Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tiêu diệtt được mọi lo âu phiền toái trong tâm hồn, ấy là đã tìm được một nguồn hạnh phúc vĩ đại.
Kinh Udanavarga
Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12
Results 11 to 13 of 13

Chủ Đề: Bóng Ma Nhà Mệ Hoát

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Bóng Ma Nhà Mệ Hoát


    Bóng Ma Nhà Mệ Hoát

    Tác giả :Vũ Bằng




    Lời Nói Đầu


    Nhiều người hiện nay thiên về khoa học vật chất cho rằng linh hồn, ma quỷ hay những điềm báo trước đều là những sự tưởng tượng bịa đặt ra để mê hoặc lòng người, để lợi dụng những người cả tin. Sự thực trái hẳn: ngày nay có nhiều nhà tri thức, bác học tin rằng ngoài đời sống hiện tại của chúng ta, còn có một thế giới vô hình mà chúng ta chưa hiểu thấu được.

    Chép lại câu chuyện Bóng Ma Nhà Mệ Hoát mà các bạn sắp đọc đây, tôi chỉ làm công việc của một nhà soạn tuồng Hy Lạp khi xưa, của những nhà văn La Mã, của tác giả "Ursule Mirouet" cũng như biết bao nhiêu các nhà văn hiện đại Âu - Á khác; để ghi lại một ít hiện tượng và sự việc thuộc về tâm linh".

    Tôi chỉ thuật lại câu chuyện mà các ông già bà cả ở đây nhất là ở xóm Bến Nghé cũ, chạy dài từ khu Chợ Quán tới Hiển Trung Tự và Cơ Xưởng Thủy Quân (bây giờ là khu Trần Hưng Đạo, Lý Thái Tổ, vòng thành Ô-Ma) vẫn còn nhắc nhở tới mỗi khi kể lại chuyện "Sài Gòn ngày trước"...

    Vũ Bằng

    Chương Một

    Quả tình đến tận lúc bấy giờ tôi mới biết Trần Hữu Lăng là người Nhật.

    Giao thiệp với ông ta mười một năm trời, tôi cũng như bao nhiêu bạn bè khác đều yên trí Lăng là người Miên lai các chú, rồi làm ăn giàu có ở Cam Bốt, rồi vì lý do gì đó trở về đây để sống một cuộc đời yên ổn. Chính vì thế điệu bộ hơi ngờ nghệch, cái giọng lơ lớ không ra Tàu không ra Việt của ông không làm cho người nào trong bọn chúng tôi phải lấy làm ngạc nhiên.

    Lăng ít nói, ngồi chuyện trò ở chỗ đông người thường thường chỉ cười tán thành, ít khi chống đối ai. Nói cho đúng ai cũng thương ông và công nhận ông là người thật thà. "Mà lại hiền lành tệ!". Nhưng cũng như hầu hết người hiền lành khác, Lăng có tính cộc. Tôi còn nhớ một hôm ngồi nhậu với nhau ở hàng hiên nhà một người bạn, chỉ vì một câu đùa cợt không đâu, Lăng không tiếc lời chửi rủa một người bạn đã nói rằng y mê gái và định lấy con gái một chủ vựa cá ở Cầu Ông Lãnh.

    Lăng trợn mắt la lên:

    - Tôi lấy con gái một người bán cá? Không đời nào. Nhất định là anh lầm rồi!

    Thấy Lăng đỏ mặt, tía tai, tỏ ra tức giận, người bạn chọc thêm:

    - Thôi mà, chỗ anh em thân cả, việc gì mà phải giấu. Chính bố cô ta đã nói thế với bà con họ hàng. Thêm một lẽ nữa, nói ra anh phải chịu, không cãi vào đâu được. Ba Quẫy, tức là bố cô gái, làm gì có tiền để mở vựa cá? Tiền ấy, cả làng biết là của anh...

    Tuyệt nhiên không biết là bạn bè chọc mình trong lúc ngà ngà say rượu để anh em vui vẻ với nhau, Lăng cầm ly rượu ném xuống đất, đứng lên, nhất định không uống nữa.

    - Tôi không thể ngồi với một người vu cáo tôi như thế.

    Anh em xúm lại khuyên can giải thích đó chỉ là chuyện cà giỡn cho vui, nhưng Lăng nhất định không quan niệm anh em bè bạn với nhau lại có thể cà giỡn một cách độc ác và vô duyên như thế. "Đó là mạ lỵ nhau, đó là vu cáo!". Chưa hả giận Lăng còn đập bàn ghế om sòm và muốn xông lại đánh người bạn vừa nói giỡn một câu vô ý thức. Những lúc đó, Lăng không còn là một người hiền lành, ngớ ngẩn như người ta vẫn tưởng, nhưng quả là một con thú dữ muốn nhảy vào con mồi để nuốt sống ăn tươi.

    Sau đó, một số người cho là tại rượu. Một vài người khác lại cho là ở đời vẫn có một loại người như thế: bất cứ việc gì cũng cho là quan trọng và không thể để cho ai đùa giỡn mình về bất cứ phương diện gì.

    Nhưng ý kiến của hạng sau chót này được coi như là có nhiều hy vọng đúng hơn hết: Lăng là người Miên lai các chú, nghĩa là người có 2 dòng máu; những người này tinh khôn, lèo lái và khéo chiếm được lòng người ta mỗi khi thấy có lợi tinh thần hay vật chất cho mình, nhưng cái máu du mục và hiếu chiến của ông cha họ sống không kiềm chế trên núi cao, trong rừng rậm, thỉnh thoảng lại bừng lên trong huyết quản họ và do đó phựt lên những hành động mà chính họ không thể nào kiểm soát.

    Nhưng muốn phê bình Trần Hữu Lăng cách nào đi nữa thì hầu hết anh em ở trong bọn chúng tôi đều phải công nhận rằng Lăng là "một người chơi được" vì anh thẳng tính. Mà phần đông những người thẳng tính là những người không phản bội. Đáng sợ là những người không có cá tính rõ ràng lúc nào cũng tìm cách làm vui lòng tất cả mọi người làm vui lòng để rồi đến khi cần, đến khi xét ra cần phải lấy lợi cho mình thì giở mặt phản bội và nếu cần có thể giết người không thương tiếc.

    Câu chuyện con gái ông chủ vựa cá ở chợ Cầu Ông Lãnh qua đi. Sự giao du giữa Lăng và chúng tôi, vì thế, vẫn nguyên vẹn không có gì thay đổi. Thường thường ngày nào chúng tôi cũng khề khà uống rượu và trò chuyện với nhau, khi ở nhà người này, khi ở nhà người nọ.

    So với anh em khác, Lăng cũng có đồng ra đồng vào, nhưng kể vào lớp tuổi chúng tôi, Lăng tương đối là một người vất vả.

    Anh đã bao nhiêu tuổi? Có lẻ đến năm mươi lăm, năm mươi sáu. Nhưng vóc dáng khoẻ mạnh, đôi mắt tinh tường và các bắp thịt tay rắn chắc của anh chứng tỏ anh hãy còn mạnh lắm. Chẳng thế vì công việc làm ăn, có khi anh phải đi xa đến bốn, năm ngày, hay một tuần lễ, vậy mà về đến nhà chỉ tắm rửa qua loa rồi nghỉ ngơi chừng một tiếng đồng hồ anh lại tìm đến chúng tôi nhập bọn khề khà một hai chén rượu, có khi thức đến một hai giờ sáng vào bếp làm món ăn đưa ra nhậu mà không tỏ ra mệt mỏi.

    Vào những lúc đêm khuya ngày rạng, anh em trò chuyện tâm tình với nhau như vậy, có lần tôi hỏi thật Lăng thỉnh thoảng đi xa như vậy là đi đâu. Lần nào, Lăng cũng trả lời:

    - Đi ra Trung thăm nhà ở dãy Trường Sơn.

    - Bộ anh làm rừng sao?

    - Tôi vào dãy Trường Sơn có việc. Và tôi cũng có ý muốn gặp vài người bạn làm sơn, nhưng chưa đến. Tôi mà gặp họ, chắc chắn là anh em mình giàu to.

    Sợ rằng hỏi thêm nữa sẽ mang tiếng tò mò, nhiễu sự, tôi không hỏi thêm gì nữa.

    Thế rồi chuyện căn nhà có bóng ma ở Chợ Quán xảy ra. Trần Hữu Lăng chết bất tử, sau khi ăn bữa tiệc tân gia ra về. Anh bị cấm khẩu liền khi ngã lăn ra ở trước cửa nhà tôi. Ba người chở anh đến bệnh viện cấp cứu, nhưng vô ích; anh chết dọc đường. Mà lạ là lúc chở anh vào nhà thương, bác sĩ khám nghiệm thì xác của anh tự nhiên đầy những vệt nhỏ lăn tăn, có chỗ bầm tím, có chỗ rươm rướm máu như bị trăm ngàn miểng sứ, miểng sành cứa nát.

    Vụ này làm cho tôi mất công đi lại cò bót mấy tháng trời. Nhà chức trách thẩm vấn tất cả những người có mặt trong tiệc đó vì họ nghi ngờ là một vụ âm mưu cố sát, một vụ đầu đọc hay trả thù gì ghê gớm lắm. Nhưng rốt cuộc chẳng ăn thua gì cả: cái chết của Trần Hữu Lăng, mặc dù hết sức bí mật, hết sức khả nghi, vẫn cứ chìm vào trong lãng quên như thường.

    Mấy năm đã qua rồi! Trong thời gian đó, bọn anh em chúng tôi thiếu mất đi vài người: hai người chết, một người đi ra nước ngoài, còn một người nữa thì đứt gân máu, nằm một chỗ liền ba năm trời. Chúng tôi chỉ còn lại có bốn người, vẫn hội hợp với nhau nhậu nhẹt và kể lại sự thương nhớ các bạn cũ cho nhau nghe và cùng buồn với nhau - chớ còn biết làm gì nữa? Cái thác nước nào lúc mới đầu chảy ở nguồn ra mà lại không dạt dào, dữ dội, gào thét gớm ghê? Nhưng cái thác nào chẳng vậy, đến lúc chảy xuống thung lũng, đồng bằng nhập vào sông lớn sông con cũng hiền hoà êm dịu.

    Chúng tôi đang sống một đời sống êm diệu y như những con chim nằm trong tổ thò đầu xuống để nhìn cái thế giới biến đổi trong nệm cỏ bóng cây, trong phấn hoa hương gió thì ông Ômya, một buổi tối lạnh trời, đến tìm đúng nhà tôi nói chuyện...

    Chương Hai

    Tại sao ông Ômya lại tìm đúng nhà tôi? Mà để làm gì chứ?

    Thoạt đầu, thấy ông hỏi, tôi tưởng là ông lầm địa chỉ, nhưng sau thấy ông kêu rõ tên tôi, tôi nghĩ rằng ông tìm tôi để một là nói về câu chuyện làm ăn, hai là để kiếm chuyện lôi thôi gì. Là bởi vì mặc dù tôi không quen ông Ômya bao giờ, nhưng tôi vẫn được nghe thấy bè bạn nói về ông rất nhiều mà phần nhiều câu chuyện đó lại đem lại cho những người Việt Nam biết suy nghĩ một ý niệm không lấy gì làm đẹp lắm.

    Cũng như hầu hết người Nhật đến nước ta trong những năm gần đây, ông Ômya mặc áo sơ mi rằn ri, đội kết, đeo kính trắng, đi giầy păng-túp và hai ống quần thì lung thùng nhăn nhúm che lấp cả mũi giầy. Ở túi sơ mi, có ba bốn cây viết chì máy, còn ở vai thì đeo một cái máy có vẻ khá nặng, bảo là máy ảnh, máy thu băng, máy quay phim, hay là bảo là cái va li trong đựng áo mưa, bánh mì, rượu sake và cá khô đều được.... Cử chỉ đầu tiên của ông làm cho ai cũng phải vừa lòng. Ông cúi rạp đầu xuống chào tôi. Mặt ông tỏ vẻ hiền lành thành thực làm người đối thoại vừa cảm động vừa thương mến. Tôi nói:

    - Thưa đúng tên tôi. Mời ông vào trong nhà nói chuyện.

    Vừa nhìn ông ngồi xuống ghế, tôi vừa tính sẵn ở trong óc cách đối xử cho thích hợp. Tôi tìm rất lẹ hai giải pháp để đối phó, vì tôi nghĩ ông đến tìm tôi không ngoài hai việc tôi đã nói ở trên kia. Nhưng nghĩ ngợi làm gì vô ích. Đối với cả mà hai đề nghị ông Ômya có thể đưa ra, tôi chỉ có một cách đối phó rất nhẹm là "từ chối". Không, tôi cảm ơn ông lắm, nhưng rất tiếc tôi không thể làm vừa lòng ông được.

    Mấy năm gần đây, trong lúc bom đạn làm banh da xẻ thịt đồng bào ta, chia cành xẻ lá đất nước ta, có một số người nhật (có thể vì thương yêu dân tộc Việt Nam, nhưng cũng có thể vì yêu nước Mỹ) đã tìm đến những nhà văn, ký giả có tên tuổi, hoặc những người am hiểu thời cuộc, thông thạo tin tức, hoặc những người có bà con thân thuộc còn ở xa chưa về...để điều đình nhằm tìm một giải pháp kết thúc chiến tranh.

    Điều đình thế nào? Bằng tiền, nhưng có thể khôn khéo hơn một chút là hợp tác bằng cách một bên có công, một bên có của, để làm thương mãi như buôn sắc vụng, khai thác cát trắng ở Nha Trang, Cam Ranh hay mướn đất ở thôn quê trồng chuối già xuất cảng.

    Tất cả các dịch vụ đó chứng tỏ rằng họ rất tốt với người Việt nhưng riêng tôi thì "arigatô", cảm ơn lắm lắm mà không dám.

    Không phải tôi sợ họ. Không. Cái thần tượng mà tôi đặt ở nơi người Nhật lúc Thế Chiến Thứ Nhì chưa xảy ra vẫn nguyên vẹn, nhưng tôi không muốn dính tới họ vì lẽ tôi không muốn dính...Thế thôi....

    Tôi chờ ông Ômya ngỏ lời là từ chối tức khắc, không một, hai gì hết. Nhưng sau khi uống nước, hút thuốc và nghe câu chuyện của ông Ômya trình bày thì việc lại hoàn toàn khác hẳn. Quả là không ai đoán trước được đối tượng câu chuyện của ông. Ômya đến tìm tôi không phải vì chính trị, không phải vì thương mãi, nhưng vì chuyện một người Nhật khác tên là Tôkubê.

    - À, đến cái đó thì tôi nói thật là tôi chịu. Từ thưở cha sanh mẹ đẻ, tôi không hề biết một người Nhật nào tên thế. Quả là ông lầm địa chỉ rồi. Ông Ômya cười khẽ, một lát sau mới nói:

    - Rất có thể. Nhưng trước khi đi thẳng vào vấn đề, tôi xin một điều: gạt bỏ hết thành kiến giữa người Việt và người Nhật, gạt bỏ hết thành kiến cho rằng một số người Nhật ở đây, lúc này, làm mật vụ dưới chiêu bài dân chủ tự do, mà coi tôi như là người lương thiện như hết thảy các người lương thiện khác. - Ông khỏi lo chuyện đó. Bao giờ tôi cũng coi người da vàng là anh em, mà không những thế, tất cả mọi người đều là anh em nếu họ không hại đất nước tôi, không đầu tư mấy chữ tự do dân chủ để thôn tính đất nước tôi.

    - Xong rồi. Bây giờ tôi trở lại câu chuyện người đồng bào tôi là ông Tôkubê. Tôi đến đây để hỏi thăm ông tin tức của người bạn đó, hoàn toàn không vì vấn đề gì khác, ngoài tình bạn ra. Là vì Tôkubê và tôi là bạn. Từ khi Nhật bại trận, tôi theo quân đội Thiên Hoàng về nước, đến nay mới có dịp trở lại đây, tôi không được tin tức gì của y, nhưng tôi nghe nói y đã chết, mà chết lúc ăn cơm uống rượu ở nhà ông ra.

    - Tôi xin nhắc lại, tôi không ăn cơm uống rượu với bất kỳ người Nhật nào hết. Tôi thiết nghĩ không nên quay trở lại vấn đề đó làm gì nữa.

    Ômya ngồi lặng thinh, không nói gì. Năm phút sau, ông mới móc túi áo trong ra lấy một cái bóp mở ra, lấy một tập giấy, lật đi lật lại rồi lấy ra một bức hình nhỏ đưa cho tôi. Vừa đưa, ông vừa nói:

    - Đây là một bức hình chụp đã lâu năm, nhưng trông nét mặt, chắc ông cũng nhận ra được phần nào.

    Mặc dù hết sức giữ gìn từng lời nói, từng cử chỉ trong khi nói chuyện với người khách lạ, tôi không ngăn được mình thốt ra một tiếng ngạc nhiên: " Ủa, ông này...".

    Ômya bình tĩnh nói, như không lạ về sự sửng sốt của tôi.

    - Vâng, bức hình này chụp đã lâu năm, chắc không giống vóc dáng gần đây cho lắm nhưng chính ông này là Tôkubê.

    - Tôkubê? Tôi không biết. Tôi không sợ gì mà phải chối, nhưng tôi không biết ông này là Tôkubê. Tôi chỉ biết một người giống hệt thế này, nhưng già hơn một chút, mà tên Lăng - Trần Hữu Lăng.

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương Hai Mươi Bốn

    - Tiếc thật! Nhưng làm thế nào được? Mình có nghe thấy khỉ mốc gì đâu!

    Tôi vừa chuyên trà từ cái tống sang hai cái chén quân, vừa nói với ông Ômya như thế.

    Thế cho nên tôi mới bảo là rất tiếc. Tuy nhiên, theo ý tôi, mình có thể tưởng tượng được ra nội dung câu chuyện giữa hai bên mà không sợ sai sự thật.

    Tôi nhớ rằng ông bạn, lúc thuật lại câu chuyện cho tôi nghe, đã hai lần nói rõ rằng Mệ Hoát và Phương Thảo trong lúc hiện ra ở nhà ông để tìm kiếm đồ vật ở dưới chân bàn, góc tủ đã trông thấy Tôkubê (lúc ấy tên là Trần Hữu Lăng) mấy lần rồi, nhưng bỏ đi và ra ngoài nói thì thầm với nha. Mãi sau này, hai cái bóng ấy mới tiến đến đứng ở cạnh Tôkubê và rồi nói nhỏ vào tai Tôkubê, và Tôkubê đã nổi giận lên chửi bới, xô bàn đẩy ghế, rượt theo hai cáo bóng rồi ném ly, xô ghế muốn đánh chết hai cái bóng ấy cho hả giận. Có phải thế không?

    - Đúng như vậy. Nhưng mà ông bạn nói thế để rồi đi đến kết luận thế này:

    - Trần Hữu Lăng tức là Tôkubê, là người đã hãm hiếp o Phương Thảo để cho nàng phẫn uất mà phải đâm đầu xuống sông tự tử, và là người đã đập phá không biết bao nhiêu báu vật ở nhà Mệ Hoát rồi lại cướp những thứ mà y không đập phá được mang đi, người, là người đổ xăng lên khắp ba gian nhà rồi nổi lửa lên để đốt làm cho bao nhiêu cổ ngoạn còn sót lại đều bị cháy, bị nổ, bị tan thành than hết.

    Sau khi Mệ Hóat và o Phương Thảo nhận diện ra được kể thù phá nhà, cướp của và hủy diệt cổ ngoạn quý báu hơn cả các kho tàng của vua chúa, Mệ Hoát và o Phương Thảo chưa đinh ngay được thái độ phải đối phó với Tôkubê ra thế nào. Người ta, nhất là những người có học, bao giờ cũng giàu lòng tha thứ phải không, ông bạn? Kẻ thù của ta, dù ghét cách mấy đi nữ mà đã ngã ngựa rồi, ta cũng thấy thương. Tôi nghĩ rằng hai cái hồn ma Phương Thảo và Mệ Hoát dù thù oán Tôkubê cách mấy đi nữa, dù có lần đã nói với ông rằng "phải lấy oán trả oán, chớ có phải là Phật hay Chúa đâu mà đi trả oán bằng ân", nhưng đến lúc hành động thì lại thấy không đành lòng... Vì thế mới có chuyện "hai cái bóng sau khi gặp Tôkubê mấy lần đã bỏ đi và ra ngoài nói thì thầm với nhau."

    - Ờ, họ nói gì? Ông thử đoán xem sao.

    Tôi nghĩ thế này: người da vàng, nhất là người Việt có tâm hồ kỳ lạ hết sức, khó hiểu hết sức. Có nhiều khi, chính họ giữ lẽ phải ở trong tay, chính họ nắm được ưu thế thì họ lại nhường đến cái mức tự làm mình bé nhỏ để van xin kẻ thù, họ tự hạ họ xuống và đưa kẻ thù lên cao...

    - Ông bạn ơi, có phải tôi đã nói với ông bạn rằng chính Tôkubê đã chết vì y đã bị chính tim gan y phản y không?

    - Phải, Tôkubê chết, theo ý tôi, chính là vì hai chữ anh hùng mà y đã quan niệm một cách lầm lạc, y chết vì y nuôi nhiều tham vọng quá, y tưởng rằng chỉ có y mới là người xứng đáng làm chủ còn bao nhiêu người khác thì đều hèn hạ.

    Tôi nghĩ rằng Mệ Hoát và o PHương Thảo đã nói với Tôkubê với những lời lẽ ôn hòa khiêm nhường theo lối đó. Có thể họ van xin Tôkubê thương tình mà nghĩ lại, chỉ họ chỗ cất giấu những cổ ngoạn còn sót lại để thọ thỉnh thoảng được đến ngắm nghía cho khuây khỏa lòng.

    Nhưng cái máu "anh hùng" mưu toan chinh phục người khác làm nô lệ cho mình, cái quan niệm lầm lạc tự cho mình là mạnh mà mạnh thì làm cái gì cũng được... và cũng chính vì ý niệm đó đã giết chết y. Anh ta tự giết mình mà không biết cxung như anh ta không biết rằng hai cái bóng gầy còm èo uột đó tiềm tàng ở bên trong một sức mạnh vô bờ bếntạo ra bằng lòng căm thù. Tôkubê đã chết một cách tội nghiệp vì những mớ roi phát ra từ chỗ vô hình quất vào đầu vào cổ, vào thân thể cho đến lúc ngã lăn ra chết ngất trên mặt đất.

    Tôi lặng im, không nói một hồi lâu. Lúc ấy đêm đã khuya lắm. Ở bên ngoài, không có tiếng một người đi lại. Thỉnh thoảng chỉ có tiếng máy xem của một chiếc xe nhà binh chạnh như bay trên đường. Lá y lăng gặp gió mạnh kêu lào xào như gọi nhau đề phòng như bất trắc đang rình mò trong đêm tối.

    Xa xa, có tiếng quạ kêu ong óng buồn. Tôi chép miệng:

    - Tội nghiệp!

    - Ông bảo tội nghiệp gì?

    - Tội nghiệp cho Tôkubê. Chớ chẳng lẽ tội nghiệp cho con quạ kêu sương sao.

    Ômya cười lạnh lẽo, nói:

    - Nếu phải tội nghiệp cho Tôkubê, tôi là người đầu tiên tội nghiệp cho y vì tôi đã thấy gia đình y khắc khoải chờ đợi y như thế nào... Họ nhờ tôi nhiều việc... Nhưng chỉ tội nghiệp cho Tôkubê thôi thì không đủ. Những người như chúng ta phải tội nghiệp cho tất cả... vì tất cả đều đáng cho ta thương hại. Trước khi tội nghiệp Tôkubê, sao ta không biết tội nghiệp Mệ Hoát và o Phương Thảo và bao nhiêu cổ ngoạn tốt đẹp yên ổn qua bao thế kỷ nhưng tự dưng ở đâu có người lạ đến đập phá tan tành, đốt nhà đốt cửa...

    Những người biết suy nghĩ đều cảm thấy một cái buồn mênh mông lan tràn trên dương thế và cái kiếp vận của con người thật não nùng ai oán. May là các nhà trí thức, các vị tu hành, các ông giáo chủ lại nghĩ ra được đạo giáo này, đạo giáo kia để ru ngủ người ta, họ chủ trương rằng người ta sống khổ ải ở trên thế gian này khi chết đi tức là hóa sinh, tức là liễu đạo, vì vậy người ta mới không được phép tự tử, trái lại người ta lại cố sống để chờ ngày ra đi sung sướng hơn hiện tại bi thảm, nhục nhã, đau khổ này.

    - Không có lúc nào, mà tôi thấy ông bạn bi quan như hôm nay.

    - Có công việc làm để quên đi thì thôi, còn khi rảnh rỗi lại suy nghĩ đến thì trong lòng lại buồn ray rứt, tuy không nói ra mà thôi.

    - Sống đã khổ trăm đường ngàn nỗi, con người đến lúc chết có được sung sướng hơn hay không?

    - Tôi chưa được thấy một người nào, chết mà vui vẻ, đẹp đẽ hết. Có người chết vì đói, có người bị xe nghiến nát nhừ; có người lại chết trong lúc đang tràn trề nhựa sống, có người lại chết nơi tha phương không được người thân nào vuốt mắt, ấy là chỉ nói đến thời bình. Còn chết trong thời loạn nalj càng rùng rợn hơn. Đương sống yên vui với vợ con tự nhiên bom đạn dội xuống chết lòi ruột nát thay, có người lê gót cả ngày đi kiếm miếng ăn cho gia đình thì bị mìn nổ cụt cả tay chân, có người để vợ chữa ở nhà đi hành quân bị chết nơi xa trường v.v...

    Nghĩ đến bao nhiêu cái chết đó, tôi buồn hết sức.

    - Về cái chết của Tôkubê, mới nghe thì thê thảm nhưng nghĩ kỹ lại một chút tôi thấy cũng thường như bao nhiêu cái chết khác trong thời chiến tranh. Tuy có một điều tôi băn khoăn một chút là tại sao sau khi chết, mặt mũi và thân thể Tôkubê lại bầm nát và trầy trụa những bị những miểng gì đâm lủng da lủng thịt.

    - Ông Tư (ông Ômya bây giờ kêu tôi bằng ông Tư), ông Tư à, không phải chỉ có một mình ông nói cho tôi biết như thế đâu. Đọc tờ chứng nhận của viên bác sĩ khám nghiệm tử thi Tôkubê, hiện còn lưu trữ trong nhà thương Đồn Đất, tôi cũng thấy ghi như thế mà không có kết luận. Thế nghĩa là sao? Bác sĩ không biết lý do? Có lúc nào người ta nghi ngờ rằng ở sau cái chết này có một vụ đầu độc không?

    - Điều đó, ông bạn khỏi lo. Ít lâu sau đó, nhà hữu trách đã mời tất cả những người ăn tiệc tân gia hôm đó ở nhà tôi lên cơ quan xét hỏi, nhưng tuyệt nhiên không tìm được điều gì hữu ích chứng tỏ Tôkubê bị người ta mưu hại. Tôi còn nhớ lời chứng của hai bác sĩ khác đã nói hôm thẩm vấn cuối cùng: nếu người chết bị đầu độc, các dấu hiệu hiện ra trên da thịt và mắt mũi sẽ thành những vệt đen và chung quanh miệng, mắt và ở bụng sẽ có những lằn đỏ khác thường chứ không bao giờ thịt da lại bị lủng từng lỗ nhỏ như bị những cái miểng gì đâm vào.

    - Thế rồi họ kết luận ra sao?

    - Không ai kết luận gì cả. Như tôi đã có lần nói với ông, việc ấy xếp lại, không xét nữa.

    - Không xét nữa là phải. Đưa ra vấn đề ngộ độc hay đầu độc chỉ là để nói cho đủ lẽ mà thôi, chứ thật ra tôi không có một chút nào tin rằng có vấn đề này.

    - Thế thì theo ý ông tại sao mặt mũi đầu cổ của Tôkubê lại có những vết lạ kỳ như vậy?

    - Đã nghĩ rằng thuyết linh hồn có thực thì phải nghĩ cho đến hết chứ không thể nghĩ nữa chừng mà thôi. Có phải ông Tư đã có lần nói cho tôi nghe rằng những báu vật trong thiên hạ có thần linh phải không?

    Ngay bây giờ đây, các sách Đông Phương trong đó có cả nước Nhật mỗi khi nói đến việc đúc gươm vẫn thường kể lại những cây gươm thần khi đêm thanh vắng phát ra tiếng gươm đao va chạm nhau, còn nói về hột xoàn thì họ nhắc đến những hột xoàn nổi tiếng làm chết liên tiếp hàng chục người bạc phúc mua về để đeo...

    - Ông bạn nói thế để đi đến kết luận gì, tôi không hiểu được.

    - Báu vật đã có thần linh thì cái miểng của nó cũng linh thiêng lắm chứ không phải đùa. Tôi không biết nhiều về lịch sử Việt Nam nhưng nhớ rằng hình như có một ông tướng Tây Sơn, phò mã Nguyễn Văn Trị, đã tin như thế về sự linh thiếng của miểng sành miểng sứ và đã nói ra ý nghĩa ấy trong một bài thơ, để tôi đọc cho ông nghe nếu có sai chữ gì thì ông cứ tự do chỉ bảo:

    Sa cơ một chút hóa tan tành
    Thiên hạ đều kêu miếng miểng sành
    Sắc lẻm như gươm, người gớm mặt...
    Có thuở làm chông giữ vách thành
    Chuông khánh dầu ai không dám sánh
    Gõ chơi cũng có tiếng canh canh!

    Thế nghĩa là...

    - Phải. Nghĩa là tôi tin rằng Tôkubê chết một cách không tự nhiên. Tôkubê chết vì bị hồn linh báo óan, mà những vệt bầm tím lỗ chỗ trên da thịt anh ta chính là những miểng sành miểng sứ của Mệ Hoát do anh ta đập phá còn lại trên nền gạch đâm lủng da lủng thịt anh ta.

    - Tưởng tượng đến như thế thật kỳ lạ, tôi không bao giờ có thể nghĩ một cách mơ hồ đến như thế. Nhưng mà ông có thể giải thích cho tôi biết sơ sơ tại sao hay vì lý do gì ông lại đi đến cái giả thuyết đó?

    - Đã giải thích được thì sao lại gọi là huyền bí? Nhưng đưa ra giả thuyết ấy thì tôi phải dựa vào một hai chứng tích...

    Đây, ông bạn xem đây rồi biết tôi nghi ngờ về cái chết của Tôkubê như vậy có phải hoàn toàn mê tín dị đoan không?

    Chương Hai Mươi Lăm

    Ômya nói đến đây thì kéo cái túi vải ông ta thường đeo ở trên vai xuống, chậm rãi mở ra, lục ở bên trong lấy một phong bì dày cộm và đặt trên cái kỉ mà chúng tôi đang uống trà.

    Tôi đưa mắt nhìn ông không hiểu gì cả. Ông nói:

    - Không. Ông bạn cứ tự nhiên mở ra mà coi thong thả, không cần phải giữ gìn gì hết. Tôi lấy cái phong bì này ra chính là để cho ông coi mà!

    Thấy ông Ômya bảo thế, tôi cầm cái phong bì khá nặng, ước lượng xem bên trong đựng gì.

    Món quà? Quyển sách? Hay cây súng tặng tôi?

    Tôi ngần ngại chưa mở ra thì ông Ômya đã đỡ lấy, mở cái băng keo ra.

    Thì ra đó chỉ là mấy tấm hình Tôkubê chụp ở Nhật trước khi sang công tác tại Việt Nam hồi Thế Chiến Thứ Nhì, với một sắp thư từ thì viết trên giấy học trò, tất cả đều bằng chữ Nhật. Tôi hỏi:

    - Ông đưa những thứ này cho tôi để làm gì?

    - Để ông coi mà.

    - Đây là những bức hình của Tôkubê. Đúng, anh ta đúng là Trần Hữu Lăng. Nhưng còn những thư từ này, ông đưa cho tôi vô ích vì những chữ này đối với tôi không khác gì chữ Hy Lạp. Tôi còn biết gì mà đọc?

    Ômya cho tôi biết những thư này là thư trao đổi giữa ông với mẹ và vợ Tôkubê trong ba tháng vừa qua. Tất cả đều đánh dấu theo thứ tự ngày gửi đi cũng như ngày nhận được, bởi vì ông Ômya giữ cả những bản sao các bức thư của ông giử về Nhật cùng với những thư của vợ Tôkubê gửi cho ông.

    - Tôi đã nói nhiều lần với ông rồi, tôi và Tôkubê là bạn cũng làm việc với nhau, hơn thế còn là bạn đồng hương nữa.

    Trước hôm tôi dời Nhật để đi Việt Nam chuyến này với tư cách là một mại bản đại diện cho một công ty sản xuất mái in ốp-sết, mẹ và vợ Tôkubê có tìm gặp tôi, khẩn khoản nhờ một việc là kiếm giùm Tôkubê xem hiện giờ đang ở đâu và sinh sống như thế nào mà hơn một năm trời nay không thấy một tin tức gì gửi về. Trước đó, xuân thu nhị kỳ, Tôkubê còn một vài lá thư nhờ những người bạn Nhật di đi về về trao tay cho vợ con ở Kyôtô cho biết đời sống của anh ở Việt Nam và hỏi thăm sức khỏe hai đứa trẻ, nhưng một năm trở lại đây, quái lạ, sao không thấy thư từ gì hết? Chẳng biết anh ta còn ở Việt Nam không? Hay bị bắt bớ, tù tội rồi? Hay là...

    Ômya hứa chắc với mẹ và vợ Tôkubê rằng đến Việt Nam, ông sẽ tìm các cách để hỏi thăm cho ra tin tức Tôkubê và nếu không có gì trở ngại thì sẽ tìm gặp người bạn đó và đồng thời lại hứa sẽ có thư liền liền về Kyôtô để cho gia đình Tôkubê biết rõ diễn biến cuộc kiếm tìm đó ra sao.

    Đây là nội dung các bức thư xếp theo thứ tự ngày tháng, trao đổi giữa hai bên mà ông Ômya đã lần lượt dịch cho tôi trong hai ngày liền.

    Sài Gòn ngày 26 tháng 4 năm 1956
    Thân gửi chị Tôkubê

    Tôi đã tới Việt Nam được ba hôm rồi. Mai một tôi sẽ ra miền Trung gặp anh bạn của tôi hỏi thăm tin tức về Tôkubê. Tôi chưa biết nên đi máy bay hay đi xe đò. Máy bay tương đối an ninh hơn nhưng lấy được một tấm giấy để đi thì khó lắm, có khi phải mất hai ba ngày; còn đi xe đò thì dễ dàng hơn nhưng lại sợ xảy ra tai nạn.

    Nhưng dù sao tôi cũng đi và làm cái công việc mà bác và chị đã giao phó cho tôi. Chị yên tâm. Chúc cả nhà vui mạnh.

    ° ° °

    Kyoto ngày 4 tháng 5 năm 1956
    Thân gửi ông Ômya

    Tôi đã nhận được thư anh, đọc cho cả nhà nghe ai cũng lấy làm xúc động về tấm lòng tốt của anh đối với gia đình chúng tôi.
    Riêng tôi biết làm phiền anh rất nhiều, nhưng không quấy rầy anh thì tôi biết trông vào ai nữa đây?

    Anh Ômya, tôi nói thật với anh rằng tôi không hiểu vì sao ít lâu nay tôi nóng ruột khác thường, lúc nào hình như cũng lo sợ một cái gì không tốt xảy ra.
    Chồng tôi là người nóng tính lại không khéo ăn nói, đôi khi lại độc đoán dễ làm mất lòng người ta...

    Tôi van vái trời Phật cho anh gặp được nhà tôi. Anh lựa lời khuyên bảo chồng tôi anh nhé! Ở đất nước người, không phải chuyện dễ đâu. Hơn nữa, nếu anh xét là nên làm, anh vì mẹ tôi, vì tôi, thương lấy hai cháu thì khuyên chồng tôi tìm cách để mà hồi hương thì lại càng quý.

    Tôkubê sống đơn chiếc không có tôi ở bên cạnh khuyên can... tôi không thể an tâm được. Anh cố giúp chúng tôi nhé, anh Ômya! Chúc anh vạn sự như ý.

    ° ° °

    Sài Gòn ngày 27 tháng 5 năm 1956
    Thân gửi chị Tôkubê

    Tôi đã đi gần hết miền Trung và đã gặp một số bạn bè cũ để thăm dò tin tức của chồng chị nhưng chưa có gì hay cả cho nên chậm viết thư về cho chị.

    Tình hình ở dây thay đổi triệt để. Cái kho anh Tôkubê phụ trách trước đây bây giờ đi lại không dễ dàng như trước vì có những người lạ đến đóng ở đây và đào bới lộn xộn, không còn biết đâu mà dò. Cố nhiên là tôi phải thận trọng trong việc hỏi thăm người địa phương. Không ai biết người một người Nhật nào cả, theo họ, người Nhật đi hết cả rồi nếu còn thì họ đã vào làng Việt Nam, kêu là Việt Nam "mới" và sống y như người Việt Nam.

    Tôi thấy công việc mà tôi đảm nhận khó khăn hết sức, nhưng xin chị cứ yên tâm. Đối với người Nhật, không có chữ "khó khăn" bao giờ. Tôi nhất định có tin vui gửi về cho chị.

    ° ° °

    Kyoto ngày 1 tháng 4 năm 1956
    Thân gửi anh Ômya

    Anh ơi, có phải vẫn chưa có tin tức gì vui phải không? Là vì nếu có tin vui thì anh đã gửi thư cho tôi rồi mà hơn hai tháng nay tôi không nhận được lá thư nào của anh, tôi nghĩ là chồng tôi vô tâm tích hoặc là anh ấy..., có lẽ anh biết nhưng không sự việc không vui vẻ gì cho lắm cho nên anh không viết thư về cho tôi nữa, sợ tôi buồn khổ có phải không?

    Anh Ômya, anh viết thư cho tôi đi, anh hãy nói thực cho tôi biết. Nếu anh thương tôi mà giấu diếm thì càng làm khổ cho tôi thêm. Thà tôi biết sự thật cho yên hẳn một bề còn hơn là cứ sống thấp thỏm, băn khoăn, lo sợ hết đoán này lại đoán thế kia.

    Tôi khổ quá. Tôi không nói với ai câu chuyện này kể cả mẹ tôi, nhưng đối với anh tôi phải nsoi vì tại sao anh sẽ biết. Cách đây đúng một tuần, tôi nằm mơ thấy Tôkubê hiện về, đi thẳng vào giường tôi, hỏi các con đâu anh ạ. Tôi mới hỏi "Anh đi đâu mà lâu quá mới về vậy?" Nhưng khi tôi mở mắt ra thì tôi trông thấy gì anh biết không? Cái người đang đứng trước tôi đúng là Tôkubê, nhưng là một Tôkubê ghê gớm, mặt mày nát bấy ra, có máu chải dòng từ khóe mắt, lỗ tai và miệng. Tôi thết lên kinh khủng và hỏi: Trời ơi! Anh! Làm sao mình mẩy anh đầy cả máu thế này?

    Tôkubê đứng lặng một hồi lâu không nói. Tôi hỏi gặng mãi, anh mới bất đắc dĩ trả lời "Tôi bị người ta đánh chết rồi. Những vệt thâm tím ở đầu và mặt là vệt roi quật vọt máu mồm máu miệng ra, còn những lỗ thủng ở trên thân thể là những miểng sành miểng sứ đâm thủng di thịt tôi lúc tôi ngã lăn bất tỉnh nằm trên mặt đất."

    Nghe thấy chồng tôi nói thế, tôi gào lên khóc... Tôi nhớ rõ ràng từng chữ của chồng tôi và của tôi đã nói với nhau trong giấc mộng.

    Một lát sau, bóng Tôkubê mờ dần đi như một cái hình do sương mù đọng lại trên cửa kính gặp ánh sáng mặt trời chiếu rọi vào. Tôi giựt mình tỉnh giấc không thể ngủ được cho đến sáng.

    Mà không phải chỉ có hôm đó mà thôi. Từ đêm nằm mộng đó, tôi không thể nào ngủ được nữa phần vì sợ, phần vì lo, phần lại thắc mắc vẫn vơ suy nghĩ không biết đó chỉ là giấc mộng hay chính là sự thật.

    Anh ơi tôi khổ và lo sợ quá. Anh có biết tin gì về Tôkubê thì nói thực cho tôi biết ngay đi, bở vì biết sự thực, dù là rùng rợn đến đâu thì tôi cũng cam lòng còn hơn là cứ nghi ngờ viễn vong làm khổ tâm trí còn hơn là chết.

    ° ° °

    Kyoto ngày 26 tháng 8 năm 1956
    Thân gửi anh Ômya

    Tại làm sao mà anh không viết thư cho tôi nữa hở? Có phải Tôkubê đã mất thực rồi không? Có phải giấc mộng của tôi là một sự thực mà hồn người chết hiện về để báo tin cho người nhà biết, phải không anh?

    Lúc còn đi học, tôi đã đọc những quyển sách về linh hồn do anh viết bằng Pháp ngữ dịch ra Nhật ngữ, tôi đã thấy người trường hợp tương tự như thế xảy ra, như trường hợp đại úy Blomberg ở Martinique. Đại úy Blomberg có nhiệm vụ đem tin tức đến đảo Martinique, một hôm chết bất thình lình ở dọc đường, hồn ông hiện về báo tin này cho hai viên sĩ quan ở chung một phòng với ông và nói cho hai viên sĩ quan đó như sau: "Tôi đã chết hồi chiều này. Xin bạn săn sóc giùm thằng con tôi ở Luân Đôn tại số... đường... Trong cái ngăn kéo này (ông vừa nói vừa chỉ tay) có những giấy tờ cần thiết để cho con tôi được hưởng tất cả tài sản của tôi để lại.

    Vì không thể sống mãi trong cảnh ngộ kỳ bí đó, một hôm đánh liều hỏi chồng tôi "Anh chết thực rồi sao? Anh nói cho tôi biết đi. Tôi muốn biết tin tức thực của anh. Tôi đã nhờ bạn anh là Ômya đi Việt Nam dò hỏi nhưng mấy tháng nay, anh ấy không cho em biết tin tức gì của anh cả. Có phải Ômya a đã biết anh chết rồi không?

    Tôkubê gật đầu và nói: "Bốn ngày nữa, em sẽ có tin của anh ấy gửi về." Thế là nghĩa làm sao hở anh Ômya? Tôkubê chết thật rồi phải không? Anh cho tôi biết sự thực đi. Cứ sống băn khoăn, thắc mắc như thế này tôi đau khổ quá, không chịu nổi."


    Đến đây, Ômya ngừng lại và chú thích:

    Bức thư tôi sắp dịch cho ông nghe đây gửi đi trước khi tôi nhận được bức thư vừa rồi. Tính ra thì rất có thể người vợ của Tôkubê ở Kyoto nhận được bốn ngày sau khi chị ấy gửi bức thư đề ngày 26 tháng 8 cho tôi.

    Sài Gòn ngày 21 tháng 8 năm 1956
    Thân gửi chị Tôkubê

    Tôi đau lòng viết lá thư này cho chị.

    Tôi đã tìm được người bạn chứng kiến từ đầu đến cuối cái giờ cuối cùng của anh Tôkubê rồi. Một ngày kia, gặp chị, tôi sẽ kể lại cho chị nghe cái giờ phút đó, nhưng bây giờ! Bây giờ... xin chị tha thứ cho tôi, vì kể lại không phải một mình chị khổ mà thôi, chính tôi đây cũng đau xót vì mất một người bạn quý.

    Tôi thành thực chia buồn với bác và chị.

    ° ° °

    Kyoto ngày 3 tháng 10 năm 1956
    Thân gửi anh Ômya

    Thôi thế là được yên tâm vì tôi biết chồng tôi đã chết, dù chết rồi nhưng chồng tôi vẫn nhớ đến tôi hiện hồn về để báo tin, ngoài ra còn chăm sóc đến hai đứa con nữa.

    Biết đích được như thế, tôi không còn lo sợ thắc mắc, trái lại tôi thấy trong lòng vững vàng hơn vì tôi biết rằng tôi tuy là góa bụa nhưng không cô độc, bởi linh hồn chồng tôi lúc nào cũng ở cạnh tôi vì anh ấy thỉnh thoảng lại hiện về khuyên bảo và nâng đỡ tinh thần cho tôi trong cuộc chiến đấu cam go với đời sống thời hậu chiến.

    Tôi chỉ buồn một nỗi là mãi đến tận hôm nay tôi vẫn không biết chông tôi đã chết trong trường hợp nào. Cố hỏi mãi, anh ấy cũng không chịu nói, chỉ trả lời một cách vẩn vơ: "Chết rất dễ, nhưng sống quả thực là rất khó. Bây giờ, đã ra người thiên cổ, anh mới biết thêm một chút về cách sống, nhưng đã muộn. Tuy nhiên, muộn vẫn còn hơn không." Anh ấy hứa với tôi sẽ giúp đỡ tôi dạy dỗ hai con cho chúng nó đừng sống lầm lạc như anh nữa, đừng bao giờ kiêu hãnh như anh mà trái lại phải khiêm tốn, phải thương yêu nhau, phải biết nâng đỡ những người ở dưới lên ngang hàng với mình chứ đừng bao giờ hạ thấp những người khác xuống rồi đưa mình lên cao.

    Tại sao chồng tôi khi chết đi lại thay đổi tâm tánh như vậy? Có phải là tại nhờ cái chết không?... Với những đức tính khiêm nhường, tha thứ và nhân ái của chồng tôi mỗi khi hiện về với tôi làm cho tôi yêu chồng tôi gấp bội.

    Gây ra tội lỗi thì phải nhận lấy hậu quả tội lỗi do mình gây ra. Anh ơi chồng tôi đã căn dặn tôi như thế đấy và lần nào hiện về cũng xin tôi một điều là đừng nói một tí gì cho hai đứa con được biết về cái thuở sinh thời của cha chúng nó, nhất là không cho chúng nó được nghĩ đến việc tìm hiểu ai đã giết cha chúng và tai sao cha chúng lại bị chết.

    Không. Tôkubê giờ khác hẳn lúc trước, anh Ômya ạ. Anh ấy không tham, không giận, không hung hăng gây gỗ... Có lần anh ấy khẩn khỏan với tôi tìm cách nào đem tro than anh ấy về quê cha đất tổ để được sống cạnh vợ con chớ sống tha hương chết tha hương buồn khổ đau xót không gì bằng.

    Anh Ômya, đó là lời mong muốn cuối cùng của bạn anh. Anh nghĩ sao? Có thể chiều ý người quá cố không? Tôi đợi thư anh.


  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương Hai Mươi Sáu

    Vào một buổi sáng tinh mơ vào cuối mùa đông năm 1957, có một bọn ba người cúi đầu đi lủi thủi vào nghĩa trang Gò Vấp.

    Lúc ấy, bóng tối chưa tan hẳn. Ngọn cỏ làm ướt các gấu quần. Cây ở hai bên đường đen như những cái bóng ma vĩ đại sù đầu đứng im lìm, thỉnh thoảng lại nhỏ xuống những hòn đá lăn lóc ở lối đi những tiếng kêu than nhỏ bé. Đó là sương rơi. Xa xa có một vài đóm lửa hắc từ những cái lều ở bên kia đường ra như những con mắt chột. Vài con chó bới những đống rác rến ở cổng nghĩa trang để kiếm thức ăn và sủa ran lên khi thấy bóng ba người đi tới.

    Ba người đó là Ba Sạng, Ômya và tôi.

    Sau khi nhận được bức thư chót của bà Tôkubê ở Ôtôyô gửi về nhờ cất mả chồng, ông Ômya và tôi đã đi vận động khắp các cơ quan hữu quyền thời đó, để làm vừa ý người quả phụ. Trong đơn chúng tôi cũng trình bày sự thật, hoàn toàn thật: người quá cố là Trần Hữu Lăng nhưng có hai quốc tịch Việt Nam và Nhật Bản.

    Bây giờ vợ Tôkubê (tên Nhật của Trần Hữu Lăng) được tin chồng mất đã gửi đơn xin chính phủ Việt Nam cho phép cải táng Tôkubê và lấy xương cốt còn lại hỏa táng ở Phú Thọ, cho vào cái bình đem về Nhật để thờ. Tất cả mọi công việc, bà Tôkubê ủy quyền cho ông Ômya lo liệu và gửi kèm thư ủy nhiệm với đơn xin cải táng.

    Công việc đó, thực ra không có gì khó khăn, nhưng bộ trưởng xã hội thời đó lại không nghĩ như thế, một là vì ông sợ trách nhiệm về sau này, mà hai là vì ông theo đạo Hồi.

    Về trách nhiệm, ông sợ rằng cho phép mang tro than của một người Nhật về nước - vì lúc ấy Nhật vẫn còn bị coi là một nước đi với nước Đức, Ý Phát xít chống lại đồng minh Anh, Mỹ có khi phạm đến vấn đề chính trị mà chức bộ trưởng của ông sẽ không cánh mà bay - đó là điều tối kỵ.

    Còn về đạo đức thì ông yên trí rằng đối với người chết, đạo nào cũng phải theo đúng như đạo Hồi của giáo chủ Mohamed, nghĩa là ai chết ở đâu thì phải chôn ngay tại đó - cùng lắm là trong một chu vi không quá mười cây số chỗ người ấy chết, chớ không được xa hơn - mà nhất là đã chôn ở đâu thì cứ để nguyên tại chỗ đó mãi mãi, chứ không được cải táng để đem đi chỗ khác.

    Vì gặp nhiều cản trở không đâu như thế, công việc xin phép bốc mả Tôkubê đòi hỏi rất lâu thì giờ. Đơn xin phép gửi đi từ cuối tháng mười mà đến tận cuối tháng chạp âm lịch tức là tháng 2 năm 1957 mới được phép chính thức.

    Hôm ấy chúng tôi đi vào nghĩa trang Gò Vấp chính là để bốc mộ Tôkubê.

    Đáng lý ra chúng tôi chỉ có hai người là Ômya và tôi, thêm ba bốn người phụ giúp việc, nhưng may làm sao là trước hôm dự định bốc mộ Tôkubê hai ngày, ông Ba Sạng ở Ban Mê Thuộc về ký giấy sang tên một cái đồn điền cà phê cho cháu nội nên chúng tôi mời ông cùng đi nhân thể vì lẽ ông Ba Sạng có biết ít nhiều về Mệ Hoát là người có liên hẹ tới Tôkubê mà cũng vì ông Ba lại còn là một nhà địa lý thường để mồ mả cho những người biết. Tôi nói:

    - Bây giờ công việc giấy má đã xong rồi, ông ở nhà cũng buồn, sao không cùng đi với chúng tôi vừa để chỉ bảo cho người ta đào sới cùng với cách thức lượm cốt và rửa ráy mà cũng là vừa để tiễn biệt một lần chót một người bạn tốt của chúng ta chẳng may đã chết một cách không bình thường?

    - Công việc tôi xong xuôi rồi, ở nhà cũng chẳng làm gì, ừ thì đi.

    Sự có mặt của ông Ba Sạng không ngờ lại giúp ích cho chúng tôi rất nhiều. Công việc bốc mộ đòi hỏi những cách thức không theo đúng không thể được. Ông Ba nói:

    - Bây giờ có lẽ năm giờ rưỡi rồi. Chúng ta nên bắt đầu ngay thì hơn bở vì để cho có ánh sáng mặt trời hé lên, không tốt.

    Dưới ánh sáng chiếc đèn măng sông, bốn người phu lặng lẽ cuốc đất ở trên cái mả hình bầu dục lưa thưa một ít cỏ đã vàng.

    Trong khi đó, ông Ba Sạng rút ở trong túi áo ra một lá bùa, đặt lên một cái đĩa nhỏ, lấy ba trái cau, ba lá trầu chặn lên trên rồi trịnh trọng đặt lên mô đất, nơi phía đầu cái mả, và lấy cả một thể nhang đốt hết cắm ở chung quanh cái đĩa. Ông chắp tay lạy bốn phương trời. Xong đâu đó, ông quay về phía mả, lễ một hồi lâu rồi bắt quyết, miệng không ngớt đọc những câu chú chúng tôi không hiểu mà chính vì không hiểu, chúng tôi thấy trang nghiêm và rùng rợn lạ lùng.

    Bốn người phu lúc ấy cũng vừa đào tới áo quan. Tiếng cuốc, xẻng chạm vào gỗ kêu lộp bộp. Nắp quan tài bật ra. Ông ba đốt thêm một tuần nhang nữa, đưa đi đưa lại trên quan tài. Rồi hét lên một tiếng to.

    Ánh đèn măng sông chiếu xuống cái lỗ tối đen sâu hoắm. Cả bốn người phu cùng kêu lên một lượt:

    - Ủa! Sao không thấy xương cốt gì hết vậy?

    Cả ông Ômya và tôi cùng thò đầu vào xem có gì lạ xảy ra. Không có gì hết. Tôi đưa mắt nhìn ông Ba. Ông Ba có vẻ ngạc nhiên một chút, bảo bốn người phu:

    - Cứ đào sâu xuống một chút nữa coi!

    Bốn người phu lại hì hục đào chừng hai mươi phút đồng hồ nữa, nhưng vẫn không thấy có gì thay đổi hết, cái áo quan của Tôkubê trống rỗng, bốn người phu trèo xuống, đứng ở trong chiếu đèn nhìn vào thật kỹ chỉ thấy một thứ nước đục như nước bùn, thỉnh thoảng lại nổi lên vài cái bọt như tăm cá.

    - Thế là nghĩa làm sao? Không ai hiểu cả.

    Thường thường, trong những vụ bốc mộ như thế này, người ta lượm nguyên vẹn bộ xương, trừ quần áo mặc cho người chết và những tập giấy moi chèn ở chung quanh để cho cái xác chết trong quan tài khỏi lắc lư xiêu vẹo khi khiêng từ trong nhà ra mai táng.

    Đàng này trái ngược hẳn: bộ xương của Tôkubê tiêu hết, mò mãi chỉ còn cặp xương hông, và mấy đốt ngón tay chìm sâu dưới đáy hòm, nhưng trái lại tấm vải khâm niệm, quần áo và cả đôi giầy nữa vẫn còn, mặc dù sũng nước. Thế là nghĩa làm sao?

    Bóng tối đã bắt đầu mờ dần ở đàng đông. Đây không phải là lúc đặt những câu hỏi vẩn vơ như thế. Ông Ba thúc giục bốn người phu lấy rượu rửa mấy cái xương còn lại, cho vào một cái quách bằng sành.

    Ngồi sổm trên bờ huyệt tôi lấy một cành tre quậy tấm vải liệm lên thì thấy bây giờ đã ngả màu nâu, nhưng có vẻ vẫn như còn chắc lắm không mủn ra như tôi đã tưởng.

    - Ông Ba, máy cái này có lấy lên cho vào quách không, ông?

    Ông Ba Sạng lắc đầu:

    - Không thể làm như thế. Một người vừa chết mà đem hỏa thêu ngay, thì có quyền thiêu hết cả quan tài nghĩa là cả quần áo vải liệm và những đồ vật chôn theo người chết, nhưng một cái xác cải táng mà lấy đem hỏa thêu thì chỉ được thiêu nguyên xương của người quá cố mà thôi, ngoài ra không được trộn lộn bất cứ một thứ đồ gì khác.

    Chuyến về hết sức tẻ lạnh. Chúng tôi đặt cái quách sành lên xe ra về, không ai nói với ai một lời, bởi vì mỗi người đều có những thắc mắc riêng, những câu hỏi tự đặt cho mình mà không thể trả lời được với bao nhiêu ngao ngán mà nói ra sợ làm tủi vong linh người chết.

    Ờ, tại làm sao xương thịt người ta là những thứ mà ai cũng cho là rắn nhất, bền nhất thì lại tiêu tan hết cả trong khi những cái mà ai cũng biết là mau mục nhất như vải liệm, quần áo, và giày mang ở chân lại gần như nguyên vẹn? Thế là tại làm sao? Mà tại làm sao cả thân hình to lớn như Tôkubê lại tiêu mất hết cả xương, trong khi những người khác chôn bảy tám năm, mươi mười lăm năm, có khi cả trăm năm, đào lên hãy còn đầy đủ cả xương, kể cả những khúc xương đốt ngón tay nhỏ xíu?

    Ờ, tại làm sao?

    Chương Hai Mươi Bảy

    Đưa cái quách đặt vào cửa một ngôi chùa ở Phú Thọ rồi, chúng tôi ngồi nghỉ và uống nước, trong khi ông Ômya nói chuyện nốt với nhà sư về việc xin nhà chùa làm lễ hỏa thiêu.

    Tôi hỏi ông Ba:

    - Ông khuyên chúng tôi thế nào?

    - Người ta hỏa thiêu nguyên cả cái xác, may ra chỉ được một nắm tro, đàng này chỉ có vỏn vẹn mấy cái xương thì có nên hỏa thiêu không, hay là nên đóng một cái hộp đựng để thờ?

    Ông Ba nói:

    - Phải thiêu chứ! Cách gì cũng phải hỏa thiêu. Để nguyên xương trong cáo hộp để thờ là điều tối kỵ, mà độc lắm.

    Chừng nửa tiếng đồng hồ sau, nhà chùa làm một cái lễ rồi bắt đầu cuộc hỏa thiêu: mấy cái xương còn lại của Tôkubê được lượm từ cái quách sành ra, bỏ vào trong một cái hộp gỗ nhỏ bề ngang chừng nửa thước, bề cao chừng năm phân rồi đẩy vào trong một cái lò có dây kẽm đan ở chung quanh. Lửa bắt đầu cháy bùng lên vì hình như có tẩm xăng thì phải. Có tiếng kêu lép bép. Rồi lửa bốc lên ngùn ngụt.

    Đến sáng hôm sau, cời củi cháy âm ỉ ra, nhà chùa thu được một dúm tro do những cái xương cháy để lại. Một dúm tro cầm không kín lòng bàn tay đứa trẻ con lên sáu. Một dúm tro không káhc gì tro ở bếp lửa mà to đốt gộc để sưởi cho ấm vào những đêm đông. Một dúm tro mà người ta không biết sẽ không ngần ngại gì mà không tung hê ra trước gió cho khỏi làm dơ lòng bàn tay.

    Chưa có một buổi tối nào tôi lại buồn tha thiết, buồn não nề như thế.

    Ở ngôi chùa làm lễ hỏa thiêu xong ra về, hai ông Ba Sạng và Ômya cùng về nhà tôi ăn cơm uống rượu. Tất nhiên câu chuyện bốc mộ ông Tôkubê lại được đem ra đàm luận. Đến lúc ấy, sự bực tức mới được bộc lộ ra câu nói:

    - Vô lý! Tôi không tưởng tượng được vì "nó" vô lý quá.

    Ông Ômya hỏi tôi:

    - Ông nói "nó" vô lý là cái gì vô lý?

    - Là cái việc mà chúng ta cùng chứng kiến, chứ gì! Là cái việc bốc mộ ông Tôkubê chớ gì! Thú thật vói hai ông, tôi cho là vô lý hét sức và cho đến tận bây giờ tôi vẫn không tin là thật.

    Ông Ômya nói tiếp:

    - Tôi không nghĩ là vô lý. Tuy nhiên nói thật tình, tôi đã đi xem nhiều đám bốc mộ rồi, nhưng chưa hề thấy một đám nào kỳ lạ đến như đám này. Sao mà xương cốt lại tiêu hết trọi, trong khi những thứ đồ vật đáng lý phải mục nát lại còn nguyên vẹn?

    Thì ra không phải chỉ có một mình tôi buồn mà cả ông Ômya và ông Sạng cũng buồn ray buồng rứt đêm hôm ấy. Chưa hôm nào chúng tôi uống say đến như thế. Về khuya, ông Ba Sạng có hơi men đưa đẩy mới lên tiếng:

    - Cho rằng vô lý thì quả vô lý thật. Tôi cũng đồng ý kiến với hai ông. Nhưng chúng ta lầm cả hai ông ạ. Lầm vì chúng ta đã lấy cái đầu óc khoa học bây giờ để mà tìm hiểu những vấn đề huyền bí. Đã là huyền bí thì bao giờ có lý. Nếu lý giải được thì còn đâu là huyền bí?

    Phần tôi, trong vụ này, tôi không dám nói là vô lý mà tôi cũng không tìm cách lý giải xem tại sao lại thế.

    Nói về những chuyện huyền bí, không lý giải được, chúng ta đây ai cũng đọc nhiều sách, nhiều truyện lạ kỳ mà theo đó thì các nhà thông thái không hiểu ra thế nào. Tuy nhiên, đó chỉ là những sự việc mà ta thấy chép ở trong sách vở, chớ không được mắt thấy rõ ràng. Chính tôi đã được thấy một vụ bốc mộ cũng vô lý như thế, làm cho nhiều nhà bác học nghi ngờ phỏng đoán, nghiên cứu tùm lum mà kết cuộc cũng đành chịu thua, không hiểu ra thế nào.

    Tôi không bịa đặt. Tài liệu hãy còn lưu trữ ở sở quản thủ Viện Bảo Tàng Sài Gòn hiện nay.

    "Hôm ấy nhằm ngày 16 tháng 11 năm 1953, tôi cùng một người bạn đi chơi đến làng Hòa Hưng thì gặp một ông bạn khác là Anh Vương.

    (Câu chuyện này do chính anh Vương đã thuật lại trong một cuốn sách xuất bản năm 1960 nói về Sài Gòn ngày trước.)

    "Tôi hỏi anh đi đâu mà lặn lội đến chỗ này. Anh Vương cho biết rằng anh nhân danh đại diện quản thủ Pháp viện Bảo Tàng Sài Gòn đến làng này để coi cho người ta bốc một ngôi mả không người nhận ở trong một ngõ hẻm chi nhánh đường Lê Văn Duyệt.

    Nguyên trước đây, lăng miếu cổ tích miền Nam được trường Viễn Đông Bác Cổ gioa phó cho quản thủ Pháp của Viện Bảo Tàng Sài Giòn chăm nom. Viện này có nhiệm vụ sưu tập, bảo vệ các cổ tích, do đó mỗi khi có ai mua được đất thổ mộ, để cất nhà thì viện phải cử người đến xem có đụng chạm đến các cổ tích hay không, hay có đào bới được cổ vật gì không.

    "Vậy anh Vương đại diện cho viện đến coi người ta bốc một ngôi mả ở hẻm chi nhánh đường Lê Văn Duyệt để rồi cất nhà lên trên đó ở."

    "Hôm ấy, phu phen cậy nắp quan tài, bởi vì trước đó mấy hôm người ta đã bắt đầu phá ngôi mộ rồi. Phá mất mấy ngày vì đất ở đấy là đất đỏ, rắn lắm."

    "Công cuộc cậy nắp hòm bắt đầu. Bạn tôi, anh Vương, muốn tìm biết xem mộ này là mộ của ai, bao nhiêu tuổi, quê quán ở đâu, nhưng tiếc thay, các chi tiết như mộ bia, liễn đối ghi trên mộ đều đã bị đập phá hết, không còn nữa."

    "Anh chỉ còn thấy được cái quan tài mà thôi. Đó là một cái quan tài đẹp, chắc chắn, mặc dù chôn đã lâu năm, nhưng mới trông cũng biết là làm bằng gỗ huỳnh đàng. Bằng vào cái gỗ này đóng quan tài mà đoán thì người chết phải là một người khá giả, gia đình sung túc lắm, vì ai còn không biết là hòm đóng bằng gỗ trai, gỗ huỳnh đàng là thứ hòm hạng sang, những gia đình bình thường không dễ gì sắm được để chôn người quá cố."

    "Đến khi cậy được nắp hòm ra, nhìn vào trong thì thấy xương cốt của người quá cố còn nguyên những tím ngắt, thịt nát rữa ra, nhưng trên trán thì còn nguyên lành một miếng da bầy nhầy. Nhìn kỹ miếng da thì còn thấy rõ được cả lỗ chân lông. Gò má thì nguyên vẹn như gò má người sống, ánh lên một màu hồng y như thể là đọng máu."

    "Bạn tôi lại gần cái xác, cầm cái quạt giấy mà người chết cầm ở tay. Lạ lùng hết sức: cái quạt giấy y nguyên không mục, cầm lấy xòe ra vẫn như quạt thường, không có một dấu vết gì tỏ ra là cái quạt ấy chôn cùng với người chết ít ra đã được 150 năm rồi."

    Ông Ômya ngắt lời hỏi:

    - Bằng chứng vào đâu mà quyết đoán được như vậy?

    "Bằng vào cây quạt giấy. Là vì trên cây quạt có đề chữ nhỏ, nét chữ sắc sảo viết bằng một chất gì như ngân nhũ, ghi chú như sau:

    "Gia Khánh đệ... niên". Gia Khánh hoàng đế, vua Mãn Thanh trị vì xứ Trung Hoa từ năm 1796 đến năm 1820. Thế là tính đến năm 1953 là năm bốc ngôi mộ, chẳng phải đã được trên dưới 150 năm là gì?"

    - Thế người chết là người Việt hay là người Trung Hoa?

    "Là người Việt. Để tôi kể câu chuyện dưới đây, ông sẽ thấy là người Việt, nhưng tại sao thay vì "Gia Khánh" cây quạt ấy lại không ghi "Cảnh Hưng", cái đó tôi chịu, chưa thể tìm ra câu trả lời.

    Sốt ruột vì câu chuyện dở dang, tôi nói:

    - Thôi bỏ đấy. Gia Khánh hay Cảnh Hưng, cái đó không cần lắm tôi chỉ cần biết rõ câu chuyện sau xảy ra như thế nào.

    "Câu chuyện về sau cũng lạ như chuyện của Tôkubê vậy. Tất cả những cái gì mà ta cho là bền vững không bở được, không mục nát được, tất cả những cái gì mà ta cho là có tính cách trường tồn thì đều hóa ra tro bụi, trái lại, những cái gì mà ta cho là phù du, mau hư mau hỏng, mau tan rã, mau tiêu thì lại còn nguyên vẹn gần như mới vậy.

    "Ngoài cây quạt nan phết giấy cầm lên xòe ra như thường không lủng một lỗ trên giấy phết, không gẫy một cái nan tre, người ta còn lần lượt lượm lên được nhiều thứ khác không hư hao gì hết, mặc dù đã chôn kỹ dưới đất trên dưới 150 năm trời, nhu vỏ cau ăn trầu, giấy tiền vàng bạc, bọc vải đựng trần, thuốc xỉa, bút lông, khăn chít đầu..."

    "Vỏ cau ăn trầu nửa xanh nửa vàng còn dính liền vào trái; giấy tiền vàng bạc còn nguyên từng xếp buộc bằng lạt, mực in không phai nhòa, không rách (duy có thuốc xỉa ra gió một lát thì tan ra thành bụi) nhưng trái lại những đường chỉ kim tuyến thêu trên túi đựng trầu thì vẫn ràng ràng sáng chói y như mới; hai cây bút lông bọc trong một tấm vả hồng điều cũng y như mới, cán bằng trúc, không hề hấn gì, lông ở ngòi mềm mại, mới tinh, tưởng chừng như có thể chấm vào nghiên mực viết nhu bút mới, nhưng chỉ ra ngoài gió một lát thì lông rụng tả tơi và rơi ra khỏi quản."

    "Ông Ômya vừa hỏi tôi người là người Trung Hoa hay người Việt. Đây, tại sao anh Vương, một học giả lão thành rất giàu suy nghiệm lại quả quyết như thế, vì hai hàm răng của người chết còn nguyên trong miệng và nhuộm đen. Sự việc đó đủ chứng tỏ rằng người chết là người Việt gốc gác không ở Bắc thì ở Trung. Ngoài ra người chết lại còn chí khăn vấn tay ở trên đầu, mặc áo dài lồng vào với nhau và có đẫy đựng trầu cau chạy chỉ kim tuyến!"

    "Như vậy đã đủ chứng minh là người Việt chưa? Chắc rồi, nhưng người Việt đây không phải là một người có chức tước triều đình (vì chít khăn cài lược đồi mòi chớ không đội mão), tuy vậy, ông ta nhất định phải thuộc vào cái hạng phong lưu khá giả, chứng cớ là có đem theo xuống suối vàng hai ngọn bút lông, cây xỉa rằng làm bằng bạc, cái móc tai dát vàng, hai bao đựng thuốc xỉa, thuốc hút và cái đẫy đựng trầu ăn"

    "Tôi nhớ sau vị này, anh Vương đã ghi lại cảm xúc của anh trong những câu rất buồn sau đây:

    Ô hô! Giàu sang một đời, nằm xuống đất, nay đã gần một trăm năm mươi năm, thế mà chưa được yên thân! Cháu con lâu đời ắt đã lui về quê cũ hoặc Bác hoặc Trung, còn sót những đứa ở lại đây, một nắm xương tàn đối với chúng sao trọng bằng tiền bạc, nên chúng đã ký tên bán đất, phú cho phu phen phá mồ đào cốt, cải táng về đâu mặc kệ. Ván hòm cứng thật. Bề ngoài mốc mốc, đất ăn xầy xầy, tưởng bở, chạm sâu một phân tây mới biết là cứng vô cùng, thậm chí đến cái máy khoan điện thuở nay nào biết kiêng nể thứ gì, sức bực sắt đá mà nó còn nhai như bánh bột, thế mà máy khoan không đâm thủng nắp hòm! Khoét được lỗ nào chỉ đứt được lỗ đó, còn chung quanh thì vẫn y nguyên. Khoan cả mấy giờ, không xuể đâu vào đâu, phu phá mồ xổ chữ nho nghe mà mệt! Thét rồi chùng chạy về lấy búa thầu và đục thép cỡ lớn ra nói chuyện với cái hòm gỗ huỳnh đàng! Nghĩ mà tội nghiệp cho người nằm dưới đó! Sắm hòm cây danh mộc, tưởng đủ chịu đựng với thời gian, không dè kẻ thù ngày nay là đứa cháu bất hiếu, với tên võ phu tay cầm búa thầu đục thép. Không một tiếng não bạt, ê a, không một câu kinh an ủi. Nằm trơ đó cho người ta mổ búa lớn vào nắp vào đầu... Chung quy có mớ đồ vật ký thác Viện Bảo Tàng còn lưu lại hậu thế; kỳ dư trở về tro bụi hết, trở về tro bụi hết!"

    Ông Ba kết luận:

    - Đấy, chuyện vô lý như thế đấy, nhưng không tin cũng không được vì là thật, hoàn toàn thật.

    - Chuyện cậy hòm ông Tôkubê có khác gì không?

    - Nếu Sở Quản Thủ Bảo Tàng Sài Gòn đến bây giờ vẫn chưa tìm ra được lý do câu chuyện huyền bí đó, tôi thiết tưởng cái cá nhân hèn mọn của chúng ta cũng chẳng nên tự phụ đi sâu hơn vào vụ bốc mộ ông bạn của chúng ta làm gì!

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương Hai Mươi Tám


    Tôi đồng ý với ông Ba Sạng. "Ta cũng chẳng nên tự phụ đi sâu hơn làm gì". Đành thế rồi, đành là huyền bí thì không thể nào lý giải được, ta chỉ biết ghi nhận mà không cần vặn hỏi lôi thôi vô ích, nhưng tôi không phải vì thế mà không được suy nghĩ về cái chết của con người một chút.

    - Hai ông bạn à, tôi thú thật là có phen tôi đã ngồi suy nghĩ về lẽ sống chết của con người nhưng thật quả chưa bao giờ tôi thấy buồn rầu và chán nản những ngày hôm qua. Người chết ở chi nhánh đường Lê Văn Duyệt chết đi tan ra tro bụi hết trừ phi mấy đồ vật mang theo còn lưu lại được đến bây giờ thì ông Tôkubê ngẫm ra cũng chẳng hơn gì: cả một cuộc đời vào nguy ra hiểm tưởng chừng như có thể làm đảo lộn được cục diện thế giới ... vậy mà rút lại còn gì sau khi chết? Một nắm tro tàn không đầy lòng bàn tay đứa trẻ con, một ít than dơ bẩn có thể làm hôi tanh hơi gió thổi...

    - Ai cũng biết như thế, có phải không hở hai ông? Ấy thế mà thế hệ này qua thế hệ kia, từ bán cầu này sang bán cầu nọ, lúc nào cũng đầy rẫy những người quên hẳn rằng mình đương sống đây mà chưa biết lúc nào lăn ra chết, mà chết đi thì bất quá chỉ là một nắm tro hôi hám. Ấy là nói đến thời bình. Chứ ở vào thời buổi chiến tranh, cái mạng con người chắc gì đã được như thế? Hay là không còn lại gì hết, thịt xương tan ra từng mảnh tung cả ra bốn phương trời, ghê tởm đến nỗi chó chẳng buồn ăn, mà chuột cũng không muốn ngửi.

    - Tất cả, tất cả mọi người đều tưởng rằng mình sẽ sống mãi, không bao giờ chết và tiền bạc và chức tước mà thường thì họ quỳ mọp xuống dưới chân người khác để kiếm ra sẽ cũng trường tồn mãi mãi không bao giờ mất.

    Ông Ômya tự nhiên xịu mặt xuống, buồn muốn khóc. Ông nói:

    - Chán không để đâu cho hết. Tôi chẳng biết nói thế nào với mẹ và vợ ông Tôkubê. Nói tất cả sự thật lúc bốc mộ thì họ buồn, mà không nói không được vì họ đặt tin tưởng nơi mình.

    Tôi nói:

    - Có lẽ không nói gì thì hơn hết. Mà nếu tôi ở địa vị ông, tôi cũng sẽ không nói chi tiết cái chết của Tôkubê làm gì vì mẹ và vợ Tôkubê biết rõ thì họ chỉ càng buồn rầu, đau khổ thêm thôi.

    Chúng tôi lại uống. Buồn quá, mà uống rượu, có nhiều khi uống không biết thế nào là say. Ômya tưởng tượng đến cảnh gia đình Tôkubê ở Kyotô lúc này thảm đạm không biết chừng nào; có lẽ mẹ anh nhớ con mà chết rồi cũng không chừng! Còn vợ anh ta thì chẳng biết bây giờ đắp đổi lần hồi ra sao để nuôi hai đứa con thơ ấu?

    Ông Ba Sạng hỏi đi hỏi lại về ngày, giờ chết của Tôkubê và phàn nàn mãi tại sao lúc khâm liệm không nhớ cho một miếng vàng vào miệng người quá cố "vì việc đó hệ trọng lắm."

    Riêng tôi, không nghĩ gì đến Tôkubê nữa vì những gì tôi thấy hồi sáng ghê rợn quá, đến lúc ấy còn làm cho tôi muốn ói.

    Giờ đây tôi cứ ngồi uống và chỉ biết uống thôi. Tôi là tay rượu, nhưng chưa có bao giờ lại uống dữ đến như thế uống đến độ mà hai ông bạn ra về hồi nào tôi cũng không hay.

    Nửa khuya, tôi chợt thức dậy vì cánh cửa sổ đập ầm ầm. Lá cây y lăng kêu rào rào, thỉnh thoảng lại có mấy cành khô gãy kêu răng rắc và rơi lộp bộp xuống cái sân sau nhà.

    Tôi nằm im không động đậy để nghe.

    Ở ngoài kia, trời tối om om, tối mịt mù, thỉnh thoảng lại có một lằn chớp xanh lè lóe lên và chạy ngoằn nghèo như những con rắn ở trên nền trời thấp lè tè, sũng nước,

    "Quái, sao lại thế này? Bay giờ là cuối tháng chạp sắp Tết, khí hậu phải hanh hao mới đúng, sao khi không lại nổi dông gió và như muốn mưa to thế này?"

    Tôi lắng nghe một chút nữa thì trời chuyển ầm ầm rồi mưa xuống như trút nước. Những lằm chớp xanh lè lóe lên nhiều hơn. Tôi lười biếng ngồi dậy đóng cửa sổ lại thì vừa lúc ấy, Mệ Hoát bước vào với o Phương Thảo. Họ chào tôi. Tôi hỏi:

    - Ủa, Mệ đi đâu mà khuya khoắt thế này?

    - Chúng tôi đi lễ Phật vì hẳn thầy Tư đã rõ là chỉ còn vài ngày nữa thì đến Tết. Chúng tôi đi các chùa để nghe kinh. Lần trước, lúc giã biệt thầy tôi còn nói "còn lâu lắm mới trở về". Nhưng hôm nay, qua đây, gặp trời mưa chúng tôi và tạm lánh ở đây và cũng nhân dịp chúc mừng thầy một năm mới tốt lành.

    Lần thứ nhất, tôi mới gặp hai cái bóng nhếch miệng cười. Tự nhiên tôi thấy vững dạ hơn một chút.

    Hệ Hoát nói:

    - Thầy Tư dạo này có mạnh không?

    - Cảm ơn mệ. Tôi bình thường. Nhưng riêng hôm nay tôi cảm thấy buồn quá vì chúng tôi vừa nói chuyện với nhau về cái lẽ sống và chết ở đời.

    - Những người hay suy nghĩ bao giờ cũng buồn, chớ chẳng phải riêng những lúc bàn luận về cái sống và chết. Tôi nhớ hình như có một lúc thấy thầy Tư nói rằng sống mới khó chứ chết thì dễ lắm. Tôi ngờ rằng chưa hẳn thế đâu, thầy ạ. Chết cũng khó như sống vậy. Khoan nói rằng có nhiều người sống muốn chết mà vẫn tiếc nuối; chỉ nói về những người chết thật mà thôi thầy Tư có thấy bao nhiêu người chết thật rồi mà vẫn làm khổ cho người sống không? Đó là những người chết mà còn mang cái oán ngày trước đi theo mình xuống suối vàng chờ đợi một dịp nào đó trả lại cái oán ngày trước mới được siêu sinh, chứ không vẫn cứ còn bận tâm, thắc mắc mãi, không thể nào yên.

    Tôi chợt nhớ đến vụ Tôkubê bị roi quất vào mặt, ngã lăn trên mặt đất chết tươi và tôi lại nhớ đến đám bốc mộ hôm nay, quan tài Tôkubê đầy nước bùn, chỉ còn lại mấy cái xương đem về Phú Thọ hỏa thiêu.

    - Mệ vừa nói... tôi nghe ra rồi... thế thì tôi có thể nghĩ rằng cái quan tài của Tôkubê đầy nước... không còn gì hết... có phải là...

    - Tôi hiểu ý thầy Tư nói gì rồi. Lạy Trời Phật... tôi xin trả lời đây: Tôi là người không bao giờ lại nuôi cái oán hận sâu độc đến thế, không bao giờ lại có tâm đại xấu xa đến thế. Từ trước, tôi không muốn nói chuyện này ra sợ làm phiền lòng thầy Tư. Nhưng bởi vì bây giờ thầy Tư đã biết câu chuyện rồi, tôi thiết nghĩ cũng nên nói ra để cho thầy Tư khỏi ngộ nhận tôi là một người xấu, không xứng đáng nhận một cảm tình của thầy Tư đã giử cho tôi.

    "Tôi nhận mình không có một tấm lòng cao cả của các bận giáo chủ yêu thương nhân loại hơn cả yêu thương mình, chủ trương lấy ân trả oán, ai tát má bên phải thì đưa má bên trái cho người ta tát. Không, tôi là người thấp kém. Ai làm nhục tôi thì tôi né, ai đánh tôi thì tôi đỡ, nhưng nếu đã né hay đã đỡ mà cứ nhục mà tôi, cứ đánh tôi thì tôi đối phó và tôi sẽ đánh lại!"

    "Chắc thầy Tư đã biết tôi đã đem phương pháp sống đó ra thực hành với Tôkubê như thế nào rồi. Tôi không nế, nhưng tôi van xin, tôi không đánh nhưng tôi chạy. Vậy mà Tôkubê không biết thương tôi lại chửi rủa, khinh miệt và đuổi theo tôi, định đánh chết người đã chết. Dẫu hèn đến chừng nào đi nữ, tôi cũng phải căm thù. Chính vì lòng căm thù đó đã tạo cho tôi một sức mạnh mà chính tôi cũng không ngờ."

    "Hôm Tôkubê ở nhà thầy Tư ăn lễ tân gia ra về, tôi không ngờ cái sức mạnh của thù hận, của căm hờn lại ghê gớm đến thế. Thực tình tôi quất vào đầu, vào mặt của ông ta chỉ là để cảnh cáo mà thôi. Tôi giận nhưng mà thương ông ta, tôi oán nhưng mà không quên ông ta có vợ trẻ và hai đứa con nhỏ. Phải, tôi chỉ muốn cảnh cáo thôi. Không ngờ... thực không ngờ... Tôi tự hỏi không biết có phải là định mệnh đã sắp như thế không, có phải cái phần số mệnh của ông đến ngày ấy, tháng ấy, là hết không, chớ thật tình tới tận bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao mấy cái roi cảnh cáo đó lại có thể làm cho ông ta chết bất đắc kỳ tử như thế được.

    "Dầu sao, tôi cũng thấy rằng bao nhiêu tội lỗi về phần tôi cả và nếu có là ngộ sát chăn nữa thì tôi cũng phải nhận lấy trách nhiệm đã sơ xuất trong hành động, thiếu bình tĩnh trong khi đối phó. Không biết bao giờ tôi mới trả được cái nợ này. Hẳn là bây giờ thầy Tư đã biết tại sao tôi và cháu Phương Thảo chỉ tìm đến các chùa chiền để nghe kinh và đem hết tâm thành ra sám hối...

    "Người chết không bao giờ nói dối. Thầy Tư có thể tin tưởng tôi. Chúng tôi thành tâm sám hối việc đã chót làm, thế thì nhất định không bao giờ lại có thể theo dõi Tôkubê mà hại cả ở trong quan tài... như thầy Tư đã nghĩ. Không, không thể như thế được. Một người hèn đến chừng nào đi nữa cũng không thể làm như thế. Chúng ta là con người khi thấy kẻ thù ngã xuống thì đều quay lại xót thưong. Bao nhiêu thù hận đều xóa hết, cả người sống lẫn người chết đều là anh em, không còn phân biệt, đâu là thù đâu là bạn...".

    Mưa ở ngoài mỗi lúc một to hơn.
    Tôi say quá, gục đầu xuống bàn giấy ngủ lúc nào không biết.
    Đến sáng, mở mắt dậy thì hai cái bóng mệ Hoát và o Phương Thảo đã biến đi từ lúc nào rồi.

    Xa xa, có tiếng gà gáy te te. Ở ngôi chùa gần đấy, tiếng nhà sư tụng kinh lúc trầm lúc bỗng. Mưa đã ngớt hạt nhưng vẫn rơi đều đều. Trời buồn quá thể là buồn. Lòng tôi buồn quá đến là buồn. Tôi vấn một điếu thuốc lào và ngâm khe khẻ mấy câu thơ cũ của Bạch Lạc Thiên:

    Bôn lưu phó hải vô đồi ba,
    Hiền ngu quí tiện đồng quí tận.
    Bắc Mang trủng mộ cao ta nga
    Cổ lai như thử phi độc ngã,
    Vị tử hữu tửu thảo cao ca
    Nhan Hồi đoản mệnh, Bá Di ngã,
    Ngã kim sở đắc diệc dĩ ta...

    Rồi lấy giấy bút chép mấy câu tạm dịch ra lời Việt:

    Nước trôi ra biển có về được đau!
    Ngàn xưa quý tiện, nghèo giầu,
    Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.
    Bắc - Mang ai đó đi về,
    Thấy chăng mả nọ mồ kia ngút ngàn?
    Huyền vi cái lẽ tuần hoàn,
    Phải dân tua chịu riêng oan một mình.
    Rượu ngon hãy uống cạn bình
    Hát vang quên khuấy cái hình phù du.
    Nhan Hồi chết yểu nhớ chưa?
    Bá Di chết đói đến giờ còn ghi.
    Ngẫm mình dám oán hận chi
    Được như thế ấy, có khi đã nhiều...

    Bỗng nhiên tôi cảm thấy lành lạnh ở lưng. Ngồi thật yên lặng để nghe thì hình như có người đứng ở đâu gần đó. "Ủa, thế ra Mệ Hoát và o Phương Thảo chưa đi à?".

    Tôi quay lại, yên chí rằng hai cái bóng ma đứng ở cạnh tôi đang đọc hai câu thơ tôi vừa viết lên mặt giấy. Hóa ra lầm. Đó chỉ là tiếng gió thở dài. Mà tiếng thánh thót như gần như xa không phải là nước mắt tuôn rơi, mà là những giọt mưa đọng trên những tờ lá y lăng rách mướt nhểu từng giọt, nhểu từng giọt xuống mảnh sân rêu ướt đầy những xác hoa vàng ố.

    Viết xong vào mùa mưa, 3 giờ sáng ngày 30 - 4 Quý Sửu 1973

Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 07-09-2018, 12:05 PM
  2. Bóng hoàng hôn
    By giavui in forum Audio Tiểu Thuyết Tinh Cảm
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-29-2016, 04:17 AM
  3. Bóng Hoàng Hôn
    By giavui in forum Audio Tiểu Thuyết Tinh Cảm
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-06-2015, 12:24 AM
  4. Bóng Lá Hồn Hoa
    By hailua in forum Audio Ma Kinh Dị
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-31-2014, 07:07 PM
  5. Những Bóng Ma Trên Đường Hoàng Hoa Thám
    By giavui in forum Audio Ma Kinh Dị
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-01-2013, 06:40 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •