Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “* Muốn hiểu thế nào là Tình Yêu và Hạnh Phúc, phải biết sống cho kẻ khác, nghĩa là phải biết yêu
Godwin
Trang 3 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối
Results 21 to 30 of 31

Chủ Đề: Giang Nam Oán Lục

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Giang Nam Oán Lục


    Giang Nam Oán Lục


    Tác giả :Ưu Đàm Hoa


    MỤC LỤC [−]

    1. Minh nguyệt tường nghi án
    2. Lộ thượng phùng mỹ nữ
    3. Uyên đê tiêu dao ngộ
    4. Đông khứ tầm cố nhân
    5. Ma cung nhất xuất khuynh thiên hạ
    6. Hắc xà hưu diện
    7. Mạch thượng phùng Thiên Độc
    8. Tháp thượng tương tư lệ
    9. Bắc khứ Thiên Ma tầm bảo trượng
    10. Khấp hồi sơn cốc ưu hương hoa
    11. Kim Ngân năng sát nhân
    12. Kiếm hạ dung Hoắc thị
    13. Mao sơn hỉ nhật tân nương tâu
    14. Trường An tầm cổ mộ
    15. Thiên Điểu, Hoàng Mao đồng xuất thế
    16. Huyền băng phùng lư hỏa

    Hồi 1

    Minh nguyệt tường nghi án
    Thư sinh phế bút nghiên

    Trăng mười sáu tròn trịa, vằng vặc lưng trời, dịu dàng soi sáng bóng nước Lư Giang và toàn cảnh tòa Văn gia bảo, nằm dựa bờ sông.

    Luồng gió xuân từ biển Đông thổi vào sưởi ấm cho cây cỏ vùng Giang Nam.

    Đông này, khí lạnh từ cực Bắc không tràn xuống nên mấy tỉnh Đông Nam Trường Giang không có tuyết.

    Lư Lăng lại nằm sâu trong đất Giang Tây nên càng bội phần ấm áp. Trăng xuân nhờ vậy mà lộ hết được vẻ rực rỡ trên bầu trời quang đãng. ánh trăng trải dài trên cành lá của cách rừng tùng quanh cơ ngơi đồ sộ và lừng lẫy đất Giang Tây.

    Văn gia bảo tuy chỉ mới được xây dựng độ mười năm nay nhưng lại dành được sự kính trọng của cả võ lâm.

    Nguyên nhân là vì tòa nhà này tọa lạc trên mảnh đất cũ của cố Hữu Thừa Tướng Văn Thiên Tường! ông là vị anh hùng kiệt xuất cuối đời nhà Tống. Người đã đem máu xương và khí tiết viết nên trang sử oai hùng, được cả dân tộc Trung Hoa tôn thờ. Bài thơ Chính Khí Ca của họ Văn là tuyệt tác văn chương, ai đọc lên cũng nghe hào khí sôi sục, lòng trung nghĩa bừng bừng"

    (Sau bốn năm bị Hốt Tất Liệt giam giữ ở Yên Kinh, Văn Thiên Tường đã bị giết vào năm Quý Mùi - nhằm năm Chí Nguyên thứ mười chín đời Nguyên Thế Tổ. Tính đến nay đã hơn trăm năm mà tấm gliơng trung liệt kia vẫn rạng ngời sử sách"

    Nhưng tiếc thay, hậu duệ họ Văn chẳng ai nối được nghiệp văn chương của tiên tổ"

    Bảo chủ Văn Chí Lãm là cháu sáu đời của Văn Thừa Tướng, thi thư kém cỏi nhưng võ công ngạo thị giang hồ. Danh hiệu Thiết Long lừng lẫy võ lâm"

    văn Chí Lãm là cao thủ ngạch công số một võ lâm. Thân thể ông rắn như thép, chỉ trừ thần binh cổ vật, đao kiếm tầm thường chẳng thể nào đả thương. Ngoài đôi mắt, ông còn có một nhược điểm chết người nữa, nhưng người ngoài không thể biết được.

    Họ Văn chẳng phải là người nước Triệu nhưng lại xử dụng thanh Ngô Câu Kiếm! Pho Ngô Câu Đoạt Mệnh Kiếm Pháp độc bộ võ lâm, ảo diệu và lợi hại hơn cả Thái Cực Kiếm của Võ Đang.

    Trong bài Hiệp Khách Hành đã có mấy câu thơ:

    "Triệu khách man hồ anh.

    Ngô câu sương tuyết minh.

    Ngân yên chiếu Bạch mã.

    Tạp đạp như lưu tinh.

    Thập bộ sát nhất nhân.

    Thiên lý bất lưu hành . . . "

    Tạm dịch:

    "Mỗi hiệp khách một mâu thuẫn nhỏ.

    ánh Ngô Câu rạng cả tuyết sương.

    Ngân Yên Bạch mã huy hoàng.

    VÓ câu vun vút trên đường đuối sao.

    Ngoài thập bộ máu đào lai láng.

    Ngàn dặm trường chăng nản chân bon."

    Đây là bài thơ duy nhất mà Thiết Long Văn Chí Lãm thuộc lòng - không kể bài Chính Khí Ca. ông thường cỡi ngựa bạch, ngồi yên viền bạc, cao hứng ngâm nga.

    Xuất đạo giang hồ năm hai mươi tuổi, dẫn dắt Thiết Long Tiêu Cục đi khắp thiên hạ, đụng hàng trăm trận mà chưa hề chiến bại.

    Văn Chí Lâm tuổi ngũ tuần, góa vợ đã tám năm và mới tục huyền mùa thu năm ngoái. Văn Nhị Nương có nhũ danh là Hà Tú Chân, tuổi mới hai mươi lăm. Nàng xinh đẹp phi thường khiến Thiết Long đành phải từ bỏ ý định sống độc thân thờ vợ của mình.

    Nửa năm trước, trưởng tử của Thiết Long là Văn Tuấn Thu đi Trường Sa công cán, tình cờ cứu được Hà Tú Chân. Nàng mồ côi cha mẹ, tiền bạc không có, bị chủ nhân bức hiếp quẫn chí định gieo mình xuống sông tự vẫn. Văn Tuấn Thu hết lời khuyên giải, đưa nàng về Vân gia bảo làm tỳ nữ.

    Lúc đầu, mọi người trong bảo tưởng Tú Chân sẽ là vợ của Văn đại thiếu gia, nhưng không ngờ nàng lại trở thành nhị phu nhân.

    Đại công tử Văn Tuấn Thu đã tam thập dáng vóc cao lớn hiên ngang - giống hệt như thân phụ. Tính tình gã trầm lặng, ít nói, không màng tửu sắc, chỉ chăm chú luyện võ công và điều hành công vụ của Thiết Long Tiêu Cục. Sau khi đưa Hà Tú Chân về bảo, gã không hề ngó ngàng đến nữa, tiếp tục phận sự của mình.

    Vì vậy việc Văn bảo chủ tục huyền với Tú Chân không gây chút dị nghị nào.

    Tử sau ngày vợ chết, Thiết Long Văn Chí Lãm trở nên nóng nảy, tàn nhẫn và khắc nghiệt. Ngay cả đứa con trai tám tuổi là nhị công tử Văn Tuấn Hạc cũng không được ông ưu ái hay vuốt ve. Mọi người cho rằng ông quá đau khổ nên mới thay đổi tính tình như vậy.

    Cậu bé sợ hãi phụ thân như sợ cọp, ít khi dám lại gần. May thay, Văn đại công tử rất yêu thương bào đệ, luôn gần gũi, dạy bảo để bù đắp cho đứa em bạc hạnh.

    Hạc nhi là đứa bé thông minh, mẫn tiệp say mê văn chương thi phú, bảy tuổi đã biết làm thơ, được mọi người trong bảo yêu mến.

    Khi Hà Tú Chân trở thành kế mẫu, nàng đã hết lòng yêu mến và chăm sóc Hạc nhi, khiến ai cũng lấy làm lạ. Ngược lại Hạc nhi cũng coi nàng như mẹ ruột của mình. Nhưng nó chỉ dám thân thiết, kề cận kế mẫu khi không có mặt thân phụ.

    Đêm nay cũng vậy, vừa thấy Văn Chí Lãm bước vào khuê phòng, Hạc nhi vội vàng rời lòng Hà Tú Chân, vòng tay thi lễ ấp úng nói:

    - Phụ thân an giấc, hài nhi xin phép cáo lui Gương mặt Văn bảo chủ lúc này đang đầy vê giận dữ, ông lạnh lùng hừ một tiếng, quắc mắt nhìn đứa bé. Hạc nhi run rẩy lui ra.

    Hà Tú Chân dịu dàng hỏi :

    - Tướng công! Vì sao sắc diện người không được vui?

    Thiết Long bực bội đáp:

    - Tên nghịch tử Tuấn Thu quả là đáng ghét! Đang lúc công việc của tiêu cục bề bộn mà hắn lại xin đi Trường An thăm bằng hữu. Ta mắng cho một trận hắn mới chịu thô i .

    Hà Tú Chân mỉm cười, bước đến cởi áo ngoài của trượng phu rồi bảo:

    - Đại công tử đã chịu nghe lời, tướng công còn giận làm gì? Thiếp đã chuẩn bị sẵn một chén sâm thang để tướng công uống cho tỉnh rượn.

    Nụ cười mê hoặc và mùi u hương từ tóc mỹ nhân đã khiến Văn bảo chủ động tình ông nhìn nàng say đắm, ngồi xuống cạnh giường chờ đợi.

    Hà Tú Chân bưng chén sâm thang đèn tận tay phu tướng, kèm thêm một nụ cười âu yếm.

    Văn Chí Lãm hài lòng uống cạn. ông vận chân khí đưa chiếc chén là đà bay về phía bàn, nhẹ nhàng hạ xuống. Hà Tú Chân nó i với vẻ kính phục :

    - Tướng công nổi tiếng võ lâm về ngạch công, không ngờ nội lực cũng thâm hậu phi thường"

    Họ Văn đắc ý, vươn tay ôm mỹ nhân vào lòng. Đôi tay to bè, sần sùi của ông hăm hở lột sạch xiêm y ái thiếp. Chí Lãm đặt pho tượng ngọc lên giường rồi tự cởi y phục.

    Thiết Long tuy đã hơn năm mươi nhưng cơ thể cường tráng, rắn chắc, da dê mịn màng - nhờ thường xuyên rèn luyện.

    ông say đắm ngắm nghía vuốt ve người ngọc. Ba ngọn hồng lạp vẫn thắp sáng, lung linh soi tỏ núi đồi, thung lũng. Văn Chí Lãm mê mãn thỏa mãn dục vọng nên không nhận ra ánh mắt căm hận, bi thương của Tú Chân. Nàng vẫn rên rỉ như đang tận hưởng hoan lạc nhưng vẻ mặt lạnh lùng khó tả.

    Nửa khắc sau, nhịp độ giao hoan chậm dần và Thiết Long sụp xuống, thiếp ngay đi trên người Tú Chân.

    Nàng mỉm cười bí ẩn, khẽ lay gọi:

    - Tướng công ! Tướng công "

    Thấy lão không đáp, Tú Chân xô lão xuống giường rồi mặc lại y phục. Nàng kiểm tra lần cuối, bước ra mở cánh cửa sổ thông với hoa viên.

    Một bóng đen cao lớn lao vào. Gã cười nhạt dồn chân khí vào ngón trỏ tay hữu, điểm mạnh vào huyệt Linh Khư trên ngực trái Thiết Long. Huyệt này nằm trong khoảng gian sườn ba, từ huyệt Ngọc Đường ngang ra hai thốn. Đây chính là nhược điểm trí mạng của Văn Chí Lãm.

    Mấy chục năm nay, lúc nào ông cũng mang một miếng thép để che chở yếu huyệt - chỉ trừ lúc ân ái với Tú Chân"

    Chí Lão rùng mình giãy chết, ông mở mắt nhìn hung thủ, kinh hãi thều thào:

    - Té ra là... ngươi... "

    Thiết Long đoạn khí chết ngay. Người áo đen quay lại, bước đến ôm lấy Hà Tú Chân. Hai người không hề lộ vẻ vui mừng mà lại khóc?

    Dưới ánh nến chập chờn bởi gió xuân, dung mạo hung thủ hiện rõ. Đó là đại công tử Văn Tuấn Thu, trưởng nam của Thiết Long Văn Chí Lãm.

    Tuấn Thu hôn lên những giọt nước mắt trên má Tú Chân và thì thầm:

    - Cám ơn Hà muội"

    Tú Chân đau đớn nó i :

    - Thiếp chịu ơn cứu tử nên ngậm đắng nuốt cay chịu đựng lão già dâm đãng này suốt nửa năm qua. Nay đại sự đã thành, thiếp xin cáo biệt. Tấm thân ô uế này không xứng đáng để hầu hạ công tử nữa.

    Tuấn Thu mỉm cười, hôn lên má nàng:

    - Văn mỗ nào phải kẻ hủ lậu, hẹp hòi mà nàng nói vậy? Nay chí nguyện đã thành ta sẽ cùng nàng sống đến răng long đầu bạc. Nếu lòng này có chút gian dối ắt sẽ sớm tắt như ngọn nến kia.

    Lời nói chí tình khiến Tú Chân đẹp dạ, nàng thẹn thùng thỏ thẻ:

    - Thiếp là người hắc đạo, quá khứ nhơ nhớp xấu xa, không ngờ lại được chàng yêu thương như vậy! Thiên Diện Ma Cơ này xin đem kiếp sống thừa hầu hạ công tử Nhưng chàng phải mau tìm cách giải quyết cho chu đáo, Nhật Nguyệt Song Ma rất khó đối phó. Nếu họ nghe tin lão tặc chết tất sẽ điều tra đến cùng "

    Tuấn Thu nghiêm giọng:

    - Ta đã suy nghĩ đến điều ấy. Nhưng chỉ cần nàng ra tay diệu thủ là mọi việc sẽ tốt đẹp thôi

    sáng hôm sau, một tỳ nữ gõ cửa báo tin:

    - Bẩm lão gia, đại công tử đã bỏ đi, để lại một phong thư.

    Văn Chí Lãm nói vọng ra:

    - Được rồi! Ngươi hãy đút qua khe cửa.

    Giọng lão có vẻ hòa hoãn hơn thường lệ Lúc này Thiết Long và Hà Tú Chân còn nằm trên giường. Lão dụi chiếc cằm trơn vào ngực mỹ nhân. Những cọng râu mới nhú làm nàng nhột nhạt, bật cười khúc khích. Thiết Long vui vẻ nói:

    - Chiếc mặt nạ này quả tinh xảo, râu có thể mọc xuyên qua một cách tự nhiên.

    Tú Chân vuốt má tình nhân:

    - Tướng công chớ lo, đây là tuyệt học của Biến Hình Môn, không ai khám phá nổi đâu.

    Thiết Long nhìn nàng say đắm, định gầy lại cuộc ái ân. Tú Chân đỏ mặt bảo:

    - Ngày tháng còn dài! Tướng công phải dậy sớm mới đúng tác phong của Văn lão.

    Chí Lãm ngượng ngùng, tặng nàng một nụ hôn nữa rồi mới chịu xuống giường.

    Khi hai người ra đến phòng ăn sáng thì tin đại công tử Văn Tuấn Thu bỏ đi đã loan khắp bảo. Hạc nhi chờ sẵn, nước mắt nhạt nhòa, nó ấp úng hỏi:

    - Bẩm phụ thân! Hài nhi nghe nói đại ca đã bỏ đi?

    Nó chờ đợi một lời quát mắng nhưng không ngờ Chí Lãm lại bước đến bồng Hạc nhi lên, âu yếm nói:

    - Đại ca ngươi giam mình ở đất Lư Lăng này đã quá lâu, tuy võ công xuất chúng nhưng chẳng có chút thanh danh gì trong võ lâm. Nay hắn nổi máu tang bồng hồ thỉ, xách kiếm hành tấu giang hồ cũng là phải đạo. Phụ thân sẽ thay Tuấn Thu chăm sóc cho Hạc nhi.

    Lão hôn lên gò má bầu bĩnh của Tuấn Hạc - trong sự ngạc nhiên của mọi người.

    Hạc nhi lần đầu được cha âu yếm, cảm động đến lặng người. Nó bạo dạn hôn lại ông, thì thầm gọi :

    - Phụ thân"

    Thiết Long buông con xuống, quay lại nghiêm giọng quát:

    - Trương tổng quản! Mau chuẩn bị ngựa để ta vào thành bàn bạc với phó tổng tiêu đầu"

    Văn gia bảo là nơi cư ngu của họ Văn, còn tiêu cục nằm trong thành Lưu Lăng.

    Văn bảo chủ đi rồi, mọi người xúm lại hỏi han:

    - Bẩm phu nhân! Vì sao bảo chủ lại đột nhiên thay đổi cách cư xử như vậy?

    Hà Tú Chân mỉm cười:

    - Đêm qua bảo chủ nằm mơ thấy đại nương hiện về trách móc nên hối hận đã khắc bạc với con cái"

    Đám gia nhân thở phào nhẹ nhõm mừng cho nhị công tử.

    Trong bảy năm sau đó, Tuấn Hạc được sống trong tình yêu thương của thân phụ và kế mẫu. Niềm u uất tan đi, trí tuệ của Hạc nhi phát triển rực rỡ, mười bốn tuổi đã nổi tiếng thần đồng đất Giang Tây, văn chương lừng lẫy vì có tài Thất Bộ Hành Thi - như Tào Thực thời Hán.

    Thiết Long bắt Hạc nhi luyện võ thì kết quả lại rất tồi tệ. Nó thuộc làu hai quyển bí kíp Thiết Thạch Thần Công và Ngô Câu Kiếm Pháp nhưng chẳng chịu rèn luyện. Thiết Long có trách mắng thì Hạc nhi biện bạch:

    - Cao tiên tổ họ Văn chỉ giỏi văn chương và thi pháp mà cũng lưu danh sử sách. Hài nhi thể chất văn nhược, không thích hợp với việc luyện võ.

    Thấy chí hướng Tuấn Hạc như vậy, Thiết Long đành bỏ qua. Mùa thu năm Hồng Võ thứ ha mươi, nhằm năm Đinh Mão, theo lệ thường có tổ chức thi Hương. Văn Tuấn Hạc tuy tuổi mới mười bốn mà đỗ đầu phủ Giang Tây, đoạt danh vị cử nhân.

    Mùa xuân năm sau, Tuấn Hạc xin phép phụ thân đi Kim Lăng để thi Hội ở bộ Lễ.

    Văn bảo chủ vui vẻ tiến ái tử lên đường Theo hầu Văn Tuấn Hạc là lão bộc già họ Nhâm. ít ai biết rằng lão già thấp đậm tuổi ngũ tuần này là cao thủ hắc đạo Hai mươi năm trước lão có danh là Hoàng Diện Thái Tuế. Nhâm Bá Linh có gương mặt vàng võ, cử chỉ chậm chạp, từ tốn nhưng đã từng là Đại Sát Tinh vùng Cam Túc, lão được Thiết Long cứu mạng nên nguyện làm nô bộc để báo ân.

    Nhâm lão ít nói và lạnh lùng như đá, nhưng đối với hai công tử lại hết dạ yêu thương. Tuấn Hạc cũng rất vui khi có Nhâm lão đồng hành. Chàng thường gọi lão là Nhân đại thúc.

    Năm nay trời rét đậm, ngay vùng hạ lưu Tràng Giang cũng có tuyết rơi. Tuấn Hạc đứng nhìn dòng nước Trường Giang cuồn cuộc, cao hứng ngâm bài Tử Niệm Nô Kiều của Tô Đông Pha:

    "Niệm nô kiều Đại Giang Đông khứ Lãng đào tận thiên cỗ phong lưu nhân vật.

    CỐ lũy Tây Biên . . . " Tạm dịch:

    "Niệm nô kiều Sông dài đông chảy Bao khách phong lưu từ xưa cuốn sách Thành lũy phía Tây . . . " Bài thơ đầy khí tượng hào phóng, mông lung và hùng mạnh. Nhâm lão tán dương:

    - Nhị công tử quả là bậc tài hoa xuất chúng"

    Tuấn Hạc đỏ mặt:

    - Nhâm đại thúc quá lời! Đây là bài từ của Đông Pha cư sĩ đời Tống chứ nào phải của tiểu diệt"

    Nhâm lão cười xòa bảo:

    - Sáng mai mới có thuyền xuôi Đông, chúng ta tìm khách điếm trọ một đêm.

    Hai người thúc ngựa đi vào trấn An Lạc cạnh bờ sông. Cổ nhân có câu nhất cận thị, nhị cận giang." Vì vậy, trấn này rất phồn vinh, sầm uất. Tuy không có thành quách bao quanh nhưng nhà cửa san sát, lâu quán, tửu hiệu cũng nhiều.

    cơ ngơi đồ sộ tất đường đi phải rộng rãi và được lót đá bằng phẳng. Văn Tuấn Hạc lần đầu đi xa phấn khởi ngắm những kiến trúc trong trấn, tắc lưỡi ngợi khen.

    Nhưng vừa đến giữa trấn, từ phía đối diện có một cặp tuấn mã đi ngựợc chiều với bọn Tuấn Hạc. Đó là hai lão già cao gầy dung mạo âm u hiểm ác, đôi mắt diều hâu lóe sáng dưới vành nón rộng. Họ nhìn trừng trừng vào mặt Hoàng Diện Thái Tuế, cười gằn rồi quay đầu ngựa đi theo.

    Nhâm lão biến sắc nhưng cố giữ vẻ thản nhiên dừng cương trước tòa Kim Thất lữ quán. Hai lão già kia cũng dừng lại chờ bọn Tuấn Hạc vào trong rồi mới bỏ đi.

    Nhâm lão chỉ mướn có một phòng.

    Chờ thiếu chủ tắm gội xong, lão nghiêm giọng bảo:

    - Nhị công tử! Lão nô có đôi lời tâm huyết muốn bộc bạch"

    Tuấn Hạc ngỡ ngàng đáp :

    - Sao Nhâm đại thúc lại tỏ vẻ nghiêm trọng quá vậy? Có gì xin cứ tỏ bày"

    Nhâm Bá Linh không nói thẳng mà hỏi lại:

    - Chẳng hay công tử tín nhiệm lão nô được bao nhiêu phần?

    Tuấn Hạc cau mày đáp :

    - Đại thúc chăm sóc ta từ thuở ấu thơ, tình thân như ruột thịt, hà tất phải hỏi thế.

    Nhâm lão bỗng quỳ xuống lập trọng thệ:

    - Xin hoàng thiên chứng giám cho những lời Nhâm mỗ nói ra đây. Nếu chỉ nói sai một câu thôi cũng bị lôi thần đả tử Tuấn Hạc kinh hãi đỡ ông lên:

    - Đại thúc cứ nói thẳng ra. Hạc nhi luôn kính trọng và tin yêu đại thúc "

    Hoàng Diện Thái Tuế ngồi vào ghế, buồn bã nói:

    - Lão nô có một bí mật giấu kín trong lòng đã mười lăm năm. Nay gặp lại kẻ thù cũ, tự biết không thể thoát chết nên đành thố lộ cho công tử biết! Mong công tử bình tâm lắng nghe.

    Tuấn Hạc róc chung trà cho lão :

    - Phải chăng hai lão già mặc áo cừu đen mà chúng ta mới gặp lúc nãy?

    - Thưa phải! Họ chính là Hoàng Sơn Nhị Quỷ, võ công xuất chúng, thủ đoạn tàn bạo nhất Hồ Nam"

    Lão bỗng cười nhạt kể:

    - Lão nô không sợ chết vì ít ra cũng đổi mạng được một tên. Giờ xin công tử nghe cho rõ. Thiết Long Văn Chí Lãm hiện nay chỉ là giả mạo. Kẻ ấy chính là thúc phụ của công tử. Năm xưa, lệnh tôn nhận được một phong thư liền vội vã đi ngay.

    Mười ngày sau, ông trở về và có nhiều cử chỉ khác lạ. Lão nô quá quen với nhiều thủ đoạn sâu độc của tà ma nên sanh lòng nghi ngờ, dốc sức theo dõi. Lúc ấy, công tử mới chỉ được vài tháng tuổi. Một đêm nọ, lão nô nấp dưới cánh cửa sổ khuê phòng đại phu nhân, tình cờ phát hiện bí mật kinh người. Thì ra, sau lần ân ái đầu tiên, đại phu nhân đã phát giác sự giả mạo. Bà định hô hoán lên thì lão tặc kia chụp lấy công tử và dọa giết chết. Lệnh mẫu đành phải hạ giọng năn nỉ. Qua lời đối thoại lão nô biết được lão ta là Văn Chí Khải, bào đệ của lệnh tôn. Lão bỏ nhà ra đi từ năm mười bẩy tuổi. Giờ bày độc kế giết chết đại ca, đoạt lấy cơ nghiệp và thanh danh. Cuối cùng, lão quỷ sợ bại lộ nên đã điểm vào tử huyệt của đại phu nhân. Lão nô vì công lực chưa khôi phục nên đành cắn răng nhẫn nhục.

    Tám năm trước, lão nô chưa kịp thố lộ cho đại công tử nghe thì Tuấn Thu lại thất tung. Tiếng là bỏ nhà ra đi nhưng lão nô lại cho rằng lệnh huynh đã bị giết. Nay công tử đã rời xa được Văn gia bảo, xin hãy cố học lấy võ công mà báo phục mối đại cừu"

    Lão vừa kể vừa rơi lệ, trông rất chân thành Tuấn Hạc nghe xong lặng người suy nghĩ và thắc mắc :

    - Hạc nhi biết đại thúc nói thực, nhưng điều kỳ lạ là tại sao bảy năm trước, gia phụ đột nhiên thay đổi tính tình, hết lòng yêu thương Hạc nhi? Nếu không phải cha ruột sao lại có thể biểu lộ một tình cảm đến như thế?

    Nhâm lão bối rối đáp:

    - Chính lão nô này cũng thắc mắc về điều này. Nếu năm xưa không tận mắt thấy lão giết đại phu nhân tất sẽ chẳng dám nghi ngờ "

    Văn Tuấn Hạc tuy còn niên thiếu nhưng trí tuệ xuất chúng. Chàng cố phân tích và hiểu rằng Nhâm lão không có lý do gì để bịa đặt ra chuyện tày trời này.

    Tuấn Hạc thở dài bảo :

    - Xem ra, võ công Văn Chí Khải không thua gì gia phụ. Nay Hạc nhi chỉ là một thư sinh trói gà không chặt, làm sao báo được gia thù?

    Nhâm Bá Linh rút từ dây lưng ra một túi lụa nhỏ, trong đó là một tấm đồng bài cũ kỹ, nhỏ hơn bàn tay. Lão đặt lên bàn rồi nói:

    - Ba mươi năm trước, lão nô tình cờ lấy được vật này. Sau mới biết được đây là lệnh phù của Hằng Sơn Thiền ông.

    Công tử hãy cầm lấy, tìm đến Huyền Không trên núi Hằng Sơn phía Bắc phủ Sơn Tây. Nếu được Thiền ông thu làm đệ tử thì lo gì không giết được Văn Chí Khải Tuấn Hạc cầm lấy đồng bài xem xét, thấy một mặt khắc hình thanh kiếm và rặng núi, mặt kia là những hoa văn rối rắm, tuy sắc sảo nhưng không nhận ra hình dạng. Chàng buồn bã nói:

    - Nghe nói từ đây đi đến phủ Sơn Tây đường xa bốn năm ngàn dặm, làm sao Hạc nhi có thể tự mình đi đến đó được, Nhâm lão thừ người suy nghĩ. Lát sau, lão nghiến răng nói:

    - Lão nô sẽ hy sinh chút hư danh năm xưa, âm thầm trốn đi, đưa công tử đến Hằng Sơn, Hoàng Sơn Nhị Quỷ chắc không ngờ lão nô lại làm như vậy.

    Tuấn Hạc mừng rỡ bảo :

    - Hài nhi từng đọc Nam Hoa Kinh, thấy cổ nhân xem danh lợi như phù vân. Nay đại thúc quyết định như vậy là rất hợp lý trời Ngay Hạc nhi đi thi cũng chỉ vì muốn đẹp lòng gia phụ và kế mẫu chứ chẳng phải muốn làm quan.

    Nhâm lão nghe lòng nhẹ nhõm gọi tiểu nhị dọn cơm. Canh hai đêm ấy, lão thu xếp hành lý, chỉ đem theo những vật dụng cần thiết, cõng Tuấn Hạc bôn đào về hướng Tây.

    Đến một đoạn sông vắng, thấy có một chiếc thuyền con neo đậu, lão lấy trộm đưa Tuấn Hạc sang sông. Chàng là người đọc sách thánh hiền nên đã bảo Nhâm lão để bạc lại bồi thường cho gã nghi dân chủ thuyền.

    Hoàng Diện Thái Tuế biết đối thủ của mình giỏi thuật truy tung nên đốc thúc Tuấn Hạc đi thật nhanh. Nhưng do cơ thể yếu đuối chàng không kham nổi cuộc hành trình gian khổ, cấp bách. Vì vậy, cước trình chậm chạp .

    Nhưng có lê đỉnh bạc lớn để lại có giá trị gấp bốn lần chiếc thuyền câu nên gã nghi phủ nào đó đã giấu biệt việc mình mất thuyền. Vì vậy, Hoàng Sơn Song Quỷ cứ tưởng Nhâm lão đưa chàng thiếu niên kia về hướng Đông. Lúc chiều, Song Quỷ đã thấy họ đi từ bến đò đến.

    Ba ngày sau, không thấy ai truy đuổi, Nhâm Bá Linh yên tâm, không thúc giục thiếu chủ nữa. Tuấn Hạc tha hồ thưởng lãm cảnh vật dọc đường thiên lý. Càng lên phía Bắc trời càng lạnh, tuyết rơi dày hơn, điểm trắng cảnh vật, nhưng đủ để chàng thiếu niên thi hứng dâng tràn.

    Chàng khoan khoái nói:

    - Nhâm đại thúc! Đúng là đọc vạn quyển sách không bằng đi xa trăm dặm.

    Non sông gấm vóc này xinh đẹp biết bao?

    Nhâm lão cười tán thành, nhưng lại nghiêm giọng:

    - Công tử cứ việc thưởng lãm phong cảnh nhưng xin vì mối gia cừu mà ghi nhớ những lời lão nô nói ra. Giang hồ là chốn hiểm nghèo, đầy những thủ đoạn xảo quyệt tàn độc. Dâu sau này công tử có học được võ công tuyệt thế, mà không chút kinh nghiệm cũng chẳng mong toàn mạng.

    Tuấn Hạc chỉnh sắc đáp :

    - Xin đại thúc cứ chỉ giáo, Hạc nhi không dám lơ là.

    Hoàng Diện Thái Tuế bèn đem qui củ giang hồ, cùng những mưu ma chước quỷ của giới tà đạo ra giảng giải. Lão xuất đạo từ năm mười bảy tuổi, lang thang khắp thiên hạ nên kiến văn rất rộng.

    Tuấn Hạc không ngờ cuộc sống của người võ sĩ lại phong phú đến như vậy, chàng đâm ra say mê, tận tình học hỏi.

    Với trí nhớ siêu phàm, Tuấn Hạc chẳng quên điều gì. Một hôm chàng hỏi Nhâm lão:

    - Đại thúc! Vì sao Văn Chí Khải lại muốn tiểu diệt luyện hai pho tuyệt kỹ của họ Văn? Chẳng lê lão ta không sợ có ngày tiểu diệt khám phá ra nội tình hay sao?

    Nhâm lão giật mình:

    - Thế công tử có học được gì hay không?

    Tuấn Hạc mỉm cười :

    - Tiểu diệt thuộc làu nhinh chẳng bao giờ luyện tập.

    Nhâm lão mừng rỡ:

    - Nếu vậy sau nầy công tử sẽ biết hết những sơ hở trong pho Ngô Câu Đoạt Mệnh Kiếm. Ngược lại, lão tặc kia không hề biết gì về võ công của Hằng Sơn Thiền ông. Đó chính là lợi thế rất lớn.

    Bỗng lão lộ vẻ lo lắng:

    - Nhưng dù công tử có giết được Văn Chí Khải cũng khó mà thoát chết dưới tay Nhật Nguyệt Song Ma. Họ chính là nghĩa phụ, nghĩa mẫu của lão tặc. Song Ma tu luyện trên núi Ngọc Sơn, cách Nam Xuống hơn trăm dặm. Cặp ma đầu ấy từng liên thủ giao đấu với Hằng Sơn Thiền ông ngoài ngàn chiêu mới chịu bại. Có lê sau này công tử nên giết kẻ thù một cách âm thầm thì tốt hơn.

    Tuấn Hạc mỉm cười nói sang chuyện khác

    Gần tháng sau, hai người đến bờ Hoàng Hà, bên kia sông chính là địa phận của phủ Sơn Tây.

    Tuấn Hạc dửng trên đò ngang, ngắm nhìn dòng nước vàng đục chảy cuồn cuộn về Đông, mạnh mê hơn cả Trường Giang.

    Chàng khoan khoái, say mê thì thầm ngâm vịnh.

    Nhưng đò vừa ra đến giữa sông đã bị một chiếc khoái thuyền thân dài đuổi kịp.

    Đứng trên mũi trước chính là Hoàng Sơn Nhị Quỷ. Một lão quát lên như sấm:

    - Nhâm Bá Linh, ngươi tưởng rằng có thể thoát thân được sao?

    Nhâm lão biến sắc bảo Tuấn Hạc:

    - Lão nô phải đối phó với chúng. công tử cứ đi trước hẹn nhau ở chân núi Hằng Sơn Lão nô tinh thông thủy tính, chẳng thể chết được đâu.

    Tuấn Hạc sợ hãi gật đầu:

    - Mong Nhâm đại thúc bảo trọng.

    Hoàng Diện Thái Tuế trao tay nải cho Tuấn Hạc rồi tháo dây Thiết Luyện quấn quanh bụng dấu dưới thắt lưng nhảy sang thuyền của đối phương.

    Nhâm lão giương danh giang hồ bằng vũ khí độc môn có tên là Thiết Luyện Lưu Tinh Chùy. Trái cầu gai bằng thép ở dầu sợi xích dài gần trượng kia tuy chỉ lớn hơn trái chanh nhưng rất nặng và sắc bén.

    Nhâm lão lao vào khoảng không giữa hai chiếc thuyền. Lưu Tinh Chùy quét một đòn sấm sét khiến Nhị Quỷ phải thoái bộ, nhường chỗ cho Hoàng Diện Thái Tuế hạ thân xuống mũi khoái thuyền.

    Ở địa thế chật hẹp này, Nhâm Bá Linh chẳng thể phát huy được uy lực của pho chùy pháp. Lão phải thu ngắn dây Thiết Luyện lại vì Hoàng Sơn Nhị Quỷ đã múa tít đoản kích xông vào.

    Vũ khí dài như Thiết Luyện tối ky việc đánh gần. Vì vậy, Nhâm lão cố giữ không để đối phương nhập nội. Lúc đầu, nhờ chân khí còn dồi dào nên Nhị Quỷ không tiến lên được. Đôi đoản kích tạo thành màn lưới thép, chống đỡ trái chùy kia.

    Tiếng vũ khí va chạm vang rền và những tia lửa nhỏ bắn ra liên tục.

    Sau gần ba trăm chiêu, khí lực Thái Tuế giảm sút, đường chùy không còn lợi hại như trước nữa. Đại Quỷ cười hăng hắc:

    - Bá Linh! Cách biệt hai mươi năm, xem ra bản lãnh ngươi chẳng tiến bộ được chút nào cả?

    Hoàng Diện Thái Tuế cười nhạt:

    - Khoan hãy đắc ý! Hôm nay lão phu sê đổi mạng với bọn ngươi "

    Lúc này đò ngang đã trôi khá xa, Tuấn Hạc không còn nhìn thấy rõ trận chiến trên khoái thuyền, chàng lo lắng cho Nhâm đại thúc, thầm khấn hoàng thiên bảo hựu cho lão.

    Ở đấy Nhâm lão đã bắt đầu kém thế.

    Hoàng Sơn Nhị Quỷ đã đánh bạt được trái thiết chùy và ập đến.

    Hoàng Diện Thái Tuế nhận ra sáu trên trạo phu đã thủ sẵn cung tiễn, phòng khi lão nhẩy xuống nước. Bá Linh nghĩ đến Tuấn Hạc liền cắn răng đạp mạnh xuống sàn thuyền. Nhị Quỷ kinh hãi lao vào như ánh chớp. Thiết Luyện bị khóa chặt và Thái Tuế trúng liền hai kích vào ngực, nhưng cú đạp thứ hai đã phá thủng đáy thuyền. Nước tràn vào rất nhanh khiến thuyền chìm hãn xuống. Bọn cung thủ mất đà, phải bám vào mạn thuyền.

    Chỉ chờ có thế, Hoàng Diện Thái Tuế lao xuống dòng nước Hoàng Hà mất dạng. Hoàng Sơn Nhị Quỷ và sáu thủ hạ ướt như chuột lột, lóp ngóp cố bơi vào bờ Nam.

    Tuấn Hạc thấy khoái thuyền đã chìm, chàng nửa mừng nửa lo. Sang đến bờ Bắc, Tuấn Hạc dẫn hai con tuấn mã vào phạn điếm bên đường chờ đợi. Mãi đến quá Ngọ vẫn không thấy Nhâm Bá Linh xuất hiện, chàng đành gởi ngựa và hành lý của lão lại quán cơm rồi một mình đi về hướng Bắc.


  2. #21
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tạo giáp chính là viên bồ bết, loại cây này mọc khắp lãnh thổ Trung Quốc và trái của nó đã trở thành chất tẩy rửa đầu tiên, từ thời nhà Tấn. Người ta giã nát bồ kết ra rồi viên thành hạt nhỏ như hạt quệt để tắm gội.

    Tắm xong, Tuấn Hạc rút thanh bảo kiếm ra cạo râu. Chàng rất hài lòng với thanh kiếm bề ngoài xấu xí nhưng rất sắc bén này.

    Lúc ra ngoài, chàng trở lại là một vị công tử anh tuấn phi phàm, làn da rám nắng càng tăng phần lịch lãm.

    Đã mười mấy ngày nay chàng chỉ ăn toàn bánh hấp, bánh bao, lương khô và không uống một giọt rượn. Vì vậy, dù cơm rượn ở quán Tẩy Trần chẳng ra gì, chàng cũng cảm thấy rất ngon.

    Tuấn Hạc đã ăn xong bốn chén cơm mà cây khắc hương trên quầy của chủ quán mới cháy được một nửa. Như vậy, còn đến bốn khắc hay nửa canh giờ nữa đò mới sang. Chàng bèn gọi thêm bình rượn nhỏ ngồi nhâm nhi.

    Bông một cỗ xe độc mã dừng lại trước cửa quán. Người đánh xe là một lão nhân mặc áo lụa xám, râu tóc hoa râm, dung mạo phương phi phúc hậu.

    Lão bước xuống, vén rèm xe phía sau, bồng ra một vị cô nương, đem vào đặt ngồi trên ghế. Lão tươi cười phân bua:

    - Khuyển nữ chẳng may mắc chứng quái tật Không cử động và cũng không nói được. Cũng may nó còn ăn uống được nếu không lão phu sẽ chẳng biết làm sao.

    Mụ chủ quán suýt soa:

    - Thật tội nghiệp! Một nữ nhân xinh đẹp thế này mà lại mắc chứng nan y.

    Chẳng hay lão gia định đưa tiểu thư đi đâu vậy?

    Lão nhân ngồi xuống ghế, rầu rĩ đáp:

    - Lão phu nghe nói ở Thạch Chuỳ Sơn có bậc thần tiên giáng hạ nên đem khuyển nữ đến đấy xem sao.

    Tuấn Hạc bỗng nhận ra gương mặt thiếu nữ kia rất quen thuộc. Nàng giống hệt ni cô Huệ Vân, người đã bị chàng đả bại và cứu mạng ở đại hội Hoa Sơn.

    Nàng ta ngồi đối diện với chàng và ánh mắt to đen kia ánh lên vẻ bi thương, đau đớn Tuấn Hạc nhìn thật kỹ rồi vận công truyền âm:

    - Tại hạ là Đơn Thu Cốt đây. Nếu cô nương chính là Huệ Vân thì hãy chớp mắt ba cái.

    Mắt nữ lang sáng lên và chớp đúng ba cái Tuấn Hạc hỏi tiếp:

    - Vậy cô nương bị lão già kia khống chế?

    Huệ Vân lại chớp mắt xác nhận.

    - cô nương yên tâm! Tại hạ sẽ giết lão ta ngay bây giờ.

    Chàng sợ đò sắp đến nên quyết định xuất thủ liền lập tức. Mụ chủ quán tính tiền xong, chàng khoác bọc hành lý vào vai, cầm kiếm đi ra.

    Lúc ngang qua bàn Huệ Vân, chàng thò tay giật mái tóc óng ả trên đầu nàng. Quả nhiên lộ ra lớp da đầu không có tóc. Tuấn Hạc tức tốc nắm thành ghế của nàng, kéo lùi về phía sau, rồi chỉ mặt lão nhân áo xám quát lớn:

    - Lão là yêu nhân nhượng nào, sao lại dám bắt cóc đệ tử phái Hằng Sơn?

    Lão ta giảo hoạt kêu lên:

    - Ngươi đừng vu khống, khuyển nữ lâm trọng bệnh nên phải cạo đầu để đỡ mất công gội.

    Tuấn Hạc cười nhạt :

    - Để xem lão có chịu lộ nguyên hình hay không?

    Chàng vung hữn thủ giáng một chưởng sấm sét vào ngực đối phương. Lão ta không còn cách nào khác, đành tung mình né tránh. Thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn, chẳng giống một viên ngoại chút nào. Tuấn Hạc rất quý thời gian nên rút phăng trường kiếm, xuất chiêu Tịch Dương Vô Ngũ.

    Lúc này, trên tay lão nhân đã xuất hiện hai thanh đoản kiếm tẩm độc xanh lè. Lão nghiến răng xông vào lưới kiếm vì thấy chẳng có gì đáng sợ.

    Nhưng lão đã lầm giống như những người đã từng so kiếm với Tuấn Hạc.

    Chiêu kiếm này không xuất ra âm thanh hay ánh sáng lóe mắt nhưng lại vô cùng nguy hiểm. Mũi kiếm cứ âm thầm lướt đến, xuyên qua màn kiếm quang của đối phương và cắm thẳng vào ngực.

    Lão ác ma đau đớn ôm ngực trái, dương cặp mắt oán độc, nói thều thào:

    - Ngươi . . đừng hòng . . tho át chết dưới . . tay Hoàng Thổ Chi Vương.

    Dứt lời, lão gục xuống chết tốt.

    Tuấn Hạc xách lão ra phía sau ném xuống dòng nước vàng đục của Hoàng Hà. Chàng trở ra nghiêm nghị bảo mụ chủ quán và các thực khách:

    - Đối với ân oán giang hồ, chư vị chớ nên dính vào uổng mạng. Cứ coi như lão ta không hề xuất hiện ở nơi này. Nhâm thần lạnh lẽo uy nghiêm của chàng đã khiến họ run bắn lên, đồng thanh gật đầu:

    - Bọn tiểu nhân đã hiểu.

    Tuấn Hạc nhặt mái tóc giả, bồng Huệ Vân đặt lên thùng xe, cột ngựa của mình vào phía sau rồi đánh xe đi.

    Đến bến đò, thấy gã hóa tử lúc nãy còn ngồi đấy, chàng vẫy gã lại gần rồi xòe cụp ngón tay đủ ba lần. Gã sợ hãi hỏi lại:

    - Công tử bao nhiêu tuổi?

    - Ta tròn bổn mươi .

    Gã ta run rẩy vòng tay vái :

    - Đệ tử là Lật Tử Cái Đổng Trung, xin bái kiến tứ trưởng lão.

    - Các hạ thuộc phân đà nào?

    - Bẩm trưởng lão! Cam Túc, Tây Hạ cùng chung một phân đà, trụ sở trong thành Ngân Xuyên.

    - Tốt lắm! Các hạ cùng ta qua sông rồi tìm phân đà chủ, bảo gã đến Tây Phương Tự trên Lục Bàn Sơn gặp ta. Còn các hạ dẫn con ngựa sau xe kia theo ta.

    chàng lại đưa thêm một tờ tiền giấy trị giá năm mươi lượng:

    - Đây là lệ phí.

    Đổng Trung mừng rỡ vái tạ, tháo dây cột ngựa, dẫn lên đò.

    Sang đến bờ bên kia, Tuấn Hạc hỏi Lật Tử Cái:

    - Gần đây có nơi nào vắng vẻ, kín đáo để ta xem xét bệnh trạng cho vị cô nương này không?

    Đổng Trung gật đầu, lên ngựa dẫn đường đi về hướng Nam. Được hơn dặm là đến một khoảnh rừng liễu nằm dựa bờ sông. Trong rừng có một tòa phế miếu điêu tàn. Họ Đổng cười bảo:

    - Bẩm trưởng lão! Đây là nơi cư ngu của tiểu nhân. Bề ngoài hoang phế nhưng bên trong rất sạch sẽ.

    Tuấn Hạc nghiệm giọng:

    - Nhờ các hạ cảnh giới dúm cho.

    Chàng mở rèm xe, bồng Huệ Vân vào miếu. Quả thực nền miếu được quét dọn tươm tất, và có cả một Oå rơm dày.

    Tuấn Hạc đặt Huệ Vân xuống Oå rơm rồi bảo:

    - Tại hạ sẽ hỏi, nếu đúng thì ni cô chớp mắt. Sai thì thôi.

    Huệ Vân chớp mắt trả lời. Tuấn Hạc hỏi liền:

    - Ni cô bị lão điểm huyệt?

    Huệ Vân xác nhận đúng.

    - Những huyệt đạo ấy nằm ở đâu?

    Nói xong chàng mới nhớ câu này không có cách trả lời. Chàng bèn hỏi lại:

    - Phía trước?

    Huệ Vân chớp mắt. Tuấn Hạc thở dài, ngượng ngừng nói:

    - Tại hạ sẽ đọc tên từng huyệt đạo, ni cô sẽ xác nhận những huyệt mà lão kia đã điểm.

    Cuối cùng thì Huệ Vân đã xác định được bảy huyệt mà lão ác nhân đã phong tỏa: Giáp Xa, Nhu Thượng, Thiên Tuyền, Thực Đầu, Thông Lốc, Bế Quan, Thạch Môn.

    Tuấn Hạc trầm ngâm suy nghĩ rất lâu, chính sắc nói :

    - Thủ pháp điểm huyệt này rất quái dị nhưng không làm khó được tại hạ. Tuy nhiên khi chữa trị tất phải mạo phạm đến những chỗ cấm ky của ngọc thể. Chẳng hay ni cô có thể tất cho không?

    Da mặt của Huệ Vân đỏ bừng lên và nàng chớp mắt tỏ ý ưng thuận.

    Do người bị phong tỏa kinh mạch quá lâu nên không thể dùng thủ pháp cách không chỉ lực mà giải được. Tuấn Hạc bắt buộc phải đặt ngón tay vào da thịt Huệ Vân, chân khí mới vào sâu đáy huyệt.

    Tuy không cần cởi y phục nhưng thời gian chàng đả thông hai huyệt Nhũ Trung và Khí Xung lại khá lâu nên Huệ Vân xấu hổ đến sa lệ. Đấy là hai vùng cấm của nữ nhân.

    Gần hai khắc trôi qua, Tuấn Hạc mới cứu được Huệ Vân. Sự ngượng ngừng khẩn trương đã khiến mồ hôi chàng toát ra như tắm. Huệ Vân lại tưởng chàng quá mệt nhọc nên càng cảm kích. Nàng ngồi lên, đổi thành thế quỳ, chắp tay vái Tuấn Hạc:

    - Đại ân hai lần cứu mạng của thí chủ, bần ni xin tạc dạ. Kiếp này bần ni sẽ luôn cầu nguyện Phật Tồ độ trì cho thí chủ.

    Tuấn Hạc vội đỡ nàng lên:

    - Ni cô đừng bận tâm.

    Huệ Vân thỏ thẻ :

    - Theo bần ni được biết thì công tử chẳng phải là Đơn Thu Cốt hay Doãn Tự Vân gì cả? Xin cho biết đại danh.

    Chàng cười đáp :

    - Tại hạ là Văn Tuấn Hạc, quên ở đất Lư Lăng, Giang Tây. à, ni cô đi đâu mà bị lão yêu quái kia bắt đem về tận chốn này?

    Huệ Vân ngượng ngừng đáp :

    - Bần ni rời Hằng Sơn về Hán Trung thăm gia quyến. Không ngờ khi đến Trường An thì lại bị lão nhân kia dùng mê hương ám hại. Lão nói rằng mình là Tầm Hoa sứ giả của Hoàng Thổ Vương Gia, có nhiệm vụ đi tìm nữ nhân về dâng cho Vương Gia.

    Tuấn Hạc thầm nghĩ: ~VỊ cô nương này có dung mạo kiều diễm phi phàm, sao lại nương thân cửa phật?" Chàng hỏi tiếp:

    - Lão Tầm Hoa sứ giả có nói ra tọa lạc căn cứ của Hoàng Thổ Vương Gia hay không?

    - Bần ni có nghe lão nhắc đến Hoàng Thổ Thành, nhưng không nói rõ ở đâu.

    Nàng hỏi lại:

    - Dám hỏi Văn thí chủ đến vùng biên tái này có việc gì?

    Tuấn Hạc thở dài đáp :

    - Thuyết thê bị trúng độc, tại hạ phải đến Tây Phương Tự để mượn Hàn Ngọc Thiền trượng về giải cứu. Nàng chỉ còn sống có hơn hai chục ngày nữa thôi.

    Huệ Vân vội nói:

    - Vậy tướng công hãy lên đường ngay đi Bần ni một mình trở lại Hán Trung cũng được .

    Tuấn Hạc lắc đầu:

    - Không được đâu! Lão Vương kia đã xưng là Hoàng Thổ Chi Vương tất thế lực bao trùm mấy tỉnh Tây Bắc này. Ni cô chỉ mới phục hồi hai thành công lực, tại hạ chẳng yên tâm chút nào cả. Hay là ni cô theo tại hạ đến Lục Bàn Sơn? Xong việc, tại hạ sẽ nhờ bằng hữu là Vô Giới hòa thượng hộ tống ni cô về Hán Trung?

    Huệ Vân bẽn lẽn ưng thuận:

    - Thí chủ đã có dạ quan hoài, bần ni xin tuân mệnh.

    Mặt hoa bỗng thoáng hồng, nàng ngượng ngừng nói:

    - Trong đại hội Hoa Sơn. Đào Hoa Khê Chủ đã nói với mọi người rằng công tử là truyền nhân của Cuồng Kiếm Thần Y tiền bối. Lúc về đến núi Hằng Sơn, chưởng môn sư tỷ đã tiết lộ rằng Công Tôn tiền bối chính là Tiêu Dao Thượng Nhân của phái Nga Mi. Như vậy, đối với Hằng Sơn phái cũng có uyên nguyên. Bần ni mong thí chủ xưng hô như huynh đệ đồng môn có được không?

    Tuấn Hạc giật mình, không ngờ rằng ân sư của mình lại là cao thủ của Nga Mi.

    Chàng ngượng ngừng gật đầu. Huệ Vân mừng rỡ vòng tay:

    - Tiểu muội bái kiến sư huynh"

    Huệ Vân sửa sang xiêm y và mái tóc giả trên đầu rồi cười bảo:

    - Sư huynh thấy không? Với trang phục này mà cứ gọi là ni cô thì khó nghe biết chừng nào "

    Tuấn Hạc thấy ánh mắt nàng chan chứa niềm vui và nụ cười đầy mị lực, vội quay sang chỗ khác.

    chàng bước ra gọi Lật Tử Cái:

    - Chiếc xe này không nên lưu lại, các hạ hãy phi tang dúm ta và vào thành tìm phân đà chủ. Giờ ta và Huệ Vân sư muội phải lên đường ngay.

    Lật Tử Cái mau mắn tháo con ngựa.

    Lão xin phép ra ngoài và trở về với một bộ yên cương cũ kỹ nhưng còn rất tốt.

    Gã cung kính tiễn đưa:

    - Trưởng lão thượng lộ bình yên.



    Lục Bàn Sơn là dãy núi nằm giữa ranh giới Tây Hạ và Cam Túc. Sườn Bắc thuộc đất Hồi, sườn Nam thuộc đất Cam.

    Tuấn Hạc cùng Huệ Vân đi chếch xuống hướng Tây Nam, vào địa phận Cam Túc. Họ ghé vào một trấn lớn dọc đường để mua y phục cho Huệ Vân. Đây là vùng chịu ảnh hưởng của phái Lạt Ma nên chẳng tìm đâu ra được tăng bào. Huệ Vân đành phải bằng lòng với những bộ võ phục may sẵn. Nàng dịu dàng thố lộ:

    - Sư huynh! Lúc chưa xuất gia, tục danh của tiểu muội là Mạc ái Luân.

    Tuấn Hạc hiểu ý:

    - Ta sẽ gọi nàng là Mạc sư muội.

    Ba ngày sau, hai người mới đến được ngọn cực Tây của rặng núi Lục Bàn. Tây Phương Tự nằm phơi ngói đỏ trên sườn nul.

    Thấy ngay chân núi có ngôi quán lá, treo ngọn tửu kỳ phất phới. Tuấn Hạc rủ Huệ Vân đến đấy gởi ngựa. Cách vài trượng đã nghe tiếng Vô Giới oang oang:

    - Chủ quán đâu? Phật gia gọi thêm vò rượn nãy giờ sao không thấy bưng ra?

    Có tiếng người đáp lại:

    - Đại sư thông cảm cho, bổn quán ít vốn mà đại sư thiếu đến ba mươi lượng, tiểu nhân chẳng thể cho ghi sổ thêm nữa.

    Tuấn Hạc mỉm cười, kéo sụp chiếc nón rộng vành xuống, che khuất gương mặt rồi bước vào.

    chàng nhẹ nhàng ngồi xuống một bàn trong góc ngoài. Huệ Vân hỏi nhỏ:

    - Sư huynh định bỡn cợt với Vô Giới hòa thượng đấy ư?

    Chàng gật đầu, lấy mặt nạ mang vào rối cao giọng:

    - Chủ quán đâu, cho lão phu một vò rượn lâu năm và một mâm thịnh soạn.

    Lão chủ quán dạ vang, bưng ngay vò rượn ra trước. Lão cười giả lả:

    - Đây là vò rượn Lan Sinh cất ba mươi năm, xin đại nhân thưởng thức thử xem.

    Lúc này, Tuấn Hạc mang dung mạo của một lão nhân lục tuần. Chàng gật đầu mở nắp, mùi rượn bay ra thơm ngát, chàng giả vờ than:

    - Hảo tửu! Không ngờ vùng đất hoang vu thô lậu này lại có được vò rượn ngon thế này. Chẳng lẽ không ai biết thưởng thức?

    Chàng róc ra uống liền ba chung, tấm tắc khen mãi. Vô Giới hòa thượng tròn mắt nhìn, nuốt nước miếng liên hồi. Lão điên tiết đập bàn mắng chủ quán:

    - Lão có rượn ngon sao không bán cho bần tăng, để người ngoài đến đây nhiếc móc dân đất Cam không biết thưởng thức?

    Lão chủ quán dường như có chỗ dựa nên không hề sợ hãi:

    - Phương trượng Tây Phương Tự đã cấm tiểu nhân bán rượn cho đại sư, thiếu như thế cũng là quá lắm rồi.

    Nghe nhắc đến Tây Phật, Vô Giới xìu ngay xuống:

    - Thôi được! Bần tăng không dám đòi hỏi nữa! Đành phải giới tửu vậy.

    Gương mặt thiểu não của lão khiến Huệ Vân bật cười. Vô Giới bực mình quắc mắt nhìn nàng. Lão giật mình nhận ra nữ lang kia rất quen thuộc.

    Huệ Vân vui vẻ gọi:

    - Mời đại sư cùng uống cho vui .

    Vô Giới khoan khoái bước đến, ngồi ngay xuống ghế đối diện. Lão sững sờ khi nghe lão già kia nói:

    - Đã thích uống rượn sao không trở về Thiên Ma Cốc làm cốc chủ?

    Hòa thượng vui mừng khôn xiết, cười ha hả, bước đến ôm lấy Tuấn Hạc:

    - Té ra là Văn thí chủ! Hòa thượng ta gặp may rồi.

    Lão quay sang Huệ Vân ngập ngừng hỏi:

    - Còn nữ thí chủ đây là ai mà bần tăng không nhớ ra?

    Tuấn Hạc cười đáp :

    - Người chính là ni cô của phái Hằng Sơn vô Giới lại cười ha hả, giơ ngón cái khen:

    - Văn thí chủ giỏi thật! Quyến rũ được cả đệ tử Phật môn.

    Tuấn Hạc bẽ bàng nói ngay:

    - Đại sư nên cẩn ngôn.

    Vô Giới thấy ánh mắt chàng có sắc giận, còn mặt Huệ Vân đỏ như gấc chính, biết ngay mình đã lỡ lời. Lão vội nói chữa thẹn:

    - Bần tăng biết mình nói bậy, tự phạt mình ba chén lớn.

    Lão uống xong nghiêm giọng hỏi:

    - Vì sao nhị vị thí chủ phải lặn lội đến tận chốn này?

    Tuấn Hạc rầu rỉ nói :

    - Thuyết thê ôn Tiểu Băng vẫn còn sống nhưng lại bị độc thủ của ôn giáo chủ. Tại hạ muốn lên chùa Tây Phương mượn Hàn Ngọc Thiền Trượng về chữa trị cho nàng.

    Vô Giới cười xòa:

    - Việc ấy không khó! Gia sư cũng rất muốn gặp mặt thí chủ. Nhưng giờ là lúc người nhập định, chúng ta hãy uống hết vò rượn này rồi hãy lên.

    Trong thâm tâm, Vô Giới vẫn coi Tuấn Hạc là bằng hữu vong niên của mình. Lão yêu mến chàng và rất mừng được tái ngộ.

    Ba người trò chuyện rất vui vẻ. Vô Giới nghe kể đến Hoàng Thổ Chi Vương, nhăn mặt bảo:

    - Lão quỷ ấy đã từng đến đây mời gia sư về làm phó vương, cùng mun bá nghiệp. Gia sư lựa lời từ chối và khi lão đi rồi, người thở dài bảo: người này ngộ kỳ duyên, bản lãnh đáng xưng là vô địch.

    Lão ta lại nuôi dã tâm quá lớn, e rằng võ lâm Trung Nguyên sẽ chẳng được yên thân.

    Tuấn Hạc nhíu mày hỏi thêm:

    - Đại sư có biết danh rành của lão không?

    - Gia sư có tiết lộ điều ấy. Lão ta là người Đột Quyết, họ Hướng tên Y Xích.

    Tuấn Hạc gọi lão chủ quán tính tiền.

    Chàng đưa thêm ba chục lượng để trả món nợ của Vô Giới.

    Lão cười hề hề:

    - Nếu biết đại sư đây có bằng hữu là bậc đại phú thế này, dẫu thiếu bao nhiêu tiểu nhân cũng cho cả.

    Ba người kéo nhau lên núi, Tây Phật đã nhập định xong, bước ra tiếp khách.

    Huệ Vân tỏ lòng kính trọng nên tháo tóc giả quỳ xuống ra mắt:

    - Hằng Sơn mạt học Huệ Vân bái kiến Thần Tăng "

    Tuấn Hạc cũng gỡ mặt nạ, thi đại lễ.

    Tây Phật vóc người nhỏ bé, râu dài đến bụng, da dẻ hồng hào như trẻ thơ. ông cười khà khà mời hai người an tọa.

    Tây Phật ngắm nhìn dung mạo của đôi nam nữ rồi thở dài:

    - Huệ Vân dạo hữu! Lão nạp xin tặng mấy câu kệ thế này:

    "Phật độ hữu duyên nhân, Hồng nhan nhập không môn.

    Nhược đông thời thiệp xuyên, Nhất niệm tồn nan quá"

    Khứ chi ! Khứ chi ! " (Dịch thơ) "Phật kia độ kè hữu duyên, Má hồng nương tựa cửa tuyền khó xong.

    Sang sông giữa tiết trời đông, Lòng còn vương vấn đừng mong tới bờ.

    Đi thôi! BỎ thôi!" Huệ Vân nghe xong biến sắc, không hiểu Tây Phật muốn khuyên mình cố gắng tu hành hay hoàn tục. Chữ khứ kia vừa có nghĩa đi tới, vừa có nghĩa vứt bỏ đi Huệ Vân ấp úng nói :

    - Bần ni không hiểu diệu ý của Thần Tăng; Tây Phật mỉm cười :

    - Chẳng cần phải thấu hiểu. Cái gì cần làm thì cứ làm.

    Lão quay sang bảo Tuấn Hạc:

    - Thí chủ đột ngột đến đây, chắc là có việc cần?

    - Bẩm Thần Tăng! Vãn sinh muốn mượn Hàn Ngọc Thiền Trượng về Sơn Tấy để cứu thuyết thê .

    Tây Phật tủm tỉm cười :

    - Vật ấy vốn của thí chủ đòi lại giùm, lão nạp đâu dám tiếc.

    Lão bước vào phòng lấy Ngọc Trượng ra, trao cho Tuấn Hạc rồi bảo:

    - Lão nạp nghe nói vật này còn là chìa khóa mở cửa một kho tàng nào đấy! Nếu có cơ hội, thí chủ hãy tìm cho được kho tàng kia.

    Tuấn Hạc gượng cười :

    - Vãn sinh không hề có tham vọng ấy.

    Tây Phật nghiêm trang bảo:

    - của cải nằm chất trong kho chỉ là vật vô dụng. Nhưng nếu dùng để chẩn tế cho dân nghèo thì cũng là cách tạo phúc.

    Tuấn Hạc thức ngộ ra, cúi đầu nhận mệnh. Chàng cáo từ đi ngay.

    Tây Phật hỏi bát tự của Tiểu Băng, bấm tay tính toán một hồi rồi trấn an:

    - Mạng của người này rất lớn, tuổi thọ trên tám mươi, chẳng thể nào đoản mệnh được Thí chủ cứ thong thả mà đi .

    Tây Phật đã ngoài trăm tuổi, tinh thông cả phật pháp lẫn dịch số, được xem là đệ nhất kỳ nhân đương đại. Vì vậy, Tuấn Hạc rất vui mừng, yên tâm ở lại một đêm.

    Sáng hôm sau, lúc tiễn đưa Tuấn Hạc xuống núi, Vô Giới gãi đầu nói với Tây Phật:

    - Sư phụ! Hàn Ngọc Thiền Trượng là bảo vật trấn sơn, đồ nhi xin đi theo bảo vệ và mang về. Văn thí chủ đây gia vụ đa đoan, chắc không rảnh rỗi để lặn lội ngàn dặm đem trả cho chúng ta.

    Tây Phật mỉm cười :

    - Muốn đi thì cứ thu xếp hành lý, hà tất phải viện cớ quanh co như vậy?

    Vô Giới mừng rỡ chạy vào trong xách tay nải ra, quỳ xuống lạy tạ rồi đi theo Tuấn Hạc. Xuống đến chân núi, chàng bảo lão:

    - Phiền đại sư hộ tống Huệ Vân sư muội về Hán Trung, hẹn gặp nhau ở Hằng Sơn Huệ Vân lắc đầu cười bảo:

    - Tiểu muội không nhất thiết phải về Hán Trung nữa. Ơø đấy chỉ còn vài người bà con xa mà thôi. Ba chúng ta về cả Hằng Sơn cho thuận đường.

    Vô Giới hoan hỉ nói:

    - Té ra vị ni cô này trong lòng có tâm sự gì nặng nề nên mới định đi chơi một chuyến cho khuây khỏa?

    Huệ Vân đỏ mặt, cúi đầu.

    Nàng không ngờ lão hòa thượng quái dị này lại đoán ra tâm tình của mình.

    Quả thực là từ sau đại hội Hoa Sơn, lòng nàng không còn tĩnh lặng như trước nữa. Đơn Thu Cốt đã cứu mạng nàng và để lại những cảm giác khó quên. Nàng nhớ mãi cảnh tượng mình nằm trong vòng tay một nam nhân, dù khổ công tụng niệm cũng chẳng thể xóa mờ ký ức.

    Huệ Hà sư thái thấy nàng gầy đi nhiều và trầm lặng khác thường, bà hiểu ngay tâm sự, dịu dàng nói rằng:

    - Sư muội được tạo hóa ban cho một nhan sắc thiên kiều bá mị, tất không phải là người của phật môn. Sư muội hãy hạ sơn ngao du một thời gian xem sao. Nếu tìm được người ấy thì bất tất phải về núi nữa.

    Chính vì vậy, Huệ Vân mới rời Hằng sơn bôn tẩu giang hồ và được biết kẻ giả dạng Đơn Thu Cốt và Doãn Tự Vân chính là Văn nhị công tử của Văn gia bảo. Sau đó nàng lại nghe chàng tự vẩn vì toàn gia bị thảm tử.

    Huệ Vân đau đớn định trở về Hán Trung thăm mộ song thân một chuyến rồi trở lại Hằng Sơn tu niệm. Nào ngờ, họa trung đắc phúc, tuy bị Tầm Hoa sứ giả bắt cóc, nhưng lại tái ngộ người trong mộng.

    Được Tuấn Hạc cứu mạng lần thứ hai, mối tình kia càng sâu nặng. Nhưng Huệ Vân tu hành từ nhỏ nên sợ hãi chính tình yêu của mình. Nàng không dám và cũng không biết cách thổ lộ.


  3. #22
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 12

    Kiếm hạ dung Hoắc thị
    Hoàng Thổ khấp hồng nhan
    Đường về không đến nỗi gian khổ như lúc ra đi. Thứ nhất là nhờ có lời tiên đoán của Tây Phật. Thứ hai, Vô Giới rất thông thạo đường lối nên đã tránh được những địa hình gian nan, trắc trở. Ba người đi chếch lên hướng Đông Bắc, tám ngày sau còn cách thành Đông Thăng hơn trăm dặm.

    Có Vô Giới và Huệ Vân đồng hành, đường thiên lý như ngắn lại và nỗi ưu tư trong lòng Tuấn Hạc cũng vơi đi. Nắng hạ vẫn gay gắt nhưng thỉnh thoảng cũng có những cơn mưa rào ập đến, tắm mát cho lữ khách, đồng thời cũng làm đường đi thêm lầy lội, dơ bẩn.

    Mặt đất Hoàng Thổ bị xói mòn, chia cắt thành hẻm sâu và gò đống lởm chởm nên việc canh tác rất khó khăn. Vì vậy, vùng này hoang vu, vắng bóng dân cư, đương nhiên hàng quán cũng thiếu.

    Mỗi lần đến được chỗ sầm uất, bọn Tuấn Hạc phải mua thật nhiều lương khô, để dành cho đoạn tiếp theo. Họ thường xuyên phải ngủ lại dọc đường, những lúc ấy Huệ Vân có dịp trổ tài bếp núc, chăm sóc cho hai nam nhân kia. Nàng là ni cô, vô Giới là sư nên nàng cũng gọi lão bằng sư huynh.

    Huệ Vân có nước da trắng như tuyết, nay dãi nắng dầm mưa, đỏ rực lên và cháy nạm. Vô Giới cười khà khà bảo:

    - Tội nghiệp cho sư muội, theo bọn ta làm gì cho mặt hoa tàn tạ thế kia?

    Huệ Vân dịu dàng bảo:

    - Thân tứ đại chỉ là vật giả, trước sau gì cũng mất đi, hà tất phải đau lòng vì xấu đẹp?

    Vô Giới gật gù:

    - Đúng vậy, nhan sắc kia gởi vào chốn thiền môn cũng như vàng bạc chôn sâu dưới lòng đất, có sáng hay mờ cũng thế thôi Vầng dương đã sắp khuất sau rặng núi cuối trời Tây mà vẫn chưa thấy mái nhà nào, Tuấn Hạc thở dài:

    - Đêm nay Huệ Vân sư muội lại phải ngủ ngoài đồng trống nữa rồi.

    Nghe giọng quan hoài, Huệ Vân sung sướng đáp :

    - Đa tạ sư huynh đã quan tâm, nhưng tiểu muội đã quen rồi, chẳng hề thấy cực khổ chút nào cả.

    ánh mắt nàng bày tỏ trọn vẹn mối chân tình, tràn ngập niềm hạnh phúc và chan chứa yêu thương. Tuấn Hạc cố nén tiếng thở dài, thầm trách trời già cứ đẩy đưa mình vướng vào lưới tình.

    Chàng đưa mắt nhìn về phía trước, giật mình phát hiện một lá cờ vàng to bằng hai mảnh chiếu đang bay phần phật, thấp thoáng bốn chữ Hoàng Thổ Chi Vương - cách đấy chừng hai mươi trượng.

    Vô Giới cũng đã nhìn thấy, cười hì hì bảo:

    - Chúng ta sắp được đánh một trận sướng tay.

    Tuấn Hạc trầm giọng:

    - Chỉ lo cho Huệ Vân thôi. Hai ta kẹp nàng ở giữa rồi phá vòng vây thoát đi.

    Vô Giới cố bám víu một chút hy vọng:

    - chưa chắc họ đã nhận ra chúng ta.

    Huệ Vân buồn bã nói:

    - Văn sư huynh cần phải sống để đem Phật Trượng về cứu Tiểu Băng. Xin đừng để ý đến tiểu muội.

    Tuấn Hạc cười mát:

    - Tử sinh hàn mệnh! Làm việc nghĩa chẳng thể cân nhắc thân sơ. Nếu ta vì Tiểu Băng mà bỏ nàng, cố cứu lấy mạng mình thì sau này tất cũng chẳng thể yên tâm làm người.

    Dứt lời, chàng thúc ngựa đi nhanh hơn, khẳng khái tiến đến vùng hiểm địa, đoạn đường phía trước chính là một hẻm cạn, do mặt đất bị nước xói mòn tạo nên. Hai bên là gò đống lổn nhổn, và toán cao thủ của Hoàng Thổ Thành đứng ở trên ấy.

    Năm mươi tên cao thủ kia đều mặc y phục màu nâu vàng, tiệp với màu đất Hoàng Thổ dưới chân, chiếc khăn bịt đầu cũng vậy, hông họ đeo đao lủng lẳng và cung tiễn sẵn trên tay.

    Trên gò đất cao nhất ở mé hán có một cây vu cao lớn um tùm. Đại kỳ cắm dưới bóng mát của tàn cây, và cạnh đấy là một hán tử áo trắng, khăn buộc tóc màu vàng kim. Vô Giới nhận ra lai lịch của hán tử, quay sang bảo Tuấn Hạc.

    - Gã này là cận vệ của Hoàng Thổ Vương Gia, đã từng theo lão ta đến Lục Bàn Sơn. Để bần tăng đối đáp với y, nhị vị hãy dừng lại ở đây, đừng đi vào hẻm vực kia.

    Vô Giới thúc ngựa lên trước, cười ha hả hỏi:

    - Có phải tôn giá là Truy Mệnh Kiếm Sứ dưới trướng Hướng Vương Gia đấy không? Sao lại đến đây phơi nắng thế này?

    Hán tử áo trắng cười nhạt :

    - Bổn sứ giả chờ đợi để đưa bọn ngươi về chốn suối vàng đấy.

    Vô Giới cười khanh khách:

    - Bần tăng là hảo hán của Diêm Vương nên thường lui tới chốn hoàng tuyền nên có lạ lùng gì? Tôn giá cứ đi một mình đi.

    Tuấn Hạc đứng hơi xa nhưng nhờ nhãn lực sắc bén nên cũng nhìn rõ dung mạo gã áo trắng. Tuổi y độ bốn mươi, vóc dáng cao gầy, da mặt tái xanh. Đáng sợ nhất là dôi mắt dài nhỏ nằm dưới cặp lông mày rậm, giao nhau ở mi tâm, nối lại thành một đường liền lạc. Tử đôi mắt híp như hai sợi chỉ ấy, luồng nhãn quang tàn độc bắn ra khiến người đối diện phải nổi gai ốc. Y lại không có râu, chiếc cằm bạnh và vành miệng rộng càng tăng phần tàn nhẫn. Giờ đây, đôi môi mỏng kia đang rít lên:

    - Đừng lắm lời! NỂ mặt Tây Phật, bổn sứ giả tha mạng cho lão, hãy quay về Lục Bàn Sơn đi.

    Gã dơ cao kiếm chỉ về phía Tuấn Hạc:

    - Tiểu tử kia lại đây! Ngươi đã có gan giết Tầm Hoa sứ giả, sao giờ lại núp bóng lão trọc này?

    Tuấn Hạc thúc ngựa tiến lên, điềm đạm hỏi:

    - Tôn giá định dùng số đông để uy hiếp hay đơn đấu. Tại hạ nghe Vô Giới đại sư bảo rằng tôn giá là đại cao thủ Hoàng Thổ Thành, chẳng hiểu có dám cùng tại hạ tỉ đấu công bằng hay không?

    Tuấn Hạc là người chính trực, chẳng thích dùng mưu mẹo. Nhưng nay, đứng trước cảnh hiểm nghèo đành phải vận dụng tâm cơ, dùng kế khích trướng.

    Mẹo này chẳng có gì là xâu xa, huyền diệu, nhưng lại luôn đắc dụng với những kẻ tự cao, tự dại. Khuất Bạch Thành mắc mưu này thì Truy Mệnh Kiếm Sứ cũng không tránh khỏi. Trong võ lâm, chẳng có mấy ai không lụy bởi thanh danh. Vì vậy, hán tử áo trắng cười ngạo nghễ đáp ngay:

    - Tiểu tử ngươi tưởng giết được Tầm Hoa sứ giả là có thể diệu võ dương oai với Hoắc mỗ được sao? Nếu ngươi thắng ta, dù chỉ nửa chiêu cũng có thể an toàn thượng lộ.

    Dứt lời, gã tung mình rời gò đất, nhẹ nhàng hạ thân xuống đứng đối diện với Tuấn Hạc. Chàng nhận ra không một hạt bụi nào bay lên, thầm khen thưởng bản lãnh của đối phương.

    Tuấn Hạc truyền âm bảo Vô Giới:

    - Đại sư hãy lui lại, đứng cạnh Huệ Vân. Nếu tại hạ bại, tức tốc đưa nàng trở lại tìm đường khác mà đi.

    Vô Giới rầu rỉ làm theo lời chàng.

    Tuấn Hạc xuống ngựa, rút kiếm thủ thế.

    Truy Mệnh Kiếm Sứ ập đến tấn công ngay để chiếm tiên cơ. Thân pháp của hắn nhanh như ánh chớp và đường kiếm cũng cực kỳ hiểm ác, phong tỏa bảy yếu huyệt cùng một lúc.

    Tuấn Hạc thận trọng dùng Thiên Trù Trướng Mộ Yên đón đỡ và phản kích lại.

    Hai thanh trường kiếm xoắn lấy nhau, vang lên những tiếng ngân dài. Tốc độ chuyển động ngày càng tăng khiến bụi vàng bốc lên che mờ hai đối thủ. Họ đảo lộn, lên xuống, ập vào rồi lại văng ra.

    Trên người Tuấn Hạc đã có sáu vết kiếm thương nhẹ và đối phương chỉ bị có hai.

    Huệ Vân nhìn những giọt máu bị kiếm phong thổi thành làn sương, lo lắng cho Tuấn Hạc. Mắt nàng nhòa lệ và miệng lâm râm khấn vái, cầu khẩn Phật Tồ và chư vị Bồ Tát phù trì cho chàng.

    Đến chiêu thứ ba trăm hai mươi sáu, Truy Mệnh Kiếm Sứ gầm vang, lao vào đối thủ, thanh trường kiếm rít lên ghê rợn, kiếm quang loang loáng dưới ánh tà dương, bao phủ cả đấu trường.

    Tuấn Hạc bỗng mỉm cười, lảo đảo bước đến, thân hình nghiêng ngã như say rượn mũi kiếm vẽ nhanh lên màn kiếm quang rực rỡ của đối phương những nét nguệch ngoạc. Chàng đã dồn hết năm mươi năm công lực vào thân kiếm nên lực đạo mãnh liệt phi thường. Tiếng tính tang ngân lên không dứt và đường kiếm của họ Hoắc bị chân lại. Đồng thời, mũi kiếm của Tuấn Hạc tìm ra sơ hở mà len vào đâm vào cổ họng đối thủ.

    Đôi mắt dài nhỏ kia trợn lên, đầy vẻ kinh hoàng và tuyệt vọng, nhưng khi mũi kiếm vừa chạm lớp da cổ đã bị Tuấn Hạc thu về.

    Chàng hòa nhã vòng tay nói:

    - cảm tạ tôn giá đã nhường cho nửa chiêu.

    - Hảo kiếm pháp! Hoắc mỗ khổ luyện kiếm thuật từ năm mười tuổi, không ngờ lại thảm bại dưới tay các hạ. Ta còn mặt mũi nào mà vác gươm hành tẩu giang hồ nữa?

    Tuấn Hạc nghiêm sắc mặt nói:

    - Tôn giá là bậc anh hùng cái thế, sao lại chỉ mới thất bại có một lần mà đã thoái chí? Con đường học kiếm dài vô tận, ai dám tự hào mình là kẻ đã đi đến cùng? Tại hạ nhờ gặp kỳ duyên nên công lực mới thâm hậu hơn tôn giá một bậc, nếu không cũng khó mà phá được chiêu kiếm kỳ tuyệt lúc nãy. Chính vì không muốn kiếm đạo mất đi một đóa kỳ hoa nên tại hạ đã không thể xuống tay. Nếu tôn giá khổ công rèn luyện thêm, chưa chắc lần sau tại hạ đã dành được thượng phong.

    Truy Mệnh Sứ sững sờ im lặng, lát sau gã thức ngộ được điều gì đó, bật cười khanh khách:

    - Té ra các hạ sợ mình trở thành cô độc vì không có đối thủ đấy ư? Được lắm"

    Hoắc Cân ta rất vinh dự được trở thành kình địch của các hạ.

    Gã bước đến vỗ vai chàng :

    - Tại hạ tung hoành dết Tây Hạ này đã nhiều năm, chưa hề gặp kiếm thủ nào xứng tay. Đôi lúc cảm giác cô đơn cũng khiến lòng trống vắng. Nay gặp được các hạ, Hoắc mỗ cảm thấy cuộc đời bớt vô vị.

    ít tháng nữa, Vương Gia tiến vào Trung Nguyên tranh bá, hẹn gặp các hạ ở bờ Động Đình Hồ, đúng trưa ngày rằm tháng tám.

    Tuấn Hạc cười đáp :

    - Tại hạ là Văn Tuấn Hạc, quê đất Lư Lăng, hứa sẽ có mặt đúng hẹn. Xin cáo biệt.

    Hoắc Cừu vòng tay chào, kéo quân đi ngược về hướng Tây. Huệ Vân chạy đến chăm sóc vết thương cho Tuấn Hạc. Đó chính là dấu vết sáu mũi kiếm, chúng đều lệch các đại huyệt chừng hai lóng tay. Vết thương không sâu nên chỉ đắp thuốc kim sang là đủ.

    Tuấn Hạc nghiêm giọng:

    - Tại hạ phải chịu đủ sáu nhát kiếm mới tìm ra lộ số kiếm pháp của đối phương. Hoắc Cừu đã tiến một bước rất dài trong kiếm đạo.

    Vô Giới cười hì hì:

    - Văn thí chủ mới đáng được xưng tụng là đệ nhất kiếm thủ.

    Huệ Vân không nói gì nhưng ánh mắt nàng đã nói lên niềm ngưỡng mộ vô bờ.

    Chàng trai kia không những là một đại kiếm khách mà còn là một bậc kỳ hiệp.

    Giết người đã khó, tha người lại càng khó hơn. Trong chốn võ lâm sắc máu này, chẳng ai dung tha địch thủ của mình và lại còn khuyến khích kẻ kia phục hận.

    Ba người đi thêm vài dặm thì trời sụp tối Chung quanh hoang vắng, chẳng một mái nhà, một ánh lửa, họ đành nghĩ chân trong một khe hẻm sâu.

    Vô Giới gom góp được một ít củi khô, nhóm đống lửa nhỏ. Huệ Vân và Tuấn Hạc lo bày lương thực trên tấm vải lều.

    ăn uống vừa xong thì đống lửa kia thoi thóp rồi tắt lịm, chỉ còn lại những làn khói trắng. Vô Giới khó chịu, bốc đất vàng lấp đi, miệng càu nhàu:

    - Để lại chỉ thêm nhức mũi.

    Huệ Vân tủm tỉm:

    - Lát nữa trăng mười sáu sẽ soi sáng cho giấc ngủ của chúng ta.

    Vô Giới hòa thượng đã uống cạn ba cân rượn ngon nên che miệng ngáp dài.

    Lão ôm chăn trải xuống chân vách hẻm rồi ngả lưng. Chưa đầy khắc sau, tiếng ngáy đã vang lên như sấm.

    Trăng dần lên cao, lơ lửng trên đầu ngọn đồi cao nhất phía xa xa. Tuấn Hạc tung mình lên bờ hẻm vực, đứng trên một gò đất, ngắm vùng đất bao la chung quanh.

    Dưới ánh trăng sực rỡ, hàng vạn gò đống kia chẳng khác gì những nấm mộ điêu tàn. Tiếng côn trùng rỉ rã và ngọn gió hạ vi vu càng làm cho không gian thêm tịch mịch, thê lương.

    Chàng nhớ thương vô hạn những người thân nơi Hải Giác Thiên Nhai. Tiểu Băng thì tử sinh chưa rõ, số còn lại bặt vô âm tín. Gương mặt kiều diễm, thùy mị của Doanh Doanh hiện ra khiến lòng chàng quặn đau.

    Và lần lượt, hình bóng đại ca Tuấn Thu, Hà Tú Chân, Văn Uyển Lan, Diệu Anh, Cù Sở Hòa . . như từ cỏi xa xôi nào đấy trở về Chàng hình dung thân họ đầy máu, da thịt nức nẻ, cháy xém vì lửa đỏ, bất giác dòng lệ thương tâm lén trào ra.

    Huệ Vân đã lên đến tự lúc nào không rõ. Nàng lặng lẽ ngắm nhìn những giọt nước mắt thống khổ của Tuấn Hạc. Huệ Vân nghe nỗi sầu muộn của chàng thấm vào hồn mình rồi nàng bật khóc.

    Tuấn Hạc quay sang, nhìn gương mặt thanh tú, thánh thiện của Huệ Vân, trong nỗi đớn đau và cô đơn cùng cực, sự hiện diện của nàng tựa như ánh lửa hồng ấm áp rong đêm đông băng giá. Chàng không tự chủ được, bước đến xiết chặt Huệ Vân vào lòng. Không ai nói tiếng nào cả, họ nhắm mắt lại như lắng nghe tiếng thở của chính lòng mình.

    Tuấn Hạc dần dần bình tâm lại, chàng buông Huệ Vân ra và thì thầm:

    - Cám ơn Mạc sư muội.

    Bông đôi tai tinh tường của chàng phát hiện ngoài xa có tiếng bước chân người.

    Chàng bế xốc Huệ Vân nhảy xuống hẻm vực Chàng lay nhẹ Vô Giới:

    - Đại sư có người tới.

    Hòa thượng bật dậy, cau mày bảo:

    - Chẳng lẽ gã Truy Mệnh Kiếm Sứ kia quay lại?

    Tuấn Hạc bác ngay:

    - Không phải Hoắc Cừn! Gã mang bản chất anh hùng chứ không phải phường phản bác.

    Vô Giới tư lự:

    - vùng đất này có hàng ngàn hẻm vực dọc ngang. Chưa chắc chúng đã phát hiện bọn ta ở dưới này. Huệ Vân sư muội hãy ở lại giữ ngựa và hành lý. Bần tăng và Tuấn Hạc lẻn ra đánh du kích một trận.

    Huệ Vân phụng phịu đáp :

    - Tiểu muội tuy không sánh với đại sư và Văn sư huynh nhưng cũng đâu đến nỗi yếu hèn? Cả ba chúng ta đều xuất trận.

    Tuấn Hạc biết nàng đủ sức tự vệ nên trao bảo kiếm:

    - Mạc sư muội hãy xử dụng thanh kiếm này, ta đã có pho Tiêu Dao Thần Chưởng.

    Vô Giới xách cây đoản côn bằng thép ròng nặng bốn mươi cân đi trước dẫn đường Họ cúi thấp người, lướt đi trong những hẻm vực, tiến về phía địch nhân.

    Tuấn Hạc núp sau một gò dết, căng mắt ra quan sát tứ bề. Chàng đếm được không dưới bốn chục tên đao thủ, chúng tỏa ra, cố tìm được chỗ bọn chàng nghĩ qua đêm.

    Có một toán sáu tên mò đến gần vị trí bọn Tuấn Hạc. Khi chúng còn cách chừng hơn trượng, ba người nhất tề xuất thủ.

    Đòn bất ngờ này hoàn toàn chính xác.

    Song chưởng của Tuấn Hạc vỗ dập ngực hai tên. Thiết côn của Vô Giới hòa thượng cũng không chịu kém, đập vỡ sọ hai gã xấu số. Huệ Vân kém hơn, chỉ giết được một tên. Nhưng gã thứ sáu cũng chẳng toàn mạng dưới chưởng kình của Tuấn Hạc .

    Tiếng la hét báo động vang dậy, nhưng bọn Tuấn Hạc đã nhảy xuống hẻm vực, thoát đi êm thắm. Tuy nhiên, họ không đào tẩu mà âm thầm tiến lên, tìm mục tiêu mới.

  4. #23
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Có tiếng người quát vang:

    - Đốt đuốc lên"

    Bọn đao thủ kia vội lúi húi che gió để bật hỏa tập, bọn Tuấn Hạc lợi dụng cơ hội ấy, nhảy đến tập kích lần nữa, tiêu diệt thêm được bốn tên.

    Nhưng rồi, mấy chục cây đuốc bừng sáng, soi rõ đấu trường. Tuấn Hạc dặn dò vô Giới và Huệ Vân rồi nhảy lên. Chàng phi thân vung chưởng giáng vào bọn đao thủ. Chưởng kình vũ bảo đẩy bốn gã về phía sau. Chúng rú lên đau đớn và không ngồi dậy nổi.

    Tuấn Hạc nhận ra thủ lĩnh của bọn này chính là một đại hán áo trắng, đứng trên gò đất cách đấy vài trượng. Chàng cử chưởng xuất chiêu Bạch Lãng Đao Thiên hạ thêm ba gã áo vàng, mở đường lao về phía ấy.

    Đại hán kia không phải là Hoắc Cừn, gã vạm vỡ hơn và có một bộ râu quai nón trông rất oai vệ. Thấy Tuấn Hạc xông đến, gã vẫn bình thản nắm chắc chuôi đao chờ đợi. Sát khí trong người gã toát ra hừng hực.

    Tuấn Hạc đã chạm trán với Hoắc Cừu nên sinh lòng cảnh giác. Đối phương mặc bạch y tất chức vụ, vai vế phải ngang hàng với Truy Mệnh Kiếm Sứ và võ công cũng chẳng thể kém hơn. Chàng lướt đến nhưng khi còn cách hơn trượng đã bất thần bốc thẳng lên cao, vừa kịp tránh khỏi một chiêu đao mãnh liệt. Đối phương trong tư thế Dĩ Dật Đãi Lao, chân khí sung mãn, đầy đủ nên đường đao nhanh như tia chớp và hùng mạnh phi thường. Đại hán đã dùng đến phép Ngự Đao, chứng tỏ bản lĩnh rất cao cường.

    Bạch y đại hán đã xuất thủ trước để chiếm tiên cơ và chắc mẩm rằng đối phương tay không vũ khí tất sẽ không chống nổi chiêu đao thần tốc. Nào ngờ, gã vừa động thân thì tiểu tử kia đã bay vọt lên như chiếc pháo thăng thiên. Và từ trên cao, lưới chưởng mờ mờ bủa xuống.

    Đại hán liền đổi chiêu, múa tít thanh bảo đao để phá chiêu.

    Nhưng dẫu sao gã cũng đã thất thế, công lực dồn vào thân đao không đủ và đường đao có vài sơ hở - khi chuyển từ chiêu này sang chiêu khác.

    Đối với các đại cao thủ thì như vậy là quá đủ chưởng kình của Tuấn Hạc xuyên qua chỗ mỏng nhất của màn đao quang, giáng vào ngực đối phương. Đại hán áo trắng hự lên, văng ra xa sáu bước, máu miệng ộc ra.

    Nhưng gã không hề gục ngã như Tuấn Hạc đã ước lượng, mà còn cười ngạo nghễ:

    - Giỏi lắm Tiểu Nhai Nhi"

    Tuấn Hạc lạnh lùng đáp :

    - Nếu tôn giá không mặc bảo y thì giờ này không còn mở miệng nữa rồi.

    Đại hán cười vang:

    - Bổn sứ giả là Truy Mệnh Đao Sứ, được Vương Gia yêu thương, ban cho Kim Khuyên Giáp để hộ thân, cả vùng Hoàng Thổ này đều biết việc ấy. Tại ngươi là kẻ xa lạ nên không biết đấy thôi.

    Tuấn Hạc liếc thấy Vô Giới hòa thượng và Huệ Vân đang dũng mãnh tung hoành giữa đám đao thủ nên yên tâm đối đáp:

    - Vậy là bản lãnh của tôn giá không bằng Hoắc Cừu nên Hướng Vương Gia mới phải ban cho bảo y. Việc ấy đáng hổ thẹn chứ có gì là vinh hạnh?

    Truy Mệnh Đao Sứ giận tím mặt:

    - Ngươi tưởng thắng được họ Hoắc là thắng được ta sao?

    Dứt lời gã vung đao chém liền. Nhận ra khinh công của đối phương cực kỳ nhanh nhẹn, đại hán không dùng thuật Ngự Đao mà đem pho đao pháp thành danh ra thi thố .

    Thanh bạch đao xanh biếc kia hóa thành những lớp sóng cuồn cuộn ập đến.

    Chiêu thức của gã kín đáo và hùng mạnh tuyệt luân.

    Đao tuy chỉ sắc bén có một bề nhưng dày và nặng hơn kiếm. Nhờ ưu điểm đó, đến thời nhà Minh, ba quân triều đình đều đã bỏ kiếm, sử dụng đao. Kiếm chỉ còn là một vật tùy thân của các vị võ tướng hoặc dùng làm kiếm lệnh.

    Nhưng trong giới võ lâm, kiếm vẫn giữ được ngôi vị độc tôn của mình.

    Kiếm nhẹ và sắc cả hai bên lưỡi nên cực kỳ linh hoạt biến ảo.

    Tuy nhiên, giờ đây, Tuấn Hạc không có kiếm trong tay. Chàng dùng pho Tiêu Dao Thất Thập Nhị Thủ mà đối phó. Từng loạt chưởng kình uy hiếp thân trên đối thủ, chạm vào màn đao kình, vang lên những tiếng lùng bùng hay tiếng gió rít gay gắt.

    Phách Không Chưởng chính là tuyệt học thượng thừa của võ thuật Trung Hoa.

    Nếu không có trên hai mươi năm công lực chẳng thể nào dồn được chân khí qua lòng bàn tay để tạo ra chưởng kình.

    ưu thế của nó là có thể từ xa tấn công địch thủ, chẳng cần phải chạm tay đến da thịt Nhưng đương nhiên công phu này rất hao tổn nội lực.

    Tuấn Hạc nhờ có nguồn chân khí hùng hậu, liên tục giáng những đòn nặng nề như búa bổ, khiến thanh đao của đối phương rung lên. Gã Đao Sứ vẫn cắn răng chống đỡ, chờ chàng đuối sức rồi mới phản công. Đôi mắt cú vọ kia chợt sáng lên ánh tàn độc và bảo đao hóa thành chiếc móng bạc bay về phía đối phương.

    Tuấn Hạc mỉm cười xuất chiêu Thu Dạ Hàn Tinh. Chưởng ảnh trùng trùng giăng mắc, chưởng phong lồng lộng như bảo tố vỗ vào lưới đao. Đại hán áo trắng trúng liền bốn phương vào ngực, bụng nhưng vẫn nghiến răng ập đến. Mũi đao lướt ngang bụng Tuấn Hạc, tưởng như sẽ cắt chàng thành hai đoạn.

    Nhưng có một vật gì đó rất cứng rắn đã cản đường đao lại. Chỉ trong sát na ấy, chân phải của Tuấn Hạc quất một cước vào vai tả đối phương. Cú đá như trời giáng đã chấn gãy khớp vai, đẩy Đao Sứ văng xa hơn trượng. Gã lồm cồm bò dậy, nhìn chàng bằng cặp mắt oán độc.

    Tuấn Hạc chưa kịp hạ thủ thì nghe tiếng dây cung bật và những mũi trường tiễn xé gió bay đến. Chàng vội múa tít song thủ, dùng chiêu Sảng Khí Phi Phi hộ thân. Màn chưởng phong đã đánh bạt trận mưa tên, nhưng ở bên kia, chợt vang lên tiếng kêu rên đau đớn của Huệ Vân.

    Tuấn Hạc kinh hãi, lướt nhanh về phía ấy nhận ra trên lưng Huệ Vân đã cắm sâu một mũi tên dài. Nàng lảo đảo, cố chống chọi với hai gã đao thủ.

    Cách đấy hơn trượng, Vô Giới hòa thượng đang lồng lộn như hổ dữ, múa tít thiết côn đối phó cùng sáu gã áo vàng.

    Tuấn Hạc động nộ, vận toàn lực giáng song chưởng vào đối thủ của Huệ Vân.

    Hai gã xấu số gào lên thảm thiết, lăng lông lốc trên mặt đất.

    Chàng vươn tả thủ cặp Huệ Vân vào hông, tay hữn đoạt lấy bảo kiếm của nàng, Tuấn Hạc quát vang:

    - Đại sư! Chúng ta rút thôi! Huệ Vân sư muội đã trúng tên"

    Nói xong, chàng múa tít bảo kiếm mở đường máu chạy về hướng Đông. Thanh kiếm lấp loáng dưới ánh trăng vàng nhạt, gạt phăng những mũi tên và chặt gãy những trở ngại trước mặt. Với pho khinh công Thiên Tinh Quá Hải, chàng lướt như bay trên đám gò đất, hẻm vực dọc ngang và biến mất.

    Vô Giới muốn chia rẽ lực lượng đối phương nên đào tẩu về hướng Bắc. Bọn đao thủ Hoàng Thổ Thành khinh công kém cỏi nên không cách nào đuổi kịp.

    Còn dùng ngựa thì càng thất sách vì địa hình cực kỳ trắc trở.

    Lúc này, bên cạnh Truy Mệnh Đao Sứ xuất hiện một người áo vàng. Đó là một lão nhân tuổi độ gần thất thập, vóc dáng nhỏ bé, tóc hoa râm và da mặt đỏ như gấc. Lão búi tóc theo kiểu đạo gia, tay cầm phất trần.

    Truy Mệnh Đao Sứ cố nén đau, nghiêng mình vái chào:

    - Cảm tạ Phó Vương đã cứu mạng "

    Đạo nhân áo vàng gật gù, ngửa mặt nhìn trăng một lúc thở dài bảo:

    - Chúng ta sơ xuất ở chỗ quá nóng nảy trước cái chết của Tầm Hoa sứ giả nên đã kết oán với tiểu tử họ Văn kia. Y chính là truyền nhân của Cuồng Kiếm Công Tôn Quang Nguyệt. Tuy tuổi mới đôi mươi nhưng đáng được coi là đệ nhất cao thủ đất Trung Nguyên. Thú thực, ngay bản thân bần đạo cũng không chắc thắng được y Truy Mệnh Đ ao Sứ không phục :

    - Thuộc hạ cho rằng họ Văn không quá lợi hại như vậy. Nếu bụng y không dấu sẵn một vật cứng thì đã đứt làm hai đoạn roi.

    Phó Vương lắc đầu:

    - Đao Sứ nói sai rồi. Văn nhị công tử là người thông minh tuyệt thế, mới mười ba tuổi đã nổi tiếng thần đồng. Khi y bước vào võ đạo cũng thành công nhanh chóng.

    Chỉ sau ba trăm chiêu đã tìm ra sơ hở trong pho kiếm pháp của Kiếm Sứ. Và lúc nãy, y cũng đã đoán được đường đao của các hạ sẽ lướt vào bụng. Họ Văn chỉ lợi dụng vật cứng ấy để thực hiện ý đồ chiến thuật của mình, tâm cơ và dũng khí ấy hỏi mấy ai có được?

    Đao Sứ hằn học nói:

    - Vậy sao Phó Vương không truy sát để diệt trừ hậu hoạn?

    Đạo nhân cười mát:

    - Bần đạo nói thực cho các hạ biết là pho khinh công Thiên Tinh Quá Hải kia độc bá võ lâm, chẳng thể nào đuổi kịp.

    Thứ hai là cổ nhân có câu giặc cùng chớ đuổi." Y không có kiếm trong tay còn đả thương được các hạ, thì liệu bần đạo có chịu nổi sự liều mạng của y không?

    Hơn nữa, bần đạo đã có ý chiêu mộ họ Văn về phò tá Vương Gia. Văn Tuấn Hạc nắm trong tay bốn vạn đệ tử Cái Bang ở vùng Nam Trường Giang, thu phục được y tốt hơn là giết đi.



    Nhắc lại Tuấn Hạc đem Huệ Vân thoát khỏi vòng vây, vận toàn lực chạy đi.

    Được vài dặm, chàng phi thân lên gò đất cao nhất, nhìn trở lại. Biết chắc không có người truy đuổi, chàng thở phào nhảy xuống, tìm một hẻm vực kín đáo để xem xét vết thương của Huệ Vân.

    Tuấn Hạc cởi áo choàng của mình trải xuống đất, đặt Huệ Vân nằm sấp xuống.

    Chàng dùng mũi kiếm cắt lớp vải quanh vết thương, điểm huyệt chỉ huyết rồi mới dám nhổ mũi tên. Một vòi máu bắn ra nhưng dừng lại ngay. Huệ Vân đau đớn rên rỉ khiến lòng chàng đau xót. Tuấn Hạc điểm nhanh vào hai huyệt Eá Minh, An Miêu sau tai trái khiến nàng mê man ngủ thiếp đi.

    Chàng xé vạt áo mình lau sạch máu quanh vết thương rồi bóp nát bốn viên linh đan đắp vào.

    Băng bó xong, Tuấn Hạc cho nàng uống thuốc trị thương. Chẳng có miếng nước nào, chàng đành nhai nát rồi dùng lưới mình đưa xuống cổ họng nàng.

    Chàng đã từng chạm đến những chỗ cấm ky nên không nề hà chuyện nhỏ nhặt này. Hành lý, lương thực, nước uống đều để ở chỗ cũ, có quay lại cũng chưa chắc đã còn. Tuấn Hạc nghe khát và biết rằng Huệ Vân mất máu tất cần nước hơn mình.

    Chàng quyết định đưa nàng rời khỏi khu vực này, may ra tìm được mái nhà nào đó Được giải huyệt, Huệ Vân tỉnh lại.

    Nàng chỉ khẽ rên rồi lại im ngay và nở nụ cười khô hé o :

    - Văn sư huynh có bị hề hấn gì không?

    Tuấn Hạc lắc đầu:

    - Cả ta và đại sư đều an toàn, nhưng đã lạc mất nhau rồi.

    Huệ Vân ho húng hắng mấy tiếng, nhăn mặt đáp:

    - Tiểu muội nghe đau ở vùng phổi mé hữn và khát khô cả cổ.

    Tuấn Hạc gượng cười bảo :

    - Ta cũng khát. Sư muội hãy để ta cõng đi tìm nước.

    Chàng đỡ nàng lên lưng mình rồi lướt đi dưới ánh trăng lạnh lẽo. Thỉnh thoảng, chàng trèo lên những gò đất cao nhìn tứ phía xem có ánh lửa hay mái nhà nào không?

    Tiếng ho sù sụ của Huệ Vân khiến lòng chàng quặn thắt. Phần Huệ Vân dù bị vết thương hành hạ nhưng vẫn thanh thản ôm chặc lấy cổ Tuấn Hạc. Nàng lắng nghe da thịt mình cọ sát vào cơ thể của chàng.

    Không phải vì xuân tình rạo rực mà là cảm giác ngọt ngào, hạnh phúc cuối cùng trong đời. Nàng biết mình chẳng còn sống được bao lâu nữa.

    Nàng không buồn vì mình sắp chết.

    Khi trong những giây phút cuối đời này, được ôm ấp người mình yêu dấu. Nàng yêu Tuấn Hạc nhưng chẳng bao giờ dám thố lộ Nếu nàng còn sống sót thì cũng lặng lẽ ôm mối tình câm, chia tay chàng - khi đã về đến Hằng Sơn.

    Tuấn Hạc không thấy nàng nói gì, sợ hãi hỏi:

    - Sư muội có sao không?

    Huệ Vân thì thầm vào tai chàng:

    - Tiểu muội rất hạnh phúc và mong sao được chết trên lưng sư huynh.

    cuối cùng thì cái chết đã đem lại cho nàng dũng khí để thổ lộ lòng mình. Tuấn Hạc rùng mình, choáng váng trước mối tình tha thiết của người con gái bạc mệnh này. Bất giác dòng lệ thương cảm trào ra.

    Chàng biết rõ rằng mũi trường tiễn kia đã đâm thủng phổi và trong vùng đất hoang vu thiếu thốn này, khả năng sống sót rất hiếm hoi.

    Huệ Vân từng kể cho chàng nghe rằng nàng mồ côi cha mẹ từ năm bảy tuổi.

    Trong một lần về thăm quê ở Hán Trung, Huệ Hà sư thái động lòng thương cô bé chăn trâu ngộ nghĩnh, đem về Hằng Sơn.

    Mạc ái Luân được Định Trần, sư phụ của Huệ Hà, nhận làm đệ tử.

    Thân phận côi cút của Huệ Vân đã khiến Tuấn Hạc sinh mối đồng cảm - vì chàng cũng mồ côi.

    Vết thương hoành hành khiến cơ thể Huệ Vân nóng ran vì cơn sốt. Nàng chìm dần trong cơn mê man, miệng rên rỉ đòi nước.

    Tuấn Hạc nghe đứt từng khúc ruột, lao đi như tên bắn. Đến đầu canh năm vẫn chưa tìm được nước, bản thân chàng cũng mệt mỏi rã rời. Chàng đành dừng lại trên một gò đất xem xét tình trạng của bệnh nhân.

    Nhìn đôi môi khô héo, nứt nẻ của Huệ Vân, chàng đau đớn vô vàn. Mạch của nàng mỗi lúc một yếu dần, máu trong phổi cứ chực ứa ra khóe miệng.

    Tuấn Hạc kinh hãi, lấy năm viên linh đan chế từ rễ cây Tử Diệp Bạch Lê - nhai nát, mớm cho nàng. Nhưng giờ đây, thuốc không thể nào trôi qua được cổ họng khô khốc kia. Chàng bèn rút kiếm cắt tay, để dòng máu mình chảy vào miệng nàng, hòa tan số thuốc kia.

    Tuấn Hạc còn xoa bóp một số đại huyệt và trút chân khí vào người nàng.

    Nhờ vậy lát sau Huệ Vân tỉnh lại, nhận ra Tuấn Hạc ngồi hành công bên cạnh.

    Nàng cố dằn những cơn ho để khỏi kinh động chàng, nằm im ngắm nhìn gương mặt dấu yêu.

    Sương mai lạnh lẽo rơi xuống làm dịu cơn sốt trong người nàng.

    Khi những tia nắng hồng đầu tiên le lói cuối trời đông, Tuấn Hạc xả công, nhìn Huệ Vân mỉm cười:

    - Mạc sư muội đã tỉnh lại rồi ư?

    Huệ Vân ngượng ngừng gật đầu và nói:

    - Sư huynh ! Ti êu muộ khát nước .

    Tuấn Hạc đứng lên nhìn quanh. Trời đã sáng hẳn nên chàng nhận ra xa xa có một mái lá. Chàng mừng rỡ bồng Huệ Vân chạy về hướng ấy.

    Đến nơi, chàng thất vọng vì đấy chỉ là chiếc chòi tránh nắng nằm cạnh thửa ruộng khô cằn. Trời chưa mưa lớn nên vẫn bị bỏ hoang.

    Nhưng may thay, ở phía sau có một chiếc lu sành đầy ắp nước. Nó để ngoài trời nên đã hứng được nước của những cơn mưa đầu mùa vừa qua.

    Tuấn Hạc đặt Huệ Vân lên chiếc chỏng tre ọp ẹp, dùng chiếc lọ sành đựng linh đan - đã rỗng không - múc nước . Chàng uống no bụng rồi đem vào đổ vào miệng Huệ Vân.

    Nàng tỉnh táo ra, cười hỏi:

    - Có nhiều nước không Văn sư huynh?

    Tuấn Hạc cười đáp :

    - Nhiều lắm, có cả một lu đầy.

    Huệ Vân im lặng một lát, đỏ mặt thì thầm:

    - su huynh! Tiểu muội biết mình không thể sống nổi. Nhưng là phận nữ nhi, tiểu muội muốn được sạch sẽ trước khi chết.

    Tuấn Hạc băng khoắng đáp:

    - Sư muội là ni cô! Ta không tiện chạm đến ngọc thể.

    Huệ Vân lắc đầu:

    - Sư huynh yên tâm, lúc rời Hằng Sơn, chưởng môn sư tỷ đã cho tiểu muội hoàn tục rồi.

    ánh mắt nàng đầy vẻ ai oán, van xin khiến Tuấn Hạc chẳng thể chối từ. Chàng cũng biết rằng nàng sắp chết.

    Tuấn Hạc cắn răng nói:

    - Thôi được! Ngu huynh đành muối mặt chiều ý sư muội.

    Chàng ra ngoài cẩn thận nhấc bổng lu nước đem vào, đặt cạnh chõng tre. Xé vạt trường bào làm khăng để lau cho nàng.

    Nho gia chú trọng lễ giáo nhưng lại đặt đức nhân lên trên hết. Lễ có thể bỏ nhưng điều nhân thì không. Chị dâu té giếng, em chồng còn phải vớt lên, huống hồ gì đây là tâm nguyện cuối cùng của một kẻ sắp lìa đời.

    Hơn nữa, Tuấn Hạc đã nhiều lần đụng chạm đến cơ thể Huệ Vân nên việc tắm rửa cho nàng cũng chẳng phải là nghiêm trọng.

    chàng tự nhủ như vậy, thản nhiên cởi xiêm áo nàng ra, xếp ngay ngắn để ở đầu chõng. Huệ Vân nhắm nghiền mắt lại vì hổ thẹn.

    Khi cả tấm thân ngà ngọc kia hoàn toàn lõa lồ, Tuấn Hạc nhận ra nó nẩy nở và gợi cảm biết bao. Chàng nghe mặt nóng bừng, cố nén lòng, chăm chú lau sạch bụi đất.

    Bỗng hai hàng lệ ứa ra từ khóe mắt nhắm chặt và nàng hỏi như mê sảng:

    - Văn sư huynh! Nếu tiểu muội không chết, sư huynh có chịu nhận tiểu muội làm thê thiếp hay không?

    chẳng còn gì để tiếc nữa, Tuấn Hạc cười khổ đáp :

    - Mối chân tình của nàng lẽ nào ta không hiểu. Sư muội đừng để mất hy vọng khát sống. Ngu huynh rất vinh dự được cầu hôn sư muội.

    Nụ cười hạnh phúc nở trên đôi môi tái nhợt và bỗng đông cứng lại. Tuấn Hạc kinh hãi cầm tay thăm mạch thì thấy nàng đã chết.

    Chàng áp mặt vào ngực Huệ Vân khóc nức nở. Lát sau chàng mới bình tâm lại đôi chút, mặc lại y phục cho nàng.

    Chàng ôm xác nàng ra ngoài, nhảy lên gò đất cao nhất và dùng kiếm đào một lỗ huyệt.

    Ai bảo trượng phu không biết khóc?

    Tuấn Hạc quỳ trước nấm mộ vùi nông, tiếc thương người con gái xinh đẹp và bạc mệnh Mạc ái Luân"


  5. #24
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 13

    Mao sơn hỉ nhật tân nương tâu
    Đế địa du ngộ lương nhân
    Khi mặt trời lên cao, chàng mới gạt lệ đi về hướng Đông Bắc.

    Tuấn Hạc đến được Hằng Sơn trước kỳ hạn đúng một ngày. Vô Giới về trước chàng một hôm, lão kinh hãi hỏi:

    - Huệ Vân sư muội đâu?

    Tuấn Hạc buồn bà đáp :

    - Nàng đã qua đời vì vết thương quá nặng.

    Chàng vào hậu tự ra mắt ba vị trưởng bối và trao cây Hàn Ngọc Phật Trượng cho Thiền ông.

    Phương Phương cũng có mặt ở đây.

    Nàng vui vẻ bảo:

    - Tướng công! Thiếp đã nói rõ thân phận tỳ thiếp của mình và được ôn bá mẫu chấp nhận. Thiếp sẽ ở lại đây chăm sóc ôn đại thư cho đến lúc bình phục.

    ôn phu nhân cũng cười :

    - Phương nhi là một cô gái rất tốt. Hiền tế chẳng có gì phải hổ thẹn cả.

    Thanh Ngưu Cuồng Tử cười ha hả :

    - Trai anh hùng năm thê bảy thiếp là chuyện thường tình, quý hồ bọn họ biết yêu thương nhau là được.

    Thiền ông nghiêm giọng:

    - Có được Hàn Ngọc Phật Trượng, Băng nhi chắc chắn sẽ thoát chết. Nhưng phải đúng một trăm ngày sau mới bình phục hoàn toàn. Hạc nhi cứ yên tâm trở về Thiên Ma Cốc điều động đệ tử Cái Bang truy tìm những người còn lại trong Văn gia bảo. Lão nạp cho rằng họ vẫn còn sông.

    Chàng nghe lời lão, sáng hôm sau cùng Vô Giới rời Huyền Không Tự.

    Trên đường đi, thấy Tuấn Hạc trầm lặng, không nói tiếng nào, Vô Giới hiểu ngay cái chết của Huệ Vân đã khiến lòng chàng tan nát. Lão ngượng ngừng nói:

    - Phải chăng thí chủ nhớ đến Huệ Vân sư muội?

    - Trước lúc nàng qua đời, tại hạ đã ngỏ lời cầu hôn. Những tưởng có thể làm tăng sinh cơ cho nàng, nào ngờ lại khiến nàng yên lòng nhắm mắt, Văn mỗ bất tài, không còn được nàng, lòng vô cùng hổ thẹn.

    Vô Giới liền an ủi:

    - Thế gian này vốn là tạm bợ, có gì là tồn tại mãi đâu? Sống chết, họa phúc không thể nào lường được, bậc thiện nhân hà tất phải đau buồn vì lẽ mất còn.

    Giữa tháng sáu, hai người về đến Hoàng Sơn. Mạn Ngọc mừng rỡ đón chào và nói ngay:

    - Tướng công về thật đúng lúc. Thiên Sư Giáo Chủ vừa gởi thiệp mời đại lão Đinh Sơn Giáp đến Giang Tô dự tiệc cưới con trai lão - Tích Ngọc Lang Quân"

    Tuấn Hạc đang trong tâm trạng sầu khổ nên nạt ngay:

    - Ta không đi đâu! Nàng hãy gởi lễ vật và viết thư tạ lỗi là được rồi.

    Mạn Ngọc mỉm cười:

    - Tướng công không đi không được "

    Tân nương chính là Cồ đại thư"

    Tuấn Hạc nghe như sét đánh bên tai, mừng rỡ nói :

    - Thật thế sao? Tạ ơn Hoàng Thiên, Doanh Doanh vẫn còn sống.

    Vô Giới cười ha hả:

    - Hay lắm, phen này chúng ta lại đại náo Thượng Thanh Cung, cướp lại cô dâu mới được .

    Hồ Diện Cái nhăn mặt:

    - Đại sư chớ nói đùa! Thiên Sư Giáo cao thủ nhiều như lá rụng, muốn cứu được Cồ tiểu thư đâu phải là chuyện dễ?

    Tuấn Hạc hỏi Mạn Ngọc:

    - Ngày tháng thế nào?

    - Bẩm tướng công! Hôn lễ sẽ cử hành đúng ngày cuối tháng này.

    chàng quay sang hỏi Cù Y Thảo :

    - Các hạ là hậu duệ của bậc tài trí, xin cho biết cao kiến?

    Họ Cù ngượng ngừng đáp :

    - Cảm tạ trưởng lão đã coi trọng! Theo thiển ý của thuộc hạ thì chúng ta nên dụng mun hơn là dụng võ . Núi Cú Khúc có đến hơn ngàn cao thủ, địa thế lại hiểm trở - dễ thủ khó công. Chỉ có cách là trưởng lão giả làm Thiên Ma đại lão đến dự tiệc cưới, chờ cơ hội cõng thiếu phu nhân đào tẩu. Thuộc hạ sẽ phóng hỏa đốt Thượng Thanh Điện để đánh lạc hướng bọn họ.

    Vô Giới tán thành:

    - Hay lắm! Bần tăng cùng các cao thủ Cái Bang sẽ phục ở ngoài để tiếp ứng, phòng khi Thiên Sư Giáo Chủ kéo quân đuổi theo.

    Mạn Ngọc và mười tám thiếu nữ trong Thiên Ma Cốc nhất loạt đòi theo, Tuấn Hạc đành phải chấp thuận, nhưng chỉ cho ở vòng ngoài với Vô Giới.

    Lòng chàng nóng như lửa đốt nhưng không thể đi quá sớm, đối phương sẽ sinh nghi. Tuấn Hạc đành ở lại Thiên Ma Cốc kiểm tra bản lãnh bọn thủ hạ, chàng rất hài lòng khi thấy một trăm gã đệ tử Cái Bang đã thông thuộc kiếm pháp Tả Hữu Kiếm Pháp. Chàng ngỏ lời khen ngợi thì Xảo Thủ Cái gãi đầu nhăn nhó:

    - Trưởng lão minh giám cho! Các vị cô nương đây đều dữ dằn như hổ, ai không chăm chỉ tập luyện đều bị họ đánh đòn và bỏ đói. Nhờ có sư phụ nghiêm khắc nên bọn thuộc hạ tiến bộ rất mau.

    Phong Trà yểu điệu nói:

    - Cốc chủ biết không! Nếu không khắc khe như vậy thì bọn họ chỉ dương mắt ếch nhìn trộm bọn tiểu muội chứ đâu chịu luyện tập .

    Tuấn Hạc gật gù, nhìn đám cao thủ Cái Bang đang ngượng ngập cúi đầu. Tuổi tác của họ đều chưa quá ba mươi, tất không tránh khỏi cảnh lòng lươn dạ vượn khi học võ với những nàng sư phụ xinh đẹp.

    Chàng thầm mong họ thành đôi lứa để các cô nương kia khỏi uổng phí tuổi xuân.

    Ba ngày sau, Vô Giới cải trang dẫn đám Cái Bang và mười bốn thiếu nữ đi Giang Tô trước, Tuấn Hạc sẽ khởi hành trễ vài hôm, từ Hoàng Sơn đến núi Cú Khúc chỉ độ năm ngày đường. Chàng ở lại tranh thủ nghiền ngẫm thêm pho Tiêu Dao Kiếm Pháp. Sau những trận chiến vừa qua, kiến văn võ học được mở rộng, chàng thức ngộ rằng mình cần phải khổ luyện hơn nữa để nắm vững tinh túy pho tuyệt kiếm.

    Kiếm pháp của Hoắc cừu không tinh ảo bằng pho Cuồng Kiếm, nhưng gã rèn luyện ba mươi năm, các chiêu thức đều đạt đến mức tận cùng. Kiếm chiêu tùy tâm nhi phát nên vô cùng lợi hại.

    Dù Tuấn Hạc là người thông minh tuyệt thế nhưng không có minh sư chỉ bảo nên chẳng thể tránh được khiếm khuyết.

    Bạn đồng môn của chàng chính là Thần Viên Tiểu Bạch lại chỉ tinh thông quyền pháp nên pho Tiêu Dao Thất Thập Nhị Thủ thành tựu hơn kiếm pháp.

    Tử ngày trở lại Thiên Ma Cốc, Tuấn Hạc dồn sức luyện kiếm, nhờ vậy cũng quên được nỗi ưu tư về những người thân, nhất là cái chết của Huệ Vân.

    Thiên Ma Cốc giờ đây chỉ còn lại Mạn Ngọc và bốn tỳ nữ. Khi chàng rời cốc, họ sẽ ở lại giữ nhà.

    Dù đang trong tâm trạng buồn lo nhưng Tuấn Hạc cũng chẳng thể xao nhãn nhiệm vụ trượng phu đối với Mạn Ngọc. Giờ đây chàng không còn phải dùng đến Xuân Dược, nhưng những chén âm Dương Thảo kia cũng quá đủ để đưa chàng vào những trận ái ân nồng cháy.

    Có lẽ vì quá xấu hổ, Mạn Ngọc thường đến với chàng trong bóng tối hoàn toàn, y như lúc trước còn có Phương Phương.



    Sáng ngày hai mươi ba tháng sáu, Tuấn Hạc được Mạn Ngọc hóa trang thành Thiên Ma đại lão Đinh Sơn Giáp, lên đường đi Tích Giang.

    Mạn Ngọc, Đông Bách, Nhược Liêu, Hải Đường và Hàn Mai nhìn chàng bằng cặp mắt yêu thương, luôn miệng dặn dò chàng bảo trọng.

    Tiểu Bạch cũng nhảy lên ôm cổ chàng đòi theo. Tuấn Hạc bèn vuốt ve nó, dặn dò Thần Viên ở lại giúp năm nữ nhân canh gác Thiên Ma Cốc.

    Tuấn Hạc đến huyện thành Cú Khúc vào trưa ngày hai mươi bảy. Chàng đến thẳng An Thái khách điếm - Ở cửa Đông thành - vì đã có hẹn trước với Hồ Diện Cái và Vô Giới.

    Họ Cù báo cáo ngay:

    - Bẩm trưởng lão, tại hạ đã ba lần dò thám tổng đàn Thiên Sư Giáo trên núi Cú Khúc nhưng không tìm ra đường đào thoát an toàn. Dường như Khuất Bạch Thành đã báo với Thiên Sư Giáo rằng trưởng lão vẫn còn sống nên họ Trương tổ chức phòng vệ rất nghiêm mật chung quanh sườn núi .

    Vô Giới hắng giọng:

    - Bần tăng cùng Cù thí chủ đây đã bàn bạc rất kỹ và cho rằng chỉ có sườn núi phía Tây là còn có hy vọng. Nơi ấy có một vách đá dựng đứng, cao độ mười trượng Dưới chân vách là một khu rừng rậm rạp. Bọn bần tăng sẽ giăng lưới chờ sẵn, Văn thí chủ làm sao phá được vòng vây chạy đến đấy và nhảy xuống dưới là thoát nạn.

    Tuấn Hạc phấn khởi nói :

    - Tốt lắm! Tại hạ tự tin sẽ đưa được Doanh Doanh thoát ra hướng ấy.

    Cù Y Thảo lo lắng nói:

    - Mong trưởng lão bảo trọng! Bọn thuộc hạ đều ở cả phía dưới, chẳng cách nào hỗ trợ được.

    Chàng cảm động vỗ vai gã:

    - Các hạ yên tâm! Dù phải cõng thêm một người ta cũng chẳng để ai đuổi kịp đâu à! Ta nhờ các hạ đặt rèn dúm ít hạt Thiết Châu, chẳng hay đã có chưa?

    Hồ Diện Cái mỉm cười, lật nệm giường lấy ra một túi lụa rất đẹp, nhìn bề ngoài rất giống một chiếc hầu bao đựng tiền bạc. Gã kính cẩn nói:

    - Bẩm trưởng lão! Đây là bảy mươi hạt Thiết Châu được rèn rất kỹ.

    Tuấn Hạc đổ ra xem thử, thấy chúng đều đen bóng, nhỏ bằng hạt nhãn và rất nặng.

    Sau lần bị Khuất Bạch Thành truy đuổi phải dùng vàng bạc chặt vụn làm ám khí, Tuấn Hạc đã thấy được công dụng của công phu này. ân sư chàng không để lại bí quyết dạy môn phóng ám khí vì cả đời ông không dùng đến. Thủ pháp ném Thiết Châu này chàng học được trong pho Thiên Ma Bảo Lục của Song Lão.

    Bàn bạc hồi lâu, Tuấn Hạc cùng Xảo Thủ Cái rời khách điếm đi đến núi Cú Khúc Chàng dừng cương, ngắm nhìn địa thế một lúc. Tòa Thượng Thanh Cung đồ sộ uy nghiêm nằm tít trên cao, mái ngói lưu ly uốn lượn cong vút ở các góc tạo hình tượng bay bổng, siêu thoát. Tuy chỉ có ba tầng nhưng kiến trúc có nhiều nét giống tòa Hoàng Hạc Lâu năm tầng ở Vũ Xương.

    Đấy là nơi thớ phượng Tam Thanh - Nguyên Thỉ Thiên Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Kim Quan Ngọc Thần Thiên Tôn - và tiến hành các nghi thức của đạo giáo.

    Trương giáo chủ cùng các đệ tử ở trong những tọa xá chung quanh. Đương nhiên, đạo xá của Trương Tỳ Vân cao lớn và rộng rãi hơn cả. Đó là một tòa mộc lâu hai tầng kiên cố và lộng lẫy, nằm trong khu hoa viên gần Thượng Thanh Cung.

    Tuấn Hạc đến cổng chính, lạnh lùng báo danh:

    - Lão phu là Thiên Ma cốc chủ Đinh Sơn Giáp Người phụ trách việc tiếp tân của Thiên Sư Giáo là đại tổng quản Hình Sơn.

    Lão ta hoan hỉ đón chào:

    - Trương giáo chủ vẫn thầm lo cốc chủ không đến dự lễ được, nhắc đến luôn miệng. Kính thỉnh cốc chủ thượng sơn.

    Lão quát bọn giáo chúng đưa ngựa vào chuồng và cho người dẫn thượng khách lên núi. Đồng thời, chín tiếng khánh đá vang lên, báo hiệu có khách quý giá lạm.

    Vì vậy khi Đinh lão đại đến cửa tòa đại sảnh thì Trương giáo chủ đã chờ sẵn. Lão tươi cười bước đến nắm tay họ Đinh, hể hả nói:

    - Tiểu đệ cứ sợ Đinh lão huynh không đến được! Hôm trước, nghe tin Đinh lão nhị bị Tây Phật đả tử, tiểu đệ đã định đến chia buồn. Nhưng vì giáo vụ đa đoan nên chưa đi được. Không ngờ Đinh huynh chẳng hề chấp nhất, đến đây chia vui với tiểu đệ Đinh Sơn Giáp mỉm cười:

    - Chúng ta đã từng chung vai, sát cánh, vào sinh ra tử, lẽ nào lão phu lại vì chút tiểu tiết mà hờn giận được? Chỉ mong rằm tháng tám năm sau, Trương lão đệ đến Lục Bàn Sơn chứng kiến cho lão phu báo thù lão Tây Phật là đủ rồi.

    Trương Tỳ Vân cười xỏ a :

    - Té ra Đinh lão huynh đã hẹn ngày báo phục. Tiểu đệ rất sẵn sàng đi Cam Túc để giúp một tay.

    Lão dừng lại rồi hỏi thêm:

    - Nhưng vì sao lão Tây Phật lại có thể giết được Đinh lão nhị vậy?

    Thiên Ma đại lão thở dài đáp:

    - Chắc Trương lão đệ cũng biết bào đệ của lão phu là người hiếu thắng? Hôm ấy, Tây Phật dùng kế khích tướng, bảo rằng nếu đơn đấu thì chỉ trong ba mươi chiêu lão ta sẽ thắng ngay, nếu sai lời sẽ bỏ luôn Phật Trượng. Nhị đệ vì quá tự phụ nên trúng kế. Không ngờ, chỉ đến chiêu thứ mười chín, lão trọc kia đã dùng một thủ pháp kỳ tuyệt, đánh vỡ lồng ngực của Đinh lão nhị Lão phu tự lượng không làm gì được, đành phải hoàn trả Phật Trượng và hẹn sang năm sẽ đến Lục Bàn Sơn trả thù.

    Trương Tỳ Vân mỉm cười nghi hoặc :

    - Bản lãnh Tây Phật đã thông thần đến mức ấy, liệu Đinh huynh có địch lại không?

    Đinh lão đại đắc ý nói:

    - Lão phu đã có chỗ sở cậy, cứ chờ đến lúc ấy sẽ rõ .

    Mập mờ, lấp lững, chính là cá tính của Đinh Sơn Giáp nên Trương giáo chủ không hỏi thêm, đưa khách vào trong sảnh Xảo Thủ Cái ôm hộp lễ vật đi theo, trao cho phó tổng quản. Lão nhận lấy và hướng dẫn Xảo Thủ Cái về khách xá.

    Tuấn Hạc qua được cửa ải đầu tiên, ngấm ngầm thở phào, đưa mắt quan sát đám khách đang có mặt. Chàng giật mình nhận ra Thiên Sư Giáo Chủ Ôn Thiếu Bảo đang ngồi cạnh Giang Lăng Thần Nữ. Cả Khuất Bạch Thành cũng có mặt nơi này. Ngồi bên gã là một vị phu nhân tuổi thất tuần, tóc bạc râm nhưng mặt trắng như ngọc, da dẻ mịn màng. Chàng đoán bà ta là Ngọc Diện Quan âm Thích Thụy Vân, thân mẫu của Khuất Bạch Thành. Tuấn Hạc đã đọc kỹ quyển Hồi ức Lục của Đinh lão nên biết rằng lão ta có quen biết Ngọc Diện Quan âm. chàng sửa giọng già nua chào hỏi:

    - Hơn hai mươi năm không gặp, chẳng ngờ đại tẩu vẫn phong vận như ngày nào "

    Thích Thụy Vân hoan hỉ đáp lễ:

    - Đinh huynh cũng đâu có già đi.

    chàng tủm tỉm cười :

    - Lão phu lặn lội Miêu Cương, tìm được một loại dị thảo nên lâu già một chút vậy thô .

    Khuất Bạch Thành đứng lên cung kính nói:

    - Tiểu diệt Khuất Bạch Thành xin bái kiến Đinh đại thúc.

    - Té ra đây là nam tử của Khuất đại ca"

    Thật là một bậc tài mạo song toàn"

    Trương giáo chủ đưa chàng đến giới thiệu với phu thê Thiên Độc Giáo Chủ.

    Chàng gật gù hò :

    - Nghe nói quý giáo bị Luân Hồi Ma cung tiêu diệt, không ngờ lại hạnh ngộ chốn này "

    Trương Tỳ Vân vui miệng nói:

    - Đinh lão huynh đây được Thiên Tử phong cho chức Trấn Vũ Thái Bảo, có toàn quyền giám sát các phái trong võ lâm. Nhị vị muốn trùng hưng Thiên Độc Giáo tất cần phải nhờ đến Đinh lão huynh đây Ôn Thiếu Bảo nghe nói vậy, vòng tay vái dài:

    - Nếu Đinh cốc chủ mở lượng hải hà giúp tiểu đệ hỏi tội Luân Hồi Ma Cung thì kiếp này nguyện làm thân khuyển mã để cốc chủ sai khiến"

    Tuấn Hạc cười ha hả, xua tay:

    - Lão phu tuy được thánh thượng giao trọng trách, nhưng vì việc riêng đã lâu không hỏi đến chuyện giang hồ. Nay, nếu quả thực Ma Cung có ý khuynh đảo võ lâm, xưng hùng xưng bá, lão phu sẽ đứng ra giải quyết.

    Giang Lăng Thần Nữ mừng rỡ, tặng cho con người đầy uy quyền kia một nụ cười đổ quán xiêu đình.

    Trương Thiên Sư mời Đinh lão đại ngồi cạnh mình rồi thúc giục mọi người nâng chén.

    Tuấn Hạc uống cạn, khề khà hỏi:

    - sao không gọi Tuấn nhi ra uống với lão phu vài chung?

    Yù lão muốn nói đến Tích Ngọc Lang Quân! Trương giáo chủ cười đáp:

    - Nó đang ở trong hậu viện với tân nương.

    Tuấn Hạc giả đò giật mình:

    - ủa! Sao lại rước dâu về sớm vậy?

    Thế thân gia đã đến chưa?

    Trương Tỳ Vân nói giả lả:

    - Mấy tháng trước, Tuấn nhi tình cờ cứu được Doanh nhi. Hai đứa nhỏ tâm đầu ý hợp nên tiểu đệ đã cho người đến ôn Châu xin cưới. Gia đình họ Cồ đã bằng lòng. Tân nương dưỡng thương ở đây nên chẳng cần phải rước, còn đàng gái đang trên đường đến, chỉ nay mai là có mặt.

    Tuấn Hạc gật gù:

    - Té ra là thế...

    Giang Lăng Thần Nữ nãy giờ ngắm nghía Thiên Ma đại lão, cảm thấy con người này vô cùng hấp dẫn. Tâu tóc họ Đinh bạc phơ mà da dẻ không hề nhăn nheo - trừ vài nếp ở đuôi mắt và trên trán.

    Lúc nãy, nàng nghe lão nói chuyện với Ngọc Diện Quan âm rằng đã tìm ra một loại kỳ hoa dị thảo có thể kéo dài tuổi xuân, lòng càng hâm mộ. Thần Nữ đang lo lắng cho nhan sắc của mình nên rất muốn có được kỳ trân kia.

    Liêu Nhược Thủy chua xót so sánh một Ôn Thiếu Bảo gầy gò, nhu nhược, đang sa cơ thất thế với một vị Trấn Võ Thái Bảo hiên ngang, vạm vỡ. Giá mà Thiên Độc Giáo Chủ đột nhiên biến mất trên cõi đời này, nàng sẽ hoan hỉ trở thành phu nhân của Thiên Ma cốc chủ.

    Nàng nâng ly, cười khanh khách:

    - Hôm nay được vinh hạnh hội ngộ với bậc kỳ nhân, lòng thiếp vô cùng sung sướng. Chung rượn này là để tỏ lòng kính ngưỡng Đinh cốc chủ.

    Nụ cười trong như ngọc vỡ và ánh mắt tình tứ kia quả xứng danh thiên hạ đệ nhất mỹ nhân.

    Tuấn Hạc đang đóng vai một Đinh lão đại háo sắc nên đành phải mỉm cười:

    - Lão phu chỉ là kẻ quê mùa hủ lậu trong góc núi Hoàng sơn, đâu đáng được Thần Nữ tôn xưng như vậy.

    Dù Khuất gia trang đã từng liên thủ với Thiên Độc Giáo để tiêu diệt Văn gia bảo, nhưng trong lòng Ngọc Diện Quan âm Thích Thụy Vân chẳng ưa Giang Lăng Thần Nữ chút nào cả. Trước đây, bà được coi là người đẹp số một của võ lâm.

    Nhưng nay, tuổi tác đã cao, danh hiệu ấy thuộc về Liễu Nhược Thủy, dẫu sao trong lòng bà cũng chua xót về việc ấy. Hơn nữa, vẻ dâm đảng, lả lơi của Thần Nữ khiến bà không chịu nổi. Ngọc Diện Quan âm cười mát :

    - Ôn phu nhân đây được người đời xưng tụng là tuyệt thế mỹ nhân, nhưng lão thân lại cho rằng ngôi vị ấy phải dành cho Thiên Độc Thánh Nữ ôn Tiểu Băng mới phải.

    Khuất Bạch Thành mang nặng mối tương tư Tiểu Băng nên buột miệng tán thành:

    - Mâu thân nói chí phải "

    - Tiểu muội cũng biết mình đã lớn tuổi, chẳng thể sánh với Băng nhi. Nhưng nay nha đầu ấy đã bị Thích đại thư hủy dung, thật là đáng thương"

    Ngọc Diện Quan âm lạnh lùng đáp:

    - Lão thân đã quyết chọn Tiểu Băng làm dâu họ Khuất nên chẳng để kẻ khác được thưởng thức dung nhan ! Xấu đẹp là do lão thân, phục hồi lúc nào chẳng được?

    Thần Nữ chua ngoa nói mỉa:

    - Khuất công tử đây quả là bậc kỳ nam tử vô cùng đại lượng và hết mực chung tình Nha đầu Tiểu Băng đã thất thân với tiểu tử họ Văn, thế mà công tử vẫn yêu thương, thật là đáng phục thay.

    Bạch Thành giận tím mặt, nói bửa:

    - Tiểu Băng tuy đã qua tay Tuấn Hạc nhưng vân còn hơn những kẻ lang chạ từ ái à đến trẻ "

    Người nhục nhã nhất không phải là Thần Nữ mà lại chính là Thiên Độc Giáo Chủ Ôn Thiếu Bảo. Thế mà lão vẫn thản nhiên, xem như không phải vợ mình bị chưởi. Tuấn Hạc thầm kinh hãi trước tâm cơ thâm trầm như biển của lão ma.

    Trương giáo chủ vội xua tay can gián:

    - Mong chư vị nể mặt lão phu mà bỏ qua hiềm khích.

    Đúng lúc ấy, có tiếng khánh đá vọng lên. Trương Tỳ Vân vội xin phép ra ngoài. Tuấn Hạc thừa cơ, nghiêm giọng hỏi Ngọc Diện Quan âm:

    - Khuất đại ca một đời anh hùng cái thế Bạch Thành đây cũng tài mạo chẳng kém ai. Vậy thì cớ gì đại tẩu lại chọn một nàng dâu đã thất tiết để tủi hổ vong linh người đã khuất?

    Thí ch Thụy Vân ngượng ngừng đáp :

    - Lão thân cũng chẳng vui vẻ gì, nhưng do Thành nhi quá mê muội nên đành phải chiều theo"

    - Đinh đại thúc đừng tưởng chỉ có mình tiểu diệt ngu dại. Ngay nàng dâu của Trương thúc phụ cũng từng là vợ của tiểu tử họ Văn.

    Tuấn Hạc giả đò giật mình rồi gật gù:

    - Nếu họ đều là góa phụ thì cũng chẳng sao "

    Thần Nữ cười khẩy:

    - Cốc chủ lầm rồi, gã Tuấn Hạc kia vẫn còn sống sờ sờ"

    Đến bây giờ, Thiên Độc Giáo Chủ mới mở miệng:

    - Xin cốc chủ chớ hiểu lầm. Thực ra khuyển nữ Tiểu Băng và Cồ Doanh Doanh đều tự ý dan díu với họ Văn. Vì vậy lão phu và Biến Hình Môn Chủ đã quyết định gả cho người khác.

    Bạch Thành tức tối vỗ bàn:

    - Lão quả là kẻ phản phúc khôn lường, bắt được Tiểu Băng sao không giao cho ta mà lại giấu đi? Cuối cùng, để cho tiểu tử họ Văn cướp lại được? Nếu bổn trang không có nội gián trong Luân Hồi Ma Cung thì ta đâu rõ mặt thật của lão.

    Ôn Thiếu Bảo thản nhiên đáp:

    - Công tử muốn cưới ái nữ của lão phu thì cũng phải đem sính lễ đến và tổ chức hôn lễ đàng hoàng, lý nào lão phu phải dâng tặng?

    Vừa lúc Trương Thiên Sư đưa khách vào Lão hớn hở cao giọng giới thiệu:

    - Hoàng Thổ Thành Chủ ở tận miền Tây Bắc xa xôi mà cũng cử phó thành chủ và Truy Mệnh Kiếm Sứ đem lễ vật đến mừng, thật là một vinh hạnh lớn cho lão phu.

    Tuấn Hạc quay lại nhận ra Hoắc cừu đứng cạnh một đạo nhân mặt trường bào màu hoàng kim.

    Trương Thiên Sư giới thiệu những người trong bàn với khách. Phó thành chủ vòng tay cười ha hả:

    - Bần đạo là Trường Xuân Chân Nhân, ẩn cư ở vùng Ngọc Môn Quan, cũng là đệ tử của đạo gia và là bạn cố giao của Trương giáo chủ.

    Ba năm trước Hoàng Thổ Thành Chủ Hướng Y Xích đã mời bần đạo về làm phó. Khi nhận được thiếp mời đại hỉ của Trương giáo chủ, bần đạo đã xin phép Thành Chủ để vào Trung Nguyên. Không ngờ Thành Chủ vốn đã ngưỡng mộ Trương Thiên Sư nên phái Kiếm Sứ Hoắc cừu đem bốn rương lễ vật đến mừng.

    Bần đạo đến đây, được gặp các bậc anh tài của Trung Thổ, lòng vô cùng cao hứng.

    Ai nấy đều vòng tay nói câu hân hạnh nhưng lòng đầy thắc mắc, không hiểu lai lịch của Hoàng Thổ Thành. Chỉ mình Tuấn Hạc là biết rõ, cái chết thảm thiết của Huệ Vân hiện về khiến lòng chàng đau như cắt và niềm phẫn hận dâng tràn.

    Tuấn Hạc cố nén lòng, cười mát bảo:

    - Lão phu nghe đồn Tây Vực xuất hiện một vị Hoàng Thổ Chi Vương, thế lực bao trùm ba phủ Cam Túc, Tây Hạ, Thiểm Tây. Bình thường, họ Hướng kia vẫn xưng là Vương Gia, sao giờ đây các hạ lại khiêm tốn gọi là Thành Chủ?

    Trường Xuân Chân Nhân giật mình gượng cười :

    - Đinh cốc chủ lầm rồi, làm gì có việc ấy! Hoàng Thổ Thành chỉ là một bang phái võ lâm ở miền Tây Bắc mà thôi.

    Tuấn Hạc ngạo nghễ nói :

    - Thế thì được ! Nếu Hướng Y Xí ch dám giương cờ Hoàng Thổ Chi Vương thì đừng hòng vào đến Trung Nguyên.

    Hoắc cừu lạnh lùng nói:

    - Tôn giá có phải là minh chủ võ lâm đâu mà hạch sách đủ điều như vậy?

    Tuấn Hạc ngựa cổ cười vang dội:

    - Lão phu chẳng là ai cả nhưng chỉ cần nói một lời là Hoàng Thổ Thành chẳng còn một viên ngói nào lành lặn"

    Trương giáo chủ vội nói:

    - Lão phu quên không nói rõ Đinh cốc chủ đây là Trấn Vũ Thái Bảo được thánh thượng giao trọng trách chấn hưng các phái trong võ lâm.

    Họ Trương vì tế nhị nên đã dùng từ chấn hưng" thay cho giám sát." Trường Xuân Chân Nhân tái mặt, kéo Hoắc cừu ra sau rồi kính cẩn vòng tay nói:

    - Thất lễ! Thất lễ! Bọn bần đạo ở chốn quê mùa hủ lậu nên không nhận ra núi Thái Sơn. Mong cốc chủ bỏ qua cho. Sau này có dịp vào Trung Nguyên, Hướng Thành Chủ sẽ đích thân đến Thiên Ma Cốc vấn an Thái Bảo.

    Câu nói này hàm ý sẽ có lễ vật trọng hậu. Tuấn Hạc giả đò mát dạ:

    - Không cần! Không cần! Sao lại phải phiền đến ngọc giá của một bậc kỳ nhân như Hướng Thành Chủ?

    Chàng nâng chén mời cả bàn cùng cạn rồi cáo từ về khách xá nghỉ ngơi.

    Trương Tỳ Vân đích thân đưa lão hữn đi Họ Trương cười bảo :

    - Thế nào Hoàng Thổ Thành cũng phải dâng ngàn vàng cho Đinh lão huynh.

    Phen này phát tài rồi "

    Tuấn Hạc hỏi lại:

    - Trương lão đệ biết lai lịch của Hướng Thành Chủ hay không?

    Tùy Vân cười nhạt :

    - Thiên Sư Giáo bao trùm thiên hạ, lẽ nào không biết đến Hoàng Thổ Chi Vương? Nghe nói Hướng Y Xích ngộ kỳ duyên nên tuổi mới gần năm mươi mà võ công khiếp quỷ kinh thần và dã tâm cũng không nhỏ. Nếu lão ta ra tranh chức minh chủ, e rằng không ai địch lại.

    Tuấn Hạc trầm ngâm:

    - Có lẽ chúng ta nên sửa đổi lại luật lệ võ lâm, không giới hạn tuổi tác thì mới mong có người đối phó với Hướng Y Xích"

    Trương Tỳ Vân tán thành ngay:

    - Đinh lão huynh quả là cao kiến. Tiểu đệ sẽ bàn bạc với chưởng môn các phái.

    Đã đến cửa khách xá, Tỳ Vân quay lại đại sảnh Tuấn Hạc vào trong lấy y phục để tắm gội.

    Xong xuôi chàng bàn bạc với Xảo Thủ Cái rất lâu. Gã nhận lệnh, rời núi Cú Khúc đi liên lạc với Vô Giới và Hồ Diện Cái Một tỳ nữ áo xanh tuổi độ mười tám bưng trà vào. Mặt nàng khá đẹp và đôi mắt to tròn kia như man mác nổi buồn.

    Tỳ nữ nghiêng mình ra mắt:

    - Nô tỳ là Tiểu Quyên, được giáo chủ cắt đặt làm người hầu hạ cốc chủ.

    Tuấn Hạc mỉm cười bảo :

    - Uống xong chén trà này, mong cô nương đưa lão phu đi ngoạn cảnh Thượng Thanh Cung. Tử lúc Trương giáo chủ xây dựng nên đến giờ, lão phu chưa có dịp thưởng lãm.

    Lát sau, chàng ung dung theo Tiểu Quyên dạo khắp nơi. Bọn võ sĩ tuần tra chẳng dám ngăn cản vì biết rằng lão già áo trắng này là hảo hán của giáo chủ.

    Tuấn Hạc quan sát địa hình khu vực này, nhận ra Hồ Diện Cái đã nói đúng.

    Chỉ có đường vách núi phía Tây là còn có hy vọng.

    Chàng bảo Tiểu Quyên chỉ cho mình nơi ở của Tích Ngọc Lang Quân. Đó là một tòa tiểu viện hai tầng xinh xắn, nằm nơi mé tả Thượng Thanh Cung, chếch xuống dưới chừng hai chục trượng.

    Hai người quay trở lại khách xá thì Xảo Thủ Cái đã có mặt. Tối đến, Tiểu Quyên ngượng ngừng thỏ thẻ :

    - Nô tỳ được lệnh hầu hạ gối chăn, mong cốc chủ thu nạp.

    Tuấn Hạc giật mình, bối rối. Chàng đang đóng vai một lão già phong lưu háo sắc nên việc từ chối một mỹ nhân như thế này sẽ không thích hợp. Trong quyển Hồi ức Lục, Đinh lão đại đã ghi chép tỷ mỉ những lần cùng Trương Tỳ Vân say sưa ở chốn yêu hoa. Có lẽ vì biết rõ bản tính của bằng hữu nên họ Trương đã cho Tiểu Quyên phục vũ bằng hữu.

    Tiểu Quyên thấy chàng lặng im không nói lại tưởng chàng đã đồng ý nên tự động trút bỏ xiêm y. Tấm thân lõa lồ kia tròn trịa và gợi cảm, nhưng lại khiến Tuấn Hạc nhớ đến Huệ Vân, đến Tiểu Băng và Doanh Doanh. Một người đã chết, một người chưa rõ tử sinh và một người đang trong cảnh cá chậu chim lồng.

    Tuấn Hạc nghe lòng chua xót, gượng cười:

    - Lão phu đã hơn bảy mươi, tinh lực chẳng được bao nhiêu, chắc không có phúc hưởng thụ lòng ưu ái của Trương giáo chủ. Mong cô nương lượng thứ cho.

    Tiểu Quyên lặng lẽ mặc lại y phục.

    Bông nàng tái mặt, ôm bụng chạy nhanh đến chiếc ống nhổ, ngồi xuống nôn khan.

    Tuấn Hạc từng nghiên cứu Y Kinh nên hiểu ngay nàng đang mang thai. Và tác giả của thai nhi kia chắc không ai khác ngoài Tích Ngọc Lang Quân. Gã nổi tiếng háo sắc, lẽ nào lại bỏ qua một nữ tỳ xinh đẹp thế này? Chàng nghiêm giọng hỏi:

    - Tiểu Quyên! Ngươi đang mang thai mà dám đến đây hầu hạ lão phu, quả là to gan! Để sáng mai ta nói chuyện này với Trương giáo chủ"

    Tiểu Quyên sợ xanh mặt, chạy đến quỳ xuống, ôm chân chàng mà nức nở:

    - Mong lão gia thương tình! Cả nhà nô tỳ sẽ chết đói mất.

    Chàng đỡ nàng lên, vỗ về :

    - Lão phu là bạn thâm giao với Trương giáo chủ! Có gì cứ nói thực ra, lão phu sẽ giúp cho .

    Tiểu Quyên sụt sùi nói:

    - Nô tỳ biết phận mình, chẳng dám với cao, nhưng thiếu giáo chủ không chịu tha cho.

    Tuấn Hạc gật gù:

    - Vậy ân Tuấn có biết nàng đã mang thai hay không?

    - Thưa có! Nhung công tử trở mặt, không chịu nhận trách nhiệm.

    - Nàng có dám thề rằng đứa con trong bụng nàng là của ân Tuấn hay không?

    Tiểu Quyên nức nở:

    - Nô tỳ suốt đời chỉ thất tiết với một mình thiếu giáo chủ, thề có Hoàng Thiên chứng giám. Các chị em trong đám tỳ nữ đều có thể làm chứng.

    - Tốt lắm! Vậy thì lão phu sẽ bắt ân Tuấn phải lấy nàng. Hãy yên tâm đi "

    Tiểu quyên vui mừng khôn xiết, cúi lạy:

    - Nếu được như vậy, nô tỳ nguyện kiếp sau kết cỏ ngậm vành báo đáp đại ân.

    Tuấn Hạc dặn dò :

    - Cô nương không cần ở lại đây, cứ về bàn bạc với đám tỳ nữ. Khi nào lão phu gọi thì nhất loạt đứng ra làm chứng.

    Tiểu Quyên hoan hỉ đi ngay. Đầu canh ba, Tuấn Hạc thay áo dạ hành, bịt kín mặt rồi lẫn vào bóng đêm, đi về phía tòa tiểu lâu hai tầng - nơi ở của Tích Ngọc Lang Quân.

    việc phòng bị ở khu vực này rất nghiêm mật, đèn đuốc sáng trưng, bọn giáo chúng qua lại không ngớt. Nhưng cũng may Tuấn Hạc học được của Tiểu Bạch phép di chuyển trên cây. Chàng bế khí nhảy lên hàng đào già, chuyền nhanh như vượn và êm ái tiến dần đến tòa mộc lâu Trương giáo chủ trồng rất nhiều đào, lý để biểu hiện sự nghiệp vinh quang của Thiên Sư Giáo. Nhờ vậy, Tuấn Hạc mới có phương tiện để tiến vào. Sự đời biến ảo khôn lường, cái lợi hôm nay vô tình là cái họa ở mai sau"

    Tuấn Hạc ẩn mình trong tán lá nghe ngóng mới tung mình lên lan can lầu.

    Chàng lom khom dưới các khung cửa sổ, cố tìm cho ra nơi giam giữ Doanh Doanh.

    Đến một khung cửa đóng kín, tim chàng đập mạnh, linh cảm rằng đã đến nơi. Nhìn qua khe cửa, chàng giật mình kinh hãi nhận ra trong phòng kê đến bốn chiếc giường nhỏ, và dưới ánh nến lung linh là bốn gương mặt giống nhau như đúc không thể phân biệt ai là Doanh Doanh thật.

    Tuấn Hạc chết điếng người, vội quay trở ra ngay. Thiên Sư Giáo Chủ quả là kẻ đa mưu túc trí. Lão đề phòng trường hợp Tuấn Hạc vào giải cứu Doanh Doanh nên đã bày ra kế này. Đem một người ra còn dễ, chứ bốn người thì hoàn toàn vô vọng.

    Hơn nữa, ba người kia là đệ tử của lão, tất sẽ tri hô lên khi thấy chàng xuất hiện.

    Tuấn Hạc vô kế khả thi, đành phải chờ đến lúc cử hành hôn lễ. Chàng sẽ cướp lấy tân nương rồi mở đường máu thoát đi, bất kể tử sinh. Nhưng đó chỉ là hạ sách vì chẳng có chút sinh cơ nào cả.

    Về đến nơi, chàng kể lại tình hình cho Xảo Thủ Cái nghe. Gã suy nghĩ một lúc rồi bảo:

    - Nếu trưởng lão động thủ vào ban ngày thì không thể nào thoát được. Đêm mai, trưởng lão hãy phóng hỏa đốt tiểu lâu rồi để ý xem người nào chậm chạp nhất thì đấy là Cồ thiếu phu nhân. Nàng bị phong tỏa võ công nên chẳng thể nhanh nhẹn bằng bọn giả mạo. Hơn nữa, qua tiếng la hét của họ cũng có thể phân biệt được.

    Tuấn Hạc mừng rỡ vỗ vai gã:

    - Quả là diệu kế"

    Phùng Yû Trúc khoan khoái, hấp háy đôi mắt to nhỏ không đều, cười bảo:

    - ĐE tử đã làm quen với đám nhà bếp, đêm nay sẽ thừa cơ thả sạch đám gà, vịt, heo, bò, gây ra cảnh hổn loạn.

    Hai người thương lượng chu đáo đến tận cuối canh tư mới đi ngủ.

    Sáng hôm sau, gã lân la xuống bếp, phụ giúp đám gia nhân chuẩn bị yến tiệc.

    Đến chiều, lại cùng bọn đầu bếp nhậu nhẹt say sưa. Lúc gã ngất ngưỡng trở về thì bụng đã to như chiếc trống. Thực ra đó là một chiếc bong bóng heo đựng đầy dầu mỡ.

    Đưa dầu cho Tuấn Hạc xong, gã trở xuống bếp uống tiếp.

    Tuấn Hạc đã rành rẽ đường đi nên hành động rất sớm. Gần cuối canh hai, chàng nai nịt gọn gàng, bỏ túi dầu vào tay nải, khoác lên vai rồi đi về phía tiểu lâu.

    Chàng mới đi được nửa đường thì một cơn mưa rào đột ngột ập đến. Tuấn Hạc núp trong bụi cây, chờ đợi. Cơn mưa quái ác kia ào ào, như thác lũ và kéo dài không dứt. Tuấn Hạc thầm trách trời già đã phá hỏng kế hoạch của mình. Trong thời tiết này, các bức vách đều ướt đẫm chẳng thể bắt lửa được. Hơn nữa, dẫu có đem Doanh Doanh đến bờ vực phía Tây, cũng không thấy ánh lửa hiệu mà nhảy xuống dưới .

    Chàng lặng lẽ quay về khách xá, nằm nghe tiếng mưa gió gào thét. Sáng mai, chàng chỉ còn một con đường duy nhất là liều mạng rồi chết chung với Doanh Doanh.



    Nhưng bình minh vừa ló dạng thì tiếng mõ báo động vang dậy khắp vùng núi Cú Khúc Tuấn Hạc chồm dậy, lau sơ mặt mũi, xách kiếm chạy ra. Chàng chặn một gã giáo chúng lại và hỏi:

    - có việc gì đã xảy ra vậy?

    - Bẩm lão gia! Tân nương đã biến mất"

    Tuấn Hạc vui mừng khôn xiết nhưng lại thắc mắc không hiểu ai là người đủ bản lãnh để đem Doanh Doanh ra khỏi chốn này, và hắn ta làm sao phân biệt ai là thực, ai là giả?

    Chàng rảo bước về phía tiểu lâu của Trương ân Tuấn. Giáo chủ Thiên Sư Giáo đang bồng ái tử trên tay, miệng quát tháo bọn thủ hạ truy tìm dấu vết hung thủ.

  6. #25
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Thấy Đinh lão đại xuất hiện, Trương Tỳ Vân than thở:

    - Thật là tai họa! Đêm qua một kẻ nào đó đột nhập vào đây đánh ngất Tuấn nhi và đem tân nương đi mất rồi.

    Tuấn Hạc hỏi lại:

    - Thương thế của Tuấn nhi thế nào?

    Trương Thiên Sư nghiến răng căm hận:

    - Hung thủ đã giáng một chưởng vào đầu ân Tuấn, đến giờ này vẫn chưa tỉnh lại Tiểu đệ đã hết cách rồi. Mong Đinh huynh xem thử.

    tiểu thư gật đầu, bảo Trương Thiên Sư đặt ân Tuấn xuống sàn gạch hiên nhà.

    Chàng cầm tay gã chẩn mạch, xác định Tích Ngọc Lang Quân bị tắc nghẽn ba huyệt Thiên Dung, Thiên Song và Kiên Trung ở kinh Thủ Thái Dương tiểu trường chàng bảo Trương Thiên Sư dựng gã ngồi lên, truyền chân khí đả thông ba huyệt ấy. Quả nhiên Trương ân Tuấn tỉnh lại gã tức tối la lên:

    - Phụ thân! Kẻ đánh hài nhi chính là con tiện tỳ Tưởng Thiếu Hà"

    Trương Thiên Sư giật mình nghi hoặc:

    - Ngươi có nhìn lầm không? Lẽ nào tứ sư muội của ngươi lại làm điều ấy?

    Vừa lúc, Vân Kiếm Hạ Thương Điêu - đại đệ tử của Trương giáo chủ - chạy đến báo cáo:

    - Bẩm sư phụ! Bọn đệ tử gác cửa bảo rằng mờ sáng hôm nay, tứ sư muội cùng một tỳ nữ đã rời khỏi tổng đàn.

    Trương Thiên Sư gầm lên:

    - Mau đem năm trăm ky mã, chia nhiều hướng đuổi theo, bắt cho được con tiện tỳ ấy về đây Nhưng đến giữa giờ Tỵ, Vân Kiếm quay về chịu tộ :

    - Bẩm sư phụ! Đệ tử bất tài, chẳng tìm thấy họ.

    Tuấn Hạc cố nén nổi hân hoan, nói đờ cho Vân Kiếm:

    - Doanh Doanh là người của Biến Hình Môn, thuật cải trang rất cao cường. Hà sư diệt khó mà tìm được. Trương lão đệ trách mắng y cũng uổng công, trước mắt phải lo cử hành hôn lễ cho Tuấn nhi cái đã Quan khách đã tề tựu đầy đủ, đuổi họ về thì còn gì thanh danh Thiên Sư Giáo nữa?

    Trương Tỳ Vân buồn rầu nói :

    - Thân gia không thấy đến, tân nương cũng biến mất, còn cưới xin gì nữa?

    Tuấn Hạc mỉm cười :

    - Lão phu có cách chuyển nguy thành an, chẳng hay Trương lão đệ có chịu để ta dàn xếp hay không?

    Trương giáo chủ đang rối ruột nên nói ngay:

    - Đinh lão huynh có kế gì xin cứ chỉ giáo.

    Tuấn Hạc quay sang hỏi Tích Ngọc Lang Quân:

    - Tuấn nhi ! Ti êu Quyên tuy không xinh đẹp bằng Doanh Doanh nhưng hết dạ yêu thương ngươi, lại đang mang nặng giọt máu của họ Trương trong bụng. Nay đã đến nước này, ngươi không chịu cưới cũng không được .

    Trương giáo chủ kinh hãi :

    - Té ra có chuyện ấy nữa sao? Tiểu đệ không biết nên mới cho nha đầu ấy hầu hạ Đinh huynh.

    Chàng xua tay trấn an:

    - Lão phu đang luyện một môn thần công - để đối phó với Tây Phật - nên kiêng nữ sắc, chưa hề đụng chạm đến Tiểu Quyên. Nhờ tinh thông y đạo nên lão phu đã phát hiện nàng đang mang thai. Trương lão đệ chưa có cháu để ẵm bồng, sao không nhân dịp này đưa Tiểu Quyên thế vào chỗ tân nương?

    Trương Tỳ Vân mừng rỡ vái Đinh lão đại:

    - Nếu không có Đinh huynh thì tiểu đệ đến chết vì nhục mất.

    Lão quay sang đay nghiến ân Tuấn:

    - Ngươi biết ta đang mong mỏi có người nối dõi, thế mà ngươi lại phụ lòng ta, giấu diềm việc có con. Tử nay, ngươi phải bỏ thói hoang đàng, vui vẻ với vợ con. Nếu không, đừng trách lão phu tàn nhẫn. Ta vì ngươi mà chịu biết bao tai tiếng với thiên hạ.

    Tích Ngọc Lang Quân sợ hãi cúi đầu vâng dạ.

    Thế là đám cưới được cử hành tốt đẹp.

    Việc đào thoát của tân nương được giữ kín trong nội bộ.

    Chiều hôm ấy, Thiên Ma đại lão giả từ Trương giáo chủ. Thiên Sư mời họ Đinh vào thư phòng. Lão nghiêm nghị nói:

    - Tiểu đệ không ngờ xa cách đã lâu mà Đinh huynh vẫn giữ nguyên tình bằng hữu ngày xưa, hết lòng giúp đỡ tiểu đệ.

    Nay Tuấn nhi đã yên bề gia thất, lại sắp có con, lòng tiểu đệ vô cùng hoan hỉ, chẳng còn muốn tranh danh đoạt lợi làm gì Nếu Đinh huynh đồng ý, chúng ta sẽ chung sức tìm kho tàng của Tần Thủy Hoàng ở Hàm Dương. Tiểu đệ biết Đinh huynh đã làm một bản sao của Hàn Ngọc Thiền Trượng, cộng với họa đồ của tiểu đệ việc tìm kiếm chắc sẽ thành công.

    Tiểu đệ chỉ cần một nửa kho tàng để phát dương Thiên Sư Giáo và dưỡng già. Đinh huynh nghĩ sao?

    Tuấn Hạc cười đáp :

    - Nhất ngôn cửn đỉnh. Để lão phu chế xong một số thuốc giải độc rồi chúng ta sẽ tiến hành. Nhưng lão phu còn muốn hỏi mượn Trương lão đệ một trăm cây hỏa đồng để đối phó với Tây Phật.

    Trương Thiên Sư ngơ ngác đáp :

    - Thiên Sư Giáo làm gì có thứ vũ khí ấy? Trong võ lâm chỉ mình Liệt Hỏa Giáo - Ở Quảng Tây - là thiện về hỏa khí mà thôi.

    Tuấn Hạc thở phào, biết mình đã lầm lẫn khi coi Thiên Sư Giáo là kẻ thù.

    Chàng cười bảo :

    - Sao lão phu nghe đồn Thiên Sư Giáo đã dùng vũ khí tiêu diệt Văn gia bảo?

    Trương Tỳ Vân cười xó a :

    - Tiểu đệ đâu ngu dại gì mà dính dáng vào những ân oán ấy? Thiên Sư Giáo Chủ và Ngọc Diện Quan âm có đến cầu viện nhưng tiểu đệ đã thoái thác. Hôm ấy, chỉ có mình Tuấn nhi đi theo họ. Hắn buông thuyền trên sông Lư Giang quan chiến, không ngờ lại vớt được Cồ Doanh Doanh.

    Đinh cốc chủ nghiêm giọng:

    - Nay Thiên Sư Giáo bao trùm Trung Thổ, danh vọng còn hơn cả Thiếu Lâm, Võ Đang. Lão phu mong giáo chủ cùng lão phu phù trì chính đạo võ lâm, sát cánh bên nhau như những ngày còn dưới trướng Thái Tổ.

    Trương Tỳ Vân vui vẻ nói đùa :

    - Không ngờ lúc sắp xuống lỗ, Đinh huynh lại thông hiểu đại nghĩa như vậy.

    Tiểu đệ sẽ tận lực.



    Tuấn Hạc mau chóng rời khỏi núi Cú Khúc đi đến tòa nông trang ở ngoại tháng phía Tây. Đây là nơi tập kết của lực lượng Thiên Ma Cốc.

    Thấy mặt Vô Giới hòa thượng, chàng hỏi ngay:

    - Đại sư và anh em có tìm ra Doanh Doanh và Tưởng cô nương không?

    Vô Giới nhăn nhó:

    - Trưa nay, khi nghe Xảo Thủ Cái báo lại biến cố, bọn bần tăng liền rút khỏi cánh rừng phía Tây núi Cú Khúc, tiến hành tìm kiếm nhưng chẳng thấy hai nữ nhân nào cả. Chắc họ đã cao chạy xa bay roi.

    Hồ Diện Cái đỡ lời:

    - Đệ tử sẽ điều động anh em Cái Bang truy tìm. Chúng ta cứ trở về Thiên Ma Cóc trước đã Tuấn Hạc bỗng nhớ đến một việc, liền bảo:

    - Các hạ nhớ hỏi phân đà Chiết Giang xem vì sao phu thê họ Cồ không đến dự lễ cưới Đám nữ nhân chầu chực mấy ngày mà không được đánh trận nào, mặt mày ỉu xìu Nhưng thấy Tuấn Hạc buồn bã vì không tìm được Doanh Doanh nên họ lặng im.

    Xảo Thủ Cái bỗng nói:

    - Đệ tử cho rằng phải điều động khất cái trong cả nước tìm kiếm mới mau có kết quả. - Trường Tu Cái Cầu Ly Hồ - đang ở ứng Thiên Phủ, sao tứ trưởng lão không đến liên lạc thử? Nếu lão ta chịu đốc thúc bộ phận ở phía Bắc Trường Giang thì việc tìm người không khó.

    Tuấn Hạc cau mày hỏi:

    - Cầu trưởng lão đến Kim Lăng làm gì?

    Hồ Diện Cái đáp thay:

    - Cầu lão đã thề phải phục hưng Cái Bang nên ăn dầm nằm dề đất Đế Đô, van xin, lạy lục các đại thần, nhờ họ bảo tấu với thánh thượng. Tiền bạc anh em góp được đều bị lão đem đi hối lộ cả.

    Tuấn Hạc thở dài bảo :

    - Minh Thái Tồ là người đa nghi, hẹp hòi, giết cả những bậc khai quốc công thần. Vì vậy, có ông quan nào dám mở miệng xin cho Cái Bang đâu mà nhờ họ?

    Ta đã định ngày nào tìm được kho tàng, sẽ đem dâng cho Thái Tồ để mua lấy sự tái sinh cho Cái Bang.

    Hồ Diện Cái cảm động nói:

    - Nếu được như thế thì mười vạn đệ tử Cái Bang trên cả nước sẽ đội ơn trưởng lão Vô Giới cười khà khà tán vào:

    - Hay là Cù thí chủ đưa anh em về Thiên Ma Cốc, tiếp tục rèn luyện võ công, bần tăng cùng Văn thí chủ đi ứng Thiên Phủ một chuyến xem sao?

    Mười bốn thiếu nữ nhao nhao đòi theo.

    Mâu Đơn đại diện nói:

    - Mong cốc chủ cho bọn thiếp được theo hầu. Nghe nói Kim Lăng có rất nhiều thắng cảnh. Chị em ai cũng muốn được thăm qua.

    Tuấn Hạc là người nhân hậu, thương họ côi cút từ nhỏ, suốt đời chỉ ru rú trong góc núi nên nhận lời.

    Hồ Diện Cái liền đưa thủ hạ đi về Hoàng Sơn, còn bọn Tuấn Hạc đến kinh sư Gần đến Kim Lăng, Tuấn Hạc bảo Xảo Thủ Cái trả lại chân diện mục cho chàng.

    Ơø đất kinh sư, Đinh Sơn Giáp có nhiều người quen, nếu đóng vai lão sẽ dễ bị thất thế Kim Lăng nằm cạnh Trường Giang nên đất đai màu mỡ, phì nhiêu, chung quanh thành là những thửa ruộng trồng lúa nước bạt ngàn.

    Châu thổ hai sông Hoàng Hà, Trường Giang là vựa lúa chính của Trung Quốc.

    Mỗi lần xảy ra hạn hán hay lụt lội ở hai vùng này là Trung Hoa rơi vào nạn đói.

    Đất đai Trung Hoa có đến tám phần mười là đồi núi khô cằn và rừng rậm nên bách tính luôn thiếu ăn. Dân đông, đất xấu đưa đến tình trạng đói kém suốt mấy ngàn năm. Tô Đông Pha đời Đường đã từng than thở rằng: ~ta tự hào đọc đến năm ngàn quyển sách, thế mà không tìm ra cách cứu đói cho lê thứ, thật xấu hổ thay." Sau khi lên ngôi thiên tử, Chu Nguyên Chương đã tịch thu ruộng đất của bọn nhà giàu và chức sắc Mông Cổ, chia cho nông dân. Nhờ vậy, việc sản xuất lương thực có khá hơn, nhưng chỉ một lần thiên tai cũng đủ gây nên nạn đói.

    Minh Thái Tồ tuy là một ông vua độc tài tàn nhẫn nhưng lại rất thương dân nghèo, vì ông đã từng nghèo. Tuy không dám rời kinh đô quá xa, ông vẫn thường vi phục xuất tuần, thăm những vùng phụ cận Kim Lăng.

    Hôm nay cũng vậy, Thái Tồ giả làm một viên ngoại, đem theo sáu cao thủ hạng nhất của lực lượng Cầm Y thị vệ đi về hướng Bắc dò xét dân tình.

    Thái Tồ ngắm cảnh vật sung túc hai bên đường, khoan khoái mỉm cười. Long tâm hoan hỉ nên cao hứng thúc ngựa phi mau.

    Sáu gã thị vệ đang ở phía sau vài trượng vội dục ngựa chạy theo. Tuy nhiên, do Minh Thái Tồ đột ngột phi nước đại nên khoảng cách giữa ông và bọn thị vệ khá xa.

    Lúc này, đoàn người ngựa của Tuấn Hạc vừa đi ngược đến. Còn chừng hai trượng là đôi bên gặp nhau. Tuấn Hạc cau mày thầm lo: ~VỊ lão trượng kia đã già yếu sao lại phóng ngựa nhanh như vậy?" Chàng vừa nghĩ đến đấy thì một con chó vàng mập mạp từ trong thửa ruộng tiểu mạch bên đường phóng ra. Nó say mê đuổi theo một chú chuột đồng nên không để ý rằng mình đang lao vào vó ngựa của Minh Thái Tổ.

    Chân trước vướng vào mình chó khiến tuấn mã mất đà, chúi mũi xuống, hất tung chủ nhân lên không. Chu Nguyên Chương hồn phi phách tán, cắm đầu xuống đường.

    Con đường này là trục lộ chính lên hướng Bắc và rất gần kinh sư nên rộng rãi và được rải một lớp đá núi. Vì vậy, Thái Tồ mà rơi xuống không bỏ mạng cũng trọng thương.

    Chu Nguyên Chương xuất thân võ tướng nhưng sau hai mươi năm làm vua, bỏ phế luyện tập, thân hình béo mập nên rất nặng nề.

    Biến cố này khiến sáu gã thị vệ ở phía sau kinh hoàng thét lên nhưng không còn cách nào can thiệp kịp nữa. May thay, trong phút thập tử nhất sinh ấy, chàng công tử áo trắng đang đi ngược lại kia, từ trên lưng ngựa bay thẳng đến như ánh chớp, hứng lấy nạn nhân. Đà nhảy quá mạnh đã khiến cả hai ngã lăn xuống mặt đường Nhưng chàng trai đã lật ngược Chu Nguyên Chương lên trên, cam chịu để lưng mình tiếp đất, nhờ vậy, Thái Tồ chẳng hề đau đớn chút nào cả.

    Chàng ta đỡ ông đứng lên, mỉm cười bảo:

    - Lão trượng đã lớn tuổi, không nên phi ngựa quá nhanh.

    Lúc này, sáu gã thị vệ đã đến nơi. Mặt chúng xanh như tàu lá, phục xuống chịu tội:

    - Bọn nô tài quá sơ ý để lão gia phải một phen kinh hoàng.

    Họ đều mặc áo gia nhân, hông đeo đao như các võ sĩ hộ vệ bình thường.

    Chu Nguyên Chương đã hoàn hồn, xua tay bảo:

    - Đó là do lỗi của lão phu, các người đứng lên đi.

    ông quay sang hỏi Tuấn Hạc :

    - Chằng hay ân nhân danh tính là gì?

    Tuấn Hạc cung kính đáp :

    - Tiểu sinh họ Văn tên Tuấn Hạc, quê ở Lư Lăng. Nay lão trượng đã an toàn, tiểu sinh xin phép cáo từ.

    Minh Thái Tồ níu lại:

    - Khoan đã ! Lão phu muốn dâng vạn lượng vàng để đền ơn cứu mạng, mong công tử nhận cho .

    Tuấn Hạc mỉm cười :

    - Tiểu sinh là kẻ giang hồ áo vải, thấy việc nghĩa thì xả thân mà làm, đâu cần đến kim ngân? Nếu lão trượng có lòng, xin đem vạn lượng vàng ấy mua lương thực chẩn tế cho tai dân ở vùng Tây Bắc.

    Nghe nói năm nay hạn hán, mùa màng khô héo vì thiếu nước. Được như vậy, tiểu sinh rất đội ơn.

    Minh Thái Tồ sững sờ nhìn chàng, thầm nghĩ: ~GAõ này tuấn tú phi phàm, võ công tuyệt thế, lại có tấm lòng yêu thương bách tính, quả đáng mặt bậc anh hùng!" Đám nữ nhân của Thiên Ma Cốc xúm lại phủi sạch bụi đất trên y phục chàng.

    Họ tranh nhau mà làm, xô đẩy nhau, cười nói rất vui vẻ.

    chu Nguyên Chương thấy họ đều trẻ trung xinh đẹp liền hỏi:

    - Đám mỹ nhân này đi theo công tử đấy ư?

    Chàng chưa kịp đáp thì Tường Vi đã nói trước:

    - Bẩm lão trượng, bọn tiện nữ đều là tỳ thiếp của Văn công tử"

    Tuấn Hạc còn ngượng ngừng hơn khi Thanh Tùng nói thêm:

    - Lão trượng biết không, Văn công tử có đến bốn vị phu nhân và mười tám tiểu thiếp Minh Thái Tồ vuốt râu cười ha hả:

    - Thực là đáng khâm phục "

    vô Giới bước đến nói:

    - Chúng ta nên chia tay nhau để khỏi làm ách tắc đường quan đạo.

    Minh Thái Tồ gật đầu:

    - Phải, phải ! Lão phu cũng quay về Kim Lăng thôi, cú ngã ngựa vừa rồi làm mất cả hứng thú du ngoạn.

    ông lên ngựa, sánh đôi với Tuấn Hạc, khéo léo gợi chuyện, thăm dò tài trí của chàng.

    Chàng đã từng dùi mài kinh sử để đi thi nên tinh thông thuật trị dân và cách làm dân giàu nước mạnh. Thái Tồ càng nghe càng thêm yêu mến chàng trai văn võ song toàn.

    Đến cửa Kim Lăng đệ nhất khách điếm, biết bọn Tuấn Hạc sẽ trọ nơi này, Minh Thái Tồ vui vẻ cáo từ. ông hẹn vài ngày nữa sẽ cho người rước Tuấn Hạc đến nhà chơi .

    Kim Lăng nằm ở bên bờ phải sông Dương Tử (khúc hạ lưu của Trường Giang), từng là kinh đô của nhiều triều đại Trung Hoa như Ngô, Đông, Tấn, Nam Tề, Lương, Tần, Nam Tống. . Vì vậy danh lam thắng cảnh rất nhiều.

    Ngay sáng hôm sau, Vô Giới hòa thượng đưa mười bốn nữ nhân đi ngoạn cảnh còn Tuấn Hạc và Xảo Thủ Cái đi gặp tam trưởng lão Trường Tu Cái Cầu Ly Hồ.

    Họ Cầu ở trong một tòa biệt viện nhỏ, nằm ngay cửa Tây thành. Lão đã dùng ngân quỹ của Cái Bang để mua căn nhà này - làm chỗ giao dịch với các đại thần.

    Đương nhiên lão và các đệ tử cũng phải ăn mặc sạch sẽ, chỉnh tề. Người ngoài chẳng thể biết họ làm ăn mày.

    Nghe báo cáo có tứ trưởng lão đến, lão cho mời vào ngay. Ngoài Cầu Ly Hồ còn có mười hai phân đà chủ của các địa phương phía Bắc Trường Giang. Họ đang dự một cuộc họp quan trọng.

    Xảo Thủ Cái vái chào rồi giới thiệu:

    - Kính cáo tam trưởng lão và chư vị, công tử Văn Tuấn Hạc được các phân đà miền Nam cử làm tứ trưởng lão, thay cho Cù trưởng lão đã quá cố.

    Cầu Ly Cái không mời khách ngồi mà vuốt chòm râu dài rồi lạnh lùng bảo:

    - Lão phu nắm quyền chấp pháp của Cái Bang. Nếu anh em miền Nam muốn đề cử tân trưởng lão phải thông qua sự thẩm xét và chuẩn y của lão phu. Đâu thể tùy tiện mà làm như vậy?

    Xảo Thủ Cái phẫn uất cãi:

    - Trưởng lão nói sai rồi! Nay Cái Bang đã mất cả tông môn, âm thầm hoạt động.

    Nam Bắc đã phân chia rõ rệt, quyền chấp pháp ngày xưa không còn hiệu lực.

    Trường Tu Cái giận dữ vỗ bàn quát măng:

    - Lão phu ngày đêm lo toan việc chấn hưng bang hội, sao có kẻ lại dám chia rẽ Bắc Nam?

    Tuấn Hạc biết lão muốn làm bang chủ Cái Bang nên ngao ngán nói:

    - Thôi được! Túc hạ đã nói thế thì Văn mỗ xin trả lại chức trưởng lão.

    Chàng liền đặt Cồ Tiền tín phù lên bàn.

    Xảo Thủ Cái bi phẫn nói:

    - Phùng mỗ nói thật cho lão biết, các phân đà phía Nam sẽ họp lại và tự bầu tân bang chủ, chẳng cần phải cầu cạnh, lạy lục bọn quan lại làm gì.

    cầu Ly Hồ giận tím mặt, nhẩy đến vung chưởng đánh họ Phùng. Tuấn Hạc nhanh tay đưa hữn thủ đỡ đòn. Song chưởng chạm nhau nổ vang. Trường Tu Cái dội ngược ra sau năm bước, kinh hãi trước công lực thâm hậu của chàng trai trẻ Mười hai gã phân đà chủ phía Bắc nhỏm dậy dính vây đánh. Tuấn Hạc xua tay:

    - Chư vị nên nhớ rằng Cái Bang đã bị cấm hoạt động. Nếu đánh nhau, quan quân kéo đến thì kẻ mang họa chính là chư vị.

    Chàng nói rất đúng nên họ khựng lại ngay. Tuấn Hạc bèn kéo Xảo Thủ Cái rời chốn ấy.

    Về đến Kim Lăng khách điếm, Phùng Yû Trúc buồn bã nói:

    - Đệ tử phải về ngay Nam Xương, triệu tập các phân đà để thông báo lại biến cố này. Xin trưởng lão cố nhẫn nhịn, đừng bỏ rơi anh em.

    Tuấn Hạc tư lự nói :

    - Theo ý ta thì anh em miền Nam đừng nên lập bang chủ. Điều này rất nguy hiểm nếu Trường Tu Cái tố giác với triều đình.

    Tốt nhất là cử Cù Y Thảo làm trưởng lão vì gã là nam tử của Vạn Bác Hồ Tinh.

    Cầu Ly Hồ sẽ khó mà phản đối. Còn việc báo thù cho Cù trưởng lão ta sẽ phụ trách.

    Lão đã vì Văn gia bảo mà bỏ mạng.

    Xảo Thủ Cái gật đầu nhưng lại nói:

    - Mọi việc sẽ do đại hội các phân đà phía Nam quyết dình. Đệ tử xin phép được đi ngay.

    Nói xong, gã tức tốc rời Kim Lăng, đi về hướng Nam Xuống.

    Đến chiều, đám mỹ nhân mới về, mang theo rất nhiều những sản vật Kim lăng như quạt khăn, lụa là, son phấn. . họ còn chưa thỏa mãn, hết lời năn nỉ Tuấn Hạc ở lại thêm ngày nữa. Tuấn Hạc không nỡ từ chối, đành phải gật đầu.

    Sáng ra, họ ăn điểm tâm thật sớm và bắt Vô Giới dẫn đi nữa. Hòa thượng nhăn nhó như khỉ ăn ớt nhưng cũng phải di.

    Tuấn Hạc ở lại khách điếm ngồ suy nghĩ miên man, lát sau cũng ra ngoài dạo một vòng. Sợ mất bảo kiếm nên chàng đem theo bên mình, cùng với số tiền giấy.

    Kinh nghiệm này chàng đã học được của Hoàng Diện Thái Tuế.

    Tuấn Hạc lững thững đi về phía Đông thành định bụng sẽ thưởng thức vườn cảnh Vạn Hoa Viên nổi tiếng. Đến nơi, chàng phát hiện một đám đông Cẩm Y thị vệ đang vây chặt một người áo trắng cao gầy Hắn chính là Truy Mệnh Kiếm Sứ Hoắc cừu.

    Đứng đầu hơn trăm thị vệ đao tuốt trần kia là hai gã có gương mặt rất quen thuộc. Tuấn Hạc chăm chú nhìn và biết rằng họ chính là gia nhân của vị lão trượng đã ngã ngựa hôm trước.

    Gương mặt heo xấu xí của lão hiện ra, Tuấn Hạc thầm trách mình ngu ngốc.

    Minh Thái Tồ Chu Nguyên Chương được thiên hạ truyền tụng là người mang tướng Trữ Diện.

    Lúc này, tên đầu lĩnh thị vệ đang quát hỏi:

    - Ba hôm trước, ngươi đột nhập vào tư dinh của Lương viên ngoại giết người cướp của. Không ngờ còn dám lưu lại đất này? Mau buông vũ khí chịu trói.

    Hoắc cừu lạnh lùng đáp:

    - Tại hạ mới đến đây hôm qua.

    - Đừng hòng chối cải. Một tên gia nhân đã tả lại dung mạo và y phục của ngươi không sai một nét. Lương viên ngoại là biểu thúc của Hoàng Hậu nương nương, ngươi dám đụng đến là coi như không c òn muốn sống "

    Hoắc cừu là người cao ngạo, đâu chịu khuất phục. Gã cười nhạt bảo:

    - Đúng là một lũ ưng khuyển đui mù, ỷ thế hà hiếp người quá đáng. Hoắc mỗ không hơi đâu mà đôi co với bọn ngươi.

    Nói xong, gã rút phăng trường kiếm ra thủ thế. Ơø chốn kinh sư này, ngoài lực lượng Cẩm Y thị vệ, còn có Ngũ Hàng Binh Mã Ty phụ trách việc trị an. Vì vậy bọn cấm quân ùn ùn kéo đến tạo thành vòng vây thứ hai. Trong tình trạng này, Hoắc cừu chẳng có hy vọng thoát chết.

    Dù gã vô tội nhưng đã giết một vài thị vệ là cũng mang tội chết.

    Tuấn Hạc vội quát vang:

    - Khoan đã Hoắc huynh"

    Chàng khoan thai bước qua vòng vây, vào gặp hai thị vệ của Minh Thái Tổ.

    Tuấn Hạc vòng tay nói :

    - Tại hạ xin bảo chứng rằng ba ngày trước vị huynh đài này đang dự tiệc cưới ở núi Cú Khúc. Chư vị không tin xin cứ hỏi giáo chủ Thiên Sư Giáo"

    Gã thị vệ có nốt ruồi son trên sống mũi nhận ra chàng vội kính cẩn vòng tay:

    - Công tử đã nói thế, bọn tiểu nhân xin nhận mình lầm lẫn.

    Gã quay sang nói với Hoắc cừu:

    - Mong các hạ lượng thứ.

    Nói xong, gã ra lệnh rút sạch. Hoắc cừu cười ha hả, bước đến ôm Tuấn Hạc :

    - Không ngờ Văn nhị công tử lại là kẻ đầy uy quyền ở đất Đế Đô này. Tại hạ thật may mắn khi được kết giao vời các hạ.

    Tuấn Hạc ngượng ngừng đáp :

    - Hôm kia, tiểu thư tình cờ cứu được một lão nhân ngã ngựa. Không ngờ lão ta lại chính là Minh Thái Tổ. Đến hôm nay, gặp lại gã thị vệ kia mới biết rõ nội tình, nhờ vậy mới dám mở miệng giải vây.

    Hoắc cừu vui vẻ nói:

    - Với công cán giá ấy, công tử lo gì không được một chức quan to?

    Tuấn Hạc đáp :

    - Minh Thái Tồ là một vị vua tốt nhưng tính tình hẹp hòi, đa nghi và độc đoán, tại hạ thực chẳng dám cẩn kề. Hơn nữa, gia thù chưa báo, thê nhi thất lạc, lẽ nào vui được cảnh vinh hoa? Tại hạ sẽ rời ngay Kim Lăng, không gặp lại Chu Nguyên Chương nữa. à! Còn hoắc huynh đến đây vì mục đích gì?

    Hoắc cừu trầm giọng đáp:

    - Hoàng Thổ Chi Vương đã dời cứ địa về phía Tây Trường An. Người sai tại hạ đến Kim Lăng tìm lão già Vạn Tỏa Xảo Lượng Cam Hào Thiên mời lão hợp tác để tìm kho tàng của Tần Thủy Hoàng.

    Tuấn Hạc giật mình:

    - Chẳng lẽ Hướng Vương Gia cũng có họa đồ?

    - Đúng vậy! Người còn xác định được rằng phần mộ chính của Tần Thủy Hoàng chôn ở thôn Tây Dương, cách Trường An ba trăm hai chục dặm.

    Tuấn Hạc mỉm cười :

    - vì sao Hoắc huynh lại cố tình nói cho tại hạ biết điều ấy?

    Hoắc cừu thản nhiên đáp:

    - Tại hạ chỉ muốn công tử đến đấy chơi một chuyến để chúng ta được gần gũi nhau. Hơn nữa! Việc khai quật sẽ kéo dài khá lâu trước sau gì cả võ lâm cũng đều hay biết.

    Tuấn Hạc nghiêm giọng nói:

    - Nếu tại hạ cũng muốn chiếm kho tàng kia, tất phải tương tranh với Hoàng Thổ Thành. Lúc ấy Hoắc huynh xử trí như thế nào?

    Hoắc cừu nói với vẻ bí ẩn:

    - Đến lúc ấy hẵng hay. Xin cáo biệt"

    Gã đi rồi, Tuấn Hạc lập tức trở lại Kim Lăng khách điếm. May mà bọn tỳ nữ Thiên Ma Cốc đều đã có mặt. Chàng kể lại mọi việc rồi ra lệnh rời Kim Lăng ngay.

    Vô Giới cười khanh khách:

    - Người khác thì chỉ mong có cơ hội lập công với Thiên Tử, duy chỉ có Văn nhị công tử là sợ hãi, bỏ chạy cong đuôi.

    Trà Mi vui vẻ nói :

    - Cốc chủ không làm quan cũng là phải! Lỡ ngày nào đó bị lão ma ác độc kia chặt đầu, chẳng phải bọn thiếp đều thành góa bụa hết hay sao?

    Cả đám cười Oà lên. Tuấn Hạc cho rằng họ vui đùa nên không nỡ trách mắng.


  7. #26
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 14

    Trường An tầm cổ mộ
    Long chuỳ táng anh hùng
    Đoàn người nhanh chóng rời Kim Lăng đi dọc hướng Đông, dọc theo sông Trường Giang để đi đến An Khánh, rồi sang sông về Hoàng Sơn. Hành trình rất chậm vì các nữ nhân tranh thủ ghé thăm những thắng cảnh dọc đường và mua sắm thổ sản. Vì vậy, đến giữa tháng bảy họ mới có mặt ở Thiên Ma Cốc. Trong thời gian này, Xảo Thủ Cái cùng Hồ Diện Cái đã giải quyết xong vụ việc của Cái Bang.

    Xảo Thủ Cái lo liên lạc các phân đà ở phía Nam Trường Giang, còn Hồ Diện Cái đi gặp các phân đà phía Bắc như Huy Châu, An Khánh, Nam Dương . .

    Anh em phía Bắc đã chán ngán cảnh phải nai lưng gom góp tiền bạc cho Tam trưởng lão Trường Tu Cái Cầu Ly Hồ, nên đều hứa sẽ giúp đỡ Tuấn Hạc, chẳng cần đến lệnh của họ Cầu"

    Chính vì vậy, khi chàng về đến Hoàng Sơn đã nhận được tin rằng có hai thiếu nữ từng đi qua Hợp Phì, Tín Dương, Nam Dương. Như vậy, hành trình của họ là đi về phía hướng Tây"

    Tuấn Hạc mừng rỡ, quyết định đi Trường An ngay. Một là để tìm Cồ Doanh Doanh, hai là xerm thử Hoàng Thổ Chi vương khai quật kho báu thế nào. Chàng bèn gửi một phong thư cho giáo chủ Thiên Sư Giáo, nói rõ rằng Hoàng Thổ Thành đã tìm ra mộ Tần Thủy Hoàng và gọi lão đi ngay Trường An. Cuộc hành trình rất cấp bách và việc tranh giành kho báu sẽ rất khốc liệt nên Tuấn Hạc chỉ chấp thuận cho mình Vô Giới đi theo. Hồ Diện Cái đang chờ họ ở Nam Dương.

    Tuấn Hạc tin rằng còn rất nhiều người của Văn gia bảo sống sót nên dùng chân diện mục xuất hiện để họ biết mà liên lạc.

    Hai người mau chóng lên đường, kiêm trình ngày đêm, thay ngựa liên tục nên chỉ bẩy ngày sau đã đến thành Nam Dương.



    Hồ Diện Cái ngồi đón ngay phía Nam, phấn khởi báo tin:

    - Bẩm trưởng lão, hai nữ nhân kia đã đi về hướng Trường An, đệ tử tin rằng họ chính là thiếu phu nhân và Tưởng cô nương"

    Tuấn Hạc gật gù:

    - Có lẽ đúng là họ. Doanh Doanh đã từng kể rằng nàng có một người cậu ruột ở Trường An.

    Ba người vào một phạn điếm gần đấy để dùng bữa trưa và nói chuyện tiếp.

    Tuấn Hạc nhận thấy có nhiều toán tăng lữ và đạo sĩ đi qua, liền hỏi:

    - Họ đi đâu mà đông đảo vậy?

    Cù Y Thảo cười đáp :

    - Đệ tử nghe lén được rằng các cao thủ đang đổ xô về thôn Tây Dương để tìm kho báu"

    Vô Giới cau mày:

    - Lạ thật ! Ho áng Thổ Thành chủ đâu dại gì mà để lộ ra chuyện này, sao lại có nhiều người biết như vậy?

    Hồ Diện Cái giải thích:

    - Chẳng có gì lạ cả, Luân Hồi Đế Quân cũng đến Tây Dương tìm kho báu và chạm trán với Hoàng Thổ Thành chủ. Phe Ma Cung bị đánh bật khỏi nơi ấy, thương vong rất nhiều nên đã mời các phái bạch đạo đến hầu gây khó khăn cho Hoàng Thổ Thành "

    Tuấn Hạc giật mình:

    - Chìa khóa vào thành chưa có, Đế Quân đến đấy làm gì?

    - Bẩn trưởng lão, nếu không có chìa khóa thì dùng hỏa dược phá cửa cũng được Vô Giới băn khoăn:

    - Cả ba phe Ma Cung, Hoàng Thổ Thành và Thiên Sư Giáo đều có họa đồ và đều biết xử dụng thuốc nổ. Vậy vì sao đến bây giờ họ mới nghĩ đến chuyện mở cửa kho tàng?

    - Bẩm đại sư! Đệ tử cho rằng họ có họa đồ nhưng không biết được Tây Dương là điểm cần được đào bới, nghe nói việc phát hiện này rất tình cờ. Năm nay hạn hán, nên bách tính Thiểm Tây đào giếng rất sâu để tìm nước. Một người đã may mắn đào trúng một hầm đất, có nhiều cung tên bằng đồng và một số tượng người, ngựa. Những nông dân chất phác này đâu biết gì về lịch sử nên đã đem bán số vũ khí bằng đồng ấy. Tin này tới tai Hoàng Thổ Thành chủ, lão ta bèn tức tốc tới nơi, trả giá rất cao, mua lại mấy trăm mẫu đất ấy và tiến hành khai quật. Luân Hồi Đế Quân biết tin trễ hơn, định dùng vũ lực chiếm đoạt, nhưng không ngờ bản lĩnh Hướng Y Xích quá cao siêu, thủ hạ lại vô cùng kiên cường nên Đế Quân phải bại vong.

    Tuấn Hạc tư lự hò :

    - Nêu lực lượng Thiên Sư Giáo cũng sắp kéo đến, e rằng máu sẽ chảy thành sông "

    Hồ Diện Cái nói tiếp:

    - Bẩm trưởng lão! Hai phái Võ Đang, Thiếu Lâm cũng đã đi qua đây. Nghe nói trong kho tàng của Tần Chính có rất nhiều bí kíp võ công và bảo kiếm. Nếu vật này lọt vào tay kẻ ác thì rất nguy hại.

    Vì vậy các phái bạch đạo chẳng dám đứng nhìn "

    Vô Giới vô bụng nói:

    - việc ấy tính sau! Giờ phải đi ngay Trường An để tìm hai vị cô nương kia cái đã Bần tăng đã quá chán gương mặt sầu héo của Văn thí chủ rồi "

    Cuối tháng bảy, ba người đến Trường An, Hồ Diện Cái hỏi thăm bọn hóa tử, chúng trả lời rằng trong thành có đến ba tòa Tần gia trang.

    Bọn Tuấn Hạc hỏi địa chỉ rồi tìm khách điếm tắm rửa. Họ chẳng thể đến nhà Cửa phụ của Cồ Doanh Doanh trong tình trạng dơ bẩn được.

    Xong xuôi, họ chia nhau đi hỏi, hẹn gặp lại đúng vào bữa ăn chiều.

    Tuấn Hạc và Vô Giới thất vọng trở về trước Ba khắc sau,Hồ Diện Cái mới có mặt. Gã buồn rầu nói:

    - Bẩm trưởng lão! Địa điểm mà đệ tử đến quả đúng là nhà của Tần Hải lão gia, nhưng nơi ấy giờ đây tràn ngập bọn đao thủ Biến Hình Môn. Đệ tử dò hỏi bọn gia nhân thì được biết phu thê Cồ môn chủ đang ở nơi ấy. Nghĩa là họ đã bắt được Cồ tiểu thư và Tưởng cô nương"

    Tuấn Hạc sa sầm nét mặt:

    - Được lắm! Để Văn mỗ đến gặp họ một phen.

    Ba người lên ngựa đi về hướng Đông vì Tần gia trang nằm ở ngoại thành.

    Đến nơi, Tuấn Hạc vận công nói lớn:

    - diệt tế văn Tuấn Hạc xin được vào bái kiến Tấn cửa công"

    Tiếng chàng vang rền như chuông đồng khiến bọn gia nhân tái mặt. Lát sau, phu thê họ Cồ Thiên Hòa và một lão già tướng mạo phương phi, bệ vệ bước ra.

    Cồ phu nhân mừng rỡ nói:

    - Không ngờ hiền tế lại tìm được nơi này.

    Cồ Thiên Hòa cười nhạt:

    - Bà nói gì thế? Lão phu đã gả Doanh nhi cho hắn hồi nào đâu mà xưng hô như vậy?

    Tuấn Hạc bi phẫn nói:

    - Lão vì tham vọng mà quên lời ước cũ đem Doanh Doanh gả bán khắp nơi.

    Nay nếu không chịu giao nàng ra thì đừng trách Văn mỗ không nể mặt"

    Cồ lão nham hiểm nói:

    - Đẻ xem bản lĩnh ngươi được bao nhiêu mà dám cuồng ngôn?

    Lão bèn rút đao tấn công liền. Cồ phu nhân sợ hãi kêu khóc, bị lão già kia lôi vào trong.

    Tuấn Hạc rút kiếm đỡ chiêu đao mãnh liệt kia rồi phản kích, chàng vừa đánh vừa hỏi:

    - Lão có dám thừa nhận mình đã nhúng tay vào vụ hỏa thiêu Văn gia bảo hay không?

    cổ Thiên Hòa cười nhạt:

    - Lão phu sợ gì mà phải chối?

    Tuấn Hạc phẫn nộ gầm lên, xuất chiêu Nộ Phát Xung Quan, khí thế như chẻ núi.

    Thanh trường kiếm loang loáng phá tan màn đao quang, ập vào cơ thể đối phương.

    Bông Vô Giới hòa thượng thét lên:

    - Coi chừng phía sau"

    Tuấn Hạc vội bỏ mục tiêu, nhảy sang bên tả, vừa kịp tránh lưỡi kiếm tẩm độc xanh lè của Thiên Độc Bảo Chủ Ôn Thiếu Bảo.

    Họ ôn đánh hụt, giận dữ nghiến răng:

    - Tiểu tử đừng mong toàn mạng, chính người đã giúp Luân Hồi Đế Quân thiêu hủy cơ nghiệp của lão phu.

    Lão cùng Biến Hình Môn chủ giáp công chàng tới tấp. Vô Giới hòa thượng chưa kịp nhảy vào đã bị bọn đao thủ Biến Hình Môn chặn lại.

    Hòa thượng cười ha hả, vung thiết côn tung hoành giữa vòng vây, chỉ vài chiêu đã giết được một tên.

    Hồ Diện Cái không nhảy vào trợ chiến mà lại lẳng lặng bỏ đi.

    Tuấn Hạc bị hai đại cao thủ dồn ép không thương tiếc, một kiếm, một đao lăm le giết cho được chàng! Tuấn Hạc cắn răng đem hết sỡ học ra chống đỡ, tự biết hôm nay lành ít dữ nhiều.

    Hai khắc sau, trên người chàng đã vướng bốn vết thương. Tuấn Hạc không còn đường nào khác, đành phải liều mạng. Chàng ôm kiếm xông vào Thiên Độc Giáo chủ, xuất chiêu Nguyệt Mê Tân Độ (Trăng mờ bến bãi). Kiếm phong lồng lộng chụp lấy mục tiêu.

    ôn lão ma thấy hàng ngàn kiếm ảnh mờ mịt vây quanh, hơi lạnh của kiếm khí dàn dua tỏa ra, vội múa tít bảo kiếm điểm nhanh vào màn lưới thép ấy. Tiếng thép chạm nhau ngân dài rồi tắt lịm, nhường chỗ cho tiếng gào thảm thiết của họ ôn.

    Mặt lão giờ đây rất bằng phẳng vì sống mũi và vành môi bị gọt sát xương và trên ngực trái thủng một lỗ sâu.

    Nhưng Tuấn Hạc cũng chẳng lành lặn gì lưng chàng bị bảo đao của Cồ Thiên Hòa rạch một đường dài, máu tuôn như suối Chàng quay phắt lại lao vào kẻ đánh lén.

    Biến Hình Môn chủ không ngờ cơ thể chàng lại có luồng cương khí cản bớt lực của nhát đao. Nếu là người khác thì đã không sống nổi dưới đường đao ấy.

    Lão kinh hãi lùi nhanh, không dám đón chiêu kiếm của Tuấn Hạc. Cồ lão ma gian xảo chạy quanh, cố kéo dài thời gian để đối phương kiệt lực vì mất máu. Quả thực, máu chàng rơi vãi khắp nơi, theo từng cử động của cơ thể.

    Vô Giới nhìn thấy thế, giận dữ gầm vang, vung lên mở đường máu để đến giúp Tuấn Hạc. Lão giết một hơi sáu tên nhưng cũng thọ thương ở vai và lưng.

    Chẳng cần để ý đến thương tích, Vô Giới tung mình chặn Cồ lão ma lại. Lão ta căm hận xuất một chiêu tuyệt thủ. Đao quang chói lọi dưới ánh tà dương, xuyên qua lưới côn, chém vào cổ Vô Giới.

    Nhưng Tuấn Hạc đã không để lão ta lấy mạng bạn già của mình, chàng đem hết tàn lực đánh chiêu Xung Triệt Mai Hoa (Thổi rụng hoa mai). Kiếm kình như cơn gió hung bạo cuốn vào mé hữn thân hình họ Cổ. Lão ma cả kinh, vội trở đao đón đỡ.

    Chiêu kiếm của Tuấn Hạc tuy nhanh nhưng không đủ mạnh vì chàng đã mất máu quá nhiều nên bị chặn lại ngay.

    Nhưng Vô Giới hòa thượng đã không bỏ lở cơ hội, vung côn đánh liền.

    Cồ Thiên Hòa vội múa đao đỡ đòn.

    Bảo đao sắc bén chặt gần đứt cây côn sắt, Vô Giới liền nắm hai đầu bẻ ngược lên, kẹp chặt lưỡi đao lại.

    Chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, thanh trường kiếm trong tay Tuấn Hạc bay ra, xuyên qua ngực Cồ Thiên Hòa.

    Kiếm đâm vào tim nên lão chết không kịp trối.

    Bọn đao thủ kinh hãi bỏ chạy cả vào trong. Vô Giới cũng vội rút kiếm ra khỏi tử thi rồi ôm Tuấn Hạc nhảy lên ngựa đào tẩu Được hơn dặm, lão dừng cương, đặt Tuấn Hạc xuống vệ đường xem xét thương tích. Lão cười khà khà:

    - Thiết Thạch Thần Công quả là lợi hại, chẳng đứt một rẻ xương nào cả. Với loại Sinh Cơ Tán của gia sư, chỉ vài ngày sau là lành lặn.

    Lão điểm huyệt chỉ huyết, rắc thuốc băng bó cho chàng. Bỗng có tiếng vó ngựa phi đến, thì ra là Hồ Diện Cái. Gã nhảy xuống ngựa hỏi dồn:

    - Bẩm đại sư! Trưởng lão bị thương có nặng không?

    Tuấn Hạc đáp thay Vô Ơi ới :

    - Ta không sao! Các hạ có vào được Tần gia trang không?

    Cù Y Thảo ngượng ngừng đáp :

    - Đệ tử nhân lúc hỗn loạn đã vào được khu hậu viện và thấy phu nhân cùng một cô nương nữa đang ngồi với Cồ lão thái.

    Nhưng vì nơi ấy có quá nhiều cao thủ nên đệ tử không dám liều mạng lên tiếng.

    Tuấn Hạc thở dài :

    - Được biết nàng an toàn là tốt rồi. Nay ta đã giết cha Doanh Doanh, còn mặt mũi nào mà gặp nàng nữa.

    Vô Giới gãi đầu:

    - Cả hai vị nhạc phụ đại nhân đều chết dưới tay chàng rể, việc này quả là khó xử.

    Nhưng bần tăng tin rằng hai nữ thí chủ kia sẽ lượng thứ. Rõ ràng Văn thí chủ bị dồn vào chỗ chết, bức bách phải ra tay.

    Tuấn Hạc buồn bã nghĩ đến Doanh Doanh và Tiểu Băng, Vô Giới lại bồng chàng lên ngựa, ra roi đi về khách điếm.

    Vô Giới lấy rượn rửa sạch vết thương, dùng kim chỉ khâu miệng lại rồi rắc thuốc vào Lão vừa làm vừa cà kê nói:

    - Thứ thuốc Kim Sang này rất quý giá.

    Bần tăng phải rình mãi mới lấy trộm được một ít. Bản thân chưa được xài thi Văn thí chủ đã hưởng trước.

    Hồ Diện Cái nói đùa:

    - Đại sư cũng bị ba, bốn vết thương, còn ca cẩm gì nữa?

    Tuấn Hạc cười bảo :

    - Nếu không có đại sư thì tại hạ đã chết vì đấu pháp xảo quyệt của Cồ Thiên Hòa roi.

    Vô Giới cười khà khà:

    - Thì cũng như thí chủ cứu bần tăng khỏi lưỡi đao của lão mà thôi.

    Bốn ngày sau, hòa thượng cắt chỉ và băng bó vết thương lại. Nghỉ ngơi thêm ba ngày nữa, Tuấn Hạc đòi đi đến khu vực kho tàng.

    Hồ Diện Cái bàn rằng:

    - Hiện nay, việc trưởng lão giết Thiên Độc Giáo chủ và Biến Hình Môn chủ đã lan truyền khắp Trường An, nếu lộ diện tất sẽ bị bọn Khuất gia trang và Thiên Sư Giáo gây sự. Vết thương trên lưng lại chưa lành hẳn, vậy xin tạm thời đóng vai Thiên Ma đại lão Đinh Sơn Giáp"

    Tuấn Hạc cũng áy náy việc mình giết cha vợ nên đồng ý ngay. Mặt nạ giả đã có sẵn, chỉ cần nhuộm tóc cho trắng là đủ.

    Hồ Diện Cái là người chu đáo nên đã đem theo thuốc dịch dung của Mạn Ngọc.

    Cải trang xong, ba người đi về hướng Tây. Hai hôm sau, họ mới đến được thôn Tây Dương.

    Gọi là thôn vì trước đây nơi này có vài chục mái nhà tranh, nằm chơ vơ giữa khu đất gò cằn cỗi. Phía Tây của khu này chính là rặng núi Tần Lĩnh. Sau khi bán đất cho Hoàng Thổ Chi Vương, đám nông dân dời về phía Nam, định cư ở khu vực màu mỡ hơn.

    Vì vậy trong phạm vi hàng chục dặm, chẳng còn mái nhà nào. Dẫu có chém giết nhau đến long trời lở đất cũng chẳng ai biết được.

    Hồ Diện Cái đã hỏi thăm trước nên mua liều trại và nhiều lương thực mang theo. Vô Giới thấy gã không quên rượn ngon, hài lòng khen:

    - Cù thí chủ quả là có tài bang chủ vậy"

    Cù Y Thảo cười khanh khách:

    - chỉ có vài vò rượn mà đại sư đã nói thế không hiểu khi đệ tử làm mai cho đại sư một cô vợ đẹp thì sẽ ra sao?

    Vô Giới cười hì hì:

    - Bần tăng chỉ háo tửu chứ không háo sắc "

    Tuy vậy, trong đáy mắt lão ẩn chứa một nổi buồn kín đáo.

    từ ngoài quan đạo vào đến đây cũng phải hơn mười dặm, đường đi gập ghềnh, nham nhở và đầy bụi bặm.

    Nay vùng Thiểm Tây bị hạn hán nên mặt đất khô cứng lại và tan thành bụi dưới vó ngựa. Mặt trời chói lọi thiêu đốt vạn vật. Ngay đoạn sông Vị chảy ngang Trường An cũng cạn kiệt nước, chỉ đủ cho thuyền con qua lại.

    Còn nơi đây lại càng hãi hùng hơn nữa.

    Rặng Tần Lĩnh lù lù che mất ngọn gió Tây, khiến không khí càng thêm oi bức.

    Trên mảnh đất ruộng có chứa kho tàng kia, Hoàng Thổ Chi Vương đã xây dựng Hoàng Thổ Thành. Kiến trúc bên trong chưa ra sao nhưng bức tường dầy bắng đất và thân cây đã dựng lên sừng sững.

    Ngăn chặn những con mắt dòm ngó của quần hùng.

    Mấy trăm cung thủ túc trực trên đầu tường để dề phòng bất cứ cuộc tấn công nào. Dưới ánh nắng chang chang này, trông chúng quả là đáng tội nghiệp.

    còn những kẻ bên ngoài thì lại đỡ khổ hơn. Họ ẩn cả trong khu rừng thưa gần đấy Dù cây cối đã xác xơ vì thiếu nước nhưng cũng còn chút bóng mát hiếm hoi.

    Quần hùng căng những tấm vải lều trên những thân cây để chống cự với thái dương.

    Bọn Tuấn Hạc vừa xuất hiện là có người réo gọi ngay:

    - Đinh lão huynh, mau lại đây! Tiểu đệ chờ đại huynh đến mỏi cả mắt.

    Người gọi chính là Trương Tỳ Vân, giáo chủ Thiên Sư Giáo. Trông lão không còn đạo mạo như lúc thường ngày. Bộ đạo bào dính đầy bụi và tóc tai da thịt cũng vậy. Ơø đây nước uống còn không có nên chẳng ai được tắm cả.

    Ngồi dưới những tấm vải lều trong khu vực mé hữn này còn có chưởng môn, long đầu các phái bạch đạo, Pháp Hoa thiền sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm, Minh Tâm Tử, chưởng môn phái Võ Đang, Hư Trúc chân nhân, chưởng môn phái Hoa Sơn, Hoàng Hạc chân quân, chưởng giáo Toàn Chân, Huệ Hà sư thái, chưởng môn phái Hằng Sơn.

    Họ nhất tề đứng lên chào đón Trấn Vũ Thái Bảo Đinh Sơn Giáp. Lão vái trả rồi hỏi:

    - Tình hình mấy hôm nay thế nào rồi?

    Trương Thi ân Sư đáp :

    - Hoàng Thổ Thành chủ nhất quyết không cho các phái Trung Thổ cùng tham gia khai quật kho tàng. Hai bên đã đánh nhau sáu trận. Thương vong khá nhiều.

    Bản lãnh Hướng Y Xích quảlà đáng sợ, bị bọn lão phu liên thủ giáp công mà lão vẫn thoát về thành dễ dàng.

    Pháp Hoa thiền sư tiếp lời:

    - A Di Đà Phật! Nếu còn tiếp tục tương sát tất sẽ chết rất nhiều người. Nghe Trương thí chủ đây nói rằng Đinh thí chủ đây có Kim Bài của Thiên Tử và lại có cả chìa khóa thạch môn, bọn bần tăng quyết định lưu chiến để chờ đợi. Nếu Đinh lão thí chủ uy hiếp được Hướng Thành Chủ thì hay quá"

    Tuấn Hạc mỉm cười :

    - Việc ấy không khó, nhưng khi đã tìm thấy kho báu, biết phân chia thế nào đây?

    Nếu không giao ước trước, chỉ sợ máu sẽ chảy thành sông. Nhưng lão phu xin nói trước rằng một nửa số tài sản trong ấy sẽ dùng để chẩn tế tai dân bị hạn hán vùng này! SỐ còn lại tùy ý chư vị.

    Hư Trúc Chân Nhân tán thành:

    - Đinh đàn việt nói rất phải! Hàng trăm vạn lê dân các phủ Thiểm Tây, Cam Túc, Ninh Hạ đang chết dần vì không có gạo ăn! SỐ tài sản còn lại và các cổ vật, bí kíp, chúng ta bắt thăm và chia nhau.

    Minh Tâm Tử cười bảo:

    - chắc gì Hướng Thành Chủ và Luân Hồi Đế Quân đã chịu điều kiện này? Cứ gọi lão ra thương lượng rồi sẽ tính sau.

    Lúc này vần dương đã khuất sau đỉnh Đại Ba Sơn nên trời dịu lại. Phe bạch đạo cùng Tuấn Hạc bước ra ngoài, tiến đến gần cửa thành.

    Luân Hồi Đế Quân, Ngọc Diện Quan âm, Khuất Bạch Thành cùng một số cao thủ Ma Cung cũng ra theo. Tuấn Hạc giật mình nhận ra Giang Lăng Thần Nữ đang yểu điệu nép bên Luân Hồi Đế Quân.

    Tuấn Hạc vận công cao giọng:

    - Hướng Thành Chủ! Lão phu là Đinh Sơn Giáp, đặc sứ của Thánh Thượng, có việc muốn bàn với Thành Chủ"

    Chắc phó Thành Chủ Trường Xuân Chân Nhân đã về báo lại vai trò của Thiên Ma đại lão nên Hướng Y Xích không dám coi thường.

    Hai cánh cổng dầy mở rộng và phái đoàn Hoàng Thổ Thành bước ra.

    Hướng Y Xích tuổi chỉ mới hơn năm mươi, thân thể khôi vỉ, mày rậm mắt sâu, mũi cao, râu bó cằm trông rất oai vệ.

    Nhìn dung mạo cũng biết lão không phải người Hán.

    Họ Hướng vòng tay nói:

    - Bổn tòa từ lâu vẫn ngưỡng mộ uy danh của Thái Bảo, xin mời vào trong để bổn tòa được trọn tình địa chủ.

    Đinh Sơn Giáp cười bảo:

    - Lão phu được đồng đạo ủy thác cho nhiệm vụ giải quyết cuộc tương tranh này, khi xong việc sẽ quấy nhiễu Thành Chủ một chuyến "

    Hướng Y Xích thản nhiên bảo:

    - Thái Bảo có cao kiến gì xin cứ nói"

    Đinh lão đại vuốt râu từ tốn nói:

    - Tài sản trong ngôi mộ Tần Thủy Hoàng chính thực là tài sản của quốc gia, của bách tính Trung Hoa. Lão phu thay mặt triều đình đề nghị nộp một nửa vào quốc khố để cứu tế tai dân các vùng bị hạn hán. Nửa còn lại sẽ chia làm hai, Thành Chủ hưởng một phần, phần kia chia cho các phái. Còn bí kíp và thần binh sẽ bốc thăm ai may nấy hưởng"

    Hướng Y Xích quắc mắt:

    - Thái Bảo không thấy là đã xử ép Hoàng Thổ Thành hay sao? Vùng đất này là do bổn thành khám phá ra và mua lại.

    Sao lại phải chia cho người khác?

    Đinh lão đại hòa nhã phân tích:

    - Thứ nhất là túc hạ chỉ có quyền trên mặt đất, còn tài sản ở dưới sâu thuộc về triều đình Thứ hai là phái Trung Nguyên cũng có họa đồ và cả chìa khóa nữa, nếu túc hạ không nhờ ở gần mà nhanh chân hơn thì Thiên Sư Giáo và Luân Hồi Ma Cung đã lấy được và và nộp cả vào quốc khố vì họ đều là những công thần của Minh Thái Tổ! Thứ ba, khi các hạ dùng hỏa dược phá cửa, liệu toàn bộ tài sản trong ấy có còn nguyên vẹn hay không?

    Lão phu xin góp phần bằng chiếc chìa khóa này, mong Thành Chủ nghĩ lại cho.

    Theo lão phu tìm hiểu trong cổ thư thì số vàng bạc này trị giá đến sáu trăm vạn lượng vàng, túc hạ được chia một trăm năm mươi vạn cũng không phải là ít đâu"

    Hướng Y Xích hỏi lại rằng:

    - Nếu số vàng không lớn như vậy thì Thái Bảo tính sao?

    Đinh lão quả quyết:

    - Giả như lão phu đoán sai, Thành Chủ cứ lấy đủ số trăm rưỡi vạn của mình.

    Trường Xuân Chân Nhân ghé tai họ Hướng thì thầm. Thành Chủ nghe xong tươi cười bảo:

    - Nhất ngôn cửn đỉnh! Chúng ta cắt máu ăn thề rồi cùng hợp lực khai quật kho tàng.

    Truy Mệnh Kiếm Sứ Hoắc Cừu chạy vào trong lấy ra một chiếc chậu bằng vàng, dưới đáy có ba chân nên khi đặt đứng trên mặt đất thì cao đến thắt lưng người"

    Vô Giới truyền âm nhắc nhở Tuấn Hạc:

    - Thí chủ hỏi họ Hoắc xem trong thau có bôi chất độc hay không?

    Tuấn Hạc hiểu ý, vận công nói với Hoắc Cừn:

    - Hoắc huynh! Tại hạ là Văn Tuấn Hạc đây! Xin hỏi trong chậu có quái sự gì không?

    Hoắc Cừu mừng rỡ đáp ngay:

    - Té ra là công tử đấy ư? Thế mà ta cứ mong mãi! Yên tâm đi, trong chậu không có độc Thành Chủ là người biết tiến thoái nên đã thực tâm hợp tác. Nếu lão có âm mưu gì, tại hạ sẽ thông báo ngay"

    Hướng Vương Gia cười ha hả, bước đến rút kiếm cắt đầu ngón tay, nhỏ ba giọt máu vào chậu.

    Những người khác lần lượt làm theo.

    Đương nhiên toàn là những tay đầu não.

    Vô Giới nhanh tay đổ bầu rượn bên hông mình vào chậu. Luân Hồi Đế Quân cười nhạt :

    - cẩn thận cũng vô ích, biết đâu đáy chậu không bôi sẵn chất kỳ độc?

    Hướng Y Xích biến sắc định phát tác.

    Tuấn Hạc cười ha hả :

    - Hướng Thành Chủ đây là bậc anh hùng cái thế, tâm địa quang minh thác lạc đâu thèm giở trò hạ lưu ấy? Đế Quân không dám uống rượn thề thì cứ rút lui "

    Dứt lời, lão nhận chiếc chung trong tay Hoắc Cừu múc đầy rồi uống cạn. Đế Quân giận tím mặt nhưng Hướng Y Xích thì khoan khoái nói:

    - Thái Bảo đã coi trọng, Hướng mỗ vô cùng cảm kích. Không ngờ trên đời lại có người mới gặp đã hiểu thấu ruột gan ta"

    Lão múc rượn thề uốn cạn, chép miệng khen ngon. Bỗng có tiếng vó ngựa khua vang và tiếng người oang oang:

    - Khoan đã! Còn bọn lão phu nữa"

    Bọn người mới đến chính là Nam Tà Khúc Phụng Sứ, Trại Phương Sồ Hạng Tiêu Tâm và bốn người nữa. Dáng vóc của gã võ sĩ áo đen kia gợi cho chàng cảm giác ngờ ngợ, nhưng không có thời giờ để nhớ ra.

    Hướng Y Xích cau mày bảo:

    - Chư vị là ai mà dám đến đây đòi chia phần?

    Nam Tà cười ha hả đáp:

    - Nay Thiên Độc Giáo chủ đã bị Văn nhị công tử giết chết, lão phu Nam Tà là người duy nhất có thể giải được những chất kỳ độc trong hầm mộ Tần Thủy Hoàng. Như vậy, liệu có đủ tư cách hay không?

    Trại Phương Sồ tươi cười tiếp lời:

    - Tại hạ là Trại Phương Sồ Hạng Tiêu Tâm, truyền nhân của Vạn Tỏa Xảo Tượng, xin đem chút tài môn giúp chư vị giải phá những cơ quan, ám khí"

    Tuấn Hạc vui vẻ nói :

    - Kho tàng rất lớn, thêm một phần chia cũng chẳng sao. Có nhị vị bọn lão phu yên tâm hơn. Xin mời cắt máu ăn thề "

    Nam Tà mừng rỡ, làm ngay! Uống rượn máu xong,Trương Tỳ Vân giới thiệu mọi người với nhau rồi kể lại lời giao ước phân chia. Phe Tàng Long Trang nhất nhất tán thành. Tuấn Hạc hòa nhã hỏi họ Hướng:

    - Nay đã đồng tâm hiệp lực, mong Thành Chủ cho biết đã tìm được phần mộ hay chưa?

    Hướng Y Xí ch cười khổ :

    - Bổn tòa không biết gì về địa chất nên chỉ đào được toàn những công trình phụ của lăng tẩm và vài giếng nước trong veo.

    Trương giáo chủ cười khanh khách:

    - Té ra nhờ có nước nên trông Thành Chủ sạch sẽ và tươm tất hơn bọn lão phu rất nhiều. Sáu ngày không tắm, lão phu muốn phát điên lên được "

    Hướng Y Xích vui vẻ mời mọc:

    - Xin chư vị cứ vào cả trong thành mà tắm rửa tùy thích.

    Mọi người kéo cả vào trong, ngạc nhiên nhận ra bức tường thành được đắp dầy đến hai trượng và được khoét thành chỗ ở rất thuận tiện. Trường Xuân Chân Nhân giải thích:

    - Nhà cửa ở vùng cao nguyên Hoàng Thổ đều như thế này c ả "

    Sáng hôm sau, hai phe kiểm điểm quân số phân chia người bảo vệ vòng thành và người đào bới.

    Nhờ nhân số đông đến hơn ngàn nên công việc tiến triển rất nhanh. Trại Phương Sồ cùng gã võ sĩ nhỏ bé đi khắp nơi quan sát, đo đạc và tính toán rồi chỉ ra những chỗ cần tập trung đào.

    Sau ba ngày, họ đào được hơn trăm pho tượng tướng sĩ bằng đất nung, hai bộ chiến xa bằng gỗ, sáu tượng ngựa và hàng trăm binh khí bằng đồng"

    Tối hôm ấy, các tay đầu não tụ họp bên đống lửa bàn bạc.

    Trại Phương Sồ cau mày nói:

    - Tại hạ cho ràng nơi này không phải là lăng tẩm của Tần Thủy Hoàng mà chỉ là nơi chôn đạo quân bồi táng của ông ta mà thôi"

    Tuấn Hạc gật đầu tán thành:

    - Lão phu cũng nghĩ như vậy! Vì nếu là mộ thực thì chẳng bao giờ lưu lại đến ba bản họa đồ như vậy. Chư vị thử đem ba bản ấy so sánh thử xem?

  8. #27
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Thiên Sư Giáo chủ, Hướng Vương Gia và Luân Hồi Đế Quân lấy họa đồ của mình đặt xuống chiếu. Ba bản đều giống hệt nhau, chỉ có điều là ở góc phải phía trên, tên người vẽ không giống.

    Trại Phương Sồ kêu lên:

    - Thôi chết rồi! Tên của họ chẳng được khắc sau lưng những pho tượng đất nung.

    Như vậy họ chính là những người chế tác chúng. Bọn nghệ nhân này coi trọng tác phẩm của mình, không muốn để mai một nên đã lén vẽ họa đồ cho đời sau.

    Lão chạy vào sai bọn thủ hạ ôm ra ba bức tượng. Quả thực sau lưng chúng đều có tên trùng với họa đồ.

    Tuấn Hạc cau mày nói:

    - Ngày mai tiên sinh cho đào song song với trụ cửa hầm mộ có sẵn nhưng cách quãng khá xa, cố tìm cho ra lăng tẩm, nếu phát hiện tượng đất là bỏ ngay. Chúng hoàn toàn vô dụng đối với chúng ta.

    Mọi người khen phải và sáng hôm sau, mọi người làm theo ý Tuấn Hạc. Mười người một hố, đào rải rác thành một đường thẳng.

    Cuối cùng, vào đúng xế trưa ngày mười sáu tháng tám. Bọn công nhân đào trúng một tảng đá bằng phẳng. Tiếng reo hò vang dậy khắp nơi, họ xúm lại phá rộng ra về hướng Nam để tìm cửa vào.

    Lăng tẩm vua chúa luôn quay mặt về hướng Nam, y như hồi còn sống vậy"

    Đến chiều thì cạnh trước lộ ra, đào sâu xuống thì phát hiện một khung cửa đá rất dầy. Quả nhiên trên cửa có một lỗ khóa.

    Trại Phương Sồ cười bảo:

    - Đêm nay trăng sáng, chúng ta cứ ăn no rồi hãy vào. Lão phu cho rằng kích thước ngôi mộ không lớn, tất bên trong sẽ có tầng ngầm. Cơ quan, ám khí đầy dấy, đói bụng làm sao đối phó được"

    Mọi người tán thành, trở về tắm rửa và dùng bữa. Họ cũng bàn bạc luôn ai sẽ vào lăng tẩm.

    Cuối cùng thì chỉ có bảy người được cử đi:

    - Hoàng Thổ Thành chủ.

    - Luân Hồi Đế Quân.

    - Trương giáo chủ.

    - Thiên Ma đại lão.

    - Nam Tà.

    - Trại Phương Sồ.

    - Khuất Bạch Thành.

    Chưởng môn các phái bạch đạo đều là kẻ tu hành nên không muốn mạo phạm nơi an nghĩ của người chết, họ tình nguyện ở lại.

    Chưa tới đầu canh một, các đại cao thủ tập trung trên hố đất, nơi có mộ huyệt.

    Bảy người đại diện nhảy xuống, chuẩn bị mở cửa đá. ánh đuốc sánh rực, át cả ánh trăng. Trăng đêm nay có một quầng sáng màu mỡ chó bao quanh nên mất cả vẻ đẹp cố hữu.

    Tuấn Hạc trao bản sao bằng đồng của Hàn Ngọc Phật Trượng cho Trại Phương Sồ Hạng Tiêu Sâm làm sạch Oå khóa, dùng dầu mỏ phun vào, chờ một lúc mới tra chìa khóa. Cơ quan trong Oå khóa chuyển động lách cách khiến ai cũng phấn khởi.

    Họ Hạng thở phào cười bảo:

    - Cánh cửa này nặng không dưới bốn ngàn cân, chư vị hãy hợp lực mà đẩy ra.

    Hướng Y Xích mỉm cười:

    - Để bổn tòa thử xem"

    Lão bước đến, xuống tấn, đặt song thủ vào mép cửa rồi đẩy mạnh! Cơ bắp căng ra, cuồn cuộn dưới lớp áo gấm và cánh cửa từ từ chuyển động, kêu lên kèn kẹt.

    Tuấn Hạc bỗng ngăn lại:

    - Khoan đã, Thành Chủ đứng ở vị trí ấy nếu có ám khí tất không tránh kịp.

    Chúng ta nên đứng vào giữa, hợp lực mà đẩy"

    Hướng Y Xích nghe lời, đứng ra giữa cửa. Tuấn Hạc cũng bước đến hợp lực.

    Đẩy ở giữa thì lực đạo giảm đi gần một nửa, nhưng nhờ có hai người nên cánh cửa vẫn bị mở hé ra. Tuấn Hạc lại nói:

    - Chúng ta dồn sức đẩy mạnh rồi nhảy sang mé hữn để phòng ám khí.

    Hai người gầm lên, vận toàn lực xô mạnh rồi nhẩy liền. Cánh cửa mở toang và hàng vạn mũi tên thép bay ra vun vút, cắm vào bức vách của hố đất. Năm người kia đã nép qua từ trước nên không hề hấn Hướng Thành Chủ thở dài, vỗ vai Tuấn Hạc nói:

    - Xem như bổn tòa nợ Thái Bảo một mạng sống. Hướng mỗ ít học nên không hiểu gì về kiến trúc"

    Trại Phương Sồ hổ thẹn than:

    - Lão phu mới là đáng chê trách, không nghĩ ra việc ấy! Do nghĩ rằng Thạch Môn quá nặng nề, lại có cả Oå khóa, chắc không gài bẫy được.

    Tuấn Hạc cười bảo :

    - Lão phu chỉ theo đúng lời dạy của cổ nhân cẩn tắc vô ưu", không ngờ gặp may.

    Bảy người hợp lực vỗ những đạo chưởng phong vào trong mộ, xua đuổi làn không khí ẩm thấp rồi mới tiến vào. Nam Tà và Trại Phương Sồ đi tiên phong để xem có cơ quan hay chất độc gì không?

    Được vài trượng thì mặt đất nghiêng xuống bằng những bậc thang. Tổng cộng là một trăm lẻ tám bậc.

    Nam Tà bỗng dừng lại, đưa ra sáu viên thuốc nhỏ màu vàng:

    - Đây là những viên Kim Liên Thiên Giải Độc Hoàn, có khả năng đề phòng bách độc, xin chư vị hãy uống vào.

    Khuất Bạch Thành cũng cầm lấy nhưng hỏi lại:

    - Sao lão không uống?

    Nam Tà cười dài:

    - Toàn thân lão phu đều là độc, còn phải sợ gì nữa?

    Luân Hồi Đế Quân lạnh lùng bảo:

    - Hy vọng những viện thuốc này không có gì quỷ quái! Lúc nãy Trại Phương Sồ giả ngu không nhắc nhở Hướng Thành Chủ khiến bọn ta chẳng yên tâm chút nao.

    Tuấn Hạc gạt đi :

    - Chư vị yên tâm, Khúc huynh không có tâm địa tiểu nhân đâu. Lão bị Thiên Độc Giáo chủ đè nên ít khi góp mặt với giang hồ. Nay họ ôn đã chết, Nam Tà là truyền nhân duy nhất của Độc Môn, lẽ nào lại làm ô danh tổ sư?

    Dứt lời, chàng nuốt ngay viên thuốc.

    Nam Tà cảm kích nói:

    - Không ngờ Đinh huynh lại hiểu thấu lòng của Khúc mỗ như vậy"

    Trương giáo chủ cười khanh khách:

    - Sau hai mươi năm không gặp, Đinh huynh trở nên thông tình đạt lý khiến tiểu đệ hầu như không nhận ra. Thiên Ma đại lão ngày xưa đâu dễ mến như thế này?

    Tuấn Hạc giật mình biện bạch:

    - Lão phu ẩn cư hai mươi năm, giác ngộ được chút đạo lý của Tam Giáo nên chẳng còn nhiều tham vọng như xưa nữa"

    Nối tiếp bậc thang cuối cùng là một hành lang dài và hẹp, hai bên có những tượng chiến sĩ cầm chùy, búa bằng đồng.

    Trại Phương Sồ thở dài :

    - Tại hạ có thể đoan chắc rằng những hình nhân kia cử động được, và sẽ tấn công nếu chúng ta bước qua "

    Khuất Bạch Thành có vai vế nhỏ nhất trong đám nên hơi khó chịu, gã muốn dương thanh danh thân phụ nên cao ngạo bảo:

    - Tiếc là thanh Lãnh Vân bảo kiếm đã bị thất lạc, nếu không tại hạ đi mở đường ngay"

    Hướng Thành Chủ đưa ngay thanh kiếm của mình:

    - Công tử thử dùng thanh kiếm này xem sao?

    Họ Khuất rút ra, nghe hơi lạnh tỏa mát mặt, tấm tắc khen:

    - Quả là bảo kiếm"

    Gã hăng hái bước vào hành lang, khôn ngoan đi sát một bên để hình nhân kia không với tới.

    Nhưng gã qua mặt bốn năm pho tượng mà vẫn không thấy có động tĩnh gì, định cất tiếng chế giễu Trại Phương Sồ. Nào ngờ chỉ bước thêm một bước, tiếng cơ quan chuyển động ken két và các hình nhân bắt đầu hoạt động. Chúng lại không đứng im một chỗ mà di chuyển ra phía trước kẹp Bạch Thành vào giữa.

    Họ Khuất kinh hãi múa tít bảo kiếm chống đỡ. Nhưng những vũ khí kia lại luyện bằng thép luyện chứ không phải bằng đồng, chúng vun vút giáng xuống những cú đập hàng ngàn cân, chạm vào màn kiếm quang chan chát.

    Chỉ chịu được vài chục búa, thanh kiếm rơi khỏi tay họ Khuất và gã trúng liền hai chùy, gào lên đau đớn.

    Trại Phương Sồ quát vang:

    - Nằm xuống đất "

    Bạch Thành vội nhoài người trên mặt đất nằm im. Chùy và búa chỉ đánh phớt qua lưng gã chứ không chạm đến được .

    Hạng Tiêu Tâm lại nói:

    - Công tử hãy trườn ra thật chậm "

    Họ Khuất vô cùng nhục nhã, cố nén đau, lết dần ra. Trại Phương Sồ tháo vòng dây chão trên vai, quăng một đầu vào, kéo gã ra. Trương Tỳ Vân xem xét vết thương rồi bảo:

    - Chỉ gãy hai rẽ xương sườn, để lão phu đưa hiền diệt ra ngoài dưỡng thương.

    Lão bồng Bạch Thành chạy ngược trở lên, giao cho Ngọc Diện Quan âm. Khinh công của lão rất cao cường nên chỉ một loáng đã quay trở lại.

    Trại Phương Sồ đang bàn:

    - Theo ý tại hạ, muốn phá được trận Đồng Nhân này, chỉ có cách là chặt đứt cổ tay của bọn chúng! Tuy nhiên, trong ánh đuốc chập chờn thế này đó là việc rất khó Hướng Y Xích xua tay, quay ra ngoài nói lớn:

    - Hoắc Kiếm Sứ! Mau mang vào dây vài chục bó đuốc"

    Lát sau, Hoắc Cừu cùng một hán tử to béo chạy vào. Gã mập này chính là đệ tử của Đinh lão đại.

    Nam Tà đưa thuốc giải cho họ, thở dài bảo:

    - Nhị vị đi luôn cho vui, đường vào lăng tẩm quả là đáng sợ, chưa chi đã mất một người "

    Lão nói đúng nên chẳng ai phản đối cả.

    Họ bàn bạc một hồi, đốt đuốc quăng sâu vào đến tận cuối hành lang, rải dài ra đến ngoài. Hai người vào trước là Hướng Thành Chủ và Luân Hồi Đế Quân. Họ mở đường cho những người khác theo sau.

    Hai đại kiếm thủ tiền lên song song, kẻ tả người hữn. Năm hàng tượng đầu lúc nãy đứng im giờ đột nhiên xuất thủ trước.

    Chúng tiến ra, quay tít cánh tay cầm búa chứ không giơ lên giáng xuống. Với tốc độ nhanh như vậy, chẳng cách nào chém trúng cổ tay chúng được. Hai người vận toàn lực múa kiếm chịu đòn rồi lùi dần ra.

    Trại Phương Sồ gãi đầu than:

    - Người thiết kế cơ quan này quả là bậc tài trí kinh nhân. Cơ quan hoạt động bất thường khiến lão phu rối cả óc "

    Tuấn Hạc thì thầm với Vô Giới rồi bảo mọi người:

    - Để thầy trò lão phu thử một chuyến xem sao"

    Hai người tiến lên từ từ, bất ngờ nhảy xổ vào pho tượng đầu tiên, nắm chặt tay vật mạnh xuống. Tượng ngã lăn ra, gầy thanh sắt nối với cơ quan dưới đất nên nằm im. Hình nhân bên kia tiến ra tấn công nhưng chỉ đến giới hạn là dừng lại.

    Tuấn Hạc và Vô Giới khiêng pho tượng quăng vào hình nhân kế đó rồi dần dần cứ thế mà tiến vào. Mọi người mừng rỡ khen ngợi:

    - Quả là cao kiến"

    Hai người khác tiến lên thay thế, hủy hoại toàn bộ chướng ngại ở mé tả hành lang. Tổng cộng là ba mươi sáu Đồng Nhân mỗi bên.

    Hết đoạn hành lang quái ác này, họ đến một phòng bằng đá hình bát giác. Trên mỗi cạnh tường đều có cửa khép kín.

    Trương Thiên Sư là giáo chủ Đạo Giáo nên tinh thông dịch lý. Lão nói ngay:

    - Tám cửa này bố trí theo bát quái. Nhà Tần thuộc mạng Thủy có lẽ hướng chính Bắc là cửa Sinh"

    Trại Phương Sồ gật đầu. Lấy trong tráp gỗ nhỏ bên mình ra một câu kim thép, hai đầu sơn xanh và đỏ, giữa cột sợi tơ vàng.

    Lão cười bảo:

    - Vật này có tên là Tư Nam hoặc Chỉ Nam Ti. Một bậc bác học đời Tống là Thẩm Quát đã thử nghiệm nhiều lần và xác định rằng Chỉ Nam Ti chính xác hơn Nam Ngư hay Chỉ Nam Qui "

    Lão cầm sợi dây, buông cho kim sắt nhiễm từ kia lơ lửng, xoay quay xoay lại một hồi rồi đứng im. Đầu sơn xanh chỉ vào một trong tám bức vách. Đấy chính là hướng chính Bắc, chếch sau lưng họ là cửa vào mộ.

    Trại Phương Sồ bước đến đặt bàn tay lên sờ thử rồi áp tai nghe ngóng. Lão biến sắc lẩm bẩm:

    - Lạ thật! Đây là phương Thủy sao lại nóng ấm thế này?

    Lão kiểm tra lại các cửa khác, thấy chúng đều lạnh tanh"

    Cái học thời nhà Minh coi trọng cả Tam Giáo: Phật, Khổng, Lão. Vì vậy, Tuấn Hạc tinh thông kinh dịch và cả thuyết âm Dương Ngũ Hành của Trâu Diên. Chàng buột miệng nói:

    - Có thể là phép Điên Đảo Ngũ Hành.

    Nếu theo đúng chiến pháp thì cửa Sinh là cửa ra. Lão phu cho rằng tháng tám là tháng Kim, cửa Sinh ở hướng Tây, lật ngược lại là cửa Đoài ở phía Đông.

    Trại Phương Sồ khen phải, bước qua bức vách phía Đông. Lão đẩy mạnh, cửa kêu kèn kẹt. Vô Giới nhảy vào tiếp sức, cánh cửa mở toang mà không hề có tên độc bay ra.

    Nhìn vào bên trong, thấy cuối đường thấp thoáng hai chữ Sinh Môn kết bằng dạ minh châu. Và một mùi hương thơm nồng nàn tỏa ra, Nam Tà hít được, biến sắc nói:

    - Ngay cà cửa Sinh cũng có loài Mê Tâm Thạch Thảo, thật là đáng sợ"

    Mọi người bán tín bán nghi, không hiểu lão nói thật hay chỉ hù dọa để chứng tỏ vai trò của mình.

    Quả thực, vừa vào được nửa đường đã thấy Luân Hồi Đế Quân lảo đảo. Thì ra lão quá đa nghi nên không uống viên thuốc của Nam Tà.

    Khúc Phụng Sứ hiểu ngay, lạnh lùng bảo:

    - Các hạ không uống ngay viên Kim Liên Thiên Giải Hoàn thì đừng mong sống sót.

    Đế Quân sợ hãi móc ra nuốt ngay. Lão ngồi xuống vận công chừng nửa khắc là vô sự Đế Quân biết mọi người cười thầm nên vô cùng hổ thẹn, cúi mặt không nói tiếng nào.

    Nam Tà buồn rầu bảo:

    - Ôn Thiếu Bảo tác oai tác quái, phản phúc khôn lường nên đã hủy hoại thanh danh Độc Môn. Lão phu bị nghi ngờ cũng là phải. Nếu không có Văn nhị công tử thì Khúc mỗ chẳng có cơ hội xuất đầu lộ diện để chứng minh với võ lâm là Độc Môn chẳng phải toàn lũ tiểu nhân.

    Hướng Thành Chủ cười khanh khách:

    - Bổn tòa cũng cũng rất hâm mộ tiểu tử họ Văn ấy, muốn được tương ngộ một phen.

    Tuấn Hạc cố kềm phẫn hận, dịu giọng hỏi:

    - Lão phu nghe nói người của Hoàng Thổ Thành đã giết chết bạn y là Huệ Vân ni cô, trước sau gì y cũng đòi lại món nợ máu này.

    Hướng Y Xích biến sắc:

    - Chết thực! Bổn tòa không hề biết việc này! Nhưng vì sao họ Văn vẫn giải cứu cho Hoắc Kiếm Sứ ở Kim Lăng?

    Hoắc Cừu điềm đạm nói:

    - Y là người quang minh, lỗi lạc, tất không giận cá chém thớt.

    Nam Tà mừng rỡ hỏi:

    - Té ra Hoắc Kiếm Sứ có gặp Tuấn Hạc ở Kim Lăng hay sao?

    Hoắc Cừu gật đầu. Khúc lão gật gù:

    - Hay lắm! Hay lắm! Để lão phu cho người đi Kim Lăng tìm ngay"

    Tuấn Hạc ngạc nhiên, không hiểu vì sao lão lại quan tâm đến mình như vậy?

    Mọi người đi hết đoạn đường hẹp, lại đến một phòng bát giác khác. Lần này cửa Sinh lại ở hướng Tây. Qua bốn lần như vậy Trại Phương Sồ buột miệng:

    - Tại hạ cho rằng chúng ta đã ra khỏi phạm vi Hoàng Thổ Thành và tiến về phía rừng Tần Lĩnh"

    Luân Hồi Đế Quân thở dài:

    - Nãy giờ chúng ta đã đi hơn một đoạn đường dài đến hơn dặm, công trình quả là vĩ đại"

    Dưới ánh đuốc chập chờn, chiếc mặt nạ vàng trông rất quái dị. Trương giáo chủ cười bảo :

    - Sao Tần huynh không bỏ mặt nạ ra?

    Đã là dòng dõi công thần, sao còn phải giấu mặt làm gì?

    Đ ế Quân gượng cười :

    - Dung mạo lão phu rất xấu xí nên chẳng dám chườm ra.

    Họ đi tiếp và đến một hang động thiên nhiên rất rộng rãi, trần hang đầy thạch nhũ rõ nước liên tục. Giữa nền hang là một hồ nước tròn rộng ba trượng, nước đen ngòm dưới ánh đuốc.

    Chung quanh vách không hề có một khe cửa nào cả. Trại Phương Sồ chỉ vào hồ nước:

    - Có lẽ đây chính là cửa vào duy nhất.

    Mọi người đều chán nản nhìn nhau. Họ xúm lại dơ đuốc sát mặt nước để quan sát nhưng chẳng thấy đáy đâu"

    Trại Phương Sồ cột đá vào dây chão thả xuống để đo độ sâu. Sợi dây dài mười trượng chỉ còn dư một đoạn chừng sải tay. Hạng Tiêu Tâm đã xác định được độ sâu liền kéo cục đá lên.

    Không ngờ, sợi dây đột nhiên bị giật mạnh khiến lão mất đà chúi xuống hồ.

    Trương giáo chủ nhanh tay nắm được áo kéo lại. Và rồi nước hồ dâng lên cuồn cuộn, xuất hiện một chiếc đầu to lớn của một con thủy quái.

    Mọi người kinh hãi nhẩy lùi ra xa. Con quái vật nhả cục đá và sợi dây chão ra rồi trườn lên mặt hang. Té ra nó có bốn chân, mỗi chân to như cột đình.

    Chiếc đầu to bè bè lớn bằng mảnh chiếu kia là của loài rắn, nhưng da trơn không vẫy và dọc sống lưng tua tủa những gai.

    Hướng Thành Chủ quát vang :

    - Phân tán khắp nơi tìm chỗ cắm đuốc cho cao rồi chiến đấu"

    Bảy người kia làm theo lời lão, chạy dọc theo vách, tìm khe đá mà cắm đuốc vào.

    Quái Long rít lên những tiếng sắc nhọn chói tai, chiếc lưỡi dài ghê rợn thò thụt liên tục. Nó tiến về phía Thiên Sư Giáo chủ Trương Tỳ Vân.

    Trương giáo chủ tung mình lên không, đâm vào mắt tả của nó. Quái Long nhanh nhẹn mở to chiếc miệng đầy răng lởm chởm táp họ Trương. Trương Thiên Sư tránh khỏi vung kiếm chặt vào xương đầu có cảm giác như chém vào đá núi.

    Con vật nghe đau, giận dữ lướt đến.

    Bảy người còn lại vội xông vào giải vây.

    Sáu thanh kiếm đều đâm thủng da quái long nhưng không sâu lắm. Nó điên cuồng trở mình, quét chiếc đuôi dài to tướng đẩy văng những đối thủ phía sau lưng.

    Vô Giới rình cơ hội, tung mình lên giáng một côn vào đầu thủy quái. Con vật điên cuống, vụ lộng chiếc đuôi dài hai trượng hất văng tất cả. Nó đứng thẳng trên bốn chân, rượt đuổi các địch thủ của mình với tốc độ đáng kinh ngạc.

    Tám người đều là đại cao thủ võ lâm nhưng không sao giết được con vật khổng lồ này. Lớp da dày cộng với khối mỡ ở dưới đã bảo vệ cho phủ tạng bên trong, trường kiếm không cách nào đâm đến được Tuấn Hạc tra kiếm vào vỏ, nhảy lên giáng chưởng vào đầu quái long. Chàng đau cả tay mà nó chẳng hề hấn gì. Những người khác thay phiên tấn công nên con vật bắt đầu thấm đòn. Nó khôn ngoan lùi vào hành lang, bít chặt cửa ra và chỉ ló có nửa thân trước.

    Trại Phương Sồ bực tức nói:

    - Chết thật ! Chúng ta quá ham đánh mà quên cả vị trí quan trọng ấy.

    Song phương nghỉ ngơi một chút rồi lại tái chiến. Hướng Thành Chủ nghiến răng dùng phép Ngự Kiếm cố chặt đứt lưỡi con vật. Lão bốc lên như chiếc pháo thăng thiên, bay chếch về phía trước, lao thẳng vào miệng quái long. Màn kiếm quang loang loáng đã làm nó sợ nên không thè lưỡi ra cuốn lấy mà lại vươn cổ mổ vào. Bảo kiếm chỉ chặt gãy mấy chiếc răng và đâm vào lỗ mũi. Lúc này, con vật mới thè lưỡi ra cuốn lấy Hướng Y Xích.

    Trường kiếm kẹt cứng trong xương mũi nên không rút ra được, tính mạng họ Hướng coi như hun hỉ.

    Nhưng Tuấn Hạc đã lướt đến, búng một hạt Thiết Châu phá vỡ nhãn cầu bên tả của ác thú. Viên sắt chui sâu vào trong, chạm lớp thần kinh đáy mắt, tạo cảm giác vô cùng đau đớn. Quái long rít lên, buông lỏng vòng lưỡi, thả Hướng Y Xích rơi xuống đất. Lão lộn nhanh mấy vòng, đứng lên nói lớn:

    - Hướng mỗ lại thiếu Đinh lão huynh thêm một mạng nữa rồi"

    Quái long mất một mắt sinh lòng sợ hãi, cứ đứng im cố thủ. Tuấn Hạc cố hủy thêm mắt còn lại mà không được.

    Bông nước từ dưới thân quái long chảy vào như thác lũ và phía ngoài có tiếng người gọi vang:

    - Chư vị phải ra ngay! Ngoài kia trời đổ mưa như bảo táp, nước lại chảy cả về khu vực này, chỉ không lâu nữa là hầm sẽ ngập kín"

    Quả đúng như vậy, nửa canh giờ trước trời đã trút nước xuống, sau bốn tháng đại hạn. Cơn mưa này được bách tính đón mừng nhưng lại khiến quần hùng ở đây rầu rĩ. Hàng ngàn người đội mưa đắp đất quanh khu mộ, cố ngăn dòng nước lại.

    Nhưng do địa thế thấp trũng, lượng nước dâng lên rất nhanh, phá vỡ bờ đất xốp, tràn xuống cửa lăng tẩm. Hồ Diện Cái liều mạng chạy vào thông báo cho toàn người bên trong.

    Tuấn Hạc nhận ra gã, vận công quát vang:

    - Ngươi cứ lên trước đi, bọn ta sẽ ra ngay"

    Trùm người nhìn nhau thở dài, cùng tiến lên. Nếu không giết được con vật quỷ quái này ngay, họ sẽ không bao giờ trở lên mặt đất được nữa.

    chia thành hai nhóm, từng loạt bốn người nhảy lên. Mục tiêu của họ là cổ họng quái long. Họ hy vọng rằng lớp da nơi đây sẽ mỏng hơn những chỗ khác.

    Dường như quái long cũng biết nhược điểm của mình, nó cúi thấp xuống vươn chiếc đầu gớm ghiếc và hai chân trước ra chống đỡ. Sau hơn hai khắc, nước đã dâng đến đầu gối khiến việc di chuyển càng thêm khó khăn. Vô Giới chậm chạp, trợt chân bị móng vuốt quái long quạt trúng, văng xa hai trượng. Tuấn Hạc kinh hãi đỡ lên xem xét. Da thịt rách không sâu nhưng lực đạo quá mạnh nên Vô Giới bị trọng thương. Máu trong phổi tràn ra như suối Tuấn Hạc vội truyền nội lực bảo vệ tâm mạch rồi cho lão uống linh đan, hòa thượng gượng cười:

    - Bần tăng chẳng màng đến tử sinh, nếu thí chủ thoát chết, xin đưa Hàn Ngọc Thiền Trượng về hoàn lại cho gia sư là đủ rồi"

    Tuấn Hạc sa lệ hứa:

    - Đại sư yên tâm, tại hạ sẽ làm điều ấy"

    Chàng bồng lão đặt lên một tảng đá cao ở sát vách rồi quay lại. Sau người kia đều tả tơi và kiệt lực, đứng nhìn con quái vật và dòng nước ngày càng dâng cao.

    Tuấn Hạc nghiêm giọng nói nhỏ với Hoắc Cừn:

    - Hoắc huynh! Tại hạ sẽ liều mình để giết quái vật, chỉ mong Hoắc huynh đưa giùm Vô Giới hòa thượng ra ngoài và cố công chữa trị. Nếu chẳng may lão không sống nổi, xin Hoắc huynh đến Huyền Không Tự trên núi Hằng Sơn, nói rõ rằng tại hạ đã chết và bảo thuyết thê Tiểu Băng đem Hàn Ngọc Phật Trượng đến Lục Bàn Sơn trả lại cho Tây Phật. ơn này, kiếp sau Văn mỗ xin báo đáp "

    Hoắc Cừu lặng lẽ gật đầu, đôi mắt nhòa lệ.

    Tuấn Hạc bước lên phía trước, chầm chậm đi về phía quái long. Trương Tỳ Vân lo ngại gọi:

    - Đinh lão huynh cẩn thận"

    Lúc này, tư thế Tuấn Hạc rất kỳ quái.

    Chàng dùng hai tay nắm chặt trường kiếm, đưa ra phía sau đầu, bỏ trống toàn bộ thân mình.

    Không thấy ánh thép, con vật yên tâm thè lưỡi quấn chặt thắt lưng chàng đưa vào chiếc miệng rộng. Bảy người kia kinh hãi rú lên.

    Vừa qua khỏi hàm răng, chàng vung kiếm chặt phăng gốc lưỡi và đâm ngược vào hàm trên, xuyên kiếm chếch lên óc quái long. Con vật đau đớn đến phát điên vì não bộ tổn thương, lao thẳng về phía hồ nước, lặn xuống đáy mất dạng.

    Bảy người kia không sao cản lại được, buồn bã gạt lệ. Trương giáo chủ buồn bã cười ra nước mắt :

    - Không ngờ một kẻ háo sắc, tham lam như Đinh Sơn Giáp lại chết một cách oanh liệt như vậy! Trương mỗ giờ đây mới thực lòng bái phục"

    Hoắc Cừu lạnh lùng cõng Vô Giới đi ra. Sáu người kia cũng bước theo. Khi họ ra đến cửa hầm mộ thì nước đã dâng đến ngực.

    Người bên ngoài đứng đầy xung quanh, cùng nắm chặt những tấm vải dầu để che chắn cho những ngọn đuốc. Nhờ chút ánh sáng hiếm hoi ấy, họ nhìn thấy thủ lĩnh của mình đi ra. Tiếng reo hò vì vui mưng át cả tiếng mưa gió.

    Không thấy Tuấn Hạc đâu, Hồ Diện Cái vội hỏi:

    - Cốc chủ bổn cốc đâu sao không thấy?

    Trương Thiên Sư buồn bã đáp:

    - Đinh cốc chủ đã liều mình nhảy vào miệng quái long để cứu bọn lão phu. Quái vật đã mang lão lặn sâu xuống đáy hồ rồi.

    Hồ Diện Cái không kềm được lòng, sụp xuống khó c ròng :

    - Trưởng lão chết đi thì cơ nghiệp Cái Bang còn mong gì vãn hồi được nữa. Cù mỗ cũng chẳng mặt mũi nào mà sống nữa.

    Gã võ sĩ nhỏ thó hầu cận Nam Tà vội hỏi:

    - Thảo nhi ! Có phải ngươi đấy không?

    Cù Y Thảo giật mình hỏi lại:

    - Chẳng lẻ gia gia còn sống?

    Người kia gật đầu run rẩy nói:

    - Đúng vậy ! Ta vẫn chưa chết ! Nhưng chẳng lẽ Thiên Ma đại lão lại là Văn nhị công tử?

    Cù Y Thảo đau đớn gật đầu! Gã võ sĩ cao lớn đứng bên Vạn Bác Hồ Tinh thét lên não ruột:

    - Nhị đệ! Đại ca đã đến đây"

    Hắn chính là Thiết Long hay Văn Tuấn Thu gì cũng được .

    Tuấn Thu gào thét như điên cuồng, chạy về phía hồ lăng tẩm định nhảy xuống. Nhưng nước và bùn đã lấp đầy, chẳng thấy hầm mộ đâu cả.

    Các chưởng môn nhân đều nhìn nhau thở dài, không ngờ kẻ đã hy sinh lại là Văn nhị công tử"

    Pháp Hoa thiền sư hỏi lại:

    - Phải chăng vị thí chủ ấy đã từng giả dạng Đơn Thu Cốt và Doãn Tự Vân để lên tranh ngôi minh chủ?

    Luân Hồi Đế Quân thở dài:

    - Đúng vậy! Trong võ lâm không còn chàng trai thứ hai nào như vậy cả.

    Giang Lăng Thần Nữ cười nhạt:

    - Gã đã ám hại Tự Vân, giờ chết cũng đáng đời "

    Đế Quân quay sang tát mụ té lăn xuống mặt đất đầy nước. Lão rít lên:

    - Câm ngay! Mụ còn dám xúc phạm đến Tuấn Hạc thì đừng hòng sống nữa.

    Vô Giới hòa thượng được uống Đại Hòa Đan của Thiếu Lâm nên thoát chết.

    Lão vừa tỉnh lại đã hỏi Hoắc Còn:

    - Văn thí chủ đâu?

    Hoắc Còn nghiến răng kể lại cái chết của chàng "

    Hòa thượng ngửa cổ cười bi thiết:

    - Tuấn Hạc không còn thì bần tăng lưu lại Trung Nguyên làm gì nữa? Tịch mịch thay cuộc đời này"

    Hoắc Cừu cúi đầu lẩm bẩm:

    - Tịch mịch! Tịch mịch"

    Cơn mưa vẫn Oà ạt cho đến sáng, cuốn trôi những bức tường thành, vùi lấp tất cả công lao đào bới. Khi nước rút đi, chắc nơi đây lại bằng phẳng như chưa hề bị phát hiện. Văn Tuấn Thu nhìn ánh bình minh rạng rỡ, vận công nói lớn:

    - Sang năm, đúng ngày này, Văn gia bảo sẽ tổ chức đám giỗ đầu chi Văn nhị công tử. Tại hạ xin mời chư vị giá lâm Lư Lăng"

    Ai nấy đều cảm động trước cái chết đại dũng, đại nghĩa của Tuấn Hạc nên đồng thanh hứa sẽ không quên.


  9. #28
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 15

    Thiên Điểu, Hoàng Mao đồng xuất thế
    Thùy tri thế thượng hưu u linh
    Sáu tháng sau, võ lâm rung chuyển vì sự ra đời của Thiên Điểu Bang. Họ tấn công Hoàng Thổ Thành ở vùng cực Bắc Thiểm Tây, giết chết Trường Xuân Chân Nhân và Truy Mệnh Đao Sứ. Hướng Thành Chủ vì sinh mạng của gần ngàn thủ hạ đành cùng Hoắc Cừu rút quân chạy về Tây Hạ.

    Chỉ một tháng sau, Khuất Gia Trang ở Giang âm bị tập kích lúc nửa đêm, nhà cửa còn nguyên vẹn nhưng hơn trăm người đều biến mất. Nghe nói đêm ấy có đám mây đen sì sà xuố ng và hai khắc sau lại bốc lên. Đám mây ấy phát ra những tiếng ríu rít rất lạ tai "

    Thiên Sư Giáo chủ Trương Tỳ Vân vội đến Thiếu Lâm Tự họp mặt với các chưởng môn bạch đạo, bàn bạc cách đối phó. Trương Thiên Sư thở dài nói:

    - Lão phu đã đến tận nơi quan sát và phát hiện trên mái ngói có rất nhiều phân chim. Như vậy, hành vi này rõ ràng là của Thiên Điểu Bang"

    Minh Tâm Tử - chưởng môn phái Võ Đang thở dài bảo:

    - Thiên Điểu Bang thu phục Hoàng Thổ Thành thì còn có thể hiểu được, vì họ cùng chung lãnh thổ . Nhưng việc thảm sát Khuất Gia Trang quả là quá lạ lùng ! Chẳng lẽ họ có tư thù với họ Khuất "

    Hư Trúc Chân nhân - chưởng môn phái Hoa Sơn góp ý:

    - Theo bần đạo chỉ có hỏa khí của Liệt Hỏa Giáo ở Nam Lĩnh là chống lại được bầy chim ăn thịt kia. Chẳng có động vật nào không sợ lửa cả"

    Pháp Hoa thiền sư khen phải:

    - Hay lắm ! Lão nạp sẽ cho người mang thư đến Quảng Tây ngay"

    Trương giáo chủ lộ vẻ băn khoăn:

    - Giáo chủ Liệt Hỏa Giáo là một người xấu xa, tàn ác, dã tâm lại không nhỏ.

    Không chừng lão ta nhân dịp này mà xưng bá đất Trung Nguyên "

    Huệ Hà sư thái trấn an:

    - Đất nước đang thanh bình, kỷ cương phép nước nghiêm minh, chẳng có bang hội nào dám công khai bức hiếp võ lâm đâu Các phái chúng ta đoàn kết lại thì lo gì nữa?

    Lời của bà rất chí lý nên bốn lão nhân kia đều tán thành, vừa mời Liệt Hỏa Giáo, vừa chờ xem động tĩnh của Thiên Điểu Bang! Việc trinh sát tình hình Tây Vực được giao cho Vạn Bác Hồ Tinh ở Lư Lăng"

    Giờ đây Văn Gia Bảo đã được xây dựng lại trên nền cũ. Tất cả đều giống như xưa, chỉ có rừng tùng chung quanh là thưa thớt, nham nhở vì đám cháy năm nào"

    Nhân số cũng chỉ có mấy chục tiêu sư thân tín. Bọn đao thủ Biến Hình Môn vừa quy phục chưa được uống thuốc giải nên đã chết cả vì Yêu Độc Đan.

    Cuộc đào thoát kỳ diệu khỏi biển lửa ấy sẽ được nói đến vào một hồi sau. Giờ đây chúng ta hãy quay lại Trường An để gặp một nhân vật rất thú vị.



    Trưa ngày mười tám tháng ba có một quái nhân lững thững đi vào thành Trường An - qua cửa Tây! Thân hình gã cao gầy nên trông như đang bơi trong bộ y phục rất cổ đã rách nhiều chỗ. Đặc biệt là mái tóc gã vàng chói như rơm, lông mày, lông mi cũng vậy. Hơn thế nữa, da mặt, da cổ, da bàn tay đều có lớp lông tơ vàng mượt. Bộ râu quai nón rậm rì bao kín nửa dưới khuôn mặt cũng có màu vàng.

    Gã không búi tóc mà cột túm lại bằng dải lụa đen ở đỉnh đầu. Còn đôi dày dưới chân thì hoàn toàn cũ kỹ với mũi vểnh lên. Nếu gã không có dáng đi oai phong bệ vệ, và thiếu thanh trường kiếm trong tay, thì chắc bọn trẻ con đã xúm lại chọc ghẹo.

    Trên vai quái nhân tóc vàng có một tay nải nặng bằng gấm trắng. Chẳng ai đoán ra có gì trong ấy?

    Gã ta ghé vào một tiệm bán y phục may sẵn, hỏi mua quần áo ! Chủ tiệm thấy gã nói tiế ng Hán sành sõi, bật cười bảo:

    - Không ngờ người Tây Dương lại thông thạo ngôn ngữ Trung Quốc như vậy"

    Gã lặng lẽ không biện bạch, lấy thỏi vàng hình vuông ra trả. Nén vàng sáng rực khiến chủ tiệm hoài nghi. Lão xem xét rất kỹ và còn cắn thử nữa. Trên mặt khối vàng có chữ Nhất Dật, như vậy tương đương với hai mươi bốn lượng"

    Lão chủ đặt lên cân, quả đúng trọng lượng! Lão hoan hỉ thố lại bằng một xấp tiền giấy Đại Minh Thông Hành Bảo Sao. Vị khách kia bỗng nói:

    - Túc hạ có thể cho ta đổi thêm ít tiền giấy nữa không?

    Gã móc ra thêm mười Dật nữa. Lão chủ tiệm tự hỏi trong tay nải kia chắc là có hàng trăm thỏi như vậy? Đổi tiền xong, quái nhân đi sang khách điếm đối diện. Viên chưởng quỹ nhìn vẻ xơ xác, kỳ dị của khách với ánh mắt nghi ngại. Quái nhân rút tờ tiền giấy trăm lượng đặt lên mặt quầy, lạnh lùng bảo:

    - Một phòng thượng hạng "

    Lão ta hoan hỉ cười toe toét:

    - Xin mời đại gia lên lầu! à! Tiểu nhân quên không hỏi quý danh?

    Gã tóc vàng tra in giọng:

    - Mạc Luân ở Đ ông Thăng ! Túc hạ cho dọn ngay cơm lên phòng"

    Gã tắm gội rất lâu, nhưng không cạo râu, cạo mặt gì cả. Tuy nhiên, trong bộ y phục mới bằng gấm trắng trông Mạc Luân dễ coi hơn. Nếu gã nhuộm râu tóc thì cũng chẳng khác gì người Hán vì mắt đen tuyền "

    Mạc Luân xách cả tay nải đựng vàng và trường kiếm theo. Xuống đến khách sảnh ở lầu dưới, gã nghiêm nghị hỏi lão chưởng quầy:

    - Ơø thành Trường An này, nơi nào bán ngựa tốt?

    Lão chưởng quầy mau mắn đáp:

    - Tiểu nhân có một vị tiểu huynh chuyên nuôi ngựa quý ở cửa Nam thành.

    Để tiểu nhân gọi xe ngựa đưa đại gia đến đấy"

    Mạc Luân lắc đầu:

    - Không cần xem, cứ bảo người ấy đem lại con ngựa tốt nhất là được. Ta muốn có nó vào sáng mai"

    Gã rời khách điếm, nhảy lên chiếc xe ngựa gần nhất, điềm đạm nói:

    - Hãy đưa ta dạo một vòng quanh Trường An "

    Nhưng xe ngựa vừa chạy ngang qua cửa tòa Vị Thủy đại tửu lâu, gã bảo xà ích dừng lại! Mạc Luân đưa ra tờ tiền giấy trị giá đến mười lượng bạc. Gã phu xe nhăn nhó :

    - Tiểu nhân làm gì có tiề n để thối lại?

    Họ Mạc lạnh lùng bảo:

    - Vậy thì khói thố "

    Gã nhét tiề n vào tay tên xà ích rồi bỏ đi Thì ra trước cửa tòa tửu lâu đang có một vị hòa thượng to béo đứng khuất thực. Lão ta mặc bộ tăng bào rách rưới, tay không cầm bình bát mà lại chìa ra một chimc thau đồng móp méo, nứt nẻ.

    Lão đứng ngay giữa cửa nên rất trở ngại cho khách ra vào. Bọn tiểu nhị hết lời năn nỉ nhưng lão vẫn không chịu đi.

    Bọn chúng xúm lại xô đẩy cũng chẳng hề nhúc nhích. Còn đấm đá chỉ tổ đau tay mà thôi! Hòa thượng cười ha hả bảo:

    - Hôm nay bần tăng chưa quyên đủ ba chục lượng, quyết không rời chỗ này "

    Lão chưởng quầy đấm ngực kêu trời:

    - Quyên giáo kiểu này có khác gì ăn cướp! Chẳng lẽ bổn điếm ngày nào cũng phải bù cho đủ số ba chục lượng hay sao?

    Hòa thượng thản nhiên đáp:

    - Không đâu! Ngày mai bần tăng sẽ đến tiệm bên kia đường"

    Mạc Luân bước đến cất giọng khàn đặc hỏi:

    - Đại sư quyên tiền để làm gì? Dẫu bao nhiêu tại hạ cũng có thể cúng dường được "

    Hòa thượng to béo giật mình nhìn khách lạ. Lão dò hỏi:

    - Thí chủ là người phương nào, mà râu tóc vàng như rơm vậy?

    - Tại hạ là người Tây Vực"

    HÒ a thượng cười hì hì :

    - Bần tăng là Vô Giới, dám hỏi danh tính thí chủ?

    - Tại hạ là Mạc Luân! Hay chúng ta lên lầu làm vài chén rượn rồi đàm đạo?

    vô Giới lộ vẻ mừng rỡ nhưng khựng lại ngay:

    - Bần tăng không kiêng rượn thịt"

    Nhưng còn phải quyên giáo trước đã"

    Mạc Luân hỏi ngay:

    - Đại sư định xây chùa ư?

    Vô Giới buồn rầu đáp:

    - Không phải ! Bẩn tăng định xây một ngôi mộ cho người bạn đã chết"

    Mạc Luân chấn động, lặng im một lúc mới nói:

    - Đại sư cần bao nhiêu?

    Vô Giới gãi đầu:

    - Chắc phải hơn ngàn lượng vì bần tăng sẽ xây chùa cạnh mộ để được gần gũi y"

    Mạc Luân chớp mắt, lặng lẽ móc trong tay nải ra một nắm ngọc bỏ vào chiếc thau đồng. Trị giá của nó không dưới ngàn lượng bạc. Vô Giới giật mình, cầm một viên lên xem thử và hỏi:

    - Thí chủ đừng chọc ghẹo bần tăng nhé ! Đây là ngọc hay pha lê vậy?

    Mạc Luân nghiêm giọng:

    - Toàn là của thật cả! Trong tay nải này còn đến gấp trăm lần như vậy. Đại sư có muốn lấy thêm không?

    Vô Giới xua tay:

    - Không cần đâu! Nhưng bần tăng phải đi kiểm tra trước đã. Nếu đúng là ngọc thật bần tăng sẽ rất vui lòng uống với thí chủ một phen.

    Lão lật đật bỏ chạy như bị ma đuổi.

    Bọn tiểu nhị và lão chưởng quầy ôm bụng cười:

    - Không ngờ chỉ vài viên pha lên mà đuổi được lão hòa thượng quỷ quái kia đi"

    Mạc Luân không nói gì, bước thẳng vào tửu lâu Gã lên tầng hai ngồi ngay lan can phía Tây ngắm cảnh tịch dương trên rặng Tần Lĩnh. Vừa mới ăn cơm xong nên gã chỉ gọi hai (ra nhắm nhỏ và một vò rượn Lan Sinh lâu năm. Tên tiểu nhị bưng rượn lên cười hì hì nói:

    - vò rượn này để đã ba mươi năm, giá là hai chục lượng. Chỉ mong đại gia đừng trả bằng những viên pha lê như lúc nãy"

    (Người Trung Hoa đã chế tạo ra thủy tinh từ thời nhà Thương nhưng còn thô sơ thời Đông Hán Vương viết rằng các đạo sĩ đã nung luyện năm loại đá làm thành loại ngọc ngũ sắc. Đó chính là những viên thủy tinh hay pha lê.") Hai khắc sau, Vô Giới chạy vào hỏi chưởng quỹ:

    - Thí chủ tóc vàng đâu rồi?

    Lão ta sợ hãi nói:

    - Hắn lửa gạt đại sư nên bỏ đi rồi "

    Vô Giới gầm lên:

    - Lừa gạt cái mả cha ngươi! Đó là ngọc thật! Hắn đâu, hãy nói mau"

    Sợ lão không tin, Vô Giới rút ra một xấp tiền dầy cộm dí vào mũi:

    - Đây là hơn ngàn lượng bạc, lão tin chưa?

    Mùi tiền thơm phức đâu lạ lùng gì, lão chưởng quầy choáng váng nói như mơ:

    - Ngọc thật ư! Người ấy đang ở trên lầu"

    Vô Giới đẩy lão ra, chạy thẳng lên lầu.

    Thấy Mạc Luân, lão bước đến, ngồi đối di ện cười hì hì :

    - Thí chủ quả là bậc đại thiện nhân"

    Bần tăng xin cảm tạ"

    có tiền trong túi, Vô Giới vững bụng gọi rượn thịt ê hề, lão ăn như rồng cuốn, tưởng chừng nhịn đói đã lâu! Mạc Luân lặng lẽ nhìn hòa thượng ăn uống, đôi mắt đầy vẻ trìu mến, Vô Giới no căng bụng, vơ chén róc đầy. Hai người uống liền mười chén, ai cũng ngà ngà.

    Mạc Luân nhìn ra ngoài, thấy bầy én bay lượn trong ánh hoàng hôn, lòng nao nao cảm xúc buột miệng ngâm:

    khuất khúc tân từ tửu nhất bôi, Khứ niên thiên khí cựu đình đài.

    Tịch dương Tây Hạ kỷ thời hồi Vô khả nại Hà hoa lạc khứ.

    Tự tằng tương thức Yến qui lai.

    Tiểu viên hương kích độc bồi hồi." (Dịch thơ) xong một bài từ nhấp một ly.

    Lầu xưa hơi cũ vẫn còn y.

    Bóng chiều qua lại miền Tây Hạ Chẳng thể làm sao hoa khỏi rơi én kia quen cũ bay liền cánh Mình ta vườn nhỏ bước bồi hồi." Ngâm xong, Mạc Luân nâng chén uống cạn. Vô Giới róc thêm chén khác rồi hỏi:

    - Phải chăng thí chủ có kỷ niệm buồn ở đất Tây Hạ?

    Mạc Luân gật đầu.

    - Thí chủ đến Trường An có việc hay đi du sơn ngoạn thủy?

    - Tại hạ muốn đi thăm Giang Nam một chuyến "

    Vô Giới mừng rỡ nói:

    - Bần tăng cũng có ý định ấy. Hay là chúng ta đồng hành cho vui?

    Mạc Luân gật gù:

    - Thế thì tốt lắm! Đại sư đi sắm sửa y phục. Rồi đến Vị Thủy đại khách điếm tìm tại hạ"

    Vô Giới cười vang:

    - Bần tăng cũng biết nơi ấy người áo rách không vào được "

    Lão cao giọng gọi tiểu nhị tính tiền.

    Còn ít bạc lẻ lão không cho mà lấy lại và cười bảo gã:

    - Mấy đồng này coi như bần tăng quyên của thí chủ vậy "

    Tiểu nhị tức muốn hộc máu nhưng không dám phát tác"

    Khi hai người khách đi khỏi, chưởng quầy và bọn tiểu nhị xúm lại bàn tán:

    - Chắc hai kẻ này quen nhau trước và bày ra trò bố thí ngọc ngà để loè thiên hạ đấy thô "

    Chỉ mình gã phu xe là biết người tóc vàng kia rộng rãi. Nhưng gã chẳng bao giờ chịu nói ra. Biết đâu đấy là của cải ăn cướp thì sao?

    Sự đời quả nực cười "



    Đêm hôm ấy, có một bóng đen đột nhập vào Tần gia trang ở cửa Đông thành Người này trùm kín toàn thân trong lớp vải đen. Thân pháp của hắn nhanh như ánh sao băng qua bầu trời và phiêu phưởng nhẹ nhàng tựa bóng u linh.

    Hắn nhanh chóng lướt khắp khu hậu viện như muốn tìm ai đó. ánh trăng mười tám vằng vặc trên cao không hề làm hắn lo sợ Đến một căn phòng còn sáng đèn, hắn nhìn qua khe cửa, thấy một mỹ nhân đang ngồi nhìn ngọn nến lung linh. Nàng vô cùng xinh đẹp nhưng gương mặt lại đầy vẻ đau khổ. Bỗng nàng thở dài não ruột nước mắt trào ra. Mỹ nhân gạt lệ đứng lên, hai tay đưa ra phía trước, chậm chạp dò dẫm in từng bước đi . Thì ra nàng bị mù"

    Người bịt mặt chấn động tâm thần, đứng lặng người một lúc. Dường như đã tìm ra chủ ý, hắn vào các phòng gâ đấy, điểm huyệt toàn bộ những người đang ngủ. Những luồng chỉ kình từ ngón tay gã vượt qua khoảng cách nửa trượng rất dễ dàng. Công phu cách không chỉ lực đạt đến mức này là điều khó mà tin được.

    Khi biết chắc rằng tất cả đều ngủ mê man, hắn đẩy cửa phòng nữ lang mù, bước vào và đóng lại. Thính giác của người khiếm thị rất tinh tường, vì vậy nữ lang kia phát giác ra ngay. Nàng ngồi ở mép giường, mỉm cười hỏi nhỏ:

    - Tưởng đại thư chưa ngủ sao? Vào đây chơi với tiểu muội"

    Hắc y nhân vận công truyền âm, khiến giọng nói văng vẳng như từ cõi mơ hồ nào đấy"

    - Doanh muội! Ta là Tuấn Hạc từ cõi âm trở về thăm nàng đây "

    Giọng nói quen thuộc, thân thiết kia khiến Doanh Doanh vui mừng khôn xiết, nàng đứng bật dậy lắp bắp:

    - Tướng công! Có thực là tướng công không?

    Hắc y nhân ngâm nga:

    "Phủ năng chính đắc tăng nhi liễu, Vũ đả lê hoa thâm bế môn." Đây là hai câu cuối trong bài Tử Gia Cô Thiên của Tần Quán đời Tống! Nghĩa của nó là :

    "vừa lúc chong đèn cài cửa kín, Hoa lê tầm tã trận mưa tuôn." Hai câu này là mật hiệu để phu thê nhận ra nhau. Thuật dịch dung của Biến Hình Môn quá linh diệu nên sau khi cứu được Doanh Doanh khỏi ôn Châu, mỗi lúc gần gũi nàng và ôn Tiểu Băng chàng đều ngâm nga câu đầu và họ đọc câu sau"

    Yù thơ trong bài thì khác nhưng đem vào chốn phòng the lại nồng thắm ái ân"

    Doanh Doanh bật khóc:

    - Tướng công! Dầu chàng có là hồn ma bóng quế thiếp cũng không sợ, hãy đến đây với thi ếp "

    Đôi tay nàng quờ quạng vào không khí như muốn tìm Tuến Hạc. Chàng đau đớn nói:

    - Ta đã giết t nhạc phụ, còn mặt mũi nào mà kề cận nàng nữa! Lần này gặp nhau cũng là lần cuối cùng"

    Doanh Doanh xua tay nức nở:

    - Không ! Không ! Tướng công bì bức bách mới phải làm như vậy! Gia phụ đã mế t cả lương tri, bao phen hãm hại phu thê chúng ta, như vậy đâu còn là cha con nữa! Nay thiếp đã mù lòa, khố n khổ thế này cũng là chịu tội thay cho tướng công rồi! Thiếp chưa thể chết theo chàng là còn vì từ mẫu"

    Nói đến đây, uất khí công tâm, Doanh Doanh ngã lăn ra đất bất tỉnh. Nhưng Tuấn Hạc đâu thể để nàng rơi xuống đất, chàng lướt đến đỡ, đặt nàng lên giường rồi xoa bóp các huyệt đạo quanh đầu cổ.

    Lát sau, Doanh Doanh hồi tỉnh.

    Nàng mừng rỡ ngồi lên, đưa tay vuốt ve gương mặt Tuấn Hạc. Thấy hàng râu rậm rạp, nàng mỉm cười bảo:

    - Sao tướng công không chịu cạo râu?

    Tuấn Hạc giả giọng âm u:

    - Ta chết nơi đất lạ, chẳng ai thờ cúng nên làm gì có dao mà cạo?

    Doanh Doanh bật thốt:

    - Thiếp nghe nói đại ca Văn Tuấn Thu đã về Lư Lăng dựng lại Văn Gia Bảo, sao vong linh chàng không về đấy nương thân?

    Tuấn Hạc hoan hỉ phi thường. Suy nghĩ môi lúc rồi nói:

    - Nếu nàng không giận ta, sao chẳng về lại Văn Gia Bảo khói hương? Oan hồn của ta sẽ cùng nàng xúm họp "

    Vào thời Minh, Thiên Sư Giáo phát triển mạnh nên nhân dân Trung Hoa rất tin vào chuyện ma quỷ! Việc vong hồn chết oan hiện về với người thân được coi là lẽ đương nhiên. Những giai thoại như vậy đã là tiề đề để sau này Bồ Tùng Linh đời Thanh viết tác phẩm Liêu Trai Chí Dị .

    Doanh Doanh vui vẻ gật đầu:

    - Sáng mai thiếp sẽ thưa lại với mẫu thân rồi cùng bà đến Lư Lăng! Thiếp ở đây cũng chỉ vì được gần gũi phần mộ của chàng mà thô "

    Tuấn Hạc cảm động hôn lên má nàng rồi hỏi:

    - Vì sao Doanh muội lại lâm vào cảnh tăm tối này?

    Doanh Doanh buồn bã nói:

    - Tiểu muội bị tiên phụ phế võ công nên rấ yếu ớt. Khi nghe tin tướng công chết trong miệng quái long, tiểu muội ngã lăn ra bất tỉnh, đầu đập mạnh xuống sàn gạch. Lúc tỉnh lại thì đã không còn thấy đường nữa "

    Bông nàng thẹn thùng nói:

    - Thiếp chỉ tiếc một điều là chưa kịp sinh con nối dõi cho tướng công"

    Chàng dịu dàng nói :

    - Nếu nàng không sợ ta là ma quỷ, phu thê sẽ lại mặn nồng"

    Doanh Doanh ôm chặt lấy chàng thủ thỉ:

    - Thiếp đâu dám mong được hưởng niềm hạnh phúc ấy"

    Nàng run rẩy cởi áo trượng phu, úp mặt vào da thịt lạnh giá kia, cố tìm lấy chút hương xưa. Lát sau, những động tác vuốt ve quen thuộc đã khicơ thể nàng nóng lên và khát khao dâng hiến.

    Bao nhớ nhung dồn cả lại phút giây này, hai người đắm mình trong hoan lạc đến giữa tận canh tư.

    Tuấn Hạc bất ngờ điểm huyệt Doanh Doanh, mặc lại y phục cho nàng, sửa sang lại chăn gối rồi trở về khách điếm. Vô Giới hòa thượng đã đến hồi xẩm tối và ở một phòng khác nên không hề hay biết"

    Sáng hôm sau, Cồ lão thái thấy Doanh Doanh dậy trễ, liền đến phòng nàng đánh thức :

    - Doanh nhi! Con có khoẻ không, sao lại ngủ trưa hơn mọi ngày?

    Doanh Doanh giật mình ngồi dậy, đưa tay sờ mó chung quanh. Nàng bỗng nhớ rằng hồn ma không thể ở lại ban ngày, quay sang Cồ lão thái, hơn hở nói:

    - Mẫu thân! Đêm qua anh linh Tuấn Hạc hiện về sum họp với hài nhi. Chàng bảo rằng con phải về ngay Văn Gia Bảo vì hồn chàng cũng sẽ về đấy"

    Cồ lão thái tin là thực, buồn bã nói:

    - Con là dâu họ Văn thì về đấy là phải đạo ta đến đấy sao tiện?

    Doanh Doanh ôm bà cầu khẩn:

    - Mâu thân nói tướng công không có lỗi gì trong khi hạ sát phụ thân, sao giờ này lại vì việc ấy mà bỏ rơi hài nhi?

    Chẳng phải vì phụ thân mà Anh muội chế t đấy sao? Hài nhi mù lòa, mẫu thân thì già yếu, không nương nhau mà sống thì còn dựa vào ai được nữa?

    Nàng bật khóc thảm thiết khiến Cồ lão thái cũng khóc theo. Bà gật đầu nói:

    - Thôi được, màu thân sẽ đi cùng Doanh nhi"

    Hai mẹ con gọi Tưởng Thiếu Hà sửa soạn hành lý cáo biệt Tần Hải để về Giang Tây. Sau khi Cồ Thiện Hòa chế t, Cồ lão thái giải tán Biế Hình Môn nên chẳng còn ai đi theo cả.

    Tưởng Thiếu Hà - tứ đệ tử của Thiên Sư Giáo chủ - là một nữ lang bị á tật.

    Nàng khá sinh đẹp và có thân hình gợi cảm. Tưởng Thiếu Hà được Trương giáo chủ thu nhận từ năm mười tuổi và nuôi dưỡng suốt mười lăm năm.

    Tích Ngọc Lang Quân là kẻ háo sắc nên thường ức hiếp nàng sư muội tật nguyền. Tử lúc nàng mới lớn, gã đã giở trò bại hoại, sờ mó và chọc ghẹo. Lúc đầu Tưởng Thiếu Hà còn nhẫn nhịn, nhưng sau khi biết rõ lòng dạ gã, nàng nuôi lòng căm hận, phản kháng kịch liệt.

    Khi Doanh Doanh bị bắt về để kết hôn với Trương ân Tuấn, Tưởng Thiếu Hà là người chăm sóc nàng nên cảm thông với hoàn cảnh. Sẵn mối thù với Trương ân Tuấn, Tưởng Thiếu Hà liền cưu mang Doanh Doanh, đưa nàng về Trường An.

    Doanh Doanh đã cùng nàng kết nghĩa chị em, thề suốt đời không bỏ nhau. Vì vậy Doanh Doanh về Văn Gia Bảo thì nàng cũng đi theo! Nàng hóa trang làm gã đánh xe để tránh mặt Thiên Sư Giáo"

    Khi xe song mã ra đến đường quan đạo thì gặp hai ky sĩ. Đó là một lão hòa thượng to béo và một quái nhân râu tóc vàng hoe. Vô Giới đang oang oang kể tình hình võ lâm cho Mạc Luân biết.

    Doanh Doanh nghe tiếng người quen liền bảo Cồ mẫu:

    - Mâu thân thử nhìn người kia xem có phải là một hòa thượng mập mạp hay không?

    cổ lão thái vén rèm nhìn ra, quay lại nói:

    - Đúng vậy! Dường như ta đã gặp lão lâu rô thì phải "

    Doanh Doanh mừng rỡ thò đầu ra cửa sổ gọi lớn:

    - Đại sư! Tiện nữ là Doanh Doanh đây"

    Vô Giới giật mình, phóng ngựa lại, cười ha hả :

    - Không ngờ lại gặp được nữ thí chủ ở đây! Bần tăng tưởng đã về ôn châu rồi chứ? Bần tăng mới trở lại Trung Nguyên chừng mười ngày nay "

    Doanh Doanh vui vẻ hỏi:

    - Đại sư đồng hành với ai mà có vẻ tương đắc vậy? Tiểu nữ mù nên chẳng thấy gì cả"

    Vô Giới giật bắn mình:

    - A Di Đà Phật! Lẽ nào trời già lại tàn nhẫn đến thế sao? Tội nghiệp cho nữ thí chủ! à! Bạn của bần tăng là một gã người Tây Vực tên gọi Mạc Luân"

    Doanh Doanh nói tiếp:

    - Tiện nữ đang cùng mẫu thân trên đường đến Văn Gia Bảo "

    Vô Giới gật gù:

    - Hay lắm! Bần tăng cũng có ý ấy"

    Chúng ta cùng đồng hành cho vui "

    Đến trưa họ ghé vào một trấn giữa đường để dùng bữa. Vô Giới đến tận xe chào Cồ lão thái rồi đỡ hai người xuống.

    Quán vắng không có người nên bọn tiểu nhị vui mừng đón tiếp. Cả năm người quây quần quanh một bàn lớn, Vô Giới sang sảng gọi cơm rượn, nghe giọng cũng biết túi lão đầy tiền"

    Tưởng Thiếu Hà rất ngạc nhiên và thích thú trước dung mạo của Mạc Luân.

    Nàng quên rằng mình giả trai, cầm bàn tay Doanh Doanh viết vào.

    - Doanh muội, gã Tây Vực kia rất kỳ lạ mắt gã đen nhưng râu tóc lại vàng hoe"

    Doanh Doanh sợ Vô Giới hiểu lầm liền giới thiệu:

    - Tiểu nữ quên không nói, người này chính là Tưởng đại thư, ân nhân của tiểu nữ"

    Vô Giới bật cười:

    - Không nói bần tăng cũng đoán ra"

    Nam nhân đâu có mông ngực tròn trịa như vậy?

    Tưởng Thiếu Hà đỏ mặt lườm lão bằng ánh mắt rất sắc ! Vô Giới ngượng ngừng chữa thẹn:

    - Thực ra thì cũng chẳng cần hóa trang.

    Sau khi Văn nhị công tử liều mình ở lăng mộ Tần Thủy Hoàng, Trương giáo chủ đã chính thức ngỏ lời xin lỗi Văn Gia Bảo và bãi bỏ lệnh truy sát Tưởng Thiếu Hà"

    Tích Ngọc Lang Quân thì bị quản chế rất chặt chẽ "

    Tưởng Thiếu Hà mừng rỡ, lột ngay mặt nạ ra. Nàng ra dấu rằng mang vào rất khó chịu. Vô Giới cười bảo:

    - Không ngờ nữ thí chủ cũng là một giai nhân"

    Tưởng Thiếu Hà thẹn thùng nhưng rất sung sướng! Doanh Doanh vô tình nói:

    - Tiện nữ cùng Tưởng đại thư kết tình tỷ muội, quyết thờ chung một chồng.

    Nào ngờ Văn tướng công lại ngắn số nên duyên phân không thành "

    Vô Giới nhăn mặt:

    - Nữ thí chủ có biết Văn thí chú có hai người thiếp ở núi Hoàng Sơn hay không?

    Sau khi nghe Văn Gia Bảo bị thiêu hủy, toàn gia thảm tử, Tuấn Hạc đành phải lấy Phương Phương và Mạn Ngọc để có người nối dõi tông đường"

    Doanh Doanh không hề ghen tuông mà lại nói:

    - Thật là tội nghiệp cho hai chị ấy?

    Phải chi chị em được đoàn tụ ở Văn Gia Bảo, cùng thờ phụng tướng công! Nghe nói ôn đại thư đã có mặt ở Lư Lăng từ lâu rồi! Không hiểu Thiền ông có phục hồi được dung mạo cho chị ấy không?

    Vô Giới thở dài:

    - Giờ đây, Văn thí chủ đã qua đời, có xinh đẹp như cũng cũng chẳng có ai thưởng thức nữa"

    Bỗng lão gãi đầu lẩm bẩm:

    - Nếu Tuấn Hạc còn sống chẳng phải đã có đến ba người vợ tật nguyền sao?

    Người thì mù, người thì câm, người thì mặt nạm!

    Mạc Luân ngồi sát bên nên nghe rất rõ, giả vờ như không để ý, nhìn ra ngoài cửa

    quán! Cồ Lão thái buồn rầu nói:

    - Lão thân chỉ có mình Doanh nhi, muốn tìm danh y chữa trị đôi mắt cho nó mà không biết chỗ!

    Vô Giới vô đùi cười ha hả:

    - Chẳng lẽ lão thí chủ không biết rằng dưới chân ngọn núi Ly Sơn có một bậc đệ nhất thần y hay sao? Tuy lão hơi ham tiền một chút nhưng tài y đạo đáng xưng quốc thủ "

    Cồ lão thái bối rối:

    - Lão thân đã đem gia sản ra chia cho các đệ tử Biến Hình Môn để họ có vốn mưu sinh, nếu vị thần y kia đòi nhiều quá chắc không kham nổi! Hay là để về Lư Lăng cầu cứu Văn đại công tử xem sao?

    Vô Giới giãi đầu, liếc gã tóc vàng rô nói:

    - Chiều qua bần tăng mới quyên được hơn ngàn lượng bạc, chắc cũng không đến nỗi thiếu thốn"

    Mạc Luân cất tiếng khàn khàn:

    - Lão thái yên tâm, vãn bối đem theo mấy vạn lượng vàng, xin được góp một tay để giúp tiểu thư chữa trị "

    Vô Giới chụp lấy ngay:

    - Phải lắm, phải lắm! Mạc thí chủ đây có quá nhiều vàng, xài đến suốt đời cũng không hết được, mong lão thí chủ đừng từ chối?

    Cồ lão thái ngượng giọng nói:

    - Chúng ta chỉ là những kẻ sơ giao, lão thân không dám lạm dụng lòng tốt của túc hạ"

    Vô Giới xua tay:

    - Cứ đến gặp lão Thiên Kim Hồi Xuân Thủ Tống Kỳ rồi sẽ tính sau"

    Lão gọi tiểu nhị tính tiền rồi dẫn đường cho xe song mã đến Ly Sơn cách đấy vài dặm. Trên đường đi, Doanh Doanh không dằn được tính hiếu kỳ liền hỏi Vô Giới:

    - Đại sư! Vì sao thần y họ Tống kia lại có danh hiệu Thiên Kim Hồi Xuân Thủ?

    Vô Giới cười khanh khách:

    - Lão ta mê vàng hơn bất cứ thứ gì trên đời lại thường rêu rao rằng ai có ngàn lượng vàng ròng đem đến, lão sẽ trả lại tuổi xuân cho họ"

    Chỉ vào khắc sau đoàn người đã đến nhà của Tống đại phu. Ngay cả cái tên Lão gọi tiểu nhị tính tiền rồi dẫn đường cho xe song mã đến Ly Sơn cách đấy vài dặm. Trên đường đi, Doanh Doanh không dằn được tính hiếu kỳ liền hỏi Vô Giới:

    - Đại sư! Vì sao thần y họ Tống kia lại có danh hiệu Thiên Kim Hồi Xuân Thủ?

    Vô Giới cười khanh khách:

    - Lão ta mê vàng hơn bất cứ thứ gì trên đời lại thường rêu rao rằng ai có ngàn lượng vàng ròng đem đến, lão sẽ trả lại tuổi xuân cho họ"

    Chỉ vào khắc sau đoàn người đã đến nhà của Tống đại phu. Ngay cả cái tên cũng sặc mùi vàng. Thiên Kim Sơn Trang.

    Tống lão xem vàng như tính mạng nên rất bủn xỉn, keo kiệt. Vì thế , cơ ngơi của lão xập xệ cũ kỹ, chẳng hề xứng với cái tên ngàn lượng vàng" chút nào cả! Với tình trạng này dẫu có bán mười lượng cũng chẳng có ai mua "

    Giới hắc đạo Thiểm Tây cũng có ý dòm ngó tài sản của Tống thần y nhưng không dám mò vào nhà lão. Ngoài tài chữa bệnh, Tống Kỳ còn là một đao thủ bản lãnh cao cường. Mười gã đệ tử trong sơn trang cũng thuộc hàng cao thủ nhị lưu! Họ theo học võ và học luôn cả nghề thuốc"

    Thấy khách đến, một thiếu nữ chạy ra đón tiếp:

    - Mời chư vị vào trong, gia sư đang rảnh rỗi.

    Vô Giới cười khà khà:

    - Té ra Tống lão đang ế khách"

    Có tiếng già nua vọng ra:

    - Hòa thượng chết tiệt kia! Lão phu dâ u ế khách cũng chẳng bao giờ chịu chữa không công cho lão lần nữa đâu"

    Vô Giới cười vang:

    - Tống thí chủ yên tâm! Lần này bần tăng dẫn mối hời đến cho lão đây"

    Một lão nhân thấp bé bước ra, thấy có lách thực, hoan hỉ nói:

    - Xin mời ! Xin mời "

    Năm người theo lão bước vào phòng khách. Nơi đây cũng chỉ có một bàn tròn dành cho khách ngồi đợi và một chiếc bàn nhỏ để lão chẩn mạch, khám bệnh.

  10. #29
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tống lão cao giọng:

    - Xuân nhi ! Pha trà đãi khách "

    Thực ra, khách có ngồi đến mỏi lưng cũng chẳng bao giờ có ai bưng trà lên cả"

    Suốt đời Tống Kỳ chỉ lấy của người chứ không cho, dù chỉ là một chung trà.

    Vô Giới quá hiểu bạn già nên cười mát:

    - Thôi ! Thôi ! Hà tất phải bày vẻ cho tốn kém, bần tăng có mang theo bầu rượn ngon rồi"

    Tống Kỳ thản nhiên đáp:

    - Thế thì lão phu xin đi ngay vào việc.

    Dám hỏi ai trong chư vị là người bệnh.

    Mạc Luân trầm giọng:

    - Nhị vị tiểu thư đây một người bị mù, một người bị câm! Túc hạ xem thử có trị được không?

    Tống thần y cười khẩy:

    - Lão phu đã ra tay thì không có bệnh gì không khỏi cả"

    Mạc Luân lặng thinh không nói thêm.

    Tống Kỳ vạch mắt Doanh Doanh ra xem và hỏi han đủ điều. Cuối cùng lão mỉm cười:

    - Bệnh này không khó, chỉ trong ba tháng là hồi phục như xưa"

    Doanh Doanh mừng đến sa nước mắt, ôm lấy vai Cồ lão thái. Vô Giới thúc giục :

    - Tống thí chủ xem giùm cái lưỡi của cô nương đây "

    Tống thần y vội lấy đôi đũa bạc lật lưỡi Tưởng Thiếu Hà mà xem xét. Lão trần in ngâm bảo:

    - Tiểu thư đây bị dị tật bẩm sinh, lưỡi dày gấp đôi người thường. Tuy chỉ cần giải phẫu là xong, nhưng dược vật cầm máu rất quý hiế in nên giá cả còn cao hơn đôi mắt kia"

    Mạc Luân bình thản nói:

    - Túc hạ cứ nói "

    Thần Y liếc nhìn đối tượng rồi vuốt râu tính toán, lão e hèm rồi bảo:

    - Đôi mắt năm ngàn lượng bạc ngân. Aù tật tám ngàn lượng"

    Cồ mẫu giật mình:

    - Trời ơi! Sao cao quá vậy?

    Tưởng Thiếu Hà ú ớ xua tay, ra dấu rằng mình không cần chữa trị ! Mạc Luân lạng lùng nói:

    - Tổng cộng chưa đến ngàn lượng vàng, tại hạ sẽ đưa trước năm trăm lượng, khi họ khỏi bệnh sẽ đưa đủ"

    Gã lấy trong tay nải ra hai mươi mốt khối vàng. Hai mươi mốt Dật bằng năm trăm lẻ bốn lượng! Những thỏi vàng óng ánh xếp ngay ngắn trên bàn khiến Tống đại phu hoa cả mắt. Lão thần in hối tiếc trong lòng là mình quá ngu dại, không biết nói giá cao hơn"

    Vô Giới không cười được nữa, lão cười nhạt bảo Tống Kỳ:

    - Bần tăng với thí chủ là chỗ quen biết nên xin cảnh cáo trước rằng số vàng này rất khó nuốt. Nếu không chữa khỏi đúng như giao ước, bần tăng chẳng tha cho thí chủ đâu "

    Thiên Kim Hồi Xuân Thủ chưa bao giờ nghe hòa thượng nói với giọng lạnh lẽo như vậy nên ngượng ngừng biện bạch:

    - Lão phu cũng biết mình lấy giá cao hơn người khác, nhưng việc chữa trị nhất định sẽ thành công. Lão phu đâu dám hủy hoại thanh danh của mình.

    Mạc Luân lấy ra thêm ba mươi Dật vàng nữa, trao cho Cồ lão thái:

    - SỐ vàng này, mong bá mẫu nhận lấy và ở lại đây trông nom hai tiểu thư. Khi họ đã lành bệnh thì trả đủ cho Tống thần y Vãn bối phải đi ngay không thể chờ được Cồ mẫu cảm kích đến sa lệ, định sụp xuống lạy tạ. Mạc Luân không dám nhận vội nhảy ra cửa. Không phải gã đứng lên chạy đi mà là vẫn ngồi yên, và mang cả chiếc ghế dựa bay vèo đi. Thân pháp quỷ khốc thần sâu khiến Tống thần y xanh mặt, còn Vô Giới thì sững sờ.

    Tưởng Thiếu Hà đỡ Doanh Doanh cùng quỳ xuống vái tạ với theo. Mạc Luân giơ tay vẫy chào rồi nhảy lên lưng ngựa. Vô Giới vội hét toáng lên:

    - Này Mạc thí chủ, sao không chờ bần tăng với?

    Nhưng Mạc Luân lại bất ngờ trở lại, nói ngay:

    - Tống thần y! Toàn sơn trang này đã bị vây chặt rồi! Túc hạ có thù oán với ai không?

    Tống Kỳ trợn mắt:

    - Lão phu chẳng gây hiềm khích với ai cả"

    Nhưng từ ngoài cửa có hai người khách lạ bước vào. Đó là hai lão nhân tuổi lục tuần mặc võ phục trắng, vạt áo thêu đầu chim ưng bằng chỉ đen. Đậu trên vai họ là hai con chim nhỏ lông xám điểm đen, mỏ dài nhọn. Hai người ấy chậm rãi bước vào. Chỉ còn cách hơn trượng họ dừng lại và một người cất giọng âm trầm:

    - Tống thần y ! Nay đã đến thời hạn phúc đáp Thiên Điểu Bang, lão đã quên rồi sao?

    Tống Kỳ căm hận quát:

    - Thiên Điểu Bang là cái thá gì mà dám đòi lão phu bỏ cơ nghiệp chốn này về quy phục? Tống mỗ muốn xem bọn người có được bản lãnh gì?

    Tống Kỳ ỷ có Vô Giới hòa thượng và gã tóc vàng võ nghệ cao cường nên mới dám nói cứng như vậy! Bọn đệ tử của lão sau nhà xách đao chạy lên. Một gã đưa bảo đao cho lão rồi thì thầm in:

    - Bẩm sư phụ, trên đầu sơn trang có cả ngàn con chim nhỏ đang bay lượn"

    Mạc Luân ngước nhìn lên nóc nhà, thấy lợp mái ngói dày nên cũng yên tâm.

    Gã nói nhỏ :

    - chư vị hãy ở yên trong này, đóng kín tất cả các cửa lại, tại hạ sẽ cùng đại sư ra ngoài tiêu diệt bọn kia"

    Vô Giới gật đầy chụp lấy cây gài cửa dài nửa trượng hăm hở nói :

    - Tống thí chủ còn chờ gì nữa?

    Mạc Luân nói thầm:

    - Để tại hạ ra trước, nhị vị theo sau"

    Dứt lời, thân hình gã như cơn gió lướt đi Thanh trường kiếm trong tay hóa thành trái cầu xanh biếc chụp vào hai lão già áo trắng. Họ đã đề phòng nên vung kiếm liên thủ chống đỡ. Nhưng chiêu kiếm mãnh liệt như cơn bão, không cách gì ngăn lại được. Hai thanh kiếm gãy lìa và chủ nhân của chúng cũng gào lên thảm thuế mỗi người bốn khúc dọc ngang bằng bặng chính xác như đồ tể chia thịt.

    Vô Giới và Tống Kỳ trợn mắt nhìn nhau, riêng mình trước chiêu kiếm khủng khiếp kia. Bỗng có tiếng còi tre thúc giục, bầy chim trên không lao xuống ba mục tiêu dưới đất.

    Bọn Vô Giới múa tít vũ khí bao phủ toàn thân, giết chết rất nhiều. Máu của chim bám đầy đầu tóc và y phục của họ.

    Nhưng đàn chim quá đông và không biết sợ chết là gì, cứ theo tiếng còi tre mà lao xuố ng tấn công.

    Mạc Luân quát lên:

    - Phải tiêu diệt bọn điều khiển thì điểu trận sẽ tan"

    Ba người lao thẳng ra ngoài tìm bọn bang đồ Thiên Điểu Bang. Chúng chỉ có gần hai mươi tên võ công trung bình nên bị giết rất nhanh. Không còn tiế ng còi tre thúc giục, bâ y chim bay đi mất dạng.

    Tống Kỳ vui mừng gọi vang:

    - Mở của ra, chúng ta đại thắng rồi "

    Bọn đệ tử của lão mở cửa chạy ra, sững sờ nhìn ba thân hình đầy máu và ngàn xác chim vương vãi khắp nơi. Vô Giới cười bảo:

    - Các ngươi mau dọn dẹp sạch, phi tang hai chục xác người này đi. Chim để tính sau cũng được"

    Tống thần y vòng tay nói:

    - Nếu hôm nay không có nhị vị, lão phu cũng khó mà toàn mạng được! ơn này xin ghi lòng tạc dạ"

    Vô Giới cười kháy:

    - Lão tưởng Thiên Điểu Bang sẽ bỏ qua vụ này hay sao? Bần tăng dám cược rằng lão không sống hết tháng này đâu! Mạng của lão còn lo chưa xong vậy hãy trả lại vàng cho bọn bần tăng"

    Tống Kỳ buồn rầu nói:

    - Đại sư không nói lão phu cũng chẳng dám nhận điều trị cho ai nữa cả! Chắc phải bán nơi này trốn đi phương khác thôi"

    Mạc Luân dịu giọng:

    - Đi đâu cũng vậy thôi! Chi bằng Tống túc hạ theo đại sư đây đến Văn Gia Bảo ở Lư Lăng. Trước là có chỗ ẩn cư, sau tiện việc điều trị cho hai tiểu thư đây. Họ là thê thiếp của Văn nhị công tử, tại hạ tin rằng Văn bảo chủ sẽ rất hoan hỉ được đón tiếp bậc thần y như túc hạ! Tại hạ xin đưa thêm năm trăm lượng để túc hạ yên tâm định cư nơi đất mới "

    Vô Giới khen phải:

    - Mạc thí chủ liệu việc rất chu toàn! Ơø Văn Gia Bảo còn có bạn già của lão là vạn Bác Hồ Tinh Cù Sở Hòa, còn gì phải phân vân?

    Tống Kỳ không còn đường nào khác, chấp nhận đi Giang Tây:

    - Lão phu xin tuân mệnh! Còn tiề bạc chẳng dám lấy thêm! Cái mạng này cũng là do nhị vị ban cho"

    Vô Giới vô vai lão cười cợt:

    - Tống lão chỉ mắc nợ Mạc thí chủ đấy thôi Phần bần tăng coi như trả nợ lần trị thương năm ngoái.

    Chỉ hai khắc sau, thầy trò Tống Kỳ đã thu xể p xong hành lý lên hai chim c xe ngựa, theo bọn chàng đi về hướng Nam Dương. Được vài dặm, Doanh Doanh vén rèm hỏi vọng ra:

    - Vì sao Mạc đại ca lại tốt với chị em tiểu muội như vậy?

    Tuấn Hạc bối rối nói bửa:

    - Mười bảy năm trước, tại hạ được Công Tôn tiền bối tặng bí kíp võ công nên có thể tự xem là sư huynh của Văn nhị công tử"

    Doanh Doanh là người trung hậu liền tin ngay. Nàng mừng rỡ nói:

    - Không ngờ tiểu muội lại được gặp sư huynh! Nếu tướng công còn số ng chắc sẽ rất vui mừng "

    Vô Giới bán tín bán nghi vì nếu quả có điều ấy thì chắc chắn Cuồn Kiếm sẽ ghi lại trong di thư! Hòa thượng tìm cách dò hỏi:

    - Bần tăng đoán rằng thí chủ chưa đến bốn mươi, vì sao có một thân công lực hơn hoa giáp như vậy?

    Nhờ bộ râu rậm rạp và lớp lông mặt vàng nên trông Tuấn Hạc già đi rất nhiều.

    Chàng yên tâm bịa chuyện:

    - Phía Bắc vùng đất hoàng thổ có một loại kỳ trân là con tứ túc địa long. Tại hạ may mắn ăn được ba con nên công lực cao hơn tuổi tác"

    Điều này chàng đọc được trong y kinh nên Tống thần y tán thành ngay:

    - Mạc các hạ quả là đầy phúc phận.

    Lão phu chỉ muố tìm một con mà cũng chẳng ra! Ba con tương ứng với sáu mươi năm công lực. Như vậy, bản lĩnh của các hạ có thể ngạo thị võ lâm được rồi"

    Tử lúc đấy trở đi, Doanh Doanh gọi chàng là sư huynh! Điều này khiến chàng nhớ đến Huệ Vân. Cái tên Mạc Luân chính là tên của người con gái bạc mệnh kia - bỏ đi chữ ái"

    Sáu ngày sau, đoàn người đi đến chân núi Đồng Bách - nơi phát nguyên của sông Hoài. Vô Giới chỉ lên sườn núi nói:

    - Núi này là trọng địa của Thần Đao Đường Phích Lịch Đao Hồ Vạn Chúc, người đã lên tranh tài ở đại hội Hoa Sơn - là ái tử của Thần Đao Đường Hồ Tuyên.

    Hồ lão là người trượng nghĩa và hào sảng, đã từng quen biết với bần tăng! Trời đã xế chiều, hay là chúng ta ghé vào quấy nhiễu lã một đêm?

    Tống thần y cũng nói:

    - Phải lắm, Lão phu và Hồ Tuyên là bạn thâm giao nhưng đã lâu không gặp.

    Chuyến này đi Giang Tây chắc chắc chẳng còn cơ hội tương phùng, lão phu cũng muốn từ biệt lão ta"

    Mạc Luân điềm đạm nói:

    - Nhị vị tính sao cũng được "

    Đoàn người ngựa liền rẽ sang tả, đi về hướng đông núi Đồng Bách, Chỉ hơn dặm đã nhìn thấy một cơ ngơi đồ sộ nằm trên sườn núi - Ở độ cao chừng ba mươi trượng Thần Đao Đường đã khổ công đào dắp nên đường sơn đạo rộng rãi và thoải mái, xe ngựa có thể chạy vòng lên đến tận nơi. Ngay đầu sơn đạo - dưới chân núi - có một cổng lớn bằng đá, treo chiêu bài Thần Đao Đường . . Khác với thường ngày, giờ đây canh cổng có hai toán đao thủ canh gác cẩn mật, Vô Giới oang oang hỏi:

    - Chẳng hay có biếc có gì mà Thần Đao Đường đằng đằng sát khí thế kia?

    Nhận ra người quen, một gã đệ tử đáp lời:

    - Kính thỉnh đại sư cùng chư vị thượng sơn rồi sẽ rõ "

    Ba chiếc xe ngựa qua cổng, lọc cọc đi lên đến tận bình đài phía trên. Thần Đao Đường chủ Hồ Tuyên ra tận cửa sảnh đón chào. Lão cười ha hả:

    - Hay thực ! Hay thực ! Không ngờ đến lúc sắp chết lại được gặp hai bạn già"

    Vô Giới nhăn mặt:

    - Sao lại mất cả uy phong thế kia? Có bần tăng ở đây lẽ nào lại sợ thiếu người đọc kinh siêu độ?

    Tống thần y cũng nói:

    - Cứ yên tâm đánh đấm, bị thương tích đã có lão phu"

    sự có mặt của hai tay quái kiệt này đã khi Hồ Tuyên vững tâm hơn. Lão vui vẻ mời khách vào sảnh. Tống Kỳ giới thiệu phe mình với chủ nhà rồi bảo:

    - Cường địch là bọn nào mà Hồ Lão đệ có vẻ lo lắng thế kia?

    Hồ lão cười nhạt:

    - Ngoài Thiên Điểu Bang ra còn ai có thể dọa được lão phu! Ngày mốt sứ giả của bọn chúng sẽ đến nhận lời quy phục của Thần Đao Đường. Nếu phản chúng sẽ không còn một viên ngói lành. TỐ ng Kỳ thở dài:

    - Té ra Hồ lão đệ cũng lâm vào hoàn cảnh của lão phu"

    Hồ Tuyên giật mình:

    - Vậy là Tống huynh cũng bị uy hiếp và phải đào tẩu trước khi chúng đến?

    Vô Giới cười khẩy:

    - Hồ thí chủ đoán đúng chỉ có một nửa"

    Thiên Điểu Bang đã đến Ly Sơn cách nay sáu ngày và chết sạch không còn một mống "

    Cồ lão thái mệt mỏi xin phép lui trước.

    Hồ đường chủ vội sai tỳ nữ đưa các gia nhân và bọn đệ tử của Thần y vào hậu viện! Lão phếkhởi hỏi:

    - Thế diễn biến cuộc chiến thế nào?

    Vô Giới liền hăng hái kể lại tất cả! Khi nghe nói Mạc Luân chỉ dùng một chiêu kiếm mà chặt hai gã sứ giả Thiên Điểu Bang thành tám mảnh. Hồ Tuyên nhìn gã tóc vàng bằng cặp mắt ngưỡng mộ và đầy nghi hoặc"

    Tuấn Hạc cảm thấy mình xa lạ nên xin phép vào tắm gội. Chở chàng đi khỏi, Hồ Tuyên mới lộ vẻ nghi ngờ:

    - Chắc võ công bọn sứ giả cũng tầm thường nên họ Mạc mới dễ đắc thủ như vậy?

    Tống thần y xua tay hỏi lại:

    - Võ công của lão đệ so với Lã Lương Bát Quỷ thì thế nào Hồ Tuyên lưỡng lự đáp :

    - Tiểu đệ tự tin có thể thủ hòa với một trong tám người ấy"

    Tống Kỳ mỉm cười :

    - Hai sứ giả kia chính là lão Tứ và Lão tam trong Lã Lương Bát Quỷ"

    Hồ Tuyên há hốc miệng:

    - Chẳng lẽ võ công của Mạc Luân cao cường đến thế sao?

    Vô Giới trầm giọng:

    - Thú thực rằng chính bần tăng cũng không tin rằng mình có thể sống sót dưới chiêu kiếm ấy"

    Hồ Tuyên không tim lắm nhưng cũng nói:

    - sáng mai các cao thủ Hoa Sơn, Võ Đang, Thiếu Lâm sẽ đến trợ chiến. Nay có thêm Mạc Luân võ công cao siêu đến vậy lão phu rất yên lòng.

    Tống Kỳ lắc đầu:

    - Thực ra đàn chim kia mới là khó đối phó. Chúng đông đến hàng vạn con lại không biết sợ chết và rất khát máu"

    Thần Đao đường chủ đắc ý:

    - Tiểu đệ có người bằng hữu mở xưởng pháo ở Lạc Dương. Tết vừa rồi lão bán ế đến cả ngàn phong, tiểu đệ đã mua về đây Chim nào không sợ tiếng nổ chứ?



    Khu hậu viện của Thần Đao Đường rất rộng rãi, nhiều phòng ốc, mỗi người được ở riêng một phòng. Tối đến, Mạc Luân đến phòng Vô Giới nói với lão:

    - Tại hạ linh cảm lần này Thiên Điểu Bang sẽ kéo đến rất đông. Thất bại ở Ly Sơn làm họ tức giận. Nếu để Cồ lão thái và hai cô nương kia ở lại sẽ rất nguy hiểm. Sáng mai, tại hạ hộ tống họ đi đến Nam Dương rồi sẽ quay lại"

    Vô Giới cau mày suy nghĩ rồi thở dài :

    - Thí chủ lo xa như vậy cũng phải ! Nếu họ có mệnh hệ gì thì bâ tăng biết ăn nói làm sao khi gặp Tuấn Hạc ở chốn suối vàng?

    Sáng hôm sau, Mạc Luân và Vô Giới lên đại sảnh tìm Hồ Tuyên thì thấy cao thủ ba phái Hoa Sơn, Võ Đang và Thiếu Lâm đã có mặt. Cả Phích Lịch Đao Hồ Vạn Chúc đi Lạc Dương lấy pháo cũng đã trở về Mỗi phái cử đến mười cao thủ đời thứ hai võ công cao cường. Dẫn đầu lực lượng ba phái là Hư Nhân đạo trưởng (Hoa Sơn), Bạch Ngọc Tử (Võ Đang) và Pháp Dũng đại sư (Thiếu Lâm tự).

    Ba người vừa kể trên đã tham gia đại hội Hoa Sơn năm trước. Họ là đại biểu kiệt xuất của phe bạch đạo nên không khỏi có đôi chút cao ngạo. Vì vậy khi nghe Vô Giới hòa thượng báo rằng Mạc Luân sẽ đưa ba nữ nhân đi khỏi nơi này, Bạch Ngọc Tử cười nhạt:

    - Gã ấy ở lại cũng vô ích, muốn đi thì cứ việc"

    Hồ đường chủ vốn không tin lời Vô Giới và Tống thần y nên cũng giả lả nói:

    - Đã có cao thủ của ba phái, Mạc các hạ không cần quay trở lại. Lão phu xin cảm tạ hảo ý ấy"

    Mạc Luân lặng lẽ gật đầu. Vô Giới tức đến lộn ruột, cười như điên khùng:

    - Phải lắm! Đã có các bậc đại anh hùng như chư vị thì bần tăng cũng yên lòng xin phép cáo lui"

    Lão đùng đùng bước ra, theo đoàn xe ngựa xuống núi. Đương nhiên Tống thần y cũng phải chạy theo, vì tài sản ký cóp bao năm để cả trên xe! Hồ Vạn Chúc thấy phụ thân bối rối liền an ủi:

    - Võ công của Vô Giới hòa thượng chỉ hơn hài nhi chút đỉnh, không có cũng chẳng sao "

    Hồ đường chủ bực bội nói:

    - Chúc nhi quả là hồ đồ. Vô Giới chỉ dùng hai bàn tay không mà đã đả bại ngươi. Nếu lão có vũ khí thì đến ta cũng không địch lại. Đồ đệ của Tây Phật mà ngươi tưởng đồ bỏ sao?

    Nhưng dầu sao cũng đã lỡ, lão cố gượng cười chiêu đãi cao thủ ba phái"

    Phần Vô Giới, tuy nổi giận bỏ đi nhưng lòng vẫ lo lắng cho Thần Đao Đường.

    Lão càu nhàu:

    - Thật là một lũ hồ đồ, mới học được vài chiêu đã coi người bằng nửa con mắt, lần này chắc Hồ thí chủ nguy mất "

    Mạc Luân bỗng nói:

    - Đại sư hãy nhìn lên đám mây trên kia xem. Hình như cặp chim ưng kia là trinh sát tiền tiêu của Thiên Điểu Bang? Có lẽ họ không chờ đến sáng mà sẽ tập kích đêm nay?

    Vô Giới và Tống Kỳ ngửa cổ thật lâu mới thấy. Tống thần y tắc lưỡi:

    - Nhãn lực của Mạc túc hạ quả là đáng sợ"

    vô Giới vội quay lại bảo gã đao thủ gác công:

    - Thí chủ lên báo với Hồ lão rằng: Đại sư bảo phải đề phòng Thiên Điểu Bang đánh trộm lúc nửa đêm"

    Gã kia vội vã đi ngay"

    Đoàn xa mã tiế p tục ra đường quan đạo đi về hướng Nam Dương. Xế chiều, họ đến trấn Hoài Tây, nằm cạnh sông Hoài, cách núi đồng bách gần trăm dặm.

    Trấn này nằm trên trục lộ chính và cạnh bờ sông nên rất sầm uất - nhà cửa, lâu quán đều to lớn, khang trang ! Nếu sang sông giờ này thì cũng chẳng đi được bao nhiêu dặm nữa, vì vậy, Vô Giới quyết định nghỉ lại Hoài Tây"

    Ba nữ nhân đều tán thành ý kiến này vì họ đã quá ngứa ngáy vì cát bụi. Tắm gội ăn uống xong, Mạc Luân cười bảo:

    - Tại hạ biết đại sư đang rất muốn trở lại Đồng Bách Sơn để bảo vệ Thần Đao Đường vậy chúng ta sẽ cùng đi! Phiền Tống thần y ở lại với các nữ nhân"

    Vô Giới khoan khoái vỗ vai Mạc Luân:

    - Trừ Văn nhị công tử ra, thí chủ là người biết rõ gan ruột của bâ n tăng"

    Doanh Doanh bỗng nói:

    - Mong đại sư và sư huynh bảo trọng "

    Tưởng Thiếu Hà không nói được nên chỉ nhìn họ Mạc bằng cặp mắt quan hoài và lo lắng! Cồ lão thái buồn rầu nói:

    - Hạc nhi võ công cái thế mà còn phải vắn số, mong Mạc hiền diệt cẩn trọng! Lỡ có bề gì lại gây khổ cho thê tử! Cảnh góa bụa trong lúc xuân thời còn đáng sợ hơn cái chết.

    Doanh Doanh mỉm cười:

    - Tiểu muội quên không hỏi thăm gia cảnh của sư huynh?

    Mạc Luân vui vẻ đáp:

    - Tại hạ có đến sáu vị phu nhân, còn con cái thì chưa"

    Vô Giới thúc giục:

    - Mạc thí chủ nhanh chân giùm cho.

    Bần tăng còn phải ghé lò rèn mua một cây thuế côn.

    Hai người rời khách điếm đi ngược về hướng Tây. Mua côn sắt xong, họ phi nước đại, cố đến núi Đồng Bách càng sớm càng hay! Đường đi tối tăm nên cước trình lúc nhanh lúc chậm - tùy theo từng đoạn đường quan đạo. Mạc Luân nhãn lực tinh tường, luôn báo trước những chướng ngại trên đường nên tránh được cảnh ngã ngựa.

    Vô Giới thấy đôi mắt họ Mạc ban ngày luôn nheo lại - híp híp như hai sợi chỉ - giờ thì mở lớn nên thắc mắc:

    - Dường như đôi mắt của thí chủ không quen với ánh sáng dương quang?

    - Đúng vậy! Tại hạ luyện võ ở một nơi tối đen như mực nên ban ngày không thể mở lớn được! Giống như loài chim cú vậy"

    Vô Giới nghi hoặc:

    - Thí chủ luyện loại võ công gì mà phải ở chốn âm u như vậy! Bần tăng biết rất rõ là Thuế t Thạch Thần Công của Cuồng Kiếm đâu cần điều kiện ấy?

    - Tại hạ không luyện Thiết Thạch Thần Công mà là Huyền Băng Chân Khí "

    Vô Giới kinh ngạc bảo:

    - Gia sư từng nói Huyền Băng lão nhân đã chết từ thời Tống Thái Tồ và tuyệt học của ông ấy đã thết truyền, sao thí chủ lại học được?

    - Tại hạ may mắn tìm được quyển bí phổ Huyền Băng Mật Lục "

    Hai người đến núi Đồng Bách vào đầu canh tư, kinh hãi nhận ra sưởi núi sáng rực vì lửa chói. Tiếng pháo nổ vang trời không át được âm thanh cao vút của tiếng còi sắt nào đó. Vì vậy, đàn chim đen đủi, hung dữ kia vẫn lao xuống tấn công những người ở dưới. Mỗi lần chúng bốc lên xà xuống là lại vang lên tiếng gào thảm khốc"

    Nhưng không phải chỉ có đàn chim mà còn hàng trăm bang chúng của Thiên Điểu Bang tràn ngập khắp nơi. Chúng được sự hỗ trợ của đàn chim nên chiếm được thế thượng phong. Mạc Luân lẩm bẩm:

    - Lạ thực! Vì sao lũ chim kia biết phân biệt ai là bạn, ai là thù mà tấn công nhỉ?

    Hay là do bọn Thiên Điểu Bang toàn mắc áo trắng?

    Vô Giới bác ngay:

    - Chắc không phải đâu! Trong phe Thần Đao Đường cũng có người mặc bạch y sao vẫn bị lũ chim vây đánh? Việc ấy tính sau, chúng ta phải nhập cuộc ngay mới được, tình hình có vẻ đã nguy cấp lắm rồi"

    Quả thật lúc này cha con Thần Đao Đường chủ và các cao thủ ba phái đều đã thọ thương. Đối thủ của họ là sáu lão già sử dụng trường kiếm. Họ chính là bát quỷ ở Lữ Lương Sơn - Sơn Tây"

    vô Giới quát vang:

    - Hồ lão yên tâm, bọn ta đã đến đây"

    Hồ Tuyên phấn khởi múa tít bảo đao đẩy lùi đối thủ của mình. Nhưng người lên trước lại là Mạc Luân.Thanh bảo kiếm trong tay gã tạo thành màn kiế m quang xang biếc quanh người, nghiền nát lũ chim và những tên áo trắng cản đường.

    Vừa đến nơi, gã gầm vang như sấm, lao vào đối thủ của Pháp Dũng Đại Sư. Lão ta đã đề phòng nên bỏ Pháp Dũng, nhảy đến đón chiêu - kiếm quang rực rỡ và rít lên ghê rợn. Nhưng lão chợt biế sắc vì nhận ra chiêu kiế m kia quá mãnh liệt và ảo diệu. Hàng trăm kiếm ảnh hình chim c lá đảo lộn khiến lão hoa cả mắt! Và rồi, lão nghe ngực mình đau đớn khủng khiếp ngã ngửa ra chết không kịp trối"

    Vô Giới hòa thượng chạy đến nói lớn:

    - Chư vị mau đi tiếp ứng cho các đệ tử, để bọn này cho bần tăng và Mạc thí chủ"

    Bọn Hồ Tuyên mừng rỡ, tung mình rời đấu trường, điểm huyệt chỉ huyết rồi tản ra. Năm lão nhân còn lại trong Lã Lương Bát Quỷ liền xông đến vây chặt Vô Giới và Mạc Luân. Hòa thượng vung côn sắt đối phó với hai lão để ba lão kia cho họ Mạc. Vô Giới hiển lộng thần oai xông lên. Cây thiết côn nặng sáu chục ân đánh bạt hai thanh trường kiếm, khiến đối phương khiếp sợ, không dám so sức lực với lão mà chỉ dùng kiếm chiêu quỷ dị để đố phó .

    Bên này, Mạc Luân bị khích động bởi cái chết của bọn đệ tử Thần Đao Đường nên quyết không nương tay. Gần trăm thủ hạ của họ Hồ cùng ba phái bạch đạo đã nằm xuống và thân thể bị xé nát bởi lũ chim khát máu"

    Mạc Luân liền hô vang, xuất chiêu Nộ Phát Xung Quan. Ba lão quỷ Lã Lương Sơn vội hợp kiếm chống đỡ. Một ở chính diện còn hai tấn công tả hữu của gã tóc vàng. Ba lão này có võ công cao cường nhất trong Lã Lương Bát Quỷ, phép liên thủ vô cùng lợi hại, nên không sợ gì Mạc Luân cả. Nhưng họ Mạc như chẳng nghĩ gì đến thân mình vẫn lao thẳng đến.

    Bốn người nhập lại làm một. Nhị Quỷ và Ngũ Quỷ dội ra còn Nhấtt Quỷ đứt làm hai đoạn. Vừa đắc thủ, Mạc Luân đã lộn ngược trở lại. Bủa lưới kiếm xuống đầu Nhị Quỷ. Thân kiếm rung động liên tục phát ra những tiếng ngân ảo não"

    Nhị lão biế t mình khó thoát chế t, nghiến răng đổi mạng, đưa ngực phải hứng lấy mũi kiếm của đối phương và âm thầm đâm vào bụng Mạc Luân. Nhưng tả thủ của gã quái nhân tóc vàng đã thản nhiên chụp lấy lưỡi kiếm của lão, kẹp cứng như kềm sắt.

    Ngũ Quỷ lợi dụng cơ hội này đánh vào sau lưng họ Mạc, chiêu kiếm rất bất ngờ và nhanh như thiểm điện. Không ngờ, Mạc Luân phản ứng thần tốc, mang cả thân hình nhị lão quay ngược lại. Mũi kiếm của Ngũ Quỷ cắm vào ngực nhị ca của mình. Lão chưa kịp rút kiếm ra thì tả thủ Mạc Luân đã vỗ mạnh một đạo chưởng kình vũ bão. Ngũ Quỷ gào lên thảm thiết, văng xa hơn trượng, đứt hơi vì lô ng ngực đã dập nát.

    Bên này, Vô Giới hòa thượng thấy Mạc Luân giết liền ba cao thủ, hứng chí lao vào Lục Quỷ. Thất Quỷ vội đánh vào hậu tâm lão để giải vây. Nào ngờ, Vô Giới biến hóa vô song, phóng thiết côn vào ngực Lục Quỷ rồi bất ngờ quay ngoắt lại, song thủ giáng mạnh mọt đạo chưởng phong Bài Sơn Đảo Hải. Thất Quỷ dội ngược ra sau, lãnh nguyên một mũi kiếm của Mạc Luân.

    Lục Quỷ tránh được cây côn sắt của Vô Giới, thấy thất đệ chết thảm vội tung mình đào tẩu. Lát sau, tiếng còi im bặt và đàn chim cũng rút đi. Đám tàn quân Thiên Điểu Bang chỉ còn mấy tên thoát chết. Thần Đao Đường chủ mừng rỡ gọi vang:

    - Vô Giới đại sư"

    Nhưng lão và Mạc Luân đã đi khỏi từ lúc nào không rõ. Bạch Ngọc Tử thờ dài:

    - Không có hai người ấy thì giờ này chúng ta chỉ còn là những thây ma. Bần đạo thực là dáng xấu hổ"

    Hư Nhân đạo trưởng cũng nói:

    - Bần đạo cho rằng võ công của Mạc Luân còn cao cường hơn cả Văn nhị công tử ngày xưa. Trong cuộc chiến với tà ma, lông thể thiếu người ấy được "

    Pháp Dũng đại sư nghiêm giọng:

    - Theo thiển ý của bần tăng, Hồ thí chủ nên đưa Thần Đao Đường đến Tung Sơn hợp lực với các phái. Thiên Điểu Bang đã lộ rõ dã tâm bá chủ, chúng ta phải đoàn kết lại mới mong chống nổi.

    Hồ Tuyên biết hòa thượng vì tể nhị nên nói như thế. Vì thực ra Thần Đao Đường bắt buộc phải cuốn gói đi ngay nếu còn muố sinh tồn. Thất bại trận này, Thiên Điểu Bang chắc chắn sẽ kéo đại quân đến! Hồ lão bèn ra lệnh cho đệ tử chôn cất các tử thi và thu xếp hành lý lên đường.


  11. #30
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi kết

    Huyền băng phùng lư hỏa
    Lương duyên hựu viên thành
    Nửa tháng sau, cái phái Trung Nguyên tụ họp ở Thiếu Lâm Tự để bàn việc đối phó với Thiên Điểu Bang. Lúc này bọn Vô Giới đã về đến Nam Xương và còn cách Lư Lăng vài trăm dặm. Mạc Luân nghiêm nghị nói:

    - Tại hạ còn chút việc riêng phải giải quyết xin phép chia tay ở chốn này.

    Xong việc tại hạ sẽ tìm đến Văn gia bảo.

    Gã trao túi châu báu cho Doanh Doanh:

    - Năm xưa, gia sư Cuồng Kiếm để lại cho ta một bức họa đồ. Nhờ nó mà ta tìm được một kho tàng nhỏ. Tuấn Hạc là sư đệ của ta nên cũng được hưởng một phần.

    Tứ muội hãy đen về Văn gia bảo, đưa Văn bảo chủ làm vốn mưu sinh cho cả nhà"

    Gã lại nói với Tống thần y:

    - Mong túc hạ cứ xem Văn gia bảo như là nhà của mình và tận tình chữa trị cho Doanh Doanh, Thiếu Hà. Nếu họ thoát khỏi cảnh tật nguyền, Mạc mỗ xin đê đầu bái tạ"

    Tống Kỳ gật đầu:

    - Các hạ cứ yên tâm ! Lão phu không trị được quyết chẳng làm người nữa. Một tháng sau các hạ có thể trở lại xem kết quả"

    Vô Giới bật cười:

    - Sao lúc trước thí chủ lại nói là ba tháng?

    Tống Kỳ ngượng ngừng đáp :

    - Phải nói thế mới có thể nói giá cao được chứ "

    Mạc Luân vái chào rồi quay ngựa đi thẳng. Thiếu Hà nhìn theo với ánh mắt thiết tha lưu luyến. Tuy nàng nhận lời với Doanh Doanh rằng sẽ lấy Tuấn Hạc, nhưng nay chàng đã chết, duyên phận không thành, Mạc Luân tuy hình dung cổ quái nhưng lại rất tốt với nàng, Thiếu Hà không khỏi sinh lòng mến mộ.

    Cồ lão thái đã nhận Thiếu Hà làm nghĩa nữ. Bà nhìn thấy tâm tình của nàng, cười bảo :

    - Hài nhi ! Lão thân sẽ đứng ra mai mối cho con với Mã hiền diệt. Tuy y xấu xí hơn Tuấn Hạc nhưng anh hùng cái thế và lòng dạ rộng rãi, nhân hậu.

    Thiếu cô nương thẹn thùng cúi mặt, tỏ ý ưng thuận. Đoàn người tiếp tức lên đường về Lư Lăng. Hai ngày sau họ đến Văn gia bảo. Trương tổng quản đã chết trong trận hỏa thiêu nên giờ đây đại đệ tử của Thiết Long là Hà Ngũ lên thay. Gã ra mở cổng, thấy Vô Giới liền mừng rỡ đón chào :

    - Đại sư vào Trung Thổ hồi nào vậy?

    Bảo chủ và mọi người luôn miệng nhắc nhở Cửa bảo mở rộng, ba chiếc xe ngựa vào đến tận sân trong. Văn Tuấn Thu nghe báo, cùng mọi người chạy ra. Sau lần thoát chết, Tuấn Thu đã nói thực với các tiêu sư về ẩn án Văn gia bảo. Họ rất thông cảm và xem như Thiết Long Văn Chí Lâm đã chết, còn Tuấn Thu mới từ Tẩy Vực trở về "

    Tuấn Thu đau khổ vì cái chết của bào đệ nên gương mặt hốc hác, thiểu não.

    Bên cạnh là ôn Tiểu Băng xinh đẹp và hai mươi thiếu nữ ở Thiên Ma Cốc.



    Nhưng Tuấn Hạc - Tức Mạc Luân - không biết các nàng đã về cả Văn gia bảo, chàng đi về hướng Hoàng Sơn thăm họ. Tâm tư chàng giờ đây mâu thuẫn và rối bời. Chàng biết người thân sẽ rất vui mừng nếu gặp lại chàng. Nhưng dung mạo chàng giờ đã biến đổi đến mức khó mà mở miệng nhận mình là Tuấn Hạc"

    Thứ hai, luồng chân khí âm hàn thỉnh thoảng lại làm huyết mạch như đông cứng, khiến chàng nghĩ rằng mình không sống được bao lâu nữa"

    Tuấn Hạc muốn đưa Mạn Ngọc, Phương Phương và các nữ tỳ về Văn gia bảo để nương nhờ sự bảo bọc của Tuấn Thu. Chàng sẽ tiếp tục đóng vai Mạc Luân để gần gũi mọi người và lặng lẽ chết đi như một kẻ xa lạ "

    Tuấn Hạc đắm mình trong suy nghĩ, lững thững đi vào Thiên Ma Cốc. Chàng thấy sương mù dầy đặc liền để ngựa bên ngoài, xách hành lý nhập trận.

    Vào đến bên trong, thấy lá vàng rụng đầy và không ai quét dọn, lại chẳng có tiếng người cười nói, chàng sinh nghi lòng lo lắng, rảo bước về phía tòa nhà gỗ lớn Tuấn Hạc cất tiếng gọi:

    - Xin hỏi có ai ở nhà không?

    Chẳng hề có tiếng hồi âm, chàng lướt nhanh đến các tòa tiểu viện gần đấy nhưng cũng vắng tanh. Tuấn Hạc thừ người suy nghĩ:

    - Hay là ôn Tiểu Băng và Phương Phương từ Hằng Sơn về đây và đưa tất cả đến Văn gia bảo rồi?

    Chàng quay trở ra, lúc đi ngang căn nhà lớn thoáng nghe có tiếng ho khúc khắc Tuấn Hạc giật mình lao vào trong.

    Trên chiếc giường mà chàng thường ngủ giờ đây có một đạo nhân già cả đang nằm mê man. Lão đang lăn lộn rên rỉ và da mặt đỏ bừng.

    Tuấn Hạc nắm tay xem mạch, phát hiện kinh mạch của lão đang bị công phá bởi một luồng chân khí chí dương. Vì vậy huyệt đạo toàn thân căng phồng, nhiệt độ của cơ thể lên rất cao.

    Chàng nhanh tay lột hết y phục của bệnh nhân và phát hiện một dấu chưởng ấn đỏ như Chu Sa nằm trên ngực phải.

    Tuấn Hạc liền dựng lão ngồi lên, trút luồng chân khí băng giá của mình vào người lão. Huyền Băng Chân Khí là công phu duy nhất trên đời có thể chữa trị được loại chưởng thương này.

    Ba khắc sau, độc hỏa bị trục hết ra ngoài cơ thể đạo nhân. Lão hồi tỉnh gật đầu cảm tạ rồi nhắm mắt hành công.

    Tuấn Hạc kiên nhẫn ngồi xuống nghề chờ đợi Chàng có dư thời gian để ngắm nghía dung mạo của vị đạo sĩ già.

    Người này râu tóc bạc trắng, da mặt nhăn nheo như vỏ trái táo khô, trông lão mộc mạc, xấu xí chứ chẳng tiên phong đạo cốt như Trương Tỳ Vân hay Minh Tâm Tử. Nếu không có chiếc đạo bào cũ kỹ thêu hình Thái Cực Đồ kia, lão ta chẳng khác gì một kẻ quê mùa thất học.

    Ba khắc sau, lão nhân xả công mở mắt nhìn Tuấn Hạc. Nhãn thần của lão lờ đờ hiền lành chứ chẳng sáng quắc, oai vũ gì cả Lão mỉm cười hỏi:

    - Các hạ là ai mà vượt qua được trận đồ kia để vào đây?

    Tuấn Hạc không trả lời mà hỏi lại:

    - Dám hỏi đạo trưởng rằng đám nữ nhân trong cốc này đã đi đâu cả rồi?

    Đạo nhân vuốt râu đáp:

    - Bần đạo không rõ, mười ngày trước lão phu mang thương tích đào vong đến đây thì không còn thấy ai cả! Tuy nhiên, trước cửa cốc có dấu bánh xe ngựa và trong này chẳng còn một bộ y phục nào, chứng tỏ họ đã dọn nhà đi nơi khác "

    Tuấn Hạc thở phào, hiểu rằng họ đã đi Lư Lăng. Chàng hỏi lại:

    - Phải chăng đạo trưởng quen biết với Song Lão nên mới biết đường vượt trận?

    Đạo nhân gật đầu:

    - Bần đạo là sư phụ của anh em họ Đinh pháp hiệu là Chu Tước Tẩu"

    Tuấn Hạc giật mình, không ngờ! Chu Tước Tẩu bỗng hỏi:

    - Nếu bần đạo đoán không lầm thì bọn chúng đã bị các hạ giết?

    Tuấn Hạc bỡ ngỡ hỏi:

    - Đúng là tại hạ, nhưng vì sao đạo trưởng lại biết?

    Chu Tước Tẩu mỉm cười :

    - Với bản tính của chúng thì khó mà sống yên lành đến hết mệnh trời được.

    Nếu không giết lẫn nhau thì cũng bị người ngoài đoản mệnh"

    Tuấn Hạc vô cùng bái phục, kể lại nguyên ủy cái chết của Song Lão. Chàng nghiêm nghị nói:

    - vãn bối không dám chối bỏ trách nhiệm của mình, tùy tiền bối định đoạt.

    Chu Tước Tẩu mỉm cười :

    - Đạo trời xuất phát từ chữ vô, mờ nhạt khó thấy nhưng lại vô cùng huyền diệu.

    Anh em họ Đinh sống sai với đạo nên chuốc lấy tai hoa, bần đạo còn trách gì ai nữa? Có không lẫn lộn nhưng căn nguyên vẫn từ không mà ra. Nếu các hạ không đến đây lúc này và thú nhận sự tình thì mối oán thù kia bần đạo đâu biết được?

    Vậy hà tất phải xem nó là có thực.

    Tuấn Hạc cũng từng đọc qua sách vở Lão Trang nên hỏi lại:

    - Tiền bối nói vậy chẳng lẽ phụ mẫu bị giết con cái cũng không báo phục?

    Chu Tước Tẩu nghiêm giọng:

    - Chính vì người võ lâm không thức ngộ được điểm mấu chốt này nên oan oan tương báo, thù hận kéo dài không sao liễu kết được! Thực ra, đối với khách giang hồ thì quan điểm dĩ đức báo oán không thích ứng mà phải dùng đến cách lý giải của Khổng Tử: Dĩ trực báo oán! Thứ đáng báo thì báo, không đáng thì thôi! Ví dụ như cha mẹ làm cường đạo, bị quan phụ mẫu giết chết thì oán ấy báo thế nào?

    Tuấn Hạc vui vẻ nói :

    - Té ra Khổng Lão cũng có những điểm bổ xung nhau"

    chàng bỗng nhớ lại và hỏi:

    - Nhưng xin hỏi kẻ nào đã dùng Hỏa Diệm Chưởng đả thương tiền bối vậy?

    - Bần đạo ẩn cư trên dãy Lã Lương Sơn Hơn tháng trước, Thiên Điểu Bang chủ đến mời về làm phó, bần đạo từ chối thì bị lão tấn công. Không địch lại, bần đạo trúng chưởng, bỏ chạy đến đây.

    Tuấn Hạc kinh hãi :

    - Tiền bối tuổi hơn trăm, công lực sâu như biển, chẳng lẽ lại thua Thiên Điểu Bang chủ?

    Chu Tước Tẩu cười đáp :

    - Bần đạo đã đạt đến cảnh giới tĩnh lặng, trống không nên phế bỏ việc luyện võ bản lãnh còn kém lúc tuổi bảy mươi.

    Hơn nữa, Thiên Điểu Bang chủ ngộ đắc kỳ duyên luyện thành Lư Hỏa chân khí và Hỏa Diệm Chưởng, võ công đứng đầu thiên hạ"

    Bông lão hỏi lại:

    - Chẳng hay các hạ là truyền nhân của bậc cao nhân nào?

    - Bẩm tiền bối, vãn bối tình cờ tìm được di thư của Cuồng Kiếm Thần Y Công Tôn Quang Nguyệt - tức Tiêu Dao Thượng Nhân của phái Nga Mi "

    - Lạ thực ! Vậy môn Huyền Băng Chân Khí kia ở đâu ra?

    Tuấn Hạc rất kính ngưỡng nhân cách của lão nên thú thực :

    - Vãn bối vào được một ngôi mộ cổ gần rặng Tần Lĩnh"

    Lão đạo mỉm cười:

    - Vậy chính các hạ là khắc tinh của Thiên Điểu Bang chủ"

    Tuấn Hạc ngượng ngừng nói :

    - Giá như có đúng như vậy thì cũng khó chống lại đàn chim quái ác kia của lão ta "

    Chu Tước Tẩu lẳng lặng lấy từ cổ xuống một sợi dây có treo một chiếc còi bằng ngọc, điềm đạm nói:

    - Thiên Điểu Bang muốn giết bần đạo cũng là vì vật này. âm thanh của nó xua đuổi mọi loài ác điểu trên đời. Các hạ hãy giữ lấy mà đối phó với Thiên Điểu Bang"

    Bần đạo sẽ phải ở lại đây tu luyện, khi đã diệt xong ác ma, các hạ đem đến trả lại"

    Tuấn Hạc nhận lấy và cáo biệt. Nhưng ngoài cửa cốc bỗng vang lên tiếng của nữ nhân:

    - Chu Tước Tẩu! Nếu lão không ra, bổn cô nương sẽ dùng hỏa dược phá sập sơn cốc này.

    Đạo sĩ già cau mày:

    - Không ngờ Thiên Điểu Bang lại đoán ra bần đạo chạy về đây"

    Tuấn Hạc trấn an:

    - Để vãn bối đối phó với bọn họ "

    Chàng xách kiếm đi ra ngoài, quyết chẳng để một tên sống sót. Đến cửa trận, chàng nhận ra phe đối phương chỉ có mười người, đứng đầu là một nữ lang áo hồng. Da mặt nàng tái mét như người chết nhưng đôi mắt lại to tròn, đen láy.

    Tuấn Hạc điềm đạm nói:

    - Chư vị là ai mà đến đây đòi phá sập nhà của tại hạ?

    Nữ lang sửng sốt:

    - Chẳng lẽ đây không phải là Thiên Ma Cốc của anh em lão họ Đinh?

    - Phải ! Nhưng họ đã chết từ lâu và nơi này thuộc về tại hạ"

    Nữ lang cười nhạt:

    - Vậy xin hỏi có lão đạo sĩ già nào chạy đến đây không?

    Tuấn Hạc nhận ra đối phương có nhiều nét quen thuộc và lại là nữ nhân nên sát khí giảm đi nhiều. Chàng lạnh lùng đáp:

    - Không có "

    Nữ lang áo hồng gằn giọng:

    - Vậy các hạ hãy cho phép bọn ta vào trong tham quan một lượt"

    Tuấn Hạc cười mát:

    - Tại hạ không thích mời khách lạ vào nhà mình! Chư vị đi đi"

    Chín lão áo trắng lập tức xông lên tấn công. Đối với bọn này thì Tuấn Hạc chẳng hề nương tay, rút thanh cổ kiểm xuất chiêu Đông Phong Đoạn Liễu. Hai tiến rú vang lên và bốn đoạn thân người rơi xuống mặt cỏ.

    Mũi kiếm thuận đà bay về phía mục tiêu thứ ba, lão này cắn răng vận toàn lực chống đỡ. Sau bốn tiếng tinh tang ngân nga, kiếm của Tuấn Hạc phá thủng lưới kiếm, đâm vào ngực trái đối phương.

    Đồng thời, tả thủ chàng thò ra xạ một đạo chưởng kình vào lão thứ tư.

    Hai lão trúng đòn rủ nhau về âm cảnh, chỉ trong vài cái chớp mắt, Tuấn Hạc đã giết liền bốn tên áo trắng. Nữ lang kinh hãi liền nhập cuộc, đẩy ra hai đạo chưởng kình tím lịm và nóng rực.

    Tuấn Hạc không tiếp chiêu, lao vào hai lão áo trắng mé tả. Họ liền hợp kiếm chống đỡ chiêu kiếm kỳ ảo đang phát ra âm thanh cao vút, véo von như tiếng sáo.

    Chiêu Mai Biên Xung Địch này có đến hai trăm ba mươi bảy thế thức, thân kiếm rung động liên tục tạo nên những âm thanh và hàng ngàn kiếm ảnh quay cuồng. Kiếm của đối phương bị luồng lực đạo âm nhu, xảo diệu khóa chặt và chậm lại để lộ sư sơ hở. Và tức thời, mũi cổ kiếm điểm nhanh vào ngực hai lão bạch y Hồng y nữ lang đánh hụt, chưởng kình đốt cháy cả cỏ xanh. Lại thấy mất thêm thủ hạ, nàng giận dữ xông đến, miệng quát vang :

    - Có giỏi thì hãy tiếp bổn cô nương một chưởng?

    Tuấn Hạc không đáp, lẳng lặng tung mình lên không, xuất chiêu Nguyệt Mê Tân Độ, bủa lưới kiếm xuống đầu ba lão áo trắng còn lại. Mà kiếm quang mờ nhạt, tỏa rộng như ánh trăng, ba trùm cả ba mục tiêu. Ba lão không nhìn thấy đối phương mà chỉ có cảm giác như đang ở trong một chiếc kén sương mù lạnh lẽo.

    Họ kinh hãi múa tít bảo kiếm hộ thân.

    Tiếng thép va chạm, ngân dài rồi tắt lịm nhường chỗ cho những tiếng rên đau đớn Ba lão bạch y ôm ngực gục xuống"

    Hồng y nữ lang điên cuồng vỗ liền sáu đạo chưởng kình, nhưng Tuấn Hạc đã nhanh chân tránh khỏi. Chàng phiêu diêu hạ thân cách xa hơn trượng, tra kiếm vào vỏ chỉnh sắc bảo:

    - Cô nương đi đi, tại hạ không thích sát hại nữ nhân"

    Nữ lang cười nhạt:

    - Chứ không phải ngươi sợ hãi Hỏa Diệm Chưởng hay sao?

    - Dứt lời nàng lao đến tấn công ngay.

    Chưởng kình giăng mắc quanh thân tạo thành một trái cầu khí sắc hồng. Tuấn Hạc muốn dạy cho nàng một bài học để mài dùa bớt lòng kiêu ngạo nên múa tít song thủ, xuất chiêu Bạch Lãng Dao Thiên.

    Hàng loạt nhưng lớp sóng chưởng trắng đục, lạnh lẽo ập đến nuốt chửng đối phương. Huyền Băng Chân Khí lập tức dập tắt sức nóng của Hỏa Diệm Chưởng, đẩy hồng y nữ lang văng ngược ra phía sau hơn trượng, ngã lăn trên thảm cỏ.

    Máu từ trong miệng nàng trào ra ướt cả ngực áo, Tuấn Hạc thầm ân hận vì đã không lường được công lực mình quá thâm hậu như vậy. Chàng bối rối bước đến quỳ xuống thăm mạch nữ lang. Bỗng đôi môi anh đào kia lẩm bẩm:

    - Văn sư huynh, cuối cùng thì tiểu muội cũng sắp xuống hoàng tuyền xúm họp với chàng rồi"

    Tuấn Hạc choáng váng khi nghe lại giọng nói dịu dàng, thân thiết ngày nào.

    Chàng nhìn chăm chú vào gương mặt tái nhợt kia và phát hiện màu sắc không giống với da cổ. Tuấn Hạc vuốt mặt nàng, sững sờ nhận ra người xưa, thảng thốt lẩm bẩm:

    - Huệ Vân ! ôi ! Huệ Vân sư muội ! Phải chăng ta đang nằm mơ"

    Tuấn Hạc điểm nhanh vào chín huyệt đạo trên thân trước rồi trút chân khí vào người nàng. Chàng đả thương nàng thì việc chữa trị chẳng khó khăn gì! Khi thấy huyết khí đã lưu thông, tâm mạnh ổn định chàng lật sấp nữ lang xuống, vén áo nàng lên xem xét lớp da lưng. Quả nhiên, một vết sẹo lớn nằm ngay mé hữu.

    Tuấn Hạc vui mừng không xiết, sửa lại y phục cho nàng rồi tiếp tục xoa bóp các huyệt đạo. Lát sau, Huệ Vân hồi tỉnh, ngơ ngác nhận ra mình còn sống. Nàng kinh hãi hỏi:

    - Ngươi có đụng chạm gì đến thân thể ta không vậy?

    Tuấn Hạc biết tính nàng cả thẹn liền lắc đầu:

    - Không hề, tại hạ chỉ truyền chân khí qua huyệt mệnh môn mà thôi "

    - Nhưng vì sao các hạ lại cứu ta?

    Tuấn Hạc cười đáp :

    - Vì trong lúc sắp mê man, cô nương có nhắc đến một người họ Văn. Phải chăng đó là Văn nhị công tử?

    Huệ Vân thẹn thùng :

    - Phải! Đó là tiên phu"

    - Hay lắm! Tại hạ là Mạc Luân, sư huynh của Tuấn Hạc đây"

    Huệ Vân giật mình:

    - Sao tiểu muội không nghe Tuấn Hạc nhắc đến sư huynh?

    Chàng mỉm cười :

    - Ta nhập môn trước Tuấn Hạc mười hai năm, vì vậy gã không biết có ta"

    Huệ Vân hổ thẹn đáp :

    - Mong sư huynh hiểu cho, tiểu muội chịu ơn cứu mạng của Thuần Thanh Chân Nhân, bang chủ Thiên Điểu Bang nên phải tận lực báo đền"

    Tuấn Hạc hiếu kỳ muốn biết vì sao Huệ Vân đã đứt hơi mà còn sống lại nên khéo léo dò hỏi:

    - Chẳng hay cô nương gặp tai họa gì mà lại thọ ơn lão ta?

    Huệ Vân ngượng ngừng kể lại:

    - Ngày ấy! Tiểu muội cùng Văn tướng công từ Cam Túc về Hằng Sơn thì bị Hoàng Thổ Thành chặn đánh. Tiểu muội bị trường tiễn bắn thủng phổi, được tướng công chôn trên một gò đất cao. Khi Tuấn Hạc đi khỏi thì lũ chó rừng xuất hiện đào bới lên. Tình cờ Thuần Thanh Chân Nhân cỡi chim bay ngang qua nhìn thấy. Lão hạ xuống đánh đuổi đàn chó rừng và phát hiện tiểu muội vẫn còn chút sinh cơ, dù rất mỏng manh. Chân nhân hy sinh viên Cửu Chuyển Hồi Sinh Đơn duy nhất trong thiên hạ để cứu mạng tiểu muội.

    Sau đó lão đưa tiểu muội về Đông Thăng và nhân làm đệ tử. Mấy tháng trước, Minh Thái Tồ lâm bệnh nặng vì trưởng hoàng tử qua đời. Vì vậy, các Phiên Vương đều muốn củng cố lực lượng giành ngôi thiên tử. Tấn Vương ở Sơn Tây vốn là chỗ thâm giao với Chân nhân nên đã yêu cầu ông thành lập Thiên Điểu Bang, thu phục các phái võ lâm để hậu thuẫn sau này.

    Tuấn Hạc nghe xong hổ thẹn vô cùng, không ngờ mình lại chôn Huệ Vân khi nàng chưa chết hẳn. Chàng buột miệng trách móc chính mình:

    - Cái gã Tuấn Hạc này quả là hồ đồ. Cô nương chưa chết mà gã không nhận ra"

    Huệ Vân liền biện bạch:

    - Thực ra nếu không có viên Cửu Chuyển Hồi Sinh Đơn kia thì tiểu muội trước sau cũng chết, cùng lắm kéo thêm được vài canh giờ thôi.

    Nàng vòng tay cáo từ:

    - Tiểu muội chịu ơn người, chẳng còn được tự do nữa. Mong sư huynh hiểu cho.

    Tuấn Hạc không sao nói cho nàng biết là mình còn sống, đành nói thác đi:

    - Cô nương chết đi sống lại được thì Tuấn Hạc cũng có thể vẫn còn sống. Hơn nữa Vô Giới hòa thượng đã được Tây Phật bảo đảm rằng Văn nhị công tử không phải là người đoản mệnh. Vì vậy, cô nương hãy mau lìa xa Thiên Điểu Bang quay về Văn gia bảo để chờ tin.

    Huệ Vân bừng lên niềm hy vọng, nhưng lại buồn rầu nói:

    - Giờ thì chưa được ! Khi nào nghe tin Văn tướng công còn tại thế tiểu muội mới có cớ thoát ly Giờ xin cáo biệt.

    Tuấn Hạc cười nhạt :

    - Cô nương nói vậy cũng phải, nhưng xin nhắn lại với Thuần Thanh Chân Nhân là Huyền Băng Thần Công đã xuất hiện, lão ta đừng ỷ vào Lư Hỏa Chân Khí mà chuốc lấy tai họa.

    Huệ Vân gật đầu hiểu ý:

    - Tiểu muội sẽ cố khuyên giải gia sư thôi không dính dáng vào chuyện tranh bá đồ vương của các hoàng tử nữa.

    Tuấn Hạc ngậm ngùi nhìn theo bóng nàng dần khuất, Chàng muốn gào lên, gọi nàng trở lại mà không sao mở miệng được Kỷ niệm về cái chết bi thảm của nàng đã luôn hiển hiện và biến thành tình yêu trong lòng chàng.

    Huệ Vân đi về hướng Tây Bắc, còn Tuấn Hạc xuôi Nam, trở lại Văn gia bảo.



    Đương nhiên mọi người trong bảo đều rất vui mừng đón tiếp sư huynh của Tuấn Hạc. Chỉ thiếu có Nhật Nguyệt Song Ma vì họ đã đi Nam Hải thăm bằng hữu.

    Trong bữa tiệc tẩy trần, chàng vui vẻ hỏi:

    - Tại hạ nghe đồn Văn Gia Bảo bị lửa vây chặt, đốt trụi không còn viên ngói nào lành, vì sao chư vị lại thoát hiểm?

    Vạn Bác Hồ Tinh vuốt râu đắc ý:

    - Cũng chỉ nhờ may mắn mà thôi. Khi bắt tay xây dựng hệ thống phòng thủ Văn Gia Bảo, lão phu cho làm trước một lối thoát thân. Đó là đoạn đường nối liên ao sen trong vườn với sông Lư Giang. Đêm ấy trừ dám cao thủ Biến Hình Môn mới quy phục chưa có giải dược nên đã bỏ mạng vì Yêu Độc Đan, kỳ dư đều thoát hết ra sông. Có điều, lúc nổi lên thì Doanh Doanh và ôn Tiểu Băng bị bắt sống. Diệu Anh thất tung còn lão phu không biết bơi nên suýt chết, mê man mấy tháng liền mới hồi phục.

    Tuấn Hạc cau mày:

    - Sau đó chư vị ẩn thân ở đâu?

    Tuấn Thu đáp thay:

    - Trước lúc đào vong ra sông, Cù trưởng lão có dặn sẽ cùng tìm đến Tàng Long Trang. Họ là đối thủ của Thiên Độc Giáo tất sẽ vui vẻ dung nạp bọn ta. Phần thì Cù lão lâm bệnh không tỉnh, phần thì đau đớn về cái chết giả của Văn nhị đệ nên chẳng ai muốn ló mặt ra nữa. Cho đến lúc Thiên Độc Giáo bị Luân Hôi Ma Cung thiêu hủy, bọn ta mới xuất đầu lộ diện, đi theo Nam Tà đến Trường An tìm kho báu. Không ngờ. .

    Nói đến đây, gã nhớ đến bào đệ, nghẹn ngào không nói được nữa.

    Tuấn Hạc ung dung sống ở Văn Gia Bảo mà không gây chút nghi ngờ nào.

    Ngay Thần Viên Tiểu Bạch cũng không ngửi được mùi chàng. Cơ thể Tuấn Hạc giờ đây lạnh giá và có mùi tanh của rắn rết.

    Nhưng nửa tháng sau, Doanh Doanh phát hiện mình có thai. Nàng mừng rỡ kể cho ôn Tiểu Băng, Phương Phương, Mạn Ngọc và đám nữ nhân nghe:

    - Thỉnh thoảng tướng công lại hiện về cùng tiểu muội ân ái nồng thắm, nhờ vậy, nay họ Văn đã có người nối dõi.

    Nàng bị mù nên không thấy mặt họ tái đi ôn Tiểu Băng vội ra dấu bảo mọi người cố trấn tĩnh rồi dịu dàng hỏi:

    - Có thực như vậy không? Vì sao chỉ mình Doanh muội được gặp chàng, trong khi bọn ta cũng là thê thiếp?

    Doanh Doanh thẹn thùng đáp:

    - Có lẽ tướng công thương tiểu muộn mù lòa nên mới tìm cách an ủi?

    - Nhưng Doanh muội làm sao nhận ra chàng?

    Doanh Doanh đỏ mặt:

    - Phu thê đầu ấp tay gối lẽ nào lại lầm được Giọng nói, cách vuốt ve đều như hồi còn sống. Có điều cơ thể chàng lạnh lẽo vô cùng. Mặt chàng đầy râu vì lúc qua đời chưa kịp cạo.

    Mọi người nghe lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi, lo sợ cho Doanh Doanh. Nếu là một người sáng mắt thì còn tin tưởng được nay nàng mù lòa biết đâu không bị gạt gẫm?

    ôn Tiểu Băng gượng cười:

    - Ta xin chúc mừng Doanh muội và sẽ mời Tống thần y đến xem sao.

Trang 3 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Kiếm Hoa Yến Vũ Giang Nam
    By giavui in forum Truyện Kiếm Hiệp
    Trả Lời: 15
    Bài Viết Cuối: 05-18-2020, 10:23 PM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-28-2020, 12:32 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-17-2020, 01:20 PM
  4. Tiền Giang: Cháy lớn tại khu công nghiệp Long Giang
    By duyanh in forum Tin Tức Việt Nam
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-29-2018, 03:48 PM
  5. Giang hồ Bắc du Nam
    By duyanh in forum Văn Hóa-Xã Hội-Kinh Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-30-2014, 12:52 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •