Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Muốn biết thế nào là tình yêu thì phải biết sống cho kẻ khác. Sống cho kẻ khác tức là yêu.
Godwin
Trang 1 / 3 123 Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 25

Chủ Đề: Bí Mật Quả Chuông

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Bí Mật Quả Chuông


    Bí Mật Quả Chuông

    Tác giả :Robert Van Gulik

    Nguyên tác : The Chinese Bell Murders

    Dịch giả : Phước Lộc




    MỤC LỤC [−]

    1. Một Kẻ Hiếu Kỳ Trở Thành Nạn Nhân Của Một Biến Cố Kỳ Lạ
    2. Địch Công Ý Kiến Về Vụ Án Hiếp Dâm, Giết Người Tại Phố Bán Nguyệt
    3. Địch Công Mở Phiên Toà Đầu Tiên Tại Phổ Dương;
    4. Một Khoá Sinh Nghe Lời Buộc Tội Trước Toà
    5. Tào Can Đến Lễ Bái Tại Một Ngôi Chùa
    6. Một Phụ Nữ Lớn Tuổi Từ Quảng Đông Báo Một Nỗi Oan Ức Khủng Khiếp
    7. Mã Tông Phát Hiện Ra Một Ngôi Đền Đạo Lão Vắng Vẻ
    8. Địch Công Quyết Định Đi Thăm Các Đồng Nghiệp
    9. Hai Nhà Sư Đến Thăm Quan Án Với Một Thông Điệp Quan Trọng
    10. Tào Can Hỏi Người Trương Tuần Về Các Việc Trong Quá Khứ
    11. Một Người Lạ Mặt Xen Vào Cuộc Hỗn Chiến
    12. Hai Đạo Hữu Thảo Luận Một Học Thuyết Tại Quán Trà
    13. Địch Công Xử Vụ Án Phố Bán Nguyệt
    14. Địch Công Kể Lại Nguồn Gốc Của Mối Thù
    15. Quan Án Đến Thăm Một Quý Ông Quảng Đông
    16. Một Thương Gia Giàu Có Được Tiếp Đón Tại Hội Trường
    17. Cuộc Viếng Thăm Lạ Lùng Tại Ngôi Chùa Lúc Rạng Đông
    18. Một Cô Gái Xinh Đẹp Mang Lại Những Bằng Chứng Đáng Ngạc Nhiên
    19. Địch Công Đưa Ra Cảnh Báo Nghiêm Khắc Cho Người Dân
    20. Một Ngôi Đền Đạo Lão Bỏ Hoang Đặt Ra Nhiều Vấn Đề Gây Tranh Cãi
    21. Quan Án Và Bốn Phụ Tá Bị Rơi Vào Một Cái Bẫy Lạ Lùng
    22. Người Quản Lý Lưu Trữ Kể Ra Một Câu Chuyện Cũ
    23. Một Cuộc Tìm Kiếm Kỹ Lưỡng Tại Thư Viện
    24. Một Tên Tội Phạm Quỷ Quyệt Bị Bắt Bởi Một Mưu Kế Thông Minh
    25. Hai Tên Tội Phạm Bị Hành Quyết Trước Cổng Thành Phía Nam



    Năm 668 khi Địch Nhân Kiệt đến trấn nhậm tại Phổ Dương, một thành phố nhỏ nằm cạnh sông Hoàng Hà thuộc tỉnh Giang Tô. Cứ tưởng rằng ngài sẽ có những ngày tháng yên bình sau biến cố khủng khiếp trong vụ án " Vụ giết người trên chiếc thuyền hoa" tại Hán Dương. Tuy nhiên khi vừa mới nhận nhiệm sở mới thì ngài đối mặt với vụ án giết người, hiếp dâm tại phố Bán Nguyệt. Hung thủ bị kết tội là một chàng thư sinh trói gà không chặt đã tạo nên mối nghi ngờ nơi quan án sát.

    Cùng lúc đó tin đồn về một ngôi chùa Phật giáo nơi có bức tượng Phật bà quan âm linh thiêng sẽ giúp cho những phụ nữ hiếm muộn có con nhưng cùng với nó là những lời đồn đãi của dân chúng về lối sống xa hoa, sự giàu có không thể lý giải được của những tu sĩ tại chùa. Đâu là sự thật của vấn đề này ?

    Một bà già đến công đường để kiện về một mối thù truyền kiếp giữa hai gia đình Lương - Lâm và những oan khuất mà bà phải gánh chịu từ đó đến nay. Ai là thủ phạm của tất cả những tội ác này.

    Tất cả những điều này sẽ được giải đáp trong truyện " Bí mật quả chuông " của tác giả Robert Van Gulik.



    Chương 1

    Một kẻ hiếu kỳ trở thành nạn nhân của một biến cố kỳ lạ
    Địch công bắt đầu nhiệm vụ quan huyện tại Phổ Dương
    Sáu năm đã trôi qua kể từ ngày tôi bỏ nghề buôn trà thịnh vượng do cha tôi truyền lại để về sống tại trang viên của gia đình tôi ở bên ngoài cổng thành phía Đông. Tại nơi ẩn cư yên tĩnh này, cuối cùng tôi đã có thể chuyên tâm vào trò tiêu khiển yêu thích của mình: sưu tập những vật lạ đã từng đóng một vai trò trong lịch sử khoa hình sự.

    Nhưng triều đại nhà Minh rạng rỡ của chúng ta đang là một triều đại trật tự và thanh bình, cho nên hiện tại rất hiếm có những hành vi bạo lực. Do đó, để tìm thấy những vụ án bí ẩn được các quan toà sáng suốt giải quyết một cách tài tình, tôi đã phải lục tìm về quá khứ. Công việc tìm kiếm say mê đã cho phép tôi tập hợp được một bộ sưu tập đáng chú ý gồm các đồ vật có liên quan đến những vụ án nổi tiếng: Một hung khí đã được dùng để tiến hành một vụ ám sát ghê sợ nào đó, một vật dụng của một kẻ chuyên trộm cổ vật đã dùng ngày nào và biết bao những vật lạ khác đại loại như vậy.

    Một trong những vật quý báu nhất của tôi là mảnh gỗ mun có hình dáng thuôn dài trên đó có khắc bài thơ tứ tuyệt sau:

    "Quan án phải như phụ mẫu muôn dân

    Coi sóc dân lành, giúp người già yếu

    Nếu có phải trừng phạt nghiêm minh,

    Thì nỗi lo chính của Người vẫn là ngăn ngừa điều xấu."

    Và những tài liệu lưu trữ cũ xác minh rằng quan án Địch Nhân Kiệt đã sử dụng chiếc búa gỗ này để điều khiển phiên toà, còn bài thơ đó có nhiệm vụ luôn luôn nhắc nhở ngài nghĩ về nghĩa vụ thiêng liêng của mình với nước với dân.

    Tôi trích bài thơ trên dựa vào trí nhớ chứ cái di vật ấy thì tôi không còn giữ nữa. Biến cố khủng khiếp xảy ra với tôi cách đây hai tháng vào mùa hè vừa qua đã buộc tôi phải từ bỏ hoàn toàn công việc nghiên cứu tội phạm học, và tôi ngờ rằng tất cả mọi vật trong bộ sưu tập của tôi là có liên quan đến những tội ác đẫm máu thời xa xưa. Hiện nay, tôi bắt đầu sưu tập đồ sứ men ngọc; và cái trò tiêu khiển yên tĩnh này phù hợp hơn nhiều với bản tính ôn hoà của tôi.

    Tuy nhiên, tôi vẫn còn phải làm cho xong một việc trước khi có thể sống thanh thản: tôi phải làm sao rũ bỏ được hoàn toàn những nỗi ám ảnh vẫn thường quấy rầy giấc ngủ của tôi. Và cách duy nhất giúp tôi thoát khỏi những cơn ác mộng ấy là tôi phải viết ra giấy kể lại những điều bí mật lạ lùng mà tôi đã phát hiện ra một cách thật là đặc biệt. Chỉ khi đó tôi mới có thể vĩnh viễn quên đi cái biến cố khó chịu đã làm cho tôi suýt phát điên lên.



    Cuối cùng, vào buổi sáng mùa thu đẹp trời như sáng hôm nay, khi ngồi trong căn phòng lịch sự ngoài vườn hoa và khoan khoái ngắm nhìn vẻ duyên dáng của hai nàng hầu đang đưa những ngón tay thon dài hối hả sửa sang những cây hoa cúc, tôi mới dám hồi tưởng lại những sự kiện xảy ra vào cái ngày khủng khiếp ấy.

    Hôm ấy là ngày mồng chín tháng tám âm lịch, một ngày đã khắc sâu mãi mãi trong kí ức tôi. Trời về chiều làm cho cái nóng trở nên khó chịu. Tôi cảm thấy bực dọc và quyết định sai gia nhân rước kiệu đi dạo. Khi gia nhân hỏi tôi muốn đi đâu, tôi trả lời không cần suy nghĩ là đi thăm cửa hiệu đồ cổ của ông Liễu.

    "Rồng Vàng" là tên của một cửa hiệu bán đồ cổ mở ngay trước cổng đền thờ Khổng Tử. Chủ cửa hiệu, ông Liễu, là một người láu lỉnh, hám của, nhưng ông biết nghề của mình và thường tìm được cho tôi những đồ mỹ nghệ thú vị được coi là đã từng có một vai trò nho nhỏ trong những câu chuyện hình sự từ thời xa xưa. Không biết tôi đã vui thú bao lần tại cái cửa hiệu lúc nào cũng đầy ắp báu vật của ông.

    Hôm ấy, khi bước vào cửa hiệu, tôi chỉ thấy anh chàng làm công. Anh ta bảo là ông chủ thấy trong người không được khoẻ lắm và đang ở trên lầu, tại căn phòng trong đó có trưng bày những đồ vật quý báu nhất.

    Thế là tôi lên gác. Ông Liễu, vì bị đau đầu, nên đã đóng hết các cửa sổ lại để ngăn bớt cái nóng ngột ngạt từ bên ngoài vào, do đó trong cảnh tranh tối tranh sáng, căn phòng vốn quen thuộc đối với tôi bỗng trở nên kỳ lạ... thậm chí có vẻ thù địch. Phản ứng của tôi là muốn ra về ngay tức khắc, nhưng nghĩ đến cái lò lửa đang đợi tôi ngoài đường, tôi đành quyết định ngồi lại một lát và để chờ ông chủ hiệu chỉ cho xem vài vật tầm thường lạ mắt. Tôi ngồi xuống chiếc ghế bành, cầm lấy cây quạt lông ngỗng quạt lấy quạt để.

    - Cửa hiệu xoàng xĩnh của tôi hôm nay chẳng có gì đáng để trình ngài xem, - ông Liễu cúi đầu nói.

    Tuy nhiên, sau khi đảo nhanh con mắt quanh mình, ông bước tới góc nhà lấy ra một chiếc gương có chân đế sơn đen, rồi đem đặt trước mặt tôi.

    Sau khi ông phủi bụi xong chiếc gương, tôi mới thấy đó là một chiếc gương dùng để sửa sang đầu tóc. Loại gương này làm bằng bạc được gắn trên một chiếc hòm vuông, thường được các quan chức dùng để soi khi đội mũ lụa đen trước khi đến nha môn. Căn cứ vào những vết rạn ở chỗ quét sơn, có thể đánh giá rằng chiếc gương này có tuổi thọ khá lâu đời; tuy nhiên nó không phải là của hiếm, và nó không có giá trị lớn lắm dưới con mắt của những người sành sỏi.

    Nhưng bỗng nhiên tôi nhìn thấy những nét chữ nhỏ bằng bạc khảm trên khung gương. Tôi cúi sát người để nhìn và phát hiện ra những dòng chữ như sau:

    "Tài sản của quan án Địch, Phổ Dương"

    Tôi cố kìm giữ tiếng reo vui: chiếc gương này của quan án sát Địch nổi tiếng! Và theo các tài liệu lưu trữ quốc gia thì khi quan án Địch làm quan huyện Phổ Dương - một huyện nhỏ thuộc tỉnh Giang Tô - ông dã gỡ rối được ít nhất ba vụ án bí hiểm với một sự sáng suốt phi thường. Tiếc thay chi tiết của những kì tích này đã không được bảo tồn cho đến ngày nay.

    "Địch" không phải là một cái họ phổ biến, cho nên cái gương này chắc chắn là của ông quan án nổi tiếng kia. Tôi không còn cảm thấy mệt mỏi do nóng bức nữa. Trong thâm tâm, tôi thầm vui sướng vì sự dốt nát đã không để cho ông Liễu nhận ra đây là di vật của vị thám tử tài giỏi nhất, đã từng sống vào thời thịnh vượng của Đế quốc Trung Hoa cổ đại.

    Cố làm ra vẻ dửng dưng, tôi sửa lại tư thế ngồi thoải mái trong ghế bành và xin ông Liễu pha cho một tách trà. Khi ông ta vừa đi xuống nhà dưới là tôi vội vàng đứng bật dậy để xem xét chiếc gương. Khi mở ngăn kéo của chiếc hòm dùng để làm đế gương, tôi nhìn thấy chiếc mũ vải đen, loại mũ của các quan án sát.

    Tôi thận trọng giở chiếc mũ vải lụa mốc ra. Một lớp bụi rơi ra từ các đường may, nhưng trừ một số lỗ thủng do mối xông, còn thì có thể nói chiếc mũ vẫn lành lặn. Tôi kính cẩn run tay cầm chiếc mũ và tự nhủ: đây chính là chiếc mũ của quan án sát Địch, chiếc mũ mà ngài đã từng đội khi điều khiển phiên toà.

    Có lẽ, chỉ có Thượng Đế tối cao biết được tại sao tôi lại bị cái ý nghĩ ngông cuồng phi lí xúi giục đội cái mũ quí giá ấy lên cái đầu không xứng đáng của tôi. Tôi liếc mắt soi vào gương để xem hiệu quả của việc mình làm ra sao. Thời gian đã làm cho lớp bạc tráng gương bị mờ đi, cho nên thoạt đầu tôi chỉ thấy trong gương một hình bóng mờ nhạt, nhưng bỗng nhiên hình bóng của đường nét đó hiện lên rõ ràng và tôi nhận thấy một bộ mặt xa lạ có vẻ mệt nhọc đang chăm chú nhìn tôi bằng đôi mắt cháy bỏng.

    Đúng lúc đó tôi nghe thấy một tiếng sấm nổ đinh tai. Căn phòng tối sầm lại. Tôi cảm thấy như mình bị ngã xuống một chiếc vực không đáy và mất hết mọi khái niệm về thời gian và không gian. Tôi bắt đầu trôi nổi giữa những đám mây dày đặc, mà dần dần chúng biến thành hình người. Tôi mơ hồ nhận ra bóng dáng một người con gái trần truồng, đang bị một tên đàn ông hãm hiếp mà tôi không nhìn rõ mặt. Tôi muốn lao tới cứu người con gái bất hạnh, nhưng tôi không tài nào nhấc nổi chân. Tôi muốn kêu cứu nhưng không cất nổi tiếng. Thế là tôi lại bị cuốn vào một chuỗi những biến cố khủng khiếp khác, lúc thì phải chịu cảnh tra tấn đau đớn, lúc thì phải chịu bất lực đứng nhìn.

    Khi tôi từ từ bị chìm đắm trong một hồ nước đọng hôi thối, thì có hai người con gái tươi trẻ giống như hai nàng tỳ thiếp của tôi, chạy lại cứu tôi. Nhưng đúng lúc tôi sắp nắm được tay họ thì có một luồng nước mạnh cuốn tôi đi. Tôi xoay tròn trong xoáy nước sủi bọt và bị kéo dần vào giữa vực thẳm, rồi từ từ chìm nghỉm trong dòng xoáy khủng khiếp. Sau đó bỗng nhiên, tôi thấy mình bị đóng kín trong một ngăn tối chật hẹp, trong khi một vật nặng ghê gớm từ từ đè xuống người tôi. Tôi lấy hết sức vùng vẫy hòng thoát khỏi cái khối nặng không thể chịu được ấy. Vô ích. Tôi dò dẫm sờ soạng, nhưng chỉ sờ thấy một vách ngăn bằng sắt nhẵn nhụi. Nhưng, đúng lúc tôi sắp chết ngạt thì cái sức ép đó bỗng buông tôi ra và tôi vội vã hít lấy hít để luồng không khí trong lành. Tuy nhiên, đến khi tôi muốn cử động, thì tôi bỗng hoảng sợ nhận ra là thân thể mình bị gắn chặt xuống đất, chân tay bị kéo dang ra, cổ tay và cổ chân tôi bị trói bằng những sợi dây to dày, đầu dây mất hút trong đám sương mù xám xịt. Tôi cảm thấy dây trói căng ra... Một nỗi đau đớn khủng khiếp xâm chiếm tay chân tôi và một sự kinh hoàng khó tả làm cho tim tôi gần như ngừng đập: tôi vừa hiểu ra rằng mình sắp sửa bị xé xác. Tôi kêu thét lên và tỉnh khỏi cơn mê.

    Một biến cố bất ngờ tại cửa hàng đồ cổ

    Tôi thấy mình vẫn đang ở nhà ông Liễu, trong tư thế nằm dài trên sàn và toàn thân ướt đẫm mồ hôi lạnh. Quì bên cạnh tôi là ông chủ hiệu đang hốt hoảng gọi tên tôi. Chiếc mũ đen cũ kĩ đã văng ra khỏi đầu tôi và đang nằm giữa đống mảnh gương vỡ nát.

    Ông chủ hiệu buôn đỡ tôi ngồi lên ghế bành, trong khi tôi vẫn chưa hết cơn run rẩy. Sau đó, ông kề tách trà vào tận môi cho tôi uống.

    Ông giải thích cho tôi hiểu rằng ban nãy, khi ông vừa xuống nhà lấy ấm trà, thì nghe thấy một tiếng sấm nổ vang trời, tiếp theo là một trận mưa như trút nước kéo xuống, làm cho ông phải vội vàng quay trở lại lên gác để đóng cửa sổ lại cho chắc và thế là ông nhìn thấy tôi nằm ngất trên sàn nhà.

    Tôi im lặng một lúc lâu trong khi nhấp từng ngụm trà thơm, sau đó tôi kể cho ông Liễu nghe một chuyện vu vơ tôi vừa nhớ ra và nói dối rằng mình hay bị choáng váng bất ngờ. Thế rồi tôi nhờ ông gọi kiệu cho tôi và ra về ngay trong cơn mưa như thác đổ. Mặc dù đám gia nhân đã cẩn thận che kiệu bằng một tấm giấy dầu, nhưng khi về tới nhà, tôi vẫn bị ướt như chuột lột.

    Tôi vội đi nằm ngay trong cơn đau đầu dữ dội. Bà vợ cả của tôi hốt hoảng vội sai người đi mời thầy thuốc, và khi ông ta đến thì thấy tôi đang mê sảng.

    Trong suốt hai tháng trời tôi ở trong tình trạng sống dở chết dở. Bà vợ cả tôi khẳng định rằng sở dĩ cuối cùng tôi qua khỏi là hoàn toàn nhờ bà nhiệt thành cúng vái và thắp hương hàng ngày tại đền thờ thần y học. Riêng tôi, thì tôi cho rằng sở dĩ tôi khỏi bệnh là nhờ hai tỳ thiếp của tôi ngày đêm thay nhau túc trực bên giường và cho tôi uống thuốc theo đơn của ông thầy thuốc tài giỏi.

    Cuối cùng, khi tôi lại sức và có thể ngồi dậy được, ông thầy thuốc muốn nghe tôi kể lại những gì đã xảy ra ở nhà ông Liễu. Tôi chẳng muốn kể lại gì, nên chỉ nói rằng tôi đã bị choáng đột ngột. Ông bác sĩ liếc nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, nhưng không gặng hỏi gì thêm. Đến khi chào tôi ra về, ông mới dửng dưng nhận xét rằng căn bệnh sốt đau đầu như thế này, đôi khi chỉ xảy ra khi người ta sờ mó vào những vật đã từng đóng một vai trò trong một câu chuyện án mạng cổ xưa nào đó. Những vật này toả ra ám khí độc hại và gây nguy hiểm cho đầu óc người nào chạm vào chúng.

    Khi ông bác sĩ sáng suốt đi khỏi, tôi liền cho gọi viên quản lí của tôi vào. Tôi ra lệnh cho ông ta đóng gói bộ sưu tập những di vật về tội phạm học của tôi vào bốn cái hòm lớn và gửi cho ông Hoàng, chú của vợ cả tôi. Mặc dầu bà vợ cả của tôi không hết lời khen ngợi ông ta, nhưng trên thực tế, ông chú họ Hoàng này là một lão bỉ ổi, thích gây chuyện kiện tụng mọi người. Tôi viết một bức thư vô cùng nhã nhặn gửi kèm theo món quà, để thông báo cho ông ta biết rằng tôi muốn biếu ông ta toàn bộ kho sưu tập di vật tội phạm học, để tỏ lòng thành kính sâu sắc đối với sự hiểu biết thấu đáo của ông ta về dân luật và hình luật. Tôi cũng phải thổ lộ với độc giả rằng tôi vẫn còn căm thù ông chú họ Hoàng này lắm, kể từ cái ngày mà thủ đoạn gian trá ông ta đã chiếm của tôi một mảnh đất đẹp. Tôi khát khao mong sao cho khi xem xét bộ sưu tập của tôi, ông ta sẽ vớ phải một trong những đồ di vật chết chóc đem lại cho ông ta một biến cố tai ác chẳng kém gì biến cố tôi đã gặp phải tại cửa hiệu của ông Liễu.

    Giờ đây tôi sẽ cố kể lại một cách mạch lạc những sự kiện mà tôi đã trải qua trong giây phút ngắn ngủi khi tôi đội chiếc mũ của quan án Địch. Tôi dành cho độc giả độ lượng, quyền được quyết định xem chuyện của tôi kể về ba tội ác ngày xưa đã cung cấp cho họ những sự kiện đích thực tới mức nào - những sự kiện mà tôi đã phát giác một cách khác thường, hay đó chỉ là những điều bịa đặt do cái bộ óc kém cỏi của tôi trong cơn sốt quay cuồng nghĩ ra. Tôi đã không bỏ công tham khảo tài liệu lưu trữ lịch sử của thời đế chế để xác minh các sự kiện; bởi vì như tôi đã tuyên bố ở trên, tôi hoàn toàn từ bỏ kiểu tìm kiếm này. Những chủ đề đau buồn ấy không còn lôi cuốn tôi nữa, vì hiện nay tôi đang thích thú chuyên tâm sưu tập những đồ sứ màu lục tuyệt diệu thuộc đời Tống.

    Sáng nay Địch công vừa đến nhận nhiệm vụ tại trụ sở mới của mình là huyện Phổ Dương. Mãi đến chiều tối, ngài vẫn còn ngồi trong phòng làm việc ở sau công đường, để nghiên cứu các tài liệu lưu trữ của huyện. Hai ngọn nến to cắm trên hai cây đèn nến bằng đồng soi sáng chiếc bàn ngổn ngang giấy tờ tài liệu. ánh sáng lung linh nhảy múa trên bộ quan phục bằng gấm xanh và trên chiếc mũ vải lụa đen láng bóng. Thỉnh thoảng ngài lại vuốt bộ râu dài màu đen rất đẹp hoặc mân mê hai hàng râu quai nón mọc dài, nhưng không bao giờ ngài ngừng đọc lâu.

    Ngồi sau một chiếc bàn nhỏ hơn đặt đối diện với bàn của quan án sát, ông Hồng Lượng (người giúp việc không rời của quan án) đang xem xét tập hồ sơ của toà án. Hồng Lượng là một người đàn ông đã có tuổi, hơi gầy. Ông để râu cằm và ria mép lơ thơ bạc trắng, mặc chiếc áo thụng nâu đã phai màu và đội chiếc mũ chỏm nhỏ bé che chiếc đầu hói. "Sắp nửa đêm rồi", ông nghĩ và liếc trộm con mắt sang cái bóng cao to của quan án. Hồng Lượng đã làm một giấc ngủ trưa, nhưng còn ông chủ của ông thì không hề chợp mắt suốt cả ngày hôm nay. Mặc dù ông biết là quan án sát có một thể tạng vững như thép, nhưng ông Hồng Lượng không khỏi lo lắng.

    Là người hầu già của dòng họ Địch, ông Hồng Lượng đã từng bế bồng quan án sát tương lai khi cậu còn là một cậu bé. Về sau, khi cậu bé đã trưởng thành và lên kinh đô để dự khoa thi, thì Hồng Lượng lại đi theo hầu cậu chủ, và khi Địch Nhân Kiệt - tên cậu chủ - được bổ làm quan huyện, thì ông theo cậu về tỉnh lẻ. Giờ đây Phổ Dương là nhiệm sở thứ ba của quan án sát Địch. Suốt mấy năm nay, Hồng Lượng đã trở thành quân sư, đồng thời là người bạn trung thành của quan án sát. Quan án thường kể, không những chỉ những chuyện riêng, mà kể cả những việc quan của mình cho ông nghe, và ý kiến của Hồng Lượng thường tỏ ra rất có ích. Để cho ông có một chức vị chính thức, quan án đã gọi ông là chấp sự của toà án, và thế là ông được mọi người gọi là "Chấp sự Hồng" còn khi nói chuyện thân mật thì thường gọi là lão Hồng.

    Vừa giở tập tài liệu, lão Hồng vừa nghĩ đến một ngày vất vã, mệt nhọc mà ông chủ của mình vừa trải qua. Sáng nay, khi quan án sát cùng đoàn tuỳ tùng của mình - gồm các bà vợ, các con và gia nhân - tới Phổ Dương, quan án đã tới ngay phòng tiếp khách của toà án, trong khi đoàn tùy tùng tiếp quản khu dinh thự nhà riêng của quan án nằm ở phía bắc nha môn. Tại đây, cùng với sự trợ giúp của viên quản gia, bà vợ cả trông coi việc chuyển đồ và bắt đầu sắp xếp nhà cửa. Quan án Địch không còn có thời gian để đi xem nhà ở mới, vì trước tiên ngài phải tiếp nhận dấu ấn của huyện nha từ tay quan án Phụng, người tiền nhiệm của ngài. Xong buổi lễ bàn giao ấy, ngài bắt đầu xem qua nhân lực thường trực của toà án, từ viên chánh thư lại và đội trưởng các bộ đầu đến viên cai ngục và đội cận vệ. Đến trưa, ngài chủ trì một bữa tiệc thịnh soạn tiễn biệt ngài quan huyện cũ, sau đó ngài tiễn quan án Phụng cùng đoàn tùy tùng ra tới tận cổng thành theo đúng tục lệ. Khi quay về, quan án Địch lại tiếp những người dân đầu tiên của Phổ Dương đến chào mừng ngài.

    Sau đó, ngài ăn vội bữa tối tại phòng làm việc của mình, và tại đây, ngài bắt đầu liếc qua tập hồ sơ của huyện đường. Đám thư lại sốt sắng đem tới cho ngài những tập tài liệu lưu trữ đựng trong những hộp da lớn. Sau hai tiếng đồng hồ ngài cho họ lui, còn ngài thì vẫn không hề tỏ ra là muốn đi nằm.

    Cuối cùng, sau khi buông tập tài liệu mà ngài vừa xem xong, ngài ngả người trên ghế bành, rồi vui vẻ nhìn sang người bạn trung thành của mình.

    - Thế nào, lão Hồng, làm một tách trà chứ? - Ngài mỉm cười hỏi.

    Lão Hồng vội vàng đi lấy ấm trà đang để trên chiếc bàn một chân. Trong khi ông rót trà thì Địch công lên tiếng:

    - Thượng Đế đã ban biết bao phước lành cho huyện Phổ Dương. Tập tài liệu này cho ta thấy rằng đây là một mảnh đất màu mỡ. Người dân không hề biết đến hạn hán, lụt lội, còn nông dân thì làm ăn thịnh vượng. Được xây dựng bên bờ con sông lớn chảy từ bắc xuống nam, thành Phổ Dương có một địa thế đặc biệt thuận lợi. Tàu thuyền thường ra vào trú tại cổng thành phía tây. Du khách không ngớt đi về và công việc làm ăn không thể chê vào đâu được. Ở đây cũng là nơi giao lưu giữa sông và kênh đào, làm cho nguồn cá trở nên dồi dào, tạo nguồn lợi cho đám dân nghèo. Sự có mặt của một đội quân đồn trú tương đối lớn làm cho thương mại phát triển. Như vậy là dân chúng ở đây sống sung túc, hài lòng với số mệnh của mình và sẵn sàng nộp thuế đúng hạn. Cuối cùng phải nói tới một điều là vị tiền nhiệm của ta, quan án sát Phụng, rõ ràng là một người có năng lực và đầy nhiệt tâm: mọi giấy tờ đều được giải quyết ngày nào xong ngày ấy và hoàn toàn ngăn nắp.

    Nét mặt của lão Hồng trở nên tươi tỉnh.

    - Thật là vui khi được nghe những điều như vậy, thưa đại nhân - Ông đáp - Những khó khăn mà chúng ta gặp phải tại nhiệm sở trước ở Hán Dương luôn luôn làm tôi lo lắng cho sức khoẻ của ngài ( xem truyện " Vụ giết người trên chiếc thuyền hoa " )

    Rồi vừa vuốt bộ râu cằm lưa thưa, ông vừa nói tiếp:

    - Trong khi tra cứu các văn bản gốc của toà án, tôi đã phát hiện thấy tình trạng phạm tội ở đây không cao lắm. Và những tội ác hiếm hoi ấy đã được xét xử công minh. Chỉ còn một vụ là đang còn chờ toà giải quyết. Đó là một vụ hãm hiếp đê tiện kéo theo án mạng mà quan án Phụng đã gỡ rối trong vòng vài ngày. Khi nào tìm hiểu hồ sơ thì ngài sẽ thấy là chỉ còn phải giải quyết một vài chi tiết vụn vặt nữa thôi.

    Địch công cau mày:

    - Những chi tiết vụn vặt ấy đôi khi lại đẻ ra những vấn đề lớn đấy. Hãy kể cho ta nghe vụ việc đi!

    Lão Hồng nhún vai:

    - Đây không phải là một chuyện quá phức tạp. Người ta đã tìm thấy xác cô gái con một ông hàng thịt họ Tiểu trong phòng của cô ta. Khám nghiệm tử thi cho thấy đây là một vụ hãm hiếp. Cuộc điều tra phát hiện ra rằng nạn nhân có người tình là một chàng thư sinh thoái hoá có họ là Vương. Ông hàng thịt buộc cho chàng trai tội giết người. Sau khi quan án Phụng xác minh lời khai của nguyên cáo và nghe các nhân chứng, thì sự việc trở nên rõ ràng là chàng Vương chính là kẻ giết người, nhưng anh ta không chịu nhận tội. Quan án Phụng liền đem anh ta ra tra khảo. Tiếc thay, anh ta đã bị ngất trước khi kịp nhận tội. Sự ra đi của quan án Phụng đã ngăn không cho ngài kịp đi xa hơn nữa trong việc giải quyết vụ án. Nhưng vì kẻ giết người đang còn bị giam trong ngục và rằng những chứng cứ chống lại anh ta đủ để người ta có thể đem anh ta ra tra khảo, nên trên thực tế vụ án coi như đã kết thúc.

    Địch công im lặng một lát, tay vuốt râu ra chiều nghĩ ngợi, sau đó ông nói:

    - Ta muốn nghe vụ việc kĩ hơn, lão Hồng.

    Khuôn mặt của lão Hồng bí xị.

    - Nhưng sắp nửa đêm rồi, thưa đại nhân - ông ngập ngừng đáp - tốt nhất ngài nên đi nghỉ và có một giấc ngủ ngon thì hơn. Chúng ta còn nhiều thời gian để xem xét vụ này.

    Quan án lắc đầu:

    - Dù bác mới chỉ kể ngắn gọn, nhưng ta đã thấy câu chuyện có vẻ mâu thuẫn lạ lùng. Sau khi ta đã xem tất cả những tài liệu hành chính này rồi thì một vấn đề hình sự chính là cái ta cần để tẩy sạch đầu não! Uống trà đi, rồi lấy tư thế thoải mái mà kể cho ta nghe tóm tắt sự việc.

    Lão Hồng rất hiểu ý quan án. Thế là với vẻ phục tùng, ông xem mấy tờ giấy rồi bắt đầu tường trình:

    - Cách đây đúng 10 ngày, trưa ngày 17 tháng này, một ông hàng thịt tên là Tiểu Phú Hãn đến kêu khóc dưới chân quan án Phụng trong buổi tiếp dân hôm ấy. Ông này có một cửa hàng nhỏ tại phố Bán Nguyệt, ở góc tây nam thị trấn. Có ba nhân chứng cùng đi theo ông: Ông Cao, trương tuần phường cửa Nam; ông Long, thợ may ở nhà đối diện với nhà ông Tiểu, và ông trưởng phường hàng thịt. Ông hàng thịt Tiểu trình lên quan án Phụng bản cáo trạng buộc tội Vương Hiến Tông, thí sinh đang chuẩn bị cho khoa thi cử; anh chàng họ Vương này là một thư sinh nghèo cũng sống gần nhà ông hàng thịt. Ông Tiểu khẳng định anh Vương đã bóp cổ con gái duy nhất của mình, cô Ngọc Trinh, tại căn phòng của cô ta và đã ăn cắp đi hai chiếc trâm vàng. Theo ông Tiểu, anh khoá Vương là tình nhân của con gái ông từ sáu tháng nay. Tội ác được phát hiện khi người ta không thấy cô gái xuống nhà để dọn dẹp nhà cửa như thường lệ.

    - Cái hàng thịt họ Tiểu này, - Địch công ngắt lời - hoặc là một kẻ hoàn toàn ngu đần, hoặc là một tên vô lại tham lam! Làm sao mà ông ta có thể cho phép con gái mình tiếp một người đàn ông ngay trong nhà mình được, biến ngôi nhà ông ta thành nhà chứa ? Chả trách án mạng đã xảy ra ngay trong nhà ông ta!

    Lão Hồng lắc đầu phản đối:

    - Không, thưa đại nhân. Những điều giải thích của ông Tiểu làm cho sự việc xuất hiện dưới một vẻ hoàn toàn khác!

  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 2

    Địch công ý kiến về vụ án hiếp dâm, giết người tại phố Bán Nguyệt
    Chấp sự Hồng giật mình về tuyên bố của Địch công
    - Ta nghe đây! - Quan án nói rồi khoanh tay giấu dưới ống tay áo thụng.

    - Cho đến sáng hôm đó ông Tiểu cũng không biết được con gái của mình có một người tình - lão Hồng kể tiếp - Cô Ngọc Trinh ngủ trong căn gác xép, bên trên kho chứa đồ đạc ở đằng sau cửa hàng. Căn gác xép này cũng được dùng làm phòng giặt giũ và phòng may vá. Vì nhà ông Tiểu không đủ giàu để có thể thuê người ở, nên vợ con ông phải lo tất cả mọi việc trong nhà. Theo lệnh của quan án Phụng, người ta đã kiểm tra thấy rằng có thể nói chuyện khá to trong gác xép mà ở trong phòng của ông hàng thịt và ở những nhà xung quanh không thể nghe thấy được. Về phần anh khoá Vương, anh ta thuộc một gia đình tử tế ở kinh đô, nhưng bố mẹ anh đều đã mất và do xích mích với những người thân khác, nên anh không còn nơi nương tựa. Anh đang chuẩn bị thi hương và sống chật vật nhờ vào việc dạy học cho lũ trẻ của các cửa hiệu xung quanh khu phố Bán Nguyệt. Một người thợ may già họ Long cho anh ta thuê căn gác xép ở bên trên cửa hàng của mình, nằm đối diện ngay với cửa hàng thịt.

    - Anh ta trở thành tình nhân của cô gái từ khi nào? - Địch công hỏi.

    - Anh ta phải lòng cô gái cách đây khoảng sáu tháng và đôi trai gái quyết định bí mật gặp gỡ nhau tại phòng cô Ngọc Trinh. Anh khoá Vương thường đến trước nửa đêm, leo qua cửa sổ vào phòng cô, rồi lại lén lút ra về trước khi trời sáng. Ông thợ may họ Long khai rằng ông đã nhanh chóng phát hiện ra điều bí mật tệ hại này sau vài tuần. Ông đã nghiêm khắc quở trách chàng Vương và còn nói thêm rằng ông sẽ thông báo cho ông hàng thịt biết những sự việc xấu xa ấy.

    Quan án gật đầu đồng tình:

    - Ông thợ may này suy nghĩ rất đúng!

    Lão Hồng tham khảo tập tài liệu trước mặt rồi nói tiếp:

    - Chàng Vương rõ ràng là một tên vô lại xảo trá. Anh ta quỳ dưới chân ông thợ may họ Long mà quả quyết rằng cô Ngọc Trinh và anh ta yêu nhau chân thành, rồi anh ta thề là sẽ cưới cô gái đẹp ấy ngay sau khi anh ta thi xong. Khi ấy vị trí mới sẽ cho phép anh ta đáp ứng đồ sính lễ rước dâu và tặng cho cô dâu một căn nhà nghiêm chỉnh. Trong khi nếu điều bí mật của anh ta bị phát giác ngay bây giờ thì người ta sẽ không cho anh dự thi và tất cả mọi người liên quan đều sẽ mất mặt. Ông Long biết rằng anh Vương là một chàng trai chăm chỉ và chắc chắn là đến mùa thu này anh sẽ thi đậu. Hơn nữa, khi nghĩ rằng mầm mống của một gia đình quý tộc - mà sắp tới sẽ làm quan triều đình - chọn con gái của một người bạn hàng xóm làm vợ tương lai, đã làm ông ta tự hào. Thế là, nghĩ rằng chỉ còn vài tuần nữa là mọi chuyện sẽ kết thúc tốt đẹp bằng lễ cầu hôn, ông đã hứa với đôi trai gái là sẽ giữ kín chuyện bí mật của họ. Nhưng, để tin chắc rằng Ngọc Trinh là một cô gái đứng đắn, ông Long đã để ý theo dõi cô và thề rằng cô không hề biết đến một chàng trai nào khác ngoài chàng Vương, anh này là người duy nhất lọt vào phòng cô gái.

    Quan án uống một ngụm trà nhỏ rồi cất giọng gay gắt nói:

    - Điều đó có thể xảy ra. Nhưng có một điều là cô Ngọc Trinh, anh khoá Vương và ông thợ may họ Long đều xử sự một cách rất là đáng chê trách!

    - Quan án Phụng cũng nhấn mạnh đến điểm này, - lão Hồng nhận xét - ông hết sức lên án tội tòng phạm của ông Long và tội thiếu ý thức trông nom gia đình của ông Tiểu. Sáng ngày 17, khi ông Long biết tin về vụ ám sát cô Ngọc Trinh, tình cảm tốt đẹp của ông dành cho chàng Vương liền biến thành nỗi căm ghét tột độ. Ông vội chạy sang nhà ông Tiểu để báo cho ông này biết chuyện dan díu của cô con gái với chàng khoá sinh. Đây là nguyên văn câu nói của ông: "Thật khốn nạn thân tôi vì tôi đã nhắm mắt làm ngơ trước hành vi bỉ ổi của hai đứa! Cái thằng chó Vương này đã lợi dụng chuyện đó để thoả mãn dục vọng thấp hèn của hắn đối với cô Ngọc Trinh, và chắc là vì cô đòi hỏi hắn phải cưới cô, nên hắn đã giết cô và lấy đi hai chiếc trâm vàng để hòng mua được một cô vợ khác giàu có hơn". Ông hàng thịt họ Tiểu phát điên lên vì tuyệt vọng và tức giận, ông liền sai người đi tìm ông trương tuần - ông Cao, và trưởng phường hàng thịt. Ba người hội ý một lát rồi đi đến nhất trí: thủ phạm chỉ có thể là chàng Vương. Thế là ông trưởng phường hàng thịt thảo đơn kiện và cả ba đem tới trình toà tố cáo tên Vương về vụ giết người bẩn thỉu này.

    - Thế còn anh khoá Vương tại thời điểm đó ? - Quan án Địch hỏi - Anh ta có bỏ trốn không?

    - Không, anh ta bị bắt ngay lập tức. Sau khi nghe lời trình báo của ông Tiểu, quan án Phụng liền sai bốn bộ đầu đi bắt chàng trai. Họ thấy anh ta vẫn đang còn ngủ say trong phòng mình, mặc dù trời đã về chiều. Bộ đầu dẫn anh ta đến toà án và tại đây anh được thông báo về lời buộc tội của ông Tiểu.

    Tỳ hai khuỷu tay xuống mép bàn, Địch công háo hức kêu lên:

    - Ta đang tò mò muốn biết lời bào chữa của anh khoá Vương đây!

    Ông chấp hành viên lục tìm giấy tờ, đọc lướt qua một lượt rồi đáp:

    - Tên vô lại này chỉ có một bản biện minh, cái chính...

    Quan án Địch giơ tay ngăn lại:

    - Ta muốn nghe thuật lại những lời lẽ của anh ta. Hãy đọc cho ta nghe biên bản.

    Ông chấp sự sửng sốt nhìn quan án có vẻ như muốn nói điều gì, nhưng ông lại thay đổi ý kiến và, bằng một giọng đơn điệu, ông đành đọc lời khai của bị can đã được viên thư lại của toà án ghi vào biên bản:

    "Kẻ thư sinh dốt nát đang cúi lạy trước mặt quan lớn đây cảm thấy vô cùng hổ thẹn. Tôi đã mắc phải một tội đáng chê trách nhất: đó là tội đã quyến rũ một cô gái đồng trinh có thanh danh trong sạch và đã giữ quan hệ bí mật với nàng. Xin quan lớn hiểu cho rằng căn gác xép của tôi trông ra phố Bán Nguyệt. Từ chỗ ở của tôi, tôi có thể nhìn thấy cửa sổ căn phòng cô Ngọc Trinh và thường xuyên được chiêm ngưỡng những đường cong đầy đặn, dịu dàng của nàng mỗi khi nàng chải mái tóc dài. Chẳng bao lâu trong thâm tâm tôi quả quyết rằng mình sẽ không thể lấy ai khác ngoài nàng

    Thật hạnh phúc biết bao cho tôi, giá như tôi giữ được quyết định này và chờ đợi kết quả thi cử may mắn của tôi, trước khi tôi thực hiện ý đồ của mình. Khi ấy, địa vị mới của tôi sẽ cho phép tôi được thuê người làm mối. Người có nhiệm vụ xe duyên đôi lứa ấy sẽ đem đồ lễ đến gặp cha nàng, để hỏi nàng làm vợ cho tôi, theo phong tục cổ xưa đáng kính của chúng ta. Nhưng than ôi! Một hôm tôi gặp Ngọc Trinh ở dưới cửa hàng của cha nàng. Tôi không thể không hỏi chuyện nàng, và, với vẻ ngây thơ, nàng tỏ ra cho tôi hiểu rằng, tình cảm của tôi đã làm cho trái tim nàng rung động. Thế là, đáng ra tôi phải là người dẫn dắt cô gái trong trắng ngây thơ này đi theo tôi đường chính trực, thì tôi lại khêu gợi dục vọng của chính nàng bằng ngọn lửa dục vọng của tôi. Tôi đã xin nàng cho tôi được gặp lại và chẳng bao lâu tôi đã thuyết phục được nàng cho tôi tới thăm nàng tại phòng riêng của nàng. Tới ngày hẹn, tôi đợi tới khuya mới bắc thang trèo qua cửa sổ vào phòng nàng. Thưa quan án, tôi phải thú nhận rằng tôi đã giành được niềm vui trong vòng tay nàng, niềm vui mà Thượng đế chỉ cho phép tôi được thưởng thức cùng với một người con gái đáng kính sau lễ thành hôn long trọng.

    Than ôi! Cứ như lửa được chất thêm củi, dục vọng của tôi càng cháy bùng lên và nó làm cho tôi đòi nàng cho gặp mặt lần nữa, rồi lại nhiều lần nữa, càng ngày càng thường xuyên hơn. Vì sợ tuần canh hay một người nào đó đi khuya nhìn thấy chiếc thang, tôi đã thuyết phục cô Ngọc Trinh buộc một băng vải trắng vào chân giường nàng, rồi buông qua cửa sổ. Từ dưới đường, tôi sẽ giật băng vải làm hiệu, nàng sẽ mở cửa sổ và kéo băng vải giúp tôi trèo lên. Bất cứ ai không biết đều tưởng rằng đây là khăn áo phơi bị bỏ quên!"

    Quan án Địch đấm mạnh tay xuống bàn ngắt lời ông chấp sự:

    - Thằng vô lại gian ngoan! - Ông giận dữ kêu lên - một anh khoá hạ mình bắt chước những mánh khoé đê tiện của bọn trộm cắp và lũ bất lương, thật là đẹp!

    - Tôi đã nói rồi, thưa đại nhân - lão Hồng nói tiếp - anh chàng Vương này là một kẻ tội phạm hèn hạ. Tôi xin đọc tiếp lời khai của anh ta:

    "Nhưng một hôm ông Long đã phát hiện được điều bí mật của tôi và vì là người đứng đắn, nên ông đã doạ sẽ kể hết cho ông hàng thịt họ Tiểu nghe. Than ôi! Tôi thật mù quáng, không biết rằng lời khuyến cáo đó chính là do Thượng Đế nhân từ sai khiến và tôi đã xin ông Long đã giữ kín chuyện cho. Và ông đã đồng ý.

    Thế là sự việc cứ thế tiếp diễn trong vòng gần sáu tháng. Sau đó thì Thượng đế cao xanh đã quyết định không dung túng sự vi phạm những điều luật linh thiêng nữa và bỗng nhiên trừng phạt đồng thời cả cô Ngọc Trinh vô tội lẫn kẻ phạm tội khốn nạn như tôi. Đúng ra tối ngày 16 tôi phải đến gặp nàng tại phòng nàng, nhưng chiều hôm ấy anh khoá Dương Phổ đến gặp tôi và báo cho tôi biết bố anh ấy vừa mới gửi năm lạng bạc cho anh ấy nhân dịp sinh nhật. Anh ấy liền mời tôi đi ăn mừng ngày sinh tại hiệu ăn Ngũ Vị ở cửa Bắc thị trấn. Trong bữa ăn, tôi đã uống nhiều rượu và khi chia tay Dương Phổ, tôi hiểu rằng tôi đã hoàn toàn bị say mèm. Thế là tôi quyết định về nhà ngủ một hai giờ cho tan rượu trước khi đi gặp cô Ngọc Trinh, nhưng tôi say đến nỗi đã không nhận ra đường về. Sáng nay, trước khi mặt trời mọc, tôi tỉnh rượu thức giấc và thấy mình nằm giữa bụi gai trong đống đổ nát của một ngôi nhà cũ. Tôi phải cố sức để đứng lên, bởi vì đầu tôi vẫn còn nặng. Sau đó tôi khó nhọc lần mò ra đường lớn và về nhà, leo thẳng lên phòng mình rồi ngủ thiếp ngay. Chỉ đến khi bộ đầu đến tìm tôi, thì tôi mới được biết số phận khủng khiếp của vị hôn thê tội nghiệp của tôi."

    Lão Hồng ngừng đọc một lát, sau đó ông nhìn sang quan án sát, nói bằng giọng khinh bỉ: "Bây giờ ngài hãy nghe câu kết của kẻ đạo đức giả này!"

    "Nếu đại nhân bắt tôi phải chịu hình phạt cao nhất, vì thái độ không thể tha thứ được của tôi đối với cô gái bất hạnh này và vì tội gián tiếp gây ra cái chết cho nàng, thì tôi sẽ vui lòng nhận lời tuyên án ấy. Nó sẽ giải thoát cho tôi khỏi cuộc sống đầy tuyệt vọng từ nay trở đi. Nhưng để cho cái chết của người yêu của tôi có thể được trả thù - và vì danh dự dòng họ nhà tôi - tôi buộc phải từ chối lời buộc tội đã hãm hiếp và giết cô Ngọc Trinh."

    Lão Hồng đặt tờ giấy lên bàn, rồi vừa gõ ngón trỏ xuống tờ giấy, ông vừa giải thích:

    - Ý đồ do anh chàng Vương này vạch ra nhằm thoát khỏi sự trừng phạt thích đáng là quá rõ ràng. Anh ta nhấn mạnh đến tội quyến rũ, nhưng lại kiên quyết phủ nhận là đã giết cô gái. Anh ta biết rất rõ tội quyến rũ một cô gái chưa lập gia đình với sự đồng ý của cô ta nặng nhất chỉ là phạt năm mươi trượng, còn tội giết người sẽ là một cái chết công khai nhục nhã giữa pháp trường !

    Lão Hồng nhìn chủ nhân và chờ đợi một lời bình phẩm. Quan án im lặng nhấp một ngụm trà rồi hỏi:

    - Quan án Phụng đã nói gì sau khi nghe lời khai của tên Vương ?

    Ông chấp sự xem một cuộn giấy khác rồi đáp:

    - Quan án Phụng không hỏi gì anh khoá Vương trong phiên toà đó. Ông bắt đầu cho điều tra ngay.

    - Ông ấy đã hành động rất khôn ngoan! -Địch công tán thành - Bác có thể cho ta nghe bản báo cáo khám nghiệm hiện trường và kết luận của pháp y không?

    Ông chấp hành viên mở tiếp tập tài liệu:

    - Vâng, thưa ngài. Mọi chi tiết đã được ghi ở đây. Quan án Phụng đã đến căn nhà ở phố Bán Nguyệt cùng với những người giúp việc của mình. Tới nơi, họ thấy trên giường là xác một cô gái khoảng 19 tuổi, hoàn toàn trần truồng. Cô có một thân thể tuyệt đẹp, phát triển cân đối, nhưng đầu tóc rối tung và khuôn mặt rúm ró đáng sợ. Chiếc nệm nằm vắt ngang thành giường, gối nằm lăn lóc trên sàn nhà bên cạnh một tấm vải trắng dài nhàu nát, một đầu tấm vải buộc vào chân giường. Chiếc hòm quần áo bị mở tung. Đối diện với chiếc giường dựa lưng vào tường là một chậu giặt lớn và trong góc phòng có một chiếc bàn nhỏ, trên có đặt một chiếc gương bị rạn. Ngoài ra, còn có một chiếc ghế đẩu nằm đổ cách giường không xa.

    - Có dấu vết nào của thủ phạm để lại không? - Địch công ngắt lời.

    - Không có, thưa đại nhân. Người ta chỉ tìm thấy một tập thơ tình gửi cô Ngọc Trinh, cô giữ gìn cẩn thận trong ngăn kéo bàn. Mặc dù cô không thể đọc được nó. Những bài thơ này đều có chữ kí của anh khoá Vương.

    Sau khi khám nghiệm tử thi, quan pháp y tuyên bố rằng nạn nhân chết vì bị bóp cổ. Ở cổ nạn nhân có hai vết tím bầm. Những vết giập và sưng ở khắp hai cánh tay và ngực cho thấy cô gái đã chống cự quyết liệt. Cuối cùng, một số dấu hiệu cho phép kết luận cô đã bị hãm hiếp trước hoặc trong lúc bị bóp cổ.

    Lão Hồng lướt nhanh đoạn cuối tập tài liệu và nói tiếp:

    - Trong những ngày tiếp theo, quan án Phụng xác minh tỉ mỉ mọi lời khai của nhân chứng và ...

    - Bác có thể bỏ qua các chi tiết - Địch công ngắt lời - Ta tin là quan án Phụng đã hoàn thành nhiệm vụ ấy một cách có ý thức. Bác hãy dừng lại ở những điểm cơ bản thôi, chẳng hạn ta muốn biết anh chàng Dương Phổ nói gì về bữa tiệc ở quán ăn.

    - Dương Phổ đã xác nhận mọi chi tiết của câu chuyện, nhưng anh ta không tin là chàng Vương quá say khi ra về. Anh ta dùng chữ "hơi chếnh choáng", cần nói thêm là chàng Vương đã không nhớ được mình ngủ gục ở chỗ nào. Quan án Phụng làm mọi việc có thể, ông đã sai vài bộ đầu dẫn tên Vương đi đến những nơi đổ nát trong thị trấn nhằm giúp anh ta nhớ lại nơi mình đã ngủ, nhưng tất cả là vô ích vì anh ta không nhận ra nơi nào cả. Anh ta bị mấy vết xước trên mặt và mấy vết rách ở áo. Nhưng anh ta giải thích rằng đó là do anh ta ngã vào bụi gai. Quan án Phụng dành ra hai ngày để lục soát tỉ mỷ chỗ ở của chàng Vương và những nơi mà anh ta có thể giấu hai chiếc trâm vàng nhưng không thấy gì. Ông Tiểu đã vẽ lại hình hai chiếc trâm ra mảnh giấy được kèm theo đây.

    Lão Hồng cầm tờ giấy mỏng đưa cho quan án xem.

    - Thật là một món đồ thủ công tinh xảo - Quan án Địch nhận xét - Hình con nhạn đang bay được làm thật là tinh tế.

    - Theo ông Tiểu, hai chiếc trâm này là vật gia truyền của dòng họ. Vợ ông vẫn cất giữ chúng trong hòm từ lâu, vì họ cho rằng chúng đem lại bất hạnh cho người nào dùng chúng. Nhưng cách đây mấy tháng cô Ngọc Trinh đã xin mẹ cho cô và cuối cùng mẹ cô đã chiều cô, vì bà không có tiền để mua cho cô thứ khác.

    - Tội nghiệp cô gái nghèo ! - Quan án buồn rầu thì thầm. Sau một lát im lặng ngài hỏi:

    - Thế quan án Phụng đã đi đến kết luận như thế nào?

    - Ngày hôm kia, quan án Phụng đã xem xét lại toàn bộ kết quả điều tra. Sau đó, ngài tuyên bố mặc dù không tìm thấy trâm vàng ở nhà anh Vương, nhưng điều đó cũng không giúp ích gì cho anh ta, vì rất có thể anh ta đã kịp giấu nó đi. Ngài công nhận rằng bản tự bào chữa của anh Vương tỏ ra mạch lạc, nhưng ngài nói thêm là không có gì ngạc nhiên khi thấy một anh khoá có học có thể bịa ra được một câu chuyện đáng tin như vậy. Ngài bác bỏ giả thiết cho rằng án mạng này do một tên trộm gây ra. Ai cũng biết ở phố Bán Nguyệt chỉ có các tiểu thương nghèo sinh sống. Và ngay cả khi tình cờ có một tên trộm nào qua đây, thì nó sẽ tìm cách đột nhập vào cửa hàng hoặc vào nhà kho, chứ không bao giờ nó nghĩ đến chuyện trèo lên gác xép. Mọi lời khai, kể cả lời khai của anh Vương đều chứng minh những cuộc hẹn hò của đôi trai gái chỉ có họ và ông Long biết mà thôi.

    Rời mắt khỏi các tài liệu lão Hồng mỉm cười láu lỉnh và nói thêm:

    - Ông thợ may Long, thưa đại nhân, đã gần 70 tuổi và quá già yếu để có thể làm một việc như thế, do đó ông ta được loại ra khỏi diện tình nghi.

    Địch công gật đầu rồi hỏi:

    - Quan án Phụng đã thảo bản luận tội như thế nào? Hãy đọc chính xác cho ta nghe!

    Lão Hồng cúi đầu đọc to:

    - Khi bị cáo tiếp tục cam đoan là mình vô tội, quan lớn liền đập bàn quát: "Đồ chó, ta, là quan án sát huyện này đã biết tất cả sự thật! Khi ra khỏi quán ăn, mi đã đến thẳng nhà cô Ngọc Trinh. Rượu đã cho mi can đảm để mi tuyên bố mi đã chán cô ta và muốn bỏ cô. Thế là xảy ra cãi nhau. Cô Ngọc Trinh chạy ra cửa để gọi bố mẹ. Mi tìm cách ngăn cô ta lại. Cuộc vật lộn đánh thức bản năng thấp hèn nhất của mi, thế là mi cưỡng hiếp cô ta, rồi bóp cổ cho cô chết. Làm xong hành vi bỉ ổi này, mi đã lục tung hòm quần áo của cô và lấy đi hai chiếc trâm vàng, hòng làm cho mọi người tin thủ phạm là một tên trộm. Nào, hãy nhận tội đi!"

    Sau khi đọc nguyên lời văn quan án Phụng, ông chấp sự lại kể tóm tắt vụ việc:

    - Anh khoá Vương vẫn cam đoan là mình vô tội, quan án Phụng liền sai đánh năm mươi roi bằng chiếc roi da nặng. Nhưng đến roi thứ 30 thì chàng Vương ngất đi ngã lăn ra đất. Khi người ta đốt giấm dưới mũi cho anh tỉnh lại thì anh trở nên ngây dại, thế là quan án phải tạm dừng cuộc tra khảo. Ngay tối hôm đó, quan án nhận được lệnh thay đổi nhiệm sở. Tuy nhiên, ngài vẫn ghi ý kiến của mình vào cuối bản luận tội.

    - Đưa ta xem! Quan án nói.

    Lão Hồng mở tờ giấy đặt trước mặt quan án. Địch công cầm tờ giấy đưa lên đọc to:

    "Ý kiến của tôi sau khi đã suy nghĩ kĩ là: tội trạng của khoá sinh Vương Hiến Tông đã được ấn định chắc chắn. Khi nào anh ta nhận tội một cách hợp thức, thì tôi xin gợi ý, hãy dành cho anh ta hình phạt xử trảm nghiêm khắc nhất. Ký tên: Phụng Di, quan huyện Phổ Dương".

    Quan án Địch thong thả cuộn tờ giấy lại, sau đó ngài cầm viên ngọc thạch chặn giấy lên rồi nhẹ nhàng tung nó trên tay một lúc lâu. Lão Hồng đứng trước bàn nhìn quan án với vẻ tò mò.

    Quan án bỗng nhiên đặt viên ngọc chặn giấy xuống bàn rồi đứng lên. Ngài nhìn thuộc hạ của mình rồi tuyên bố:

    - Quan án Phụng là một quan toà khôn khéo và chu đáo. Ta cho rằng, sở dĩ ông đưa ra lời phán quyết hấp tấp như vậy là vì ông đã phải cố làm quá sức cho kịp thời hạn thay đổi nhiệm sở. Nếu có thời gian thong thả điều tra vụ này, thì chắc ông sẽ đi đến một kết luận hoàn toàn khác.

    Vẻ sửng sốt của lão Hồng làm cho quan án mỉm cười vội nói thêm:

    - Anh khóa Vương là một chàng trai dại dột. Ta đồng ý là anh ta không có bản lĩnh và đáng phải cho anh ta một bài học, nhưng anh ta không giết cô Ngọc Trinh !

    Lão Hồng mở miệng định nói. Tuy nhiên, quan án giơ tay ngăn lại và nói tiếp:

    - Ta sẽ không nói gì hơn trước khi xét hỏi những người có liên quan đến vụ án này và trước khi xem xét nơi xảy ra án mạng. Ngày mai ta sẽ nghe trình bày vụ án tại phiên toà buổi chiều. Khi ấy bác sẽ hiểu tại sao ta lại đi đến kết luận như vậy. Bây giờ mấy giờ rồi?

    - Bây giờ đã quá nửa đêm, thưa đại nhân - với một cái nhìn nghi ngờ, lão Hồng tiếp tục - tôi phải thú nhận rằng không tìm thấy lỗ hổng nào trong lời buộc tội tên Vương. Ngày mai, khi đầu óc của tôi minh mẫn hơn tôi sẽ đọc lại toàn bộ hồ sơ.

    Ông chậm rãi lắc đầu và cầm một cây nến để dẫn đường cho quan án đi qua những hành lang tối tăm đi về khu nhà riêng của ngài ở phía Bắc nha môn.

    Nhưng Địch công đặt tay lên cánh tay ông và nói :

    - Đừng bận tâm đến ta, bác Hồng - ông nói - ta nghĩ không nên làm mất giấc ngủ của gia đình ta. Họ cũng như bác đã vất vả cả ngày hôm nay rồi. Bác hãy về thẳng phòng mình mà nghĩ ngơi. Ta sẽ nghĩ tại đây trên chiếc ghế dài này. Bây giờ hãy đi đến chiếc giường của bác và chúc bác ngủ ngon.


  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 3

    Địch công mở phiên toà đầu tiên tại Phổ Dương;
    Tào Can thuật lại những tin đồn về một ngôi chùa Phật giáo
    Sáng hôm sau, khi lão Hồng đem bữa ăn sáng đến cho ông quan án thì thấy ngài đã rửa mặt mũi xong xuôi rồi.

    Địch công ăn vội hai bát cơm gạo lứt nóng sốt với mấy cọng dưa muối, xong ngài uống một tách trà thật nóng. Rồi khi những tia nắng đầu tiên rọi vào cửa sổ, thì lão Hồng tắt nến và giúp quan án mặc trang phục huyện lệnh bằng gấm xanh lá cây. Quan án hài lòng nhận thấy gia nhân đã đem chiếc gương của ngài đặt trên chiếc bàn cạnh đó. Ngài mở ngăn kéo lấy ra chiếc mũ thẩm phán có hai chiếc cánh chuồn bằng the đen và cẩn thận đội lên đầu.

    Trong khi đó, lính canh đã mở hai cánh cổng đóng đinh đồng của nha môn. Mặc dù còn sớm, nhưng ngoài cổng đã có nhiều người dân đứng đợi. Vụ án hiếp dâm và giết chết cô Ngọc Trinh con gái ông hàng thịt đã gây xúc động mạnh cho cái thị trấn yên bình này và dân chúng đang tò mò tự hỏi không biết vị quan huyện mới sẽ xét xử vụ án này ra sao.

    Ngay khi anh lính cấm vệ oai phong đánh ba tiếng cồng, lập tức đám đông ùa vào phòng xử án. Mọi con mắt đều đổ dồn về phía chiếc bục ở cuối phòng, nơi có kê chiếc bàn phủ gấm đỏ, chờ đợi sự xuất hiện của vị quan án sát mới.

    Viên chánh thư lại đem những thứ mà quan án cần đến đặt lên bàn. Ở bên phải, ông đặt con dấu của toà án cùng hộp mực dấu. Ở giữa bàn, ông đặt hai chiếc nghiên dùng để mài mực đỏ và đen, với hai chiếc bút lông dành cho hai loại mực. Cuối cùng, ở bên trái bàn, ông đặt giấy và mẫu văn thư dành riêng cho viên thư lại làm nhiệm vụ ghi biên bản.

    Trước bục là hai hàng bộ đầu đứng quay mặt vào nhau, mỗi hàng ba người. Họ cầm gậy, cầm xích, cầm cùm và tất cả những thứ đồ lề lủng củng thuộc nghề của họ. Đứng cạnh bục và hơi tách ra một chút là viên đội trưởng bộ đầu.

    Cuối cùng, tấm màn sau bàn được vén ra và quan án sát Địch xuất hiện. Ngài ngồi vào chiếc ghế bành đồ sộ. Ông chấp sự Hồng đứng bên cạnh.

    Quan án đưa tay vuốt nhẹ bộ râu, nhìn khắp lượt đám đông ngồi chật trong phòng, rồi cầm búa gỗ gõ xuống bàn tuyên bố:

    - Phiên toà buổi sáng bắt đầu!

    Mọi người thất vọng khi thấy ngài không cầm bút đỏ. Điều đó có nghĩa là ngài sẽ không sai gác ngục đưa tù nhân ra xét xử.

    Ngài chỉ đòi viên chánh thư lại đưa cho ngài xem hồ sơ một vụ án hành chính và thong thả giải quyết. Tiếp đó, ngài ra lệnh cho viên đội trưởng bộ đầu lại gần để cùng ngài xem xét sổ lương của nhân lực toà án.

    Ngài liếc nhìn người đội trưởng với vẻ nghiêm khắc và sẵng giọng:

    - Ở đây thiếu một xâu tiền. Nhà ngươi hãy giải thích cho ta rõ

    Người đội trưởng ấp úng không biết nói sao.

    - Khoản tiền đó sẽ được khấu trừ vào tiền lương của ngươi. - Địch công nói cộc lốc.

    Sau đó, ngài ngồi ngả người trên ghế, vừa nhấp từng ngụm trà, vừa đợi xem có ai thưa kiện gì không. Rồi, vì không thấy ai nói gì, ngài nhấc búa lên và tuyên bố phiên toà bế mạc.

    Ngay khi quan án rời bục bước vào phòng trong, đám đông liền ồ lên với vẻ thất vọng.

    - Thôi, các người ra về đi! - Toán bộ đầu quát lên. - Các người đã được xem những gì cần xem. Giờ thì hãy ra về để chúng tôi làm việc!

    Sau khi đám đông giải tán, viên đội trưởng nhổ toẹt xuống đất rồi lắc đầu ra vẻ buồn rầu. Anh ta quay sang bảo đám thuộc hạ của mình:

    - Tốt hơn hết là các anh hãy đi tìm cách kiếm sống khác thôi! Còn ở cái toà án khốn nạn này thì chẳng bao giờ các anh có được đồng tiền dư dật nào đâu. Tôi đã phục vụ ba năm cho quan lớn Phụng và vẫn phải báo cáo từng xu cho ông ta, tôi đang hi vọng là sẽ không phải gặp những ông quan huyện tỷ mẩn như thế nữa! Ấy vậy mà giờ đây - lạy trời phù hộ cho chúng con! - Địch công đến thay thế cho ông ta cũng chẳng hơn gì. Ông ta cau mày chỉ vì một chuỗi tiền xu.Thật chẳng thú vị chút nào. Chả thế mà các vị quan phóng túng đều né tránh Phổ Dương như là sợ dịch hạch vậy!

    Trong khi viên cai đội đang thổ lộ nỗi bực dọc của mình thì Địch công cởi bỏ bộ quan phục để mặc một bộ thường phục thoải mái hơn. Một người đàn ông mảnh dẻ, có khuôn mặt dài và có vẻ băn khoăn, đang giúp ngài thay áo. Bên má trái của nhân vật đặc biệt này có một nốt ruồi màu đen to bằng đồng tiền trên đó mọc ba sợi lông đen dài. Anh ta mặc chiếc áo dài xanh bình thường có thắt đai nâu và có tên là Tào Can.

    Giờ đây Tào Can là một trong những thuộc hạ của Địch công, thế mà trước kia anh ta đã từng làm nghề kiếm sống dựa vào lòng cả tin của mọi người. Thảo một hợp đồng mơ hồ, làm giả con dấu và chữ kí, chơi xúc xắc gian, tất cả đối với anh chỉ là những trò trẻ con. Anh còn thạo nghề móc khoá trộm cũng như những tài nghệ khác của phường kẻ cắp thành thị. Nhưng nhờ có Địch công gỡ cho anh ta thoát khỏi một chuyện rắc rối, nên từ đó anh ta cải tà quy chính và phục vụ quan án một cách trung thành. Đầu óc nhanh nhạy và tài năng đặc biệt trong việc phát hiện ra khía cạnh mờ ám của vụ việc, đã giúp cho anh có vai trò hữu ích và cho phép anh giúp quan án giải quyết được nhiều vấn đề khó xử.

    Sau khi Địch công ngồi vào bàn làm việc thì hai chàng trai có thân hình vạm vỡ bước vào kính cẩn chào ngài. Hai người này mặc áo dài màu nâu, thắt đai đen, đội mũ đen có chỏm nhọn. Đó là Mã Tông và Triệu Thái, hai phụ tá thân tín khác của quan án.

    Mã Tông mình cao sáu thước và có vóc người như một con gấu. Bộ mặt có chiếc cằm rộng của anh được cạo nhẵn nhụi chỉ để lại một hàng ria mép cắt ngắn. Mặc dù có tầm vóc cao to, nhưng anh cử động rất nhanh nhẹn, tỏ ra là một võ sĩ lành nghề. Hồi trẻ, anh làm vệ sĩ cho một viên quan hư hỏng. Một hôm thấy chủ mình bóc lột tiền của một người đàn bà goá chồng bất hạnh, Mã Tông đã chống lại ông ta và đánh ông ta gần chết. Hiển nhiên là sau chiến tích như vậy, anh đã phải bỏ trốn, và thế là anh gia nhập hàng ngũ các "hiệp sĩ rừng xanh". Mấy tháng sau, anh tấn công Địch công cùng đoàn tuỳ tùng của ngài trên con đường dẫn đến kinh đô. Nhưng nhân cách của vị quan án này đã gây cho anh một ấn tượng mạnh đến nỗi làm anh từ bỏ ngay nghề của mình và xin theo hầu ngài. Nhờ có lòng can đảm và sức khoẻ nên anh luôn luôn được giao những nhiệm vụ nguy hiểm.

    Triệu Thái cũng là một "hiệp sĩ rừng xanh". Mặc dù không giỏi võ như Mã Tông, nhưng anh lại có tài bắn cung và đánh kiếm ít ai bì kịp, hơn nữa, anh lại có một ý chí kiên cường rất cần cho một thám tử điều tra.

    - Thế nào, các chàng hiệp sĩ can đảm của ta, - Địch công lên tiếng, - Chắc là các ngươi đã đi dạo một vòng quanh thành Phổ Dương rồi chứ? Các ngươi có ấn tượng như thế nào về nơi này?

    - Thưa đại nhân - Mã Tông đáp - Quan án Phụng chắc hẳn là một vị quan có tài. Người dân ở đây có vẻ thịnh vượng và sung túc. Giá ăn ở các quán hàng không đến nỗi đắt, rượu ở đây ngon tuyệt vời. Tôi cho rằng chắc chúng ta sẽ được thảnh thơi tại đây.

    Triệu Thái cũng đồng tình với ý kiến của bạn mình, nhưng trên khuôn mặt dài của Tào Can có thoáng chút nghi ngờ và chẳng nói chẳng rằng, anh chàng bạc bịp giải nghệ ấy bắt đầu mân mê những sợi lông dài mọc trên nốt ruồi của mình.

    Địch công quay sang nhìn anh ta vẻ dò hỏi:

    - Nhà ngươi không đồng tình với ý kiến đó phải không Tào Can?

    - Đúng thế, thưa đại nhân. Tôi đã đánh hơi được một chuyện mà có thể chúng ta sẽ phải điều tra kĩ càng. Hôm qua, khi đi dạo qua một loạt các quán trà, theo thói quen tôi đã hỏi thăm về các nguồn của cải lớn trong huyện. Tôi nhanh chóng biết được ở đây có bốn hoặc năm điền chủ lớn và khoảng một tá thương gia giàu có, sống nhờ vào việc buôn bán trên sông. Nhưng của cải của tất cả những người này cộng lại cũng chẳng là gì so với của cải của hoà thượng Linh Đức, vị sư trụ trì chùa Phổ Độ. Ngôi chùa đồ sộ mới xây này nằm ở ngoại vi phía bắc thị trấn, trong đó có khoảng 60 nhà sư sinh sống. Nhưng đáng lý phải ăn chay niệm Phật, thì họ lại suốt ngày nhậu nhẹt rượu thịt và sống xa hoa.

    - Cá nhân ta - Địch công ngắt lời, - Ta không muốn dính vào đám Phật giáo. Ta chỉ cần có những lời dạy thông thái của thầy Khổng Tử cùng các môn đệ của Người là đủ rồi. Ta không cần phải nghiên cứu tín ngưỡng của đám áo cà sa đen kéo từ Ấn Độ sang ấy. Tuy nhiên, với thái độ khôn ngoan sáng suốt, triều đình đã nhận định rằng, các học thuyết Phật giáo cũng có thể có ích trong chừng mực mà chúng góp phần cải thiện đạo đức dân chúng. Chính vì thế mà hoàng đế đã nhân từ bảo hộ tầng lớp tăng ni phật tử; nếu như đền chùa của họ phát đạt, thì điều đó có nghĩa là hợp với ý thiên tử và chúng ta phải thận trọng tránh mọi sự phê phán.

    Mặc dù được một bài lên lớp, nhưng Tào Can có vẻ như không muốn từ bỏ ý kiến của mình. Do dự một lát, anh nói tiếp:

    - Khi tôi nói rằng vị sư trụ trì ấy giàu có, thưa đại nhân - anh tiếp tục sau một lúc do dự - ý tôi nói rằng ông ta giàu có như thần giữ của. Họ nói rằng phòng ở của các tu sĩ sang trọng như cung điện hoàng tử, lư hương, lọ hoa trên bàn thờ được đúc bằng vàng khối và ...

    - Bỏ qua những chi tiết ấy đi vì nó chỉ là tin đồn - Địch công ngắt lời - hãy nói thẳng vào việc đi!

    - Có thể là tôi nhầm, thưa đại nhân - anh nói tiếp - nhưng tôi có cảm tưởng rằng sự giàu có của ngôi chùa là kết quả của những thủ đoạn đặc biệt bỉ ổi.

    - Nhà ngươi bắt đầu làm cho ta quan tâm rồi đấy. Nói tiếp đi... nhưng ngắn gọn thôi.

    - Mọi người đều biết nguồn thu nhập chính của chùa Phổ Độ, là nhờ vào lòng sùng kính của khách hành hương dành cho bức tượng phật bà Quan Âm đặt ở toà đại sảnh. Bức tượng được làm bằng gỗ đàn hương cách đây một thế kỉ, nhưng cho đến mấy năm gần đây, nó vẫn được đặt trong một ngôi đền dột nát, do ba nhà sư sống tại một túp lều gần đó trông coi. Chỉ có một ít tín đồ đến cầu nguyện tại ngôi đền ấy. Tiền cúng lễ của khách không đủ để đổi lấy cơm gạo hàng ngày cho ba nhà sư và họ đã phải đi khuất thực để tăng thêm nguồn sống. Thế rồi, cách đây năm năm có một tu sĩ tên là Linh Đức đến xin ở chỗ họ. Mặc dù ăn mặc rách rưới, nhưng con người cao to này có một bộ mặt rất oai vệ. Một năm sau khi ông ta đến ở tại đền này, dân chúng bắt đầu kháo nhau rằng bức tượng phật bà ở đây có một phép màu rất linh nghiệm, rằng những phụ nữ nào không có con đến xin cầu tự đều khỏi bệnh vô sinh. Vị trụ trì mới này (tu sĩ Linh Đức tự coi mình là thượng toạ trụ trì của ngôi đền) đề ra một yêu cầu là những người đàn bà nào muốn có con thì phải thành tâm ngủ một đêm trên tràng kỉ đặt dưới chân tượng.

    Tào Can nhìn những khán giả của mình đang háo hức theo dõi câu chuyện hấp dẫn và tiếp tục nói:

    - Để tránh những lời đồn đại không hay, trụ trì dán một tờ giấy niêm phong lên cửa căn phòng có bức tượng, sau khi người đàn bà cầu tự đã bước vào để ngủ qua đêm. Sau đó, ông yêu cầu chồng bà ta tự tay đóng con dấu riêng của mình vào giấy niêm phong. Ông chồng sẽ ngủ tại khu nhà dành cho các nhà sư, sáng hôm sau ông sẽ tự mình tới bóc niêm phong. Kết quả thành công đến nỗi tiếng tăm của ngôi đền lan đi rất xa và các vị khách cầu tự đã gửi lễ vật, tiền bạc báo đáp rất hậu hĩnh.

    Thế là sư trụ trì liền cho xây lại phòng đại sảnh, xây một dãy nhà bao quanh dành cho tu sĩ, lúc này đã lên tới con số 60, và biến ngôi đền dột nát thành một ngôi chùa nguy nga, khu vườn bỏ hoang được biến thành một công viên tráng lệ, với những hòn non bộ và bể cá vàng. Họ còn xây những toà nhà chòi duyên dáng dành cho những bà nào muốn ngủ lại qua đêm tại ngôi chùa và toàn bộ cơ ngơi này được xây tường cao bao quanh có cổng tam quan tuyệt đẹp.

    Tào Can ngừng lời đợi ý kiến bình phẩm của Địch công. Không thấy ngài nói gì, anh lại nói tiếp:

    - Tôi không biết đại nhân nghĩ gì về những điều đó, nhưng nếu đại nhân cũng nghĩ như tôi, thì rõ ràng là phải ngăn chặn việc này lại!

    Với vẻ đăm chiêu, quan án vuốt râu đáp:

    - Ở dưới trần gian này, có nhiều hiện tượng tự nhiên vượt ra ngoài sự hiểu biết của chúng ta. Cho nên ta sẽ không phủ nhận trước là có thể có một phép màu nào đó của bức tượng.

    Tuy nhiên, vì hiện tại ta chưa có việc gì khẩn cấp giao cho ngươi, nên ngươi có thể tìm cách thu lượm thêm tin tức về ngôi chùa ấy. Ngay khi phát hiện ra điều gì mới ngươi hãy báo cho ta biết.

    Quan án cúi xuống bàn cầm lên một cuộn giấy lẫn trong tập giấy tờ nằm ngổn ngang.

    - Cái này- ông tuyên bố - là bản tường trình vụ án phố Bán Nguyệt. Đó là một vụ cưỡng hiếp và giết người mà ta đã nói chuyện tối qua với lão Hồng. Ta yêu cầu tất cả các ngươi hãy đọc bản tường trình, bởi vì ta muốn nghe vụ án đáng quan tâm này trong phiên toà trưa nay. Các ngươi sẽ thấy...

    Ngài đang nói thì có một người đàn ông đứng tuổi bước vào. Đó là viên quản gia, sau khi cúi chào ông nói:

    - Đệ nhất phu nhân của ngài sai tôi đến hỏi đại nhân xem ngài có thể bớt chút thì giờ đi thăm nhà mới được không?

    Quan án mỉm cười vẻ hối tiếc, ông nói với lão Hồng:

    - Từ lúc đến Phổ Dương tới giờ ta vẫn chưa bước qua ngưỡng cửa nhà mình. Chẳng có gì ngạc nhiên nếu như các bà vợ của ta tỏ ra buồn rầu!

    Ngài đứng lên. Khoanh tay trong tay áo rộng của mình ông nói với các phụ tá:

    - Bản cáo trạng kết tội anh khoá Vương có nhiều điểm yếu. Các ngươi sẽ thấy điều đó trong phiên toà trưa nay.

    Nói rồi ngài đứng lên đi theo viên quản gia.



  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 4

    Một khoá sinh nghe lời buộc tội trước toà
    Địch công giao một nhiệm vụ nguy hiểm cho Mã Tông
    Quan án trở về phòng làm việc trước giờ khai mạc phiên toà buổi trưa. Lão Hồng cùng ba phụ tá của quan án đã có mặt ở đây để đợi ngài.

    Ngài mặc quan phục, đội mũ cánh chuồn và bước ra bục công đường. Phiên toà ngắn ngủi buổi sáng có vẻ như không làm nản chí dân chúng Phổ Dương, bởi lẽ cả căn phòng vẫn chật ních người không còn một chỗ đứng.

    Quan án bước tới ngồi sau bàn thảm đỏ và ra lệnh cho viên đội trưởng dẫn ông hàng thịt họ Tiểu ra.

    Trong khi ông ta tiến lại gần, quan án chú ý quan sát. Đó là một tiểu thương gia bình thường và lương thiện, nhưng kém thông minh, quan án nhận xét như vậy. Sau khi ông hàng thịt quỳ xuống, quan án liền bảo:

    - Ta là quan huyện ở đây, ta rất thông cảm với nỗi đau của nhà ngươi. Quan án Phụng đã khiển trách thiếu sót của nhà ngươi trong trách nhiệm làm cha rồi, ta sẽ không nhắc tới điều đó nữa. Nhưng trong vụ án này, có nhiều điểm ta muốn xác minh lại, thế cho nên ta phải báo trước cho nhà ngươi biết sẽ phải đợi một thời gian nữa mới kết thúc vụ án được. Tuy nhiên, công lý sẽ được thực hiện và cô Ngọc Trinh sẽ được trả thù, ngươi có thể tin chắc như vậy.

    Ông Tiểu kính cẩn ấp úng mấy lời cảm ơn, rồi quan án ra hiệu đưa ông về chỗ ngồi.

    Sau khi xem một tờ giấy, Địch công ra lệnh:

    - Cho đòi quan pháp y ra!

    Quan pháp y bước ra trước bục. Đó là một người đàn ông còn trẻ, có vẻ thông minh. Quan án hỏi:

    - Trong khi mọi việc vẫn còn mới mẻ ta muốn hỏi ngươi một số điểm. Trước hết, ta muốn ngươi mô tả hình thức bên ngoài của nạn nhân cho ta nghe.

    - Tôi xin kính cẩn thông báo, thưa đại nhân - anh ta trả lời - cô gái là một người đã lớn so với tuổi của cô và có thân thể rất cân đối. Theo như tôi được biết thì cô làm việc nhà từ sáng đến tối và còn giúp cha cô bán hàng. Cô không hề có một khuyết tật gì; thân thể đầy đặn và khoẻ mạnh của cô là thân thể của một người không biết sợ việc nặng.

    - Ngươi đã kiểm tra bàn tay cô chưa?

    - Chắc chắn, thưa đại nhân. Quan án Phụng đã quan tâm đặc biệt tới điểm này. Ông hi vọng sẽ tìm thấy ở móng tay nạn nhân có vương lại dấu vết một chất nào đó, cho phép xác định được quần áo hung thủ. Nhưng nạn nhân cắt móng tay ngắn giống như những người phụ nữ lao động chân tay khác, nên chẳng để lại dấu vết gì.

    Địch công đồng tình gật đầu và đặt một câu hỏi khác:

    - Trong báo cáo của ngươi, ngươi đã mô tả vết bầm tím do ngón tay hung thủ gây ra trên cổ nạn nhân. ngươi cũng nói là có cả vết móng tay. Hãy tả lại cho ta nghe chi tiết việc này.

    Quan pháp y suy nghĩ một lát rồi đáp:

    - Vết móng tay in hình vòng cung như thường lệ. Những vết móng này không sâu, nhưng da của nạn nhân cũng bị xây xát nhiều chỗ.

    - Hãy ghi thêm những chi tiết bổ sung này vào hồ sơ. - Quan án ra lệnh.

    Rồi, sau khi cho quan pháp y lui, ngài cho đòi chàng Vương ra trước công đường.

    Khi cảnh binh dẫn chàng Vương ra, quan án nhìn xói vào bị cáo. Ngài thấy đây là một chàng trai tầm thước, mặc áo thụng xanh của tầng lớp khoá sinh. Anh ta có tư thế khá vững vàng, nhưng bộ ngực lép và đôi vai gầy, chứng tỏ anh không bao giờ tập thể dục và suốt ngày chỉ đọc sách. Anh có khuôn mặt dễ coi với vầng trán cao, tỏ ra có trí thông minh, nhưng khoé miệng thiếu kiên quyết, chứng tỏ anh là một người kém bản lĩnh. Bên má trái anh bị mấy vết xước chưa liền da.

    Sau khi anh quì gối trước toà, quan án nghiêm khắc lên tiếng:

    - Mi là tên nhóc con Vương, mi đã làm nhơ bẩn danh dự của những kẻ học sĩ. Sau khi đã có những đặc quyền cao cả của người học sĩ, mi đã dùng trí thông minh để lừa gạt một cô gái ngây thơ không biết chữ cho những dục vọng thấp hèn của mi. Và điều đó còn chưa đủ với mi, mi đã hãm hiếp và sau đó giết chết cô ta. Không có một tình tiết giảm tội nào cho mi cả. Luật pháp sẽ trừng phạt nghiêm minh. Ta không muốn nghe lời bào chữa của mi. Ta đã đọc nó trong hồ sơ và cảm thấy ghê tởm. Ta sẽ hỏi thêm mi mấy câu và khuyên mi hãy trả lời cho chính xác.

    Quan án cúi nhìn xem một tờ văn bản rồi bắt đầu hỏi:

    - Trong lời khai của mi, mi khẳng định đã thức dậy vào sáng ngày 17 tại một căn nhà đổ nát. Hãy tả cho ta chính xác những gì mi nhìn thấy xung quanh.

    - Thưa đại nhân - chàng Vương run sợ đáp - kẻ khoá sinh khốn nạn này không thể đáp ứng được yêu cầu của ngài. Lúc ấy trời chưa sáng, tôi chỉ có thể nhận ra mấy đống gạch vụn như một bức tường đổ bị lấp trong đám bụi gai. Lúc ấy tôi vẫn còn đau đầu và nhìn chưa được rõ. Khi cố đứng dậy, tôi đã bị vấp ngã vào gạch. Áo tôi bị gai cào rách và làm xước cả mặt và người. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ là phải rời cho nhanh khỏi cái chỗ ảm đạm này. Tôi chỉ nhớ mang máng là đã đi qua một loạt ngõ tối nhỏ. Tôi cúi đầu vừa đi, vừa cố nghĩ lại mọi việc và rất lo khi nghĩ tới cô Ngọc Trinh đã mất công đợi tôi cả buổi tối hôm trước.

    Quan án ra hiệu cho viên đội trưởng. Anh này liền cho chàng Vương một cái tát vào mồm.

    - Đừng nói dối! - Quan án quát. - Và hãy cẩn thận trả lời các câu hỏi của ta. - Sau đó, ngài quay sang đám bộ đầu ra lệnh.

    - Hãy cho ta xem vết xước trên người hắn ta!

    Viên đội trưởng cầm cổ áo chàng Vương xốc anh đứng dậy, trong khi hai cảnh binh khác thô bạo lột áo bị cáo ra. Vương kêu lên đau đớn, bởi vì lưng chàng vẫn còn hằn những vết đòn cách đây ba hôm. Trên ngực, vai và cánh tay chàng có những vết giập và xước khá sâu. Địch công ra hiệu lại bắt Vương quì xuống, mà không cho chàng mặc lại áo.

    Quan án hỏi tiếp:

    - Mi đã khai rằng trừ nạn nhân, mi và ông thợ may họ Long ra, không còn ai biết về những cuộc hẹn hò bí mật của mi. Rõ ràng đây là một giả thiết vô cớ. Làm sao mi có thể dám tin chắc không có một người qua đường nào nhìn thấy thủ đoạn của mi?

    - Trước khi ra khỏi tiệm may, thưa đại nhân - Vương đáp - tôi luôn luôn quan sát xem đường có vắng không. Đôi khi tôi nghe thấy tiếng đội tuần đêm sắp đi tới, khi ấy tôi phải đợi cho họ đi khỏi, thì tôi mới chạy nhanh sang đường để lẩn vào ngõ tối. Qua đến cửa hàng của ông Tiểu, tôi không còn gì phải sợ nữa, bởi vì nếu có ai bất ngờ xuất hiện trên phố Bán Nguyệt, thì tôi vẫn có thể ẩn vào bóng tối để không bị nhìn thấy. Chỉ có một giây phút nguy hiểm là khi tôi trèo tường lên gác xép của cô Ngọc Trinh, nhưng khi ấy thì nàng sẽ đứng trên cửa sổ quan sát và sẵn sàng báo cho tôi biết nếu có người đi tới.

    - Một anh khoá mà lén lút trong bóng đêm như một tên trộm tầm thường! - Địch công khinh bỉ thốt lên - Thật là đẹp! Nhưng mi hãy cố nhớ lại xem có khi nào xảy ra một sự cố làm cho mi nghi ngại không?


    Địch công nghe lời khai của anh khoá Vương

    Vương suy nghĩ một lát rồi đáp:

    - Thưa đại nhân, tôi nhớ là cách đây hai tuần có một sự cố kì lạ làm cho tôi hoảng sợ. Khi tôi đợi thời điểm thuận lợi để chạy qua đường, thì tôi nhìn thấy đội tuần đêm đi qua trong tiếng phách gỗ của ông trương tuần. Tôi đợi cho đến khi đội tuần đêm đi hết phố Bán Nguyệt và khi họ rẽ sang phố khác tại góc phố có treo ngọn đèn của nhà bác sĩ Phong thì tôi lẩn vào ngõ cụt. Đúng lúc đó, tôi lại nghe thấy tiếng phách gỗ gõ rất gần chỗ tôi đứng. Bỗng nhiên tiếng gõ phách ngừng bặt và tôi nghĩ đội tuần đêm sắp sửa hô hoán lên vì tưởng tôi là kẻ trộm. Nhưng tất cả vẫn im lặng. Thế là, cho là mình nghe nhầm, tôi đã kéo băng vải làm hiệu cho cô Ngọc Trinh biết.

    Quan án nói thầm vào tai lão Hồng đang ngồi bên cạnh: "Đây là một chi tiết mới. Hãy ghi vào hồ sơ." Sau đó, ngài nhíu mày bảo chàng Vương với giọng gay gắt:

    - Mi chỉ làm mất thời gian của toà. Làm sao đội tuần đêm có thể quay trở lại nhanh như vậy được?

    Rồi quay sang viên chánh thư lại, ngài ra lệnh:

    - Đọc to lời khai của khóa sinh Vương cho bị cáo nghe lại để anh ta điểm chỉ vào.

    Viên thư lại đọc biên bản, chàng Vương xác nhận là đã ghi đúng lời mình.

    - Cho anh ta điểm chỉ vào, - Quan án ra lệnh.

    Cảnh binh thô bạo xốc nách bị cáo đứng lên, ấn ngón tay cái anh ta vào mực rồi bảo anh điểm chỉ vào tờ giấy do quan án đưa ra.

    Khi Vương run rẩy điểm chỉ, quan án nhận xét thấy chàng có hai bàn tay chải chuốt và những ngón tay thon nhỏ của chàng để móng rất dài theo mốt thông thường của đám học sĩ.

    - Đưa bị cáo về phòng giam! - Quan án dõng dạc quát to, sau đó rũ tay áo ra vẻ tức giận, rồi đứng lên bước vào phòng trong, trong khi đám đông thất vọng ồ lên những tiếng xì xào phản đối.

    - Giải tán ngay! - Viên đội trưởng quát - Đây có phải rạp hát đâu mà các người còn lừng khừng! Các người muốn chúng ta đem trà bánh ra mời ăn à?

    Khi mọi người đều ra về hết, viên đội trưởng rầu rĩ bảo thuộc hạ:

    - Chúng ta biết đi đâu bây giờ hả các bạn! Thật là một ông quan án ngớ ngẩn và lười nhác. Cầu trời cho ta khỏi phải phục vụ một ông quan án vừa ngốc nghếch, vừa sốt sắng như thế này! Lại còn khắt khe nữa chứ. Thật là tai họa!

    - Tại sao quan án không cho tra khảo? - Một bộ đầu trẻ tuổi hỏi. - Cái thằng cha mọt sách ấy chỉ cần nghe tiếng roi rít là sẽ nhận tội ngay thôi mà. Nếu cần thì lấy cùm kẹp ngón tay cho hắn ta mấy cái là vụ án sẽ kết thúc trong nháy mắt.

    Một người khác tiếp lời:

    - Tại sao lại phải kéo dài vụ án? Thằng cha Vương này nghèo như một con chuột chũi, làm gì có xu nào mà đút lót.

    - Chỉ là do lười thôi! - Viên đội trưởng chán ngán giải thích. - Tội trạng của tên Vương này rõ như ban ngày mà quan án còn muốn "xác minh thêm một số điểm"! Thôi, ta xuống bếp làm mấy bát cơm kẻo bọn lính canh và gác ngục tham lam chúng nó ăn hết!

    Trong khi đó, Địch công đã thay quan phục bằng chiếc áo thụng màu nâu đơn giản. Ngồi trong ghế bành, ngài khoan khoái uống trà do Triệu Thái vừa rót cho ngài.

    Lão Hồng bước vào.

    - Tại sao có vẻ ủ rủ thế, lão Hồng? - Quan án tinh nghịch hỏi.

    Lão Hồng lắc đầu:

    - Tôi vừa mới trà trộn vào đám đông để nghe phản ứng của họ. Phiên toà hôm nay gây một ấn tượng rất bất lợi, thưa đại nhân. Mọi người cho những câu hỏi ngài dành cho chàng Vương thật vô nghĩa. Họ nghĩ đại nhân đã phạm một sai lầm khi không đem tra khảo chàng Vương để bắt anh ta nhận tội.

    - Nếu ta không nghĩ bác nói như vậy là lo cho ta thì ta đã trách bác rồi, lão Hồng. Hoàng đế giao cho ta trách nhiệm này, để ta xét xử bọn tội phạm chứ không phải để làm vui lòng đám đông!

    Quay sang Triệu Thái, ông nói tiếp:

    - Bảo trương tuần Cao đến đây.

    Khi Triệu Thái ra khỏi, lão Hồng nhận xét:

    - Dường như đại nhân có vẻ coi trọng nhiều đến những điều chàng Vương kể về đội tuần đêm. Ngài nghĩ những người ấy liên can đến vụ án sao?

    Quan án lắc đầu:

    - Không. Quan án Phụng đã thẩm vấn kĩ những người này rồi. Họ không có dính líu gì vào đây cả. Lời khai của chàng Vương làm cho ta quan tâm vì một lẽ khác.

    Triệu Thái quay vào, theo sau là ông Cao. Sau khi ông này gập người chào quan án, ngài nghiêm khắc nhìn ông ta và nói:

    - Vụ án đáng tiếc này đã xảy ra tại khu phố ngươi phụ trách. Phải chăng ngươi không biết rằng ngươi phải chịu trách nhiệm về mọi chuyện lộn xộn xảy ra ở đó? Từ nay hãy cố mà làm cho tốt hơn! Hãy đi tuần cả ngày lẫn đêm và đừng lãng phí thì giờ của nhà nước ở quán rượu và sòng bạc!

    Viên trương tuần phường Nam vội quì thụp xuống vái ba vái. Quan án nói tiếp:

    - Bây giờ ngươi hãy dẫn ta tới phố Bán Nguyệt để ta xem xét nơi xảy ra án mạng. Ngươi đi với ta cùng với Triệu Thái và bốn tên bộ đầu. Ông chấp sự sẽ nắm quyền chỉ huy chuyến đi này, vì ta muốn giữ kín tông tích.

    Quan án đội chiếc mũ vải đen bình thường và rời nha môn qua đường cửa phụ, đi trước dẫn đường là Triệu Thái và ông Cao, theo sau là bốn bộ đầu.

    Trước tiên họ đi dọc theo đường phố chính về phía nam cho đến khi họ đến được phía sau bức tường của đền thờ Thanh hoàng. Tại đó, họ đi về phía Tây và thấy mái ngói gạch men xanh của ngôi đền Khổng tử bên phải họ. Họ vượt qua cây cầu bắc qua sông đi qua phần phía tây của thành phố từ Bắc vào Nam. Vỉa hè kết thúc, họ thấy mình trong khu vực của người nghèo. Ông Cao quẹo trái vào một con đường lót trên cả hai mặt bằng cửa hàng nhỏ và nhà dột nát, sau đó đi vào một con hẻm hẹp và cong. Đó là phố Bán Nguyệt và ông trương tuần chỉ cho mọi người cửa hàng thịt của ông Tiểu.

    Mọi người dừng lại. Có vài kẻ tò mò lập tức vây quanh họ.

    - Đi khỏi đây ngay! - trương tuần Cao quát lên - Các ngài đây là người của toà án. Các ngài đến xem nơi xảy ra án mạng theo lệnh của quan lớn. Cút đi! Đừng làm phiền các quan.

    Địch công ghi nhận rằng cửa hàng thịt nằm ở góc phố hẹp và bức tường bên không có cửa sổ. Nhà kho nằm ở phía sau cách khoảng mười bước chân. Trên bức tường nối liền với cửa hàng thịt là cửa sổ gác xép của cô Ngọc Trinh. Ở bên kia phố nhỏ là bức tường cao kín mít của nhà ông trưởng phường, chạy dài cho đến góc phố đối diện. Quan án quay mặt nhìn ra phố ngoài. Ngài nhìn thấy cửa hiệu của ông thợ may họ Long, nằm đối diện ngay trước lối vào của phố nhỏ. Từ trên gác xép của ông chắc chắn có thể nhìn thấy cửa sổ của cô Ngọc Trinh.

    Trong khi lão Hồng hỏi ông Cao vài câu xã giao, thì quan án bảo Triệu Thái:

    - Nhà ngươi thử trèo lên cửa sổ kia ta xem.

    Triệu Thái mỉm cười, cài gọn vạt áo vào thắt lưng, nhảy một cái anh đã bám được lên tường. Anh đặt chân vào những chỗ gạch lở và cứ thế dán mình trườn lên tới cửa sổ. Anh bám vào thành cửa và lấy sức nhảy gọn vào trong phòng.

    Quan án ra hiệu cho anh xuống. Triệu Thái bám hai tay vào thành cửa sổ, buông hai chân trong khoảng không. Anh chỉ cách mặt đất khoảng năm, sáu bước chân. Anh thả mình rơi xuống đất một cách nhẹ nhàng như "bướm đậu bông hoa", theo cách nói của các tay võ sĩ.

    Ông Cao muốn dẫn mọi người vào xem căn phòng của nạn nhân, nhưng quan án lắc đầu ra hiệu cho lão Hồng và ông này bảo:

    - Chúng ta đã thấy cái gì cần thấy. Ta về thôi!

    Nhóm người lại thong thả quay về nha môn. Và sau khi ông trương tuần kính cẩn cáo lui thì Địch công bảo lão Hồng:

    - Cuộc viếng thăm này đã xác nhận mọi điều nghi ngờ của ta. Cho gọi Mã Tông vào đây.

    Trong nháy mắt, anh chàng hiệp sĩ rừng xanh giải nghệ xuất hiện và cúi người vái chào quan án.

    - Mã Tông, ta sẽ giao cho ngươi một nhiệm vụ khó khăn và có thể là nguy hiểm.

    Khuôn mặt của Mã Tông rạng rỡ hẳn lên và anh vội đáp:

    - Tôi sẵn sàng đợi lệnh ngài, thưa đại nhân !

    - Ngươi hãy cải trang thành một tên lưu manh và hãy đi thăm dò những nơi mà bọn cặn bã của thị trấn thường hay lui tới, để tìm cho ta một tu sĩ hành khất đã hoàn tục. Ta không biết kẻ đó theo đạo Lão hay đạo Phật. Hoặc có thể chỉ là một tên vô lại làm ra vẻ tu hành. Đối tượng của ngươi là một người cao to, vạm vỡ - nhưng không phải là một kẻ cướp mà ngươi đã từng gặp ở "rừng xanh" đâu. Hắn là một tên súc sinh thoái hoá, mà cuộc sống đâm chém và trụy lạc đã làm cho hắn trở thành thú vật. Hắn có đôi bàn tay đặc biệt khoẻ, móng tay cắt ngắn và bị gãy. Ta không biết hắn ăn mặc như thế nào, nhưng có lẽ hắn mặc một chiếc áo rách nát. Dù sao ta cũng dám chắc rằng, giống như mọi tu sĩ hành khất khác, hắn có một con "cá gỗ", đó là cái phách hình đầu lâu mà những tu sĩ hành khất vẫn dùng để đánh tiếng lưu ý người qua đường. Chứng cứ cuối cùng để nhận ra hắn ta là hắn có (hay là hắn mới chiếm được gần đây) một đôi trâm cài đầu bằng vàng khối được làm theo phương pháp thủ công. Chúng có hình vẽ ở đây và nhà ngươi hãy nhìn mà ghi nhớ chúng vào đầu.

    - Thật là một mô tả đầy đủ - Mã Tông reo lên - Nhưng con người này là ai và hắn đã phạm tội gì?

    - Vì ta chưa gặp hắn bao giờ, - Địch công mỉm cười đáp - Nên ta không thể nói tên hắn cho ngươi biết được. Còn về tội trạng của hắn thì hắn chính là tên vô lại đã hãm hiếp và giết chết cô con gái ông Tiểu!

    - Đó là một nhiệm vụ mà tôi rất thích thú ! - Mã Tông reo lên và chào từ biệt quan án.

    Lão Hồng không ngớt kinh ngạc khi nghe những lời dặn dò của quan án đối với Mã Tông.

    - Thưa đại nhân, tôi hoàn toàn không hiểu gì cả! - ông nói sau khi Mã Tông ra khỏi phòng.

    Quan án mỉm cười và chỉ nói:

    - Bác đã thấy những gì ta đã thấy, đã nghe những gì ta nghe. Bác hãy tự rút ra kết luận!


  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 5

    Tào Can đến lễ bái tại một ngôi chùa
    Ba nhà tu trở thành nạn nhân của một tay bạc bịp lọc lõi
    Cũng trong buổi sáng hôm ấy, Tào Can rời khỏi văn phòng của quan án, anh mặc một chiếc áo khoác bình thường, nhưng may rất đẹp và đội một chiếc mũ the đen giống như những kẻ thị dân ăn không ngồi rồi khác.

    Trong bộ trang phục ấy, anh bước ra khỏi cổng thành phía bắc và thong thả đi dạo qua vùng ngoại vi thị trấn. Cuối cùng anh phát hiện ra một quán ăn nhỏ và bước vào gọi một bữa ăn trưa đạm bạc. Từ cửa sổ trên gác hai nơi anh ngồi, anh nhìn thấy mái ngói uốn cong của chùa Phổ Độ.

    Sau khi thanh toán tiền, anh bảo người hầu bàn:

    - Ngôi chùa mới nguy nga làm sao! Chắc là các vị tu hành kia phải sùng đạo lắm thì mới được Đức Phật ban phước lành cho như vậy!

    - Tôi chẳng biết những tên đầu trọc ấy sùng đạo đến mức nào - Anh hầu bàn lầu bầu - Nhưng có nhiều người lương thiện ở cái huyện này sẽ rất sung sướng nếu được cắt cổ họ!

    - Coi chừng cái miệng đấy, anh bạn! - Tào Can giả vờ phẫn nộ quát lên - Anh đang nói chuyện với một người sùng bái của Tam Bảo đây.

    Anh hầu bàn liếc nhìn Tào Can vẻ khó chịu rồi bỏ đi mà không nhận tiền phục vụ anh để trên bàn. Tào Can mỉm cười nhặt tiền bỏ vào túi và ra khỏi quán.

    Mấy phút sau anh đã bước tới trước cổng tam quan của ngôi chùa. Anh thong thả leo lên bậc đá rồi bước vào chùa. Anh liếc mắt trông thấy ba vị hoà thượng ngồi trong căn nhà của người gác cổng đang quan sát mình. Anh bước hai, ba bước rồi bỗng đứng sững lại, thò tay vào túi lục tìm rồi nhìn quanh như một người đang gặp chuyện bối rối.

    Một trong số ba người gác cổng, một vị hoà thượng đã có tuổi, bước lại gần và rất lịch sự hỏi:

    - Bần tăng có thể giúp ích được gì cho vị quan khách đáng kính đây không?

    - Thưa nhà sư, nhà sư thật là tử tế quá, - Tào Can đáp, - Tôi đang thử cố theo Đạo phật và tôi tới đây chính là để dâng lễ vật hèn mọn này cho phật bà Quan Âm đại từ bi. - Nói đến đây, anh lôi trong túi ra một đĩnh bạc và tung tung trên tay. - Tiếc rằng tôi vừa phát hiện ra là mình quên tiền lẻ ở nhà. Vì không có tiền lẻ mua hương, có lẽ tôi phải quay về rồi hôm khác lại đến vậy.

    Vị hoà thượng nhìn đĩnh bạc bằng con mắt tham lam, rồi vội vàng nói:

    - Cho phép tôi, thưa ngài, giúp đỡ ngài mua hương cúng Phật bà quan âm. - Nói rồi ông ta chạy vội về chỗ và đem lại cho anh hai xâu tiền lẻ, mỗi xâu 50 đồng.

    Tào Can nhận tiền, trịnh trọng cảm ơn ông ta rồi đi thẳng vào sân trong, chân bước lên những phiến đá nhẵn bóng. Các căn phòng tiếp tân ở hai bên cánh gà thuộc số những căn phòng lịch sự nhất. Có hai chiếc kiệu đặt ở ngoài cửa như thể đang đợi ai và tại đây các vị hoà thượng và các chú tiểu đi lại nhộn nhịp. Tào Can đi qua khoảng sân và hai lần cửa nữa để cuối cùng đứng trước toà đại sảnh.

    Ba bề toà đại sảnh được bao quanh bởi những bậc thềm bằng đá cẩm thạch và trông ra một cái sân rộng cũng lát đá cẩm thạch. Tào Can leo lên thềm và bước vào căn phòng đại sảnh tranh tối tranh sáng. Bức tượng Phật bà cao khoảng hai mét, được đặt trên một chân đế mạ vàng. Ánh sáng của hai cây nến khổng lồ chiếu lung linh lên chiếc lư hương bằng vàng và lên những lọ thờ đặt trên hương án.

    Tào Can cúi gập người vái lạy ba lạy. Sau đó, để lấy lòng đám hoà thượng, anh dùng tay phải làm ra vẻ như thả mấy đồng tiền vào chiếc thùng gỗ được đặt ở đó để nhận lễ vật, trong khi đó anh dùng ống tay áo trái (bên trong đựng hai xâu tiền xu) gõ nhẹ vào bên ngoài vỏ thùng để làm giả tiếng kêu của đồng tiền rơi vào trong.

    Anh đứng im một lát trước chân tượng, hai tay chắp trước ngực, lại vái chào ba vái rồi bước ra ngoài. Anh đi vòng sang bên phải, nhưng nhanh chóng gặp phải một chiếc cổng khép kín. Anh đang tự nhủ không biết là mình có nên thử mở cửa không thì có một hoà thượng bước ra hỏi:

    - Phải chăng quí khách muốn gặp sư trụ trì của chúng tôi?

    Tào Can vội vàng lịch sự từ chối và quay ngược trở lại. Anh lại đi qua trước mặt toà đại sảnh và lần này anh vòng sang trái. Anh đi theo hành lang có mái che tới một cầu thang dẫn xuống một cánh cổng nhỏ trên có ghi dòng chữ: "Người không có nhiệm vụ xin miễn vào".

    Không để ý đến lời thông báo lịch sự này, Tào Can vội vàng đẩy cửa mở ra và thấy mình lọt vào một khu vườn cảnh diệu kì. Trong vườn có một lối đi dạo lượn quanh co giữa các khóm hoa và những hòn núi giả, trong khi đó, ở đằng xa, dưới tán lá xanh là mái ngói xanh lam bóng lộn với những khung gỗ sơn đỏ của dãy nhà chòi xinh xắn đang phản chiếu ánh nắng lấp lánh.

    Đây chính là chỗ dành cho khách ngủ qua đêm, - Tào Can nghĩ, rồi anh ẩn mình vào bụi cây, cởi nhanh áo ngoài, lộn trái ra và lại mặc vội vào. Nguyên là chiếc áo khoác này được lót bên trong một cách khéo léo bằng một lớp vải gai thô với những miếng vá, giống như loại áo của tầng lớp thợ thủ công. Sau đó anh lột mũ vải nhét vào ống tay áo, lấy một miếng vải xấu xí buộc quanh đầu và xắn ống quần lên để cho hở xà cạp ra. Cuối cùng anh lôi trong ống tay áo ra một túi vải xanh nhỏ.

    Túi vải này là một trong những phát minh tài tình của Tào Can. Khi mở ra trông nó giống như một chiếc túi đơn sơ, thường được dùng để đựng các đồ bao gói. Chiếc túi này có hình vuông, nhưng những nếp gấp khéo léo cũng như một loạt mẩu tre nhỏ được may giấu vào bên trong có thể cho phép tạo cho chiếc túi có nhiều hình dạng khác nhau, từ hình dạng chiếc túi đựng quần áo giặt, đến hình dạng chiếc túi đựng sách của người buôn bán sách cũ. Trước đây, trong quãng đời nhiều nghề của mình, không biết Tào Can đã sử dụng bao nhiêu lần phát minh quí giá này.

    Lúc này thì anh điều chỉnh cách thanh tre sao cho chiếc túi có hình dạng của một chiếc túi thợ mộc. Mấy phút sau, anh bước ra lối đi dạo, lưng hơi còng một chút, làm ra vẻ như đang xách chiếc túi nặng.

    Lối đi này dẫn đến một nhà chòi nhỏ duyên dáng nằm dưới bóng cây tùng già. Hai cánh cửa sơn đỏ có đóng đinh đồng đang để mở, cho thấy bên trong có hai chú tiểu đang quét dọn.

    Tào Can bước vào nhà và chẳng nói chẳng rằng, anh tiến thẳng đến chỗ chiếc giường lớn để sát bức tường phía trong. Anh vừa nói lầu bầu trong mồm mấy tiếng, vừa ngồi xổm xuống rồi lấy trong ống tay áo ra một chiếc thước dây và bắt đầu đo giường.

    - Lại thay giường khác à? - một chú tiểu hỏi.

    - Các ngươi lo việc của mình đi! - Tào Can càu nhàu. - Các ngươi có tiền cho lão thợ mộc khốn khổ này không?

    Cả hai chú tiểu bật cười bỏ đi. Họ vừa đi khỏi là lập tức anh chàng thợ mộc giả danh liền đứng dậy nhìn quanh.

    Căn phòng này tuy không có cửa sổ, trừ một lỗ tròn trổ ở trên cao bức tường cuối phòng và nó nhỏ đến nỗi một đứa bé cũng khó bề chui lọt. Chiếc giường mà anh vừa giả vờ đo được làm bằng gỗ mun khảm xà cừ. Chiếc giường được phủ khăn trãi giường bằng gấm. Ở đầu giường có một chiếc bàn nhỏ làm bằng gỗ cẩm lai chạm trổ, trên có đặt một bếp lò và một bộ ấm chén pha trà bằng đồ sứ hảo hạng. Trên một bức tường có treo bức tranh lụa cỡ lớn vẽ Phật bà Quan Âm, còn ở cạnh một bức tường khác có một chiếc bàn lịch sự, cũng bằng gỗ cẩm lai, trên có đặt một chiếc lư hương và hai cây đèn nến to. Cuối cùng là một chiếc ghế đẩu thấp. Mặc dù chú tiểu vừa mới quét nhà và thông gió, nhưng mùi hương thơm ngát vẫn còn vương trong không khí. "Bây giờ, - Tào Can tự nhủ - là lúc ta phải tìm cho ra lối vào bí mật của căn phòng."

    Anh bắt đầu tìm từ chỗ khả nghi nhất: đó là bức tường phía sau bức tranh vẽ Phật bà. Anh soi xét kĩ càng để cố tìm ra kẽ hở của một cánh cử di động nào đó. Vô ích, xem xét những bức tường khác cũng không đem lại kết quả gì. Sau đó anh đứng lên bàn với tay sờ xung quanh mép cái lỗ tròn trên tường xem nó có khả năng mở rộng ra khi cần thiết không. Ở đây anh cũng chẳng phát hiện ra điều gì.

    Sự thất bại này đã làm cho Tào Can phật ý, bởi vì anh vẫn tự cho mình là chuyên gia trong lĩnh vực cửa ngầm.

    "Trong những ngôi nhà cũ đôi khi người ta làm cửa sập ở dưới sàn nhà. Nhưng những căn nhà chòi này mới được làm từ năm ngoái. Các vị hoà thượng có thể bố trí một chiếc cửa bí mật ở tường, còn chuyện đào hầm ngầm thì khó có thể tiến hành mà không gây chú ý. Dù sao ta cũng chẳng thấy một khả năng nào khác".

    Thế là anh bắt đầu cuộn tấm thảm trải sàn nhà lên và quỳ thụp xuống dùng mũi dao lách từng kẽ đá lát để xem xét. Kết quả cũng chẳng hơn gì.

    Vì không dám ở lại lâu trong phòng, nên Tào Can phải bỏ dở công việc điều tra. Khi ra khỏi nhà, anh liếc nhanh vào mấy bộ bản lề cửa nhưng chẳng thấy có gì khác thường. Anh thở dài đóng cửa lại và dành thời gian cuối cùng để xem xét ổ khoá. Nó cũng chẳng khác gì so với những ổ khoá cùng loại.

    Tào Can đành quay trở lại lối đi ban nãy, sau đó anh nấp vào một bụi cây rậm, lột áo mũ mặc lại giống như ban đầu, rồi bước ra không để ai nhìn thấy.

    Trong khi đi dạo qua mấy khoảng sân nữa, anh ghi nhận được nơi ở của các vị tu hành và vị trí của các phòng dành cho các ông chồng của các bà đi cầu tự.

    Khi quay trở lại cổng chính, anh liền bước vào phòng gác cổng. Anh gặp lại ba vị tu sĩ mà anh đã làm quen lúc mới tới.

    - Tôi xin trân trọng cảm ơn các vị đã tử tế cho tôi mượn tiền lẻ! Tào Can lịch sự bảo vị hoà thượng già nhất nhưng lại không rút tiền ra trả.

    Vì không muốn tỏ ra khiếm nhã để khách phải đứng, vị tu sĩ già liền mời anh ngồi và hỏi anh có thích uống trà không.

    Tào Can trịnh trọng nhận lời mời. Bốn người ngồi quanh bàn nhấm nháp từng ngụm trà. Được một lát, Tào Can mở đầu câu chuyện:

    - Có lẽ các vị không thích từ bỏ mấy đồng xu kia của mình. Các vị cho tôi vay tiền mà tôi chẳng thể nào dùng được, bởi vì khi tôi muốn lấy tiền để mua hương tôi mới phát hiện ra rằng dây buộc tiền không có nút. Thế thì làm sao tôi tháo ra được.

    - Vị tân khách nói nghe lạ quá! - Vị sư trẻ nhất đáp. - Ngài có thể vui lòng cho chúng tôi xem lại xâu tiền được không?

    Tào Can rút xâu tiền đưa cho nhà sư, anh ta vội vàng vạch từng đồng để xem sợi dây.

    - Đây này! - Anh ta đắc thắng reo lên - Đây là nút buộc, hay là tôi nhầm chăng?

    Tào Can cầm lại xâu tiền mà không thèm nhìn rồi anh bảo vị sư cao tuổi nhất:

    - Thật là lạ! Dù sao tôi vẫn xin đánh cuộc 50 xu rằng các vị sẽ không tìm thấy được nút buộc nữa.

    - Chơi luôn! - Vị tu sĩ trẻ vội reo lên.

    Tào Can cầm xâu tiền quay ba vòng trên đầu rồi đưa cho ba vị tu sĩ bảo:

    - Bây giờ các vị hãy tìm xem nút buộc ở chỗ nào?

    Cả ba vị hoà thượng vạch đi vạch lại từng đồng xu mà vẫn không tìm thấy được nút buộc nằm ở đâu.

    Tào Can cầm lấy xâu tiền rồi điềm nhiên đút vào ống tay áo. Sau đó anh quẳng một đồng xu lên bàn và tuyên bố:

    - Tôi sẽ cho các vị một cơ hội để gỡ lại tiền. Các vị hãy tung đồng tiền này lên, tôi xin đánh cuộc năm mươi xu rằng nó sẽ rơi xuống với mặt sấp nằm trên.

    - Đồng ý! - Vị tu sĩ cao tuổi vừa nói vừa tung đồng tiền lên. Khi đồng tiền rơi xuống, cả bốn người đều cúi sát nhìn.

    - Sấp! - Tào Can tuyên bố. - Như vậy là khoản tiền các vị cho tôi vay đã được hoàn trả. Nhưng vì tôi không muốn để các vị bị thiệt, nên bù lại, tôi sẵn sàng bán cho các vị đĩnh bạc này với giá năm mươi xu. - Anh vừa nói vừa lấy đĩnh bạc ra khỏi ống tay áo và tung tung trên tay.

    Ba vị tu sĩ hoàn toàn ngơ ngác không hiểu. Vị cao tuổi nhất tự nhủ chắc ông khách của họ hơi bị ấm đầu, nhưng ông không muốn bỏ qua một đĩnh bạc như thế kia. Thế là ông lấy ra một xâu năm mươi xu nữa đặt lên bàn.

    - Các vị vừa mua được một món rất hời - Tào Can lưu ý - Đây là một đĩnh bạc rất đẹp và hơn nữa, rất dễ mang.

    Nói xong anh thổi một cái, đĩnh bạc liền quay vài vòng trên bàn. Trên thực tế đó là một đĩnh bạc giả giống y như thật, được làm bằng giấy thiếc.


    Tào Can lừa bịp ba nhà sư

    Tào Can nhét xâu tiền vừa kiếm được vào ống tay áo và lấy ra một xâu tiền khác. Anh chỉ cho ba vị tu sĩ thấy cái nút buộc xâu tiền là một kiểu nút đặc biệt. Chỉ cần dùng ngón tay bóp nó lại là biến nó thành một chiếc nút thòng lọng có thể nằm lọt chính xác vào lỗ đồng tiền. Nếu người ta lần từng đồng một thì sẽ không nhìn thấy được nút buộc, bởi vì nó sẽ di động cùng với đồng tiền mà nó đang nằm gọn trong lỗ. Để kết thúc, Tào Can chỉ cho ba người xem hai mặt của đồng tiền vừa được dùng để chơi sấp ngửa: cả hai mặt đều là mặt sấp.

    Ba vị tu sĩ cười ồ lên và hiểu rằng ông khách là một tay bạc bịp chuyên nghiệp.

    - Bài học tôi vừa giảng cho các vị cũng đáng giá một trăm năm mươi xu đấy - Tào Can bình thản nhận xét - Còn bây giờ thì chúng ta hãy bàn đến những chuyện nghiêm túc. Tôi đã nghe nói đến những trận mưa tiền tại chùa này và tôi tự nhủ: "Nào, ta thử đến đó một lát xem sao!" Và thế là tôi thấy rằng hình như ở đây các vị phải tiếp rất nhiều khách sang. Có một điều là tôi cũng có nhiều quan hệ và cũng thạo nghề ăn nói. Liệu các vị có muốn thuê tôi tìm "khách hàng" cho các vị không? Tôi biết cách thuyết phục những ông chồng nào hay do dự để họ cho phép vợ mình ngủ qua đêm ở chỗ các vị!

    Vị tu sĩ già lắc đầu và Tào Can vội nói thêm:

    - Tôi không lấy nhiều tiền công đâu. Chẳng hạn chúng ta có thể thoả thuận là tôi lấy mười phần trăm tiền hương hoa của những vị khách do tôi giới thiệu.

    - Người ta đã cung cấp những tin tức rất sai cho anh, anh bạn ạ - Vị tu sĩ già lạnh lùng đáp - Tôi biết là những người có tính ghen ghét đã tung ra những tin đồn xấu xa về ngôi chùa này, nhưng đó hoàn toàn chỉ là bịa đặt. Tôi hiểu một kẻ vô lại như anh, có thể chỉ nhìn thấy những điều xấu xa ở khắp mọi nơi, nhưng trong trường hợp này, thì anh bạn hoàn toàn nhầm lẫn. Nếu như ngôi chùa của chúng tôi giàu có thì điều đó hoàn toàn chỉ nhờ sự phù hộ của phật bà Quan Âm đại từ đại bi.





    - Xin lỗi! - Tào Can vui vẻ đáp - Tôi công nhận với ngài là nghề của chúng tôi rất hay đa nghi! Chắc là các ngài phải đề ra mọi biện pháp phòng ngừa để bảo vệ danh dự cho các bà khách chứ?

    - Tất nhiên - Vị sư già đáp - Trước hết, sư trụ trì đáng kính của chúng tôi rất thận trọng trong việc chọn người để cho ngủ qua đêm ở đây. Đầu tiên ngài hỏi chuyện những người phụ nữ mới đến tại phòng đón tiếp và ngài sẽ không cho phép họ ở lại, nếu ngài nghi ngờ đức tin của họ đối với Đức Phật, hoặc nếu như ngài cảm thấy tình hình tài chính - tình hình xã hội của họ không có gì chắc chắn. Sau khi người đàn bà cùng chồng cầu nguyện xong tại toà đại sảnh thì người chồng phải thết đãi một bữa cơm cho sư trụ trì và các vị cao niên trong chùa. Việc này nói chung khá tốn kém, nhưng người đầu bếp của chúng tôi là một người tài giỏi không ai bì kịp. Cuối cùng sư trụ trì dẫn hai vợ chồng người cầu tự tới một trong số các nhà chòi dành riêng cho khách được xây trong vườn lớn ở phía sau chùa. Anh chưa nhìn thấy dãy nhà ấy đâu, nhưng xin đảm bảo với anh là chúng được xây theo một thị hiếu tuyệt vời. Tất cả có sáu nhà chòi. Trong mỗi nhà đều treo một bức tranh vẽ bức tượng Phật Bà, mà anh đã nhìn thấy bày trong toà đại sảnh. Như thế các bà sẽ có thể được tưởng niệm suốt đêm về đức hạnh của phật bà Quan Âm đại từ đại bi. Sau khi bà khách vào nhà rồi thì ông chồng bà đóng cửa lại, tự tay khoá cửa và giữ chìa khoá. Ngoài ra sư trụ trì của chúng tôi còn dán một băng giấy niêm phong cánh cửa, còn ông chồng thì được phép đóng con dấu riêng của mình lên hai đầu băng giấy. Sáng hôm sau, ông chồng đến mở cửa và chỉ có ông được phép xé băng giấy niêm phong đó. Bây giờ thì anh hiểu là ở đây không thể có một chút nghi ngờ nào chứ?

    Tào Can buồn bã gật đầu:

    - Phải - Anh lẩm nhẩm - các vị hoàn toàn có lý. Thật đáng tiếc! Nhưng xin ông hãy nói cho tôi biết: có bao giờ người cầu tự không đạt được kết quả như ý muốn không?

    - Điều đó chỉ xảy ra nếu tinh thần của người đàn bà không trong sạch hoặc nếu bà ta không thật sự tin vào Đức Phật. Có một số người lại đến lần thứ hai, nhưng có người thì chẳng bao giờ trở lại nữa.

    Tay vân vê mấy sợi lông ở nốt ruồi, Tào Can hỏi:

    - Có bao giờ xảy ra trường hợp là khi người cầu tự sinh được con mà lại quên nhà chùa không?

    - Không - Vị tu sĩ tươi cười đáp - Đôi khi người ta còn mang cả kiệu chở lễ vật đến biếu. Và nếu như ngẫu nhiên mà người ta quên mất cái hành vi xã giao nhỏ mọn này thì sư trụ trì của chúng tôi sẽ gửi một bức thư cho người mẹ mới sinh nở, để nhắc nhở nghĩa vụ mang ơn của bà ta đối với nhà chùa.

    Tào Can còn hỏi nhiều chuyện nữa mà không thu được một thông tin cần thiết nào, thế là một lát sau, anh từ biệt họ ra về.

    Anh trở về toà án theo một con đường vòng vèo quanh co.


  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 6

    Một phụ nữ lớn tuổi từ Quảng Đông báo một nỗi oan ức khủng khiếp
    Địch công nói cho viên chấp sự những mối lo mới nhất
    Tào Can tìm thấy Địch công trong văn phòng riêng với người thư lại cao cấp và người quản lý các tài liệu lưu trữ về một âm mưu tranh chấp đất đai.

    Khi quan án thấy Tào Can bước vào, ông cho hai ngươi kia lui ra và bảo anh ta gọi lão Hồng.

    Sau đó Tào Can báo cáo chi tiết về chuyến viếng thăm ngôi chùa của mình, tất nhiên là bỏ qua không kể việc anh ta đã kiếm chác được 150 đồng từ trò lừa bịp với thanh bạc giả và các xâu tiền đồng. Khi anh kể xong, Địch công nói:

    - Phải, điều này đã giải quyết được vấn đề của chúng ta. Vì ngươi đã không tìm thấy lối vào bí mật của căn phòng nên chúng ta phải chấp nhận lời của các nhà sư. Bức tượng Quan âm thực sự có quyền năng kỳ diệu và sẽ mang lại những đứa con cho các phù nữ sùng đạo khi cầu khấn bà ta.

    Cả hai người lão Hồng và Tào Can rất ngạc nhiên trước tuyên bố này của quan án.

    - Toàn bộ huyện này - Tào Can cho biết - đang sôi sục những tin đồn về những chuyện đáng xấu hổ xảy ra trong ngôi chùa đó ! Tôi cầu xin đại nhân cho tôi đi đến đó một lần nữa, hoặc người nào khác như lão Hồng đến đó và điều tra kỹ lưỡng hơn.

    Tuy nhiên Địch công lắc đầu.

    - Sự giàu có và thịnh vượng dễ làm người ta ganh tỵ - ông nói - đó là chuyện thường xảy ra. Cuộc điều tra về ngôi chùa Phổ Độ được ngưng lại.

    Lão Hồng định cố gắng thuyết phục quan án, tuy nhiên ông đã quá biết rõ khi quan án đã nói ra thì khó mà lay chuyển được, nên ông đành bỏ qua.

    - Hơn nữa - quan án nói tiếp - nếu Mã Tông cần sự giúp đỡ trong việc tìm kiếm kẻ sát nhân tại phố Bán Nguyệt thì Tào Can phải sẵn sàng giúp đỡ anh ta.

    Tào Can tỏ vẻ thất vọng và định nói gì đó, nhưng ngay sau đó tiếng chiêng vang lên trong tòa án và Địch công đứng lên, mặc quan phục cho buổi xử án chiều.

    Đám đông khán giả đã tụ tập trong tòa án, mọi người dự kiến rằng quan án Địch sẽ tiếp tục xét xử trường hợp của anh khoá Vương mà ông bỏ dở lúc trưa.

    Ngay khi ngồi trước các giấy tờ, Địch công nhìn trừng trừng vào đám đông trong hội trường và nói:

    - Kể từ khi các công dân của huyện Phổ Dương có sự quan tâm đến các thủ tục tố tụng của tòa án này, ta sẽ nhân dịp này mà đưa ra lời cảnh báo chung. Ta đã chú ý có một số kẻ xấu xa trong huyện này tung những tin đồn ác ý đến ngôi chùa Phổ Độ. Ta, quan án sát, nhắc nhở các ngươi là bộ luật hình sự có quy định rõ ràng chống lại sự lây lan tin đồn bôi nhọ và sự buộc tội vô căn cứ. Những kẻ cố tình chống lại pháp luật sẽ bị truy tố theo quy định của luật pháp.

    Sau đó, Địch công gọi những người có liên quan trong vụ tranh chấp đất đai đến trước công đường và dành một số thời gian để giải quyết vấn đề đó. Ông không gọi bất cứ ai liên quan đến vụ án tại phố Bán Nguyệt.

    Khi phiên tòa sắp kết thúc, có một số lộn xộn gần cửa vào hội trường tòa án.

    Địch công nhìn từ các tài liệu để trước bàn và thấy một bà già đang cố gắng lách qua đám đông theo cách của mình. Quan án ra dấu cho đội trưởng và ông đã đi cùng với hai bộ đầu đem bà ta đến trước bàn xử án.

    Người thư lại cao cấp ghé tai Địch công và thì thầm:

    - Thưa đại nhân, đó là một bà già điên, hết tháng này đến tháng khác bà ta quấy rối quan án Phụng với một đơn khiếu nại tưởng tượng. Tôi xin đại nhân đuổi bà ta đi.

    Địch công không bình luận gì trước lời khuyên trên nhưng đã nhìn chăm chú người đàn bà đứng trước mặt ông. Bà ta dường như đã qua tuổi trung niên và bước đi khá khó khăn, phải dựa vào một cây gậy dài. Chiếc áo bà ta mặc tuy xơ xác, vá víu nhiều chỗ nhưng sạch sẽ và gọn gàng. Bà ta có một khuôn mặt đoan chính.

    Khi bà chuẩn bị quỳ xuống. Địch công ra dấu cho các bộ đầu:

    - Người già và người bệnh tật không phải quỳ trước tòa án của ta. Hãy đứng tại đó, thưa bà, xin nói tên và cho biết bà khiếu nại điều gì.

    Bà già cúi đầu và nói bằng giọng run run:

    - Kẻ hèn này được gọi là Lương tên là Quế Trang. Tôi là góa phụ của Lương Bài Phong, một thương gia của thành phố Quảng Đông.

    Sau khi nói những lời này nước mắt chảy dài trên má bà ta và cơ thể gầy gò của bà rung lên trong những tiếng nức nở.

    Địch công nhận thấy bà nói bằng tiếng Quảng Đông, một thứ tiếng mà ngài không dễ dàng hiểu được. Hơn nữa, hiện giờ bà đang ở trong tình trạng xúc động mạnh. Địch công liền nói với bà:

    - Thưa bà, ta không thể để bà đứng tại đây quá lâu. Ta sẽ nghe câu chuyện của bà trong văn phòng riêng của ta.

    Quay lại lão Hồng đang đứng phía sau ghế của mình ông ra lệnh:

    - Đưa người đàn bà này đến phòng tiếp tân và phục vụ trà cho bà ta.

    Khi người phụ nữ lớn tuổi đã được dẫn đi, Địch công giải quyết một số vấn đề lặt vặt sau đó tuyên bố bãi đường.

    Lão Hồng đã chờ đợi quan án trong văn phòng riêng của mình.

    - Thưa đại nhân - ông nói - người phụ nữ này có vẻ loạn trí. Khi bà ta đã uống một tách trà, tâm trí bà có vẻ bình tĩnh lại trong vài phút. Bà đã cho tôi biết bà và gia đình của bà đã bị một số oan ức khủng khiếp. Sau đó bà ta lại bắt đầu khóc và ngôn ngữ trở nên rời rạc. Tôi đã nhờ một người gia nhân già của gia đình đại nhân đến đây giúp bà ta bình tĩnh lại.

    - Rất khôn ngoan, lão Hồng - Địch công nói - chúng ta sẽ chờ đợi cho đến khi bà ta hoàn toàn bình tĩnh và sau đó sẽ nghe bà ta trình bày. Trong hầu hết các trường hợp, những sai lầm như thế chỉ có trong tâm trí cuồng loạn của họ. Tuy nhiên, không một người nào đến kiện đòi công lý tại tòa án này bị đuổi đi trước khi ta hiểu thấu được vấn đề của vụ án !

    Địch công đứng lên và chắp tay sau lưng đi đi lại lại trong phòng. Chấp sự Hồng vội hỏi điều gì làm cho quan án lo lắng, khi đó ông dừng lại và nói:

    - Bây giờ chỉ có chúng ta với nhau, ta muốn kể cho ông, người bạn trung thành và là cố vấn của ta, một tuyên bố cuối cùng về ngôi chùa Phổ Độ. Đến gần đây để không ai nghe thấy được chúng ta.

    Hạ thấp giọng xuống, Địch công nói tiếp:

    - Ông sẽ hiểu tại sao chúng ta không có mục tiêu để tiếp tục điều tra. Lần điều tra đầu tiên, gần như không thể tìm được một bằng chứng xác định. Tào Can, người mà ta đặt niềm tin rất lớn, không thể khám phá ra lối vào bí mật. Và những nhà sư, bằng một số cách nào không rõ đã phạm những tội ác bỉ ổi. Nhưng chúng ta không hy vọng những nạn nhân đứng ra làm chứng chống lại bọn chúng bởi vì như thế sẽ phơi bày bản thân họ, chồng của họ sẽ nhạo báng và khinh miệt họ, những đứa con họ sinh ra sẽ bị nghi ngờ về sự hợp pháp. Bên cạnh đó có một số lý do vững chắc, mà ta sẽ chỉ nói riêng cho ông biết, với sự tin tưởng nghiêm ngặt.

    Kề vào sát tai của lão Hồng, quan án thì thầm:

    - Gần đây ta nhận được những tin tức đáng lo ngại từ kinh thành. Có vẻ như Giáo hội Phật giáo, bây giờ đã có quyền lực, bắt đầu len lỏi vào triều đình. Thông qua các mệnh phụ phu nhân đã theo đạo Phật, bọn thầy chùa áo đen đã thành công trong việc lấy được lòng tin của Hoàng thượng. Hoàng thượng đã cho phép chúng truyền bá các học thuyết sai lầm của chúng.

    Trụ trì của tu viện Bạch Mã tại thủ đô đã được bổ nhiệm là thành viên của hội đồng tối cao. Ông ta và phe nhóm của mình can thiệp vào công việc bên ngoài và bên trong của triều đình. Gián điệp và tay chân chúng có mặt khắp mọi nơi. Các bầy tôi trung thành của triều đình rất lo lắng về vấn đề này.

    Địch công cau mày và nói tiếp trong giọng nói còn nhỏ hơn:

    - Tất cả là như thế, ông sẽ hiểu những gì có thể xảy ra khi ta mở một cuộc điều tra chống lại chùa Phổ Độ. Chúng ta không phải chống lại một tội phạm bình thường, chúng ta đứng ra chống lại một tổ chức mạnh mẽ trong quốc gia. Bè lũ Phật giáo ngay lập tức sẽ chống lưng cho vị sư trụ trì và hỗ trợ hắn ta đầy đủ. Họ sẽ bắt đầu một chiến dịch tại tòa án, gây ảnh hưởng đến huyện này, và những món quà sẽ được gởi đến những nơi thích hợp. Thậm chí nếu ta có tìm thấy một bằng chứng không thể chối cãi, rất lâu trước khi ta có thể hoàn thành được việc đó, ta sẽ thấy bản thân mình bị tống ra một huyện nào đó xa xôi gần biên giới. Thậm chí, sẽ có cả đống lời vu cáo, buộc tội ta được gởi về kinh đô.

    - Điều này có nghĩa, thưa đại nhân - lão Hồng phẫn nộ thốt lên - rằng chúng ta hoàn toàn bị bất lực ?

    Địch công buồn bã gật đầu. Sau một lúc suy nghĩ ông nói với một tiếng thở dài:

    - Nếu có một khả năng xảy ra, đó là khám phá tội ác, kết án những tên tội phạm và hành quyết chỉ trong cùng một ngày ! Tuy nhiên, ông biết rằng luật pháp của chúng ta ngăn cản một thủ tục tuỳ ý như thế. Thậm chí nếu ta có được những lời thú tội đầy đủ, án tử hình cũng phải được tòa án Hoàng gia chấp thuận, và sẽ mất rất nhiều tuần trước khi báo cáo của ta đến được nơi đó thông qua các cơ quan cấp quận và cấp tỉnh. Điều này sẽ làm cho các phe nhóm phật giáo có đủ thời gian để ém đi báo cáo của ta, ra các lệnh bãi nhiệm và bản thân ta bị mất chức vụ trong sự nhục nhã. Bây giờ ta sẵn sàng mạo hiểm sự nghiệp của ta và thậm chí cả tính mạng của ta, nếu ta có thể nhìn thấy dù chỉ một cơ may thành công nhỏ nhất trong việc loại bỏ khối u này ra khỏi xã hội của chúng ta. Nó rất tốt, tuy nhiên, cơ hội đó sẽ chẳng bao giờ có !

    Trong thời gian này, lão Hồng, ta yêu cầu ông không được để hé ra một lời nào từ môi của ông về những gì chúng ta nói hôm nay và ta cấm ông nhắc đến vấn đề này một lần nữa, Ta tin rằng lão trụ trì có cài gián điệp trong tòa án này. Mỗi một lời về chùa Phổ Độ là quá nhiều.

    Nào, bây giờ đi xem người đàn bà lớn tuổi đó có thể trả lời câu hỏi chưa ?

    Khi lão Hồng trở lại với người phụ nữ lớn tuổi, Địch công mời bà ta ngồi xuống một chiếc ghế thoải mái đối diện với bàn làm việc của mình. Sau đó ông chân thành hỏi:

    - Ta vô cùng bực bội, thưa bà, khi nhìn thấy bà đau khổ như thế. Bà vừa nói chồng bà tên Lương, nhưng bà chưa nói chi tiết cho ta biết chồng bà chết như thế nào và những oan ức mà bà phải chịu đựng.

    Với đôi tay run rẫy, bà lão dò dẫm trong tay áo mình và đưa ra một cuộn giấy bọc trong một mảnh gấm đã bị nhạt màu. Bà đưa cho quan án bằng cả hai tay. Bà nói bằng giọng ấp úng:

    - Nếu có thể, thưa đại nhân, xin hãy đọc nội dung của cáo trạng này. Bây giờ đầu óc tôi rối bời và tôi không thể suy nghĩ điều gì lâu hơn vài phút. Tôi không bao giờ có thể cung cấp cho đại nhân những nỗi oan ức khủng khiếp mà bản thân tôi và gia đình tôi phải chịu đựng. Đại nhân sẽ tìm thấy tất cả trong bản cáo trạng đó.

    Dựa lưngvào ghế của mình, bà ta lại bắt đầu nức nở. Địch công ra lệnh cho lão Hồng đem cho bà ta một tách trà đậm và sau đó lấy bản cáo trạng ra khỏi bao gấm. Nó là một bản cáo trạng dày, màu ngã vàng theo thời gian và sử dụng lâu dài. Từ cái nhìn đầu tiên ông thấy nó là một lời buộc tội dài, rõ ràng là được viết bởi một người học giả tài năng, trình bày mạch lạc và chữ viết rất thanh lịch.

    Liếc nhìn qua nó, Địch công lưu ý rằng bản cáo trạng này là một bằng chứng gián tiếp của một mối hận thù giữa hai gia đình thương gia giàu có tại Quảng Đông, được gọi là Lương và Lâm. Nó bắt đầu từ khi Lâm quyến rũ vợ của Lương. Sau đó Lâm không ngừng bức hại gia đình Lương, cướp đi tất cả tài sản của họ. Khi Địch công đọc đến cuối bản cáo trạng và nhìn ngày tháng ghi trên đó, ông nhìn lên với vẻ ngạc nhiên và nói:

    - Thưa bà, bản cáo trạng này đã có cách đây hơn hai mươi năm !

    - Tội ác tàn nhẫn - bà lão nói bằng giọng nhẹ nhàng - không thể nào được xóa bỏ bởi thời gian.

    Quan án liếc qua các tài liệu khác và thấy rằng nó đều gắn liền với các giai đoạn khác nhau sau này trong những trường hợp tương tự, các bản cáo trạng gần nhất cách đây hai năm. Tuy nhiên vào cuối mỗi bản cáo trạng, dù là cũ hay mới luôn luôn là một dòng chữ bằng mực đỏ, ghi lời phán quyết của quan án sát " Tòa án bác đơn kiện vì thiếu bằng chứng".

    - Ta quan sát thấy - Địch công cho biết - rằng tất cả những điều này xảy ra tại thành phố Quảng Đông. Tại sao bà lại rời bỏ ngôi nhà cũ của gia đình bà ?

    - Tôi đến Phổ Dương - bà ta đáp - bởi vì tên tội phạm chính, Lâm Phương, đã đến sống tại huyện này.

    Địch công không nhớ đã từng nghe thấy cái tên này. Ông cuộn lại tài liệu và vui vẻ nói:

    - Ta sẽ nghiên cứu kỹ lưỡng các tài liệu này, thưa bà. Ngay sau khi ta đả có kết luận, ta sẽ mời bà đến đây một lần nữa để được tư vấn thêm.

    Bà lão từ từ đứng dậy và cúi đầu thật sâu, bà nói:

    - Trong nhiều năm qua tôi đã luôn chờ đợi một thẩm phán, một người có thể rửa sạch mọi nỗi oan ức của tôi. Thượng đế đã gởi ngài đến đây để giúp tôi !

    Lão Hồng dẫn bà ta rời khỏi phòng. Khi ông trở lại Địch công nói:

    - Ngay từ cái nhìn đầu tiên, ta đã nhìn ra đây là một trong những trường hợp gây nhiều tranh cãi, một tên bất lương thông minh và có học thức đã làm giàu từ sự cướp đoạt tài sản của người khác. Rõ ràng nỗi buồn và thất vọng đã hằn sâu vào tâm trí của người phụ nữ lớn tuổi này. Điều tối thiểu ta có thể làm giúp bà ta là thực hiện việc nghiên cứu cẩn thận tài liệu này, mặc dù ta nghi ngờ rất nhiều là sẽ tìm thấy một lỗ hỗng trong lập luận của người đi kiện. Ta nhận thấy vụ kiện này đã qua tay ít nhất một thẩm phán, người nổi tiếng như là một luật gia xuất sắc và hiện nay đang ngồi trên Tòa án tối cao.

    Sau đó, Địch công cho gọi Tào Can. Khi ông nhìn thấy khuôn mặt dài thuỗn ra vì thất vọng của người thuộc hạ, ông nói với nụ cười:

    - Vui lên đi, Tào Can, bây giờ ta có việc làm tốt hơn cho ngươi thay vì cứ quanh quẩn với cái bọn đầu trọc ấy ! Tới nơi bà già Lương đang sinh sống, thu thập tất cả thông tin về bản thân bà và gia đình bà ta. Sau đó, ta muốn ngươi theo dõi một người đàn ông giàu có tên là Lâm Phương, hắn ta phải sống một nơi nào đó tại huyện này. Ngươi cũng có trách nhiệm báo cáo mọi việc về hắn ta. Ngươi nên biết một điều là cả hai người đó đều là người Quảng Đông và định cư tại đây chỉ cách đây vài năm.

    Địch công cho Tào Can và lão Hồng lui ra và yêu cầu người thư lại cao cấp mang đến một số tài liệu liên quan đến những công việc thông thường trong huyện.

  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 7

    Mã Tông phát hiện ra một ngôi đền đạo Lão vắng vẻ
    Một cuộc chiến bạo lực diễn ra tại sân đền
    Chiều hôm đó sau khi rời khỏi văn phòng của Địch công, Mã Tông đã về phòng riêng của mình và thay đổi bề ngoài bản thân bằng vài cách đơn giản.

    Anh lột mũ của mình, làm rối tóc và buộc nó bằng một miếng vải bẩn thỉu. Anh mặc vào một cái quần rộng thùng thình và buộc chặt nó vào mắt cá chân bằng một sợi dây rơm. Sau đó anh vắt chiếc áo khoác ngắn lên vai và xỏ vào chân đôi giày cỏ.

    Trong bộ trang phục lưu manh này, anh lẻn ra khỏi tòa án bằng cửa hông và lẫn vào đám đông trên đường phố. Anh hài lòng sau khi thấy mọi người nhìn mình và vội vã tránh xa để anh đi qua. Người bán hàng rong nắm chặt hàng hóa trên tay mình khi thấy anh đến gần. Mã Tông tạo cho bộ mặt mình một vẻ cô hồn và trong một lúc anh cảm thấy khá thích thú với bản thân.

    Nhưng một lúc sau đó anh nhận ra, tất nhiên, rằng nhiệm vụ mà anh thực hiện không phải dễ dàng như anh đã nghĩ. Anh đã có một bữa ăn tối tệ hại tại một gánh hàng rong dành cho kẻ lang thang trên phố, uống rượu cặn trong một cái nhà tồi tàn và nghe đầy lỗ tai những cuộc cãi vã với nhau chỉ vì vài đồng xu. Tuy nhiên, tất cả những kẻ lang thang trên đường phố đều là bọn trộm cắp vặt và móc túi. Anh nhận ra rằng mình không thuộc vào nhóm nào trong bọn cặn bã tại địa phương, những người đã có tổ chức thành băng nhóm, và biết chính xác những gì đang diễn ra trong thế giới ngầm.

    Chỉ sau khi màn đêm buông xuống Mã Tông mới có một đầu mối. Anh đang buộc mình phải nuốt xuống cổ họng cái chất lỏng khủng khiếp được gọi là rượu cặn tại một hàng rong trên phố thì nghe được một phần câu chuyện của hai tên ăn xin, những người đang dùng bữa tối của họ tại đó. Một tên hỏi về nơi tốt để có thể chôm vài bộ quần áo. Tên kia trả lời : " Những anh bạn tại Đền Đỏ sẽ biết !"

    Mã Tông biết rằng bọn tội phạm hạ cấp thường tụ tập quanh một số các ngôi đền đổ nát. Tuy nhiên, hầu hết các ngôi đền đều có các cây cột và cửa sơn màu đỏ, anh không biết làm thế nào để xác định vị trí cụ thể của nó tại đây, một nơi mà anh chỉ vừa mới đến cách đây vài ngày. Anh quyết tâm phải tìm ra nó. Đi bộ đến khu vực chợ gần cổng phía Bắc thành phố, anh tóm chặt lấy một thằng nhóc ăn xin và nói thô lỗ yêu cần dẫn anh tới "Đền Đỏ". Không thèm trả lời, thằng nhóc dẫn anh đi qua một mê cung những con hẻm nhỏ hẹp, quanh co đến một khu vực hình vuông màu đen. Thừa lúc anh không chú ý, thằng nhóc giựt tay mình ra khỏi tay anh và biến mất.

    Mã Tông nhìn thấy cánh cửa lớn của một ngôi đền đạo Lão phía trước, bóng của nó hiện ra mờ nhạt trên nền trời đêm. Bên phải và trái ngôi đền là những bức tường gớm ghiếc của các ngôi biệt thự cũ, bên cạnh đó là những ngôi nhà gỗ xiêu vẹo dựa vào các bức tường đổ nát của nó. Khi ngôi đền còn đang thịnh vượng thì các gian nhà gỗ này là nơi buôn bán phục vụ cho những người mộ đạo, nhưng giờ đây nó đã bị những kẻ sống ngoài vòng pháp luật của thành phố chiếm đoạt làm nơi trú ngụ.

    Toàn bộ sân đền tràn ngập rác và rác. Mùi mồ hôi trộn lẫn với mùi dầu ăn rẻ tiền tỏa ra từ cái bếp tạm bợ mà một lão già đang chiên bánh. Một ngọn đuốc cắm vào kẻ nứt trên tường tỏa ánh sáng chập chờn. Mã Tông phát hiện một nhóm đàn ông ngồi xổm thành vòng tròn đang sát phạt nhau.

    Mã Tông buớc tới nhóm đánh bạc này. Một gã đàn ông to béo ở trần với cái bụng khổng lồ đang ngồi trên một bình rượu dựa lưng vào tường. Mái tóc dài và bộ râu rối bù của y dính đầy dầu mỡ và bụi bẩn. Hắn theo dõi cuộc sát phạt với đôi mắt nặng nề và dùng tay trái gãi bụng. Cánh tay phải to như một cột buồm nắm chặt một cây gậy. Ba tên đánh bạc chụm đầu vào nhau đổ xúc xắc, trong khi đó những kẻ chầu rìa ngồi khuất trong bóng tối.


    Mã Tông gặp Trịnh Bá

    Mã Tông đứng đó một thời gian xem đổ xúc xắc. Dường như chẳng ai chú ý đến sự có mặt của anh. Anh đang tự hỏi làm thế nào để bắt chuyện thì một tiếng nói vang lên từ gã to lớn đang ngồi trên bình rượu:

    - Tôi thích cái áo khoác của bạn đấy, người anh em !

    Ngay lập tức Mã Tông nhận ra mình là trung tâm của sự chú ý. Một con bạc bỏ xúc xắc xuống và đứng lên. Hắn ta không cao như Mã Tông nhưng cánh tay trần của hắn cho thấy một sức mạnh dẻo dai, cán một con dao găm ló ra từ thắt lưng của hắn. Hắn ta vừa cười toe toét vừa tiến đến bên phải Mã Tông, hắn dùng tay phải rút con dao ra khỏi thắt lưng và dùng tay trái vuốt ve con dao găm đang cầm. Gã to béo đứng lên phủi quần và với cây gậy trong tay đã đứng chắn trước mặt Mã Tông.

    Với cái liếc mắt đểu cáng hắn nói:

    - Chào mừng bạn đã đến với Ngôi đền của những người anh em siêu việt. Tôi không ngoa khi nói rằng tinh thần mộ đạo đã thúc đẩy bạn đến đây để cúng dường nơi linh thiêng này vài lễ vật. Tôi xin đảm bảo với bạn, chiếc áo khoác bạn đang cầm trên tay sẽ được đón nhận với lòng biết ơn !

    Trong lúc nói chuyện hắn ta chuẩn bị để tấn công.

    Trong nháy mắt Mã Tông lập tức nhận ra tình thế nguy hiểm của mình. Đó là cây gậy xấu xí nằm trong tay phải của tên béo trước mặt mình và con dao găm của tên đứng bên phải.

    Ngay khi tên béo kết thúc bài phát biểu của mình thì cánh tay trái của Mã Tông đã vung ra. Nắm chặt vai phải của tên béo, anh nhấn ngón tay cái của mình vào huyệt đạo cánh tay đang cầm gậy. Tên béo nắm cổ tay trái của Mã Tông kéo về phía trước với ý định dùng đầu gối thúc vào bụng anh. Cùng lúc đó Mã Tông đã cung tay phải lại và dùng cùi chỏ đánh mạnh vào mặt tên cầm dao găm, hắn ngã ra với một tiếng kêu khàn khàn. Sau đó, với cử động liên tục cánh tay phải của Mã Tông di chuyển về phía trước và tung một cú đấm vào mạng mỡ tên béo. Tên béo buông cổ tay Mã Tông ra và nằm lăn ra đất với tiếng thở hổn hển.

    Nhưng tên cầm dao đã từ sau lưng dùng một cánh tay cơ bắp siết chặt cổ họng của Mã Tông. Mã Tông cúi xuống và dùng cằm giữ chặt lấy cổ tay hắn, trong khi dùng tay dò dẫm phía sau. Bàn tay trái của anh chỉ xé được một mảnh y phục của đối thủ nhưng anh đã dùng chân móc vào chân gã kia và xoay người làm cả hai ngã lăn ra đất. Tuy ngã xuống nhưng Mã Tông nằm trên và dùng toàn bộ trọng lượng cơ thể của mình đè nghiến đối thủ và đã làm vỡ xương chậu tên kia. Mã Tông nhảy lên vừa kịp lúc để tránh con dao găm tên kia đâm ra trong khi hắn lồm cồm bò dậy.



    Mã Tông tóm lấy bàn tay cầm dao, xoay người để nó nằm trên vai sau đó cúi người và quăng đối thủ thành một hình vòng cung trong không khí. Hắn đập vào bức tường, ngã xuống làm vỡ một bình rượu rỗng và nằm im.

    Mã Tông nhặt con dao găm lên và ném qua bức tường. Anh quay lại nói với những tên trong bóng tối:

    - Tôi có thể hơi thô bạo nhưng tôi ghét những kẻ sử dụng dao găm !

    Anh được đáp lại bằng những tiếng lẩm bẩm của đám đông.

    Tên béo vẫn còn nằm trên mặt đất và nôn mửa, hắn không ngớt nguyền rủa.

    Mã Tông nắm râu hắn ta và ném hắn vào tường. Tên béo rơi đánh huỵch vào đó và ngồi xổm dựa lưng vào tường, mắt gườm gườm nhìn Mã Tông. Hắn ta thở hổn hển.

    Sau một thời gian tên béo đã hồi phục chút ít, hắn cất giọng khàn khàn:

    - Bây giờ, thủ tục chào hỏi đã xong, người anh em có thể nói tên và nghề nghiệp của mình ?

    - Tên của tôi - Mã Tông tình cờ trả lời - là Tông Bảo và tôi là một người buôn bán trung thực trên đường liên tỉnh. Sáng sớm hôm nay, khi mặt trời vừa mọc tôi đã gặp một thương gia giàu có. Ông ta rất ưa thích hàng hóa của tôi nên đã mua rất nhiều và trả cho tôi 30 lạng bạc. Vì vậy, tôi vội vã đến đây để thắp hương cho các vị thần như là dấu hiệu của lòng biết ơn của tôi.

    Đám đông cười ha hả và hỏi Mã Tông đã ăn tối chưa. Khi Mã Tông trả lời là chưa, gã béo hét lên với người chiên bánh dầu, và ngay sau đó bọn họ đã quây quần chung quanh đống lửa và ăn bánh dầu được chiên với tỏi.

    Người đàn ông béo xưng tên mình là Trịnh Bá và hãnh diện giới thiệu mình là người cầm đầu của tất cả những tên côn đồ lang thang trong thành phố kiêm cố vấn của bọn Cái bang. Ông và những thuộc hạ đã định cư tại ngôi đền này khoảng hai năm trước đây. Trước đây ngôi đền rất thịnh vượng nhưng vì một lý do gì đó nó đã bị niêm phong bởi chính quyền thành phố và các nhà sư đã bỏ đi. Trịnh Bá nói rằng nơi này là một chỗ đẹp và yên tĩnh, không cách xa trung tâm thành phố.

    Mã Tông tâm sự với Trịnh Bá rằng anh đang ở một tình trạng khó khăn. Anh đã giấu 30 lạng bạc ở nơi an toàn, anh muốn chuồn khỏi thành phố càng nhanh càng tốt vì người thương gia bị cướp có thể đi báo quan. Anh không thích thú với ý nghĩ sẽ đi lại trong thành phố với 30 lạng bạc nặng nề trong người. Anh muốn đổi nó thành một món trang sức nhỏ có thể dễ dàng giấu trong người. Anh đang suy nghĩ về vấn đề này.

    Trịnh Bá gật đầu và đồng ý với suy nghĩ trên:

    - Đúng thế, người anh em, đó là một sự đề phòng khôn ngoan. Nhưng bạc là một mặt hàng có giá trị. Chúng tôi thường sử dụng tiền đồng. Bây giờ nếu trao đổi bạc thành một món gì đó nhỏ hơn nhưng có giá trị tương đương thì chỉ có thể là vàng. Và nói cho anh bạn biết một sự thật, trong đám anh em chúng tôi, vàng chỉ có thể nhìn thấy duy nhất một lần trong cuộc đời, nếu có thể !

    Mã Tông đồng ý rằng vàng quả là một kho báu khó tìm, tuy nhiên anh nói thêm là có thể một người ăn xin lụm được vàng rớt ra từ kiệu của một mệnh phụ phu nhân nào đó. " Tin tức về chuyện may mắn này - anh nói thêm - chắc chắn là một cố vấn của Cái Bang như bạn sẽ sớm nghe được nó !"

    Trịnh Bá chậm rãi gãi bụng của mình và đồng ý rằng một điều như thế không phải là không thể xảy ra.

    Mã Tông nhận thấy ông ta không nhiệt tình lắm khi nói về điều này.

    Anh dò dẫm trong tay áo của mình và lấy ra một mảnh bạc. Anh cầm trên lòng bàn tay của mình để cho ánh sáng của ngọn đuốc chiếu vào nó.

    - Khi tôi giấu 30 lạng bạc của tôi - anh nói - tôi đã giữ lại một miếng này để làm bùa may mắn. Tôi tự hỏi anh bạn có chấp nhận nó như là một khoản tạm ứng trên hoa hồng cho người trung gian của vụ mua bán không.

    Trịnh Bá giật lấy miếng bạc trong tay Mã Tông với sự nhanh nhẹn tuyệt vời. Với nụ cười toe toét, ông nói:

    - Người anh em, để xem tôi có thể làm được gì cho anh. Hãy quay lại đây vào ngày mai !

    Mã Tông cảm ơn ông ta và những người bạn mới quen với những từ ngữ tốt đẹp.

  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 8

    Địch công quyết định đi thăm các đồng nghiệp
    Ông giải thích về vụ án hiếp dâm tại phố Bán Nguyệt
    Sau khi quay về tòa án, Mã Tông nhanh chóng thay đổi quần áo và đi đến sân chính. Anh nhìn thấy vẫn còn ánh đèn trong phòng riêng của quan án.

    Buớc vào phòng anh thấy Địch công và lão Hồng đang nói chuyện.

    Khi Địch công thấy Mã Tông bước vào, ông ngưng cuộc trò chuyện lại và hỏi:

    - Có tin tức gì mới không anh bạn ?

    Mã Tông báo cáo ngắn gọn về cuộc gặp gỡ của anh với Trịnh Bá và nói cho quan án về lời hứa của họ.

    Địch công tỏ ra hài lòng.

    - Đó quả thật là những may mắn phi thường - ông nói - khi mà ngươi đã phát hiện ra tên tội phạm ngay từ những ngày đầu khi mới đến thành phố này. Ngươi đã có một khởi đầu tuyệt vời. Tin tức sẽ nhanh chóng lan ra trong thế giới ngầm theo những con đường của nó và ta nghĩ rằng ngươi đã thiết lập được mối quan hệ với người đàn ông đó. Ta không nghi ngờ gì trong thời gian sắp tới Trịnh Bá sẽ cung cấp cho ngươi một đầu mối về cây trâm còn thiếu và nó sẽ dẫn ngươi tới tên giết người.

    Bây giờ, trước khi ngươi đến, ta và lão Hồng đang thảo luận về sự khôn ngoan cần thiết phải thiết lập các mối quan hệ. Ngày mai ta sẽ đi thăm xã giao các đồng nghiệp tại các huyện lân cận. Sớm hay muộn ta sẽ phải thực hiện điều này và hiện tại có vẻ là thời gian thích hợp. Ta sẽ vắng mặt tại Phổ Dương từ một đến hai ngày. Trong thời gian chờ đợi, ngươi sẽ tiếp tục nỗ lực để bắt kẻ sát nhân ở phố Bán Nguyệt. Nếu ngươi cảm thấy cần thiết ta sẽ ra lệnh cho Triệu Thái tham gia vào việc tìm kiếm.

    Mã Tông nghĩ tốt hơn là anh nên điều tra một mình, nếu có hai người cùng tìm hiểu về một đối tượng dễ gây ra nghi ngờ. Quan án đồng ý và Mã Tông lui ra.

    - Nó rất thuận lợi - lão Hồng trầm ngâm nói - nếu đại nhân vắng mặt một hoặc hai ngày và tòa án đóng cửa. Đó là một lý do hợp lý để hoãn lại vụ xử tên Vương. Tin đồn đang lan nhanh là đại nhân bảo vệ tên Vương vì anh ta là người có học, trong khi nạn nhân chỉ là con gái một chủ tiệm nghèo.

    Địch công nhún vai và nói:

    - Nếu có thể được, ta muốn đến Hứa Di vào sáng ngày mai. Ngày hôm sau, ta sẽ đến Tần Hoài và quay trở lại đây vào ngày thứ ba. Mã Tông và Triệu Thái có lẽ sẽ cần hướng dẫn trong thời gian ta vắng mặt, ông tốt hơn không nên đi cùng với ta, ông ở lại đây và chịu trách nhiệm về con dấu của huyện đường.. Ông nên cung cấp các hướng dẫn cần thiết để chọn món quà lịch sự phù hợp cho đồng nghiệp của ta là ông Phan ở Hứa Di và quan án Lỗ, thẩm phán Tần Hoài. Chuẫn bị kiệu và hành lý của ta sẵn sàng tại sân chính vào sáng sớm ngày mai.

    Lão Hồng đảm bảo với quan án là những việc ông yêu cầu sẽ chắc chắn được thực hiện không cần phải lo lắng. Địch công chồm người tới trước để đọc một số giấy tờ mà người thư lại cao cấp đặt trên bàn chờ ông phê duyệt.

    Viên chấp sự hình như vẫn chưa muốn bỏ đi và vẫn đứng trước bàn của quan án.

    Sau một lúc Địch công nhìn lên và ngạc nhiên hỏi:

    - Có gì thắc mắc trong đầu thế, bác Hồng ?

    - Thưa đại nhân, tôi đang suy nghĩ về vụ án hiếp dâm, tôi đã đọc đi đọc lại hồ sơ. Nhưng tôi vẫn không nhận ra được vấn đề như ngài đã nói. Bây giờ đã muộn nhưng nếu trước khi đại nhân rời khỏi đây vào ngày mai đại nhân có thể giải thích thêm cho tôi, tôi sẽ có thể ngủ ngon trong hai đêm mà đại nhân vắng mặt !

    Địch công mỉm cười và đặt tài liệu đang đọc dở xuống bàn. Sau đó, ông ngồi dựa lưng vào ghế và nói:

    - Bác Hồng - ông nói - ra lệnh cho gia nhân đem đến một bình trà và sau đó ngồi xuống chiếc ghế trước bàn này. Ta sẽ giải thích cho bác những gì ta nghĩ đã xảy ra vào cái đêm 16 định mệnh đó.

    Khi đã uống xong một tách trà đậm, Địch công bắt đầu:

    - Ngay từ khi ta biết được các sự kiện chính của vụ án này, ta đã loại trừ khả năng tên Vương là người đàn ông đã hãm hiếp Ngọc Trinh. Đúng là phụ nữ đôi khi có thể gợi hứng cho một người đàn ông xa lạ và độc ác. Nó không phải là không có lý do thực sự vì trong Biên niên sử của Xuân Thu, Khổng tử của chúng ta đã từng đề cập đến phụ nữ là một "điềm gở"

    Có hai loại người, tất nhiên, ta có thể nghĩ đến có thể có hành động như vậy. Thứ nhất, bọn tội phạm thấp kém hoàn toàn suy đồi về đạo đức. Thứ hai, những kẻ giàu có dâm đãng theo thời gian đã trở thành nô lệ cho bản năng biến thái của họ. Nào bây giờ ta có thể tưởng tượng rằng ngay cả một người đàn ông trẻ đàng hoàng như anh khóa Vương, nếu trong tình trạng cực kỳ sợ hãi có thể bóp cổ một cô gái. Tuy nhiên, để hiếp dâm một cô gái, người mà anh ta đã quan hệ thân mật hơn sáu tháng nay thì điều khó có thể xảy ra. Vì vậy, ta phải đi tìm một tên tội phạm ở hai tầng lớp người mà ta vừa nói ở trên.

    Ta ngay lập tức loại bỏ khả năng một người nhà giàu biến thái. Các người này sẽ dễ dàng thoả mãn được sự đam mê và truỵ lạc của mình tại những nơi bí mật mà họ sẵn sàng trả bằng vàng. Một người đàn ông giàu có thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của các chủ tiệm nghèo nơi phố Bán Nguyệt. Chắc chắn rằng sẽ không có chuyện rình mò, theo dõi những lần đột nhập của tên Vương và không có khả năng bắt chước để thực hiện một màn đu dây. Do đó, bọn tội phạm thấp kém là điều chắc chắn.

    Địch công dừng lại giây lát. Sau đó ông nói tiếp bằng giọng cay đắng:

    - Những tên lưu manh hèn mạt đi lang thang khắp thị trấn như chó đói. Nếu trong một con hẻm tối tăm, chúng tình cờ gặp một người đàn ông không có khả năng tự vệ chúng sẽ hạ gục anh ta và cướp đi số tiền mà anh ta mang trong người. Nếu họ nhìn thấy một phụ nữ đi bộ một mình họ sẽ đánh cô bất tỉnh và sau đó cưỡng hiếp cô ta, lấy đi các nữ trang cô đeo trên người và vất bỏ nạn nhân tại một rãnh nước. Khi đi ngang một trong số những ngôi nhà của người nghèo, nếu họ thấy một cánh cửa không khóa hoặc một cửa sổ để mở, chúng sẽ đột nhập vào bên trong và lấy đi một cái bình đun nước duy nhất hay vài cái áo vá.

    Không hợp lý sao khi giả thuyết là có một gã đàn ông nào đó khi đi ngang qua phố Bán Nguyệt đã tình cờ nhìn thấy cách thức mà anh khóa Vương đến thăm người yêu Ngọc Trinh của anh ta. Tên lưu manh ngay lập tức nhìn thấy cơ hội để có thể chiếm đoạt cô ta thay thế cho người tình bí mật của cô. Tuy nhiên, cô Ngọc Trinh đã tự bảo vệ mình. Có lẽ cô đã cố gắng hét lên thật to hoặc cố xô đẩy cánh cửa để báo động cho cha mẹ cô ta. Nhưng hắn đã bóp cổ cô ta. Sau khi thực hiện xong hành vi tội ác này hắn bình tĩnh lục soát phòng nạn nhân để tìm kiếm các vật có giá trị, và hắn đã lấy đi vật trang sức duy nhất mà cô có.

    Địch công dừng lại và uống một tách trà.

    Lão Hồng chậm rãi gật đầu. Sau đó ông nói:

    - Đại nhân nói anh khóa Vương không phải là thủ phạm trong vụ án đôi này. Tuy nhiên, tôi không tìm thấy bất cứ bằng chứng nào mà chúng ta có thể sử dụng tại tòa án để chứng minh điều này.

    - Nếu bác muốn có một bằng chứng xác thực - Địch công trả lời - thì bác sẽ có nó. Đầu tiên, bác đã nghe nhân viên pháp y báo cáo. Nếu anh khóa Vương bóp cổ cô Ngọc Trinh thì móng tay dài của anh ta ( ta đã chú ý quan sát móng tay của anh ta lúc anh ta điểm chỉ vào tờ khai ) sẽ để lại dấu vết sâu trên cổ họng cô ta, tuy nhiên nhân viên điều tra chỉ tìm thấy dấu móng tay cạn mặc dù da cổ họng bị xây xát đây đó. Điều này cho thấy tên hung thủ có móng tay cắt ngắn.

    Thứ hai, Ngọc Trinh đã chiến đấu hết sức mình khi bị hãm hiếp. Tuy nhiên, móng tay của cô không gây ra dấu vết sâu trên ngực và cánh tay của Vương. Những vết trầy xước này, bằng cách nào đó, là dấu vết gây ra bởi những cây gai theo như Vương nghĩ, nhưng đó chỉ là một điểm nhỏ mà ta sẽ quay lại vào lúc khác. Khả năng Vương có thể bóp cổ Ngọc Trinh, ta có thể nói sau khi hôm qua nhìn vóc dáng của Vương và nghe mô tả của các nhân viên điều tra về cô gái, ta đang tự nghĩ nếu Vương cố gắng siết cổ cô ta thì anh sẽ thấy mình bị đẩy văng ra ngoài cửa sổ !

    Thứ ba, vào buổi sáng ngày 17 khi tội ác được phát hiện, các dây vải Vương sử dụng để leo lên cửa sổ nằm một đống trên sàn nhà của căn phòng cô gái. Nếu Vương là thủ phạm vụ án này, hoặc anh ta đã ở trong phòng cô gái thì làm thế nào mà anh ta thoát ra nếu không dùng sợi dây đó? Vương không phải là vận động viên, anh ta phải nhờ sự trợ giúp của cô gái mới có thể leo lên đến cửa sổ. Tuy nhiên với một kẻ cơ bắp và có kinh nghiệm leo trèo sẽ chẳng bao giờ phải quan tâm đến sợi dây đó nếu muốn thoát thân nhanh chóng. Hắn ta sẽ làm chính xác như bác thấy Triệu Thái đã làm : đu mình xuống cho đến khi treo mình trên cửa sổ bằng bàn tay của mình sau đó thả rơi thân mình xuống.

    Đó là cách để ta vẽ ra chân dung của tên hung thủ.

    Lão Hồng gật đầu với nụ cười mãn nguyện.

    - Tất cả bây giờ đã rõ ràng với tôi - ông nói - ngài đã lý giải tất cả dựa trên những sự kiện vững chắc. Khi tên hung thủ bị bắt sẽ có nhiều bằng chứng để kết tội hắn ta và buộc hắn phải thú nhận, nếu cần thiết có thể tra tấn hắn. Không nghi ngờ gì hắn ta vẫn còn trong thành phố này, hắn ta không có lý do gì để bỏ chạy đến nơi xa xôi khác. Cả thành phố đều biết quan án Phụng đã kết án anh khóa Vương và đại nhân đã đồng ý với quyết định trên.

    Địch công chậm rãi vuốt râu và gật đầu nói:

    - Tên lưu manh đó sẽ tìm cách bán các cây trâm bằng vàng và việc này sẽ tố cáo hắn ta. Mã Tông đã thiết lập liên lạc với người đàn ông để biết khi nào thì cây trâm sẽ được bán ra trên thị trường bí mật của những tên trộm. Bác phải biết rằng một tên trộm không bao giờ đem đồ ăn cắp được bán cho thợ kim hoàn hoặc tiệm cầm đồ, vật ăn cắp chỉ được buôn bán giữa những kẻ trong thế giới ngầm như là một thói quen. Mã Tông phải thử vận may của mình với tên tội phạm của anh ta và sau đó lão trùm Trịnh Bá sẽ sớm có tin tức về nó. Như vậy, với chút xíu may mắn, Mã Tông sẽ tóm được tên tội phạm của mình.

    Địch công nhấp một ngụm trà và sau đó cầm bút đỏ cúi xuống các tài liệu của mình trên bàn.

    Lão Hồng đứng lên. Ông trầm ngâm vuốt ria mép của mình. Sau một lúc ông hỏi:

    - Hiện vẫn còn hai điểm mà đại nhân vẫn chưa giải thích. Làm thế nào mà đại nhân biết được tên tội phạm mặc trang phục của một nhà sư lang thang ? Và tại sao tiếng mõ cầm canh lại có một tầm quan trọng trong vụ án này ?

    Trong một lúc Địch công vẫn im lặng. Ông tập trung vào các tài liệu đang xem xét. Ông vừa viết một nhận xét vào bên lề tài liệu, đặt bút xuống và cuộn tài liệu lại. Sau đó, ông nhìn lão Hồng từ dưới đôi lông mày đen dày của mình và nói:

    - Về việc tiếng mõ của đội tuần canh, do anh khóa Vương mới báo sáng nay, đã làm hoàn chỉnh thêm hình ảnh của tên tội phạm. Bác phải biết rằng bọn tội phạm thường nấp dưới vỏ bọc của một tu sĩ hành khuất Đạo Lão hay Phật giáo. Hình thức này giúp chúng có thể di chuyển qua tất cả các thành phố cả ngày lẫn đêm. Vì vậy tiếng mõ cầm canh mà Vương nghe lần thứ hai ...

    - Đó là tiếng mõ của một tu sĩ hành khuất ! - Lão Hồng reo lên.


  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 9

    Hai nhà sư đến thăm quan án với một thông điệp quan trọng
    Địch công đọc một bài thơ tại bữa ăn tối với quan án Lỗ
    Sáng hôm sau, khi quan án đã mặc vào áo đi đường của mình, người thư lại cao cấp thông báo là có hai nhà sư từ chùa Phổ Độ đến tòa án với một tin nhắn từ hòa thượng trụ trì.

    Địch công vội thay đổi quan phục và ngồi vào sau bàn làm việc của mình. Một nhà sư già và nhà sư trẻ đi vào. Khi họ quỳ xuống và cúi lạy ba lần quan án nhận thấy bộ cà sa màu vàng họ đang mặc được may bằng loại gấm tốt nhất với vải lót bằng lụa tím. Họ mang các tràng hạt bằng hổ phách.

    - Với sự hướng dẫn của đức tin, trụ trì của chùa Phổ Độ - vị sư cao tuổi nói - đã hướng dẫn cho chúng tôi, những nhà sư hèn mọn, để chuyển đến đại nhân lời chào trân trọng của mình. Trụ trì của chúng tôi đánh giá cao những tuyên bố của đại nhân trong phiên tòa đầu tiên tại thành phố này. Do đó, ngài sẽ tự sắp xếp để có thể đến đây trong một chuyến thăm dài hơn. Trong khi đó, lo sợ rằng lòng tôn kính của mình là thiếu tôn trọng đối với đại nhân, trụ trì của chúng tôi cầu xin đại nhân chấp nhận một món quà nhỏ lịch sự. Hy vọng rằng đại nhân xem đó là một sự tôn trọng của trụ trì chúng tôi và lòng biết ơn chứ không phải là giá trị tầm thường của nó.

    Lão Hồng mong chờ quan án sẽ từ chối. Nhưng trước sự ngạc nhiên của ông, Địch công chỉ lẩm bẩm những lời nói lịch sự là mình không xứng đáng nhận một vinh dự lớn như thế, và khi các nhà sư đáp lễ quan án không có động thái nào cho thấy mình trả lại món quà. Ngài đứng lên khỏi ghế và cúi đầu nói:

    - Xin thưa lại với Trụ trì là ta rất biết ơn sự chu đáo của ngài và ta sẽ hồi đáp lại trong thời gian tới. Xin nói cho Trụ trì biết rằng mặc dù ta không phải là người theo con đường của đức phật Thích ca Mâu ni, ta chưa quan tâm sâu sắc đến đức tin của phật tử nhưng ta háo hức muốn có cơ hội được hướng dẫn trong giáo lý sâu sắc của ngài.

    Vị sư già đáp:

    - Chúng tôi xin tuân theo chỉ dẫn của đại nhân.

    Đồng thời, trụ trì của chúng tôi mong muốn để thưa lại với đại nhân một vài vấn đề, mặc dù là nhỏ của riêng mình, nhưng được coi là quan trọng để báo cáo với tòa án. Buổi chiều hôm qua những tuyên bố của đại nhân là tốt đẹp đối với chúng tôi, rõ ràng đã đặt ngôi chùa nghèo của chúng tôi được hưởng sự bảo hộ của đại nhân như mọi công dân trung thực của huyện này. Sau đó, ngôi chùa của chúng tôi đã bị một kẻ lừa đảo thăm viếng, hắn đã cướp của những nhà sư vô tội một số tiền mặt là tài sản của ngôi chùa và thực hiện nhiều yêu cầu láo xược. Trụ trì của chúng tôi cầu xin đại nhân sẽ ban hành các hướng dẫn cần thiết để kiềm chế các hoạt động của những tên lừa đảo.

    Địch công cúi đầu và hai nhà sư cáo lui. Quan án rất khó chịu khi biết rằng Tào Can đã giở thủ đoạn cũ của mình một lần nữa, nếu anh ta bị truy ra là người của tòa án thì lại càng tồi tệ hơn. Với một tiếng thở dài Địch công ra lệnh cho lão Hồng mở gói quà.

    Loại bỏ các giấy gói, lão Hồng nhìn thấy ba thỏi vàng và ba thỏi bạc.

    Địch công bọc chúng lại và bỏ vào tay áo của mình. Đây là lần đầu tiên lão Hồng nhìn thấy quan án chấp nhận những món quà mà rõ ràng là của hối lộ và ông rất đau khổ. Nhớ lời dặn của quan án, ông không nhận xét gì về chuyến viếng thăm của các nhà sư và âm thầm giúp quan án thay đổi trang phục thành quần áo đi đường.

    Địch công từ từ bước đến sân chính ở phía trước đại sảnh và thấy rằng đoàn tuỳ tùng của mình đã sẵn sàng. Kiệu du lịch của mình nằm trước sân với sáu bộ đầu ở phía trước và sau kiệu, những người đứng trước mang tấm biển với dòng chữ " Quan án sát của Phổ Dương ". Sáu người khiêng kiệu mạnh mẽ đứng cạnh kiệu và mười hai người đã mang các hành lý của ngài.

    Khi thấy tất cả mọi thứ đã sẵn sàng, Địch công bước lên kiệu, những người khiêng kiệu đặt các trục khiêng lên đôi vai chai sạn của họ. Đoàn rước kiệu từ từ di chuyển qua sân và cánh cửa đôi.

    Khi đoàn kiệu đi đến trước tòa án, Triệu Thái, được trang bị với cung tên và thanh kiếm cưỡi ngựa đi bên phải kiệu của Địch công, đội trưởng bộ đầu, cũng trên lưng ngựa đi bên trái.

    Sau đó, đoàn rước đi qua các đường phố của Phổ Dương. Hai người chạy trước đánh phèng la và la lớn " Dẹp đường, dẹp đường, tránh đường cho quan án sát "

    Địch công nhận thấy không có sự cổ vũ thông thường từ đám đông mỗi khi ông đi qua như trước đây. Khi nhìn qua cửa sổ mành mành của chiếc kiệu ông nhìn thấy nét mặt ũ rũ của một số người qua đường. Ngồi trở lại trên tấm đệm với một tiếng thở dài, quan án lấy đơn kiện của bà Lương từ tay áo và bắt đầu đọc chúng.

    Sau khi ra khỏi thị trấn Phổ Dương, họ theo đường lớn đi ngang qua một cánh đồng lúa. Đột nhiên Địch công thả tờ đơn kiện vào lòng, ông nhìn ra quang cảnh bên ngoài với đôi mắt vô hồn. Ông cố gắng khảo sát tất cả những hậu quả từ những hành động mà ông dự tính nhưng không thể đi đến quyết định. Cuối cùng, chuyển động lắc lư của chiếc kiệu làm ông buồn ngủ và ông đã ngủ thiếp đi. Ông chỉ tỉnh dậy vào lúc hoàng hôn khi đoàn rước tiến vào thị trấn Hứa Di.

    Quan án Phan, thẩm phán của huyện, đã tiếp Địch công trong phòng tiếp tân lớn của huyện đường và mời ông bữa ăn tối với sự góp mặt của các tầng lớp quý tộc địa phương. Quan án Phan vài năm trước đây là cấp trên của Địch công nhưng vì thất bại của hai kỳ thi văn học mà ông không được thăng tiến trong sự nghiệp.

    Địch công nhận thấy ông ta là một người đàn ông khắc khổ trong việc học tập và tinh thần độc lập. Ông cũng sớm nhận ra rằng Phan thất bại trong việc vượt qua các kỳ thi là do từ chối chạy theo thị hiếu văn học đang thịnh hành chứ không phải là vì thiếu học bổng.

    Các món ăn đơn giản nhưng điểm thu hút chính là các cuộc trò chuyện sôi nổi của chủ nhà. Địch công học được rất nhiều kinh nghiệm về các công việc hành chính của chính quyền. Khi kết thúc buổi tiệc, Địch công vào nghĩ trong căn phòng đã được chuẩn bị sẵn cho ông.

    Sáng hôm sau, Địch công từ giã quan án Phan và đi đến Tần Hoài.

    Con đường đi gập ghềnh, hai bên đường là những lùm tre và xa xa là những đồi thông bạt ngàn. Đó là một ngày thu đẹp trời và Địch công cuộn màn kiệu lại để có thể ngắm phong cảnh mê hoặc bên ngoài. Tuy nhiên, phong cảnh đẹp đẽ đó vẫn không làm ông quên đi những mối bận tâm của mình. Sau khi mệt mỏi cân nhắc những suy nghĩ và giả thuyết của mình trên vụ kiện của bà Lương ông đặt trở lại các tài liệu vào tay áo của mình.

    Trường hợp này chưa kịp rời khỏi tâm trí của ông thì ông lại bắt đầu lo lắng liệu Mã Tông có thành công trong việc tìm kiếm kẻ sát nhân trong vụ án tại phố Bán Nguyệt trong thời gian hợp lý. Bây giờ ông hối tiếc đã không để Triệu Thái ở lại Phổ Dương để tham gia vào việc tìm kiếm tên sát nhân một cách độc lập bên cạnh Mã Tông.

    Bị quấy nhiễu bởi những nghi ngờ và lo âu trong lòng khi Địch công tiến vào Tần Hoài. Sau đó, như để cho thêm phần đau khổ họ bị lỡ mất chuyến phà vượt sông. Điều này làm cho hành trình họ bị chậm trễ thêm một giờ nữa. Đó là những sự việc đen đủi của họ trước khi tiến vào thị trấn.

    Các bộ đầu cầm đèn lồng thắp sáng đến kiệu và giúp Địch công bước xuống để đi vào phòng tiếp tân chính.

    Quan án Lỗ ra chào đón và dẫn Địch công vào hội trường rộng rãi rất sang trọng. Địch công thầm nghĩ quan án Lỗ chính là hình ảnh trái ngược với quan án Phan. Ông là người thấp lùn, mập béo, còn trẻ và rất vui tính. Ông không có râu cằm nhưng để một hàng ria mép nhọn và cong vút theo đúng thời trang đang thịnh hành tại kinh thành thời gian đó.

    Khi họ đang làm các thủ tục chào hỏi thông thường Địch công nghe văng vẳng âm thanh của tiếng nhạc từ khoảng sân kề đó. Quan án Lỗ rối rít xin lỗi và giải thích rằng ông mời một vài người bạn đến để gặp Địch công. Họ đã chờ đợi hơn một giờ đồng hồ và đoán rằng Địch công được mời nán lại Hứa Di để ăn tối. Quan án Lỗ đề nghị hai người sẽ ăn tối trong một căn phòng yên tĩnh phía sau phòng tiếp tân và sẽ có một cuộc nói chuyện nghiêm túc về những vấn đề liên quan đến công việc.

    Mặc dù nói ra những lời lịch sự đó nhưng không khó khi nhận thấy một buổi nói chuyện yên tĩnh như thế không phải là ý tưởng của quan án Lỗ trong một buổi tối dễ chịu như thế này. Bản thân Địch công cũng không có tâm trạng cho một buổi nói chuyện nghiêm túc về công việc, ông nói:

    - Tôi cho ngài biết một sự thật là tôi có chút mệt mỏi và tôi vẫn muốn tham gia vào bữa tiệc đang tiến hành để có cơ hội làm quen với những người bạn của ngài.

    Quan án Lỗ ngạc nhiên nhưng cảm thấy vô cùng dễ chịu và ngay lập tức dẫn Địch công vào phòng tiệc trong sân thứ hai. Ở đó họ nhìn thấy ba quý ông tụ tập quanh bàn ăn thịnh soạn và đang vui vẻ nâng ly chúc tụng nhau.

    Họ đứng lên và cúi chào, quan án Lỗ giới thiệu Địch công. Người lớn tuổi nhất, Lỗ Phương Quang là một nhà thơ nổi tiếng và là bà con xa với quan án Lỗ. Người thứ hai là một họa sĩ có tác phẩm đang thịnh hành tại kinh thành và người thứ ba là một khóa sinh đang đi du lịch qua các tỉnh để mở rộng kiến thức. Rõ ràng ba người này là những người thích hợp để bổ sung kiến thức cho quan án.

    Địch công bước vào làm ảnh hưởng đến cuộc vui của mọi người. Sau vài câu chào hỏi theo phép xã giao thông thường, Địch công liếc nhìn và nhận thấy điều đó. Ông liền yêu cầu mọi người nâng ly và uống liền ba vòng.

    Rượu ấm đã cải thiện tâm trạng của ông. Ông hát một bản nhạc cổ xưa và được cả bàn vỗ tay hoan hô. Lỗ Phương Quang hát một số lời bài hát tự sáng tác và sau một vòng rượu Địch công đọc một số câu thơ về ái tình. Quan án Lỗ vui mừng và vỗ tay. Nghe dấu hiệu này bốn nàng ca kỹ xinh đẹp bước ra từ phía sau tấm rèm của hội trường, nơi họ đã kín đáo lánh vào đó khi quan án Lỗ và khách của ông bước vào. Hai người chuốc rượu, một người thổi cây sáo bạc và người thứ tư thực hiện một điệu nhảy duyên dáng, tay áo dài của cô quay cuồng trong không khí.

    Quan án Lỗ mỉm cười hạnh phúc và nói với bạn bè của mình:

    - Hãy nhìn xem, các bạn của tôi, tin đồn nó sai lệch như thế nào. Trong kinh thành người ta đồn rằng quan án Địch nổi tiếng là người nghiêm trang và tuân thủ theo kỷ luật. Và bây giờ chúng ta thấy ngài vui vẻ như thế nào trong bữa tiệc !

    Sau đó ông giới thiệu tên của bốn cô gái. Họ rất duyên dáng và được đào tạo tốt. Địch công rất ngạc nhiên khi họ có thể cùng làm thơ với ông và hát những giai điệu nổi tiếng.

    Thời gian trôi qua một cách nhanh chóng và đã gần đến nửa đêm, các vị khách đều cảm thấy hạnh phúc. Hoá ra hai cô gái rót rượu là đối tác đặc biệt với Lỗ Quang Phương và họa sĩ, họ nhanh chóng rời đi với các cô gái của họ. người khóa sinh có một cuộc hẹn với những bạn bè của anh ta trong một ngôi biệt thự khác. Vì vậy, chỉ còn lại Địch công và quan án Lỗ tại bàn tiệc.

    Quan án Lỗ tuyên bố Địch công là người bạn tốt nhất của mình và trong tâm trạng phấn chấn sau khi uống rượu họ bỏ qua các nghi thức thông thường mà xưng huynh gọi đệ với nhau. Cả hai rời bàn và tản bộ lên sân thượng để tận hưởng những làn gió mát và ngắm trăng. Họ ngồi xuống cạnh một lan can bằng đá cẩm thạch chạm trổ và nhìn xuống khu vườn thanh lịch bên dưới.

    Sau một số thảo luận về các cô gái xinh đẹp lúc nãy đã múa hát phục vụ họ, Địch công cho biết:

    - Mặc dù hôm nay là lần gặp gỡ đầu tiên của chúng ta, hiền đệ, nhưng huynh đã có cảm giác là đã biết tất cả về cuộc sống của mình ! Cho phép huynh hỏi đệ về một vấn đề rất bí mật.

    - Đệ rất vui mừng - quan án Lỗ đáp - mặc dù lời khuyên vô giá trị của đệ khó có thể sử dụng cho một người đàn ông thông thái như huynh.

    - Cho đệ biết một bí mật - Địch công thầm thì bằng giọng nói bí mật - huynh có một niềm say mê thầm kín với rượu và phụ nữ. Đồng thời huynh rất thích sự đa dạng.

    - Tuyệt vời, tuyệt vời ! - quan án Lỗ kêu lên - đệ hoàn toàn đồng ý với ý kiến này ! Ngay cả những món ăn ngon nhất cũng sẽ trở nên nhàm chán nếu ta dùng chúng hàng ngày !

    - Thật không may - Địch công tiếp tục - vị trí hiện tại của huynh ngăn cản mình lui tới những nơi " Bán phấn buôn hương" tại nơi mà mình đang trấn nhậm để thỉnh thoảng tìm một người đẹp dịu dàng cho những phút giây thư giản riêng tư. Đệ biết những tin đồn sẽ lan truyền thế nào trong thị trấn và huynh không muốn bị mất đi thể diện của mình.

    Quan án Lỗ lập tức trở nên nhiệt tình. Ông rời khỏi chỗ ngồi của mình và cúi đầu trước Địch công sau đó nói nhỏ:

    - Huynh cứ yên tâm, vấn đề này cứ để đệ lo ! Xin nán lại đây vài ngày để chúng ta ung dung xem xét việc này dưới mọi góc độ.

    - Biết rằng như thế - Địch công trả lời - nhưng có một số vấn đề quan trọng cần sự có mặt của huynh tại Phổ Dương vào ngày mai. Tuy nhiên, đêm vẫn chưa tàn và đệ có thể giúp đỡ huynh với lời khuyên của đệ, có thể thực hiện được việc này từ bây giờ đến trước bình minh.

    Quan án Lỗ vỗ tay hào hứng và kêu lên :

    - Thật là sảng khoái, điều này chứng tỏ sự lãng mạn của huynh. Huynh rất can đảm khi muốn chinh phục trong một thời gian ngắn như vậy. Hầu hết các cô gái đều được quản lý tại đây và không dễ dàng đem họ đi. Tuy nhiên, huynh đã có một vóc dáng đường bệ mặc dù đệ có thể thẳng thắn mà nói rằng từ mùa xuân năm ngoái thời trang để râu dài như huynh đã lỗi thời tại kinh thành rồi. Do đó huynh phải làm tốt nhất trong khả năng của huynh để chinh phục các cô gái. Để đệ xem mình có thể làm được gì cho huynh không nhé. Quay vào hội trường ông hét gọi các gia nhân " Gọi người quản lý đến đây !"

    Ngay sau đó một người đàn ông trung niên với khuôn mặt xảo quyệt xuất hiện. Ông cúi đầu thi lễ trước Địch công và ông chủ của mình.

    - Ta muốn ông - quan án Lỗ nói - đi ra ngoài cùng với một cái kiệu và rước về đây bốn hoặc năm cô gái để chúng ta cùng hát bài ca ngợi mặt trăng mùa thu.

    Người quản lý, dường như đã quá quen với những yêu cầu như vậy, cúi đầu sâu hơn.

    - Bây giờ có thể nói cho đệ biết - quan án Lỗ nói với Địch công - sở thích của huynh. Huynh thích những xu hướng gì ? Vẻ đẹp của hình thức, sự đam mê cháy bỏng, thành thạo trong nghệ thuật lịch sự. Hay huynh thích những cô nàng trò chuyện thông minh, dí dỏm ? Bây giờ huynh sẽ có rất nhiều lựa chọn từ những cô gái. Hãy nói sở thích của huynh, và người quản lý sẽ giúp huynh có sự lựa chọn tốt nhất cho mình !

    - Hiền đệ - Địch công cho biết - không có gì bí mật giữa chúng ta. Cho phép huynh thẳng thắn nói rằng trong thời gian huynh ở kinh thành đã quá mệt mỏi với các cô nàng tài năng và phong cách tinh vi của họ. Bây giờ thị hiếu của huynh, biết nói thế nào nhỉ, thiên về sự thô tục. Hãy để huynh thú nhận rằng bản thân mình thích nhất là loại " hoa đồng cỏ nội" ở những nơi mà những người trong giới quan chức chúng ta thường tránh.

    - Chà - quan án Lỗ kêu lên - huynh đã đạt đến sự giác ngộ tuyệt vời cho phép huynh khám phá ra vẻ đẹp tiềm ẩn ở nơi mà những người ít có năng khiếu chỉ nhận thấy sự thô tục. Lệnh của đại huynh tiểu đệ xin tuân theo !

    Ông ra hiệu cho người quản lý lại gần và thì thầm vào tai người này. Người quản lý nhướng lông mày biểu lộ sự ngạc nhiên. Ông ta cúi đầu chào một lần nữa và biến mất.

    Quan án Lỗ dẫn Địch công trở lại hội trường bảo người hầu bày một bàn tiệc mới và mời Địch công một cốc rượu.

    - Đại huynh - ông nói - đệ nhận thấy sự độc đáo của huynh đã kích thích đệ tìm đến một trải nghiệm mới lạ !

    Sau một thời gian chờ đợi những viên pha lê trên bức màn cửa rung động và bốn cô gái bước vào. Họ mặc áo sặc sỡ và trang điểm quá mức. Hai người còn khá trẻ và không xấu mặc dù họ trang điểm vụng về, nhưng khuôn mặt của hai người kia, những người già hơn một chút cho thấy sự tàn phá của nghề nghiệp bất hạnh của họ.

    Địch công, tuy nhiên, dường như rất hài lòng. Khi nhìn thấy các cô gái tỏ vẻ bối rối trước môi trường thanh lịch xung quanh, ông rời chỗ ngồi của mình và lịch sự hỏi tên của họ. Hai người trẻ tuổi được gọi là Thanh Mai và Thanh Ngọc, hai người khác là Cẩm Chướng và Mẫu Đơn. Địch công mời họ ngồi vào bàn nhưng họ vẫn đứng tại chỗ và nhìn xuống như tìm kiếm gì đó và chẳng biết nói hay làm gì cả.


    Địch công gặp hai cô gái tại bữa ăn tối của quan án Lỗ

    Địch công thuyết phục họ nếm thử các món món ăn khác nhau trên bàn và quan án Lỗ chỉ cho họ làm thế nào để rót rượu. Ngay sau đó các cô gái tỏ ra dạn dĩ hơn và bắt đầu nhìn xung quanh với sự ngưỡng mộ môi trường không quen thuộc với họ.

    Tất nhiên, không ai trong số các cô gái có thể hát hoặc nhảy múa và tất cả đều không biết chữ. Tuy nhiên quan án Lỗ nhúng đũa của mình vào bát canh và làm cho các cô gái thích thú bằng cách vẽ hình nhân vật mà họ mang tên.

    Sau khi các cô gái đã uống vài ly rượu và ăn vài món ăn lựa chọn, Địch công thầm thì điều gì đó vào tai người bạn của mình. Quan án Lỗ gật đầu và gọi người quản lý. Ông cho anh ta vài hướng dẫn và người quản lý sớm quay trở lại với thông báo là sự hiện diện của Mẫu Đơn và Cẩm Chướng được nhà thổ của họ yêu cầu. Địch công cho họ mỗi người một mảnh bạc và cho họ lui ra.

    Địch công bảo Thanh Mai và Thanh Ngọc ngồi xuống ghế ở hai bên của ông, dạy họ làm thế nào để uống một tuần rượu đồng thời tham gia vào cuộc trò chuyện chung của bàn tiệc. Quan án Lỗ cực kỳ thích thú khi xem những nỗ lực của Địch công trong việc hướng dẫn hai cô gái và uống cạn một ly rượu.

    Địch công khéo léo đặt câu hỏi và bây giờ Thanh Mai trả lời tự do. Cô và em gái Thanh Ngọc là con một người nông dân ở Hồ Nam. Mười năm trước một thảm họa lũ lụt đã mang những người nông dân đến bờ vực của nạn đói và cha mẹ họ đã bán họ cho một tên ma cô từ kinh thành. Hắn sử dụng họ làm người giúp việc và khi họ đã lớn thì bán họ vào nhà chứa ở Tần Hoài. Địch công nhận thấy rằng nghề nghiệp của họ chưa làm mất đi bản tính trung thực từ quê nhà của họ và ông nghĩ với lòng tốt và sự hướng dẫn đúng đắn họ sẽ là một người bạn dễ thương.

    Khi gần đến nửa đêm quan án Lỗ đã đạt đến giới hạn của mình. Ông rất khó khăn khi đứng thẳng trên ghế và cuộc trò chuyện đã trở nên rời rạc. Nhìn thấy tình trạng của ông, Địch công mời ông đi nghĩ.

    Quan án Lỗ rời ghế của mình với sự giúp đỡ của hai gia nhân. Ông chúc Địch công một đêm ngon giấc và quay sang nói với người quản lý :" Hãy phục vụ Địch đại nhân ! " . Khi vị thẩm phán vui vẻ được dẫn đi. Địch công ra hiệu cho người quản lý đến gần ông. Hạ thấp giọng ông nói:

    - Ta muốn mua hai cô gái Thanh Mai và Thanh Ngọc. Anh vui lòng sắp xếp với người chủ sở hữu của họ với sự thận trọng tuyệt đối. Ta muốn rằng việc mua bán này hoàn toàn bí mật và không để cho ai biết anh hành động thay mặt cho ta !

    Người quản lý gật đầu với nụ cười hiểu biết. Địch công lấy hai lạng vàng từ tay áo của mình đưa cho người quản lý.

    - Số vàng này lớn hơn giá trị của việc mua bán. Phần còn lại là chi phí cho việc chuyên chở hai cô gái đến nơi cư trú của ta tại Phổ Dương.

    Sau đó, quan án đưa thêm một lạng bạc và nói:

    - Xin vui lòng chấp nhận món quà nhỏ này xem như hoa hồng của anh trong vụ giao dịch này.

    Sau khi từ chối nhiều lần, nhưng theo quy định của việc mua bán, người quản lý chấp nhận số bạc. Ông ta đảm bảo với Địch công rằng mọi thứ sẽ được sắp xếp theo ý của ngài, ông ta nói thêm là vợ của mình sẽ đi cùng với các cô gái trên hành trình của họ đến Phổ Dương.

    - Tôi sẽ sắp xếp - ông kết luận - các cô gái này sẽ được giao tại nơi ở của đại nhân.

    Địch công, tuy nhiên, nhận thấy rằng ông đã quá mệt mỏi và cần có một đêm nghĩ ngơi ngon giấc trước khi thực hiện cuộc hành trình quay trở về vào sáng hôm sau.

    Thanh Mai và Thanh Ngọc lui ra và Địch công vào phòng của mình để nghĩ ngơi.


  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 10

    Tào Can hỏi người trương tuần về các việc trong quá khứ
    Anh đã có một thời gian khó chịu tại đống đổ nát vào ban đêm
    Trong thời gian này Tào Can đi điều tra chi tiết về bà Lương theo lệnh của Địch công.

    Bà ta sống không xa đường Bán Nguyệt, do đó Tào Can nghĩ mình nên ghé thăm trương tuần Cao. Anh chọn thời điểm cho chuyến viếng thăm vào khoảng thời gian của bữa ăn trưa.

    Tào Can chào người trương tuần với lời lẽ thân ái nhất. Ông trương tuần Cao nghĩ rằng sẽ khôn ngoan khi tạo mối quan hệ tốt với các thuộc hạ của quan án mới, đặc biệt là sau những lời trách mắng của quan án Địch giành cho ông. Ông liền mời Tào Can ở lại dùng bữa ăn trưa đơn giản với mình. Tất nhiên là Tào Can chẳng dại gì từ chối.

    Sau khi ăn xong, Tào Can đưa ra lời yêu cầu của mình và ông Cao cho biết bà Lương đến Phổ Dương hai năm trước đây, đi cùng với một người cháu trai tên là Lương Cổ Pha.

    Bà Lương đăng ký tuổi của mình là 68 và cháu trai là 30. Ông Cao nhận xét rằng Lương Cổ Pha có vẻ trẻ hơn nhiều so với tuổi, ông nghĩ anh ta chỉ độ khoảng hai mươi hay xấp xỉ khoảng đó. Nhưng anh ta, tất nhiên, ít nhất đã 30 tuổi vì theo bà Lương nói anh đã thông qua kỳ thi văn chương thứ hai của mình. Anh chàng này thường dùng thời gian nhàn rỗi của mình tản bộ trong thành phố. Anh tỏ ra quan tâm đến khu vực phía Tây bắc của thành phố và người ta thường thấy anh đi bộ dọc theo bờ kênh gần Đập nước.

    Vài tuần sau, bà Lương báo cáo với trương tuần là cháu trai của bà bị mất tích cách đó hai ngày và bà lo sợ có điều gì không may đã xảy ra với anh. Trương tuần đã lập kế hoạch điều tra nhưng không tìm thấy dấu vết gì của Lương Cổ Pha.

    Sau đó, bà Lương đi đến tòa án và nộp đơn kiện với quan án Phụng là Lâm Phương, một thương gia giàu có nổi tiếng người Quảng Đông định cư tại Phổ Dương, đã bắt cóc cháu trai của bà. Đồng thời bà nộp một số đơn kiện cũ. Từ những điều này, cho thấy đã có một mối hận thù tồn tại giữa hai nhà Lương và Lâm từ rất lâu. Nhưng bà Lương không có được bằng chứng nào chứng tỏ Lâm Phương đã bắt cóc cháu trai của bà, quan án Phụng đã bác bỏ đơn kiện.

    Bà Lương tiếp tục ở lại căn nhà nhỏ của mình cùng với một người giúp việc lớn tuổi. Tuổi cao cùng với những sự việc xảy ra làm cho bà ta có đôi chút ngớ ngẩn. Đối với sự biến mất của Lương Cổ Pha, trương tuần không có ý kiến. Ông cho rằng anh ta đã rơi xuống kênh và bị chết đuối.

    Sau khi biết được những điều này, Tào Can cảm ơn người trương tuần rối rít về sự hiếu khách và quyết định đi đến xem qua nhà bà Lương.

    Tào Can đi đến một khu phố nhỏ hẹp nằm không xa về phía nam của Đập nước. Đó là một ngôi nhà nhỏ một tầng. Anh ước tính rằng nó không có nhiều hơn ba phòng.

    Anh gõ cánh cửa sơn đen. Sau một thời gian dài chờ đợi, anh nghe thấy tiếng bước chân và một con mắt nhìn trộm anh qua cái lỗ trên cánh cửa. Cánh cửa mở ra và anh nhìn thấy một khuôn mặt nhăn nheo của một người phụ nữ rất già. Bà ta hỏi bằng một giọng nói nhỏ và càu nhàu: " Anh muốn gì ?"

    - Bà Lương có ở nhà ? - Tào Can hỏi một cách lịch sự.

    Bà già nhìn anh nghi ngờ và đáp bằng giọng khàn khàn:

    - Bà ta bị bệnh và không thể tiếp ai !

    Sau đó bà đóng sầm cửa trước mặt anh.

    Tào Can nhún vai. Quay một vòng anh quan sát khu phố. Nơi đây rất yên tĩnh và không có ai, thậm chí là một tên ăn xin hay một người bán hàng rong. Tào Can tự hỏi liệu Địch công có đúng khi tin vào sự thành thật của bà Lương. Bà và người cháu trai của bà có thể là những diễn viên tuyệt vời, bằng cách sử dụng một số câu chuyện cảm động để che giấu một số âm mưu bất chính thông đồng với Lâm Phương. Một khu phố vắng vẻ như thế này là nơi tuyệt vời để thực hiện các âm mưu bí mật.

    Anh nhận thấy ngôi nhà đối diện trực tiếp với nhà bà Lương lớn hơn so với những nhà khác, nó được xây dựng bằng gạch rắn chắc và có hai tầng. Tấm biển hiệu bị thời tiết làm cho hư hỏng nói lên đây là một tiệm bán tơ lụa. Tuy nhiên, tất cả các cánh cửa đều đóng kín và nó không có dấu hiệu gì cho thấy có người ở đây.

    - Không may mắn tại đây ! - Tào Can lẩm bẩm - Tốt hơn mình nên đi và tìm hiểu thêm về Lâm Phương và gia đình của ông ta !

    Anh đã có một chuyến đi dài đến góc Tây bắc của thành phố. Anh tìm thấy địa chỉ nhà Lâm Phương tại sổ đăng ký của tòa án nhưng đã gặp khó khăn khi định đột nhập vào đó. Biệt thự của Lâm nằm ở một trong những khu vực cổ nhất thành phố. Nhiều năm trước đây các quý tộc địa phương sinh sống tại đó, nhưng sau đó họ chuyển đến khu vực phía Đông nhộn nhịp hơn. Một cái hang thỏ nhỏ hẹp nằm trên con đường quanh co bao quanh khu vực rộng lớn này.

    Sau nhiều lần đi sai đường cuối cùng Tào Can cũng tìm thấy ngôi nhà, đó là một biệt thự to lớn với cánh cửa bệ vệ. Đó là một cách cửa đôi rắn chắc, sơn mài màu đỏ và nặng nề với những đinh tán bằng đồng. Các bức tường cao hai bên đang trong tình trạng sửa chữa. Hai con sư tử đá lớn ở hai bên cổng. Cả ngôi nhà toát lên một vẻ bí ẩn và đe doạ.

    Tào Can nghĩ rằng mình nên đi bộ dọc theo bức tường bên ngoài để xác định vị trí cửa ra vào của nhà bếp và có được một đánh giá chung về kích thước của dinh thự. Tuy nhiên, anh nhận ra rằng điều đó là không thể được. Ở phía bên phải, anh thấy mình bị chặn bởi bức tường của căn biệt thự liền kề trong khi bên trái là một đống đổ nát.

    Anh quay lại và đi đến một khúc quanh, tại đây có một cửa hàng bán rau quả nhỏ. Anh đã mua một bịch dưa chua và khi trả tiền làm như tình cờ hỏi về tình hình buôn bán của cửa hàng.

    Ông chủ tiệm lau tay vào tạp dề và trả lời :

    - Cửa hàng này không phải là đắt khách lắm. Nhưng tôi không có gì để phàn nàn. Tôi và gia đình của tôi có một sức khỏe tốt do đó chúng tôi có thể làm việc từ sáng đến tối. Nhờ đó, chúng tôi có bát cháo, một ít rau từ cửa hàng mỗi ngày và mỗi tuần một lần được miếng thịt heo. Đó là nhiều hơn tất cả những gì mà một người đàn ông có thể mong ước trong cuộc sống.

    - Tôi nhận thấy cửa hàng của ông rất gần với ngôi biệt thự ở khúc quanh - Tào Can nhận xét - tôi nghĩ rằng ông có một khách hàng khá tốt ?

    Người chủ quán nhún vai :

    - May mắn là tôi có hai ngôi biệt thự lớn ở vùng lân cận này, họ là khách hàng của tôi trong nhiều năm, còn ngôi biệt thự kia của những người đến từ nơi khác. Họ đến từ Quảng Đông và thật khó mà hiểu được ngôn ngữ của họ. Ông Lâm có một trang trại ở ngoại ô phía Tây bắc nằm dọc theo con kênh, mỗi tuần một người nông dân mang đến cả xe rau quả cho bọn họ. Họ không chi tiêu dù chỉ một đồng tại cửa hàng của tôi !

    - Phải - Tào Can nhận xét - tôi đã từng sống một thời gian tại Quảng Đông và tôi biết ngôn ngữ của họ rất khó nghe. Tôi nghĩ rằng ông Lâm thỉnh thoảng ghé vào đây và có một số cuộc trò chuyện với ông ?

    - Không biết một ai trong bọn họ - người chủ tiệm rau quả trả lời với vẻ chán ghét - họ đi theo con đường riêng của họ và dường như nghĩ rằng họ là những người tốt hơn người miền bắc chúng tôi. Nhưng anh hỏi tất cả những điều này để làm gì ?

    - Cho ông biết một sự thật - Tào Can trả lời - Tôi là một người thợ sửa khung tranh có tay nghề cao và tôi tự hỏi liệu trong một biệt thự lớn như thế, lại cách xa những chổ sửa khung tranh, họ có những khung tranh cần phải sửa chữa ?

    - Không có cơ hội đâu, anh bạn - người chủ tiệm nói - những người bán hàng rong và đi làm thuê lưu động không bao giờ được bước chân qua ngưỡng của căn nhà đó.

    Tào Can, tuy nhiên, không hề nản lòng. Khi đến khúc quanh anh lấy cái túi nhỏ của mình từ tay áo ra và điều chỉnh các khúc tre bên trong để nó trở thành như cái túi chứa các lọ keo và bàn chải của người thợ chữa khung tranh. Sau đó, anh bước lên những bậc thang để đến cánh cửa lớn và gõ vang dội trên cánh cửa. Sau một thời gian, một cánh cửa nhỏ mở ra và một khuôn mặt ủ rũ nhìn anh qua lưới sắt.

    Khi còn trẻ, Tào Can đã lang thang trên tất cả các vùng trong nước và anh nói được một số ngôn ngữ địa phương. Vì thế anh dùng tiếng Quảng Đông để nói với người gác cửa:

    - Tôi là một người sửa khung tranh có tay nghề cao tại Quảng Đông. Tại đây có gì cần sửa chữa không ?

    Người giữ cửa sáng bừng khuôn mặt khi nghe được giọng nói của địa phương mình. Anh mở cánh cổng đôi nặng nề.

    - Tôi có trách nhiệm để hỏi anh về điều đó, anh bạn! Nhưng kể từ lúc tôi nghe anh nói ngôn ngữ địa phương chúng ta và anh đã sống tại thành phố tráng lệ đó, anh có thể vào đây và ngồi trong phòng của tôi.

    Tào Can thấy khoảng sân phía trước cũng được bao quanh bởi một hàng rào các tòa nhà thấp. Trong khi chờ đợi tại phòng của người gác cửa, anh nhận thấy một bầu không khí im lặng bao trùm cả tòa nhà. Không có tiếng quát tháo của các người giúp việc hoặc các âm thanh của mọi người đi lại trong biệt thự.

    Khi người gác cổng trở lại, anh ta trông ủ rũ hơn bao giờ hết. Đi cùng với anh ta là một người tầm thước với đôi vai rộng mặc một chiếc áo khoác đen theo kiểu người Quảng Đông. Người đàn ông có khuôn mặt xấu xí với bộ ria mép thưa thớt. Con người anh ta toát ra một vẻ quyền lực chứng tỏ anh là người quản lý của ngôi biệt thự.

    - Mày nghĩ như thế nào, tên bất lương - hắn quát Tào Can - khi xông vào đây ? Nếu tụi tao muốn một thợ sửa tranh, tụi tao sẽ gọi. Cút khỏi đây ngay !

    Tào Can đành đứng lên và lẩm bẩm một lời xin lỗi rồi bước ra. Những cánh cửa nặng nề đóng sầm lại sau lưng anh.

    Bước đi khỏi nơi đó, Tào Can nghĩ rằng rất khó để thử kiểm tra vào ban ngày. Hôm đó là một ngày mùa thu và anh quyết tâm đi ra vùng ngoại ô phía Tây bắc và xem qua trang trại của Lâm.

    Anh rời khỏi thị trấn bằng cửa phía bắc. Sau khi đi bộ nửa giờ, anh thấy một con kênh. Người Quảng Đông khá hiếm tại Phổ Dương, anh không khó khăn gì khi tìm đến trang trại của Lâm bằng cách hỏi một số nông dân.

    Nó là một miếng đất màu mỡ khá lớn, kéo dài hơn nửa dặm dọc theo con kênh. Ở giữa là một trang trại với hai nhà kho lớn phía sau. Một con đường dẫn đến bến sông nơi anh nhìn thấy một chiếc thuyền buồm neo đậu tại đó. Ba người bận rộn tải xuống thuyền các kiện hàng bọc trong giỏ đệm. Ngoại trừ bọn họ ra, tất cả dường như bỏ hoang.

    Sau khi tự thuyết phục với bản thân là cảnh nông thôn yên bình này chẳng có gì để nghi ngờ, Tào Can quay lại thị trấn bằng cổng phía bắc. Anh tìm thấy một quán ăn nhỏ và gọi một bữa ăn đạm bạc gồm một chén cơm và bát canh thịt, anh kỳ kèo người phục vụ xin một đĩa nhỏ hành tươi. Cuộc đi bộ làm cho anh đói ngấu và anh ăn sạch bát cơm, húp bát canh đến giọt cuối cùng. Sau đó anh khoanh tay trên mặt bàn, đặt đầu mình lên đó và bắt đầu ngáy.

    Khi anh thức dậy, trời đã tối, Tào Can cảm ơn người phục vụ rối rít và sau đó đi ra, để lại một món tiền phục vụ ít ỏi khiến người phục vụ thề rằng cạch mặt anh đến già.

    Tào Can đi thẳng đến biệt thự của Lâm. May mắn là có một mặt trăng sáng rực rỡ trên bầu trời và anh có đôi chút khó khăn lúc tìm đến đó. Cửa hàng rau quả đã đóng cửa vào ban đêm và khu vực lân cận hoàn toàn vắng vẻ.

    Tào Can đi vào khu vực đổ nát bên trái của cổng. Anh cẩn thận vượt qua các đống vôi vữa và thành công trong việc tìm thấy cánh cổng cũ của sân thứ hai. Anh leo qua đống gạch vụn và nghĩ rằng nếu leo lên được bức tường anh sẽ có một vị trí quan sát tốt ngôi biệt thự.

    Sau một vài nỗ lực, anh đã thành công trong việc leo lên được bức tường. Anh nằm dài trên đó và thấy rằng từ vị trí bấp bênh này anh có cái nhìn tuyệt vời cho khu biệt thự. Nó bao gồm ba sân, mỗi sân được bao quanh bởi những bức tường của tòa nhà và kết nối với nhau bằng những cánh cổng trang trí. Tuy nhiên, dường như toàn bộ ngôi biệt thự đã chết. Không nhìn thấy một ai và người nào trong nhà của người gác cổng, chỉ có hai cửa sổ trong sân là có ánh sáng. Điều này kích thích sự tò mò của Tào Can, vì một biệt thự lớn như thế thường sẽ rất nhộn nhịp vào buổi tối.

    Tào Can vẫn nằm ở vị trí quan sát trong hơn một giờ, nhưng chẳng có động tĩnh gì trong khu biệt thự. Đôi khi anh nghĩ rằng đã nhìn thấy một cái gì đó di chuyển lét lút trong bóng tối của sân phía trước, nhưng anh nghi ngờ rằng đôi mắt đánh lừa anh ta vì anh không thể phát hiện ra một tiếng động dù là nhỏ nhất.

    Cuối cùng anh quyết định rời khỏi nơi quan sát. Khi buông mình xuống một viên gạch lỏng lẻo rơi xuống từ nơi đặt chân. Anh rơi vào bụi rậm bên dưới làm đổ một đống gạch. Anh nguyền rủa vì bị thâm tím đầu gối và rách áo. Anh lồm cồm bò dậy và bắt đầu tìm cách thoát ra. Tuy nhiên không may là mặt trăng bị mây che khuất nên không gian xung quanh tối sầm lại. Tào Can nhận ra rằng với một sự di chuyển sai lầm có thể làm cho một cánh tay hoặc chân bị gãy. Vì vậy anh cúi xuống và chờ đợi mặt trăng sáng trở lại.

    Anh đã không chờ đợi lâu khi đột nhiên cảm thấy không phải chỉ có mình nơi đây. Trong cuộc sống nguy hiểm của mình trong quá khứ, anh đã phát triển một bản năng nhận biết nguy hiểm và bây giờ anh chắc chắn là có ai đó trong đống đổ nát này đang theo dõi mình. Tào Can vẫn đứng im và căng thẳng đôi tai ra để nghe ngóng. Nhưng anh không nghe thấy gì ngoài vài tiếng động xào xạc từ các bụi cây có thể được gây ra bởi những động vật nhỏ. Tuy nhiên mặt trăng đã ra khỏi đám mây và anh vẫn cẩn thận đề phòng không di chuyển trong một thời gian, cẩn thận rà soát môi trường xung quanh mình.Tuy nhiên anh không nhận ra điều gì bất thường. Anh đứng lên từ tư thế cúi người và đã thành công trong việc rời khỏi đống đổ nát, di chuyển với sự thận trọng tối đa và giữ mình trong bóng tối càng nhiều càng tốt.

    Tào Can thở phào nhẹ nhõm khi anh đã trở lại con hẻm. Đi qua cửa hàng rau quả anh tăng tốc độ của mình, khu phố vắng vẻ đã tạo cho anh một nỗi sợ hãi chết người. Đột nhiên anh lạnh người khi phát hiện ra mình đã đi sai hướng và giờ đây anh đang trong một con hẻm nhỏ hẹp hoàn toàn xa lạ.

    Khi đang nhìn quanh quất để xác định hướng đi anh chợt nhận thấy hai tên đeo mặt nạ đi ra từ bóng tối phía sau. Họ đi về phía anh và Tào Can chạy nhanh hết mức có thể trong khả năng của mình. Anh quẹo qua vài khúc quanh hy vọng thoát khỏi sự đeo bám của bọn chúng và mong rằng sẽ ra được con đường lớn nơi những kẻ tấn công không dám đi theo anh ta.

    Thật không may, trước khi ra được phố chính anh đã thấy mình mắc kẹt vào một con hẻm cụt. Khi anh quay lại thì những kẻ đuổi theo đã chặn ở đầu hẻm. Anh đã mắc kẹt như con chuột trong bẫy !

    - Giữ lấy chúng, các anh em - Tào Can hét to - không có gì mà không thể giải quyết thông qua đàm phán !

    Hai người đàn ông đeo mặt nạ không quan tâm đến lời nói của Tào Can. Khi họ tiến đến gần một người tung ra một quả đấm vào mặt anh.

    Trong những tình huống nguy hiểm Tào Can thường dựa vào cái lưỡi của mình hơn là nắm đấm. Trình độ đấm đá của anh chỉ giới hạn trong những đòn cơ bản được Mã Tông và Triệu Thái chỉ bảo. Tào Can, tuy nhiên, không phải là một kẻ hèn nhát và đã có nhiều hơn một tên côn đồ bị đánh lừa bởi vẻ bề ngoài của Tào Can mà khóc hận.

    Tào Can cúi người xuống và né được đòn đánh đầu tiên sau đó cố gắng để chạy đi. Nhưng anh bị mất thăng bằng và trong lúc cố gắng lấy lại thăng bằng thì một tên đã tóm được tay anh từ phía sau. Nhìn thấy ánh mắt độc ác của kẻ tấn công mình, Tào Can nhận ra rằng chúng muốn lấy mạng của anh hơn là lấy tiền. Hai tên đeo mặt nạ này sẽ giết chết anh.

    Anh hét to hết mức có thể để kêu cứu. Tên phía sau bẻ ngoặc cánh tay anh trong khi tên kia rút ra một con dao. Tào Can nghĩ rằng có lẽ đây là nhiệm vụ cuối cùng mà anh thực hiện cho Địch công.

    Anh đá ngược chân về phía sau với tất cả sức mạnh để cố gắng giải phóng cánh tay của minh nhưng tất cả đều vô ích.

    Ngay khi tất cả là dấu chấm hết cho Tào Can thì một tên côn đồ thứ ba với thân hình to lớn và mái tóc rối bù xông vào con hẻm.


Trang 1 / 3 123 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Lý do ăn quả chuối tốt hơn uống thuốc tây
    By sophienguyen in forum Mẹo Vặt-Khéo Tay
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-10-2018, 02:06 AM
  2. Giống cà chua "cực mắn" cho ra hàng chục ngàn quả một cây
    By sophienguyen in forum Chuyện Lạ Đó Đây
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 07-17-2016, 02:11 AM
  3. Cách làm sữa chua hoa quả mát , nhanh
    By sophienguyen in forum Món Tráng Miệng
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-08-2016, 02:43 AM
  4. Bí Mật Quả Chuông
    By giavui in forum Truyện Dài
    Trả Lời: 24
    Bài Viết Cuối: 11-03-2015, 09:59 PM
  5. Bị ép ăn 96 quả chuối để “ra” dây chuyền vàng
    By duyanh in forum Chuyện Lạ Đó Đây
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-29-2013, 06:05 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •