Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Có hai loại người:những người có thể sung sướng được mà không sung sướng, và những kẻ tìm hạnh phúc mãi mà không thấy.
Danh ngôn Ả Rập
Trang 3 / 6 ĐầuĐầu 12345 ... Cuối Cuối
Results 21 to 30 of 59

Chủ Đề: Lưới Điện Tử Thần

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Lưới Điện Tử Thần

    Lưới Điện Tử Thần

    Tác giả :Jeffery Deaver

    Người dịch: Đinh Minh Hương





    Jeffery Deaver được vinh danh là một trong những tác giả ăn khách nhất thế giới. Tiểu thuyết của ông đã xuất hiện trong danh sách những tiểu thuyết bán chạy nhất của tờ New York Times, Times of London, Sydney Moming Herald, Los Angeles Times và Corriere della Sera của Ý. Sách của ông xuất bản tại một trăm năm mươi quốc gia và được dịch ra hơn hai mươi lăm ngôn ngữ.

    Ông đã đạt được nhiều giải thường cao quý cho các tác phẩm xuất sắc của mình. Các cuốn sáchThe Bodies Left Behind, The Broken Window(đã được BachvietBooks xuất bản tại Việt Nam với tựaDữ liệu tử thần) đều được Hiệp hội các nhà văn viết truyện kinh dị quốc tế bầu chọn là cuốn sách của năm. Ông đã ba lần chiến thắng giải thưởng Ellery Queen Readers Award dành cho truyện ngắn xuất sắc nhất. CuốnThe Cold Moon(được BachvietBooks xuất bản tại Việt Nam với tựaTrăng lạnh) đã được Hiệp hội tác giả truyện kinh dị Nhật Bản và tạp chí Kono Mystery Wa Sugoi bầu chọn là cuốn sách của năm. Thêm vào đó, Hiệp hội sách viễn tưởng phiêu lưu Nhật Bản đã trao giải Grand Prix cho cuốn The Cold Moon và Carte Blanche

    Gần đây ông đã lọt vào danh sách đạt giải thưởng ITV3 dành cho những tác giả truyện kinh dị xuất sắc nhất thế giới. Ngoài ra ông còn được đề cử cho giải thưởng Anthơny, giải thưởng Gumshoe và giải Edgar lần thứ 7 của Hiệp hội các nhà văn viết truyện bí ẩn của Mỹ. Nhiều cuốn sách của ông đã được chuyển thể thành phim (A Maiden” s Grave, The Bone Collector- được BachvietBooks phát hành tại Việt Nam với tựaKẻ tầm xương, The Devil” s Teardrop- được BachvietBooks xuất bản tại Việt Nam với tựaGiọt lệ quỷ).

    Với vốn hiểu biết phong phú và kinh nghiệm sống của mình, Jeffery Deaver cũng là diễn giả thường xuyên ở hàng trăm hội nghị văn Chương trên toàn thế giới, bao gồm Liên hoan sách quốc tế Edinburgh, Liên hoan văn học Emirates, Hội nghị các cây viết quốc tế xuất sắc...

    Lưới điện tử thần(The Buming Wire) là tác phẩm thứ chín trong series tiểu thuyết trinh thám về thám tử tài ba Lincoln Rhyme của Jeffery Deaver. Cuốn sách đánh dấu sự trở lại của Lincoln Rhyme trong hành trình lần theo dấu vết của tên tội phạm với cách lựa chọn vũ khí khiến cả New York phải tê liệt trong nỗi khiếp sợ, đồng thời tiếp diễn cuộc đấu trí dai dẳng giữa anh và tên tội phạm khét tiếng Thợ Đồng Hồ đã mấy lần thoát khỏi tay anh.

    ° ° °

    Một thứ vũ khí vô hình nhưng có mặt ở khắp mọi nơi. Không có nó, xã hội hiện đại sẽ rơi vào trì trệ. Đó chính là mạng lưới điện. Kẻ giết người đã lợi dụng mạng lưới điện ấy và lái những tia hồ quang điện cực lớn với điện áp cao cùng luồng nhiệt thiêu đốt đến nỗi sắt thép phải tan chảy, còn nạn nhân của hắn thì bốc cháy. Hoặc hắn sẽ đấu nối lại vài đường dây điện trong văn phòng hoặc nhà một ai đó để ngay cả bồn tắm, chậu rửa bát, bàn phím máy tính hay thậm chí một chiếc đèn bàn đom giản cũng có thể giết người.

    Khi cuộc tấn công kinh hoàng đầu tiên xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật, biến một chiếc xe buýt thành một đống kim loại nóng chảy, giới quan chức ngay lập tức lo sợ về nguy cơ khủng bố. Lincoln Rhyme, cùng những cộng sự của mình, được yêu cầu đảm trách vụ việc.

    Nhưng những vụ tấn công vẫn tiếp tục diễn ra trên khắp thành phố New York với tốc độ đáng sợ, và khi những lá thư yêu cầu kinh hoàng bắt đầu xuẩt hiện, nhóm điều tra buộc phải làm việc một cách tuyệt vọng, chạy đua với thời gian cùng những bằng chứng pháp y ít ỏi một cách đáng bực mình để cố tìm ra kẻ giết người. Hay liệu đó cỏ phải kẻ giết người... ?


    Ba mươi bảy tiếng đồng hồ trước Ngày Trái đất

    I. NGƯỜI KHẮC PHỤC SỰ CỐ
    "Tính từ cổ trở xuống, người ta chỉ đáng giá vài đô la mỗi ngày. Nhưng từ cổ trở lên, người ta đáng giá với bất cứ thứ gì trí óc người ta mang lại được."

    THOMAS ALVA EDISON


    Chương 1
    Ngồi trong trung tâm điều khiển thuộc khu Liên hợp Điện lực và Chiếu sáng Algonquin trải dài trên bờ sông Đông ở quận Queens của New York, nhân viên giám sát ca sáng chau mày nhìn dòng chữ màu đỏ đang nhấp nháy trên màn hình máy tính.

    Sự cố nghiêm trọng.

    Bên dưới dòng chữ là những chữ số đứng im, biểu thị thời gian chính xác: 11: 20: 20: 003 sáng.

    Ông ta đặt chiếc cốc giấy đựng cà phê xuống, nó màu trắng và xanh lam in hình vẽ cứng nhắc các vận động viên Hy Lạp. Rồi ông ta ngồi thẳng lưng trên chiếc ghế xoay kêu cót két.

    Nhân viên của trung tâm điều khiển thuộc công ty điện lực này, mỗi người ngồi trước một máy trạm cá nhân, giống như nhân viên điều khiển không lưu vậy. Căn phòng rộng lớn với đèn đóm sáng trung, và chi phối không gian là một màn hình phẳng khổng lồ, báo cáo tình hình hoạt động của lưới điện Liên kết Đông Bắc cung cấp điện cho cả New York, Pennsylvania, New Jersey lẫn Connecticut. Kiến trúc và bài trí trong trung tâm điều khiển khá hiện đại, nếu hiện tại là năm 1960.

    Người kỹ sư giám sát nheo mắt ngước nhìn màn hình hiển thị điện năng chuyển về từ các nhà máy phát điện trên khắp đất nước: các tua-bin hơi nước, các lò phản ứng hạt nhân, đập thủy điện trên thác Niagara. Ở một phần nhỏ xíu của đĩa mì sợi mô tả các đường điện này, có cái gì đó đang trục trặc. Một vòng tròn màu đỏ đang nhấp nháy

    Sự cố nghiêm trọng...

    "Có vấn đề gì nhỉ ?" Người kỹ sư giám sát hỏi. Đó là một người đàn ông tóc muối tiêu, phần bụng săn chắc dưới lớp áo sơ mi cộc tay màu trắng, và ba mươi năm kinh nghiệm trong ngành điện lực, ông ta gần như tò mò. Mặc dù thi thoảng vẫn có đèn báo sự cố nghiêm trọng, nhưng những sự cố nghiêm trọng thực sự rất hiếm khi xảy ra.

    Một kỹ thuật viên trẻ đáp, "Có thông báo sập điện toàn bộ. Trạm MH-12"

    Tối tăm, bụi bặm và không người điều khiển, Trạm 12 của Liên hợp Algonquin nằm ở khu Harlem - MH là ký hiệu cho Manhattan - là một trạm chính trong khu vực. Nó tiếp nhận dòng điện 138.000 volt và cho dòng điện chạy qua các máy biến áp, giảm xuống còn mười phần trăm, được chia ra, rồi tỏa đi theo đường dây.

    Một thông báo nữa xuất hiện.

    MH-12 gián tuyến. MH-17, MH-10, MH-13, NI-18 cung cấp điện cho khu vực dịch vụ bị ảnh hưởng.

    "Chúng ta phải chuyển đường tải." Ai đó kêu lên một cách thừa thãi.

    Khi Trạm 12 sập, máy tính tự động đáp ứng nhu cầu khách hàng bằng cách chuyển điện từ những trạm khác đến.

    "Không để mất đồng bộ, không để sụt áp." Một kỹ thuật viên khác kêu to.

    Điện trên lưới điện cũng giống như nước chảy vào nhà qua đường ống chính duy nhất, sau đấy chảy ra qua nhiều vòi. Khi một vòi bị khóa, áp lực ở các vòi khác tăng lên. Điện cũng giống như vậy tuy nó chuyển động nhanh hơn nước nhiều, gần bảy trăm triệu dặm mỗi giờ. Và vì nhu cầu về điện của thành phố New York rất lớn, điện áp - tương đương áp lực nước - ở các trạm gánh thêm phụ tải sẽ tăng lên.

    Nhưng toàn bộ hệ thống được thiết kế là nhằm giải quyết những tình huống như thế này, và các đồng hồ chỉ điện áp vẫn hiển thị màu xanh lá cây.

    Tuy nhiên, điều khiến người kỹ sư giám sát băn khoăn là tại sao aptomat ở Trạm 12 lại sập.

    "Cử một thợ sửa chữa đến Trạm 12 đi. Có thể là đứt cáp. Hay chập..."

    Vừa lúc ấy, chiếc đèn đỏ thứ hai bắt đầu nhấp nháy.

    Sự cố nghiêm trọng.

    NJ-18 gián tuyến.

    Một trạm biến áp khu vực nữa, ở gần Paramus, New Jersey, lại sập. Đó là một trong những trạm gánh thêm phụ tải cho Trạm 12.

    Người kỹ sư giám sát bật một tiếng nửa như cười nửa như ho. Ông ta chau mày bối rối. "Cái quái quỷ gì đang diễn ra vậy ? Phụ tải vẫn ở dung sai cho phép mà."

    "Tất cả các thiết bị cảm biến và đèn báo đều đang hoạt động." Một kỹ thuật viên nói to.

    Người kỹ sư giám sát nhìn chằm chằm lên màn hình, chờ đợi bước logic tiếp theo: Nó cho biết trạm - hoặc những trạm - mới nào sẽ làm việc thay Trạm NJ-18.

    Tuy nhiên, không có thông báo nào xuất hiện.

    Chỉ còn ba trạm ở Manhattan, 17,10 và 13, tiếp tục cung cấp điện cho hai khu vực của thành phố mà nếu không thì sẽ bị chìm trong bóng tối. Chương trình máy tính đang không làm việc đáng lẽ nó phải làm: đưa điện từ những trạm khác đến. Hiện giờ, lượng điện vào và ra ba trạm kia đang đột ngột tăng lên.

    Ngươi kỹ sư giám sát vò bộ râu quai nón, và sau khi chờ đợi một trạm khác đăng nhập hệ thống, nhưng vô ích, thì đưa ra mệnh lệnh cho tổ trưởng trợ lý của mình, "Thao tác bằng tay đi, đưa điện vào khu vực phía đông Trạm 12."

    "Rõ."

    Một lát sau, người kỹ sư giám sát gắt, "Này, làm đi."

    "Ừm... Tôi đang cố."

    "Đang cố. Cậu bảo đang cố là sao ?". Cái việc chỉ cần vài nhát gõ bàn phím đơn giản.

    "Bảng phân phối không nhận lệnh."

    "Không thể nào !" Người kỹ sư giám sát bước mấy bước ngắn đến chỗ máy tính của kỹ thuật viên. Ông ta gõ những lệnh mà bản thân dù đang ngủ cũng gõ được.

    Không có gì.

    Các đồng hồ chỉ điện áp đã hết mức màu xanh. Màu vàng bắt đầu hiện lên.

    "Thế này không ổn rồi." Ai đó lẩm bẩm. "Thế này là có vấn đề”

    Người kỹ sư giám sát chạy trở về bàn, thả mình vào ghế. Thanh granolavà cái cốc in hình vẽ vận động viên Hy Lạp rơi xuống sàn.

    Rồi một quân domino nữa cũng rơi xuống. Chấm đỏ thứ ba, giống như mắt con bò tót hướng thẳng vào mục tiêu của mình, bắt đầu nhấp nháy, và màn hình SCADAlạnh lùng hiện lên dòng thông báo:

    Sự cố nghiêm trọng.

    MH-17 gián tuyến.

    "Không, không phải một trạm nữa chứ !" Ai đó thì thào.

    Và, giống như lúc trước, không xuất hiện trạm nào khác giúp đáp ứng nhu cầu cực lớn của người dân New York về điện. Hai trạm đang làm công việc của năm trạm. Nhiệt độ đường dây vào và ra hai trạm đang tăng lên, các vạch chỉ mức điện áp trên màn hình lớn đã chuyển hẳn sang màu vàng.

    MH-12 gián tuyến. NJ-18 gián tuyến. MH-17 gián tuyến. MH-10, MH-13 cung cấp điện cho các khu vực dịch vụ bị ảnh hưởng.

    Người kỹ sư gỉám sát gắt, "Lấy thêm điện từ đâu đấy cho các khu vực này. Tôi không cần biết mọi người làm cách nào. Bất kỳ đâu cũng được."

    Một nữ nhân viên phụ trách buồng điều khiển gần đó nhanh chóng đứng dậy. "Tôi có bốn mươi nghìn. Tôi đang khai thác các đường dẫn nhánh từ Bronx."

    Một người khác lấy điện từ Connecticut.

    Có lẽ họ sẽ kiểm soát được tình huống này. "Nữa đi !"

    Nhưng sau đấy, người phụ nữ lấy điện từ Bronx chợt nghẹn lời nói, "Khoan đã, đường truyền tự giảm xuống còn hai mươi nghìn. Tôi không biết tại sao."

    Điều này đang diễn ra trên toàn bộ hệ thống. Ngay khi một kỹ thuật viên đưa được chút điện về thì nguồn cung cấp từ một vị trí khác lại cạn sạch.

    Và tất cả vở kịch này đang triển khai với tốc độ nghẹt thở.

    Gần bảy trăm triệu dặm mỗi giờ...

    Lại một vòng tròn màu đỏ nữa, một vết thương do đạn bắn.

    Sự cố nghiêm trọng.

    MH-13 gián tuyến.

    Chuyện này tương tự một hồ chứa nước khổng lồ đang cố đổ ra qua cái vòi duy nhất bé tí tẹo, kiểu như vòi lấy nước ở cửa tủ lạnh. Điện áp vào Trạm MH-10, nằm trong tòa nhà cũ kỹ ở phố Năm mươi bảy mạn Tây thuộc hạt Clinton, quận Manhattan, đã tăng gấp bốn, năm lần bình thường, và vẫn đang tiếp tục tăng lên. Các aptomat sẽ sập bất cứ lúc nào, ngăn chặn xảy ra cháy nổ, nhưng sẽ trả phần lớn Midtownvề thời thuộc địa.

    Và rồi, "Ôi, Jesus, lạy Chúa !" Ai đó kêu lên.

    Người kỹ sư giám sát không biết ai đã kêu lên, tất cả đều đang nhìn chằm chăm vào màn hình của mình, đầu chúi hết xuống, sững sờ. "Cái gì thế ?" Ông ta giận dữ quát "Tôi không muốn tiếp tục nghe những câu kiểu ấy nữa. Nói cho tôi xem nào !"

    "Chế độ cài đặt aptomat ở Manhattan-Mười ! Nhìn kìa ! Những cái aptomat !"

    Ôi, không. Không...

    Các aptomat ở MH-10 đã bị cài đặt lại. Giờ chúng cho phép mức tải gấp mười lần mức tải an toàn.

    Nếu trung tâm điều khiển Algonquin không nhanh chóng giảm được áp lực của điện áp đang tấn công Trạm MH-10, các đường dây và bảng phân phối trong trạm sẽ cho phép một cơn lũ điện mạnh chí tử ào vào. Trạm sẽ nổ tung. Tuy nhiên, trước khi điều ấy xảy ra, dòng điện sẽ chạy qua các dây dẫn nhánh vào các hộp biến áp chôn dưới đất rải rác khắp những khối phố phía nam Trung tâm Lincoln, vào lưới điện của các tòa văn phòng và cao ốc lớn. Một số aptomat sẽ ngắt mạch, nhưng một số aptomat và bảng điện già nua hơn sẽ nóng chảy thành những cục kim loại dẫn điện, để dòng điện đi tiếp, bốc cháy và chập nổ thành những cung lửa điện có thể thiêu chết bất cứ ai ở gần các thiết bị điện hay ổ cắm trên tường.

    Người kỹ sư giám sát lần đầu tiên nghĩ tới: Khủng bố. Một vụ tấn công khủng bố. Ông ta hét lên, "Gọi cho Bộ An ninh Nội địa và Sở Cảnh sát. Và cài đặt lại đi, chết tiệt. Cài đặt lại các aptomat đi."

    "Chúng không nhận lệnh. Tôi bị khóa, không truy cập được vào MH-10."

    "Cái quái quỷ gì mà cậu có thể bị khóa chứ ?"

    "Tôi không..."

    "Có ai bên trong trạm không ? Lạy Chúa, nếu có, bảo họ ra đi !" Các trạm điện không có người điều khiển, nhưng công nhân thi thoảng vẫn đến thực hiện việc sửa chữa, bảo dưỡng định kỳ.

    "Rõ."

    Các đồng hồ chỉ điện áp lúc bấy giờ đã chuyển sang màu đỏ.

    "Sếp, chúng ta có nên sa thải phụ tải không ?"

    Nghiến chặt hai hàm răng, người kỹ sư giám sát đang cân nhắc việc này. Sa thải phụ tải, còn được gọi là cắt điện tránh quá tải, là biện pháp cùng bất đắc dĩ trong ngành điện. "Phụ tải" là lượng điện khách hàng đang sử dụng. Sa thải phụ tải là thao tác có kiểm soát, thực hiện bằng tay, đóng những khu vực nhất định của lưới điện, ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ lớn hơn trên toàn bộ hệ thống.

    Đó là phương kế cuối cùng mà một công ty điện lực áp dụng trong trận chiến duy trì lưới điện và sẽ gây ra hậu quả tai hại cho khu vực dân cư đông đúc ấy của Manhattan. Riêng thiệt hại đối với máy tính thôi sẽ là hàng chục triệu chiếc, và người ta có thể sẽ bị thương, thậm chí có thể mất mạng. Các cuộc gọi 911 sẽ không thực hiện được. Xe cấp cứu, xe cảnh sát sẽ kẹt tiên đường, vì đèn giao thông không bật. Thang máy ngừng hoạt động. Sẽ có hốt hoảng, hoang mang. Cướp, giết, hiếp bao giờ cũng tăng lên trong thời gian cắt điện, thậm chí giữa ban ngày ban mặt.

    Điện giữ cho người ta lương thiện.

    "Sếp ?" Cậu kỹ thuật viên gọi một cách tuyệt vọng.

    Người kỹ sư giám sát nhìn chằm chằm vào các đồng hồ chỉ điện áp đang xê dịch. Ông ta vớ lấy điện thoại của chính mình và gọi cho sếp của chính mình, một phó chủ tịch cấp cao của Algonquin. "Herb, chúng tôi gặp phải tình huống này”. Ông ta báo cáo tóm tắt tình hình.

    "Làm sao xảy ra như thế được ?"

    "Chúng tôi không biết. Tôi đang nghĩ tới khủng bố."

    "Trời đất ! Các anh gọi cho Bộ An ninh Nội địa chưa ?"

    "Rồi, vừa gọi. Từ đầu tới giờ chúng tôi hầu như chỉ cố gắng dẫn thêm điện đến những khu vực bị ảnh hưởng. Chúng tôi đang không may mắn lắm”

    Sếp ông ta suy nghĩ một lát "Có một đường dây truyền tải thứ hai chạy qua Manhattan-Mười, phải không ?"

    Người kỹ sư giám sát ngước nhìn màn hình lớn. Một đường dây cao thế chạy qua trạm, nhằm phía tây, phân phối điện cho các khu vực thuộc New Jersey. "Phải, nhưng nó không trực tuyến. Nó chỉ chạy qua một đường ống ở đó."

    "Nhưng liệu các anh có thể đấu nối và sử dụng đường dây ấy làm nguồn cung ?"

    "Bằng tay ư ?... Tôi nghĩ rằng, nhưng... nhưng như thế có nghĩa phải đưa người vào MH-10. Và nếu chúng tôi không ngăn được dòng điện cho tới lúc làm xong, nó sẽ phát nổ. Họ sẽ chết hết. Hoặc họ sẽ bị bỏng độ ba toàn thân."

    Đầu dây bên kia nín lặng. "Giữ máy. Tôi sẽ gọi cho Jessen."

    CEO của Liên hợp Algonquin. Còn được gọi một cách kín đáo là Kẻ Thống Soái.

    Trong lúc chờ đợi, người kỹ sư giám sát cứ nhìn những kỹ thuật viên xung quanh mình. Ông ta cũng nhìn chằm chằm lên màn hình lớn. Những chấm đỏ nhấp nháy.

    Sự cố nghiêm trọng...

    Rốt cuộc, sếp của sếp đã quay lại. Giọng ông ta rè đi. Ông ta đằng hắng một lát, rồi nói, "Các anh được yêu cầu cử mấy người tới đó. Đấu nối bằng tay."

    "Đấy là điều Jessen nói ư ?"

    Lại một lát im lặng. "Phải."

    Người kỹ sư giám sát thì thào, "Tôi không thể cử ai tới đó. Đấy là cảm tử."

    "Vậy hãy xem có ai xung phong không. Jessen nói các anh không được, hãy hiểu cho tôi, các anh không được sa thải phụ tải trong bất cứ hoàn cảnh nào."


  2. #21
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 24
    "Sachs đấy !"

    Tiếng nổ

    Tiêng nổ ầm trầm của động cơ xe vang lên phía bên ngoài cửa sổ, rồi tắt ngấm.

    Rhyme đang nói chuyện với Tucker McDaniel và Lon Sellitto, hai người này mới tới, riêng rẽ, vào khoảng thời điểm ông Tiến sĩ Thần chết đột ngột rút lui.

    Sachs sẽ ném tấm phù hiệu Xe công vụ Sở Cảnh sát New York lên bảng đồng hồ và đi thẳng vào nhà. Và, đúng là thế, lát sau, cánh cửa mở ra, tiếng bước chân của cô vang trên sàn, những tiếng bước chân cách xa nhau vì cô có đôi chân dài và vì sự khẩn trương cô lúc nào cũng khoác lên mình giống như vũ khí của cô vậy.

    Cô gật đầu chào mấy người đang hiện diện ở đó, và dừng lại lâu hơn một giây xem xét Rhyme. Anh để ý nét mặt cô: vẻ dịu dàng trộn lẫn con mắt lâm sàng, nét mặt đặc trưng của những ai có quan hệ tình cảm với người khuyết tật nặng. Cô nghiên cứu về chứng liệt tứ chi còn nhiều hơn anh, cô xử lý được tất cả các thủ tục hàng ngày, rất riêng tư của anh, và thi thoảng vẫn làm. Lúc đầu, Rhyme cảm thấy xấu hổ nhưng khi cô nêu lên, một cách hài hước và có lẽ là có chút tán tỉnh "Thế này khác các cặp vợ chồng già ở chỗ nào nhỉ, Rhyme ?" Nỗi xấu hổ đột ngột tiêu tan. Anh chỉ đáp được rằng, "Đúng vậy."

    Điều ấy không có nghĩa là tình yêu của cô, cũng giống như của bất cứ ai khác, lại không thi thoảng làm anh khổ sở, và anh đưa mắt liếc cô một cái, rồi trở về với các bảng chứng cứ.

    Sachs nhìn xung quanh. "Phần thưởng đâu ?"

    "Đã có chút nhầm lẫn khi giới thiệu."

    "Ý anh là gì ?"

    Rhyme nói cho cô biết vụ quảng cáo bán hàng lừa đảo của ông tiến sĩ Kopeski.

    "Không !"

    Rhyme gật đầu. "Không có cái chặn giấy nào cả."

    "Anh quăng lão ta ra ngoài chứ ?"

    "Người làm việc đó là Thom. Và cậu ấy đã làm rất tốt. Nhưng anh không muốn nói tới chuyện này nữa. Chúng ta còn công việc phải làm." Rhyme liếc chiếc túi đeo vai của Sachs. "Vậy, chúng ta có gì ?

    Rút ra vài tập hồ sơ lớn, cô trả lời, "Danh sách những người đã tiếp cận mật khẩu màn hình hệ thống máy tính Algonquin. Lý lịch và hồ sơ nhân sự của họ."

    "Những nhân viên có chuyện tức tối thì sao ? Những người có tâm thần bất ổn ?""

    "Chẳng ai phù hợp cả."

    Sachs thuật lại chi tiết hơn cuộc gặp gỡ với Andi Jessen: Không có ghi chép gì về việc sửa chữa tại khu vực đường hầm dẫn hơi nước gần trạm điện trên phố Năm mươi bảy. Không có mối đe dọa khủng bố rõ rệt nào, nhưng một cộng sự của Jessen đang xem xét khả năng này. "Sau đó, em nói chuyện với một người ở bộ phận các Dự án Đặc biệt - Cơ bản là về năng lượng thay thế. Charlie Sommers. Một người tử tế. Anh ta đã mô tả sơ lược cho em về loại đối tượng có thể tạo ra một vụ hồ quang điện. Thợ điện tay nghề cao, thợ điện quân đội thợ đặt đường dây hay người khắc phục sự cố của các công ty điện lực..."

    "Cô mô tả công việc đó xem nào." Sellitto nói.

    "Về căn bản, người khắc phục sự cố là một nhân viên kỹ thuật. Để tạo ra hồ quang điện, cần có kinh nghiệm làm việc trực tiếp. Không thể cứ mày mò trên Internet thôi mà được."

    Rhyme hất đầu về phía tấm bảng trắng và Sachs viết tóm tắt các thông tin. Cô bổ sung thêm, "Còn về vụ máy tính, phải được học hành ở trường lớp đàng hoàng hoặc được đào tạo qua công việc trong khoảng thời gian không hề ngắn. Nó cũng đòi hỏi những kiến thức khá phức tạp." Cô giải thích về các Chương trình quản lý năng lượng và SCADA mà đối tượng chưa xác định hẳn phải thành thạo.

    Cô viết cả các chi tiết này lên bảng.

    Sellitto hỏi, "Danh sách gồm bao nhiêu người ?"

    "Hơn bốn mươi."

    "Ôi trời." McDaniel lầm bầm nói.

    Rhyme cho rằng một trong những cái tên trong danh sách có thể là thủ phạm, và Sachs hoặc Sellitto có thể thu hẹp lại thành một con số hợp lý hơn. Nhưng lúc này anh đang cần chứng cứ. Mà hầu như chẳng có chứng cứ gì cả, ít nhất là không có chứng cứ hữu ích lắm.

    Đã gần mười hai tiếng đồng hồ trôi qua kể từ lúc xảy ra vụ tấn công và họ vẫn giậm chân tại chỗ trong việc tìm kiếm gã đàn ông xuất hiện ở tiệm cà phê, hay bất cứ đối tượng tình nghi nào khác.

    Sự thiếu thốn manh mối thật đáng nản, nhưng đáng lo lắng hơn là dòng thông tin đơn giản viết trên bảng hồ sơ đối tượng: Có khả năng là kẻ đã ăn trộm gần 23m cáp loại tương tự của Bemington và 12 bu lông có chốt hãm. Dự tính tiếp tục tấn công ?

    Ngay lúc này, hắn đang dàn dựng gì đó chăng ?

    Trước khi xảy ra vụ tấn công xe buýt, hoàn toàn không có cảnh báo nào. Đấy có lẽ là phương thức hành động của tên tội phạm. Bất cứ lúc nào, các phương tiện truyền thông đều có thể đưa tin rằng hàng chục người đã bị thiệt mạng trong vụ hồ quang điện thứ hai.

    Mel Cooper sao danh sách nhân viên Algonquin thành một bản nữa và họ chia các cái tên ra. Sachs, Pulaski, Sellitto nhận một nửa, McDaniel nhận một nửa, để các mật vụ liên bang dưới quyền anh ta tiến hành điều tra. Rồi Sachs xem xét những hồ sơ nhân sự đem về từ Algonquin, giữ lại những hồ sơ tương ứng với các cái tên họ đã lựa chọn, đưa những hồ sơ còn lại cho McDaniel.

    "Tay Sommers này, em tin tưởng anh ta chứ ?" Rhyme hỏi.

    "Vâng. Anh ta đã xem xét bản danh sách. Và anh ta đưa cho em cái này." Sachs rút ra một thiết bị điện tử nhỏ màu đen, hướng nó về phía sợi dây điện gần Rhyme. "Hừm. Hai trăm bốn mươi volt."

    "Anh thì sao, Sachs ? Anh nạp điện đầy đủ chứ ?"

    Cô bật cười, nghịch ngợm hướng nó về phía Rhyme. Rồi dành cho anh cử chỉ mà theo anh là một cái nhướn mày quyến rũ. Điện thoại của cô reo chuông, cô liếc nhìn màn hình rồi nhận cuộc gọi. Cô trao đổi ngắn gọn. "Đó là Bob Cavanaugh, phó chủ tịch điều hành công việc hàng ngày. Ông ta chịu trách nhiệm kiểm tra những vấn đề liên quan tới khủng bố tại các chi nhánh của công ty trong toàn vùng. Không phát hiện được chứng cứ nào cho thấy có các nhóm khủng bố sinh thái đe dọa Algonquin hay tấn công nhà máy của họ. Tuy nhiên, có báo cáo về việc một trong những trạm điện chính ở Philadelphia bị xâm nhập. Một người đàn ông da trắng trạc tứ tuần đã vào trạm điện. Không ai biết người này là ai và làm gì lúc ấy. Không có video an ninh. Người này rời khỏi đấy trước khi cảnh sát tới. Chuyện xảy ra tuần trước."

    Màu da, giới tính, độ tuổi... "Cậu chàng của chúng ta đấy. Nhưng hắn muốn gì ?"

    "Không có vụ xâm nhập nào nữa tại các cơ sở của công ty."

    Phải chăng mục đích của thủ phạm là lấy thông tin về mạng lưới điện, về an ninh tại các trạm ? Tại thời điểm này, Rhyme chỉ có thể phỏng đoán và, theo đó, đưa sự việc vào hồ sơ vụ án.

    McDaniel nhận một cuộc điện thoại. Anh ta lơ đãng nhìn những tấm bảng trắng ghi thông tin về chứng cứ đã thu thập được, rồi anh ta kết thúc cuộc gọi. "Các nhóm C và T có thêm tín hiệu liên lạc về nhóm khủng bố "Công lý cho”

    "Gì vậy ?" Rhyme hỏi giục giã.

    "Không có gì đáng kể. Nhưng có một điều thú vị: Bọn chúng đang sử dụng những từ ngữ mã hóa mà trước đây bọn chúng đã sử đụng để chỉ các loại vũ khí lớn. "Giấy và các nguyên vật liệu” là những từ ngữ do thuật toán của chúng tôi phân lập ra."

    McDaniel giải thích rằng các cơ sở nằm vùng hay trao đổi thông tin theo cách đó. Người ta mới ngăn chặn được một vụ tấn công ở Pháp khi những tín hiệu liên lạc giữa các đối tượng bao gồm các từ "gateau", "farine" và "beurre". Đó là các từ tiếng Pháp có nghĩa là "bánh ngọt", "bột" và "bơ". Thực tế, chúng ám chỉ một quả bom cùng thành phần của nó: thuốc nổ và kíp.

    "Theo Mossad, các cơ sở của Hezbollah đôi khi sử dụng cụm từ "vật dụng văn phòng” hay "đồ tổ chức tiệc” để nói tới tên lửa hoặc thuốc nổ mạnh. Cho đến lúc này, chúng tôi cũng nghĩ rằng ngoài Rahman còn hai kẻ nữa có liên quan. Một phụ nữ, một nam giới, máy tính bảo chúng tôi như vậy."

    Rhyme hỏi, "Anh đã thông báo với Fred chưa ?"

    "Ý kiến hay đấy." McDaniel rút chiếc BlackBerry ra gọi.

    "Fred, Tucker đây. Tôi đang mở loa ngoài ở chỗ Rhyme. Anh đã gặp may chưa ?"

    "Tay chỉ điểm của tôi đang bám theo một vài manh mối."

    "Đang bám theo à ? Chưa có gì cụ thể hơn à ?"

    Một chút im lặng. Dellray nói, "Tôi không có gì hơn. Chưa có."

    "Chà, các nhóm C và T đã bổ sung một số phát hiện", McDaniel cập nhật thông tin về những từ ngữ mã hóa, khả năng có một phụ nữ và một người đàn ông nữa liên quan.

    Dellray nói anh ta sẽ cung cấp thông tin mới này cho đầu mối.

    McDaniel hỏi, "Vậy hắn sẵn sàng làm việc với mức tiền đó ư ?"

    "Phải."

    "Tôi đã biết rằng hắn sẽ chịu mà. Bọn này sẽ lợi dụng anh nếu anh để bọn chúng lợi dụng, Fred. Đấy là cách làm việc của bọn chúng."

    "Cũng có lúc thật." Dellray buồn rười rượi nói.

    "Giữ liên lạc nhé." McDaniel kết thúc cuộc gọi, vươn vai. "Cái miền đám mây chết tiệt này. Chúng tôi đang không xơi được nhiều như mong muốn."

    Xơi ?

    Sellitto vỗ vỗ tập hồ sơ nhân sự của Algonquin. "Tôi sang khu trung tâm đây. Bố trí người giải quyết cái này. Anh em, đêm nay sẽ dài đấy." Lúc này, đồng hồ chỉ mười một giờ mười.

    Sẽ dài, Rhyme ngẫm nghĩ. Cho cả anh nữa. Đặc biệt vì lúc này anh không có gì mấy mà làm, ngoài chờ đợi.

    Ôi, anh căm ghét biết bao sự chờ đợi.

    Anh mắt lang thang đưa về phía những tấm bảng ghi vài bằng chứng ít ỏi, anh nghĩ: Chúng ta đang nhích quá ư chậm chạp.

    Và chúng ta ở đây, cố gắng tìm kiếm một thủ phạm tấn công với tốc độ ánh sáng.

    HỒ SƠ ĐỐI TƯỢNG CHƯA XÁC ĐỊNH

    - Nam giới.

    - Độ tuổi 40.

    - Có khả năng là da trắng.

    - Có khả năng đeo kính, đội mũ.

    - Có khả năng tóc ngắn, màu vàng.

    - Quần yếm màu xanh lam thẫm, tương tự đồng phục của công nhân Algonquỉn.

    - Rất thành thạo các hệ thống điện.

    - Dấu giày gợi ý rằng không có vấn đề thể chất nào ảnh hưởng đến tư thế, dáng đi.

    - Có khả năng là kẻ đã ăn trộm gần 23m cáp loại tương tự của Bennington và 12 bu lông có chốt hãm. Dự tính tiếp tục tấn công ? Mở cửa vào nhà kho của Algonquin ăn trộm bằng chìa khóa.

    - Có khả năng là nhân viên của Algonquin hoặc có quan hệ với nhân viên của Algonquin.

    - Liên quan đến khủng bố ? Có quan hệ với Công lý cho (chưa xác định) ? Nhóm khủng bố ? Cá nhân mang tên Rahman dính líu vào ? Có những tín hiệu mã hóa về các khoản tiền chi trả, các động thái nhân sự và thứ gì đó "lớn".

    - Vi phạm an ninh tại trạm điện của Algonquin ở Philadelphia có thể có liên quan.

    - Thông tin từ SIGINT: từ ngữ mã hóa ám chỉ vũ khí, "giấy và các nguyên vật liệu (súng, thuốc nổ ? ).

    - Những người dính líu tới bao gồm một phụ nữ, một nam giới.

    Hắn đã nghiên cứu về SCADA - Chương trình Giám sát Điều khiển và Thu thập Dữ liệu. Và các Chương trình quản lý năng lượng. Algonquin sử dụng Enertrol. Cả hai đều dựa trên hệ điều hành Unix.

    Để tạo ra hồ quang điện, có khả năng đã hoặc đang là thợ đặt đường dây, thợ điện được cấp chứng chỉ, thợ điện tay nghề cao, làm việc tại công trường xây dựng, trong quân đội.

    Mười sáu tiếng đồng hồ trước ngày Trái Đất


  3. #22
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    II . CON ĐƯỜNG ĐIỆN TRỞ THẤP


    "Một ngày nào đó, con người sẽ khai thác thủy triều lên xuống, giam giữ năng lượng mặt trời, và giải phóng năng lượng nguyên tử."

    THOMAS ALVA EDISON, BÀN VỀ TƯƠNG LAI CỦA VIỆC SẢN XUẤT ĐIỆN

    Chương 25
    Tám giờ sáng.

    Ánh mặt trời buổi sáng vẫn còn dưới thấp tràn vào ngôi nhà. Lincoln Khyme chớp mắt và ra khỏi luồng sáng chói lóa khi lái chiếc xe lăn Mũi tên Dông bão ra khỏi khoang thang máy nhỏ nối phòng ngủ của anh với phòng thí nghiệm ở tầng trệt

    Sachs, Mel Cooper và Lon Sellitto đã tập trung trước đó một tiếng đồng hồ.

    Sellitto đang nói chuyện điện thoại. "Được, hiểu rồi." Anh ta gạch bỏ một cái tên nữa. Và kết thúc cuộc gọi. Rhyme không biết anh ta đã thay quần áo chưa. Có lẽ anh ta đã ngủ lại tại phòng sinh hoạt chung hoặc phòng ngủ tầng trệt. Cooper thì đã ghé qua nhà, ít nhất được một lúc. Và Sachs đã ngủ bên cạnh Rhyme - chẳng trọn đêm. Cô dậy lúc năm rưỡi để tiếp tục rà soát các hồ sơ nhân viên và thu hẹp danh sách đối tượng tình nghi.

    "Chúng ta đến đâu rồi ?" Rhyme hỏi.

    Seỉỉitto lầm bầm, "Vừa nói chuyện với McDaniel. Họ sáu, chúng ta sáu."

    "Ý anh là chúng ta đã có danh sách thu hẹp mười hai đối tượng tình nghi ?"

    "Ừm, không, Linc. Chúng ta đã loại trừ được mười hai người."

    Sachs nói, "Vấn đề là nhiều nhân viên trong danh sách ở vị trí cấp cao. Họ không đưa những nghề nghiệp ban đầu vào lý lịch, hoặc không đưa hết tất cả các khóa đào tạo về máy tính. Chúng ta phải rất mất công tìm hiểu mới biết được họ có kỹ năng thao túng lưới điện và bố trí cái bẫy kia hay không."

    "Mẫu xét nghiệm ADN đang ở chỗ quái quỷ nào rồi ?" Rhyme gắt.

    "Sắp có kết quả." Cooper nói. "Họ đang xúc tiến."

    "Đang xúc tiến." Rhyme cáu kỉnh lầm bầm. Các kỹ thuật xét nghiệm mới thông thường có thể cho kết quả trong một, hai ngày, khác với kỹ thuật RFPL trước đây, (tính đa hình chiều dài của các đoạn AND) , có thể mất một tuần. Anh không hiểu tại sao đến giờ vẫn chưa có kết quả.

    "Và chưa có thêm thông tin gì vềCông lý choà ?"

    Sellitto nói, "Người của chúng tôi đã rà soát tất cả các hồ sơ. Cả người của McDaniel nữa. Và Bộ An ninh Nội địa, Cơ quan Kiểm soát Rượu & Thuốc lá - Vũ khí - Thuốc nổ, Interpol. Không có gì về bọn này hay Rahman cả. Không có gì sất. Bực chết đi được, miền đám mây ấy. Nghe như trong tiểu thuyết của Stephen Kingvậy."

    Rhyme định gọi cho phòng thí nghiệm đang phân tích mẫu ADN, nhưng đúng lúc anh gõ nhẹ ngón tay vào tấm cảm ứng thì điện thoại reo chuông. Anh nhướn một bên lông mày và ngay lập tức nhấn nút TRẢ LỜI.

    "Kathryn. Xin chào. Chị dậy sớm thế !" Hiện tại mới là năm giờ sáng ở California.

    "Hơi sớm một chút."

    "Có thêm tin tức gì không ?"

    "Logan lại bị phát hiện, gần chỗ hắn bị phát hiện lần trước. Tôi vừa nói chuyện với Arturo Diaz."

    Anh chàng cảnh sát cũng dậy sớm. Dấu hiệu tốt đấy.

    "Bây giờ sếp của anh ta theo vụ này. Người tôi từng nhắc tới ấy. Rodoflo Luna."

    Hóa ra Luna thực sự đang nắm giữ vị trí rất cao: đứng thứ hai trong lực lượng Cảnh sát Liên bang Mexico, tương đương với FBI. Dance nói mặc dù phải gánh trách nhiệm nặng nề chỉ huy các chiến dịch phòng chống ma túy - và diệt trừ tệ nạn tham nhũng ngay trong các cơ quan chính phủ - Luna vẫn hăng hái trước cơ hội bắt giữ được Thợ Đồng Hồ. Truyền thông không tập trung lắm vào mối đe dọa xảy ra một vụ sát hại nữa ở Mexico, và khó có thể yêu cầu một người đang nắm vị trí cao cấp như Luna quan tâm, nhưng ông ta tham vọng và ông ta nghĩ rằng việc hợp tác với Sở Cảnh sát New York sẽ mang lại lợi ích cho quan hệ thiếu mặn mà giữa Mexico và đồng minh phương bắc.

    "Ông ta rất oách. Tự lái chiếc SUV Lexus của mình, đeo hai súng... kiểu cao bồi đích thực."

    "Nhưng ông ta có thành thật không ?"

    "Arturo bảo tôi rằng ông ta biết cách lợi dụng những khe hở của hệ thống chính quyền, nhưng, vâng, ông ta đủ thành thật. Và ông ta thuộc loại tử tế. Ông ta đã ở trong lực lượng hai mươi năm, thi thoảng cũng đích thân ra hiện trường xem xét một vụ án. Ông ta thậm chí còn tự đi thu thập chứng cứ."

    Rhyme cảm thấy khá ấn tượng. Anh từng y như thế khi còn là một đại úy cảnh sát, đứng đầu bộ phận Điều tra. Anh nhớ rất nhiều lần xảy ra tình huống đại loại một kỹ thuật viên trẻ bỗng dưng nghe thấy một giọng nói, giật mình quay lại và trông thấy sếp của sếp của sếp hai tay đeo găng, đang nghiên cứu sợi vải hay sợi tóc gì đó được kẹp bằng nhíp.

    "Ông ta nổi tiếng vì đã thẳng thừng trấn áp các vụ tội phạm kinh tế, buôn người và khủng bố. Đưa một số vị tai to mặt lớn vào tù”.

    "Và ông ta vẫn sống." Rhyme nói. Chưa kẻ nào dám giỡn mặt ông ta. Người đứng đầu lực lượng cảnh sát của Mexico City trước đấy không lâu đã bị ám sát.

    "Ông ta có một đội ngũ bảo vệ đông đảo." Dance giải thích. Rồi thêm, "Ông ta muốn nói chuyện với anh."

    "Cho tôi số điện thoại."

    Dance đọc. Chậm rãi. Cô đã gặp Rhyme và biết được tình trạng của anh. Anh di chuyển ngón trỏ phải trên tấm cảm ứng đặc biệt, gõ những chữ số. Chúng hiện lên trên màn hình phẳng trước mặt anh.

    Rồi Dance thông báo Cơ quan Phòng chống Ma túy đang tiếp tục phỏng vấn người đàn ông đã chuyển cho Logan cái hộp. "Anh ta nói dối khi khai rằng mình không biết có gì bên trong. Tôi đã xem video và đưa ra vài lời khuyên để các mật vụ kiểm soát quá trình thẩm vấn. Tay công nhân hẳn đã nghĩ có ma túy hay tiền trong hộp và đã lén nhìn. Thực tế anh ta không ăn cắp chứng tỏ đó không phải hai thứ kia. Họ sẽ bắt đầu thẩm vấn lại."

    Rhyme cảm ơn Dance.

    "Ồ, có cái này."

    "Gì vậy ?"

    Dance đọc cho Rhyme địa chỉ một website. Anh cũng chậm rãi gõ nó vào trình duyệt web.

    "Hãy vào trang đó. Tôi nghĩ anh muốn nhìn thấy Rodoflo. Tôi nghĩ sẽ dễ dàng hiểu được một người hơn nếu ta có thể hình dung ra người đó."

    Rhyme chẳng biết điều ấy đúng hay sai. Trong nghề nghiệp của mình, anh có xu hướng không nhìn nhiều người. Các nạn nhânthông thường đã chết và những kẻ sát hại họ thì đã cao chạy xa bay từ lâu trước khi anh tham gia vào vụ án. Nếu cho anh lựa chọn, anh thà không nhìn thấy bất cứ ai.

    Tuy nhiên, sau khi kết thúc cuộc gọi, Rhyme cũng mở website kia ra. Anh luận ra rằng đó là một câu chuyện, bằng tiếng Tây Ban Nha, được đăng báo Mexico, về một vụ khám xét ma túy hết sức lớn. Rodoflo Luna là sĩ quan chỉ huy. Bức ảnh được đăng kèm câu chuyện cho thấy một người đàn ông to lớn, đứng giữa những cảnh sát liên bang dưới quyền. Một số đeo mặt nạ đen ôm sát đầu để che giấu danh tính, một số khác mang vẻ cảnh giác và lạnh lùng của những người mà nghề nghiệp khiến họ trở thành mục tiêu bị chú ý.

    Luna có khuôn mặt lớn, da thẫm màu. Ông ta đội mũ lưỡi trai quân đội nhưng xem ra bên dưới là một cái đầu trọc. Bộ đồng phục màu xanh ô liu trông giống của quân đội hơn là của cảnh sát và ông ta được điểm trang bằng vô số huân huy Chương lấp lánh trên ngực. Bộ ria mép màu đen rậm rạp, xung quanh miệng nhiều nếp nhăn. Nét mặt cau có trông đáng sợ, ông ta đang cầm điếu thuốc lá chỉ cái gì đó ở phía trái khung cảnh.

    Rhyme lại sử dụng tấm cảm ứng thực hiện một cuộc gọi sang Mexico City. Anh có thể sử dụng hệ thống nhận diện giọng nói, nhưng kể từ khi bàn tay phải phục hồi được phần nào khả năng vận động, anh có xu hướng thích dùng đến các phương tiện cơ học hơn.

    Để thực hiện cuộc gọi này, anh chỉ cần thêm nỗ lực gõ mã nước và nhanh chóng nói chuyện được với Luna, người sở hữu giọng nói nhẹ nhàng đáng ngạc nhiên, chỉ thoáng một chút âm sắc nước ngoài, hoàn toàn không nhận ra được. Ông ta là người Mexico, tất nhiên, nhưng các nguyên âm có vẻ hơi pha giọng Pháp.

    "À, à, Lincoln Rhyme. Rất hân hạnh. Tôi đã đọc về anh. Và, tất nhiên, tôi có các cuốn sách anh viết. Tôi đã đảm bảo rằng chúng được đưa vào Chương trình giảng dạy cho đội ngũ nhân viên điều tra của mình." Ông ta dừng lại một chút, rồi hỏi, "Xin thứ lỗi. Nhưng anh sẽ cập nhật kiến thức về ADN chứ ?"

    Rhyme phải bật cười. Mới vài ngày trước đó, anh đã suy nghĩ chính xác tới việc ấy. "Chắc rồi. Ngay sau khi vụ án này kết thúc. Thanh tra... ngài là thanh tra phải không ?"

    "Thanh tra à ? Xin lỗi." Cái giọng hiền hậu nói. "Nhưng tại sao tất cả mọi người cứ cho rằng sĩ quan cảnh sát ở các nước không phải nước Mỹ thì đều là thanh tra vậy ?"

    "Nguồn kiến thức cuối cùng về những thủ tục hoặc quá trình đào tạo trong lực lượng thực thi pháp luật", Rhyme nói, "là điện ảnh và truyền hình."

    Một tiếng cười khoái trá. "Cảnh sát tội nghiệp chúng tôi sẽ làm gì đây nếu không có truyền hình cáp ? Nhưng, không. Tôi là sĩ quan chỉ huy chiến đấu. Ở nước chúng tôi, quân đội và cảnh sát, chúng tôi thường xuyên hoán đổi vị trí. Còn anh là đại úy RET(retired: nghỉ hưu) ,tôi thấy ghi như thế trong sách của anh. Nghĩa là kỹ thuật viên cấp chuyên gia làm việc tại nhà à ? Tôi cứ băn khoăn tự hỏi".

    Rhyme cười to. "Không, nó nghĩa là tôi đã nghỉ hưu."

    "Thật ư ? Nhưng anh vẫn đang làm việc đây mà."

    "Thực tế là vậy. Tôi cảm ơn sự giúp đỡ của ngài trong vụ án này. Đây là kẻ tội phạm rất nguy hiểm."

    "Hân hạnh được hỗ trợ anh. Đồng nghiệp của anh, cô Dance, cô ấy rất tích cực giúp đỡ việc dẫn độ một số tội phạm nghiêm trọng của chúng tôi về nước, trong lúc có các áp lực lớn nhằm ngăn chặn việc này."

    "Vâng, chị ấy rất giỏi !", Rhyme đi đến vấn đề cơ bản. "Tôi hiểu là các ngài đã phát hiện ra Logan."

    "Trợ lý của tôi, Arturo Diaz, và đội của anh ta đã phát hiện ra hắn hai lần. Một lần vào hôm qua, tại một khách sạn. Và một lần cũng mới đây ở địa điểm gần đó, giữa những tòa văn phòng trên đại lộ Bosque de Reform khu vực kinh doanh thương mại. Hắn đang chụp ảnh các tòa nhà. Việc này gây nghi ngờ vì các tòa nhà hầu như chẳng phải kỳ quan kiến trúc gì, và một cảnh sát giao thông nhận ra Logan qua ảnh. Người của Arturo nhanh chóng đến đó. Nhưng tên Thợ Đồng Hồ của anh đã biến mất. Hắn rất khó nắm bắt."

    "Câu ấy mô tả khá đúng về hắn. Những cơ quan nào nằm trong các tòa văn phòng hắn chụp ảnh ?"

    "Hàng chục công ty. Và một số bộ không quan trọng. Các văn phòng vệ tinh. Các hoạt động giao thông, thương mại. Một ngân hàng ở tầng trệt của một trong các tòa nhà. Điều đó có ý nghĩa gì ?"

    "Hắn không sang Mexico để thực hiện một vụ cướp. Tin tức tình báo của chúng tôi cho thấy đây là một vụ giết người mà hắn đang lên kế hoạch."

    "Chúng tôi sẽ ngay lập tức điều tra về nhân sự và mục đích của tất cả các văn phòng để xem có người nào có thế là nạn nhân không."

    Rhyme biết về sự tính tế của trò chơi chính trị nhưng anh không có thời gian mà khéo léo này nọ, và anh cảm thấy Luna cũng không có. "Ngài Chỉ huy, ngài phải bảo đảm quân của ngài không bị phát hiện. Ngài phải thận trọng hơn bình thường rất nhiều !"

    "Vâng, tất nhiên. Gã đàn ông này có con mắt ấy, phải không ?"

    "Con mắt ấy ?"

    "Kiểu như giác quan thứ sáu. Kathryn Dance bảo tôi rằng hắn giống loài mèo. Hắn biết lúc nào mình gặp nguy hiểm".

    Không, Rhyme nghĩ, hắn chỉ rất thông minh và có thể dự đoán chính xác khả năng các đối thủ của hắn sẽ làm gì. Giống một tay chơi cờ bậc thầy. Nhưng anh nói, "Chính xác là như thế đấy, ngài Chỉ huy."

    Rhyme nhìn đăm đăm tấm ảnh chụptrênmáy tính, Dance đã đúng: Những cuộc đối thoại thường đem đến nhiều điều hơn khi người ta có thế hình dung ra người mình đang nói chuyện.

    ""Bên này chúng tôi cũng có vài kẻ như thế". Lại một tiếng cườikhoái trá. "Thực tế, tôi là một trongnó đấy. Đó là lý do tại saotôivẫn sống khi mà nhiều đồng nghiệp của tôiđãchẳngcòn. Chúng tôi sẽtiếp tục theo dõi, một cách tinh vi. Đại úy, khichúngtôi tómcổđược hắn, anh có lẽ sẽ muốn sang dẫn độ hắn về"

    "Tôi không ra ngoài nhiều."

    Lại một thoáng im lặng. Rồi một giọng buồn rầu, "Ấy xin thứ lỗi, tôi quên mất chuyện anh bị thương."

    Chuyện mà, Rhyme ngẫm nghĩvới một sự buồn rầu không kém, bản thân anh chẳng bao giờ quên được, Anh bảo, "ngàikhông cần xin lỗi đâu."

    Luna nói thêm, "Chà, chúng tôi rất... Các anh nói như thế nào nhỉ ? Dễ dàng tiếp cận, ở Mexico City này, Anh sẽ rất được hoan nghênh, sẽ cảm thấy rất thoải mái. Anh có thể lưu lại tại nhà tôi và vợ tôi sẽ nấu cho anh ăn. Nhà tôi không có cầu thang, nên khôngbất tiện đâu."

    "Có lẽ."

    "Chúng tôi có thức ăn rất ngon, tôilạisưu tập các loạirượu mezcal/ rượu tequila."

    "Trong trường hợp đó, tôi có lẽ sẽ sẵn sàng cho một bữa tối ăn mừng." Rhyme nói để Luna dịu đi cơn phấn khích.

    "Tôi sẽ mời anh sang đây bằng cách tóm cổđược thằng cha này... Và anh có lẽ sẽgiảngbài cho cácsĩ quan của tôi.”

    Bây giờ thì Rhyme tự bật cười vớibảnthân mình. Anh đã không nhận ra rằng họ đang thương lượng. Sự xuất hiện của Rhyme ở Mexico sẽ là một thành tích cho người đàn ông này, nó chính là một trong những lý do khiến ông ta tích cực hợp tác đến thế. Đây có lẽ là cách tất cả các phi vụ - dù trong lực lượng thực thi pháp luật hay kinh doanh - diễn ra tại khu vực Mỹ Latin.

    "Đó sẽ là một niềm hân hạnh." Rhyme ngước mắt lên, trông thấy Thom đang ra hiệu cho mình và chỉ về phía hành lang.

    "Ngài Chỉ huy, tôi phải đi bây giờ"

    "Cảm ơn anh đã liên lạc với tôi, Đại úy. Tôi sẽ liên lạc lại ngay khi biết được điều gì đó. Thậm chí nếu nó dường như không có ý nghĩa, tôi chắc chắn vẫn sẽ gọi điện cho anh."


  4. #23
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 26
    Thom lại dẫn viên Phó Trưởng văn phòng vóc dáng gọn ghẽ, đầy nghị lực vào phòng thí nghiệm. Anh ta đi cùng một cộng sự, trẻ, bảnh bao, tên là gì thì Rhyme đã quên ngay lập tức. Tuy nhiên, cậu ta dễ dàng được nghĩ tới như một Thằng oắt, viết hoa. Cậu ta chớp mắt một cái nhìn bệnh nhân liệt tứ chi, rồi nhìn đi chỗ khác.

    Viên Phó Trưởng văn phòng thông báo, "Chúng tôi đã loại trừ thêm được mấy người trong danh sách. Nhưng có một việc khác. Một bức thư yêu sách."

    "Ai gửi ?" Lon Sellitto đang đứng bên bàn khám nghiệm, hỏi. Anh ta nhăn nhúm tựa một quả bóng xẹp. "Bọn khủng bố à ?"

    "Nặc danh, không xác định." McDaniel nói, phát âm từng âm tiết một cách hoàn hảo. Rhyme băn khoăn tự hỏi liệu anh có thực sự ghét người đàn ông này như bản thân nghĩ không. Phần vì kiểu đối xử của anh ta với Fred Dellray. Phần vì chính phong cách của anh ta. Và, đôi khi, tất nhiên, người ta hoàn toàn chẳng cần đến lý do nào cả.

    Miền đám mây...

    Viên mật vụ tiếp tục, "Nghe gần giống một trường hợp lập dị, liên quan đến sinh thái, nhưng ai biết nó làm bình phong cho cái gì".

    Sellitto lại hỏi, "Chúng ta chắc chắn đó là hắn ?"

    Sau một vụ tấn công dường như không thể hiện động cơ gì không phải là không hay xuất hiện hàng loạt các đối tượng nhận trách nhiệm. Và đe dọa lặp lại sự việc nếu những yêu sách nhất định không được đáp ứng, tuy bản thân bọn chúng chẳng hề có Liên quan.

    McDaniel nói giọng rin rít, "Hắn khẳng định những chi tiết của vụ tấn công xe buýt. Tất nhiên, chúng tôi đã tiến hành kiểm tra."

    Thái độ trịch thượng đó giải thích phần nào cảm giác không ưa của Rhyme.

    "Ai nhận được bức thư và nhận được như thế nào ?" Rhyme hỏi.

    "Andi Jessen. Tôi sẽ để chị ta cung cấp thông tin chi tiết cho anh. Tôi muốn mang nó về cho anh xem sớm nhất có thể."

    Ít nhất viên mật vụ liên bang cũng đang không đấu tranh giành lãnh địa. Cảm giác khó chịu đỡ đi một chút.

    "Tôi đã thông báo với ngài thị trưởng, Washington và Bộ An ninh Nội địa. Trên đường tôi tới đây, chúng tôi đã đàm thoại hội nghị."

    Tuy chưa có mặt chúng tôi, Rhyme thầm nhận xét trong lòng.

    Viên mật vụ liên bang mở chiếc cặp da, lấy ra tờ giấy đựng trong phong bì nhựa trong. Rhyme hất đầu về phía Cooper, anh ta, tay đeo găng, rút tờ giấy ra và đặt lên bàn khám nghiệm. Đầu tiên, anh ta chụp ảnh nó. Rồi, lát sau, văn bản viết tay hiện lên trên những màn hình máy tính xung quanh phòng.

    Gửi Andi Jessen, CEO, và Liên hợp Điện lực Algonquin:

    Khoảng 11h30 sáng hôm qua, đã xảy ra một vụ nổ quang điện tại trạm MH-10 trên phố Năm mươi bảy mạn Tây quận Manhattan. Nguyên nhân là do một sợi cáp Benningtort và lõi dẫn điện được đấu với đường dây chính bằng hai bu lông có chốt hãm. Vì bốn trạm khác bị đánh sập và định mức aptomat bị nâng lên, điện áp quá tải xấp xỉ hai trăm nghìn volt gây ra tia lửa điện.

    Vụ việc này hoàn toàn là lỗi của bà, xuất phát từ lòng tham và thói ích kỷ của bà. Những tính xấu đặc trưng trong ngành sản xuất điện và đáng bị quở trách. Enron đã hủy hoại sinh mạng tài chính của mọi người, còn công ty của bà đã hủy hoại cả tuổi thọ tự nhiên của chúng tôi lẫn tuổi thọ của Trái đất. Bằng cách khai thác điện bất chấp hậu quả, bà đang hủy hoại thế giới của chúng tôi, bà âm thầm xâm nhập vào cuộc sống của chúng tôi tựa như con virus, cho tới lúc chúng tôi phải phụ thuộc vào thứ đang giết chết chính mình.

    Mọi người phải biết họ không cần nhiều điện như bà bảo. Bà phải hướng dẫn họ. Hôm nay, bà sẽ tiến hành giảm công suất luân phiên trên toàn mạng lưới điện thành phố Nem York - giảm năm mươi phần trăm phụ tải ngoài đỉnh trong vòng nửa tiếng đồng hồ, bắt đầu từ 12h00. Nếu bà không làm vậy, vào lúc 1h00 chiều, sẽ có thêm những người khác thiệt mạng.

    Rhyme hất đầu về phía máy điện thoại và bảo Sachs, "Gọi cho Andi Jessen."

    Cô thực hiện yêu cầu của anh. Một lát sau, giọng người phụ nữ phát ra qua loa ngoài. "Thám tử Sachs ? Cô nghe tin gì chưa ?"

    "Rồi. Tôi đang ở đây với Lincoln Rhyme và một số người từ FBI, Sở Cảnh sát New York. Họ vừa đưa bức thư về."

    Rhyme nghe thấy lửa giận bốc bừng bừng trong lời người phụ nữ, "Kẻ nào đứng đằng sau nó ?"

    "Chúng tôi không biết." Sachs trả lời.

    "Các cô phải biết gì đó chứ."

    McDaniel xưng danh, rồi nói, "Cuộc điều tra đang tiến triển, nhưng chúng tôi vẫn chưa có đối tượng tình nghi."

    "Gã đàn ông mặc đồng phục trong tiệm cà phê sáng hôm qua, bên cạnh điểm đỗ xe buýt ấy ?"

    "Chúng tôi không có danh tính của hắn. Hiện chúng tôi đang rà soát danh sách chị cung cấp. Nhưng chưa xác định được rõ ràng ai là đối tượng tình nghi."

    "Chị Jessen, tôi là Thám tử Sellitto thuộc Sở Cảnh sát New York. Liệu chị có thể làm việc ấy không ?"

    "Việc gì ?"

    "Việc hắn yêu cầu. Chị biết đấy, giảm công suất điện."

    Rhyme thấy không có vấn đề gì khi phải lựa chiều chơi với bọn tội phạm, nếu một chút thương lượng đem đến thêm thời gian cho việc phân tích chứng cứ hay bố trí theo dõi một kẻ khủng bố chẳng hạn. Nhưng anh không quyết định được việc này.

    "Lại là Tucker đây, chị Jessen. Chúng tôi hết sức khuyên chị đừng thương lượng. Về lâu về dài, như thế chỉ khuyến khích bọn chúng gia tăng yêu sách." Ánh mắt anh ta hướng vào viên thám tử to béo, người cũng đang chằm chằm nhìn lại.

    Sellitto bảo vệ ý kiến của mình, "Việc đó có thể đem đến cho chúng ta đủ thời gian để giải quyết vụ án."

    Viên Phó Trưởng văn phòng ngập ngừng. Rốt cuộc, anh ta vẫn nói, "Tôi dứt khoát đề nghị không thương lượng."

    Andi Jessen cất lời, "Đó thậm chí chẳng phải là vấn đề. Giảm năm mươi phần trăm phụ tải ngoài đỉnh toàn thành phố ? Đâu giống như xoay núm chỉnh độ sáng bóng đèn. Nó sẽ can thiệp vào mức tải khắp lưới điện Liên kết Đông bắc. Chúng tôi sẽ mất đồng bộ điện áp đầu ra đầu vào và phải cắt điện hàng chục địa điểm. Hàng triệu khách hàng sẽ có máy tính bị tắt nóng. Vô số dữ liệu bị xóa và việc cài đặt lại sẽ theo chế độ mặc định. Sẽ mất nhiều ngày để tái lập trình."

    "Tồi tệ hơn, một số cơ sở hạ tầng liên quan đến tính mạng người dân, có ắc-quy và máy phát điện dự phòng, nhưng chẳng phải tất cả đều có. Các bệnh viện chỉ có số lượng hạn chế những thiết bị này, một số chưa bao giờ hoạt động tốt. Hậu quả là sẽ có tử vong."

    Ờ, Rhyme nghĩ, kẻ viết bức thư đã đúng một điểm: Điện, và Algonquin cũng như các công ty điện lực khác, thực tế đã xâm nhập vào cuộc sống của chúng ta. Chúng ta bị phụ thuộc vào điện.

    "Đấy, anh nghe rồi đấy." McDaniel nói. "Không thể thực hiện yêu sách đó được."

    Seliitto nhăn nhó. Rhyme nhìn về phía Sachs. "Parker ?"

    Cô gật đầu, trượt danh bạ trong chiếc BlackBerry để tìm kiếm số máy và địa chỉ email của Parker Kincaid ở Washington/ D. c. Anh ta là cựu mật vụ FBI, bây giờ là nhà tư vấn độc lập, chuyên gia nghiên cứu tài liệu giỏi nhất nước, theo quan điểm của Rhyme.

    Sachs buông người vào chiếc ghế dựa trước một trong những máy trạm, gõ email, quét hình ảnh bức thư, rồi gửi đi.

    Seliitto nhấn nút mở điện thoại của mình, liên lạc với bộ phận Chống Khủng bố Sở Cảnh sát New York, đồng thời liên lạc với Đơn vị Phản ứng nhanh - 1 phiên bản thành phố của lực lượng Chiến thuật và Vũ khí Đặc biệt - thông báo cho họ biết một vụ tấn công nữa đã được lên kế hoạch vào lúc một giờ chiều.

    Rhyme quay lại với chiếc điện thoại cố định. "Chị Jessen, Lincoln đây. Danh sách chị cung cấp cho Thám tửSachs hôm qua ấy ? Những nhân viên ấy ?"

    "Vâng, sao ?"

    "Chị có thể cung cấp cho chúng tôi mẫu viết tay của họ không ?"

    "Tất cả mọi người à ?"

    "Càng nhiều càng tốt. Càng sớm càng tốt."

    "Tôi nghĩcó thể. Chúng tôi đã ký kết một số thỏa thuận bảo mật cụ thể là các bản khai y tế, đơn đề nghị, hay bảng kê chi tiêu."

    Rhrymequaykhỏi điện thoại, gọi to, "Sachs ! Anh ấy có đó sao? Parker có đó không ? Tình hình sao rồi ?"

    Sachs cúi đầu. "Anh ấy đang dự một buổi lễ hay gì đó. Emđang được nốimáy"

    Kincaid là ông bố đơn thân của hai đứa con, Robby và Stephanievà anh ta vốn vẫn rất thận trọng giữ cho đời tư và công việc cân bằng - sự tận tụy đối với hai đứa con là lý do khiến anh ta rời khỏi FBI để trở thành nhà tư vấn, giống như Rhyme. Nhưng Rhymecũng biết trước một vụ như thế này, Kincaid sẽ ngay lập tức sẵn sàng và làm những gì có thể.

    Nhà hình sự học quay lại máy điện thoại cố định. "Chị Jessen, chị có thể quét hình ảnh các mẫu viết tay rồi gửi cho..." Một cái nhướn mày về phía Sachs. Cô đọc to địa chỉ email của Parker Kincaid.

    "Tôi đã ghi lại", Tessen nói.

    "Tôi đồ rằng chúng là thuật ngữ sử dụng trong ngành ? ,, Rhymehỏi. "Giảm công suất luân phiên, sa thải phụ tải, phụ tải ngoài đỉnh"

    "Đúng vậy."

    "Liệu điều đó có cho chúng ta thông tin gì về hắn không ?"

    "Không hẳn. Đó là khía cạnh kỹ thuật của ngành, nhưng nếu hắn đã có thể can thiệp vào hệ thống máy tính và tạo hồ quang điện thì hắn cũng biết những cái ấy. Bất cứ ai ở trong ngành đều biết thôi !"

    ""Chị nhận bức thư theo cách nào ?"

    "Nó được chuyển tới tòa chung cư của tôi."

    "Chị để địa chỉ công khai à ?"

    "Tôi không đăng ký địa chỉ trong danh bạ điện thoại, nhưng tôi cho rằng không đến nỗi người ta chẳng thể tìm ra mình."

    Rhyme kiên trì hỏi, "Chính xác chị nhận bức thư theo cách nào ?"

    "Tôi sống trong một tòa nhà có người gác cửa, khu bờ Đông Thượng. Ai đó bấm chuông lối giao hàng đằng sau sảnh. Người gác cửa đi ra xem. Khi anh ta quay lại, bức thư đã ở chỗ anh ta rồi. Nó được ghi chú: Khẩn. Chuyển ngay lập tức cho Andi Jessen."

    "Có video an ninh không ?" Rhyme hỏi.

    "Không."

    "Ai đã động đến nó ?"

    "Người gác cửa. Tuy nhiên, chỉ cái phong bì thôi. Tôi cử nhân viên văn thư từ công ty về lấy nó. Anh ta cũng đã động vào phong bì. Và tôi, tất nhiên."

    McDaniel đang định nói điều gì đó, nhưng Rhyme không để cho anh ta kịp nói. "Bức thư rất nhạy cảm về mặt thời gian, nên bất cứ kẻ nào để nó đó đều biết chị có người gác cửa. Vì thế nó sẽ tới tay chị ngay lập tức."

    McDaniel gật đầu. Có vẻ lúc nãy anh ta đang định nhận xét chính điều này. Thằng oắt mắt sáng cũng gật đầu, giống như con chó đồ chơi có cái đầu đu đưa hay đặt ở cửa sổ sau ô tô vậy.

    Jessen nói sau một chút im lặng, "Tôi cho rằng đúng là như thế !" Giọng chị ta thể hiện rõ sự lo lắng. "Thế có nghĩa là hắn biết tôi. Có thể rất biết tôi !"

    "Chị có vệ sĩ không ?" Sellitto hỏi.

    "Giám đốc an ninh của chúng tôi, ở nơi làm việc. Bernie Wahl. Cô đã gặp anh ấy rồi, Thám tử Sachs. Mỗi ca, anh ấy cắt bốn nhân viên bảo vệ được trang bị vũ khí. Nhưng ở nhà thì không. Tôi không bao giờ nghĩ..”

    "Chúng tôi sẽ cắt người từ bộ phận Cảnh sát Khu vực chốt bên ngoài căn hộ của chị." Sellitto nói. Trong lúc anh ta gọi điện, McDaniel hỏi, "Gia đình chị ở quanh đây thì sao ? Chúng tôi phải bố trí ai đó để ý tới họ."

    Loa ngoài thoáng im lặng, rồi câu hỏi được đưa ra, "Tại sao ?"

    "Hắn có thể sử dụng họ để gây tác động."

    "Ồ." Giọng nói đáng lẽ phải khàn đi của Jessen nghe lại có vẻ bình thường trước ám chỉ rằng những người gần gũi với chị ta sẽ bị hại. Nhưng chị ta giải thích, "Cha mẹ tôi ở Florida."

    Sachs hỏi, "Chị có một người em trai, phải không ? Tôi đã trông thấy ảnh cậu ấy trên bàn làm việc của chị ?"

    "Em trai tôi à ? Chúng tôi không thường xuyên liên lạc. Và nó không sống ở đây..." Một giọng nói cắt lời Jessen. Chị ta quay lại cuộc điện thoại, "Này, tôi xin lỗi, ông thống đốc đang gọi. Ông ấy vừa nghe tin."

    Jessen gác máy đánh cách một tiếng.

    "Vậy." Sellitto ngửa hai bàn tay ra. Anh ta đưa ánh mắt sượt qua McDaniel, nhưng dừng lại ở Rhyme. "Như thế này mọi thứ đâm ra quá dễ dàng."

    "Dễ dàng á ?" Thằng oắt hỏi.

    "Phải." Selỉitto hất đầu chỉ biểu tượng đồng hồ trên một màn hình phẳng gần đó. "Nếu đã chẳng thể thương lượng, tất cả những gì chúng ta phải làm chính là tìm ra hắn. Trong không đây ba tiếng đồng hồ. Quá ngon ăn."


  5. #24
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 27
    Mel Cooper và Khyme đang phân tích bức thư. Ron Pulaski cũng đã đến mấy phút trước. Lon Sellitto thì đang phóng xe sang khu vực trung tâm thành phố để điều phối Đơn vị Phản ứng nhanh, trong trường hợp họ hoặc xác định được một đối tượng tình nghi hoặc phát hiện ra mục tiêu có thể của hắn.

    Tucker McDaniel xem xét bức thư yêu sách như thể nó là loại thức ăn chưa chạm trán bao giờ. Rhyme đồ rằng nguyên nhân là vì văn bản viết tay trên giấy không rơi vào miền đám mây. Hình thức ấy trái ngược với hình thức thông tin liên lạc công nghệ cao. Các máy tính và hệ thống dò tìm tinh vi của anh ta đành chịu chết trước giấy với mực.

    Rhyme liếc bức thư. Từ kiến thức được học hành của chính bản thân anh, cũng như từ quá trình làm việc cùng Parker Kincaid, anh biết nét chữ chẳng tiết lộ điều gì về tính cách của người viết, bất kể những cuốn sách được bày bán ở quầy thu ngân tiệm tạp hóa hay những vị học giả uyên thâm trên các phương tiện truyền thông có đưa ra ý kiến nhăng nhít như thế nào. Tất nhiên, việc phân tích có thể làm sáng tỏ, nếu một mẫu viết tay khác, đã biết danh tính của người viết, được cung cấp, có thể đem so sánh nhằm xác định người viết văn bản thứ nhất và người viết văn bản thứ hai có phải là một người hay không. Parker Kincaid giờ hẳn đang làm việc này, thực hiện đối chiếu sơ bộ với nét chữ của những đối tượng khủng bố đã được biết tới và đối chiếu chúng với nét chữ của những nhân viên Algonquin trong danh sách kia.

    Nét chữ và nội dung văn bản cũng gợi ý rằng người viết thuận tay phải hay tay trái, trình độ học vấn đến đâu, lớn lên ở đất nước hoặc vùng miền nào, sức khỏe thể chất, tinh thần ra sao, liệu có bị ảnh hưởng gì do ma túy hay các chất độc.

    Nhưng Rhyme quan tâm tới bức thư một cách cơ bản hơn: loại giấy và mực được sử dụng đến từ nguồn nào, các dấu vân tay, các vết hằn in trên sợi giấy.

    Tất cả những vấn đề ấy, sau khi Cooper cặm cụi phân tích, chỉ là một con số không tròn trĩnh.

    Nguồn của cả giấy và mực đều thiếu tính đặc thù - chúng có thể được bán ở hàng nghìn cửa hiệu. Dấu vân tay của Andi Jessen là dấu vân tay duy nhất xuất hiện trên bức thư, còn dấu vân tay xuất hiện tiên phong bì là của người gác cửa và nhân viên văn thư, các mật vụ dưới quyền McDaniel đã chuyển dấu vân tay của mấy người này cho Rhyme.

    Vô ích, Rhyme cay đắng nghĩ. Kết luận duy nhất là thủ phạm quá thông minh. Và có ý thức sinh tồn hết sức mạnh mẽ.

    Nhưng mươi phút sau, họ đã đạt được một bước đột phá, có thể tạm gọi là như thế.

    Parker Kincaid gọi điện giữa lúc đang nghiên cứu các mẫu văn bản tại ngôi nhà của anh ta ở Faufax, Virginia.

    "Lincoln."

    "Parker, chúng ta có gì rồi ?"

    Kincaid nói, "Thứ nhất, về việc đối chiếu nét chữ. Các mẫu chứng được gửi đến từ chính Algonquin khá ít ỏi, nên tôi không thể thực hiện phân tích đầy đủ như mong muốn."

    "Tôi hiểu."

    "Nhưng tôi đã thu hẹp diện nghi vấn xuống còn mười hai người."

    "Mười hai người. Tuyệt vời."

    "Tên đây. Anh sẵn sàng chưa ?"

    Rhyme liếc nhìn Cooper, anh ta gật đầu. Người kỹ thuật viên ghi lại những cái tên Kincaid đọc.

    "Bây giờ, tôi có thể cung cấp cho anh vài chi tiết khác về hắn. Thứ nhất, hắn thuận tay phải. Tiếp theo, qua cách hành văn, tôi thấy được một số đặc điểm."

    "Nói luôn xem."

    Sau cái hất đầu của Rhyme, Cooper bước tới tấm bảng ghi hồ sơ tội phạm.

    "Hắn đã học xong trung học, cũng có thể đã tốt nghiệp đại học. Hắn học ở Mỹ. Hắn mắc một số lỗi chính tả, ngữ pháp, dấu câu, nhưng hầu hết với các từ và cấu trúc khó. Tôi cho rằng do hắn bị căng thẳng vì việc mình đang làm. Có thể hắn được sinh ra ở đây. Tôi không thể bảo đảm hắn không phải gốc người nhập cư, nhưng tiếng Anh là ngôn ngữ thứ nhất và, tôi hầu như chắc chắn, là ngôn ngữ duy nhất của hắn."

    Cooper viết những thông tin này.

    Kincaid tiếp tục, "Hắn cũng khá thông minh. Hắn không sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất và tránh sử dụng thể chủ động".

    Rhyme hiểu. "Hắn chẳng bao giờ nói điều gì về bản thân."

    "Chính xác !"

    "Nó gợi ý rằng hắn không ra tay một mình."

    "Có khả năng. Ngoài ra, những nét khuyết trên và khuyết dưới thiếu nhất quán. Anh bắt gặp điều này khi đối tượng đang lo lắng, xúc động. Người viết đang trong tâm trạng tức tối hoặc đau khổ, và có xu hướng ấn đậm nét bút".

    "Tốt." Rhyme hất đầu ra hiệu cho Cooper, anh ta viết cả chi tiết này lên bảng.

    Họ kết thúc cuộc gọi "Mười hai.." Rhyme thở dài. Anh nhìn một lượt các bảng chứng cứ và hồ sơ tội phạm, tiếp đến tên những đối tượng tình nghi "Chúng ta không có cách nào thu hẹp diện nghi vấn nhanh hơn hay sao ?"" Anh cay đẳng hỏi rồi nhìn chiếc đồng hồ treo tường tiến thêm một phút nữa về phía thời hạn chết chóc.

    HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN:

    TRẠM MANHATTAN-10

    CÔNG TY ALOONOUIN

    PHỐ NĂM MƯƠIBẢY MẠN TÂY

    - Nạn nhân (đã tử vong) Luis Martin, phó quản lý cửa hàng sản phẩmâmnhạc.

    • Không có dấu vân tay trên bất cứ bề mặt nào

    • Mảnh kim loại nóng chảy, hậu quả của tia hồ quang

    - Sợi cáp cỡ 0 bện bằng dây nhôm có bọc lớp cách đỉện

    • Nhà máy sản xuất linh kiện điện Benmington. AM-MV-60, chịu được dòng điện lên tới 60 000v

    • Cắt tay bằng cưa kim loại, lưỡi mới, gãy mất một răng

    - Hai bu lông có chốt hãm đường kính trong lòng 1.9cm

    • Không thể truy nguyên

    • Dấu vết riêng biệt của dụngcụđể lại trên bu lông

    • Lõi dẫn điện đồng thau, đấu vớisợi cáp bằnghaibulôngđường kính 0.6cm

    - Tất cả đều không thể truy nguyên.

    - Dấu giày cao cổ.

    - Sản phẩm của Albertson-Fenwick Model E-20 dành cho thợ điện, cỡ 11.

    - Lưới kim loại được cắt ra để chui vào trạm điện, có dấu vết riêng biệt của dụng cụ là kéo cắt bu lông.

    - Cánh cửa và khung cửa dưới tầng hầm.

    - Lấy được ADN. Đã gửi xét nghiệm.

    - Đồ ăn Hy Lạp, taramasalata.

    - Tóc vàng, dài 2,5cm, tự nhiên, của người từ 50 tuổi trở xuống, được phát hiện ở tiệm cà phê bên kia phố đối diện trạm điện.

    - Đã gửi phân tích độc tố - hóa chất

    - Dấu vết khoáng chất: tro núi lửa.

    - Không tìm thấy trong tự nhiên khu vực New York.

    - Từ triển lãm, bảo tàng, trường đào tạo về địa chất chăng ?

    - Phần mềm Trung tâm Điều khiển Algonquin bị truy cập bằng mật khẩu nội bộ, không phải bởi hacker bên ngoài.

    THƯ YÊU SÁCH

    - Được đưa tới nhà cho Andi Jessen.

    - Không có nhân chứng.

    - Viết tay.

    - Đã gửi cho Parker Kincaid để phân tích.

    - Nguồn giấy và mực không đặc thù.

    - Không thể truy nguyên.

    - Không có dấu vân tay của ai khác ngoài A. Jessen, người gác cửa, nhân viên văn thư.

    - Không có dấu vết rõ ràng nào lưu lại trên giấy.

    HỒ SƠ ĐỐI TƯỢNG CHƯA XÁC ĐỊNH

    - Nam giới.

    - Độ tuổi 40.

    - Có khả năng là da trắng.

    - Cỏ khả năng đeo kính, đội mũ.

    - Có khả năng tóc ngắn, màu vàng.

    - Quần yếm màu xanh lam thẫm, tương tự đồng phục của công nhân Algonquin.

    - Rất thành thạo các hệ thống điện.

    - Dấu giày gợi ý rằng không có vấn đề thể chất nào ảnh hưởng đến tư thế, dáng đi.

    - Có khả năng là kẻ đã ăn trộm gần 23m cáp loại tương tự của Bennington và 12 bu lông có chốt hãm. Dự tính tiếp tục tấn công ? Mở cửa vào nhà kho của Algonquin ăn trộm bằng chìa khóa.

    - Có khả năng là nhân viên của Algonquỉn hoặc có quan hệ với nhân viên của Algonquỉn.

    - Liên quan đến khủng bố ? Có quan hệ với Công lý cho (chưa xác định) ? Nhóm khủng bố ? Cá nhân mang tên Rahman dính líu vào ? có những tín hiệu mã hóa về các khoản tiền chi trả, các động thái nhân sự và thứ gì đó "lớn”.

    - Sự vi phạm an ninh tại trạm điện của Algonquin ở Philadelphia có thể có liên quan.

    - Thông tin từ SIGINT: từ ngữ mã hóa ám chỉ vũ khí, "giấy và các nguyên vật liệu” (súng, thuốc nổ ? ).

    - Những người dính líu tới bao gồm một phụ nữ, một nam giới.

    - Hẳn đã nghiên cứu về SCADA - Chương trình Giám sát Điều khiển và Thu thập Dữ liệu. Và các Chương trình quản lý năng lượng. Algonquin sử dụng Enertrol. Cả hai đều dựa trên hệ điều hành Unix.

    - Để tạo ra hồ quang điện, có khả năng đã là hoặc đang là thợ đặt đường dây, thợ điện được cấp chứng chỉ, thợ điện tay nghề cao, làm việc tại công trường xây dựng, trong quân đội.

    Mô tả từ Parker Kincaid, thông qua chữ viết:

    - Thuận tay phải.

    - Ít nhất đã tốt nghiệp trung học, có thể đã tốt nghiệp đại học.

    - Học tại Mỹ.

    - Tiếng Anh là ngôn ngữ thứ nhất, có thể là ngôn ngữ duy nhất.

    - Sử dụng thể bị động, tránh làm lộ kẻ đồng lõa chăng ?

    - Có thể tương thích với một trong số mười hai nhân viên Algonquin.

    - Viết thư trong tâm trạng xúc động, tức tối, đau khổ.


  6. #25
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 28
    Mel Cooper, đang chăm chú trước máy tính đột nhiên ngồi thẳng dậy. "Tôi nghĩ là tôi có một cách”

    "Một cách để làm gì ?" Rhyme gay gắt hỏi.

    "Một cách để thu hẹp danh sách nghi vấn", Cooper ngồi thẳngdậy hơn và đẩy cặp kính lên cao hơn trên sống mũi trong c một bức email. "Sợi tóc. Mà chúng ta thu được từ tiệm cà phê đối diện trạm điện ấy ?"

    "Không có chân tóc nên không có ADN." Rhymenóiđánhđộpmột cái. Anh vẫn đang bực bội vì việc phân tích APN chưa xong.

    "Ý tôi không phải vậy, Lincoln. Tôi vừa có phân tích độc tố - hóa chất từ chính sợi tóc đó. Một lượng lớn vinblastine và prednisone, dấu vết của etoposide nữa."

    "Bệnh nhân ung thư." Rhyme nói đầu đưa về phía trước là cách thay đổi tư thế của anh giống như Cooper thẳng vai lên. ""Hắn đang trải qua hóa trị liệu".

    "Ắt là như thế !"

    Thằng oắt tay chân của McDaniel bật cười nhỏ: cách nào mà các ông biết được ?" Rồi quay sangsếp bình luận "cũngkhá là tài."

    "Cậu sẽ phải ngạc nhiên đấy!” ,Ron Pulaski nói.

    Rhyme phớt lờ cả hai. "Gọi cho Algonquin xem năm hay sáu tháng vừa qua có ai trong danh sách mười hai nhân viên kia đã có đơn đề nghị chi trả bảo hiểm y tế cho điều trị ung thư không."

    Sachs gọi cho Algonquin. Andi Jessen đang nói chuyện điện thoại - có lẽ là với thống đốc hoặc thị trưởng - và Sachs được chuyển máy cho giám đốc an ninh của công ty, Bemard Wahl. Qua loa ngoài, cái giọng trầm, bị ảnh hượng bởi âm sắc châu Phi, cam đoan rằng anh ta sẽ kiểm tra ngay lập tức.

    Cũng chẳng hẳn ngay lập tức, nhưng đối với Rhyme, như thế là được rồi. Ba phút sau, Wahl quay lại cầm điện thoại.

    "Có sáu bệnh nhân ung thư ở danh sách lúc đầu, gồm bốn mươi sáu người ấy. Tuy nhiên, chỉ còn hai trường hợp ở danh sách mười hai người, những người mà nét chữ có thể phù hợp với bức thư yêu sách. Một người giữ vị trí quản lý ở bộ phận môi giới năng lượng. Người này, vào thời điểm diễn ra vụ tấn công, được cho là đang đáp máy bay trở về thành phố sau chuyến công tác." Wahl cung cấp các thông tin liên quan. Mel Cooper ghi xuống và, sau cái gật đầu của Rhyme, anh ta gọi điện đến hãng hàng không kiểm tra. An ninh hàng không, nằm ngoài chủ ý, đã trở thành một đối tác của lực lượng thực thi pháp luật nói chung, vì yêu cầu khai báo danh tính hiện nay được đặt ra nghiêm ngặt tới mức việc mọi người bay đi đâu có thể xác minh được dễ dàng.

    "Thông tin chính xác."

    "Trường hợp kia thì sao ?"

    "Thưa, ờ, có thể anh ta bị ung thư. Raymond Galt, bốn mươi tuổi. Trong năm qua, anh ta đã có đơn đề nghị chi trả bảo hiểm y tế cho điều trị bệnh máu trắng".

    Rhyme hướng ánh mắt vào Sachs. Theo bản năng, cô biết ánh mắt ấy có ý gì. Họ thường xuyên giao tiếp với nhau bằng cách đó. Cô buông người vào chiếc ghế dựa và bắt đầu gõ bàn phím.

    "Quá trình làm việc của anh ta ?" Rhyme hỏi.

    Wahl trả lời, "Ban đầu làm việc cho một đối thủ cạnh tranh ở miền Trung Tây, rồi đầu quân cho Algonquin."

    "Đối thủ cạnh tranh à ?"

    Wahl ngừng một chút. "À, không hẳn là đối thủ cạnh tranh giống trong ngành sản xuất xe hơi đâu. Đấy chẳng qua là cách chúng tôi gọi những công ty điện lực khác."

    "Bây giờ Galt làm gì cho công ty ?"

    "Anh ta là nhân viên khắc phục sự cố." Wahl trả lời.

    Rhyme đang đăm đăm nhìn vào đoạn mô tả về công việc này trên màn hình máy tính. Theo Charlie Sommers, một nhân viên khắc phục sự cố chắc chắn có kinh nghiệm đủ để tạo ra được một thứ vũ khí sử dụng tia hồ quang đại loại như thứ vũ khí đã được tạo ra ở trạm điện. Anh yêu cầu, "Mel, hãy xem hồ sơ của gã Galt này đi. Liệu gã có biết về SCADA và Chương trình quản lý năng lượng không ?"

    Cooper mở hồ sơ cá nhân của Galt. "Chẳng thấy nói cụ thể. Chỉ thấy nói từng tham gia nhiều khóa đào tạo thường xuyên."

    "Anh Wahl, Galt đã có gia đình, hay còn độc thân ?" Rhyme hỏi viên giám đốc an ninh.

    "Độc thân. Sống ở Manhattan. Anh muốn lấy địa chỉ của anh ta à ?"

    "Phải"

    Wahl cung cấp địa chỉ cho họ.

    "Đây là Tucker McDaniel. Thế hiện anh ta đang ở đâu, anh Wahl ?" McDaniel giục giã hỏi.

    "Đấy chính là vấn đề. Cách đây hai ngày, anh ta gọi điện báo ốm. Chẳng ai biết bây giờ anh ta đang ở đâu."

    "Và có khả năng anh ta mới đi du lịch đâu không ? Có thể là Hawaii hoặc Oregon ? Nơi nào đó có núi lửa ?"

    "Núi lửa à ? Tại sao ?"

    Cố gắng lắm mới giữ được kiên nhẫn, Rhyme hỏi, "Chỉ cần, anh ta có đi du lịch đâu không ?"

    "Theo bảng chấm công của anh ta thì không. Anh ta có nghỉ một số ngày vì lý do y tế, tôi cho là để điều trị ung thư, tuy nhiên kể từ năm ngoái anh ta không hề đi du lịch."

    "Liệu anh có thể hỏi các nhân viên cùng bộ phận anh ta xem họ có biết những nơi anh ta hay lui tới, bạn bè bên ngoài công ty, những nhóm nào đấy anh ta tham gia ?"

    "Vâng, được ạ."

    Nghĩ về mối liên quan đến đồ ăn Hy Lạp, Rhyme yêu cầu, "Và bất cứ ai anh ta thường xuyên ăn trưa cùng."

    "Vâng."

    "Anh Wahl, những người ruột thịt của Galt thì sao ?" McDaniel hỏi thêm.

    Wahl báo cáo rằng cha Galt đã mất, còn mẹ và chị gái anh ta sống ở Missouri. Wahl đọc tên, địa chỉ và số điện thoại của họ.

    Rhyme và cả McDaniel không nghĩ ra được gì nữa để hỏi viên giám đốc an ninh. Nhà hình sự học cảm ơn anh ta rồi họ kết thúc cuộc gọi.

    McDaniel ra lệnh cho kẻ tay chân của mình liên lạc với văn phòng FBI ở Cape Girardeau, Missouri, yêu cầu họ bố trí ngoại tuyến.

    "Có đủ điều kiện pháp lý để nghe lén điện thoại không ?" Thằng oắt hỏi.

    "Chẳng chắc. Nhưng cứ yêu cầu. Ít nhất cũng yêu cầu ghi lại lịch sử gọi đến."

    "Tôi làm ngay, làm ngay đây."

    "Rhyme." Sachs gọi.

    Anh ngẩng nhìn màn hình, trên đó đã hiện ra thành quả của hai bàn tay cô vừa khua điên cuồng trên bàn phím. Cơ quan Kiểm soát xe cơ giới cung cấp bức ảnh một người đàn ông da trắng, tóc húi cua. Ngắn chừng hai centimet rưỡi.

    "Vậy", McDaniel nói, "chúng ta đã có một đối tượng tình nghi. Kết quả rất tốt, Lincoln."

    "Chúng ta sẽ tự chúc mừng mình khi nào đã tóm cổ được hắn."

    Rồi anh nheo nheo mắt đọc thông tin của Cơ quan Kiểm soát xe cơ giới, phần thông tin này khẳng định địa chỉ do Wahl cung cấp. "Hắn ở khu bờ Đông Hạ ?... Ở đó không có nhiều trường học hoặc bảo tàng. Tôi nghĩ tro núi lửa ắt phải từ địa điểm hắn đang định ra tay. Có thể là mục tiêu tiếp theo. Và hắn sẽ muốn một nơi công cộng, rất nhiều người."

    Rất nhiều nạn nhân...

    Một cái liếc mắt về phía đồng hồ treo tường. Mười rưỡi.

    "Mel, hỏi lại chuyên gia địa chất của anh ở đại bản doanh đi. Chúng ta cần hành động !"

    "Làm luôn đây !"

    McDaniel nói, "Tôi sẽ gọi cho thẩm phán xin lệnh bắt và bố trí một đội chiến thuật sẵn sàng ập đến nơi ở của tên Galt này."

    Rhyme gật đầu, rồi gọi cho Sellitto lúc bấy giờ vẫn đang trên đường tới Tòa Thị chính.

    Giọng viên thám tử bắn ra như liên thanh, "Tôi vừa lao qua khoảng năm trăm chốt đèn giao thông, Linc ạ. Tôi đang nghĩ nếu thằng khốn kiếp kia đánh sập lưới điện và chẳng còn đèn xanh đèn đỏ gì nữa, chúng ta chỉ có chết. Không cách nào..."

    Rhyme ngắt lời anh ta, "Lon, nghe này, chúng ta đã nắm trong tay một cái tên. Raymond Galt. Hắn là nhân viên khắc phục sự cố ở Algonquin. Chưa tuyệt đối chắc chắn nhưng có vẻ lắm. Mel sẽ email thông tin cụ thể cho anh."

    Cooper, đang dở cuộc gọi hỏi về việc tìm kiếm những địa điểmdínhdáng tới núilửa, bắt đầu gõ email chuyển thông tin liên quan tới đối tượngtình nghi.

    "Tôi bố trí một đội Phản ứng nhanh xuống dưới đấy ngay bây giờ" Sollitto nói to.

    "Chúng tôi điều đội chiến thuật của chúng tôi đi rồi." McDaniel vội vã đáp.

    Giống như hai thằng nhãi học trò, Rhyme tự nhủ. "Dù là người của ai đi chăng nữa, tôi nghĩ đều không thành vấn đề. Vấn đề là ngay bây giờ"

    Qua chế độ đàm thoại hội nghị, viên thám tử và viên mật vụ nhất trí tiến hành khám xét bất ngờ, cả hai bên sẽ tự tập hợp, triển khai quân của mình.

    Rồi Rhyme cảnh báo, "Chúng ta đang nhích đến gần thời hạn được đưa ra, vì thế chưa chắc hắn còn có mặt ở đó. Nếu hắn đã đi rồi, tôi muốn chỉ người của tôi tiến hành khám xét căn hộ."

    "Không vấn đề gì” , McDaniel nói.

    "Em ?" Sachs nhướn một bên lông mày.

    "Không. Nếu chúng ta có được bất cứ manh mối nào về địa điểm tấn công tiếp theo, anh muốn em đến đó." Rhyme liếc mắt sang Pulaski.

    "Tôi ?" vẫn từ đó nhưng với tông giọng khác.

    "Đi đi, cậu tân binh. Và nhớ..”

    "Tôi biết” Pulaski nói. "Những tia lửa điện đó nóng năm ngàn độ Fahrenheit. Tôi sẽ thận trọng."

    Rhyine cười gằn. "Điều tôi đang định bảo là: Đừng để sai sót gì ! Nào, đi đi !"


  7. #26
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 29
    Bao nhiêu là kim loại. Ngóc ngách nào cũng thấy kim loại.

    Ron Pulaski liếc đồng hồ đeo tay: mười một giờ sáng. Hai tiếng trước một vụ tấn công nữa.

    Kim loại... mang tính dẫn điện tuyệt vời, và có thể được đấu nối với những sợi dây chạy tới một trong những nguồn điện nằm rất khuất nẻo dưới tầng hầm của tòa chung cư tồi tàn cậu ta đang đứng.

    Được trang bị lệnh khám xét, đội tác chiến FBI và đội Phản ứng nhanh Sở Cảnh sát New York phát hiện ra rằng Galt đã vắng mặt - tất cả mọi người đều thất vọng, nhưng không ai ngạc nhiên. Pulaski sau đó xua hết mật vụ với cảnh sát ra. Và giờ đây cậu ta đang nghiên cứu căn hộ lờ mờ tối, căn hộ tầng hầm trong tòa nhà cũ kỹ xập xệ xây bằng đá cát kết màu nâu ở khu Bờ Đông Hạ. Cậu ta cùng ba sĩ quan tác chiến đã kiểm tra xung quanh căn hộ - chỉ bốn người, theo yêu cầu của Rhyme, để hạn chế tối đa việc gây ảnh hưởng đến hiện trường.

    Nhóm kiểm tra lúc bấy giờ đã ra ngoài hết và Pulaski đang một mình xem xét cái chốn chật chội này. Và trông thấy rất nhiều chi tiết kim loại có thể được bố trí, như cách hộp ắc-quy đã được bố trí trong trạm điện - cái bẫy suýt giết chết Amelia.

    Đồng thời hiện lên hình ảnh những mảnh kim loại tròn bắn tứ tung trên vỉa hè, những vết sẹo găm trong tường bê tông và thân thể anh thanh niên Luis Martin tội nghiệp. Cậu ta nhớ lại một hình ảnh khác nữa, hình ảnh thậm chí còn đem đến nỗi lo lắng lớn hơn: Ánh mắt Sachs trông kinh hãi. Nó chưa bao giờ có biểu hiện ấy. Nếu cái bẫy điện khốn kiếp này có thể làm cho cô phải hoảng sợ...

    Đêm hôm qua, sau khi Jenny, vợ mình, đã đi ngủ, Ron Pulaski đã lên mạng tìm hiểu hết mức có thể về điện. Lincoln Rhyme từng bảo cậu ta rằng nếu hiểu được cái gì đó, người ta đỡ e sợ nó hơn. Có kiến thức, người ta có thể kiểm soát được tình hình. Nhưng điều này không hoàn toàn đúng đối với điện. Càng tìm hiểu, cậu ta càng cảm thấy bất an. Cậu ta có thể nắm bắt khái niệm cơ bản, tuy nhiên cậu ta cứ bị ám ảnh bởi thực tế là nó quá vô hình. Người ta không bao giờ biết chính xác nó đang hiện diện ở chỗ nào. Giống như con rắn độc trong một căn phòng tối.

    Rồi Pulaski rũ những ý nghĩ đó ra khỏi dầu óc. Lincoln Rhyme đã tin tưởng giao hiện trường này cho cậu ta. Vậy hãy bắt tay vào việc. Trên đường lái xe tới đây, cậu ta đã gọi hỏi xem Rhyme có muốn giữ liên lạc qua radio và video, theo sát bước chân cậu ta trong quá trình khám nghiệm hiện trường như thi thoảng vẫn làm cùng Amelia hay không.

    Rhyme nói, "Tôi bận, cậu tân binh. Nếu tới lúc này cậu vẫn chưa xử lý được một hiện trường thì không có mảy may hy vọng gì cho cậu đâu."

    Cách.

    Thái độ này sẽ khiến hầu hết mọi người cảm thấy bị xúc phạm, nhưng nó đã đặt nụ cười tươi lên khuôn mặt Pulaski và cậu ta muốn gọi cho người anh em sinh đôi, cũng là đồng nghiệp ở Đồn cảnh sát số Sáu, thuật lại sự việc vừa xong. Tất nhiên, cậu ta không vội thực hiện, mà để dành tới lúc hai anh em ra phố uống bia cuối tuần này.

    Vậy là, một mình, cậu ta bắt đầu cuộc khám nghiệm, đeo đôi găng tay dài vào.

    Căn hộ của Galt tồi tàn, buồn bã, rõ ràng là chỗ trú ngụ cho một kẻ độc thân chẳng đoái hoài gì đến môi trường xung quanh. Chật chội, tối tăm, ẩm mốc. Thức ăn thứ tươi thứ ôi, có thứ sắp sửa ôi. Quần áo chất đống. Cuộc khám nghiệm tức thì này, như Rhyme đã nhấn mạnh với Pulaski, không nhằm mục đích thu thập bằng chứng để đưa ra tòa, mà nhằm phát hiện địa điểm Galt sẽ có thể thực hiện một vụ tấn công nữa và mối liên hệ, nếu có, với Rahman, cũng như với Công lý cho...

    Lúc này, cậu ta đang nhanh nhẹn lục soát chiếc bàn làm việc bị mọt ăn đến lung lay, chiếc tủ hồ sơ xiêu vẹo và các hộp đựng giấy tờ, tài liệu, để tìm kiếm mối liên quan tới các nhà trọ, khách sạn, các căn hộ khác, nơi ở của bạn bè, các nhà nghỉ mùa hè và mùa đông.

    Một tấm bản đồ với dấu X to màu đỏ, kèm theo ghi chú: Tấn công chỗ này ! Nhưng, tất nhiên, không có gì rõ ràng. Thực tế, hầu như không có một chút gì hữu ích. Không sổ ghi địa chỉ, không thư từ. Nhật ký cuộc gọi, cả đến lẫn đi, trên điện thoại đều đã bị xóa và, nhấn phím GỌI LẠI, Pulaski nghe thấy giọng nói điện tử hỏi cậu ta cần số máy ở thành phố nào, bang nào. Galt đem theo laptop, ở nhà không có máy tính nào khác.

    Pulaski tìm thấy giấy và phong bì tương tự loại được sử dụng cho bức thư yêu sách. Một tá bút nữa. Cậu ta thu thập những thứ này, bỏ vào túi đựng chứng cứ.

    Sau khi không phát hiện thêm thứ gì hữu ích nữa, Pulaski bắt đầu tiến hành rà soát theo ô bàn cờ, đặt số, chụp ảnh. Và thu thập dấu vết.

    Cậu ta di chuyển nhanh nhẹn hết mức có thể, tuy, như vốn vẫn hay xảy ra, phải vật lộn cùng nỗi sợ hãi cứ luôn luôn đeo bám. Tâm trạng sợ rằng mình lại bị thương khiến cậu ta trở nên rụt rè và chùn bước. Nhưng nó cũng dẫn đến một nỗi sợ khác: sợ nếu không nỗ lực một trăm phần trăm, cậu ta sẽ không xứng đáng với những gì mà mọi người chờ đợi. Cậu ta sẽ đem tới nỗi thất vọng cho vợ, anh trai và Amelia Sachs.

    Cả Lincoln Rhyme nữa.

    Nhưng thật khó khăn để rũ bỏ nỗi sợ hãi.

    Hai bàn tay Pulaski bắt đầu run run, hơi thở gấp gáp, và cậu ta giật nảy mình khi nghe một tiếng cót két

    Giữ bình tĩnh, nhớ đến giọng thì thầm an ủi của vợ, "Anh không sao, anh không sao, anh không sao..."

    Pulaski bắt đầu lại. Cậu ta xác định được vị trí một phòng để đồ phía sau và sắp sửa mở nó. Nhưng cậu ta lại chú ý tới quả đấm kim loại. Cậu ta đang đứng trên lớp vải sơn nhưng không biết như thế đã đủ an toàn chưa. Cậu ta cũng quá sợ chẳng dám kéo cánh cửa thậm chí bằng bàn tay đeo găng cao su của nhân viên khám nghiệm hiện trường. Cậu ta nhặt miếng rửa bát cao su và dùng nó lót lấy quả đấm. Rồi mở phòng để đồ.

    Bên trong phòng cất những chứng cứ chắc chắn cho thấy Ray Galt là thủ phạm: một chiếc cưa bị mẻ lưỡi. Cả kéo cắt bu lông. Pulaski biết công việc của cậu ta ở đây chỉ là rà soát và thu thập chứng cứ, nhưng cậu ta không đừng được việc rút từ túi áo ra chiếc kính lúp nhỏ, xem xét cái kéo, để ý thấy lưỡi kéo có chỗ khía hình chữ V, nó có lẽ đã để lại dấu vết riêng biệt trên tấm lưới sắt mà cậu ta lấy về từ hiện trường trạm điện gần điểm đỗ xe buýt. Cậu ta bỏ tang chứng vào túi, gắn nhãn. Trong một chiếc tủ nhỏ khác, cậu ta phát hiện ra đôi giày cao cổ hiệu Albertson-Fenwick, cỡ mười một.

    Điện thoại của Pulaski reo chuông lanh lảnh, làm cậu ta giật nảy mình. Màn hình hiện tên Lincoln Rhyme. Pulaski trả lời ngay lập tức, "Lincoln, tôi.."

    "Cậu phát hiện được gì về các chỗ hắn có thể nương náu chưa, cậu tân binh ? Xe cộ mà hắn có lẽ đã thuê mướn ? Bạn bè mà hắn có lẽ đang ở cùng ? Phát hiện được gì về những địa điểm tấn công chưa ?

    "Chưa, hắn dọn dẹp nơi này khá sạch sẽ. Tuy nhiên, tôi tìm thấy các dụng cụ và đôi giày. Dứt khoát là của hắn."

    "Tôi muốn có các địa điểm. Các địa chỉ."

    "Rõ, thưa sếp. Tôi..."

    Cách.

    Pulaski đóng điện thoại và thận trọng bỏ vào túi các chứng cứ cậu ta đã phát hiện ra cho tới lúc bấy giờ. Rồi cậu ta tiến hành rà soát khắp căn hộ lần thứ hai, bao gồm tủ lạnh, tất cả các phòng để đồ, những hộp giấy đựng thức ăn lớn đủ để giấu gì đó.

    Nhưng không có gì...

    Lúc bấy giờ, nỗi thất vọng thay thế sự sợ hãi. Pulaski đã phát hiện được bằng chứng cho thấy Galt là kẻ tấn công, ngoài ra chẳng phát hiện được gì khác. Gã có thể đang lẩn lút chỗ nào, mục tiêu của gã ra sao. Rồi Pulaski dừng ánh mắt lại lần nữa ở chiếc bàn làm việc. Cậu ta nhìn vào chiếc máy in rẻ tiền. Phía trên cùng, ánh đèn màu vàng đang nhấp nháy. Cậu ta tiến đến gần. Dòng thông báo: Kẹt giấy.

    Galt đã đang in cái gì ?

    Chàng cảnh sát thận trọng nhấc nắp máy in, nhìn săm soi vào bên trong. Cậu ta có thể trông thấy búi giấy.

    Cậu ta cũng có thể trông thấy dòng cảnh báo: Nguy hiểm ! Có thể bị giật ! Ngắt nguồn điện trước khi gỡ giấy kẹt hoặc sửa chữa !

    Biết đâu có các trang khác nữa đang đợi được in, biết đâu có thông tin gì đó hữu ích. Thậm chí có thể là chìa khóa. Nhưng nếu ngắt nguồn điện máy in, các trang đang đợi được in sẽ bị xóa khỏi bộ nhớ.

    Pulaski bắt đầu thận trọng vươn tay ra. Rồi cậu ta lại hình dung đến những mảnh kim loại nóng chảy.

    Năm ngàn độ...

    Mẹ kiếp. Amelia đã dặn cậu ta đừng mang trên người bất cứ thứ gì làm bằng kim loại khi đến gần nguồn điện. Cậu ta đã quên khuấy mất. Cái chấn thương đầu chết tiệt ! Tại sao cậu ta không suy nghĩ rõ ràng được chứ ? Cậu ta tháo đồng hồ. Bỏ vào túi áo. Jesus, lạy Chúa tôi, như thế sẽ có tác dụng gì ? Cậu ta đặt chiếc Seiko lên bàn, cách xa máy in.

    Thử thò tay ra lần nữa, nhưng nỗi sợ hãi lại xâm chiếm. Pulaski phát điên với chính bản thân mình vì cứ lưỡng lự.

    "Mẹ kiếp." Cậu ta lầm bầm, và quay lại bếp. Cậu ta tìm thấy những chiếc găng tay cao su to tướng màu hồng hiệu Playtex. Cậu ta vừa xỏ găng tay vào vừa nhìn xung quanh để chắc chắn rằng không có mật vụ FBI hay cảnh sát Phản ứng nhanh nào đang chứng kiến hình ảnh lố bịch này, rồi bước trở về chỗ máy in.

    Pulaski mở hộp đựng dụng cụ thu thập chứng cứ và lựa chọn dụng cụ phù hợp nhất để gỡ giấy kẹt cho máy in tiếp tục làm việc: chiếc nhíp. Nó, tất nhiên, làm bằng kim loại, chính xác là tấm vé kết nối tuyệt vời với bất cứ sợi dây điện trần nào mà Galt đã bố trí ở bên trong.

    Cậu ta đưa mắt nhìn chiếc đồng hồ đeo tay của mình, nằm cách đấy gần hai mét. Chưa đầy một tiếng rưỡi nữa sẽ tới thời điểm ấn định vụ tấn công tiếp theo.

    Ron Pulaski cúi người về phía trước, từ từ đưa chiếc nhíp vào giữa hai sợi dây điện rất dày.

  8. #27
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 30
    Các phương tiện truyền thông đang đăng tải ảnh Galt, những bạn gái cũ của gã đang được phỏng vấn, cả những thành viên đội bowling mà gã tham gia, cũng như vị bác sĩ điều trị ung thư cho gã. Nhưng không có manh mối gì. Gã đã độn thổ.

    Chuyên gia địa chất của Mel Cooper tại trụ sở bộ phận Khám nghiệm Hiện trường bên quận Queens đã xác định được hai mươi mốt sự kiện trưng bày diễn ra trong phạm vi thành phố New York có thể có dính dáng đến tro núi lửa, bao gồm cả một nghệ sĩ bên quận Queens đang sử dụng đá núi lửa để làm các tác phẩm điêu khắc.

    Cooper lầm bầm, "Hai mươi ngàn đô la cho cái của chỉ bằng quả dưa hấu. À mà nhìn cũng giống như quả dưa hấu thật".

    Rhyme lơ đễnh gật đầu, lắng nghe McDaniel, lúc bấy giờ đã quay lại văn phòng Cơ quan Điều tra Liên bang, đang trình bày qua speakerphone rằng bà mẹ Galt không được gã liên lạc gì từ vài ngày nay rồi. Nhưng như thế không phải là bất bình thường. Gần đây, tâm tư gã xáo trộn do bị bệnh. Rhyme hỏi, "Anh áp dụng chế độ nghe lén điện thoại đối với họ à ?"

    Viên mật vụ bực bội giải thích rằng mình chưa thuyết phục được thẩm phán cho áp dụng chế độ nghe lén điện thoại đối với các thành viên gia đình Galt.

    "Nhưng chúng tôi đã đăng ký ghi lại lịch sử cuộc gọi." Chế độ này không cho phép các mật vụ nghe nội dung đàm thoại, nhưng cho phép ghi lại bất cứ số máy nào gọi đến và bất cứ số máy nào được gọi đi. Rồi người ta có thể lần tìm theo những số máy đó.

    Sốt ruột, Rhyme đã liên lạc với Pulaski lần nữa. Cậu ta trả lời ngay lập tức bằng giọng run run, bảo rằng tiếng chuông điện thoại làm cậu ta sợ, "Sếp biết nhược điểm thần kinh của tôi mà."

    Chàng cảnh sát trẻ thông báo với Rhyme về việc đang lấy thông tin từ máy in của Raymond Galt.

    "Lạy Chúa, cậu tân binh, đừng tự mình làm việc đó."

    "Không sao, tôi đang đứng trên tấm chùi chân bằng cao su."

    "Tôi không muốn nói như thế. Chỉ là hãy để các chuyên gia xử lý một cái máy tính. Có thể nó đã được cài các Chương trình xóa dữ liệu..."

    "Không, không, không có máy tính. Có máy in thôi. Nó bị kẹt giấy, tôi đang..."

    "Chưa có địa chỉ, địa điểm gì về vụ tấn công tiếp theo à ?"

    "Chưa ạ."

    "Hãy gọi ngay lúc nào, ngay giây nào cậu phát hiện được điều gì đó."

    "Tôi..."

    Cách.

    Lực lượng tác chiến hỗn hợp hầu như không có chút may mắn nào trong việc điều tra trên phố Năm mươi bảy và ở khu vực Raymond Galt sinh sống. Thủ phạm - chẳng còn là đối tượng chưa xác định nữa - đã độn thổ. Điện thoại di động của Galt đã "chết": Nhà cung cấp dịch vụ cho biết điện thoại đã gỡ pin nên không thể xác định được vị trí.

    Sachs đang có cuộc gọi ở điện thoại của cô, cô cúi đầu, lắng nghe. Cô cảm ơn người gọi, xong đóng điện thoại. "Lại là Bemie Wahl. Anh ta bảo anh ta đã trao đổi với những nhân viên ờ bộ phận của Galt, bộ phận Bảo dưỡng Khẩn cấp khu vực New York, và tất cả đều nói là hắn ưa cô độc. Hắn rất ít giao thiệp. Hắn chẳng thường xuyên ăn trưa cùng ai. Hắn thích một mình làm việc trên các đường dây."

    Rhyme gật đầu trước thông tin này. Rồi anh thông báo với viên mật vụ FBI về những địa điểm dính dáng đến tro núi lửa. "Chúng tôi đã xác định được hai mươi mốt địa điểm. Chúng tôi.. "

    "Hai mươi hai." Cooper nói to trong lúc đang nhận cuộc gọi từ nữ nhân viên khám nghiệm hiện trường bên quận Queens. "Phòng tranh ở Brooklyn nữa nhé. Trên phố Henry."

    McDaniel thở dài. "Nhiều thế ư ?"

    "E là vậy !" Rồi Rhyme nói, "Chúng ta nên thông báo với Fred."

    McDaniel không đáp gì.

    "Fred Dellray." Nhân viên của anh đấy, Rhyme nói thêm trong bụng. "Anh ấy cần cung cấp thông tin về Galt cho chỉ điểm của anh ấy."

    "Được. Giữ máy. Tồi sẽ kết nối đàm thoại hội nghị."

    Có những tiếng lách tách và vài nhịp tim thầm lặng. Rồi họ nghe thấy giọng nói cất lên, "Lon à ? Dellray đây."

    "Fred, Tucker đây. Tôi đang trao đổi với Lincoln. Qua đàm thoại hội nghị. Chúng tôi đã xác định được đối tượng."

    "Ai ?"

    Rhyme cung cấp thông tin về Galt. "Chúng tôi chưa xác định được động cơ, nhưng nghi ngờ hiện tại tập trung vào hắn."

    "Các anh tìm thấy hắn chưa ?"

    "Chưa. Hắn đang mất tích. Chúng tôi đã điều một nhóm đến khám xét căn hộ của hắn".

    "Thời hạn kia vẫn đấy à ?"

    McDaniel nói, "Chúng ta không có lý do gì để nghĩ khác. Anh có chút thông tin nào chưa, Fred ?"

    "Gã tay trong của tôi đã có những manh mối tốt. Tôi đang chờ đợi tin tức."

    "Liệu có chút gì mà anh có thể chia sẻ ?" Viên Phó Trưởng văn phòng vẻ mỉa mai hỏi.

    "Không có gì ở thời điểm này. Tôi chuẩn bị gặp gã tay trong lúc ba giờ. Gã bảo tôi gã đã có tin tức gì đó. Tôi sẽ gọi cho gã và cung cấp họ tên đối tượng. Có lẽ sẽ thúc đẩy được tình hình."

    Họ kết thúc cuộc đàm thoại. Chỉ một lát sau, điện thoại của Rhyme lại reo chuông. "Thám tử Rhyme phải không ?" Giọng phụ nữ hỏi.

    "Vâng. Tôi đây."

    "Tôi là Andi Jessen. Liên hợp Algonquin."

    McDaniel xưng danh, rồi nói, "Chị đã nhận thêm tin tức gì từ hắn chưa ?"

    "Chưa, nhưng có tình huống này tôi phải thông báo với các anh." Cái giọng khàn khàn, gấp gáp của chị ta khiến Rhyme tập trung chú ý cao độ.

    "Chị cứ nói đi."

    "Như tôi thông báo với các anh rồi đấy, chúng tôi đã thay mật khẩu máy tính. Vì thế hắn không thể lặp lại sự việc ngày hôm qua."

    "Tôi nhớ."

    "Và tôi đã ra lệnh tăng cường an ninh xung quanh tất cả các trạm điện. Hai mươi tư trên bảy. Nhưng chừng mười lăm phút trước, một ngọn lửa đã bốc lên tại một trong những trạm điện của chúng tôi ở Uptown. Một trạm thuộc khu Harlem."

    "Cố ý gây hỏa hoạn à ?" Rhyme hỏi.

    "Đúng vậy. Các nhân viên bảo vệ ở phía trước trạm. Có vẻ kẻ nào đó đã ném một quả bom cháy qua cửa sổ phía sau. Hoặc đại loại như vậy. Ngọn lửa được dập tắt nhưng nó dẫn đến rắc rối. Nó phá hủy bảng phân phối. Nghĩa là chúng tôi không thể thực hiện thao tác bằng tay đối với trạm điện ấy. Chúng tôi đã bị mất kiểm soát. Chẳng có cách nào dừng dòng điện chạy qua những đường dây truyền tải ngoài cách đóng toàn bộ lưới điện."

    Rhyme cảm nhận được Jessen đang lo lắng, nhưng anh không nắm bắt được hàm ý của chị ta. Anh đề nghị chị ta giải thích.

    Chị ta nói, "Tôi nghĩ hắn đã làm chuyện khá điên rồ, hắn đã đấu nối trực tiếp vào một đường dây truyền tải khu vực chạy từ trạm điện bị cháy. Điện áp trên đường dây ấy là gần một trăm năm mươi nghìn volt."

    "Hắn có thể thực hiện bằng cách nào ?" Rhyme hỏi. "Tôi tưởng hắn sử dụng trạm điện như ngày hôm qua là vì việc đấu nối vào một đường dây chính quá nguy hiểm ?"

    "Đúng, nhưng, tôi không biết, có thể hắn đã chế tạo ra một loại thiết bị chuyển mạch điều khiển từ xa để thực hiện đấu nối, rồi kích hoạt sau."

    McDaniel hỏi, "Chị nghĩ tới địa điểm nào không ?"

    "Đường dây tôi đang nghĩ tới cách trạm điện kia ba phần tư dặm. Nó chạy bên dưới Trung tâm Harlem và Tây Harlem ra sông."

    "Và chị chắc chắn không thể chặn dòng điện lại ?"

    "Không, cho tới lúc khôi phục được bảng phân phối trong trạm điện bị cháy. Việc ấy sẽ mất mấy tiếng đồng hồ."

    "Và vụ nổ hồ quang này sẽ tồi tệ y như vụ hôm qua ?"

    "Vâng. Ít nhất là thế !"

    "Được, chúng tôi sẽ kiểm tra !"

    "Thám tử Rhyme ? Anh Tucker ?" Giọng Jessen đỡ lạnh lùng hơn lúc trước.

    Viên mật vụ FBI đáp, "Sao chị ?"

    "Tôi xin lỗi. Tôi cho là tôi đã có thái độ khó khăn ngày hôm qua. Nhưng tôi thành thật không nghĩ một trong những nhân viên của tôi lại gây ra chuyện này !"

    "Tôi hiểu." McDaniel nói. "ít nhất bây giờ chúng ta đã có cái tên. Nếu chúng ta may mắn, chúng ta sẽ ngăn chặn được hắn trước khi hắn làm hại nhiều người hơn."

    Sau khi họ kết thúc cuộc gọi, Rhyme quát to, "Mel, anh nghe thấy chưa ? Uptown à ? Momingside Heights, Harlem. Bảo tàng, triển lãm điêu khắc, bất cứ chỗ nào. Hãy tìm ra cho tôi một mục tiêu có thể !". Rồi Rhyme gọi cho người phụ trách lâm thời bộ phận Khám nghiệm Hiện trường có trụ sở bên quận Queens - người hiện nay đảm nhiệm vị trí trước đây của anh - đề nghị ông ta cử một đội khám nghiệm tới trạm điện đang bị phong tỏa vì vụ hỏa hoạn cố ý. "Và bảo họ đem về bất cứ thứ gì tìm được, ngay lập tức !"

    "Có một khả năng đây !" Cooper nói to, nghiêng đầu khỏi ống nghe điện thoại. "Đại học Columbia. Một trong những địa điểm trưng bày dung nham và đá núi lửa lớn nhất nước."

    Rhyme quay sang Sachs. Cô gật đầu. "Em có thể đến đó sau mười phút nữa."

    Cả hai người đều đang liếc nhìn đồng hồ số điện tử trên màn hình máy tính của Rhyme.

    Lúc bấy giờ là mười một giờ hai mươi chín phút.


  9. #28
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 31
    Amelia Sachs đang ở trong khuôn viên Đại học Columbia, khu Momingside Heights, phía bắc Manhattan.

    Cô vừa rời khỏi văn phòng khoa Khoa học Trái đất và môi trường, nơi một nhân viên lễ tân rất nhiệt tình đã bảo, "Chúng tôi không trưng bày gì liên quan tới núi lửa đâu, nhưng chúng tôi có hàng trăm mẫu tro, dung nham, và nhiều loại đá núi lửa khác. Bất cứ khi nào sinh viên trở về sau một dự án thực địa, đất cát vương vãi khắp các chỗ."

    "Em đây, Rhyme." Sachs nói vào micro và thuật lại những thông tin tìm hiểu được về tro núi lửa.

    Anh bảo, "Anh vừa trao đổi lại với Andi Jessen. Đường dây truyền tải về cơ bản đi ngầm dưới đất suốt từ đại lộ Năm đến sông Hudson. Đại khái nó bám theo phố Một trăm mười sáu. Nhưng dấu vết bụi dung nham cho thấy vụ nổ hồ quang sẽ xảy ra đâu đấy gần khuôn viên trường. Xung quanh chỗ em đang đứng có gì, Sachs ?"

    "Hầu hết chỉ là lớp học. Văn phòng."

    "Mục tiêu có thể là bất cứ vị trí nào trong những vị trí này."

    Sachs nhìn từ phải sang trái. Một ngày mùa xuân quang đãng, mát mẻ, sinh viên đang dạo chơi thơ thẩn hoặc đi bộ thể dục. Ngồi trên bãi cỏ, trên những bậc thềm thư viện. "Dù sao, em cũng không trông thấy nhiều vị trí có thể là mục tiêu tấn công, Rhyme. Ngôi trường cũ kỹ, vật liệu xây dựng chủ yếu là gỗ, đá, có vẻ vậy. Không có thép hay dây điện gì đó. Em không biết bằng cách nào mà hắn bố trí được một cái bẫy lớn để làm hại nhiều người."

    Rồi Rhyme hỏi, "Gió đang thổi theo hướng nào ?"

    Sachs xem xét hướng gió. "Đông và đông bắc, có vẻ vậy."

    "Em sẽ suy nghĩ một cách logic ra sao ? Bụi đất đá không bay quá xa. Chắc vài khối phố."

    "Em đang suy nghĩ đây. Như thế thì hắn có thể ở Công viên Momingside."

    Rhyme bảo Sachs, "Anh sẽ gọi cho Andi Jessen hay ai đó ở Algonquin hỏi xem đường dây truyền tải nằm ở vị trí nào bên dưới công viên. Và này, Sachs ?"

    "Gì ạ ?"

    Rhyme lưỡng lự. Cô đoán - không biết - rằng anh đang định nhắc cô cẩn thận. Nhưng đó là lời nói thừa thãi.

    "Không có gì."

    Và cuộc gọi đột ngột kết thúc.

    Amelia Sachs bước ra ngoài đường qua một trong những ô cổng chính, đi theo hướng gió. Cô băng ngang đại lộ Amsterdam và đi xuôi con phố thuộc khu Momingside Heights phía đông khuôn viên trường đại học, tiến tới những tòa chung cư màu nâu xám, những dãy nhà liền kề tối mò mò, được xây vững chãi bằng đá granite và gạch.

    Khi điện thoại của cô reo chuông, cô liếc nhìn màn hình hiển thị số máy. "Rhyme. Anh có thông tin gì rồi ?"

    "Anh vừa trao đổi với Andi. Chị ta bảo rằng đường dây truyền tải chạy theo hướng bắc quãng phố Một trăm mười bảy, rồi quẹo sang hướng tây chạy bên dưới công viên""

    "Em sắp sửa đến đó, Rhyme. Em không thấy... ôi, không."

    "Gì vậy, Sachs ?"

    Phía trước mặt cô là Công viên Momingside, đông đúc người, vì chuẩn bị tới giờ ăn trưa. Trẻ em, các bà, các cô trông trẻ, doanh nhân, - sinh viên Đại học Columbia, các nhạc sĩ... hàng trăm người, đơn giản là dạo chơi tận hưởng một ngày đẹp trời. Cũng có người trên vỉa hè nữa. Nhưng số lượng mục tiêu chưa phải toàn bộ những gì khiến Sachs hoang mang.

    "Rhyme. Toàn bộ khu vực phía tây công viên trên phố Momingside."

    "Đang có công trường xây dựng. Họ đang thay đường ống dẫn nước. Những đường ống lớn làm bằng sắt. Lạy Chúa, nếu hắn hướng dòng điện vào chúng..."

    Rhyme nói, "Trong trường hợp đó, tia lửa điện có thể đánh trúng bất cứ chỗ nào trên phố. Quỷ tha ma bắt, nó thậm chí có thể đánh vào bên trong bất cứ tòa nhà, văn phòng, ký túc xá, cửa hàng cửa hiệu nào gần đó hay có khi cách hàng dặm."

    ""Em phải tìm ra được vị trí hắn đấu nối, Rhyme." Sachs đút điện thoại vào bao, rảo chân bước tới công trường xây dựng.


  10. #29
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 32
    Sam Vetter mang cảm xúc lẫn lộn khi tới New York.

    Ông già sáu mươi tám tuổi chưa từng ở đây bao giờ. Ông đã luôn luôn muốn thực hiện một chuyến đến đây từ Scottsdale, nơi ông sống suốt bao năm qua, và Ruth đã luôn luôn muốn được trông thấy nơi này, nhưng thế nào mà trong các kỳ nghỉ họ đều thấy mình có mặt tại California hay Hawaii, hay trên tàu thủy đi Alaska.

    Mỉa mai thay, bây giờ, chuyến công tác đầu tiên sau khi bà ấy mất lại đưa ông tới New York, mọi chi phí được đài thọ.

    Thật hạnh phúc khi ở đây.

    Và buồn bã quá vì Ruth không thể.

    Vetter đang ăn trưa, ngồi trong phòng ăn yên tĩnh, thanh lịch của khách sạn Công viên Bettery, chuyện trò với mấy người đàn ông khác tới đây dự cuộc họp về tài chính xây dựng, nhấm nháp một cốc bia.

    Cuộc chuyện trò giữa các doanh nhân, về phố Wall, về những môn thể thao đồng đội. Cả một số môn không phải thể thao đồng đội, tuy nhiên chủ yếu là golf. Chẳng ai nói gì về tennis, môn Vetter chơi. Tất nhiên, Federer, Nadal... nhưng tennis đâu phải môn thể thao phiêu lưu, gay cấn. Chủ đề phụ nữ cũng ít xuất hiện, nhóm các quý ông này đều đã có tuổi.

    Vetter nhìn xung quanh mình, hướng ánh mắt qua những bức tường cửa sổ kính, ngẫm nghĩ về ấn tượng của ông đối với New York, vì thư ký và các cộng sự của ông ở nhà sẽ muốn biết ông nghĩ gì. Cho tới lúc này: thực sự bận rộn, thực sự giàu có, thực sự ồn ào, thực sự u ám - tuy bầu trời quang đãng. Như kiểu mặt trời biết người New York chẳng dùng đến nhiều ánh sáng.

    Cảm xúc lẫn lộn...

    Có cả một chút tội lỗi vì việc vui chơi giải trí. Ông dự định xem vở nhạc kịch Xấu xa, để xem nó có bằng được phiên bản biểu diễn ở Phoenix, và có lẽ sẽ xem Billy Elilott, để xem nó có thật tuyệt như đoạn phim quảng cáo không. Ông sẽ ăn tối ở Chinatown với hai giám đốc ngân hàng gặp hồi sáng, một người làm việc tại đây, một người từ Santa Fe.

    Có thể có một chút bội bạc trong toàn bộ cuộc tận hưởng này.

    Tất nhiên, Ruth hẳn sẽ không phiền lòng.

    Nhưng vẫn có cái cảm giác đó.

    Vetter cũng phải thừa nhận ông đang mang chút tâm trạng thiếu thoải mái. Công ty ông làm về xây dựng, chuyên các hạng mục cơ bản: nền, móng, lối lái xe vào nhà, đường đi bộ, không có gì hấp dẫn cả, nhưng cần thiết và ôi-thật-là-lời. Chuyện kinh doanh của ông tốt đẹp, nhanh chóng và đảm bảo đạo đức... trong một lĩnh vực mà những phẩm chất ấy không phải lúc nào cũng được bộc lộ đầy đủ. Tuy nhiên, công ty ông nhỏ, các công ty khác nằm trong liên doanh là các đối thủ lớn hơn. Họ khôn khéo hơn về mặt làm ăn và về luật lệ, tư pháp.

    Cuộc chuyện trò bên bàn ăn trưa kéo dài từ những cầu thủ đội Diamondback và đội Mets sang vấn đề tài sản thế chấp, lãi suất, các hệ thống công nghệ cao... Chúng khiến Vetter cảm thấy mông lung.

    Ông bất giác lại nhìn ra công trường lớn bên ngoài cửa sổ, cạnh khách sạn, một tòa văn phòng hoặc một tòa chung cư đồ sộ sẽ mọc lên.

    Trong lúc quan sát, ánh mắt ông bắt gặp một công nhân. Người công nhân này mặc một bộ đồng phục khác biệt - quần yếm màu xanh lam thẫm, mũ bảo hộ màu vàng - và vác trên vai cuộn cáp hay dây điện gì đó. Anh ta chui lên từ một cái cống gần khu vực phía sau công trường, đứng đấy nhìn xung quanh, mắt hấp háy. Anh ta rút chiếc điện thoại di động ra gọi. Rồi anh ta đóng điện thoại lại, thơ thẩn dọc công trường và, đáng lẽ rời khỏi công trường, anh ta lại đi về phía tòa nhà bên cạnh. Bộ dạng anh ta thoải mái, bước chân trông nhún nhảy. Rõ ràng anh ta thích thú với việc mình đang làm, cho dù là việc gì.

    Tất cả đều hết sức bình thường. Anh chàng trong bộ đồng phục màu xanh lam có thể là Vetter của ba mươi năm trước. Anh ta có thể là bất cứ công nhân nào của Vetter hiện nay.

    Vị doanh nhân bắt đầu thư giãn. Quang cảnh này khiến ông cảm thấy thoải mái hơn - quan sát gã trai trong bộ đồng phục màu xanh lam và những người khác trong những bộ đồng phục quần yếm, áo khoác hiệu Carhartt, tay cầm dụng cụ, vật liệu, đùa bỡn với nhau. Ông nghĩ tới công ty của chính ông và những con người ông cùng làm việc, những con người giống như những thành viên gia đình. Những công nhân da trắng lớn tuổi hơn, ít nói, gầy khẳng khiu, tất cả đều cháy nắng, trông như họ ngay khi được sinh ra là đã đứng trộn bê tông rồi, còn những công nhân mới vào nghề, gốc Latin, chuyện nổ như pháo rang, làm việc với độ chính xác cao hơn và niềm tự hào lớn hơn.

    Nó bảo Vetter rằng có lẽ New York và những con người ông đang giao thiệp quả có nhiều khía cạnh tương đồng với thế giới của ông, với những con người sống trong thế giới ấy.

    Thư giãn.

    Rồi ánh mắt ông dõi theo gã trai mặc bộ đồng phục quần yếm màu xanh lam và đội mũ bảo hộ màu vàng, anh ta biến mất vào tòa nhà nằm bên kia phố đối diện công trường xây dựng. Đó là một ngôi trường. Sam Vetter đế ý thấy các dòng thông báo dán trên cửa sổ.

    CUỘC THI MARATHON CÀ KHEO GÂY QUỸ

    MÙNG MỘT THÁNG NĂM

    HÃY THAM GIA GIÚP ĐỠ MỌI NGƯỜI!

    BỮA TỐI SINH VIÊN ĐẢO TRANG NAM NỮ.

    MÙNG BA THÁNG NĂM

    ĐĂNG KÝ BÂY GIỜ !

    KHOAKHOA HỌC TRÁI ĐẤT GIỚI THIỆU

    "NÚI LỬA: CẬN CẢNH VÀ KHÁM PHÁ CÁ NHÂN"

    TỪ 20/4-15/5 MIỄN PHÍ VÀ NGÙN NGỤT XÚC CẢM

    MỞ CỬA CHO TẤT CẢ MỌI NGƯỜI

    Ờ, Vetter bật cười thừa nhận, rốt cuộc có lẽ New York quả có chút khác Scottsdale.



  11. #30
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 33
    Rhyme tiếp tục xem xét chứng cứ, cố gắng một cách tuyệt vọng để tìm kiếm, giữa những mẩu kim loại, nhựa và bụi đất được thu thập về từ các hiện trường khác nhau, dường như không liên quan gì, một mối liên quan nào đó, nó sẽ bật một tia lửa trong trí tưởng tượng của anh và giúp Sachs xác định đúng nơi Galt đấu nối sợi cáp chết người với đường nước chạy xuyên khu Momingside Heights và khu Harlem.

    Nếu đó thực tế là việc gã đã làm.

    Bật một tia lửa trong trí tưởng tượng của anh... Anh kết luận rằng đó là sự lựa chọn từ ngữ khá dở.

    Sachs tiếp tục rà soát Công viên Momingside, tìm kiếm sợi dây điện chạy từ đường cáp truyền tải tới chỗ những đường ống dẫn nước. Rhyme biết cô sẽ cảm thấy bất an - không có cách nào để phát hiện ra sợi dây điện đó ngoài đến gần nó, để tìm ra vị trí nó được đấu nối với những đường ống dẫn nước. Anh nhớ lại âm sắc giọng nói của cô, ánh mắt trống rỗng của cô ngày hôm qua, khi cô mô tả những mảnh đạn do khẩu súng hồ quang bắn ra, xuyên chi chít trên thân thể Luis Martin.

    Hàng chục cảnh sát mặc đồng phục từ phân khu gần nhất đang sơ tán người khỏi Công viên Momingside và các tòa nhà lân cận khu vực thay đường ống dẫn nước. Nhưng dòng điện không thể theo một đương ống đúc bằng gang đi bất cứ đâu sao ? Nó chả lẽ không thể tạo một cung hồ quang trong căn bếp cách đấy một dặm ?

    Trong căn bếp của chính anh, nơi Thom hiện đang đứng trước bồn rửa ?

    Rhyme liếc nhìn đồng hồ trên màn hình máy tính. Nếu sau sáu mươi phút nữa họ không tìm thấy đường điện kia, họ sẽ có câu trả lời.

    Sachs gọi lại, "Chẳng tìm thấy gì, Rhyme. Có thể em nhầm lẫn. Và đã có lúc em nghĩ đường điện kia phải chạy ngang qua ga tàu điện ngầm. Nếu hắn bố trí để đánh vào một đoàn tàu thì sao ? Em sẽ phải rà soát cả chỗ đó."

    "Bọn anh vẫn giữ liên lạc với Algonquin qua điện thoại, cố gắng thu hẹp phạm vi điều tra, Sachs ạ. Anh sẽ gọi lại cho em." Rhyme hét hỏi Mel Cooper, "Có gì chưa ?"

    Người kỹ thuật viên đang trao đổi với một nhân viên giám sát thuộc trung tâm điều khiển Algongquin. Thực hiện mệnh lệnh của Andi Jessen, ông ta và thuộc cấp đang cố gắng phát hiện xem có sự dao động điện áp nào ở đoạn cụ thể nào trên đường dây hay không. Có thể phát hiện được các dao động này, vì cứ cách chừng trăm mét lại có các thiết bị cảm biến, để cảnh báo nếu trên chính đường dây truyền tải xảy ra rò rỉ, thất thoát điện. Có khả năng họ sẽ xác định được vị trí Galt đã đấu nối sợi cáp chết người.

    Nhưng Cooper nói, "Rất tiếc. Chưa có gì."

    Rhyme thoáng nhắm mắt. Cơn đau đầu anh phủ nhận lúc trước trở nên dữ dội hơn. Anh băn khoăn không biết nỗi đau đớn có còn đang hoành hành ở chỗ nào khác. Bệnh nhân liệt tứ chi luôn luôn thường trực nỗi băn khoăn này. Không cảm thấy đau đớn, người ta không bao giờ biết cái cơ thể bất trị tình hình ra sao. Một cái cây đổ xuống trong rừng, tất nhiên nó gây nên tiếng động, thậm chí nếu không có ai ở đó. Nhưng liệu nỗi đau đớn có lớn lên không, nếu người ta không cảm giác được ?

    Rhyme nhận ra rằng những suy nghĩ đó đố lộỉ dư vị bệnh tật, chết chóc. Anh cũng nhận ra rằng gần đây anh hay có những suy nghĩ tương tự. Anh không chắc chắn lý do tọỉ lao. Có điều anh chẳng thế rũ bỏ.

    Và, còn kỳ lạ hơn nữa, khác lúc đấu tranh với Thom bằng giờ này ngày hôm qua, Rhyme chẳng thèm một giọt rượu scotch nào. Cái ý nghĩ tới rượu hầu như chỉ đưa lại cảm giác ghê sợ.

    Điều này khiến anh bận tâm hơn cả cơn đau đầu.

    Ánh mắt anh lướt qua bảng chứng cứ, nhưng những dòng chữ cứ vuột đi như thể chúng được viết bằng một ngoại ngữ khi xưa anh từng học ở trường và nhiều năm nay không sử dụng đến. Rồi ánh mắt anh dừng lại trên tấm bảng lần nữa, mường tượng ra dòng chảy bắt đầu từ nhà máy phát điện, được truyền đi, truyền đi, và vào mỗi nhà. Với mức điện áp giảm dần.

    138.000 volt...

    Rhyme bảo Mel Cooper gọi cho Sommers ở Algonquin.

    "Bộ phận các Dự án Đặc biệt nghe đây."

    "Anh là Charlie Sommers ?"

    "Phải."

    "Tôi là Lincoln Rhyme. Tôi làm việc với Amelia Sachs."

    "Ồ, vâng. Cô ấy có nhắc tới anh", Giọng Sommers khẽ khàng. "Tôi nghe nói thủ phạm là Ray Galt, một trong số các nhân viên của chúng tôi. Có đúng như vậy không ?"

    "Có vẻ đúng như vậy. Anh Sommers..." "Này, cứ gọi tôi là Charlie. Tôi cảm thấy mình như một cảnh sát danh dự".

    "Được rồi, Charlie, ngay bây giờ anh cóđang theo dõi diễnbiến củasự việc không ?”

    "Tôi cóhệ thống lướiđiệntrênmàn hình laplop trước mặt đây. Andi Jessen chủ tịch của chúng tôi, yêu cầu tôi giám sát tình hình"

    "Bao lâu nữa thì họ khôi phục được. Cái gì nhì ? Cái bảng phân phối trong trạm điện bị cháy ấy ?"

    "Hai ba tiếng đồng hồ gì đó. Đường truyền tải đằng ấy vẫn đang mất kiểm soát. Chúng tôi không có cách nào cắt điện đường truyền tải nàyngoài cách cắt điện phần lớn thành phố New York... Anh muốn tôi giúp đỡ điều gì ?"

    "Vâng, tôi cần biết thêm về hồ quang điện, có vẻ như Galt đã đấu nối vào một đường truyền tải và đưa đường dây của hắn đến hệ thốngống dẫn nước, rồi…”

    "Nhưng tại sao anh hỏi về hồ quang điện ?" Sommers thắc mắc.

    Rhyme nói với vẻ lơ đãng, "Galt sẽ sử dụng nó để giết người, trong chưa đầy một tiếng đồng hồ nữa."

    "Ồ, bứcthư yêu sách của Galt có nói gì về việc phóng tia lửa điện không ?”

    Rhyme nhận ra rằng bức thư không nói gì. "Không."

    "Vậy anh chỉ đang giả thiết đó là việc hắn sẽ làm." Rhyme ghét cái từ "giả thiết" và tất cả các biến thể của nó. Anhđiên tiết với chính bản thân mình, băn khoăn không biết liệu họ đã bỏ qua điều gì quan trọng. "Tiếp tục đi, Charlie"

    "Hồ quang là cảnh tượng ngoạn mục, nhưng cũng là một trong những cách sử dụng điện làm vũ khí ít hiệu quả nhất. Ta không kiểm soát nó nghiêm ngặt và sẽ không bao giờ chắc chắn nó sẽ kết thúc ở đâu. Hãy xem vụ việc sáng hôm qua, tôi cá là Galt định nhằm vào cả chiếc xe buýt và hắn đã trượt... Anh muốn biết tôi sẽ giết người bằng điện theo cách nào không ?"

    Lincoln Rhyme vội vã đáp, "Có, tôi rất muốn." Và nghiêng đầu về phía điện thoại lắng nghe với sự tập trung hoàn toàn.

    Chương 34
    Thomas Edison là người khởi đầu hệ thống đường dây tải điện trên không, với những cây cột điện xấu xí, ở New Jersey, năm 1883, nhưng lưới điện đầu tiên lại chạy ngầm bên dưới các con phố khu Hạ Manhattan, xuất phát từ trạm phát điện của ông trên phố Pearl. Ông có tất thảy năm mươi chín khách hàng.

    Một số thợ đặt đường dây ghét cái lưới điện ngầm dưới đất đó - cái lưới điện tăm tối, như đôi lúc người ta gọi - nhưng Joey Barzan thì mê công việc dưới ấy. Anh ta mới vào Điện lực Algonquin được vài năm, tuy nhiên đã ở trong ngành này mười năm rồi, kể từ khi anh ta bắt đầu đi làm năm mười tám tuổi. Trước đây, anh ta làm việc trong lĩnh vực xây dựng tư nhân, từ một thợ học nghề vươn lên trở thành thợ lành nghề. Anh ta có nghĩ tới chuyện tiếp tục vươn lên trở thành thợ cả, một ngày nào đó anh ta sẽ đạt được điều này, nhưng bây giờ thì anh ta thích làm việc cho một công ty lớn.

    Và liệu anh ta có thể tìm ra công ty nào lớn hơn Liên hợp Algonquin, một trong những công ty hàng đầu đất nước ?

    Nửa tiếng đồng hồ trước, Barzan và người đồng nghiệp của mình đã nghe nhân viên khắc phục sự cố ở khu vực họ làm việc thông báo qua điện thoại rằng có sự dao động kỳ lạ trên đường điện cung cấp tới một hệ thống tàu điện ngầm gần phố Wall.

    Thiết bị đánh giá ở một trạm điện gần đó thuộc Cơ quan Giao thông đô thị báo cáo có hiện tượng sụt điện áp trong khoảng thời gian một giây. Không đủ để gây ra bất cứ gián đoạn nào cho hoạt động của các chuyến tàu nhưng đủ để gây lo lắng - liên hệ tới vụ việc xảy ra tại bến xe buýt ngày hôm qua.

    Và, mẹ kiếp, một nhân viên Algonquin chính là kẻ đứng đằng sau vụ việc đó. Ray Galt, nhân viên khắc phục sự cố cấp cao làm việc bên quận Queens.

    Barzan từng chứng kiến hồ quang điện - tất cả những ai làm việc trong ngành đều đã từng, chẳng lần này thì lần khác - và quang cảnh ngoạn mục của tia chớp cháy sáng lòa, vụ nổ, tiếng rền đáng sợ, tất cả đủ khiến anh ta tự hứa với chính bản thân mình không bao giờ thử liều lĩnh với điện. Găng tay và giày cao cổ bảo hộ cá nhân, sào thao tác, không động đến các vật kim loại. Nhiều người nghĩ họ có thể suy nghĩ nhanh hơn điện.

    Chà, họ không thể đâu. Và họ cũng không thể chạy nhanh hơn điện.

    Lúc nàyngười đồng nghiệp vừa lên trên mặt đất - Barzan đang tìm kiếmnguyên nhân có thể đã gây sụt điện áp. Dưới này, mát mẻ và vắng tanh vắng ngắt, nhưng không yên tĩnh. Các loại động cơ kêu ầm ầm và những chuyến tàu điện ngầm gây ra những cơn rung như động đất. Phải, anh ta thích dưới này, ở giữa những đường cáp, mùi chất cách điện bị làm nóng, mùi cao su, mùi dầu. Thành phố New York là một con tàu, với cấu trúc tầng dưới rắc rối, phức tạp chẳng kém tầng trên, và anh ta thông thạo tất cả các boong y như thông thạo nơi anh ta đang sinh sống bên quận Bronx vậy.

    Barzan không thể xác định được nguyên nhân gây ra dao động điện áp. Dường như tất cả các đường dây của Algonquin đều bình thường. Có lẽ...

    Anh ta ngừng lại, trông thấy cái gì đó khiến anh ta tò mò.

    Cái gì vậy ? Anh ta băn khoăn tự hỏi. Giống như mọi thợ đặt đường dây, dù trên mặt đất hay dưới lưới điện tăm tối, anh ta nắmrõ về lành thổ của mình và ở đầu đường hầm lờ mờ sáng kia có gì đó không ổn: Một sợi cáp được đấu nối trông không có lý gì cả với một trong những bảng aptomat cấp điện cho hệ thống tàu điện ngầm. Và, đáng lẽ chạy xuống dưới đất, để gặp tàu, thì sợi cáp này lại chạy lên, ngang qua trần đường hầm. Nó được đấu nối rất đẹp - người ta đánh giá kỹ năng của một thợ đặt đường dây bằng cách nhìn những chỗ đấu nối - thế tức là một đối tượng chuyên nghiệp đã làm việc này. Nhưng ai ? Và tại sao ?

    Barzan đứng lên và bắt đầu đi theo sợi cáp.

    Rồi hoảng sợ há hốc miệng. Một công nhân Algonquin khác đang đứng trong đường hầm. Người đó thậm chí còn có vẻ ngạc nhiên hơn khi bất ngờ gặp phải người khác. Trong ánh sáng lờ mờ, Barzan không nhận ra anh ta.

    "Xin chào." Barzan gật đầu. Không bắt tay. Họ đang đeo găng tay bảo hộ cá nhân, dày cộp - đủ để làm việc trên đường dây có điện, miễn là các phần còn lại của cơ thể cũng được cách điện.

    Người kia chớp mắt, lau mồ hôi. "Không nghĩ có ai dưới này".

    "Tôi cũng vậy. Anh nghe nói tới việc dao động điện áp chứ ?

    "Có." Người kia nói gì đó nữa nhưng Barzan không thực sự để ý. Anh ta vừa băn khoăn tự hỏi người kia chính xác đang làm gì vừa nhìn vào laptop của gã - tất nhiên, mọi thợ đặt đường dây đều sử dụng laptop, tất cả những diễn biến trên lưới điện đều được đưa vào máy tính. Nhưng người kia đang không kiểm tra mức điện áp hay tình trạng thiết bị đóng cắt. Trên màn hình là một cửa sổ video. Nó trông có vẻ như một công trường xây đựng ở khá cao bên trên đầu họ. Giống hình ảnh do camera an ninh quay với độ phân giải tốt

    Và rồi Barzan liếc mắt qua phù hiệu của người công nhân Algonquin.

    Ôi, mẹ kiếp.

    Raymond Galt, nhân viên điều hành dịch vụ kỹ thuật cấp cao.

    Barzan cảm thấy hơi thở xì ra khỏi phổi, nhớ lại lúc sáng người kỹ sư giám sát vừa gọi điện cho tất cả các thợ đặt đường dây, thông báo về Galt và về việc gã đã làm.

    Anh ta lúc bấy giờ mới nhận ra rằng sợi cáp được đấu nối kia là để tạo một vụ nổ hồ quang khác.

    Hãy bình tĩnh, anh ta tự nhủ thầm. Dưới này khá tối và Galt không trông thấy nét mặt anh ta rõ ràng được, gã có thể không nhận ra phản ứng ngạc nhiên của Barzan. Và công ty cũng như cảnh sát chỉ vừa mới phát thông báo. Biết đâu Galt đã ở dưới này từ vài tiếng đồng hồ trước, chưa biết cảnh sát đang tìm kiếm mình.

    "Chà, đã đến giờ ăn trưa. Tôi đói chết đi được." Barzan vỗ vỗ bụng, rồi kết luận rằng hành động đó quá cường điệu. "Tôi phải lên trên thôi. Kẻo người cùng cặp với tôi không biết tôi đang làm gì dưới này !"

    "Này, cẩn thận nhé." Galt nói và lại xem xét máy tính.

    Barzan cũng quay bước về phía cửa ra gần nhất, ngộp thở vì sự thôi thúc hãy bỏ chạy.

    Anh ta nhanh chóng nhận ra rằng mình đáng lẽ phải đầu hàng sự thôi thúc này.

    Ngay khoảnh khắc Barzan quay đi, anh ta cảm thấy ở đằng sau, Galt vội vã cúi xuống, cầm lên một vật.

    Barzan bắt đầu chạy nhưng Galt thậm chí còn mau lẹ hơn, và, liếc lại đằng sau, Barzan chỉ thoáng thấy cây sào thao tác nặng, làm bằng sợi thủy tinh của thợ đặt đường dây, vung lên giáng mạnh vào chiếc mũ bảo hộ lao động anh ta đội. Cú giáng khiến anh ta choáng váng, ngã xuống cái sàn bẩn thỉu.

    Anh ta trân trân nhìn đường dây tải dòng điện 138.000 volt, cách mặt anh ta mười lăm centimet, khi cây sào một lần nữa giáng xuống.




    Chương 35
    Amelia Sachs đang làm công việc mà cô làm tốt nhất.

    Có thể cũng chẳng phải tốt nhất.

    Nhưng là công việc cô yêu thích nhất. Công việc khiến cô cảm thấy tràn đầy sức sống nhất.

    Lái xe.

    Bắt khối kim loại hoạt động hết sức mình, lao vun vút dọc các con phốdường như là các tuyến đường bất khả, ngắm nghía cảnh giao thông đông đúc người và xe. Len lỏi, phanh kin kít. Khi cho xe phóng nhanh, không phải là người ta đi từ từ, cũng không phải là người ta nhảy múa, mà người ta chạy rầm rầm, chạy sầm sập, xóc nảy lên bần bật, va xuống ầm ầm.

    Những chiếc xe này được gọi là xe "cơ bắp" cũng có lý do của nó.

    Mẩu Ford 1970 428 Torino Cobra, thừa hưởng thiết kế của mẫu Fairlane, công suất bốn trăm linh năm mã lực. Tất nhiên, Sachs có thể sử dụng hộp số bốn cấp khi cô cần chạy với tốc độ lớn. Chiếc xe chắc chắn và bám đường, nếu không vận hành đúng cách sẽ hay phải sửa chữa, có thể bao gồm cả việc thay bánh răng hộp số. Nó khác những chiếc xe hộp số sáu cấp khoan dung dành cho những doanh nhân ở tuổi khủng hoảng nửa đời người, không lúc nào rời tai nghe Bluetooth và đầu đầy ắp các cuộc hẹn ăn tối.

    Chiếc Cobra kêu ro ro, gầm gừ, rít lên the thé, nó có rất nhiều giọng.

    Sachs cảm thấy căng thẳng. Cô nhấn còi, nhưng trước khi làn sóng âm thanh kịp tới tai người lái xe lười biếng đang định chuyển làn mà chẳng thèm ngó nghiêng gì thì cô đã vượt anh ta.

    Sachs thừa nhận cô nhớ chiếc xe gần đây nhất của mình, một chiếc Chevy Camaro ss, chiếc xe cô và cha cô đã cùng nhau sửa chữa, nâng cấp. Nó trở thành nạn nhân của thủ phạm một vụ án cô mới tham gia giải quyết. Nhưng cha cô từng nhắc nhở cô rằng việc đặt con người mình quá nhiều vào một chiếc xe là điều không nên. Nó là một phần con người ta, tuy nhiên nó chẳng phải là con người ta. Và nó chẳng phải đứa con của ta hay người bạn thân thiết của ta. Trục khuỷu, bánh xe, xi lanh, trống phanh, các chi tiết điện tử phức tạp, chúng có thể trở nên thờ ơ, uể oải, chơi ta không biết đâu mà lường. Chúng có thể phản bội và hại chết ta, nếu nghĩ cái khối thép, nhựa, đồng đỏ và nhôm đó biết quan tâm đến ta, thì ta đã nhầm.

    Amie, một chiếc xe chỉ có thứ tâm hồn mà con đặt vào nó. Không hơn không kém. Đừng bao giờ quên điều đấy con ạ.

    Bởi vậy, ừ, cô đã, và sẽ luôn luôn, nuối tiếc vì mất chiếc Camaro. Nhưng hiện tại cô đang lái một chiếc xe ngon nghẻ, phù hợp với cô. Và được trang trí hơi cọc cạch bằng logo của chiếc Camaro. Đó coi như là quà Pammy tặng, cô bé đã kính cẩn gỡ nó ra từ xác chiếc Chevy để Sachs gắn lên chiếc Ford.

    Đạp phanh khi tới trước ngã tư, cùng lúc đạp cả phanh lẫn ga để trả số khi xe đang chạy với tốc độ cao, nhìn bên trái, nhìn bên phải, nhả côn, lại lao vút đi ngay. Công tơ mét chỉ năm mươi dặm. Rồi sáu mươi, bảy mươi. Đèn hiệu màu xanh lơ trên bảng đồng hồ, mà cô thậm chí hầu như chưa bao giờ trông thấy, nhấp nháy tựa trái tim co bóp gấp gáp.

    Sachs lúc này ở trên cao tốc Bờ tây sông Hudson, tức tuyến 9A, đã bỏ lại phía sau đoạn đại lộ Henry Hudson chuyển thành cao tốc Bờ tây sông Hudson vài dặm. Xuôi theo hướng nam, cô phóng vùn vụt qua những khung cảnh quen thuộc, đường băng lên thẳng, Công viên Sông Hudson, những bến thuyền buồm, lối vào chằng chịt trước đường hầmHolland. Rồi khi các văn phòng của khu trung tâm tài chính xuất hiện bên tay phải, cô lướt xe qua công trường xây dựng khổng lồ, nơi từng sừng sững hai tòa tháp đôi, và thậm chí trong thời điểm điên cuồng này vẫn ý thức được rằng nếu ở đâu mà sự trống trải có thể hắt bóng xuống thì chính là ở đây.

    Một cú trượt bánh có kiểm soát đưa chiếc Cobra ngoặt sang Bettery Place, và Sachs lao vèo về phía đông, đi vào những con phố như mê cung của Hạ Manhattan.

    Cô đang đeo tai nghe, một tiếng cách làm gián đoạn sự tập trung của cô khi cô vừa trượt xe vèo qua hai chiếc taxi và kịp nhận ra nét mặt bàng hoàng bên dưới vành khăn xếp đội đầu của tay tài xế người Sikh.

    "Sachs !"

    "Gì vậy, Rhyme ?"

    "Em đến đâu rồi ?"

    "Sắp sửa đến đấy rồi."

    Sachs mài mòn tất cả bốn bánh xe khi cô thực hiện một cú xoay chín mươi độ chen chiếc Ford vào giữa vỉa hè và những chiếc xe khác, một kim không bao giờ chỉ dưới con số 45, còn kim kia không bao giờ chỉ dưới con số 5.000.

    Cô đang nhằm hướng phố WhiteWall. Phố này nằm gần phố Stone. Rhyme đã trao đổi với Charlie Sommers, và đạt được những kết quả bất ngờ. Người phụ trách bộ phận các Dự án Đặc biệt phán đoán rằng Galt có lẽ sẽ thử một cái gì đó khác, không phải một vụ nổ hồ quang. Sommers cuộc là Galt sẽ chỉ cho một khu vực công cộng nhiễm điện, mạnh đủ để sát hại người qua lại. Gã sẽ biến họ trở thành một phần của mạch điện, khiến dòng điện chạy qua cơ thể họ bằng cách nào đấy. Theo Sommers, như thế dễ dàng hơn, hiệu quả hơn, lại chỉ cần điện áp thấp hơn rất nhiều.

    Rhyme đã kết luận rằng đám cháy tại trạm điện khu Uptown là chiêu đánh lạc hướng, để họ không tập trung chú ý vào địa điểm tấn công thực sự của Galt: chắc hẳn ở khu Downtown. Anh đã xem xét danh sách các triển lãm liên quan đến dung nham và núi lửa, tìm thấy một triển lãm cách xa khu Harlem nhất, nơi tất cả mọi người đang dồn ánh mắt vào: Trường cao đẳng cộng đồng Amsterdam. Nó là trường chuyên đào tạo kỹ năng văn phòng và cấp bằng cao đẳng cho các ngành nghề kinh doanh. Nhưng khoa nghệ thuật tự do đang tổ chức triển lãm về quá trình hình thành địa chất, bao gồm cả triển lãm về núi lửa.

    "Em đây, Rhyme." Sachs phanh kít chiếc Torino phía trước ngôi trường, để lại hai vệt bánh xe như hai cái đuôi màu đen trên nền đường trải nhựa màu xám. Cô ra khỏi xe khi khói bốc lên từ hốc lốp chưa tan hết. Mùi khét khiến cô rùng mình nhớ tới trạm MH-10 của Algonquin... Và tuy cô cố gắng lảng tránh, nhưng hình ảnh những chấm tròn nửa đen nửa đỏ trên thân thể Luis Martin vẫn quay lại. Khi cô rảo bước về phía cổng trường, có một lần cô cảm thấy biết ơn cơn đau khớp dội lên ở đầu gối, nó phần nào đã làm cô phân tán tư tưởng khỏi ký ức rất không dễ chịu.

    "Em đang quan sát chỗ này, Rhyme. Nó lớn. Lớn hơn em tưởng." Sachs sẽ không khám nghiệm hiện trường nên cô không sử dụng liên kết video.

    "Em còn mười tám phút trước khi thời hạn kết thúc."

    Cô quét ánh mắt qua ngôi trường cao sáu tầng mà các giáo sư, sinh viên và nhân viên đang vội vã rời khỏi, với nét mặt lo lắng. Tucker McDaniel và Lon Setllitto đã quyết định sơ tán địa điểm này. Mọi người hấp tấp đi ra, ôm lấy ví tiền, máy tính, sách vở, di chuyển ra xa tòa nhà. Khi đi ra, hầu như mỗi người đều có một lúc ngẩng nhìn lên trên trời.

    Luôn luôn là như vậy, trong cái thế giới hậu 11/9 ngẩng nhìn lên trên trời.

    Một chiếc xe nữa xuất hiện, và một phụ nữ mặc bộ vét tối màu bước xuống xe. Đó là một thám tử đồng nghiệp, Nancy Simpson. Chị ta đi nhanh tới chỗ Sachs.

    "Chúng ta có thông tin gì rồi, Amelia ?"

    "Chúng tôi cho rằng Galt đã giăng cái bẫy nào đó trong trường. Chúng tôi chưa biết cụ thể là gì. Tôi sẽ vào tìm kiếm. Chị có thể phỏng vấn họ được không ?" Sachs hất đầu về phía những người đang được gấp rút sơ tán. "Xem có ai trước đó đã bắt gặp Galt không. Chị mang theo ảnh hắn chứ ?"

    "Trong PDAcủa tôi đây."

    Sachs gật đầu và quay sang nhìn phía trước ngôi trường lần nữa, không chắc chắn nên tiếp tục ra sao, nhớ lại những gì Sommers đã nói. Cô biết những vị trí hay được đặt bom, những vị trí mà một tay súng bắn tỉa có thể phục kích. Nhưng mối đe dọa từ điện sẽ xuất hiện ở bất cứ chỗ nào.

    Cô hỏi Rhyme, "Chính xác Charlie bảo Galt có thể đã bố trí cái bẫy như thế nào ?"

    "Cách hiệu quả nhất là sử dụng nạn nhân làm một thứ công tắc. Hắn sẽ đấu dây nóng với tay nắm cửa hay lan can cầu thang, và đấu dây nguội với sàn nhà. Hoặc sàn nhà hoàn toàn có thể trở thành điểm nối đất tự nhiên nếu nó bị ướt. Trước khi nạn nhân sờ vào tay nắm cửa hay lan can cầu thang, mạch điện là mạch hở. Khi nạn nhân sờ vào rồi, mạch điện sẽ khép kín, dòng điện sẽ chạy qua cơ thể. Một cách khác là làm sao cho người ta sờ cả hai tay vào dây nóng. Sẽ có dòng điện đủ mạnh chạy qua lồng ngực khiến tim ngừng đập vĩnh viễn. Nhưng cách ấy không hiệu quả bằng."

    Hiệu quả... một từ ngữ đáng sợ khi sử dụng trong những hoàn cảnh như thế này.

    Còi hụ nổi lên đằng sau Sachs. Cứu hỏa, Đơn vị Phản ứng nhanh Sở Cảnh sát New York và nhân viên y tế bắt đầu tới.

    Cô vẫy tay chào Bo Haumann, người phụ trách Đơn vị Phản ứng nhanh, một cựu trung úy huấn luyện rắn rỏi, tóc hoa râm. Ông ta gật đầu chào lại, sau đó bắt đầu triển khai quân của mình giúp đỡ mọi người sơ tán đến địa điểm an toàn, hình thành những nhóm tác chiến, lục soát khắp khu vực tìm kiếm Raymond Galt và bất cứ kẻ tòng phạm nào.

    Lưỡng lự, rồi đẩy ô kính trên cánh cửa chứ không sờ vào tay nắm kim loại, Sachs bước vào sảnh chính của ngôi trường, ngược chiều với đám đông. Cô muốn hét to lên bảo mọi người đừng sờ vào bất cứ vật gì bằng kim loại, nhưng sợ rằng làm thế sẽ khiến mọi người đâm hoang mang, nhỡ vì xô đẩy nhau mà dẫn đến thương vong. Hơn nữa, họ vẫn còn mười lăm phút nữa.

    Bên trong, có vô số các chi nết kim loại, lan can, bậc cầu thang, nắm đấm cửa, tấm ốp sàn. Nhưng chẳng hiển hiện dấu vết nào về việc chúng bị hay không bị đấu với dây điện.

    "Em không biết, Rhyme." Sachs nói thiếu chắc chắn. "Tất nhiên là có kim loại. Nhưng phần lớn diện tích sàn được trải thảm hoặc trải vải nhựa. Những chất liệu đó dẫn điện kém."

    Hắn sẽ nhen một ngọn lửa và đốt cháy ngôi trường chăng ?

    Mười ba phút.

    "Tiếp tục tìm kiếm đi, Sachs."

    Cô cố gắng sử dụng thiết bị phát hiện điện áp không cần tiếp xúc của Charlie Sommers, thi thoảng nó có hiển thị điện áp nhưng cũng chỉ là mức điện áp dân dụng. Và nguồn điện không ở các chỗ dễ dàng gây thương vong nhất.

    Quamộtô cửa sổ, cô bắt gặp ánh đèn màu vàng nhấp nháy, nólà chiếcxe tảicủa liên hợp Algonquin, thành xe gắn tấm biểnđề: Bảo dưỡng khẩn cấp. Cônhận ra hai trong số bốn người ngồi trênxe: BernieWahl, giámđốcanninh, và Bob Cavanaugh, phó chủ tịchđiều hành côngviệc hằng ngày. Họ chạy về phía một nhóm sĩ quan, trong đó có Nancy Simpson.

    Chính lúc Sachs đang quan sát ba người này qua ô kính cửa sổ thì cô để ý thấy bêncạnh ngôi trường là cái gì. Một công trường xây dựng nơi công nhân hoàn thiện một tòa nhà cao ngất ngưởng. Họ đang làmviệcvới cácchitiếtbằng sắt thép, thép bu lông và hàn rầm.

    Cô ngoảnh lại phía sảnh trường, nhưng bất chợt cảm thấy như bị một nhát búa giáng vào đầu. Cô lảo đảo quay người, nhìn trân trối sang công trường xây dựng.

    Kim loại. Toàn bộ tòa nhà là kim loại.

    "Rhyme." Sachs cất giọng khe khẽ. "Em không nghĩ ngôi trường này là mục tiêu".

    "Em muốn nói gì ?"

    Cô giải thích.

    "Thép... Chắc chắn rồi, Sachs, có lý lắm. Cố gắng đưa công nhân xuống đi. Anh sẽ gọi cho Lon và bảo anh ấy phối hợp với Đơn vị Phán ứng nhanh."

    Cô xô cho cánh cửa mở ra, chạy về phía gian nhà lưu động được sử dụng làm văn phòng tổng công trình sư của tòa nhà đang xây. Côngướcnhìn hai mươi, hai lăm tấm kim loại sắp sửa trở thành một dây nóng, trên đó không chừng có tới hai trăm công nhânđang làmviệc và chỉ đếm thấy hai thang máy nhỏ để đưa họ xuống tới nơi an toàn.

    Còn mười phút nữa là một giờ chiều.


Trang 3 / 6 ĐầuĐầu 12345 ... Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-24-2015, 11:41 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •