớ mãi. Bóng gương có thể chết lặng, như lời Hoàng viết, nhưng âm đàn thì chẳng bao giờ phai theo được, nhớ chưa?"

    "À, ra thế, hôm nay Liên định "nối đường tơ" cho "chàng say" đó hẳn? Đã hỏi kỹ lại lòng mình, và lòng… người ta… chưa?"

    "Làm gì có "người ta" nào vào đấy! Đã bảo chuyện này khác kia mà!"

    Lại cái điệp khúc "chuyện này khác!". Nào thử xem nó khác ở chỗ nào, ranh giới có phải là Dòng-sông-nước-mắt chăng?

    Trước hết, căn gác này không phải căn gác Lê Văn Trương đưa Hoàng tới hôm đầu năm. Đây không phải "nhà hát", mà chính ra là "phòng loan" của Bạch Liên thư thư. Chẳng có trống phách đèn đóm gì cả! Nhưng có khói trầm, có hoa tươi cắm trong bình, có trà mạn sen ngưng thẫm màu trong những chiếc chén cổ, trà đãi "quý khách" do đích thân "bà chủ" pha mời…

    Trên tường, một cây nguyệt cầm óng ả đang chờ tay ai với xuống. Khói trầm và khói trà đã như quyện lấy dây tơ, và hồn của con tằm đã muốn bật ra tiếng gọi tri kỷ.

    Ánh mắt Hoàng chưa kịp thu về, Bạch Liên đã đứng dậy, trân trọng đỡ cây đàn xuống. Và rồi:

    So dần dây Vũ dây Văn…

    Khiến cho Hoàng có cảm giác như đang ngồi trên sân khấu, đóng vai trò Kim Trọng nơi Vườn Thúy, lắng nghe khúc Bạc mệnh của Kiều nương.

    Hoàng vốn ít khi chịu nghe đàn của ai, mặc dầu ai đó là tay danh cầm thượng thặng. Nhưng lần này Hoàng đã chịu nghe, và nghe thật sự, chứ không phải lơ là chiếu lệ đâu. Vì Hoàng thấy rõ Bạch Liên chỉ đàn cho một mình Hoàng nghe thôi. Lại tha thiết đến độ phải thân hành đi triệu thỉnh để Hoàng chịu đến và chịu "lắng tai" cho. Khác hẳn trường hợp của Thúy Kiều, phải đợi chàng Kim van nài mới phô bày "tiện kỹ":

    Đã lời dạy đến, dạy thì phải vâng.

    Cho nên Kim Trọng có thể quên được khúc Bạc mệnh, chứ Hoàng thì không bao giờ quên được tiếng đàn Bạch Liên. Đó là những "âm đàn" chẳng sao "phai" được trong ký ức Hoàng. Nghe chỉ một lần ấy cũng đủ cho bao kiếp trầm luân sau này. Không cần phải nghe lại một lần nào khác nữa.

    Bởi thế, khoảng nửa năm sau đó, ở nhà Chu Thị xóm Khâm Thiên, Nguyễn – lúc ấy đang là bác trai của nhà này – đã bị một phen ngạc nhiên không ít. Nguyễn cứ tưởng có Hoàng phải có Bạch Liên; và đã phái người đi mời cho kỳ được, lại yêu cầu mang cả nguyệt cầm theo. Đành rằng cũng nhân dịp đó, Hoàng viết được những câu:

    Mơ xanh đắng vị thu già
    Sắt vàng chen, ngón tay ngà gió mưa.
    Chiều nay gợi nhớ chiều xưa…
    Nhưng thật ra cái dáng ngồi:
    Lòng hoa nghiêng dáng cầm trăng
    Phím dây bừng thức cung Hằng áo xiêm…

    của Bạch Liên, Hoàng đã in sâu vào tâm khảm ngay từ buổi trưa hôm nào rồi. Cả những tiếng âm đàn gió mưa. Cả mùi hương sứ giả. Chỉ còn việc nâng niu chúng, đau khổ vì chúng, là chúng kết nụ và nở ra thành Thơ liền. Đâu cần đến Nguyễn và Chu Thị phải mối manh, thúc đẩy!

    Thành ra Nguyễn tưởng chiều Hoàng lại suýt nữa bị Hoàng gây sự. Mà cái hận của Hoàng cũng vô nghĩa lắm cơ! Từ buổi "lắng tai Chung kỳ" tại xóm Ngã tư, Hoàng không muốn tiếng đàn của Bạch Liên bị lọt vào thính giác bất cứ ai nữa cả. Huống hồ lại phải tham dự cái cảnh "nghe đàn hội chợ" thì còn ức đến đâu! Nói ra không được càng ức, càng hận.

    Nguyễn cứ phải vuốt mãi. Rồi khi tiệc tan, hoàng hôn xuống, Nguyễn rủ Hoàng lên Đông Hưng Viên, sau đó lang thang mãi đến khuya mới tạt qua Tự Hưng Lâu mua chim quay làm thức nhắm. Về đến Khâm Thiên, vừa nửa đêm. Bài thơ "Ý đàn" của Hoàng cũng hoàn tất, tổng cộng hai mươi bốn câu lục bát. Ngâm vang cả gian gác của Chu Thị. Nguyễn gọi một cô em trao cho cái sứ mạng đem bài thơ xuống nhà Bạch Liên tức khắc. Quả là chí tình với nhau! Lúc ấy Hoàng mới thật nguôi hận 3.

    Nguyễn nhìn trong chiếc áo dài trắng, như biểu lộ hết cái tinh thần của những kẻ đa tình mang lấy nghiệp "bác trai’, Hoàng đã bất giác phá lên cười. Và ngâm lớn đoạn kết bài Qua áng hương trà, cũng vừa sáng tác, ngay sau khi Bài hát cuồng thành tựu:

    Nâng chén mời anh thưởng vị trà
    Đừng quên tan tác mấy đời hoa
    Cạn từng hớp nhỏ cho SEN đượm
    Vớt lại trần ai một chút ta.

    Sài Gòn 1971
    --------------------------------
    1 Trích bài "Qua áng hương trà" (trong tập Mây, Hà Nội, 1943).
    2 Trích "Bài hát cuồng" (cũng trong tập Mây).
    3 Trích bài Ý đàn , mãi sau mới in vào tập Hoa đăng (Sài Gòn 1959).

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Người xưa giờ đâu?


    Phi la đới lệ, Tam lư thị cảm nhi vi Tao. Ngưu quỷ sà thần, Trường trảo lang ngâm nhi thành tích.

    Câu văn biền ngẫu trên đây của Bồ Tùng Linh, nhiều người đã dịch Nôm, nhưng Tản Đà dịch hay nhất. Thú vị nhất.

    "Đai cây áo lá, họ Tam lư ngùi cảm viết văn Tao. Thần rắn ma trâu, cậu Dài móng ngâm nga thành bệnh Nghiện".

    Hay thật! Thú vị thật! Ít ra là "hay", là "thú" riêng với hai đứa tôi: Thứ lang họ Đinh, và Hoàng lang họ Vũ.

    Lý do: Một đứa mang bệnh kinh niên ở con Tỳ, một đứa cũng từ thuở học trò mang bệnh nơi con Tâm, rồi dần dần cả hai cùng tiến vào hành lang ma quái để cùng rước lấy một chứng bệnh chung: bệnh của "Cậu Dài móng"!

    Đồng bệnh tương liên, đã hẳn rồi. Nhưng việc đời bối rối quá, gặp nhau rất ít, thật sự vui cười lại càng hiếm. Có thể đếm trên đầu ngón – mà chưa chắc đã sang được bàn tay thứ hai – những lần họ Đinh hoàn toàn cởi mở với bạn.

    Thế mà hôm ấy – cũng chẳng nhớ rõ hôm nào, ở ngõ hẻm nào của Sài Gòn – họ Đinh đã cười một trận mê tơi, cười khoái trá, cười thích thú… như vừa đạt được cái điều mong mỏi ngộ nghĩnh nhất đời mình.

    Hôm ấy, nhân bàn phiếm về các nhân vật của sông Vị non Côi – thời sông này chưa bị lấp và non kia chưa bị án ngữ bởi con đường sắt cùng Ga Núi Gôi – chủ nhân họ Vũ thao thao bất tuyệt: "Thiên hạ kỳ quá! Họ tưởng đâu làng Vị Xuyên chỉ có ông Tú Xương. Người học rộng hơn chút thì chỉ biết thêm được ông Tam nguyên Trần Hy Tăng là cùng. Danh sĩ Vị Xuyên, trong mắt ngu huynh, còn một người nữa, đáng lẽ thiên hạ phải đặt lên trên cả hai người kia, nếu quả thật không lấy cái chuyện "có tên trong văn học sử" làm vinh – như thiên hạ đời nay! – hoặc lấy cái chuyện "kim bảng đề danh" làm thước tấc khuôn mẫu cho văn tài – như thiên hạ đời trước! – Nói thế, đâu phải ngu huynh ác cảm gì với ông Tú Xương hoặc ông Tam nguyên Trần. Không! Trái lại là khác! Ngu huynh chỉ cốt nhấn mạnh ở điểm: danh sĩ "thần tượng" của ngu huynh chẳng liên quan gì tới văn học sử, mà cũng chẳng hề lưu lại tính danh trên bất cứ một bảng nào – bảng vàng, bảng hổ, hay bảng mai đi nữa!"

    Họ Đinh nằm lim dim, vội tán thành ngay, giữa hai đợt khói ngát:

    "Đúng! Tại sao cứ hẹp hòi quanh quẩn mãi trong cái vòng mê cờ ấy nhỉ? Đã đành ông Tam nguyên là bậc có khí tiết, ông Tú Xương là tay trào phúng cừ khôi, nhưng thảo dã anh hùng, ta cũng phải kể đến chứ! Thế… thế… "đệ tam nhân" của Vũ là ai nào?".

    "Là cậu Ba, em vợ ông Tam nguyên, vừa nói trên đó!"

    "Vậy hả?"

    "Mà ông anh rể lừng lẫy tiếng tăm kia lại phải hạ bút viết vào cuốn thơ của ông em vợ mình hàng chục lần những chữ "Hy Tăng bái phục, bái phục" mới là tuyệt chứ!"

    "Thử đọc bài trong tập ấy coi! Xem có "bái phục" thật không. Hay chỉ là ông Tam nguyên muốn đẹp ý lão bà nên đã quá lời tâng bốc "cậu nó" đấy?"

    Vũ trầm ngâm, không đáp. Rồi chăm chú khêu lại ngọn đèn. Rồi nằm xuống… theo đúng thế nằm "cao ngọa". Nhiên hậu mới cao ngâm:

    Mỗi đam yên xúy bị nhân trào,
    Vạn khổ thiên tàn bất khẳng phao,
    Tọa áp sàng đầu nga dẫn cảnh,
    Phân lại chưởng thượng yến quy sào.
    Thủ tiêm đã toái phương thành khối.
    Tân địch xuy can thủy hợp dao.
    Mao ốc bán thiềm đăng nhất chản.
    Kê minh phong vũ thoại cùng giao.

    Tiếng ngâm của Vũ chưa dứt, Thứ lang đã phá lên cười, chảy cả nước mắt. Rồi đang nằm ở phía bên kia ngọn đèn bỗng ngồi bật dậy, tự thưởng một chén trà Thiết la hán. Rồi… kéo chiếc điếu lại gần:

    "Thú thật đệ chỉ lỗ mỗ về Hán tự thôi, nhưng bài thơ này có "thần" đến cực điểm, cho nên vì lẽ "thần giao" đệ mới "trực cảm" một cách thấm thía đến vậy chứ".

    Rít một hơi thuốc lào xong, họ Đinh lại tiếp:

    "Uổng quá! Nếu dịch nôm được mà "ngâm Tao đàn" thì hay biết bao!".

    Vũ từ nãy giờ chưa phát ngôn, vội ngồi nhỏm dậy:

    "Có dịch chứ sao không! Nhưng đọc nghe chơi thôi đấy nhé! Chớ có mà "ngâm Tao đàn". Thơ là Ngọc, đồng ý; nhưng Ngọc này kỵ nhiều thứ lắm, đem ra bày giữa chợ, đâu được!".

    "Ừ thì nghe chơi thôi. Đọc đi!"

    "Khoan! Còn điều kiện thứ hai nữa: phải nằm xuống cái đã, rồi hãy ngâm, hãy nghe".

    Và đây, bản dịch nôm của Vũ:

    Mặc chúng cười, say vẫn cứ say.
    Quản gì trăm đắng với ngàn cay!
    Trao tiền, ngỏng cổ cò bên sập!
    Vơ thuốc, tung mình én tới mây.
    Sái phải hà hơi khô quắt ruột,
    Tiêm cho thành điếu mỏi rừ tay.
    Nửa thềm mưa gió đèn leo lét
    Chuyện vãn canh gà bạn khố dây.

    Lại một cơn cười dài, đến rung chuyển cả tinh đẩu… Hoa đèn cũng rung theo, như giễu cuộc "thông cảm" trái thường lệ đó, một cuộc thông cảm ầm ĩ nhất thế gian.

    Rồi Đinh nhìn Vũ bắt nọn: "Dịch ‘thơ tri kỷ’ không thể chỉ dịch một bài. Hẳn còn nhiều bài khác mà huynh giấu đệ?".

    "Chịu thầy, chịu thầy! Nhưng chỉ sợ dịch không lột được tinh thần của nguyên tác, thì mang tội thất kinh với tiền nhân. Tâm huyết của người ta mà! Kể cả thơ ngâm vịnh!"

    "Thì một bài nữa thôi vậy. Ngâm hoa vịnh nguyệt cũng được đi!"

    "À, có bài thơ Vịnh hoa cúc".

    "Hay! Hay lắm! Hoa đèn vừa kết thì hoa cúc đến ngay, đồng khí tương cầu có khác! Nào, ta thử "tái đáo Thiên thai phỏng ngọc…" xem sao! Đâu phải ai cũng xấu số như hai chàng Lưu, Nguyễn!"

    "Đành thế rồi. Nhưng bản động chủ xin mời khách hãy "tái cao ngọa" cái đã! Thơ ở đây không có lệ ngồi nghe, ngồi ngâm!

    Thời gian lại qua đi, bóng chiều bắt đầu vẽ trứng gà trên vách ván, chủ nhân họ Vũ mới ngâm bài thơ thứ hai.

    Thơ rằng:

    Khai hướng thu thiên phẩm dị thường
    Như hà Đào kinh nhất thời hoang?
    Tẫn giao tùng bách cô lăng tuyết
    Tòng thử sơn hà chỉ kiến sương.
    Nhất khứ đốn giao không Lão phố
    Trùng phùng ưng nghĩ hự Trùng dương.
    Cận lai tiêu tức tri hà tự;
    Đa thiểu tinh thần phó Túy hương.

    Và dịch rằng:

    Phẩm vượt trời thu đáng tiếc thay
    Một phen Đào lệnh để hoa gầy!
    Non sông từ đó mờ hơi rét
    Tùng bách tha hồ được tiếng hay.
    Ngơ ngác Cố viên đời ngóng hão,
    Lân la Trùng cửu chuyện cầu may.
    Nghe như đã tối nào trăng sáng,
    Trút cả hồn thơm cho nước say.

    Bài dịch Nôm thứ hai vừa đọc dứt, thì khói xanh cũng tràn ngập gian phòng, xóa luôn cả mấy chục chiếc "trứng gà" trên vách.

    Họ Đinh thở dài. Chủ khách cũng im lặng.

    Đột nhiên cả hai cùng nhìn nhau, và nhìn về phía ngoài trời đen kịt bóng tối.

    Đưa khách ra đầu con ngõ hẻm, Vũ còn đọc thêm hai câu thơ của bậc danh sĩ tiền bối kia, người đáng được sắc phong là "Cậu Dài móng can đảm nhất". Vâng, chỉ can đảm thôi!

    Vì nói đến tâm huyết, khí phách, thì cậu đã có thừa! Con ông Nghè Vị Xuyên mà nghèo nhất tỉnh Nam, thế cũng đủ biết!

    Hai câu thơ như sau:

    Giang sơn nhập dạ trùng vi chính
    Thiên địa phi thu thụ hữu thanh.

    Và dưới đây là Vũ tạm dịch:

    Sâu bọ nắm quyền, lâu mới sáng;
    Cỏ cây khóc hận, cứ gì thu!

    Chỉ mười bốn chữ thôi mà như vẽ ra "cái thuở ban đầu Pháp thuộc", khi mà ông Tam nguyên Vị Xuyên đã thà chết không đi sứ Tây, cũng khi mà ông Tú Vị Xuyên mới chập chững vác lều đến cổng trường thi Nam Định.

    Tuy nhiên, đó chỉ là ý nghĩ thầm kín của Vũ. Chứ còn Đinh Thứ lang thì đã lê gót ra khỏi ngõ, hồn mộng bay tới tận nơi nào rồi, thời gian và không gian đều bất chấp.

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Nhất Thống tiên sinh


    Viết xong bài "Người xưa giờ đâu?", nằm đọc lại dưới ngọn đèn tàn không đủ sức tỏa chiếu, tôi chợt xúc động triền miên, không tự ngăn nổi, hai giòng dư lệ.

    Tôi vừa nghĩ đến người con trai độc nhất của "Cậu Ba Vị Xuyên", người mang tên Thống – mà tôi đã từng gán cho mỹ hiệu: Nhất Thống tiên sinh – cũng là một người "nghèo nhất thiên hạ", như Cậu Ba trước kia; và ngay từ thuở còn học trường tiểu học tỉnh Nam tôi đã coi là một "vong niên tri kỷ".

    Chính bậc "vong niên tri kỷ" này đã khuyến khích tôi trên bước đường sáng tác; và ngay khi tập Thơ say của tôi được ấn hành (1940), đã tìm đến tặng tôi một chiếc quạt trên có đề thơ. Nét bút nặng trịch u hoài, quằn quại như cả một thân thế không lối thoát; nét bút ấy, tôi không lạ lùng gì cho lắm; nhưng bài thơ đề trên quạt đã khiến tôi vô cùng ngạc nhiên. Thế ra lần này Nhất Thống tiên sinh "phá cựu lệ"? Cũng hạ bút, cũng sáng tác như ai?

    Nguyên ủy là tiên sinh vẫn thường tuyên bố: "Tôi là con của một danh sĩ, như thế đủ rồi. Cần chi đến tôi phải làm thơ! Mà thí dụ tôi có gắng làm đi nữa, thì thơ ấy cũng chỉ là những cái bóng mờ, những tiếng vang yếu ớt của thơ cha tôi mà thôi. Muốn gặp tiên, phải vào sâu tận cuối hang chứ! Sao lại quanh quẩn nơi dòng suối gấm, rừng hoa đào làm chi!".

    Ấy thế mà hôm nay tiên sinh lại vẽ ra cho tôi thưởng thức cả một giòng suối rừng hoa… Tôi không ngạc nhiên sao được!

    Sáng tác của tiên sinh như sau:

    Hành ca cổ phúc cánh xương cuồng
    Không tác ngang tàng nhất túy vương.
    Trần ai chân vật sắc
    Thiên địa nhất không nang
    Càn khôn phiếu diểu
    Hồ hải thương mang.
    Phong vũ chi Lưu Lang đắc cú
    Đăng lâm chi Đỗ Mục tha hương.
    Học cổ nhân phong lưu mộng trung chi túy hề hà thương!
    ° ° °

    Ngay tại trận, tôi đã có bài "dịch nguyên điệu" và đúng cả số câu số chữ, như sau:

    Hát ngao vỗ bụng khoái cơn cuồng,
    Làm cái "Không-làm"… Một túy vương!
    Đất trời kia: túi rỗng!
    Cát bụi này: kim cương!
    Trước sau mù mịt
    Rừng biển đầm hang…
    Mưa gió chàng Lưu thơ lất phất
    Quê người Đỗ mục rượu lang thang.
    Học cổ nhân có hề chi mà!... dòng Say ta đi hoang.
    ° ° °

    Cộng tất cả năm mươi tám chữ, chia làm chín câu. Bài dịch này, Nhất Thống tiên sinh khen là có "phong cốt" lắm. Nhưng ngâm đi ngâm lại hàng chục lượt, qua đến mấy tuần trà và mấy phen ngồi dậy khêu đèn sửa bấc, tiên sinh bỗng cười lớn, vung tay:

    "Đã thế, tội gì anh tôn trọng nguyên điệu! Cứ phóng bút rồi nó muốn ra điệu gì thì ra, mấy câu thì mấy chứ, cần gì nào!".

    Tôi chịu quá. Nhưng "hứng bất khả ép", đành để dịp khác thôi. Kẻo rồi lại đường cùng, phải khóc mà quay về như Nguyễn Tịch, thì mất cả thú!...

    Cái "dịp khác" này, phải 8 năm sau mới chịu lững thững lê gót đến. Mà lúc đó, giang sơn đã đổi chủ, đào kép đã thay tuồng; Nhất Thống tiên sinh và tôi đã trở thành "dân tản cư, dân chạy loạn".

    Dầu sao cũng vẫn còn chút phong độ cuối mùa: trà vẫn pha, đèn vẫn thắp, và khói thơm vẫn tỏa rộng, bất chấp ngọn lửa chiến cuộc đang bùng cháy từ Hà Nội lan ra.

    Và cuối cùng thì "hứng thơ" lại nổi dậy, tôi hoàn thành bản phóng dịch bài "Hành ca cổ phúc…" như sau:

    Vỗ cái trống bụng
    Ta nằm ta ca.
    Rằng điên cũng đúng
    Rằng ngóng cũng là!
    Ngang tàng giữa cõi người ta
    Một Vua Say… Mấy ai mà, ngàn xưa?

    Đất trời: túi rỗng.
    Ngày đêm: bụi nhơ.
    Ngọc vùi đáy động
    Cần chi bến bờ!
    Trùng lai mưa gió thành thơ
    Mười năm gánh rượu say mờ cố viên…

    Học theo người trước
    Say thánh say hiền,
    Phất phơ lan nhược
    Say "tĩnh’ say "yên".
    Và say vang bóng thuyền quyên
    Say luôn cả cái "hư huyền"… đã sao?

    Nghe tôi đọc xong, Nhất Thống tiên sinh vỗ đùi tán thưởng:

    "Ừ, đã sao? Hỏi rằng đã sao nào? Say luôn cả cái Hư huyền đi… cũng được lắm chứ!".

    Rồi đột nhiên tôi cảm thấy giọng nói giọng cười của tiên sinh có chút gì lạnh lẽo ghê rợn. Lửa trong hỏa lò đã vạc dần. Lửa trên ngọn bấc cũng nhạt nhòa tê tái, như có sương mù vây quanh.

    May sao, một tiếng chuột rút phá tan bầu không khí nặng nề. Tôi cười giọng, buông một câu nửa an ủi, nửa cợt đùa:

    "Ông sắp giàu rồi, lo gì! Có điềm báo trước đấy".

    Tiên sinh không trả lời, nhưng vẻ mặt đang lạnh như mồ hoang bổng đổi ra trịnh trọng, cầu khẩn:

    "Anh còn trẻ, duyên nợ với thơ còn dài. Mong anh đừng quên nhau. Và cũng mong anh nhớ cho cái việc tôi nhờ anh… từ lâu lắm rồi thì phải!".

    "À… Bài thơ đó hử? Đệ không quên đâu, nhưng khó dịch quá, vận dụng chữ nghĩa không nổi? Nhất là hai câu tam tứ và câu cuối cùng".

    "Thế là tôi chẳng bao giờ được nghe chứ gì? Đáng hận thật!"

    "Ơ hay! Chẳng bây giờ thì tháng sau, năm sau. Thế nào ông cũng được thưởng thức cái tài "dịch liều lĩnh bất chấp" của tôi mà!".

    "Làm gì có tháng sau, chứ đừng nói năm sau nữa! Tôi chỉ còn mấy ngày trước mặt thôi. Nhưng… cũng chả sao! Miễn đừng quên nhau là được. Và nhớ cho rằng bài thơ ấy, tôi đã chỉ đọc riêng anh nghe thôi, và anh sẽ vì tôi mà chuyển sang Quốc âm, được câu nào hay câu đó. Dầu tôi về nằm sâu dưới đất, tôi cũng vẫn lắng tai".

    "Cụ Hoàng Giáp Mai Sơn…"

    "… Nguyễn Thượng Hiền".

    "Vâng, cụ Nguyễn Thượng Hiền đối với lệnh tôn thật là chí tình. Chả biết sau khi lệnh tôn đã nằm xuống, và cụ Nguyễn đã lang thang nơi hải ngoại hoạt động cho cách mạng, có lần nào cụ nhớ đến thơ, đến bạn thơ xưa, để ngâm lại bài phúng điếu lâm ly ấy không nhỉ?".

    "Điều đó tôi không biết. Nhưng có điều tôi tin chắc rằng khi cụ Nguyễn vẩy rượu quanh mồ và đọc bài thơ phúng điếu kia, thân phụ tôi nằm dưới đất đã nghe không sót một chữ… Cũng như rồi đây tôi về hầu cạnh người, tôi vẫn còn đợi bản dịch của anh".

    Tôi bàng hoàng. Và xúc động tới run rẩy. Nên không dám ngồi lâu nữa. Tưởng chừng như nói xong lời trăn trối này, Nhất Thống tiên sinh sẽ ngã gục bên ngọn đèn tàn, chẳng bao giờ tỉnh dậy.

    Bài thơ Hán tự của cụ Hoàng Giáp Mai Sơn, viết từ đời Thành Thái, như sau đây:

    Tiên huyết lâm ly sái chỉ hồng
    Thanh sơn nan trắc hải nan cùng.
    Thịnh Đường cảnh giới khai toàn Việt
    Lão Đỗ môn đình kiến thử ông.
    Thiên cổ hữu nhân đồng loại tửu
    Tiền đồ vô lực thất truy phong.
    Cánh kham hướng bích trường vi phúng
    Nhiễu thất quần sồ ngữ vị công.

    Và sau, tôi dịch Quốc âm, cũng gieo vần ở câu Phá:

    Lệ nhỏ đầy trang máu thắm hồng
    Non xanh dằng dặc biển mênh mông.
    Thơ Đường cõi Việt đang vừa thịnh
    Lão Đỗ thời nay chỉ có ông.
    Mả lạnh đây còn hương loại tửu
    Dặm trường đâu nữa sức truy phong?
    Khóc ai những muốn quay vào vách
    Bập bẹ đàn em mới vỡ lòng!

    Lẽ dĩ nhiên tôi chỉ dịch để mà dịch, chứ còn Nhất Thống tiên sinh thì sau lần gặp ấy, có bao giờ tôi được tái ngộ nữa đâu.

    Sài Gòn, 1971

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Sao lại thế được?


    Cách đây hai mươi năm, ngay khi vào làng văn để nhận lấy cái nghiệp dĩ của những người cầm bút, tôi đã nghe đại danh ông tú Phan Khôi, như sấm dậy vang tai. Nhưng phải đến năm Bính Tuất (1946) tôi mới có dịp cùng tiên sinh hạnh ngộ. Buổi nhất kiến thật đã như định trước bởi duyên trời.

    Hôm đó, tiết cuối thu… Cái lạnh của miền Bắc đã thấm vào lòng một gã ưa thú họp bạn ngâm văn. Chịu không nổi nữa, tôi bèn lấy một chuyến xe lửa mà "giang hồ vặt" từ Nam Định lên Hà Nội. Cho được tự cởi mở tuềnh toàng theo đà cuồng hứng. Cho được sống hẳn vào nhịp sống vừa tao nhã vừa sôi nổi của đất ngàn năm văn vật, của hồ Trúc sông Hồng.

    Bước xuống ga Hàng Cỏ, tôi về trụ sở Ban Kịch Đông Phương. Ở đấy, tôi được tin các văn hữu Kinh kỳ đang chào đón một số anh em từ miền Trung miền Nam mới ra. Tôi lấy làm tiếc lắm. Vì buổi họp bắt đầu những từ năm giờ chiều. Vậy mà lúc tôi đặt chân vào vỉa hè Hàng Lọng thì ba mươi sáu phố phường đã nhất tề khai đăng.

    Ngồi mạn đàm với họa sĩ Hoàng Tích Chù và nữ kịch sĩ Tuyết Khanh, câu chuyện nghệ thuật chưa đi hết một tuần trà, tôi đã thấy lừng lững hiện lên từ cầu thang gác cái mũi khoằm khoằm rất cá biệt của anh bạn họ Nguyễn. Dáng điệu bí mật, anh trịnh trọng tuyên bố: "Xin lỗi toàn thể Ban Kịch, tôi có chút việc riêng, cần phải mượn tạm Vũ quân đây…".

    Cả bọn phá lên cười: "Bất phương! Bất phương! Cứ mượn dài hạn đi cũng được, ông Tuân ạ!".

    Thế là tôi cùng Nguyễn Tuân vội vã ra đường.

    "Này! Ông Phan Khôi muốn gặp anh đó! Mà gặp ngay tức khắc kia! Đi chứ?".

    Rồi không đợi tôi trả lời, anh vẫy luôn một chiếc xe kéo, ra lệnh cho "cọp" lồng thẳng xuống bãi Phúc Xá, nơi "ngự trị" của tác giả bài "Nhớ rừng".

    Quả nhiên ông Phan đang có ý trông đợi! Cái phút nhìn mặt cầm tay đã hào hứng phi thường. Lần thứ nhất tôi cùng Phan Khôi hạnh ngộ.

    Chiều hôm sau, thấy tôi ngỏ lời cáo biệt, tiên sinh trầm ngâm nửa khắc, rồi bảo: "Được, hai ta sẽ cũng đi".

    Tôi cười thầm tự nhủ: "Gió đã lên!". Và, bắt chước kiểu Nguyễn "mượn tạm" tôi ở Ban Kịch Đông Phương, tôi cũng chỉnh lại áo khăn, trịnh trọng xin phép Ban Kịch Thế Lữ cho "mượn tạm" ông Tú Khôi ít bữa.

    Một già một trẻ, thẳng đường về bến Vị non Côi… Và, trong căn gác xép ở bờ sông, dài như cái ống, tối như cái "hũ Xuân Thu", tôi đã tiếp chuyện Phan tiên sinh hai ngày tròn với hai đêm trắng; toàn chuyện văn chương cả, mà quái thay, dứt không ra nữa thôi!

    Nguyên do: Buổi liên hoan tại Hà Nội, kịch sĩ Hoàng Cầm được ban tổ chức đề cử ra ngâm mấy bài thơ gọi là để thắt chặt mối duyên văn nghệ Nam Bắc. Tình cờ trong số bốn bài ấy lại có một bài của tôi. Bài ca sông Dịch đó vậy! Thai nghén từ 1940, nó đã bị Ban Kịch Thế Lữ thúc đẩy bằng "đủ mọi phương tiện" để ra chào đời năm 1943, cốt mượn dùng làm khai từ cho vở kịch Kinh Kha của Vi Huyền Đắc. Rồi chuyến này, chính nó đã khiến ông Phan Khôi "thú" tác giả và nóng lòng muốn gặp mặt ngay…

    Ấy là ông bảo thế! Chứ riêng phần tác giả, thì phải hiểu rằng người ta "thú" đây là "thú" cái tinh thần hào hiệp của anh chàng giết hụt Tần bạo chúa ở Hàm Dương kia!

    Ồ! Hiểu cách nào thì hiểu! Mặc ý tác giả! Điều ấy bất túc luận. Nhưng can hệ là cái cử chỉ kia đã nói lên những gì về "con người của ông Phan Khôi"?

    Thiết tưởng nó đã nói lên đủ lắm!

    "Còn chưa đủ ư? Thì đây: suốt hai ngày đêm, trong cái dài dằng dặc và cái tối mò mò của "gác ống", phố Bờ sông, Phan Khôi đã cao đàm hùng biện, hứng khởi thao thao, giọng sắc bén như chém đinh chặt sắt. Ông căm thù bạo lực, ông phản kháng độc tài, ông lên án mọi hình thức dân chủ giả hiệu. Ông có thừa phong độ cốt cách của một nho sĩ ngang tàng bất khuất, cộng thêm vào cái kiến thức sâu rộng của một tay lịch lãm giang hồ. Lắm lúc ông nói như gào như quát, sang sảng lạnh người.

    "Không thể được! Sao lại thế được? Văn nghệ phải là văn nghệ! Thiếu tự do, thà ném bút đi! Cầm lấy một mũi nhọn khác!".

    Phải chăng hào khí Kinh Kha đã nhập vào con người thâm trầm quắc thước này? – Không! Tôi tin rằng lòng phẫn nộ của Phan Khôi có thể bốc lên cao hơn và mãnh liệt hơn cái oán khí cầu vồng trắng xuyên mặt trời của kẻ "một đi" trên bến Dịch.

    Con người ấy! Buổi hạnh ngộ ấy! Tôi mà quên được ư? Và năm ấy, tôi còn nhớ là năm 1946! Triều Nguyễn chấm dứt vừa đúng mười ba tháng trời.

    Sau đó ít lâu… Khói lửa bùng lên từ Hải Phòng, từ Hà Nội… và lan tràn khắp các thị trấn trung châu. Tôi vâng lệnh huyên đường tạm dời về miền duyên hải. Ngày dài đằng đẵng, hết xuân rồi lại thu… Lòng nhớ bè bạn làng văn càng như thiêu như đốt. Bỗng một hôm, tôi nhận được từ Thái Nguyên gửi về không phải một lá thắm buông theo giòng nước biếc, nhưng một lá thư trao theo kiểu chim xanh…

    Ngoài phong bì, chỉ có hai dòng: Vũ Hoàng Chương, Nam Định. Và bên trong vẻn vẹn một bài luật thi với chữ ký: Phan Khôi.

    Thật không sao kể xiết được những cảm xúc của tôi phút bây giờ! Cảm xúc đến suýt quên rằng thư này chưa chắc tôi đã là người đầu tiên mở ra đọc. Thư rằng:

    Ngừng tim lặng óc bặt giòng tình
    Tai mắt như không phải của mình
    Thấy dưới ánh trăng muôn khúc nhạc
    Nghe trong tiếng ếch một màu xanh
    Suối tiên đắm đuối bao cho chán
    Khối mộng vờn mơn mãi chẳng thành
    Thú ấy từ lâu không có nữa.
    Ngủ say thức tỉnh, dậy buồn tênh.

    Ôi! Câu phá đề sao nghẹn ngào u uất đến thế? Cả một giòng máu bị thắt nút đang sôi sục phá phách đòi tự do! Rất sẵn sàng vì tự do mà "lưu huyết". Câu thừa đề mới lại mỉa mai não ruột đến đâu! Tai mắt còn "không phải của mình", hỏi ngọn bút cầm ở tay có thể nào "của mình" được nữa chứ?

    Nghe thấy màu, trông thấy nhạc, tai mắt loạn rồi ư? Mà không "loạn" sao được? "Không phải của mình" kia mà! Đến như "Suối tiên đắm đuối, khối mộng vờn mơn", niềm khao khát tự do quả đã tuôn tràn đè trĩu khắp trang giấy.

    Ồ! Hiển nhiên lắm rồi! Vì đây là hai câu kết:

    Thú ấy từ lâu không có nữa…
    Ngủ say thức tỉnh, dậy buồn tênh.

    "Thú ấy" là thú nào? Nếu không phải cái thú tự do mà con người văn nghệ quyết tranh đấu cho kỳ được, nắm giữ lấy như tính mạng, hơn cả tính mạng có khi!

    Thế mà "từ lâu…". Trời hỡi! Niềm cảm xúc dâng cao. Tôi nằm dưới một túp lều tranh tại phủ lỵ Xuân Trường, ngâm đi ngâm lại bài thơ của Phan tiên sinh, mà cả một tâm sự đột nhiên được cởi tung mở phắt. Một tiếng xướng phải có muôn tiếng họa! Lẽ nào trong muôn tiếng họa ấy lại thiếu tiếng họa của một kẻ từng vui nhận lấy văn chương làm nghiệp dĩ hay sao?

    Cho nên tôi đã họa nguyên vần bài luật thi của Phan tiên sinh và đã gửi đi tức khắc. Tính ông Phan nóng như lửa, nếu giữa khoảng tiếng xướng tiếng họa mà im lặng đến hai mươi bốn giờ, ấy là tôi đã đắc tội với bậc vong niên tri kỷ lắm rồi đó!

    Bài họa vần như sau:

    Trời vô tâm quá, đất vô tình…
    Biết gửi vào đâu cái "chính mình"?
    Tiếng ếch đã trùm lên tiếng sóng
    Màu đen lại ngả xuống màu xanh.
    Uổng cho thơ dẫu bày trăm trận
    Ngán nhẽ sầu khôn phá một thành.
    Tưởng tới nguồn Đào thôi lại tiếc!
    Con thuyền đêm ấy nhẹ tênh tênh.

    Thơ trao đi, lòng còn thắc mắc. Cho đến mãi giờ phút này!

    Không biết hồi đó Phan tiên sinh có tiếp nhận được chăng? Mà từ đấy biệt vô âm tín…

  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Đại Ẩn am không


    Buổi gặp đầu tiên với tác giả bài Thăng Long hành đã diễn ra không ở nơi nào khác mà ở ngay nơi "ngàn năm văn vật đất Thăng Long"; giữ vai trò liên lạc cũng chẳng phải người nào khác mà chính là người chủ trương nhà xuất bản Thăng Long. Kỳ diệu thay! Duyên hàn mặc, ai dám bảo không trên đá ba sinh ghi sẵn?

    Thuở ấy… chừng như mùa thu. Và thế kỷ hai mươi vừa đứng bóng thì phải. Thật ra cái bóng ấy đã nhích đôi chút về phía bên này, nghĩa là vào khoảng 1952, 1953… chi đó! Nhưng nếu đọc tới đây, một số thân hữu của tôi có bất chợt nổi hứng vỗ án mà ngâm lại hai câu thơ:

    Lưng chừng thế kỷ thứ hai mươ 1
    Khoảng giữa mùa thu đẹp tuyệt vời…

    thì vẫn cứ được đi! Không ai bắt uống rượu phạt! Lầm ngày lộn tháng, sai trật khoảng mười năm trở lại, đâu có ăn nhằm gì!...

    Vâng. Anh bạn Vũ Minh Thiều, giám đốc Thăng Long xuất bản cục khoảng 1952, 1953 đã hướng dẫn thi sĩ Đông Hồ đến tìm tôi, ở tận ngõ hẻm kế cận Đài Khuê Văn, giữa một vùng cỏ áy nước ao tù, phảng phất mùi ẩm mốc tỏa ra từ rừng bia Tiến sĩ. Nơi mà:

    Sư biểu muôn đời nền tịch mịch
    Cung tường trăm ngọn nửa hoang vu
    Cương lồng chinh mã què chân hạc
    Củi thổi quân lương chẻ chữ thờ
    Khoa bảng bia còn hàng chữ khắc
    Khuê văn gác sót bóng sao thưa… 2

    Cùng đi với thi sĩ Đông Hồ cũng có cả nữ sĩ Mộng Tuyết, đôi chim liền cánh từ vùng trời sao Dực sao Chẩn vừa bay ra đất Bắc để góp chung nguồn cảm hứng vào tâm sự của:

    Bút tháp viết trời xanh chữ hận
    Nghiên đài tràn mực đậm màu thu.

    Buổi gặp ở "Giám Hồ hồ biên" chỉ ngắn ngủi trong vòng một khắc; giữa khoảng hai chén trà, Đông Hồ tiên sinh có đọc mấy câu thơ, rồi ngâm lên, âm hưởng bàng bạc như vô cùng xa lạ, mà cũng như quen thuộc từ lâu lắm, từ những thuở nào xưa!

    Đến nay giọng ngâm sương kính êm đềm kia vẫn còn nghe rơi rớt đâu đó mỗi khi tôi ngồi trầm mặc, pha chén trà thứ nhất trong ngày, khói bốc lên xanh ngát đón bình minh, kể cả mùa mưa mùa nắng…

    Nhưng mấy câu thơ ngẫu chiếm ấy ra sao? Bốn câu hay chỉ hai câu? Bảy chữ hay năm chữ? Tôi không nhớ gì hết, ngoài cái hình ảnh "ngõ trúc" mà ngay lúc đó thơ tiên sinh đã gieo vào cảm quan của tôi! Ngõ trúc? Phải rồi, những khóm trúc gầy úa trong con ngõ hẻm dẫn vào hiên Loạn Trung Bút của Hoàng Lang. Ngõ trúc! Nhớ được bấy nhiêu tưởng cũng đã quá đủ; hà tất phải làm nhọc ký ức thêm.

    Vì bấy nhiêu đó là "chân cảm". Còn ngoài ra, đều chỉ giữ phần "gấm dệt hoa thêu".

    Tiên sinh chẳng đã có lần tâm sự với tôi đó sao! "Thơ làm cả tập chỉ cầu lấy đắc ý một bài; trong cả hai bai ấy cũng chỉ cầu lấy ngọc đọng ở một chữ".

    Ôi, đó chính là cái Hồn đích thực của thơ Á Đông! Một chữ ngọc đọng, với hào quang "chân cảm" của nó, đủ soi sáng cả một bài thơ, cả một tập thơ, cả một thi nghiệp!

    Cho nên từ sau buổi "Con chim bằng vỗ cánh dời sang Nam Minh" tôi thường đến thăm tiên sinh, tham dự hoặc tổ chức những chiều ngâm vịnh xướng họa, cùng trao đổi biết bao là "ý ngọc tình châu".

    Tiên sinh còn nhớ chăng buổi họp thơ đầu năm Mùi, với đề thơ "Hương gây mùi nhớ"? Và tôi quên sao được cái phút tiên sinh mỉm cười trao tận tay tôi bài thơ luật viết theo đề "Trùng cửu thơ trao" nhân buổi họp cuối thu cũng năm Mùi ấy.

    Nhưng rồi qua năm Thân khói lửa mù mịt, sang năm Dậu tương đối yên hàn; tôi lại xướng lên đề thơ "Rày ước mai ao" thì tiên sinh lỗi hẹn bất ngờ, phụ lòng ao ước của làng Ngâm vịnh.

    Chợt nhớ lại một trong bốn bài thơ "Trùng cửu", bài vần TRAO, của tiên sinh có những câu:

    Rồng ở sâu và Tiên ở cao,
    Thơ làm lơ lửng giữa ai trao.
    Mùa về tháng Chín ngày mồng chín
    Ta ở nơi nào tự thuở nao…

    tôi không khỏi giật mình, ngẩng trông lên vòm sao thưa thớt: giờ đây "Đại Ẩn am không", biết tìm tiên sinh ở thuở nào, nơi nào được nhỉ?

    Tiên sinh vội chi mà lỗi hẹn? Vừa qua buổi nguyên tiêu được năm ngày, tôi đã vượt hai chặng xe Lam (Trần Quốc Toản – Phú Nhuận, rồi Phú Nhuận – Chi Lăng) đến tận Quỳnh Lâm Thư thất trao đề thơ và giấy mời họp, ấn định vào tiết Thanh minh, tháng Ba, ngày bốn. Tiên sinh đang có khách; nhưng cũng đọc đi đọc lại đề thơ, rồi cười hỏi: "Tại sao lựa đề tài này? Rày ước mai ao chuyện gì vậy?". Tôi lấy giọng thân mật trả lời: "… Thì… mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình!... đó mà". Tiên sinh vẫn còn thắc mắc: "Ai chả biết thế, nhưng… ờ… ờ! Thôi cũng được đi! Mà… còn xa ngày đó chứ?". Thế rồi tiên sinh đưa tôi ra tận ngoài hiên, gương mặt rất vui, cầm tay tôi khen ngợi thật tình: "Coi bộ Vũ Hoàng Chương vậy mà nhàn lắm nhỉ!".

    Ai ngờ đâu tới buổi họp tháng Ba ngày bốn thì tiên sinh rũ áo bụi hồng đã được hai mươi tám hôm rồi. Các thi hữu trên tiệc, từ nữ sĩ Đào Vân Khanh, tuổi còn hơn tiên sinh một giáp, cho đến Tôn Nữ Hỷ Khương, tuổi chỉ bằng nửa số tuổi của tiên sinh, ai cũng ngẩn ngơ thương cảm, vần điệu thôi sao cũng vướng mắc chập chờn. Nhân danh "kẻ mời tiệc hôm đó", tôi yêu cầu Hỷ Khương ngâm lên bài thơ mà tôi vừa hoàn tất, để cùng nhớ ĐÔNG HỒ ĐẠI ẨN AM.

    Thơ rằng:

    Trăng chiều in đó nét mày ai
    Nhạt tiếng gà trưa sắc nắng mai
    Ngày tháng góp nên thơ bảy chữ
    Sông hồ quẩy tới rượu hai vai
    Gió không thét nữa roi cầu Vị
    Mây đã về quanh tiệc bến Sài
    Tình bạn như hoa tùy hứng nở
    Đông Quân có hẹn nỡ nào sai

    Ôi mười hẹn một đơn sai
    Chỗ ngồi năm trước bóng ai đâu nào
    Hương cùng gây… Thơ cùng trao
    Mà quên Rày ước mai ao cho đành
    Hồn lai, hề, phong lâm thanh
    Ngọc nhân lai, hề, lạc hoa vô thanh
    Vạn đội tửu binh, hề, nan phá sầu thành 3

    Trên tiệc các bạn cũ
    Ai là không hoài cảm giấc phù sinh
    Đại Ẩn ẩn hà xứ
    Cao ngâm trướng bất bình
    Nhìn nhau mình lại thương mình
    Trầm xây Vương giả hương đình rối tơ
    Phải chăng giữa đợt khói mờ
    Tay ai giáng bút qua bờ âm dương. 4

    Tất cả đều lắng tai và xúc động tới đỉnh cao nhất của duyên Thơ tình Bạn.

    Riêng phần tôi, chỉ mong rằng những âm thanh gieo ngọc của Tôn Nữ Hỷ Khương có đủ ma lực dọn lối mời anh hồn tiên sinh về ngự giữa thi đàn. Và qua những âm thanh gieo ngọc ấy, may ra bài thơ của tôi có được một chữ nào "đọng ngọc" làm vừa ý tiên sinh chăng! Lệ là không ngọc ư, hỡi rừng xanh ải tối?
    --------------------------------
    1 Thơ Vũ Hoàng Chương.
    2 Thơ Đông Hồ (trong tập Bội lan hành, 1969).
    3 Ba câu đặt bằng Hán tự. Và có nghĩa như sau:
    Hồn tôi chừ rừng phong xanh
    Người ngọc tới chừ hoa rụng không tiếng
    Muôn đội binh Rượu chừ khó phá thành Sầu.
    V.H.C.
    4 Bài thơ gồm 23 câu nhưng có sự gián đoạn về thời gian sáng tác: sáu câu đầu đã viết từ trước khi Đông Hồ thi hữu lên đường; còn từ câu bảy trở xuống, đều đã sáng tác ngay trong buổi họp.

  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tâm tư thời đại


    Nữ sĩ Thanh Quan trước đây hơn một thế kỷ đã cất tiếng não nuột khóc thành Thăng Long, cảm thương cho nó trải từ Lý, Trần vẫn thường oanh liệt sắm vai trò Đế Đô, rồi chẳng tội tình gì cũng bị chấm dứt vai trò ấy một cách tàn nhẫn:

    Tạo Hóa gây chi cuộc hí trường!
    Đến nay thắm thoát mấy tinh sương…

    Thế là từ cuối thế kỷ thứ mười tám, kinh đô nước Việt dời vào Thuận Hóa tức Huế đô mà cũng thường được gọi bằng một cái tên văn vẻ: Phượng Thành. Đối lại với Long Thành!

    Khoảng 1947, nhân dịp tản cư, người viết bài này có duyên được đọc bài thơ Qua Huế cảm tác của nữ sĩ Mộng Thiên, và cứ chiếu theo năm vần của nữ sĩ họa lại như sau đây, gọi là nối dòng dư lệ của Thanh Quan, một đàng khóc thành Rồng, một đàng khóc thành Phượng:

    Nửa gánh gươm đàn tới Đế đô
    Mưa liền sông tạnh tưởng vào Ngô.
    Bìm leo cửa khuyết, ai ngờ rứa
    Rồng lẩn mây thành, chẳng thấy mô.
    Lăng miếu tỉnh chưa hồn cựu mộng?
    Vàng son đẹp nhỉ bức dư đồ!
    Tiếng chuông Thiên Mụ riêng hoài cảm
    Tốt đã vào cung… loạn thế cờ.

    Câu thứ hai vì vần "Ngô" khó quá, không họa thẳng được, nên phải cầu cứu đến thơ Đường:

    Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô…

    Câu ba câu bốn đều ám chỉ việc vua B. Đ. thoái vị đi lưu vong và triều Nguyễn cũng đồng thời chấm dứt.

    Câu tám đã nói màu đến thời sự: T.H.L. và C.H.C. vào Huế tước ấn kiếm Hoàng đế. Việc xảy ra cuối năm 1945.

    Thời gian không ngừng trôi, cuộc biển dâu lại tiếp diễn. Giữa năm 1954, kẻ viết bài này đã theo trăm họ vào Nam.

    Thị trấn Sài Gòn, thường gọi nôm na là Bến Nghé, vụt trỗi dậy sắm vai trò lịch sử của Thăng Long, Thuận Hóa trước kia; đã trở thành kinh đô Nước Việt, có quốc tế thừa nhận rõ ràng.

    Hà Nội (tức Thăng Long), Thuận Hóa (tức Phượng Thành), Sài Gòn (tức Bến Nghé)… Chặng đường lui xuống phương Nam ấy, biết có khơi dậy cảm xúc cho ai chăng, riêng Vũ Hoàng Chương thì chỉ biết ghi nhận một nét tâm tư thời đại:

    Long Thành đâu nhỉ? Phượng Thành mô?
    Lê, Nguyễn: Hai giòng lệ cố đô.
    Lệ chảy, chảy xuôi tràn Bến Nghé
    Giựt mình… Nam Hải sóng lô xô.



    Hết

Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12

Chủ Đề Tương Tự

  1. Phải Chi
    By giavui in forum Truyện Ngắn Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-18-2017, 05:42 PM
  2. Chi ơi đừng khóc nửa
    By giavui in forum Truyện Ngắn Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-25-2016, 02:30 AM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 07-15-2015, 11:34 AM
  4. Phải Chi
    By giavui in forum Truyện Ngắn Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-03-2014, 10:18 PM
  5. Ta đã làm chi đời ta
    By giahamdzui in forum Truyện Dài Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-27-2013, 12:43 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •