Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Đời người như một cành hoa mà Ái-Tình là một giọt mật.
Victor Hugo
Trang 1 / 2 12 Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 17

Chủ Đề: Ôm Đàn Tới Giữa Đời

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Ôm Đàn Tới Giữa Đời

    Ôm Đàn Tới Giữa Đời


    Tác giả :Mai Thảo




    Chương 1
    Tiếng chân di động lạt sạt ở phòng ngoài cho tôi biết Huyền đã thức. Và nó đang sửa soạn cho cái đời sống hàng ngày của hai chị em tôi. Là mở quán tiếp khách.

    Tiếng chân của Huyền không thay đổi từ bao nhiêu năm nay, nghe không lẫn được. Nặng. Tất tưởi. Lật đật. Gót chân chứ không phải gót ngọc. Cái tướng Huyền vất vả. Từ một chuyển dáng nhỏ nhặt. Mỗi bước đi của Huyền đều lay chuyển theo nó rất nhiều không khí. Và chỉ cần dõi theo những bước chân nó từ góc này tới góc nọ, di chuyển tới đâu, tôi cũng đã biết Huyền đang làm những gì. Huyền đang chế nước sôi đầy ắp, vào lũ bình thủy xếp thành một hàng ngay ngắn trên cái bàn nhỏ sau quầy. Mở sắp một cuốn sổ, kèm theo một cây viết. Để biên bông chịu cho khách hàng quen. Để tính tiền, thối tiền cho những khách hàng lẻ loi lần đầu tới quán. Chọn sẵn một số băng nhạc chồng lên mặt quầy. Đám khách hàng trẻ tuổi và u uất khó tính của chúng tôi phần lớn đều thích nghe nhạc. Nhiều người chỉ nghe độc một băng nhạc, một tiếng hát, đòi nghe lại từng lần. Họ nghe, đắm đuối, mơ màng, đầu tựa nghiêng vào vách. Chân duỗi dài trễ nãi. Nhìn cà phê thả giọt. Và Huyền đang chuẩn bị tiếp họ. Bằng xem lại những hũ đường. Bằng xếp đủ năm điếu vào từng hộp thuốc lá bán lẻ. Việc nó sẽ làm sau cùng là vào phòng trong. La lối tôi ngủ muộn lười biếng. Bắt tôi rời khỏi mặt đệm.

    Tiếng chân Huyền chợt rời khu quầy, khu băng nhạc, khu bình thủy bình đường, ra phía ngoài. Tiếng những cái đóng cửa được tháo ra. Hôm nay là thứ sáu.Ngày nào của tháng nào, thứ nào của tuần lễ nào thì cũng vậy mà thôi. Sau một đêm đóng cửa quán Nhớ lại mở. Cùng với tiếng những cánh cửa được xếp chồng vào một góc tường, tôi hình dung thấy mặt đường trải đá xanh ướt đẫm sương đêm, những hơi lạnh, những thoáng khói từ cái bãi hoang bên kia đường tràn sang lùa từng đợt chập chờn vào quán. Quán đang mở cửa.

    Như thường lệ. Như hàng ngày. Trong ban mai nhợt nhạt. Giờ những giòng suối còn khép mắt. Giờ lá rừng còn ngủ, những thân cây mới sáng tới lưng chừng. Và mặt trời thì còn ở đâu đó, bên kia nhưng triền núi.

    Tấm chăn bông ấm áp lúc này còn ôm kín lấy thân thể tôi. Mặt đệm dưới lưng là một khoảng trũng thân mật. Hơi nóng từ tôi, của chăn, trộn lẫn thành một giam cầm lưu luyến. Muốn phủ tóc lên mặt. Thu tay vào lòng. Ngủ tiếp. Tôi đón ngày sáng nay bằng một cảm giác cực kỳ ngần ngại. Như ngày là một thau nước lạnh buốt, khiến ngại ngùng cả đến việc nhứng vào nó một đầu ngón tay. Còn sớm thế này, ban mai lạnh căm và có sương mù chắc Khoa chưa tới đâu. Những cây si của quán cũng vậy. Tôi thấy thù ghét những cuốn băng, những bình đường vô tả. Thù ghét cả cái quán Nhớ. Nhớ là cái gì. Tôi nhắm mắt lại. Xin đời cho tôi yên. Bằng tìm vào giấc ngủ.

    Cuộc đời không chịu cho tôi yên. Ngủ tiếp bị khước từ. Vì cuộc đời là Huyền. Tiếng nó nheo nhéo ở đầu giường:

    - Dậy đi, bà chủ.

    Tôi ậm ừ, cằn nhằn:

    - Tao không phải là bà chủ. Để yên cho tao ngủ.

    Huyền cười. Sao mới bảnh mắt, còn sương đêm, cái đứa em gái tôi đã tỉnh táo đã buổi trưa, buổi chiều, được đến như vậy.

    - Gần chín giờ rồi.

    Tôi hỏi, qua chăn, nghe tiếng gió xoáy hút vào những gờ mái:

    - Thứ đồng hồ nào?

    - Thứ đồng hồ ngoài quầy.

    Nhà chỉ có một cái đồng hồ. Mặt dạ quang. Treo đầu quầy cạnh chỗ tôi ngồi. Cái đồng hồ do Khoa về Sàigòn hồi đánh nhau năm ngoái mua lên cho tôi. Mác Thụy Sĩ. Rất đúng giờ với những giờ phát thanh, Huyền lại lên giây mỗi sáng một lần. Bí quá, tôi trở thành độc ác:

    - Đàn ông bây giờ ai cũng dậy muộn, mày biết không?

    Huyền cúi xuống, hất tấm chăn của tôi đi. Gió không chỉ nghe thấy nữa. Mà phủ xuống, kín trùm trên da thịt lạnh buốt. Cùng với cái cử chỉ tàn nhẫn đáng lên máy chém, Huyền hỏi:

    - Đàn ông ăn nhằm gì đến em?

    Tôi cay nghiệt:

    - Không ăn nhằm gì à. Trong cái số đàn ông dậy muộn, có một thằng sẽ là chồng mày. Nó đang ngủ ngon mầy dựng nó dậy, nó chỉ có hai cách. Một là đập chết mày. Hai là ly dị gấp.

    Còn Huyền không phải tay vừa. Nó trả đòn ác độc:

    - Lười biếng, ngủ muộn như chị, rồi anh Khoa anh ấy ly dị chứ không phải tôi đâu.

    Khoa, tiệm thuốc tây ngoài phố chính. Khoa, những bó hoa, những chiếc bánh gửi mừng từng sinh nhật, Khoa của một tỏ tình chưa dám, những một đính hôn đã là. Khoa của một mái tóc cắt ngắn, khỏe mạnh, mày râu nhẵn nhụi, trong khi đám bạn bè theo Khoa tới quán tóc dài thượt tới gáy, để râu từ lông tơ. Tôi nghĩ đến Khoa. Tách thoát. Dửng dưng. Không yêu, không nhớ. Lúc này Khoa không giá trị bằng tấm chăn nằm dưới chân. Tôi biết Khoa đã dành cho tôi cái chỗ đứng chính trong tiệm bào chế âu dược đường Hoàng Diệu. Cái chỗ đứng của một bà chủ hàng tháng về Sài gòn đặt thuốc, mỗi cuối tuần ra gửi tiền ở ngân hàng. Trong đám bạn bè, Khoa hơn tất cả mọi người. Họ quái dị, khác thường. Anh chàng này đến một mình. Nhìn cái phin cà phê hàng giờ không chớp mắt. Anh chàng kia lần nào cũng ngả ngốn trước mặt quầy. Đòi đưa tôi đi Biển Hồ. Có anh say rượu, nửa đêm đập cửa, rồi ngủ gục ở thềm quán. Riêng Khoa bình thường. Có đủ hành lý và bảo kê của một người chồng. Nhưng nhà Khoa thật gần mà Khoa còn ở khá xa trái tim tôi, một trái tim chưa biết nó muốn gì. Một trái tim chưa lựa chọn. Tôi nghĩ, hơi ngậm ngùi cho Khoa. Chưa gần. Còn xa. Đã thế sự xa cách mỗi ngày một thêm cách xa hơn nữa. Sao lại có chuyện chúng tôi đính hôn được. Điều kỳ lạ là chuyện ấy có. Vì Huyền vừa nhắc tới. Điều kỳ lạ hơn nữa, hồi gần đây tôi đã xử sự với Khoa như một người vợ sắp cưới.

    Căn phòng tối mờ. Ánh sáng lùa vào qua những khe gỗ là cái thứ ánh sáng ban mai đặc biệt của Pleiku. Đục. Loãng. Nhờ nhờ. Như mầu nước gạo. Gió bất chợt mạnh quẫy đảo hung hãn trong những kẽ mái. Ngôi nhà rung rinh cùng khắp. Gió thốc tháo nói chúng đã băng qua những khoảng trống mênh mông gợi cho tôi nghĩ đến những ngọn đồi trọc vây bọc thị xã như một vòng đai đỏ khé. Và xa hơn, Biển Hồ cứng, lạnh như một tảng băng. Và xa hơn nữa những triền núi, những cánh rừng rậm rì, xanh đặc, kéo dài tới biên giới. Bị đẩy lên trần nhà, giấc ngủ lại muốn đáp xuống. Một đáp xuống vô hình và êm ái. Chỉ cần kéo tấm chăn lên ngang tầm ngực, nhắm mắt lại. Nghe gió, nghe tới khi gió mưa thành một lời ru, tôi sẽ ngủ tiếp được dễ dàng và mau chóng.

    Tôi muốn thế. Muốn ngủ nữa. Bèn nói dối Huyền:

    - Cả đêm tao không ngủ được. Ra coi hàng cho tao ngủ thêm một chút nữa đã.

    Huyền nhăn nhó:

    - Khách sắp tới rồi.

    Tôi gắt lớn:

    - Thì pha cà phê cho họ uống. Mở nhạc cho họ nghe. Biên sổ và tính tiền. Bộ việc gì cũng phải tao sao?

    - Không có chị họ không uống.

    Tôi lẩm bẩm:

    - Họ khùng.

    - Bao nhiêu lần chỉ có em các anh ấy đuổi đi đòi kêu chị ra. Chị thừa biết rồi mà. Lát nữa anh Vận đưa xe đến đón chị ra phi trường, chị quên rồi sao?

    Tôi ngẩn người:

    - Ra phi trường? Ờ nhỉ tao quên. Dậy đây.

    Khoa về Sài gòn tuần lễ trước. Nói là về mua hàng, nhân tiện mua quà Giáng Sinh cho tôi. Trước hôm đi, Khoa đến uống cà phê, đòi nghe lại tới lần thứ ba bài Tà Áo Xanh của Đoàn Chuẩn. Đứng nói chuyện với tôi ở quầy hàng cho tới giờ quán đóng cửa. Đôi mắt Khoa buổi tối hôm đó nhìn tôi đắm đuối hơn bao giờ. Tình yêu Khoa dành cho tôi buổi tối hôm đó tỏ lộ rõ rệt hơn bao giờ. Tôi về Sài gòn, sẽ nhớ tới Ngọc hàng ngày. Sài gòn bao nhiêu người đẹp, xuống tới phi trường Tân Sơn Nhất là anh sẽ quên đứt Pleiku, tôi cười, trả lời. Khoa nhìn tôi đăm đăm. Cái nhìn nói khác. Nói như Khoa nói, là ở xa, ở đâu, Khoa cũng cũng nhớ đến quán Nhớ từng ngày.

    TÌnh yêu của Khoa, tôi chưa đáp lại. Cũng không từ chối. Tôi để đó, cho thời gian trả lời. Mặc dầu vậy, thái độ thành khẩn và cái nhìn đắm đuối của Khoa tối đó đã làm tôi xúc động. Lấy Khoa, tôi sẽ sung sướng. Tôi biết vậy. Chỉ là tôi chưa định về chôn đời mình sau cái quầy hàng của tiệm bào chế. Tối đó, Khoa hỏi tôi có tiễn chân Khoa một quãng đường không. Tôi lắc đầu, nhưng dặn Khoa trước ngày về đánh điện, tôi sẽ ra đón Khoa ở phi trường. Khoa gởi điện tín hôm qua, báo tin sẽ trở về, sáng nay, trên chuyến bay thứ nhất.

    Mười phút sau tôi chải đầu mặc áo len, theo Huyền đi ra. Quán Nhớ là một căn nhà khá rộng, chia làm hai phần. Phần trong nền xi măng cao hơn, gồm có quầy hàng ở một góc. Góc đối diện là một cái bàn lớn trên để ly tách, cà phê, một máy nghe dĩa và một máy nghe băng. Phần ngoài ngăn cách mặt lộ bằng một hàng hiên nhỏ và một khung cửa sổ hình bán nguyệt.

    Hai dẫy bàn thấp chạy dài theo hai vì tường. Bàn và ghế ở dãy phải kê liền sát dành cho những đám khách đông đảo, khi tới là đẩy những cái bàn vào nhau ngồi thành vòng chung quanh. Phía trái những cái bàn kê cách nhau xa hơn, người bàn này không nhìn thấy người bàn kia, bởi những tấm gỗ chắn làm cho khuất lấp. Mỗi vì tường treo hai bức tranh. Bốn bức tranh đều là của Dã Thụy.

    Dã Thụy ở một mình trong một túp lều gỗ giữa một vườn cây cỏ um tùm, tận cuối thị xã trên đường đi Khôngntum. Dã Thụy ở Qui Nhơn. Lên Pleiku trước đây ba năm mấy tháng trước ngày khai trương quán Nhớ. Thụy là họa sĩ. Thú họa sĩ đầy đọa, bí hiểm với những bức tranh màu tối, tôi nhìn hoài cũng không phân định được là những hình thù gì. Thụy có mái tóc dài nhất, cái nhìn nung nấu nhất, một thân hình gầy guộc nhất. Thụy ít bạn gần như không có. Tới quán một mình ngậm tẩu ngồi bất động một lúc rồi về.

    Ngày quán mới mở, Thụy tới một ngày hai buổi, và nói yêu tôi, yêu ngay phút đầu, yêu từ kiếp trước. Điên không thể tưởng tượng được. Nhưng không được đáp lại, Thụy không thù hận và chúng tôi trở thành bạn thân. Phần trang hoàng và bài trí của quán Nhớ là công trình của Thụy. Anh mang tranh đến tự tay treo lên tường. Vào rừng, chọn những thân cây nhẵn nhụi, cưa thành khúc, đem về cho quán Nhớ làm ghế ngồi cho khách. Những dò lan treo bên cạnh bốn bức tranh cũng do Thụy vào rừng lấy về. Mấy hôm nay không thấy Thụy đến. Tôi sợ Thụy đau. Thụy đau luôn.

    Sáng nay Thụy cũng chưa tới. Dưới ánh sáng tù mù của những ngọn đèn nhỏ, quán vắng ngắt trong ánh sáng lạnh buốt.

    Tôi hỏi Huyền:

    - Mấy hôm nay mày có gặp anh Thụy ở phố không?

    Huyền đi tới trước cái máy nghe băng:

    - Không.

    Tôi chép miệng:

    - Chắc anh ấy đau.

    Huyền vừa mở băng vừa nói:

    - Em cho anh ấy nhiều nhất là sáu tháng.

    - Sáu tháng thế nào?

    - Sáu tháng là hết anh Thụy. Anh Thụy chết.

    Huyền nói thật độc miệng. Nhưng có phần đúng. Thụy lao phổi thật nặng. Một lần đến quán uống cà phê, đã ngã gục, thổ ra máu. Mấy lần tôi tới túp lều nhỏ giữa khu vườn hoang, ngồi làm mẫu cho Thụy vẽ, Thụy vừa vẽ vừa ho rũ rượi, bàn tay gầy guộc đưa lên giữ chặt lấy bộ ngực còm cõi, tan nát. Tôi định chiều nay, nếu không thấy Thụy đến tôi sẽ rũ Huyền đến thăm. Thụy chết, chắc tôi sẽ khóc. Nhiều lần tôi khuyên THụy đổ đèo An Khê trở về Qui Nhơn, ở đó có gia đình Thụy, biển xanh và nắng ấm. Thụy gật nói sẽ nghe theo lời tôi. Nhưng tới mùa lạnh này, Thụy vẫn ở một mình trong túp lều nhỏ dưới trời Pleiku. Tôi không hiểu được tôi. Và vĩnh viễn không hiểu được những người trẻ tuổi lao phổi, vẽ tranh và sống một mình như Thụy.

    Tôi tự tay pha cho mình một ly cà phê. Những giọt nước nâu đậm nhỏ xuống lòng ly mờ khói. Cũng lúc một tiếng tách khô,gọn, phát ra từ cái máy nghe băng. Một vài vòng quay im lặng, chậm chạp. Rồi là bài hát. Một bài hát về vòm trời tôi đang sống, nơi chốn tôi đang ở. Một bài hát về Pleiku. Huyền đứng lặng, hai vai thu lại, cánh tay buông thõng là dáng điệu nó trước bản nhạc yêu thích. Tôi cũng yêu bài hát này. Bài hát thật buồn. Của một người buồn nhìn một Pleiku buồn. Pleiku. Những người con gái má đỏ môi hồng trơ vơ với xuân đời mình, như những nhành hoa núi nở trong quên lãng những đáy lũng, biền biệt những triền núi. Một bến xe. Một bãi đất trống. Một chuyến xe lên, từ biển. Một chuyến xe về từ rừng. Dăm người khách lạ đi lên đi xuống. Và chàng trẻ tuổi ở một tiền đồn biên giới, chỉ thấy người yêu bằng tưởng tượng, qua một màn mưa bay nghiêng.

    Huyền đứng rũ, huyển hoặc, mặc dầu nó đã nghe bài hát cả trăm lần. Năm ngoái vòm trời Pleiku nát nhầu lửa đạn. Dân chúng từ thị xã di tản đi nơi khác. Trọng pháo ầm ì dội đập đêm ngày. Những tiệm hàng đóng cửa. Trường học nghỉ. Đường phố Pleiku mất biến những má đỏ, môi hồng. Phố thấp, phố cao chỉ còn dầy đặc những giầy đinh, mũ sắt, những bộ quân phục màu tối, mỗi góc cây là một họng tiểu liên. Tôi lỳ. Quán Nhớ mở cửa như thường. Nhưng một đồng không thu được. Không một bóng khách tới. Cuối cùng, tôi đành nghe Khoa. Hai chị em về Sài gòn, đóng cửa quán Nhớ đúng hai tuần lễ. Quần áo mang theo không đủ, vậy mà Huyền khăng khăng mang theo băng nhạc có bài hát về Pleiku, bảo thế nào cũng không chịu bỏ lại.

    Tiếng máy của một chiếc xe díp chạy tới. Ngừng lại trước cửa quán. Máy tắt.

    Tôi bảo Huyền:

    - Khách tới, cô ả. Nghe gì mà đắm đuối quá thế?

    Huyền thính tai hơn tôi. Nó phân biệt được tiếng máy. Và nói, không rời cuộn băng:

    - Anh Vận đến đón chị đó.

    Một bóng người cao lớn bước vào quán. Vận thật. Vận với mái tóc cắt ngắn, bước chân mạnh mẽ da mặt rám nắng. Vận là người bạn thân thiết nhất của Khoa. Ra đời ở đây. Họ có chung với nhau một tuổi nhỏ, những năm học, chỉ khác biệt về đời sống, khi đã khôn lớn. Tôi nghĩ đến hai con phố của một Pleiku. Một thấp, bình yên nơi chân đồi. Một cao, chênh vênh nơi đỉnh đồi. Vận và Khoa là như thế. Vận đi luôn. Ở núi, nhưng yêu biển, yêu nắng. Tuần nào cũng đổ đèo An Khê, xuống Qui Nhơn một lần.

    Thế giới Khoa chỉ là tiệm bào chế và con đường Hoàng Diệu. Cái đích những di chuyển của Khoa là quán Nhớ này. Lần nào phải về Sài gòn lấy hàng và một vạn bất đắc dĩ. Khác biệt vậy mà họ vẫn thân nhau như hồi nhỏ. Tình bằng hữu của đám người trẻ tuổi, tôi nghiệm thấy, thật bền ở một tỉnh nhỏ. Họ không có ai. Hàng ngày gặp nhau. Đúng như lời hát trong bài hát. Phố này cao, phố kia thấp. Nhưng dăm ba thôi, nên thật gần gũi, nên phố tình thân. Những con phố tình thân ấy đến quán Nhớ hàng ngày. Ngồi chung một bàn. Hút chung một thứ thuốc lá. Như thế, mãi mãi.

    Vận tiến thẳng vào quầy hàng. Nét mặt Vận tươi sáng. Nụ cười hồn nhiên tươi tắn. Ngày sáng dần với Vận. Với Vận, quán thức hẳn. Ấy là Vận tạo cho tôi cái cảm giác đó. Thật ra, ban mai vẫn nhợt nhạt, và sương chưa tan ở bên ngoài, Vận liệng chùm chìa khóa xe lên mặt quầy, kể công:

    - Bỏ đi Khôngntum sáng nay đấy, bà chủ.

    Tôi cười:

    - Nghe đâu đường không an toàn lắm ở khúc gần Chu Pao. Lên Khôngntum có chuyện gì vậy.

    - Hẹn.

    - Ai?

    - Một nàng tiên nhỏ của tôi.

    Câu nói được nối tiếp bằng một tiếng cười lớn, nghịch ngợm vui thú. Huyền và tôi bật cười theo. Những nàng tiên nhỏ của Vận ở khắp nơi. Vận đã đưa một vài nàng tới quán. Nàng Ban Mê Thuột. Nàng Qui Nhơn. Nàng Ban Mê Thuột xanh như lá và gầy như liễu. Nàng Qui Nhơn da bánh mật mini jupe cũn cỡn, ngồi vắt chân và hút thuốc lá đen. Có cả nàng từ tận Sài gòn lên, mặt trát phấn môi son ướt nhẫy. Với những nàng tiên nhỏ ấy, Vận phân phát những mảnh tình đồng đều, khá thắm thiết, khá thành thật. Nhưng thế thôi, không lao đao, mê đắm. Tôi nghĩ đến Vận như một chuyến tầu, những người tình của Vận như những ga sép. Tàu tới, ở lại. Rồi lăn tới những ga khác, và không có cuối đường, chưa có ga chính.

    - Sao không đi? Tôi hỏi.

    Vận trợn mắt:

    - Ai đưa bà ra phi trường đây?

    Tôi nghiêm mặt:

    - Không có anh thì thôi ra phi trường. Tôi hơi hối hận đã hứa đi đón Khoa.

    Vận nhíu mày:

    - Sao vậy?

    - Tôi có thể tạo ra một hiểu lầm.

    - Cho ai?

    - Cho Khoa trước hết. Tôi và Khoa cũng như tôi với Vận. Bạn. Chưa có chuỵên khác.

    Vận nghịch với chùm chìa khóa. Băng nhạc phát ra một bài hát khác. Pleiku phố thấp phố cao nhường chỗ cho một thành phố tây phương, ở đó, những cặp tình nhân tựa vai sánh bước trên những bờ sông, dưới những gầm cầu, một đêm trăng sáng. Vận gật gù:

    - Khoa không nghĩ thế đâu nhé.

    - Đó là cái quyền của Khoa.

    Vận lắc lắc chùm chìa khóa:

    - Vậy đi đón hay không đi đón?

    - Đi chứ. Uống cà phê đã.

    Vận nhìn đồng hồ, cái đồng hồ của Khoa treo trên đầu quầy.

    - Thì uống chỉ sợ muộn thôi.

    Gió thổi mạnh. Trời lạnh. Buổi sáng run rẩy nhợt nhạt cho đoán thấy một nền trời xám, trần mây thấp, nặng chĩu, những cánh rừng mịt mùng, những đỉnh núi nhòa nhạt. Nắng có lên được, cũng phải gần trưa. Mưa có thể đổ, bất cứ lúc nào. Một buổi sáng cũng xám ngắt và lộng gió như thế này, tôi đã phải chờ ở phi trường Tân Sơn Nhất gần hai tiếng đồng hồ. Đó là lần hai chị em từ Sài gòn trở về Pleiku khi chiến sự đã lắng dịu. Sáng hôm đó, Pleiku điện về là trời tây nguyên xấu, sương mù kín đặc, trần mây thấp, máy bay chưa thể hạ cánh. Trường hợp này xảy ra luôn. Vào mùa này.

    Nhiều buổi sáng, tôi nằm trong chăn nghe tiếng máy bay ầm ì trên đầu. Tiếng máy lượn vòng. Nhiều lần rồi xa lảng mất hút. Ấy là những chuyến máy bay đã vào không phận Pleiku, phải quay trở về. Vì không đủ điều kiện cho một an toàn đáp xuống.

    Một vài người khách lục tục kéo tới. Những khuôn mặt quen biết. Những sự thường xuyên làm đầy quán Nhớ. Thập ở đầu phố. Chủ nhân một tiệm sách nhỏ. Cũng là người khách hàng khó tính nhất. Phin cà phê của Thập phải tôi pha Thập mới chịu. Nhạc ở đường Phan Bội Châu. Dạy học ở trường cộng đồng, nhưng lúc nào cũng đầu bù tóc rối, cái nhìn hoang vu, dáng điệu thi sĩ. Nhạc là của những ngụm trà tầu đắng chát, nóng bỏng đầu lưỡi, đựng trong những cái chén hạt mít khề khà, trầm ngâm hàng giờ như một ông cụ già. Cả hai cùng thất tình, cùng già trước tuổi.

    Trường hợp Nhạc trầm trọng hơn. Người yêu của Nhạc là Ngân. Ngân là bạn tôi. Ai cũng đinh ninh họ sẽ lấy nhau. Chủ nhật nào Nhạc cũng đến đón Ngân, hai người đưa nhau lên Biển Hồ hay tới Suối Mơ tình tự. Rồi thình lình là sự tan vỡ. Ngân về Sài Gòn, lấy chồng. Con nhỏ dịu dàng, ăn nói nhỏ nhẹ, không ngờ mà quyết liệt tàn nhẫn. Sự đoạn tuyệt như một nhát chém cắt đứt trái tim mềm yếu của Nhạc thành một vết thương máu huyết đầm đìa. Đến quán, Nhạc thường ngồi riêng một góc. Thất lạc. Rũ rượi. Tôi biết Nhạc vẫn ôm cái hy vọng mong manh, hão huyền là một ngày Ngân sẽ trở về. Nhưng con nhỏ, trước khi đi, đã nói với tôi là Pleiku không bao giờ còn thấy mặt nó nữa.

    Nhạc vào quán, lẳng lặng đến ngồi ở chỗ cũ. Thập thất vọng ra mặt khi thấy tôi sửa soạn ra khỏi nhà:

    - Đi đâu vậy Ngọc?

    Tôi nhìn Vận, cười:

    - Đi đằng này một chút.

    - Ai pha cà phê cho tôi đây?

    - Huyền.

    Thập giận dữ nói lớn:

    - Huyền pha tôi không uống.

    Tôi muốn ở lại. Pha một ly cà phê. Dọn một khay trà tầu. Làm vui lòng Nhạc. Làm vừa ý Thập. Những người khách hàng trẻ tuổi, khó tính và u uất này của tôi, mỗi lần tới quán là muốn có tôi ở trước mặt, ở bên cạnh họ. Chẳng phải họ yêu tôi, như Khoa. Mà cần. Tôi làm đầy những buổi sáng, làm ấm những buổi chiều của họ. Trên những con đường ướt đẫm sương đêm hay lất phất mưa bụi họ bước những bước co ro trong giá lạnh, với mục đích đến quán Nhớ là để thấy tôi đứng ở sau quầy. Lâu dần với đám người trẻ tuổi lãn g mạn và cô đơn này, có như là tôi đã trở thành một có mặt đầy yên tâm. Tôi chẳng hiểu tại sao lại như thế. Nhưng sự thật và cái không khí của quán Nhớ tới mùa lạnh này là như thế.

    Tôi đưa mắt nhìn Vận. Vận chỉ đồng hồ lắc đầu. Chúng tôi chỉ còn đủ thời giờ ra phi trường, trước giờ máy bay hạ cánh. Tôi ôn tồn:

    - Không chịu Huyền pha thì pha lấy mà uống vậy. Ngồi chơi, tôi về ngay.

    Đoạn tôi theo Vận ra xe.

    Gió ngớt. Một trận mưa phùn đã dấy. In lên một nền trời màu xám, mưa thả xuống những hạt ly ty. Mặt đường, những cạnh đá ướt loáng. Chiếc xe díp của Vận ghếch đầu lên một bờ cỏ. Bốn bánh xe lấm đầy bùn đất, thứ bùn đất đặc biệt của Pleiku quánh đặc, đỏ khé. Kính xe mờ hơi nước đọng. Ban mai vẫn là một khuôn mặt nhợt nhạt, thiếu máu. Như khuôn mặt của Nhạc, của Thập tôi vừa bỏ lại trong quán. Pleiku sáng nay không có trời, trời nối liền với mặt đất bằng triệu tơ mưa đọng lại thành những cái búp long lanh trên từng đầu ngọn cỏ.

    Vận lên ngồi trước tay bánh. Tôi lên ngồi cạnh Vận. Quán Nhớ nhìn từ mặt lộ có một mặt tiền thật tiều tụy, xập xệ. Trên quán vẽ trên tấm bảng gỗ. Nét vẽ của Dã Thụy xiêu đổ, lệch lạc. Tấm bảng treo nghiêng, mầu sơn của chữ đã phai lạt. Bực thềm vào quán long lở. Vòm cửa tối thẳm. Con phố chạy dài với hai bờ cỏ um tùm tràn chiếm. Tiếng nhạc từ trong quán vọng ra, chậm và buồn lê thê. Tôi nghĩ đến Nhạc đang trầm ngâm, Thập đang cúi đầu, mỗi người ngồi một góc, mỗi người lưu đầy trong nỗi đau riêng. Đến một Pleiku đau tim, đau thần kinh, đang bất động nhìn những giọt cà phê buồn thả xuống một đáy ly, nghe mưa và tưởng nhớ đến những cuộc tình đã mất.

    Chiếc xe chuyển bánh.

    Từ quán Nhớ ra phi trường Cù Hanh, đường dài đúng sáu cây số. Tôi ngồi ngay ngắn, cài hết hàng khuy của chiếc áo len dài tay mà vẫn cảm thấy hơi lạnh thấm đầy vào da thịt. Xe tăng dần tốc lực. Tôi nhìn sang hai bên đường. Pleiku đã thức giấc, nhưng cặp mắt ngái ngủ còn ngơ ngác và chứa đầy phiền muộn. Qua mấy phố chính. Những chiếc xe lam buông mui kín mít mệt nhọc leo lên những con dốc. Một vài đám đồng bào thiểu số từ trong núi ra, ngồi thu lu dưới những hàng hiên. Một gánh cải lương vừa từ Sài gòn lên đầu tuần lễ trước. Cổng đình, mấy tấm biển quảng cáo nhoè nhạt. Xe chạy qua một bót gác. Những hàng cây thoang thoáng. Rồi cảnh tượng bất chợt quang đãng. Trước mặt tôi, hai bên đường chỉ còn là những ngọn đồi thấp. Màn mưa dầy hơn, trắng xóa. Chúng tôi đã ra khỏi tỉnh. Chiếc xe phóng nhanh trên con đường ra phi trường.

    Từ lúc rời quán Nhớ, Vận và tôi, không nói với nhau một lời nào. Vận nhìn thẳng, miệng hé mở, hàm răng cắn chặt điếu thuốc. Điếu thuốc đã tắt ngấm.

    Đúng như dự đoán, chuyến máy bay từ Sài gòn lên phải chậm ít nhất là hai tiếng đồng hồ. Phải hoãn tới buổi chiều không chừng. Vận tới hỏi ở quầy hãng máy bay, nhún vai, quay gót, từ từ đi lại chỗ tôi ngồi.

    - Gần mười hai giờ là sớm nhất.

    Tôi chép miệng:

    - Nghĩa là chúng mình phải chờ?

    Tôi thắc mắc:

    - Nhưng liệu có máy bay không?

    Vận hất hàm về phía quầy:

    - Cái cô áo xanh kia cô ấy nói thế nào cũng có. Chỉ không biết giờ nào.

    Vận nói tiếp, giọng hài hước:

    - Cái cô áo xanh đã nói có thì thế nào cũng có. Chờ vậy.

    Tôi nhún vai nhắc lại câu nói của Vận:

    - Chỉ còn cách đó.

    - Thế là ông Khoa làm chúng mình mất đứt với ông ấy một buổi. Làm gì bây giờ đây.

    Tôi không thấy bồn chồn là mấy. Chẳng phải tôi đã quen lắm với những đợi chờ và đưa đón như thế này. Tôi chưa đi đón ai. Đón Khoa cũng lần đầu. Nhưng mà cái thứ thời gian lê thê của Pleiku thì tôi đã quen và đã sống. Những buổi sáng dài. Những buổi chiều rộng. Những buổi trưa, trưa mãi không sang chiều. Những buổi chiều, chiều mãi không tới đêm. Những đêm vô cùng, vô tận. Đó là thứ thời gian ngưng đọng của Pleiku. Tôi cười, bảo Vận:

    - Ra nói chuyện với cái cô áo xanh kia đi.

    Mắt Vận sáng lên:

    - Một ý kiến hay. Ngọc đứng đây nhé.

    Tôi đón lấy cái áo mưa trên tay Vận:

    - Mượn anh cái áo. Ra ngoài mưa một chút.

    Rời khỏi phòng đợi, tôi đi ra với một khoảng trống bát ngát. Phi trường Cù Hanh là một mặt phẳng trần trụi ngăn cách với những ngọn đồi đối diện bằng một thung lũng hẹp. Phi đạo chạy dài, song song với thung lũng.

    Ngày tôi và Huyền về Sài gòn, phi trường là một cảnh tượng di tản nhộn nhịp. Máy bay vận tải, trực thăng lên xuống không ngớt. Từng đám hành khách với những hành lý cồng kềnh chen chúc ở phòng đợi. Tình thế đầy ắp chất nổ hiện hình trên những nét mặt lo âu. Những chiếc máy bay là thấp xuống một hướng núi. Những tiếng nổ rung rinh núi đồi. Cảnh tượng đó sáng nay không còn nữa. Tình thế lắng dịu trả lại cho Cù Hanh bầu không khí cô tịch của một phi trường miền núi. Những ngọn đồi xa nằm yên tĩnh dưới màn mưa nghiêng nghiêng. Phi đạo ướt loáng. Tôi đứng trầm ngâm với chiếc áo mưa rộng thùng thình của Vận trên người. Một cảm giác ấm áp chen lẫn với một cảm giác rét mướt. Người tôi nóng dần, nhưng da mặt lạnh buốt.

    Mưa đậu trên mái tóc trên vai áo. Tôi sống, tôi đứng đó, giữa mưa phi trường với sự cô đơn của mình. Ném tầm mắt tới một hướng núi xa. Nghĩ mình là một đỉnh núi lạnh. Nhìn phi đạo gần. Và không thấy cho mình một chuyến đi nào.

    Tiếng Vận ở sau lưng kéo tôi ra khỏi giòng mơ màng:

    - Thấy gì chưa?

    Tôi lắc:

    - Chưa. Chắc máy bay không lên.

    Vận nhìn lên trời:

    - Sắp tới là đằng khác.

    - Sao anh biết?

    Vận cười:

    - Cô áo xanh nói. Sài gòn báo lên, máy bay đã cất cánh được nửa giờ. Mưa cũng sắp tạnh, Ngọc không thấy sao?

    Tôi nhìn lên. Mưa còn đều hạt, nhưng mưa sắp tạnh thật. Trời sáng hơn. Những đám mây không ứ đọng nữa, mà chuyển mau trên nền trời. Trận mưa khởi sự chuyển mình kéo tới một vùng trời khác. Rồi tôi nghe thấy một tiếng động. Cái tiếng động thật cao thật nhỏ ấy, lớn dần, thấp dần. Tôi và Vận cùng ném cái nhìn lên biển mây tìm kiếm. Tiếng động đã thật rõ trùm kín phi đạo. Một cái chấm nhỏ hiện ra. Máy bay đã hạ thấp dưới màn mây. Nó lượn nghiêng một vòng và đáp xuống.

    Người hành khách thứ nhất hiện ra ở khung cửa máy bay vừa mở rộng là Khoa. Khoa đã nhìn thấy chúng tôi. Khoa dừng lại một giây trên đầu thang, vẫy tay rối rít.

    Vận đẩy tôi:

    - Tới đón đi.

    Tôi lắc đầu đứng im:

    - Chờ anh ấy ở đây là được rồi.

    Vận bỏ tôi đứng lại một mình, chạy tới chỗ máy bay vừa ngừng. Khoa xách valy xuống thang. Đám hành khách lục tục xuống theo. Xuống khỏi chân thang, đoàn người bước rảo trên phi đạo thành một hàng dài. Khoa trao valy cho Vận, chạy tới. Nét mặt Khoa rạng rỡ. Tôi đứng im nhìn Khoa, nghĩ mình đang làm vui lòng một người. Khoa khỏe mạnh vững vàng như bao giờ. Phút này nhìn Khoa đang hấp tấp chạy tới, tôi vẫn không bỏ đựơc cái ý nghĩ là lấy Khoa, tôi sẽ được sung sướng một đời. Hạnh phúc có với Khoa sẽ là một hạnh phúc đơn giản, bình thường, nhưng bền vững. Tôi còn mơ ước gì hơn? Tôi nhìn Khoa nhủ thầm, một ngày nào đó mình sẽ lấy người đàn ông kia, và sống bình yên, với Pleiku, đến chết.

    Khoa đã tới trước mặt. Tôi không nhìn thấy ai nữa. Khoa nắm chặt lấy tay tôi.

    - Chờ lâu chưa?

    Tôi cười:

    - Khá lâu. Nhưng không sao. Chỉ sợ chuyến bay của anh phải hủy bỏ.

    Khoa gật:

    - Anh cũng sợ thế quá. Ngồi chờ ở Tân Sơn Nhất nóng ruột không thể nào tả được.

    Chúng tôi đã xưng hô anh em với nhau, từ lâu, không biết tự bao giờ. Đâu như là cái lần đó, chúng tôi đã ngồi với nhau lâu hơn trên cái bờ cỏ cao ngất nhìn xuống Biển Hồ xanh đặc ở phía dưới. Đâu như là cái lần đó, Khoa ở lại quán lâu hơn, trời mưa thật lớn và đêm Pleiku thăm thẳm mịt mùng. Đâu như. Tôi không nhớ. Pleiku đưa Khoa đến tôi, gần như là một đưa tới tự nhiên. Cuộc tình nhẹ nhàng, không đam mê, không thất đảm, là những bước chân khoan thai đi tới từng ngày. Tôi không nhận mà cũng thành ra nhận. Chưa đính ước gì với Khoa mà đã như nhìn thấy trước hôn nhân.

    Khoa hỏi:

    - Huyền đâu?

    - Ở quán.

    - Có chuyện gì lạ không?

    Tôi lắc.

    - Suốt một tuần anh vắng mặt Ngọc làm những gì?

    - Bán hàng rồi ngủ. Anh chưa kể chuyện Sài gòn cho em nghe.

    - Sài gòn nóng như một lò lửa. Và con gái Sài gòn không đẹp bằng con gái Pleiku. À anh đã mua quà Giáng sinh cho em. Cho cả Huyền nữa.

    - Cái gì thế?

    Khoa làm bộ bí mật:

    - Về quán sẽ biết. Thôi chúng mình về. Vận đâu nhỉ?

    Đám hành khách đã vào hết phòng đợi. Nhiều chiếc xe rú máy rời khỏi phi trường. Chúng tôi không nhìn thấy Vận đâu hết. Khoa chạy ra chỗ đậu xe rồi quay trở lại:

    - Ô hay, nó biến đằng nào rồi.

    Tôi cười:

    - Chắc đang nói chuyện với cô áo xanh.

    - Áo xanh nào?

    - Một cô chiêu đãi viên. Không chừng Vận đã theo cô ta lên máy bay và còn ở lại trên đó.

    Khoa cằn nhằn:

    - Cái thằng Vận đi đâu cũng thế hết. Em đứng đây để anh lên gọi nó xuống.

    Khoa đi trở lại phía máy bay. Tôi quay đầu, nhìn theo Khoa. Đúng vào cái giây phút này, tôi nhìn thấy người đàn ông.

    Thoạt đầu, tôi tưởng tôi hoa mắt, nhìn lầm. Những cái sự không thể tưởng tượng được là tôi không nhìn lầm. Cửa máy bay vẫn mở rộng. Vận ở đó thật, Vận đứng giữa khung cửa, tay xách chiếc valy của Khoa. Người nữ chiêu đãi đứng bên cạnh Vận, tà áo xanh của cô ta bay múa theo chiều gió. Chắc Vận vừa nói một câu gì ngộ nghĩnh lắm. Người nữ chiêu đãi bưng miệng cười. Và Khoa thì ngừng lại ở chân thang, ngay cạnh người đàn ông.

    Y khoác trên tay một cái áo tơi mưa mầu xám nhạt. Một chiếc valy nhỏ đặt dưới chân, người đàn ông quay mặt về phía tôi. Chắc chắn là y đã nhìn thấy tôi, từ lúc tôi đứng chờ Khoa, suốt thời gian tôi nói chuyện với Khoa, trong khi tôi không hay biết gì hết.

    Toàn thân tôi nóng bừng. Rồi lạnh toát. Sự bối rối ở tôi đã tới cực điểm của bối rối. Hai chân chôn chặt xuống đất, tôi chết sững trong một tê liệt hoàn toàn. Người đàn ông nhìn Khoa, nhìn tôi, yên lặng, đăm đăm. Sự kinh ngạc đồng đều ở cả hai phía.

    Khoa và Vận trở lại chỗ tôi đứng. Nét mặt Vận tươi rói, hớn hở, như sau mỗi lần Vận được trò chuyện với một người đàn bà xinh đẹp. Tôi đứng chôn chân, nhìn Khoa mà là nhìn người đàn ông qua bờ vai Kkhoa. Y xách va li lên, bước đi. Tôi hoảng hồn chỉ sợ y đi tới. Nhưng không, y không nhìn tôi nữa mà lặng lẽ đi vòng về một hướng. Y bước thong thả, đầu cúi xuống, nét mặt trông nghiêng dưới màn mưa toát ra một vẻ buồn bã khác thường, vẻ buồn bã kỳ lạ tôi không thấy ở một người đàn ông nào.

    Sự bàng hoàng trong tôi nguyên vẹn. Tự nhiên tôi đâm bực mình với Vận. Nếu Vận không nán lại với người nữ chiêu đãi tôi đã không thấy y. Và y cũng không thấy tôi.

    Tôi gắt:

    - Các anh lạ thật. Để tôi đứng dưới mưa thế này mãi sao?

    Vận và Khoa đờ người nhìn nhau. Họ chưa từng thấy tôi gắt gỏng vì một chuyện nhỏ mọn như thế này bao giờ. Đây là lần đầu. Gắt xong, tôi biết mình vô lý, tối thậm vô lý. Chính tôi tự ra đứng dưới trời mưa bay từ lúc phi cơ chưa tới. Vận kinh ngạc:

    - Xin lỗi. Bà chị hôm nay khó tính quá.

    Khoa cau mày trách Vận:

    - Tại cậu hết. Thôi mau mau đưa Ngọc về kẻo nguy to bây giờ.

    Tôi không nhìn thấy người đàn ông nữa. Y đã vào tỉnh trước hay còn ở lại phi trường tôi không hay. Vận trao tay bánh cho Khoa lên ngồi ở băng sau. Chiếc xe quay trở lại đoạn đường cũ. Cảnh vật vẫn vậy, mà lại như đã đổi khác. Từ một tâm thức xao xuyến, cái nhìn của tôi không còn là cái nhìn thư thái lúc theo Vận ra phi trường. Thấy tôi lặng im đắm chìm trong suy nghĩ riêng tư, Vận và Khoa cùng không dám gợi chuyện. Như thế, trên một quãng đường dài.

    Tôi ngồi thẳng, toàn thân bất động, hơi thở hồi hộp đứt quãng. Tôi cố đuổi dạt hình ảnh người đàn ông ra khỏi đầu óc, ra khỏi trí nhớ. Không được, không được. Hình ảnh y chập chờn trước mắt, chung quanh, trong tôi. Phía bên kia khung kính mờ hơi nước. Trên từng ngọn đồi chiếc xe chạy qua và bỏ lại. Kín khắp một vòm trời Pleiku. Và tôi thì là cái phiến gương phẳng lặng của Biển Hồ xanh biếc. Sự phẳng lặng không còn nữa. Người đàn ông thình lình xuất hiện. Như một tảng đá thật lớn ném mạnh xuống hồ làm cho mặt nước tan tác. Như một trận gió lớn ào qua, khiến cho cả cái thế giới bốn mùa tịch lặng của Biển Hồ cũng ào ào nổi gió.

    Nhiều câu hỏi mọc lên trong đầu óc rối loạn. Y lên Pleiku làm gì? Ai quen y ở cái thị xã khuất lánh này? Y tìm ai, hay tìm tôi? Pleiku chỉ là một chặng đường y dừng chân rồi lại đi tiếp tới những nơi chốn những thành phố khác? Hay y ở lại đây? Câu hỏi sau cùng làm tôi rùng mình.

    Tôi xin đánh đổi tất cả những gì quý báu nhất của đời tôi để không bao giờ phải nhìn thấy y nữa. Nhưng tôi đã nhìn thấy y. Hai chúng tôi đã nhìn thấy nhau. Pleiku với bốn phía núi rừng vây bọc, từ bao năm vẫn tạo cho tôi, cái cảm giác, cái ấn tượng một thung lũng kín khuất. Hơn nữa, một trú ẩn chắc chắn. Tôi tựa lưng vào rừng gối đầu vào núi sống với Pleiku từng buổi sáng bình yên, từng buổi chiều thư thái. Ở trong một cái vũng ở dước một cái đáy. Cảm giác cũ không còn nữa. Ấn tượng cũ tan biến.

    Tôi gục đầu thở dài não ruột.

    Khoa quay sang nét mặt khổ sở:

    - Em còn giận sao?

    Vận nói lên ở băng sau:

    - Tôi không dám vác mặt tới quán Nhớ nữa đâu nhé.

    Tôi quay lại với Vận:

    - Hơi mệt một chút. Thành ra tâm tính đáng ghét quá. Xin lỗi Vận.

    Sự mừng rỡ hiện rõ trên nét mặt Khoa. Vận cười với tôi, thở phào nhẹ nhõm. Mưa vẫn còn lất phất. Nhưng cảnh tượng đã ấm hẳn. Xe vào tới thị xã. Đám người đi lại trên hè đường đông đúc hơn, bây giờ tôi cùng Khoa trở về từ phi trường. Những cửa tiệm mở cửa. Xe dừng lại trước cửa tiệm bào chế. Bầy em nhỏ của Khoa từ trong nhà chạy túa ra. Tôi mới đến tiệm thuốc một vài lần. Giữa tôi và Khoa chưa có gì rõ rệt. Nhưng tin đồn đã bay đi. Pleiku coi như Khoa và tôi đã đính hôn. Sắp lấy nhau, tự nhiên không thể khác.

    Thấy tôi đám em nhỏ của KHoa đứng sững lại. Chúng mở lớn những cặp mắt tò mò. Tôi ngồi yên trên xe không theo Khoa vào cửa hàng.

    Khoa hỏi:

    - Vào chơi không?

    Tôi lắc:

    - Em phải về quán. Lát nữa anh đến nhé !

    Khoa xách va ly xuống xe. Vận trèo lên băng trước. Tôi nói với Khoa:

    - Em mời hai anh ăn cơm, trưa nay.

    Tự nhiên tôi muốn thân mật với Khoa hơn. Muốn đi tới. Như Khoa thình lình trở thành một nương tựa, một cần thiết, trước một nguy hiểm đang đe dọa mà tôi không đương đầu, không thể đối phó một mình. Khoa là người khách hàng thường xuyên và thân thiết nhất của quán Nhớ. Nhưng giữ ý, tôi chưa mời Khoa ăn cơm lần nào. Cũng chưa từng mời Vận. Tôi muốn tạ lỗi với họ. Với cả hai người.

    Sự mừng rỡ ở Khoa gia tăng thành một hạnh phúc toàn vẹn. Tôi mỉm cười với Khoa, nhìn Khoa âu yếm.

    - Nhận lời không?

    Khoa gật lấy gật để:

    - Tất nhiên là nhận. Vận thì sao?

    Vận làm bộ sợ hãi:

    - Bà chị đã cho ăn, chối từ làm sao được.

    Chiếc xe díp rời khỏi nhà Khoa. Tôi bảo Vận cho tôi ghé vào chợ, trên đường về quán Nhớ. Tôi xuống xe vào chợ mua đồ ăn, cho một bữa cơm thật ngon. Tôi muốn chứng tỏ cho Khoa, tôi không chỉ là một người con gái bán quán. Mà còn là một người nội trợ, biết làm bếp, biết làm cho một mái gia đình trở thành một mái nhà ấm áp. Lần đầu tiên, tôi bằng lòng lấy Khoa. Nghĩ Khoa qua hình ảnh người chồng sau này của mình.


  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 2
    Đã ba ngày, từ ngày Khoa xuống Sài gòn trở về. Ba ngày mưa gió liên miên kín trùm. Pleiku không có mặt trời, không có nắng ấm. Chẳng phải ba ngày mà quanh năm hình như là thế. Không có mặt trời suốt mười hai tháng. Chẳng có nắng ấm từ tháng giêng tới tháng chạp. Với Pleiku đoan ngọ cũng mưa phùn. Nguyên đán đầy sương mù, và trung thu không trăng sáng. Tôi đã sống quen với bóng tối, mưa đổ và trời thấp đến cái độ ngờ vực Pleiku cũng có những buổi đẹp trời. Dã Thụy nói, Pleiku những ngày mùa hè những ngọn đồi quanh tỉnh đỏ rực bụi hồng mịt mùng, những triền núi xa xanh thẫm cắt vạch lên nền trời chói lọi, và Pleiku những ngày đó có một vẻ đẹp riêng, dữ dội và choáng váng. Những ngày đó, tôi vác giá vẽ ra khỏi tỉnh, Dã Thụy nói. Vào những cánh rừng chung quanh. Leo lên những đỉnh đồi trọc. Dùng toàn một thứ bột đỏ bột nâu, bột vàng để ghi lên mặt vải một Pleiku chan hoà lửa nắng.

    Nhạc thì kể lại cái đẹp bích ngọc óng ánh của những ngày mùa xuân Pleiku. Trời tháng giêng trong vắt. Biển Hồ là một tảng ngọc thạch và hoa rừng nở đầy đặc trong những bờ bụi, khoác cho Pleiku vào xuân một tấm áo nhiều màu. Cái rực rỡ, cái tươi sáng ấy, tôi đã nhìn thấy trong một vài bức họa của Dã Thụy. Và những lời nói của Nhạc không phải là tưởng tượng.

    Chỉ là riêng tôi, tôi không thấy, không nhớ. Chỉ thấy Pleiku xám và tối. Chỉ thấy Pleiku mưa và mù. Như buổi sáng hôm nay.

    Đêm qua Huyền bị lạnh. Con nhỏ mập mạp nước da đỏ thắm. Vậy mà nó không chịu được lạnh. Năm nào, trở mùa gió nó cũng đau. Tôi phải thức dậy nhiều lần. Lấy dầu thoa cho Huyền. Đắp thêm chăn cho nó. Buổi sáng tôi giữ nó ở trong giường, không cho ra cửa hàng. Nhà không có ai ngoài hai chị em từ ngày anh Kiện mất. Tôi dậy sớm rửa mặt bằng nước lạnh rồi ra mở cửa hàng. Sương mù vào tràn đầy. Những thân cây, những bụi cỏ không nhìn thấy rõ. Quay trở vào tôi đã bật đủ sáu ngọn đèn mà quán Nhớ vẫn tối hù. Quán Nhớ tối thật. Sáng tối, chiều tối. Pleiku không chỉ có một quán Nhớ. Thị xã nhỏ, dân nghiền cà phê chỉ có một số nhất định, mà Pleiku có đến hàng trăm quán cà phê. Quán nào cũng tối như quán Nhớ. Pleiku tối thật. Và tối hơn mọi chỗ là cái tối thui kỳ lạ của những quán cà phê. Tôi đốt lửa, đun nước, chế nước sôi vào những bình thủy. Chọn sẵn một số băng nhạc đang dành được sự yêu thích của mọi người. Tôi làm việc, đi lại bình tĩnh trong một số động tác quen thuộc. Tất cả vừa xong thì Nhạc đến. Nhạc lò dò bước vào quán, tôi nghĩ đến Nhạc qua một ý nghĩ ngộ nghĩnh. Khoa là khách hàng thường xuyên nhất, nhưng đến quán sớm nhất phải là Nhạc.

    Tôi đón Nhạc bằng một câu nói đùa:

    - Anh đứng chờ ngoài đường lâu chưa?

    Nhạc ngơ ngác:

    - Chờ hồi nào?

    Tôi bật cười:

    - Chậm hiểu quá. Nói đùa đấy. Thấy anh đến sớm thì hỏi thế. Anh ngủ sớm lắm sao?

    Nhạc thản nhiên ngồi xuống trước một trong bốn bức tranh lập thể của Dã THụy:

    - Cả đêm qua không ngủ.

    - Sao vậy?

    Nhạc nhún vai:

    - Chẳng sao cả. Không ngủ được thế thôi.

    Tôi cau mày:

    - Anh phải quên đi.

    Ngày Ngân đi Nhạc không đến quán hai tuần. Mất tăm vào vùng hư vô xanh đặc của Pleiku. Hôm trở lại quán, tóc Nhạc dài kín tai, râu ria xồm xoàm và Nhạc già đi hàng chục tuổi. Bạn bè an ủi, chỉ nín thinh hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác. Tôi yêu lắm cái thái độ khổ đau âm thầm đó. Giam nhốt sự đau khổ quằn quại trong cái nhà ngục bít bưng tức thở của câm nín không tỏ lộ thành lời. Nhạc cất riêng mối tình thành một khối riêng tư, kiêu hãnh với sự khổ đau của mình, đẩy mình đi thật xa, đến gần như mất hút trong sự cách biệt đó. Những giọt lệ chắc đã nhỏ xuống. Trong đêm. Một mình. Sự che dấu không tỏ lộ không than van cũng là kết tinh của một nghị lực hiếm có. Thứ nghị lực tìm thấy trong tuyệt vọng.

    Nhưng Nhạc dấu mà chẳng dấu được gì. Trái tim Nhạc không nằm trong lồng ngực. Mà ở ngoài. Một trái tim tan nát treo lửng ngoài lồng ngực, ai cũng nhìn thấy. Tôi là người nhìn thấy rõ nhất. Nhạc biết vậy. sự nín thinh của Nhạc với riêng tôi là một tỏ lộ. Một tỏ lộ thân mật và cảm động. Ngân có những lý do riêng của Ngân để đi về một phương trời khác. Đã đành. Chẳng thể trách Ngân vào đâu được. Ai sống cũng có những lý do riêng nhưng mỗi lần, nhìn thấy trái tim Nhạc chảy máu trước lồng ngực Nhạc, tôi ghét Ngân vô tả. Thế nào thì cũng là có tội với nhau. Cái tội đã là nguyên nhân sự đau đớn của kẻ khác. Tôi lớn hơn nữa, vì Ngân đang thảnh thơi sung sướng và Nhạc thì không phải như thế.

    Tôi đinh ninh như mọi lần là sự nín thinh của Nhạc sẽ kéo dài. Cho tới khi Nhạc uống xong ly cà phê, bỏ ra với mù sương bên ngoài, hay chúng tôi nói lảng sang chuyện khác. Lần này không. Nhạc nói nhỏ:

    - Quên, điều đó dễ dàng lắm sao?

    Tôi giật mình. Tôi cũng đang muốn quên, muốn sống như cỏ cây, không trí nhớ.

    Tôi trả lời, biết câu trả lời công thức, không đúng:

    - Nếu anh muốn.

    Nhạc gật:

    - Có thể. Nhưng phải ở một nơi khác.

    - Anh nói thế nào?

    Nhạc bất chợt thốt lên một tiếng cười ngắn:

    - Ngọc hiểu rồi. Đừng bắt tôi trả lời.

    Tôi hiểu thật, không bắt Nhạc trả lời. Pleiku là một cái ngăn trí nhớ đầy ắp. Pleiku không phải là một vùng quên lãng. Những tình cảm đọng lại giữa bốn hướng rừng vây. Những kỷ niệm không bao giờ tan biến được. Một chút gì để nhớ, một chút gì để quên. Đó là một câu trong cái bài hát buồn ấy về Pleiku. Không, không phải, Pleiku chẳng có một chút gì để quên. Mà Pleiku có muôn vàn những cái, những sự để nuôi nấng một nhớ thương dài hạn. Như những nén hương oan khiên cháy đỏ nuôi mãi một hồn ma không cho siêu thoát. Những buổi chiều gợi nhớ. Bằng mưa phùn, bằng gió lọt. Những ban đêm làm nhớ. Bằng thứ im lặng khác thường của núi rừng. Phố Pleiku thấp. Những phố thấp làm trầm niềm nhớ. Phố Pleiku cao. Những phố cao đẩy niềm nhớ lên cao. Mỗi ngọn cỏ đường, mỗi phiến lá Pleiku đều là một tấm gương soi. Gương chi chít cùng khắp. Ngoảnh mặt tới phía nào cũng trong những gương kia, nỗi nhớ hiện hình.

    Tôi đặt tên cho cái quán hàng là quán Nhớ là vì vậy. Quán Nhớ cũng có hàng ngàn tấm gương soi, nơi những giọt cà phê thả xuống một đáy ly. Nơi những ngọn đèn tù mù làm rõ thêm những góc tối. Nơi tiếng gió tiếng mưa trên mái. Nơi những băng nhạc lăn chậm từng vòng. Nơi sự trầm ngâm kéo dài, mái đầu cúi xuống, buổi chiều giăng lưới. Và chẳng phải riêng Nhạc nhớ. Chính tôi còn chưa quên. Pleiku cuối cùng là hình ảnh một lò trầm gây mùi nhớ thương.

    Một lần tới quán, Thập đọc cho tôi nghe mấy câu thơ này:

    Tết đến, người đi lễ rộn đường

    Sao anh không đốt chút trầm hương

    Trầm hương vẫn sẵn nhưng không đốt

    vì sợ trầm gây mùi nhớ thương

    Nhạc đang đốt cho Nhạc một lò trầm. Hương trầm bay tới Suối mơ hay tới Biển Hồ. Càng muốn quên càng nhớ mãi. Người ta không sống mà nhớ. Pleiku chính là một quán Nhớ giữa rừng, mọi ngọn suối của kỷ niệm đều đổ dồn về đó.

    Nhìn Nhạc, nghĩ người bạn gái đã từ ly với Pleiku không bao giờ trở lại, tôi chợt nhớ là tuần rồi Ngân có gửi cho tôi một lá thư. Hỏi thăm tôi và Huyền. Hỏi thăm quán Nhớ. Trong thư Ngân nói đã mang thai sắp có con đầu lòng. Ngân kể chuyện Sài gòn cho tôi nghe. Nói về thời trang của đàn bà thành phố bây giờ là quần ống rộng, gót giầy mười lăm phân và áo dài ngắn trên đầu gối. Lá thư dài năm trang. Nhẩy cóc từ chuyện này sang chuyện khác. Ngân khoe mới mua được một vòng ngọc tuyệt đẹp, sắp có một lô áo dài từ ngoại quốc gởi về.

    - Đã không ngủ được lại dậy sớm. Coi chừng anh lại như Dã Thụy.

    Sự bận tâm dù là rất thành thực của tôi về sức khỏe của Nhạc, xem chừng làm cho Nhạc bực mình hơn là cảm động. Nhạc vẫn thế. Tôi quên mất điều đó. Tôi không thể vơ đũa cả nắm để nói chung cho tất cả đám người trẻ tuổi của Pleiku. Rằng họ gầy và đau. Rằng họ buồn và bệnh. Như thế sẽ không đúng.

    Khoa khỏe mạnh, chủ tiệm bào chế nhưng quanh năm không phải uống một viên thuốc cảm. Vận lực lưỡng, nước da rám nắng hàm răng trắng muốt, tâm hồn và thân thể là cái trái ngược hoàn toàn với bệnh. Nhưng Khoa là một trường hợp đặc biệt. Vận là trường hợp đặc biệt khác. Phần lớn những người khách hàng trẻ tuổi của quán Nhớ đều như Nhạc, như Thập. Họ gầy. Họ xanh. Họ trầm lặng. họ ít nói. Họ có một cuộc sống bên trong u uất. Họ ho khan và họ đau tim.

    Tôi nói chữa:

    - Những người như anh mà đau thì quán Nhớ phải đóng cửa.

    Nhạc, giọng cay đắng:

    - Chưa thì cũng sắp rồi còn gì?

    Tôi ngạc nhiên:

    - Về cái chuyện quán Nhớ đóng cửa?

    - Chứ sao. Lấy chồng, tất nhiên phải đóng cửa quán.

    Tôi chợt hiểu. Đã ba ngày trôi qua nhưng Nhạc vẫn còn hờn giận về cái chuyện tôi ra phi trường đón Khoa không tự tay pha cà phê cho Nhạc. Đau tim. Thất tình. Nhạc như thế. Chưa đủ. Còn hay hờn giận vì những cái bất bình nhỏ nhặt.

    Tôi bật cười:

    - Cả hai chuyện đều chưa.

    - Lấy chồng và đóng cửa hàng?

    Tôi gật:

    - Phải. Cả hai chuyện đó. Còn lâu. Anh cứ đến quán. Cứ uống cà phê. Quán Nhớ còn mãi.

    - Đến bao giờ?

    - Mãi.

    - Làm sao như thế được.

    Tôi thấy Nhạc nói đúng. Làm sao có thể như thế được, mãi mãi. Rồi một ngày cuộc đời tôi cũng phải đối diện với một đổi thay. Chấp nhận sự đổi thay đó. Ngày đó, đám bạn bè lãng mạn và buồn đau của tôi sẽ không còn con Ngọc nữa. Sẽ hết quán Nhớ. Sẽ chẳng còn ai pha một ly cà phê cho thật đúng với cái ý thích khó khăn của Nhạc.

    Tôi nói:

    - Cho là không thể. Đó là chuyện sau này. Hãy biết hôm nay. Hôm nay, tôi sẽ pha cho anh một ly cà phê đặc biệt.

    Nhạc không nói gì. Nhưng nét mặt u uất chừng như có vui hơn. Tôi múc cà phê cho vào phin. Chèn chặt cái nắp lọc. Chế một chút nước sôi vào phin. Chờ cho nước ngấm làm nở cà phê, tôi chế tiếp nước sôi gần sát miệng phin, đậy nắp phin lại.

    Người của quán Nhớ không biết xấu tốt như thế nào. Nhưng cà phê của quán Nhớ là thứ cà phê hảo hạng. Tôi đặt mua ở tận Ban Mê Thuộc, mua thẳng ở một đồn điền dưới đó. Cà phê chưa thả giọt mùi thơm đã cùng khắp. Tôi hỏi Nhạc:

    - Nghe nhạc không?

    Nhạc lắc:

    - Không.

    Tôi cười:

    - Tên Nhạc mà anh không thích Nhạc?

    - Chẳng phải. Nhưng lúc này, nghe nhạc còn sớm quá.

    - Nghe nhạc cũng phải có giờ?

    - Chứ sao.

    - Anh thích nghe nhạc vào lúc nào?

    - Đêm, một mình. Vặn thật nhỏ. Nghe trong bóng tối.

    - Có ai chia xẻ cái thích này với anh không?

    Nhạc gật, ánh mắt mơ màng:

    - Ngân.

    Vô tình, tôi đã lại chạm tới vết thương kín thầm của Nhạc. Một vết thương nung nấu không bao giờ lành. Như cái mưa dầm dề không dứt của một mùa mưa Pleiku liên miên. Tôi nghĩ đến Ngân. Nó đang bắt đầu một ngày với cái nắng chói lọi của Sài gòn. Và hẳn là đã lãng quên từ lâu những trận mưa núi và người tình cũ.

    Cà phê thả xuống từng giọt. Tôi bưng cái phin tới đặt trước mặt Nhạc. Tôi ngồi xuống bên cạnh Nhạc, Nhạc cúi đầu tránh cái nhìn của tôi. Nhạc lại đang nhớ tới Ngân. Nhớ đắm đuối. Nhớ tuyệt vọng. Nhớ bằng sự im lặng bất chợt. Bằng nhìn những giọt cà phê đều đều thả xuống.

    Tôi ôn tồn:

    - Quên đi anh Nhạc.

    Nhạc nhấc cái phin ra khỏi ly. Cho đường. Khuấy đường bằng những vòng khuấy chậm, suy nghĩ. Những ngón tay Nhạc gầy. Những đường gân xanh yếu. Nét mặt Nhạc khép kín.

    Ngân than bị chồng đưa đến hết cuộc tiếp tân này đến dạ hội khác, trưa nào cũng phải đến tiệm làm đầu, chiều nào cũng phải ngồi trước bàn phấn. Ngân cho tôi địa chỉ dặn chừng nào về Sài gòn phải ghé tới chơi. Hỏi thăm hết người này đến người kia. Khoa ra sao, Vận đang làm gì. Nhưng Ngân không dành một dòng chữ để hỏi thăm Nhạc. Ngân quên hay muốn tránh? Đằng nào cũng là tàn nhẫn.

    Tôi nói với Nhạc:

    - Ngân vừa viết thư cho tôi.

    Nhạc chớp mắt:

    - Thật sao?

    Tôi bịa đặt:

    - Nhờ tôi chuyển lời hỏi thăm anh.

    Sự nghi hoặc hằn đọng nơi cái nhếch mép đầy cay đắng. Hơn tôi, hơn bất cứ ai, Nhạc biết Ngân đã quên. Quên hẳn. Ngân đã xa. Xa hẳn. Hơn tôi, hơn bất cứ ai, Nhạc biết Nhạc đã mất Ngân. Mất rồi. Mất hẳn. Con suối đã bỏ cánh rừng. Nhành hoa đã rời triền núi. Trên bãi đậu ướt loáng và hiu quạnh của phi trường Cù Hanh, chiếc máy bay đã cất cánh không bao giờ trở lại. Đối tượng của đợi chờ chỉ còn là hư ảnh. Nhưng người ta bám víu lấy một cái gì để sống. Sự bám víu ấy ở Nhạc muôn đời cũ kỹ. Bám víu lấy cái không còn. Cái không còn ấy mang một cái tên rất đẹp và cũng rất đánh lừa người là kỷ niệm.

    Tuy vậy, Nhạc vẫn hỏi:

    - Ngọc đã trả lời chưa?

    Tôi nói dối thêm:

    - Chưa. Anh muốn nhắn gì không?

    - Cho tôi gởi lời hỏi thăm Ngân.

    Tôi chợt nhớ tới một câu, chẳng hiểu đọc thấy ở đâu, hay chỉ là tôi tưởng tượng ra cũng không chừng. Câu đó, như thế này: "Một tình yêu đích thực là tình yêu không đổi thay dù ta khám phá thấy sự thay đổi ở người ta yêu". Có lẽ tình yêu đích thực là như thế thật. Có lẽ Nhạc đã yêu Ngân như thế. Cho tới khi trái tim đau ngừng đập. Tôi không có can đảm kéo dài sự nói dối thêm nữa. Hỏi Nhạc:

    - Còn ngồi chơi lâu chứ?

    Nhạc gật:

    - Đến trưa. Đến lúc xuống Qui Nhơn.

    - Với ai?

    - Dã Thụy.

    Tôi ngạc nhiên:

    - Dã Thụy về Qui Nhơn? A, lạ lùng đấy nhé ! Tôi lại tưởng anh Thụy không bao giờ chị trở về gia đình.

    - Em gái nó đau. Nhà đánh điện lên. Nó về một vài ngày rồi lại trở lên đây.

    Đứa em gái của Thụy đau khiến tôi nhớ đến Huyền sáng nay phải nghỉ bán hàng. Tôi bỏ Nhạc ngồi một mình vào phòng ngủ. Huyền vẫn nằm trong chăn, nhưng thân thể nó không còn run rẩy lạnh như hồi sớm nữa. Tôi ngồi xuống thành giường. Hai chị em không còn ai. Cuộc đời đè nặng lên bốn bờ vai mảnh dẻ. Tôi đã tính trước nếu có lấy Khoa tôi cũng đưa Huyền cùng đi. Để hai chị em gần nhau, ít nhất cũng cho tới khi Huyền lấy chồng.

    Trong cái đám người trẻ tuổi hàng ngày lui tới quán Nhớ, tôi vẫn đang tìm kiếm cho Huyền một người chồng tương lai. Một người cũng đơn giản, cũng vững vàng như Khoa. Tìm mãi không thấy ai ngoài Vận Đến quán, Vận vẫn trò chuyện vô cùng thân mật với Huyền. Một vài lần đi xa về, không quên mua cho Huyền một quà tặng. Nhưng sự thân mật ở Vận chỉ mới là thế. Hồn nhiên. Đùa nghịch. Lại còn những "nàng tiên nhỏ" ở khắp nơi của Vận nữa. Lại còn cô chiêu đãi nhí nhảnh Vận gặp hôm nào ở phi trường.

    Đứa em gái không nhan sắc của tôi có hy vọng gì không? Câu trả lời là có một hy vọng nhỏ, thật nhỏ.

    Tôi dịu dàng:

    - Đỡ chưa?

    - Đã. Đông khách chưa chị?

    - Mới có anh Nhạc.

    Huyền chống tay toan ngồi lên, tôi hỏi nó:

    - Định dậy làm gì vậy?

    Giọng Huyền mệt nhọc, sau một đêm không ngủ:

    - Ra cửa hàng.

    Tôi gắt, đẩy nó nằm xuống:

    - Đang đau, ra ngoài làm gì. Cứ nằm đó đến trưa đến chiều cũng chẳng sao. Chẳng mở quán thì đừng, đóng luôn cũng được vậy.

    Huyền không giám cưỡng lời tôi. Nó quý tôi như chị còn sợ tôi như mẹ. Từ ngày anh Kiện mất đi, tôi nghiễm nhiên trở thành điểm nương tựa vững chắc nhất của Huyền. Cũng là điểm nương tựa cuối cùng và duy nhất. Hai chị em đôi khi cũng có những lúc gây nhau. Thường thường, lỗi ở tôi. Đó là những lúc tâm thức tôi bất chợt xao xuyến, sự cô đơn đè nặng làm tôi mất bình tĩnh, tôi không biết gây gỗ với ai, nên trút hết sự bực dọc vô lý xuống đầu Huyền. Được cái sự to tiếng chỉ chốc lát. Làm lành rất mau chóng.

    Chừng như Huyền cũng hiểu. Là trong tôi có những lúc bất bình thường và những lúc đó, nó nên hiểu, nên chịu đựng. Nó chép miệng.

    - Nằm hoài, buồn chết.

    Im lặng một lát, nó nói tiếp:

    - Chị Ngọc này?

    - Gì?

    - Em chẳng hiểu nếu không bán hàng chị em mình làm gì cho hết ngày.

    Đúng như thế thật. Quán Nhớ không phải là một nguồn lợi vật chất. Đám khách hàng trẻ tuổi của chúng tôi đều nghèo xác. Nhiều người biên bông đến cuối tháng vẫn không thanh toán được, nợ lưu trữ từ tháng này sang tháng khác. Như Thập. Như Nhạc. Nhiều người khác, có tiền thì trả, không có cũng thôi. Như Dã Thụy. Chúng tôi vẫn mở cửa quán Nhớ đúng như Huyền vừa nói, vì nếu đóng cửa quán thực tình hai chị em không biết làm gì cho hết ngày.

    Tôi đã thử một vài lần xem sao. Chúng tôi hẹn trước với Khoa hay với Vận. Hai chị em nghỉ một buổi chờ họ tới đón. Trên chiếc xe dípcủa Vận chúng tôi đi nhiều vòng trên tất cả những con đường dài, ngắn của Pleiku. Lên phố cao. Xuống phố thấp. Đi về hướng Khôngntum. Ra khỏi thị xã. Đưa theo đồ ăn tới ăn trưa ở Suối Mơ. Mang theo máy hình. Chụp hàng chục tấm ở Biển Hồ. Chụp ở đầu lối đi lên. Biển Hồ hiện ra xanh đặc ở xa xa. Chụp ở cuối lối đi xuống. Biển Hồ sâu trũng thành một vũng nước thăm thẳm. Đi lang thang cùng khắp. Ngừng xe thật nhiều lần. Những cuộc đi chơi đã là kéo dài. Thời gian Pleiku vẫn cứ dài hơn, thừa thãi lê thê, vô tận. Sau mấy lần đi chơi đó, chúng tôi không nghĩ đến chuyện đóng cửa quán nữa, dù chỉ một buổi.

    - Em thấy đỡ thật chưa?

    Huyền hiểu ý tôi. Nó vui mừng:

    - Đỡ thật rồi mà !

    - Muốn dậy thì dậy. Nhưng phải mặc áo ấm vào. Cô đau nặng là khổ tôi đó.

    Huyền ngồi ngay lên:

    - Chị khỏi phải dặn.

    Huyền mặc áo len vào người. Tôi ra mở cửa sổ. Ánh sáng lùa vào, màn sương dần dần tan loãng báo hiệu một buổi trưa ấm áp. Tôi tới xé tờ lịch trên cuốn lịch treo ở đầu giường. Huyền ra khỏi giường. Chiếc áo len làm cho thân hình nó to sù. Nó nhìn cuốn lịch:

    - Ngày mai rồi đó chị.

    Tôi ngơ ngác:

    - Ngày mai là ngày gì?

    - Giỗ anh Kiện.

    Tôi giật mình:

    - Ờ nhì? Em nhắc chị mới nhớ đó.

    Tới ngày mai, Kiện mất được đúng một năm. Ngày mai là giỗ đầu Kiện. Cái chết anh Kiện nhắc tôi nhớ lại những ngày tháng buồn thảm và đen tối nhất. Năm ngoái. Tháng này. Tuần lễ này. Cũng những trận mưa phùn. Những buổi sớm sương mù như thế này. Làm sao tôi có thể quên được. Vậy mà nếu Huyền không nhắc, tôi đã quên. Trí nhớ tê liệt có những lỗ thủng kỳ quặc như thế đó. Hay là tôi phải quên để sống, phải sống để quên? Hay là trong cuộc sống đầy bất trắc này, cái hình ảnh thân yêu nhất rồi một ngày cũng tan biến sau một màn sương dầy đặc?

    Tôi đang nhớ lại đây. Nhớ đến cái đã quên. Đến anh Kiện của hai chị em tôi. Tới ngày tử trận, Kiện ở trong quân ngũ được sáu năm. Đi hết chiến trường này đến chiến trường khác. Đổi hết đơn vị này đến đơn vị khác. Những tiền đồn heo hút. Những địa danh xa lạ. Gần như quanh năm. Tết anh cũng chẳng được nghỉ phép về nhà. Họa hoằn, Kiện mới gửi cho chúng tôi một lá thư. Lá thư cuối cùng báo một tin vui. Kiện được thiên chuyển về một đơn vị gần nhà.

    Thư tới rồi người về. Anh em gặp nhau mừng chảy nước mắt. Kiện được về gần chúng tôi thật. Đơn vị anh đóng quân trên một ngọn núi cách ngọn đồi Chu chừng năm cây số. Chị em tôi vẫn hy vọng Kiện được đổi về Pleiku. Nhưng thôi, Khôngntum cũng được, chỉ cách Pleiku mấy chục cây số đường bộ. Từ ngày được đổi về đơn vị mới, mỗi cuối tuần Kiện về nhà được một lần. Về tối thứ bảy. Sáng thứ hai đi sớm. Nhập ngũ với chiếc nón sắt trên mái tóc ngắn và bộ đồ trận trên cái thân hình nhỏ nhắn. Kiện vẫn hiền lành ít nói như cũ. Khuôn mặt anh rám nắng. Nhưng ánh mắt vẫn trẻ thơ. Tay chân anh cứng cáp. Nhưng điệu dáng vẫn học trò. Về tới quán Nhớ anh không ra khỏi nhà cho tới phút lên đường trở về đơn vị. Anh nằm dài đọc sách. Giúp chị em tôi trong những công việc vặt.

    Chừng như Kiện đã yêu. Đâu như người yêu của anh là một cô giáo trẻ ở Khôngntum. Ấy là tôi nghe đồn thôi. Chứ Kiện tuyệt nhiên không nói.

    Một lần tôi hỏi:

    - Bao giờ anh Kịên lấy vợ?

    Anh nhíu mày:

    - Câu hỏi gì lạ vậy?

    Tôi cười:

    - Nghe đồn anh có người yêu ở Khôngntum.

    Anh chớp mắt, hơi mỉm cười:

    - Lời đồn ít khi đúng với sự thật.

    Tôi làm bộ hờn giận:

    - Anh em mà chuyện gì anh cũng dấu em.

    Anh nghiêm trang:

    - Chẳng phải dấu. Chỉ là chưa có chuyện gì rõ rệt hết.

    Tôi gặng:

    - Anh định lấy vợ chưa?

    - Chờ cô lấy chồng đã.

    Cái lối lảng chuyện của anh Kiện như thế. Tôi sẽ lấy vợ. Nhưng chờ cô lấy chồng đã. Tôi biết lời đồn có thật. Biết anh Kiện đã yêu. Bởi chỉ có tình yêu mới đem lại cho anh những thay đổi như tôi nhìn thấy. Anh ít nói hơn, cách biệt hơn. Trong mắt đôi khi có những bất chợt xa xôi mơ mộng. Đầu óc quần áo cũng chải chuốt hơn trước.

    Tới một chủ nhật nữa. Anh về, ngập ngừng mãi rồi mới nói:

    - Nhờ Ngọc một việc.

    - Việc gì anh?

    - Mua hộ anh một hàng áo.

    Tôi cười:

    - Tặng ai?

    Anh nhăn mặt ngượng ngập:

    - Cấm hỏi lôi thôi.

    Anh đưa tiền. Sau đó tôi đi mua hàng áo cho anh. Mất gần một buổi sáng, tôi mới chọn được một hàng áo vừa sáng vừa trang nhã. Anh Kiện bằng lòng lắm. Khen tôi biết chọn mầu, nói đùa tôi là bạn thân của Dã Thụy là đúng lắm. Rồi sáng thứ hai anh đi. Rồi tin dữ đến với chị em tôi hai ngày sau đó. Anh tử trận trên con đường liên tỉnh Pleiku- Khôngntum, ngang khúc Chu Pao, bấy giờ trên mặt trận Khôngntum vừa khởi diễn, ác liệt rùng rợn.

    Tôi đi đón xác anh Kiện về. Chết, máu anh ướt loang ngực áo, nhưng khuôn mặt anh vẫn hiền lành như khi còn sống. Tôi không khóc. Nghiến răng lại. Lo đám tang cho anh, đưa anh tới nơi yên nghỉ cuối cùng. Bây giờ thì anh Kiện của chúng tôi đã nằm yên dưới một thước đất Pleiku. Chúng tôi mong anh đừng xa nhà mãi. Được về Pleiku sống gần chúng tôi. Mong ước cuối cùng của chị em tôi về một người anh phiêu dạt đã được thực hiện. Bằng cái chết nơi chân đồi Chu Pao của anh Kiện.

    Tôi cúi đầu ngẫm nghĩ. Nghĩ đến cái nón sắt. Nghĩ đến bộ đồ trận. Đến hàng áo lụa tôi mua cho người anh ruột, chẳng hiểu cái áo đó, anh đã kịp tặng người yêu của anh chưa. Tôi chợt hiểu, với tôi tại sao Pleiku mỗi ngày một buồn hơn, tại sao buổi chiều nào của Pleiku cũng là một buổi chiều lộng gió.

    Tôi bỗng cảm thấy mỏi mệt và chán nản lạ thường. Như không còn muốn thấy ai. Như không thiết mó tay vào một việc gì nữa. Đầu óc đang tỉnh táo bất chợt ngây ngất, choáng váng. Tôi đặt mình nằm xuống giường, Huyền lo lắng:

    - Chị sao thế?

    - Tự nhiên thấy mệt. Em trông hàng một mình được không?

    - Được.

    - Ra đi. Cho chị nằm nghỉ một lát.

  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Huyền ra, khép cửa lại. Tôi thở ra một hơi dài buông suôi tay chân, nhắm mắt lại. Đầu óc tối đen trong khoảng khắc. Những tiếng động từ phòng ngoài vọng vào như tới từ một nơi nào thật xa. Bên kia những triền núi. Bên kia những thung lũng. Chập chờn trong đầu tôi là hình ảnh một ngọn đồi. Cỏ cây ở đó đã bị thiêu rụi. Ngọn đồi hiện rõ giữa một vùng rừng núi xanh đặc, như một vết thương lở lói rùng mình. Những thân cây cụt đầu. Những tảng đá lăn lóc không còn một ngọn cỏ, một sinh vật nào còn sống trên ngọn đồi trần trụi đó. Tất cả đã tan tành. Tất cả đều hủy diệt. Anh Kiện đã tới ngọn đồi đó. Đã bỏ mình nơi chân đồi. Ngày mai tôi sẽ bảo Vận đưa xe cho tôi lên cái khúc đường ngang qua ngọn đồi Chu Pao. Xuống xe, dừng chân ở đúng cái chỗ anh Kiện ngã xuống. Phải, ngày mai tôi sẽ tới đó. Nhìn lên những thân cây cụt đầu. Nhìn lên những gốc cây cháy xém. Trong cái ý nghĩ này tôi ngủ thiếp đi.

    Sài Gòn. Ban đêm. Những đường phố dài thẳm. Những ánh đèn lạnh buốt. Một im lặng lung linh, ma quái. Nền trời cao vút, không một giải mây nhưng cũng không có một vì sao nào.

    Tôi bước một mình. Cái bóng dài thênh, đổ về trước mặt. Tiếng chân tôi vang vang, như con phố là một dội đập của trí nhớ, nhân gấp đến nghìn lần. Chung quanh mọi cửa tiệm đều đóng kín. Từng ngôi nhà là từng khối đen tối. Thành phố mênh mông. Thành phố đã ngủ yên. Chỉ còn mình tôi thức với những bước chân lang thang giữa một im lặng lớn và đầy. Tôi đi từ đâu chẳng rõ. Về đâu không hay.

    Chỉ biết tôi đã bước liên miên đều đều mà lại như là tôi vẫn dậm chân một chỗ. Mãi mãi, cảnh trí hai bên đường mới đổi khác. Mặt nhựa dài thẳm, những ánh đèn xanh lạnh không nhìn thấy nữa. Tầm mắt thì tối sầm lại. Tôi đã lạc vào một ngõ hẻm.

    Cái ngõ hẻm lại là một ngõ cụt. Tôi tới cuối ngõ để thấy mình đứng lại dưới một chân tường cao. Nhìn lên, người lạ mặt đứng chênh vênh trên thành tường. Y vẫy tôi lên. Tôi gật đầu, tỏ ý sẽ làm theo điều y muốn. Toàn thân tôi thình lình nhẹ hẫng. Chỉ còn như một tà áo, một vệt khói mỏng. Rất từ từ, tôi cất mình khỏi mặt đất, bay lên. Tôi bay mãi. Qua mây, qua sương mù, bay lên tới đâu vì tường cao dần tới đó. Người lạ mặt vẫn đứng trên thành tường. Y không vẫy gọi nữa, mà đứng lặng, chờ đợi. Cuối cùng tôi bay tới nơi. Người lạ mặt chờ cho tôi tới gần y, thật gần, rồi giơ chân đạp mạnh. Tôi kêu lên một tiếng thất thanh và rớt xuống. Tiếng cười vang động của người đàn ông đuổi theo. Tôi rớt, lộn đầu xuống mặt đất. Mặt đất đẩy tôi dội lên nhiều lần. Tôi nghĩ, mình chết rồi, chết rồi, trong khi tiếng cười của người đàn ông lạ mặt vẫn còn vang động.

    - Chị Ngọc, chị Ngọc !

    Tôi mở choàng mắt. Huyền cúi xuống vừa lay vai tôi vừa gọi lớn. Tôi đẩy tay nó ra nằm thẳng lại. Tôi vừa ra khỏi một cơn mộng dữ. Trong giấc mộng, tôi lại gặp người đàn ông đó, người đàn ông xách áo tơi mưa đứng một mình ngoài phi trường Cù Hanh.

    Vẻ bàng hoàng của tôi làm Huyền kinh ngạc. Nó hỏi:

    - Chị làm sao thế?

    Tôi thở dài:

    - Vừa nằm mơ.

    - Mơ thấy gì mà chị dẫy dụa ú ớ quá vậy.

    Tôi nói, hình ảnh người đàn ông lạ mặt còn rõ ràng trong đầu:

    - Lăng nhăng. Toàn những chuyện không đầu không đuôi.

    Huyền dục:

    - Dậy đi, anh Khoa tới.

    Tôi gắt chẳng muốn gặp Khoa hay bất cứ ai lúc này.

    - Mặc anh ấy ngồi chơi ngoài đó.

    - Anh Khoa bảo vào mời chị ra.

    Tôi gắt lớn hơn:

    - Tao không ra.

    Huyền tần ngần:

    - Anh Khoa tới cùng với cô Thư.

    Tôi ngẩn người:

    - Sao không nói ngay. Ra mời anh Khoa ngồi chơi, nói chị ra ngay.

    Huyền ra. Tôi ngồi lên, nghĩ đến người em gái Khoa lần đầu theo anh tới quán. Thư thua Khoa năm tuổi, kém tôi hai tuổi. Xinh đẹp. Đài các. Kiêu hãnh. Học hết tiểu học Thư được gia đình cho về học ở Sài Gòn, mõi năm chỉ trở về Pleiku vào dịp hè hay trong những ngày Nguyên Đán. Năm ngoái, lần tôi tạm lánh về Sài Gòn, Khoa đề nghị hai chị em tôi đến ở nhà Thư, nhưng tôi từ chối không chịu. Tôi không có ác cảm nào với Thư, nhưng Huyền ghét Thư ra mặt. Thư hợm hĩnh, lên mặt nhà giầu. Thư vừa trở về Pleiku sau khi đã đậu xong bằng dược sĩ.

    Mấy lần tôi đến thăm Khoa ở cửa tiệm bào chế, Thư lánh mặt ở nhà trong không ra. Tôi bảo Khoa đưa Thư đến quán Nhớ. Khoa nói Thư nhút nhát không chịu đi đâu, nhưng tôi biết một quán cà phê là nơi chốn Thư không bao giờ chịu tới. Bây giờ Thư tới đó là một chuyện lạ. Thế này thì cuộc hôn nhân của mình với Khoa được coi như chính thức rồi đây, tôi nghĩ thầm. Không chính thức hẳn nhưng quả là nó đã đi tới một cách khiến tôi khó lòng lùi lại. Ý nghĩ khiến tôi bồn chồn. Tôi đã nhìn thấy cuộc hôn nhân với Khoa. Nhưng mới chỉ muốn nhìn thấy nó ở xa xa. Chưa muốn nó tới gần như Khoa muốn.

    Thư ngồi ở cái bàn giữa nhà trên cái ghế có nhiều ánh sáng nhất. Thư mặc áo nhung đỏ thẫm, quần lụa trắng muốt, một cái sắc tay kim tuyến đặt ngay ngắn trên mặt bàn. Trong khi tôi ngủ, Nhạc không bỏ đi, Thập cũng đã tới. Thêm một vài khách hàng quen thuộc nữa. Tất cả đều nhìn Thư. Mọi người chờ tôi ra.

    Nhìn Thư và nhìn nét mặt nghiêm trang tò mò của mọi người, tôi có ngay với tôi một cảm giác khó chịu. Khoa đưa em gái tới đã phá tan cái không khí thân mật, đơn giản hàng ngày của quán Nhớ.

    Tôi phát một nụ cười tươi tắn, tiến lại:

    - Anh vừa tới?

    Khoa chỉ Thư, hỏi tôi:

    - Ngạc nhiên không?

    Tôi gật:

    - Cũng khá ngạc nhiên.

    Nói tiếp, không dấu được giọng giễu cợt:

    - Rồng đến nhà tôm.

    Khoa kéo ghế cho tôi ngồi đối diện với Thư.

    - Ngọc đừng nói thế. Người thân cả rồi mà.

    Câu nói nào của Khoa cũng có một ngụ ý. Như câu vừa nói. Một ngụ ý vơ vào. Chỗ đứng của Khoa trong tâm hồn tôi còn chập chờn, chưa rõ rệt. Lúc nó ở trong trái tim. Lúc nó ở ngoài. Hình ảnh Khoa chưa khắc sâu. Lúc quên, lúc nhớ. Nhất là, nó chưa xóa mờ được những hình ảnh khác. Khoa thì đã nhìn thấy tôi, thấy hẳn. Như một người vợ. Chuyện chưa tới, với Khoa đã tới lúc Khoa muốn mọi người cùng nhìn thấy như vậy. Đưa Thư đến quán Nhớ chào tôi, rõ ràng là Khoa đã muốn bắt em gái phải nhìn nhận tôi, ngay từ giờ phút này, như một người chị dâu tương lai. Tôi biết mình không phải với Khoa. Làm thế nào được. Trái tim có những lý do, những lẽ phải riêng của nó. Tôi hy vọng tình nghĩa giữa tôi và Khoa mỗi ngày một sâu nặng. Cho đến khi trở thành tình yêu, một tình yêu đích thực.

    Tôi muốn làm mọi chuyện cho KHoa vừa lòng. Thế nhưng, cái thái độ kiêu kỳ của Thư vẫn làm tôi khó chịu.

    - Cô dùng gì? - Tôi hỏi.

    Khoa nhanh miệng:

    - Thư uống cà phê nhé.

    Và quảng cáo không công cho quán Nhớ:

    - Cà phê quán Nhớ đứng đầu Pleiku. Không uống không được.

    Thư nhìn tôi, lững lờ:

    - Quán Nhớ còn đứng đầu những gì nữa?

    Câu hỏi móc máy đầy ác ý. Thư đã có thành kiến không tốt đẹp về chị em tôi, về tất cả những người con gái sống một mình bán quán cà phê. Tôi không gây ra một tai tiếng nào ở cái thành phố yên tĩnh này. Chưa từng. Nhưng nếp sống tự nhiên của tôi làm cho rất nhiều cặp mắt thù ghét. Những lúc ra đường, đi chợ gặp Nhạc, gặp Thập, tôi đi với họ một đoạn đường, cười nói với họ tự nhiên, như một người bạn trai. Đôi khi họ mời tôi vào một quán phở. Tôi vào. Đi coi chiếu bóng, coi cải lương với họ nữa. Chẳng bao giờ Nhạc có tiền. Tôi phải mua vé. Tôi thích được giao du với đám bạn trai trên liên hệ này. Tự nhiên. Bình đẳng. Không đóng kịch, không giả đạo đức.

    Sự tự nhiên của tôi đã gây hiểu lầm và ngộ nhận, với những người đầu óc không phóng khoáng như Thư. Thư đã ở Sài Gòn bao nhiêu năm, học tới cao học. Đầu óc Thư chật hẹp. Đó là điều ở Thư, tôi khó hiểu và thất vọng.

    Tôi ung dung:

    - Nhiều.

    Thư làm bộ ngạc nhiên:

    - Thế ạ? Thế mà em không biết đấy !

    Thư dùng tiếng em một cách thật miễn cưỡng. Không ngờ, chỉ cái việc xưng hô, Thư đã phải cố gắng đến thế.

    Tôi cười:

    - Mà toàn là những cái đứng đầu không tốt đẹp.

    - Chị nói rõ hơn đi.

    Tôi chỉ Khoa:

    - Cô Thư muốn biết, cứ hỏi anh Khoa. Anh Khoa tường tận về cái quán Nhớ này hơn ai hết.

    Mọi người cùng cười. Nhưng tiếng cười thiếu chân thật. Giữa tôi và Thư, cái biên giới ngăn cách vẫn nguyên vẹn. Lại thêm một hình ảnh nữa của Pleiku. Một phố thấp. Một phố cao. Hai con đường như không bắt gặp. Tôi được nghe kể nhiều chuyện về Thư. Rằng dưới cửa phòng người con gái đài các này, rất nhiều trái tim đang mở ngỏ, đang chờ đợi. Rằng Thư treo giá ngọc, khép kín phòng the, mặc cho mùa xuân tới, tường đông ong bướm đi về mặc ai.

    Thư ác cảm với tôi vì một lý do khác nữa. Đó là Thư kiêu hãnh, tôi cũng đáp lại bằng sự kiêu hãnh của mình. Cái việc tôi về Sài gòn hồi năm ngoái, từ chối không chịu đến ở cùng với Thư, Thư cho đó là một khiêu khích. Tự ái Thư bị thương tổn nặng nề. Một người con gái nghèo hèn bán quán, không có quyền kiêu hãnh với một người con gái nhà giàu, xinh đẹp, có học. Hẳn là Thư đã nghĩ như thế.

    Huyền bưng khay cà phê tới. Một im lặng nặng nề kéo dài. Thư chợt hỏi:

    - Hồi này chị có hay về Sài gòn?

    Tôi giật mình:

    - Không. Tôi chỉ về một lần, năm ngoái. Như Thư đã biết.

    Tôi cười:

    - Về nữa thì nguy.

    Thư nhìn thẳng vào mắt tôi:

    - Sao vậy?

    - Chỉ khi nào Pleiku không yên, tôi mới chịu rời khỏi Pleiku.

    - Hồi đó về Sài gòn, chị Ở đâu nhỉ?

    Chuyện đã cũ. Đã năm ngoái. Đã quá khứ. Chuyến đi trong những tiếng súng đạn làm nát nhầu một vùng rừng núi yên tĩnh, giữa đám người chạy giặc và tôi đã muốn quên đi. Nó chẳng ăn nhằm đến ai. Càng không liên quan gì đến Thư. Câu hỏi của Thư thật khó hiểu.

    Tôi đáp, thận trọng:

    - Tôi và Huyền đến một khách sạn.

    - Khách sạn nào?

    Tôi cười, càng thấy phải thận trọng hơn:

    - Lâu quá rồi, làm sao còn nhớ được.

    Thư đủng đỉnh:

    - Em biết. Chị Ở một khách sạn ở đường Trần Hưng Đạo.

    Tôi giật mình một lần nữa. Tôi dấu chưa từng kể cho Khoa nghe một lần nào, một chi tiết nhỏ nào về hai tuần lễ tôi ở Sài gòn. Gặp ai, đi đâu, làm những gì trong khoảng thời gian ấy, tôi giữ cho riêng tôi. Như một bí mật tuyệt đối không bao giờ tỏ lộ. Hay là Thư đã thấy tôi mà tôi không hay. Người con gái này kiêu hãnh còn nguy hiểm, tôi nghĩ thầm. Mình phải đề phòng cẩn thận lắm mới được, tôi nghĩ thầm. Hỏi Thư:

    - Sao Thư biết?

    Thư gật gù:

    - Em biết, thế thôi. Sàigòn có thật nhiều thú vui, thật nhiều chuyện lạ, chị đồng ý?

    Tôi lắc đầu:

    - Chịu. Không trả lời được. Suốt hai tuần ở dưới ấy, hai chị em tôi gần như đóng cửa nằm trong phòng cả ngày. Tôi không biết Thư nói đến những thú vui là những thú vui nào.

    Tôi muốn chuyển hướng câu chuyện. Khoa cũng muốn như vậy. Nhưng Thư thì không. Hai tuần lễ ở Sàigòn của chị được nhắc nhở tiếp:

    - Chị có đi chơi.

    Con nhỏ này quái ác thật. Nó không phải là em gái Khoa, tôi đã rời bàn đứng lên hoặc tìm lời đuổi khéo nó ra khỏi quán Nhớ. Khoa nhìn tôi bằng cái nhìn yêu mê. Hơn. Bằng cặp mắt tôn thờ. Với Khoa hình ảnh tôi thường hằng có một vùng hào quang chói lọi vây bọc. Với Khoa cái tầm thường của tôi cũng là cái khác thường, cái xấu cũng biến thành cái tốt. Thư trái ngược hẳn với anh. Cái nhìn riễu cợt và đầy ngờ vực của Thư cho tôi biết rõ như vậy. Thư đang muốn chứng minh cho anh ruột thấy tôi không cao quý, không tốt đẹp, không hoàn toàn như Khoa tưởng. Tôi không cần. Sống không phải là một hành động chứng minh. Tôi như mọi người. Cũng có cái xấu cũng có cái tốt. Còn thấy mình xấu nhiều hơn tốt là đằng khác. Nhưng Thư muốn chứng minh gì đây. Đó là điều tôi cần biết rõ.

    Đến lượt tôi nhìn thẳng vào mắt Thư:

    - Thư thấy tôi?

    - Vâng. Thấy một buổi tối.

    Khoa ngạc nhiên;

    - Sao thấy không kêu/

    - Không tiện.

    Ngừng một giây rồi Thư nhếch mép cười:

    - Vì lúc đó... em đi với một người khác.

    Chuyện không ăn nhằm gì đến Khoa, xem chừng đã làm cho Khoa bực mình thật sự. Khoa quay lại, hỏi tôi:

    - Sáng nay Ngọc bận lắm không?

    Tôi lắc:

    - Thường. Như mọi ngày.

    - Mình Huyền coi quán được không?

    Tôi cười:

    - Anh hỏi nó.

    Khoa vẫy:

    - Huyền, lại đây anh hỏi.

    Huyền lững thững đi tới. Nó còn trẻ hơn tôi. Nên hồn nhiên, bồng bột hơn. Vui buồn ở Huyền tỏ lộ rõ ràng trên nét mặt. Nó đến đứng trước mặt Thư, nhưng không thèm nhìn Thư, coi Thư có đó cũng như không. Huyền đủng đỉnh:

    - Anh hỏi gì?

    Khoa tươi cười:

    - Cô Huyền hôm nay nghiêm dữ.

    Huyền nhún vai:

    - Lúc nào em cũng vậy. Anh nhiều tưởng tượng quá.

    - Tôi và Thư muốn mời Ngọc đi chơi sáng này. Huyền trông quán một mình nhé.

    Huyền ghét Thư nên trêu Khoa:

    - Sáng nay chị Ngọc không đi đâu được hết.

    Khoa nhăn nhó:

    - Sao vậy?

    Huyền thản nhiên;

    - Em đang đau. Chị Ngọc phải ở nhà với em.

    Khoa nhìn tôi:

    - Huyền đau thật không?

    Tôi gật, không muốn đi với Thư chút nào.

    - Thật.

    Khoa bối rối:

    - Làm thế nào bây giờ?

    Tôi và Huyền đưa mắt nhìn nhau. Cuộc đùa nghịch chấm dứt được rồi. Ghét Thư nhưng cả hai chị em tôi đều không muốn làm Khoa thất vọng, Huyền vênh mặt:

    - Anh muốn chị Ngọc đi với anh?

    Khoa vội vã:

    - Đã đành là muốn.

    - Anh phải nói khó với em.

    Khoa ngẩn người:

    - Hôm nay Huyền có quyền lắm nhỉ?

    Huyền gật:

    - Lúc nào chẳng có quyền. Anh muốn gì chị Ngọc, phải có sự bằng lòng của em mới được.

    - Nghĩa là phải xin phép Huyền.

    Huyền lại gật, dõng dạc:

    - Đúng như vậy.

    Tới đây cả Huyền và tôi cùng bật cười. Biết chúng tôi đùa, Khoa mừng rỡ, cũng lớn tiếng cười theo. Sự vui vẻ của ba chúng tôi không được Thư hưởng ứng. Cặp môi mím chặt cái nhìn tức tối Thư ngồi yên, ngó chúng tôi trừng trừng. Thư chỉ hợp với những nơi chốn khác. Quán Nhớ không phải là nơi lui tới của Thư. Quán chẳng đón chào người. Người tới quán, lạc lõng. Vẫn là một phố cao. Vẫn một phố thấp. Hai con đường không bao giờ gặp nhau.

    Trời bên ngoài sáng hơn. Tôi không nghe thấy tiếng mưa nữa. Có lẽ trận mưa đã ngớt. Đúng lên nói với Khoa:

    - Anh chờ em một lát.

    Khoa theo tôi đi vào nhà trong, Khoa ôm lấy tôi. Tôi để cho Khoa hôn, rồi đẩy nhẹ Khoa ra:

    - Coi chừng.

    Khoa hỏi:

    - Coi chừng gì?

    - Cẩn thận kẻo em gái anh nhìn thấy.

    - Mặc cho nó thấy.

    Tôi cười, sua tay:

    - Đâu có được. Em phải đứng đắn. Cô em gái anh xem chừng đã coi thường cái quán Nhớ này lắm rồi đó.

    Liền với câu nói, một sự tức giận bất chợt xâm chiếm. Đầu óc tôi nóng bừng. Tôi quắc mắt, dằn mạnh từng tiếng:

    - Bận sau, anh đừng đưa cô em gái đài các của anh tới quán hàng này nữa.

    Khoa nắm vội lấy tay tôi:

    - Nó còn trẻ, chưa hiểu gì. Thái độ bề ngoài đó thôi, chứ nó cũng không đến nỗi xấu xa độc ác lắm đâu. Rồi Ngọc sẽ thấy.

    Tôi cười nhạt:

    - Để coi.

    Khoa xoay người tôi cho đối diện với Khoa. Cho hai chúng tôi phải nhìn nhau, giọng Khoa bất chợt thay đổi, nghiêm trọng:

    - Anh yêu Ngọc. Yêu chân thành. Như thế chưa đủ sao?

    Tôi lắc đầu:

    - Chúng mình vẫn còn phải sống với những người khác.

    - Ai chẳng hạn.

    - Thư, Huyền. Đó anh coi, em gái anh đã bằng lòng em đâu.

    - Rồi nó phải bằng lòng.

    Khoa khẩn khoản:

    - Em cũng nên nhẫn nại với nó một chút. Vì anh.

    Tôi chải qua mái tóc. Khoác cái áo len mặc hàng ngày lên người, sửa soạn đi ra. Tôi kéo tay Khoa:

    - Đi anh.

    Khoa ngập ngừng một giây rồi hỏi:

    - Em không đeo chuỗi ngọc?

    Qùa tặng Giáng sinh Khoa mua về từ Sàigòn cho tôi đó. Một chuỗi ngọc ba mươi sáu hạt. Nước ngọc thật đẹp. Mịn màng. Trong suốt. Nhưng, như mọi đồ tặng của Khoa, tôi nhận chuỗi ngọc, nói cám ơn rồi cất đi. Người ta nói một trăm người đàn bà mê nữ trang cả một trăm người. Mê đến bán thân. Mê đến mất ngủ. Tôi là con đàn bà một trăm lẻ một. Con đàn bà quái gở này rửng rưng với ngọc, coi thường kim cương. Chỉ thấy những thứ quý giá và làm đẹp ấy là những cồng kềnh, vướng bận. Qùa tặng thật gần là chuỗi ngọc, tôi đã quên hẳn nó. Nó nằm đâu đó, trong căn phòng này, trong một ngăn kéo tối thẳm. Tôi cười:

    - Không.

    Khoa gặng:

    - Sao vậy?

    Tôi nói chữa:

    - Để một dịp khác, long trọng hơn. Chúng mình chỉ đi chơi loanh quanh rồi về thôi mà.

    Khoa lắc đầu:

    - Không phải là đi chơi loanh quanh. Hôm nay, anh muốn giới thiệu em với một vài người trong gia đình anh.

    À, Khoa đang đốt cháy giai đoạn. Khoa đang muốn kéo tôi đi tới. Chiều Khoa là đám cưới được tổ chức vào tháng tới không chừng Điều tôi ghét thậm tệ là bị xô đẩy. Dù trong cả những sự việc mình yêu thích và muốn thực hiện. Tôi nghiêm mặt:

    - Giới thiệu với ai/

    Khoa cười:

    - Lát nữa sẽ biết.

    Tôi quắt mắt:

    - Anh không nghĩ anh phải nói cho em biết trước, hỏi em có bằng lòng không đã?

    Khoa ngẩn người:

    - Tức là em không bằng lòng?

    Tôi gật, thong thả từng tiếng một:

    - Đúng. Khi nào bằng lòng em sẽ nói.

    Khoa thở dài, không dám nhắc đến chuỗi ngọc, không dám nói đến chuyện giới thiệu tôi với gia đình Khoa nữa. Lần đầu tiên, tôi tỏ rõ cho Khoa biết về sự bướng bỉnh và cái tinh thần độc lập của mình. Thế là làm Khoa buồn. Nhưng thế là hơn. Sau này, khi đã chung sống với nhau, Khoa sẽ còn nhiều dịp phải chịu đựng. Chịu đựng ngay từ bây giờ cho quen dần đi là vừa.

    Chúng tôi đi ra. Khoa đưa xe hơi tới, nhưng chiếc xe được để lại trước cửa quán Nhớ. Tôi ở giữa, hai anh em Khoa hai bên, chúng tôi lững thững đi bộ ra ngoài đường lớn. Sương đã tan hẳn. Những đám mây trắng sốp kéo nhanh trên nền trời. Giữa những đám mây, da trời hiện ra từng phiến xanh biếc. Chưa có nắng. Nhưng chỉ một lát nữa thôi, sẽ có nắng. Sau mấy ngày mưa phùn liên miên, Pleiku trong một đẹp trời bất chợt, tự nó như đã tỏa ra một thứ nắng riêng, làm cho cảnh tượng sáng bừng lên.

    Hai bên đường, những cửa tiệm đã mở cửa. Pleiku ấm dần. Đông dần. Vui dần. Tôi nghe thoáng thấy một tiếng máy bay, phía phi trường Cù Hanh. Phi cơ lên từ Sàigòn đã tới. Đang sửa soạn đáp xuống. Tiếng máy bay mất đi. Chúng tôi đã ra tới đường Hoàng Diệu. Tôi bước từng bước bình tĩnh và quay sang, tôi mỉm cười với Khoa. Sau mấy phút căng thẳng, tôi đã tìm lại được với Khoa bầu không khí chúng tôi vẫn tạo được cho nhau. Bầu không khí đó đem lại cho tôi một cảm giác yên tâm và thư thái. Tới một ngã tư. Mọi người ngừng lại. Khoa hỏi:

    - Đi đâu bây giờ?

    Tôi quay nhìn Thư, hỏi ý kiến. Thư mím môi, nín thinh. Từ lúc rời khỏi quán Nhớ, đã đi chung với tôi một đoạn đường khá dài, Thư vẫn giữ mãi một thái độ cách biệt. Thư nhìn thẳng, toàn thân cứng nhắc, lạnh lùng như một tảng băng.

    - Anh Khoa hỏi chúng mình.

    Thư đành trả lời, vẫn nhìn thẳng:

    - Tùy. Đi đâu cũng được.

    Khoa bấm nhẹ vào cánh tay tôi:

    - Ngọc, có ý kiến gì không?

    Tôi chợt nhớ tới Dã Thụy. Tới túp lều nhỏ trong căn vườn hoang, với những bức họa lăn lóc trong một căn phòng trống trải. Mấy hôm nay, Thụy không tới quán. Chẳng hiểu Thụy có về Qui Nhơn như Nhạc nói hay không. Tôi nghĩ Thụy chỉ nói vậy thôi, chứ chẳng đi đâu hết, vẫn ở túp lều nhỏ. Đến thăm bất ngờ, chắc Thụy mừng lắm.

    - Em muốn đến thăm anh Thụy.

    Khoa hỏi em gái:

    - Thư gặp anh Thụy lần nào chưa nhỉ?

    - Chưa.

    Khoa gật gù:

    - Nên gặp lắm. Ít nhất cũng một lần. Đồng ý với Ngọc là chúng mình đến Dã Thụy. Nhưng đường hơi xa đấy nhé. Hai người ở đây đi, tôi về quán Nhớ lấy xe rồi quay trở lại.

    Khoa lên một chiếc xe lam, trở lại quán Nhớ. Tôi và Thư đứng ngỡ ngàng một phút trên hè đường.

    Bỗng có tiếng gọi lớn:

    - Ngọc, đi đâu đấy?

    Người gọi tôi là Lan. Như tôi, Lan cũng mở một quán cà phê. Khác với quán Nhớ, quán cà phê của Lan khai trương, đóng cửa rồi mở lại không biết bao nhiêu lần. Ngày khai trương Lan gởi giấy mời, tôi và Huyền có tới. Quán của Lan tên là quán Thu Vàng. Một căn phòng khá rộng. Trang hoàng cầu kỳ, mỹ thuật. Hôm khai trương, Lan mời một ban kích động nhạc từ Sàigòn lên. Có mở champagne và khiêu vũ nữa. Nhưng quán Thu Vàng không có khách. Tôi cũng chẳng hiểu tại sao. Mãi sau này, Thập và Nhạc mới cho tôi biết tại sao quán cà phê của Lan phải đóng cửa nhiều lần. Đó là tại vì Lan vắng mặt ở quán thường, phó mặc quán cho mấy chú nhỏ người làm lười biếng. Lan có một người tình ở Sàigòn. Thường bỏ quán về Sàigòn là vì vậy.

    Tôi trả lời:

    - Đứng đây chờ anh Khoa.

    Lan cười:

    - Thấy anh chị từ đằng xa rồi. Du dương và đẹp đôi lắm. Kia là cô em gái anh Khoa phải không? Chờ anh Khoa thì vào đây một lát đã.

    Lúc tôi kéo tay Thư theo Lan vào quán cũng là lúc tôi nhìn thấy người đàn ông.


  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 3
    Cảm giác đầu tiên của tôi là quán Thu Vàng tối thui. Còn tối hơn quán Nhớ. Mọi hình thể đều nhòe nhạt. Tôi không nhìn thấy gì hết. Tôi vấp ngay vào cái ghế sát cửa vào. Cạnh ghế đập mạnh vào ống chân đau nhói. Lan không nhanh tay đỡ kịp tôi đã té lăn trên nền nhà. Tiếng Lan sát gần:

    - Mắt với mũi.

    Tôi nhịn đau, gượng cười:

    - Tối quá đi.

    Lan kêu lớn, kinh ngạc:

    - Sáng choang thế này mà kêu tối. Ngọc làm sao thế?

    Với khung cửa sổ phía trước cũng mở rộng như cửa ăn thông vào trong, với những vì tường vàng tươi và trần nhà trắng toát, quán Thu Vàng sáng thật. Chỉ là tôi choáng váng, hoa mắt, mọi hình thể đã nhòe nhạt cái chung quanh còn quay đảo chóng mặt, tôi phải đứng lại, vịn tay vào một bờ tường. Giây phút tê liệt bàng hoàng buổi sáng hôm nào ở phi trường Cù Hanh lại xâm chiếm tôi, một lần nữa. Cảm thấy hơi thở nghẹn ứ và trái tim đứng ngừng trong lồng ngực. Mãi mãi rồi tôi mới thở được. Tôi thở, thở ra một hơi thật dài. Những hình thể trước mắt sáng dần, tôi nhìn thấy cặp mắt mở lớn của Thư, cái nhíu mày chưa hết kinh ngạc của Lan. Nét mặt tôi hẳn kỳ lạ lắm vì đám khách trong quán đang chuyện trò đều ngừng bặt. Họ nhìn tôi chăm chú.

    Tôi ngồi xuống cái ghế gần nhất, nói chữa:

    - Tự nhiên thấy choáng váng, chắc vừa bị trúng gió.

    Lan săn đón:

    - Trúng gió thật rồi. Mặt tái nhợt đi thế kia. Vào nhà trong nằm nghỉ một lát nhé.

    Tôi nghĩ thật nhanh trong đầu là nên làm theo lời đề nghị của Lan. Ngồi, dù chỉ ngồi thêm một phút, tôi có thể ngất đi. Trái tim không ngừng đập nữa. Nó đập, đập hỗn loạn trong lồng ngực. Sự cần thiết khẩn cấp ở tôi lúc này là đừng để ai thấy rõ thêm nữa, sự bối rối đầy kinh hoảng của mình. Tôi nắm lấy tay Thư:

    - Thư ngồi đây, anh Khoa đến vào cho mình biết.

    Không đợi Thư trả lời, tôi đứng lên, đi theo Lan. Phòng ngủ của Lan diêm dúa, nhưng bừa bãi. Bộ đồ ngủ, cái chăn, cái gối còn ngổn ngang trên mặt đệm. Tôi nằm vật xuống giường, đưa hai tay lên bưng lấy mặt. Tiếng một ngăn kéo mở ra cùng với dầu thơm cay gắt. Lan đến ngồi ghé xuống thành giường. Lan bôi dầu vào hai thái dương tôi. Kéo chăn đắp lên người tôi. Tấm chăn len thật dầy. Dưới chăn thân thể tôi vẫn lạnh buốt. Lan cúi xuống hỏi:

    - Đỡ chưa?

    Tôi gật, hai mắt nhắm nghiền:

    - Đỡ rồi. Ra ngoài bán hàng đi, để mặc mình nằm yên một chút.

    - Khoa đến thì sao?

    - Giữ Khoa ở ngoài ấy, mình sẽ ra.

    Lan đứng lên, lại ngồi xuống, giọng thân mật:

    - Bao giờ đây?

    - Bao giờ cái gì?

    Lan cười:

    - Đừng dấu nữa. Đi chơi với Thư tức là chuyện công khai rồi còn gì. Bao giờ là bao giờ cho uống rượu mừng.

    Tôi đang bận tâm về chuyện khác. Trả lời Lan cho xong:

    - Chưa đâu.

    - Tôi đi phù dâu đấy nhé !

    - Cố nhiên.

    Lan chép miệng:

    - Anh Khoa đứng đắn, hiền lành. Ngọc may mắn hơn mình nhiều.

    Tôi may mắn chưa thấy đâu, nhưng Lan không may mắn thì tôi đã được nghe Nhạc và Thập nói chuyện. Quán Thu Vàng được mở lại vì cuộc tình duyên giữa Lan và cái anh chàng trẻ tuổi nào đó ở Sàigòn đã tan vỡ. Những lần trước, sự tan vỡ chỉ nửa chừng. Nó được hàn gắn lại. Lần này tan vỡ hoàn toàn. Những chuyến đi đi về về Sàigòn của Lan không bao giờ có nữa. Gã con trai Sàigòn đã lấy vợ.

    Lúc khác, tôi đã hỏi chuyện Lan, an ủi Lan. Đời sống tình cảm đầy gió bão của Lan có một khía cạnh nào đó rất tội tình, và khía cạnh này làm tôi xúc động. Mọi người ở đây đều ném cho Lan một cái nhìn chê trách. Lan vấp ngã liên tiếp. Dại trai một cây. Ôm ấp những mộng tưởng, không bao giờ trở thành sự thật, vì mộng tưởng ở quá xa, ngoài tầm tay với. Pleiku nói về Lan như thế.

    Những anh con trai địa phương theo đuổi Lan không được Lan đáp lại, nói về Lan như thế. Tôi nghĩ khác. Lan đã giám sống theo ý muốn của mình. Mỗi lần về Sàigòn là một lần đuổi theo ảo tưởng. Mỗi lần từ Sàigòn trở về, trái tim tan nát lại thêm một lần thương đau. Vậy mà vẫn ra phi trường Cù Hanh. Từ phi trường Cù Hanh trở về thị xã mỗi chuyến đi, Lan đều trả một giá thật đắt. Nhưng đi. Và trả. Chịu lún ngập thêm mãi trong sự lầm lẫn của mình. Tôi biết, cái gã con trai nào đó ở Sàigòn chỉ cần viết một lá thư, gửi một điện tín là Lan lại ra phi trường Cù Hanh tức khắc. Và quán Thu Vàng lại đóng cửa thêm một lần nữa.

    Tôi chép miệng:

    - Đã biết thế nào mà bảo là may mắn hay không may mắn. Chuyện hai đứa, lúc khác chúng mình sẽ nói chuyện.

    Biết tôi muốn nằm một mình, Lan đi ra.

    ° ° °

    Người đàn ông lạ mặt đứng một mình dưới mưa bay ở phi trường Cù Hanh, người đàn ông lạ mặt ấy mà tôi vừa thấy lại trước quán Thu Vàng, sự thật với tôi, không phải là một người lạ mặt. Cũng là tại Khoa. Kỳ cục thật, cái chuyện tôi đổ lỗi cho Khoa. Nhưng sự thật là vậy, không có sự yêu cầu của Khoa, hai chị em tôi đã không về lánh nạn ở Sàigòn. Khoa mua vé máy bay, đặt tôi trước sự đã rồi. Rồi Khoa đưa xe đến tận nhà, đón hai chị em ra phi trường Cù Hanh. Nhớ hôm đó, tôi đã hỏi đùa Khoa:

    - Đẩy em về Sàigòn, anh không sợ mất em sao?

    Khoa ngạc nhiên:

    - Mất bằng cách nào?

    Tôi nhún vai:

    - Em sẽ bị Sàigòn quyến rũ, em sẽ không trở về Pleiku nữa.

    Khoa cười, tiếng cười đầy tin tưởng:

    - Chừng nào trên này yên, em sẽ trở về.

    - Sao anh tin chắc như thế được?

    - Em không phải là Ngân. Đi đâu rồi em cũng trở về Pleiku.

    Tôi cũng tin như thế. Nghĩ như thế. Sống như thế. Có điều là đời sống quái ác thường dành cho người ta những chuyện tình cờ không biết trước và những chuyện tình cờ ghê gớm nhất đã xẩy đến cho đời tôi, trong một chuyến đi.

    Hôm đó, trời thật đẹp. Chúng tôi đóng cửa quán Nhớ, rời Pleiku trong những tiếng đại bác ầm ỳ vọng tới từ phía Khôngntum. Đường ra phi trường đầy đặc những đoàn xe vận tải. Những chiếc xe lớn, bật đèn sáng mở hết tốc lực. Bụi đầy mù mịt. Khói bốc khét lẹt. Xe của Khoa phải ngừng lại trên bờ cỏ nhiều lần, cho những đoàn xe nhà binh đi qua. Trên mỗi chiếc xe, những người lính đội nón sắt, mặc áo đỡ đạn ngồi lầm lì trên hai hàng ghế. Gần tới phi trường tiếng súng cũng gần hơn. Không khí chiến tranh kín trùm trên một Pleiku chuẩn bị đương đầu với những trận tử chiến khốc liệt.

    Chúng tôi phải chờ ở phi trường gần hai tiếng đồng hồ. Một nhân viên hàng không cho Khoa biết ngày mai có thể không có máy bay, ngoại trừ những chuyến bay quân sự.

    Khoa bảo tôi:

    - Ngọc thấy chưa. Tình hình mỗi ngày một khẩn trương. Ngọc về Sàigòn ít lâu là phải lắm.

    Khoa tỏ ý ân hận đã không thể về cùng với chị em tôi vì phải ở lại Pleiku với gia đình và cửa tiệm. Gần trưa, máy bay hạ cánh. mười lăm phút sau, chiếc máy bay ấy cất cánh đưa chị em tôi về Sàigòn. Tôi bàn với Huyền. Chưa tới phi trường Tân Sơn Nhất, hai chị em đã đồng ý với nhau là sẽ đến ở một căn phòng khách sạn. Chúng tôi không có bà con thân thuộc ở Sàigòn. Đến ở chung với Thư thì nhất định là không rồi. Cho đến bây giờ tôi cũng chẳng hiểu tại sao cái việc ở khách sạn lại kích thích tôi mãnh liệt đến thế. Cũng tại Khoa nữa. Theo ý anh, đến một thành phố xa lạ thích nhất là ở khách sạn, Khoa nói, mình không làm phiền ai, mình hoàn toàn tự do. Và thế là chúng tôi đã làm theo Khoa, đã đến ở một căn phòng khách sạn.

    Đó là một toà nhà ba tầng mới xây cất, ở đường Trần Hưng Đạo. Người tài xế taxi đón chị em tôi từ phi trường, đưa thẳng chúng tôi tới đó.

    Tôi hỏi:

    - Khách sạn có tử tế không, ông tài xế?

    Ông ta gật:

    - Hai cô yên tâm. Tôi giới thiệu mà. Tôi đã ở đó một đêm. Tiện nghi và sạch sẽ lắm.

    Đúng như lời người tài xế, khách sạn sạch bóng từ ngoài cửa sạch vào. Tôi ghi tên vào sổ, đi theo một người bồi phòng mặc dồng phục trắng. Y dẫn hai chị em tôi vào thang máy. Chiếc thang máy nhấc bổng chúng tôi lên tới tầng lầu thứ ba. Phòng chúng tôi ở cuối dẫy, nhìn xuống khoảng sân sau của khách sạn. Căn phòng khá rộng, thoáng đãng. Một chiếc giường lớn kê ở chính giữa. Bàn phấn thấp, với tấm gương hình bầu dục ở một góc phòng, một cửa nhỏ ăn thông sang phòng tắm. Người bồi phòng trải đệm giường, chỉ dẫn cho chúng tôi cách thức xử dụng vòi tắm nước nóng, nói hai chị em cần gì cứ bấm vào nút chuông ở đầu giường, rồi đi ra.

    Tôi và Huyền chưa đi đâu xa. Mới ở khách sạn lần đầu. Hai chị em cùng bỡ ngỡ, nhưng là một bỡ ngỡ đầy thích thú. Chúng tôi mở valy, cho quần áo vào tủ. Sau đó, tôi đi tắm trong khi Huyền tỳ tay vào thành cửa sổ, nhìn xuống những người đi lại ở sân sau khách sạn. Tôi nhớ tôi đã nằm thật lâu trong bồn tắm. Đắm mình trong làn nước ấm. Chỉ cần một nửa giờ bay, Pleiku đã xa hẳn. Bên kia những triền núi. Bên kia những cánh rừng.

    Tắm xong thay quần áo, tôi bất chợt bị xâm chiếm bởi một cảm giác mỏi mệt. Huyền nói:

    - Làm gì bây giờ chị?

    Tôi chép miệng:

    - Về đây lánh nạn, sống mấy tuần ăn không ngồi rồi chính tao cũng chưa biết làm gì đây cho hết ngày. Cho mày hoàn toàn tự do muốn đi đâu thì đi.

    Huyền hỏi:

    - Chúng mình ăn ở đâu?

    Tôi nằm xuống giường:

    - Liệu sau. Ăn tiệm hay ăn luôn ở khách sạn cũng được. Tao chưa thấy đói, chỉ thấy mệt, để tao nằm nghỉ đã.

    Huyền:

    - Em đi chơi một chút nhé !

    Tôi gật:

    - Đừng đi đâu xa. Đi đâu cũng coi chừng kẻo lạc.

    Huyền mặc áo đi ra. Tôi nằm, nghĩ xa nghĩ gần rồi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Tỉnh dậy, buổi trưa đã qua, buổi chiều đã tới. Giấc ngủ là một liều thuốc thần diệu. Sự mỏi mệt ở tôi không còn nữa. Huyền chưa về. Tôi mặc áo dài, đi xuống tầng dưới. Người quản lý vẫn ngồi ở chỗ cũ, sau một cái quầy hình móng ngựa. Tôi đến nói chuyện với ông ta. Chừng bốn mươi tuổi, khổ người gầy guộc, ông ta tiếp chuyện tôi thân mật, niềm nở. Ông ta nói khách sạn có một tiệm ăn ở tầng lầu trên cùng. Tiệm mở cửa tới khuya, buổi tối có âm nhạc.

    Người quản lý hỏi:

    - Thế ra cô mới về từ Pleiku?

    - Vâng. Xuống tới phi trường, một ông tài xế taxi đưa thẳng chúng tôi về đây.

    Người quản lý nói ông ta có nhiều bà con quyến thuộc ở Pleiku. Năm ngoái, ông ta có lên Pleiku chơi mấy ngày, được người em gái lấy chồng ở trên ấy đưa đi thăm viếng thắng cảnh Biển hồ. Ông ta đến Pleiku vào những ngày mưa gió buốt lạnh nhất, lại không mang theo quần áo ấm, đêm nằm rét run không tài nào ngủ được. Từ cái lạnh miền cao và những đêm không ngủ, chuyện thời tiết chuyển sang chuyện thời thế. Tôi kể cho người quản lý nghe về bộ mặt Pleiku trước đe dọa của mặt trận tới gần. Về những quán hàng phải tạm thời đóng cửa, trong số có quán Nhớ. Về những người con gái Pleiku phải rời những bóng núi, xa những ngọn đồi vế lánh nạn ở Sàigòn, trong đó có chị em tôi.

    Người quản lý:

    - Cô tính ở đây bao nhiêu lâu?

    Tôi nhún vai:

    - Tới chùng nào yên yên.

    - Cô buồn, tối lên lầu trên nghe nhạc. Chúng tôi mới có một ban nhạc ngoại quốc Phi Luật Tân. Họ trình diễn nhiều màn đặc sắc lắm. Có cả khiêu vũ nữa. Cô biết nhẩy không?

    Tôi cười, lắc đầu. Đời sống Pleiku của tôi chừng mực, hiền lành, thu gọn trong mấy cuốn tiểu thuyết, mấy băng nhạc, những giấc ngủ trong tiếng mưa rơi trên mái rì rào. Đôi khi, một buổi sáng chủ nhật đẹp trời, tôi tới ngồi mơ mộng trên bờ Biển Hồ. Rồi về. Đi chơi lang thang trên những con đường đồi quanh tỉnh. Rồi về. Thế giới tôi thu nhỏ, khuất lánh, là cái hình ảnh của một lũng hẹp nằm giữa hai triền núi cao. Cái thế giới đó chưa từng có cho nó những phá vỡ, những gió bão. Tôi cũng không muốn cho tôi như thế. Không muốn những phá vỡ, những gió bão. Và cái bến đậu sau này của đời tôi cũng sẽ là một bến đậu bình yên và quen thuộc. Đó là Khoa. Phải, sẽ chỉ là Khoa mà thôi.

    Câu chuyện ở đầu quầy với người quản ly ngừng lại sau đó. Huyền về. Và tôi nhìn thấy người đàn ông. Từ ngoài đường y bước vào khách sạn cùng với Huyền và cúi đầu đi nhanh về phía cầu thang. Người quản lý gọi lớn:

    - Ông Đạo !

    Người đàn ông đứng lại. Người quản lý lấy ở quầy ra một cái phong bì, vẫy người đàn ông:

    - Ông có thư.

    Người đàn ông từ từ đi lại đón lấy phong thư, không nhìn là thư của ai, chỉ lẳng lặng đút cái phong bì vào túi quần. Tôi chưa từng thấy ai nhận một lá thư gửi cho mình một cách thờ ơ và dửng dưng đến như thế. Người đàn ông cao và gầy. Hai tay dài thòng. Nét mặt khép kín. Toàn thân y, từ cặp mắt sâu đến mái tóc dài, toát ra một vẻ buồn bã chán chường đặc biệt. Tôi đã thấy nhiều người đàn ông buồn. Tất cả những người bạn trai của tôi ở Pleiku đều là những người đàn ông buồn. Nhạc không cười, đăm chiêu hàng giờ trước tách cà phê nguội lạnh. Thập u uất. Dã Thụy bơ vơ, lạc lõng. Ai cũng buồn. Nhưng người đàn ông này có một vẻ buồn thật lạ lùng, không giống với cái buồn của bất cứ một ai. Y quay gót. Người quản lý lại gọi một lần nữa:

    - Ông không lấy chìa khóa phòng?

    Người đàn ông nhếch mép:

    - Tôi quên.

    Miếng thẻ có chữ số treo cùng với chiếc chìa khóa y nhận ở tay người quản lý cho tôi biết người đàn ông ở cùng một tầng lầu với hai chị em tôi. Ba chúng tôi rời quầy lên thang. Người đàn ông đi trước, đầu vẫn cúi xuống như đang đắm chìm trong một suy nghĩ miên man chưa dứt. Lên tới hành lang, y dừng lại trước căn phòng đối diện với phòng tôi, mở khóa, đẩy cửa bước vào và đóng sập cửa lại. Thái độ của người đàn ông lạ mặt lúc đó có làm cho tự ái người con gái Pleiku ở tôi bị thương tổn nặng nề. Ai cũng khen tôi xinh đẹp. Ai cũng nói tôi có một mái tóc óng mượt, một khuôn mặt quyến rũ. Tôi ra đường, tất cả những chàng trai, những người đàn ông Pleiku đều quay lại nhìn. Vậy mà từ lúc đối diện ở quầy khách sạn cho tới lúc y vào phòng, người đàn ông không thèm ngó tôi, dù chỉ một lần.

    Vậy mà chuyện đã xẩy ra. Lạ lùng và kỳ dị thật. Vậy mà Đạo đã trở thành người đàn ông thứ nhất của đời tôi. Có thể ngờ và có thể tin được không? Tôi và Đạo gặp lại nhau, lần thứ nhì, ngay buổi tối hôm đó. Ăn cơm xong, không biết làm gì, tôi chợt nghe thấy tiếng âm nhạc từ một tầng cao trên đầu vọng xuống. Cả hai chị em cùng chưa buồn ngủ. Buổi tối Sàigòn chỉ mới bắt đầu, với những tiếng động của xe cộ từ những lòng đường phía dưới bay lên và những khung cửa sổ sáng đèn mở rộng khắp bốn phía.

    Tôi hỏi Huyền:

    - Muốn nghe nhạc không?

    Huyền mừng rõ:

    - Ở đâu?

    Tôi chỉ tay lên trần:

    - Trên tầng lầu cao nhất.

    Đúng như lời người quản lý, phòng trà của khách sạn nằm ở tầng lầu trên cùng, một nửa lộ thiên, một nửa có mái che. Thang máy đưa chúng tôi lên. Thoạt đầu, tôi không nhìn thấy Đạo. Một người bồi bàn đón hai chị em từ ngoài cửa, dẫn tôi và Huyền tới một bàn gần dàn nhạc. Sàn nhẩy ở chính giữa. Tôi ngồi xuống, gọi đồ uống, nghe hết một bản nhạc mới nhìn thấy người đàn ông ở đối diện với phòng mình. Đạo ngồi sau một bàn bên kia sàn nhẩy, trước một ly rượu mạnh. Lần này, Đạo nhìn tôi đăm đăm. Ly rượu được uống cạn mau chóng. Đạo vẫy tay gọi bồi đưa tới một ly rượu khác. Đạo vừa uống rượu vừa hút thuốc lá. Hút cũng nhiều như uống, liên miên hết điếu này đến điếu khác. Và Đạo nhìn sang tôi, nhìn yên lặng, bằng một cái nhìn dài.

    Cảm giác đầu tiên của tôi là một cảm giác khó chịu. Tự ái hồi chiều của tôi đã bị thương tổn. Lần này nó lại tổn thương, bằng một cách khác. Chưa từng một người đàn ông nào lại nhìn tôi sỗ sàng và trắng trợn đến như vậy. Đến tiếp sau cái cảm giác khó chịu là một cảm giác nhột nhạt. Như chính da thịt tôi đã bị cái nhìn đụng tới và làm cho nổi gai lên. Huyền cũng phát giác thấy sự có mặt của người đàn ông. Và cái sự y đang lặng lẽ nhìn tôi. Huyền ghé vào tai tôi thì thầm:

    - Thấy thằng cha trước cửa phòng mình chưa?

    Tôi gật. Huyền cau mặt:

    - Đáng ghét lạ.

    Tôi hỏi:

    - Sao vậy?

    - Chị không thấy y đang nhìn chúng mình sao?

    Tôi đập nhẹ vào tay Huyền:

    - Mặc y. Đừng để ý tới y là được.

    Tôi ngồi quay người lại, chăm chú nghe nhạc. Huyền cũng quên đi không để ý tới người đàn ông nữa. Khoảng mười một giờ đêm chúng tôi rời phòng trà, trở về phòng. Tôi còn nhớ đêm hôm đó, đêm Sài gòn thứ nhất của đời tôi là một đêm rất nồng nực. Khách sạn có nhiều phòng gắn máy lạnh, nhưng gía quá đắt, tôi không mang theo nhiều tiền nên không dám mướn. Phòng chúng tôi chỉ có quạt trần. Thay bộ đồ ngủ nằm xuống mặt đệm, đón hơi gió từ chiếc quạt xoay tròn ném xuống, tôi thấy hơi gió nào cũng chỉ làm cho bầu không khí đã nóng nực càng nóng nực thêm. Có thể là đêm Sàigòn, không nóng đến thế, mà chỉ là tôi đã quen quá với những đêm Pleiku lạnh phải có một tấm chăn phủ kín lên người. Trằn trọc mãi tôi vẫn không ngủ được. Bên cạnh, Huyền đã ngủ, hơi thở đều hòa. Cuối cùng, tôi ngồi lên, mở cửa phòng, đi ra hành lang.

    Cửa phòng người đàn ông mở rộng. Y đứng giữa khung cửa, ánh sáng từ phía sau lưng y ném cái bóng y đổ dài trên hành lang. Y vẫn mặc nguyên bộ quần áo tôi đã nhìn thấy, buổi tối, trên phòng trà. Người đàn ông không tỏ vẻ ngạc nhiên một chút nào. Hình như không một cái gì còn có thể làm y ngạc nhiên, kể cả cái trường hợp một người con gái tỉnh nhỏ về Sài gòn,, đến ở một căn phòng khách sạn. Hành lang lúc đó vắng ngắt. Những căn buồng khác đều đã đóng kín, mọi người đã ngủ yên. Tôi lúng túng không biết nên có một thái độ nào. Cái nhìn của người đàn ông thì vẫn là cái nhìn ban nãy, trên phòng trà. Đăm đăm, dữ tợn và bất động. Toàn thân tôi nóng ran. Phút đó, tôi mới nhận thấy là mình đã mặc một bộ đồ ngủ quá mỏng. Để tránh khỏi cái nhìn như đang khám phá từng phần thân thể mình, tôi bặm môi đi nhanh ra phía đầu hành lang. Phía đó là phía nhìn xuống con đường lớn chạy qua trước mặt tiền khách sạn.

    Tôi đứng tỳ tay vào lan can nhìn xuống đường với hy vọng là người đàn ông trở vào phòng y và đóng cửa lại. Nhưng không phải thế. Tôi nghe thấy tiếng chân ở sau lưng. Tiếng chân đến gần, thong thả từng bước, vang lên trong yên lặng. Người đàn ông đi theo tôi, đi theo một cách cực kỳ ung dung và bình tĩnh. Rồi tôi thấy y đứng ở bên cạnh tôi, thật gần.

    Thái độ của người đàn ông đêm đó đã lạ lùng, đêm đó phản ứng của tôi còn lạ lùng hơn nữa. Tôi chỉ việc bỏ chỗ mình đang đứng, trở về phòng, tắt đèn đi ngủ là xong. Hoặc là khi người đàn ông cất tiếng hỏi chuyện tôi chỉ cần quắc mắt cự tuyệt. Nhưng y hỏi.. và tôi đã trả lời. Và chuyện không thể xẩy ra giữa một người con gái với một người đàn ông lạ mặt đã xẩy ra.

    Lan đẩy cửa phòng bước vào.

    - Khoa tới rồi đó.

    Chuyện cũ nhớ lại làm cho đầu óc tôi mệt lả váng vất. Thấy là mình vừa chảy nước mắt. Cũng may, căn phòng tối mờ Lan không nhìn thấy gì hết. Tôi gắng gượng ngồi lên. Lan hỏi:

    - Dễ chịu chưa?

    Tôi thở ra một hơi dài, lắc đầu, bước xuống khỏi giường. Trời chẳng nóng nực gì mà mồ hôi đã lấm tấm ở những chân tóc. Ở Sàigòn trở về, hòa nhập trở lại với bầu không khí quen thuộc và trầm lặng của Pleiku tôi đã tưởng là tôi đã quên được. Quên được những đêm khách sạn ấy, quên được hai tuần lễ ở Sài gòn, mê hoảng như một cơn ác mộng. Bây giờ, tôi mới biết mình lầm. Cơn ác mộng vẫn ở trong tôi, phủ trùm trí nhớ, đầy ắp kỷ niệm. Tôi càng cố quên, nó càng hiện hữa. Mỗi lần tôi muốn nhận chìm nó xuống, là một lần nó ngòi bồng lên, như không phải là từ năm ngoái, mà mới đêm qua, mới buổi sáng nay. Thì ra cơn ác mộng đã đi theo tôi trên đường về. Nó ra tới phi trường Tân Sơn Nhất cùng với tôi. Lên cùng một chuyến máy bay. Và khi tôi đáp xuống phi trường Cù Hanh thì nó cũng đáp xuống theo. Và khi tôi về tới quán Nhớ, nó cũng về cùng một lượt. Sự khám phá thật hãi hùng. Bây giờ. Đạo lại có mặt ở thị xã này. Tôi đinh ninh Đạo chỉ đi qua. Không ngờ Đạo đã ở lại. Cặp mắt ấy nhìn tôi, cũng đăm đăm không chớp như đêm nào, trên một hành lang khách sạn. Chúng tôi không bao giờ nên nhìn mặt nhau nữa mới phải. Tôi đã điên cuồng, đã dại dột một lần. Một lần là quá đủ, Đạo muốn gì nữa?

    Theo Lan đi ra ngoài tôi đã mất hết tự nhiên. Có cảm tưởng thân thể mình là một khối thủy tinh trong suốt, những ý tưởng thầm kín nhất phơi bày, toàn vẹn không che dấu. Khoa nhìn tôi, nét mặt ngơ ngác:

    - Em làm sao thế?

    Lan nhanh nhẩu:

    - Trúng gió. Em vừa phải lấy dầu xoa cho đấy. Anh Khoa không cám ơn sao?

    Khoa cười, nhìn Lan:

    - Cám ơn Lan.

    Mọi cặp mắt đều đổ dồn vào tôi. Khoa hỏi:

    - Đến Dã Thụy hay thôi?

    Tôi lắc đầu:

    - Để khi khác. Anh làm ơn cho em về.

    - Thì hãy ngồi một lát cho tỉnh táo hẳn đã.

    Mỗi người nói với tôi một câu, ai cũng tỏ vẻ ân cần săn sóc. Riêng Thư nín thinh không nói một lời nào. Không có bằng chứng rõ rệt nhưng tôi biết Thư đã nghi ngờ. Tôi ngồi tựa lưng vào tường, với câu hỏi hoang mang trong đầu óc là Đạo còn đứng ở ngoài đường hay Đạo đã bỏ đi. Lan pha một tách trà nóng, đưa tới. Tôi bưng ly trà, im lặng uống từng hớp nhỏ. Đời sống không còn bình thường được nữa, tôi đau đớn nhủ thầm. Hay là nói hết cho Khoa biết? Câu trả lời đến ngay với tôi là không thể được, thôi để đó rồi liệu. Sớm muộn rồi tôi cũng phải tìm được cho mình một lối thoát. Điều cần thiết là tôi phải nhìn lại tôi rõ hơn. Xem mình như thế nào. Xem mình muốn gì.

    Uống hết tách trà, tôi ra hiệu cho Khoa đứng lên. Nói với Lan:

    - Lúc nào rảnh, đến chơi nhé !

    Lan cười:

    - Lúc nào cũng rảnh. Không chừng chiều đến đó.

    Lan tươi như hoa. Nhìn Lan, tôi thèm muốn được như Lan. Qua bao nhiêu cuộc tình tan vỡ, sau đau buồn ở Lan, chỉ chốc lát. Lan quên mau một người đàn ông này để đến với một người đàn ông khác, cũng dễ dàng tự nhiên như đến với người đàn ông trước, tình yêu với Lan là một đam mê, đồng thời cũng chỉ là một trò đùa.

    Chúng tôi cùng chào Lan, đi ra. Tôi nghe thấy nhịp tim mình đật thật mạnh trong lồng ngực. Nếu Đạo còn đứng chờ ở ngoài, tôi sẽ phải có với Đạo một thái độ như thế nào? Chẳng lẽ cứ lờ nhau đi mãi. Tôi thở ra nhẹ nhõm. Tôi không nhìn thấy Đạo nữa. Đạo đã bỏ đi. Đạo đã biến mất.

    Khoa và Thư đã về rồi. Lúc này là buổi trưa. Quán Nhớ đóng cửa đến ba giờ mới mở lại. Huyền dọn cơm lên mặt quầy. Hai chị em cùng yên lặng ăn. Một lát. Rồi Huyền nhìn tôi hỏi:

    - Có chuyện gì vậy?

    Tôi giật mình:

    - Chuyện gì là chuyện gì?

    - Mấy hôm nay, em thấy chị khác lắm. Như người mất hồn.

    Tôi tránh cái nhìn của Huyền.

    - Tao đang nhiều chuyện bực mình. Ăn đi, đừng hỏi lôi thôi nữa.

    Huyền không chịu thôi:

    - Vì anh Khoa?

    Tôi gắt:

    - Anh Khoa có làm gì đâu mà mày nói động tới anh ấy.

    - Không phải anh Khoa thì em gái anh KHoa vậy.

    - Cũng không phải. Đừng đoán bậy.

    Tôi không át giọng Huyền. Nó đoán bậy thật. Những cái nghĩ, những cái tưởng của nó ở cách xa sự thật hàng ngàn cây số. Mới cách đây mấy ngày, Khoa, Thư, Vận còn là những có mặt rực rỡ. Thình lình họ chỉ còn là những bóng hình mờ nhạt. Một hình ảnh khác đã tới đẩy hết thẩy mọi hình ảnh khác sang những đường lề xa tắp. Không gian tôi đang sống là Pleiku. Nhưng chiếm đoạt thần phách tôi, làm rối loạn tâm trí tôi là thứ thời gian quá khứ đó, cái khoảng thời gian năm ngoái ở SàiGòn. Từng chi tiết sống lại. Từng sự việc trở về. Tôi đắn đo rồi hỏi:

    - Huyền còn nhớ hồi năm ngoái của chúng mình ở Sàigòn?

    Huyền nhai cơm ngon lành, gật:

    - Sao không nhớ.

    Nó cười:

    - Chị Ở khách sạn cả ngày. Em thì đi chơi cùng khắp. Em biết Sàigòn hơn chị là cái chắc.

    Tôi gượng cười theo:

    - Mày đi chơi ghê thật. Đi những đâu vậy?

    Huyền nhứn vai:

    - Lung tung. Lên Phú Nhuận vào Chợ Lớn. Cái hôm em không về ăn cơm, chị mắng mãi, biết em đi đâu không? Sang Khánh Hội đó.

    Tôi trợn mắt:

    - Mày không sợ lạc?

    Huyền rụt cổ cười thành tiếng:

    - Lạc rồi chứ còn sợ gì nữa.

    - Vậy mà mày dấu không cho tao biết.

    Huyền điềm nhiên khoe:

    - Lạc gần một buổi đó. Em sợ hết hồn. Đã muốn phát khóc. May gặp được một người cảnh sát chỉ cho cách về.

    Huyền đi chơi tối ngày, cũng là một điều không may cho tôi, trong hai tuần lễ đó. Nó ở luôn bên cạnh, tôi phải giữ gìn, chưa chắc chuyện đáng tiếc, chuyện ân hận một đời đã xẩy ra. Điều làm tôi băn khoăn là Huyền đã gặp Đạo, thấy Đạo, ít nhất cũng một lần.

    Tôi hỏi:

    - Huyền còn nhớ cái thằng cha ở đối diện với phòng mình?

    Huyền gật, khiến tôi giật mình:

    - Nhớ.

    Tôi gặng:

    - Nhớ như thế nào, nói tao coi.

    - Cái thằng cha nhìn chúng mình suốt buổi tối trên phòng trà chứ gì?

    - Đúng vậy.

    - Một thằng cha khả ố. Nếu em nhớ không lầm.

    - Bây giờ gặp lại mày nhận được ra y không?

    Huyền cau mày:

    - Bỗng dưng chị hỏi đến cái thằng cha mắc dịch ấy làm gì vậy?

    Tôi làm bộ ung dung:

    - Thử xem trí nhớ mày tốt hay xấu.

    Huyền nghiêng đầu, ngẫm nghĩ:

    - Lâu quá rồi, làm sao nhận ra được. Nhưng không chừng em nhận ra được cũng nên. Sao?

    - Không. Hỏi thế thôi.

    Tôi lảng nhanh sang chuyện khác. Bữa cơm được dọn đi. Huyền lui vào phòng trong. Tôi ngồi lại một mình với căn phòng ngoài lặng lẽ. Thường thường, sau bữa cơm tôi phải nằm một chút. Chợp mắt đi hay nghĩ ngợi cho đến giờ mở cửa hàng. Trưa nay, tôi biết giấc ngủ không đến với mình. Cũng không muốn nằm. Tôi nhớ đến mấy buổi trưa Sàigòn, tôi đã đi chơi với Đạo.

    Hai chúng tôi đã hẹn nhau từ hồi tối hôm trước. Chờ cho Huyền ngủ say, tôi mở cửa phòng đi ra. Đạo chờ tôi ở dưới đường, cách khách sạn một quãng. Chúng tôi lên một chiếc taxi, và chiếc taxi đã đưa chúng tôi đến những khu vực khác của thành phố, thật xa khách sạn. Một buổi tối Đạo đưa tôi ra tận vùng ngoại ô. Tôi không nhớ tên, chỉ nhớ vùng đó có một giòng sông nhỏ và một cây cầu gỗ. Phía bên kia cây cầu là những bãi cỏ chạy dài và mất hút dưới những bóng cây um tùm, tôi đã nằm trên một trong những bãi cỏ ấy, dưới một trong những bóng lá ấy, với Đạo. Những cái hôn của Đạo kéo dài, tôi nhắm nghiền mắt, mê mẩn, trời đất, chung quanh hết thẩy đều tan biến.

    Một buổi trưa khác, Đạo đưa tôi lên một khách sạn tồi tàn trong khu Chợ Lớn. Cái cầu thang đi lên ngập ngụa rát rưởi. Căn buồng ẩm thấp, bẩn thỉu. Vậy mà tôi đã đi theo Đạo, như Đạo muốn dẫn tôi tới chân trời góc biển nào tôi cũng đi theo. Như bên cạnh Đạo, mọi cưỡng chống ở tôi đã bị hủy diệt. Bây giờ, chỉ mới nhớ thoáng lại, đã thấy ngượng thẹn đến nóng bừng mặt mũi. Tại sao lại như thế? Câu trả lời là trong tôi, có một con người khác. Cái con người thứ hai ấy ngủ kỹ với Pleiku, đã thức dậy lần đó, chuyến đi đó, với Sàigòn.

    Tiếng Huyền từ phòng trong vọng ra:

    - Chị không ngủ trưa?

    Tôi đứng lên, nói lớn:

    - Không.

    Những bước chân thẫn thờ đưa dẫn tôi tới gần cửa ra vào. Khung cửa có nhiều kẽ hở. Tôi đứng lại trước một kẽ hở nhìn ra đường. Sự kinh ngạc làm tôi suýt buột miệng kêu lớn. Một người đàn ông đứng ở hè đường bên kia, nhìn sang quán Nhớ. Người đàn ông đó là Đạo.

    Thì ra Đạo đã đi theo tôi mà tôi không hay. Đạo đút hai tay vào túi quần, miệng ngậm một điếu thuốc lá. Cặp mắt tôi mở lớn. Tôi nhìn qua khe cửa, không chớp mắt. Hệt như ở phi trường, hệt như ở quán Thu Vàng, tôi lại bối rối đến cực điểm. Tôi đang muốn dấu tất cả mọi người, đang muốn chạy trốn một sự thật. Cái sự thật đó lại đang theo sát, tôi có cảm tưởng hãi hùng như mình không còn trốn chạy vào đâu được nữa.

    Sự kinh hoàng của tôi gia tăng. Qua khe cửa, tôi nhìn thấy Đạo ném mẩu thuốc lá xuống chân rồi cất bước đi sang. Tôi lùi vội lại một bước, ẩn mình vào một góc tối. Tim tôi như ngừng đập. Tôi không nhìn thấy Đạo nữa. nhưng đã nghe thấy tiếng chân tiến lại thật gần. Tiếng chân ngừng lại. Bây giờ thì người đàn ông và tôi chỉ còn cách nhau bằng cái khoảng cách ngắn ngủi của một cánh cửa.

    Một tiếng gõ cửa nổi lên. Tôi nín thở đứng yên. Hai chân tôi như chôn xuống đất toàn thân bàng hoàng, tê liệt. Tiếng gõ cửa lại nổi lên. Rồi thôi. Tiếng chân xa dần. Đạo bỏ đi.

    Phải đến năm phút, tôi mới thở ra được, mới cử động được. Tôi vào nhà trong nằm vật xuống bên cạnh Huyền. Nó hỏi, giọng ngái ngủ:

    - Ai đó, chị?

    Tôi nói dối:

    - Làm gì có ai?

    - Rõ ràng em vừa nghe thấy tiếng gõ cửa.

    - Mày ngủ mê thì có.

    Huyền trở mình ngủ tiếp. Tôi nằm thẳng, nghĩ cuộc lánh mặt của mình không thể kéo dài thêm được nữa. Sớm muộn rồi Đạo cũng trở lại. Tôi cần tìm gặp Đạo trước. Để ngăn cản, không để cho người đàn ông này tới quán Nhớ.


  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 4
    Chiều Pleiku xuống mau, như buổi trưa chưa qua, hoàng hôn đã chờ rinh dưới những đáy lũng, trên những đỉnh núi. Chiều Pleiku đến từ nhiều phía. Chiều thả xuống từ đồi cao, cái lưới chiều mênh mông tím thẫm. Chiều dâng lên từ mặt đất, trong sương lam, trên những ngọn cỏ buồn rầu. Rồi bóng tối và những ngọn đèn vàng vọt được thắp sáng. Gió thổi thật mạnh. Quán Nhớ rung rẩy giữa những bìa tường lạnh buốt. Tôi không muốn đi đâu lúc này. Nhưng tôi biết cái việc tìm gặp Đạo không thể đình hoãn được. Thấy tôi mặc quần áo, Huyền kêu lớn:

    - Đang mưa, chị đi đâu vậy?

    Tôi ngẩn ngơ:

    - Mưa thật sao?

    Huyền dậm chân:

    - Mấy hôm nay, chị như người mất hồn. Quán hàng vắng ngắt. Khách không đến vì trời mưa từ chiều, chị không thấy sao?

    Tôi chép miệng:

    - Tao chẳng thấy gì hết.

    Tôi như người mất hồn thật. Tôi chẳng thấy gì hết thật.Trời đang mưa thật. Tiếng mưa nhỏ, nhưng nghe thấy thật rõ. Giờ này Pleiku đang ướt loáng dưới mưa chiều thả giọt. Chẳng cần mở cửa đi ra, tôi cũng nhìn thấy màn mưa bay nghiêng, những giọt mưa nhỏ xuống từ những chùm lá lướt thướt. Pleiku mưa. Pleiku lạnh. Chỉ có điên mới ra đường lúc này. Vậy mà tôi phải đi. Tôi điên. Tôi điên.

    - Lấy cho chị cái áo mưa.

    Huyền tròn mắt:

    - Đi thật?

    Sự tức giận ở tôi thình lình, bất ngờ:

    - Tao đùa với mày sao?

    Huyền nhìn tôi đăm đăm:

    - Tâm tính chị như thế này, chỉ có anh Khoa chịu đựng được thôi.

    Tôi quát lớn:

    - Tao không cần ai chịu đựng tao hết. Lấy cái áo mưa mau lên.

    Huyền lẳng lặng lấy cái áo mưa đến cho tôi. Cái áo mưa cũng là một tặng vật nữa của Khoa. Cái đồng hồ ngoài quầy, cây đèn trong phòng ngủ, như cái áo mưa tôi vừa khoác lên người, tất cả đều là những bằng chứng về tình yêu Khoa dành cho tôi. Tình yêu đó sáng trong và quang đãng như một con đường thẳng băng dưới nắng. Tôi là một con đường khác. Khúc khuỷu, mất hút. Khoa có thể ngờ tôi đang nghĩ đến một người đàn ông nào đó đang làm tôi hoang mang đau đớn? Tôi nghĩ đến Khoa, qua một mặc cảm tội lỗi tràn ngập.

    Huyền hỏi:

    - Hình như anh Khoa hẹn lát nữa sẽ tới?

    - Anh ấy đến, mày nói tao có việc cần phải đi.

    - Việc gì vậy?

    - Tao không thể nói cho mày biết được.

    Không muốn kéo dài câu chuyện, tôi đi nhanh ra phòng ngoài, mở cửa, ra đường. Trận mưa đập thẳng vào mặt tôi ngay từ thềm cửa. Nhưng giọt mưa nhỏ, nhưng nhọn hoắt, lạnh buốt. Tôi đứng ngập ngừng một giây, không biết nên khởi cuộc tìm kiếm từ một hướng phố nào. Pleiku không phải là Sài gòn. Chỉ dăm bảy con phố gần, dăm ba khúc đường ngắn. Nhưng tìm Đạo cũng chẳng phải là chuyện dễ. Tôi đoán giờ này, Đạo đang ngồi ở một quán nước nào đó. Một quán rượu thì đúng hơn. Tôi đã đi chơi với Đạo ở Sàigòn nhiều lần, để thấy Đạo là một tửu đồ chính cống. Chiều nào, Đạo cũng uống rượu. Đêm nào Đạo cũng uống rượu, uống ở những quán rượu, những tiệm nhẩy. Uống ở trong phòng Đạo, những lúc có tôi cũng như những lúc chỉ có một mình. Chai rượu mạnh còn gần Đạo hơn tôi, gấp nghìn lần. Một gần gũi lâu đời và thường trực. Buổi tối Pleiku lạnh như thế này, mưa như thế này, chắc là Đạo đang ở đâu đó, với một ly rượu trên tay.

    Ý nghĩ đầu tiên của tôi là đi một lượt mấy quán rựơu nằm rải rác trên mấy con đường lớn. Vào từng quán. Nhìn. Tìm. Hỏi. Cho đến khi gặp. Nghĩ xong mới thấy cái sự tìm kiếm là kỳ quái, không được. Làm vậy, tìm Đạo chưa thấy đâu, chỉ biết chắc chắn là buổi sáng ngày mai, cái việc tôi khoác áo mưa đi tìm một người đàn ông lạ mặt sẽ ầm lên. Sẽ đến tai Khoa. Tôi đang muốn dấu tất cả mọi người. Tôi không thể đi tìm Đạo như thế. Hay là đến kiếm Đạo ở mấy khách sạn? Cũng không được, giờ này, chắc đâu Đạo ở trong phòng. Phân vân không biết quyết định thế nào, tôi bước bừa vào màn mưa trước mặt. Cái áo mưa được cài kín hàng khuy. Cổ áo kéo tới gáy. Người tôi bừng bừng trong cái áo giữ hơi, nhưng hai gò má thì đã lạnh buốt. Mái tóc tôi ướt sũng.

    Rời khỏi mấy con đường cỏ mọc um tùm tôi đi dần ra những con đường sáng hơn, đi dần ra mấy con phố chính, vừa đi, vừa đảo mắt tìm kiếm. Tôi đã sắp sẵn mấy câu nói trong đầu. Thấy Đạo, mấy câu nói đó sẽ là mấy câu rất quyết liệt. Tôi sẽ bảo cho Đạo biết là Đạo không có quyền nhìn thấy mặt tôi nữa. Ở Sài gòn, cũng như ở bất cứ đâu. Đạo càng không bao giờ có quyền tìm gặp tôi ở Pleiku này. Tôi sẽ nói cho Đạo về giờ khởi hành của chuyến xe đò thứ nhất. Yêu cầu Đạo lên chuyến xe đò ấy, chiếc máy bay ấy. Rời khỏi Pleiku tức khắc. Tức khắc và không bao giờ trở lại.

    Những câu nói đã sắp sẵn trong đầu, những câu nói ấy vẫn chưa được nói ra. Cuộc tìm kiếm kéo dài. Dễ chừng đã gần một tiếng đồng hồ. Hai chân tôi đã mỏi rời. Tôi vẫn chưa nhìn thấy Đạo ở đâu hết. Sự bực bội cơ hồ muốn làm tôi chảy nước mắt. Chưa từng bao giờ trong đời, tôi thấy mình khổ sở, thảm thương bằng những giờ phút này. Cuối cùng, tôi đứng lại dưới một gốc cây. Cảm thấy đầu óc choáng váng, hai vai đau nhức. Chiếc áo mưa thấm nước nặng trĩu. Những sợi tóc dính bết trên trán, cùng với những giọt nước mưa lọt qua cổ áo, thấm vào người. Điều làm tôi lo sợ hơn nữa là Khoa có thể bắt gặp tôi lúc này đứng ngẩn ngơ như một con điên, dưới một gốc cây.

    Thôi về nhà, tôi nhủ thầm.

    Lúc tôi vừa toan bước ra khỏi gốc cây cũng là lúc tôi nhìn thấy Đạo.

    Đạo không đi một mình. Mà với một người đàn bà. Tôi nép vội vào chỗ ẩn, thu mình thật nhỏ ở phía cây tối khuất không có ánh sáng. Mái tóc tôi rót xuống, che gần kín khuôn mặt. Cái áo mưa cổ cao tới gáy. Tôi yên tâm Đạo không thể nhận ra mình và nín thở, tôi chăm chú theo dõi Đạo và người đàn bà đi cùng với Đạo.

    Họ từ một phố thấp đi lên, đang chậm bước trên con dốc ướt loáng. Cả hai cùng mặc áo mưa. Họ vừa đi vừa nói chuyện. Người đàn bà nói thì đúng hơn. Họ đã lên hết con dốc và tôi nhận ra người đàn bà là ai. Đó là Mỹ Dung. Mỹ Dung mới nhập tịch đời sống Pleiku, đâu như từ đầu năm nay. Nếu những điều Nhạc kể lại là đúng. Mỹ Dung từ Sàigòn lên, sau một vụ sì căng đan nào đó, khiến người đàn bàn phải lánh mặt một thời gian. Mỹ Dung đã chọn Plẹiu làm nơi lánh mặt. Vẫn theo Nhạc, Mỹ Dung hiện là nữ chủ nhân một nhà tắm hơi vắng khách, vì đám quân nhân ngoại quốc không còn đồn trú ở Pleiku đông đảo như mấy năm về trước.

    Tôi biết Mỹ Dung, vì người đàn bà phóng đãng này đã tới quán Nhớ vài lần. Ấn tượng mà tôi còn giữ được về Mỹ Dung là một nhan sắc tuy đã có những nét tàn phai nhưng vẫn còn những vùng lộng lẫy, một thân hình đẫy đà, rạo rực, và một lối ăn nói cực kỳ bạo tợn. Mỹ Dung đến quán Nhớ lần nào cũng với một người đàn ông mới. Tôi còn được biết nhiều chuyện khác nữa, toàn là những chuyện động trời. Như Mỹ Dung sẵn sàng cho lên phòng bất cứ một gã con trai khỏe mạnh nào. Như những người tình của Mỹ Dung, chỉ chưa đầy một năm đã tới một con số nhiều không đếm hết.

    Đạo và Mỹ Dung đi ngang qua chỗ tôi đứng. Tôi đứng sát vào gốc cây hơn. Trời đang mưa. Người đàn bà mặc áo mưa mà mùi son phấn ở ả toát ra thơm lừng một khúc đường. Họ đứng lại cách tôi chừng hai thước. Cả hai cùng quay lưng lại. Câu chuyện giữa họ tiếp tục. Mỹ Dung hỏi:

    - Đi đâu bây giờ?

    Đạo nhún vai:

    - Không có ý kiến gì hết.

    Mỹ Dung cười:

    - Bộ cứ đi mãi dưới trời mưa như một cặp tình nhân mới lớn?

    Đạo cúi đầu ngẫm nghĩ rồi hỏi:

    - Buổi tối ở đây có chỗ nào vui không?

    Mỹ Dung nhún vai:

    - Mấy cái quán cà phê tối thui. Thế thôi. Anh thì nhất định không đến mấy cái quán ấy làm gì rồi.

    Đạo hỏi:

    - Sao vậy?

    Buổi trưa Đạo đã tới quán Nhớ. Đứng thật lâu bên kia đường. Sang đường. Gõ cửa quán. Không thấy ai trả lời và mở cửa Đạo mới bỏ đi, Mỹ Dung không biết điều đó. Tôi lắng tai, nghe Mỹ Dung trả lời:

    - Mấy cô gái choai choai bán quán không có hợp với anh.

    Tôi lắng tai hơn, nghe câu trả lời của Đạo:

    - Chưa chắc.

    Mỹ Dung cười ngặt nghẽo:

    - Còn chưa chắc gì nữa. Em hiểu anh quá mà. Thêm một lý do nữa, quán nào cũng chỉ bán cà phê, không có bán rượu.

    Đạo móc túi lấy thuốc lá, châm lửa hút, Đạo châm hai điếu, trao cho Mỹ Dung một. Que diêm sáng lóe, soi tỏ hai khuôn mặt trông nghiêng trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Cả hai cùng thở ra một hơi khói dài. Người đàn ông và người đàn bà đứng nói chuyện với nhau dưới trời mưa thật tự nhiên, thân mật. Chắc họ quen nhau từ lâu. Đã gặp nhau, gần nhau, không biết bao lần. Tôi bỗng có một ý nghĩ khó hiểu. Những người đàn bà Đạo hợp, Đạo thích, phải là những người như Mỹ Dung. Họ cùng một lứa, một nòi. Sao lại có tôi, trong những người đàn bà của Đạo? Ý nghĩ làm mặt mũi tôi nóng bừng. Thì ra tôi chỉ là một trò chơi của Đạo. Một trò chơi chốc lát, không hơn không kém. Điều kỳ là là Đạo còn trở lại kiếm tôi. Người ta không mất công kiếm tìm lại một trò chơi chốc lát.

    Cơn mưa ngớt đi. Thay vì những giọt mưa lạnh buốt bay nghiêng, chỉ còn là những tơ mưa chập chờn trong không khí. Đạo và Mỹ Dung chưa chịu bỏ đi. Họ nói chuyện tiếp. Về những quán cà phê tối thui của Pleiku.

    Mỹ Dung, giọng vui thú:

    - Anh đã thấy Pleiku nhan nhản cùng khắp những quán cà phê?

    Đạo gật:

    - Thấy.

    - Đã vào một quán nào chưa?

    Đạo ngập ngừng rồi lắc đầu:

    - Chưa. Có quán nào đặc biệt không?

    Tôi giật mình nghe thấy Mỹ Dung trả lời:

    - Quán Nhớ.

    Chừng như câu trả lời của Mỹ Dung làm Đạo kinh ngạc. Giọng Đạo hơi đổi khác:

    - A, thế mà anh không biết đấy. Quán Nhớ. Nghe cái tên gợi cảm nhỉ? Quán Nhớ ở đâu, đặc biệt là đặc biệt ở điểm nào?

    - Con nhỏ bán quán khá xinh đẹp.

    Tôi bị chia xẻ giữa một ý nghĩ bực tức và một cảm giác sung sướng. Một người đàn bà đứng tuổi ít khi chịu khen một người đàn bà khác, trẻ hơn mình, xinh đẹp. Mỹ Dung khen tôi xinh đẹp. Vậy thì chắc là tôi xinh đẹp thật. Tôi chỉ bực tức vì cái giọng nói của Mỹ Dung. Vừa khen tôi đẹp vừa như riễu cợt sự xinh đẹp ấy.

    Đạo hỏi:

    - Đất này cũng có người đẹp à?

    Mỹ Dung cười:

    - Gái Pleiku má đỏ môi hồng. Anh không nghe thấy lời một bài hát về Pleiku sao?

    - Không.

    Đạo lại hỏi, về tôi:

    - Đẹp như thế nào? Bằng em?

    - Khác. Khó nói lắm. Chỉ thấy mới biết được. Anh muốn tới đó bây giờ không?

    Đạo lắc đầu:

    - Để lúc khác.

    Mỹ Dung cười:

    - Lúc khác là lúc anh sẽ đến một mình. Nhưng nói ngay cho anh biết, bông hoa có chủ rồi đấy.

    Thì ra Mỹ Dung cũng biết chuyện Khoa đang theo đuổi tôi và Pleiku coi như chúng tôi đã đính hôn với nhau. Tôi thấy Đạo cúi đầu xuống, như đắm chìm trong một suy nghĩ bất chợt. Đạo thôi không hỏi về tôi nữa. Mà nói sang chuyện khác:

    - Anh không ngờ gặp Dung ở trên này.

    Mỹ Dung:

    - Em cũng không ngờ. Thoạt nhìn thấy anh đứng trước khách sạn, em lại tưởng ai. Anh chỉ có thể ở Sàigòn, không thể ở đâu khác. Lang thang lên trên này một mình làm gì vậy?

    - Tìm một người quen.

    - Ai?

    Tôi hồi hộp chờ Đạo nói tên tôi ra. Nhưng không.

    - Một người quen, em không biết.

    Mỹ Dung cười, gặng hỏi:

    - Làm gì mà bí mật thế. Đàn ông hay đàn bà.

    Tôi suýt bật cười vì thấy Đạo nói dối ngon lành.

    - Một người bạn cũ, từ hồi để chỏm.

    - Anh gặp chưa?

    Đạo nói dối tiếp, một lần nữa:

    - Chưa.

    Chừng như không muốn cho Mỹ Dung hỏi thêm, khiến mình phải nói dối thêm, Đạo kéo tay Mỹ Dung:

    - Đưa anh đến một chỗ nào có bán rượu.

    Đạo và Mỹ Dung đi tới mấy bước rồi rẽ vào con đường phía tay phải. Phần tôi. tôi làm một việc tối thậm vô lý. Là cất bước theo sau. Lẽ ra, tôi chỉ nên có một thái độ giản dị nhất. Là mặc Đạo và người đàn bà. Quên họ đi. Chấm dứt ngay một cuộc theo dõi âm thầm đã trở thành lố bịch. Chỉ cần Đạo quay lại, nhận ra tôi, tôi sẽ biến thành một trò hề cho người đàn bà kia. Nhưng tôi không dừng lại được. Cũng chẳng hiểu tại sao nữa. Phút này, tôi từ chối tìm hiểu con người mình. Chỉ biết con người đó đã rối loạn, mất hết khả năng tự chủ.

    Nếu có những người đàn ông có một sức quyến rũ, ghê gớm, ghê gớm vì không làm sao giải thích được. Đạo là một trong những người đàn ông ấy. Những buổi trưa, những ban đêm Sàigòn, cái sức quyến rũ ma quái, mãnh liệt ấy ở Đạo đã tỏa ra. Nó kín trùm, nó vây bọc lấy tôi. Nó là một tảng nam châm khổng lồ, và tôi, tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ. Cây kim đã đi theo sức hút của tảng nam châm. Vào phòng ngủ một khách sạn. Tới tận một mặt đêm. Tới những nơi hẹn hò kín khuất. Để nằm tròn trong hai cánh tay y. Về được tới Pleiku, tôi đinh ninh cái sức quyến rũ ấy đã tan biến. Sự thật không phải vậy. Đêm nay, nó lại tác động một lần nữa. Và nó cuốn tôi theo.

    Tôi biết giờ này, đám khách hàng trẻ tuổi quen thuộc đã đủ mặt ở quán Nhớ. Thập. Nhạc. Dã Thụy nữa không chừng. Không chừng Khoa vẫn còn ở quán, đang nóng lòng chờ tôi về. Mọi người hẳn đang ngạc nhiên về sự vắng mặt bất thường của tôi. Họ đang bàn tán với nhau về sự vắng mặt này. Nhưng tất cả hình như không còn quan trọng. Chỉ có Đạo là sự quan trọng duy nhất.

    Lúc này, Pleiku đã chìm thật sâu vào im lặng, một thứ im lặng dàn rộng, phủ đầy bóng tối. Những ánh đèn tắt dần. Mười cửa tiệm đã chín tiệm đóng cửa. Tôi bước, thất lạc, mắt không rời mái tóc, bờ vai của người đàn ông và người đàn bà đi trước. Họ vẫn vừa đi vừa trò chuyện với nhau. Họ nói gì tôi không nghe rõ nữa. Chỉ thấy, cùng với đêm khuya và cuộc đi dạo kéo dài, Mỹ Dung đã có với Đạo một cử chỉ thân mật hơn. Mỹ Dung khoác tay Đạo, đi thật sát, gần như tựa hẳn vào vai Đạo.

    Đi hết con đường thấp thoáng bóng lá tới một ngôi nhà một tầng lầu, Mỹ Dung đứng lại. Tôi nhận ra ngôi nhà là tiệm tắm hơi của Mỹ Dung. Thì ra người đàn bà không đưa Đạo đến một quán rượu nào hết, mà đưa về thẳng nhà nàng. Mỹ Dung không hổ với tiếng đồn chút nào. Đó là một người đàn bà phóng đãng, sống theo ý muốn, và đêm khuya, cho những người đàn ông vào nhà mình.

    Như mọi ngôi nhà bên cạnh tiệm tắm hơi cũng tối thui. Tôi tạt mau vào một hàng hiên thấp, nép mình vào một bờ tường. Tiếng Đạo:

    - Nhà ai đây?

    Mỹ Dung cười:

    - Tiệm tắm hơi của con này.

    - Đến quán rượu cơ mà? - Đạo hỏi.

    Mỹ Dung:

    - Rượu trên phòng em còn nhiều hơn rượu ở quán, toàn loại cô- Nhắc lâu năm của Pháp. Thứ rượu anh thích.

    Tiếng cười lại nổi lên, lơi lả hơn trước:

    - Và còn nhiều thứ khác nữa.

    Đạo hỏi:

    - Những thứ gì vậy?

    - Những thứ làm bằng lòng người đàn ông khó tính nhất trong một đêm Pleiku lạnh lẽo như thế này. Tắm hơi để mở đầu. Đấm bóp là màn hai. Những màn gây cấn sau đó. Được chưa?

    Tôi nghe mà rợn người. Mỹ Dung trong đêm là một con hồ ly. Cái đuôi con hồ ly dài lê thê. Tiếng cười của con hồ ly nồng nàn dục vọng. Con hồ ly mới tới Pleiku chưa đầy một năm, bao nhiêu chàng trai mới lớn của Pleiku đã ngã vào cái lưới hồ ly mê hoặc. Tôi nín thở, chờ phản ứng của Đạo.

    Đạo gật gù:

    - Để coi. Hỏi thăm cái đã. Làm ăn khá không?

    Mỹ Dung chép miệng:

    - Không khá. Em lên đây đúng vào lúc không còn làm ăn được gì hết. Dan chơi bời ở đây ít lắm. Họ cũng không chơi bời ở đây, sợ mang tiếng. Tiệm tắm hơi của em chỉ là tấm bình phong dùng để che mắt thiên hạ. Em làm ăn ở những mặt khác.

    Đạo, giọng ngạc nhiên:

    - Những mặt khác là những mặt nào?

    - Muốn biết?

    - Coi là thế.

    Mỹ Dung đập mạnh tay vào vai Đạo:

    - Bí mật nghề nghiệp. Nhưng này, nếu chán Sàigòn muốn lên đây làm ăn em cho làm ăn chung với em. Chúng mình công ty. Làm ăn rồi sống luôn với nhau. Lấy nhau.

    Đúng là thứ ngôn ngữ của hồ ly. Tôi mím môi lại lắng nghe xem Đạo phản ứng như thế nào. Đạo lừng khừng:

    - Để coi. Vào nhà uống một ly rượu đã.

    Mỹ Dung lúi húi mở cửa. Tiếng khóa lách tách rồi cánh cửa mở ra. Đèn bật sáng ở phía sau. Cánh cửa đóng lại. Tôi bước ra khỏi chỗ ẩn nơi bờ tường, hoang mang không biết nên có một thái độ nào. Chẳng lẽ tôi đứng đây suốt đêm, tới sáng. Nhưng về ngay cũng lại chưa thể được. Tôi chỉ mới biết Đạo ở khách sạn, chưa biết Đạo ở khách sạn nào. Một phút sau, đèn trên lầu nhà Mỹ Dung bật sáng. Ánh đèn dịu, màu xanh nhạt làm hiện rõ những tấm rèm mỏng trên những bờ cửa sổ. Đạo đã lên tới phòng của Mỹ Dung. Chắc là họ đang cười đùa, đang uống rượu với nhau. Lại nhiều phút trôi qua. Con đường vắng ngắt, không còn một bóng người qua lại. Mưa đã tạnh và sương đêm đax lan đầy. Một vài ánh đèn đường xa xa như những điểm sáng nhòe nhạt vật vờ giữa một biển sương chập chờn xanh biếc. Rừng xa phút này mới thổi cái lạnh của rừng về. Núi xa phút này mới thả cái lạnh của núi về. Đêm Pleiku hàn băng đè nặng xuống hai bờ vai run rẩy của tôi. Cái lạnh cảm thấy ở từng đầu ngón tay, tê buốt trên hai gò má. Tôi sống với cái ý nghĩ hãi hùng là chỉ đứng thêm dăm bảy phút nữa, những mạch máu trong người sẽ đông đặc lại.

    Bỗng một cánh cửa trên lầu nhà Mỹ Dung mở toang ra. Tôi hoảng hốt chạy vội vào hàng hiên.

    Tiếng Mỹ Dung:

    - Lạnh quá, anh mở cửa làm gì vậy?

    Tiếng Đạo:

    - Lạnh uống rượu mới thích.

    Tôi thò đầu cẩn thận nhìn lên. Mỹ Dung đã theo Đạo ra đứng trước khung cửa mở rộng. Ánh đèn từ phía sau họ, làm cho hai cái bóng họ in rõ giữa khung cửa hình chữ nhật. Mỗi người cầm trên tay một ly rượu.

    Tiếng Mỹ Dung:

    - Anh đang nhìn gì?

    - Nhìn về phía khách sạn anh ở.

    - Phía nào?

    Đạo chỉ tay:

    - Phía kia.

    Nhìn theo ngón tay trỏ của Đạo, tôi đã biết được Đạo đang ở khách sạn nào. Pleiku chỉ có một vài khách sạn thiếu tiện nghi, khách sạn Đạo ở tuy vậy tương đối vẫn là khách sạn khá nhất. Thế mà tôi không nghĩ ra.

    Hai người đứng với nhau một lát. Im lặng. Rồi Đạo cất tiếng:

    - Hình như có người ở dưới đường.

    Mỹ Dung:

    - Có ai đâu?

    - Lúc mở cửa, anh nhìn thoáng thấy một bóng người. Thoáng thôi. Rồi không thấy gì nữa.

    Mỹ Dung cười:

    - Chắc là một bóng lá thì đúng hơn. Giờ này, ở đây, không còn ai ở ngoài đường.

    Đạo gật:

    - Chắc anh trông lầm.

    - Thôi, đóng cửa lại nhé?

    Khung cửa được đóng lại. Tôi lặng lẽ rời khỏi chỗ ẩn nấp. Tôi bước thật nhanh, không quay đầu nhìn lại. Tròng mắt tôi ướt đẫm.

    Chiếc xe jeep đậu ghếch lên bờ cỏ. Chiếc xe đậu đã lâu, mui xe ướt sũng. Khoa còn ở quán Nhớ. Cả Vận nữa. Họ đã chờ tôi suốt buổi tối. Để chỉ hỏi tôi một câu: "Đi đâu từ hồi chiều đến bây giờ? " Tôi sẽ trả lời Khoa như thế nào đây. Tất nhiên sẽ phải nói dối. Bịa đặt ra một lý do nào đó. Ý nghĩ này làm tôi buồn thê thảm. Tôi không muốn nói dối Khoa. Tôi muốn đối xử với Khoa cũng thẳng thắn, cũng chân thực như Khoa đã dối xử với mình. Chuyện này, từ nay không được nữa,. Không chỉ là nói dối. Mà là tôi còn phải nói dối Khoa rất nhiều lần.

    Lúc này, chẳng cần phải có một tấm gương trước mặt, tôi cũng biết thân hình tôi tiều tụy, quần áo nhớp nhúa, mặt mũi nhợt nhạt. Đôi dép đã lấm đầy bùn đất của mấy giờ đi lang thang trên những con đường lầy lội của Pleiku. Tới trước cửa quán, tôi đứng lại nhìn vào. Khách hàng không còn ai, trừ Khoa và Vận. Huyền đứng ở sau quầy, Vận tựa lưng vào thành quầy, nhìn vu vơ. Khoa chống khuỷu tay lên mặt quầy, đầu cúi, nét mặt đăm chiêu, cặp lông mày nhíu lại. Im lặng hoàn toàn. Không ai nói với ai một câu nào. Họ đang chờ tôi về.

    Cố tạo cho mình một nét mặt thản nhiên tươi tắn, đằng hắng thật lớn, tôi bước vào nhà, Vận và Khoa cùng giật mình nhìn ra.

    Tôi tiến lại gần Khoa:

    - Tưởng anh về rồi chứ?

    Quay sang Vận:

    - Anh chàng này nữa, ở lại quán Nhớ làm gì khuya vậy?

    Tôi cười, lạ lùng với chính tiếng cười của mình:

    - Hay là hai anh định ở lại đây suốt đêm?

    Không một ai đáp lại tiếng cười của tôi. Khoa nhìn tôi đăm đăm. Lần thứ nhất từ ngày hai chúng tôi quen biết nhau, cặp mắt Khoa thoáng lên một ánh ngờ vực buồn bã. Khoa chưa khám phá đựơc sự thật. Nhưng Khoa đã cảm thấy ở tôi một cái gì bất bình thường. Trong một khoảnh khắc, tôi đã muốn nói toang ra hết mọi sự thật. Cho dù là những sự thật không thể nói ra. Quán Nhớ, từ ngày mở cửa, vẫn tắm đẫm trong một bầu không khí cởi mở, thành thực. Gia đình tôi không chỉ là tôi và Huyền. Còn là Khoa, là Vận, và những người trẻ tuổi đến quán hàng ngày, đã trở thành bạn thân. Tôi là kẻ có tội nếu phá hủy đi của mọi người thân bầu không khí tin tưởng và ấm cúng này. Nhưng sự thật đây cực kỳ phũ phàng, cực kỳ tàn nhẫn. Nó sẽ là một tiếng sét đánh xuống làm cho kinh hoàng, làm cho choáng váng. Liệu Khoa chịu đựng được không? Câu trả lời đến ngay với tôi là không. Đời sống của Khoa tươi sáng, bình yên, đặt vững trên một số quan niệm bất biến về luân lý, đạo đức. Tâm hồn Khoa là một tâm hồn trẻ thơ. Chưa từng gặp cái phản trắc. Chưa từng đụng đầu với cái gian dối. Sự thật phũ phàng sẽ giết chết Khoa. Sự thật đó, tôi không thấy còn cách nào hơn là phải che dấu đến cùng. Cho tới khi nào không còn che dấu đựơc nữa.

    Tôi ôn tồn:

    - Anh đến từ bao giờ?

    Khoa nghiêng mặt, hỏi lại:

    - Em hẹn anh đến hồi mấy giờ?

    - Tám giờ.

    - Anh chưa từng sai hẹn với Ngọc bao giờ. Đến tám giờ. Chờ từ lúc đó đến bây giờ. Em không nhớ chúng mình đã hẹn nhau?

    Tôi nắm lấy tay Khoa:

    - Nhớ chứ.

    Khoa nhìn thẳng vào mắt tôi:

    - Em đi đâu về?

    - Đằng này.

    - Đằng này là đằng nào?

    Tôi trả lời đã ngu, Khoa hỏi vặn dồn tôi đến chỗ phải nói rõ. Khoa còn ngu hơn. Lúng túng, ngượng thẹn, không biết trả lời thế nào, tôi nổi nóng:

    - Em không thích nói cho anh biết, có được không?

    Trời đang lạnh. Tôi vừa dội cho Khoa một gáo nước lạnh buốt. Một giây căng thẳng. Ba cặp mắt mở lớn cùng ngó tôi không chớp. Tôi lẳng lặng bỏ vào phòng trong. Tháo chiếc áo tơi mưa khỏi người, thần trí tôi bỗng nhiên bị xâm chiếm bởi một cảm giác mệt mỏi lạ thường. Tôi vừa đi bộ dưới trời mưa. Tôi vừa bật khóc, vì tủi hổ, vì đau đớn. Chỉ trong một buổi tối, tự ái tôi bị tổn thương ê chề, cuộc đời tôi tan nát thành từng mảnh nhỏ. Có ai biết và có ai thương tôi không? Giờ này, người đàn ông kia đang ở gần con đàn bà ấy. Họ đã uống rượu, đã tình tự với nhau. Bây giờ, chắc là một ngọn đèn đã được tắt đi, họ đang làm tình với nhau trên mặt đệm. Tôi nhắm nghiền mắt lại cố sua đuổi hình ảnh Đạo ra khỏi đầu óc. Năm phút sau, tôi trở ra. Khoa, Vận và Huyền vẫn từng người ở nguyên trong vị trí cũ. Đồng hồ trên đầu quầy chỉ đúng mười hai giờ kém mười lăm. Tôi hất hàm với Huyền.

    - Đi ngủ đi.

    Huyền:

    - Em còn phải đóng cửa hàng.

    Tôi gắt:

    - Chị đóng. Đi ngủ.

    Huyền lẳng lặng vào phòng trong. Tôi nói với Vận:

    - Anh để tôi được nói chuyện riêng với anh Khoa một chút.

    Nét mặt, giọng nói tôi cực kỳ nghiêm trọng. Thường thì những lúc tôi làm ra nghiêm trọng. Vận hay phản ứng lại bằng một thái độ giễu cợt. Lần này không. Tôi nghiêm trọng thực sự. Vận bảo Khoa:

    - Về trước vậy nhé?

    Khoa:

    - Chờ, cùng về.

    Vận xua tay:

    - Cậu không thấy bà ấy đuổi tôi sao? Để xe lại cho cậu, mai đem trả tôi, tôi về bộ cũng được.

    Vận đi ra.

    Tôi nhìn theo, yên tâm biết Vận không giận bao giờ, cả những khi tôi khó chịu và đáng ghét nhất. Vận ra tới cửa, tôi gọi theo:

    - Mai đến, anh Vận nhé !

    Vận quay lại, nhìn tôi, bật cười. Vận định nói một câu gì đó, rồi lại thôi và bước nhanh ra đường. Tôi gọi Khoa:

    - Đến đây ngồi với em, chúng mình nói chuyện.

    Khoa đến ngồi bên cạnh tôi, nét mặt buồn rầu còn thoáng vẻ hờn giận chưa tan biến. Một phút im lặng. Đêm Pleiku thăm thẳm, đoán thấy sự mịt mùng vô tận ở bên ngoài. Tôi vẽ vẽ ngón tay lên mặt bàn, lựa lời cho một mở đầu khó khăn:

    - Anh có biết là trước khi lập gia đình, lấy chồng người con gái nào cũng có một đời sống riêng biệt?

    Khoa gật:

    - Biết.

    - Em cũng có một đời sống riêng.

    - Ngọc định đi tới đâu?

    Tôi nói, thong thả từng tiếng một:

    - Em chỉ muốn anh hiểu cho em như thế. Là em cũng có một đời sống riêng. Em định được cho em những gì về sau này, cũng phải thu xếp cho yên phần đời về trước.

    Khoa nín thinh. Rồi hỏi nhỏ:

    - Sao nữa?

    - Em có những chuyện riêng, không thể nói cho anh biết được. Anh cũng chẳng nên biết làm gì.

    - Anh chưa có quyền?

    - Không hẳn thế. Không nên thì đúng hơn.

    - Em thay đổi ý kiến.

    Tôi lắc đầu:

    - Em không muốn thay đổi gì với anh hết.

    Lòng tôi thực tình muốn hướng về Khoa. Khoa như một bóng rợp, một bến đậu. Tôi không hình dung được cái mai sau của mình ở Pleiku không có Khoa. Càng không thể hình dung được cái mai sau ấy với một người đàn ông khác. Điều kỳ lạ là ngồi cạnh Khoa, như lúc này, rất lứa đôi, rất thân tình, mà tôi vẫn không thấy Khoa với tôi là một. Sự cách biệt vẫn tồn tại. Như hai bờ của một giòng sông. Như triền núi song song tách rời nhau. Vì một thung lũng thăm thẳm đã khơi đào giữa hai triền núi. Tôi không biết làm thế nào để phá hủy sự cách ngăn vô hình mà rõ rệt này. Một ý nghĩ táo bạo bất chợt nẩy sinh trong đầu tôi. Đó là đẩy cả Khoa và tôi tới trước một trường hợp đã rồi. Nói một cách khác, tôi muốn chặt đứt ở nơi tôi một con đường trở về. Rủ Khoa cùng đi tới. Tới một điểm cả hai đứa chúng tôi cùng không lùi đựơc nữa.

    Tôi hỏi, âu yếm:

    - Anh phải về không?

    Khoa kinh ngạc. Tôi chưa từng hỏi Khoa như thế bao giờ.

    - Về chứ ! Sao?

    Tôi thì thầm:

    - Em muốn anh ở lại.

    Khoa thật thà:

    - Để làm gì vậy?

    - Ở đây. Nói chuyện với em. Nói chuyện với nhau tới sáng.

    Câu nói của tôi là một mời chào. Một mời chào vào tình yêu. Một mời chào lơi lả táo bạo. Phải bằng một cố gắng phi thường tôi mới nói ra được câu nói đó. Nói xong, hai gò má đã nóng bừng vì ngượng thẹn. Bầu không khí lúc này có trợ giúp cho sự táo bạo bất ngờ của tôi một phần nào. Đêm đã khuya. Đêm hoàn toàn yên lặng. Những ánh mờ tỏ ném hai cái bóng lên vì tường. Chúng tôi chưa hòa với nhau làm một, nhưng hai cái bóng đã nhòa lẫn vào nhau. Huyền đã ngủ say. Trời Pleiku buốt lạnh kêu gọi những trao yêu nồng cháy. Khoa chỉ cần làm cái cử chỉ tự nhiên nhất của một người tình. Là vòng cánh tay ôm lấy lưng tôi. Kéo tôi lại. Hôn tôi. Trở thành chồng tôi, mà không cần phải đợi chờ một đêm tân hôn nào hết. Nhưng tôi đã nói là Khoa nghiêm chỉnh quá, trang trọng quá, đạo đức quá và Khoa không phải là Đạo. Tôi tạo cơ hội cho Khoa đi tới, Khoa đã không nắm lấy cơ hội đó.

    Nói cho đúng hơn, tôi cố đẩy Khoa tới trước một tình trạng quá ư bất ngờ. Từ ngày quen nhau, tôi chưa từng cho phép Khoa hôn mình. Những buổi ngồi với nhau hàng giờ trên bờ Biển hồ, đi lang thang với nhau trên những ngọn đồi vắng vẻ, dưới những bóng lá um tùm, cái cử chỉ thân mật nhất giữa hai chúng tôi mới chỉ là nắm tay nhau, trao cho nhau những cái nhìn âu yếm. Thế thôi. Chưa khác. Chưa hơn. Thành ra sự dọn đường đột ngột của tôi, Khoa không nhận thấy là một mở đường cho Khoa đi tới.

    Khoa lắc đầu:

    - Anh phải về cho em ngủ chứ.

    Khoa cười:

    - Chúng ta có thừa thì giờ để nói chuyện với nhau. Em cần giữ gìn sức khỏe. Hồi này anh thấy em gầy quá rồi đấy.

    Khoa đứng lên:

    - Thôi anh về, cho em đi ngủ. Sáng mai, anh tới.

    Thái độ đứng đắn của Khoa vừa làm tôi bực mình, vừa làm tôi sung sướng. Tôi cố nén một tiếng thở dài và đứng lên theo. Tôi đưa tiễn Khoa ra đường. Con phố chạy qua quán Nhớ đã kín đặc sương mù. Đêm Pleiku lung linh những hình thể mờ nhạt. Sương ôm lấy những bờ cỏ. Sương lan đầy trong những chùm lá. Mặt đường, những cạnh đá ướt loáng. Tôi đứng lặng, nhìn Khoa lên xe. Đèn xe bật sáng. Máy nổ. Khoa đưa tay vẫy. Tôi giơ tay vẫy lại. Chiếc xe lìa bờ cỏ, từ từ lăn vào một biển sương không bến bờ. Tôi nhìn theo. Chưa có tôi, Khoa đã mất. Chưa gần tôi, tôi đã xa. Nhìn theo chiếc xe mât hút mau chóng về một cuối đường tối thẳm, tôi sống với một cảm giác thê thảm là đêm nay, tôi mất Khoa, Khoa đã mất tôi, vĩnh viễn.

    Trở vào trong nhà, tôi ngồi xuống chỗ Khoa vừa ngồi. Mặt ghế đã lạnh buốt. Như Khoa vừa bỏ đi, mọi dấu vết của Khoa đã tan biến, không còn gì nữa.

    Hai mươi phút sau, tôi tắt đèn phòng ngoài, vào phòng trong. Ngọn đèn ngủ ở đầu giường ném một thứ ánh sáng xanh nhạt lên đống chăn gối bừa bãi, Huyền nằm im trùm chăn kín đầu.

    Tôi gọi nhỏ:

    - Huyền.

    Con nhỏ không trả lời, cũng không cựa mình. Nó đã ngủ từ lâu. Giấc ngủ hồn nhiên bằn bặt. Phút này, tôi thèm được như nó. Thèm được trở lại cái tuổi của nó, cái tuổi thơ ngây, tinh khiết còn ở thật xa ngoài những đam mê, chưa đến tình yêu. Ném ra một tiếng thở dài não ruột, tôi đặt mình nằm xuống giường. Thân thể tôi mỏi nhừ, nhưng đầu óc ráo hoảnh, tỉnh táo. Tôi nhắm mắt lại, cố tìm vào giấc ngủ. Một lát tôi mở choàng mắt lại, nhìn đêm trân trân. Biết rằng đêm nay sẽ dài. Biết rằng giấc ngủ không đến. Biết một ám ảnh đã trở lại, đã hiện hình. Đó là Đạo. Đó là hai tuần lễ tôi ở Sàigòn năm ngoái. Một ngọn đèn nào đó đã thắp lên, chói lọi, trong trí nhớ. Hồi tưởng đi chậm, ngừng lại với từng chi tiết, từng sự việc nhỏ nhặt. Tôi đang nhớ lại cái buổi sáng hôm đó, hai chị em tôi rời cái khách sạn ở đường Trần Hưng Đạo, trở về Pleiku. Tình thế đã tạm yên. Tiếng súng ngớt. Núi rừng lại yên tĩnh như cũ. Và hai chị em tôi, sau hai tuần về Sàigòn lánh nạn, lại trở về. Chúng tôi cho quần áo vào valy, chờ Khoa tới đón ra phi trường. Khoa ở Pleiku về chiều hôm trước. Cái sự tôi không chịu đến ở cùng với Thư mà thuê phòng khách sạn làm Khoa hết sức kinh ngạc. Nhưng kinh ngạc mà thôi, chứ không nghi ngờ gì hết.

    Nhớ sáng hôm đó, Huyền đậy nắp va ly lại đã hỏi tôi:

    - Đã chán Sàigòn, đã muốn về chưa?

    Tôi thẫn thờ:

    - Mày thì sao?

    Huyền cười:

    - Mấy ngày đầu, em nghĩ em muốn ở lại dưới này, mãi mãi. Bây giờ thì chán rồi. Muốn về.

    Tôi đáp, đầu óc hoang mang, rối loạn:

    - Tao cũng vậy.

    Rồi Khoa đến. Rồi hai chị em trả phòng đi ra. Cửa phòng Đạo đóng kín. Đạo và tôi đã không gặp nhau nữa, từ hai ngày trước đó. Chúng tôi đã thôi nhau. Đạo đã lánh mặt tôi. Xuống tới dưới đường, tôi nhìn lên một lần cuối cùng, hy vọng thấy một khung cửa sổ mở rộng. Với Đạo hiện hình trong khung cửa ấy. Nhưng không, cửa sổ phòng Đạo đóng kín. Tôi không còn là gi nữa, với Đạo, từ hai ngày trước cái buổi sáng tôi theo Khoa ra phi trường trở về Pleiku.



  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 5
    Hôm nay quán Nhớ đóng cửa trọn ngày. Hai chị em đều không có nhà. Chúng tôi sửa soạn từ sớm để lên Khôngntum, đến đứng dưới chân ngọn đồi Chu Pao. Chừng nào còn ở Pleiku, còn có hình ảnh của anh Kiện hiện về qua một tưởng niệm đau đớn, chừng đó còn một năm một lần tôi đưa Huyền tới đứng dưới chân ngọn đồi Chu Pao, nơi anh Kiện đã ngã xuống trong cuộc hành quân giải vây cho một đơn vị bạn.

    Gia đình chúng tôi, niềm kiêu hãnh duy nhất là anh Kiện. Là cái chết của anh Kiện. Anh Kiện không chết trước cửa quán Nhớ. Anh Kiện không ngã xuống trên một con đường Pleiku. Anh chết ở xa, cách Pleiku mấy chục cây số đường. Nhưng đã ăn sâu vào tâm tưởng tôi ý nghĩ này là anh Kiện đã chết, để bảo vệ Pleiku, cho chị em tôi, cho những người như Khoa, như Vận. Một hôm, tôi đem chuyện này nói với Khoa. Khoa cúi đầu, nghĩ ngợi. Rồi gật đầu đồng ý.

    Thâm tâm, tôi không muốn trở lại nơi chốn cũ. Đứng trên thước đường ở đó máu anh Kiện đã đổ loang mặt nhựa, tôi sẽ chảy nước mắt. Tôi ghét khóc. Sợ những giọt nước mắt của kẻ khác như của chính mình. Nhưng chuyến đi Chu Pao với tôi, mang ý nghĩ một bổn phận. Một bổn phận thiêng liêng và cuối cùng. Tôi phải thực hiện cái bổn phận tối thiểu này, dù muốn hay không muốn.

    Hai chị em thức dậy từ tối đất. Trời lạnh nhưng khô ráo. Gió đập mạnh vào những bờ tường. Ngồi trên giường, hai chị em nói chuyện với nhau về anh Kiện. Về những lá thư anh gởi về, thời kỳ ở những đơn vị xa. Thư nào, anh Kiện cũng nói anh thương chúng tôi. Anh nói anh con trai, sống đơn độc không sao. Hàng nghìn người con trai thời chiến xa nhà, đang sống như anh. Một mình, với thời thế gió bão, và tuổi trẻ của mình. Nhưng mấy đứa con gái chúng tôi, anh nói, không thể sống một mình mà phải có một nương tựa chắc chắn.

    Anh Kiện không hợp với Khoa. Không thích Khoa. Anh có thành kiến không tốt với những gã con trai nhà giàu, những kẻ có một nếp sống quá trưởng giả đầy đủ. Nhưng từ ngày biết Khoa theo đuổi, muốn lấy tôi, thư nào anh Kiện cũng nhắc Khoa bằng những nhắc nhở tố tđẹp. Còn nhớ trong một lá thư gửi về từ miền Tây, năm đó anh ở tận Châu Đốc, anh Kiện hỏi tôi có nghĩ tôi sẽ trở thành người vợ tương lai của Khoa không? Tôi trả lời bằng một lá thư ngắn, rằng không biết. Chưa rõ. Có lẽ không Rằng muốn lấy, phải yêu, phải muốn có hôn nhân trước đã. Rằng tôi chưa thấy yêu Khoa, cũng chưa muốn lấy chồng.

    Anh Kiện viết thư ngay cho tôi. Anh nói tôi lầm. Hôn nhân là hôn nhân. Tình yêu là một chuyện khác.

    Tôi còn nhớ mãi một đoạn của lá thư ấy. Như thế này:

    "Nhiều người con gái đã nghĩ như Ngọc. Và họ đã làm lỡ, làm hỏng đời họ. Đến một tuổi nào đó, lại có những việc chúng ta phải làm, không tránh được, thích hay không thích không thành vấn đề. Anh thấy Khoa là đáp số duy nhất cho đời Ngọc. Đừng có viễn vông, đừng có lãng mạn, cô nhỏ. Anh em nhà mình nghèo, mồ côi từ nhỏ, không có cho phép mình lãng mạn được. Em lấy chồng đi. Rồi đến lượt Huyền. Gái già đên nơi rồi đó, cô nhỏ, đừng có lãng mạn. Giữ lấy Khoa. Đừng đẩy Khoa ra. Em không thể tìm được một người chồng nào hơn Khoa.

    Giọng điệu trong thư đúng là cái giọng điệu của một ông cụ non. Vậy mà đoạn thư ấy, tôi nhớ mãi. Mỗi lần lấy lá thư cũ ra đọc lại, tôi vừa buồn cười vừa muốn chảy nước mắt. Cái ông cụ non đã chết. Và hai chị em đang nói chuyện về Kiện.

    Huyền:

    - Anh Kiện còn sống, chắc lấy vợ rồi.

    - Sao mày biết?

    - Thì cái cô gì đó. Anh Kiện yêu cô ta. Hai người cùng yêu nhau. Chị nhớ cái áo tặng của anh Kiện hồi tết không?

    Con nhỏ hỏi một câu thật thừa. Những gì thuộc về anh Kiện, tôi đều nhớ. Nhớ mãi. Không bao giờ quên. Phải, nguyên đán năm đó, tôi đã mua dùm anh Kiện một hàng áo. Cho anh mang lên Khôngntum, tặng cho người yêu của anh. Tết năm đó, anh Kiện là một chàng trẻ tuổi lãng mạn, sung sướng với tình yêu thứ nhất của mình. Bây giờ, cái người con gái dậy học ở Khôngntum có còn nhớ đến anh? Không. Cô ta đã quên. Chắc thế. Từ lâu. Cô ta đã lấy chồng. Chắc thế. Từ lâu. Và không còn nhớ đến người đã khuất.

    Tôi chép miệng:

    - Mày có biết từ một hàng áo đến một cái nhẫn cưới, con đường còn xa lắm không?

    Huyền gục gặc cái đầu:

    - Thế nào mới là gần?

    - Lấy nhau rồi, cũng chưa gần. Chẳng bao giờ, chẳng thế nào là gần.

    Huyền ném cho tôi một cái nhìn khó hiểu. Nó chưa hiểu nổi. Tôi nói, có những lý do của riêng tôi. Gần thì như tôi đang gần Khoa là cùng chứ gì. Đêm nào tôi đã ngồi với Khoa, dã muốn giữ Khoa ở lại. Vậy mà chuyện đã rồi cũng không xẩy ra được. Khó thật đấy chứ. Tất cả đều khó khăn. Kể cả một chuyện đã muốn nhắm mắt thực hiện.

    Huyền chợt nói:

    - Anh Khoa hồi này thế nào ấy?

    Tôi hỏi:

    - Mày thấy anh ấy thế nào?

    - Buồn.

    - Việc gì mà anh ấy buồn.

    - Chị không thấy?

    Tôi gắt:

    - Đừng có lắm chuyện. Đừng có tưởng tượng. Anh Khoa vẫn như thường. Ai làm gì mà anh ấy buồn.

    Huyền đáp gọn:

    - Chị.

    - Tao? Thế mà tao không biết.

    - Chị đừng vờ. Em chưa từng thấy chị gây chuyện với anh Khoa như buổi tối hôm nào.

    Huyền như chợt nhớ ra:

    - Mà tối đó, chị đi đâu vậy?

    Tôi gắt, đánh trống lảng:

    - Đã có một anh Khoa, mày còn định làm một anh Khoa thứ hai. Tao đi đâu là cái quyền của tao.

    Câu chuyện giữa hai chị em tạm ngưng. Một chiếc xe jeep vừa đậu lại trước quán. Tối qua tôi đã hẹn Vận tới đón hai chị em. Vận đến. Nghĩ mà yêu Vận. Bao giờ cũng vui vẻ, bao giờ cũng đúng hẹn. Tôi nghe tiếng xe, ngó Huyền, thầm mong Vận thương yêu Huyền. Tôi với Khoa, chưa biết thế nào. Khuôn mặt hạnh phúc mong manh, mù mờ. Nhưng Vận với Huyền thì tôi biết. Có Vận Huyền sẽ sung sướng hết cuộc đời của no. Nhờ Vận đưa hai chị em đi, tôi cố ý thu xếp một cơ hội cho Vận và Huyền gần nhau.

    Chúng tôi nhẩy xuống khỏi giường, vội vã mặc quần áo. Tôi cầm lược, chải tóc đi ra đón Vận. Vận bước vào quán, soa hai bàn tay vào nhau, suýt soa:

    - Tháng này đã lạnh. Năm nay mùa đông tới sớm lắm đấy. Xong chưa, hai bà?

    - Anh chờ cho năm phút.

    Vận tự tay pha lấy cho Vận một ly cà phê. Chưa uống, đã lấy tiền định trả. Tôi cười sua tay:

    - Hôm nay mời anh.

    Vận cất tiền, cười theo:

    - Trả công chuyến đi hay sao đây?

    - Đâu phải. Đi là nhờ. Mời là vì hôm nay không thu tiền, không bán hàng. Quán Nhớ đóng cửa một buổi.

    Ly cà phê pha xong. Vận cho đường, khuấy đều, uống một ngụm, tấm tắc tự khen:

    - Pha lấy mà uống cũng được lắm.

    Nói đùa:

    - Phải mở quán cạnh tranh với quán Nhớ mới được.

    Tôi cười:

    - Khỏi cần cạnh tranh. Anh thích cái nghề này, tôi nhường cho anh đó.

    - Nhường thì Ngọc đi đâu, làm gì?

    Tôi nhún vai:

    - Đi phiêu lưu. Đi bụi đời. Pleiku là một nấm mồ chôn chết tuổi xuân. Tôi về Sàigòn, sống long trời lỡ đất.

    - Chứ không phải về tiệm bào chế thuốc?

    Tôi lắc:

    - Con nhỏ này chỉ sống hư hỏng. Không biết bán thuốc.

    - Lát nữa nói cho Khoa biết như thế.

    - Anh Khoa biết rồi. Khỏi cần phải nói.

    Huyền từ nhà trong đi ra. Hai chị em theo Vận ra xe. Khoa đã chờ chúng tôi trước cửa tiệm. Thư ngồi trong quầy nhìn ra. Nét mặt Thư lạnh lùng, cách biệt. Vận nhường tay lái cho Khoa, xuống ghế sau, ngồi cùng với Huyền. Tầm mắt tôi thình lình được mở rộng khi chiếc xe ra khỏi thị xã, phóng nhanh trên con đường liên tỉnh từ Pleiku tới Khôngntum. Cả bốn chúng tôi cùng im lặng trên một quãng đường dài. Trời biên giới sáng nay thấp và xám ngắt. Xa xa, những cánh rừng chập chùng, những triền núi nhòa nhạt. Con đường mở đi hun hút, giữa những ngọn đồi, cắt vạch giữa một địa hình mênh mông xanh đặc. Xe chạy qua những cây cầu sắt. Hai bên cầu, những người lính yên lặng ngó chúng tôi đi qua, sau những bao cát và những họng súng. Đồi xa rồi đồi gần. Thung lũng rồi rừng già. Thỉnh thoảng, một con đường đất, mầu đất đỏ khé đưa vào một địa điểm đóng quân. Một chiếc trực thăng đuổi theo chúng tôi ở sau lưng. Tiếng máy lớn dần. Chiếc trực thăng tới mau chóng trên đầu với tiếng máy đinh tai nhức óc. Chiếc trực thăng bay thật thấp, men theo con lộ. Nó vượt qua chúng tôi. Tiếng máy nhỏ dần về một phía Khôngntum.

    Một trận mưa phùn dấy lên. Xe đã rời khỏi Pleiku được chừng mười lăm cây số. Cùng với trận mưa làm mờ cảnh vật, trời đất biên giới đã hoang vu càng heo hút hơn. Mặt đường trong khoảng khắc đã ướt loáng dưới trận mưa không tiếng. Khoa cẩn thận cho xe chạy chậm lại. Thêm những cây cầu. Thêm những bóng lính. Thêm những khúc quanh. tiếng súng, từ mấy tháng nay đã ngớt. Mặt trận đã chuyển tới những địa phương khác. Tôi không nghe thấy gì hơn nữa là tiếng bán hlăn đều đều trên mặt đường. Nhưng mà sự thê lương buồn rầu thì tôi nhìn thấy bàng bạc cùng khắp.

    Tôi biết là còn lâu lắm, năm mười năm nữa là ít không chừng, miền rừng núi đang ở trước mặt và chung quanh tôi mới vui lên. Cuộc chiến có thể sẽ chấm dứt. Nhưng dấu vết tàn phá của chiến tranh sẽ còn đầy đặc. Trong tâm hồn người.

    Tiếng Vận ở ghế sau đưa tôi ra khỏi giòng mơ màng:

    - Chu Pao kia rồi.

    Chiếc xe giảm tốc lực, chậm hẳn lại, rà rà theo lề đường.

    Khoa quay sang tôi:

    - Ngừng lại đây?

    Tôi gật:

    - Vâng, anh cho hai chị em xuống đây một chút.

    Vận dặn:

    - Đừng ở lâu quá. Khúc này, tình thế chưa an ninh lắm đâu.

    Tôi quay nhìn Vận:

    - Tôi cũng không muốn ở lâu làm gì.

    Chiếc xe ngừng lại. Cả bốn chúng tôi cùng bước xuống. Nằm ở phía trái, cạnh đường chừng hai cây số, ngọn đồi Chu Pao là một vết lở lói ghê rợn tôi chưa từng nhìn thấy ở một ngọn đồi nào. Từ sau ngày anh Kiện mất, tôi đã được nghe nói thật nhiều về Chu Pao. Được đọc những bài báo, những thiên ký sự thuật lại trận đánh đẫm máu diễn ra dưới chân đồi, trên đỉnh đồi Chu Pao. Được coi những tấm hình chụp lại từng gốc cây, từng hòn đá của Chu Pao trần trụi. Nhưng muốn thấy Chu Pao đích thực như thế nào, phải tới nhìn Chu Pao tận mắt.

    Cái hãi hùng của Chu Pao trước hết là một cảnh tượng tương phản. Chung quanh Chu Pao, có không biết bao nhiêu ngọn đồi khác. Ngọn đồi nào cũng nuột nà, cũng xanh thẫm. Cỏ cây trên những ngọn đồi ấy là một tươi tốt kín trùm. Tất cả đã bị đốt cháy. Tất cả đã bị tiêu diệt.

    Tôi bước mấy bước vô định trên mặt đường. Những hạt mưa nhỏ tạt nhẹ vào mặt. Gió từ phía Chu Pao thổi tới làm bay tà áo. Thốt nhiên, tôi chẳng còn kiếm tìm được gì ở đây. Một trận đánh đã chấm dứt. Một người thân đã nằm xuống. Thảm kịch được nhớ lại trên chính thước đất thảm kịch xẩy ra cũng không làm cho tôi thấy được anh Kiện nữa. Tôi đứng lại trên một bờ cỏ. Cúi đầu xuống. Đầu óc tôi tối đen.

    Khoa tới gần tôi:

    - Thôi, chúng mình đi về.

    Tôi ngửng đầu lên:

    - Em chẳng còn nhớ được anh Kiện như thế nào.

    Khoa nói giản dị:

    - Chúng ta phải quên.

    Khoa vòng tay lên ôm lấy vai tôi. Tôi đưa tay lên nắm lấy tay Khoa. Bàn tay tôi lạnh buốt. Lúc ở nhà đi, tâm hồn xúc động, hình ảnh anh Kiện sáng rỡ trong trí nhớ, tôi đinh ninh tới đây tôi sẽ khóc. Tôi muốn khóc. Khóc thật lớn. Cho ngọn đồi chết. Cho một người thân không còn. Nhưng cặp mắt tôi ráo hoảnh, không chảy ra được một giọt lệ nào. Đứng yên một lúc thật lâu rồi tôi nhẹ nhàng gỡ tay Khoa ra. Chúng tôi trở lại xe.

    Vận hỏi:

    - Tiện đường lên Khôngntum không?

    Khoa nhìn tôi, hỏi ý kiến.

    Tôi lắc đầu:

    - Em muốn về. Để hôm khác vui hơn, chúng mình đi Khôngntum.

    Suốt dọc đường trở về, chúng tôi không nói với nhau một lời nào. Tôi lại nghĩ đến Đạo.

    Khách sạn là một tòa nhà hai tầng. Mái ngói cong trũng. Những khung cửa sổ long gẫy ngó xuống mấy bực thềm dính đầy bùn đất. Trước khách sạn là một khoảng đất trống. Buổi sáng, buổi trưa, khoảng đất trống là địa điểm của những xe hàng rong, mấy sạp hàng bán quần áo cũ. Tôi dã đi qua cái khách sạn này nhiều lần. Đã dừng lại trước mấy cái sạp này nhiều lần. Một lần, tôi đã chọn được ở đây một cái áo mưa cũ cho Huyền. Hồi đó, Pleiku đông đúc hơn bây giờ, và khúc đừơng trước khách sạn là một cảnh tượng ồn ào, nhộn nhịp.

    Bây giờ là buổi tối. Những xe hàng rong đã bỏ đi. Những sập hàng chỉ còn là mấy phên gõ lổng chổng. Khoảng đất trống trải với mấy con chó đói luẩn quẩn bên cạnh những đống rác bừa bãi. Tôi đứng ở hè đường bên này, nhìn sang những khung cửa sổ khách sạn. Những khung cửa ấy đã sáng đèn.

    Sự ngại ngùng ở tôi tràn đầy. Nỗi lo sợ lớn nhất vẫn là có một người quen bắt gặp. Tôi nhìn trước nhìn sau. Con đường thưa thớt người đi. Những khuôn mặt xa lạ. Tôi cũng không thể kéo dài sự ngần ngại của mình. Hoặc là trở về, hoặc phải vào ngay khách sạn. Cuối cùng, tôi đánh liều vượt lòng đường đi sang.

    Cửa vào khách sạn mở rộng. Một cái ghế hàng đặt giữa thềm cửa, chắn lối vào. Một người đàn bà ngồi vắt chân chữ ngũ trong ghế bành. Người đàn bà đã đứng tuổi. Chừng ba mươi lăm, bốn mươi gì đó. Ngày trước người đàn bà hẳn phải có một nhan sắc khá quyến rũ. Ở cặp mắt sắc, vành môi đầy, hai bắp đùi tròn lẳn. Nhưng thời gian và một đời sống trác táng, buông thả, đã tàn phá nhan sắc ấy, đều không còn gì nữa. Ngọn đèn từ trên thềm cửa chiếu xuống, chỉ soi tỏ người đàn bà trong một vùng ánh sáng mờ đục. Nhưng tôi cũng nhìn thấy thật rõ, trên khuôn mặt người đàn bà những nếp nhăn mà một lớp phấn thật dầy cũng không bôi kín được. Người đàn bà mặc một cái áo cánh ngắn đã nhầu nát. Cái quần đen cũng vậy. Nhìn mặt, người ta nghĩ ả vừa đi phố về, hay đã trang điểm sẵn sàng đến sắp sửa đi đâu. Nhưng nhìn quần áo, lại có thể nghĩ ả vừa nằm, vừa rời khỏi một mặt đệm. Ả hút thuốc lá. Điếu thuốc cắm nghiêng giữa hai vành môi đỏ khé.

    Đứng bên cạnh người đàn bà là một người đàn ông thân hình cực kỳ to lớn. Y đen chủi như một cái cột nhà cháy. Với mái tóc cắt ngắn và cặp mắt thao láo, trắng dã, người đàn ông thở ra sự tàn bạo cục cằn. Tôi nghĩ đến một con thú rừng. Và rùng mình.

    Người đàn ông và người đàn bà đã nhìn thấy tôi từ bên kia đường. Họ đang nói chuyện với nhau. Chắc là một câu chuyện nhảm nhí. Thỉnh thoảng, người đàn ông lại ngửa cổ, cười ngặt ngẽo. Tiếng cười của y ồ ồ. Như tiếng nước chảy túa vào một lòng cống. Câu chuyện giữa họ ngừng lại. Họ cùng nhìn tôi bước lên bực thềm. Tôi đã nhìn thấy những người gái chơi vào khách sạn. Họ tự nhiên ra vào như ở nhà riêng, của gái chơi. Người đàn bà có phải là một gái chơi? Ả ngồi nghênh ngang như một bà chủ? Hay ả là chủ khách sạn?

    Tôi cúi đầu, lễ phép:

    - Chào bà?

    Người đàn bà nhìn tôi từ đầu đến chân, không trả lời. Giống như tôi là một thứ quái vật vừa đột ngột xuất hiện trước mặt ả. Người đàn ông đi tới một bước. Y đứng sừng sững trước mặt tôi.

    - Cô hỏi ai?

    tôi lúng túng:

    - Ông Đạo?

    Người đàn ông quay lại, trợn mắt nhìn người đàn bà. Người đàn bà nhún vai. Người đàn ông hỏi tôi.

    - Ông Đạo nào?

    - Một người mới đến ở trọ khách sạn.

    - Phòng số mấy?

    tôi lắc đầu:

    - Tôi không biết.

    Sự gắng gượng ở tôi đã tới cực điểm của gắng gượng. Thiếu một chút nữa, tôi xuống thềm, bỏ về. Mặt mũi tôi nóng bừng. Cảm thấy tay chân thừa thãi. Và sự có mặt trước bực thềm khách sạn của mình trơ trẽn và lố bịch.

    Người đàn bà:

    - Chẳng có ai ở đây tên là Đạo hết.

    Tôi cãi:

    - Có mà.

    Người đàn bà bật lên tiếng cười ngắn. Tiếng cười đục đục khàn khàn, tôi đã nghe thấy đâu đó, ở một ngõ hẻm Sàigòn, một đêm tôi đi chơi khuya với Đạo trở về. Ả hỏi:

    - Sao biết?

    - Tôi đã nhìn thấy ông Đạo vào khách sạn này. Nhưng nếu bà bảo không có thì thôi. Cám ơn.

    Người đàn ông giữ tôi lại. Y đã nhận ra tôi là ai. Y hỏi:

    - Cô ở quán Nhớ, phải không?

    Tôi đang không muốn cho mọi người biết mình là ai. Đã mất tự nhiên tôi càng mất tự nhiên hơn. Đành gật:

    - Vâng.

    - Để tôi hỏi lại cho cô xem sao? Thằng Tám, ra đây.

    Một thằng nhỏ đi ra. Nó ngồi sau cái quầy hàng ở phía sau, chỗ đi lên cầu thang. Thằng nhỏ khẳng khiu, tay chân như những ống sậy, da mặt tái mét.

    - Mày xem sổ có ai tên là Đạo không mày?

    Đứa nhỏ lừ lừ trở lại quầy hàng. Nó mở ở ngăn kéo ra một cuốn vở nhỏ. Cuốn vở cũng bẩn thỉu, cũng nhớp nhúa như cái mặt tiền khách sạn. Thằng nhỏ lật lật máy trang lắc đầu:

    - Không có tên Đạo.

    Người đàn ông bảo tôi.

    - Cô thử tả hình dáng người quen cô cho nó, xem có ai ở đây như thế không?

    Tôi lại lúng túng thêm một lần nữa. Tả Đạo như thế nào đây? Tả rằng chàng im lặng như đêm, lúc lạnh buốt như một tảng băng, lúc dữ dội như một trận lửa rừng? Tả rằng chàng có một đôi mắt thật buồn, một cuộc đời bí mật và chứa đầy giông bão? Tôi phác họa sơ sơ một vài nét về hình thức Đạo. Thằng nhỏ nghe, nhìn tôi gật.

    - Có người đàn ông ấy ở đây, nhưng không phải tên là Đạo.

    Tôi ngẩn người. Thế là thế nào. Người đàn ông bảo tôi:

    - Người quen cô đã dùng một cái tên khác.

    Thì ra thế. Tôi chợt nhớ. đúng rồi. Một lần Đạo đã nói chuyện với tôi rằng chàng đã ở hàng trăm khách sạn. Mỗi nơi chàng ghi một tên khác. Chàng có hàng trăm cái tên khác nhau. Tôi hỏi thằng nhỏ:

    - Ông ấy ghi tên gì?

    - Trần Hữu Thế.

    - Phòng số mấy em?

    - Phòng 24. Lầu hai. Nhưng ông chưa về.

    Tôi tần ngần không biết xử trí như thế nào. Tôi không thể có đủ can đảm trở lại khách sạn tìm Đạo một lần thứ nhì. Chỉ một lần thôi và một lần đã là qúa đủ. Đạo chưa về. Tôi phải đợi vậy. Tôi hỏi:

    - Tôi đợi được không?

    Người đàn ông gật, trả lời thay cho thằng nhỏ:

    - Cô có thể đợi ở trên phòng. Tám đưa cô ta lên phòng ông ấy.

    Không ngờ người đàn ông dáng địêu cộc cằn thô bạo lại tử tế đến thế. Y săn đón tôi, và sự săn đón chừng như làm cho người đàn bà ngồi vắt vẻo trong ghế bành khó chịu. Mụ dài giọng:

    - Anh Khê, mặc người ta.

    Tôi đưa mắt nhìn thằng nhỏ. Nó hiểu và lẳng lặng lấy chìa khóa đi lên cầu thang. Tôi cám ơn người đàn ông, đi theo thằng Tám. Cầu thang hẹp và tối. Những bực thang sàn sạt cát bụi. Những tay vịn lung lay. Phảng phất trong không khí ứ đọng một mùi khó chịu làm nôn nao, làm buồn nôn. Lên tới tầng lầu thứ nhất, một cửa phòng mở ra, một người đàn ông đi ra. Tôi cố tránh mà không kịp. Người đó là ông Thuận Phát, có tiệm bán thực phẩm ở Pleiku. Tôi vẫn đi mua hàng ở tiệm Thuận Phát. Ông Thuận Phát đi ra với một người con gái. Ông cũng muốn tránh mặt tôi. Và cũng tránh không kịp.Hai chúng tôi cùng ngượng ngập gật đầu chào nhau. Ông Thuận Phát đi vội xuống cầu thang.

    Ông Thuận Phát mướn phòng, hò hẹn với gái. Trời đất. Đang buồn thảm, tôi cũng muốn bật cười thành tiếng. Tôi chỉ nhìn thấy người đàn ông này qua cái cốt cách đạo mạo của một người chủ gia đình trong cái số những người chủ gia đình khả kính nhất của Pleiku. Ông Thuận Phát đông con. Liên. Người con gái trưởng, bạn cùng trường với tôi ngày trước đã lấy chồng. Tôi và Huyền đã đi dự tiệc cưới Liên. Hai người con trai lớn cũng đã lập gia đình, mỗi người có một cửa tiệm riêng. Hàng ngày, ông Thuận Phát ngồi sau quầy hàng giữa đám con cháu đông đúc vây bọc. Ông Thuận Phát là người cuối cùng tôi nghĩ có thể đụng đầu ở một hành lang khách sạn. Thì ra mọi con người đều có một đời sống thứ hai, trái ngược với cái đời sống phơi bầy ra bề mặt. Thì ra Pleiku có một tiền trường còn có một hậu trường. Và bộ mặt khả kính nhất, thường là csai bề ngoài che đậy và giả dối nhất. Tôi còn như thế mà. Tôi đang sống, thất lạc, đời sống thứ hai của mình.

    Cầu thang dẫn lên tầng lầu thứ hai tối hơn cầu thang tầng dưới. Cái bóng điện vàng đục. Ánh đèn trong bóng leo lét như một ánh nến. Hành lang trống trải. Những căn phòng đóng kín, tối đen. Thằng nhỏ đưa tôi tới căn phòng cuối dẫy. Nó mở cửa, với tay vào bên trong bật đèn. Đoạn lẳng lặng bỏ đi.

    Tôi bước vào phòng Đạo. Khách sạn thế nào căn phòng như thế. Tiều tụy Nhớp nhúa. Sát cửa vào là một cái tủ đứng. Một tấm gương đính ở cánh trái tủ. Tấm gương đã vỡ.

    Hai cánh cửa mở toang toác, bên trong trống rỗng, một cái giường thấp, nhỏ, kể gần cửa phòng tắm. Ngọn đèn giữa trần chiếu xuống một mặt đệm hoen ố, nhầu nát. Đạo đi không dọn giường, chăn gối còn bừa bãi. Dấu vết về sự có mặt của Đạo là chiếc valy nhỏ tôi đã nhìn thấy cạnh chân Đạo buổi sáng mưa phùn ở phi trường Cù Hanh. Chiếc valy nằm trên một cái hòm gỗ cạnh giường. Nắp valy không đóng.

    Căn phòng đè nặng lên tôi trong bầu không khí lặng lờ và tẻ nhạt của nó. Tôi bước mấy bước tần ngần. Tới gần giường. Cầm một mép chăn lên. Thả cái mép chăn xuống. Tới cửa phòng tắm. Ngó vào. Một chiếc khăn mặt vàng treo trên một cái giá sắt. Một cái ly đặt trên môt cái kệ thủy tinh. Trong ly, một hộp Hynos, một cái bàn chải. Nước từ vòi chảy từng giọt, từng giọt xuống cái bồn rửa mặt. Tôi vặn chặt vòi lại. Nước vẫn nhỏ, từng giọt, từng giọt.

    Tôi quay trở ra, tôi đứng trước cái valy mở rộng. Valy đựng một bộ đồ ngủ mầu xanh nước biển, một chai rượu đã uống hết phân nửa và một cuốn sách.

    Tôi nhìn vì tường rồi cả bốn vì tường. Lúc này tôi mới nhận ra những vết bẩn lem nhem trên mấy vì tường, thật ra là những hình vẽ, những giòng chữ. Nhiều người đàn ông, nhiều người đàn bà đã đến ở một đêm, nhiều đêm trong căn phòng khách sạn này. Dấu vết để lại của họ đó. Những câu viết nhảm nhí. Những hình vẽ thô tục. Tôi nhăn mặt, không dám nhìn kỹ hơn. Cuối cùng, tôi ngồi xuống một mép giường, chờ Đạo về.

    Mười lăm phút. Rồi nửa tiếng đồng hồ trôi qua. Như mỗi buổi tối mùa đông của Pleiku, đêm khuya lại thả xuống một trận mưa phùn cùng bóng tối. Tôi nghe thấy mưa trên mái, thật nhỏ cùng một lúc với tiếng chân nổi lên bên ngoài hành lang, phía cầu thang. Tôi đứng vụt lên. Tiếng chân tới gần. Đạo đã về. Tôi chờ đợi cái giây phút đối diện, chỉ còn nghe thấy nhịp tim đập như vỡ toang lồng ngực.

    Ý chừng thằng nhỏ không nói có tôi chờ đợi ở trên phòng. Đạo đứng sững trước cửa vào, nét mặt kinh ngạc bất động. Người đàn bà về cùng với Đạo cũng vậy. Người đàn bà đó là Mỹ Dung.

    Cảnh tượng chạm mặt là một cảnh tượng thật kỳ quái. Căn phòng khách sạn bừa bãi. Cửa phòng mở toang, ánh đèn vàng vọt. Trận mưa phùn rơi đều trên mái. Tôi đứng giữa phòng. Mỹ Dung và Đạo trên thềm cửa. Họ nhìn tôi. Tôi nhìn họ. Chúng tôi cùng như chết sững, không nói với nhau một lời nào.

    Người lên tiếng được là Mỹ Dung.

    - Anh có khách.

    Đạo gật, nhìn tôi không chớp.

    Mỹ Dung cau mặt:

    - Sao anh không nói?

    Đạo lắc, cặp mắt không rời tôi.

    - Không biết.

    Mỹ Dung bặm môi:

    - Lúc khác gặp nhau vậy nhé !

    Đạo lặng lẽ quay lại, đẩy Mỹ Dung đi. Họ đưa nhau ra cầu thang. Tôi nghe thấy tiếng Mỹ Dung.

    - Con nhỏ quán Nhớ đó. Đến kiếm anh có chuyện gì vậy?

    Đạo có trả lời hay không tôi không nghe rõ. Một phút sau Đạo trở lại. Tôi chờ cho Đạo vào phòng, nói với chàng:

    - Anh đóng cửa lại.

    Đạo làm theo. Cửa phòng đóng lại sau Đạo. Chỉ còn hai chúng tôi, như những buổi tối nào, năm ngoái ở Sàigòn.

    Tôi nghiến chặt hai hàm răng, giữ hơi thở đều hòa, cố giam nhốt mọi xúc động không cho Đạo nhìn thấy. Mày đến khách sạn với một mục đích duy nhất, nhớ lấy. Tôi nghe thấy tôi nói, khẩn thiết, với chính mình trong đầu. Mày đến để dứt khoát. Để tỏ thái độ. Để đoạn tuyệt. Để quyết liệt yêu cầu người đàn ông kia để cho mày được yên. Nhưng rồi hơi thở tôi đứt quãng. Toàn thân tôi run bắn. Và tôi chỉ còn biết đứng chôn chân nhìn Đạo mà không nói được một lời nào.

    Bằng một cử chỉ chậm chạp, Đạo moi túi quần lấy thuốc lá, châm lửa hút. Chàng tựa lưng vào cánh cửa, thở ra một hơi khói dài.

    Tôi nghe thấy tiếng mình:

    - Em không biết anh về với một người đàn bà. Nếu biết...

    Đạo dơ tay ngắt ngang:

    - Điều đó không quan trọng. Em đến từ hồi nào?

    - Ban nãy.

    - Lâu chưa.

    - Chừng nửa tiếng.

    - Thằng Tám mở cửa cho em vào?

    Tôi gật. Rời chỗ tựa là cánh cửa. Đạo bước thong thả lại gần bàn. Chàng đóng cái nắp valy lại, cúi đầu nghĩ ngợi.

    - Sao em biết anh ở đây?

    - Em thấy anh.

    Đạo quay lại:

    - Có phải cái người theo anh với Mỹ Dung đêm hôm nào là em?

    Tôi gật:

    - Phải. Em. Anh nhìn thấy?

    Đạo lắc:

    - Không. Chỉ cảm thấy có người đi theo. Thế thôi. - Điếu thuốc cháy đỏ. Một vồng khói lớn. Đạo tiếp - Tại sao em làm như thế?

    Tôi lắc:

    - Không biết.

    Sự thù hận, oán ghét Đạo trong tôi còn nguyên vẹn, còn đầy ắp. Người đàn ông này đã làm hại đời tôi, đẩy tôi vào một cuộc sống giả dối, một cuộc đóng kịch với tất cả những người khác. Nhiều lần, sự thu hận chất ngất, tôi đã thầm mong những tai họa ghê gớm nhất xẩy đến cho Đạo. Như Đạo bị đâm chết. Như Đạo bỏ mình trong một tai nạn xe hơi, vậy mà lạ thay, những lời nói đầu tiên với Đạo, vẫn là những lời nói của một người tình. Tôi bất chợt khiếp hãi vì sự mềm yếu chớm nhú của mình. Không chống cự lại sự mềm yếu, chỉ một phút nữa không hơn, tôi sẽ lại nằm trong tay Đạo.

    - Anh lên đây làm gì?

    Giọng tôi rắn đanh, quyết liệt. Lòng thù hận của tôi phải bừng bừng hơn bao giờ. Đạo phải được tôi nhìn ngắm và phán đoán qua một hình ảnh xấu xa, ghê tởm hơn bao giờ. Hai ngày cuối cùng ở Sàigòn Đạo lánh mặt tôi. Tôi gào thét, kêu gọi. Đạo nằm lỳ trong phòng không thèm trả lời, không thèm mở cửa. Buổi sáng tôi cùng Huyền trở về Pleiku. Đạo cũng không thèm nói với tôi một lời từ biệt. Sự bỏ rơi lạnh lùng, tàn nhẫn. Lại còn những câu nói của Đạo nữa. Mỗi câu là một gáo nước lạnh. Mỗi câu là một mũi nhọn đâm suốt trái tim tê tái bàng hoàng. Em với anh chỉ là chuyện chốc lát, một mối tình qua đường. Đạo đã nói với tôi như vậy đó. Em trở về nơi em ở đi, đừng ở lại Sàigòn làm gì. Chúng mình không bao giờ gặp lại nhau nữa. Mỗi câu nói là một sự thật phũ phàng, một cái tát làm tối tăm mắt mũi. Tôi thề nguyền không nhìn mặt Đạo nữa vì thế. Tất cả những câu nói cũ trở lại, nhẩy múa trước mặt tôi. Tôi quắc mắt nhìn Đạo. Sự tức giận bất chợt làm cho tay chân tôi run bắn. Thật may tôi đã kịp vào cái vị trí phải đứng của Đạo. Cái vị trí của một người tình.

    Sự trở mặt của tôi khá đột ngột. Đạo kinh ngạc. Điếu thuốc trên môi Đạo rớt xuống.

    Tôi quát lớn:

    - Tôi hỏi anh trả lời đi.

    Đạo ôn tồn:

    - Em không muốn gặp anh?

    Tôi cười nhạt:

    - Anh thừa biết. Sao còn phải hỏi. Có một khẩu súng trong tay lúc này, tôi đã bắn chết anh không ngần ngại.

    Đạo gật:

    - Ạnh biết. Với anh, trong em chỉ còn là sự thù hận mà thôi.

    - Đúng vậy. Anh đã biết thế, anh lên đây làm gì?

    Đạo thủng thẳng:

    - Anh không ngờ gặp Ngọc ở đây.

    Tôi bĩu môi:

    - Tôi ở đây mà. Không gặp là thế nào.

    Đạo vẫn giọng ôn tồn, dịu dàng;

    - Em nói em ở Nha Trang.

    Tôi đớ người. Quả là tôi có nói với Đạo như thế thật. Rằng tôi từ Nha Trang vào Sàigòn. Cũng chẳng hiểu tại sao tôi cảm thấy cần thiết phải nói dối như thế. Nhưng Đạo không nhớ lầm. Tôi đã nói dối như thế. Thâm tâm chẳng phải là chính tôi cũng chỉ muốn coi Đạo là người đàn ông của hai tuần lễ lánh nạn? Thâm tâm chẳng phải là tôi cũng muốn cuộc tình giữa tôi và Đạo chốc lát, và nó phải chấm dứt ngày tôi trở về Pleiku? Tôi tắt họng đứng im. Một phút. Rồi tôi ra khỏi được tình trạng lúng túng. Tôi lầm bầm:

    - Bây giờ thì anh biết rồi đó.

    Đạo gật:

    - Phải. Anh biết từ phút nhìn thấy em ở phi trường Cù Hanh.

    Đạo đẩy cái ghế tới gần tôi.

    - Ngọc, ngồi xuống đó.

    - Tôi không ngồi. Tôi về ngay bây giờ.

  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Đạo nhún vai đứng im. Chàng nhìn xuống đất, nét mặt nghiêm lặng, khép kín, hàng mi hạ thấp như che phủ một niềm đau đớn không tỏ lộ. Điếu thuốc cháy dở nằm trên mặt sàn. Đạo dùng mũi giầy dí nát mẩu thuốc. Mọi cử chỉ của Đạo đều lửng lờ, buồn bã. Tôi thấy tôi đang khổ sở. Thấy Đạo cũng chẳng sung sướng gì. Chúng tôi cùng là tai nạn của nhau. Tôi đứng lặng, nhìn từng cử chỉ nhỏ nhặt của Đạo. Cái lạ lùng phát hiện ra ở Đạo, mà tôi không thấy ở một người đàn ông thứ hai trên trái đất này là cử chỉ nào của Đạo cũng đến với tôi bằng hai ý nghĩa. Cử chỉ vừa thật đáng yêu. Cử chỉ vừa cực kỳ đáng ghét. Tôi tan nát, giữa cái đáng yêu và cái đáng ghét đó. Chúng là hai phía của một hố thẳm, một nhà ngục tình cảm đã giam cầm trái tim tôi suốt bấy lâu.

    Cái đáng ghét và đáng yêu đó lại chiếm đoạt tôi phút này. Tôi nghĩ mình phải chấm dứt câu chuyện. Chấm dứt tức khắc. Tức khắc ra khỏi căn phòng khách sạn này. Tức khắc trở về quán Nhớ. Nhưng cái đoạn đường từ chỗ tôi đang đứng ra cửa sao mà xa thế. Đúng là tâm trạng nửa muốn ở lại, nửa muốn bỏ đi. Tâm trạng vô lý này khiến tôi giận tôi vô tả. Bao nhiêu tình cảm hỗn loạn dâng lên như một ngọn triều tràn bờ. Tôi đau đớn. Tôi buồn tủi. Tôi uất hận. Tôi tan nát. Có một khẩu súng trong tay lúc này, chắc chắn là tôi sẽ chỉa nó về phía Đạo. Chĩa đúng ngực. Phía bên trái tim. Nhưng rồi tôi sẽ chẳng ấn được ngón tay vào cò súng, cho viên đạn bắn tới. Và tôi sẽ quăng khẩu súng đi.

    Mắt tôi nhòa đi. Hai tròng mắt đã đẫm lệ.

    Hai tay bưng lấy mặt, tôi nức nở khóc. Đứng trước mặt Đạo, tôi khóc bàng hoàng, tôi khóc thảm thiết, Đạo đứng im, để mặc cho tôi khóc.

    Chừng như tiếng khóc của tôi đã vọng xuống tận nhà dưới. Và thằng nhỏ, nghe thấy tiếng khóc đã chạy lên.

    Có tiếng gõ cửa, rồi là tiếng thằng nhỏ, ngoài hành lang:

    - Chuyện gì thế.

    Đạo nói lớn:

    - Bước đi, không việc gì đến mày hết.

    Tôi nín khóc. Tiếng chân bỏ đi. Đạo thong thả tiến lại trước mặt tôi. Chàng nhét vào tay tôi cái khăn tay của chàng:

    - Lau nước mắt đi.

    Tôi làm theo.

    Bàn tay Đạo đặt lên vai tôi. Tôi rùng mình. Tiếng chàng thật gần:

    - Ngồi xuống đó.

    Tôi làm theo. Đạo đi vòng về sau lưng tôi, tới ngồi ở thành giường. Sự im lặng trở lại. Tôi có cảm tưởng như tiếng khóc của mình đã bay khỏi trần nhà, lên mái, lên trời, tan vào trận mưa đều hạt trong đêm tối.

    - Em đến tìm anh làm gì? - Đạo hỏi.

    Tôi trả lời, không quay lại.

    - Đuổi anh khỏi Pleiku. Cấm không cho anh được ở đây nữa.

    - Sự có mặt của anh ở đây làm phiền em?

    Tôi gật:

    - Phải.

    - Người đàn ông ra đón Ngọc ở phi trường hôm ấy là thế nào?

    Tôi trả lời bừa bãi:

    - Chồng tôi đó.

    Giọng Đạo, điềm đạm:

    - Anh cũng đoán thế. Nhưng em yên tâm, anh không ở lại đây lâu, chỉ vài ngày nữa thôi.

    Tôi quay lại nhìn Đạo. Một năm đã trôi qua. Một năm thôi, nhưng Đạo đã già đi thật nhiều. Má chàng hóp lại. Tròng mắt trũng sâu. Cái nhìn chán chường, mệt mỏi. Một năm. Người đàn ông hào hoa ngồi một mình với ly rượu giữa phòng trà đó trở thành người đàn ông phong sương, ngồi đó, trên đệm nhớp nhúa của một căn phòng khách sạn tỉnh nhỏ. Cho tới những giờ phút này, tôi vẫn chẳng hiểu được tại sao tôi có thể rung động vì Đạo, rơi vào tay chàng. Chúng tôi là hai khuôn mặt cách biệt. Của hai thế giới hoàn toàn khác biệt. Như Pleiku khác biệt với Sàigòn. Vậy mà tôi đã rung động. Đã rơi vào. Tôi đứng vụt lên. Sự mù quáng nào cũng phải có một giới hạn. Tôi phải trở về quán Nhớ ngay bây giờ. Sự vắng mặt đã quá lâu và không giải thích được. Tôi thấy tôi đang hủy hoại đời mình. Một cách thật xuẩn ngốc. Sự hủy hoại phải ngừng lại.

    Đạo hỏi, không đứng lên:

    - Em đi đâu?

    - Tôi về.

    - Trời đang mưa đó.

    Người ta nói những trận mưa giữ người ở lại. Một bài hát nào còn nói trận mưa làm quên đường về. Khôi hài. Tôi phải về. Dù phải đội mưa mà về. Tôi đi thẳng ra cửa. Đạo đứng lên, đi theo. Chàng tới sát sau lưng.

    - Ngọc.

    Cũng chẳng phải là Đạo giữ tôi lại. Chàng không hề có một cử chỉ cản ngăn nào. Nhưng tôi nghe thấy chàng gọi tên tôi, như chưa một người đàn ông nào gọi tên tôi như thế và tôi không mở được cánh cửa nữa. Hơi thở Đạo phà vào gáy. Toàn thân tôi bỗng tê liệt, chết sững. Tôi muốn kêu lên một tiếng thật lớn. Muốn bỏ chạy ra ngoài hành lang. Cả hai sự việc rất dễ dàng này tôi đều không làm được. Đạo đặt tay vào lưng tôi, soay người tôi lại. Sự cưỡng chống ở tôi yếu ớt chiếu lệ. Theo đà tay Đạo, tôi từ từ quay lại. Chúng tôi nhìn nhau. Hai cặp mắt cùng mở lớn, thật gần. Tôi kêu lên một tiếng nhỏ trong cổ họng. Hai cánh tay Đạo đã là một vòng đai sắt êm ái khép chặt. Úp mặt vào vai Đạo, tôi theo chàng đi trở vào.

    Trận mưa bất chợt lớn. Nhịp mưa mau, chen lấn, cuống quýt. Nhịp tim tôi đập cùng nhịp mưa.

    Thật lâu. Thật lâu. Tôi không đoán được lúc này là mấy giờ. Nhưng đã mười hai giờ đêm hay là buổi sáng hôm sau cũng vậy mà thôi. Mọi chuyện đều không quan trọng nữa. Tôi đã đến với Đạo. Đã ở lại. Tôi đang nằm bên cạnh chàng.

    Đạo nằm ngửa, mặt nhìn lên trên. Một cánh tay chàng duỗi dài khỏi thành giường, hai ngón tay kẹp chặt một điếu thuốc cháy dở. Cánh tay kia đặt trên ngực. Cái nhìn của Đạo bất động. Hơi thở chàng đều hòa. Tôi nằm nghiêng, nhìn Đạo. Trong vùng ánh sáng mờ mờ, sống mũi Đạo nổi hỉnh, thẳng tắp, như một con đường cô đơn, tròng mắt chàng là một vũng sâu đầy bí mật.

    Tôi vừa sống một khoảng thời gian quên lãng. Trong khoảng thời gian này, tôi đã nhắm mắt, buông thả, không suy nghĩ, thả cho cuộc đời lùi lại, típ tắp về một hướng sau lưng. Bây giờ là sự nghĩ ngợi lười biếng trong yên lặng. Trận mưa đã lắng xuống. Nhịp mưa đều đều. Thêm nhiều phút yên lặng nữa. Cả hai chúng tôi cùng nghe mưa. Rồi Đạo cựa mình. chàng quay sang:

    - Em phải về rồi đó.

    - Mấy giờ rồi?

    Đạo đưa cánh tay lên, xem đồng hồ.

    - Mười một giờ.

    Tôi đẩy tấm chăn, đắp lên người, ngồi lên. Những hậu quả khốc liệt xảy đến vì cái hành động liều lĩnh sẽ làm tan nát đời tôi một lần nữa. Và không lâu gì. Chỉ lát nữa, chỉ buổi sáng ngày mai thôi. Nhưng phút này tôi không cảm thấy lo lắng chút nào về những hậu quả ấy. Chừng như tôi đã tự ý. Và chấp nhận cái chuyện phải trả. Phải trả bằng bất cứ giá nào.

    - Lấy cho em cái áo.

    Đạo nhổm dậy, với tay lấy cái áo tôi đã cởi ra và vắt ở đầu giường. Chàng trao cái áo cho tôi, nằm xuống như, cũ hút thuốc lá từng hơi dài và đều đặn. Tôi mặc áo, vuốt lại mái tóc, nhìn quanh quất.

    - Anh phải đổi phòng khác.

    - Sao vậy?

    - Căn phòng này ẩm thấp và nhớp nhúa quá.

    - Phòng nào cũng vậy mà thôi.

    Tôi cãi:

    - Cũng vậy thế nào được. Phải có những phòng sạch sẽ hơn. Trần nhà thủng nữa.

    - Sao em biết?

    Tôi chỉ tay lên mảng trần trên đầu:

    - Nước thấm xuống ở chỗ kia. Lúc mưa lớn, nước nhỏ xuống ướt mặt em, anh không thấy sao?

    - Không.

    - Em thấy. Anh đổi phòng khác đi.

    - Được. Sẽ đổi.

    Tôi cài hết hàng khuy áo, trèo qua người Đạo, bước xuống khỏi giường. Mặt sàn lạnh buốt. Tôi luồn chân vào đôi dép của Đạo, vào phòng tắm. Cái vòi nước vẫn nhỏ giọt. Tôi mở vòi cho nước chảy mạnh và nhìn khuôn mặt mình phản chiếu trong tấm gương đục. Khuôn mặt trong gương lúc này vừa là một khuôn mặt xa lạ vừa là một khuôn mặt quen thuộc. Tôi chưa nhìn thấy nó lần nào ở Pleiku. Đầy là lần đầu. Tôi đã nhìn thấy nó thật nhiều lần ở Sàigòn. Trong phòng Đạo. Trong phòng tôi lúc từ phòng Đạo trở về. Vào những giờ này. Tôi chợt nhớ đến Sàigòn. Sàigòn với những buổi tối nóng bỏng với giòng người ào ạt giữa một rừng tiếng động dầy đặc. Tôi rửa mặt, chải đầu, đi ra.

    Đạo vẫn nằm ở trên giường. Chàng vừa châm cho chàng một điếu thuốc mới. Tôi dừng lại ở ngưỡng cửa phòng tắm.

    - Sàigòn hồi này như thế nào?

    - Vẫn vậy.

    Đạo ngừng một giây. Khói thuốc xanh biết tỏa đầy trên mặt chàng. Chàng nói tiếp cho câu nói chưa nói hết:

    - Mỗi ngày một chán hơn.

    Tôi bật cười. Nhận thấy đó là tiếng cười đầu tiên của mình từ phút gặp lại Đạo.

    - Vì thế mà anh lên đây.

    - Không phải vậy.

    - Em vẫn không biết anh lên đây làm gì.

    Đạo xua tay:

    - Ngọc không cần biết.

    Tôi ngẫm người gật. Chịu. Với Đạo có những điều tôi khỏi cần phải biết thật. Biết cũng vô ích. Biết cũng thế mà thôi.

    - Người đàn bà ban nẫy...

    Đạo hiểu được sự thắc mắc của tôi. Chàng ngắt ngang:

    - Anh sẽ cấm nó không được nói gì hết.

    Chàng vẫy vẫy tay. Tôi lại gần, ngồi xuống thành giường. Đạo nhìn tôi đăm đăm. Tôi thích được Đạo nhìn tôi như thế.

    - Em có trở lại?

    Tôi trả lời ngoảnh nhìn đi chỗ khác:

    - Không.

    Đạo thở dài. Giọng chàng xa, trầm:

    - Có lẽ như thế là hơn.

    Đạo nói lửng lờ. Nửa ra chiều ngậm ngùi. Nửa ra chiều bình thản. Tiếng thở dài là một tiếng thở dài thành thật? Tôi không đoán được. Tâm hồn Đạo là một vực thẳm không đáy. Thân thể Đạo là một vùng tranh tối tránh sáng lẫn lộn. Chính Đạo cũng không hiểu Đạo. Tôi có cảm tưởng như vậy. Sự hoang mang làm tôi buồn rầu. Tôi muốn hỏi Đạo. Em là gì của anh đây? Một khuôn mặt anh chưa thể quên? Một hình bóng anh còn muốn theo đuổi? Sự rung động thành thật của anh hay một trò đùa chốc lát? Tôi không dám hỏi. Không dám bắt Đạo nói thật. Câu trả lời nào của Đạo cũng sẽ chỉ cho tôi đau đớn.

    - Trưa hôm nào anh đến quán Nhớ?

    Đạo ngạc nhiên:

    - Sao em biết?

    - Quán đóng cửa, nhưng em nhìn thấy anh từ trong nhà.

    Đạo chớp mắt, nhớ lại:

    - Anh có gõ cửa mà !

    Tôi gật:

    - Phải, anh có gõ cửa.

    - Sao em không mở?

    - Em không muốn thấy mặt anh trưa hôm đó.

    - Tối nay thì thế nào?

    Tôi cố giữ cho giọng nói của mình lạnh lùng, bình tĩnh:

    - Tối nay cũng vậy.

    Tôi nhấn mạnh:

    - Tối nay em cũng không muốn thấy mặt anh. Anh đã ra khỏi đời em. Anh chẳng còn nghĩa lý gì với em nữa.

    - Tại sao em đến?

    - Đến để nói cho anh biết thế. Anh đừng lầm tưởng em đến vì một mục đích khác.

    - Không, không có chuyện đó.

    Đạo trả lời chỉ là để tránh cho tôi một ngượng thẹn rõ rệt. Tôi nói xong, mặt mũi đã muốn đỏ bừng vì xấu hổ. Mới mấy phút trước đây thôi, tôi đã nằm trong tay người đàn ông này. Trước những cử chỉ ân ái cuồng nhiệt, tôi đã đáp lại. Cũng bằng những cử chỉ ân ái cuồng nhiệt. Tôi đến, chẳng phải vì tôi đã chẳng cưỡng chống được sự thèm muốn gặp Đạo, được sống một buổi tối gần chàng? Tôi cũng đứng lên. Đạo chỉ cần nắm tay tôi lại, tôi sẽ ở với chàng đến buổi sáng ngày mai.

    Nhưng lần này, Đạo không giữ. Chàng nằm yên nhìn tôi đi ra. Tới thềm cửa, tôi quay lại.

    - Anh không được đến tìm em ở quán Nhớ nữa.

    Đạo không trả lời. Tôi mở cửa, bước nhanh ra ngoài hành lang.

    Đêm lạnh buốt. Tôi rảo bước, gần như chạy xuống. Hết tầng lầu thứ hai, tôi không đụng đầu với ai. Hành lang vắng ngắt. Những căn phòng im lìm. Hoặc đó là những căn phòng ấy đều ngủ say. Tôi thở ra nhẹ nhõm hy vọng mình rời khỏi khách sạn không ai biết. Nhưng không, thằng nhỏ vẫn còn ngồi đó ở sau quầy. Và người đàn ông cao lớn vẫn đứng cạnh người đàn bà ngồi trong ghế bành. Nghe thấy tiếng chân tôi, cả hai cùng quay lại.

    Người đàn ông nhoẻn miệng cười. Hàm răng y trắng nhởn, y hỏi:

    - Cô không ở lại sao?

    Tôi mím môi, cúi gầm mặt, đi mau qua y không trả lời. Tiếng cười của người đàn bà đuổi theo. Gáy tôi nóng bừng. Ả nói:

    - Tưởng có một trận đánh ghen chứ?

    Gã đàn ông cười theo:

    - Có rồi cũng không chừng.

    Ả đàn bà:

    - Con gái bây giờ đã ghê gớm chưa. Anh thấy không?

    Tôi bước thật nhanh trên mấy bực thềm. Sự đảo hổ làm tôi run rẩy muốn té ngã. Trận mưa đã ngớt, nhưng mặt đường còn ướt loáng. Tôi đảo mắt kiếm một chiếc xe lam. Nhưng Pleiku giờ này không còn một bóng xe nào. Đi được một quãng, tôi thở ra một hơi dài, bước chậm lại.

    Cùng một lúc, hai bóng người mặc áo mưa từ đầu phố đi tới. Một người đàn ông và một người đàn bà. Tôi nhận ra họ. Họ cũng đã nhận ra tôi. Đó là Khoa và Thư. Tôi đành đứng lại. Buổi tối hôm nay là một buổi tối đầy đặc những cái bất ngờ lớn lao cho tất cả mọi người. Cho Đạo trước nhất. Đạo không thể ngờ tôi đến tận khách sạn, lên tận phòng Đạo. Khoa không thể ngờ giờ này còn gặp tôi lang thang một mình ngoài đường. Chính tôi, tôi cũng không ngờ còn gặp anh em Khoa lúc này. Khoa, vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ:

    - Trời ơi ! Ngọc, đi đâu thế này.

    Như mọi lần Thư chỉ lặng lẽ nhìn tôi, cái nhìn vừa dò xét, vừa riễu cợt. Không biết trả lời Khoa thế nào, tôi gượng cười hỏi lại:

    - Anh đi đâu vậy?

    Khoa chỉ Thư:

    - Đi nằm rồi đó chứ. Cô này tự nhiên kêu đói bụng, muốn đi ăn một lát mỳ. Đành đưa cô ấy đi.

    Tôi hỏi Khoa, tránh cái nhìn của Thư:

    - Đã ăn chưa?

    Khoa giơ hai cánh tay lên đầu:

    - Tôi tìm mỏi chân rồi mà chưa thấy.

    Khoa chỉ tay về dẫy phố trên cao:

    - Đi ăn cùng rồi anh lấy xe hơi đưa Ngọc về.

    Tôi không biết làm thế nào hơn là đi theo. Chúng tôi leo một con dốc khá dài. Con dốc làm bước chân tôi mỏi rời. Tôi phải vịn vào Khoa. Đầu óc tôi váng vất. Hai thái dương choáng váng. Khoa thì không nhận thấy ở tôi một cái gì khác thường hết. Sự gặp gỡ tình cờ, cuộc đi ăn đêm không định trước với Khoa là một sung sướng tràn đầy. Khoa cũng đã quên đi, không hỏi tôi đi đâu về nữa.

    Lên hết con dốc là một ngã tư. Chúng tôi đã tới khu phố cao của Pleiku. Khu này quang đãng và nhiều ánh sáng hơn những khu phố khác. Một vài tiệm hàng rong còn bán hàng cạnh những gốc cây. Đám khách ăn ngồi trên những cái ghế thấp, đối diện với những thùng nước dùng khói bốc nghi ngút. Một tiệm mì còn mở cửa. Đèn néon trong tiệm ném một thứ ánh sáng xanh lạnh thật xa ra mặt đường.

    Khoa chỉ tiệm mì, hỏi tôi:

    - Vào kia nhé !

    Tôi quay sang Thư:

    - Thư đồng ý không?

    Thư nhún vai:

    - Thế nào cũng được.

    Tôi muốn gây cảm tình với Thư. Cho yên chuyện.

    Suốt đoạn đường, tôi đã nhìn sang Thư nhiều lần. Với ý định bắt chuyện, thay thế cái không khí lạnh lùng cách biệt giữa Thư và tôi bằng một bầu không khí mới, thân mật hơn. Nhưng mỗi lần tôi quay sang là mỗi lần Thư vội vã nhìn đi nơi khác. Sự ác cảm lộ liễu ở Thư đối với tôi vẫn nguyên vẹn.

    Tôi theo Khoa vào quán. Ánh đèn của gần mười ngọn néông đính nơi lưng chừng những vì tường trong những khoảng cách đều đặn làm tôi chói mắt. Phải nhíu mày lại và định thần tôi mới nhìn thấy Mỹ Dung.

    Người đàn bà ngồi với một người đàn ông trẻ tuổi ở bàn ăn trong cùng. Mỹ Dung vẫn mặc cái áo mưa trên người như lúc ả đến khách sạn với Đạo. Người đàn ông mặc một bộ đồ nhà binh màu xám thâm. Mỹ Dung đã nhìn thấy tôi theo Khoa và Thư vào quán. Ả nhìn tôi, tủm tỉm cười rồi nghiêng đầu nói thầm với người đàn ông ngồi đối diện. Người đàn ông nghe, nhìn tôi, gật gù. Sự chú ý của họ làm tôi mất hẳn tự nhiên. Tôi không nghĩ được người quân nhân trẻ tuổi kia là ai. Chỉ thấy nét mặt y quen quen. Hình như y đã tới uống cà phên ở quán Nhớ vài lần.

    Khoa dẫn chúng tôi tới một bàn gần bàn Mỹ Dung, kéo ghế cho tôi ngồi xuống. Nghĩ đến phút đụng đầu với Mỹ Dung ở khách sạn, tôi chỉ muốn độn thổ. Tôi ngồi lặng, nhìn thẳng, chỉ mong sao cho bữa ăn đêm chấm dứt mau chóng.

    Khoa hỏi:

    - Ngọc ăn gì?

    Tôi gượng cười:

    - Anh ăn đi, em chẳng thấy đói bụng chút nào.

    Khoa không chịu như thế. Khoa lớn tiếng gọi đồ uống và ba tô mì vịt. Ném cái nhìn sang bàn Mỹ Dung, Khoa reo lên:

    - Kìa, Tuân.

    Chàng quân nhân trẻ tuổi mỉm cười, giơ tay ra dấu chào Khoa. Y chào luôn tôi. Tôi miễn cưỡng gật đầu chào lại.

    Khoa hỏi Tuân:

    - Ở đâu về vậy?

    - Khôngntum.

    - Trên ấy có yên không?

    Chàng quân nhân trẻ tuổi nhún vai:

    - Cũng yên. Không được yên lắm.

    Khoa ghé vào tai tôi:

    - Anh Tuân. Một người bạn. Anh giới thiệu nhé !

    Tôi lắc đầu.

    Ba tô mì được đưa tới trên một cái khay lớn. Trong mỗi tô, một miếng vịt đỏ thắm, béo ngậy, nằm giữa những sợi mì nhuần nhiễn. Mùi mì, mùi thịt thơm phức. Tiệm mì chúng tôi đang ngồi làm tiệm mở cửa khuya nhất và cũng là tiệm mì nổi tiếng nhất của Pleiku. Khoa đưa đũa cho tôi ăn, Thư nhìn cái cử chỉ âu yếm săn sóc của Khoa cười khẩy:

    - Đừng đưa đũa.

    Khoa ngạc nhiên:

    - Sao vậy?

    - Đưa đũa ghét năm, đưa tăm ghét đời.

    Khoa cười, nháy mắt với tôi:

    - Ghét thế nào được. Đưa đũa, đưa tăm, là yêu năm, yêu đời.

    Tôi gắng gượng nuốt một miếng mì, cho Khoa vừa lòng. Nhìn tô mì trước mặt tôi nhớ đến một tô mì khác. Đêm đó, ở rạp chiếu bóng ra, Đạo đưa thẳng tôi vào Chợ Lớn, xe chạy qua khách sạn. Phòng tôi còn sáng đeè. Huyền chưa ngủ, để đèn sáng, chờ tôi về. Đáng lẽ, tôi phải từ chối cuộc đi chơi đêm, về phòng ngay lúc đó. Nhưng bên cạnh Đạo, lý trí và nghị lực tôi đều tan biến. Và ngã đầu vào vai Đạo, tôi liều lĩnh để mặc chàng kéo dài đến bao giờ cũng được, những giây phút gần nhau. Sàigòn thật đẹp, đêm hôm đó. Nếu trời pleiku quanh năm là mùa thu, mùa đông của trời Sàigòn suốt hai tuần lễ tôi ở là mùa xuân, mùa hạ. Đêm gọi sao lên. Sao lên đủ mặt, không thiếu một vì nào. Một chút nóng của buổi chiều còn lại cộng với một chút lạnh của đêm vừa đem tới tạo thành một thứ không khí vừa ấm áp vừa mát mẻ, trong đó tất cả những cảm giác, tôi đểu mở tung ra.

    Xe chạy hết đường Trần Hưng Đạo, tới đường Đồng Khánh. Đạo ra hiệu cho xe dừng lại. Chàng xuống xe, nắm tay tôi, nói vắn tắt:

    - Đi ăn mì ở khu Nguyễn Tri Phương.

    Tôi chưa từng tới khu Nguyễn Tri Phương bao giờ. Với Đạo, đêm đó là lần đầu. Tưởng chỉ là một vài tiệm, một góc đường, tôi kinh ngạc khám phá thấy cả một khu vực ăn uống mênh mông náo nhiệt. Đèn sáng như sao xa. Bàn ghế, hàng quán từ trong những cửa tiệm đầy ứ tràn chiếm kín khắp những hè đường, xe cộ đông đặc, người đi chen chân.

    Đám con gái Tàu buôn lách thoănt thoắt giữa những dãy bàn ghế liền sát. Những tiếng mời gọi ơi ới. Tôi nắm chặt tay Đạo, đi giữa một vùng âm thanh hỗn độn vây bọc. Tôi nhìn thấy những con sò huyết, những con cua thịt chín vàng trên những lò than đỏ rực. Tôi nhìn thấy những hàng bán trái cây với một núi trái cây đủ loại đầy ắp giữa những xe mì, phá lấu, hủ tiếu, nước ngọt, không thiếu một thứ nào.

    Ánh sáng, sự đông chen ngoài sức tưởng tượng làm tôi bối rối. Đạo thì thản nhiên như không. Đi với tôi, giữa một rừng người chàng cũng dửng dưng cách biệt như những khi và ở những nơi chốn chàng chỉ có một mình. Đêm khuya là của Đạo. Từ phút lặn mặt trời, cuộc sống thuộc về chàng. Trong đêm, Đạo sống, như đêm với chàng là một hòa hợp toàn hảo.

    Đi gần hết khu phố, chúng tôi mới tìm được một cái bàn trống. Nhớ đêm đó, tôi đã cười nói, đã sung sướng. Nhớ đêm đó, tôi đã quên hết. Không một ai để ý đến chúng tôi. Tô mì đưa ra, tôi ăn ngon lành. Bên kia bàn, Đạo ngồi ngó tôi, dịu dàng. Riêng đêm đó ánh mát chàng dịu di cái thoáng khốc liệt mà mỗi lần chạm tới, tôi vẫn thấy bồi hồi lo sợ không đâu.

    Rời khỏi khu Nguyễn Tri Phương, tôi tỏ ý muốn đi bộ thêm một quãng đường nữa. Khu vực ăn uống ồn ào vừa lìa khỏi, chúng tôi đã đi trên những hè đường im lặng, phủ đầy bóng lá. Qua một ngôi chùa Tàu. Hàng rào sắt cao. Bên trong, những thềm đá, những gờ mái cong vút. Đi qua một trường học Tàu. Bên trong, sân chơi mênh mông, những hành lang dài, đèn treo giữa trời trong những khoảng cách đều đặn như trong một sân quần vợt. Rồi tới những con phố nhỏ hơn, tốt hơn, với những tên phố lạ hoắc. Những chiếc xe ba gác ngủ ghếch đầu trong một bãi hoang. Một vài con chó lang thang, một máy nước công cộng, nước chảy đều đều xuống một khoảng trũng bóng loáng. Gió đêm. Sự im lặng. Hai cái bóng chúng tôi lúc hiện lúc mất. Tiếng chân. Tiếng chân tôi trong tiếng chân Đạo.

    Đêm đã khuya lắm, tôi mới về tới khách sạn. Quầy hàng vắng ngắt. Người bồi phòng ngủ vùi trên một chiếc ghế bố đầu hành lang. Hai chúng tôi nhìn nhau cùng nhẹ bước lên, Đạo đưa tôi tới cửa phòng. Tôi mở cửa. Nhìn vào. Bên trong tối đen. Huyền chờ không được, đã ngủ. Tôi không vào phòng mình. Đêm hôm đó, tôi lại ở bên phòng Đạo.

    - Ngồi thừ ra, ăn đi chứ.

    Tiếng Khoa làm tôi giật mình. Tôi gượng ăn vài miếng nữa rồi đẩy cái bát ra xa. Bàn bên cạnh, Mỹ Dung và chàng quân nhân trẻ tuổi đã ăn xong. Tới trước bàn tôi, họ dừng lại.

    Tuân bắt tay Khoa. Khoa nói:

    - Còn ở đây không?

    Tuân lắc đầu:

    - Sáng mai đi sớm.

    Khoa hỏi:

    - Bao giờ về được?

    - Không rõ. Hy vọng là tuần sau.

    Khoa nói:

    - Có rảnh lại chơi nhé !

    Tuân gật:

    - Nhất định.

    Tuân nhìn tôi, tủm tỉm rồi hỏi Khoa:

    - Bao giờ đấy?

    Khoa hiểu ý câu hỏi nhưng làm bộ ngạc nhiên:

    - Bao giờ là cái gì?

    - Đừng dấu nữa. Pleiku nhỏ lắm. Chuyện gì của ai mọi người đều biết. Bao giờ là bao giờ cho uống rượu mừng.

    Khoa cười:

    - Chưa có gì đâu.

    Tuân chưa chịu bỏ đi:

    - Nhưng sẽ có.

    Khoa đành trả lời:

    - Lúc có anh sẽ là người biết trước nhất.

    Tuân gật:

    - Được lắm. Lần sau tôi về sẽ đòi anh đưa đến quán Nhớ uống cà phê.

    Khoa nhìn tôi, trả lời Tuân:

    - Tưởng gì, chuyện đó dễ quá.

    Trong khi hai người đàn ông nói chuyện với nhau, Mỹ Dung nín thinh, nhìn tôi. Rồi ả khoác tay Tuân đi ra.

    Mười phút sau, chúng tôi cũng rời khỏi tiệm. Tới trước tiệm bào chế tôi cương quyết đòi đi suốt quãng đường còn lại một mình.

    Khoa nhăn nhó:

    - Em về một mình thế nào được.

    - Không sao đâu, em thích thế, để mặc em.

    Khoa đành để tôi đi. Mặt đường Pleiku lúc này đã khô ráo. Tôi đi giữa lòng đường nhớ lại câu nói đùa của chàng quân nhân trẻ tuổi. Pleiku nhỏ hẹp thật. Chuyện gì của ai che dấu kín nhẹm đến đâu, mọi người cũng biết. Pleiku cách biệt với hết thảy nhưng với chính nó thì không. Điều này cũng lại đúng nữa. Chuyện bí mật giữa tôi và Đạo, chỉ trong một buổi tối đã thêm nhiều người biết. Đó là thằng nhỏ ở khách sạn. Đó là người đàn ông cao lớn tên Thọ và người đàn bà ngồi trong ghế bành trước thềm khách sạn. Ông Thuận Phát nữa, ông Thụân Phát cũng bắt gặp quả tang tôi tới phòng Đạo. Nguy hiểm nhất là Mỹ Dung. Thư cũng đã nghi ngờ. Bao giờ đến lượt Khoa? Khoa sẽ phản ứng như thế nào?

    Những câu hỏi này tôi đều không tìm được trả lời. Cho đến khi về tới quán Nhớ.


  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 6
    Con đường lờ mờ hiện hình giữa một vùng cỏ dại tràn chiếm. Cỏ dầy đặc ở phía bên kia hàng rào kẽm gai ngăn chia con đường cụt với một bãi hoang, ở đó là một rừng cỏ um tùm cao ngang tầm người.

    Chiếc xe jeep của Vận vừa ngừng lại trước cái cổng gạch xiêu đổ. Bánh xe lún sâu vào lòng đất ẩm ướt. Vận để yên cho máy nổ.

    - Tôi chờ Ngọc không?

    Tôi chưa kịp trả lời Vận. Rừng cỏ bên kia hàng rào kẽm gai, con đường cụt không một bóng người, cái cổng gạch xiêu đổ đang vây bọc lấy tôi trong một cảnh tượng hoang vu rùng rợn làm ngừng đứng hơi thở. Tôi có cảm tưởng như chiếc xe vừa ngừng lại bên cạnh một lòng huyệt, một nghĩa địa, đây chỉ là khúc đường cụt trước chỗ ở của Dã Thụy. Tôi ngồi lặng. Tâm trạng ngẩn ngơ. Cái nhìn bàng hoàng. Vận đập vào cánh tay tôi nhắc lại câu hỏi. Tôi giật mình, trả lời:

    - Không. Nhưng lát nữa anh trở lại được không?

    Vận gật:

    - Được. Chừng bao nhiêu lâu?

    - Một tiếng hay hơn gì đó. Tôi không muốn về ngay.

    - Tôi cũng vừa định nói với Ngọc như thế. Đừng về ngay. Nó đang mong gặp Ngọc và chắc có nhiều điều muốn dặn dò Ngọc.

    Tôi lo lắng:

    - Dặn dò?

    Vận gật:

    - Phải. Dặn dò trước khi đi.

    Tôi nhăn mặt:

    - Dã Thụy đau nặng đến thế kia ư?

    Vận lại gật:

    - Và lần này không như các lần trước. Điều duy nhất Dã Thụy làm tôi ngạc nhiên là điều gì Ngọc biết không?

    - Làm sao tôi biết được.

    Vận nhún vai:

    - Điều mọi người đều biết từ lâu. Là chẳng hiểu tại sao Dã Thụy còn sống đến bây giờ. Tôi gặp nó ban nãy rồi. Thôi lát nữa tôi quay lại đón.

    Tôi xuống xe. Vận xoay hết một vòng lái. Chiếc xe lượn một vòng. Những thân cỏ bị nghiền nát kêu lạt sạt. Tôi cất bước đi qua cái cổng gạch. Chỗ ở của Dã Thụy trên lều hết như mấy lần tôi tới đây. Căn vườn bỏ hoang. Cỏ trong vườn um tùm như cỏ ngoài đường. Mặt đất rêu phong từng quãng. Những cái rãnh bị nước soi mòn vẽ thành từng vệt ngoằn ngoèo trên lối đi. Đất ở đây cũng chằng chịt những nếp nhăn phiền muộn. Tim tôi thắt lại khi tôi đứng trước cánh cửa khép hờ của căn lều gỗ ở cuối vườn. Tôi gõ cửa. Không có tiếng ai trả lời:

    - Anh Thụy, NGọc đến thăm anh đây.

    Tôi nói lớn và đẩy cửa bước vào. Túp lều gỗ được ngăn chia làm hai phần bằng một bức vách mỏng cao tới đầu người. Phần ngoài dùng làm xưởng họa. Thoạt đầu tôi không nhìn thấy gì. Một thứ bóng tối ngưng đọng đã lâu ngày bao phủ căn phòng kín mít. Phải nhíu mày, định thần, căn phòng mới lờ mờ hiện ra.

    Đó là một căn phòng trống trơn, không có một đồ đạc nào hết ngoài cái giá vẽ và những bức họa. Cái giá vẽ đổ nghiêng, mặt giá úp vào mặt vách. Những bức họa ngổn ngang cùng khắp. Trên những bức vách, trong những xó góc, trên nền nhà, một mùi ẩm mốc lên, thứ ẩm mốc làm bằng những lớp bụi âm thầm không biết tự bao giừ và cỏ cây rữa nát tràn vào trong nhà qua những bức vách mỏng mảnh.

    Tôi lần bước trong bóng tối, tới cánh cửa nhỏ ở cuối phòng. Tôi đẩy cánh cửa bước vào. Ánh lửa leo lét từ một cây nến phơi bầy trước mắt tôi cảnh tượng thê thảm. Dã Thụy nằm trên chiếc giường sắt cũ. Một tấm chăn dạ đắp ngang ngực, mép chăn rớt xuống mặt đất. Căn phòng nhỏ cũng trống trơn gần như căn phòng bên ngoài. Đồ đạc thu gọn trong một cái tủ đứng và một cái bàn viết. Trên bàn, những hộp mầu và những ống thuốc. Thêm cái ghế đẩu ở đầu giường. Trên mặt đẩu một cái ly, một hộp sữa và một cái bình thủy.

    Tôi lại gần. Không cần nhìn kỹ người bệnh, tôi cũng biết Vận nói đúng. Bệnh hoạn chung sống thường trực với Dã Thụy. Nhưng lần đau này không giống với những lầ n đau trước. Mùa đông này với Dã Thụy là mùa đông cuối cùng.

    - Ngọc đấy à.

    Tiếng nói Dã Thụy yếu hụt. Chỉ còn như một hơi gió thoảng. Tiếng nói cũng thoi thóp như cái thân hình Dã Thụy dưới lớp chăn mỏng. Một thân hình gầy đét, mỏng tanh, dán chặt xuống mặt đệm.

    Tôi ngồi ghé xuống thành giường:

    - Ngọc đây. Anh thấy trong người thế nào?

    - Như thường, như mọi ngày.

    Dã Thụy cố trả lời tôi bằng một giọng khôi hài. Tấm chăn động đậy. Người bệnh cố gắng ngồi lên. Tôi đặt tay lên ngực Dã Thụy, xúc động:

    - Anh cứ nằm yên như thế.

    Dưới bàn tay tôi, lồng ngực Dã Thụy chợt vơi hẳn đi. Thụy vừa thở ra một hơi thật dài.

    - Ngọc đặt lại cho tôi cái gối.

    Tôi luồn tay dưới gáy Thụy, mang cái gối cho cao hơn. Dã Thụy nhìn tôi đăm đăm. Da mặt Thụy xanh mét. Tròng mắt lờ đờ, sâu trũng. Nhưng từ phút tôi ngồi xuống thành giường, tròng mắt ấy đã ngời lên một ánh mừng rỡ.

    - Ai đưa Ngọc đến?

    - Anh Vận.

    - Nó đâu rồi?

    - Lát nữa Vận sẽ trở lại. Anh cần gì Vận không?

    Thụy lắc đầu:

    - Hỏi thế thôi. Tôi chỉ cần gặp Ngọc. Cám ơn Ngọc đã tới.

    Tôi nghe và tôi chảy nước mắt. Trong đám bạn hữa hằng ngày lui tới quán Nhớ, trước sau Dã Thụy vẫn là người tôi quý mến nhất. Quý mến nhất và cũng thân thiết nhất. Nhiều lần, tôi đã tự hỏi. Tại sao giữa Dã Thụy và tôi lại có sự thân thiết đặc biệt này. Phút này tôi mới tìm được câu trả lời. Tình bạn giữa hai chúng tôi thắm thiết bởi vì nó ngắn ngủi. Tôi thân nhất với Dã Thụy. Bởi vì một ngày tôi sẽ khóc Thụy, sẽ đưa bạn đến nơi an nghỉ cuối cùng. Cái ngày ấy đã gần tới. Đã thấp thoáng.

    Tôi khóc không tiếng. Trời Pleiku của những người trẻ tuổi lạc lõng là bọn chúng tôi đã buồn, tới buổi sáng hôm nay càng buồn thảm hơn. Chúng tôi sống cô đơn và không ai làm được gì cho ai hết. Thụy nhìn thấy những giọt nước mắt tôi chảy đều đều xuống hai gò má. Thụy chưa chết, tôi đã khóc. Chưa có đám táng, tôi đã ở đằng sau một linh cửu tưởng tượng. Thụy nằm trên giường. Tôi ngồi trên thành giường. Chúng tôi đang trò chuyện với nhau. Nhưng tôi có cảm tưởng như tôi còn ở lại mà Thụy thì đã đi rồi. Thật xa. Vào cái phía bên kia của một thế giới khác.

    - Tại sao Ngọc khóc?

    Tôi gắt lớn:

    - Anh còn phải hỏi.

    Thụy ôn tồn:

    - Hỏi chút. Tại sao Ngọc khóc? Việc phải đến sớm muộn với tôi thì đến lúc nào cũng thế mà thôi. Hãy nhìn tôi như thế.

    - Anh không thể để mặc anh như thế này. Lát nữa Vận đến, chúng tôi sẽ đưa anh đi bác sĩ.

    - Bệnh tôi không chữa được nữa. Tôi cũng không muốn kéo dài thêm nữa tình trạng này.

    - Anh có muốn về Quy Nhơn với gia đình anh không?

    Thụy ngẫm nghĩ, cặp mắt nhìn thẳng lên trần nhà. Một phút im lặng. Gió thổi rào rào trên mái. Đó là thứ gió khô buốt lạnh, từng đợt trùng trùng kéo chạy trong những khoảng không gian dài rộng. Thứ gió sẽ thổi suốt một mùa đông Pleiku. Thứ gió làm xác xơ những phố thấp, lồng lộng trên những phố cao. Giọng Dã Thụy đều đều, rất nhỏ, tôi phải lắng tai mới nghe thấy:

    - Tôi đã nghĩ tới chuyện đó. Là về Quy Nhơn. Nhìn biển cũ một lần cuối cùng. Chết dưới mái gia đình mình. Nhưng tôi không có can đảm chết giữa những người xa lạ. Căn lều nhỏ thân thiết với tôi hơn mái gia đình tôi. Ngọc và những người bạn tôi gặp ở đây cũng vậy. Thân thiết hơn là những người thân trong gia đình tôi.

    Lại một phút im lặng. Trời Pleiku cuối năm chỉ còn một tiếng động. Đó là tiếng gió, chung quanh, cùng khắp. Tôi kéo tấm chăn lên sát cằm Thụy. Thụy đẩy tấm chăn ra.

    - Đỡ một tay cho tôi ngồi dậy.

    Tôi làm theo. Thụy ngồi tựa vào thành giường, nhắm nghiền mắt lại. Chỉ cái việc ngồi, Thụy chừng như đã đứt hơi. Tôi không biết làm gì hơn là chờ đợi, Thụy mở mắt:

    - Ngọc tới mở dùm tôi cái ngăn kéo kia.

    Tôi đi tới cái bàn nhỏ, mở ngăn kéo, Thụy nhìn theo hỏi:

    - Trong đó có một bì thư. Ngọc nhìn thấy không?

    Tôi gật:

    - Thấy.

    - Mang lại đây cho tôi.

    Tôi mang phong thư tới. Phong bì đề tên tôi. Lúc bình thường, Thụy có một nét chữ rất cứng cáp, khỏe mạnh - Là nét chữ thường ở một họa sĩ. Thụy đau, gân tay không còn nữa, nét chữ trên mặt phong bì run rẩy lệch lạc.

    - Trong này là một lá thư tôi viết cho Ngọc. Mới viết đêm qua. Những gì tôi muốn nhờ Ngọc đã ghi sẵn trong này. Cũng không có gì quan trọng. Nhưng tôi muốn nhờ Ngọc và không muốn nhờ một người nào khác. Ngọc nhận lời không?

    Tôi gật, cố cầm nước mắt. Đón lấy phong thư, tôi hỏi:

    - Coi ngay bây giờ được không?

    Thụy lắc cười:

    - Không được.

    - Bao giờ?

    Thụy đáp, bình tĩnh:

    - Sau khi tôi chết. Chúc thư để lại cho đời, cho người thân của người chết đó.

    Tôi cúi đầu, nhìn lá thư nằm trên tay. Tiếng Thụy:

    - Nghĩ lại, tôi cũng chẳng ân hận điều gì.

    Rồi như chợt nhớ ra:

    - Ngoại trừ một điều. Ngọc ra phòng ngoài, lấy cái khung vải đựng ở cạnh giá vẽ đưa vào đây cho tôi.

    Tôi đi ra phòng ngoài và trở vào với khung vải đã tìm thấy. Thụy bảo tôi đưa cây nến tới gần rồi lật lưng tranh, đặt bức tranh vào thành giường. Là một bức tranh vẽ dở. Tranh vẽ một người con gái ngồi sau cái quầy cao, trong một căn phòng thiếu ánh sáng. Căn phòng là quán Nhớ. Người con gái trong tranh là tôi. Thụy vẽ tôi trong một dáng ngồi thẳng cứng, hai mắt mở lớn nhìn thẳng, với một mái tóc thật dài xõa trùm hai bờ vai. So với tôi, người con gái trong tranh gầy hơn, nhiều tuổi hơn, và có một đôi mắt thật buồn. Đã lâu lắm tôi không nhìn thấy mình. Hay chỉ nhìn thấy qua những hình dáng lung linh mờ nhạt. Tôi chợt thấy lại tôi. Trong nét vẽ Dã Thụy. Tôi lặng người đi.

    - Ngọc đó.

    Tôi gật:

    - Thấy. Anh vẽ cái quán Nhớ tối thui à.

    - Nó sáng láng hơn sao?

    Tôi lắc đầu:

    - Anh nhìn đúng lắm. Quán Nhớ tối thui trên mọi phương diện. Người của quán Nhớ cũng vậy. Anh vẽ hồi nào?

    - Tuần trước. Tuần trước nữa, không nhớ. Đây là bức tranh cuối cùng của Dã Thụy. Chỉ tiếc nó là một bức tranh bỏ dở.

    Tôi nắm lấy bàn tay gầy guộc của Dã Thụy.

    - Cứ coi như anh đã vẽ xong.

    Đôi mắt Thụy sáng lên:

    - Tôi cũng vừa định nói với Ngọc như thế. Phải, chúng mình cứ coi như bức tranh đã vẽ xong. Tôi đã vẽ Ngọc một lần rồi, nhớ không?

    - Nhớ chứ.

    - Lần đó, Ngọc ngồi làm mẫu cho tôi vẽ. Lần này, tôi vẽ bằng trí nhớ, bằng tưởng tượng. Ngọc có thấy một sự khác biệt nào?

    Tôi gật:

    - Bức tranh lần trước đẹp hơn. Nhưng bức tranh lần này thật hơn.

    - Tôi cũng nghĩ vậy. Tặng Ngọc đó. Lát nữa, Ngọc có thể đem nó về quán Nhớ, treo ở chỗ Ngọc thích.

    - Tấm tranh này sẽ treo ở chỗ anh thường tới ngồi.

    Thụy mỉm cười:

    - Một ý kiến hay. À, quán Nhớ hồi này ra sao?

    - Bình thường vậy, chỉ thiếu anh thôi.

    - Chuyện Khoa với Ngọc đi tới đâu rồi.

    Tôi thở dài:

    - Chưa tới đâu hết.

    - Vậy mà có tin sắp cưới đồn ầm lên.

    Tôi nhún vai:

    - Bao giờ chẳng thế. Lời đồn bao giờ cũng đi trước sự thật.

    Thụy bật lên một tiếng cười ngắn, nói tiếp.

    - Chắc cũng đã có tin đồn về tôi. Chắc thiên hạ cũng đồn rằng tôi đã chết.

    Tôi dịu dàng:

    - Anh mong chết lắm sao?

    Thụy gật:

    - Trường hợp tôi, cái chết là một giải thoát nhẹ nhõm. Cho tôi. Cho tất cả mọi người.

    Thụy chỉ tấm tranh:

    - Vẽ cũng là một giải thoát. Nhưng sự giải thoát chỉ có lúc tôi ngồi trước giá vẽ. Một giải thoát chốc lát, không toàn vẹn.

    Chúng tôi cùng im lặng. Cái nhìn của Thụy, thoát đắm lại trong mơ màng. Tôi biết trong đầu óc lâm chung của Dã Thụy, nhưng hình ảnh nào đang hiện lên, như những điểm lân tinh sáng lên từ một đáy biển tối thẳm, một lần cuối cùng. Đó là những ngọn đồi, những thung lũng, những cánh rừng thưa, những bóng cây, những bóng lá của những buổi trưa Thụy lang thang giữa tạo vật, với cái giá vẽ trên vai gầy và những hình thể, những màu sắc trong tâm hồn.

    Tôi đã có mặt vài lần, những buổi trưa ấy. Cùng với Thụy. Giữa cái nắng đồi hoang vu. Trong thu núi thiêm thiếp. Chúng tôi yên lặng đi. Trên những con đường cỏ. Bên cạnh những giòng suối. Hoặc là ngồi nghỉ chân dưới một gốc cây, nhìn xuống Biển Hồ xanh biếc dưới thấp. Những buổi trưa ấy, tôi biết Dã thụy đã sung sướng. Đó là những buổi trưa hạnh phúc duy nhất của Thụy. Thụy tỏ tình. Cũng không hề đề cập tới tình yêu một lần nào. Tình yêu thăm thẳm, cao quý là thứ tình yêu không bao giờ tỏ lộ. Nhưng chỉ nhìn bức tranh Thụy vẽ tôi, ở đó toát ra một âu yếm khác thường không thấy ở tất cả những họa phẩm khác của Thụy, tôi biết thứ tình cảm nào. Thụy yêu tôi. Thầm lặng. Mãnh liệt. Một tình yêu bên trong, không một lần nói ra. Cho đi và không đòi nhận lại. Như thế, từ đầu. Như thế, mãi mãi. Tôi không xúc động, không chảy nước mắt sao được.

    - Rồi Ngọc sẽ gặp gia đình tôi.

    - Anh muốn báo tin cho gia đình ở Quy Nhơn không?

    Thụy lắc đầu:

    - Ý tôi muốn là Ngọc sẽ về Quy Nhơn. Đó là một trong mấy điều tôi ghi trong thư. Đó cũng là điều tôi nhờ cậy Ngọc.

    Nói nhiều, Thụy đã mệt. Tôi mở nắp bình thủy, đổ nước nóng vào một cái khăn mặt, lau trán, lau cổ cho Thụy. Thụy đón nhận những cử chỉ săn sóc muộn màng của tôi, hai mắt nhắm nghiền lại. Tôi ôn tồn:

    - Anh nằm xuống kẻo mệt.

    Trên nền gối, nét mặt Thụy nhẹ nhõm, thư thái. Thụy đang đợi chờ cái chết tới. Đối diện với nó, không khiếp đảm, không chạy trốn. Căn phòng đột nhiên lặng như tờ. Tiếng gió ngớt. Sự yên lặng càng đầy càng lớn. Những cơn gió phút này đang tạm dừng chân ở những đáy lũng, nhưng lưng đồi. Tạm dừng chân thôi. Gió thổi suốt một mùa đông Pleiku. Lát nữa gió lại lên đường. Ném cái buốt lạnh vào những cuộc đời chông chênh bằng những ném tới bão táp. Và như thế cho tới sang năm, cho tới mùa xuân.

    - Ngọc muốn nói chuyện gì với tôi không?

    - Anh nên nằm nghỉ.

    Thụy nhếch mép cười:

    - Đừng lo cho tôi, cái chuyện nằm nghỉ. Chuyện đó sẽ tới. Bây giờ tôi muốn nghe chuyện Ngọc.

    - Chuyện tôi với Khoa các anh biết cả rồi mà.

    Thụy lắc đầu:

    - Không phải chuyện đó.

    Tôi ngạc nhiên:

    - Còn chuyện gì khác nữa đâu.

    - Có, Ngọc dấu. Tôi biết. Người sắp chết sáng suốt lắm. Nó biết được rất nhiều điều những người khác không biết được. Tôi biết Ngọc có chuyện riêng. Đời Ngọc có một người đàn ông khác. Người đó không phải là Khoa.

    Tôi tròn mắt:

    - Đúng. Nhưng sao anh biết?

    Thụy không trả lời thẳng vào câu hỏi của tôi. Chỉ hỏi lại:

    - Chuyện buồn lắm phải không?

    Tôi gật, nghĩ đến cuộc tình khó hiểu, lạ lùng giữa tôi và Đạo:

    - Buồn và không ra làm sao hết.

    - Tôi đã gặp người đó lần nào chưa?

    - Chưa.

    - Sao vậy?

    - Y ở xa. Không phải ở đây.

    - Tôi cũng đoán thế. Không một người đàn ông nào ở Pleiku có thể làm Ngọc bận tâm như tôi đang nhìn thấy sự bận tâm đó trên nét mặt Ngọc. Phải là một người ở xa.

    Tôi không muốn tỏ lộ chuyện tôi và Đạo với bất cứ một người nào. Đó là sự bí mật tuyệt đối của đời tôi, bao nhiêu lần tôi đã nhủ thầm với tôi vậy. Tại sao, phút này tôi lại muốn tâm sự, muốn tỏ lộ, muốn cái sự bí mật ấy không còn bí mật nữa? Không hiểu được. Chỉ biết tôi đã kể, kể chuyện riêng của mình, đột nhiên như thế, cho một người sắp chết nghe. Tôi ngồi thu chân lên giường. Tôi tỳ cằm vào đầu gối, và bằng một giọng đều đều, tôi kể lại từ đầu.

    - Năm ngoái đó anh Thụy. Cũng vào dịp này. Mùa mưa rồi mùa đông. Những trận đánh khốc liệt diễn ra ở Khôngntum, trên ngọn đồi Chu Pao. Thị xã đầy đặc những đoàn người chạy loạn. Chuyến máy bay chở tôi và Huyền về Sàigòn. Tôi đã gặp người đàn ông trong chuyến bay đi lánh nạn ấy. Gặp y trước một quầy hàng khách sạn. Gặp lại y nữa, trên một hành lang khách sạn. Chuyện tưởng chốc lát thôi, vậy mà đã hơn một năm rồi, tôi vẫn không quên. Người đàn ông ấy hiện có mặt ở thị xã này. Tôi muốn lánh mặt y mà không được. Tôi nhủ thầm với tôi là phải chấm dứt, phải đoạn tuyệt, rồi tôi đã hành động ngược lại. Tôi biết tôi đang lao đầu xuống một vực thẳm không đáy. Vậy mà tôi cứ lao đầu xuống, không kìm giữ được. .

    Tôi ngừng kể. Suốt thời gian tôi nói, Thụy nằm yên lặng nghe, không tỏ một thái độ nào.

    Tiếng máy xe ngừng ngoài cổng. Vận đã trở lại. Vận vào với một gói thuốc. Thấy Vận là thấy sự ồn ào. Bầu không khí riêng đây, thân mật giữa Dã Thụy và tôi đã bị phá vỡ. Vận đặt gói thuốc xuống mặt bàn, nói với Thụy.

    - Thuốc lấy ở tiệm bào chế của ông Khoa về cho cậu đây. Phải chịu khó uống mới khỏi bệnh được.

    Thụy đưa mắt nhìn gói thuốc như nhìn một thứ đồ vật xa lạ và kỳ quái. Với Dã Thụy là thế. Chỉ có chứng bệnh kéo dài tới trạng thái trầm trọng, vô phương cứu chữa chứ không có vấn đề chống bệnh, vấn đề thuốc thang. Thụy đau tim, đau phổi, thật nặng. Cả Pleiku đều biết. Thụy không chịu uống thuốc, không chịu đi nằm bệnh viện, điều này mọi người cũng đều rõ. Một vài hộp thuốc gởi tới muộn màng còn dùng để làm gì? Tuy vậy, tôi vẫn hỏi:

    - Anh uống thuốc nhé?

    Thụy nhìn tôi gật đầu. Chỉ là chiều ý nhau, một lần cuối cùng. Chờ cho Thụy uống thuốc xong, Vận hỏi tôi:

    - Ngọc thấy thế nào?

    Tôi nghiêm trang:

    - Thụy không sao hết. Thôi, chúng mình về cho anh ấy nằm nghỉ.

    Vận cười:

    - Chớ không phải là nó sắp chết?

    - Anh tưởng chết dễ dàng lắm sao?

    Thụy hiểu ý nghĩa câu nói của tôi. Nhìn tôi Thụy gật:

    - Phải. Chết không phải là một chuyện dễ dàng.

    Tôi đặt tay lên tay Thụy:

    - Chiều tôi sẽ đến thăm anh

    Thụy xua tay:

    - Để sáng mai đi.

    Tôi ngạc nhiên:

    - Anh không chịu gặp ai chiều nay?

    - Không. Sáng mai. Cám ơn hai người đã tới thăm tôi.

    Thụy không nhìn chúng tôi nữa. Mà nằm quay lưng trở lại xây mặt vào tường. Tôi đưa mắt nhìn Vận. Chúng tôi cùng yên lặng đi ra. Phòng ngoài không sáng được chút nào. Nó vẫn tối thẳm và ẩm thấp như lúc tôi đến. Cầm bức tranh trong tay, tôi đi qua những khung vải nằm lăn lóc và lãng quên ở những chân tường. Những bức tranh của Thụy cũng là hình ảnh con người và cuộc đời Thụy. Chúng thu hình trong một đời sống riêng, như những vật thể hèn mọn nhưng cực kỳ kiêu hãnh, bởi không có với chung quanh một điểm đồng nhất nào. Tôi chợt nhớ đến cuộc triễn lãm năm ngoái của Thụy. Nhớ và vừa muốn bật cười vừa muốn chảy nước mắt. Cuộc triển lãm ấy có là do tôi và Khoa. Mùa hè năm ngoái Thụy vẽ được thật nhiều tranh. Sáng nào cũng vác giá lên đồi, vào rừng, tới chiều tối mới về. Thời giờ và đời sống của Thụy suốt mấy tháng có nắng phần lớn dành cho hội họa, trước một giá vẽ trồng giữa thiên nhiên mênh mông. Thấy có số tranh Thụy vẽ được đã nhiều, tôi bàn với KHoa nên thúc đẩy Thụy bầy những bức tranh đó trong một cuộc triễn lãm. Khoa nói nên lắm và dục Thụy tính tới chuyện đó. Thoạt đầu, Thụy không chịu. Nói vẽ là vẽ chứ không phải để triển lãm. Nói bạn bè muốn xem tranh cứ việc đến xưởng họa tự nhiên, bất cứ lúc nào, không cần phải tới một phòng triển lãm để làm gì. Chúng tôi không chịu như vậy. Lý do thứ nhất tôi muốn người đời nhìn thấy cái tài năng đặc biệt của Thụy. Để Thụy thấy, qua sự thán phục của người khác, cuộc đời Thụy là một giá trị đích thực không nên xem thường, không nên hủy hoại. Lý do thứ hai, thực tế hơn: nhờ cuộc triển lãm, Thụy sẽ bán được một số tranh, có được một khoản tiền.

    Thụy nghe chúng tôi thuyết phục, rồi cười:

    - Không xong.

    Tôi hỏi:

    - Tại sao?

    - Tôi lười lắm, chỉ biết vẽ, không làm được gì hêt, cũng không muốn làm gì hết.

    Khoa:

    - Bọn này làm hết cho cậu.

    Thụy cười:

    - Họa sĩ chỉ cần mang tranh tới?

    - Cũng khỏi luôn. Đã nói là bọn này làm hết cho. Việc làm duy nhất của anh là thu tiền bán tranh.

    Chúng tôi làm hết cho Dã Thụy thật. Tuần lễ trước ngày triển lãm là một tuần lễ thật bận rộn những cũng thật hào hứng. Số tranh định triển lãm là ba mươi bức. Thụy phải vẽ thêm ba bức mới cho đủ số. Trong khi Thụy vác giá vẽ vào rừng, lên đồi, chiếc xe jeep của Vận chạy đi chạy lại như con thoi từ xưởng họa đến một hội quán mà chúng tôi đã mượn. Chúng tôi gọi thợ mộc tới đóng khung, trang hoàng văn phòng hội quán, in thiệp mời và gởi thiệp tới tất cả những người giầu có ở Pleiku, những người mà chúng tôi tin sẽ mua được tranh cho Dã Thụy. Chúng tôi đặt tên cho từng bức tranh, bằng những tên thật thơ mộng và lãng mạn nhất. Một bức tranh mang tên quán Nhớ vẽ một góc quán với Thụy thường đến ngồi một mình. Thụy đòi trưng bày bức tranh vẽ chân dung tôi. Tranh được đặt tên là "Chủ quán". Gần tới ngày triển lãm, công việc còn bừa bộn. Chúng tôi phải thức mấy đêm để viết cho xong mấy tấm áp- Phích.

    Tuần lễ đó, tôi đã nhìn thấy sự sung sướng của Dã Thụy. Chẳng phải vì tranh Thụy được triển lãm, mà vì Thụy được sống đắm mình hoàn toàn, trong một bầu không khí thân mật của bạn bè vây bọc. Rồi ngày triển lãm tới, cùng với những thất vọng đắng cay não nề. Buổi sáng khai mạc phòng tranh, trời đang nắng ráo đột nhiên mưa lớn. Trận mưa quái ác kéo dài tới trưa.

    Giấy mời gởi đi mấy trăm chiếc nhưng quan khách chỉ tới dăm bảy người. Nhân vật cao cấp của Pleiku mà chúng tôi mời tới cắt băng khai mạc phòng tranh cũng vắng mặt. Ông ta cử tới một người phụ tá miễn cưỡng và quê mùa. Người phụ tá bỏ về năm phút sau, sau khi ông ta đi lướt qua mấy chục bức tranh và tuyên bố là ông ta không hiểu, không cảm thấy gì hết. Những ngày sau cũng không hơn gì. Phòng tranh chỉ có bọn chúng tôi thay nhau đến mở cửa, đóng cửa thay cho Dã Thụy. Khách đến xem tranh là mấy cậu học trò, và đám con nít. Không có ai hỏi mua một bức tranh nào.

    Phòng tranh mở cửa trong bầu không khí hào hứng, đóng cửa trong bầu không khí não nề cay đắng. Chúng tôi không thấy sự thật, chỉ nhìn thấy ảo tưởng. Hội họa không có chỗ đứng trong tâm hồn người dân tỉnh nhỏ chỉ biết cần cù làm ăn hay mơ mộng vẩn vơ. Buổi chiều đóng cửa phòng tranh, chiếc xe jeep của Vận lại được đem tới. Để thực hịên một chuyên chở buồn bã. Những tấm tranh chan hòa màu sắc và đầy ắp rung động của Dã Thụy lại được đem trả về cái thế giới quên lãng âm thầm của chúng là căn lều hoang ở cuối vườn, trong những xó góc tối tăm.

    Chúng tôi chung tiền nhau đãi Thụy một bữa. Ai cũng sợ Thụy buồn. Nhưng không. Trong bọn chúng tôi Thụy lại là người thản nhiên nhất. Chừng như sự cụt hứng của chúng tôi là một điều hết sức thích thú với Thụy. Bữa ăn thân mật được tổ chức ở một nhà hàng mới mở. Tiệm có một khoảng sân rộng, với những bàn ăn kê dưới những bóng lá. Phòng ăn bên trong trang hoàng mỹ thuật. Chủ nhân là một thợ săn danh tiếng ở Pleiku. Mấy vì tường của phòng ăn treo đầy những tấm hình chụp những cảnh săn đêm giữa rừng sương mịt mùng và những con thú lớn mà chủ nhân đã hạ được.

    Tôi còn nhớ mãi cái cảnh tượng nửa vui, nửa buồn, nửa ồn ào, nửa quạnh hiu, của bữa ăn đó. Bàn kê thành một hàng dài. Khăn bàn đỏ chói. Chủ nhân đích thân đứng hầu tiếp. Tôi ngồi giữa cạnh Khoa. Đối diện với tôi là Dã Thụy. Trên bàn là một vò rượu cần với cái ống hút cong vút. Bữa ăn bắt đầu bằng món chim mía là món ăn đặc biệt của tiệm. Theo chủ nhân, chim mía là món ăn đặc biệt nhất của Pleiku. Du khách từ Sàigòn, Quy Nhơn lên, đều trầm trồ tấm tắc khi được thưởng thức món chim mía, mà những vùng khác không có hoặc có, cũng không thể ngon bằng chim mía Pleiku - Chủ nhân thuyết trình.

    - Các anh chị là người Pleiku nhưng không phải muốn ăn chim mía lúc nào cũng có. Chim mía nhỏ, nhỏ hơn chim sẻ. Thịt mía thơm, và ngọt hơn thịt chim sẻ. Chim mía chỉ có vào mùa lúa chín. Khi ở những thung lũng Pleiku, lúa chín vàng từng giải thì cũng là lúc chim mía xuất hiện từng đàn. Chúng bay bay là là trên những ngọn lúa mẩy hạt. Người ta chăng lưới để bắt chim mía khi chúng sà xuống, nhặt những hạt thóc rơi rụng. Chim mía chỉ ăn thóc. Cho nên thịt mía mềm và ngọt là vì thế. Món chim mía hiếm quý bởi mía chỉ xuất hiện một thời kỳ. Mùa gặt qua, thung lũng không còn những bông lúa chín, chim mía bay đến những thung lũng, những vùng trời khác. Bữa ăn hôm nay để thết ai đây?

    Tôi trả lời thay cho mọi người:

    - Để đánh dấu ngày đóng cửa phòng tranh của anh bạn chúng tôi là họa sĩ Dã Thụy.

    Chủ nhân tới bắt tay Dã Thụy.

    - Kết quả khả quan không?

    Thụy cười, khôi hài:

    - Ngoài sự mong ước của mọi người.

    Chủ nhân ngẩn người:

    - Thế là thế nào?

    Nhạc đập bàn, nói lớn:

    - Thế là không bán được một bức tranh nào hết. Ông chủ nhà hàng này hỏi lẩm cẩm quá. Còn thứ rượu nào nặng hơn rượu cần, đưa ra đây. Chúng tôi đang cần say đây.

    Chủ nhân không giận mà phá lên cười. Ông ta thật đơn giản, hồn nhiên, sự đơn giản và hồn nhiên của một người có một đời sống khoan thai và lành mạnh. Ông ta chỉ vò rượu cần, hỏi Nhạc:

    - Rượu cần không đủ say?

    Nhạc nhổm người vít cái ống hút, hút một hơi rượu, nhăn mặt:

    - Nhạt như nước ốc, say thế quỷ nào được.

    Chủ nhân xoa tay:

    - Đừng tưởng. Rượu cần uống nhiều cũng say lắm đó. Say lúc nào không biết. Nhưng được rồi, thưởng thức món chim mía của nhà hàng đi, rồi muốn rượu khác sẽ có ngay.

    Ông ta vỗ vai Dã Thụy:

    - Tôi có được nghe nói đến phòng tranh của ông. Rất tiếc vì bận, không tới xem tranh được. Không có ai mua sao? Muốn triển lãm, ông phải đưa tranh ông xuống Sàigòn. Để tôi mở hàng một bức.

    Chỉ một khoảng trống trên vì tường sau lưng tôi, chủ nhân nói tiếp:

    - Tôi sẽ treo bức tranh ông ở chỗ kia.

    Rồi cao hứng:

    - Bữa ăn hôm nay là nhà hàng mời. Khỏi tính tiền.

    Chủ nhân cười bỏ vào nhà trong. Bữa ăn kéo dài tới khuya. Mọi người uống hết vò rượu cần, uống sang nhiều thứ rựơu khác. Tôi chưa uống rượu bao giờ, cũng uống một ly, cũng hút một ngụm rượu cần. Bữa ăn càng về khuya càng ồn ào. Thật ít khi chúng tôi có dịp họp mặt đông đủ, một cách buông thả và ồn ào như thế. Thụy uống thật nhiều, thật hào hứng. Vui miệng, Thụy kể cho cả bọn nghe về những ngày đi vẽ của anh. Trên những ngọn đồi, trong những cánh rừng. Những ngày đó, Thụy thường tìm nghỉ trưa trong một bản nhỏ nơi lưng chừng một ngọn đồi hay cuối đáy một thung lũng. Ăn cơm nắm. Ngủ trên một nhà sàn. Thức dậy, xuống suối rửa mặt rồi lại vác giá vẽ vào rừng.

    Thụy kể rằng một chiều mưa đột ngột. Thụy không về thị xã được phải ngủ nhờ ở nhà một tù trưởng người Thượng. Ông tù trưởng già thân hình đen bóng, đêm núi lạnh buốt mà chỉ đóng một cái khố. Người Thượng rất hiếu khách. Người tù trưởng sai vợ con giết gà thiết Thụy. Bữa ăn giữa nhà sàn, giữa bập bùng ánh lửa. Đứa con gái lớn của người tù trưởng rất xinh đẹp, tự nhiên. Hai người không nói chuyện được với nhau vì ngôn ngữ bất đồng. Nhưng người con gái ngồi cạnh Thụy, luôn luôn mỉm cười. Đêm đó, Thụy và người tù trưởng uống hết một vò rượu cần. Thụy say không còn biết trời đất là gì. Ngủ gục ngay ở chỗ uống rượu một giấc tới sáng.

    Thụy kể chuyện thật linh động. Như vẽ cho chúng tôi thấy cái cảnh tượng trước mắt. Tôi hỏi đùa.

    - Đêm đó anh với cô gái Thượng không có chuyện gì sao?

    Thụy cười:

    - Chắc là không. Hoặc có cũng chẳng nhớ được. Chỉ biết tôi đã ở lại nhà người tù trưởng tới gần trưa hôm sau.

    Tôi hỏi:

    - Buổi sáng thức dậy anh thấy những gì?

    - Thấy mình vẫn nằm ở chỗ cũ, với một tấm khăn sặc sỡ phủ lên người.

    Khoa vỗ tay:

    - Cô gái Thượng đắp chăn cho cậu đó.

  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Thụy gật:

    - Chắc thế. Mặt trời lúc đó vừa mọc. Từ trong nhà sàn nhìn ra, rừng ban mai đẹp huyền ảo. Cây cỏ còn mờ hơi sương. Lửa đã tắt. Vò rượu đã cạn. Người tù trưởng đã đi làm rẫy từ sớm. Tôi lấy khăn xuống suối rửa mặt. Người con gái Thượng đã xuống suối trước tôi. Cô ta đang lấy nước và vẫn mỉm cười thật tươi như đêm hôm trước.

    Thập hỏi:

    - Hai người nói chuyện với nhau không?

    Thụy cười:

    - Có. Mình tôi nói thì đúng hơn?

    Cả bọn nhao nhao:

    - Nói những gì?

    - Nói đêm qua tôi say rượu quá, tôi xin lỗi.

    - Phản ứng của cô gái Thượng thế nào?

    Thụy nhún vai:

    - Cô ta chẳng hiểu gì. Chỉ gật đầu. Chỉ cười.

    Tôi hỏi Thụy:

    - Nói gì khác nữa?

    - Nói, tôi xin từ biệt. Nói tôi yêu cái bản nhỏ, con suối, cánh rừng và tôi sẽ trở lại.

    - Anh có trở lại như anh nói không?

    Nét mặt Thụy đang vui chợt buồn hẳn lại. Thụy gật đầu, ánh mắt mơ màng:

    - Sau đó mùa mưa đã tới thành ra mấy tháng sau tôi mới trở lại. Người tù trưởng đã đem gia đình đi nơi khác, đến một cánh rừng khác.

    - Và anh không bao giờ gặp lại cô gái Thượng?

    - Không. không bao giờ nữa.

    Thụy ngừng kể. Nét mặt bất chợt xa hút trong một hồi tưởng lưu luyến. Cả bọn nhao nhao hỏi mấy bức tranh vẽ người con gái Thượng có phải là vẽ người Thụy đã gặp hay không. Thụy gật. Tôi rất yêu mấy bức tranh ấy. Chính tôi đặt tên cho chúng. Bức vẽ người con gái Thượng xõa tóc bên bờ suối, tôi đặt tên là Suối Tóc. Bức vẽ nàng ngồi trên nhà sàn, với ánh lửa bập bùng vờn múa trên khuôn mặt huyền bí được đặt tên là Đêm Hoang Đường. Thụy tỏ ý thích mấy tên đặt. Nói tôi có tâm hồn thi sĩ. Tôi nghĩ đáng lẽ Thụy còn phải vẽ thêm nhiều bức tranh khác về cái bản nhỏ heo hút và người con gái Thượng tươi cười kia. Vẽ cảnh Thụy trở lại bản. Đứng lặng trước cái nhà sàn bỏ trống, vẽ cảnh suối, cảnh rừng. Nơi Thụy đã tìm thấy cho Thụy thứ hạnh phúc chốc lát, là cái hình ảnh một ngày nắng đẹp của Pleiku giữa trăm ngày mưa rơi. Thụy, qua cái nhìn của tôi, cũng là một người Thượng. Một người Thượng sống cách biệt, xa lánh trong một thung lũng riêng của mình. Giữa một vùng cỏ cây hoang vu ngút ngàn vây bọc.

    Cánh cửa gỗ khép lại sau lưng. Bầu không khí tối tăm tù hãm đã trở lại. Tôi thở ra một hơi dài. Chúng tôi bước chậm chạp, đầu cúi xuống. Thụy đang chờ chết, cái chết đến chắc chắn, từ từ. Chúng tôi nhìn thấy nó đến và không làm được gì cho Thụy hết. Tất cả đều đã muộn. Ra tới cổng, Vận và tôi cùng đứng lại, tần ngần. Buổi trưa Pleiku xám ngắt. Trần mây thấp. Thêm một ngày Pleiku không có mặt trời. Gió thổi mạnh. Một mùa đông Pleiku đã thực sự bắt đầu.

    Vận quay nhìn lại túp lều gỗ. Căn lều như một nấm mộ, một lòng huyệt. Vận chép miệng:

    - Mong nó qua khỏi được mùa đông này.

    Tôi lắc đầu:

    - Khó lắm. Mùa đông còn dài. Mùa đông chỉ mới bắt đầu.

    - Ngọc nghĩ nó còn sống được bao lâu nữa?

    - Một vài ngày. Một vài tuần. Nhưng không hết được mùa đông này đâu.

    - Tôi cũng nghĩ vậy.

    - Chẳng lẽ cứ để mặc cho anh ấy chết sao?

    - Mình phải làm gì?

    - Anh gặp các anh ấy xem sao?

    Vận gật đầu:

    - Cũng là một ý kiến hay. Để tôi phóng xe đi liên lạc. Phải có một cuộc họp. Ngày mai mọi người gặp nhau ở quán Nhớ được không?

    - Được chứ.

    - Bây giờ tôi đưa Ngọc về.

    Tôi xua tay:

    - Anh tìm gặp các anh ấy đi. Tôi về một mình cũng được. Tôi muốn đi bộ một chút.

    Đường từ nhà Thụy về quán Nhớ khá xa. Tôi cài hết hàng khuy nơi chiếc áo len, bước những bước đều đều bên bờ cỏ. Gió thổi ngược lại từ đầu phố. Đi được một quãng, tôi chợt nhớ tới lá thư của Thụy. Tôi mở sắc tya, lấy bì thư ra. Chúc thư của người sắp chết đây. Câu nói của Thụy nửa bi thảm, nửa riễu cợt, lúc trao lá thư vang lên trong đầu. Tôi vừa đi, vừa chăm chú đọc.

    Ngọc thân,

    Tới đêm nay, điều tôi biết được, rất chắc chắn cho mình là tôi chẳng còn sống được bao lâu nữa. Cuộc sống của tôi chỉ còn là một vấn đề ngày giờ. Tôi có thể chết bất cứ lúc nào. Đêm nay hay sáng mai. Cho nên lá thư chưa định viết cho Ngọc, đêm nay phải viết. Viết cho NGọc, đó là việc cuối cùng tôi muốn làm trước khi từ giã cuộc đời này. Chắc Ngọc đang đặt câu hỏi: Tại sao tôi không viết cho một bạn thân khác. Như Khoa hay Nhạc. Câu trả lời đơn giản là Ngọc thân thiết nhất trong số những người thân của tôi. Lúc này hình ảnh Ngọc sáng tỏ hơn bao giờ, trong khi mọi hình ảnh khác đều xa xôi, mờ nhạt. Ngoài tình thân, tôi còn muốn nghĩ Ngọc là người duy nhất hiểu tôi, mặc dầu vấn đề này hơn một lần được nói đến, được đặt ra giữa chúng ta.

    Ngọc à, thế là cuối cùng tôi đã không trở về Quy Nhơn với gia đình tôi được. Tôi sẽ chết ở đây, ở Pleiku.

    Từ ngày biết tôi đau, đã nhiều lần Ngọc thúc dục tôi trở về với gia đình. Tôi biết sự trở về đó là phải. Quy Nhơn ấm áp hơn Pleiku nhiều lắm. Không khí nóng của miền biển thích hợp với tôi hơn là thứ không khí lạnh của núi rừng ở Pleiku.

    Về Quy Nhơn, tôi có nhiều hy vọng khỏi bệnh hay ít nhất căn bệnh cũng không đến nỗi trầm trọng như ở trên này. Về Quy Nhơn sống, không chừng tôi tìm lại được cho tôi một nếp sống bình yên. Mà dẫu có về Quy Nhơn để chết, chết ở Quy Nhơn vẫn hơn. Ít nhất, cái chết của tôi sẽ không làm phiền bạn bè và Ngọc.

    Cái hơn, cái thiệt, cái nên và cái không nên ấy, tôi biết. Quy Nhơn cũng chẳng xa xôi gì. Chỉ cần lấy một cái vé xe, bước lên một chuyến xe đò, xe đổ đèo An Khê là tôi đã trở lại với vùng trời sinh trưởng. Vậy mà lời khuyên của Ngọc tôi đã không nghe, chỉ vì trong thâm tâm, ngay tự lúc đầu, tôi đã lựa chọn Pleiku để chết.

    Nhớ năm đó là vào khoảng tháng chín. Thời tiết vào thu, tôi vừa hai mươi tuổi. Chiều chiều tôi ra bãi biển Quy Nhơn, đi dạo một mình. Tôi nhìn những dấu chân tôi in trên bãi cát. Nhìn triều lên, nhìn thuyền về. Nghe sóng đập. Cảm thấy mình ở trong tâm hồn mình, một thay đổi hết sức lớn lao. Tôi không quy định được rõ rệt sự thay đổi ấy như thế nào, chỉ biết rằng tôi không sống được với Quy Nhơn nữa. Sự thúc đẩy hàm hồ mà cực kỳ mãnh liệt.

    Cho đến một buổi sáng kia, tôi bỏ nhà, bỏ Quy Nhơn lên đường. Chuyến đi không có một chủ đích nào. Cuộc hành trình lang thang vô định. Tôi có một người bạn dạy học ở Tuy Hòa. Tôi đến Tuy Hòa trước nhất. Người bạn không còn dạy ở đó, lớp học của anh ta đóng cửa, người ta cho tôi biết anh ta đã nhập ngũ. Tôi ở lại Tuy Hòa hai ngày. Lại như ở Quy Nhơn, đi lang thang có một buổi chiều ngoài bãi vắng. Ban đêm, tôi về một căn phòng khách sạn tồi tàn, nằm thao thức, cố tìm kiếm một gắn bó tối thiểu với nơi chốn, với sự thể chung quanh. Nhưng tôi không thấy được gì hết. Tuy Hòa như Quy Nhơn không giữ tôi ở lại. Mà Tuy Hòa như Quy Nhơn, đẩy tôi lên đường. Mấy ngày sau tôi ở Nha Trang. Ở Phan Rang, ở Phan Thiết. Cuối tuần tôi vào tới Sàigòn. Tôi đi thật nhiều trong mấy tuần lễ, di chuyển gần như không ngừng, không nghỉ ấy. Tôi sống, với những chuyến xe đò. Tôi sống với những căn phòng khách sạn. Với những giòng sông đi qua, với những cây cầu bỏ lại.

    Sàigòn giữ tôi ở lại lâu hơn giữa cái biển người và biển tiếng động của nó. Nhưng lâu hơn cũng chỉ một tuần. Tôi lại đi nữa. Lên những chuyến xe đò khác. Qua những cây cầu, những giòng sông mới. Chuyến đi đưa tôi về mấy tỉnh miền tây.

    Tôi đã ngồi trên bờ sông Mỹ Tho, một đêm sao sáng rực trời. Đã đến Long Xuyên giữa một chiều nhạt nắng. Đã đến bắc Vàm Cống giữa một trận mưa rào đột ngột. Đã ngồi thuyền đi trên giòng Cửu Long, giờ nước triều lên. Miền Tây mênh mông. Những kinh rạch, những sông ngòi chằng chịt. Những đồng lúa, những thửa vườn bát ngát. Trời miền Tây cao vút. Nắng miền Tây chan hòa. Tôi đã đặt giá vẽ ở nhiều nơi. Dưới bóng mát một rừng dừa. Trên trống trải một đầu cồn. Tôi đã vẽ nắng, vẽ trời, vẽ lúa, vẽ sông, vẽ người miền Tây. Tất cả, trong những bức tranh mang những mầu sắc của miền Tây là những mầu sắc tươi vui và rực rỡ nhất.

    Nhưng điều kỳ lạ, như ở Sàigòn, như ở Quy Nhơn, Phan Thiết, cái lòng mến yêu gắn bó với một nơi chốn, tôi vẫn chưa tìm kiếm thấy. Nơi chốn nào cũng chỉ là một địa chỉ đi qua, không là một địa chỉ muốn dừng chân. Hóa nên, tôi lại đi mà không ở lại. Bấy nhiêu nơi chốn chỉ là bấy nhiêu căn phòng khách sạn, trống lạnh. Rửng rưng. Ở lại một đêm, một ngày, rồi bỏ đi, thản nhiên, không lưu luyến. Tôi vẽ, cũng chỉ là gắng gượng vẽ. Để lấp đầy những khoảng trống. Hơn là để thực hịên một thích thú say đắm.

    Sau hơn hai tháng trời lang thang, tôi chán nản trở về Sàigòn. Đã nghĩ là phải trở lại Quy Nhơn, vì chuyến đi không đem lại được cho mình một đổi thay nào hết. Buổi tối trước ngày tôi định trở về Quy Nhơn, còn bao nhiêu tiền, tôi đem tiêu hết trong những quán rượu. Chính là ở một trong những quán rượu này mà tôi gặp Quân. Khỏi phải nói nhiều đến Quân với Ngọc. Người bạn ấy của chúng mình đã chết. Tôi quen Quân đêm đó. Hai thằng cùng say lúy túy.

    Quân nói Quân ở Pleiku. Tôi hỏi:

    - Pleiku như thế nào?

    Quân:

    - Chưa lên Pleiku bao giờ?

    Tôi lắc đầu:

    - Pleiku gần quê tôi. Tôi người Quy Nhơn. Điều lạ lùng là tôi chưa từng một lần vượt đèo An Khê. Thành ra chẳng biết Pleiku của anh tròn méo như thế nào hết.

    Quân nói trong cơn say:

    - Thì lên cho biết.

    Tôi trả lời, cũng trong cơn say:

    - Lên thì lên. Nhưng Pleiku có gì đáng biết, anh chưa trả lời tôi.

    Quân vung tay:

    - Có phố thấp, phố cao. Có những con phố tình thân. Có mưa và sương mù quanh năm. Có cả những người con gái má đỏ môi hồng.

    - Tại sao gái Pleiku má đỏ môi hồng?

    - Tại vì họ đẹp nhưng chẳng biết đẹp để làm gì?

    Tôi gặng:

    - Những người con gái buồn của một thị xã buồn?

    - Đúng vậy. Buồn thì Pleiku không thua một nơi nào hết.

    Tôi nghe Quân, mở ví kiểm lại số tiền không đủ mua một cái vé máy bay. Quân nói Quân vừa được bạc, có thể trả cho tôi một cái vé máy bay nếu tôi muốn lên chơi Pleiku một lần cho biết. Đêm đó, tôi theo Quân về khách sạn Quân ở. Trưa hôm sau một chiếc DC3 chở tôi lên Pleiku. Và sự mầu nhiệm đã xẩy ra.

    Ngọc biết sự mầu nhịêm ấy xẩy ra như thế nào không? Nó xẩy ra ngay từ phút đầu tiên, khi phi cơ bay vào không phận Pleiku. Nó xẩy ra ngay từ chạm đụng thứ nhất, khi tôi đặt chân xuống phi trường Cù Hanh. Hôm đó là một buổi sáng mưa phùn. Trời lạnh. Phi trường trống trải. Con đường vào thành phố ướt loáng. Tôi ngồi trên xe, bên cạnh Quân và cái ý nghĩ đầu tiên của tôi là nơi chốn tìm kiếm suốt mấy tháng trời, tôi đã gặp, tôi đã đến Pleiku và tôi sẽ ở lại Pleiku.

    Những chuyện xẩy ra về sau, Ngọc đã biết, tôi khỏi phải kể lại ở lá thư này. Tôi ở một túp lều hoang. Tôi sống điêu đứng thiếu thốn. Khí hậu và thời tiết Pleiku quá lạnh cho lồng ngực tôi. Bệnh phổi tái phát dữ dội. Trên một ý nghĩa nào Pleiku đẩy mạnh tôi vào cõi chết. Nhưng trên một ý nghĩa khác, nơi chốn này là tình nhân một đời. Chắc Ngọc sẽ hỏi tôi, Pleiku có gì gắn bó, thương yêu như vậy? Thú thật với Ngọc tôi không trả lời được Ngọc một cách rõ rệt. Chỉ biết là tôi yêu, tôi gắn bó, tôi ở lại, tôi lựa chọn Pleiku để sống phần đời cuối cùng, tôi ưng thuận Pleiku như nơi chốn đã nhìn thấy tôi đau, sẽ nhìn thấy tôi chết.

    Gọi tình yêu này là một cảm thông đặc biệt của một nơi chốn với người. Cũng được. Gọi đó là một cơ duyên giữa người và nơi chốn. Cũng được. Thế nào cũng được. Sự phân tích không quan trọng. Tình yêu không giải thích, không tìm hiểu được. Ta yêu, ta gắn bó, ta sống chết, thế thôi vô điều kiện.

    Ngọc thân, bây giờ thì Ngọc đã hiểu, một phần nào tại sao tôi không nghe lời Ngọc, không trở về Quy Nhơn. Nói đến tình yêu của tôi với cái thị xã khuất lánh này, nói nghìn trang thư không hết. Tôi yêu từ ngọn cỏ đường yêu đi. Yêu trận mưa phùn, yêu khúc phố cao, yêu lòng phố thấp. Nói tóm lại ở đây, tôi đã được sống đời tôi, thế nào cũng không ân hận.

    Điều ân hận duy nhất, cái chết của tôi chắc chắn làm phiền mọi người. Và chắc chắn hơn cả là nó sẽ làm phiền Ngọc. Thôi thì làm cái việc đó cho một người bạn. Hãy chôn tôi, đơn giản, như một con vật. Dưới chân một ngọn đồi. Trong một bãi cỏ hoang. Đâu cũng được. Miễn là trên một thuở đất Pleiku, quê hương tình cờ của tôi.

    Về những bức họa, tùy Ngọc xử dụng. Thích bức nào, đem về treo ở quán Nhớ. Còn thì đốt đi, hay triển lãm. Tùy Ngọc. Nhưng đừng triển lãm. Sẽ như lần trước, không ai mua tranh Dã Thụy đâu.

    Riêng với Ngọc, tôi chỉ ao ước một điều. Đừng quên tôi. Vĩnh biệt.

    Dã Thụy"

    Lá thư của Thụy không làm tôi ngạc nhiên vì Thụy đã nói. Rằng đó là chúc thư của người sắp chết. Nhưng những lời lẽ trong thư vẫn làm trái tim tôi nhói buốt. Vì xúc động. Vì đau đớn. Cùng với những ý tưởng u uất làm tối đen đầu óc, tôi cảm thấy tay chân rời rã, cơ hồ không bước tiếp được nữa. Nhìn sang bên cạnh, cách con đường chừng hơn trăm thước là một quả đồi nhỏ.

    Tôi đi xuống cái lối đi chìm khuất dưới cỏ cao um tùm. Ngọn đồi mang một hình dáng quen thuộc, đã nhìn thấy đâu đó. Vừa đi vừa vận dụng trí nhớ, mới chợt nhớ ra là ngọn đồi tôi đang đi tới đã được Dã Thụy ghi vào một bức tranh. Thụy đã đến ngọn đồi, đã đi trên lối mòn tôi đang đi. Nhưng trưa nay chỉ còn mình tôi. Tất cả những nơi chốn cũ. Dã Thụy đều không bao giờ trở lại với chúng được nữa.

    Nhìn từ xa, thấy ngọn đồi lùn thấp. Tới gần, mới thấy nó khá cao. Tôi đi qua những mô đá, những phiến đất đỏ khé, cố gắng leo tới đỉnh đồi. Tới rồi. Tôi dừng bước, thở dốc một hồi và quay nhìn trở lại.

    Pleiku thấp hẳn xuống, phơi bầy toàn vẹn trước mắt tôi. Những mái nhà tôn nằm dưới những bóng cây. Những con đường lúc mất lúc hiện. Phía kia, một tháp nhà thờ in hình lên trời. Phía này, những thung lũng và những ngôi nhà cao thấp không đều như chồng chất lên nhau.

    Anh Dã Thụy, Pleiku mà anh yêu mến, Pleiku nơi anh đã dừng gót chân lữ thứ và chết trong lòng đất của nó, tôi đang nhìn hộ anh đây. Nhìn tất cả hộ anh trong một lần. Những danh lam thắng cảnh ở xa. Chính nó, thị xã chẳng có một vẻ đẹp nào hết. Tỉnh nhỏ này tiều tụy hơn là lộng lẫy. Buồn bã hơn là tươi sáng. Xấu hơn là đẹp. Tại sao anh yêu? Tại sao anh gắn bó? Tôi đặt câu hỏi với anh. cho cả tôi. Có lẽ chúng ta vẫn chỉ trả lời được rằng, chúng ta yêu, thế thôi, và tình yêu đích thực là tình yêu không bao giờ giải thích được.

    Đứng trên ngọn đồi nhìn Pleiku dưới thấp, nghĩ đến Thụy nằm cô đơn trong túp lều tối thẳm, tôi chợt nhớ đến Đạo. Đạo với tôi, cũng như Pleiku với Thụy. Yêu. Gắn bó. Chẳng hiểu sao. Không giải thích được. Thì ra mình và Thụy có điểm giống nhau, tôi nhủ thầm. Cả hai chúng tôi đều yêu cái bất thường, biết thế là không nên, nhưng không tài nào làm khác được.

    Mấy hôm nay, tôi không nhìn thấy Đạo. Không gặp cũng không đến khách sạn. Quên được Đạo cũng không đúng. Nhớ cũng không đúng nốt. Tâm trạng mơ hồ không biết nói thế nào cho phải. Đạo vĩnh viễn là một sự khó hiểu của tôi. Kể cả những lúc tôi nằm bên cạnh chàng.

    Đêm, Đạo không ngủ. Rất thỉnh thoảng chàng có những khoảng khắc rũ rượi vì mệt nhọc. Những lúc đó chàng ngủ mê mệt bỏ cả bữa ăn không phân định được ngày đêm. Nhưng thường thì, chàng tỉnh táo, một thứ im lặng trong suốt như thủy tinh. Hai tuần lễ ở một khách sạn Sàigòn, tôi đã sống với Đạo những giờ phút không thể thân mật hơn giữa một người đàn ông và một người đàn bà, nhưng đồng thời, cũng sống với chàng những giờ phút không thể cách biệt hơn giữa một người đàn ông và một người đàn bà.

    Không hiểu bị thúc đẩy bởi sự tò mò, tôi thường đòi chàng nói về chàng, nói về con người chàng, về cuộc đời chàng.

    Đạo cười, trong trường hợp này:

    - Em muốn biết về anh như thế nào?

    - Con người anh.

    - Tầm thường. Thấp kém. Như mọi người, không có gì đáng nói.

    - Thì đời sống anh vậy.

    - Đầy những cái xấu.

    - Chẳng hạn như?

    - Chẳng hạn như năm ngoái anh làm bậy, phải ra khỏi Sàigòn sáu tháng.

    - Ra khỏi là anh đi đâu?

    Đạo thản nhiên:

    - Đi tù.

    - Anh đừng nói đùa.

    - Anh nói thật. Năm ngoái, anh phải ở trong khám Chí Hòa sáu tháng.

    Rồi Đạo kể. Về sáu tháng ở tù. Về phiên tòa. Về khoảng thời gian ở Chí Hòa. Người ta đến bắt Đạo vào khoảng nửa đêm lúc chàng đang ôm một người con gái bán vui trong tay. Đang ngủ say, tiếng đập cửa mạnh mẽ làm Đạo thức dậy. Đứa con gái bán vui thức dậy theo. Nó hoảng hốt: "Có chuyện gì thế anh? " Đạo trả lời: "Anh bị bắt. Em mặc quần áo vào. Sau khi anh đi, em lấy xe về, đừng ở đây". Đứa con gái bán vui tưởng Đạo nói đùa.

    Nó thất sắc, mặt không còn hột máu, khi Đạo mở cửa cho mấy người cảnh sát ùa vào. Đạo không kháng cự, cũng không chạy trốn. Chàng yêu cầu mấy người cảnh sát đừng bắt người con gái, đoạn chàng mặc quần áo và lẳng lặng đi ra. Tới quận, chàng nhận hết tội lỗi và bị tống giam liền sau đó.

    Đạo cười:

    - Điều làm anh bất ngờ nhất là chỉ bị tù sáu tháng.

    - Anh nghĩ anh bị tù bao lâu?

    - Ít nhất ba năm.

    Tôi vừa buồn cười vừa bực mình:

    - Tại sao lại chỉ sáu tháng?

    - Khi bị tống giam và bị kết án rồi, anh mới hiểu tại sao. Có một người bạn đã lo liệu cho anh. Một luật sư. Anh ta tìm đến gia đình bên nguyên, điều đình gia đình đó không kiện anh, nghĩa là xin miễn tố. Tòa vẫn xử như thường. Nhưng bên nguyên xin miễn tố, thành ra chỉ bị tù sáu tháng.

    Tôi hỏi:

    - Anh bị tù về tội gì?

    - Lừa đảo.

    Tôi nhăn mặt:

    - Anh có thấy như thế là xấu không?

    Đạo gật:

    - Sao không thấy.

    Tôi nghiêm mặt:

    - Thấy xấu mà anh vẫn làm.

    - Đúng vậy. Thấy xấu mà vẫn làm.

    Chuyện đi tù, chuyện làm bậy, đối với Đạo chỉ là một khía cạnh trong rất nhiều khía cạnh thuộc đời sống của chàng. Chàng nhắc lại vụ lừa đảo bằng một giọng không khoe khoang. Cũng không mảy may ân hận. Thành ra, tôi muốn tìm hiểu Đạo, lại càng chỉ thấy chàng khó hiểu hơn.

    Với Đạo giữa cái xấu và cái tốt không có ranh giới phân định rõ rệt. Với Đạo, không có những ngõ hẻm tối tăm hay những con đường sáng láng, chỉ có những con đường. Đêm và ngày ở Đạo trộn lẫn, đỉnh cao và vực thẳm cùng một bình diện. Và Đạo sống cho Đạo thế nào thì cũng nhìn người khác sống như thế.

    Đêm thất thân với Đạo, sau những phút giây buông thả điên cuồng, tôi nằm lịm đi rồi bật khóc. Đạo thản nhiên châm thuốc lá hút, thản nhiên nằm nhìn tôi khóc. Tôi đợi chờ một câu an ủi, một lời dỗ ngọt. Nhưng Đạo không nói một lời. Chỉ thả khói thuốc xanh um lên trần nhà. Cụt hứng, tôi nín khóc. Không được dỗ dành, tôi tức giận. Tôi hậm hực:

    - Em khổ sở, anh không nói được một lời nào hay sao?

    Đạo quay sang:

    - Anh chỉ đang ngạc nhiên.

    - Ngạc nhiên?

    Đạo gật, giọng nói tỉnh táo như không?

    - Phải. Tại sao em khóc?

    Tôi đáp, rất tiểu thuyết và cũng rất thành thực:

    - Vì em vừa phá hủy đời em. Bây giờ có hối cũng không kịp nữa.

    - Anh không nhìn thấy cho đời em sự phá hủy đó.

    Tôi vùng nói lớn:

    - Thế nào nữa mới là phá hủy? Em còn mặt mũi nào nhìn thấy người đàn ông sắp cưới. Anh quyến rũ em, đẩy em tới chuyện tồi bại rồi anh thản nhiên, anh bình tĩnh như không.

    Đạo nghiêm giọng:

    - Cả hai điều đều sai. Anh không làm chuyện tồi bại. Đó là điều thứ nhất. Điều thứ hai, anh không hề quyến rũ em. Chỉ là em muốn.

    Tôi nghe mà ngẩn người. Cũng phải công nhận rằng Đạo không quyến rũ. Mà là tôi muốn thật. Đêm hôm đó, tôi đã vào phòng Đạo Vì muốn nếm mùi đam mê đến giọt mật cuối cùng. Vì muốn trở thành đàn bà. Đạo chỉ nói một sự thật. Nhưng cái lối nói ra một sự thật ở Đạo là thế. Lạnh lùng, thản nhiên và tàn nhẫn đến tận cùng.

    Đáng lẽ tôi phải đi xa. Xa lánh Đạo như xa lánh một tai họa cực kỳ ghê gớm. Nhưng tôi đã nằm yên. Cuối cùng tôi bật cười thành tiếng. Cảnh tượng thật ngộ nghĩnh. Tôi vừa khóc rồi tôi đã bật cười. Đạo cất tiếng cười theo. lúc đó, chàng mới ôm lấy tôi:

    - Thế có hơn không?

    Đặt mái tóc vào vai Đạo, tôi hỏi:

    - Em không đáng chê trách thật sao?

    Đạo hỏi lại:

    - Vừa có tội vừa làm bậy. Một tội lỗi tầy đình không thể tha thứ. Một sự tầm bậy phải trừng phạt đích đáng.

    Đạo chỉ khung cửa sổ mở rộng:

    - Cửa sổ kia, em chỉ nhẩy xuống dưới đường. Em sẽ chết không kịp kêu một tiếng. Tội lỗi tầy đình không thể tha thứ sẽ được trừng phạt đích đáng.

    Câu nói nào của Đạo cũng như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt. Tôi tức lắm nhưng đành nằm im. Đêm đó, như một ngoại lệ cho sự ít nói của chàng. Đạo nói khá nhiều. Chàng bảo tôi rằng tôi đã lớn, đã có một đời sống, cái việc đơn giản là tôi hãy sống đời tôi, không rụt rè, không ân hận. Cốt nhất là đừng bao giờ ân hận, Đạo nhấn mạnh và nhắc đi nhắc lại câu nói nhiều lần.

    Tôi ngẩn ngơ:

    - Tại sao vậy?

    Đạo nhún vai:

    - Người không thôi ân hận là người chẳng sống được gì hết. Người không thôi ân hận sẽ tự làm khổ mình suốt đời.

    - Nếu em nghe anh, em phải làm gì?

    - Trở lại đây với anh nếu em vẫn còn muốn trở lại. Không thích nữa thì thôi. Em hoàn toàn tự do.

    Và tôi, đêm hôm sau, tôi đã trở lại với Đạo. Và tôi, phút này, đứng một mình trên ngọn đồi, lẻ loi, trơ vơ hơn bao giờ, tôi lại muốn gần Đạo.

    Chiếc xe lam thả tôi xuống xế cửa khách sạn. Khúc đường lúc này nhộn nhịp chứ không trống trải vắng lặng như lần trước. Tôi trả tiền xe nhìn lên, vui mừng thấy cửa phòng Đạo mở rộng. Không muốn nghĩ ngợi gì thêm, tôi băng mau qua đường. Sự hồi hộp làm cho trái tim tôi đập mạnh. Phút này, nếu có gặp một ai quen, tôi vẫn vào khách sạn như thường. Sống là không bao giờ ân hận về những hành động của mình. Đạo đã nói với tôi như vậy. Tôi đang sống như Đạo đã nói.

    Người đàn bà ngồi chắn lối giữa thềm cửa đêm nào không còn ngồi ở chỗ cũ nữa. Chiếc ghế bành cũng đã được kê vào một góc, trước quầy hàng. Mấy người khách tiếp tục đi lên đi xuống. Họ là những người lạ mặt. Bên trong quầy hàng, cái ghế ngồi cũng trống trơn. Yên tâm, tôi đi thẳng lên cầu thang. Tới lưng chừng cầu thang, một tiếng gọi lớn giữ tôi đứng lại:

    - Cô kia, kiếm ai đó?

    Tôi đành quay trở xuống. Người đàn ông đã đứng tuổi, nét mặt đứng đắn, cái nhìn bình tĩnh. Ông ta tự giới thiệu:

    - Tôi là quản lý.

    Tôi trả lời, như lần trước:

    - Tôi đến kiếm một người bạn ở đây.

    Người đàn ông gật:

    - Tôi biết. Cô là chủ nhân quán Nhớ phải thế không? Lần trước, cô tới đây thằng nhỏ đã báo cáo cho tôi biết. Bạn cô không còn ở đây nữa.

    Đạo đã rời bỏ Pleiku. Đạo đã xa, tôi không còn nhìn thấy Đạo. Sự thất vọng bất chợt mà đau đớn. Cùng với lời nói của người đàn ông, tôi hẫng đi trong một cảm giác bàng hoàng. Tôi nghe thấy tiếng mình.

    - Bạn tôi đi rồi thật sao?

    Người đàn ông gật:

    - Tôi nói dối cô làm gì. Ông ta đi rồi. Đi từ sáng sớm hôm qua.

    Tôi nghe thấy tiếng mình hỏi:

    - Bạn tôi có nói sẽ trở lại?

    - Không. Lúc ông ta đi, tôi có mặt ở đây. Ông ta trả tiền phòng, xách va ly đi ra và không nói, không dặn gì hết.

    Đạo đã làm theo ý tôi. Lần tới khách sạn, tôi đã chẳng nói với chàng là tôi không trở lại, tôi tới chỉ là để yêu cầu chàng rời khỏi Pleiku, tôi tới gặp chàng lần cuối cùng. Không bao giờ Đạo làm phiền tôi nữa. Chiều ý tôi, chàng đã để cho tôi được yên thân. Tại sao tôi đau đớn? Ngọc, mày điên, mày điên.

    - Ông xem dùm có thư từ gì để lại cho tôi không?

    Người đàn ông lắc đầu:

    - Nếu có, tôi phải biết. Cô cần gặp ông ta lắm sao?

    - Không. Không. Thôi cám ơn ông.

    Tôi chào người quản lý, quay trở ra. Tôi rảo bước, đầu cúi xuống, hai gò má nóng bừng. Đạo còn ở khách sạn chưa chừng lên tới phòng chàng, tôi nghĩ lại, sẽ quay trở xuống. Đạo bỏ đi, lặng lẽ, không để lại một lá thư, tôi lại thấy hối tiếc vô chừng đã không lại khách sạn với Đạo sớm hơn. Lần đầu tiên, con người thứ hai ở tôi đã bị con người thứ nhất đánh bại.

    Một ý tưởng liều lĩnh đột ngột xuất hiện: hay là về tìm Đạo ở Sàigòn? Lấy một cái vé máy bay. Đóng cửa quán Nhớ vài ngày hay giao quán cho Huyền trông nom. RA phi trường Cù Hanh. Thế là xong. Thế là sống như một cơn lốc, như Đạo nói. Tưởng tượng đến cái phút gặp Đạo ở Sàigòn, trong hai người chúng tôi, người kinh ngạc là Đạo, tôi đã thấy náo nức. Tôi sẽ vênh mặt, nói với Đạo: "Hai chúng ta, ai liều lĩnh hơn ai? " Đạo sẽ phải gật đầu, công nhận: "Em liều lĩnh hơn".

    Tôi không đi thẳng ra hãng máy bay chỉ vì tôi không tin chắc về Sàigòn có gặp được Đạo hay không? Rất có thể, chàng đang ở một tỉnh khác. Cũng rất có thể, chàng về Sàigòn thật, nhưng không ở khách sạn cũ, và như thế, tôi không thể nào kiếm thấy chàng trong cái biển người đông đúc xa lạ. Lòng tôi rối bời. Tâm trạng hoang mang hơn lúc nào hết. Tôi bước xuống thềm khách sạn như người mất hồn. Phút này, tôi mới nhận thức được một điều. Rằng nếu tôi có một quá khứ và những kỷ niệm, là do Đạo mà có. Rằng nếu tôi có một đời sống. Đạo chính là người khai sinh tôi. Sống với Khoa, với Dã Thụy, với Nhạc chỉ là sống ở cái vòng ngoài. Một thứ vòng ngoài rất yếu. Sống với Đạo, mới là cái trung tâm, cái gốc nguồn. Thứ sống một phút, nhớ thành một đời. Thứ sống một giây thành cả nghìn năm. Chỉ có điều là khi biết, tất cả đã muộn. Cửa phòng chàng vẫn mở. Nhưng một khách trọ khác đã đến ở đó. Đạo rời khỏi Pleiku rồi. Mọi chuyện coi như là không?

    Đi được ba thước, tôi đụng đầu ngay với Thư. Khách sạn còn ở trước mặt. Chắc chắn Thư đã nhìn thấy tôi từ trong khách sạn đi ra.

    Thư làm bộ mừng rỡ:

    - Kìa, chị Ngọc.

    Tôi đứng lại:

    - Chào Thư. Đi đâu vậy?

    - Cũng đi lang thang như chị.

    Tôi gượng cười:

    - Sao biết tôi đi lang thang.

    Lần này, đứa em gái của Khoa không giữ gìn ý tứ như lần trước nữa. Nó nhìn thẳng vào mắt tôi:

    - Chị đến khách sạn kia làm gì vậy?

    Tôi chịu đựng cái nhìn của Thư không lảng tránh. Đạo đã đi rồi. Tôi đang thất vọng. Tất cả đều không quan trọng nữa, kể cả Khoa, kể cả tương lai và hạnh phúc một đời. Nửa đùa nửa thật, tôi trả lời:

    - Tôi có phòng riêng ở khách sạn ấy, Thư không biết sao?

    - Chị đừng nói đùa.

    Tôi bật cười, tiếng cười khô khan quái lạ:

    - Ừ, nói đùa. Tôi đến kiếm một người quen, nhưng không gặp.

    - Ai thế chị?

    Tôi xua tay:

    - Một người quen, Thư không biết đâu.

    Tôi trả lời thật ung dung. Không muốn khiêu khích cũng đã thành ra khiêu khích. Tôi biết sự tức giận ở Thư đã lên tới cực điểm. Thư càng tức giận hơn nữa vì không dám tỏ lộ sự tức giận ấy ra. Mặt Thư tái đi. Nụ cười gắng gượng, thảm hại. Nhìn thấy tôi từ một khách sạn đi ra. Thư đinh ninh vừa bắt gặp quả tang tôi trong một hành động xấu xa và tội lỗi. Đáng lẽ tôi phải có với Thư một thái độ khác. Hoảng hốt và sợ hãi. Tôi đã có một thái độ ngược lại.

    - Em tưởng chị không nên đến những chỗ đó.

    Tôi ngạc nhiên;

    - Sao vậy?

    - Đàn bà chúng mình vào khách sạn là bị mang tiếng ngay.

    - Thư nói rõ hơn đi.

    Thư bĩu môi:

    - Chị thừa hiểu. Cần gì nói rõ.

    Tôi gật:

    - Đồng ý là hiểu. Dễ bị hiểu lầm, phải thế không? Nhưng người quen tôi ở đó. Tôi muốn gặp thì phải tới đó, làm thế nào khác được.

    Thư nhìn tôi:

    - Chị nhiều hẹn lắm nhỉ?

    - Tôi cũng có bạn như hết thảy mọi người.

    - Bạn trai hay bạn gái?

    - Cả hai. Nhưng bạn trai nhiều hơn. Khách hàng đến uống cà phê ở quán Nhớ hầu hết là bạn thân của tôi. Như Khoa vậy.

    Thư mím môi:

    - Chị không thích có bạn gái?

    Tôi gật:

    - Đúng vậy. Đàn bà chúng mình nhiều chuyện lắm. Tôi chỉ thích giao dịch với đàn ông.

    Thư bị chạm nọc, lặng người đi. Chúng tôi yên lặng đi bên nhau một quãng đường. Trời vẫn lạnh. Những bóng người co ro đi dưới những hàng hiên trống trải. Ý nghĩ của tôi vẫn ở lùi lại một phía sau lưng. Nơi cái quầy hàng, cái cầu thang đi lên, những bực thềm khách sạn. Nơi một cửa phòng mở ngỏ, nhưng người ở trong phòng đã bỏ đi, khoôg để lại một dấu vết bé nhỏ nào. Hình ảnh Đạo đuổi theo tôi. Với đôi mắt chàng, với sự im lặng của chàng và những lời nói tàn nhẫn còn vang vang trong đầu.

    Thư hỏi:

    - Chị bận gì không?

    - Không. Thư muốn chúng mình đi đâu?

    - Mời chị về chơi.

    Đề nghị của Thư làm tôi ngạc nhiên. Khoa đã mời tôi đến nhà một vài lần. Lần nào thấy tôi, Thư cũng khó chịu không dám biểu tỏ ra nét mặt, nhưng nhìn thấy rõ rệt ở những săn đón thiếu tự nhiên và những nụ cười gượng gạo. Bây giờ, đột nhiên Thư thay đổi thái độ. Thư muốn đặt vấn đề gì với tôi đây. Đặt vấn đề gì cũng được. Tôi sẵn sàng trả lời, sẵn sàng đương đầu.

    - Đồng ý. Anh Khoa có nhà không?

    - Anh Khoa lên Khôngntum từ sáng sớm.

    Mấy hôm nay tôi không gặp Khoa. Đêm giữ Khoa ở lại quán Nhớ, tôi đòi Khoa phải tin tôi, dành cho tôi một niềm tin tưởng vô điều kiện. Khoa đã nghe theo, và không còn đến quán Nhớ mỗi ngày hai buổi như trước nữa. Tôi đang lừa dối Khoa. Nghĩ mình thật có lỗi. Nghĩ thêm, là cái tình trạng này không thể kéo dài. Có lẽ Thư đang đẩy tôi tới một chân tường, cho mọi chuyện sáng tỏ. Thư muốn thế cũng được. Chỉ buồn cho Khoa thôi.

    Đã đi hết con phố có khách sạn. Đã tới con đường có tiệm bào chế của Khoa. Đầu đường là một tiệm tơ lụa. Tiệm Hồng Hạnh. Tên tiệm cùng là tên người con gái lớn của gia đình này. Hồng Hạnh ngồi ở quầy hàng sát cửa ra vào. Hồng Hạnh là bạn thân của Thư. Qua tiệm, Thư nhìn vào. Hồng Hạnh cười, gật đầu với Thư, nhưng lại ném cho tôi một cái nhìn căm tức. Tôi đã hiểu tại sao. Từ lâu, Hồng Hạnh yêu Khoa, đinh ninh sẽ là người vợ sau này của Khoa, vì hai gia đình giao du mật thiết và rất môn đăng hộ đối. Nhà Khoa giầu có. Nhà Hồng Hạnh cũng vậy. Ông thân sinh ra Hồng Hạnh là một nhân vật tên tuổi của Pleiku. Hồng Hạnh khá xinh đẹp. Thứ nhan sắc của con gái nhà lành với khuôn mặt tròn trĩnh và hai bàn tay trắng muốt.

    Nghe đâu hai gia đình đã đề cập tới chuyện hôn nhân giữa Khoa và Hồng Hạnh. Cho đến khi Khoa biết và quyết liệt phản đối bởi cái lẽ giản dị là Khoa đã yêu tôi. Thế nên tôi trở thành kẻ thù số một của Hồng Hạnh. Ngày trước, mỗi lần tôi đi qua cửa hàng, chúng tôi vẫn gật đầu chào nhau. Đôi khi tôi còn đứng lại, nói với Hồng Hạnh dăm ba câu chuyện.

    Từ khi biết Khoa yêu tôi, muốn lấy tôi làm vợ. Hồng Hạnh coi tôi như kẻ thù. Thái độ thù hận này, tôi đã cho Khoa biết.

    Khoa cười:

    - Mặc cô ta.

    Tôi nhớ đã bảo Khoa:

    - Anh lấy Hồng Hạnh có hơn không?

  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Khoa trợn mắt:

    - Hơn là thế nào?

    - Hồng Hạnh hơn em rất nhiều phương diện. Anh lấy Hồng Hạnh, mọi người đều hài lòng. Còn nếu chúng mình lấy nhau, mọi người đều không hài lòng.

    - Anh hài lòng là đủ.

    Tôi thắng Hồng Hạnh, chẳng thấy kiêu hãnh hay sung sướng gì. Khoa theo đuổi tôi chân thành, trước sau như một. Chân tình đó khiến tôi cảm động. Và đã phải đáp lại. Nếu Khoa thôi tôi, lấy Hồng Hạnh, tôi cũng buồn, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn mà thôi. Nghĩ mà buồn bã. Nghĩ cũng buồn cười. tình yêu là một trò rượt đuổi quái ác. Người này đuổi theo người kia. Cái bóng đuổi theo cái hình. Và mọi người đều khổ sở, chẳng có ai sung sướng hết.

    Chúng tôi đi qua cửa tiệm tơ lụa Hồng Hạnh, với cái nhìn căm giận của hồng Hạnh đuổi theo tôi. Thư hỏi kháy:

    - Chị quen Hồng Hạnh không?

    Tôi chép miệng:

    - Trước quen. Bây giờ hết quen rồi.

    Thư làm bộ không hiểu:

    - Sao lạ vậy?

    - Thư vừa thấy đó thôi. Hạnh cười với Thư nhưng không thèm chào tôi.

    - Em không thấy. Bậy quá. Để em bảo nó mới được.

    Tôi cười:

    - Bảo thế nào?

    Thư nghiêm trọng:

    - Bảo nó lần sau trông thấy chị, phải chào hỏi lễ phép, không được hỗn láo.

    Tôi bật cười thành tiếng. Tưởng chỉ có mình phải đóng kịch. Vì một trường hợp bất khả kháng. Té ra Thư cũng đang đóng kịch. Tán thành cái thái độ thù hận Hạnh dành cho tôi. Thư làm bộ phẫn nộ với cái thái độ đó. Tại sao chúng tôi vẫn phải làm bộ thân mật với nhau? Tại sao chúng tôi đang đi với nhau như một đôi bạn chí thiết? Pleiku đang xuống dốc. Pleiku không còn là Pleiku nữa. Pleiku cũng tự biến thành một sân khấu, sống với cái bề ngoài rồi. Anh Dã Thụy, mảnh đất này không xứng đáng với cái tình yêu vô điều kiện và một đời của anh đâu. Anh đừng thần thánh hóa nó. Nó cũng tầm thường như bất cứ một nơi chốn nào khác. Sáng mai đến thăm anh, tôi sẽ thuyết phục anh trở về Quy Nhơn bằng được. Anh tưởng Pleiku chỉ có những cánh rừng xanh, những ngọn đồi cao, những giòng suối sáng và Biển Hồ trong vắt tới đáy. Anh lầm. Pleiku còn có những đời sống và những lòng người. Những đời sống cũng tầm thường. Như ở mọi nơi khác. Những lòng người cũng chật hẹp. Như ở mọi nơi khác.

    Tôi ôn tồn:

    - Hạnh không có lỗi gì hết. Cứ coi nhau như xa lạ, lại hay hơn.

    Thư chưa chịu vẫn tiếp tục đóng kịch:

    - Nhưng Hạnh thù ghét chị vì lý do nào mới được chứ?

    - Tôi tưởng Thư hiểu. Đã hiểu từ lâu.

    Thư cãi:

    - Em không hiểu thật mà.

    Tôi cười:

    - Hỏi Khoa. Khoa giải thích cho.

    Tôi dừng lại trước cửa tiệm bào chế. Nhìn vào cửa tiệm đầy người, vừa là những người đến mua thuốc, vừa là đám em nhỏ của Khoa, và những người thân thuộc trong gia đình Khoa. Nhiều cặp mắt ngó ra. Tôi biến thành một cái đích cho mọi hình thức nhìn ngắm. Phải nói rằng trong gia đình Khoa, chỉ có Khoa là được. Chỉ có Khoa mà thôi.

    Thư kiêu hãnh vô lối, coi người bằng nửa con mắt. Đám em nhỏ của Khoa lấc cấc, mất dậy. Lần này, cũng như mọi lần trước chúng dương mắt nhìn tôi không chào hỏi.

    Mình chưa ở gia đình này. Không chừng, không bao giờ, khỏi thèm chấp chúng nó. Tôi nghĩ thầm và ung dung theo Thư vào nhà.

    Một bà lão già ngồi ở sau quầy. Bà lão gầy đét, cặp mắt sâu hoắm, cái nhìn ác độc. Thấy tôi, bà lão nhíu mắt nhìn không chớp. Thư đưa tôi đến trước mặt bà lão giới thiệu:

    - Cô Hai tôi.

    Tôi lễ phép:

    - Lạy cụ ạ !

    Bà lão chưa thèm đáp lại. Chỉ hất hàm hỏi Thư:

    - Ai vậy?

    - Thưa cô, đây là chị Ngọc, ở quán Nhớ.

    Bà lão nhìn tôi một lần nữa, dài giọng:

    - Té ra cô Ngọc đây. Nghe nhắc đến hoài, bây giờ mới thấy mặt.

    Bà lão hỏi Thư:

    - Tức là người cậu Khoa nhà này khen nức khen nở đó phải không?

    Tôi trêu bà lão:

    - Anh Khoa khen cháu làm sao kia ạ ! Cụ làm ơn cho cháu được biết để từ nay cháu cấm anh Khoa không được khen cháu nữa.

    Tôi nhắc lại, thủng thẳng:

    - Cháu cấm.

    Đứa con gái, ngang ngược, bướng bỉnh ở tôi đã thức dậy. Người đàn bà thứ nhất vừa nhường chỗ cho người đàn bà thứ hai. Người đàn bà thứ hai này dám sống một mình, mãi mãi. Dám xem thường hết thẩy, từ xem thường chính mình. Và cũng đã dám đi theo một người đàn ông lạ mặt vào phòng người đàn ông đó. Ở lại trong căn phòng ấy tới sáng.

    Bà lão nhìn tôi, gật gù:

    - Cô này đáo để lắm nhỉ.

    - Cháu hiền như đất.

    Bà lão mát mẻ:

    - Tôi cũng mong như thế cho thằng Khoa nhà tôi.

    Biết để tôi đứng lại lâu hơn với bà lão, chắc chắn sẽ có một cuộc trêu chọc, đấu khẩu do tôi gây ra. Thư kéo vội tôi vào phòng trong. Căn phòng vẫn như lần trước tôi đến, không có gì thay đổi. Duy chỉ có thêm một bức tranh của Dã Thụy treo trên một vì tường. Người con gái trong tranh là tôi. Bức tranh vẫn treo ở quán Nhớ. Khoa ngõ ý muốn lấy. Tôi bằng lòng cho Khoa đem bức tranh ấy về nhà Khoa tuần lễ trước.

    Thư chỉ bức tranh tôi cầm ở tay.

    - Anh Thụy lại vẽ chị nữa?

    - Phải. Nhưng chưa xong.

    - Sao chị không để anh ấy vẽ nốt hãy mang về?

    Tôi nghiêm trang:

    - Thụy không vẽ được nữa.

    - Ban nãy anh Vận đến đây lấy thuốc nói đem về cho anh Thụy. Anh ấy đau sao?

    - Phải. Nặng lắm.

    Câu chuyện và bức tranh kéo tôi trở lại với Dã Thụy. Suốt buổi sáng, tôi đã gặp Thụy. Đã nghĩ đến Đạo. Một người nằm chờ chết. Một người đã bỏ đi, không bao giờ trở lại. Gió thổi mênh mông đầy trời. Tôi quên được chốc lát. Đã nhớ lại. Rằng một mùa đông Pleiku buốt lạnh và buồn thảm đã bắt đầu.

    Thư mời tôi ngồi xuống ghế bành rồi lớn tiếng gọi người đưa nước uống. Một khay trà được bưng ra. Thư dùng hai ngón tay nhấc tách trà, uống từng ngụm nhỏ. Mọi điệu dáng ở người con gái đều trịnh trọng, kiểu cách. Đối diện với Thư, tôi tựa lưng vào thành ghế và tôi lặng lẽ chờ đợi. Mùa đông. Một mùa đông dài đã bắt đầu. Gió Pleiku đang ào ạt trên phi trường Cù hanh. Đang veo veo trên Biển Hồ. Bốn phương đều sáng láng, ấm áp. Chỉ Pleiku buồn, xám ngắt và lạnh buốt.

    Thư đặt tách trà xuống, đằng hắng:

    - Gia đình nhà em hồi này nhiều chuyện lộn xộn quá.

    Tôi nín thinh ngồi yên. Không thấy cần phải trả lời. Chuyện lộn xộn ở gia đình Thư không ăn nhằm gì đến tôi. Gia đình nào cũng có chuyện lộn xộn. Tôi nhìn thẳng vào mặt THư. Thư quay nhìn đi chỗ khác.

    - Anh Khoa em buồn lắm.

    Thấy tôi vẫn ngồi yên, Thư hỏi:

    - Chị có thấy như thế không?

    Tôi lắc:

    - Không.

    Thư chép miệng:

    - Thế là chị không để ý đó thôi. Anh Khoa chưa nói gì với chị?

    - Chưa. Tôi đã nói với Thư là mấy hôm nay tôi không gặp Khoa.

    - Anh ấy dấu chị đó.

    Tôi cười nhạt:

    - Thế à? Điều anh Khoa dấu liên quan gì đến tôi không?

    - Rất liên quan. Chuyện của chị với anh Khoa, gia đình em chống đối dữ dội lắm.

    Tôi gật:

    - Sự chống đối ấy không làm tôi ngạc nhiên. Nhưng Thư có thể nói cho gia đình biết là giữa Khoa và tôi không có chuyện gì hết.

    - Anh Khoa lại không nói như chị.

    Tôi cười:

    - Anh Khoa nói thế nào.

    - Nói chị bằng lòng làm đám cưới vào đầu năm tới.

    Khoa có đề cập với tôi về chuyện này thật. Rằng Khoa không muốn kéo dài thêm nữa thời kỳ đính hôn. Rằng Khoa muốn chúng tôi lấy nhau càng sớm chừng nào càng hay chừng đó. Tôi nhớ tôi đã nín thinh. Không ra bằng lòng cũng chẳng ra không. Phần Khoa đã coi sự im lặng của tôi như một ưng thuận.

    Tôi bảo THư:

    - Khoa đi mau quá. Thành ra có sự hiểu lầm. Bây giờ tôi đã nói. Thư đã biết rõ. Giữa Khoa và tôi chưa có chuyện gì rõ rệt hết.

    Thư mím môi, ngập ngừng:

    - Chị tính thế nào?

    - Tôi không tính không định. Chuyện gì phải xẩy ra sẽ xẩy ra, thế thôi. Còn nếu gia đình Thư có chuyện xích mích vì tôi, thì điều đó không phải lỗi ở tôi.

    - Vâng. Tất nhiên không phải lỗi ở chị. Lỗi ở anh Khoa đúng hơn.

    Cái lối nói xa nói gần, vòng vo của Thư bất chợt làm tôi nổi nóng. Thì cứ nói huỵch toẹt ra là gia đình Khoa chống đối không chịu cho Khoa cưới tôi làm vợ. Thư ác độc nhưng lại không có cái can đảm nói thẳng. Tôi liền nói thẳng:

    - Chẳng phải lỗi tại Khoa. Chỉ là gia đình Thư không bằng lòng tôi, coi tôi không xứng đáng, phải không? Được tôi sẽ không tới đây nữa. Bây giờ, Thư cho tôi trở về quán Nhớ. Khách hàng và bạn hữu đang chờ tôi.

    Thư hoảng hốt:

    - Chị ngồi chơi đã. Em chưa nói hết.

    Tôi cười nhạt:

    - Thư không cần nói hết tôi cũng hiểu hết rồi. Tôi biết Thư theo dõi tôi mấy ngày nay. Để bắt gặp quả tang tôi đến tìm một người đàn ông ở khách sạn. Thư đã thành công. Người đàn ông ở khách sạn là người tình cũ của tôi đó. Chờ Khoa về, hãy kể cho Khoa biết. Đáng lẽ Thư phải cho Khoa biết rồi mới phải. Còn đợi chờ gì nữa?

    Tôi đứng lên đi ra. Câu chuyện chấm dứt đột ngột. Bà lão già vẫn ngồi ở sau quầy. Bầy em nhỏ của Khoa thấy tôi đùng đùng từ trong nhà đi ra và đi thẳng ra cửa nhìn nhau ngơ ngác. Tôi cũng chẳng cần. Đạo đã bỏ đi. Trái tim tôi đang tan vỡ, đang chảy máu. Khoa còn với tôi hay Khoa sẽ đoạn tuyêt, thế nào cũng được. Tôi bước mau lên một chiếc xe lam, người phu xe đưa tôi về quán Nhớ.

    Lá thư của Thụy không cần phải đợi chờ nhiều ngày, tôi mới biết nó đích thực là một bản chúc thư. Bản chúc thư của một người đã chết rồi để lại.

    Nếu tôi trở lại thăm Thụy ngay buổi chiều, tôi còn được trò chuyện với Thụy thêm một lần nữa. Lần cuối cùng. Buổi sáng hôm sau, tôi mới trở lại. Và Thụy đã trút hơi thở cuối cùng từ đêm hôm trước.

    Vận lái xe đưa chị em tôi tới. Chiếc xe ngừng lại ở chỗ cũ, nơi con đường cụt, trước hàng rào giây thép gai, trước cái cổng đổ nát. Trời Pleiku đi thêm một bước đi âm thầm nữa vào mùa đông mênh mông. Túp lều yên lặng một cách khác thường. Vận gõ cửa. Thật mạnh. Không có tiếng trả lời.

    Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, rồi Vận đẩy cửa và hai chị em tôi theo Vận bước vào. Chưa nhìn thấy Thụy, nhưng linh cảm đã cho tôi biết là chúng tôi tới trễ rồi. Thụy không còn nữa, Thụy chết thật rồi. Trong đêm. Một mình. Căn phòng trong tối thẳm. Vận phải bật diêm và khi ngọn nến đã cháy sáng, chúng tôi mới nhìn thấy rõ.

    Thụy nằm đó, trên chiếc giường sắt nhỏ. Tấm chăn không còn phủ lên cái thân hình còm cõi của Thụy như hôm trước nữa. Nó rớt xuống mặt đất. Thụy nằm quay mặt vào tường, ở yên trong cái dáng điệu tôi đã nhìn thấy từ hôm trước khi Vận và tôi từ biệt Thụy đi ra.

    Vận gọi:

    - Thụy, Ngọc và Huyền đến thăm cậu.

    Tôi đứng lặng người, trong khi Vận từ từ đi lại gần giường. Huyền run bắn, hai mắt mở lớn, da mặt tái nhợt. Vận cúi xuống, đặt tay lên người Thụy. Một phút yên lặng, dài lâu như một thế kỷ.

    Rồi Vận từ từ đứng thẳng người lên, quay lại nói tôi:

    - Thụy chết rồi.

    Tôi nhắm mắt lại, đưa hai tay lên bưng lấy mặt. Thụy chết rồi có gì đáng ngạc nhiên đâu. Chỉ đáng ngạc nhiên là Thụy còn sống mà thôi. Tôi đứng không biết bao lâu, tai tôi mơ hồ nghe thấy tiếng gió thổi trên một tầng cao, rồi tiếng khóc nức nở của Huyền, rất gần át cả tiếng gió.

    Rồi tiếng Vận:

    - Huyền đừng khóc nữa. Tôi đưa hai người về. Chúng mình phải lo chôn cất cho nó.

    Nửa giờ sau, mọi người họp mặt ở quán Nhớ. Khoa ngồi bên cạnh tôi, nắm chặt lấy tay tôi. Mọi người đều lên tiếng. Mỗi người nói một câu. Ai cũng tỏ ý bàng hoàng xúc động về cái chết đột ngột của Thụy. Riêng tôi, không nói một lời nào. Đầu óc tôi tê liệt, trống rỗng. Tôi chỉ còn là một thân xác đờ đẫn, bất động. Như thế cho đến chiều, khi tôi đi theo xe tang ra nghĩa địa. Đám tang Thụy được tổ chức gấp rút, đơn giản. Chúng tôi cúi đầu, bước lặng lẽ dưới vòm trời mùa đông. MỘt con đường đồi lượn sóng đưa chúng tôi ra khỏi thị xã. Huyệt đào nơi lưng chừng một ngọn đồi. Đất đào lên, đỏ ké. Những cái bóng chúng tôi in hình, chênh chếch lên nền trời. Khoa nói một vài câu từ biệt. Những hòn đất được ném xuống lòng huyệt. Rồi mộ Thụy được lấp kín và chúng tôi rời khỏi ngọn đồi, từng người một.

    Xuống dưới chân đồi mọi người tản đi. Nhạc rủ Thập đến một quán rượu. Nói là để đánh đắm nỗi buồn mất bạn vào một cơn say. Thập nhận lời, nói rằng có ngày Thập cũng sẽ như Thụy không còn xa lắm. Vận tỏ ý muốn về nhà nằm nghỉ một lát, vì đã mệt nhoài sau mấy ngày chạy đi chạy lại. Khoa theo tôi và Huyền trở lại xưởng họa của Thụy. Nghe tin THụy chết, người chủ đất đã tới nhận lại túp lều và thuở vườn. Bà lão đứng chờ chúng tôi ngoài cổng. Chúng tôi theo bà lão vào nhà. Mấy cánh cửa được mở ra. Ánh sáng ùa vào, làm hiện rõ mọi cảnh tượng trống trải. Bà lão đã xếp những bức tranh vào một góc. Chiếc giường sắt của Thụy được khiêng ra một góc vườn. Lúc sống, dấu vết về sự có mặt của Thụy đã mờ nhạt. Thụy chết, nhưng dấu vết mờ nhạt ấy tan biến mau chóng. Chúng tôi mang hết tranh Thụy ra xe Khoa, đưa lũ tranh mất chủ ấy về quán Nhớ, phải ba chuyến xe mới chở hết.

    Xong xuôi, Khoa ngồi nói chuyện với tôi ở một góc phòng. Mấy ngày không gặp nhau, giữa hai chúng tôi có một cái gì ngỡ ngàng và ngượng ngập. Buổi sáng, suốt thời gian đưa đám Dã Thụy, Khoa luôn luôn ở cạnh tôi, nhưng không nói với tôi một lời nào. Lúc chở tranh về quán Nhớ cùng tôi. Đôi khi tôi nhìn sang, bắt gặp cái nhìn của Khoa vội vã nhìn đi chỗ khác. Sự hờn giận đã thấy rõ. Tôi lên tiếng, phá vỡ một im lặng nặng nề kéo dài.

    - Anh uống cà phê?

    - Không.

    Chưa bao giờ Khoa từ chối một lời mời của tôi. Đây là lần đầu. Tôi nhớ đến câu chuyện trao đổi gay gắt giữa Thư và tôi. Chắc Thư đã nói lại với Khoa.

    - Hôm qua, em gặp Thư.

    Khoa gật, đầu vẫn cúi xuống:

    - Anh biết.

    - Thư gặp em ở phố, mời em về nhà.

    - Thư có nói chuyện. Nói gặp em trước một cửa khách sạn.

    - Thư nói gì nữa với anh?

    Khoa lững lờ:

    - Thế thôi.

    - Hai đứa có to tiếng với nhau.

    - Về chuyện gì vậy?

    - Một chuyện thuộc gia đình anh, nhưng liên quan đến em. Theo Thư, em là người gây ra chuyện đó.

    Khoa xua tay, hàng mi nhíu lại:

    - Em đừng để ý. Đáng tiếc là anh không có mặt ở nhà lúc đó.

    Khoa dặn:

    - Lần sau, biết anh không có nhà, Thư có rủ cũng đừng tới. Để anh bảo Thư, là dù thế nào nó cũng không được chen vào chuyện chúng mình,

    Sau đó, Khoa đứng lên cáo từ, nói buổi chiều sẽ trở lại. Chính là lúc Khoa đứng lên này, mà cái ý định đi xa một vài ngày bất chợt đến với tôi. Những lúc đầu óc hoang mang, người ta cần tìm một nơi chốn cách biệt. Để suy nghĩ. Để nhìn thấy mình, thấy người rõ hơn. Đạo bỏ đi. Thụy chết tôi chợt thấy tôi như rơi lạc vào một biển sương mù. Và cuộc tình duyên giữa tôi và Khoa thì đang trải qua một thử thách gay cấn. Không có một đổi thay, hay một yếu tố nào mới. Chuyện tốt đẹp kéo dài bấy lâu sẽ hư hỏng, sẽ tan vỡ. Tôi muốn đi xa ít ngày vì thế. Để nghĩ lại. Về người. Về tất cả. Nhất là về chính mình. Thoạt đầu, tôi nghĩ đến Sàigòn. Nhưng nếu tôi về Sàigòn, chắc chắn Khoa không chịu để cho tôi đi. Hoặc Khoa sẽ ngăn cản quyết liệt. Hoặc Khoa sẽ đòi đi theo. Nhìn đống tranh của Dã Thụy, tôi chợt nhớ đến Quy Nhơn. Thụy chết, gia đình Thụy chưa hay biết gì về cái chết này. Trong thư Thụy nói coi tôi là người thân thiết nhất. Tôi sẽ xuống Quy Nhơn, thăm em gái Thụy và báo tin cho gia đình Thụy là Thụy không còn nữa.

    Tôi gật:

    - Chiều anh đến đi. Vì mai em đi vắng.

    Khoa ngạc nhiên:

    - Em đi đâu?

    - Xuống Quy Nhơn.

    Tôi nói tiếp:

    - Mặc dầu Thụy không nhờ, nhưng em thấy có bổn phận phải báo tin dữ cho gia đình Thụy biết.

    Khoa ngẫm nghĩ rồi hỏi:

    - Bao giờ em đi?

    - Sáng mai.

    - Em đã xuống Quy Nhơn lần nào chưa?

    Tôi lắc:

    - Chưa. Cũng vì thế mà em muốn đi. Cho biết Quy Nhơn của Dã Thụy như thế nào.

    - Mai anh sẽ đi cùng với em.

    Tôi xua tay:

    - Em muốn đi một mình.

    Khoa nghĩ lại. Rồi hỏi:

    - Huyền có đi với em không?

    Tôi cười:

    - Em đã nói là em đi một mình. Nếu có thêm Huyền, em đã mời anh cùng đi cho vui.

    Khoa nín thinh, không hỏi gì thêm nữa. Tôi nhờ Khoa lui tới quán Nhớ trong mấy ngày tôi đi vắng, trong trường hợp Huyền cần giúp đỡ điều gì. Lúc tôi đưa tiễn Khoa ra cửa, Khoa thình lình nắm chặt lấy tay tôi:

    - Anh đã hứa tôn trọng sự tự do của em. Anh sẽ cố gắng giữ lời đó đến cùng. Phần em, đừng thay đổi gì với anh. Em phải hứa với anh như thế.

    Tôi dịu dàng:

    - Anh đừng lo. Hôm nào về, em sẽ bảo Huyền đến cho anh biết ngay.

    Bến xe ở ngoài thành phố. Một khoảng đất trống trải, phơi dãi, chạy dài giữa một dãy hàng quán lụp xụp và mấy ngôi nhà xây cất dở dang. Hồi quân Mỹ chưa rút khỏi Pleiku, vùng ngoại ô thị xã này đã được lựa chọn làm địa điểm tập trung mới cho các nhà tắm hơi, vũ trường và quán rượu. Những bóng dáng cao lớn của những người ngoại quốc biến mất khỏi Pleiku, khu giải trí tập trung chỉ còn là mấy căn nhà xây cất chưa xong nằm trơ trẻn giữa một vùng đất cằn cỗi. Khoa đưa xe tới đón tôi ra bến. Khoa lấy vé xe cho tôi, đưa tôi vào một quán nước. Chúng tôi cố gắng nói hết chuyện này sang chuyện khác để lấp đầy một sự chờ đợi kéo dài. Bây giờ chuyến xe đò đã đủ khách. Tôi đã lên xe. Và Khoa đã trở về sau khi dặn tôi không được ở Quy Nhơn quá ba ngày.

    Tôi nhìn theo xe Khoa chạy trở lại con đường thị xã cùng một lúc với chiếc xe đò từ từ chuyển bánh. Đây là chuyến xe thứ nhất. Trời còn sớm. Mặt trời chưa lên. Sương mù còn xanh biếc trên những sườn đồi chung quanh.

    Bến xe bỏ lại sau lưlng, đường trường mở rộng trước mặt, chuyến khởi đầu với tôi bằng một cảm giác cực kỳ sảng khoái. Ban mai cao nguyên là một cảnh tưởng mênh mông yên lặng khác thường. Những ngọn núi xa cũng yên lặng như những ngọn đồi gần. Những khúc đường vòng cũng yên lặng như những đoạn đường thẳng. Sương mù đang tan dần, cũng đang tan dần trong yên lặng. Những tia hồng của mặt trời hiện dần cũng hiện dần trong một im lặng hoàn toàn. Đám hành khách trong xe ngồi bất động. Những khuôn mặt khép kín. Những cái nhìn chăm chú nhìn thẳng về trước mặt. Một nửa hành khách là đồng bào thiểu số. Họ đeo những chiếc vòng đồng nặng chĩu nơi cổ tay. Họ khoác trên người những mảnh vài đen với những đường chỉ màu sặc sỡ.

    Xe tới một ngã ba. Con đường phía tay trái men theo một con lạch khô. Con đường phía tay phải đưa lên môt ngọn đồi. Một đám người ngồi chồm hổm bên lề đường. Bên cạnh họ, ngổn ngang những bao khoai bao sắn, những buồng chuối còn xanh ngát. Xe ngừng lại, rước đám khách đó lên. Rồi con đường lại mở rộng, hun hút trước tầm mắt.

    Tôi thiếp đi chừng mười lăm phút. Mở choàng mắt, thấy xe chạy chậm giữa một con phố khá sầm uất. Tôi hỏi người đàn bà ngồi bên cạnh.

    - Đây là đâu bà.

    - Sắp tới đèo An Khê.

    Giấc ngủ ngắn nhưng bù đắp được phần nào cho cả đêm qua thao thức không ngủ. Tôi ngồi thẳng dậy, tỉnh táo hơn. Bây giờ xe đang chạy qua quận lỵ An khê. Mặt trời lúc này đã lên cao. Con phố quận lỵ với những mái nhà san sát đối diện sáng bừng dưới nắng. Một bầy trẻ nhỏ chạy theo hông xe. Chúng bám vào cửa xe, chào mời tíu tít. Chúng đội lên đầu những rổ băp luộc, những khay hột gà. Xe tăng dần tốc độ đánh rớt đám trẻ nhỏ bán hàng về phía sau. Con đường trở nên trống trải. Xe khởi sự leo dốc. Đã tới chân đèo An Khê.

    Tôi chợt nhớ tới anh Kiện. Có một thời kỳ đơn vị anh Kiện đã trấn đóng ở đỉnh đèo lịch sử này. Trong mấy bức thư dài anh Kiện đã tả cho hai chị em thấy về cảnh tượng An Khê. Một lần về thăm nhà, anh còn kể cho chúng tôi về những trận đánh khốc liệt đã diễn ra ở vùng địa hình hiểm trở này. Hồi Pháp thuộc, một đoàn công voa Pháp đã bị phục kích ở lưng đèo. Những chiếc xe vận tải bốc cháy, xác xe nằm rải rác suốt mấy cây số. Năm ngoái, năm kia, thêm nhiều cuộc đụng độ khác, thảy đều dữ dội, đẫm máu. Tôi hình dung ra những trận đánh, nhớ lại anh Kiện, trong khi chiếc xe mệt nhọc leo hết khúc quanh này đến khúc quanh khác.

    Rồi xe leo tới đỉnh đèo và đổ đèo.

    Và một cảnh thể khác lạ hoàn toàn với Pleiku thình lình hiển hiện. Cao nguyên không còn nữa. Cao nguyên đã đứng lại phía bên kia An Khê. Từ An Khê phía bên này, phía xe đang lao xao đổ dốc đã là miền Trung, đã là Quy Nhơn của Thụy.

    Cái nắng chói chan hơn. Bầu không khí lạnh thoắt chốc nóng bỏng như một lò lửa. Gió từ một phía biển chưa nhìn thấy, ào ạt thổi tới. Tôi vừa kịp cởi áo len khỏi người mái tóc đã bay tung. Bây giờ, chung quanh tôi, trước mặt, sau lưng, chỉ còn là mịt mùng gió cát. Trời đất chói lòa một màu. Những trận gió veo veo trùng trùng, ném tới những hơi lửa thốc tháo. Chỉ trong khoảng khắc đầu óc tôi đã bị những trận gió lửa làm cho ngây ngất, choáng váng.

    Tôi phải đeo vội cặp kiếng thuốc lên mắt.

    Xe chạy qua nhiều cây cầu, nhiều quận lỵ nữa. Càng tới gần Quy Nhơn, đất càng trải phẳng ra. Sinh hoạt trù phú ấm áp hơn với những ruộng lúa xanh ngát ôm sát bờ đường, những thôn xóm xinh xắn trong những khoảng cách đều đặn. Đất của Dã Thụy đây, tôi nhủ thầm. Ngày nhỏ, Thụy đã đi qua những cây cầu này. Đã ngồi dưới bóng mát của những hàng cây kia, mái tóc mơ mộng đã tắm đẵm cái nắng, cái gió đang phơi dãi chan hòa, cùng khắp. Vậy mà Thụy đã không ở được. Đã bỏ đi. Đã lang thang. Đã phiêu bạt. Đã dừng chân và trút hơi thở cuối cùng trong một túp lều lạnh buốt. Tâm hồn người khó hiểu thật. Nhất là tâm hồn những người trẻ tuổi bây giờ.

    Chúng tôi là những người trẻ tuổi ấy. Chúng tôi soi gương để không nhìn thấy mặt mình. Chúng tôi kiếm tìm nhau để chỉ nhìn thấy rõ hơn ở nhau, một thế giới cô đơn, bằng ấy thế giới cô đơn họp lại thành một cô đơn ghê gớm. Tôi đang thấy tôi cũng như Dã Thụy. Với đời sống thất lạc, như một cuộc chạy trốn thất lạc về trước mặt. Với những xao xuyến không đối tượng, những khổ đau không tên gọi. Đầu óc tôi bất chợt tối đen. Như thế cho tới khi chiếc xe đò phủ đầy bụi bặm đường trường dừng lại ở bến Quy Nhơn.

    Chiếc va ly và mấy bức tranh của Dã Thụy được thả từ trên mui xe xuống. Một người phu xe lam nhanh nhẹn chạy tới đỡ lấy, xếp thành một đống ngay ngắn trên mặt đất bến trần trụi. Tôi nhìn đồng hồ tay. Mười một giờ. Gió không thổi nữa. Cái nắng nung nấu giữa một bầu không khí im sững. Mồ hôi đã toát đầy ở những chân tóc, ướt đẫm suốt sống lưng. Hai gò má tôi bừng bừng. Nắng bốc hơi, làm cho mọi hình thể chập chờn, nhẩy múa.

    Người phu xe quay lại hỏi:

    - Cô vào thị xã?

    Tôi gật:

    - Còn xa lắm không?

    - Dăm bảy cây số.

    Tô nói với người phu xe:

    - Ông đưa tôi vào thị xã rồi đưa tôi đến một khách sạn yên tĩnh, sạch sẽ. Ông biết một khách sạn nào như thế không?

    Người phu xe cười:

    - Biết chứ sao không biết. Bộ cô mới đến Quy Nhơn lần đầu.

    Tôi gật:

    - Phải. Lần đầu.

    Chiếc xe lam rời khỏi bến. Con đường nhựa mở rộng trước mặt, thẳng tắp. Được chừng hai cây số, con đừơng đã có những ngôi nhà, những cửa tiệm lác đác ở hai bên. Rồi tôi nhìn thấy Quy Nhơn. Dã Thụy đã một lần tả cho tôi thấy vè thành phố Quy Nhơn. Về những con phố mệt mỏi buồn bã dưới cái nắng nhễ nhại mệt thiếp. Về sự trống trải đặc biệt của một thành phố gần biển. Qua Dã Thụy. Quy Nhơn là một thành phố buồn. Bây giờ nhìn thấy, tôi không thấy Quy Nhơn như Thụy tả. Thành phố khá lớn. Những cửa tiệm sầm uất. Người đi lại đông đúc. So với Pleiku, Quy Nhơn vui và đẹp hơn nhiều. Xe chạy một vòng qua mấy con đường chính rồi ngừng lại trước một khách sạn mới cất.

    - Tới rồi đó.

    Tôi bước xuống khỏi xe, nhìn lên những cánh cửa đóng kín.

    - Ở đây yên tĩnh thật không?

    - Thật mà. cô tin tôi đi.

    Tầng dưới của khách sạn là một tiệm ăn. Chưa đến bữa ăn. Căn phòng rộng vắng ngắt. Một người con gái ngồi sau quầy im lặng nhìn ra. Người phu xe xách valy ra hiệu cho tôi đi theo. Tôi bước vào tiệm ăn, nghĩ đến cái buổi trưa tôi xuống Sàigòn, lần đầu tiên trong đời đặt chân tới một khách sạn. Chỉ khác, lần này không có Huyền, cũng không có Đạo.

    Tôi tiến lại nói với người con gái ngồi sau quầy:

    - Tôi muốn thuê phòng?

    Người con gái có gương mặt hiền lành, dễ thương của một nữ sinh. Cô ta đang xem một cuốn tiểu thuyết.

    - Mấy ngày?

    Tôi trả lời, nhớ đến lời dặn của Khoa là không được ở Quy Nhơn lâu:

    - Hai ngày.

    - Có ai nữa không?

    Tôi lắc:

    - Một mình tôi thôi.

    Tôi thấy cần phải nói rõ hơn:

    - Tôi ở Pleiku xuống. Tôi xuống thăm một gia đình quen.

    Tôi trả tiền phòng. Một người đàn bà đứng tuổi từ một căn phòng phía sau quầy hàng đi ra. Tôi đoán bà ta là mẹ cô gái vì hai khuôn mặt hao hao giống nhau. Chừng như bà ta đã nghe thấy tôi nói vừa từ Pleiku xuống. Bà ta niềm nở bắt chuyện:

    - Cô làm gì ở Pleiku?

    Tôi cười:

    - Thưa bà, tôi mở quán bán cà phê.

    Hai mẹ con người đàn bà đưa mắt nhìn nhau. Người con gái:

    - Ở Pleiku có quán cà phê nào tên là quán Nhớ không?

    Tôi gật:

    - Có. Quán Nhớ là tôi.

Trang 1 / 2 12 Cuối Cuối

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •