Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tình yêu chỉ sống được nhờ đau khổ. Sống trong hạnh phúc, tình yêu sẽ chết dần chết mòn.
Bà De Giradin
Trang 1 / 4 123 ... Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 31

Chủ Đề: Giang Nam Oán Lục

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Giang Nam Oán Lục


    Giang Nam Oán Lục


    Tác giả :Ưu Đàm Hoa


    MỤC LỤC [−]

    1. Minh nguyệt tường nghi án
    2. Lộ thượng phùng mỹ nữ
    3. Uyên đê tiêu dao ngộ
    4. Đông khứ tầm cố nhân
    5. Ma cung nhất xuất khuynh thiên hạ
    6. Hắc xà hưu diện
    7. Mạch thượng phùng Thiên Độc
    8. Tháp thượng tương tư lệ
    9. Bắc khứ Thiên Ma tầm bảo trượng
    10. Khấp hồi sơn cốc ưu hương hoa
    11. Kim Ngân năng sát nhân
    12. Kiếm hạ dung Hoắc thị
    13. Mao sơn hỉ nhật tân nương tâu
    14. Trường An tầm cổ mộ
    15. Thiên Điểu, Hoàng Mao đồng xuất thế
    16. Huyền băng phùng lư hỏa

    Hồi 1

    Minh nguyệt tường nghi án
    Thư sinh phế bút nghiên

    Trăng mười sáu tròn trịa, vằng vặc lưng trời, dịu dàng soi sáng bóng nước Lư Giang và toàn cảnh tòa Văn gia bảo, nằm dựa bờ sông.

    Luồng gió xuân từ biển Đông thổi vào sưởi ấm cho cây cỏ vùng Giang Nam.

    Đông này, khí lạnh từ cực Bắc không tràn xuống nên mấy tỉnh Đông Nam Trường Giang không có tuyết.

    Lư Lăng lại nằm sâu trong đất Giang Tây nên càng bội phần ấm áp. Trăng xuân nhờ vậy mà lộ hết được vẻ rực rỡ trên bầu trời quang đãng. ánh trăng trải dài trên cành lá của cách rừng tùng quanh cơ ngơi đồ sộ và lừng lẫy đất Giang Tây.

    Văn gia bảo tuy chỉ mới được xây dựng độ mười năm nay nhưng lại dành được sự kính trọng của cả võ lâm.

    Nguyên nhân là vì tòa nhà này tọa lạc trên mảnh đất cũ của cố Hữu Thừa Tướng Văn Thiên Tường! ông là vị anh hùng kiệt xuất cuối đời nhà Tống. Người đã đem máu xương và khí tiết viết nên trang sử oai hùng, được cả dân tộc Trung Hoa tôn thờ. Bài thơ Chính Khí Ca của họ Văn là tuyệt tác văn chương, ai đọc lên cũng nghe hào khí sôi sục, lòng trung nghĩa bừng bừng"

    (Sau bốn năm bị Hốt Tất Liệt giam giữ ở Yên Kinh, Văn Thiên Tường đã bị giết vào năm Quý Mùi - nhằm năm Chí Nguyên thứ mười chín đời Nguyên Thế Tổ. Tính đến nay đã hơn trăm năm mà tấm gliơng trung liệt kia vẫn rạng ngời sử sách"

    Nhưng tiếc thay, hậu duệ họ Văn chẳng ai nối được nghiệp văn chương của tiên tổ"

    Bảo chủ Văn Chí Lãm là cháu sáu đời của Văn Thừa Tướng, thi thư kém cỏi nhưng võ công ngạo thị giang hồ. Danh hiệu Thiết Long lừng lẫy võ lâm"

    văn Chí Lãm là cao thủ ngạch công số một võ lâm. Thân thể ông rắn như thép, chỉ trừ thần binh cổ vật, đao kiếm tầm thường chẳng thể nào đả thương. Ngoài đôi mắt, ông còn có một nhược điểm chết người nữa, nhưng người ngoài không thể biết được.

    Họ Văn chẳng phải là người nước Triệu nhưng lại xử dụng thanh Ngô Câu Kiếm! Pho Ngô Câu Đoạt Mệnh Kiếm Pháp độc bộ võ lâm, ảo diệu và lợi hại hơn cả Thái Cực Kiếm của Võ Đang.

    Trong bài Hiệp Khách Hành đã có mấy câu thơ:

    "Triệu khách man hồ anh.

    Ngô câu sương tuyết minh.

    Ngân yên chiếu Bạch mã.

    Tạp đạp như lưu tinh.

    Thập bộ sát nhất nhân.

    Thiên lý bất lưu hành . . . "

    Tạm dịch:

    "Mỗi hiệp khách một mâu thuẫn nhỏ.

    ánh Ngô Câu rạng cả tuyết sương.

    Ngân Yên Bạch mã huy hoàng.

    VÓ câu vun vút trên đường đuối sao.

    Ngoài thập bộ máu đào lai láng.

    Ngàn dặm trường chăng nản chân bon."

    Đây là bài thơ duy nhất mà Thiết Long Văn Chí Lãm thuộc lòng - không kể bài Chính Khí Ca. ông thường cỡi ngựa bạch, ngồi yên viền bạc, cao hứng ngâm nga.

    Xuất đạo giang hồ năm hai mươi tuổi, dẫn dắt Thiết Long Tiêu Cục đi khắp thiên hạ, đụng hàng trăm trận mà chưa hề chiến bại.

    Văn Chí Lâm tuổi ngũ tuần, góa vợ đã tám năm và mới tục huyền mùa thu năm ngoái. Văn Nhị Nương có nhũ danh là Hà Tú Chân, tuổi mới hai mươi lăm. Nàng xinh đẹp phi thường khiến Thiết Long đành phải từ bỏ ý định sống độc thân thờ vợ của mình.

    Nửa năm trước, trưởng tử của Thiết Long là Văn Tuấn Thu đi Trường Sa công cán, tình cờ cứu được Hà Tú Chân. Nàng mồ côi cha mẹ, tiền bạc không có, bị chủ nhân bức hiếp quẫn chí định gieo mình xuống sông tự vẫn. Văn Tuấn Thu hết lời khuyên giải, đưa nàng về Vân gia bảo làm tỳ nữ.

    Lúc đầu, mọi người trong bảo tưởng Tú Chân sẽ là vợ của Văn đại thiếu gia, nhưng không ngờ nàng lại trở thành nhị phu nhân.

    Đại công tử Văn Tuấn Thu đã tam thập dáng vóc cao lớn hiên ngang - giống hệt như thân phụ. Tính tình gã trầm lặng, ít nói, không màng tửu sắc, chỉ chăm chú luyện võ công và điều hành công vụ của Thiết Long Tiêu Cục. Sau khi đưa Hà Tú Chân về bảo, gã không hề ngó ngàng đến nữa, tiếp tục phận sự của mình.

    Vì vậy việc Văn bảo chủ tục huyền với Tú Chân không gây chút dị nghị nào.

    Tử sau ngày vợ chết, Thiết Long Văn Chí Lãm trở nên nóng nảy, tàn nhẫn và khắc nghiệt. Ngay cả đứa con trai tám tuổi là nhị công tử Văn Tuấn Hạc cũng không được ông ưu ái hay vuốt ve. Mọi người cho rằng ông quá đau khổ nên mới thay đổi tính tình như vậy.

    Cậu bé sợ hãi phụ thân như sợ cọp, ít khi dám lại gần. May thay, Văn đại công tử rất yêu thương bào đệ, luôn gần gũi, dạy bảo để bù đắp cho đứa em bạc hạnh.

    Hạc nhi là đứa bé thông minh, mẫn tiệp say mê văn chương thi phú, bảy tuổi đã biết làm thơ, được mọi người trong bảo yêu mến.

    Khi Hà Tú Chân trở thành kế mẫu, nàng đã hết lòng yêu mến và chăm sóc Hạc nhi, khiến ai cũng lấy làm lạ. Ngược lại Hạc nhi cũng coi nàng như mẹ ruột của mình. Nhưng nó chỉ dám thân thiết, kề cận kế mẫu khi không có mặt thân phụ.

    Đêm nay cũng vậy, vừa thấy Văn Chí Lãm bước vào khuê phòng, Hạc nhi vội vàng rời lòng Hà Tú Chân, vòng tay thi lễ ấp úng nói:

    - Phụ thân an giấc, hài nhi xin phép cáo lui Gương mặt Văn bảo chủ lúc này đang đầy vê giận dữ, ông lạnh lùng hừ một tiếng, quắc mắt nhìn đứa bé. Hạc nhi run rẩy lui ra.

    Hà Tú Chân dịu dàng hỏi :

    - Tướng công! Vì sao sắc diện người không được vui?

    Thiết Long bực bội đáp:

    - Tên nghịch tử Tuấn Thu quả là đáng ghét! Đang lúc công việc của tiêu cục bề bộn mà hắn lại xin đi Trường An thăm bằng hữu. Ta mắng cho một trận hắn mới chịu thô i .

    Hà Tú Chân mỉm cười, bước đến cởi áo ngoài của trượng phu rồi bảo:

    - Đại công tử đã chịu nghe lời, tướng công còn giận làm gì? Thiếp đã chuẩn bị sẵn một chén sâm thang để tướng công uống cho tỉnh rượn.

    Nụ cười mê hoặc và mùi u hương từ tóc mỹ nhân đã khiến Văn bảo chủ động tình ông nhìn nàng say đắm, ngồi xuống cạnh giường chờ đợi.

    Hà Tú Chân bưng chén sâm thang đèn tận tay phu tướng, kèm thêm một nụ cười âu yếm.

    Văn Chí Lãm hài lòng uống cạn. ông vận chân khí đưa chiếc chén là đà bay về phía bàn, nhẹ nhàng hạ xuống. Hà Tú Chân nó i với vẻ kính phục :

    - Tướng công nổi tiếng võ lâm về ngạch công, không ngờ nội lực cũng thâm hậu phi thường"

    Họ Văn đắc ý, vươn tay ôm mỹ nhân vào lòng. Đôi tay to bè, sần sùi của ông hăm hở lột sạch xiêm y ái thiếp. Chí Lãm đặt pho tượng ngọc lên giường rồi tự cởi y phục.

    Thiết Long tuy đã hơn năm mươi nhưng cơ thể cường tráng, rắn chắc, da dê mịn màng - nhờ thường xuyên rèn luyện.

    ông say đắm ngắm nghía vuốt ve người ngọc. Ba ngọn hồng lạp vẫn thắp sáng, lung linh soi tỏ núi đồi, thung lũng. Văn Chí Lãm mê mãn thỏa mãn dục vọng nên không nhận ra ánh mắt căm hận, bi thương của Tú Chân. Nàng vẫn rên rỉ như đang tận hưởng hoan lạc nhưng vẻ mặt lạnh lùng khó tả.

    Nửa khắc sau, nhịp độ giao hoan chậm dần và Thiết Long sụp xuống, thiếp ngay đi trên người Tú Chân.

    Nàng mỉm cười bí ẩn, khẽ lay gọi:

    - Tướng công ! Tướng công "

    Thấy lão không đáp, Tú Chân xô lão xuống giường rồi mặc lại y phục. Nàng kiểm tra lần cuối, bước ra mở cánh cửa sổ thông với hoa viên.

    Một bóng đen cao lớn lao vào. Gã cười nhạt dồn chân khí vào ngón trỏ tay hữu, điểm mạnh vào huyệt Linh Khư trên ngực trái Thiết Long. Huyệt này nằm trong khoảng gian sườn ba, từ huyệt Ngọc Đường ngang ra hai thốn. Đây chính là nhược điểm trí mạng của Văn Chí Lãm.

    Mấy chục năm nay, lúc nào ông cũng mang một miếng thép để che chở yếu huyệt - chỉ trừ lúc ân ái với Tú Chân"

    Chí Lão rùng mình giãy chết, ông mở mắt nhìn hung thủ, kinh hãi thều thào:

    - Té ra là... ngươi... "

    Thiết Long đoạn khí chết ngay. Người áo đen quay lại, bước đến ôm lấy Hà Tú Chân. Hai người không hề lộ vẻ vui mừng mà lại khóc?

    Dưới ánh nến chập chờn bởi gió xuân, dung mạo hung thủ hiện rõ. Đó là đại công tử Văn Tuấn Thu, trưởng nam của Thiết Long Văn Chí Lãm.

    Tuấn Thu hôn lên những giọt nước mắt trên má Tú Chân và thì thầm:

    - Cám ơn Hà muội"

    Tú Chân đau đớn nó i :

    - Thiếp chịu ơn cứu tử nên ngậm đắng nuốt cay chịu đựng lão già dâm đãng này suốt nửa năm qua. Nay đại sự đã thành, thiếp xin cáo biệt. Tấm thân ô uế này không xứng đáng để hầu hạ công tử nữa.

    Tuấn Thu mỉm cười, hôn lên má nàng:

    - Văn mỗ nào phải kẻ hủ lậu, hẹp hòi mà nàng nói vậy? Nay chí nguyện đã thành ta sẽ cùng nàng sống đến răng long đầu bạc. Nếu lòng này có chút gian dối ắt sẽ sớm tắt như ngọn nến kia.

    Lời nói chí tình khiến Tú Chân đẹp dạ, nàng thẹn thùng thỏ thẻ:

    - Thiếp là người hắc đạo, quá khứ nhơ nhớp xấu xa, không ngờ lại được chàng yêu thương như vậy! Thiên Diện Ma Cơ này xin đem kiếp sống thừa hầu hạ công tử Nhưng chàng phải mau tìm cách giải quyết cho chu đáo, Nhật Nguyệt Song Ma rất khó đối phó. Nếu họ nghe tin lão tặc chết tất sẽ điều tra đến cùng "

    Tuấn Thu nghiêm giọng:

    - Ta đã suy nghĩ đến điều ấy. Nhưng chỉ cần nàng ra tay diệu thủ là mọi việc sẽ tốt đẹp thôi

    sáng hôm sau, một tỳ nữ gõ cửa báo tin:

    - Bẩm lão gia, đại công tử đã bỏ đi, để lại một phong thư.

    Văn Chí Lãm nói vọng ra:

    - Được rồi! Ngươi hãy đút qua khe cửa.

    Giọng lão có vẻ hòa hoãn hơn thường lệ Lúc này Thiết Long và Hà Tú Chân còn nằm trên giường. Lão dụi chiếc cằm trơn vào ngực mỹ nhân. Những cọng râu mới nhú làm nàng nhột nhạt, bật cười khúc khích. Thiết Long vui vẻ nói:

    - Chiếc mặt nạ này quả tinh xảo, râu có thể mọc xuyên qua một cách tự nhiên.

    Tú Chân vuốt má tình nhân:

    - Tướng công chớ lo, đây là tuyệt học của Biến Hình Môn, không ai khám phá nổi đâu.

    Thiết Long nhìn nàng say đắm, định gầy lại cuộc ái ân. Tú Chân đỏ mặt bảo:

    - Ngày tháng còn dài! Tướng công phải dậy sớm mới đúng tác phong của Văn lão.

    Chí Lãm ngượng ngùng, tặng nàng một nụ hôn nữa rồi mới chịu xuống giường.

    Khi hai người ra đến phòng ăn sáng thì tin đại công tử Văn Tuấn Thu bỏ đi đã loan khắp bảo. Hạc nhi chờ sẵn, nước mắt nhạt nhòa, nó ấp úng hỏi:

    - Bẩm phụ thân! Hài nhi nghe nói đại ca đã bỏ đi?

    Nó chờ đợi một lời quát mắng nhưng không ngờ Chí Lãm lại bước đến bồng Hạc nhi lên, âu yếm nói:

    - Đại ca ngươi giam mình ở đất Lư Lăng này đã quá lâu, tuy võ công xuất chúng nhưng chẳng có chút thanh danh gì trong võ lâm. Nay hắn nổi máu tang bồng hồ thỉ, xách kiếm hành tấu giang hồ cũng là phải đạo. Phụ thân sẽ thay Tuấn Thu chăm sóc cho Hạc nhi.

    Lão hôn lên gò má bầu bĩnh của Tuấn Hạc - trong sự ngạc nhiên của mọi người.

    Hạc nhi lần đầu được cha âu yếm, cảm động đến lặng người. Nó bạo dạn hôn lại ông, thì thầm gọi :

    - Phụ thân"

    Thiết Long buông con xuống, quay lại nghiêm giọng quát:

    - Trương tổng quản! Mau chuẩn bị ngựa để ta vào thành bàn bạc với phó tổng tiêu đầu"

    Văn gia bảo là nơi cư ngu của họ Văn, còn tiêu cục nằm trong thành Lưu Lăng.

    Văn bảo chủ đi rồi, mọi người xúm lại hỏi han:

    - Bẩm phu nhân! Vì sao bảo chủ lại đột nhiên thay đổi cách cư xử như vậy?

    Hà Tú Chân mỉm cười:

    - Đêm qua bảo chủ nằm mơ thấy đại nương hiện về trách móc nên hối hận đã khắc bạc với con cái"

    Đám gia nhân thở phào nhẹ nhõm mừng cho nhị công tử.

    Trong bảy năm sau đó, Tuấn Hạc được sống trong tình yêu thương của thân phụ và kế mẫu. Niềm u uất tan đi, trí tuệ của Hạc nhi phát triển rực rỡ, mười bốn tuổi đã nổi tiếng thần đồng đất Giang Tây, văn chương lừng lẫy vì có tài Thất Bộ Hành Thi - như Tào Thực thời Hán.

    Thiết Long bắt Hạc nhi luyện võ thì kết quả lại rất tồi tệ. Nó thuộc làu hai quyển bí kíp Thiết Thạch Thần Công và Ngô Câu Kiếm Pháp nhưng chẳng chịu rèn luyện. Thiết Long có trách mắng thì Hạc nhi biện bạch:

    - Cao tiên tổ họ Văn chỉ giỏi văn chương và thi pháp mà cũng lưu danh sử sách. Hài nhi thể chất văn nhược, không thích hợp với việc luyện võ.

    Thấy chí hướng Tuấn Hạc như vậy, Thiết Long đành bỏ qua. Mùa thu năm Hồng Võ thứ ha mươi, nhằm năm Đinh Mão, theo lệ thường có tổ chức thi Hương. Văn Tuấn Hạc tuy tuổi mới mười bốn mà đỗ đầu phủ Giang Tây, đoạt danh vị cử nhân.

    Mùa xuân năm sau, Tuấn Hạc xin phép phụ thân đi Kim Lăng để thi Hội ở bộ Lễ.

    Văn bảo chủ vui vẻ tiến ái tử lên đường Theo hầu Văn Tuấn Hạc là lão bộc già họ Nhâm. ít ai biết rằng lão già thấp đậm tuổi ngũ tuần này là cao thủ hắc đạo Hai mươi năm trước lão có danh là Hoàng Diện Thái Tuế. Nhâm Bá Linh có gương mặt vàng võ, cử chỉ chậm chạp, từ tốn nhưng đã từng là Đại Sát Tinh vùng Cam Túc, lão được Thiết Long cứu mạng nên nguyện làm nô bộc để báo ân.

    Nhâm lão ít nói và lạnh lùng như đá, nhưng đối với hai công tử lại hết dạ yêu thương. Tuấn Hạc cũng rất vui khi có Nhâm lão đồng hành. Chàng thường gọi lão là Nhân đại thúc.

    Năm nay trời rét đậm, ngay vùng hạ lưu Tràng Giang cũng có tuyết rơi. Tuấn Hạc đứng nhìn dòng nước Trường Giang cuồn cuộc, cao hứng ngâm bài Tử Niệm Nô Kiều của Tô Đông Pha:

    "Niệm nô kiều Đại Giang Đông khứ Lãng đào tận thiên cỗ phong lưu nhân vật.

    CỐ lũy Tây Biên . . . " Tạm dịch:

    "Niệm nô kiều Sông dài đông chảy Bao khách phong lưu từ xưa cuốn sách Thành lũy phía Tây . . . " Bài thơ đầy khí tượng hào phóng, mông lung và hùng mạnh. Nhâm lão tán dương:

    - Nhị công tử quả là bậc tài hoa xuất chúng"

    Tuấn Hạc đỏ mặt:

    - Nhâm đại thúc quá lời! Đây là bài từ của Đông Pha cư sĩ đời Tống chứ nào phải của tiểu diệt"

    Nhâm lão cười xòa bảo:

    - Sáng mai mới có thuyền xuôi Đông, chúng ta tìm khách điếm trọ một đêm.

    Hai người thúc ngựa đi vào trấn An Lạc cạnh bờ sông. Cổ nhân có câu nhất cận thị, nhị cận giang." Vì vậy, trấn này rất phồn vinh, sầm uất. Tuy không có thành quách bao quanh nhưng nhà cửa san sát, lâu quán, tửu hiệu cũng nhiều.

    cơ ngơi đồ sộ tất đường đi phải rộng rãi và được lót đá bằng phẳng. Văn Tuấn Hạc lần đầu đi xa phấn khởi ngắm những kiến trúc trong trấn, tắc lưỡi ngợi khen.

    Nhưng vừa đến giữa trấn, từ phía đối diện có một cặp tuấn mã đi ngựợc chiều với bọn Tuấn Hạc. Đó là hai lão già cao gầy dung mạo âm u hiểm ác, đôi mắt diều hâu lóe sáng dưới vành nón rộng. Họ nhìn trừng trừng vào mặt Hoàng Diện Thái Tuế, cười gằn rồi quay đầu ngựa đi theo.

    Nhâm lão biến sắc nhưng cố giữ vẻ thản nhiên dừng cương trước tòa Kim Thất lữ quán. Hai lão già kia cũng dừng lại chờ bọn Tuấn Hạc vào trong rồi mới bỏ đi.

    Nhâm lão chỉ mướn có một phòng.

    Chờ thiếu chủ tắm gội xong, lão nghiêm giọng bảo:

    - Nhị công tử! Lão nô có đôi lời tâm huyết muốn bộc bạch"

    Tuấn Hạc ngỡ ngàng đáp :

    - Sao Nhâm đại thúc lại tỏ vẻ nghiêm trọng quá vậy? Có gì xin cứ tỏ bày"

    Nhâm Bá Linh không nói thẳng mà hỏi lại:

    - Chẳng hay công tử tín nhiệm lão nô được bao nhiêu phần?

    Tuấn Hạc cau mày đáp :

    - Đại thúc chăm sóc ta từ thuở ấu thơ, tình thân như ruột thịt, hà tất phải hỏi thế.

    Nhâm lão bỗng quỳ xuống lập trọng thệ:

    - Xin hoàng thiên chứng giám cho những lời Nhâm mỗ nói ra đây. Nếu chỉ nói sai một câu thôi cũng bị lôi thần đả tử Tuấn Hạc kinh hãi đỡ ông lên:

    - Đại thúc cứ nói thẳng ra. Hạc nhi luôn kính trọng và tin yêu đại thúc "

    Hoàng Diện Thái Tuế ngồi vào ghế, buồn bã nói:

    - Lão nô có một bí mật giấu kín trong lòng đã mười lăm năm. Nay gặp lại kẻ thù cũ, tự biết không thể thoát chết nên đành thố lộ cho công tử biết! Mong công tử bình tâm lắng nghe.

    Tuấn Hạc róc chung trà cho lão :

    - Phải chăng hai lão già mặc áo cừu đen mà chúng ta mới gặp lúc nãy?

    - Thưa phải! Họ chính là Hoàng Sơn Nhị Quỷ, võ công xuất chúng, thủ đoạn tàn bạo nhất Hồ Nam"

    Lão bỗng cười nhạt kể:

    - Lão nô không sợ chết vì ít ra cũng đổi mạng được một tên. Giờ xin công tử nghe cho rõ. Thiết Long Văn Chí Lãm hiện nay chỉ là giả mạo. Kẻ ấy chính là thúc phụ của công tử. Năm xưa, lệnh tôn nhận được một phong thư liền vội vã đi ngay.

    Mười ngày sau, ông trở về và có nhiều cử chỉ khác lạ. Lão nô quá quen với nhiều thủ đoạn sâu độc của tà ma nên sanh lòng nghi ngờ, dốc sức theo dõi. Lúc ấy, công tử mới chỉ được vài tháng tuổi. Một đêm nọ, lão nô nấp dưới cánh cửa sổ khuê phòng đại phu nhân, tình cờ phát hiện bí mật kinh người. Thì ra, sau lần ân ái đầu tiên, đại phu nhân đã phát giác sự giả mạo. Bà định hô hoán lên thì lão tặc kia chụp lấy công tử và dọa giết chết. Lệnh mẫu đành phải hạ giọng năn nỉ. Qua lời đối thoại lão nô biết được lão ta là Văn Chí Khải, bào đệ của lệnh tôn. Lão bỏ nhà ra đi từ năm mười bẩy tuổi. Giờ bày độc kế giết chết đại ca, đoạt lấy cơ nghiệp và thanh danh. Cuối cùng, lão quỷ sợ bại lộ nên đã điểm vào tử huyệt của đại phu nhân. Lão nô vì công lực chưa khôi phục nên đành cắn răng nhẫn nhục.

    Tám năm trước, lão nô chưa kịp thố lộ cho đại công tử nghe thì Tuấn Thu lại thất tung. Tiếng là bỏ nhà ra đi nhưng lão nô lại cho rằng lệnh huynh đã bị giết. Nay công tử đã rời xa được Văn gia bảo, xin hãy cố học lấy võ công mà báo phục mối đại cừu"

    Lão vừa kể vừa rơi lệ, trông rất chân thành Tuấn Hạc nghe xong lặng người suy nghĩ và thắc mắc :

    - Hạc nhi biết đại thúc nói thực, nhưng điều kỳ lạ là tại sao bảy năm trước, gia phụ đột nhiên thay đổi tính tình, hết lòng yêu thương Hạc nhi? Nếu không phải cha ruột sao lại có thể biểu lộ một tình cảm đến như thế?

    Nhâm lão bối rối đáp:

    - Chính lão nô này cũng thắc mắc về điều này. Nếu năm xưa không tận mắt thấy lão giết đại phu nhân tất sẽ chẳng dám nghi ngờ "

    Văn Tuấn Hạc tuy còn niên thiếu nhưng trí tuệ xuất chúng. Chàng cố phân tích và hiểu rằng Nhâm lão không có lý do gì để bịa đặt ra chuyện tày trời này.

    Tuấn Hạc thở dài bảo :

    - Xem ra, võ công Văn Chí Khải không thua gì gia phụ. Nay Hạc nhi chỉ là một thư sinh trói gà không chặt, làm sao báo được gia thù?

    Nhâm Bá Linh rút từ dây lưng ra một túi lụa nhỏ, trong đó là một tấm đồng bài cũ kỹ, nhỏ hơn bàn tay. Lão đặt lên bàn rồi nói:

    - Ba mươi năm trước, lão nô tình cờ lấy được vật này. Sau mới biết được đây là lệnh phù của Hằng Sơn Thiền ông.

    Công tử hãy cầm lấy, tìm đến Huyền Không trên núi Hằng Sơn phía Bắc phủ Sơn Tây. Nếu được Thiền ông thu làm đệ tử thì lo gì không giết được Văn Chí Khải Tuấn Hạc cầm lấy đồng bài xem xét, thấy một mặt khắc hình thanh kiếm và rặng núi, mặt kia là những hoa văn rối rắm, tuy sắc sảo nhưng không nhận ra hình dạng. Chàng buồn bã nói:

    - Nghe nói từ đây đi đến phủ Sơn Tây đường xa bốn năm ngàn dặm, làm sao Hạc nhi có thể tự mình đi đến đó được, Nhâm lão thừ người suy nghĩ. Lát sau, lão nghiến răng nói:

    - Lão nô sẽ hy sinh chút hư danh năm xưa, âm thầm trốn đi, đưa công tử đến Hằng Sơn, Hoàng Sơn Nhị Quỷ chắc không ngờ lão nô lại làm như vậy.

    Tuấn Hạc mừng rỡ bảo :

    - Hài nhi từng đọc Nam Hoa Kinh, thấy cổ nhân xem danh lợi như phù vân. Nay đại thúc quyết định như vậy là rất hợp lý trời Ngay Hạc nhi đi thi cũng chỉ vì muốn đẹp lòng gia phụ và kế mẫu chứ chẳng phải muốn làm quan.

    Nhâm lão nghe lòng nhẹ nhõm gọi tiểu nhị dọn cơm. Canh hai đêm ấy, lão thu xếp hành lý, chỉ đem theo những vật dụng cần thiết, cõng Tuấn Hạc bôn đào về hướng Tây.

    Đến một đoạn sông vắng, thấy có một chiếc thuyền con neo đậu, lão lấy trộm đưa Tuấn Hạc sang sông. Chàng là người đọc sách thánh hiền nên đã bảo Nhâm lão để bạc lại bồi thường cho gã nghi dân chủ thuyền.

    Hoàng Diện Thái Tuế biết đối thủ của mình giỏi thuật truy tung nên đốc thúc Tuấn Hạc đi thật nhanh. Nhưng do cơ thể yếu đuối chàng không kham nổi cuộc hành trình gian khổ, cấp bách. Vì vậy, cước trình chậm chạp .

    Nhưng có lê đỉnh bạc lớn để lại có giá trị gấp bốn lần chiếc thuyền câu nên gã nghi phủ nào đó đã giấu biệt việc mình mất thuyền. Vì vậy, Hoàng Sơn Song Quỷ cứ tưởng Nhâm lão đưa chàng thiếu niên kia về hướng Đông. Lúc chiều, Song Quỷ đã thấy họ đi từ bến đò đến.

    Ba ngày sau, không thấy ai truy đuổi, Nhâm Bá Linh yên tâm, không thúc giục thiếu chủ nữa. Tuấn Hạc tha hồ thưởng lãm cảnh vật dọc đường thiên lý. Càng lên phía Bắc trời càng lạnh, tuyết rơi dày hơn, điểm trắng cảnh vật, nhưng đủ để chàng thiếu niên thi hứng dâng tràn.

    Chàng khoan khoái nói:

    - Nhâm đại thúc! Đúng là đọc vạn quyển sách không bằng đi xa trăm dặm.

    Non sông gấm vóc này xinh đẹp biết bao?

    Nhâm lão cười tán thành, nhưng lại nghiêm giọng:

    - Công tử cứ việc thưởng lãm phong cảnh nhưng xin vì mối gia cừu mà ghi nhớ những lời lão nô nói ra. Giang hồ là chốn hiểm nghèo, đầy những thủ đoạn xảo quyệt tàn độc. Dâu sau này công tử có học được võ công tuyệt thế, mà không chút kinh nghiệm cũng chẳng mong toàn mạng.

    Tuấn Hạc chỉnh sắc đáp :

    - Xin đại thúc cứ chỉ giáo, Hạc nhi không dám lơ là.

    Hoàng Diện Thái Tuế bèn đem qui củ giang hồ, cùng những mưu ma chước quỷ của giới tà đạo ra giảng giải. Lão xuất đạo từ năm mười bảy tuổi, lang thang khắp thiên hạ nên kiến văn rất rộng.

    Tuấn Hạc không ngờ cuộc sống của người võ sĩ lại phong phú đến như vậy, chàng đâm ra say mê, tận tình học hỏi.

    Với trí nhớ siêu phàm, Tuấn Hạc chẳng quên điều gì. Một hôm chàng hỏi Nhâm lão:

    - Đại thúc! Vì sao Văn Chí Khải lại muốn tiểu diệt luyện hai pho tuyệt kỹ của họ Văn? Chẳng lê lão ta không sợ có ngày tiểu diệt khám phá ra nội tình hay sao?

    Nhâm lão giật mình:

    - Thế công tử có học được gì hay không?

    Tuấn Hạc mỉm cười :

    - Tiểu diệt thuộc làu nhinh chẳng bao giờ luyện tập.

    Nhâm lão mừng rỡ:

    - Nếu vậy sau nầy công tử sẽ biết hết những sơ hở trong pho Ngô Câu Đoạt Mệnh Kiếm. Ngược lại, lão tặc kia không hề biết gì về võ công của Hằng Sơn Thiền ông. Đó chính là lợi thế rất lớn.

    Bỗng lão lộ vẻ lo lắng:

    - Nhưng dù công tử có giết được Văn Chí Khải cũng khó mà thoát chết dưới tay Nhật Nguyệt Song Ma. Họ chính là nghĩa phụ, nghĩa mẫu của lão tặc. Song Ma tu luyện trên núi Ngọc Sơn, cách Nam Xuống hơn trăm dặm. Cặp ma đầu ấy từng liên thủ giao đấu với Hằng Sơn Thiền ông ngoài ngàn chiêu mới chịu bại. Có lê sau này công tử nên giết kẻ thù một cách âm thầm thì tốt hơn.

    Tuấn Hạc mỉm cười nói sang chuyện khác

    Gần tháng sau, hai người đến bờ Hoàng Hà, bên kia sông chính là địa phận của phủ Sơn Tây.

    Tuấn Hạc dửng trên đò ngang, ngắm nhìn dòng nước vàng đục chảy cuồn cuộn về Đông, mạnh mê hơn cả Trường Giang.

    Chàng khoan khoái, say mê thì thầm ngâm vịnh.

    Nhưng đò vừa ra đến giữa sông đã bị một chiếc khoái thuyền thân dài đuổi kịp.

    Đứng trên mũi trước chính là Hoàng Sơn Nhị Quỷ. Một lão quát lên như sấm:

    - Nhâm Bá Linh, ngươi tưởng rằng có thể thoát thân được sao?

    Nhâm lão biến sắc bảo Tuấn Hạc:

    - Lão nô phải đối phó với chúng. công tử cứ đi trước hẹn nhau ở chân núi Hằng Sơn Lão nô tinh thông thủy tính, chẳng thể chết được đâu.

    Tuấn Hạc sợ hãi gật đầu:

    - Mong Nhâm đại thúc bảo trọng.

    Hoàng Diện Thái Tuế trao tay nải cho Tuấn Hạc rồi tháo dây Thiết Luyện quấn quanh bụng dấu dưới thắt lưng nhảy sang thuyền của đối phương.

    Nhâm lão giương danh giang hồ bằng vũ khí độc môn có tên là Thiết Luyện Lưu Tinh Chùy. Trái cầu gai bằng thép ở dầu sợi xích dài gần trượng kia tuy chỉ lớn hơn trái chanh nhưng rất nặng và sắc bén.

    Nhâm lão lao vào khoảng không giữa hai chiếc thuyền. Lưu Tinh Chùy quét một đòn sấm sét khiến Nhị Quỷ phải thoái bộ, nhường chỗ cho Hoàng Diện Thái Tuế hạ thân xuống mũi khoái thuyền.

    Ở địa thế chật hẹp này, Nhâm Bá Linh chẳng thể phát huy được uy lực của pho chùy pháp. Lão phải thu ngắn dây Thiết Luyện lại vì Hoàng Sơn Nhị Quỷ đã múa tít đoản kích xông vào.

    Vũ khí dài như Thiết Luyện tối ky việc đánh gần. Vì vậy, Nhâm lão cố giữ không để đối phương nhập nội. Lúc đầu, nhờ chân khí còn dồi dào nên Nhị Quỷ không tiến lên được. Đôi đoản kích tạo thành màn lưới thép, chống đỡ trái chùy kia.

    Tiếng vũ khí va chạm vang rền và những tia lửa nhỏ bắn ra liên tục.

    Sau gần ba trăm chiêu, khí lực Thái Tuế giảm sút, đường chùy không còn lợi hại như trước nữa. Đại Quỷ cười hăng hắc:

    - Bá Linh! Cách biệt hai mươi năm, xem ra bản lãnh ngươi chẳng tiến bộ được chút nào cả?

    Hoàng Diện Thái Tuế cười nhạt:

    - Khoan hãy đắc ý! Hôm nay lão phu sê đổi mạng với bọn ngươi "

    Lúc này đò ngang đã trôi khá xa, Tuấn Hạc không còn nhìn thấy rõ trận chiến trên khoái thuyền, chàng lo lắng cho Nhâm đại thúc, thầm khấn hoàng thiên bảo hựu cho lão.

    Ở đấy Nhâm lão đã bắt đầu kém thế.

    Hoàng Sơn Nhị Quỷ đã đánh bạt được trái thiết chùy và ập đến.

    Hoàng Diện Thái Tuế nhận ra sáu trên trạo phu đã thủ sẵn cung tiễn, phòng khi lão nhẩy xuống nước. Bá Linh nghĩ đến Tuấn Hạc liền cắn răng đạp mạnh xuống sàn thuyền. Nhị Quỷ kinh hãi lao vào như ánh chớp. Thiết Luyện bị khóa chặt và Thái Tuế trúng liền hai kích vào ngực, nhưng cú đạp thứ hai đã phá thủng đáy thuyền. Nước tràn vào rất nhanh khiến thuyền chìm hãn xuống. Bọn cung thủ mất đà, phải bám vào mạn thuyền.

    Chỉ chờ có thế, Hoàng Diện Thái Tuế lao xuống dòng nước Hoàng Hà mất dạng. Hoàng Sơn Nhị Quỷ và sáu thủ hạ ướt như chuột lột, lóp ngóp cố bơi vào bờ Nam.

    Tuấn Hạc thấy khoái thuyền đã chìm, chàng nửa mừng nửa lo. Sang đến bờ Bắc, Tuấn Hạc dẫn hai con tuấn mã vào phạn điếm bên đường chờ đợi. Mãi đến quá Ngọ vẫn không thấy Nhâm Bá Linh xuất hiện, chàng đành gởi ngựa và hành lý của lão lại quán cơm rồi một mình đi về hướng Bắc.


  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 2

    Lộ thượng phùng mỹ nữ
    Đông dạ hưu lương duyên
    Tuấn Hạc đã hỏi thăm lão chủ quán, được biết dãy Hằng Sơn nằm ở cực Bắc phủ Sơn Tây, cách đây hơn ngàn dặm, cứ nhắm hướng Bắc mà đi thẳng là không sợ lạc Không có Nhâm Bá Linh bên cạnh, Tuấn Hạc cảm thấy rất cô đơn trên con đường thiên lý lạnh lùng. Tuyết vẫn rơi không ngớt dù đã bước qua tháng ba.

    Tuy yếu đuối nhưng với dũng khí của kẻ sĩ, chàng không hề sợ hãi, ung dung dong ruồi. Tuy nhiên theo đúng lời dạy bảo của Nhâm lão, chàng dấu thật kỹ đồng bài và số ngân phiếu trong ống giầy, chỉ để hơn năm trăm lượng bạc ở ngoài.

    Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã thống nhất được Trung Hoa. Khi vua Nguyên chạy khỏi Hoa Bắc mà về Mông Cổ ba phủ Sơn Tây, Thiểm Tây và Cam Túc vẫn do tướng Mông Cổ chiếm cứ.

    Thái Tổ đã sai tướng sĩ đánh đuổi bọn chúng, sát nhập ba miền đó vào bản đồ nhà Minh.

    Xong việc, ông dẹp luôn bọn anh hùng hảo hán ở Tứ Xuyên và Vân Nam. Năm ngoái (Hồng Võ thứ hai mươi) Minh Thái Tổ đã chiếm được Liêu Đông ở phía Đông Bắc.

    cương thổ mở mang đến đâu thì đất tung hoành của giới võ lâm rộng theo đến đấy Tuy trong cuộc kháng Nguyên phần lớn tinh hoa đã bỏ mình, nhưng từ ngày giành lại được độc lập, nền võ học Trung hoa ngày càng khởi sắc.

    Giang sơn quá rộng lớn khiến triều đình cai quản không xuể, nạn cường sơn thảo khấu vẫn hoành hành. Nạn nhân của chúng là đám lương dân và khách thương hồ. Tuấn Hạc cũng sắp là một trong những người đáng thương ấy.

    Sáu bốn ngày bôn hành, chàng đến một cách rừng vắng - cách bến đò của một gióng sông chừng vài dặm. Cùng đi với Tuấn Hạc còn có một toán lái buôn đông độ mười người. Bông một lão la lên:

    - Chết cha ! Phí a trước có cường đạo "

    Cả bọn vội vã dừng cương quay ngựa, tìm đường khác mà đi. Tuấn Hạc đang tuổi thiếu niên, như chú cừu non không biết sợ cọp. Chàng mỉm cười chua chát, thúc ngựa đi tiếp.

    Khi đến gần, chàng nhận ra một thiếu nữ - tuổi độ mười chín, hai mươi đang bị sáu tên đại hán râu ria vây chặt. Nhìn dáng người gầy yếu, mãnh khảnh của nàng, Tuấn Hạc nghe lòng hào hiệp sục sôi Chàng dừng cương chờ xem sự thể.

    Lúc này gã cường đạo mặt đen đã lục soát xong tay nải nhỏ của thiếu nữ. Gã bực bội chửi thề:

    - Mẹ kiếp! Chẳng có một đồng kêm nào cả! Bọn lão gia thật xui xẻo"

    Gã chỉ mặt thiếu nữ rồi gầm lên:

    - Con tiểu nha đầu kia! Nếu khôn hồn moi hết tiền bạc dấu trong người ra, không thôi lão gia sẽ một truồng ngươi ra đấy"

    Thiếu nữ lạnh lùng đáp:

    - Ta vội vã rời nhà nên không đem theo ngân lượng ! Xin đừng ép người thái quá "

    Hắc diện hán tử quát lớn:

    - Các hiền đệ hãy lục soát con bé này cho ta ! Mặt mũi xinh đẹp, quý phái thế kia lẽ nào không có được vài trăm lượng?

    Năm gã còn lại bật cười dâm đảng, xuống ngựa chạy đến bên thiếu nữ.

    Tuấn Hạc tự biết mình văn nhược, chẳng thể dùng sức mà cứu được người con gái bất hạnh kia. Chàng đánh liều gọi lớn:

    - Khoan đã ! Xin chư vị dừng tay "

    Chàng thúc ngựa đến gần, vòng tay noi:

    - Tiểu sinh có hơn trăm lượng trong hầu bao, xin tặng thay cho vị tỷ tỷ kia.

    Tuấn Hạc rút túi bạc quăng về phía hán tử mặt đen. Gã chụp lấy, mở ra xem. Đắc ý cười ha hả:

    - Tốt lắm! Lão gia biết trong người tiểu tử ngươi chắc chắn còn rất nhiều, nhưng số này cũng là đủ lễ. Hoắc Châu Lục Hổ tuy là cường đạo nhưng cũng không đến nổi tán tận lương tâm.

    Gã hô lớn:

    - Rút thôi các hiền đệ"

    Cả bọn cười vang, chạy vào rừng. Tuấn Hạc xuống ngựa, nhặt lại bọc hành lý của thiếu nữ, đem đến cho nàng:

    - Tỷ tỷ! May mà bọn đạo tặc kia không quá tham lam.

    Thiếu nữ kia không hề cám ơn mà lại lạnh lùng bảo:

    - Ai khiến ngươi xen vào việc của bổn cô nương?

    Tuấn Hạc sững người , cười khổ :

    - Tiểu đệ đa sự, xin nhận lỗi với tỷ tỷ"

    Chàng giữ lễ không nhìn thẳng vào mặt đối phương, nhưng cũng lờ mờ nhận ra nàng rất xinh đẹp. Thấy thiếu nữ không hài lòng, chàng cúi chào, định quay bước.

    Bỗng nhớ đến nàng không có một xu dính túi chàng cúi xuống lấy trong ống giầy ra một cuộn ngân phiếu, lựa một tờ rồi cung kính nói:

    - Tiểu đệ xin tỷ tỷ nhận lấy chút bạc mọn này để cho dùng trên đường thiên lý.

    Sau này có dịp trùng phùng, tỷ tỷ hoàn lại cho tiểu đệ cũng được.

    Thiếu nữ cầm lấy xem thử, thấy nó trị giá đến năm trăm lượng bạch ngân, nàng mỉm cười:

    - xem ra cậu học trò nhỏ này lại là con nhà đại phú! Thôi được, bổn cô nương cũng xin mượn tạm. Hãy báo tính danh để sau này ta gởi trả.

    Ngôn từ của nàng vô cùng cao ngạo nhưng giọng nói bình thản, từ tốn.

    Tuấn Hạc tuy còn nhỏ nhưng làu thông sách vở thánh hiền, thâm nhập tinh túy tam giáo nên thái độ quân tử, độ lượng như biển lớn. Chàng không hề có sắc giận, kính cẩn đáp:

    - Tiểu đệ là Văn Tuấn Hạc, xin thỉnh giáo phương danh tỷ tỷ"

    Thiếu nữ tủm tỉm đáp :

    - Ta là ôn Tiểu Băng! Ngươi đi đâu mà một mình dong ruổi như vậy? Không sợ cường đạo hay sao?

    Chàng vui vẻ đáp :

    - Tỷ tỷ là nữ nhi mà còn không sợ, lê nào tiểu đệ lại nhát gan hơn?

    Lúc này chàng nhìn thẳng vào mặt đối phương nên bất giác sững sờ trước dung mạo của Tiểu Băng. Dẫu bao nhiêu ngôn từ điển cố cũng không thể diễn tả hết được vẻ đẹp kỳ tuyệt kia! Ngoài vẻ thanh tú của ngũ quan, gương mặt này còn vô cùng biểu cảm. Đôi mắt huyền đen láy man mác vẻ sầu muộn nhưng đôi lúc bừng lên ánh tinh ranh hay lạnh lẽo. Da mặt đang trắng bỗng hồng lên vì hỗ thẹn.

    Tất cả những vẻ sinh động đó đều làm xao xuyến lòng người.

    Tuấn Hạc ngơ ngẩn nhìn, quên cả việc giữ lễ. Tiểu Băng biết cậu bé này bị chấn động bởi nhan sắc của mình, nàng thầm hài lòng nhưng không khỏi thẹn thùng, mặt đỏ lên như hoa đào. Tiểu Băng hừ nhẹ Tuấn Hạc giật mình bối rối:

    - Thất lễ ! Thất lễ ! Chỉ vì tỷ tỷ xinh đẹp như tiên giáng trần nên tiểu đệ không giữ được lòng mình. Mong tỷ tỷ lượng thứ.

    Phàm là nữ nhân, ai cũng thích nghe tán dương nhan sắc của mình. Nay Tuấn Hạc còn nhỏ mà cũng biết thưởng thức khiến Tiểu Băng vô cùng khoan khoái.

    Nàng giả vờ giận dữ nói:

    - Ngươi là người đọc sách thánh hiền mà sao miệng lại trơn như bôi mỡ thế kia?

    Tuấn Hạc chỉnh sắc biện bạch:

    - Tiểu đệ chẳng dám xảo ngôn, quả thực tỷ tỷ đã được trời phú cho một dung nhan tuyệt thế. Trộm nghĩ Hằng Nga, Tây Thi thuở trước cũng không hơn được .

    ánh mắt của chàng đã tỏ rỏ được lòng trung thực nên Tiểu Băng đẹp dạ, sanh lòng cảm mến chàng thiếu niên này.

    Hơn nữa, Tuấn Hạc cũng xinh đẹp như tiên đồng, mắt sao, mày kiếm, môi đỏ tợ son. Mấy năm qua, chàng được giới tao nhân mặc khách đất Giang Tây hết lòng mời mọc đến bình thơ, ngâm vịnh. Nhờ quen giao tiếp với các bậc đại nhân nên phong thái chàng rất tự nhiên và tôn quí.

    Tiểu Băng nhận ra mình thoát khỏi tâm trạng sầu muộn, cô độc từ lúc gặp Tuấn Hạc. Nàng dịu giọng:

    - Văn hiền đệ thôi đừng tán dương ta nữa, mà hãy nói rõ xem ngươi đang định đi đâu?

    Dù Hoàng Diện Thái Tuế đã dặn dò rất kỹ, Tuấn Hạc vẫn không thể nói dối người con gái này. Chàng thực thà đáp:

    - Tiểu đệ đang trên đường đến Hằng Sơn để tìm Thiền ông mà học nghệ "

    Tiểu Băng khê giật mình hỏi lại:

    - Hiền đệ sở cậy vào điều gì mà dám đến Huyền Không Tự?

    Tuấn Hạc mỉm cười, cúi xuống lấy tấm đồng bài trong ống giầy bên tả đưa cho Tiểu Băng xem. Nàng chăm chú quan sát rồi thở dài:

    - Ngươi lầm rồi! Đây không phải là tín vật của Hằng Sơn Thiền ông mà là của một vị kỳ nhân tuyệt thế khác. Có điều, ông ta đã hơn trăm tuổi và qui ẩn nơi nào không rõ.

    Tuấn Hạc thất vọng, ngỡ ngàng nói :

    - ôn tỷ tỷ nói thực chứ?

    - Không thể sai được, Hằng Sơn Thiền ông chính là đại bá phụ của ta. Tục danh của người là ôn Thanh Liêm.

    Tuấn Hạc buồn bã:

    - Nếu vậy, tiểu đệ chẳng có chút hy vọng học được thần công.

    Tiểu Băng cười hỏi:

    - Dẫu không có tín vật, ta cũng có thể năn nỉ bá phụ nhận ngươi làm đồ đệ. Nãy giờ ngươi cứ leo lẻo gọi ta là tỷ tỷ, lẽ nào ta không giúp ngươi? Nhưng trước tiên hãy nói rỏ vì sao lại phải khổ công tầm sư học đạo như vậy?

    Tuấn Hạc vui mừng khôn xiết, vòng tay vái dài:

    - Tiểu đệ nguyện khắc cốt ghi tâm đại ân này. Còn về nguyên nhân xin tỷ tỷ thượng mã, dọc đường tiểu đệ sẽ cáo trạng Hai người lên ngôi, khi đến bờ sông thì Tiểu Băng đã hiểu hết hoàn cảnh của Tuấn Hạc. Nàng cười nhạt bảo:

    - Hạc đệ đừng lo, tỷ tỷ sẽ giúp ngươi báo phục mối huyết thù này"

    Tuấn Hạc cảm kích, dương mắt nhìn nàng với vẻ ngưỡng mộ vô bờ. Một lần nữa, nhan sắc kia lại cuốn hút chàng.

    Không phải do tà niệm mà như người họa sĩ say đắm cảnh đẹp của thế gian. Tuy nhiên, Tiểu Băng vẫn cảm thấy xốn xang.

    Nàng đỏ mặt gắt:

    - Sao ngươi lại nhìn ta như vậy?

    Tuấn Hạc giật mình, bên lên đáp:

    - Tiểu đệ luôn tự răn mình giữ lễ nhưng mỗi lần ngắm dung mạo tiên nga của tỷ tỷ là lòng lại say đắm, không dứt ra được.

    Lần đầu được thấy cảnh tượng hùng vĩ của Hoàng Hà, cảm giác cũng như vậy.

    Tiểu đệ muốn ngẫu tác vài câu thơ để tỏ lòng ngưỡng mộ mà chẳng thể tìm ra lời Tiểu Băng hứ nhẹ rồi quay đi. Nếu là lời của một nam nhân trưởng thành, nàng đã tát vào mặt gã. Nhưng đây lại là cảm nhận của một đứa bé mười lăm, thành thực và trong sáng. Nàng nghe lòng thư thái cười bảo:

    - Ngươi cũng anh tuấn phi phàm, sau này tất sẽ là một mỹ nam tử trên thế gian.

    Vừa lúc đò ngang cập bờ, hai người vội dắt ngoi lên. Sang đến bên kia thì chiều đã buông, trời u ám, tuyết rơi đầy và gió Đông thổi mạnh. Tuấn Hạc thấy Tiểu Băng chỉ mặc một tấm áo khinh cừu ngắn bên ngoài bộ võ phục đen, chàng ngần ngại nói:

    - Nếu đi tiếp cũng chẳng được bao nhiêu dặm là trời tối. Chúng ta vào lữ quán nghĩ ngơi thì tốt hơn. Tiểu đệ nghe đói bụng rồi.

    Tiểu Băng đồng ý, dừng cương trước khách điếm duy nhất gần bến đò.

    Lão chưởng quỹ hồ hởi nói:

    - May quá, bổn điếm còn trống một phòng. Nhị vị là tỷ đệ ở chung chắc cũng không bất tiện.

    Tiểu Băng từng đi qua đây nhiều lần nên biết rõ không còn nơi nào khác. Nàng bên lên gật đầu. Tuấn Hạc xoa bụng nói thêm:

    - Xin đại thúc cho sắp ngay một mâm cơm thượng hạng.

    Vào đến nơi, thấy phòng cò một giường đôi trải nệm trắng muốt và chiếc trường kỹ gỗ. Tiểu Băng nhăn mặt. Tuấn Hạc hiểu ý cười bảo:

    - Tỷ tỷ yên tâm ! Ti êu đệ ở nhà thường đọc sách rất khuya ngủ quen nơi trường kỷ.

    Tiểu Băng xem chàng như đứa em nhỏ nên cũng khoan tâm. Nàng sửa soạn y phục để ra sau tắm gội. Mùa này, ở vùng phía Bắc Hoàng Hà, lữ quán nào cũng có nước nóng cho khách.

    Hai người lần lượt tắm xong, bắt đầu dùng cơm. Thấy trên mâm cơm có một bình rượn nhỏ, Tiểu Băng cười hỏi:

    - Hiền đệ có uống được rượn không?

    - Thưa có! Tiểu đệ thường ngâm vịnh với các danh sĩ đất Giang Tây nên cũng uống được vài chén.

    Tiểu Băng nói đùa:

    - Ta quên mất ! Ngươi cũng là một trong những danh sĩ ấy. Nhà ta ở Nghi Xương nên cũng từng được nghe đến thanh danh của thần đồng đất Giang Tây.

    Tuấn Hạc thẹn thùng, bới cơm cho nàng. Sau vài chung rượn nhỏ, mặt hoa ửng hồng trông càng thêm diễm lệ. Tuấn Hạc không dám nhìn thẳng, cắm cúi ăn cho no. Xong bữa thì trời tối. Tiểu Băng nghiêm giọng:

    - Hiền đệ cứ ở yên trong phòng, ta ra ngoài có chút việc"

    Nàng đi rồi, Tuấn Hạc ngồi nghiêm ngẫm khẩu quyết pho Thiết Thạch Thần Công. Gần tháng nay, từ lúc biết mình mang nặng mối gia thù, chàng đã âm thầm luyện pho nội công này. Một trong những đặc điểm của nó là có thể thổ nạp chân khí trong mọi tư thế mà không cần tĩnh tọa.

    Cả võ lâm đều tưởng rằng Thiết Long Văn Chí Lãm chuyên luyện ngoại công như dạng Thiết Bố Sam, Kim Chung Trạo. Thực ra, pho tâm pháp Thiết Thạch Thần Công lại có đủ hai phần nội ngoại công. Song song với việc luyện khí, Thiết Long còn dùng một loại dược phương đặc biệt thoa khắp cơ thể, khiến da thịt săn chắc, dai bề gấp bội.

    Giờ đây, trong người Tuấn Hạc đã có một ít chân khí lần lượt di chuyển từ huyệt này sang huyệt kia một cách tự động.

    Dẫu sao, tư thế kiết già vẫn tốt nhất cho việc luyện công. Tuấn Hạc tĩnh tọa, hít thở độ một hai canh giờ mới đi ngủ.

    Chàng ôm mền gối sang trường kỷ và mau chóng chìm vào giấc mộng.

    Đầu canh ba, ôn Tiểu Băng mới về đến, thấy Tuấn Hạc đã ngủ say, nàng bước lại sửa sang tấm chăn bông trên người chàng. Trước ánh sáng leo lét của dĩa đèn dầu, nàng chợt cảm thấy thu hút trước vẻ đẹp thiên thần của cậu bé.

    Tiểu Băng nhìn mãi, lòng rộn lên những cảm giác, những ước mơ kỳ lạ.

    cuối cùng, nàng khê thở dài, bước lại giường mình; Nàng có vẻ ngần ngại khi thay áo, mắt liếc về phía trường kỷ. Nhưng thói quen bao năm khó mà bỏ được, nàng trút nhanh bộ võ phục, khoác áo ngủ rồi chui vào chăn.

    Đêm nay, trời trở rét đột ngột vì bão tuyết Cuối canh tư, Tiểu Băng thức giấc vì lạnh Nàng chợt nghe tiếng rên nho nhỏ của Tuấn Hạc, giật mình nhớ lại rằng cậu bé kia nằm trên trường kỷ gỗ, không lót nệm bông nên sẽ lạnh hơn nàng nhiều.

    Tiểu Băng bối rối, không biết tính sao.

    Mãi hơn khắc sau nàng mới quyết định được nhẹ nhàng bước xuống giường, đến bên trường kỷ. Nếu ánh đèn sáng hơn, ta có thể thấy mặt nàng đỏ bừng và ánh mắt có chút sợ hãi.

    Tiểu Băng thò tay điểm vào Thụy Huyệt Tuấn Hạc . Nàng cho rằng nó không biết võ công nên điểm rất nhẹ. Tấu xảo thay, lúc này luồng chân khí yếu ớt trong người chàng lại chạy ngay đến huyệt ấy nên Tuấn Hạc không bị mê đi.

    Chàng nhận ra Tiểu Băng đang điểm huyệt mình, nhưng không hiểu nguyên do nên nằm im giả như say ngủ. Tiểu Băng thấy vậy yên tâm bồng cậu bé về giường mình. Nàng nằm xuống bên cạnh, cố dỗ giấc ngủ. Bão tuyết vẫn ào ạt thổi qua, Tiểu Băng run lên và hiểu rằng Tuấn Hạc cũng rất lạnh.

    Nàng nhìn vào gương mặt ngây thơ kia, mắt long lanh vì nghe lòng mình bất nhẫn. Cuối cùng, nàng cắn răng ngồi dậy, xếp hai tấm chăn làm một, nằm xuống đắp chung. Nàng rụt rè ôm lấy Tuấn Hạc, cố đem hơi nóng của cơ thể sưởi ấm cho đứa cô nhi bất hạnh.

    Nàng đâu biết rằng Tuấn Hạc đã khóc.

    Nó cảm nhận được tấm lòng thương yêu của nàng và sung sướng được nằm trong vòng tay của người con gái đẹp nhất thế gian. Trong phút giây kỳ diệu ấy, Tuấn Hạc bỗng phát nguyện rằng sẽ tôn thờ nàng suốt kiếp.

    Hơi ấm của hai cơ thể hòa lại đã xua đuổi được cái lạnh cắt da của đêm đông.

    Hai người mau chóng chìm vào giấc ngủ.

    Cuối canh năm, tiếng gà gáy sáng khiến Tiểu Băng giật mình. Nhận ra Tuấn Hạc vẫn còn ngủ, nàng mừng rỡ đưa cậu bé về trường kỷ. Thay y phục xong, nàng mới lay gọi:

    - Văn hi ền đệ "

    Tuấn Hạc mở mắt, nhìn nàng mà mỉm cười Tiểu Băng có tật giật mình, nghe tim đập thình thịch. Nàng ngỡ rằng cậu bé đã biết chuyện hôm qua. Tuấn Hạc thẹn quá hóa giận. Nàng gắt nhỏ:

    - Trời đã sáng mà chưa chịu dậy sao?

    Mặt nàng đỏ hồng nhưng ánh mắt uy nghiêm lạnh lẽo. Tuấn Hạc sợ hãi vùng dậy ngay. Dùng điểm tâm xong, hai người lên ngựa tiếp tục cuộc hành trình. Ai cũng bị ám ảnh bởi việc đêm qua nên lặng lê, ít nói hơn. Tuấn Hạc thấy nàng có vẻ sầu muộn nên tìm cách giải khuây. Chàng cao giọng ngâm nga những bài phú, bài từ.

    Giọng chàng trong trẻo vui tươi nên Tiểu Băng cũng nguôi ngoại.

    Trưa hôm ấy, họ chỉ còn cách thành Hoắc Châu chừng ba chục dặm. Tiểu Băng cười bảo:

    - Hiền đệ phi nhanh một chút, ta đói bụng rồi đấy.

    Hai người thúc ngựa phi nước đại.

    Được vài dặm, đường quan đạo xuyên qua khu đồi nhỏ, ha bên là rùng cây rậm rạp. Bông từ mé tả có tám thớt ngựa phi ra chặn đường. Đó là hai lão nhân áo vàng tuổi độ lục tuần và sáu hán tử áo xanh. Tuấn Hạc kinh hãi bảo:

    - ôn tỷ tỷ! Lại có cường đạo nữa kìa"

    Tiểu Băng cười nhạt:

    - Không phải đâu! Họ là người quen của ta đấy.

    Quả thực, lão già mập mạp râu ngắn cung kính vòng tay nó i :

    - Bọn lão phu phụng mệnh giáo chủ cung thỉnh Thánh Nữ hồi sơn"

    Tiểu Băng lạnh lùng đáp:

    - Lục hộ pháp hãy về thưa với giáo chủ rằng ôn Tiểu Băng ta thà chết chứ không lấy gã họ Trương ấy đâu.

    Lão già áo vàng thứ hai vuốt chòm râu dài, nở một nụ cười âm hiểm:

    - Giáo chủ đã trao Thiên Độc Ngân Bài cho anh em lão phu. Thánh Nữ còn dám phản kháng hay sao?

    Lão mập bèn giơ cao một thẻ bài bằng bạc. Tiểu Băng tái mặt, lộ vẻ sợ hãi.

    Nàng quay sang bảo Tuấn Hạc:

    - Hiền đệ cứ đi đi, tỷ tỷ chẳng thể đưa ngươi đến Hằng Sơn rồi ! Nhanh chân lên"

    Nói xong, nàng nháy mắt ra hiệu. Tuấn Hạc thông minh tuyệt thế, hiểu ngay rằng nàng đang có diệu kế trong lòng. Hơn nữa, chàng đã từng nghe Hoàng Diện Thái Tuế Nhâm Bá Linh kể về Thiên Độc Giáo và Thiên Độc Thánh Nữ. Nay nghe qua cuộc đối thoại, chàng nhận ra vị tỷ tỷ xinh đẹp của mình chính là vị nữ sát tinh số một trong võ lâm đương đại. Cơ trí và võ công của nàng đều lừng lẫy giang hồ.

    Tuấn Hạc yên lòng thúc ngựa đi ngay.

  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chờ chàng đi khuất, Tiểu Băng quay về phía bọn thủ hạ, buồn rầu bảo:

    - Thôi được! Ta đành phải theo nhị vị về thôi Lão già được gọi là Lục hộ pháp mừng rỡ nhét Ngân Bài vào bụng. Nào ngờ, từ tay tả Tiểu Băng một chùm độc châm bay ra, chụp lấy đối phương. Lão ta đâu ngờ đến việc này nên trúng đòn, ré lên thảm khốc rơi xuống mặt tuyết. Cả ba tên giáo chúng gần đấy cũng vậy.

    Đồng thời, Tiểu Băng tung mình về phía lão râu dài. Trên tay nàng là một thanh kiếm tẩm độc xanh lè.

    Lão ta thất kinh, vung trường kiếm đón chiêu. Ba hán tử áo xanh còn lại cũng xông vào .

    Lão áo vàng thứ hai nầy chính là Thất hộ pháp của Thiên Độc Giáo, lão gầm lên:

    - Tiểu Băng! Ngươi dám giết hộ pháp của bổn giáo là đã phạm vào đại tội. Lão phu không tha cho ngươi đâu.

    Tiểu Băng quắt mắt mắng:

    - Bọn ngươi theo phe nhị nương hà hiếp mẹ con ta. Nay cũng đừng hòng mà sống sót.

    Nàng giận dữ múa tít thanh đoản kiếm, tung mình nhảy ngựợc về phía sau, chém bay đầu một gã bang chúng, chân phải của nàng quất thêm một cước vào bụng tên thứ hai. Thất hộ pháp nghiến răng lao đến giương tả thủ giáng vào lưng nàng.

    Tiểu Băng phiêu thân tránh thoát, cười khanh khách:

    - Hắc Độc Chưởng thì làm gì được bổn Thánh Nữ. Hãy xem tuyệt kỹ vô thượng của Độc Môn"

    Tử tay tả nàng, một viên bi trong suốt bay ra. Lão già khiếp vía vội nhảy lùi.

    Nhưng đã quá trễ viên bi nổ nhẹ và hóa thành làn sương trắng phủ kín đối phương. Lão ré lên, lảo đảo quy xuống, miệng thều thào:

    - Thiên Độc Thần Châu! Không ngờ đại phu nhân lại dạy cho ngươi tuyệt học này"

    Tên giáo chúng cuối cùng đang định đào tẩu thì thanh đoản kiếm như ánh chớp đuổi theo cắm vào lưng gã.

    Tiểu Băng hạ thủ xong, cũng lảo đảo gục xuống. Nàng bỗng nghe tiếng gọi thất thanh:

    - ôntỷtỷ"

    Tuấn Hạc đang từ trong bụi cây cách đấy tám trượng lúp xúp chạy lại. Tuyết dày lấm chân nên chàng vấp té mấy lần.

    Đến nơi, thấy Tiểu Băng mỉm cười, cậu bé an tâm một chút nhưng vẫn hỏi:

    - Tỷ tỷ có bị thương không?

    Tiểu Băng cảm động lắc đầu:

    - Không hề ! Chẳng qua c ông phu phóng Thiên Độc Thần Châu của ta mới luyện có ba thành nên khi xuất thủ rất hao tổn chân nguyên.

    Bông nàng nghiêm mặt:

    - Sao ta bảo ngươi chạy xa chỗ này mà không nghe lời?

    Tuấn Hạc sợ hãi đáp :

    - Tiểu đệ lo cho tỷ tỷ nên quay lại xem sao.

    Tiểu Băng hài lòng nhưng cũng hứ nhẹ như trách móc. Nàng nghỉ ngơi nửa khắc, thu hồi Thiên Độc Ngân Bài rồi rắc Hủ Thi Tán vào tám xác chết. Chỉ lát sau, không còn dấu vết nào.

    Tuấn Hạc run rẫy nhìn tám tử thi tan dần thành vũng nước vàng, mắt trợn tròn khiếp sợ Tiểu Băng cười nhạt:

    - Phải chăng lòng ngươi đang ghê sợ thủ đoạn tàn độc của ta?

    Tuấn Hạc nghe lòng chua chát, vội nói ngay:

    - Tiểu đệ mới chứng kiến lần đầu nên không tránh khỏi sợ hãi. Về thủ đoạn thì tiểu đệ cho rằng tỷ tỷ buộc phải hành động như vậy. Nếu để lại dấu vết, tỷ tỷ sê bị Thiên Độc Giáo truy đuổi đến cùng.

    Tiểu đệ biết tỷ tỷ chẳng phải là một kẻ hiếu sát, nếu không, hôm trước bọn Hoắc Sơn Lục Hổ đâu thể thoát chết"

    Tiểu Băng hài lòng âu yếm liếc chàng:

    - Không ngờ tâm cơ ngươi lại mẫn tiệp như vậy Nhưng đừng có quá tô vẻ cho ta, e sau này sẽ thất vọng đấy. Thiên Độc Thánh Nữ chẳng phải thiện nhân đâu.

    Nàng bỗng giật mình đỏ mặt. Câu nói kia chẳng phải đã hẹn hò chuyện tương phùng mai hậu đó sao?

    - Tuấn Hạc tự tin mình không nhìn lầm người. Dâu cả thiên hạ có gọi tỷ tỷ là ác nhân, tiểu đệ vẫn một dạ tôn thờ, kính mộ.

    Chàng lăng xăng bẻ cành cây quét tuyết che phủ những vũng nước vàng và đem tám thanh trường kiếm vào rừng chôn giấu.

    Hai người lên ngôi, phi về hướng Hoắc Châu. Chẳng may, trong khách điếm đầu tiên họ ghé vào cũng chỉ có một phòng duy nhất. Tiểu Băng nhớ đến cảnh ngộ hôm trước, định đi nơi khác. Nhưng lão chưởng quỹ cười hề hề bảo:

    - Phòng của tệ điếm rộng rãi và có đến hai giường riêng biệt. Tiểu thư đừng ngại.

    Tiểu Băng nhận ra ánh mắt khẩn khoản của Tuấn Hạc, bất giác gật đầu.

    Quả thực, cậu bé rất muốn kề cận Tiểu Băng, không phải vì khao khát được nàng ôm ấp mà vì không muốn xa nàng. Mồ côi mẹ từ thuở lọt lòng, lại không có chị gái, vì vậy Tuấn Hạc rất quyến luyến Tiểu Băng. Chỉ cần được nhìn thấy nàng là đủ nghe lòng ấm áp.

    Trong bữa cơm tối, Tuấn Hạc dò hỏi:

    - Theo thiển ý của tiểu đệ thì hiện nay tỷ tỷ đang gặp rắc rối với bọn Thiên Độc Giáo. Chẳng hay tỷ tỷ có thể chia xẻ với tiểu đệ đôi điều được không?

    Nàng buông đũa, nhấp hớp trà rồi buồn rầu kể:

    - Sáu năm trước, phụ thân ta nạp thiếp, người đàn bà này nổi tiếng võ lâm với danh hiệu Giang Lăng Thần Nữ Liễu Nhược Thủy. Nhị nương tuổi mới tứ tuần, nhan sắc, nội lực đều đứng đầu thiên hạ.

    Chỉ sau một năm, bà ta đã khống chế được gia phụ cùng đám trưởng lão, hộ pháp trong Thiên Độc Giáo. Ta phát hiện mụ ta có hành vi dâm loạn với bọn thủ hạ liền tố cáo, nhưng gia phụ vì quá mê muội nên không nghe theo. Hơn nữa Thần Nữ biết được lại càng kín đáo hơn nên không bại lộ. Gia mẫu bị hờ hững, phẫn chí lập am tu hành. Cách đây ba tháng, nhị nương bàn bạc với gia phụ việc gã ta cho thiếu giáo chủ Thiên Sư Giáo là Trương ân Tuấn. Sau khi thành thông gia, hai phái sẽ tiến hành tìm kiếm một kho tàng khổng lồ trong vùng rừng núi Quảng Tây. Thiên Sư Giáo có bản đồ nhưng không vượt qua được cánh rừng đầy độc vật nên cũng cần sự hỗ trợ của Thiên Độc Giáo. Trương ân Tuấn vốn có danh hiệu Tích Ngọc Lang Quân, tật háo sắc khét tiếng giang hồ. Vì vậy ta không thể đem thân ra làm lể vật tế thần, liền trốn đi, mục đích là tìm đến nương nhờ bá phụ ở Huyền Không tự. Không ngờ gia sư biết được mà cho người truy bắt.

    Dòng lệ thương tâm tràn ra khoé mắt đẹp mặt hoa vô cùng sầu não. Tuấn Hạc động tâm, nắm chặt tay nàng an ủi:

    - Tỷ tỷ yên tâm, chỉ ít lâu nữa chúng ta sẽ đến được Hằng Sơn. Tiểu đệ nguyện sê tận tâm hầu hạ tỷ tỷ. Sau này được thành tuyệt nghệ, tiểu đệ sẽ chẳng để ai ức hiếp tỷ tỷ nữa.

    Tiểu Băng hỗ thẹn rút tay lại mắng yêu:

    - Liệu ngươi có bảo vệ ta được suốt đời chăng?

    Nói xong, nàng đỏ mặt, lúng túng. May thay, gã tiểu nhị gõ cửa phòng, mang món tráng miệng vào.

    Không khí trầm lặng hẳn đi. Tuấn Hạc biết nàng xấu hổ, nói lảng sang chuyện khác:

    - ôn tỷ tỷ! Mảnh đồng bài của tiểu đệ vốn là của vị kỳ nhân dị sĩ nào vậy?

    Tiểu Băng mừng rỡ đáp ngay:

    - Người ấy là Cuồng Kiếm Thần Y Công Tôn Quang Nguyệt. Đệ nhất cao thủ mấy chục năm trước, ông ta phải già đến trăm tuổi lẻ.

    Trong câu chuyện kế tiếp, chẳng biết nói gì, nàng kẻ về cơ cấu Thiên Độc Giáo, nói rõ cả danh tánh, đặc tính của từng cao thủ, kiến trúc trong tổng đàn Nghi xương. Với ký ức kỳ tuyệt, vô tình Tuấn Hạc nhớ không sót một điều.

    Đầu canh hai, họ mới vào giường nghĩ ngơi. Tiểu Băng thẹn thùng bảo:

    - Ngươi đừng quay lại khi ta thay áo.

    Tuấn Hạc mỉm cười, bước ra khỏi phòng. Đứng ở lan can, nhìn xuống vườn hoa. Chàng đứng hơi lâu khiến Tiểu Băng lo ngại, cao giọng gọi:

    - Tuấn Hạc! Sao không vào ngủ đi?

    Chàng trở vào, lên giường, cố dỗ giấc ngủ. Tiểu Băng mệt mõi lúc chiều nên thiếp đi rất nhanh. Tuấn Hạc trở mình, nhận ra nàng đã ngủ, không kềm được lòng ngưỡng mộ, nhìn say mê gương mặt kiều diễm, cao quý như tượng Quan âm trong chùa.

    Hai chiếc giường kê cách nhau cả trượng ánh đèn dầu leo lét phủ lên mặt nàng vẻ đẹp huyền ảo, mông lung. Tuấn Hạc nghe lòng xôn xao khó tả. Một cảm giác ngọt ngào, kỳ diệu tràn ngập cả tâm hồn. Chàng biết mình đã yêu Tiểu Băng.

    Tuy tuổi còn niên thiếu, nhưng trong Đường thi, Tống Tử nào thiếu chuyện yêu đương? Chàng thuộc ngàn bài thơ nên chất lãng mạn đã thấm sâu vào tâm thức.

    Cơn buồn ngủ của tuổi trẻ ập đến, đưa khách đa tình vào giấc cô miên.



    sáng hôm sau, hai người lại đăng trình, đi tiếp lên hướng Bắc, chiều buông mới đến được vùng núi Hà Sơn, cách Tinh Châu ba trăm dặm.

    Tuyết rơi nhẹ trong ánh hoàng hôn vàng nhạt, le lói cuối trời Tây. Trên đường ai cũng hối hả phi mau để tìm nơi ghé trọ. Thế mà dưới gốc cây đa bên mé hữu có một vị thư sinh già đang ung dung ngồi trên lưng trâu xanh thổi sáo.

    Tuấn Hạc quay sang thì Tiểu Băng đang tái mặt sợ hãi. Nàng buồn rầu nói:

    - Xem ra phen này khó thoát rồi! Vị thư sinh ấy chính là Thanh Ngưu Cuồng Tử, nhị bá phụ của ta.

    Tuấn Hạc đã nghe nàng kể đêm qua nên nhớ ngay. Chàng hiểu tính lão gàn dỡ, cuồng bạo và sính thơ văn, liền suy nghĩ tìm cách đối phó.

    Dù có đi chậm cũng phải đến nơi.

    Cuồng Tử cười nhạt b ảo :

    - Phụ thân ngươi đoán rằng Thất, Lục hộ pháp không thể chế phục được nên đã nhờ ta đến bắt ngươi về. Phải chăng ngươi đã giết sạch họ rồi?

    Tiểu Băng thản nhiên đáp:

    - Tiểu diệt chẳng hề gặp ai cả"

    Thư sinh gãi mái đầu bạc trắng, ngơ ngác tự hỏi:

    - Lạ thực ! Họ đi trước ta một ngày đường cơ mà"

    Bông lão nghiêm giọng:

    - BỎ qua chuyện ấy đi. Vậy giờ đây ngươi có chịu về Nghi Xương hay không?

    Tiểu Băng sa lệ, nhảy xuống ngựa, đến bên lão khóc ròng:

    - Chẳng lê nhị bá phụ không thông cảm cho cảnh ngộ của Băng nhi hay sao mà lại còn bức bách? Trương ân Tuấn là một tên bại hoại nhất võ lâm, Băng nhi đâu mặt mũi nào mà làm vợ hắn? Hơn nữa, đây chỉ là một vụ mua bán vì kho tàng ở Quảng Tây chứ nào phải gia phụ lo lắng cho hạnh phúc con gái?

    Thanh Ngưu Cuồng Tử bối rối đáp:

    - Bá phụ cũng hiểu nhưng ngươi là gái chưa chồng, tam đệ muốn gả cho ai thì gả ta đâu dám ngăn cản? Luân thường, lễ giáo từ ngàn xưa đã định rõ như vậy. Phải chi ngươi nhanh tay lấy quách một chàng trai nào đó, ta sẽ có cớ về phục mệnh.

    Giờ đây, cha ngươi đã dùng quyền giáo chủ ra lệnh, ta đâu dám vi mệnh. Thôi, hãy theo ta về cho mau"

    Tiểu Băng biết ý lão đã quyết, nàng lùi lại mấy bước. Mắt phượng nhòa lệ nhưng lời nói rất đanh thép:

    - Nếu nhị bá phụ không thương, Băng nhi sẽ cắn lưỡi chết tại đây chứ chẳng về đâu Cuồng Tử cười khổ :

    - Dẫu ngươi có chết ta cũng đành chịu.

    Việc ngươi bỏ đi là sai với đạo nghĩa làm con, ta nào dám bênh vực?

    Chợt Tuấn Hạc cao giọng:

    - Khoan đã"

    Chàng nhảy xuống ngựa, bước đến vòng tay kính cẩn thưa:

    - Bẩm lão trượng, tiểu sinh là Văn Tuấn Hạc, quê ở Giang Nam. Trước đây vẫn đem lòng ngưỡng mộ ôn tiểu thư.

    Nay nhân có lão trượng là trưởng bối, tiểu sinh ngõ lời cẩu hôn ôn tiểu thư. Lão trượng hãy dửng ra tác hợp mối lương duyên này. Lúc ấy, ôn tiểu thư đã là gái có chồng, lão trượng có thể về phục mệnh Thiên Độc Giáo Chủ"

    Thanh Ngưu Cuồng Tử ngơ ngác nhìn chàng, còn Tiểu Băng thì hổ thẹn dện lặng người. Cuồng Tử phá lên cười dài:

    - Thật là nực cười! Tiểu tử ngươi mới độ mười bốn, mười lăm, đứng chỉ tới tai Băng nhi sao lại dám lộng ngôn cầu hôn?

    Tuấn Hạc điềm nhiên đáp:

    - Lão trượng sai rồi! Tiểu sinh tuy chỉ mới mười lăm tuổi nhưng đã sớm nổi tiếng là danh sĩ đất Giang Tây. Vừa rồi lại đỗ đầu kỳ thi Hương, đoạt danh vị cử nhân. Nếu muốn ra làm quan cũng chẳng phải là việc khó. Vậy thì chuyện cầu hôn ôn tiểu thư, trộm nghĩ không phải là quá sớm.

    Chàng mở bọc hành lý, cung kính trao cho Thanh Ngưu Cuồng Tử xem sắc bằng cử nhân của mình.

    Lão lộ vẻ mừng rỡ, bật cười ha hả:

    - Hay lắm! Không ngờ lại hạnh ngộ Tào Tử Kiến đất Giang Tây. Tài bảy bước làm thơ của túc hạ đã khiến lão phu khát khao gặp gỡ. Chúng ta mau tìm nơi kỳ tú, cùng nhau ngâm vịnh cho thỏa chí.

    Cổ nhân có câu tài không đợi tuổi." Trong giới văn chương, người có thực tài luôn được tôn trọng. Mười bài thơ Biên Hoàn - Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ của Tuấn Hạc đã được truyền tụng khắp vùng Giang Nam, đem lại cho chàng một địa vị rất cao trong thi đàn. Thanh Ngưu Cuồng Tử cũng rất ngưỡng mộ chàng nên xưng hô là túc hạ.

    Tuấn Hạc vui vẻ nó i :

    - Tiểu sinh sẵn lòng phụng bồi lão trượng nhưng xin người đừng bắt ôn tiểu thư về Nghi Xương nữa"

    Cuồng Tử nhớ lại :

    - Không được! Vậy là phải tiến hành ngay việc bái đường thành thân. Nếu không ta sẽ khó mà ăn nói với giáo chủ"

    Tiểu Băng bên lên thỏ thẻ:

    - Thì nhị bá phụ cứ nói với gia phụ như vậy là đủ rồi"

    Cuồng Tử giận dữ quát:

    - Lão phu là bậc quân tử, đâu thể ăn không nói có như vậy được? Nếu không chịu nhận Văn túc hạ đây làm chồng thì hãy theo ta về "

    Tuấn Hạc sợ nàng quá cương liệt mà hỏng việc, liền bước đến trước mặt nàng, nháy mắt ra hiệu rồi nói:

    - Mong tiểu thư đừng chê bỏ tiểu sinh.

    Nếu không, tiểu sinh đến chết vì bệnh tương tư mất"

    Tiểu Băng biết đây là kế tùng quyền, nhưng là phận nữ nhi, đã bái đường thì không còn tranh cãi được nữa. Nàng sa lệ hỏi lại:

    - Công tử thực lòng muốn lấy ta chứ?

    Tuấn Hạc bất giác nghe lòng sôi sục, chỉ tay lên trời thề thốt:

    - Nếu tiểu sinh có chút gian dối, xin hoàng thiên đoản. . .

    Tiểu Băng không để cho chàng nói hết, sợ hãi xòe bàn tay ngọc bịt miệng chàng lại và ấp úng:

    - Công tử bất tất phải lập trọng thệ như vậy ta bằng lòng"

    Thanh Ngưu Cuồng Tử cười ha hả :

    - Hay lắm! Chúng ta là khách võ lâm, quý ở tấm lòng chứ không ở chút lễ nghi.

    Nay hãy lấy cây cỏ làm hương, lấy tuyết làm rượn, lấy ánh hoàng hôn làm đèn hoa chúc. Ta sẽ chứng giám cho"

    Tuấn Hạc và Tiểu Băng đành phải quỳ xuống trước mặt lão thi đại lễ, theo tiếng Cuồng Tử hô hoán:

    - Nhất bái thiên địa"

    - Nhị bái phụ mẫu"

    - Phu thê giao bái . . . "

    Lão là trưởng bối nên được nhận cái lạy thứ hai, thay cho cha mẹ.

    Xong việc, Cuồng Tử hoan hỉ cười vang. Chợt lão nhớ lại điều gì, vỗ trán than:

    - Chết rồi! Việc ngâm vịnh với Văn diệt tế chắc phải hẹn hôm khác! Tam đệ đã đến Lạc Dương và hẹn ta phải đem Băng nhi về ngay. Vậy ta phải trở lại báo cho y biết việc Băng nhi đã có chồng, nếu không, lão sẽ phái thêm cao thủ khác đến thì nguy to"

    Tiểu Băng nghe nói thân phụ đang ở Lạc Dương, lòng sợ hãi vô cùng, vội hối thúc :

    - Nhị bá phụ đi ngay đi! Xin vì diệt nữ mà biện bạch giùm"

    Cuồng Tử gật đầu, bước đến xiết chặt tay Tuấn Hạc:

    - Nay túc hạ đã là hiền tế của họ ôn, lòng lão phu vô cùng phấn khởi. Sau khi gặp nhạc phụ ngươi, lão phu sẽ đuổi theo ngay! Nhưng trước lúc chia tay, bá phụ có món quà mừng đám cưới, thay cho của hồi môn.

    Lão móc trong lưng một lọ sành nhỏ, trút ra một viên dược hoàn bóng loáng bằng hột nhãn, bóng loáng như viên ngọc đen. Cuồng Tử cười bảo:

    - Đây là Thiên Độc Thần Đan, vật chí bảo trong thiên hạ. diệt tế uống vào rồi sê không còn sợ bất cứ chất độc nào nữa"

    Tiểu Băng mừng rỡ nói:

    - Cảm tạ bá phụ đã ban kỳ trân"

    Tuấn Hạc nhận lấy bỏ vào miệng nuốt rồi tỏ lời tri ân.

    Cuồng Tử cười xòa, nhảy lên lưng trâu phóng như bay về hướng Nam.

    Lão đi rồi, Tiểu Băng thẹn thùng nói trống không:

    - Đi thôi ! Trời tối rồi "

    Sau lễ bái đường, nàng lâm vào tình trạng phân vân khó xử, không dám gọi Tuấn Hạc là hiền đệ nữa. Ngược lại, Tuấn Hạc cũng bối rối không kém, chẳng hiểu lúc nãy Tiểu Băng có thật lòng bái đường với mình hay không?

    Cả hai lặng lê phi nước kiệu, suy nghĩ miên man. Nửa canh giờ sau, họ dừng cương trước cửa một khách điếm thì bảo tuyết ập đến.

    Hai người vội trao cương cho tiểu nhị rồi lách qua cánh cửa mà vào trong. Lão chưởng quẩy hớn hở hỏi :

    - Chẳng hay nhị vị cần mấy phòng?

    Tuấn Hạc nhẹ nhõm khi nghe Tiểu Băng đáp:

    - Một phòng "

    Chàng rất sợ việc vừa rồi sẽ khiến người con gái nhạy cảm và hay e thẹn kia sẽ xa cách mình.

    Bữa ăn tối trôi qua trong bầu không khí nặng nề, chẳng ai nói câu nào. Tuấn Hạc thấy ánh mắt nàng đầy vẻ ai oán, lòng chàng đau đớn vô hạn, không dám nhìn lâu ăn xong, cả hai lên giường của mình và chẳng ai ngủ được. Ngoài kia cơn bão tuyết còn dữ dội hơn lần trước. Đến cuối canh hai, cái lạnh cắt da đã khiến Tuấn Hạc run lên cầm cập. Chàng chui hẳn vào chiếc mền bông mà run rẫy nên không nhận ra Tiểu Băng đang bước đến.

    Chàng nhận thấy nàng không điểm huyệt mình mà vẫn bồng lên, đưa vào giường. Cảnh cũ tái diễn, hai người lại đắp chung tấm chăn đôi. Tuấn Hạc sợ hãi nằm im thin thít. Mùi xử nữ thơm tho tỏa vào mũi chàng khiến chàng như mê muội.

    Nhưng do nhiều năm trau dồi sách vở thánh hiền nên lòng dạ chàng trong sáng, dục vọng mờ nhạt. Hơn nữa, chàng kính nghiêng Tiểu Băng như thiên thần nên không hề nảy chút tà tâm.

    Bỗng chàng phát hiện đôi vai gầy của nữ nhân run nhẹ. Nàng nghẹn ngào thì thầm:

    - Ta đã suy nghĩ rất kỹ rồ i ! Chúng ta xưng hô tỷ đệ nhưng ôn Tiểu Băng này thề sẽ không lấy ai khác ngoài hiền đệ ra"

    Tuấn Hạc nghe lòng ngọt lịm, mạnh dạn vòng tay ôm nàng rồi nghiêm giọng:

    - Suốt đời tiểu đệ chỉ yêu có mình tỷ tỷ mà thôi.

    Tiểu Băng cảm động, biết hôn ước đã thành sự thực, nàng quay sang ôm chặt lấy Tuấn Hạc.



    Trưa ngày rằm tháng ba, đôi vợ chồng trẻ vui vẻ rượt đuổi nhau trên đường quan đạo tiếng cười trong trẻo cất cao. Tiểu Băng chọc ghẹo Tuấn Hạc:

    - Này tiểu trượng phu, phi nhanh quá coi chừng ngã ngựa đấy"

    Chàng cười dòn đáp :

    - Đại nương tử đừng lo, ông chồng nhỏ của nàng biết cưỡi ngựa từ lúc lên năm"

    Lúc này đường quan đạo đi lên một ngọn núi cao. Một bên là vách, một bên là vực thẳm sâu hun hút.

    Tiểu Băng khích lệ:

    - Hạc đệ cố lên, dưới chân đèo là một phạn điếm có nhiều món ăn ngon.


  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 3

    Uyên đê tiêu dao ngộ
    Hồi gia tam nghi mang
    Hai người ra roi, thúc ngoi lên đèo.

    Đến đỉnh, Tiểu Băng kinh hãi nhận ra hai lão già cao gầy, sắc diện tái xám, mũi két, mắt diều loang loáng hàn quang.

    Dung mạo ấy chính là của Chấp Pháp Song Tướng của Thiên Độc Giáo. Uy quyền của bọn họ chỉ dưới một mình giáo chủ ôn Thiếu Bảo.

    Tiểu Băng tuyệt vọng nói:

    - Nay nhị bá phụ đã đứng ra gã tiểu nữ cho công tử đây rồi, nhị vị còn truy đuổi làm gì nữa?

    Lão không râu là đệ nhất chấp pháp Bùi Tự Viên, cười nhạt đáp:

    - Giáo chủ đã nghe báo việc này.

    Người bảo chỉ cần giết gã oắt con kia đi là tiểu thư lại trở thành gái không chồng.

    Dường như đã bàn bạc từ trước, lão vừa dứt lời thì đệ nhị chấp pháp Bùi Thế Đông vung chưởng quạt bay Văn Tuấn Hạc xuống vực thẳm.

    ôn Tiểu Băng đau đớn gào lên, chưa kịp có phản ứng gì thì đã bị Bùi Tự Viên búng một đạo chỉ phong vào huyệt Bộ Long. Nàng điên cuồng chửi mắng:

    - Hai lão khốn kiếp kia, bổn cô nương thề sẽ phân thây bọn ngươi ra"

    Lão cười nhạt, điểm luôn Thụy Huyệt của nàng. Cả hai lên ngôi phi mau, không để ý gì đến việc sống chết của Tuấn Hạc .

    Lúc này chàng đang rơi xuống vực thẳm. Chưởng lực của Bùi lão quái quả là uy mãnh tuyệt luân.

    Nhưng không hiểu do hoàng thiên hữu nhãn hay Tuấn Hạc chưa đến số chết, chàng rơi vào đám dây leo gai góc mọc trên vách. Nhờ vậy, tốc độ rơi chậm dần.

    Cuối cùng, chàng nằm lịm người trên một mõm đá lớn bằng ba mảnh chiếu nhô ra khỏi sườn vực thẳm.

    Tuấn Hạc ngất xỉu đến gần một canh giờ mới hồi tỉnh. Chàng mừng rỡ khi nhận thấy mình còn sống nhưng lo âu khi thấy miệng vực cao đến bốn năm chục trượng Kiểm tra lại cơ thể, chàng nhận ra mặt và toàn thân đầy những vết trầy sướt do gai góc.

    May thay, bọc hành lý may bằng lụa dày nên chưa rách tung ra và vẫn còn vướng trên vai. Chàng và Tiểu Băng đã dồn chung y phục vào một bọc nên chiếc hỏa tập của nàng cũng ở đây. Tuấn Hạc tìm thấy, mừng rỡ bật lên quan sát vách vực Trước mặt chàng là một động khẩu nhỏ rộng độ nửa trượng.

    Lúc đầu, vì e sợ độc vật, rắn rít nên chàng không dám vào. Nhưng nhờ lại rằng mình đã uống Thiên Độc Thần Đan, chàng bạo dạn tiến lên. Nếu ở lại mõm đá chàng sẽ không chịu được cái lạnh của đêm đông.

    Tuấn Hạc ngạc nhiên khi thấy đường vào sạch sê, bằng phẳng, hai bên vách lại có khảm dạ minh châu to bằng quả trứng tỏa ánh sáng dịu nhạt. Chợt có luồng gió nhẹ từ trong thổi ra, mang theo mùi hương thơm của quả chín.

    Đang đói khát, chàng phấn khởi bước nhanh. Được vài trượng, một hang động thiên nhiên rộng rãi hiện ra. Trần hang lố nhố muôn ngàn thạch nhũ, phía dưới là một hồ nước nhỏ rộng chừng hơn trượng.

    cạnh hồ là một cây thấp, lá màu tím thẫm và lủng lẳng trên cành là bảy quả lạ, hình dáng giống lê mà vỏ trắng như sữa.

    Chắc đã đến lúc chín mùi nên hương thơm ngào ngạt.

    Dù đọc nhiều sách vở cổ kim, nhưng chàng vẫn không nhận ra lai lịch cây lạ kia. Không ăn cũng chết! Tuấn Hạc thở dài phó mặc, hái một trái ăn thử. Không ngờ, mùi vị lại ngon phi thường, tuy có hơi đắng vị thuốc bắc. Chàng ăn một mạch hết bảy quả, cúi xuống uống vài ngụm nước trong hồ.

    Bông chàng nghe bụng nóng lên dữ dội, luồng nhiệt khí lan khắp châu thân, xông thẳng lên óc, da thịt trương phồng vô cùng đau đớn. Tuấn Hạc kinh hãi, cố lết xa hồ nước, đế cạnh vách động mà rên la, quằn quại.

    Chàng lăn lộn đến nổi tấm đồng bài trong giầy rơi ra, nằm lăn lóc bên cạnh.

    Lát sau, Tuấn Hạc mê man bất tỉnh, không còn biết gì nửa.

    Và rồi, từ ngoài cửa động, một bóng trắng nhỏ bé lướt vào. Đó mà một con vượn bạch, mắt đỏ như lửa.

    Nhận ra linh quả đã bị ăn sạch, nó giận dữ hú lên ghê rợn, định chụp lấy Tuấn Hạc mà xé xác. Nhưng nó chợt thấy tấm đồng bài liền dừng tay, nhặt lên xem xét và gãi đầu ngơ ngẩn.

    Lát sau, Bạch Viên nhẩy nhót như mừng rỡ. Nó lao vào trong, lấy ra một vò rượn rỗng, múc nước dưới hồ tạt vào mặt Tuấn Hạc. Có lê sự công phạt của dị quả đã hết, chàng hồi tỉnh.

    Ngày còn thơ ấu, Tuấn Hạc cũng nuôi một con khỉ nên rất mến loài linh trưởng này. Chàng vui vẻ hỏi:

    - Phải chăng đây là nơi cư trú của ngươi?

    Hỏi chỉ để tỏ sự thân tình, không ngờ Bạch Viên gật đầu xác nhận. Nó còn dơ tấm đồng bài lên và chỉ vào ngực chàng, như muốn hỏi có phải của chàng hay không? Tuấn Hạc hiểu ý đáp:

    - Đúng vậy ! Vật này là của ta "

    Bạch Viên vui mừng, hoa tay múa chân, thọt khét một hồi. Tuấn Hạc chịu thua, cười bảo:

    - Ta không thể hi êu được "

    Bạch Viên tức tối nắm tay chàng lôi vào trong. Tận cùng của hang động là một tảng đá vôn vức, nhẵn nhụi, cao hơn dầu người. Trên ấy là pháp thể của một lão nhân mặc áo thư sinh màu trắng đã Oá vàng vì thời gian. Đầu ông đội mũ Khổng Minh. Bộ râu dài năm chòm và gương mặt đoan chính khiến Tuấn Hạc sinh lòng kính nghiêng. Chàng sụp xuống thi đại lễ:

    - Vãn bối ngộ nạn, vô tình lạc bước đến nơi tọa hóa của tiền bối. Ba lạy này gọi là để tạ lỗi đã mạo phạm chốn tôn nghiêm.

    Chàng lạy xong, nhận ra Bạch Viên tỏ vẻ hài lòng. Nó chạy vào gốc động, mày mò một lát, đem ra một gói giấy dầy dưa cho chàng xem.

    Thấy trên thạch án có ngọn tọa đăng còn hơn nửa bình dầu, chàng vươn tay lấy xuống đốt lên.

    Sau lớp giấy dầu kia là bọc vải dầy, chứa hai quyển sách và một mảnh hoa tiên cũ kỹ. Tuấn Hạc mở ra đọc thử:

    hậu sinh nhã giám"

    Lão phu tung hoành thiên hạ bốn chục năm, không tìm ra đối thủ nên cảm thấy mình cô độc. Năm bảy mươi tuổi, phát hiện vực thẳm này có một cây Tử Diệp Bạch Lê - Kỳ toàn chí bảo của đất trời - Lão phu tìm xuống xem thử. Nhận ra nơi nầy thanh tịnh có thể tu tiên được nên ở lại ẩn cư và chờ đợi. Hai mươi năm sau, lão phu giác ngộ đại đạo, lòng hư tĩnh, sáng suốt, không còn chút dục vọng nào nữa và tính toán được cả chuyện vị lai. Vì vậy lão phu biết rằng mười lăm năm sau sẽ có người lạc vào đây, đúng lúc linh quả chín mùi. Người này sẽ kế thừa sở học của lão phu mà tạo phúc cho bách tính.

    Lão phu cho rằng không còn vướng bận gì nơi trần tục nên thanh thản ra đi. Tiểu Bạch là thần vật hiếm có, hiểu rõ tính người và dũng mãnh tuyệt luân. Mong người hữu duyên hãy đối xử tử tế với Bạch Viên"

    Cuồng Kiếm Thần Y Công Tôn Quang Nguyệt di bút ! " Tuấn Hạc vui mừng khôn xiết, xem đến hai quyển sách. Một là pho Võ Kinh Thủ Lục, hai là Y Kinh Chân Giải.

    Chàng biết là mình đã ngộ kỳ duyên, liền đứng trước thạch án lạy chín lạy khấn rằng:

    - ân sư! Đồ nhi quyết không phụ lòng của người "

    Tử đó, chàng ở lại thạch động, chuyên tâm rèn luyện. Bạch Viên chính là một vị sư huynh rất tốt, nó đã ở bên Công Tôn Quang Nguyệt suốt năm mươi năm nên thuộc lòng từng thế thức trong pho Cuồng Kiếm. Chàng thi triển sai là nó biết ngay và sửa lại. Tuy chỉ có mười tám chiêu nhưng biến hóa thành ngàn chiêu rất dễ dàng.

    Pho chưởng có tên là Tiêu Dao Thất Thập Nhị Thủ, bao gồm cả quyền, cước, chưởng, chỉ và phất huyệt vô cùng uyên ảo bác tạp. Tiểu Bạch đã được chân truyền tuyệt kỹ này. Nhưng do không thể luyện nội công, chỉ dựa vào thần lực thiên sinh nên không phát ra chưởng kình.

    Bảy trái Tử Diệp Bạch Lê đã đem lại cho Tuấn Hạc gần bốn mươi năm công lực Nếu không, chàng chẳng thể nào hoàn thành được các tuyệt kỹ của Cuồng Kiếm Thần Y. Nhất là pho khinh công Thiên Tinh Quá Hải đòi hỏi một nguồn chân khí sung mãn, hùng hậu mới thi triển được.

    Thần Viên Tiểu Bạch là đối thủ duy nhất của chàng. Nó từng theo Công Tôn Quang Nguyệt đánh hàng trăm trận, lịch duyệt có thừa. Cộng với tính linh thông, ranh mãnh. Tiểu Bạch nhiều lần dồn Tuấn Hạc vào thế hạ phong. Nhờ vậy, chàng ngày càng lãnh hội được tinh túy sở học của ân sư.

    Chàng cũng học luôn cả phép xoay chuyển linh hoạt của loài vượn nên thân pháp nhanh như điện chớp.

    Không muốn tuyệt học gia truyền bị mai một, Tuấn Hạc rèn luyện luôn pho Ngô Câu Đoạt Mệnh Kiếm Pháp. Tuy không hùng mạnh bằng pho Cuồng Kiếm nhưng mức độ quỷ dị, ác độc có phần hơn. Lý do là vì Ngô Câu Kiếm có móc câu ở đầu nên thêm những thức móc giật, đối phương khó đề phòng.

    Sau bốn năm khổ luyện, Tuấn Hạc đã đạt được bảy thành Thiết Thạch Thần Công, chịu liền mười đòn như trời giáng của Tiểu Bạch mà vẫn không thọ thương.

    Chàng tự lượng đủ sức giết Văn Chí Khải nên tính chuyện rời vực thẳm.

    Giờ đây, chàng leo trèo nhanh nhẹn không thua gì Thần Viên, nhưng cơ thể cao lớn và nặng đến hơn trăm cân nên chẳng thể tự trèo lên được. Tuấn Hạc liền bảo Tiểu Bạch ra ngoài tìm mấy chục sợi giây leo bền chắc, nối lại với nhau.

    Lạy tạ pháp thể Cuồng Kiếm Thần Y xong, chàng thu xếp bọc hành lý ít ỏi rồi bảo Tiểu Bạch cầm một đầu dây trèo lên miệng vực, cột vào gốc cây.

    Tuấn Hạc thông minh tuyệt thế, lại thực tâm yêu thương Tiểu Bạch nên đã hiểu hết mọi cách biểu hiện của Thần Viên. Cả hai tâm ý tương thông, chẳng còn chút ngăn cách nào cả.

    Thoát khỏi vực thẳm, chàng mừng rỡ hú lên cao vút. Tiểu Bạch thấy vậy cũng hú theo.

    Y phục cũ của chàng đã quá nhỏ bé, Tuấn Hạc đành phải mượn một bộ trường bào của sư phụ. Tuy cũ kỹ nhưng dệt bằng tơ tốt nên chưa hề rách.

    Đã mấy năm qua không thấy ánh dương quang, Tuấn Hạc có làn da trắng xanh, làm nổi bật bộ râu mép rậm rì. Một vết thẹo nhỏ vắt từ tai bên tả xuống khoé miệng chính là dấu vết còn lại của lần rơi xuống vực . Nó không làm cho chàng xấu đi mà càng tăng phần uy vũ, phong trần.

    Chàng thừa hưởng của Thiết Long Văn Chí Lãm dáng vóc cao lớn, tay dài chạm gối nhưng không thô ráp như ông và Tuấn Thu, mà đầy vẻ tuấn nhã, thông tuệ.

    Tuy nhiên, trong đôi mắt sáng như sao kia, man mác một nổi buồn sâu thẳm.

    Chàng buồn vì nhung nhớ và lo lắng cho ôn Tiểu Băng. Chàng đã khổ luyện vì mối huyết cừu và hình bóng kiều diễm của nàng là sự an ủi, khích lệ.

    Chàng không biết nàng có thoát khỏi cuộc hôn nhân ép buộc với Tích Ngọc Lang Quân Trương ân Tuấn hay không?

    Nghĩ đến tính tình cuộng liệt của tình nương, bất giác Tuấn Hạc toát mồ hôi lạnh Nếu chẳng may nàng đã tự sát thì sao?

    Còn nổi buồn thứ hai chính là hạ lạc của đại ca Văn Tuấn Thu và ẩn tình của mối gia thù. Chàng tin rằng Hoàng Diện Thái Tuế Nhâm Bá Linh không hề nói dối, nhưng vì sao Văn Chí Khải lại đột nhiên yêu thương chàng như ruột thịt?

    Trong tâm trạng u uẩn ấy, Tuấn Hạc đưa Thần Viên Tiểu Bạch đi về hướng Nam.

    Hai ngày sau, bọn chàng đến thành Hoắc Châu. Việc làm đầu tiên là mua sắm vài bộ y phục và sửa sang râu tóc.

    Lúc đầu, chàng định cạo phăng hàng râu mép, nhưng nhớ đến bào huynh, chàng giữ lại. Tuấn Thu cũng có hàng râu xanh như vậy Hỏi thăm lão thợ cạo, chàng mới biết giờ đã là giữa tháng tư năm Hồng VỖ thứ hai mươi bốn.

    Đẻ tưởng nhớ đến những kỷ niệm ôn nhu ngày nào với Tiểu Băng, chàng tìm đến khách điếm cũ. Tắm gội thỏa thuê xong, chàng ra phố chọn tửu lâu lớn nhất mà vào.

    Không phải vì chàng thèm rượn mà vì chỉ những nơi náo nhiệt như thế, chàng mới có thể hỏi thăm tin tức Thiên Độc Thánh Nữ ôn Tiểu Băng. Đây là một trong những kinh nghiệm mà Nhâm Bá Linh đã dạy cho chàng.

    Quả nhiên, lầu trên của Hoắc Châu đại tửu lâu đầy ắp khách giang hồ. Họ ồn ào đàm luận về cục diện võ lâm, hoặc khoe khoang kiến văn của mình.

    Trong đám người ấy có một lão nhân tóc hoa râm, dáng người nhỏ bé, mặt mũi tinh ranh như mặt chồn. Lão chẳng nói gì mà cứ vân vê chòm râu dê vàng hoe, mỉm cười khinh mạn. Nhưng lát sau, lão ngứa miệng bật thốt:

    - Chư vị quả là những người thông thái lịch lãm. Nhưng liệu có biết một việc động trời vừa xảy ra ở vùng Giang Nam hay không?

    Quần hùng xôn xao hẳn lên. Một hán tử áo xám tươi cười bợ đỡ:

    - Việc ấy thì chỉ có Vạn Bác Hồ Tinh mới biết được thôi! Mong tiền bối dạy cho.

    Tuấn Hạc từng nghe Nhâm Bá Linh giới thiệu qua về nhân vật này. Lão có tên là Cù Sở Hòa, thông minh tuyệt mức, xảo quyệt có thừa. Không việc gì trong võ lâm mà lão không biết. Nghe nói lão là người của Cái Bang nên bao giờ cũng nắm được thông tin trước thiên hạ. Chàng định bụng sẽ hỏi lão về tin tức của Tiểu Băng.

    Hồ Tinh đắc ý, hắng giọng rồi mới kể:

    - Chư vị có nhớ việc Thiết Long Văn Chí Lãm treo giải thưởng một ngàn lượng vàng - cho ai tìm thấy nhị công tử Văn Tuấn Hạc - hồi bốn năm trước hay không? Tháng rồi, Văn nhị công tử xuất hiện ở Triết Giang, thành lập Hoài Hạc Bang. Chàng ta lại lên tiếng tố cáo Thiết Long hiện nay là giả mạo. Lão ấy chính thực là Văn Chí Khải. Mười năm trước đã giết chết Thiết Long và phu nhân rồi thế thân vào. Minh chủ võ lâm Thanh Long Tử - chưởng môn phái Võ Đang - đã nhận được đơn kiện. ông bèn phát võ lâm lệnh bài, triệu Thiết Long đến Võ Đang Sơn trần tình - vào ngày dầu tháng năm này"

    Mọi người kinh hãi Oà lên, tíu tít gọi tiểu nhị tính tiền và kéo đi hết. Họ về chuẩn bị gia sự, thu xếp tiền bạc rồi đi Tung Sơn.

    Hồ Tinh bực bội lẩm bẩm:

    - Tin tức sốt dẻo như vậy mà chẳng tên nào dám bỏ tiền chiêu đãi lão phu cả"

    Thật là một lũ bần tiện"

    Tuấn Hạc nghe thấy ứng tiếng ngay:

    - Tiểu sinh xin được làm việc ấy"

    Chàng đứng lên bước qua bàn lão, gọi tiểu nhị dọn một mâm rượn thịt mới.

    Vạn Bác Hồ Tinh khoan khoái cười hề hề hỏi:

    - Lão phu đang được làm quen với ai đây?

    Chàng mỉm cười đáp :

    - Vãn sinh là Văn Tư Băng"

    Lúc nãy nghe Cù Sở Hòa nhắc đến chuyện Hoài Hạc Bang, chàng linh cảm tên Tuấn Hạc giả mạo kia có thể là đại ca Tuấn Thu, hoặc chính ôn Tiểu Băng.

    Nhưng nếu là Tuấn Thu thì bang hội kia sẽ không mang tên Hoài Hạc. Chỉ mình Tiểu Băng biết chàng rơi xuống vực.

    Vì vậy bất giác xưng tên giả là Văn Tư Bang - để tỏ lòng hoài vọng mỹ nhân.

    Tuy nhiên, chàng phải hỏi cho ra lê mới có thể xác quyết Thần Viên Tiểu Bạch thấy chàng sang bàn khác cũng đi theo. Nó chễm chệ ngồi xuống cạnh bàn, giương đôi mắt đỏ rực nhìn Vạn Bác Hồ Tinh với vẻ nghi ngờ.

    Quả thực, gương mặt chồn già kia không lấy gì làm lương thiên.

    Cù lão kinh hãi nói:

    - Văn lão đệ! Đây là giống Hỏa Nhãn Tuyết Viên hiếm có trên đời, sao lão đệ lại có được?

    Tuấn Hạc cười đáp :

    - Vãn sinh gặp Tiểu Bạch cách đây bốn năm ở rặng núi phía Nam thành Tinh Châu.

    Rượn thịt được đem ra, hai người nâng chén mời nhau. Cù lão nheo cặp mắt tinh quái hỏi :

    - Phải chăng công tử có điều gì muốn nhờ lão phu gỡ rối?

    - Thưa phải! Vãn sinh mong tiền bối chỉ giáo tình hình của Thiên Độc Thánh Nữ ôn Tiểu Băng?

    Cù Sở Hòa cau mày đáp:

    - cách đây bốn năm, nàng được gã cho Tích Ngọc Lang Quân, thiếu giáo chủ của Thiên Sư Giáo. Nhưng khi thuyền hoa đưa dâu xuôi dòng Trường Giang thì Tiểu Băng đánh trọng thương tân lang rồi gieo mình xuống sông tự tử. Việc này lan truyền khắp thiên hạ, sao công tử không biết?

    Tuấn Hạc chết điếng người. Đôi gióng lệ thương tâm lén trào ra mà chàng không hay biết.

    Cù lão lộ vẻ cảm thông:

    - Té ra công tử có mối thâm tình với ôn tiểu thư. Như vậy cái tên Văn Tư Băng chắc là tên giả?

    chàng giật mình, gượng cười :

    - Tiền bối quả là thần nhân! Vãn sinh đích thực là Văn Tuấn Hạc ở Văn gia bảo đây Đến lượt Hồ Tinh nhẩy nhổm lên:

    - Không lê bang chủ Hoài Hạc Bang là kẻ giả mạo?

    Chàng biết lão là người tinh minh, thông thái nên thố lộ tâm sự, nhờ lão gở rối cho:

    - Đúng thế! Vãn sinh còn đoán ràng người ấy là đại ca Văn Tuấn Thu"

    Cù lão hỏi thêm:

    - Vậy lời tố cáo kia có phải là sự thật hay không?

    chàng gật đầu xác nhận:

    - Bốn năm trước, Hoàng Diện Thái Tuế Nhâm Bá Linh đã tiết lộ việc này cho vãn sinh biết. Sau đó ông ta bị bọn Hoàng Sơn Nhị Quỷ đánh rơi xuống Hoàng Hà, không rõ số sanh tử thế nào?

    Cù Sở Hòa vốn là kẻ hiếu kỳ số một võ lâm, gặp nan đề phải giải cho ra. Vì vậy lão vô cùng thích thú trước vụ án bí ẩn của nhà họ Văn. Lão trầm ngâm suy nghĩ rồi hỏi:

    - Thế trong bốn năm nay, công tử lưu lạc phương nào?

    Biết lão tinh ranh như hồ ly, chàng đành thú thực :

    - vãn sinh cùng ôn tiểu thư trên đường đến Huyền Không Tự để tìm Hằng Sơn Thiền ông thì bị Chấp Pháp Nhị Tướng của Thiên Độc Giáo chặn lại. Họ đánh bay vãn sinh xuống vực thẳm rồi bắt ôn tiểu thư về Nghi Xương. Vãn sinh may mắn thoát chết, nhưng mãi đến nay mới thoát khỏi vực sâu Tuy chàng không nói rõ việc mình gặp kỳ duyên nhưng Cù lão cũng đoán ra.

    Nếu không, chàng chẳng thể nào trở lại nhân gian. Lão cười khà khà:

    - Họa trung đắc phúc, xin chúc mừng công tử"

    Bỗng lão ngớ người suy nghĩ, rồi hồ hỡi nói:

    - Lão phu võ đoán rằng công tử đã kể cho ôn tiểu thư nghe nội tình Văn gia bảo? Nếu đúng vậy thì gã Hoài Hạc bang chủ kia có thể chính là nàng ta. Cái tên Hoài Hạc chẳng phải là để tưởng nhớ đến công tử đó sao?

    Tuấn Hạc mừng rỡ:

    - Vãn sinh cũng nghĩ như vậy nhưng không dám chắc"

    Cù lão mỉm cười :

    - Đầu tháng năm tới đây, cả Thiết Long lẫn Hoài Hạc Bang chủ đểu có mặt ở Võ Đang Sơn, công tử cứ đến đấy tất sẽ rõ nội tình.

    Tuấn Hạc cảm tạ, gọi tiểu nhị tính tiền rồi cáo biệt Hồ Tinh.Thấy lão già nua cô độc áo rách không người vá, Tuấn Hạc cung kính nó i :

    - Còn tiền bối, tiền tài như phấn thổ, nhân nghĩa tợ thiên kim. Mong tiền bối nhận chút lòng thành của vãn sinh.

    Nói xong, chàng đặt ba tấm tiền giấy trăm lượng bạc xuống bàn.

    Cù Sở Hòa chua chát hỏi:

    - Dung mạo lão phu gian xảo, hèn hạ như vậy mà công tử không chán ghét sao?

    Tuấn Hạc chỉnh sắc :

    - Khổng Phu Tử có tướng ngũ lộ xấu xí Lão Tử thì mộc mạc, quê mùa, thô thiển như cây khô! Sao có thể nhìn dung mạo mà xét đoán con người? Hình dáng xấu đẹp tròn vuông là do tự nhiên ban cho, nhưng ai cũng sẵn có cái thiện căn trong tâm. Tiền bối một đời bôn ba vì chuyện của thiên hạ, không màng lợi lộc, vãn sinh hết lòng ngưỡng mộ.

    Vạn Bác Hồ Tinh vỗ bàn khoan khoái:

    - Sinh ra ta là cha mẹ nhưng hiểu ta chỉ có mình công tử. Lão phu xin đem tấm thân tàn này theo hầu vậy"

    Biết lão là người tài trí, Tuấn Hạc phấn khởi vòng tay:

    - Được tiền bối di theo dạy bảo, vãn sinh vui mừng khôn xiết "

    Hai người vui vẻ rời tửu lâu, mua ngựa rồi lên đường xuôi Nam. Tiểu Bạch quen tính nghịch ngợm, cứ nhảy từ con tuấn mã này sang con kia, Tuấn Hạc hòa nhã noi:

    - Tiểu Bạch! Hãy ngồi im, đừng làm ngựa sợ"

    Thần Viên lập tức ngoan ngoãn ngồi sau lưng chàng. Cù Sở Hòa thấy con vượn thông hiểu tiếng người, lão suy nghĩ miên man. Cuối cùng, không dằn được tính tò mò, lão cất tiếng:

    - Văn công tử, lão phu nhớ ra một cố sự võ lâm, cách nay đã mấy chục năm, đó là một vị đại kỳ nhân có danh hiệu Cuồng Kiếm Thần Y. ông ta có nuôi một con vượn trắng như Tiểu Bạch đây. Dám hỏi sư thừa của công tử?

    Tuấn Hạc mỉm cười gật đầu:

    - Đúng vây! Người ấy chính là tiên sư"



    Tám ngày sau, khi bọn Tuấn Hạc đến thành Lạc Dương thì nghe tin Thanh Long Tử qua đời vì tẩu hỏa nhập ma. Vụ án Văn gia bảo đành phải hoãn lại chờ bầu tân minh chủ.

    Vạn Bác Hồ Tinh liền bàn:

    - Nếu vậy, công tử cứ về Văn gia bảo xem thái độ Thiết Long thế nào. Lão phu sẽ đi Chiết Giang dò xem bang chủ Hoài Hạc Bang là ai. Đệ tử Cái Bang sẽ giữ liên lạc giữa hai chúng ta.

    Lão trao cho chàng một đồng tiền cổ để làm tín vật điều động bọn hóa tử. Hồ Tinh chua xót nó i :

    - Tiền nhiệm bang chủ vì tham vinh hoa phú quý nên đã phục vụ quân Mông Cổ Vì vậy sau khi cuộc chiến kháng nguyên thành công, các môn phái khác đều được tuyên dương và tự do phát triển, duy chỉ có Cái Bang là mất cả tông môn.

    Tuy nhiên, anh em vẫn âm thầm duy trì bang hội.

    Tuấn Hạc an ủi lão :

    - Cái Bang có truyền thống trượng nghĩa, trung liệt từ mấy trăm năm nay, đâu thể vì lỗi lầm của một đời bang chủ mà tiêu diệt được? Sau này tất có ngày trùng hưng trở lại được.

    Hai người rời Lạc Dương, đồng hành thêm mấy trăm dặm nữa, đến tận Tín Dương mới chia tay.

    Cuối tháng năm, Tuấn Hạc về đến Lư Lăng. Tòa Văn gia bảo thân yêu vẫn sừng sững đứng bên dòng sông Lư Giang trầm lặng.

    Cửa bảo đóng kính, chàng xuống ngựa nắm song sắt đập vào cánh cửa gỗ. Lát sau, Trương tổng quản chạy ra, ngỡ ngàng nhìn chàng trai trẻ. Lão đã già đi, mắt mũi kèm nhèm nên chẳng thể nhìn ra nhị công tử. Gia dĩ, chàng đã khác xưa rất nhiều Bộ râu mấy ngày không cạo càng khiến gương mặt thêm xa lạ.

    Câu đầu tiên mà chàng hỏi là:

    - Xin hỏi Nhâm đại thúc có mặt ở đây không?

    Trương lão buồn rầu đáp :

    - Bốn năm trước, lão ta đưa nhị công tử lên kinh thi Hội, cuối cùng chẳng thấy trở ve.

    Tuấn Hạc thầm thương cho Hoàng Diện Thái Tuế nhưng lại yên tâm vì việc này phù hợp với kế hoạch đã định. Chàng cười b ảo :

    - Trương lão không nhận ra Hạc nhi sao? Ta là nhị công tử đây"

    Trương Phúc kinh hãi, trợn mắt nhìn cho kỹ rồi ré lên:

    - Nhị c ông tử "

    Lão ôm chàng khóc dài:

    - Trời cao có mắt nên công tử còn sống. Bốn năm qua, Văn gia bảo buồn như có đám ma.

    Tuấn Hạc vỗ về lão :

    - Trương lão đừng khóc nữa, để ta vào xem có ai nhận ra ta không?

    Chàng trao cương ngựa cho lão rồi đủng đỉnh bước vào. Thiết Long Văn Chí Lãm và Hà nhị nương đang ngồi trên bàn bát tiên ở giữa đại sảnh. Bước chân Tuấn Hạc quá êm ái nên họ chẳng hề phát hiện.

    văn bảo chủ thì thờ thẩn nhìn qua song cửa phía Tây ngắm ánh hoàng hôn thoi thóp Gương mặt ông hốc hác, đầy vẻ buồn phiền. Hà Tú Chân cặm cụi khâu va.

    Tuấn Hạc bước đến gần họ mới nhận ra. Thiết Long ngỡ ngàng nhìn khách, đôi mắt ánh lên niềm nghi hoặc và hân hoan vô hạn. Cuối cùng, từ đôi mắt hổ trào ra những giọt lệ. Thiết Long thất thanh:

    - Hạc nhi "

    Tuấn Hạc nhìn thấy tất cả. Chàng biết ông ta thực lòng yêu mến mình. Người này chẳng thể là Văn Chí Khải được"

    Chàng sụp xuống khó c :

    - Hài nhi bái kiến phụ thân và nhị nương"

    Thiết Long lao đến ôm chặt lấy chàng, bật cười vang dội:

    - ôi hoàng thiên! Ta đội ơn người"

    Hà nhị nương cũng khó c . Nàng chẳng thể chạy đến ôm lấy Tuấn Hạc vì chàng đã cao bằng Thiết Long. Tú Chân nghẹn ngào nói:

    - Hạc nhi ! Ta tưởng rằng ki ếp này không còn được gặp con nữa.

    Thiết Long kéo chàng về bàn rồi quát vang:

    - Trương tổng quản đâu, mau chuẩn bị đại yến mừng nhị công tử"

    Trương lão đã biết trước và thông báo các gia nhân nên mọi người kéo lên sảnh chúc mừng. Lát sau, họ ùa xuống bếp, chuẩn bị yến tiệc.

    Họ đi cả rồi mới có một đứa bé gái độ ba tuổi chạy ra. Dường như nó đang ngủ và bị đánh thức bởi những tiếng ồn ào.

    Thiết Long nhấc bổng cô bé lên cười khanh khách:

    - Hạc nhi, tiểu nha đầu này là em ngươi đấy! Tên nó là Uyển Lan"

    Lan nhi tròn mắt nhìn Tuấn Hạc rồi bập bẹ:

    - Phụ thân! Chẳng phải đây là nhị ca mà người vẫn thường nhắc đến?

    Thiết Long gật đầu, trao nó cho Tuấn Hạc. Lan nhi bụ bẩm, xinh đẹp như trong tranh, khiến chàng sinh lòng yêu mến.

    Lan nhi ôm cổ chàng thủ thỉ:

    - Nhị ca đi đâu không chịu về làm phụ mẫu sầu khổ, chẳng ngày nào vui vẻ. Tiểu muội cũng chẳng có ai chơi cùng.

    Tuấn Hạc cảm động nói:

    - Nhị ca sẽ không đi đâu nữa, Lan muội hãy yên tâm.

    Thiết Long nghiêm giọng:

    - Bốn năm qua Hạc nhi lưu lạc nơi nào, sao không viết thư về cho phụ mẫu yên lòng? Phải chăng ngươi chính là Hoài Hạc Bang chủ?

    Giọng ông nghiêm khắc nhưng ánh mắt đầy vẻ quan hoài.

    Tuấn Hạc quên cả kế hoạch đã tính toán, bi phẫn nói:

    - Hài nhi không phải là Hoài Hạc Bang chủ, nhưng chẳng hay lời tố cáo ấy có đúng hay không?

    Thiết Long cười dài, rồi chỉnh sắc chỉ lên trời mà thề :

    - Nếu ta là Văn Chí Khải thì xin cho lôi thần đả tử, trầm luân trăm kiếp trong địa ngục a tỳ"

    Vào thời ấy Phật Giáo đang hồi hưng thịnh Ai cũng tin vào thuyết luân hồi.

    Hà nhị nương cũng nói vào:

    - Hạc nhi! Nếu lão gia là Văn Chí Khải sao có thể đối đãi với ngươi như vậy được? Bốn năm nay, người ăn ngủ không yên, tiêu tốn cả nửa gia sản để truy tìm tông tích.

    Tuấn Hạc cảm nhận được sự thành thực của họ nhưng vẫn chưa dám tin hẳn.

  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chàng gượng cười :

    - Hài nhi đã tin, mong phụ thân thứ tội.

    Nhấp hớp trà thơm, Tuấn Hạc kể ra thiên cố sự bịa đặt:

    - Năm ấy, Nhâm đại thúc đưa hài nhi đến bờ Trường Giang thì gặp kẻ cựu thù, họ đánh bay hài nhi xuống sông. Tình cờ có một lão già cứu hài nhi lên. Nhưng lão không cho hài nhi đi Nam Kinh mà đưa vào một khu rừng già âm u, cách bờ Bắc chừng hơn trăm dặm. Trong suốt bốn năm, lão bắt hài nhi phải hầu hạ, phục vụ.

    Dường như lão già là một lang trung, đang luyện loại đan dược nào đấy. Trong lúc đi hái thuốc, hài nhi tình cờ quen được một con vượn trắng. Một hôm, trong lúc lão ta đang đánh đập hài nhi, Tiểu Bạch xuất hiện giết chết lão Hồ đại phu gian ác. Nhờ vậy hài nhi mới có thể trở về đây Câu chuyện này do chính Vạn Bác Hồ Tinh sắp đặt. Quả thực là phía Bắc Trường Giang có một khu rừng rậm và một người tên ác Y Hồ LỘ Kỳ - lão này đã chết từ lâu nhưng ít ai biết được.

    Thiết Long nghe xong quắc mắt gầm lên:

    - Khốn nạn thực, nếu lão ta còn sống thì hay biết mấy. Văn mỗ sẽ rửa hận cho Hạc nhi.

    Tú Chân cười b ảo :

    - Tướng công nói lạ! Nếu lão còn sống thì sao Hạc nhi có thể về nhà được?

    Thiết Long sững người, cười xòa:

    - Ưø nhỉ ! Thế con Thần Viên ấy đâu?

    Tuấn Hạc quay ra gọi :

    - Tiểu Bạch"

    Linh thú đang say sưa hái quả, nghe gọi liền phóng vào như tia chớp. Tuấn Hạc giới thiệu xong, Tiểu Bạch nghiêm trang vòng tay vái chào.

    Hà nhị nương ngạc nhiên:

    - Chẳng lê Tiểu Bạch lại thông linh đến thế ư?

    - Thưa phải! Nó thông hiểu tiếng người và có sức mạnh như thần.

    Uyển Lan thích thú, tuột khỏi lòng Tuấn Hạc, chạy đến vuốt ve con vượn bạch.

    Chàng liền dặn dò:

    - Tiểu Bạch! Lan nhi còn nhỏ và rất yếu đuối ngươi phải nhẹ nhàng, không được đùa giỡn nặng tay.

    Tiểu Bạch gật đầu, ôm lấy Lan nhi đưa ra vườn. Tú Chân biến sắc sợ hãi nhưng Tuấn Hạc đã trấn an:

    - Nhị nương chớ lo, hài nhi xin chịu trách nhiệm.

    Lát sau, ngoài kia vọng lại tiếng cười trong trẻo của Uyển Lan.



    Tử đó, Tuấn Hạc trở lại là Văn nhị công tử, danh sĩ Triết Giang Tây. Chàng vẫn đọc sách ngâm thơ như ngày nào nhưng sáng sáng cũng ra vườn múa quyền. Thiết Long rất vui vì điều ấy, chỉ bảo thêm cho chàng. Nhưng rồi ông lại bị cuốn hút vào sanh ý của Thiết Long Tiêu Cục Giữa tháng sáu, phó tổng tiêu đầu Thiên Phương Kích Chu Tứ Lân xuất hiện. Tay và chân ông quấn đầy băng trắng. Cách nay mười mấy ngày, họ Chu áp tải đoàn tiêu đi Quý Dương.

    Thiết Long kinh hãi hỏi:

    - Phải chăng đã gặp cường địch?

    Chu Tứ Lân thiểu não nói:

    - Bảo chủ! Phen này nguy ngập lắm rồi! Chính Thiên Độc Giáo đã ra tay cườm tiêu xa và ngang nhiên thách thức bang chủ đến hồ Động Đình phó ước! Tam hộ pháp Thiên Độc Giáo là Cổ Túc Chi bảo rằng nếu Thiết Long Tiêu Cục không chịu nộp mỗi năm sáu vạn lượng thì đừng hòng đi về phía Tây nữa"

    Thiết Long giận dữ nói:

    - Vân mỗ coi lũ chó rơm đó ra gì! Sáng mai chúng ta sẽ lên đường đi Động Đình Hồ"

    Chu Tú Lân đi rồi, Tuấn Hạc hỏi ngay:

    - Hài nhi nghe nói Thiên Độc Giáo rất lợi hại. Phụ thân kéo quân đi không sợ đối phương dùng độc hay sao?

    thiết Long buồn rầu đáp :

    - Ta cũng biết mình không địch lại Thiên Độc Giáo, nhưng chẳng thể để thanh danh trôi theo dòng nước! Ngày mai ta sẽ đi một mình vì không muốn anh em uổng mạng "

    Tuấn Hạc vui vẻ bảo :

    - Hài nhi ở với ác Y Hồ LỘ Kỳ mấy năm, cũng học được đôi điều hữu ích.

    Chờ hài nhi vào chế xong thuốc phòng độc rồi người hãy đi"

    Thiết Long hân hoan trả lời:

    - Hay lắm ! Nếu thế thì ta chẳng sợ ai ca.

    Trong bốn năm ở dưới vực sâu, Tuấn Hạc có đủ thời gian để thuộc lòng và thấu hiểu Y Kinh. Nhờ vậy, chàng biết được đặc tính thần diệu của rễ cây Tử Diệp Bạch Lê. Khi trở lên mặt đất, chàng đã đem theo số rễ cây ấy - dưới dạng bột khô Đây là nguyên liệu quý giá để tiền chế những loại thuốc bổ, thuốc trị thương và thuốc giải độc.

    Chỉ trong ba ngày, chàng đã có trong tay hơn trăm viên Giải Độc Đan.

    Sáng ngày mười chín tháng sáu, Thiết Long cùng hai mươi tiêu sư lên đường đến Động Đình Hồ.

    Trước lúc khởi hành, Tuấn Hạc bảo Thiết Long:

    - Phụ thân! Sao người không nhờ nghĩa công và nghĩa bà - Nhật Nguyệt Song Ma - đi theo trợ chiến? Nếu lần này Thiên Độc Giáo đưa đến nhiều đại cao thủ thì sao?

    Thiết Long sững người suy nghĩ, vỗ đùi khen:

    - Hay lắm! Yù kiến của Hạc nhi quả là tuyệt diệu. Ta sẽ ghé ngang qua Ngọc S ơn thỉnh họ cùng đi .

    Đoàn nhân mã khuất xa, Tuấn Hạc cùng Hà nhị nương trở vào, chàng bỏ ra vườn đi xuyên qua cánh rừng tùng sau bảo, dện bờ sông Lư Giang ngắm gióng nước hiền hòa trôi. Lư Giang là dòng sông nhỏ, nước trong xanh chứ không vàng đục như Hoàng Hà.

    Nửa tháng qua, chàng đã để tâm quan sát theo dõi hành động của Thiết Long.

    Nhiều đêm, chàng phục dưới cánh cửa sổ để nghe ngóng, cố tìm ra chút sơ hở, nhưng chẳng phát hiện được gì. Trong câu chuyện phòng the, Thiết Long vẫn mãi nhắc đến chàng với giọng trìu mến, thương yêu.

    Sau ngày chàng trở lại nhà, chàng đã hỏi Thiết Long về tin tức của đại ca Văn Tuấn Thu. Văn bảo chủ buồn bã nói rằng không biết. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau có một lái buôn đem đến tiêu cục - ở thành Lư Lăng - một phong thư của Tuấn Thu.

    Thiết Long nhận được, mừng rỡ trao cho chàng đọc. Tuấn Hạc rất quen thuộc với nét chữ của đại ca nên biết rằng không phải là giả. Nội dung trong thư, Tuấn Thu tạ lỗi vời Thiết Long và bảo rằng chàng đã định cư ở Tây Vực và không bao giờ trở lại Trung Nguyên nữa.

    Có cả những lời hỏi thăm thân thiết dành cho Tuấn Hạc .

    Như vậy Thiết Long không hề giết Tuấn Thu như lời Nhâm Bá Linh đã phỏng đoán. Nhưng sơ hở lớn nhất của Thiết Long và Hà Tú Chân là họ không hề mở miệng thóa mạ Hoàng Diện Thái Tuế Nhâm Bá Linh. Lão ta chính là người có tội lớn nhất trong việc ly gián tình phụ tử giữa Thiết Long và Tuấn Hạc. Chính điểm này đã nuôi dưỡng nghi ngờ trong lòng chàng.

    Một chiếc thuyền chài lướt ngang qua.

    Trên thuyền thấp thoáng một bóng nghi nữ áo đen đang uyển chuyển đẩy mái chèo. Cảnh tượng này hợi nhớ đến Thiên Độc Thánh Nữ ôn Tiểu Băng. Chàng muốn đi ngay Chiết Giang để xem gã bang chủ kia có phải là nàng hay không?

    Chàng lại lo lắng khi không nhận được tin tức của Vạn Bác Hồ Tinh.

    Thơ thẩn cả canh giờ, chàng mới trở lại khu hậu viện. Lúc đi ngang qua khuê phòng của nhị nương, Tuấn Hạc thoáng thấy bà đang ngồi ủ rủ, nhìn qua khung cửa sổ đôi dòng châu lã chã tuôn rơi.

    Chàng biết bà đang lo lắng cho Thiết Long, định vào an ủi nhưng không dám.

    Ngày còn thơ ấu, chàng thích thú được bà ôm ấp vỗ về. Giờ đây, chàng đã trưởng thành mà bà vẫn thon thả, kiều diễm. Ở tuổi ba mươi bảy, nhị nương chỉ như gần tam thập.

    Tuấn Hạc trở về phòng, chuẩn bị đi Động Đình Hồ. Trước khi biết rõ thực hư, chàng không thể để Thiết Long gặp nguy được Nhưng Hà nhị nương đã đến. Bà dặn dò chàng :

    - Hạc nhi ! Nhị nương có hẹn đến chơi với phu nhân huyện lệnh Lư Lăng, có thể mai mới về. Mọi việc trong Bảo, mong Hạc nhi quán xuyến dúm.

    Chàng vui vẻ gật đầu nhưng trong lòng đầy nghi vấn. Hà nhị nương rất yêu thương Thiết Long, không thể thản nhiên đi chơi trong khi trượng phu đang đi vào hổ huyệt. Nhất là lúc nãy bà đã khóc vì lo lắng.

    Bà đi rồi, Tuấn Hạc giao sự vụ cho Trương tổng quản rồi cũng đi luôn. Văn Uyển Lan đã có nhũ mẫu trong nom nhưng chàng cũng phải để Thần Viên ở lại chơi với nó. Chàng đã nói với Trương lão là mình đi Cát An thăm bằng hữu.

    Tuấn Hạc dùng khinh công bám theo ngựa của Hà Tú Chân. Đến một cánh rừng vắng gần thành, nhị nương nhìn trước nhìn sau rồi rê vào. Được hơn mười trượng bà nhảy xuống ngựa, cởi bỏ bộ cung trang. Tuấn Hạc kinh hãi không dám nhìn.

    Khi chàng mở mắt ra thì bà đã mặc xong bộ võ phục màu thanh thiên, dung mạo thay đổi hoàn toàn. Thì ra người đàn bà dịu dàng, nhân hậu kia là một cao thủ võ lâm có tài dịch dung thần diệu.

    Đôi nhãn quang sắc bén của chàng không hề nhận ra chút sơ hở của gương mặt giả kia. Tuấn Hạc toát mồ hôi nghĩ đến việc Thiết Long cũng mang mặt nạ.

    Nhưng suy nghĩ lại, chàng biết Hà Tú Chân không dính dáng đến vụ huyết án thay mận đổi đào mười chín năm trước.

    Việc đại ca Tuấn Thu cứu nhị nương đem về Bảo thì chàng vẫn nhớ rõ.

    Văn nhị phu nhân hóa trang xong, rời khỏi cánh rừng và phi nước đại. Tuấn Hạc đoán rằng bà đi Động Đình Hồ để hỗ trợ cho Thiết Long Văn Chí Lãm. Địch thủ chưa rõ nhưng chàng vẫn mừng cho Thiết Long có được người vợ chí tình, chí nghĩa .

    Đã biết mục tiêu, Tuấn Hạc thong thả đuổi theo. Đến trấn Đại Lâm, chàng ghé vào mua ngựa đi tiếp.

    Hà nhị nương nóng ruột quất ngựa phi nhanh. Tuấn Hạc cũng vội nhưng giữ một khoảng cách chừng gần trăm trượng.

    Chiều hôm sau, Hà Tú Chân và Tuấn Hạc lần lượt đến trấn Trường Đức - gần hồ Động Đình.

    Đoàn người ngựa của Thiết Long tuy khởi hành trước hai canh giờ nhưng cũng đến trước chẳng bao lâu. ông không biết rằng vợ và con cũng đuổi theo.

    Hà nhị nương trong dung mạo giả, thản nhiên trọ cùng khách điếm với phu quân.

    Tuấn Hạc thì ở lữ quán đối diện.

    Sáng ra, Thiết Long dương cờ tiêu cục, tiến ra bờ hồ. Nơi đây, có một phân đàn của Thiên Độc Giáo. ông kéo quân đến trước cửa, quát vang như sấm:

    - Thiên Độc Giáo! Van mỗ đã y hẹn đến phó ước "

    Chung quanh khu vực này có những khoảng rừng đào, liễu rậm rạp nên Tú Chân và Tuấn Hạc ẩn nấp dễ dàng. Tuấn Hạc chăm chú nhìn kỹ hai nhân vật đứng cạnh Thiết Long, họ chính là Nhật Nguyệt Song Ma.

    Nhật Ma Hách Động Doanh người béo lùn, râu bạc, mặt đỏ như son, quanh lưng quấn một sợi nhuyễn tiên vàng nhạt. Còn Nguyệt Ma Hân Hàn Thúy là một lão bà cao gầy, mặt sát xương tái mét. Trong tay bà có một cây Long Đầu Quải Trượng bằng một thứ kim loại đen sì.

    Hoàng Diện Thái Tuế từng kể rằng:

    - Mười chín năm trước, Song Ma đã theo Văn Chí Khải về Văn gia bảo. Họ ở lại một đêm mới quay về Ngọc Sơn - Nam Xương. Chí Khải nói là chính Song Ma cứu mạng lão nên trở thành nghĩa phụ, nghĩa mẫu. Tuấn Hạc thầm nghĩ: có thể song Ma có liên quan đến cái chết của cha chàng vì một mình Văn Chí Khải không thể giết được Văn Chí Lãm.

    Lúc này, các cao thủ Thiên Độc Giáo xuất hiện. Tuấn Hạc đã không đoán sai, ngoài Tam hộ pháp Cổ Túc Chi, còn có Chấp Pháp Nhị Tướng Bùi Tự Viên và Bùi Thế Đông. Sau lưng là năm mươi giáo chúng áo xanh, hông đeo độc đao.

    Nhật Ma tính nóng như lửa, thấy mặt đối phương là mắng ngay:

    - Thiết Long là nghĩa tử của Nhật Nguyệt Song Ma. Nay Thiên Độc Giáo dám cướp tiêu, đòi cống nạp, tức là chẳng coi vợ chồng lão phu ra gì rồi"

    Tam hộ pháp C Oå Túc Chi cười nhạt :

    - Bổn giáo thống trị địa bàn ba phủ Hồ Nam, Giang Tây, Quí châu. Các nơi khác đều răm rắp tuân phục, lẽ nào Thiết Long Tiêu Cục lại được ngoại lệ?

    Thật ra thì họ chỉ mới có ý định bành trướng vào phủ Giang Tây mà thôi. Văn gia bảo chính là hòn đá cản đường mà họ muốn hất đi .

    Nguyệt Ma bật cười the thé:

    - Để xem lũ ngươi có được bao nhiêu bản lĩnh mà dám ngông cuồng?

    Dứt lời, bà vung Quải Trượng lao đến như tia chớp. Khí thế mãnh liệt như vũ bảo. Phu thê tâm ý tương thông, Nhật Ma cũng đồng thời xuất thủ. Cây Hoàng Long Tiên của lão thắt nên những vòng tròn chết chóc, chụp xuống đầu Chấp Pháp Nhị Tướng.

    Thiết Long và hai mươi tiêu sư cũng xông vào đám giáo chúng áo xanh. Thanh Ngô Câu Kiếm đặc dị trong tay ông lồng lộn như thần long, lập tức chém chết hai tên.

    Đám tiêu sư đi theo Thiết Long thục ra là những đệ tử thân tín. Họ được ông truyền cho phép đánh Ngô Câu Kiếm của dòng họ Văn. Vì thế, bản lĩnh vô cùng lợi hại. Tuy nhân số ít hơn phe Thiên Độc Giáo nhưng lại được thế thượng phong.

    Mười tám người lập thành kiếm trận, tiến thoái nhịp nhàng, liên thủ mà tấn công nên khí thế càng hùng hậu. Hai người còn lại theo sau Thiết Long để bảo vệ hậu tâm của ông. Thiết Thạch Thần Công chống lại được đao kiếm nhưng nếu gặp tay nội gia cao thủ đánh trộm thì cũng không tránh khỏi bị thương.

    Nhờ có hai gã đệ tử này mà Thiết Long yên tâm chém giết. Chỉ hơn nửa khắc, phe Thiên Độc Giáo đã bỏ mạng mười mấy tên. Bọn còn lại vội tung độc phấn, độc châm nhưng cũng chỉ hoài công.

    Tuấn Hạc núp trong rừng liễu, mỉm cười hài lòng khi thấy thuốc giải của mình phát huy hiệu dụng.

    Phần Nguyệt Ma, cây Long Đầu Quải Trượng liên tiếp giáng xuống đầu Tam hộ pháp Cổ Túc Chi những đòn sấm sét. Họ Cổ đón đỡ vài chiêu đã nghe hổ khẩu đau rát. Thanh kiếm tẩm độc mẻ từng miếng lớn Lão vung tả thủ, đẩy ra những luồng độc chưởng đen mờ, nên tạm thời duy trì được Bên kia Nhật Ma cùng Chấp Pháp Nhị Tướng giữ thế quân bình. Hách Đông Danh là người duy nhất trong võ lâm luyện phép đánh nhuyễn tiên đến mức đại thành Cây Hoàng Long Tiên dài gần trượng biến hóa quỷ dị vô song. Nếu lão không úy ky chất độc thì đối phương đã thảm bại từ lâu rồi. Vì tự ái mà Song Ma không chịu uống thuốc Giải Độc Đan mà Thiết Long đưa cho.

    Nguyệt Ma Hân Hàn Thúy tính tình kiêu ngạo, nóng nảy. Thấy trượng phu ung dung đối phó với nhị tướng trong khi mình đánh một mà chưa xong, bà động sát khí rú lên. Cây Long Đầu Quải Trượng hóa thành trận cuồng phong đen thổi về phía Cổ Túc Chi. Lão ta kinh hãi trước khí thế của chiêu trượng, vội buông kiếm, dùng cả hai tay giáng liền tám chưởng vào màn trượng ảnh.

    Tiếc rằng công lực của Nguyệt Ma thâm hậu hơn nhiều, Quải Trượng ập đến gõ vỡ đầu họ Cổ. Bà đắc ý cười khanh khách, định sang liên thủ với Nhật Ma.

    Nhưng mấy chục thớt ngựa đã lao đến.

    Ba người áo vàng nhảy xuống tấn công Nguyệt Ma, số còn lại đánh vào kiếm trận của bọn tiêu sư.

    Tuấn Hạc giật mình khi thấy ba mươi sáu tên mới đến có hình dạng rất kỳ dị.

    Toàn thân chúng được bao phủ bởi những miếng da dày đen xám, xếp như vảy cá.

    Tay hữu cầm độc kiếm, tay tả thủ thiết chùy. Trên đầu chúng lại chụp mũ sắt dầy.

    Được trang bị kín đáo như vậy, khó ai mà đả thương được. Hơn nữa, thủ pháp kiếm chùy hợp nhất kia vô cùng đáng sợ, mới ra tay đã có bốn tiêu sư bị thương.

    Thiết Long gầm vang, bỏ đám giáo chúng áo xanh, tung mình đón đánh hai tên giáp sĩ. Thanh Ngô Câu Kiếm như tia chớp rạch sáu đường trên ngực chúng nhưng không chém đứt được lớp giáp kia.

    Họ Văn điên tiết nhắm vào mặt và hai cổ tay bọn chúng mà đánh. Với những mục tiêu giới hạn như vậy, làm sao đắc thủ được Lại thêm bảy tiêu sư nữa rú lên vì thương tích. Kiếm trận bắt đầu loạn. Một mình Thiết Long chống cự với tám gã giáp sĩ nên bắt đầu nguy ngập. ông bị trúng hai chùy vào lưng, không rách da thịt nhưng máu miệng rỉ ra.

    Tuấn Hạc cau mày suy nghĩ:

    - Lạ thực ! Nếu phụ thân ta đã luyện xong lớp thứ bảy của Thiết Thạch Thần Công thì đâu thể bị thương bởi hai đòn kia được?

    chàng cũng đã luyện tâm pháp này nên biết rõ điều ấy. Tuấn Hạc chưa kịp nhảy ra hỗ trợ Thiết Long thì Hà nhị nương đã nhanh hơn. Bà lướt về phía trận địa của Thiết Long và tung mình lên không. Tử tay tả của bà, những cây kim vàng bay vào mặt tám tên giáp sĩ. Thủ pháp kỳ tuyệt kia đã có tác dụng, bón tên bị kim đâm mù mắt, rú lên những tiếng khàn đặc Thiết Long phấn khởi chặt liền hai bàn tay của chúng.

    Hà nhị nương lướt khắp trận địa phóng kim châm vào mắt bọn giáp sĩ để cứu các tiêu sư Cục diện được vãn hồi đôi chút, bọn giáp sĩ e sợ nên không hung hăng như trước Nhưng một lão áo trắng - đang vây đánh Nguyệt Ma - đã thoát ra, chặn đường Hà Tú Chân. Người ấy là Tứ hộ pháp Lưu Độc Hà. Võ công của lão ta cao hơn Tú Chân rất nhiều nên bà bị thương ngay sau mười mấy chiêu kiếm.

    Tuấn Hạc kinh hãi, lướt nhanh về phía Hà nhị nương. Thấy bà bị thêm một vết kiếm thương trên vai trái, Tuấn Hạc căm hận rú lên cao vút. Tử trên không chàng đách chiêu Tinh Sa Lạc Nhạn. Hàng ngàn chưởng ảnh giăng mắc khiến lão Tứ hộ pháp hoa mắt, không biết đâu là hư thực.

    Lão kinh hãi cử song thủ giáng mạnh vào giữa đám ma thủ. Nhưng chưởng kình đã hụt mục tiêu. Lúc này, trái cầu ma quái kia phủ xuống và hai đạo chưởng phong nặng như núi bổ vào ngực lão.

    Tuấn Hạc được Hà nhị nương nuôi nấng, yêu thương suốt bảy năm dài.

    Trong thâm tâm, chàng vẫn coi người đàn bà hiền thục kia là mẹ của mình. Chính vì thế khi thấy bà đã bị thương, chàng đã xuất thủ rất độc ác. Xương lồng ngực của lão ma gãy nát và thân hình lão văng xa hơn trượng.

    Tú Chân ngỡ ngàng nhìn người bịt mặt.

    Chàng điểm huyệt chỉ huyết, xé vạt áo băng bó hai vết thương và cho bà uống thuốc giải độc. Lúc này, hyc đã kiệt lực vì sự công phá của chất độc trên lưỡi kiếm.

    Tuấn Hạc ẵm bà trên đôi tay mạnh mê rồi lướt khỏi trận địa. Bọn giáp sĩ xông đến cản đường nhưng thân pháp chàng cực kỳ linh hoạt và nhanh nhẹn, thoát đi rất dễ dàng. Lúc sắp đến bìa trận, một tên giáp sĩ bất ngờ phóng thiết chùy vào lưng Tuấn Hạc. Toàn thân chàng chấn động nhưng không dừng chân. Tú Chân kinh hãi hỏi:

    - Các hạ có sao không?

    Chàng không dám mở miệng.

    Tuấn Hạc chạy vào khu rừng liễu, đặt bà xuống chỗ kín đáo rồi quay trở ra.

    Chàng giở pho Tiêu Dao Thất Thập Nhị Thủ ra tàn sát bọn giáp sĩ. Chỉ trong nửa khác đã bẻ gãy tay mười mấy tên. cục diện được vãn hồi.

    Thấy vậy, Tuấn Hạc quay sang trận địa của Nhật Nguyệt Song Ma. Họ đang bị áp đảo vì khí độc đã ngấm vào huyết mạch.

    Nhờ công lực thâm hậu nên còn tạm thời chống đỡ được .

    Tuấn Hạc nhớ đến việc Chấp Pháp Nhị Tướng đẩy mình xuống vực và bắt ôn Tiểu Băng, liền nhặt thanh kiếm trong tay xác một tên tiêu sư rồi xông vào. Chàng dùng pho Cuồng Kiếm mà tấn công Nhị chấp pháp Cầu Triệu Linh.

    Nhật Ma mừng rỡ bảo:

    - Hay lắm! Tiểu tử cố cầm chân hắn để ta giết lão quỷ ốm này.

    Họ Bùi cười âm hiểm, tung Hắc Độc Chưởng bao phủ lấy Tuấn Hạc. Nhung lão đâu biết rằng chàng đã uống Thiên Độc Đan nên chẳng hề e sợ, lao thẳng vào luồng độc chưởng. Dù trúng hai đòn vào ngực và bụng nhưng chiêu kiếm vẫn vun vút bay đến. Đây lại là chiêu sát thủ trong pho kiếm pháp, lợi hại khôn lường. Bùi lão ma bị bất ngờ nên không kịp tránh né, bị thanh Ngô Câu Kiếm chặt đứt tay trái và vạch bốn đường trên ngực - máu bắn tung tóe. Lão rú lên thê thiết, hồn về chín suối Nhật Ma thấy chàng trai này chỉ một chiêu đã lấy mạng địch thủ, nổi lòng háo thắng, lao thẳng vào luồng độc chưởng của Đại chấp pháp - Hoàng Long Tiên thắt chín vòng quanh thân đối phương.

    Lão trúng một chưởng vào vai tả nhưng cần cổ Bùi Thế Đông cũng bị ngọn roi xiết đứt Nhật Ma đắc ý cười ha hả rồi gục xuống. Tuấn Hạc là người nhân hậu, tuy nghi ngờ Song Ma dự phần giết cha mình, nhung vẫn không thể để lão chết được.

    Chàng vội nhảy đến, nhét vào miệng lão ba viên linh đan và trút nội lực hỗ trợ.

    Nhật Ma có đến hơn hai hoa giáp tu vi nên mau chóng phục hồi. Lão gượng cười hỏi:

    - Tiểu tử là ai mà lại cứu lão phu?

    Tuấn Hạc chưa kịp đáp thì nghe Nguyệt Ma rên nhỏ. Chàng vội lướt về phía bà ta, chém vào lưng Ngũ hộ pháp Cốc Tòng Châu để giải vây.

    Là người quang minh chính đại, chàng quát lên cho đối phương biết. Lão này thấy chàng giết Nhị chấp pháp nên không dám tiếp chiêu, tung mình đào tẩu. Đại hộ pháp CỐ An Tử cũng vội chạy theo.

    Nhưng vừa đi được hai, ba trượng, lão quay ngoắt lại, phóng thanh độc kiếm vào Nguyệt Ma, bà ta đang lảo đảo vì chất độc mắt nhắm nghiền nên không phát hiện.

    Nhật Ma đứng xa đến bốn năm trượng nên không kịp cứu hiền thê, lão thét lên kinh hoàng:

    - Hân muội! Coi chừng"

    Nguyệt Ma mở mắt nhưng không còn sức né tránh. Tuấn Hạc đã như tia chớp lao đến ôm bà, hứng lấy mũi kiếm oan nghiệt kia.

    CỐ An Tử là cao thủ có hạng trong võ lâm, công lực thâm hậu nên thanh kiếm có sức công phá rất mãnh liệt. Tuấn Hạc vươn tả thủ vỗ vào bản kiếm, đẩy nó lệch đi Thủ pháp của chàng khi ấn Nhật Ma giật mình.

    Lão chưa kịp nói lời cảm ơn thì người bịt mặt kia đã như tia chớp rút lui khỏi đấu trường, biến mất trong khu rừng liễu.

    Lúc này, bọn giáp sĩ đã rút lui theo các hộ pháp. Thiết Long rảnh tay chạy đến, nhét thuốc giải độc vào miệng Nguyệt Ma. Nhờ có Nhật Ma truyền thêm công lực bà ta hồi phục rất nhanh. Vừa mở mắt, bà đã hỏi ngay:

    - Chí Lãm! Cái gã bịt mặt đã cứu ta lúc nãy là ai vậy?

    thiết Long cười khổ đáp :

    - Hài nhi cũng chẳng biết người ấy là cao nhân phương nào nữa? ông ta dường như có mói thâm thù với Thiên Độc Giáo nên xuất thủ rất nặng tay. Nếu không, hôm nay chúng ta khó thoát chết.

    Nhật Ma thở dài:

    - Ta nghĩ mãi mà không tìm ra ai là kẻ có bản lãnh cao siêu như vậy! Mối đại ân này làm sao trả được?

    Nguyệt Ma nhớ đến nữ nhân vãi kim vàng liền hỏi:

    - Như vậy nữ lang mặc võ phục màu xanh lúc nãy cũng là đồng bọn của người bịt mặt?

    Thiết Long không hề biết Hà Tú Chân giỏi nghề phóng kim châm nên cũng tán thành Nhật Ma nghiêm giọng:

    - Nay Văn gia bảo và Thiên Độc Giáo trở thành tử đối đầu vợ chồng ta sẽ đến Lư Lăng để gúp ngươi chống cự. Trước sau gì lão họ ôn cũng đến đòi lại món nợ hôm nay.

    Thiết Long vòng tay cảm tạ rồi thét thủ hạ đưa tiêu xa về. Tổng cộng, Thiết Long Tiêu Cục chết mất năm tiêu sư và bị thương gần hết. Tuy nhiên, đây là một chiến thắng oanh liệt"

    Tiêu xa nặng nề, lại có người mang thương nên cước trình châm chạp, mãi ba ngày sau bọn Thiết Long mới về đến Văn gia bảo.

    Tuấn Hạc và Hà nhị nương đều đã có mặt ở nhà. Chàng về trước Tú Chân hai canh giờ vì bà bị thương không đi nhanh được Lúc nhìn thấy Văn nhị công tử Nhật Nguyệt Song Ma đều hết lời khen ngợi:

    - Cốt cách của Hạc nhi mà học võ thì chỉ bốn năm là có thể ngạo thị giang hồ"

    Thiết Long ứng tiếng:

    - Nếu vây, xin nhị vị tài bồi cho.

    Nhật Nguyệt Song Ma chưa có truyền nhân nên hoan hỉ chấp thuận. Tuấn Hạc đã có dịp quan sát nên nhận ra Song Ma không phải là người xấu. Nhất là Hách Đông Danh lại có tướng phúc hậu, hào sảng. Chàng đã là nghĩa tôn của họ nên không cần xưng hô là sư phụ.

    Trong đại yến tẩy trần, Thiết Long hết lời ca ngợi công lao nữ lang áo xanh và người bịt mặt. Nhật Ma cười bảo:

    - Lão phu ước lượng người ấy có khoảng bốn mươi năm công lực. Như vậy, tuổi tác sẽ vào khoảng lục tuần. Tuấn Hạc đã bao kín cả tóc nên họ không thể đoán ra tuổi.


  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 4

    Đông khứ tầm cố nhân
    Ôn Châu đả Tích Ngọc
    Đêm ấy, Thiết Long vô tình chạm vào vết thương nơi vai trái của nhị nương, bà nhăn mặt rên rỉ. Thiết Long giật mình, nhìn ái thê dò hỏi.

    Tú Châu liếc yêu trượng phu rồi nói:

    - Nữ lang áo xanh kia chính là thiếp đấy.

    Bà cởi áo cho Thiết Long xem hai vết thương ở vai và lưng. ông cảm động hôn lên trán Tú Châu:

    - Không ngờ nương tử lại liều mình để hổ trợ ta.

    ông bỗng nhớ ra:

    - Vậy nàng có biết diệu nhân kia không?

    Hình như ông ta đã cứu nàng và đem vào cánh rừng liễu mà.

    Tú Chân thẹn thùng lắc đầu:

    - Người ấy hoàn toàn không nói tiếng nào !

    Ngay cả khi trứng một chùy vào giữa lưng mà cũng chẳng hề rên rỉ. Thiếp đã quan sát vết thương ấy, áo đã bị gai chùy móc rách mà không hề có dấu máu.

    Thiết Long kinh hãi:

    - Chỉ có ai luyện Thiết Thạch Thần Công và hoàn thành lớp thứ bảy mới có khả năng ấy thôi Nhưng trừ ta và nhị đệ ra, không còn ai biết được tâm pháp ấy.

    Tú Chân giật mình, suy nghĩ một lúc rồi nói:

    - Không thể là Hạc nhi được ! Nó đang nghi ngờ chàng là Văn Chí Khải tất sẽ không liều mình cứu Nhật Nguyệt Song Ma!

    Chợt bà nghiêm sắc mặt bảo:

    - Mấy năm qua, chúng ta đã hiểu Song Ma không phải kẻ ác. Họ chỉ bị Chí Khải lợi dụng mà thôi. Sao chàng không âm thầm nói rõ sự thực cho Hạc nhi nghe?

    Thiết Long cười buồn:

    - Nếu nói ra thì còn gì danh dự của Hà muội và nhà họ Văn? Tuấn Hạc là người đọc sách, trọng lễ nghĩa, tất sẽ rất đau lòng và tủi hổ.

    Tú Chân chỉnh sắc :

    - Thiếp lại nhận xét khác với tướng công.

    Hạc nhi là người phóng khoáng, thông tình đạt lý chứ không cố chấp như bọn hủ nho. Nó sẽ thông cảm được với chúng ta.

    Thiết Long rầu rĩ đáp:

    - Có lẽ không cần phải nói ra đâu. Trong cuộc chiến với Thiên Độc Giáo, vợ chồng ta chắc gì đã sống sót? Vài ngày nữa, ta sẽ đóng cửa tiêu cục và gởi Tuấn Hạc xuống miền Đông. Có như vậy mới bảo tồn được tông tự họ Văn Tú Chân nghe lòng nặng trĩu, thầm công nhận tướng công có lý. Thế lực Thiên Độc Giáo hùng mạnh nhất vùng phía Nam Trường Giang, cao thủ nhiều như mây. Nhật Nguyệt Song Ma và Văn gia bảo không tài nào địch lại.

    Bà trầm ngâm một lúc, tủm tỉm cười:

    - Tướng công! Sao người không tính đến chuyện lập gia thất cho Hạc nhi?

    Thiết Long không hiểu:

    - Trong lúc dầu sôi lửa bỏng này, bàn đến chuyện ấy làm gì?

    Tú Chân vui vẻ nói:

    - Tướng công có nhớ đến chuyện Lưu Bị sang Đông Ngô cầu hôn em gái Tôn Quyền hay không? Biến Hình Môn ở ôn Châu mấy năm nay đã phát triển thành một bang hội hùng mạnh. Đương kim môn chủ cũng có ý muốn dương danh thiên hạ. Tháng trước, thiếp có gặp lại một đồng môn, ông ta thố lộ như vậy. Đồng thời còn nói rằng môn chủ đang kén chồng cho thiếu môn chủ Cổ Doanh Doanh. Hạc nhi là con nhà dòng dõi, lại nổi tiếng thiên hạ về tài thi phú, cộng với dung mạo tuấn tú kia, lo gì không lọt vào mắt xanh của Cổ tiểu thư? Hôn sự mà thành tựu, Cổ môn chủ sẽ dốc sức tương trợ Văn gia bảo. Đây cũng là dịp để Biến Hình Môn bành trướng về hướng Tây.

    Thiết Long thầm nghĩ như vậy cũng là cách bảo toàn mạng sống cho Tuấn Hạc, vì nếu thất bại, chàng sẽ rút về trọng địa của Biến Hình Môn. ông hỏi lại:

    - Nhưng dung mạo Cổ tiểu thư như thế nào?

    Tú Chân trấn an:

    - Tướng công chớ lo, nàng ta đẹp hơn thiếp nhiều Thiết Long đẹp dạ:

    - Chỉ cần kiều diễm như nàng cũng quá tốt cho Hạc nhi rồi.

    Sáng ra, trong bữa điểm tâm, ông trình bày kế hoạch của Tú Chân. Song Ma cũng tự lượng sức mình nên không phản bác. Hân lão nương cười bảo:

    - Té ra Chân nhi là đệ tử của Biến Hình Môn !

    Thiết Long khai luôn:

    - Thưa phải ! Nàng cũng chính là nữ lang áo xanh hôm trước.

    Tuấn Hạc không ngạc nhiên vì biết rằng vợ chồng đầu ấp tay gối tất chẳng thể giấu diềm nhau. Hơn nữa, nhị nương đã thọ thương.

    Thiết Long quay sang hỏi ý kiến chàng:

    - Hạc nhi ! Ngươi đã đến tuổi lập gia thất, Cổ tiểu thư lại là người sắc nước hương trời, nếu lấy được nàng, ngươi cũng chẳng thiệt thòi gì.

    Nay Cổ môn chủ nuôi mộng tránh bá, dương danh võ lâm, hợp với tình thế hiện nay của Văn gia bảo. Ngươi cứ đi ôn Châu một chuyến xem sao, nếu không đúng như lời nhị nương thì hãy trở về Tuấn Hạc cau mày suy nghĩ. Chàng hỏi Tú Chân:

    - Nhị nương! Cao thủ của Biến Hình Môn có bản lãnh gì lợi hại? Nếu quá tầm thường, e rằng chỉ uổng mạng mà thôi.

    Hà nhị nương cười đáp :

    - Trước đây, họ chỉ giỏi nghề hóa trang và xử dụng ám khí. Nhưng mười năm trước, Cổ môn chủ tình cờ bắt được một pho đao phổ. ông cố công khổ luyện và dạy lại một phần cho các đệ tử Nhờ vậy giờ đây, bổn môn đã có một đội dũng sĩ rất tinh nhuệ - đông đến năm trăm người. Cộng với những tuyệt kỹ tổ truyền, họ lợi hại hơn bọn giáo đồ Thiên Độc Giáo. Nhất là khi Hạc nhi cho họ uống phòng độc đan.

    Tuấn Hạc mang nặng mối tương tư ôn Tiểu Băng nên không hề nghĩ đến chuyện lấy Cổ Doanh Doanh. Nhưng chàng cũng muốn đi về hướng Đông một chuyến để do thám tình hình Hoài Hạc Bang. Sự im lặng của Vạn Bác Hồ Tinh khiến chàng lo ngại.

    Trầm ngâm một lúc, chàng đáp rằng:

    - Tuần phủ Giang Tây là bạn văn chương với Hạc nhi. ông ta sẽ điều quan quân đến đồn trú gần Văn gia bảo. Thiên Độc Giáo thấy vậy sẽ không dám đến Lư Lăng. Nhưng hài nhi cho rằng phụ thân nên tạm thời đóng cửa tiêu cục, đưa đệ tử về đây phòng thủ. Trong lúc ấy, hài nhi sẽ đi ôn Châu.

    Thiết Long hoan hỉ bảo:

    - Để ta phái bốn cao thủ theo bảo vệ ngươi.

    - Phụ thân quên rằng Tiểu Bạch thần dũng tuyệt luân hay sao?

    Thiết Long cười ha hả:

    - Phải lắm! Đến ta mà còn phải lúng túng khi so tài với nó.

    Nhật Ma Hách Đông Danh giật mình:

    - Chẳng lẽ con vượn nhỏ ấy lợi hại đến thế Lão quay sang hỏi Tuấn Hạc:

    - Ngươi bắt được nó ở đâu?

    Chàng đành phải kể lại câu chuyện bịa đặt kia. Hách lão gật gù:

    - Nếu Tiểu Bạch giết nổi ác Y Hồ LỘ Kỳ thì nó chính là linh vật của Cuồng Kiếm Thần Y Công Tôn Quang Nguyệt. Bốn mươi năm trước lão phu có gặp ông ta và một con vượn trắng.

    Không ngờ Cuồng Kiếm quy tiên mà nó vẫn còn đây.

    Ba ngày sau khi Tổng Binh Lư Lăng đã hạ trại cách Văn gia bảo trăm trượng, Tuấn Hạc mới yên tâm lên đường.

    Ngoài tiền bạc, chàng còn mang thư giới thiệu của Thiên Diện Ma Cơ Hà Tú Chân. Bà là sư điệt của môn chủ Biến Hình Môn.

    Nhưng chàng lại đi thẳng đến Kim Hoa, cách ôn Châu bốn trăm dặm. Nơi đây chính là tổng đàn của Hoài Hạc Bang - nằm ngay trên ngọn đồi nhỏ cách cửa Nam thành mười dặm.

    Đầu tháng bảy chàng mới đến nơi. Y phục ướt sạch vì cơn mưa hạ. Tuấn Hạc vào thành tìm chỗ trọ. Tắm gội, thay áo xong, chàng ra phố tìm bọn hóa tử. Cái Bang bị triều đình giải tán nên không hề có phân đà. Nếu ai có hỏi, bọn khất cái cũng chẳng dám nhận mình là con cháu của Hồng Thất Công.

    Hôm nay là ngày mồng một nên đám hóa tử tụ tập đông đảo ở cổng chùa Lăng Nghiêm Tự.

    Tuấn Hạc không vào chùa mà đứng ngoài quan sát bọn khất cái. Cuối cùng, chàng đã phát hiện ra kẻ đứng đầu. Đó là một lão già râu ngắn, tuổi độ ngũ tuần. Lão ngồi giữa hàng, trên ngực chiếc áo rách kín đáo điểm sáu mụn vá nhỏ màu xanh. Nếu không biết trước ký hiệu này, sẽ chẳng ai đế ý. Nó tượng trưng cho cấp bậc sáu túi. Lão chính là phân đà chủ Kim Hoa.

    Tuấn Hạc đã đổi sẵn một ít tiền đồng, chàng đi vào bố thí cho từng người. Đến trước mặt lão phân đàn chủ, chàng ném tiền vào chiếc nón rách của lão, kèm theo đồng tiền cổ. Đồng thời chàng giả đò làm rớt cây quạt giấy, lúc cúi xuống nhặt quạt, chàng nói nhỏ với đối phương :

    - Nửa khắc nữa ra sau chùa gặp ta.

    Chàng thò tay lấy lại tín phù rồi đi vào chùa.

    Chỉ vái vài cái lấy lệ, Tuấn Hạc trở ra ngoài.

    chàng đi vòng về phía bức tường sau Lăng Nghiêm Tự đứng chờ.

    Lát sau, lão khất cái râu ngắn xuất hiện. Lão quan sát chàng rồi bảo:

    - Công tử bao nhiêu niên kỷ?

    - Bốn mươi!

    Lão nghe đúng mật khẩu, hoan hỉ vòng tay:

    - Tiểu nhân là Đoản Tu Cái Côn Hành Khuất Phải chăng công tử ở họ Văn?

    Chàng gật đầu rồi hỏi lại:

    - Tứ trướng lão Cù Sở Hòa đã đến đây chưa?

    - Thưa đã! Người đến đây cách nay gần tháng Khi nghe nói tổng đàn Hoài Hạc Bang không còn một bóng người, trướng lão dắt tiểu nhân đến tận nơi điều tra. Người đoán rằng ở đây đã xảy ra một cuộc chiến khốc liệt. Theo dấu vó ngửa để lại, Cù trướng lão theo hướng Đông Nam mà truy tìm. Người dặn tiểu nhân nếu công tử có đến thì báo lại rằng có thể tàn quân của Hoài Hạc Bang kéo về hướng ôn Châu - hoặc bị bắt làm tù binh. Nhưng từ lúc chia tay đến giờ, phân đà Kim Hoa không còn nhận được tin tức của Tứ trướng lão nữa.

    Tuấn Hạc hỏi ngay:

    - Túc hạ ở đây từ lúc Hoài Hạc Bang ra đời, vậy có biết lai lịch của gã bang chủ ấy hay không?

    - Thưa không, ngoài cái tên giả Văn Tuấn Hạc, chẳng ai được thấy gã bao giờ. Nhân số Hoài Hạc Bang cũng chỉ độ gần trăm.

    Tuấn Hạc từ giả Đoản Tu Cái và khách điếm thu xếp hành lý đi ngay.

    Mùa hạ này, các khối băng trôi từ Bắc Hải về phía Nam đã làm cho nhiệt độ Hoàng Hải xuống thấp. Không khí lạnh tràn vào khu vực hạ lưu Trường Giang, gặp khối khí nóng ẩm, khiến hơi nước ngưng tụ, trời trở nên âm u, có mưa phùn kéo dài.

    Chàng đặt Thần Viên vào lòng, trùm kín áo tơi thúc ngựa phi mau. Đường quan đạo lầy lội, nước đọng lại thành vũng và bắn tung tóe, làm cho bốn vó tuấn mã và hai chân chàng bùn bám lấm lem.

    Hai ngày sau, trời đột nhiên quang đãng hơn, mưa ngừng rơi, mặt trời le lói sau đám mây xám lững lờ. Lúc này, Tuấn Hạc chỉ còn cách ôn Châu chừng trăm dặm.

    Trước mặt chàng là một đoạn đường vắng vẻ đi ngang qua khu rừng thưa. Tiến lên được hơn dặm đã nghe tiếng quát tháo, tiếng vũ khí va chạm vọng lại. Chàng đoán rằng lữ khách nào đó bị cường đạo chặn đường, liền thúc ngựa phi nước đại. Khi đến nơi, cuộc chiến đã gần tàn.

    Sáu tên bịt mặt đang vây quanh hai thiếu nữ.

    Nàng áo hồng đã mê man, nằm gục trên mặt lộ.

    Nàng áo đen đứng bên, đang cố chống cự, nhưng chỉ như ngọn đèn sắp tắt.

    Tuấn Hạc thấy cảnh ngộ này, nộ khí bừng bừng, quát vang như sấm:

    - Lũ cẩu tặc !

    Chàng như chiếc pháo thăng thiên rời yên ngựa, bay chếch về phía trận địa. Tiểu Bạch cũng không chịu chậm chân. Tử trên cao, Tuấn Hạc xuất chiêu Khuê Đẩu Quang Minh, nhắm vào đầu hai gã bịt mặt gần nhất.

    Tiếng quát của chàng đã khiến bọn chúng đề phòng - vung kiếm đón chiêu. Kiếm phong rít lên ghê rợn, chứng tỏ một công lực thâm hậu.

    Tuy nhiên, pho chướng pháp này là tuyệt học hãn thế của Công Tôn Quang Nguyệt nên chẳng dễ gì đối phó.

    Chướng kình liên tiếp vỗ vào lưới kiếm và âm thầm xuyên qua chỗ sơ hở, giáng vào ngực chúng. Hai gã kia trứng đòn, gào lên thảm thiết quị xuống mặt đất.

    Tiểu Bạch chỉ học được phần cầm nã và quyền pháp trong pho tuyệt học kia, nhưng bù lại nó có lớp lông dầy trắng muốt, không sợ gươm đao và thần lực bẩm sinh. Nó không tấn công từ trên xuống mà lao thẳng vào hạ bàn gã thứ ba. Đối phương chưa kịp nhận ra cái bóng trắng nhỏ bé kia là vật gì, cũng vung cước đá liền. Tiểu Bạch chụp ngay bàn chân bẻ mạnh khiến gã trật khớp kêu trời. Và sau đó là tiếng than vãn cuối cùng vì Thần Viên đã thọc bàn tay đầy móng sắt vào bụng gã.

    Ba tên còn lại điên cuồng lao đến tấn công.

    Tuấn Hạc cười nhạt xông vào như không biết sợ chết là gì. Thân hình chàng uyển chuyển và linh hoạt luồn lách giữa ba thanh gươm. Thủ cước ra đòn như chớp giật, uy hiếp các nhược điểm của đối phương. Dường như chàng muốn mượn tay ba gã để thử uy lực pho chướng pháp? Thực ra không phải thế, kiếm pháp của ba gã này rất ảo diệu, chàng thiếu kinh nghiệm hỗn chiến nên chưa tìm ra cách giải phá.

    Nhưng Tiểu Bạch đã lao vào lưng một gã. Nó chẳng hề để ý gì đến qui củ của võ lâm hay tinh thần thượng võ cả. Đối phương nghe hơi gió vội quay lại, vung kiếm đỡ đòn. Trường kiếm chém vào lớp lông dày và trượt đi. Cánh tay dài thườn thượt của Thần Viên vươn đến vỗ vào mặt gã. Đôi nhãn cầu vỡ nát, xương đầu rạn nứt, nạn nhân gào lên rồi ngã vật xuống.

    Tuấn Hạc phấn khởi dồn chân khí vào song thủ, chụp lấy lưỡi kiếm của tên trước mặt.

    Chàng lôi gã về phía mình và tống một quyền vào ngực. Lối đánh cương mãnh này khiến gã còn lại giật mình định đào tẩu. Tuấn Hạc cười nhạt ve vẩy đôi bàn tay. Mười ngón biến thành vạn ngón và một trong những ngón ấy búng luồng chỉ phong vào huyệt Liên Khuyết trên cổ tay hữu - thuộc kinh Thủ Thái âm Phế. Thanh trường kiếm rơi xuống, nhưng gã này có võ công cao cường, cơ trí biến báo nên đã nhịn đau vỗ thẳng vào ngực Tuấn Hạc. Gã đắc thủ nhưng nghe như đánh vào đá, chiếc cổ tay đau đớn gãy lìa. Chân phải Tuấn Hạc đã quất thẳng vào bụng dưới đối thủ, đưa lão về chín suối.

    Lúc này thiếu nữ áo đen cũng đã gục xuống.

    Chàng vội chạy đến xem thử. Thấy cả hai mê man bất tỉnh, mạch đập rất yếu, Tuấn Hạc cho họ uống linh đan.

    Nếu họ là nam nhân, chàng đã có thể cởi áo xem xét thương thế và xoa bóp huyệt đạo.

    Tuấn Hạc theo nho học nên trọng lễ nghĩa, không dám sơ xuất.

    Trời lại u ám, mây đen giăng mắt, báo hiệu một cơn mưa. Tuấn Hạc thở dài nghĩ đến tòa phế miếu cách đây nửa dặm. Lúc đi chàng đã thấy nó ẩn hiện trong rừng, cách vệ đường vài mươi trượng.

    Tuy thiếu lịch duyệt nhưng chàng cũng hiểu rằng không thể để sáu tử thi kia nằm phơi trên mặt lộ, phe đối phương sẽ phát hiện lùng sục ngay. Chàng không sợ chúng nhưng còn hai thiếu nữ này thì sao?

    Tuấn Hạc liền bảo Tiểu Bạch kéo xác giấu vào rừng, còn chàng đưa hai nạn nhân lên lưng ngựa.

    Thần Viên chỉ đi ba lượt đã hoàn tất nhiệm vụ Tuấn Hạc đặt hai người nằm vắt ngang qua lưng ngựa rồi dẫn đi ngược trở lại. Cơn mưa sắp đến sẽ xóa tan vết máu và dấu vó ngựa.

    Vừa đến được tòa cổ miếu thì cơn mưa ập đến, không phải mưa phùn mà là mưa rào. May thay, một phía mái ngói còn nguyên vẹn nên phần nền chỗ ấy không bị ướt. Chàng trải áo tơi và thêm tấm áo choàng rồi mới đặt họ nằm lên.

    Giờ đây chàng mới có dịp nhìn rõ gương mặt hai thiếu nữ. Nàng áo hồng tuổi độ đôi mươi, dù da mặt đang tái xanh vì thương thế mà vẫn lộ rõ một dung nhan diễm lệ. Ngược lại nàng áo đen có gương mặt nạm, xấu xí.

    Tuấn Hạc bảo Tiểu Bạch canh gác rồi thăm mạch lần nữa. Thấy khí huyết trì trệ, không thông suốt dù trên người không dấu máu.

    Chàng đoán rằng họ trứng chướng thương.

    Nhưng nếu không cởi áo họ ra, sao có thể nhận biết được thủ pháp mà chữa trị? Nghe hơi thở họ yếu dần, Tuấn Hạc cau mày lẩm bẩm:

    - Lẽ nào thấy chết mà không cứu? Giữ được chút lễ nghĩa mà phế bỏ đạo nhân thì có xứng đáng là người quân tử hay không?

    Nghe tâm yên ổn, Tuấn Hạc lật họ nằm sấp xuống, kéo áo lên xem, chàng hy vọng vết thương sẽ nằm ở phía sau như thế đỡ thất lễ hơn. Nhưng tiếc thay, hoàn toàn không có gì ca.

    Chàng đành đỡ họ nằm ngửa trở lại. Nhớ đến ôn Tiểu Băng, Tuấn Hạc bỗng ngần ngại.

    Đồng ý rằng ngộ biến tùng quyền nhưng quan niệm tiết trinh thời bấy giờ rất khắc khe. Nếu những nạn nhân này không thông cảm, chàng khó mà từ chối hôn sự.

    Nay ôn Tiểu Băng vì chàng mà ngọc nát châu trầm, lẽ nào chàng lại đa mang thêm nữa?

    Tuấn Hạc quyết định chữa trị cho thiếu nữ xấu xí kia trước, rồi nhờ nàng xoa bóp cho thiếu nữ áo hồng xinh đẹp. Có như thế,Tiểu Băng mới không trách chàng là người tham sắc.

    Đã có chủ ý, Tuấn Hạc cởi áo ngoài và chiếc yếm đào của nạn nhân. Thân trên ngọc ngà hiện ra khiến chàng đỏ mặt. Người con gái thon gầy này lại đầy đặn, nở nang hơn bề ngoài.

    Một dấu chướng ấn xám xì nằm ngay giữa hai nhũ hoa. Tuấn Hạc quan sát và hồi tướng lại Y Kinh, chàng nhận ra đây là Khôi Yên Thủ của Thiên Sư Giáo.

    Chàng hít một hơi dài, cố trấn tĩnh tâm hồn, điểm vào các huyệt Trung Phủ, Thềm Tăng, Nhũ Trung, Bất Dung, Thần Phong. Trong đó có hai huyệt Nhũ Trung nằm ngay trên vú.

    Sau đó, chàng ngồi xếp bằng, tả thủ đặt vào giữa hai vết thương, hũu thủ áp lên khí huyệt ở bụng dưới. Chân khí của chàng trút vào Chí Huyệt - lên đến vết thương - ngay huyệt Đản Trung - và chất độc bị tay trái hút ra ngoài.

    Chỉ nửa khác sau, luồng chân nguyên hùng hậu của chàng đã trục hết độc tố, đả thông tâm mạch, chàng không dám nhìn tấm thân nõn nà, khêu gợi kia. Chính vì vậy chàng không biết rằng thiếu nữ áo đen đã tỉnh lại trước rồi. Nàng nhìn say đắm gương mặt anh tuấn của chàng, đôi dòng lệ tuôn trào. Và nàng kịp nhắm mắt lại trước khi chàng xả công.

    Tuấn Hạc thấy vết chướng ấn đã biến mất mà sao nạn nhân vẫn chưa tỉnh lại. Chàng cắn răng xoa bóp các huyệt đạo trên ngực, cố dùng lửa tam muội hỗ trợ luồng chân khí của nạn nhân Thiếu nữ mặt nạm ngất ngây và hổ thẹn, đành phải tỉnh lại. Nàng nhìn Tuấn Hạc bằng cặp mắt ai oán và trách móc. Chàng nghe mặt nóng bừng, vội nói ngay:

    - Tiểu sinh không nỡ để cô nương táng mạng nên đành vượt qua lễ giáo, mạo phạm đến ngọc thể Mọi sự sẽ giải quyết sau. Nay xin cô nương điều tức một lát để phục hồi công lực mà cứu nữ lang áo hồng kia.

    Thiếu nữ áo đen bẽn lẽn mặc lại áo rồi hỏi:

    - vì sao công tử không ra tay cứu Doanh muội mà lại cứu ta trước?

    Tuấn Hạc buồn rầu đáp :

    - Tiểu sinh đã lỡ nặng mối chung tình với một người, đâu dám vương vấn cùng ai nữa.

    Nếu sau này nàng biết chuyện hôm nay, may ra tiểu sinh còn có cơ hội biện bạch.

    Thiếu nữ hiểu ngay tâm trạng của chàng, mắt tóe lên những tia bí ẩn:

    - Thì ra công tử cho rằng thiếp xấu xí, tất sẽ không dám với cao chứ gì? Công tử sai rồi, thiếp tuy gương mặt đen đũa nhưng lại là người cương liệt. Thân này đã bị công tử chạm đến, coi như đã thuộc về công tử. Nếu chàng chê bỏ, thiếp sẽ tự sát ngay, Tuấn Hạc khẳng khái đáp :

    - Kẻ làm điều nhân không hề nghĩ đến hậu quả Nếu cô nương chịu phận lẽ mọn, tiểu sinh cũng chẳng dám chối từ trách nhiệm. Tiểu Băng là người nhân hậu tất sẽ lượng thứ cho chúng ta. Giờ xin cô nương theo lời chỉ dẫn của tiểu sinh mà chữa trị cho lệnh muội. Tiểu sinh sẽ truyền công lực qua người cô nương, bất tất phải điều tức nữa.

    Thiếu nữ ranh mãnh nói:

    - Thiếp đã quá mệt mỏi, e không làm đúng theo lời công tử chỉ dẫn, sao chàng không tự mình làm đi? Hai chị em thiếp thờ chung một chồng cũng chẳng sao. Tiểu Băng cô nương nào đó chắc cũng chấp nhận thôi. Cổ nhân có câu: Ngộ biến tùng quyền mà.

    Tuấn Hạc nhăn mặt:

    - Một mình cô nương cũng đã khiến tiểu sinh lỗi đạo với Tiểu Băng, xin hãy lượng thứ.

    Thiếu nữ áo đen động tâm trước tấm lòng chung thủy, liếc chàng say đắm. ánh mắt nàng chất ngất yêu thương khiến Tuấn Hạc phải ngỡ ngàng.

    Nàng ta cởi áo thiếu nữ kia, lúc quay lại thi thấy chàng đã nhắm nghiền mắt lại. Nàng phì cười :

    - Đúng là hủ nho ! Gặp người quốc sắc mà không biết thướng thức.

    Tuấn Hạc cắn răng không đáp, từ tốn chỉ cho nàng phương pháp trị thương. Thiếu nữ nghe xong, suy nghĩ một lúc rồi nũng nịu nói:

    - Thú thật với công tử là thiếp không tường vị trí các huyệt đạo. Mong công tử chỉ dẫn cho, nếu không hậu quả sẽ khó lường. Chỉ nhìn thôi chắc cũng không đến nỗi nào? Lát nữa Doanh muội tỉnh lại, thiếp sẽ giấu kín việc ấy.

    Tuấn Hạc sợ nàng điểm sai, nguy đến tính mạng nạn nhân, đành thở dài, mở mắt ra. Trọn vẹn thân trên cơ thể mỹ nữ lồ lộ như pho tượng ngọc. Tuấn Hạc cắn răng hướng dẫn, xác định vị trí đứng để nữ lang mặt nam điểm vào.

    Gần khắc sau, thiếu nữ kia tỉnh lại. Nàng ngơ ngác nhìn người bạn gái và chàng trai tuấn tú kia. Nữ lang áo đen nháy mắt rồi khép vạt áo của nàng kia lại. Nàng vui vẻ đáp:

    - Công tử có thể mở mắt rồi đấy. Doanh muội đã hồi tỉnh.

    Tuấn Hạc thở phào, rút tay lại đứng lên, đi ra ngoài để hai nàng sửa sang xiêm áo.

    Không hiểu họ đã nói gì với nhau mà tàn nửa nén hương mới gọi chàng vào. Tuấn Hạc bối rối khi thấy nữ lang áo hồng đỏ mặt, cúi đầu vân vê tà áo Chàng đoán rằng nữ lang xấu xí kia đã kể lại chuyện trị thương.

    Tuấn Hạc vòng tay nới :

    - Tiểu sinh là Văn Tuấn Hạc, quê ở Giang Tây. Dám hỏi phương danh nhị vị?

    Nữ lang mặt nam đáp ngay:

    - Thiếp là Hàn Khiết Văn, còn đây là biểu muội Hàn Khiết Doanh. Công tử chắc là Văn nhị thiếu chủ của Văn gia bảo? Có việc gì mà lại đi ngang đây?

    Tuấn Hạc lúng túng đáp :

    - Tiểu sinh đi ôn Châu có chút việc riêng.

    Thiếu nữ áo đen nghiêm nghị nói:

    - Chị em thiếp đã bàn bạc với nhau, đồng lòng xin làm tỳ thiếp. Sau này, nếu ôn cô nương rộng lượng dung nạp mới dám nâng khăn sửa túi cho công tử, bằng như bị ôn cô nương từ chối, sẽ bỏ đi ngay, không dám xen vào hạnh phúc của nhị vị. Công tử thấy thế nào?

    Tuấn Hạc giật mình:

    - Sao lại cả hai người như vậy?

    Hà Khiết Văn mỉm cười:

    - Chị em thiếp từ lâu đã nguyện cùng thờ một chồng để khỏi phải xa nhau. Khi gặp ôn cô nương, bọn thiếp sẽ biện minh để nàng không trách công tử.

    Tuấn Hạc cũng đang thầm áy náy vì câu lễ nghĩa, tiết trinh nên đành xuôi tay, chấp thuận:

    - Nhị vị đã hết lời, tiểu sinh xin phụng ý.

    Việc duyên nợ cứ để cho Tiểu Băng định đoạt.

    Hàn Khiết Văn kéo tay Khiết Doanh đến nghiêng mình ra mắt:

    - Chúng thiếp bái kiến tướng công.

    Chàng nhìn hai nữ nhân, thở dài thườn thượt. Khiết Văn cười hỏi:

    - Tuy thiếp xấu xí nhưng Doanh muội xinh đẹp như tiên nga, công tử còn buồn chi nữa?

    Tuấn Hạc bùi ngùi đáp :

    - Tiểu Băng với ta tình thâm như biển, dẫu hai nàng kiều diễm hơn nữa cũng chẳng thể khiến ta quên được người xưa. Hơn nữa, hiện nay nàng trôi dạt phương nào ta cũng chẳng hay, lòng dạ nào mà vui duyên mới?

    Khiết Doanh thò tay nhéo vào lưng Khiết Văn nàng nhột nhạt ưỡn người né tránh. Khiết Văn hỏi lại Tuấn Hạc:

    - Dám hỏi có phải công tử đang đề cập đến Thiên Độc Thánh Nữ hay không?

    - Chính là nàng, ta đi về Đông chuyến này cũng là để tìm Tiểu Băng.

    Khiết Doanh đã mạnh dạn hơn, nàng thỏ thẻ:

    - Thiếp nghe nói ôn đại thư đã bỏ mình dưới sóng nước Trường Giang rồi mà?

    Tuấn Hạc nói như đang hy vọng:

    - Không đâu! Ta đoán rằng nàng thoát chết và trở thành Hoài Hạc Bang chủ! Tháng trước, tổng đàn của nàng ở Kim Hoa bị tấn công. Dấu vết để lại cho thấy Hoài Hạc Bang đã rút lui, hoặc bị bắt đi về hướng này. Như thế, hung thủ có thể là Biến Hình Môn.

    Khiết Doanh biến sắc cãi ngay:

    - Thiếp chính là một đệ tử của Biến Hình Môn, có thể đoan chắc rằng không có việc ấy.

    Khiết Văn cũng nói:

    - Thiếp đã từng đến Kim Hoa và tình cờ đi ngang qua ngọn đồi Quý Khâu và gặp bang chủ Hoài Hạc Bang. Đó là một nam nhân.

    Tuấn Hạc choáng váng, thẩn thờ:

    - Thế là hết, ta còn biết dựa vào đâu để tìm Tiểu Băng nữa đây?

    Khiết Văn mỉm cười:

    - Thiếp vốn là tỳ nữ thân tín của ôn tiểu thư, có mặt trên chiếc thuyền hoa hôm ấy nên có thể đoan chắc rằng nàng vẫn còn sống. Thánh Nữ sinh trướng ở Nghi Xương, bơi lội như cá kình, làm sao chết đuối dược?

    Tuấn Hạc mừng rỡ nắm tay nàng hỏi dồn:

    - Thật thế sao? Nàng hãy kể rõ sự việc hôm ấy cho ta nghe đi !

    Khiết Văn nhăn mặt:

    - Thiếp đói bụng lắm rồi, để vừa ăn vừa nói cũng được.

    Nàng bước ra ngoài, rú lên cao vút. Lát sau, hai con tuấn mã chạy đến, trên yên còn đầy đủ hành lý.

    Trời vẫn còn mưa dai dẳng, không biết lúc nào sẽ ngưng và chiều cũng đã buông. Khiết Văn dắt cả ba con ngựa vào miếu, cho chúng đứng ở nửa miếu tả. Dù dột nát nhưng cũng hơn ở ngoài trời mưa gió.

    Tuấn Hạc gom gỗ mục nhóm lửa xong, gọi Tiểu Bạch vào. Chàng chỉ hai nàng rồi bảo:

    - Tiểu Bạch, họ là tỳ thiếp của ta đấy.

    Thần Viên khệnh khạng vòng tay cúi đầu chào. Khiết Doanh thích thú bước đến vuốt ve Tiểu Bạch:

    - ôi chao ! Sao tướng công lại nuôi được con vượn xinh đẹp và thông minh thế này?

    Tuấn Hạc cười đáp :

    - Tiểu Bạch còn là sư huynh của ta đấy!

    Thần Viên đắc ý, vỗ ngực thọt khét liên hồi.

    Khiết Văn tháo hai bọc hành lý, lấy thực phẩm bày trên tấm áo tơi. Họ là nữ nhân nên trữ toàn là bánh kẹo, mứt khô. May mà còn có một con gà nướng dành cho Tuấn Hạc.

    Chàng định chia thịt cho họ thì Khiết Doanh bảo:

    - Bọn thiếp chỉ ăn chút bánh mứt là đủ rồi.

    Tướng công cứ dùng đi.

    Tiểu Bạch nếm thử chiếc kẹo hoa quế, gật gù khen ngon. Nó chưa bao giờ được ăn những thứ này.

    Tuấn Hạc ăn xong mà hai nàng kia vẫn còn nhấm nháp. Chàng nhìn Khiết Văn bằng cặp mắt van nài. Nàng bật cười khúc khích:

    - Tướng công cứ nhìn thiếp chăm chăm như vậy làm sao thiếp nuốt nổi?

    Tuấn Hạc bâng khuâng vì nụ cười kia đầy ma lực và thân thiết. Mặt nàng loang lỗ những vết nam đen, nhưng môi đỏ như son, hàm răng đều đặn và trắng như ngọc, khi nàng cười, ánh mắt đầy vẻ đắm say, tình tứ. Chàng bâng khuâng nhớ đến Tiểu Băng.

    Khiết Văn thấy dáng điệu ngơ ngẩn của chàng, giận dỗi nói:

    - Thôi được! Thiếp chẳng thèm ăn nữa! Nếu không kể ngay chắc tướng công sẽ thầm trách thiếp Khiết Doanh bật cười:

    - ôn đại thư quả là tốt phúc !

  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Nói xong, nàng giật mình. Nhưng thấy Tuấn Hạc không có phản ứng, nàng thở phào nhẹ nhõm. Thực ra, câu này của nàng mang một ý khác Khiết Văn liếc nàng rồi kể:

    - Ngày ấy, ôn tiểu thư bị Chấp Pháp Nhị Tướng bắt về Nghi Xương, ép gả cho Tích Ngọc Lang Quân Trương ân Tuấn của Thiên Sư Giáo. Tiểu thư thà chết cũng không chịu.

    Giáo chủ bèn phong tỏa võ công của nàng và cho uống Thất Hồn Tán, đưa lên thuyền hoa.

    Nào ngờ, trong đêm trước lúc thuyền rời bến, giáo chủ phu nhân đã bí mật cho nàng uống một viên Thiên Độc Đan và giải tỏa kinh mạch. Bà còn dặn dò Tiểu Băng cách hành động để thoát thân. Vì vậy, khi thuyền hoa sắp đến Đại Vân Hà thì tiểu thư vung chướng đả thương Trương ân Tuấn rồi lao mình xuống nước tẩu thoát. Thiếp cũng phóng theo nhưng hai bên lạc nhau nên không biết tiểu thư đã đi đâu Phần thiếp trở về ôn Châu nương tựa biểu thúc là cha của Khiết Doanh. Nhưng thiếp có thể đoan chắc với tướng công rằng Thánh Nữ vẫn còn sống.

    Tuấn Hạc mừng rỡ nói:

    - Nàng còn sống là đủ rồi ! Ta sẽ lặn lội khắp vùng Giang Nam để tìm cho được.

    Khiết Văn bỗng hỏi:

    - Thiếp có nghe Thánh Nữ kể về nghi án Văn gia bảo. Chẳng hay tướng công đã giải quyết đến đâu rồi?

    Chàng thở dài :

    - Gia phụ đã thề độc rằng ông không phải là Văn Chí Khải, và hết mực yêu thương. Vì vậy, chuyện này tạm gác lại. Hiện nay, Văn gia bảo đang bị Thiên Độc Giáo uy hiếp, ta phải tìm người giúp đỡ mới mong địch lại. Hà nhị nương đã bảo ta đến cầu hôn thiếu môn chủ Biến Hình Môn nhưng ta không hề có ý ấy. Ta chỉ lợi dụng chuyến đi này để tìm Tiểu Băng và Vạn Bác Hồ Tinh mà thôi.

    Khiết Doanh bẽn lẽn hỏi:

    - Nếu chàng không chịu cưới Cổ Doanh Doanh thì làm sao cứu được Văn gia bảo?

    Chàng thương nạp được bọn thiếp, sao không nhận luôn thiếu môn chủ? Sau này, ôn đại thư chắc cũng lượng thứ cho tướng công.

    Tuấn Hạc khẳng khái đáp :

    - Ta gặp hai nàng là do duyên nợ, ràng buộc bởi chữ nhân. Còn việc cầu hôn để lợi dụng, Văn mỗ không làm được.

    Chàng chợt thắc mắc :

    - Ta quên chưa hỏi vì sao bọn cao thủ Thiên Sư Giáo lại vây đánh hai nàng?

    Khiết Văn sửng sốt:

    - Họ là người của Thiên Sư Giáo đấy sao?

    Gã họ Trương này quả là đốn mạt.

    Khiết Doanh tiếp lời:

    - Cách đây hơn chục dặm có một trấn lớn tên gọi Thanh Tuyền. Trưa nay, chị em thiếp đi ngang qua đấy thì gặp đoàn nhân mã của Tích Ngọc Lang Quân. Nghe nói gã mang lễ vật đến cầu hôn thiếu môn chủ bổn môn. Khi thấy thiếp gã buông lời chọc ghẹo. Bọn thiếp nhẫn nhịn bỏ đi, nhưng không ngờ gã lại cho người đuổi theo để vây bắt.

    Khiết Văn nghiêm giọng:

    - Tướng công không muốn kết duyên với Cổ Doanh Doanh cũng chẳng sao. Tuy nhiên, chàng phải giết gã họ Trương kia. Trước là báo thù cho Thánh Nữ, sau là phá vỡ âm mưu thống trị của Thiên Sư Giáo. Nếu họ liên kết được với Biến Hình Môn thì giang hồ sẽ đại loạn ôn tiểu thư đã từng nói với thiếp về dã tâm của Trương giáo chủ.

    Tuấn Hạc tư lự:

    - Ta sẽ vì Tiểu Băng mà giết cái gã bại hoại ấy Còn chuyện võ lâm ta không dám lạm bàn.

    Đã đầu canh một mà trời vẫn mưa như trút nước. Gió lạnh lùa qua khung cửa không cánh của tòa phế miếu.

    Tuấn Hạc đi tìm thêm củi nhưng trong miếu chẳng còn khúc gỗ nào. Đống lửa thoi thóp kia không đủ sưởi ấm cho hai nữ nhân.

    Thế mà hai nàng còn rủ nhau ra tắm rửa dưới trời mưa. Thay áo xong, họ run lên cầm cập Tuấn Hạc cau mày trách:

    - Hai nàng mới thọ thương, dầm mưa làm gì?

    Khiết Doanh thẹn thùng đáp:

    - Bọn thiếp là nữ nhân, không chịu được cảm giác dơ bẩn.

    Họ trải áo choàng xuống nền gạch nằm ôm nhau mà run rẩy. Tuấn Hạc cũng ngã mình xuống bên kia đống lửa. Chàng luyện thần công đến lớp thứ bảy, cơ thể tự điều hòa lúc nào cũng bình thường, nên không nghe lạnh, Tiểu Bạch nhảy tót lên xà gổ cì nó chẳng bao giờ chịu nằm dưới đất.

    Tuấn Hạc không ngủ được, thao thức suy nghĩ mãi. Chàng nghe tiếng rên của hai nữ nhân chạnh lòng nhớ đến kỹ niệm ngày nào.

    Tiểu Băng đã đem tấm thân nóng ấm để sưởi cho chàng. Nàng quả là người nhân hậu hiếm có Nay hai nàng kia đã là tỳ thiếp của chàng, chẳng lẽ chàng lại để họ chịu cảnh giá lạnh như thế? Cơ thể họ, chàng đã đụng chạm đến thì còn giữ lễ nghi làm gì nữa?

    Chàng lưỡng lự một lúc rồi bước sang phân khai hai người, chui vào giữa mà nằm. Họ thẹn thùng và sợ hãi vì tướng chàng đã động tình.

    Tuấn Hạc xiết hai nàng vào thân mình rồi trầm giọng:

    - Ta gặp Tiểu Băng năm mới mười lăm tuổi, nhỏ bé và yếu đuối. Nàng đã không nề hà lễ giáo, ôm ta vào lòng mà sưởi ấm. Hai nàng yên tâm ngủ đi.

    Nói xong, chàng đẩy chân khí lưu chuyển khiến cơ thể nóng rực lên. Hai nàng nghe ấm áp rụt rè ôm lấy chàng mà thiếp đi.

    Nhưng Khiết Doanh chỉ nhắm mắt mà không ngủ. Tử đôi mắt đẹp, gióng lệ sung sướng ứa ra. Nàng vẫn tự hào mình là người quốc sắc, vì hoàn cảnh mà lấy Tuấn Hạc nên lòng khiêm cưỡng. Nay thấy thái độ nhân hậu, quân tử của chàng, nàng vô cùng ngưỡng mộ. Mấy ai có thể ôm người ngọc trong lòng mà không nổi tà tâm?

    sáng ra, cơn mưa đã tạnh, vần thái dương ló dạng, chiếu những tia nắng ấm qua cửa miếu, như cười cợt hai nữ nhân kia. Họ đã thức giấc, thẹn thùng nhìn nhau.

    Khi ba người rửa mặt xong thì Tiểu Bạch đã đi săn về Nó vác một con lươn non - đã bị bẻ gãy cổ - quăng xuống sàn miếu, thọt khét để kể công lao.

    Hàn Khiết Văn mừng rỡ, xách ra sau miếu.

    Nơi đây có chiếc lu mẻ miệng đầy ắp nước nhờ cơn mưa đêm qua. Nàng vung kiếm chặt đứt hai đùi sau, cạo lông, rửa sạch rồi đem vào miêu.

    Tuấn Hạc và Khiết Doanh đã phá hai cánh cửa sổ cuối cùng. Đêm qua, họ không dám đốt vì sợ mưa gió tạt vào. Số gỗ ấy vừa đủ để nướng hai đùi lươn.

    Khiết văn vừa chia thịt vừa hỏi:

    - Tướng công chưa kể cho bọn thiếp nghe việc chàng rơi xuống vực thẳm mà không chết?

    ôn tiểu thư đã tốn biết bao nước mắt vì tướng chàng đã vong mạng.

    Tuấn Hạc bèn kể lại cho họ nghe. Kể cả cuộc chiến với Thiên Độc Giáo ở Động Đình Hồ .

    Khiết Văn mừng rỡ nói:

    - Không ngờ chàng lại là truyền nhân của Cuồng Kiếm Thần Y. Bọn thiếp may mắn được gởi thân cho bậc anh hùng.

    Chàng ngượng ngùng đáp :

    - Ngoài võ công, ta chẳng có chút kinh nghiệm giang hồ nào cả. Vì vậy, khi đối phó với bọn tà ma sẽ chịu thiệt thòi.

    Khiết Doanh nổi hào khí:

    - Bọn tiện thiếp tuy bản lãnh không bằng tướng công nhưng lại thông thuộc mọi thủ đoạn của phe hắc đạo, sẽ tận lực giúp chàng.

    Chỉ cần về đến Văn gia bảo, thiếp sẽ nói cho chàng biết Thiết Long kia là giả hay thực.

    Tuấn Hạc đang rầu rỉ vì nghi án, nghe vậy lòng hoan hỉ vô cùng.

    ăn xong, họ khởi hành ngay, chiều hôm ấy đã đến ôn Châu. Hai nàng dẫn Tuấn Hạc vào một trang viện đồ sộ ở cửa Tây. Họ bảo chàng đứng ngoài chờ một lát, để họ vào thưa chuyện với Hàn lão gia trước đã.

    ôn Châu nằm ở sát bờ biển Triết Giang nên khí hậu mát mẻ, cây cối xanh tươi. Tuấn Hạc đứng trên chiếc cầu gỗ sơn son trước cửa trang viện, thướng lãm phong cảnh.

    Cơ ngơi này không có chiêu bài và được xây dựng theo một thiết kế lạ mắt. Tường vây chỉ cao đến ngực người lớn nhưng chung quanh lại có hào nước rộng hai trượng, thả sen và súng.

    Làn nước trong vắt, nhìn rõ cả đàn cá chép đỏ hồng đang bơi lội. Cây cầu gỗ là lối xuất nhập duy nhất.

    Cạnh bờ hào nước là hàng dương liễu rủ tóc soi bóng, khiến cảnh vật càng thêm phần mơ mộng.

    Bỗng từ sau bức tường phía Nam, một chiếc thuyền con xuất hiện. Trên ấy có một cô gái tuổi độ mười bốn, mười lăm, tóc thắt bím. Tấm áo ngắn màu hồng nhạt kia chứng tỏ nàng không phải là tỳ nữ.

    CÔ gái vừa chào, vừa thò cánh tay trắng nuốt, hái những đóa sen, miệng ngâm nga một điệu hát vui.

    Chợt phát hiện Tuấn Hạc đang đứng tựa lan can cầu nhìn mình. CÔ gái thẹn thùng cúi mặt cho thuyền quay lại.

    Tuấn Hạc nổi tính trẻ con, ngâm bài Việt Nữ Tử của Lý Bạch:

    "Da Khê Thái liên nữ.

    Kiến khách trạo La Hồi.

    Tiếu nhập hà hoa khú.

    Đương tu bất xuất lai.".

    Tạm dịch:

    "Gái da khê hái sen.

    Thấy khách, hát quay thuyền.

    Cười nấp vào sen lánh.

    Thẹn thùng bước chăng lên.".

    CÔ bé đi khuất rồi mà tiếng ca còn vọng lại.

    Vừa lúc Hàn Khiết Văn bước ra đến, nàng vui vẻ hỏi:

    - Tướng công cao hứng vì sắp được gặp nhạc phụ hay sao mà ngâm nga như vậy?

    Tuấn Hạc ngượng ngùng chẳng biết đáp sao.

    Chàng lầm lùi đi theo nàng vào trang.

    Qua hết cây cầu nhỏ là một sân gạch rộng rãi, hoa cảnh rất nhiều. Cuối sân là một tòa khách sảnh hai tầng đồ sộ, đường nét giản dị, thanh thoát chứ không màu mè, cầu kỳ của đám trọc phú. Tuấn Hạc thầm ngưỡng mộ nhân cách của Hàn trang chủ.

    Vào đến nơi, Tuấn Hạc thấy một lão nhân áo xanh lục tuần. Tướng mạo phương phi, tuấn tú, râu ba chòm đen nhánh, dù tóc đã hoa râm.

    Cạnh ông là một phụ nhân tuổi sáu mươi, tóc bới cao, cài cây Phụng Đầu Thoa bằng bạc.

    (Quy định của triều Minh: Thứ dân không được dùng vàng trang sức trên đầu.) Gương mặt của phụ nhân này rất giống Hàn Khiết Doanh, chỉ già dặn hơn. Còn Hàn Khiết Doanh thì đứng sau lưng bà ta.

    Hàn Khiết Văn hớn hở giới thiệu:

    - Thúc thẩm! Đây chính là ân nhân của bọn hài nhi.

    Tuấn Hạc kính cẩn vòng tay:

    - Tiểu sinh Văn Tuấn Hạc, bái kiến trang chủ và phu nhân.

    Hai người ấy chăm chú nhìn chàng, nở nụ cười hòa dịu, Hàn trang chủ cười ha hả:

    - Nghe danh nhị công tử đã lâu, không ngờ nay lại được hạnh ngộ. Lão phu đã nghe hai liễu đầu kia cáo tường sự việc, lòng vô cùng hoan hỉ. Giá mà công tử hạ cố, gọi ta và bà lão đây một tiếng nhạc phụ, nhạc mẫu thì còn gì sung sướng bằng.

    Tuấn Hạc bối rối đến ngẩn người, chàng ấp úng thưa:

    - Bẩm trang chủ! Tiểu sinh biết ơn lòng ưu ái của nhị vị. Nhưng . . . chưa tìm được ôn Tiểu Băng, kẻ hèn này không dám . . . !

    Khiết Doanh đỏ mặt đỡ lời:

    - Cha! Hài nhi đã nói tận tường, sao người còn ép uổng tướng công làm gì?

    Hàn lão cười xòa:

    - Phải phải ! Ta vì quá nóng ruột nhận rể quý nên lỡ lời.

    Hàn phu nhân khen ngợi :

    - Văn công tử chung tình như vậy, quả là thế gian hiếm có. Xin mời an tọa.

    Tiểu vế được dọn ra, chủ khách thù tạc vui vẻ Vợ chồng trang chủ càng lúc càng mến mộ chàng công tử văn võ song toàn.

    Khi bàn đến việc giết Tích Ngọc Lang Quân Trương ân Tuấn để trả thù cho Tiểu Băng, Hàn trang chủ cau mày bảo:

    - Đây là địa phận của Biến Hình Môn, họ Trương đến cầu hôn được coi là thượng khách.

    Nay công tử giết y thì chẳng phải đã giá họa cho Cổ môn chủ hay sao? Thiên Sư Giáo có công đầu trong cuộc chiến đánh đuổi quân Mông Cổ, được triều đình sủng ái nên thế lực vô cùng hùng mạnh, Biến Hình Môn chẳng cách nào địch lại được. Vì vậy, theo ý lão phu là công tử hãy tạm gác ân oán, tìm cách hạ nhục để y bẽ mặt bỏ chạy khỏi ôn Châu là đủ roi.

    Tuấn Hạc cung kính vâng lời. Hàn Khiết Văn bỗng góp ý:

    - Hiện nay cả Thiên Độc Giáo và Thiên Sư Giáo đều nuôi mộng xưng hùng, sao ta không bày kế ly gián để họ tương tranh? Nhị phu nhân của Thiên Độc Giáo - Giang Lăng Thần Nữ - có một người con riêng tên là Doãn Tự Vân Gã hai mươi sáu tuổi và được phong là thiếu giáo chủ, tính tình háo sắc không kém họ Trương. Nếu Văn công tử hóa trang làm Doãn Tự Vân mà đánh đuổi Trương ân Tuấn thì hai giáo phái kia sẽ hiểu lầm nhau. Lúc ấy, Thiên Độc Giáo sẽ chẳng còn thời gian mà uy hiếp Văn gia bảo nữa.

    Hàn trang chủ vỗ đùi khen phải. ông bảo gia nhân đi điều tra xem Tích Ngọc Lang Quân hiện đang ở đâu. Gã đã đến được mấy hôm nhưng lại đưa thiếp hẹn đến ngày sáu tháng bảy này mới đế bái kiến và bàn chuyện hôn sự - ngày tốt nhất trong tháng - nghĩa là còn hai hôm nữa.

    Trong thời gian chờ đợi, gã thản nhiên thăm thú các kỹ viện ở ôn Châu. Gã cho rằng Biến Hình Môn không dám từ chối và sẽ rất vinh hạnh được kết thông gia với Thiên Sư Giáo.

    (Quả thực là Thiên Sư Giáo - tức Đạo giáo - đã có công rất lớn với Chu Nguyên Chương.

    Mấy chục vạn nông dân nghèo khổ - theo họ Chu kháng nguyên - đều là tín đồ Thiên Sư Giáo. Bản thân giáo chủ Trương Tỳ Vân cũng là cận tướng của họ Chu. Khi đại công cáo thành, Chu Nguyên Chương lên ngôi thiên tử liền ban chức và phong chức tước cho những thủ hạ dầy công hạn mã. Nhưng Trương giáo chủ hiểu rõ bản chất tiểu nhân hẹp hòi, phản phúc của Chu Nguyên Chương nên không nhận sắc phong. ông chỉ lãnh mấy vạn lượng vàng về Giang TÔ xây dựng tổng đàn, phát triển Thiên Sư Giáo.

    Sau này, Minh Thái TỔ lần lượt giết những người đã từng theo mình dựng nghiệp. Lúc ấy, bá quan mới khâm phục đầu óc của Trương giáo chủ. Tổng đàn của Thiên Sư Giáo nằm ở huyện Cú Khúc, tỉnh Giang Tô. Vào thời Nam triều đạo sĩ Đào Hồng Canh đã tưng xây đạo quán trên núi Cú Khúc. Tương truyền trước đó - đời Tây Hán Canh Đế - ba anh em Mao Doanh, Mao Cổ, Mao Lý đã tu luyện thành tiên ở núi này, nên được tôn là tổ sư. Gọi chung là Tam Mao Chân Quân. vì vậy núi Cú Khúc cũng được đổi thành Tam Mao Sơn (gọi tắt là Mao Sơn) phái này còn có tên là Thượng Thanh Phái.

    Trương Tỳ Vân đến núi Cú Khúc, xây một tòa Đạo Cung thật vĩ đại, gọi là Thượng Thanh Cung. Trên đỉnh - chung quanh sườn núi là hàng trăm kiến trúc để các giáo đồ thân tín cư ngụ. Họ là những cao thủ Đạo Giáo đã từng theo ông chiến đấu với quân Nguyên.

    Tối hôm ấy, bọn gia nhân về báo rằng Tích Ngọc Lang Quân đang trọ trong Chiết Giang đệ nhất khách điếm, cùng với mười bốn thủ hạ.

    Hàng ngày, họ Trương la cà khắp chốn yên hoa, lâu quá, đổ trường. Muốn gặp chẳng phải chuyện khó.

    Sáng hôm sau, Hàn Khiết Doanh dựa theo bức họa chân dung - mà Khiết Văn đã vẽ ra - hóa trang Tuấn Hạc thành thiếu giáo chủ Thiên Độc Giáo Doãn Tự Vân.

    Bản thân hai nàng cũng dịch dung thành hai gã hán tử nhỏ thó, tháp tùng Tuấn Hạc.

    Gần trưa, trinh sát cho biết Trương ân Tuấn đang ăn nhậu trên tòa ôn Châu đại tửu lâu.

    Ba người lập tức khởi hành, ngay hông Tuấn Hạc giờ đây có thêm một thanh trường kiếm.

    Bạch Viên phải ở nhà để bảo toàn lai lịch.

    Để đóng vai họ Doãn, Tuấn Hạc phải cạo sạch bộ râu mép cho đúng dung mạo của gã.

    BỘ y phục hai màu trắng xanh diêm dúa và chiếc quạt lụa nan xương tạo ra vẻ hào hoa phong nhã. Gia dĩ Doãn Tự Vân cũng rất anh tuấn Ba người ung dung xuống ngựa, bước lên lầu trên của tửu lâu. Họ chọn một bàn cách bọn Trương ân Tuấn không xa. Họ Trương đang mãi mê chọc ghẹo ả ca nhi xinh đẹp nên không để ý đến.

    Aû ca nhi đang ôm trong lòng một cây đàn tỳ bà có bốn dây. Loại đàn này được truyền từ Thiên Trúc vào miền Bắc Trung Hoa từ thời nhà Tấn. Và đến thời Bắc triều thì truyền xuống miền Nam. Còn có một kiểu đàn Ngũ Huyền tỳ bà nữa, nhưng đã thất truyền từ đời Tống.

    So dây xong, ả gầy đàn, hát bài Tử Sơn Hoa Tử của Nam Đường Trung Chủ Lý Cảnh:

    "Hàm Thiều Hương Tiêu, Thúy Diệp tàn.

    Tây phong sầu khởi lục ba gian.

    Hoàn dữ thiêu quang cộng tiều tụy.

    Bất khan khan.

    Tế vũ mộng hồi kê tái viễn.

    Tiêu lâu xung triệt ngọc sinh hàn.

    Đa Thiều lộ Châu hà hạn hạn.

    Y lan can.".

    (Dịch thơ) "Hương nhạt sen phai lá lục tàn.

    Gió thương sầu gợn bóng hồ lan.

    Cùng bóng Thiều quang chung ảm đạm.

    Ngắm khân đang.

    Mưa nhỏ mộng hồn về ải quốc.

    Lầu con, sênh lạnh, tiếp tiêu ngừng.

    Bấy nhiêu nước máy bao nhiêu hận.

    Dựa lan can.".

    Giọng hát của nàng trong trẻo nhưng ảo não, diễn tả được hết nổi buồn vời vợi của lời thơ, nhưng Tích Ngọc Lang Quân lại không thích như vậy gã cau mày mắng:

    - Đang lúc bổn công tử vui vẻ, khoan khoái thế này, sao ngươi lại hát cái bài buồn như đưa đám đó?

    Tuấn Hạc đang tán thướng tài nghệ của ả ca nhi nên phật lòng trước thái độ dung tục của họ Trương. Chàng lạnh lùng hừ nhẹ, nhưng khi lọt vào tai Trương ân Tuấn thì như tiếng sấm. Gã giật mình và điên tiết nhìn quanh rồi hậm hực hỏi:

    - Kẻ nào vừa làm bẩn tai ta vậy?

    Tuấn Hạc đứng lên, ra vẻ khinh miệt:

    - Hạng phàm phu tục tử như ngươi làm sao thướng thức được cái thần diệu của thi nhạc?

    Bài Tử Sơn Hoa Tử kia chính là kiệt tác văn chương thời nhà Đường. Tài cầm ca của vị cô nương đây cũng rất tài hoa, thế mà ngươi còn chê bai, thật đáng gọi là lỗ tai trâu.

    Tích Ngọc Lang Quân giận tím mặt, nhưng là người gian hiểm nên gã phải hỏi lai lịch trước đã :

    - Ngươi hãy xưng danh tính, kẻo không lại chết oan.

    - Ta là thiếu giáo chủ Thiên Độc Giáo Doãn Tự Vân.

    Trương ân Tuấn ngửa cổ cười vang:

    - Té ra ngươi là em vợ hụt của ta! Bổn công tử là thiếu môn chủ Thiên Sư Giáo đây.

    câu nói của gã đánh động mối thương tâm trong lòng Tuấn Hạc. Vì gã mà Tiểu Băng trôi dạt phương nào không rõ. Chàng cười nhạt:

    - Ngươi chỉ là tên dâm tặc bại hoại, đâu có dây mơ rễ má gì với bổn thiếu gia?

    Trương ân Tuấn đỏ mặt vì nhục nhã, quát vang :

    - Giết hắn cho ta.

    Mười bốn tên thủ hạ của gã lập tức xông đến vây chặt và tấn công.

    Hai nữ lang chẳng hề khách sáo, tung ngay đòn sát thủ. Khiết Văn rải độc phấn và Khiết Doanh rắc kim vàng. Đòn phủ đầu này đã loại ngay được bốn tên.

    Tuấn Hạc thì rút kiếm lao vào hai gã trước mặt. Chiêu Bất Kiến Bạch Đầu - trong pho Cuồng Kiếm - để lại hai lỗ trên huyệt Mi Tâm của chúng. Cả hai ngã xuống và chết khi tóc vẫn còn xanh.

    Trương ân Tuấn chứng kiến chiêu kỳ tuyệt kia, giật mình kinh hãi. Nhưng gã cũng rất tự hào về bản lãnh của mình nên xông vào ngay.

    Nếu không, đối phương sẽ giết chết thủ hạ của gã Tích Ngọc Lang Quân cũng là một tay kiếm sĩ lợi hại. Thanh kiếm của gã cũng hoa lệ, diêm dúa như chủ nhân. VỎ kiếm bằng bạc, cẩn chín viên lam ngọc. Chuôi kiếm bằng vàng khối, khắc hoa văn tinh xảo. Lưỡi kiếm được đúc bằng thép Miến Điện, tỏa ánh xanh biếc. Với cây Kim Ngân bảo kiếm này, Trương ân Tuấn đã giết gần trăm cao thủ, dương danh thiên hạ - khi tuổi mới ba mươi.

    Gã được chân truyền pho Thái Thanh Kiếm Pháp của Trương giáo chủ, từ ngày xuất đạo chưa hề gặp đối thủ xứng tay nên không khỏi mục hạ vô nhân.

    Trương ân Tuấn gầm lên, bốc cao hơn trượng, bủa lưới kiếm xuống đầu đối phương.

    Tuấn Hạc không đón chiêu kiếm mà lao thẳng vào hàng ngũ bọn thuộc hạ. Tả thủ vẻ nửa chiêu Tam Dạ Hàn Tinh. Chướng kình xuyên qua màn kiếm quang, giáng vào ngực một tên.

    Đồng thời, mũi kiếm lướt nhanh vào cổ họng tên thứ hai.

    Tích Ngọc Lang Quân mất mục tiêu, sa xuống lao vào lưng kẻ dịch. Thanh kiếm xé gió, phát ra những tiếng ngân nho nhỏ.

    Tuấn Hạc quay ngoắt lại đón chiêu, tiếng thép chạm nhau chan chát. Họ Trương nghe hổ khẩu tê chồn, kinh ngạc không hiểu vì sao đối phương kém mình nửa con giáp mà công lực lại thâm hậu hơn. Gã cắn răng vận toàn lực, đem hết sở học ra thi thố.

    Tuấn Hạc cũng phấn khởi dùng pho Cuồng Kiếm mà đối phó. Đây là dịp để chàng rèn luyện thêm kiếm pháp. Trong bốn năm ở dưới vực thẳm, chàng dùng cành cây thay kiếm nên không phát huy được hết uy lực của pho tuyệt học. Nay gặp kẻ có kiếm pháp cao cường, là dịp để chàng thử nghiệm.

    Mười tám chiêu của pho Cuồng Kiếm có thể biến hóa thành ngàn chiêu và chiêu nào mãnh lực cũng tựa cuồng phong và nhanh như thiểm diện. Càng đánh, chàng càng thông thuộc, và ngược lại, họ Trương càng tơi bời thiểu não.

    Búi tóc trên đầu gã đã bị tiện đứt, bộ trường bào màu lam bàng gấm Hồ Châu thượng hạng bị rách nát te tua.

    Sáu tên thủ hạ sợ thiếu giáo chủ bỏ mạng, liền để hai tên cầm chân Khiết Văn và Khiết Doanh, còn bốn tên xông vào hỗ trợ cho họ Trương. Họ là cao thủ có hạng trong Thiên Sư Giáo nên võ công rất cao siêu. Tuổi của họ đều ở khoảng ngũ tuần nên công lực cũng chẳng kém. Chính vì vậy mà Tuấn Hạc rơi vào thế hạ phong.

    Bọn Thiên Sư Giáo dùng phép xa luân chiến, thay phiên nhau tấn công và không đón những đòn trực diện. Khi Tuấn Hạc xông đến phía ai thì kẻ ấy lùi xa và đám còn lại sẽ tập kích.

    Lúc đầu, vì thiếu kinh nghiệm hỗn chiến nên Tuấn Hạc lúng túng. Nhưng cuối cùng, chàng cũng tìm ta cách giải phá. Chàng thi triển pho khinh công Thiên Tinh Quá Hải đến độ chót, lướt nhanh như bóng u linh thành một vòng tròn. Thân hình chàng chỉ còn là cái bóng mờ.

    Bất chợt, chàng nhảy xổ vào một gã. Chiêu Đông Phong Đoạn Liễu chỉ gồm có chín kiếm ảnh, uy hiếp thượng bàn đối phương. Gã kia vội múa tít trường kiếm chống đỡ nhưng chỉ chạm vào ma ảnh. Kiếm của Tuấn Hạc âm thầm lướt ngang hông gã, không chờ kẻ địch ngã xuống, chàng vung tả thủ giáng một chướng vào ngực y. Cả thân hình to lớn ấy, văng vào gã thứ hai. Đồng thời, chàng đã nương theo cái xác ấy mà tiến lên. Tên hán tử rậm râu này đang bối rối vì đâm trứng đồng bọn liền bị một kiếm vào mắt phải.

    Trương ân Tuấn căm hận gầm lên, ôm kiếm lăn xả vào chiêu kiếm của gã cực kỳ hiểm độc.

    Tuấn Hạc đang ung dung đẩy bạt trường kiếm của tên hán tử gầy gò, chân lực dồn vào thân kiếm, chỉ còn một nửa nên thất thế. Kim Ngân kiếm rạch một đường dài trên ngực Tuấn Hạc.

    Trương ân Tuấn đang đắc ý thì chàng trợn mắt quát vang, xuất chiêu NỘ Phát Xung Quan.

    Đúng như tên gọi, đường kiếm chứa đầy nộ khí nên mãnh liệt vô song, chiêu thức đơn giản nhưng đối phương không sao cản nổi. Trương ân Tuấn trứng liền ba kiếm vào ngực, rú lên đau đớn rồi tung mình qua cửa sổ mà đào tẩu.

    Ba thủ hạ của gã cũng phóng theo.

    Khiết Doanh ném cho gã tiểu nhị - đang núp dưới gầm bàn trong góc lầu - nén bạc mười lượng rồi gọi Tuấn Hạc và Khiết Văn rút mau.


  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 5

    Ma cung nhất xuất khuynh thiên hạ
    Bán dạ đông thành hỏa hựu minh
    Về đến Hàn gia trang, Khiết Doanh mau mắn kể lại trận chiến. Hàn trang chủ hồi hộp hỏi Tuấn Hạc:

    - Thương thế của Tích Ngọc Lang Quân có nặng lắm không?

    Chàng mỉm cười :

    - Trang chủ yên tâm, gã không chết được đâu Nhưng phải tĩnh dưỡng ít nhất là một tháng Tuấn Hạc đứng lên cáo từ:

    - Tiểu sinh còn phải truy tầm hạ lạc của Vạn Bác Hồ Tinh Cù Sở Hòa, xin được phép đi ngay.

    Hàn phu nhân hỏi lại:

    - Thế công tử định đi đâu để tìm lão hồ ly ấy?

    Tuấn Hạc thở dài bảo:

    - Tiểu sinh cũng chẳng có manh mối gì cả.

    Hàn trang chủ vui vẻ nói:

    - Công tử yên lòng! Tiểu nữ Hàn Diệu Anh đã cùng bọn gia nhân ra đi từ tờ mờ sáng. Chỉ nội trong ngày nay sẽ có tin tức của Cù trướng lão Khiết Văn cười khúc khích:

    - Tiểu nha đầu ấy đã chịu ra tay thì lo gì không tìm được họ Cù?

    Tuấn Hạc ngơ ngác, không hiểu họ đang nói về ai? Khiết Doanh giải thích:

    - Diệu Anh là nhị muội của thiếp. Tuy còn nhỏ nhưng tinh minh như quỷ sứ, khinh công tuyệt thế và giỏi nghề truy tung. Nó chính là cô bé hái sen mà chàng đã gặp hôm qua.

    Tuấn Hạc ngượng ngùng nhớ lại mình đã ngâm thơ chọc ghẹo Diệu Anh.

    Mãi đến chiều, Hàn nhị tiểu thư mới vế tới.

    Người nàng ướt đẫm mồ hôi và tóc phủ bụi đường nên phải tắm gội xong mới ra báo cáo.

    Diệu Anh mệt mỏi buông mình xuống ghế cạnh Hàn phu nhân rồi nói bâng quơ:

    - Tử sáng đến giờ, bôn ba mấy trăm dặm đường cực khổ biết bao nhiêu. Thế mà chẳng có ai rót cho chung trà nào cả.

    Khiết Doanh cười khúc khích:

    - Văn tướng công hiền như đất, thế mà nhị muội cũng chọc ghẹo được ư?

    Diệu Anh chu mỏ :

    - Ai bảo công tử dám ngâm thơ chọc ghẹo tiểu muội trước. Y chỉ ngốc thôi chứ không hiền đâu.

    Hàn phu nhân vội mắng con gái:

    - Anh nhi nên giữ lời. Sao dám chê Tuấn Hạc là ngốc tử?

    Dường như nàng rất sợ mẫu thân nên cười hì hì :

    - Hài nhi chỉ nói đùa thôi !

    Rồi nàng nghiêm giọng:

    - Hài nhi đã hỏi thăm bọn hóa tử Cái Bang.

    Họ cho biết Vạn Bác Hồ Tinh đã có mặt ở trấn Thủy Sơn - cách đây hai trăm dặm. Nhưng ngay trong đêm đó, lão đã mất tích một cách bí ẩn Hài nhi đến tận nơi điều tra thì phát giác một lá cờ nhỏ cắm trên xà nhà.

    Nàng lấy từ tay áo ra một lá cờ vải màu đen, hình tam giác, cán nhỏ bằng cây đũa, hai đầu nhọn hoắc. Trên nền vải thêu hai chữ Luân Hồi. Và mặt kia là hình một gương mặt đang cười Đường thêu có màu đỏ của máu, trông rất ghê rợn.

    Hàn trang chủ giật mình than:

    - Không ngờ Luân Hồi Ma Cung lại tái xuất giang hồ. Phen này võ lâm không tránh khỏi cảnh diệt vong.

    Tuấn Hạc hỏi ngay:

    - Bẩm trang chủ! Chẳng hay lai lịch bang hội này ra sao?

    Hàn trang chủ nhấp hớp trà rồi kể:

    - Luân Hồi Ma Cung xuất hiện vào thời Nguyên Văn Tôn - cách nay hơn sáu chục năm.

    Hành tung của họ cực kỳ thần bí và thủ đoạn cũng vô cùng ác độc. Hàng trăm cao thủ võ lâm đã bị giết hoặc mất tích. Nếu trên lá cờ thêu một gương mặt đang khóc thì nạn nhân chẳng thể nào sống sót. Còn căn cứ của họ thì chẳng ai biết nơi nào. Khi Minh Thái TỔ đánh đuổi được quân Mông Cổ thì Ma Cung cũng im hơi lặng tiếng. Cù lão bị họ bắt đi, đúng là lành ít dữ nhiều.

    Tuấn Hạc bi phẫn nói:

    - Tiểu sinh sẽ huy động anh em Cái Bang trên cả nước để tìm cho được tọa lạc của Ma Cung.

    Hàn trang chủ trầm ngâm một lúc lâu mới noi:

    - Thực ra thì công tử muốn tìm họ cũng chẳng khó, chỉ nguy hiểm mà thôi. Năm xưa, lệnh sư - Cuồng Kiếm Thần Y Công Tôn Quang Nguyệt - đã từng giết chết mười mấy sứ giả Ma Cung. Trong đó có cả ái tử của Luân Hồi Đế Quân. sau đó, lệnh sư ẩn cư nơi nào không rõ nên oán thù chưa liễu kết. Nay công tử cứ vỗ ngực xưng là đệ tử của Cuồng Kiếm tiền bối và dương danh cho thiên hạ biết, chẳng bao lâu sau, Ma Cung sẽ lần đến ngay.

    Hàn Khiết Văn sợ hãi nói:

    - Một mình tướng công sao có thể đối phó với Ma Cung?

    Hàn lão nghiêm sắc mặt:

    - Tuấn Hạc không thể tránh khỏi việc đối đầu với Ma Cung. Chính họ đã giết Văn Vi Trần - ông nội của y. Còn về lực lượng thì họ Văn không đơn độc. Tiền nhiệm môn chủ Biến Hình Môn cũng là nạn nhân của môn chủ. Khi nghe tin này, họ sẽ dốc hết nhân lực cùng Tuấn Hạc báo thù. Ngày mai ta sẽ dện tổng đàn Biến Hình Môn để bàn bạc với họ Cổ.

    Mờ sáng hôm sau, Hàn lão lên ngựa rời trang viện, mãi gần trưa mới trở lại. Lão gọi chàng vào thư phòng, trao cho một chiếc trâm cài tóc bằng đồng đen, đầu lớn tròn như viên bi, khắc nổi những hoa văn rắc rối. ông nghiêm nghị nói:

    - vật này là tín phù của Biến Hình Môn.

    Người ngoài không nhận ra nhưng đối với đệ tử của họ Cổ thì rất quen thuộc và quý giá.

    Công tử dắt trâm này lên tóc, họ sẽ tìm đến liên hệ và chịu sự sai xử. Môn đồ Biến Hình Môn giỏi nghề biến hóa nên rất đắc lực. Đao pháp của họ cũng khá lợi hại. Lúc nào cũng có người bám theo để bảo vệ công tử. Néu muốn sai phái gì, chỉ cần đưa tay sửa trâm, sẽ có người xuất hiện. Cuộc chiến với Ma Cung vô cùng nguy hiểm, mong công tử cẩn trọng giữ mình.

    Tuấn Hạc vòng tay cảm tạ rồi cài trâm lên búi tóc.

    Trong tiệc tống hành, Tuấn Hạc hỏi Hàn lão:

    - Bẩm trang chủ! Xin hỏi lộ số võ công của Luân Hồi Đế Quân và bọn sứ giả Ma Cung?

    Hàn trang chủ vuốt râu tư lự:

    - về bản thân của lão Đế Quân thì không rõ vì ngay dung mạo cũng chưa ai thấy qua. Còn bọn sứ giả, may nhờ lệnh sư giết được mấy tên nên võ lâm mới biết chúng mặc hắc y, mang mặt nạ gỗ. Võ công tương đương với các cao thủ nhất lưu. Bọn này xử dụng trường kiếm và kiếm pháp có nguồn gốc từ bán đảo Cao Ly.

    Dua vào tuổi tác của đứa con bị giết có thể đoán năm nay Đế Quân đã hơn bát thập.

    Tuấn Hạc điềm đạm nói:

    - Đã có anh em Biến Hình Môn theo hỗ trợ, tiểu sinh không hề sợ bọn sứ giả, nhưng chỉ sợ liên lụy đến Văn gia bảo. Một mình Thiên Độc Giáo cũng đã mệt rồi.

    Hàn Khiết Văn cười bảo:

    - Nếu thế, tướng công cứ mang mặt nạ, dùng thân phận khác mà đối phó với Ma Cung.

    Mọi người đồng khen phải. Tuấn Hạc hỏi lại:

    - Việc gây sự chú ý của bọn Ma Cung thì sao? Chẳng lẽ lại vác chiêu bài trên vai mà bổn tẩu?

    Hàn trang chủ gật gù:

    - Công tử chớ lo, Cổ môn chủ có cho lão phu biết rằng vừa nhận được võ lâm thiếp của Thiếu Lâm Tự. Thông báo về đại hội bầu minh chủ - tổ chức ở núi Hoa Sơn - ngày rằm tháng chín năm nay. Công tử cứ đến đấy mà dương oai diệu võ, ắt cả giang hồ đều biết mặt, biết tên.

    Tuấn Hạc vẫn còn băn khoăn:

    - Nhưng còn an nguy của Văn gia bảo thì sao?

    Hàn phu nhân đỡ lời chồng:

    - Cổ môn chủ sẽ cho hai trăm cao thủ tiềm phục quanh bảo. Hơn nữa, Tổng Binh Lư Lăng là con cháu trong nhà họ Cổ, sẽ hết lòng bảo vệ Văn gia bảo.

    Tuấn Hạc cảm kích nói:

    - Xin trang chủ cho tiểu sinh gởi lời tri ân đến Cổ môn chủ.

    Diệu Anh bật cười khanh khách:

    - úi chà! Ngốc ơi là ngốc!

    Khiết Doanh vội bịt miệng cô bé lại.

    Hàn phu nhân lạnh lùng nói:

    - Anh nhi hay nói càn, ta chiếu gia pháp phạt con tưới hoa một tháng.

    Diệu Anh tái mặt bật khóc :

    - Hài nhi sẽ xin lỗi cùng công tử, mong mẫu thân tha tội.

    Nàng rời khỏi ghế, quỳ ngay xuống chân Tuấn Hạc, run rẩy nói:

    - Tiểu muội thất ngôn, mong công tử lượng thứ.

    Nhớ đến vườn hoa rộng mấy mẫu ở sao hậu viện, chàng không khỏi tội nghiệp cô bé. Tuấn Hạc liền khẩn cầu Hàn phu nhân:

    - Diệu Anh tuổi còn non dại, thích chọc ghẹo người khác chứ không phải có ý khinh mạn.

    Mong phu nhân nể mặt tiểu sinh mà bỏ qua cho. Hơn nữa . . . tiểu sinh mới xuất đạo, chưa hề có kinh nghiệm nào, nhiều lúc cũng cảm thấy mình ngốc nghếch.

    Vẻ thành thực của chàng khiến mọi người phì cười. Phu nhân vui vẻ bảo:

    - Công tử đã có lời xin, ta sẽ tha cho Anh nhi Diệu Anh mừng rỡ, dương cặp mắt to tròn nhòa lệ, nhìn chàng với vẻ tri ân rồi bật thốt:

    - Công tử tuy ngốc nhưng rất đáng yêu.

    cả nhà lại ôm bụng cười.

    Hàn Khiết Văn nói với giọng áy náy:

    - Thiếp phải đi Hồ Bắc thăm thân mẫu nên không thể theo tướng công. Xong việc, thiếp sẽ đến Hoa Sơn ngay.

    Tuấn Hạc không hiểu tại sao trái tim mình ngày càng hướng về phía nữ lang mặt nạm này? Chàng lộ vẻ lo lắng:

    - Nếu vậy, ta sẽ cho Tiểu Bạch hộ tống nàng.

    Có nó bên cạnh nàng, ta mới yên tâm được.

    Khiết Doanh cười khúc khích:

    - Tướng công quá quan tâm đến biểu thư, khiến thiếp sinh lòng đố ky.

    Tuấn Hạc ngượng ngùng không đáp. Khiết Văn đỡ lời:

    - Tướng công thấy ta xấu xí nên thương hại đấy thôi Doanh muội ghẹo chàng làm gì?

    Ngươi được theo tướng công đi Hoa Sơn, chưa thỏa chí hay sao?

    Tuấn Hạc bỗng nói:

    - Doanh muội hãy vì ta mà dẫn đám cao thủ Biến Hình Môn đến Lư Lăng. Ta sẽ viết một phong thư giới thiệu nàng là thê thiếp, cha mẹ ta sẽ rất vui mừng. Trong thời gian ở Văn gia bảo, nàng hãy điều tra xem phụ thân ta có mang mặt nạ hay không?

    Gần giữa tháng tám, có một chàng thư sinh đủng (rỉnh Vào thành Hợp Phì - Huy Châu.

    Chưa đến Hoa Sơn nên Tuấn Hạc không cải trang Gương mặt anh tuấn, trưng hậu kia khiến các nàng xuân nữ trên đường phố phải trầm trồ mơ tướng.

    Tuấn Hạc dừng cương trước tòa Hòa Giang đại tửu lâu trao cương ngựa cho gã tiểu nhị rồi xách tay nải hành lý lên lầu.

    Trên này đã có sẵn gần trăm hào kiệt võ lâm.

    Họ cũng đang trên đường đến núi Hoa Sơn - Sơn Tây để tham dự đại hội bầu tân minh chủ.

    Võ lâm thanh bình nên việc triệu tập hảo hán tứ phương rất dễ dàng. Thanh Long Tử đã qui tiên, cần phải bầu người để thay thế.

    Hơn nữa, mười bốn năm nay mới có được một thịnh hội tưng bừng thế này. Anh hùng Tam Sơn Ngũ Nhạc vui vẻ lên đường.

    Tuấn Hạc chọn một bàn cạnh lan can để có thể ngắm nhìn phong cảnh. Tuy không hóa trang nhưng râu mép, râu cảm xanh đen, khiến gương mặt chàng khác hẳn đi.

    ăn vài bát cho vững bụng, Tuấn Hạc róc rượn nhâm nhi. Chàng không phải là người hay rượn nhưng cũng uống đôi chén để tăng nhã hứng.

    Lúc này, vùng trưng du sông Hoài đã chớm vào thu, không khí mát mẻ, dìu dịu. Cảnh thu không ảm đạm như miền Bắc nhưng cũng phảng phất nét u buồn.

    Tuấn Hạc thở dài nghĩ đến Tiểu Băng. Lạ thay, thấp thoáng cạnh bóng hình xưa là nữ lang mặt nam đen xấu xí. Khiết Doanh tuy kiều diễm nhưng lại mờ nhạt hơn.

    Trong lúc dong ruồi trên đường thiên lý, chàng đã có thời gian để suy nghĩ về duyên nợ của mình. Dẫu rằng hai nữ nhân kia đã tự nguyện giao ước như vậy, nhưng liệu chàng có thể vì sự từ chối của Tiểu Băng mà phụ rẫy họ hay không? Chàng cũng thầm thắc mắc, không hiểu vì sao vợ chồng Hàn trang chủ lại chấp nhận một hôn ước bấp bênh, bất công như vậy?

    Chàng tự hiểu mình sẽ không thể bỏ Khiết Doanh và Khiết Văn. Tiểu Băng là bậc kỳ nữ tất sẽ thông cảm cho hoàn cảnh của hai kẻ hồng nhan bạc mệnh mà tha thứ cho chàng.

    Những kỹ niệm bốn năm trước hiện về. Hơi ấm của Tiểu Băng trong đêm đông lạnh giá như còn đọng lại trong cơ thể chàng. Và da thịt ngọc ngà của hai thiếu nữ kia cũng hiện ra, Tuấn Hạc đỏ mặt, không dám nghĩ vẩn vơ nữa.

    Chàng đảo mắt nhìn quanh, lắng nghe những lời đàm luận của hào khách. Một chàng trai áo màu tro, mặt mũi tinh ranh, đang trợn mắt, phùng mang, nhưng lại nói rất nhỏ như đang đề cập đến một vấn đề trọng đại. Với thính lực của Tuấn Hạc thì trong vòng năm trượng, dẫu tiếng lá rụng cũng không thoát khỏi. Gã tiểu tử ấy nói:

    - Chư vị không tin ư? Cứ đến xem thử khắc rõ. Tòa nông trang ấy chỉ cách đây có hơn ba chục dặm về phía Đông. Thật là khủng khiếp khi thấy hàng trăm người mang xiềng xích mà làm việc. Lại còn bị đánh đập rất tàn nhẫn.

    Tiểu đệ còn nhận ra một số nhà sư và đạo sĩ.

    Một người tỏ ý nghi ngờ:

    - Có thể đó là một trại giam tù của triều đình thì sao?

    Gã áo tro cãi ngay:

    - Tiểu đệ đoan chác là không phải. Bọn canh gác đều mặc hắc y, mang mặt nạ gỗ, thân thủ nhanh nhẹn phi thường, chẳng thể là quân triều đình được Tuấn Hạc hân hoan vì không ngờ lại may mắn tìm ra cơ sở của Luân Hồi Ma Cung.

    Chàng muốn hỏi kỹ địa điểm mà không biết làm sao? Liền nhớ đến toán cao thủ Biến Hình Môn. Tuấn Hạc đưa tay lên sửa trâm, lập tức, gã lái buôn mập mạp ở bàn mé tả bước đến, ngồi xuống trước mặt chàng. Gã thì thầm:

    - Bẫm công tử! Thuộc hạ là Đồng Túc Luân, đệ tử của Cổ môn chủ, xin chờ sai bảo.

    Tuấn Hạc đoán gã ít nhất cũng phải trên bốn mươi. Chàng áy náy:

    - Sao Đồng huynh lại xưng hô khách sáo như vậy? Tại hạ hổ thẹn vô cùng.

    Họ Đổng thản nhiên đáp:

    - Môn chủ đã truyền nghiêm lệnh rằng công tử được coi như là thiếu môn chủ bổn môn!

    Mọi người phải tôn kính và đem mạng sống ra mà bảo vệ.

    Tuấn Hạc ngỡ ngàng trước lòng sũng ái của môn chủ Biến Hình Môn. Chàng đành chấp nhận vai trò, không tranh cãi nữa:

    - Thôi được ! Đồng huynh hãy cho ta biết gã áo tro ấy là ai, và có cách nào nhờ gã đưa ta đến tòa nông trang bí mật ấy hay không?

    Họ Đồng cười đáp:

    - Tiểu tử ấy mà Tam Thúc Thố âu Tiểu Du, đạo chích khét tiếng vùng Giang Tả (Tả ngạn sông Hoài) Thuộc hạ sẽ bắt hắn đưa đường cho công tử.

    Đồng Túc Luân đứng lên, bước vào nhà vệ sinh Lát sau, gã bước ra với một dung mạo khác không phải một lái buôn hiền lành mà là một đại hán râu rồng uy mãnh, oai phong. Trên bộ võ phục màu xanh thẫm là đai lưng da to bản - cắm đầy những mũi phi đao. Tuấn Hạc ngồi quay về hướng ấy mới biết đại hán là họ Đồng. Nãy giờ không có ai vào tiểu tiện cả.

    Đại hán nện gót, bước đến cạnh bàn của Tam Thúc Thố. âu Tiểu Du tái mặt gọi:

    - Đồng đại ca! Tiểu đệ nhớ đại ca đến héo gây Đám hào khách cùng bàn cũng hoan hỉ hô hoán:

    - Không ngờ VÔ ảnh Đao lại giá hạ nơi này.

    Xin mời các hạ an tọa.

    Đồng Túc Luân vui vẻ từ tạ:

    - Cảm ơn chư vị ! Tại hạ bận việc riêng, không có thời gian thù tạc.

    Gã quay sang bảo Tam Thúc Thố:

    - Ta có chuyện muốn nói với ngươi.

    Tiểu Du líu ríu đứng lên, đi theo họ Đồng.

    VÔ ảnh Đao là thủ lĩnh của đám đạo tặc khu vực sông Hoài, tính tình quang minh, thác lạc nên rất được trọng vọng. Tam Thúc Thố vốn là thủ hạ của họ Đồng.

    Một hào khách cười vang:

    - Phải chang gã thỏ ba chân này đã đắc tội với Đồng huynh?

    VÔ ảnh Đao đi ngang qua bàn Tuấn Hạc liền nháy mắt ra hiệu. Chàng hiểu ý, gọi tiểu nhị tính tiền rồi đi theo họ.

    Ba người lên ngựa, đi về hướng Đông thành.

    Đến một cách rừng vắng Đồng Túc Luân dừng cương. âu Tiểu Du nhẩy xuống, quỳ trên mặt cỏ mà lạy lục:

    - Đại ca tha mạng! Tử ngày ấy đến nay, tiểu đệ đã thề không đánh bạc nữa. Số vàng trăm lượng ấy, tiểu đệ hứa sẽ hoàn lại dần.

    Túc Luân trừng mắt:

    - Ngươi dám đem đồng tiền xương máu của anh em ném vào chiếu bạc là không còn muốn sống nữa rồi. Nhưng may cho ngươi là có người đã để ý đến chút tài mọn của ngươi. Vì vậy ta sẽ bỏ qua chuyện cũ. Ngươi hãy ra mắt chủ nhân đi.

    Tam Thúc Thố nhìn về phía hướng chỉ của họ Đồng, nhận ra chàng thư sinh râu rìa, da trắng như ngọc, đang đến gần.

    VÔ ảnh Đao vòng tay nói:

    - Vâm công tử! âu Tiểu Du là người tinh minh, lanh lợi, xin người cho gã theo hầu hạ.

    Tam Thúc Thố thấy thủ lĩnh của mình hết lòng tôn kính chàng thư sinh, kinh hãi sụp xuống lạy tạ:

    - âu Tiểu Du mong công tử thương nạp, thuộc hạ nguyện phơi gan trải mật, một dạ trưng thành !

    VÔ ảnh Đao nghiêm khắc nói:

    - Đây là Văn Tuấn Hạc, nhị công tử của Văn gia bảo. Nếu ngươi không hết lòng hầu hạ thì đừng trách ta tàn nhẫn.

    Tiểu Du gượng cười:

    - Đại ca yên tâm, tiểu đệ chỉ có một cái đầu, đâu dám để nó rơi mất.

    Đồng Túc Luân quay sang nói với Tuấn Hạc:

    - Thuộc hạ bận điều động anh em và cũng không tiện lộ diện. Tên tiểu quỉ này sẽ tháp tùng công tử. Bọn thuộc hạ sẽ âm thầm bám theo.

    Gã cúi đầu chào rồi lên ngựa đi ngược về thành. Tuấn Hạc hết lòng khâm phục tổ chứ của Biến Hình Môn. Cao thủ của họ phân tán khắp giang hồ, dương danh bằng mặt giả, chẳng ai biết lai lịch thật.

    Chàng đi ngay vào vấn đề :

    - Nhiệm vụ của ngươi là đưa ta đến nông trang bí mật mà ngươi đã tình cờ phát hiện.

    Tiểu Du chòi hề hề:

    - Việc ấy không khó, xin mời công tử.

    Hai người lên ngựa phi mau. Hơn hai canh giờ sau, Tiểu Du rẽ trái, vào một con đường mòn trong khu rừng rậm. Được vài dặm, gã dừng ngựa, nhảy xuống và nói:

    - Chỉ còn hơn dặm nữa là đến, chúng ta dấu ngựa ngoài này, nếu không sẽ bị những trạm canh phát hiện.

    Giấu ngựa xong, Tam Thúc Thố vận khinh công lướt đi. Gã có danh hiệu như vậy cáng là nhờ có thân pháp nhanh nhẹn. Tính gã lại tinh ranh, quỷ quyệt nên muốn thủ tài chàng thư sinh này. Nào ngờ, chàng ta bình thản bám theo, ung dung như người đi dạo mát.

    Tiểu Du nổi lòng háo thắng, chạy bán sống bán chết mà vẫn không bỏ rơi được tại hạ. Gã phục chàng sát đất, bỏ ý định tranh tài.

    Quả nhiên, chung quanh nông trang có những trạm gác ngầm. Nhưng Tam Thúc Thố lợi dụng bóng chiều âm u, đưa Tuấn Hạc vượt qua.

  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Cuối cùng, hai người vào đến bức tường phía Đông của nông trang. Gọi là nông trang là vì Tiểu Du đã thấy những cánh đồng trồng một loại cây lạ thực ra khu vực này chỉ rộng độ mười mẫu đất. Vì vậy mới có tường bao chắc chắn, cao hơn trượng; Tiểu Du mở túi bảo bối lấy ra một sợi dây đan bằng tơ. Tuy chỉ nhỏ bằng mút đũa nhưng rất bền chắc. Gã tung đầu có móc sắt lên đỉnh tường rồi trèo lên.

    Tuấn Hạc nắm lấy sợi dây, giật mạnh để mượn sức rồi bốc thẳng lên đầu tường, chẳng cần phải leo trèo. Tiểu Du tròn mắt kinh ngạc.

    Gã đâu biết rằng chàng có thể bay nhảy không khác gì một con vượn. Chỉ cần một điểm tựa yếu ớt là đủ Hoàng hôn buông xuống, đám tù nhân uể oải vác cuốc xẻng trở về khu lán gỗ tồi tàn. Chỉ có đám tăng nhân và đạo sĩ là còn phân biệt được nhờ y phục. Tất cả đều lem luốc, dơ bẩn và rách rưới.

    Họ gồm khoảng hơn trăm người, còn đám hắc y thì khoảng độ năm mươi. Chúng vung roi đánh đập đám tù nhân như đánh súc vật. Tuấn Hạc nghe lửa giận dâng trào.

    Chàng quan sát những luống cây gần nhất và nhớ lại một đoạn trong Y Kinh. Thì ra đây là giống cây Anh Túc, ở vùng biên giới Miến Điện. Trái của nó cho nhựa có tác dụng giảm đau và gây hưng phấn. Tuy nhiên, loại nhựa này gây nghiện. Đây cũng là dược liệu trong một số phương thuốc trị thương.

    Chàng hạ giọng bảo Tiểu Du:

    - Ngươi trở ra ngoài đưa VÔ ảnh Đao và các cao thủ vào đây.

    Gã cười đáp :

    - Họ đã vào cả rồi. Tổng số là ba mươi người .

    Nói xong, gã đưa tay lên vẩy. Một người áo đen bịt mặt lướt đến, bám dây trèo lên. Nhìn dáng vóc có thể nhận ra đây là VÔ ảnh Đao.

    Họ Đồng nhìn vào trong, ước lượng tình hình rồi hỏi:

    - Công tử tính sao?

    chàng gượng cười :

    - Ta không có chủ ý gì, mong các hạ chỉ giáo.

    - Theo thiển ý thuộc hạ thì chúng ta hãy chờ trời tối hẳn, triệt hạ đám phòng vệ bên ngoài rồi hãy đột nhập.

    Tuấn Hạc gật đầu, VÔ ảnh Đao trở xuống, điều động anh em áp sát các trạm canh.

    Lúc trời tối hẳn, gã trở lại báo cáo:

    - Bẩm công tử! Mười trên ở vòng ngoài đã bị tiêu diệt.

    Tuấn Hạc thầm khen thủ đoạn của đám đệ tử Biến Hình Môn. Họ hành động êm thắm đến mức quỷ thần cũng chẳng hay biết.

    Đồng Túc Luân nói thêm:

    - Theo thuộc hạ võ đoán thì bọn này chỉ là hạng thấp kém chứ không phải là sứ giả Ma cung. Bản lãnh của chúng còn thua xa thuộc hạ.

    Tuấn Hạc yên lòng, ra lệnh tiến vào. Thủ hạ họ Đồng đều trang bị dây móc như âu Tiểu Du nên vượt tường chẳng khó khăn gì.

    Cả bọn âm thầm lướt về phía dãy nhà gỗ khang trang Đây là nơi ăn ở của bọn mặt gỗ.

    Chúng đang xoay trần dùng cơm tối nên không trở tay kịp. Toán đao thủ Biến Hình Môn tàn sát không thương tiếc, bất kể việc chúng không có vũ khí. Lợi hại nhất là VÔ ảnh Đao, mười tám mũi phi đao kia giết đủ mười tám tên.

    Nhung từ căn nhà kho gần đấy, bốn gã mặt nạ gỗ lướt đến như bay. Chỉ nhìn thân pháp cũng biết họ là thủ lĩnh nông trang này.

    VÔ ảnh Đao cùng ba thủ hạ xông đến chặn đường Chỉ một chiêu đầu, họ Đồng đã phải lùi bốn bước, còn ba người kia thọ thương. Tuấn Hạc kinh hãi nhập cuộc ngay. Chàng cầm thanh kiếm mà VÔ ảnh Đao trao cho - lúc đột nhập - xuất chiêu Tịch Dương VÔ Ngữ. Kiếm quang tỏa rộng nhưng âm thầm, không hề phát ra tiếng động. Mục tiêu của chàng là hai gã mé tả.

    Chúng thấy đường kiếm của chàng vô lực, cười nhạt đón chiêu. Nào ngờ mũi kiếm của chàng lặng lẽ xuyên qua lưới kiếm, đâm vào cơ thể chúng. Tuấn Hạc dồn đủ mười hai thành công lực vào chiêu kiếm nên sức công phá rất mạnh.

    Xương lồng ngực hai đối thủ bị đâm gấy, thấu đến phủ tạng.

    Chính bản thân Tuấn Hạc cũng không ngờ chiêu này lại lợi hại như vậy. Chàng phấn khởi xông vào hai gã còn lại, chúng đã biết sợ bên chia nhau tấn công tả hữu, trước sau.

    Phép đánh viên thủ này giúp chúng duy trì được một lúc lâu. Tuấn Hạc gặp đối thủ càng khôn ngoan lại càng thích thú. Chàng muốn bố xung sự thiếu thốn về kinh nghiệm chiến trường và nhân dịp này tìm hiệu lộ số kiếm thuật của Ma Cung.

    Khi nhận ra chúng chỉ biết có mười hai chiêu căn bản, Tuấn Hạc quyết định kết liễu trận đấu Chàng vung tả thủ giáng một chướng cách không vào tên trước mặt, gã cử chướng tiếp chiêu, bị đẩy lùi gần trượng. Chàng liền quay ngoắc lại, nhẩy xổ vào gã sau lưng, lần này là chiêu Mai Liên Xung Địch, kiếm khí rít lên vi vu như tiếng sáo, kiếm ảnh mịt mù như sương chiều. Đối phương kinh hãi múa tít trường kiếm, có chặn đường kiếm lại. Nhưng chỉ hoài công vô ích, đường kiếm của Tuấn Hạc vẫn phăng phăng ập đến, lướt ngay yết hầu của gã.

    Tên còn lại phóng kiếm cản đường Tuấn Hạc rồi lao vào bóng đêm.

    Tuấn Hạc không truy sát vừa ra hiệu cho Tam Thúc Thố âu Tiểu Du đuổi theo. Chàng hy vọng sẽ tìm ra vị trí của Ma Cung.

    Lúc này, bọn đệ tử Ma Cung đã bị giết sạch.

    VÔ ảnh Đao dẫn bọn thủ hạ lùng sục khắp nơi nhưng không còn mống nào. Gã phát hiện phía sau có hai chục con ngựa và mười cổ xe song mã, liền báo cho Tuấn Hạc biết.

    Chàng hỏi lại:

    - Các hạ định đưa những nạn nhân này đến đâu tĩnh dường?

    - Bầm công tử, cách đây vài dặm, có một cơ sở mật của bổn môn. Chúng ta sẽ chuyển họ về đấy Tuấn Hạc yên lòng, cầm đuốc chạy sang khu lán gỗ của tù nhân. Chàng mừng rỡ nhận ra Vạn Bác Hồ Tinh Cù Sở Hòa. Nhưng cũng như những người còn lại, họ Cù đờ đẫn, dương đôi mắt lạc thần, mê muội. Lão không nhớ gì cả.

    chàng thở dài quay ra, đám thủ hạ của chàng đã bắt kế xong mười cổ xe. Họ vào đưa các nạn nhân lên.

    Đoàn nhân mã rời nông trại, đi về cơ sở mật.

    Đó là một tòa trang viện rộng rãi, nằm giữa những thửa ruộng kê mầu mỡ.

    Đêm ấy, Tuấn Hạc chẩn mạch và xem triệu chứng của Vạn Bác Hồ Tinh. Chàng đối chiếu với Y Kinh và đoán rằng họ bị đầu độc bởi một loại mê dược - có gốc từ cây Anh Túc.

    Chàng suy nghĩ đến sáng mới tìm ra một dược phương, đưa cho VÔ ảnh Đao vào thành hốt thuốc.

    Tòa trang viện này là của một phú nông họ Tạ. ông ta chịu ơn Đồng Túc Luân nên tự nguyện biến nhà mình thành cơ sở của Biến Hình Môn.

    Tạ lão tuổi đã cao nhưng xem ra vẫn còn sung sức. Đứa con nhỏ nhất của lão mới lên ba.

    Tổng cộng lão có đến hai vợ và chín người con.

    Gần trưa, họ Đồng mang thuốc về, hai cô con gái của Tạ trang chủ hăng hái đốt lò sắc thuốc. Họ rất vui lòng được phục vụ chàng công tử anh tuấn và nho nhã kia. BỘ râu tâm và vết sẹo trên gò má trái của chàng chẳng hề làm họ sợ, vì ánh mắt và nụ cười rất hiền hòa.

    Chiều đã buông mà Tam Thúc Thố âu Tiểu Du vẫn chưa về. VÔ ảnh Đao nóng ruột:

    - Công tử! Thuộc hạ sẽ đưa anh em búa ra truy tìm gã họ âu. Không chừng hắn lại đâm đầu vào một sòng bạc nào đấy.

    Tuấn Hạc mỉm cười chấp thuận. Căn cứ này rất an toàn nên VÔ ảnh Đao kéo quân đi hết.

    Thuốc đã sắc xong, Tuấn Hạc cho Cù lão uống và ngồi chờ xem diễn biến.

    Trời tối hẳn, mảnh trăng non chênh chếch rọi qua song, nghe tiếng vó câu tử xa vọng lại, chàng cứ ngỡ bọn VÔ ảnh Đao về đến.

    Nhưng lát sau, đoàn ngựa kia dừng lại chứ không tiến thẳng vào trang. Một linh cảm xấu khiến lòng bức rức, tuy thiếu lịch duyệt nhưng đầu óc mẫn tiệp, Tuấn Hạc nhận ra ngay quái sự Chàng xách kiếm chạy ra ngoài, nhẩy lên tàng cây cao nhất mà quan sát.

    Nhờ ăn được linh quả mắt hàng sáng gấp bội người thường nên nhìn thấy những bóng đen thấp thoáng trong ruộng kê, tạo thành vòng vây hình cách cung, tiến đến Tạ gia trang.

    Có lẽ phe đối phương không biết rằng VÔ ảnh Đao đã đưa thủ hạ đi cả nên mới cẩn thận như vậy Tuấn Hạc kinh hãi nhẩy xuống chạy nhanh vào trong, nghiêm giọng hỏi Tạ trang chủ:

    - Phía sau có đường thoát thân nào không?

    Cường địch đã ở phía trước.

    Tạ lão biến sắc, run rẩy đáp:

    - Thưa có, sau vườn là con rạch nhỏ, có sẵn thuyền.

    - Vậy trang chủ hãy gom góp những của cải quý giá nhất, đưa gia quyến thoát ra ngay.

    Tạ lão là một nông dân già cẩn trọng, khi dính dáng vào việc giang hồ là đã dự phòng có ngày hôm nay. Vàng bạc, châu ngọc lúc nào cũng nằm sẵn trong bọc - để có thể đào tẩu thật nhanh. Chỉ nửa khắc sau, gia đình họ Tạ đã thoát hiểm. Họ chỉ đem theo được một mình Hồ Tinh.

    Tuấn Hạc thở dài nhìn đám nạn nhân đang ngủ. Chàng xách kiếm chạy ra cổng trang, quát lớn:

    - Luân Hồi Ma Cung! Bổn công tử đã chờ đợi lâu lắm rồi.

    Phe đối phương thấy mình bị lộ, đứng cả lên, đuốc trong tay bật sáng. Tổng cộng có đến gần trăm tên.

    Chúng đều đeo mặt nạ gỗ như nhau nhưng có một chút khác biệt. Tám tên đi đầu có thêm một ngôi sao bạc trên trán. Giống như bốn gã thủ lĩnh nông trang mà chàng đã gặp hôm qua.

    Có lẽ họ là Luân Hồi Sứ Giả? Và đặc biệt, có một người cao lớn, không mang dấu hiệu ngôi sao mà là một vành trăng khuyết bàng vàng.

    Vai vế của lão chắc khá cao. Chòm râu hoa râm đã nói lên rằng lão ta chẳng thể dưới sáu mươi.

    Lão nhân ấy cất giọng khàn khàn:

    - Ngươi dám giết môn nhân của bổn cung là không muốn sống nữa rồi.

    Chàng lạnh lùng đáp:

    - Ta còn muốn lấy cả chiếc đầu của Luân Hồi Đế Quân nữa đấy!

    Đã nghe tên sứ giả thoát chết nói về bản lãnh của Tuấn Hạc nên lão ta nổi tính hiếu kỳ:

    - Ngươi là ai mà dám đối đầu với bổn cung?

    Tuấn Hạc thản nhiên đáp:

    - Bổn nhân là Tiêu Dao thư sinh Công Tôn Độc Hành, truyền nhân của Cuồng Kiếm Thần Lão già chấn động, ngửa cổ cười vang:

    - Hay lắm! Bổn cung truy tầm lão quỷ Cuồng Kiếm đã nhiều năm mà không thấy. Nay ngươi sẽ thay lão ta mà trả món nợ năm xưa.

    Một tên sứ giả từ trong trang chạy ra bẩm báo:

    - Khải bẩm Tây điện chủ, trong trang không có ai, ngoài đám Lạc Hồn Nhân.

    Lão điện chủ gằn giọng:

    - Thế mà gã cẩu tặc họ âu lại bảo rằng có đến hơn ba mươi cao thủ.

    Tuấn Hạc choáng váng, không ngờ Tam Thúc Thố đã bị bắt. Chàng hơi yên lòng khi gã không khai báo danh tánh của chàng ra.

    Lão Tây điện chủ quay sang bảo Tuấn Hạc:

    - Nếu ngươi chịu đầu phục bổn cung và khai ra chỗ ẩn nấp, hoặc chôn thây của lão Cuồng Kiếm thì bổn điện chủ sẽ tha chết cho.

    Tuấn Hạc mỉm cười :

    - Đừng vọng tướng vô ích, chính lão mới là người phải xin tha mạng đấy.

    Dứt lời, chàng vung kiếm lao đến tấn công.

    Sáu gã sứ giả xông ra chân đánh.

    Tuấn Hạc là người thông minh tuyệt thế, thân thể cao lớn, tay dài chạm gối - rất thích hợp với người luyện võ. Chàng đã có dịp chạm trán với bọn sứ giả ở nông trang Anh Túc nên nắm được đôi nét về kiếm thuật Ma Cung. Nhờ vậy chàng không hề bối rối trước sự hợp công này.

    Thấy tên mé hữu dùng một chiêu rất quen thuộc. Tuấn Hạc đoán được thế thức, liền thọc mũi kiếm qua chỗ sơ hở, đâm thủng yết hẩu đối phương.

    Chàng thi triển pho khinh công Thiên Tinh Quá Hải, cộng với thuật nhào lộn của Hỏa Nhãn Bạch Viên mà di chuyển trong vòng vây.

    Lại thêm một tên nữa bị đâm thủng ngực.

    Tây điện chủ vô cùng kinh hãi khi nhận thấy chàng tìm ra sơ hở của kiếm thuật Ma Cung.

    Lão vội quát lớn:

    - Lập kiếm trận!

    Bốn tên sứ giả vội di chuyển theo phương vị tứ tượng phối hợp nhịp nhàng. Kiếm trận đã phát huy hiệu dụng, kìm hãm tốc độ di chuyển của Tuấn Hạc và dồn chàng vào chỗ bị động.

    Nhưng chàng còn một ưu thế nữa mà chúng không hề biết. Tuấn Hạc gầm lên, dồn nửa nội lực vào hậu tâm rồi nhảy xổ vào đối thủ trước mặt. Ba sứ giả còn lại vung kiếm đâm vào lưng chàng. Chúng tướng chàng phải bỏ ý định ban đầu Không ngờ, chàng vẫn thản nhiên xuất chiêu Cân Động Trường Thiên. Mục tiêu bị chặt bay đầu dù lưng chàng cũng trứng ba kiếm.

    Những kẻ đâm sau lưng đang đắc ý bỗng sững sờ nhận ra mũi kiếm như chạm vào da voi Tuấn Hạc quay ngoắc lại, đánh chiêu Hoàng Diệp Diêu Linh. Ba gã sứ giả đang ngơ ngẩn nên chẳng thể tránh được chiêu kiếm kỳ tuyệt Mỗi tên lãnh một kiếm vào ngực, hồn du địa phủ.

    Tuấn Hạc luyện chiêu kiếm này đã đến mức xuất thần Chàng có thể đâm trứng mười tám chiếc lá mà Tiểu Bạch tung vào người.

    Lão Tây điện chủ thấy cả sáu sứ giả mạng vong, lòng thầm khiếp sợ. Nhất là thấy cơ thể chàng không tổn thương vì đao kiếm. Nhưng lão già dặn kinh nghiệm nên cũng biết chân khí chàng đã hao hụt rất nhiều.

    Lão ta quát vang như sấm, ôm kiếm lao vào, khí thế mãnh liệt phi thường. Công lực lão ta có vẻ thâm hậu hơn Tuấn Hạc.

    Chàng tự lượng sức mình, xuất chiêu Lâm Ly Thúy Mặc, thân hình chàng nghiêng ngã, lảo đảo như người say, trường kiếm vẻ nên những đường ngoằn ngoèo rất lạ lùng - như gã say đang múa bút. Một luồng kiếm kình âm nhu đón lấy đường kiếm và mũi kiếm uy hiếp tám đại huyệt trên thân trước của đối phương.

    Kiếm ý của chiêu này là dĩ nhu thắng cương, đáng gọi là tuyệt học thế gian. Lão điện chủ bị chặn lại, lửa giận bừng bừng, vung kiếm đánh dồn. Lão không sử dụng những chiêu của bọn sứ giả mà thi triển một loại kiếm thuật cao cường hơn hẳn.

    Được hơn trăm chiêu, Tuấn Hạc nghe tay tê chồn, công lực giảm sút. Đối phương cũng biết vậy nên tấn công ráo riết, không để chàng thoát ra. Lão mỉm cười âm hiểm, đánh một chiêu cực kỳ quỷ dị và hung hãn. Kiếm quang loang loáng dưới ánh trăng ngà và tỏa khí lạnh như sương đêm.

    Tuấn Hạc mệt mỏi nên đường kiếm không nhanh như mong muốn, bị lão đâm thủng ngực phải. Nội lực hao hụt nên Thiết Thạch Thần Công không còn bảo vệ được da thịt chàng nữa.

    Tuấn Hạc nhẩy lùi hơn trượng, điểm huyệt chỉ huyết. Lão Tây điện chủ cười khinh ngạo:

    - Ta tướng ngươi đã luyện thành Kim Cương Bất Hoại, không ngờ cũng chỉ là gỗ mục!

    Dứt lời, lão ập đến tấn công. Tuấn Hạc nén đau đánh chiêu Tịch Dương VÔ Ngã. Đặc điểm của chiêu kiếm này là không hề phát ra chút kình lực hoặc âm thanh nào, vì vậy đối phương xem thường.

    Nhưng thực ra, Tuấn Hạc cũng chẳng còn đủ sức để đánh hết chiêu, chàng liền biến hóa đi một chút. Thay vì vươn tay, đưa mũi kiếm lên qua chỗ sơ hở, chàng lại phóng mạnh. Nhờ thế, lão ác ma không ngờ đến. Lão kinh hãi lách ngay, bị kiếm cắm vào bả vai tả.

    Tuấn Hạc chỉ chờ có thế, tung mình về phía sau, phá vòng vây mà đào tẩu. Bọn đệ tử Ma Cung vội múa kiếm chặn lại. Nhưng đôi tay ma quái của chàng vươn dài, phất vào cổ tay hoặc khéo léo vỗ đẩy những thanh kiếm chạm vào nhau.

    Đấy chính là thủ pháp Lan Hoa Điểm Thạch trong pho Tiêu Dao Thất Thập Nhị Thủ!

    Thân ảnh chàng lại vô cùng linh hoạt, biến hóa nên dễ dàng thoát khỏi vòng vây. Chàng chạy ngược vào trang viện, ra phía sau, nhảy xuống con rạch, lặn một hơi dài mới trồi lên, ẩn dưới bụi cây cạnh bờ.

    Lão điện chủ đã được thuộc hạ băng bó xong, lão bật cười ghê rợn:

    - Tiễu tử kia đã trứng một mũi Độc Kiếm, chắc chắn chẳng thể thoát chết được, còn tìm gã làm gì nữa? Các ngươi hãy phóng hỏa đốt trụi nơi này, thiêu hủy luôn đám Lạc Hồn Nhân vô dụng kia đi.

    Tuấn Hạc chết điếng người. Dòng lệ thương tâm trào ra khóe mắt. Chàng có ra mặt cũng không cứu được họ.

    Ngọn lửa bốc cao, sáng rực cả một vùng.

    Tuấn Hạc trợn mắt nhìn ngọn lửa, nghiến răng kèn kẹt, chàng thề sẽ giết sạch bọn Luân Hồi Ma Cung.

    Bọn mặt gô lên ngựa rút lui. Tuấn Hạc cũng không đủ can đảm ở lại nhìn cảnh chết chóc, lên bờ nhắm hướng Bắc mà đi.



  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 6

    Hắc xà hưu diện
    Minh chủ vô nhân đương
    Chàng đã uống Thiên Độc Đan nên không thể chết vì chất độc trên mũi kiếm, và nhờ lọ linh đan chế từ cây Tử Diệp Bạch Liên nên vết thương không hoành hành.

    Lúc trời mờ sáng, chàng đến được một sơn trang nhỏ dưới chân ngọn núi đá - cách Tạ gia trang ba chục dặm.

    Thấy trong nhà chưa ai thức dậy, Tuấn Hạc nhảy lên chạc ba cây cổ thụ cạnh tường, ngồi vận khí hành công.

    Nửa canh giờ sau, chàng khôi phục được sáu thành công lực nhưng vết thương trên ngực phải rất đau đớn. Vầng dương lấp ló đàng Đông và dưới khu vướng kia có một hán tử tam tuần cao lớn đang luyện võ. Trong tay gã là một cây roi đen bóng, dài hơn nửa trượng.

    Phép đánh nhuyễn tiên của gã khá lợi hại nhưng không thể so với pho Hoàng Long Tiên Pháp của Nhật Ma Hách Đông Doanh. Trước lúc Tuấn Hạc lên đường, Hách lão đã trao cho chàng bản sao quyển Tiên Phổ. Chàng đã thuộc làu nhưng chưa có thời gian rèn luyện.

    Múa xong bài roi, hán tử quấn vào lưng rồi cầm thanh trường kiếm trên ghế đá. Gã bắt kiếm quyết rồi đánh từng chiêu. Tuấn Hạc kinh hãi nhận ra những chiêu này rất giống kiếm pháp của lão Tây điện chủ. Chàng cảnh giác ẩn nấp thật kỹ. May mà tàng cây rậm rạp nên khó bị phát hiện.

    Lát sau, từ trong nhà, một lão nhân râu bạc bước ra. Gương mặt lão hiền lành và bình thường như bao kẻ già nua trong đám thường nhân Nhưng Tuấn Hạc đã thấy mắt lão loé lên tia hàn quang lạnh lẽo. Trên vai lão ta là một bọc hành lý nhỏ.

    Hán tử thấy lão nhân ra đến vội thu kiếm, kính cẩn vái chào. Lão nhân nghiêm giọng:

    - Đơn Thu Cốt, nay ngươi đã học được tám thành của pho Luân Hồi Ma Kiếm, có thể đánh bại bất cứ cao thủ nào của phe bạch đạo. Hãy cố luyện tập thêm vài ngày nữa rồi lên đường đi Hoa Sơn. Ta nhắc lại, nhiệm vụ của ngươi là phải thắng tất cả những kẻ lên tranh chức minh chủ, nhưng cuối cùng phải trá bại trước thiếu cung chủ Tần Thái Bạch. Ngươi mà trái lệnh, bổn Đế Quân sẽ không tha cho đâu! Hãy nhớ rằng trong máu ngươi đã có chất độc Tam Niên Qui - thiên hạ vô song.

    Tuấn Hạc sửng sốt, không ngờ lại gặp Luân Hồi Đế Quân ở chốn này. Chàng cũng từng nghe Thiết Long nhắc đến hán tử họ Đơn, gã có danh hiệu Hắc Xà Tiên, cao thủ mới nổi danh ở vùng Hồ Bắc.

    Đơn Thu Cốt cung kính nói:

    - Đệ tử đã được Đế Quân thu nạp, dạy cho kiếm thuật thượng thừa, thề sẽ xả thân đáp đền !

    Luân Hồi Đế Quân hài lòng bảo:

    - Ngươi là kẻ có căn cơ rất tốt để luyện võ - còn hơn cả ái tử của ta. Nếu sau đại hội Hoa Son kỳ này. Bách nhi được lên làm minh chủ võ lâm, bổn Đế Quân sẽ thu ngươi làm truyền nhân chánh thức. Giờ đây, ta ban cho một viên Tý Ngọ Đại Hoàn Đan Chi Bảo. Giờ Tý đêm nay, ngươi hãy uống vào để có thêm mười năm công lực !

    Hắc Xà Tiên mừng rỡ, quỳ xuống nhận kỳ trân Gã mở ra xem, thấy viên linh đan to bằng hạt nhãn, tỏa mùi thơm phức, liền hỏi:

    - Bẩm Đế Quân! vì sao phải uống đúng vào giờ Tý?

    - Nam Tý, nữ Ngọ, uống sai thời khắc là khí huyết nghịch chuyển, chết ngay lập tức.

    Nói xong, Luân Hồi Đế Quân bỏ đi. Thân pháp của lão nhanh như gió thoảng, chỉ trong chớp mắt đã khuất vào khu rừng đào. Tuấn Hạc thở dài, tự lượng mình còn kém xa.

    Đơn Thu Cốt chạy theo ra cổng, thấy Đế Quân đi khuất liền mỉm cười nham hiểm, vuốt mặt biến thành thiếu giáo chủ Doãn Tự Vân.

    Tuấn Hạc từng cải trang thành họ Doãn nên đâu lạ lùng gì?

    Họ Doãn lẩm bẩm:

    - Bao năm nay, ta dùng gương mặt giả, dương danh Hắc Xà Tiên để thỏa mãn lòng hiếu sắc, không ngờ Luân Hồi cung chủ lại trứng kế, chọn ta làm vai chính trong kế hoạch xưng bá của họ. Mâu thân ta quả là Gia Cát Lượng tái sinh. Phen này ngôi minh chủ sẽ thuộc về Thiên Độc Giáo.

    Gã lau mồ hôi rồi mang lại mặt nạ. Mặt trời lên cao, vầng dương khá gay gắt. Doãn Tự Vân bước đến đứng dưới gốc cây cổ thụ, ngơ ngẩn nhìn về hướng Tây như nhớ nhung ai? Chợt gã tiếp tục lẩm bẩm:

    - Tiểu Băng! Ta thề sẽ phải lấy cho được nàng! Dẫu phải dùng đến thủ đoạn hạ tiện ta cũng chẳng từ nan. Chỉ mình ta biết nàng ở đâu thôi Tuấn Hạc giật mình suy nghĩ, kiểm tra lại công lực rồi nhẩy xuống.

    Doãn Tự Vân giật mình, không ngờ lại có kẻ ẩn nấp trên cây. Gã lùi ba bước, rút cây Hắc Xà Tiên thủ thế và nhìn kẻ lạ mặt. Thấy đối phương không có vũ khí, gã yên tâm quát lớn:

    - Ngươi là ai mà lại đến đây rình mò như vậy?

    Tuấn Hạc lạnh lùng đáp:

    - Ta là ai không quan trọng. Nhưng nếu ngươi tiết lộ chỗ ẩn cư của Thiên Độc Thánh Nữ ôn Tiểu Băng thì ta sẽ tha chết cho !

    Mắt họ Doãn loé sát khí, bật cười nham hiểm:

    - Thì ra ngươi là tên Văn Tuấn Hạc đã cùng Tiểu Băng bái đường đấy ư?

    Tuấn Hạc cau mày:

    - Ngươi không sợ chết ư?

    Doãn Tự Vân vung roi tấn công luôn. Gã nhìn thấy ngực áo chàng đầy máu khô nên chẳng hề sợ hãi.

    Tuấn Hạc cũng biết mình không thể chiến đấu lâu được nên phải tốc thắng.

    chàng lao vào vòng tiên ảnh, song thủ khoa nhanh, đánh bạt đường roi và ập đến. Đây chính là chiêu Ngọc Thủ Liêm Câu trong pho Tiêu Dao Chướng Pháp.

    Tự Vân thấy đối thủ trứng liền mấy roi vào lưng mà không dừng bước, kinh hãi lùi nhanh.

    Nhưng đã quá muộn màng, chướng ảnh chập chờn vây chặt và giáng vào ngực gã.

    Tuấn Hạc đã dồn hết chân khí vào chiêu quyết định này nên xương lồng ngực Tự Vân gãy vụn, phủ tạng dập nát. Gã ngã ngửa ra bãi cỏ dấy dua vài cái rồi tuyệt khí.

    Lúc này, vết thương trên ngực Tuấn Hạc cũng vỡ ra, đau đớn vô cùng.

    Chàng vội bóp nát bốn viên linh đan, nhét vào miệng vết thương và ngồi điều tức. Lát sau, chàng mở mắt, suy nghĩ một lúc rồi gỡ tấm mặt nạ Đơn Thu Cốt và lấy viên Tý Ngọ Đại Hoàn Đan.

    chàng đi một vòng xem còn ai khác nữa không? May thay, chẳng một bóng người ! Thấy cuối vườn có một hố sâu để đổ rác và đốt lá khô chàng kéo xác Doãn Tự Vân quăng xuống dưới, lấp đi.

    Vào đến bên trong, chàng nhận ra hũ gạo còn nhiều, và trên đầu giường còn có cả bản sao của mười chiêu Luân Hồi Ma Kiếm và bảy chiêu Hắc Xà Tiên Pháp.

    Tuấn Hạc lật xem thử, thấy những chiêu này không khó học, liền nẩy ra một kế hoạch.

    Trong mười bốn ngày sau đó, chàng vừa dưỡng thương, vừa rèn luyện pho Luân Hồi Kiếm pháp và pho Hoàng Long Tiên Phổ. Ý định của chàng là sẽ đóng vai Hắc Xà Tiên Đơn Thu Cốt mà tham gia đại hội Hoa Sơn.

    Tình cờ, chàng có mang theo mặt nạ Doãn Tự Vân đây là một vật rất hữu ích.

    Giữa tháng chín, có một hán tử áo đen, lưng quấn nhuyễn tiên, vai mang trường kiếm đi vào trấn Kỳ ĐỒ dưới chân núi Hoa Sơn.

    Nơi đây đã tràn ngập hàng ngàn cao thủ võ lâm đến dự đại hội nên chẳng quán trọ nào còn trống. Ngay các tửu lâu, phạn điếm cũng vậy.

    Hán tử áo đen thấy nơi đâu cũng chật chội, đi thẳng đến đầu phía Bắc của tiểu trấn. Gã đành hài lòng với một quán cơm bên cạnh đường Gọi là quán cho sang chứ thực ra bàn ghế đều bày dưới bóng mát của một cây Vu già.

    Trời thu ở khu vực phía Bắc Hoàng Hà ảm đạm hơn phương Nam, cảnh vật xơ xác tiêu điều Chỉ có cánh rừng phong trên lưng chừng núi Hoa Sơn là đỏ rực.

    Tây Nhạc Hoa Sơn nằm ở phía Tây tỉnh Sơn Tây, là một trong Ngũ Nhạc của Trung Hoa. Nó có đến năm đỉnh: Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung tâm.

    Tương truyền, Trần Đoàn lão tổ đã từng dụ Tống Thái TỔ Triệu Khuôn Dẫn đánh cờ - mà vật được đặt cược chính là ngọn núi này. Trên sườn núi vẫn còn một phiến đá bằng phẳng, di tích của ván cờ ấy.

    Nhưng kiếm phái Hoa Sơn lại chẳng phải là truyền nhân của Trần Đoàn. TỔ sư của họ là Hách Đại Thông - đệ tử của giáo chủ Toàn Chân Giáo - Vương Trùng Dương thời nhà Kim.

    Toàn Chân là một phái của Đạo gia. Vì vậy, Hoa Sơn cũng theo Đạo giáo.

    Sau khi Vương Trùng Dương tọa hóa, Toàn Chân Thất Tử đã lập ra bảy nhánh. Sáu phái kia đều tàn lụi, chỉ riêng có Hoa Sơn phái là còn tồn tại.

    Hán tử áo đen ăn no bụng, lững thững trên lưng ngựa, di dạo quanh đường phố trong trấn.

    Nhờ vậy gã phát hiện ra rằng cả Thiên Độc Giáo lẫn Thiên Sư Giáo đều có mặt.

    Khi gã đi ngang một quán trọ xập xệ ở mé Tây tiểu trấn, một tên tiểu nhị cất tiếng mời chào :

    - Thỉnh đại gia vào nghĩ chân, bổn điếm vẫn còn một phòng.

    Hán tử dừng cương, vào gặp chướng quỹ.

    Lão ta hỏi tên theo đúng qui định của triều đình Hán tử lạnh lùng đáp:

    - Đơn Thu Cốt, ba mươi hai tuổi, quê Hà Bắc!

    Gã chính là Hắc Xà Tiên, cao thủ hắc đạo, nhưng trên đời, không một ai biết rằng họ Đơn chính là do Tuấn Hạc hóa thân.

    Chàng bước vào căn phòng tồi tàn, thở phào khi thấy giường kê sát cửa sổ nhìn ra vườn.

    Tuấn Hạc ngã lưng xuống nệm, suy nghĩ một lát rồi mở túi hành lý, lấy ra một quyển sách mỏng, chỉ nhỏ bằng bàn tay. Đây là quyển nhật ký của Doãn Tự Vân - tức Đơn Thu Cốt. Chàng đã tình cờ tìm ra nó trong cán của cây Xà tiên.

    Chàng đã đọc lướt qua vài trang và ghê tởm những gì đã viết. Nhưng hôm nay, chàng phải đọc thật kỹ để hiểu rõ nội tình Thiên Độc Giáo.

    Lực lượng Luân Hồi Ma Cung quá hùng hậu, chàng không thể một mình chống chọi lại. Vì vậy chàng có ý định gây cuộc tương sát giữa hai tà hội, chàng phải tiềm nhập Thiên Độc Giáo hoặc Ma Cung, quyển nhật ký này sẽ giúp chàng.

    Doãn Tự Vân là một kẻ có tâm thần bệnh hoạn. Gã thích thú ghi chép lại những lần chiếm đoạt tiết trinh của các nạn nhân. Tuấn Hạc bỏ qua những trang ấy. Chàng chú ý những gì liên quan đến gia đình gã.

    Đọc xong, chàng mới biết mồ hôi mình vã ra như tắm. Một cảm giác buồn nôn dâng tràn, Doãn Tự Vân đã là tình nhân của chính mẹ hắn - Giang Lăng Thần Nữ Liễu Nhược Thủy!

    Tự Văn miêu tả từng nét nhỏ trên cơ thể mẹ hắn với bút pháp điên cuồng say đắm.

    Tuấn Hạc vội đi tắm ngay để xua đuổi cảm giác nhơ nhớp. Nhưng dẫu sao chàng đã biết được sự sắp đặt của Giang Lăng Thần Nữ, cũng như hiểu rõ dã tâm của phu thê Thiên Độc Giáo chủ.

    Quyển sách tuy mỏng nhưng với nét chữ rất nhỏ Tự Vân đã ghi lại một lượng thông tin rất lớn Văn phong và thư pháp chứng tỏ gã cũng là một kẻ tài hoa.

    Điều bí mật ghê gớm thứ hai là việc: Doãn Tự Vân chính là con của Giang Lăng Thần Nữ với Đông điện chủ Doãn Thiên Dũng của Luân Hồi Ma Cung.

    Khi nhà Nguyên sụp đổ, Luân Hồi Ma Cung rút vào bí mật nên Doãn Thiên Dũng cũng biến mất. Mười năm trước đây, lão đã tìm đến Giang Lăng Thần Nữ bàn bạc với Thần Nữ kế hoạch khuynh đảo. Việc Thần Nữ nhận lời lấy Thiên Độc Giáo Chủ ôn Thiếu Bảo là bước mở đầu Sau này, Doãn Thiên Dũng lại tiến cử Đơn Thu Cốt - tức Doãn Tự Vân - làm con cờ thí - để đưa thiếu cung chủ Tần Thái Bách lên làm minh chủ võ lâm. Căn cơ võ học của Thái Bách hơi kém nên chẳng thể có hy vọng qua được đến vòng cuối. Kế hoạch này dựa vào luật đặc cách của qui củ đại hội. Tử lúc đầu, người muốn tranh tài phải đăng ký và qua phần thử nội lực. Nghĩa là không được lên ngay.

    Tuy nhiên, đến cuối đại hội, ai cũng có quyền khiêu chiến với người giỏi nhất còn lại trên đài. Nhưng người sắp được làm minh chủ lại có quyền nhận lời hay từ chối cũng được.

    Vào phút chót, khi Đơn Thu Cốt đánh bại tất cả Tần Thái Bách mới xuất hiện và trở thành minh chủ - nhờ đánh bại họ Đơn.

    Luân Hồi Đế Quân tin chắc rằng không có cao thủ nào - dưới năm mươi tuổi - có thể hơn được Hắc Xà Tiên.

    Năm ngoái, Doãn Thiên Dũng đã giáp mặt Thiên Độc Giáo chủ, đem kho tàng của người Mông ra làm mồi dụ dỗ. Họ Doãn bảo rằng bản đổ của Thiên Sư Giáo đang giữ chỉ là đồ giả.

    Chính Luân Hồi Đế Quân mới nắm được họa đồ đưa đến kho tàng vĩ đại ấy - vì lão ta là tai sai của người Mông! Đế Quân đưa thủ hạ vượt trường thành, trở lại Trung Nguyên cũng vì mục đích là tìm ra kho báu.

    Thiên Độc Giáo chủ mờ mắt vì lợi nên cùng họ Doãn kết tình huynh đệ, cùng âm mưu tiêu diệt Ma Cung, chiếm lấy kho tàng.

    Kế hoạch của họ là tương kế tửu kế, để Doãn Tự Vân lên làm minh chủ võ lâm, bắt sống thiếu cung chủ Tần Thái Bách, uy hiếp Đế Quân phải đưa họa đồ ra chuộc mạng.

    Tuấn Hạc đã rõ mưu đồ của họ, thầm kinh sợ dã tâm của bọn tà ma.

    Sáng ngày rằm tháng chín, quần hùng ùn ùn lên núi Hoa Sơn và trấn Kỳ ĐỒ trở nên vắng lặng như tờ. Càng im ắng hơn nữa khi các phạn điển, tửu lâu cũng chở dụng cụ đi theo.

    Đại hội thường kéo dài dện mấy ngày, nên việc phục vụ bữa trưa cũng là một sanh ý có lợi nhuận không nhỏ . Họ đã dựng hàng trăm quán lá cạnh đấu trường, xào nấu tại chỗ và sẵn sàng phục vụ tận nơi.

    Khách giang hồ đều là những tay tửu quỷ, tất sẽ mượn rượn để trợ hứng cho cuộc thướng lãm võ thuật.

    Mấy ngày nay, kinh tế trấn Kỳ ĐỒ phồn vinh hẳn lên nhờ đại hội. Đám chủ tiệm vui mừng về cái chết của tiền nhiệm minh chủ Thanh Long Tử và thầm van vái các vị kế nghiệp đừng sống quá lâu. Sự đời nực cười: đôi khi tai họa của người này lại là niềm vui của người khác Tuấn Hạc - trong vai Hắc Xà Tiên Đơn Thu Cốt - đủng đỉnh đi lên sườn núi. Chỉ vài mươi trượng đã đến một bình đài bằng phẳng, rộng hàng trăm mẫu. Phần đất sát vách được đắp cao hơn trượng thành một lôi đài. Vách núi lại nằm ở hướng Tây nên có thể che chắn ánh nắng buổi chiều. Chung quanh chỗ ngồi của khán giả lại có hàng tùng bách hàng trăm tuổi xòe bóng mát.

    Không hiểu do sáng kiến của ai mà trên khắp mặt bình đài có đặt những khúc gỗ cao hai gang - dùng để làm đôn ngồi. Bốn khúc nhỏ vây một khúc lớn, thành một bàn tiệc rất lý tướng Tuấn Hạc thầm nghĩ:

    - Chắc đây là phát minh của đám đầu bếp trong trấn Kỳ Đồ?

    Có lẽ chàng đoán đúng vì ở cạnh những chiếc bàn thô sơ kia có viết số và tên tửu quán.

    Quần hùng khoan khoái trước sự bố trí mới mẻ, tiện nghi này, ngồi ngay xuống và cao giọng gọi rượn. Ai cũng đã ăn sáng nên thức nhắm chỉ là lạc rang. Nhưng không sao, rượn phần Sơn Tây có tác dụng tiêu hóa rất tốt, chỉ lát nữa họ sẽ phải cần đến thức ăn. Các hào kiệt ngồi theo từng nhóm. GỖ tùng rất nhẹ nên họ có thể di chuyển các thớt gỗ, ghép lại thành bàn lớn.

    Hắc Xà Tiên Đơn Thu Cốt mới xuất đạo vài năm, lại độc lai độc vãng nên chẳng quen biết ai. Gã ngồi một mình một bàn, càng thoải mái.

    Tuấn Hạc biết họ Đơn tính tình cô độc, cao ngạo nên cũng ra vẻ như thế. Nếu mà gã có nhiều bằng hữu thì chàng sẽ lộ ngay.

    Chàng đi khá sớm, nên chọn được vị trí gần lôi đài - hàng thứ tư. Các hàng trên cùng dành cho những chướng môn các phái hay tiền bối võ lâm.

    Lần lượt, những vị đức cao vọng trọng, long đầu các bang hội đã đến đầy đủ. Lúc phái đoàn Thiên Độc Giáo đi ngang qua, Tuấn Hạc chăm chú quan sát và nhận được cái nháy mắt bí ẩn của Giang Lăng Thần Nữ.

    Chàng thở dài, không ngờ người đàn bà xinh đẹp tuyệt thế này lại là một dâm nữ trên đời có một không hai. Tuy đã gần ngũ thập mà Liễu thị chỉ như mới tam tuần. Bà ta mặc bộ xiêm y bằng the mỏng - theo kiểu đời nhà Đường - nghĩa là không có yếm che ngực và thân hình rực lửa kia càng lồ lộ dưới ánh dương quang.

    Quần hào dường như nghẹt thở trước vẻ đẹp khêu gợi, mời gọi ấy.

    Thế mà Thiên Độc Giáo Chủ ôn Thiếu Bảo hoàn toàn thản nhiên, không hề để ý đến việc hàng ngàn cặp mắt đang dán vào da thịt vợ mình. Lão đã ở tuổi thất tuần, thân hình cao gầy chẳng có vẻ gì là tráng kiện. Môi mỏng, cảm lẹm tăng vẻ nhu nhược nhưng chiếc mũi ưng và đôi mắt nhỏ kia khiến Tuấn Hạc e ngại.

    Chàng linh cảm rằng ôn giáo chủ chẳng phải là người mà Thần Nữ có thể xỏ mũi.

    Giờ đây, chàng cũng đã hiểu vì sao Doãn Tự Vân trở thành kẻ thương luân, bại lý. Chính Thần Nữ mới là người gây ra việc này. Cảm giác buồn nôn, ghê tởm lại dâng lên.

    Còn giáo chủ Thiên Sư Giáo Trương Tỳ Vân thì lại hoàn toàn khác. Mặt lão trắng như ngọc, vần trán cao, ngũ quan đoan chính. Tấm đạo bào cũ nhưng sạch sẽ và bộ râu năm chòm khiến lão trông rất tiên phong đạo cốt.

    Sau vụ Tích Ngọc Lang Quân Trương ân Tuấn bị Doãn Tự Vân đả thương, chạy khỏi ôn châu, Thiên Sư Giáo và Thiên Độc Giáo đã đụng nhau mấy trận. Số tử vong lên đến hàng trăm. Cuối cùng, ôn Thiếu Bảo viết thư đình chiến và thề độc rằng hung thủ chẳng phải là Doãn Tự Vân, lúc ấy gã đang ở Nghi Xương.

    Trương giáo chủ thấy vậy, giảng hòa với đối phương, nhưng tình giao hảo không còn nữa.

    Hôm nay, song phương gặp nhau mà cứ tảng lờ như không thấy. Thực ra, giang hồ đã có qui định rằng: trong thời gian đại hội, mọi ân oán đều gác lại, tròn một tháng mới hết kỳ hạn.

    Luật này giúp cho mọi người đều có thể tham gia đại hội mà không sợ kẻ thù chặn đánh.

    Đồng thời, võ lâm cũng có được mấy ngày yên tịnh chính vì lẽ này mà Thiết Long Văn Chí Lãm cùng Nhật Nguyệt Song Ma đã đến Hoa Sơn.

    Tuấn Hạc nhận ra gương mặt họ Văn đầy vẻ buồn phiền, luôn đảo mắt nhìn quanh, như muốn tìm ai đó. Chàng hiểu rằng ông ta đã nhận được hung tin về trận hỏa thiêu Tạ gia trang ở Hợp Phì và đến đây với hy vọng tìm ra chàng.

    Như vậy Thiết Long đã biết việc chàng có võ công tuyệt thế. Vậy, vì sao ông ta không hề sợ hãi mà vẫn yêu thương chàng? Phải chăng Hoàng Diện Thái Tuế đã lửa gạt chàng?

    Xét về bối phận, Nhật Nguyệt Song Ma phải được ngồi ở hàng trên cùng. Nhưng do họ đến trễ nên không còn chỗ. Thấy Doãn Tự Vân chỉ ngồi có một mình, còn dư đúng ba ghế, Thiết Long vui vẻ nói:

    - Hai năm trước, Văn mỗ có duyên được gặp tôn giá ở ngoại thành Vũ Xương, không ngờ lại trừng phùng. Xin phép cho bọn tại hạ được ngồi chung.

    Tuấn Hạc bối rối, nói giả lả:

    - Tại hạ rất vinh hạnh, xin mời tam vị.

    Thiết Long an tọa và giới thiệu:

    - Hai người này là nghĩa phụ, nghĩa mẫu của Văn mỗ.

    Chàng giả đò không nhận ra, chỉ cúi chào.

    Một gã tiểu nhị lảng vảng gần đấy lập tức chạy đến ứng hầu. Thiết Long vui vẻ nói:

    - Bọn ta chưa kịp ăn sáng, ngươi hãy dọn ngay một mâm thịnh soạn để Văn mỗ thù tạc với Đơn lão đệ Gã tiểu nhị mừng rỡ chạy đi ngay. Lúc này, giờ khai mạc đã đến. Chướng môn phái Hoa Sơn là Hư Trúc Chân Nhân vòng tay cao giọng:

    - Kính cáo đồng đạo võ lâm, Thanh Long Tử đạo huynh chẳng may đã qui tiên. Võ lâm chẳng thể thiếu người chủ trì. Vì vậy, bần đạo cùng hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang đã phát võ lâm thiếp, mời chư vị đến đây. Chúng ta sẽ cùng nhau tìm ra một tân minh chủ tài đức vẹn toàn Cũng như lần trước, chỉ những cao thủ dưới năm mươi tuổi, không có ác tính, mới được lên đài. Ban giám đài sẽ kết luận ai là người đủ tư cách. Xin mời những vị có tên sau đây bước lên để là nhiệm vụ giám đài:

    - Phương trượng Thiếu Lâm Tự Pháp Hoa thiền sư.

    - Chướng môn phái Võ Đang Minh Tâm Tử.

    - Chướng môn phái Hằng Sơn Huệ Hà sư thái - Toàn Chân trướng giáo Hoàng Hạc Chân Quân.

    - Thiên Sư Giáo Chủ Trương Tỳ Vân.

    - Đào Hoa Khuê Chủ Hồng Hợp Thượng.

    sáu người lần lượt bước lên đài, đứng cạnh Hư Trúc Chân Nhân. Cả bảy người cúi chào toàn trường rồi ngồi vào ghế giám đường.

    Một đạo sĩ Hoa Sơn vung dùi gõ vào chiếc chiên đồng to lớn, báo hiệu đến giờ đăng ký danh tính thượng đài.

    Võ học Trung Quốc rất phong phú và đa dạng nên chỉ có thể dùng công lực, sức mạnh làm tiêu chuẩn. Các đạo sĩ gánh ra chín chiếc đỉnh đá ba chân. Trọng lượng của nó là hai trăm cân, thí sinh phải nắm hai chân đỉnh, nâng cao khỏi đầu, mới được coi là hợp cách.

    Nền tảng của võ công chính là nội lực. Dẫu kiếm thuật phi phàm mà không đủ sức giữ chặt vũ khí thì cũng vô ích. Nhưng ngược lại, khi đã có chừng hai mươi năm tu vi trở lên thì bàn lãnh lại phụ thuộc vào sở học. Kẻ mạnh mà không có chiêu thức tinh kỳ, ảo diệu thì cũng chẳng hơn được những người kém mình vài năm tu luyện.

    Từng chín người một nhảy lên đài thử sức.

    Khi thành công họ mới khai báo danh tánh.

    Chẳng ai dại gì nói ra trước, lỡ cử không nổi thì thêm ê mặt.

    Thực ra, chẳng phải ai cũng dám lên đài cử đỉnh Thanh danh gầy dựng bao năm đâu thể để cho sứt mẻ. Nhất là người cao thủ chuyên luyện các tuyệt kỷ tinh xảo như ám khí, nhuyễn tiên, đoản kiếm . . . hoặc khinh công.

    Nhưng có một thí sinh vừa lên đến nơi đã vỗ ngực xưng tên - giọng lão ta vang rền như chuông đồng:

    - Bần tăng là VÔ Giới hòa thượng ở Lục Bàn Sơn - Tây vực. Năm nay tròn bốn mươi chín tuổi Quần hào cười ầm lên vì hai lẽ: Một là tấm thân to béo, phục phịch kia khoác một tấm tăng bào cũ kỷ màu vàng nhưng trên đầu là mái tóc rậm rì. Hai là gương mặt của lão già khăng, chẳng thể dưới năm mươi được.

    Pháp Hoa thiền sư tủm tỉm cười bảo:

    - Phật huynh xưng là đệ tử Phật môn sao lại để tóc?

    VÔ Giới cười ha hả đáp:

    - Thiền Sư thử nghĩ xem, trong hàng vạn ngôi chùa ở Trung Hoa, có bức tượng nào mà Phật TỔ Như Lai trọc đầu hay không? Bần tăng mới đích thực là đệ tử chân truyền của ngài.

    Chướng môn Thiếu Lâm cứng họng vì quả đúng như vậy. Minh Tâm Tử bèn đỡ lời cho thiền sư:

    - Thôi được ! Chuyện ấy không quan trọng lắm. Nhưng dung mạo Phật huynh chẳng có vẻ gì là bốn mươi chín tuổi cả.

    Quần hào Oà lên:

    - Đúng vậy! ít nhất cũng phải sáu mươi.

    VÔ Giới ngửa cổ cười dài:

    - Bần tăng có đem theo thẻ thuế thân.

    Lão đưa ra một mảnh giấy nhàu nát cũ kỹ.

    Thiên Sư Giáo Chủ Trương Tỳ Vân nhận lấy xem. Lão cau mày bảo:

    - Luật Đại Minh đâu có bắt tăng lữ phải đóng thuế thân?

    Quần hào lại đồng thanh nói:

    - Đúng vậy! Đây là thẻ già!

    VÔ Giới hòa thượng xua tay cãi:

    - Chư vị không nhớ phép vua thua lệ làng hay sao? Lão Tuần Phủ Cam Túc là người theo nho học, bài xích Phật pháp nên đã bắt sư sãi phải đóng thuế thân. Lão còn cho rằng tăng lữ ăn không, ngồi rồi, không làm ra hạt thóc nào mà còn báo hại bách tính phải nuôi dưỡng nữa.

    Không tin, chư vị cứ đi Tây Vực mà hỏi.

    Pháp Hoa thiền sư chột dạ nói:

    - Hòa thượng đã nhất quyết như vậy, bọn lão nạp chẳng thể không tin. Đệ tử Phật môn lẽ nào lại nói dối.

    Nói xong, thiền sư mới nhớ ra pháp hiệu của đối phương là VÔ Giới, chuyện nói láo là chuyện bình thường.

    VÔ Giới hòa thượng mừng rỡ, xăm xăm bước đến bên chiếc đỉnh đá. Lão tần ngần một lúc cởi tăng bào xếp lại cẩn thận, đặt xuống đất Thân hình lão mập mạp, bụng to phệ, trông rất khôi hài. VÔ Giới thấy ở dưới bật cười liền quay xuống phân bua:

    - Chư vị lượng thứ. Bần tăng bị kẻ gian lấy sạch hành lý, chỉ còn tấm tăng bào duy nhất.

    Có người buộc miệng thét:

    - Ai mà thèm lấy đống áo rách và hôi hám của lão chứ?

    vô Giới hầm hầm quát:

    - Thì ra ngươi chính là kẻ đã lấy trộm của Phật gia. Nếu không, sao ngươi lại biết chúng rách và hôi hám?

    Ngươi kia hổ thẹn, im bặt. Quần hùng ôm bụng cười .

    Đào Hoa Khuê Chủ Hồng Hợp Thượng hắng giọng:

    - Mời hòa thượng thử sức, đừng làm uổng phí thời giờ của đại hội.

    VÔ Giới cười hì hì, quay lại. Lão xuống tấn, chụp lấy chân đỉnh rồi đưa lên cao rất nhẹ nhàng Bắp thịt trên người lão nổi cuồn cuộn, khác hẳn lúc ban nãy. Lão ta còn biểu diễn thần lực bằng cách đi vài trượng mới chịu đặt xuống.

    Toàn trường hoan hô như sấm dậy, VÔ Giới đắc ý vòng tay cúi chào, nhơn nhơn nói:

    - xin cảm tạ!

    Lão nhặt lấy tăng bào, khệnh khạng đi xuống. Lúc này, Đơn Thu Cốt cũng đang đi lên lôi đài Gã ung dung nhất bổng Thạch Đỉnh lên đầu và báo danh:

    - Hắc Xà Tiên Đơn Thu Cốt, ba mươi hai tuổi quê Hà Bắc!

    Nói xong, gã mới đặt đỉnh đá xuống. Quần hùng chấn động vì chẳng ai dám mở miệng khi cử đỉnh thế mà họ Đon làm được việc ấy!

    Ban giám đài nhìn Hắc Xà Tiên rất chăm chú và nói nhỏ với nhau.

    Cuối cùng, chỉ có sáu mươi người qua được cửa quan và đủ tư cách. Có tám cao thủ bị loại vì thanh danh không tốt. Trong đó không có Đơn Thu Cốt vì hắn hành sự rất chu đáo, cẩn mật nên chưa bao giờ bị phát hiện.

    Ban giám đài tuyên bố nghĩ trưa. Tiếng gọi rượn thịt vang dậy khắp nơi. Đơn Thu Cốt đang lắng nghe Nhật Ma Hách Đông Doanh nói về thuật đánh roi thì phát hiện VÔ Giới hòa thượng bước đến. Lão ta xách cả thớt gỗ tùng theo.

    Quái hòa thượng cười hề hề:

    - Bần tăng ngưỡng mộ thần lực của Đơn thí chủ nên sang đây để kết giao.

    Lão ta thản nhiên bảo tiểu nhị mang thêm chén bát. Thiết Long là người hào sảng, quảng giao nên giới thiệu phe mình.

    VÔ Giới gật gù:

    - Cửu ngưỡng ! Cửu ngưỡng !

    Thật ra thì lão chẳng biết ai cả.

    Tuấn Hạc có dịp quan sát kỹ dung mạo của hòa thượng, thấy lão mắt to, mày rậm, mũi thẳng miệng rộng, đầy khí phách anh hùng. Vẻ ngu ngốc hoạt kê kia dường như chỉ là vỏ bên ngoài.

    VÔ Giới chẳng khách sáo gì, ăn uống như rồng cuốn, luôn miệng mời mọc cạn chén.

    Tuấn Hạc bất giác sanh lòng yêu mến nhân vật bất phàm này, chàng gọi thêm thật nhiều rượn thịt Khi đã no nê, hòa thượng mới để ý là bốn người kia chỉ ăn cầm chừng, nét mặt nặng nề như mang tâm sự gì không vui. Lão ngượng ngùng hỏi Thiết Long:

    - Vì sao Văn thí chủ lại có vẻ thất vọng, lo lắng như vậy?

    Thiết Long gượng cười:

    - Tại hạ đến đây tìm ái tử, không ngờ lại chẳng thấy dâu.

    Nguyệt Ma thở dài, buột miệng than:

    - Chẳng lẽ Hạc nhi lại vắn số thế sao? Gã tìm rớt xuống vực thẳm mà không chết, lẽ nào lại bỏ mạng bởi bọn Ma Cung?

    VÔ Giới hòa thượng thoáng giật mình nhưng cố giấu. Lão cười hề hề:

    - Hàn thí chủ yên tâm, bần tăng có tài Nhâm Độn, sẽ giúp các vị tìm ra người ấy.

    Thiết Long mừng rỡ nói ngay:

    - Vậy xin đại sư giúp cho.

    Lão bèn nói ngày sanh tháng đẻ của Tuấn Hạc cho VÔ Giới nghe. Hòa thượng hỏi thêm:

    - Y thất tung ngày nào?

    - Canh hai đêm mười hai tháng chạp vừa rồi.

    VÔ Giới bấm tay tính toán một hồi lâu, tươi cười bảo:

    - Bần tăng đoan chắc y còn sống và đã đi về hướng Tây Bắc: Nếu sai xin chặt bỏ bàn tay.

    Nhật Ma hoan hỉ vỗ vai VÔ Giới:

    - Nếu hòa thượng ngươi nói đúng, lão phu sẽ thướng cho trăm vò rượn. Nhưng Hạc nhi đã có mặt ở đây chưa?

    VÔ Giới ngượng ngùng đáp:

    - Việc này thì bần tăng không thể đoán ra.

    Thiết Long lẩm bẩm:

    - Có lẽ Hạc nhi chưa đến! Doanh nhi đã dặn chúng ta tìm một người có nốt ruồi son nơi gò má trái, nhưng nào thấy ai đâu?

    Tuấn Hạc đã không dùng đến chiếc mặt nạ ấy Hết giờ nghỉ trưa, đại hội lại tiếp tục. Sáu mươi cao thủ được xếp thành mười nhóm, mỗi nhóm sẽ chọn ra người giỏi nhất. Mười người này cũng lại chia thành hai nhóm. Trận cuối cùng là của hai người đứng đầu hai nhóm ấy.

    Hư Trúc Tử thông báo luôn danh sách các nhóm cũng như lịch thời gian so tài.

    Đơn Thu Cốt và VÔ Giới hòa thượng ở khác nhóm nhưng cùng có mặt vào sáng mai.

    Tuấn Hạc vòng tay nói:

    - Tại hạ về ôn luyện thêm tiên pháp. Hách tiền bối đã chỉ giáo nhiều điều bổ ích. Xin cáo biệt.

    Chàng gọi tiểu nhị tính tiền cơm rượn. Thiết Long không cho, chàng cũng chẳng gượng ép, cúi chào rồi bỏ đi.

    Hắc Xà Tiên đi rồi, Thiết Long bỗng nói:

    - Giang hồ vẫn nghi ngờ tư cách của Đơn Thu Cốt, nhưng không hiểu sao, ta lại cảm thấy y rất dễ mến. ánh mắt trưng hậu, hòa ái kia đâu phải là của một tên dâm tặc?

    Nhật Ma tán thành:

    - Đúng thế ! Họ Đơn có căn cơ rất tốt, đáng gọi là kỳ hoa của võ lâm! Y không kiêu ngạo mà còn khiêm tốn học hỏi lão phu những bí quyết của thuật đánh roi.

    VÔ Giới ngẩn người:

    - Té ra tam vị chỉ mới quen họ Đơn thôi sao?

    Lão gãi đầu chạy theo Hắc Xà Tiên. Họ Đơn đang đủng đỉnh rời núi thì bị hòa thượng bắt kịp. VÔ Giới gọi vang:

    - Đơn thí chủ! Chờ bần tăng với !

    Tuấn Hạc dừng bước. Chờ lão đến. Chàng mỉm cười hỏi ngay:

    - Đại sư tìm tại hạ có việc gì?

Trang 1 / 4 123 ... Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Kiếm Hoa Yến Vũ Giang Nam
    By giavui in forum Truyện Kiếm Hiệp
    Trả Lời: 15
    Bài Viết Cuối: 05-18-2020, 10:23 PM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-28-2020, 12:32 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-17-2020, 01:20 PM
  4. Tiền Giang: Cháy lớn tại khu công nghiệp Long Giang
    By duyanh in forum Tin Tức Việt Nam
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-29-2018, 03:48 PM
  5. Giang hồ Bắc du Nam
    By duyanh in forum Văn Hóa-Xã Hội-Kinh Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-30-2014, 12:52 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •