Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tình yêu và hạnh phúc là hình với bóng, nếu biết bảo vê. thì hạnh phúc sẽ thành sự thậtt, ngược lại nêu không biết bảo vê. thì hạnh phúc chỉ là một hình ảnh ảo tưởng không bao giờ có thật
Pascal
Results 1 to 10 of 10

Chủ Đề: Chiếc Áo Cưới Màu Hồng

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Chiếc Áo Cưới Màu Hồng

    Chiếc Áo Cưới Màu Hồng

    Tác giả :Nguyễn Vỹ




    Chương I
    QUANG cảnh làng Tân-Phú đìu hiu vắng vẻ với dân số độ vài chục người, kể cả người lớn trẻ con. Ban ngày phần nhiều đàn ông đàn bà đi vô rừng chặt củi, hoặc làm ruộng rẫy trong các hốc núi. Lũ trẻ nít ở nhà với vai con chó ốm dơ xương nằm dưới bóng một cây mít hay một cây đu đủ, cằn cỗi khó khăn.

    Lâu lâu, một đoàn xe bọc sắt của Nhà binh Pháp chỉa súng hai bên, chay rầm rộ lên đèo, giữa một vùng bụi mịt mù trong nắng gắt. Tiếng chó sủa hồi lâu vang dậy một khu rừng, rồi đâu đấy lại chìm trong im lặng.

    Một buổi chiều, mặt trời gầu lặn, những người đi làm trong núi đã lần lượt về nhà, lòm khòm, uể oải. Người ta mỉm cười thấy một cặp trai gái còn ngồi trên tảng đá lớn, nơi đỉnh núi. Cậu con trai đội chiếc mũ nĩ cũ mèm, áo sơ mi vải xanh vá nhiều tấm, quần, chưn mang đôi dép cao su làm bằng võ xe hơi. Cô gái bới tóc, đội nón lá rách, mặc áo bà ba trắng, chấp vá nơi vai, đi chưn không, Bên cạnh cậu, một bó tre lò-o chặt trong núi đem về. Bên chưn thiếu nử, một gánh lá lợp nhà. Hai người vừa ở trong núi ra, ngồi kề nhau trên tảng đá cao, coi chiều âu yếm lắm. Trong làng Tân Phú ai cũng biết đó là Tình và Phuợng, một đôi tình nhơn sắp cưới.

    Trần văn Tình, 20 tuổi, là con trai một người phu đồn điền, trước đã theo cha làm phụ thợ mộc trong một sở Cao-su ở Trảng-Bôm. Từ hồi chiến- tranh, gia đình cậu tản cư về ở Tân Phú, nhà ông ngoại. Hiền lành, ít nói, bộ mặt dễ thương, cốt cách một cậu học trò hơn là một thanh niên lao động. Nhưng một câu học trò đã lớn, đứng đắn, đàng hoàng, lanh lợi. Vả lại cậu đã thi đỗ bằng tiểu học, hồi 11 tuổi, học được một năm lớp đệ nhứt rồi phải nghĩ học theo cha lo kế sanh nhai.

    Mỹ Phượng, tên đã đẹp mà người lại càng đẹp, là con gái thứ một chú Cai Lục lộ đã về hưu. Trước cô đi học trường Đà Lạt, đỗ bằng Tiểu học. Từ khi người chị đi lấy chồng thợ hồ, Mỹ Phượng thôi học, về nhà giúp mẹ. Bắt đầu truyện này, Mỹ Phượng đã 19 tuổi. Dáng điệu thướt tha, nhan sắc hồng hào tự nhiên, Mỹ Phượng đẹp hơn các cô gái ở thành thị nhiều. Đẹp nhất là đôi mắt ngà của Phượng, với tròng con ngươi xanh lợt như một chấm màu trời. Phượng được mọi người trong làng thưo7ng mến vì tính nết đoan trang, thùy mị. Mẹ cô đã già yếu, một mình cô đảm đương gần hết mọi việc trong gia đình.

    Trước kia, Tình đã quen biết Phượng, nhưng hai người thật đã thương nhau từ ngày Tình tản cư về đây. Thương nhau vì tính tình hạp nhau, hoàn cảnh giống nhau. Thương nhau vì Tình có nhiểu cử chỉ thành thật, nhiều lời nói đoan trang, vì Phượng biết thờ mẹ kính cha, một người con gái có hiếu thảo, đủ dung công ngôn hạnh. Đôi bạn trẻ nghèo nàn chất phác kia đâu có biết tự do lãng mạn là gì, ái tình mơ mộng là gì, nhưng tình thương yêu quê mùa mộc mạc của họ không phải là không tha thiết đấm say. Và cũng không phái là không cảm động.

    Chiều hôm ấy, hai người từ rừng sâu ra về. Phượng đi trước, gánh một gánh lá mồng tơi, Tình đi kế sau, vác một bó tre lò-o, dài và nặng. Đến đỉnh nủi ngó xuống xóm nhà Tân phú, Tình thấy Phưọng đi cà nhót, liền hỏi:

    - Em đau chưn hay sao em?

    Mỹ Phượng dịu dàng đáp:

    - Dạ, em vừa đạp trúng gai.

    Tình bảo Phượng nghỉ một lát, để cậu lể gai cho. Cậu vứt bó tre lò-o xuống đất, và đỡ gánh lá cho Phượng:

    - Em ngồi lên tảng đá đưa chưn tôi coi gai đâm chỗ nào.

    Phượng bẽn lẽn làm theo lời Tình, ngồi trên tảng đá, chỉ chỗ đau dưới bàn chưn, Tình ngồi dưới đất, khẽ nâng bàn chưn mủm mỉm nõn nà của Phượng. Cậu thấm nước miếng lên đầu ngón tay, chùi sạch chỗ da bị gai đâm, lấy chéo áo lau khô, rồi mở chiếc ghim băng nơi túi áo của cậu,để khều gai. Phưọng hơi mắc cở, nhưng sung

    sướng cảm động, ngó Tình ngồi bên chưn cô, âu yếm nắm bàn chưn cô, lể mủi gai xương rồng. Cậu khều nhè nhẹ, vừa khẽ hỏi Phượng:

    - Đau không em?

    Phượng thỏ thẻ đáp:

    - Dạ không đau, anh à.

    Tình nắm được đầu gai rút ra, đưa Phượng xem. Phượng mỉm cười:

    - Cám ơn anh.

    Tình đứng dậy ngồi lên tảng đá, sát cạnh Phượng. Mặt trời đã biến sau áng mây hồng. Chung quanh rừng núi bao la, trùng trùng điệp điệp. Mấy túp nhà lá lụp xụp, đìu hiu, có vẻ hoang vu dưới ánh chiều tàn. Đôi trai gái rừng xanh lặng lẽ ngồi nhìn con đường Sài gòn – Đà lạt quanh co như một giải lụa dài vô tận. Không một bóng người, Một làn gió thổi mạnh, cuồn cuộn bụi mờ, hiu hắt tan dần trong tịch mịch.

    Tình buồn bã, mân mê cánh áo trắng của Phượng:

    - Em ơi, ngày cưới của hai đứa mình còn xa quá, phải không em?

    Phượng khẽ đáp:

    - Còn hai tháng nữa, anh à. Nhưng em cũng thấy lâu như hai năm vậy.

    - Tại gia đình chúng ta quá tin theo dị đoan, nhứt định phải doi075 đến ngày 28 tháng 5 mới cho làm lễ cưới.

    - Chúng mình ráng chờ vậy, chớ biết sao?

    - Thời buổi loạn ly. Chắc sum hợp được lâu không,hay ly biệt ngày nào? Chúng mình lại ở giữa nơi chiến địa. Mấy ông thường qua lại, sợ có ngày hai bên chạm trán nhau ở đây, khu rừng yên tỉnh sẽ hóa ra bải chiến trường, rồi biết đâu em với tôi sẽ thất lạc mỗi người mỗi ngã?.. Hoặc sẽ bỏ thân trong máu lửa hãi hùng? Tôi cứ sợ ngày đêm, em ạ.

    Phượng cũng tỏ vẻ băn khoăn lo lắng. Tình nói tiếp:

    - Tôi đã bàn với cha tôi, để cho hai đứa mình thành hôn sớm ngày nào hay ngày ấy. Rồi chúng mình đem nhau đi Đà lạt, hoặc Biên hòa, kiếm việc làm tạm, để nuôi dưỡng cha mẹ già, cho qua ngay qua tháng. Nhưng cha tôi cứ biểu ở Tân Phú một thời gian nữa coi, chừng nào thiệt yên ổn cha mới cho đi.

    - Cha mẹ em cũng tính như vậy. Nhưng em không dám cãi. Mọi việc, em đều chờ anh quyết định.

    - Dù sao, còn hai tháng nữa, đến 28 tháng 5 làm lễ cưới xong, tôi cũng đem em đi Đà Iạt đặng kiếm sở mần. Tôi nghe người ta nói ở trên ấy có nhiều xưởng đã mở cửa làm việc lại, đang cần nhiều thợ. Tôi muốn xin vô làm thợ máy. Còn em thì ra chợ buôn bán. Một vài tháng, chúng mình kiếm được nhà ở đàng hoàng, sẽ rước cha mẹ tôi và cha mẹ em lên ở chung với chúng mình, để chúng mình nuôi dưỡng. Tôi tính như vậy đó, em có đồng ý không?

    - Dạ tùy anh. Anh sắp đặt sao, em cũng nghe theo. Anh đi đâu, em cũng theo anh.

    - Hai bữa nay, bà già ho nặng. Sáng sớm mai tôi phải vô Biên hòa mua thuốc cho bà. Chiều tối, tôi về.

    - Anh đi bộ vô Biên hòa, rồi chiều lại đi bộ về, sao kịp?

    - Nếu không kịp, thì tối mai tôi ở lại nhà Dì Năm.Sáng mốt tôi về vậy. Sẵn chuyến đi này, tôi mua luôn ít thước hàng may áo dài cho em, để đến ngày cưới em mặc. Em ưa hàng màu gì?

    - Anh đừng mua nữa, Em đã có áo hàng màu xanh rồi.

    - Áo em mặc hôm Tết đó, phải không?

    -Dạ.

    - Áo ấy đã cũ, em mặc thấy cụt ngẳng, và chật ních Tôi muốn may tặng em chiếc áo cưới mới màu hồng. Em thích màu hồng không?

    - Anh thương em, cho em áo gì em cũng mặc

    - Áo cưới màu hồng chắc coi đẹp lắm, em nhĩ?

    - Dạ, anh thấy đẹp, em cũng thấy đẹp vậy.

    Tình nắm bàn tay Phượng, nỏn nà, năm ngón tay búp măng. Cậu âu yếm ngó Phượng:

    - Em Mỹ Phượng à, tôi thương em quá.Em đã xinh đẹp mà lại hiền lành nữa.

    - Anh thương em, anh khen em chở em đâu có đẹp gì?

    Phượng lại hỏi:

    - Chừng nào anh đi Biên hòa?

    - Gà gáy dầu, anh dậy đi liền đẽ kịp trưa đến tỉnh.

    - Thôi, chúng mình về để anh nghỉ sớm, sáng anh đi sớm.

    Mặt trời đã lặn từ lâu. Tình đặt gánh lá mồng tơi lên vai Phượng. Cậu tự xốc bó tre lò-o lên vai cậu rồi đôi trai gái lam lủ mộc mạc của rừng xanh cùng nhau xuống núi.

    °

    Gà vừa gáy sáng. Phượng thức dậy, lật đật mở cửa bếp ra sân sau, súc miệng, rửa mặt, rồi đi vòng sân trước, ra đường cái lớn. Sương mù bao phủ cả núi rừng, dày đặc, không trông thấy gì. Phượng lạnh run, đút hai tay vào túi áo, bước lẹ theo lề đường đến trước cổng nhà Tình, cách hai trăm thước. Ngó vô nhà thấy ánh đèn và nghe tiếng Tình sửa sọan, tiếng ông già cậu căn dặn:

    - Thời buổi giặc giã, con đi tỉnh lo mua đồ về mau, đừng đi chơi lang thang lỡ bị bố ráp, nghe con?

    Tiếng Tình đáp:

    - Dạ, chiều nay con về.

    Phượng đứng Iấp ló ngoài đường, chờ Tình. Tình vừa ra, tay xách một gói nhỏ. Trông thấy bóng Phượng, Tình lật đật đến gần:

    - Em! Trời lạnh quá, em dậy sớm làm gì?

    - Em tiễn anh đi.

    Tình nắm tay Phượng. Hai người lặng lẽ nhìn nhau rất âu yếm. Tình khẽ bảo:

    - Em về kẻo lạnh.

    - Em định nói với anh đừng đi Biên hòa bữa nay. Hôm khác anh đi có được không?

    - Sao vậy, em?

    - Đêm nay em cứ thấy bồn chồn trong dạ, Em lo sợ có chuyện gì không hay sẽ xẩy ra cho anh...

    - Anh phải đi mua thuốc ho cho mẹ. Và mua chiếc áo cưới màu hồng cho em.

    Phượng rưng rưng nước mắt. Tình ôm Phượng vào lòng, hôn hai má ửng hồng của vị hôn thê tuyệt đẹp, rồi khẽ bảo:

    - Em đừng lo buồn, nghe em. Chiều nay anh về.

    Tình nắm chặt hai tay Phượng một lần chót, để từ giã.

    Mỹ Phượng ngó theo người yêu biến trong sương mù. Sương mù dày đặc phảng phất một màu trắng lợt như tấm vải tang mênh mông bao phủ cả núi rừng...

    Chiều tối hôm ấy, Phượng hồi hộp đợi chờ. Từ lúc mặt trời lặn, đến hết canh một, qua canh hai. Phượng ngóng trông, chưa thấy bóng Tình về. Cả đêm cho đến gà gáy sáng, Phượng thao thức, trằn trọc trên giường tre, hình ảnh của Tình chập chờn lúc mê lúc tỉnh.

    Ba hôm sau, Tình vẫn chưa về. Hai bên cha mẹ đều nóng lòng lo sợ. Phượng không ăn. không ngũ. Cô xin phép cha mẹ cô đi Biên hòa để hỏi tin tức. Cô sửa soạn đi thì Tấn, người con trai của bà Dì ở tỉnh, vừa lên theo một chuyến xe hàng buổi tối. Tấn trao Phượng năm hộp thuốc ho. một xấp hàng màu hồng, và thuật chuyện:

    - Đêm hôm kia, anh Tình đi chơi phố với em. Hai anh em đứng trước cửa rạp hát giữa đám đông người đang nghe âm nhạc cải cách, bỗng có hai trái lựu đạn nổ trong tiệm cà phê kế cận. Ba người lính Tây chết. Bốn người lính Ma rốc bị thương nặng. Đám đông người trước cửa rạp hát và khách hàng trong tiệm xô nhau chạy tán loạn. Ngay lúc ấy, một tốp lính Pháp và ‘‘thân binh’’ bao vây các nẻo đường, bố ráp dân chúng. Hơn một trăm người bị bắt, trong số có anh Tình. Thật là xui cho anh, vì em vừa nghe lựu đan nổ là em lanh chưn chạy liền, kéo anh chạy theo em, không dè trong lúc mọi người xô nhau chạy, không biết anh lính quýnh cách nào bị té rồi bị kẹt lại sau, bị línn bắt. Về nhà em không thấy anh, đợi mãi suốt đêm không thấy anh về. Sáng hôm sau, em dò hỏi biết ảnh bị giam trong trại lính Ma rốc với đám người bị bắt, nhưng không làm sao hỏi thăm ảnh được. Đợi hai ngày không thấy ảnh ra, má em mới biểu em đen tin gấp cho Dì Dượng và chị Ba biết.



    Ông già của Phượng hỏi:

    - Bữa nó xuống Biên hòa, mấy giờ thì tới nơi? Rồi sao chiều nó không về?

    - Dạ, thưa Dượng, ảnh xuống đến nhà con thì vào khoảng 2 giờ chiều. Ảnh kêu đau chưn vì đi đường xa. Ảnh nghĩ ngơi một lúc rồi bốn giờ rủ con đi ra phố mua thuốc ho và lựa hàng đẹp mua một áo dài. Ảnh nhất định mua hàng màu hồng để may áo cưới cho chị Ba. Sáu giờ ảnh với con về nhà, cơm xong con rủ ảnh đi chơi... sẵn đi ngang qua rạp hát, tụi con đứng lại nghe Âm nhạc được một lát thì Iựu đạn nổ...

    Phượng cầm trong tay gói hàng màu hồng, bần thần, đau đớn. Cô biết nói sao bây giờ?

    Tấn an ủi:

    - Thôi chị đừng buồn, chị Ba à. Anh vô tội, chắc thế nào cũng được tha.

    - Tôi buồn khổ cho tôi thì ít, nhưng lo sợ cho anh Tình nhiều hơn. Không biết chừng nào anh được tha?

    - Thế nào người ta cũng tra xét ra ai là người ném lựu đạn. Anh Tình không có ném thì họ tha ra, chớ giam ảnh làm gì? Em chắc ít ngày nữa ảnh về.

    - 28 tháng 5 sắp tới đây là ngày cưới của chúng tôi. Còn hai tháng nữa không biết ảnh sẽ về kịp hay không?

    Mỹ Phượng ôm ấp gói hàng màu hồng vào ngực, nằm khóc sướt mướt thâu đêm.


    Last edited by giavui; 02-16-2022 at 12:22 AM.

  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương II
    CHIẾC ce Traction 15 c.v từ Sài gòn lên đến đây hồi 3 giờ chiều, bị chết máy. Người chủ xe lui cui sửa chữa mãi, nó vẫn chưa chạy được. Gần tối, sẵn có hai người dân làng từ trong núi đi ra, chủ xe nhờ họ đẫy hộ xe xuống dốc để lấy trớn. Nhưng đến nửa dốc, xe vẫn không rồ máy, chủ nó đành phải ngừng trước một lúp nhà lá bên lề đường.

    Chủ nhà, một người đàn ông mộc mạc, đã già, hé cửa ra xem. Khách lạ xuống xe bước vào chào hỏi.

    - Xe tôi lỡ bị hỏng máy. Ông làm ơn cho tôi nghỉ nhờ đây đêm nay, có được không, thưa ông?

    Chủ nhà, chính là chú Cai lục lộ, trông thấy khách có vẻ người sang trọng, lễ phép đáp:

    - Dạ cũng được.

    Chủ hỏi tiếp:

    - Ông đi Đà lạt?

    - Dạ phải. Tôi ở Sài gòn ra đi từ hồi 7 giờ sáng đáng lẽ chiều nay tới Đà lạt rồi. Không dè xe bết quá. Từ Sàigòn đến Biên hòa êm xui không sao. Từ Biên hòa lên đây bị hỏng máy ba lần. Tôi cố sửa chữa đặng lên tạm đến Blao, có người bà con. Nhưng tới đây nó lại chết máy nữa! Thôi đành chịu vậy! Sáng mai tôi phải đón xe đò lên Đà lạt, mướn tài xế quen xuống đây sửa xe đem về Sài gòn... Thành ra phải nhờ ông cho trọ tạm đêm nay.

    - Dạ, rủi ro xe bị panh, thì mời ông ở đây nghỉ. Đường cái bây giờ thiệt xấu, xe cộ đi mau hư lốp lắm.

    - Chiếc xe của tôi đã cũ. Ông cử xem cải bảng C.G.839 kia thì biết! Nhưng ở Sàigòn chạy vẫn tốt. Mấy lần trước tôi đi Đà lạt cùng không hề gì. Lần nầy sao xui xẻo quá...

    Chủ xe lấy hành lý đem vào nhà, một gói bánh mì lạp xưởng và hai chai bia. Ông bầy các thức ăn lên bàn, mời chủ nhà dùng bữa tối với ông cho vui. Ông Cai Lục lộ đã ăn cơm xong với gia quyến, nhưng ông nể lời ngồi uống một ly rượu bia với khách, ông hỏi:

    - Ông thường đi Đà lạt sao?

    - Trước kia vài tháng tôi đi một lần. Vì tôi có nhà ở trên ấy. Từ hồi chiến tranh thỉnh thoảng tôi mới lên thăm nhà.

    - Xin lỗi ông, ông làm việc ở Sàigòn?

    - Tôi làm giáo sư. Những ngày lễ, tôi lên Đà lạt nghỉ, bệt thự của tôi trên ấy, tôi giao cho vợ chồng một đứa cháu coi ngó và săn sóc vườn tược. Vừa rồi tôi được thư thằng cháu gửi về, nói vợ chồng nó đau ốm luôn không chịu được khí hậu lạnh và xin về Sàigòn dưỡng bịnh. Vì vậy tôi phải lên coi, sắp đặt kiếm người thay thế. Ông có quen ai, giới thiệu giùm tôi? Biệt thự của tôi ở đường Prenn, có vườn rộng trồng rau và các giống cây có trái. Tôi giao vườn cho người ta làm. Tôi giúp vốn cho để mua phân, rồi người ta thu lấy huê lợi làm kế sinh nhai. Hoa quả ở vườn, tôi cũng cho bán lấy tiền, chớ tôi không lấy. Ngoài ra, mỗi tháng tôi trả thêm một số lương 500$. Tôi có một căn nhà để riêng cho gác dan, bằng gỗ, lợp tôn, rộng rãi, mát mẻ, đủ ở được một gia đình năm, sáu người. Tôi giao toàn quyền trồng tỉa trong vườn tôi, miễn coi ngó giùm nhà cửa của tôi chu đáo là được. Dạo này đồng bào tản cư bắt đầu trở về khá đông, nhiều kẻ gian phi thừa cơ cướp bóc các nhà còn bỏ hoang, Cho nên tôi cần có một người quản gia đáng tin cậy để giữ nhà.

    - Thưa ông, còn gia đình ông, ở Sàigòn?

    - Tôi không có gia đình, ở Sàigòn tôi cũng ở một mình tôi.

    Thấy ông khách không có gia đình, chú cai Lục lộ ngạc nhiên, tò mò hỏi:

    - Thưa ông, vậy chứ bà nhà ở đâu?

    - Vợ tôi chết đã bốn năm nay. Tôi lấy vợ hồi 21 tuổi. 25 tuổi thì nhà tôi mất. Chúng tôi không có con. Còn ông? Ông ở đây làm khá không? Có ruộng đất gì không?

    - Dạ thưa ông, tôi cũng mới về ở đây bốn năm năm nay thôi. Trước tôi làm cai Lục lộ ở Biên hòa. Sau mua được miếng đất rừng nầy định về lập nghiệp, sẵn có người bà con nhường lại cho một thủa ruộng trong núi. Nhưng mấy năm nay mất mùa luôn, không đủ nuôi sống gia đình ông à. Chúng tôi phải đi cưa gỗ thuê trong rừng cho các nhà buôn gỗ ở Biên hòa. Ngoài ra, hoa lợi ở đây chẳng có gì. Từ hồi loạn lạc đến nay, công việc làm ăn lại càng khó khăn nguy hiểm hơn. Núi rừng không yên ổn như trước...

    Do câu chuyện ngẫu nhiên nầy, ông Giáo thoáng nghĩ rằng hoàn cảnh chú cai như thế thì chú có thể làm quản gia cho biệt thự của ông ở Đà lạt được. Nhưng ông không hỏi vội vì chưa hiểu rõ người ta như thế nào. Mặc dầu vậy, ông Giáo mới biết sơ chú Cai mà ông cũng đã thấy chú là người thật thà, chất phác, có thể tin cậy được. Bà Cai thì quê mùa, khúm núm bưng bình trà lên để trên bàn mời khách rất lễ phép, rồi xuống bếp liền.

    Đêm ấy, vợ chồng chú Cai có nhã ý quét dọn chiếc giường gỗ độc nhất trong nhà trải chiếc chiếu bông, mời ông khách nghỉ. Gia đình chú nằm võng và giường tre dưới chái bếp cách nhà trên một căn buồng con đựng gạo, muối, và treo áo quần. Một bức màn cũ đã rách nát ngăn cách nhà trên.

    Sáng thật sớm, trời còn đặc sương mù, ông Giáo đã thức dậy khoác áo ấm ra sân lui cui sửa xe nữa. Ông vặn mấy khu ốc, tháo bình xăng ra, thổi ba bốn hơi. Ông lắp trở vào, bơm xăng lên, rồi vô xe ngồi, kéo démarreur, đạp ga, không nổ. Bình tĩnh, ông lấy ma ni ven quây thật mạnh hàng chục lần, máy vẫn không rồ. Ông rút ma ni ven bỏ xuống đất, lại khom lưng vào đầu máy, mở hết bốn bu gi ra, thay vào bốn cái mới. Ông lại đút ma ni ven vào quây, máy cũng cứ không rồ. Hai bàn tay ông dính đầy dầu nhớt. Ông ngó đồng hồ đeo tay, đã 7 giờ. Mặt trời vừa lú lên như một hoa phượng đỏ tươi mới nở. Sương đã tan. Một làn nắng dịu tỏa ánh vàng a-1m áp trên núi rừng, cây cỏ.

    Chú Cai mời ông Giáo vô nhà dùng cà phê. Ông Giáo cất ma ni ven trong xe và lượm hết các khí cụ dùng sửa chữa bỏ vào hộp sắt, cất vào cốp xe. Xong, ông đi vòng ra sau bếp để rửa tay. Ông chợt thấy thoáng bóng một thiếu nữ xách ấm nước sôi từ bếp vội bước lên nhà trên. Ông không để ý và không nhìn kỹ. Rửa tay xong, ông lại thấy thiếu nữ từ trên nhà trở xuống bếp với ấm nước. Lần nầy ông giáo bị xúc động lạ thường. Ông vừa trông thấy hình dung một cô gái nghèo, chưn không mang guốc, đầu tóc biếng cài, nhưng khuôn mặt trái xoan tuyệt đẹp. Trông cô ngây thơ, hiền lành quá. Ông khẽ nghiêng đầu, lễ phép:

    - Chào cô.

    Cô gái bẽn lẽn:

    - Dạ, chào ông.

    Tiếng nói của cô trong suốt như pha lê. Cặp mắt của cô rung động dịu dàng như một mành tơ liễu.

    Nhưng cô lánh mặt, ngồi xuống bếp chụm thêm củi.

    Ông giáo cảm thấy trong giây phút tâm hồn ông hoàn toàn bị xao xuyến.

    Ông 29 tuổi. Từ khi bà giáo thất lộc đến nay đã bốn năm, ông nhất định ở vậy, chưa muốn cưới vợ khác. Ông quen biết bao nhiêu thiếu nữ xinh đẹp và tình tứ, ở Sàigòn, Đà lạt, nhưng ông thuộc vào hạng đàn ông khó tính, giao thiệp nhiều với phụ nữ nhưng rất dè dặt trong vấn đề tình ái. Người vợ đầu tiên của ông là một cô nữ sinh do ông cụ thân sinh của ông buộc ông phải cưới chạy tang hai ngày trước khi ông Cụ mất. Cưới về được một năm bà giáo đau nặng rồi qua đời, không có con để ông góa bụa mới 25 tuổi.

    Ông giáo nói thật với bạn bè rằng ông chưa gặp được một người đàn bà nào vừa ý ông. Chưa một người nào, dù đẹp thế mấy đi nữa, cảm hóa được ông. Ông thường nói: ‘‘Sao tôi thấy cô nào cũng như cô nào. Như một bóng trắng bay thoáng qua trước mắt tôi. Như một làn gió nhẹ. Thổi phớt qua tâm hồn tôi. Chưa có một tiếng sét đánh mạnh vào tim tôi!’’ Một bà triệu phú quen biết ông ở Sàigòn cô có con gái 19 tuổi học với ông. Một hôm, bà hỏi giỡn ông:

    - Sao ông giáo không chịulấy vợ?

    Ông giáo sư Triết học tủm tỉm cười, đáp:

    - Bởi vì, thưa Bà, tôi đã gặp nhiều người đàn bà quá mà y như tôi chưa được gặp một người đàn bà nào!

    - Ông khó tính như thế vậy?

    - Nhưng tôi tin rằng trên đường đời của tôi không sớm thì muộn cũng sẽ hiện ra một vị Nữ thần.Vị Nữ thần ấy sẽ là vợ tôi, chắc chắn.

    - Chà! Vị Nữ thần của ông chắc là đẹp lộng lẫy đó hả! Chắc nàng còn ở trong một động tiên nào đó, đầy vàng ngọc châu báuphải hôn, ông giáo? Ông giáo sư văn chương và triết học, hèn chi mơ mộng quá xá!

    Suốt trong thời gian 4 năm ở góa, ông giáo sư văn chương và triết học ngồi điềm nhiên trên nguyên tắc ‘‘kénvợ’’. Cánh cửa của cõi tim ông khép kín, không có một bóng hồng nào thướt tha lọt vào được.

    Ông giáo kén vợ là phải. Vì ở địa vị của ông, sang trọng và giàu có, ông muốn cưới vợ nào lại không được, cưới lúc nào lại không được, cần chi phải hấp tấp vội vàng? Đã bị góa vợ một lần rồi, lần nầy ông thận trọng, nhất định không để cho tình cảm bồng bột nhứt thời quyến rủ được ông.

    Bỗng dưng sáng sớm hôm nay, vừa thấy thoáng bóng một thiếu nữ nghèo nàn trong một chái bếp ở rừng hoang núi thẳm, ông giáo sư triết học đã cảm thấy trong giây phút tiêu tan hết cả những ý nghĩ cứng rắn của ông. Cô gái quê mùa kia có điện lực gì thu hút được tâm hồn ông đột ngột và mãnh liệt như thế? Trên con đường đi Đà lạt, cao chót vót như đường về nơi Tiên cảnh, vị Nữ thần của Ái tình đã hiện ra trước mắt ông dưới mái nhà lụp xụp kia chăng?

    Ngồi uống cà phê với chú Cai lục lộ, ông giáo trầm ngâm một lúc thật lâu. Rồi ông khẽ hỏi chú, với vẻ mặt hơi thẹn thùng, nguợng nghịu:

    - Người thiếu nữ vừa xách ấm nước lên đó là ai, ông chủ nhỉ?

    - Dạ, con gái của tôi.

    - Cô ấy mấy tuổi, thưa ông?

    - Dạ cháu năm nay 19 tuổi.

    - Tên cô là gì?

    - Dạ tên cháu là Mỹ Phượng.

    Ông giáo làm thinh, uống cạn tách cà phê không còn một chút cặn.

    Một lúc lâu, thật lâu, ông mới hỏi sang chuyện khác:

    - Mấy giờ có xe đò qua đây, ông chủ?

    - Dạ, thưa ông, xe đò thì dạo này không có. Chỉ có xe hàng, nhưng họ chạy không chừng đổi gì hết. Hai ba ngày mới có một chuyến, có khi họ chạy đêm.

    - Bất cứ lúc nào, hễ có xe là tôi xin đi quá giang lên Đà lạt được chớ?

    - Dạ, được. Lượt xuống cũng vậy, phải đi quá giang xe chở rau.

    Chú Cai uống một hụm trà, rồi lễ phép hỏi tiếp:

    - Thưa ông, khi hôm ông nói ông muốn kiếm một người gác dan để coi nhà cho ông ở Đà lạt, có phải không à?

    - Phải. Nếu ông Cai quen biết ai, chỉ giùm tôi. Tôi rất cảm ơn. Hồi trước chiến tranh tôi có người quản gia giỏi lắm. Tôi rất tin cậy. Vì vườn của tôi khá rộng, anh ta trồng rau đến mùa bán được bạc ngàn. Tôi cho hết, không lấy đồng nào. Anh la lại nuôi gà, vịt, heo, hoa lợi cũng không ít. Tôi còn giúp cho vợ anh buôn bán ngoài chợ. Kế đến thời kỳ tản cư, anh ta chay xuống đến Phan rang rồi biệt tin luôn cho đến nay. Có mấy người cùng chạy giặc với anh một lượt, vừa rồi đã trở về Đà lạt, cho tôi biết rằng anh gác dan của tôi đã chết ở Nha trang lúc Pháp đổ bộ. Tôi rất tiếc Anh đi tản cư mà không kịp thì giờ cho tôi hay, nên biệt thự của tôi bỏ hoang gần một năm trời, không ai coi ngó tới. Nhưng cũng may, khi tôi có dịp lên Đà lạt, thấy cửa ngỏ còn khóa y nguyên, đồ đạc trong nhà không mất mát gì. Tôi lên ở sáu tháng trong lúc Đà lạt hãy còn vắng lắm. Đồng bào phần đông đi tản cư chưa về. Sau tôi nhận được giấy gọi về Sàigòn dạy học, tôi mới cho hai vợ chồng đứa cháu tôi lên ở coi nhà. Nhưng bây giờ chúng nó lại nhứt định xin về. Khí hậu Đà lạt lạnh quá chúng nó không chịu nổi. Vì vậy mà tôi phải vội vàng trở lên để kiếm người thay thế cho nó. Ở Đà lạt hiện giờ tôi cũng có quen nhiều người làm vườn chuyên môn, có lẽ tôi có thể nhờ cậy họ được. Nhưng nếu ông Cai muốn lên ở coi nhà giùm tôi và làm quản gia cho tôi, thì được lắm. Tôi rất cám ơn. Sẵn dịp tôi đi Đà lạt chuyến nầy, mời ông cùng đi với tôi để xem rõ tình thế.

    - Dạ. Không nói giấu gì ông giáo, khi hôm tôi có bàn với vợ tôi, vợ tôi cũng muốn sẵn cơ hội nầy, để tôi đi Đà lạt xem có thể làm công việc cai quản nhà cửa vườn tược của ông giáo được không.

    - Thế thì tiện lắm, vậy ông Cai sửa sọan đi. Có xe là chúng ta đi ngay.

    - Dạ.

    Cả buổi sáng hôm ấy cho mãi đến trưa chiều, chẳng có chiếc xe nào. Ông giáo muốn đi dạo chơi trong rừng,lại sợ lỡ có xe đến thình lình.

    Không biết làm gì hơn là mở đầu máy xe của ông ra, lui cui sửa chữa nữa... sửa mãi mà xe cứ không rồ. Ông cũng không còn thấy bóng người thiếu nữ đẹp lạ lùng kia nữa. Trưa, chú Cai lục lộ đãi ông giáo một bữa cơm gà, chỉ có thím Cai dọn cơm lên. Lúc pha trà, cũng thím Cai xách ấm nước sôi lên... Ông giáo điềm tỉnh như không để ý đến sự vắng bóng đột nhiên của thiếu nữ.

    Nhưng ông bồn chồn trong dạ, cơm nước xong ông đứng dậy, vừa lúc một làn gió thổi phất phơ ở bức màn rách, ông chợt thấy bóng cô Mỹ Phượng đang ngồi chụm lửa nơi xó bếp.

    Làn gió như dậy men, thổi vào lòng ông, nửa say nửa tỉnh...

    Chiều gần 4 giờ, mới có một chiếc xe cam nhông, hiệu ‘‘Long-Vân’’ chở hàng hóa từ Sàigòn lên. Ông giáo và chú Cai vội vàng chạy ra đường đón xe. Xe từ từ ngừng, chủ xe hỏi:

    - Gì đó các ông?

    - Ông cho chúng tôi đi nhờ xe lên Đà lạt được không?

    - Xin lỗi, xe đầy ẹc hàng hóa, không có chỗ.

    - Ông làm phước cho chúng tôi quá giang vì có việc gấp phải đi Đà lạt. Ông nhét cho

    chúng tôi chỗ nào cũng được. Chúng tôi trả tiền lộ phí bao nhiêu cũng đưọc mà!

    - Ba trăm đồng một người, nhưng quý ông chịu phiền nằm tạm dưới mui xe.

    - Được!

    Chủ xe gọi anh ét ngồi phía sau:

    - Sáu ơi, mầy coi còn chỗ nào chỉ cho mấy ổng ngồi đỡ lên Đà lạt, mầy!

    Anh ét cằn nhằn biếu hai ông nằm trên bao bố trải trên mấy thùng đựng nước mắm. Hai ông bằng lòng, leo lên. Xe chạy. Hai người nằm bẹp sát dưới mui xe, thò hai cái đầu ra bị nước mắm dưới thùng tạt lên mặt. Bà Cai đứng trước cửa ngó lên, cười dòn dã. Ông giáo lại thấy lấp ló sau lưng bà, gương mặt trái xoan, rực rỡ của cô Mỹ Phượng.



    Xe lên đèo, nặng nề, rầm rộ. Ông Giáo sư triết học thọc tay vào túi quần moi ra chiếc khăn lau mấy giọt nước mắm văng đầy lên trên mặt và trên tóc ông. Ông khẽ hỏi chú Cai:

    - Cô Phượng đã có chồng chưa, thưa ông?

    Chú Cai đang thoa dầu nhị thiên đường vào hai lỗ mũi. Mùi dầu nồng lên khó chịu. Chú vừa hít ha, vừa trả lời cụt ngủn:

    - Dạ..., chưa.

    Từ đó lên đến Đà lạt, ông Giáo lặng thinh, không nói thêm một lời. Nhưng ông hút hết một gói thuốc bao xanh vừa mới mở.


  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương III
    CÔ Phượng thật không ngờ vì chiếc xe hơi hỏng máy của một người khách lạ qua đường một buổi chiều hè, mà đời sống của gia đình cô và của cô bắt đầu thay đổi hẳn.

    Cô chứng kiến những ngày tháng trôi qua, rực rỡ ánh hồng tươi đẹp mà cũng chứa đầy huyền bí mịt mờ.

    Cha mẹ cô và cô đã dọn lên ở Đà lạt, làm quản gia coi nhà cho ông Giáo. Công việc kể ra cũng hơi vất vả, nhưng sinh hoạt có phần dễ chịu, đầy đủ hơn trước nhiều, ông Giáo trợ cấp một số tiền hàng tháng. Ngoài ra, bao nhiêu hoa lợi trong vườn, rau, trái, bông hoa, gà, vịt, đã tạo cho gia đình ông Cai một sản nghiệp nho nhỏ nhưng dồi dào phong phú hơn xưa. Ngày hai buổi, cô Phượng giúp cha tưới rau, đổ phân, làm công việc ngoài vườn, và còn lo cơm nước, vá may, dọn dẹp nhà cửa. Tuy bận rộn suốt ngày, nhưng Phượng thấy công việc ngày một phát triển, nên cô ham thích lắm. Cô còn có thì giờ thêu, đan, và đọc sách, bỏ lại những ngày túng thiếu thuở xưa mà cô không sao thỏa mãn được lòng ham muốn mở mang khả năng và trí óc của cô, một thiếu nữ tài hoa chỉ phải cái tội sanh trưởng trong gia đình nghèo khó.

    Lên ở Đà lạt, chú Cai đã bán sở ruộng núi và nhà cửa ở Tân phú. Cô Phượng cũng không thích trở về khu rừng hẻo lánh từ ngày nhà binh Pháp mở cuộc bố ráp khủng khiếp và đốt cháy nhà cửa trong làng. Cô không sao quên đuợc đêm hãi hùng mà cha cô và cô xuýt bị bắt đi. Đêm ấy, một chiếc xe hàng từ Sàigòn lên có ngưng lại nửa tiếng đồng hồ để bỏ xuống nơi căn nhà ở đầu làng một bao muối và hai bao gạo. Chắc là có người mách với nhà binh Pháp sao đó nên hai ngày sau một đoàn xe thiết giáp đến nơi bao vây cả làng Tân phú. Lính xét từng nhà, lục soát từng người, và đánh đập tàn nhẫn những đồng bào lương thiện. Cha cô Phượng và cô cũng bị tra tấn gần một tiếng đồng hồ, may được thả ra với mấy người khác. Nhưng bảy người bị bắt giải về Biên hòa, bị tình nghi là tiếp tế cho Bưng biền. Ba căn nhà bị đốt.

    Tai nạn bất ngờ nầy đã xui khiến chú Cai Lục lộ và gia đình nhứt định từ giã đất Tân phú. Trước khi ra đi, Cô Phượng có khẩn khoản với mấy người hàng xóm còn ở lại, nếu khi nào cậu Tình được tìm về, nhờ nói giùm với cậu lên ngay Đà lạt, tìm cô tại nhà ông Giáo sư ở đường Prenn. Cô tin chắc chắn rằng thế nào Tình cũng sẽ trở về, và cô mơ tưởng sẽ cùng người yêu gặp nhau và làm lễ cưới ở Đà lạt, tại Biệt thự của ông Giáo.

    Bỏ Tân Phú lên ở Đà Lạt, gia đình chú Cai được thỏa mãn với hoàn cảnh mới. Ông Giáo đối đãi tử tế vô cùng họ không ngờ dịp may đã bỗng dưng đưa đến cho họ một đời sống đầy đủ, mà trước kia họ không bao giờ nghĩ đến.

    Cô Phượng không thể dững dưng với cuộc thay đổi khả quan, nhiều hy vọng ấy. Cô cũng không thể mãi mãi thờ ơ trước cảm tình nồng nàn chân thật của ông Giáo đối cô. Cử chỉ rất lịch sự đàng hoàng của ông trong nhiều trường hợp, những lời thân mật và đúng đắn ông nói với cô, đã gieo trong lòng cô một cảm mến âm thầm sâu sắc.

    Ông Giáo ở Sàigòn thỉnh thoảng mới về Đà lạt. Mỗi lần ông về, thường có nhiều cơ hội tự nhiên hai người gặp nhau, trao đổi với nhau những câu chuyện về quốc gia xã hội, nhơn tình thế cố, và hai người đã hiểu nhau nhiều, rất tâm đầu ý hợp. Những cuộc giao thiệp hiếm hoi và tao nhã ấy đã để cho Phượng những ý nghĩ tốt đẹp về tư cách và tính tình của ông Giáo. Gần ông, cô được học hỏi thêm nhiều, rất mở mang cho trí óc ham hiểu biết của cô.

    Tuy nhiên, đã hai lần ông Giáo thành thật ngỏ ý muốn kết bạn trăm năm với cô, hai lần cô đều từ chối, ông Giáo hơi ngạc nhiên. Cô không nói vì lý do gì. Cô không hề cho ông Giáo biết là cô đang chờ đợi người yêu đã cùng cô gắn bó lời thề giữa núi rừng Tân phú. Cô nhận xét ông Giáo là ân nhân của cô và của gia đình cô, là người có tư cách cao thượng, tính tình phong nhã, lại nhơn đức, hiền từ, phước hậu. Cô cũng thấy ông Giáo rất thuơng cô, ân cần săn sóc đến cô, và muốn dắt dần cô lên một địa vị cao sang. Ông Giáo lại là một người rất bình dâu, khiêm tốn: cô Phượng ghét những kẻ truởng giả phách lối bao nhiêu thì cô khâm phục và quí mến ông Giáo bấy nhiêu.

    Nhưng, hai lần cô từ chối tình yêu của ông Giáo và lời câu hôn tha thiết của ông, là vì cô Phượng quyết giữ mối chung tình với người yêu mộc mạc của Rừng Xanh. Cô buồn bã nhớ thương người tình nhân nghèo khổ đã nói với cô trên đỉnh nủi, lúc chiều tà : ‘‘Tôi muốn tặng em chiếc áo cưới màu hồng’’... Xinh đẹp xiết bao, chiếc áo cưới màu hồng của Tình tặng cho ! Phượng đã đem xấp hàng ra tự cắt lấy, tự may lấy, và đã mặc thử ; thật là vừa vặn, hồng hào, rực rỡ ! Chiếc áo cưới sít sao ôm chặt lấy tấm thân thướt tha duyên dáng của cô, cô vuốt ve nó, mơn trớn nó, đê mê, sung sướng, như tình yêu của chàng ôm chặt lấy tim cô !

    Phượng cất chiếc áo cưới trong rương, chờ ngày Tình về cưới Phượng.

    Đã có lần mẹ cô hỏi thật ý cô đối với ông Giáo như thế nào. Cô đáp:

    - Ông giáo rất tử tế với con. Con biết ổng thương con nhiều lắm, và thật tình ông không có ý lợi dụng hoàn cảnh của nhà mình. Hai lần ông thành thật ngỏ lời muốn kết hôn với con, hai lần con từ chối, thì con thấy ổng rất buồn. Có lẽ ổng âm thầm đau khổ lắm. Thấy một người có địa vị sang trọng như ông mà quyến luyến đến thân con một cách tha thiết quá như vậy, con thật tình cảm động. Nhưng con không sao quên được lời thệ ngnyện gắn bó với vị hôn phu của con, Con đã trao duyên gởi phận cho anh Tình, cha mẹ đã nhận trầu cau của ảnh, thì con không thể nào bội ước được. Tuy chúng con chưa làm lể cưới, chiếc áo màu hồng của ảnh cho tuy con chưa mặc, nhưng chừng nào áo ấy rách mà anh chưa về thì họa may con mới lấy người chồng khác.

    Bà Cai buồn bã hỏi cô con gái:

    - Chiếc áo hồng không bao giờ con mặc, thì làm sao nó rách được?

    - Dạ, thưa Mẹ, nó còn nguyên vẹn mãi, thì tình yêu của con với anh Tình cũng còn nguyên vẹn mãi.

    Than ôi! Phượng quá yêu Tình nên Phượng nói thế thôi, chứ từ ngày Tình đi Biên hòa bị bắt, đã hai năm qua, Phượng đêm ngày ngóng trông mà biệt tăm biệt tích. Hai năm, đã hai lần, đến ngày 28 tháng 5 là ngày hai bên cha mẹ đã định làm lễ cưới cho đôi bạn trẻ, Tình vẫn chưa về. Hai năm, hai lần, ngày ấy Phượng đóng kín cửa buồng, nằm khóc một mình, bỏ ăn bỏ ngủ. Phượng buồn tủi vì ngày này đáng lẽ là ngày tưng bừng đẹp đẽ nhất trong đời cô, mà lại hóa ra một ngày u ám ảm đạm nhất ! 28 tháng 5 ! Bao nhiêu huyền mơ diễm lệ chỉ là mộng ảo phù hư chăng? Bao nhiêu hy vọng thắm tươi chưa chi đã tàu tạ như lá úa rồi chăng ?

    Phượng mở rương lấy ra chiếc áo cưới, ôm ấp vào lòng, gục xuống giường thổn thức:

    - Anh Tình ơi! Anh Tình của em ! Chiếc áo cưới màu hồng này, đến bao giờ em mới được mặc, hỡi anh?...

    Nặng lòng thương nhớ người yêu xa vắng, cô Phượng bỏ ăn, ngày đêm hao mòn thân thể. Cô ốm nặng, Cha mẹ cô hết sức lo lắng, không biết thuốc thang gì cho cô uống khỏi. Gia đình chỉ có ba người, cha mẹ cô già yếu, một mình cô là gái đảm đương mọi việc. Nay cô đau, nằm liệt giường liệt chiếu, lấy ai săn sóc cho cô mau mạnh? Lấy ai đi chợ, bán rau? Lấy ai làm lụng việc nhà? Cô cũng tự biết hoàn cảnh nhà cô như thế, nhưng làm sao được ? Phượng cố gắng gượng làm việc chút ít, đỡ đần cha mẹ. Nhưng vừa bớt cô đã ra giếng giặt đồ, liền bị đau lại lần nầy thật nặng.

    Nhàn dịp ngày lễ, ông Giáo ở Sàigòn về Đà lạt thăm nhà. Thấy cô Phượng thân hình ốm yếu và bịnh tình thêm trầm trọng, ông liền mời Bác sĩ đến thăm bịnh cho cô. Đà lạt lúc bấy giờ chỉ có vài bác sĩ, thiếu các dụng cụ, các ông đều khuyên cha mẹ cô Phượng đưa cô Phượng xuống bịnh viện lớn ở Sàigòn để chiếu điện, sợ cô bị bịnh đau tim nặng. Vợ chồng chú Cai khóc lóc với ông Giáo:

    - Trăm sự xin nhờ ông chủ. Bác sĩ ở đây đã nói như vậy, nếu ông chủ làm phước đưa cháu đi nhà thương Sàigòn thì ơn cao nghĩa nặng vợ chồng chúng tôi không dám quên. Chỉ sợ làm phiền ông chủ nhiều quá.

    - Không phiền gì đâu. Ông bà cứ yên lòng.

    Sáng sớm hôm sau, vợ chồng ông Cai đỡ cô Phượng vào chiếc xe hơi của ông Giáo để đi Sàigòn. Cô Phượng bằng Iòng đi, vì cô tin cậy ông Giáo là người đàng hoàng đứng đắn. Cô muốn đi, vì cô nghe Bác sĩ nói tại nhà thương lớn ở Sàigòn người ta sẽ chữa cho cô khỏi bịnh, nhờ có đủ máy chiếu điện, đủ thuốc men, và bác sĩ giỏi, Cô sợ nếu cô chết,ở Đàlạt thì còn ai nuôi dưỡng cha mẹ già ? Thà cô liều nghe lời bác sĩ, đi Sàigòn chữa bịnh may khỏi được, đó là phước đức cho gia đình cô. Ngó chiếc va-li quần áo của cô đã để trong xe, cô khóc lóc từ giã mẹ cha. Bà Cai bịn rịn bảo con:

    - Mẹ cầu nguyện Phật Trời phù hộ cho con mau khỏi bịnh.

    Cô Phượng vô ngồi ghế sau. Ông Giáo để một chiếc gối:

    - Cô nằm xuống cho đỡ mệt.

    Bình thường cô Phượng hồng hào béo tốt, nay mới đau nặng mười lăm ngày cô đã gầy ốm rất nhiều, da mặt nhợt nhạt, đôi mắt sâu hỏm, tay chưn bủn rủn. Cô nằm chèo queo trên ghế xe, không cử động, gần như một xác chết.

    Xuống Sàigòn ba giờ chiều, ông Giáo lái xe đưa cô thẳng vào bịnh viện lớn.

    Hằng ngày ông vào thăm cô, mỗi buổi trưa và buổi tối, đem vào các thứ trái cây mời cô ăn để mau lấy lại sức, theo lời dặn của Bác sĩ. Cô Phượng cảm phục tư cách của ông Giáo mỗi lần vào thăm, ông hỏi han về bịnh tình, săn sóc cô rất chu đáo, lo cho cô từng ly từng tí, nhưng không bao giờ tán tĩnh lợi dụng cô. Không bao giờ ông nói một lời chọc ghẹo, lẳng lơ hay sổ sàng. Ông đối xử tự nhiên, rất nhã nhặn, không hề quá thân mật, không thố lộ một tình ý nào cả. Thái độ vui vẻ. Âu yếm, nhưng rất dè dặt của ông Giáo cũng phải khiến Phượng ngạc nhiên và cảm động. Suốt một tháng cô nằm nhà thương, hoàn toàn nhờ ông, nuôi nấng, săn sóc thuốc men, rất là tận tụy, khổ sở, tốn biết bao nhiêu thì giờ và tiền của, cô không nghe ông Giáo than phiền hay kể ơn lần nào. Nhiều đêm cô sốt nặng, ông ở trong phòng cô cho đến sáng mới về đi dạy học. Mỗi lần cô chợt tĩnh dậy đều thấy ông nằm trên chiếc giường con ở góc phòng, xem sách. Thấy thế, cô tội nghiệp cho ông, thương ông quá, nhưng không dám nói ra. Chỉ có một lần, lần ấy cô nóng lạnh, nằm ngủ phải đắp mền, nửa đêm cô ngủ mê đạp tung chăn ra. Ông Giáo khẽ héo mền đắp lại cho cô khỏi lạnh. Cô sực tĩnh dậy, thấy ông lui cui đắp kín hai bàn chưn cô, cô cảm động quá, khẽ bảo:

    - Thưa ông, ông chưa đi nghĩ?

    Ông cười rất tự nhiên:

    - Tôi sắp đi nghỉ đây... Cô bớt lạnh chưa?

    - Thưa ông, đã bớt.

    Ông mặc sơ mi, quần tây, mang giày tây, cứ để như thế ông lên nằm trên chiếc giường con của ông nơi góc phòng. Phượng kéo mền trùm kín mặt rưng rưng nước mắt. khóc thầm vì cảm thương ông Giáo quá.

    Nằm nhà thương một tháng, Phượng đã hết bịnh, ông mời cô về nhà ông ở đường Testard,

    Nghỉ hai hôm chờ đến ngày ông được rãnh đưa cô về Đà lạt. Trong hai hôm, ông Giáo để cô nằm một phòng riêng, trang hoàng lịch sự. Ông tiếp đãi cô như một người bạn quý. Ông tránh tất cả những cử chỉ quá thân mật, sợ cô Phượng hiểu lầm rằng ông quyến rủ cô, hoặc lợi dụng hoàn cảnh của cô.

    Thấy Phượng không đeo một món nữ trang nào, mặc những áo quần sơ sài, giản dị, ông muốn mua tặng cô một chiếc nhẫn, hay một vài xấp hàng, nhưng ông lại sợ Phượng hiểu lầm rằng ông muốn lấy tiền bạc và châu báu để mua chuộc Tình yêu của cô. Ông biết trọng danh dự nhất là đối với một thiếu nữ có sắc đẹp mê hồn, có tính nết dịu dàng hiền hậu mà ông đã yêu say sưa đắm đuối từ hai năm nay, một tình yêu thất vọng! Ông âm thầm đau đớn, buồn bã, nhưng đối với Phượng ông không cho biết tâm sự xót xa não nuột của ông.

    Phượng cũng thừa biết rằng vì ông yêu quí cô nhiều lắm, thành thật, không có chút giả dối nào, nên ông mới tận tụy với cô như thế, nhưng cô cũng hiểu không phải ông muốn lợi dụng cơ hội để chiếm đoạt trái tim cô đâu. Một tháng nằm nhà thương và mấy ngày ở chung trong nhà riêng của ông ở Sàigòn đã cho Phượng hiểu rõ hơn ai hết, tư cách cao thượng và lòng thương thiết tha thầm kín của ông. Lúc cô đã Iành mạnh, ông có mua biếu cô mười hộp thnốc bổ và năm quyển sách Việt ngữ toàn những sách bổ ích về văn hóa, mà cô đọc dễ hiểu. Hôm ra về, ông sắp đặt đầy đủ, lo lắng cho cô chu tất. Đó là hôm chúa nhựt, ông chỉ nghỉ được một ngày lái xe đưa Phượng về Đà lạt, rồi sáng sớm hôm sau ông lại phải trở xuống Sàigòn.

    Thấy con gái bình phục trở về, vợ chồng ông Cai vui mừng khôn xiết. Hai ông bà già lăng xăng đón cô gái cưng với bao nhiêu nỗi niềm, âu yếm. Chiều tối ông Giáo lái xe ra tiệm ăn cơm theo lệ quen mỗi khi ông lên Đà lạt. Muốn tỏ lòng biết ơn ông Giáo, vợ chồng ông Cai đã sắp đặt chờ tám giờ ông ở tiệm về. Ông vừa khép cửa vào nhà một lúc thì có tiếng gõ cửa. Ông Giáo ra mở, rất ngạc nhiên thấy ông Cai khăn đen áo dài như ngày Tết, bà Cai cũng áo dài. Hai vợ chồng khúm núm bước vào, bưng một khay gỗ cũ kỹ, trong có một chai rượu trắng Ông Cai lễ phép nói:

    - Thưa ông Giáo, cháu Phượng đã sống được trở về đây với vợ chồng chúng tôi, công ơn của ông Giáo vô biên, chúng tôi nghèo nàn không biết lấy chi đền đáp được. Vợ chồng chúng tôi chỉ xin dâng ông một chai rượu trắng tôi nấu ở nhà, gọi là chút lòng tri ân hèn mọn của chúng tôi, xin ông Giáo nhận cho.

    Ông Giáo không nói được một lời. Ông thấy lòng ông nôn nao thương xót vì cử chỉ mộc mạc quá cảm động của hai vợ chồng già. Ông vui vẻ nhận lấy chai rượu:

    - Tôi xin thành thật cám ơn ông bà. Đây là món quà quý nhất trong đời tôi. Tôi không biết uống rượu, nhưng tôi sẽ đem về Sàigòn từ nay mỗi khi nhớ đến ông bà, tôi sẽ uống một ly...

    °

    Ngay lúc đó, ở gian nhà gác dan, trong căn phòng lặng lẽ của cô, Phượng nằm khóc một mình. Ngổn ngang trăm mối bên lòng, Phượng khóc vì cô không biết duyên phận của cô rồi đây sẽ ra thế nào? Cô khóc vì cô mong nhớ cậu Tìnk mỗi ngày một biệt tin, biết bao giờ tái ngộ? Biết bao giờ Tình về để cùng cô lập gia thất, sống cuộc đời nghèo nàn nhưng ân ái êm đềm như đôi tình nhân đã hứa hẹn cùng nhau? Xa cách Tình trong hai năm, Phượng cảm thấy thân thế của mình là con chim lạc đàn, phiêu dạt giữa gió sương. Tiếng khóc của cô là tiếug kêu bi đát não nùng của con tim lạnh lẽo đìu hiu trong đêm vắng ! Gia đình cô bây giờ không đến nỗi thiếu hụt khổ sở như trước, cha mẹ cô được đời sống đầy đủ phong lưu hơn nhiều, riêng cô cũng thảnh thơi sung sướng hơn lúc ở nơi xó rừng quạnh quẽ. Mặc dù vậy, đời cô đã vui tươi vì có Tình, tâm hồn cô đã phấn khởi vì cảm thông với Tình, lòng cô đã hồi hộp đê mê vì yêu Tình. Cô đã yêu, hồi mười tám tuổi, người con trai đứng đắn, hiền- ành, can đảm. Tình yêu say mê đắm đuối ấy như ánh nắng êm dịu của mùa xuân đã in sắc màu rực rỡ trên tuổi thơ tươi thắm của cô. Hình ảnh đau khổ của Tình Ià hình ảnh của cuộc đời Phượng. Hình ảnh ấy làm sao xóa mờ được? Hai năm xa cách, Phượng đã khóc bao nhiều nước mắt ! Trằn trọc thổn thức bao nhiều đêm trường! Hai năm xa cách, đời sống của Phượng đã thay đổi nhiều, mà lòng Phượng vẫn chưa hề thay đổi. Nhưng Phượng càng khóc nhiều khi nghĩ đến tình yêu rộng lớn mênh mông của ông Giáo. Tuy ông có địa vị sang trọng, chủ cái biệt thự lộng lẫy mà cô chỉ là con gái nghèo hèn của người gác dan, nhưng ông Giáo yêu cô rất nồng nàn chân thật, một tình yêu tha thiết vô cùng. Hai năm, ông không được cô hứa hẹn một lời nào, nhưng ông vẫn một lòng quý mến cô, kiên nhẫn, trung thành, không bao giờ hờn giận, không bao giờ chán nản. Ông đối đãi với cha mẹ cô rất là bình đẳng, coi cô như một người bạn thân chớ không phải như kẻ tôi tớ, không phân chia giai cấp, không phân biệt giàu nghèo, lúc nào cũng dịu dàng, vui vẻ, nhã nhặn. Công ơn của ông đối với gia đình cô thật không bờ bến. Nhưng không bao giờ ông lấy đó làm điều hãnh diện, không ỷ thế cậy quyền bắt buộc cha mẹ cô hay cô, một điều gì. Ông Giáo quả là người cao thượng, đáng kính phục, quý mến vô cùng. Đời tư



    của ông cũng rất trong sạch. Mặc dầu góa vợ và giàu sang, ông vẫn sống thanh bạch, không hề trụy lạc, không thích rượu chè, không chơi bời lêu lổng như hạng trưởng giả vô đạo đức, vô tư cách mà cô Phượng đã thấy nhan nhản ở thời buổi nầy. Ông Giáo hoàn toàn là một nhà trí thức gương mẫu.

    Cử chỉ của ông đối với cô lúc nào cũng để trong trí óc cô một niềm cảm mến thành thật sâu xa. Thật ra, nếu Phượng chưa hứa hôn với Tình, chưa gắn bó cùng Tình bởi một lời thề son sắt, thì Phượng không có lý do gì từ chối tình yêu của ông Giáo. Cô thấy rõ rằng ông thương yêu cô không phải như một người giàu sang thương kẻ nghèo hèn, vì sắc đẹp hay vì dục tình đê tiện. Sự thật, Phượng cũng biết ông Giáo mê sắc đẹp của cô lắm, sắc đẹp hồn nhiêu đã vô tình làm cho lòng ông xao xuyến rạo rực ngay buổi sáng đầu tiên ông đã thoáng thấy bóng cô. Nhưng hai năm tiếp xúc thường với cô ông lại cảm mến cả tính nết hiền lành thùy mị của cô nữa. Ông đã thấy cô không màu mè giả dối như phần đông các cô gái khác, ông nhận xét nơi Phượng những đức tính quý báu của một người thiếu nữ có tài ba, một người vợ dịu dàng, thanh nhã, một người nội trợ đảm đương chu đáo. Hơn nữa, tuy cô là con gái một chú Cai Lục lộ, vào bực nghèo hèn trong xã hội, nhưng cô vẫn có học chút ít, và ham đọc sách, ưa trau dồi về văn bóa, chớ không như nhiều cô gái nhà nghèo chỉ lo làm có tiền để sắm sửa xa hoa, theo đòi vật chất. Phượng nằm để tay Iên trán nhớ lại những lần cô đã ngẫu nhiên trực tiếp với ông Giáo sư.

    Một hôm, nhân lễ Hai Bà Trưng, ông Giáo từ Sàigòn về nghỉ ở Đàlạt hai ngày. Sáng hôm ấy cô Phượng gánh một gánh phân nặng ra vườn rau Cô vừa bước lên tấm ván mỏng bắt ngang qua mương thì ván sụp, cô té xuống nước, với cả gánh phân nhào đổ hết. Ông Giáo đang ngồi bắt sâu và bón phân cho mấy giồng hoa trước sân biệt thự. Nghe tiếng sụp té và thấy cô Phượng loây hoây dưới mương, ông hốt hoảng, chạy xuống. Đến nơi, Phượng đã lóp ngóp ngồi dậy, áo quần đầy bùn, chưa leo được lên bờ. Cô bị trẹo nơi chân, đau điếng, ngồi nhăn nhó. Gánh phân thì nằm nghiêng dưới nước. Thấy ông Giáo chạy ra, Phượng mắc cở quá, luýnh quýnh dưới bùn lầy. Ông nhảy qua bên kia mương, đưa hai tay ra muốn đỡ cô. Phượng vừa đau vừa thẹn, cảm ơn ông nhưng cô tự sức leo lên, không dám nắm tay ông. Cô vừa bám lấy một bụi cỏ thì cỏ tróc rễ, cô lại té xuống khá mạnh. Nước và bùn bắn lên cả áo quần ông Giáo. Ông không quan tâm, đứng cúi xuống mương, đưa tay ra cho Phượng:

    - Cô để tôi đỡ cô lên.

    Thấy bộ đồ pyjama của ông Giáo đã bị lấm bùn nhiều vết, vì lỗi tại cô, Phượng ái ngại, và không dám phụ lòng ông, liền đưa tay ra cho ông đở cô lên bờ. Ông bảo:

    - Cô vào nhà tắm rửa và thay đồ. Chốc tôi sẽ đem thuốc nóng để cô bóp chỗ xương chưn bị trẹo, Tôi phải kéo gánh phân lên kẻo nước trôi hết.

    Phượng chạy vào nhà, nhưng một ống chân bị thương, chắc bị miểng chai đâm, chảy máu nhiều nơi, cô phải bước chậm chậm.

    Ông Giáo xăn ống quần pyjama lên tận đầu gối, và vén tay áo lên đến cùi chỏ, nhảy xuống mương đem gánh phân lên. Một nửa thùng phân đã bị nước cuốn trôi.

    Ông trở vào kho, tìm một tấm ván khác chắc hơn, vác trên vai đem ra đặt trên mương, thay cây cầu vốn mục đã bị sụp làm cô Phượng té. Muốn cho chắc, ông còn lấy bốn cái nọc đóng kèm hai bên đầu cầu.

    Trong buồng tắm, Phượng dòm ra nơi khe cửa, thấy ông Giáo lom khom vác ván ra mương, và làm các công việc kia. Cô tủm tỉm cười, phục ông Giáo làm việc lao động không kém một anh nông dân.

    Xong hết, ông vào nhà, tay chưn quần áo lấm đầy cả bùn. Tắm rửa, thay đồ rồi, ông cầm chai dầu nóng xuống nhà gác dan. Phượng ái ngại không dám để ông xoa bóp. Ông đưa chai dầu cho cô, và chạy trở lên nhà lấy thuốc tím, thuốc xức, bông gòn và băng keo đem xuống. Ông hỏi Phượng:

    - Cộ đã bóp Salicylate chưa?

    - Dạ, thưa ông, rồi.

    - Cô đã thấy bớt đau chưa?

    - Dạ còn trặc quá.

    - Cô phài bóp thật mạnh mới được, nếu không, không ăn thua gì. Cô trặc chỗ nào?

    Phượng chỉ nơi gần mắt cá. Ông bảo.

    - Cô ngồi xuống ghế. Để tôi sửa lại cho cô

    Thấy Phượng mắc cở, ông cười:

    - Cô đừng ngại. Cô cứ tưởng tượng như tôi là một bác sĩ chữa bịnh cho cô vậy thôi. Có thế cô mới hết trặc chân !

    Phượng bẽn lẽn ngồi trên ghế. Ông Giáo lấy bông gòn thấm dầu nóng, ngồi bên chân cô, nắm lấy nhẹ nhàng bàn chân cô, và đánh dầu nóng lên nơi trặc xương, nhiều lần cho thấm dầu. Ông vừa xoa dầu vừa bóp gân một lúc lâu. Cô Phượng hết trặc. Xong, ông rửa với thuốc tím mấy vết thương bị miểng chai cắt còn rỉ máu. Ông xức pommade, đặt bông gòn lên, rồi dán băng keo.

    Người nhà đều đi vắng từ sáng sớm. Cha cô đi ra phố đòi tiền rau bán chịu cho chủ xe cam nhông. Mẹ cô đi chợ bán hoa. Nhưng ông không lợi dung cợ hội vắng vẻ một mình ông với Phượng,

    Sân sóc cho Phượng xong, ông đứng dậy bảo cô:

    - Cô vào nằm nghỉ để dưỡng bàn chân đau.

    - Dạ cảm ơn ông. Tôi làm phiền ông quá.

    Ông Giáo cười đùa:

    - Tôi cũng làm phiền cô quá ! Xin lỗi cô nhé!

    Ông ân cần hỏi tiếp:

    - Cô đã đọc hết quyển ‘‘Văn học Việt Nam hồi thế kỷ 17’’ chưa ?

    - Dạ thưa ông, tôi đang đọc, gần hết.

    - Thôi, chào cô nhé ! Chúc cô nghĩ khỏe, và mau lành chưn.

    Một lúc sau, Phượng thấy ông Giáo tiếp tục bón phân và bắt sâu cho mấy khóm hoa ở trước sân.

    Một lần khác, chính là hôm Tất niên. Ông Giáo ở Sàigòn về Đà lạt nghỉ Tết. Ông về từ hôm hai mươi lăm, đem nhiều quà Tết biếu vợ chồng ông Cai và cô Phượng. Cảm lòng rất tốt của ông Giáo, hai vợ chồng ông Cai và cô Phượng đồng ý mời ông Giáo dùng bữa cơm Tất niên chiều ba mươi Tết. Ông Giáo vui vẻ nhận lời. Bảy giờ tối, cúng ông bà xong, cô Phượng và bà Cai dọn cơm trên bàn, ông Cai khăn đen áo dài lên biệt thự mời ông Giáo. Mọi khi ông Giáo ở Sàigòn về, giờ ấy ông đi ăn cơm tiệm. Tối nay ông ở nhà, một mình nằm ghế xích đu, xem sách. Nhà ông cũng trang hoàng Tết nhất như ai,

    nhưng trên bàn thờ ông Cụ bà Cụ, ông Giáo chỉ chưng một bình bông vạn thọ, thắp đèn sáng, đốt một thẻ hương và một lư trầm, khói bay thơm phức. Lúc sáu giờ ông có rót hai chén trà đặt trên bàn thờ, và áo quần nghiêm chỉnh, ông đứng trước vong linh song thân cúi đầu mặc niệm. Xong mười lăm phút sau, ông đốt một phong pháo, theo đúng sở thích của ông Cụ hồi bình sanh. Tối nay, có nhiều bạn thân mời ông dự tiệc tất niên với gia đình họ: ông Bác sĩ, một ông Giáo sư trường Lycée, một ông Tham Lục lộ và một ông Phán Tòa. Nhưng ông đã xin lỗi tất cả viện lẽ là đã nhận lời mời của một người bà con.

    Vợ chồng chú Cai gác dan và cô Phượng cảm ơn ông Giáo đã thương đến gia đình kẻ nghèo hèn tôi tớ mà dự bữa cơm xoàng của họ trong buổi tất niên. Bữa cơm rất thân mật vui vẻ, nhờ tính bình dân tự nhiên của ông Giáo, và cảmtình kính mến của gia đình chú Cai đối với chủ. Cô Phượng bẽn lẽn nhận ly rượu ngọt do lay ông Giáo rót mời cô sau khi ông mời vợ chồng ông Cai hai ly. Ông Giáo nâng ly, cười:

    - Sáng mai mới là Năm mới. Nhưng sẵn dịp chúng ta vui đêm giao thừa nầy, tôi xin phép cô Mỹ Phượng chúc trước cô sang năm thành lập gia thất để ông Cai bà Cai được thấy cảnh gia đình nẩy nở thêm chồi thêm lộc!

    Cô Phuợng thẹn đỏ mặt, chưa biết trả lời cách nào. Ông Cai có lời tiếp:

    - Dạ thưa ông Giáo, đó cũng là điều ước mong của vợ chồng chúng tôi đấy ạ.

    Cô Phượng đánh bạo đứng dậy nâng ly, mỉm cười ngỏ ông giáo:

    - Tôi xin cảm ơn ông Giáo có mỹ ý chúc tôi. Tôi cũng xin phép ông Giáo cho tôi được hân hạnh kính chúc ông sang năm thăng quan tiến chức và cưới một cô giáo đẹp như tiên, để chúng tôi được thấy bóng hồng thấp thoáng bên cạnh ông, ở biệt thự đẹp đẽ này!

    Mọi người đều cười rồ lên. Lần này ông Giáo có hơi thẹn, nâng ly ruợu ngọt uống một hơ, cùng một lượt với cô Phượng.

    Mười ngày sau, trước khi trở xuống Sàigòn dạy học, ông Giáo ngồi rủ rỉ nói chuyện với vợ chồng ông Cai gác dan:

    - Tôi không giấu với ông bà rằng tôi thương cô Phượng lắm. Nếu ông bà và cô Phuợng không thấy có điều gì trở ngại thì tôi ước mong được thành gia thất với cô. Tôi muốn có lời thành thật với ông bà, để ông bà dọ hỏi ý kiến cô, xem cô nghĩ sao. Sáng mai tôi đi Sàigòn. Khi nào được tin ông bà cho biết, nếu ông bà và cô Phượng nhận lời, thì tôi sẽ về Đà lạt sắp đặt lễ cưới tại đây. Nếu không, ông bà cũng đừng ngại. Công việc ở trong nhà nầy sẽ không có gì thay đổi. Ông bà cũng đừng ép buộc cô Phượng một câu nào, nên để cô hoàn toàn quyết định theo ý riêng của cô.

    Ông Giáo về Sàigòn, hồi hộp mong mỏi cuộc hôn nhân với Phượng sẽ thành. Hơn nửa tháng sau, ông nhận được thư:

    Đàlạt, ngày 22- 3 – 1948

    Kính thưa ông Giáo,

    Chúng tôi rất cảm kích tấm lòng nhơn từ độ lượng của ông không biết lấy gì đền đáp được ơn sâu nghĩa rộng của ông đã giúp gia đình chúng tôi được hãnh diện như ngày nay. Có điều vợ chồng chúng tôi rất đau đớn là việc cháu Phượng. Cháu nó rất cảm tình thương cao quý của ông, nhưng cháu tự xét thân cháu nghèo hèn không làm sao đền đáp được tấm lòng quảng đại vô song của ông đối với cháu. Một lẽ cháu tự nhận không đủ tư cách xứng đáng đi làm kẻ hầu hạ bên ông. Một lẽ nữa, cháu còn muốn ở vậy để nuôi dưỡng cha mẹ già, chưa nghĩ đến việc xuất giá vội. Chúng tôi đã hết lời khuyên giải cháu Phượng, vì cháu năm nay đã hai mươi hai tuổi rồi. Riêng phần chúng tôi thì quả tình chúng tôi thiệt lấy làm vinh dự được ông Giáo thương mến, và chúng tôi không thấy có chi trở ngại cả. Chỉ sợ rồi đây chúng tôi tuổi tác già nua, thấy con gái lớn mà chưa thành bề gia thất thì lấy chi an ủi được nỗi đau buồn của cha mẹ!

    Thưa ông Giáo, hai vợ chồng chúng tôi hết lời phải trái cho cháu Phượng nghe, nhưng nó vẫn khăng khăng một lòng, xin ông Giáo Iượng tình tha thứ cho cháu. Cháu xin phép ông Giáo cho cháu một thời gian một năm nữa để cháu suy nghĩ rồi sẽ xin trả lời ông Giáo.

    Dù sao cháu Phượng cũng rất cảm kích lòng thương quảng đại của ông. Cháu nhận thấy ông là bậc ân nhân duy nhất của gia đình chúng tôi. Cháu có nói thật với chúng tôi rằng đời cháu chỉ còn ý nghĩa khi nào cháu đền đáp được một phần nào tấm lòng thương cao quý vô lượng vô biên của ông đối với cháu và gia đình chúng tôi.

    Xin ông Giáo tin nơi lòng tận tụy trung thành của vợ chồng chúng tôi, và xin ông lượng tình cho cháu Phượng.

    Chúng tôi, vợ chồng và cháu Phượng, đều một lòng quý trọng ông và kính chúc ông sức khỏe dồi-dào.

    Thư bất tận ngôn,

    NGUY ỄN-VĂN-TẬP

    ký.

    Ông Giáo đọc xong bức thư, buồn bã nhưng quyết nhẫn nại chờ đợi một năm nữa. Bức thư ông trả lời ông Cai gác dan, khiến cho cô Phượng ngẫm nghĩ cảm động vô cùng:

    Sài-gòn, ngày 31 -3- 1948.

    Thân gởi ông Cai,

    Tôi đã tiếp được thư ông, và xin thành thật cảm ơn ông bà những lời tâm phúc của ông bà đã tỏ cùng tôi. Tôi kính trọng tất cả những ý nghĩ của cô Phượng, và xin chờ quyết định của cô sang năm sau. Nếu chừng ấy cô Phượng vui lòng nhận lời cần khẩn tha thiết, và thành thật của tôi, thì đó là cô đem hạnh phúc vào cuộc đời của tôi vậy.

    Còn nếu vì một duyên do gì tôi không được may mắn kết nghĩa trăm năm với cô, thì xin cô Phượng và ông bà cũng đừng ái ngại. Lòng thương mến của tôi đối với quý quyến sẽ không vì sự từ chối của cô Phượng mà giảm bớt một phần nào. Tôi sẽ luôn luôn là người bạn thành thật của quý gia đình.

    Xin ông bà và cô Phượng tin nơi lòng quý mến trường cửu của tôi, và thân chúc ông bà cùng cô Phượng được vạn sự như ý.

    TRẦN-TẤT-BẢO

    Sau bức thư nầy bốn tháng, đến ngày 28 tháng 5 là ngày hai bên cha mẹ của Phượng và Tình đã định làm lễ thành hôn cho đôi trẻ trước đây hai năm. Là ngày Phượng đau đớn chờ mong Tình về, nhưng biệt vô âm tín. Vì quá thương nhớ Tình nên Phượng buồn rầu rồi đau, bịnh đau tim trầm trọng, đã được ông Giáo đưa cô xuống nhà thương lớn Sàigòn chữa bịnh.

    Đêm nay cô đã bình phục trở về. Trong lúc cha mẹ cô bưng chai rượu trắng lên tạ ơn ông Giáo, ở nhà một mình, nằm trong gian buồng lặng lẽ, Phượng nghĩ ngợi lan man về duyên phận của cô mỗi khi thương nhớ Tình, và cảm kích lòng tốt vô song của ông Giáo. Thương nhớ Tình, Phượng khóc sướt mướt, phần thì lo sợ cho tính mạng của vị hôn phu, cho sức khỏe của anh có thể bị đánh đập tra khảo mà mang bịnh tật. Phần thì buồn rầu không biết bao giờ Tình về, bao giờ cùng anh được sum hợp một gia đình nghèo nàn nhưng ân yếm nhau đến mãn chiều xế bóng? Tuy hai năm qua. Phượng không nhận được một bức thư nào của Tình, hoặc một lời nhắn nhủ, hoặc một tin tức xa gần, nhưng Phượng vẫn còn yêu Tình, vẫn thương nhớ anh ngày đêm, lụy sầu chan chứa.

    Vì thương nhớ Tình, người yêu mộc mạc của Rừng xanh núi thẳm, người vị hôn phu xấu số đã gặp tai ách hai tháng trước ngày thành hôn, vì cảm mến hoàn cảnh đau đớn của người tù không tin tức kia mà Phượng quyết giữ lòng chung thủy với anh. Vì thương nhớ anh, mà Phượng đã từ chối lời cầu khẩn đính hôn của ông Giáo. Sau trận đau trầm trọng mà đời cô chỉ còn mong manh như sợi chỉ, sau khi đã trải qua cơn bão táp sầu thảm của tương tư, đêm nay bình phục trở về nhà, Phượng cảm thấy lòng cô thêm tê tái thê lương Thật cô không ngờ ông giáo đối vơi cô có một lòng mến yêu cao thượng và nồng nàn như thế ! Thành thật.

    Sau khi suy xét lại tất cả những cử chỉ đàng hoàng âu yếm của ông Giáo, Phượng rất cảm thương người đàn ông tao nhã ấy. Cô không biết làm sao đền đáp lại một phần nhỏ tấm lòng ưu ái tha thiết của ông?

    Tiếc thay, đời cô và thân phận của cô đã hứa cho Tình ! Cho người tù xa cách đã hai năm, sống chết ở nơi nào, cô không biết được !

    Phượng phân vân, đau khổ, sùi sụt khóc thâu đêm.


  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CON nghĩ sao, chứ mẹ thấy ông Giáo quyết lòng chờ đợi con, mẹ áy náy lắm con à. Nói thiệt với con, mẹ ít thấy người đàn ông nào tử tế như ông Giáo. Chỉ một việc ông đối đãi với con rất là chu đáo, tận tụy, mà vẫn giữ gìn lịch sự trong lúc con đau nặng được ông đưa con đi nhà thương Sàigòn cả một tháng trời, cũng đủ là một ơn nghĩa lớn lao rồi vậy.

    - Thưa mẹ, con hiểu lắm chớ. Một người trí thức tài cao học rộng, Iại giàu sang như ông Giáo, và ở độc thân, mà không chơi bời trụy lạc giữa một xã hội mà phần đông đều là thối nát, thì thật là một người đáng kính phục. Người đàn ông như thế, cô con gái nào mà chả yêu?Ông có thể lấy người tài hoa hơn con, đẹp hơn con, xứng dáng hơn con. Nhưng ông vẫn quyết một lòng chung thủy thương con, đó đã là một hân hạnh cho con biết bao nhiêu rồi!

    - Như vậy, sao con còn để ông chờ đợi làm gì? Mẹ sợ ông Giáo nghĩ rằng con là phận gái nghèo hèn mà thấy ông thương yêu, lại muốn làm cao.

    - Con tin một người như ông Giáo không bao giờ hiểu lầm con như thế. Không phải con bắt ông chờ đợi một năm. Con chỉ xin ông để cho con suy tính kỹ càng đã.

    - Con suy tính gì nữa?

    - Con đã nói với cha mẹ rằng con quyết chờ đợi anh Tình.

    - Hơn hai năm, nó có tin tức gì cho con đâu? Con đã đợi nó hơn hai năm, như thế con đã hết lòng với nó rồi. Con còn cứ ở vậy chờ đợi mãi được sao?

    - Con muốn chờ thêm một năm nữa. Con mới có hai mươi hai tuổi, chưa muộn gì.

    - Nhưng cha mẹ mỗi năm mỗi già, mỗi ngày mỗi yếu, con à. Cha con cũng như mẹ, đều mong sao con quyết định việc duyên nợ của con sớm chừng nào càng hay chừng nấy. Cha mẹ thấy con để ông Giáo chờ đợi con hoài như vậy, sợ ông buồn.

    - Dạ, thưa mẹ, con cũng biết ông buồn.Nhưng con tin rằng ông hiểu lòng con mà lượng tình tha

    thứ cho con. Nhờ Phật Trời che chở, may ra mai mốt anh Tình được tha về và con thành hôn với ảnh, thì chúng con cũng sẽ làm cách nào để đền đáp trong muôn một cái ơn nghĩa lớn lao và lòng thương vô Iượng của ông Giáo.

    - Mẹ hỏi thiệt con, lòng con có thiệt thương ông Giáo không?

    - Con thương ổng nhiều lắm. Con không bao giờ giấu diếm cha mẹ điều đó. Nhứt là từ khi ở Sàigòn về, con càng hiểu rõ ông, càng yêu ông nhiều hơn. Con yêu và con kính phục nữa.

    - Nếu con về làm bạn với ổng chắc chắn đời con sẽ sung sướng.

    - Con cũng biết như vậy. Con mà thành gia thất với ổng thì con sẽ được hạnh phúc đầy đủ. Cha mẹ cũng an vui tuổi già.

    - Thí dụ thằng Tình về đây và con lấy nó, mẹ chắc con không được hạnh phúc đầy đủ bằng.

    - Điều ấy đã dĩ nhiên rồi. Con đâu có so sánh anh Tình với ông Giáo. Nhưng anh Tình là người đầu tiên mà con đã trao duyên gởi phận. Lẽ nào trong lúc anh rủi ro gặp phải tai bay vạ gió, con lại phản bội lời thề hay sao?

    - Nhưng ngày nay phận lỡ duyên ôi, con đâu cố tình bội ước? Cha con và mẹ đều nghĩ rằng trời xui khiến cho con được gặp ông Giáo, có lẽ là duyên tiền định đó con à.

    - Mẹ nói đúng, con không dám cãi. Nhưng con quyết chí đợi anh Tình một năm nữa... Để sau lương tâm của con khỏi có điều gìân hận.

    °

    Một năm! Biết bao là biến cố đã xẩy ra cho Phượng trong một năm, vui có, buồn cũng có! Một hôm, Phượng xin phép cha mẹ cho cô về thăm các người quen ở làng Tân phú. Đường Đà lạt Sàigòn lúc bấy giờ đã có xe chạy nhiều và thường xuyên, theo đoàn xe hộ tống của nhà binh Pháp mỗi tuần hai lần. Phượng đi xe đò lúc sáng sớm, định về Tân phú hỏi dò tin tức. Nhưng 11 giờ xe đi ngang qua Tân phú, Phượng kinh ngạc không dám xuống xe. Cô thấy tất cả mấy nếp nhà ở đó đều bị đốt cháy từ lâu, không còn một mái nào. Cả làng Tân phú chỉ còn những nền nhà trơ trụi, đầy những đống tro, than, và gỗ cháy đen thui nằm ngổn ngang ven đường quốc lộ. Không biết hỏi ai, Phượng nói chuyện với một bà già ngồi cạnh:

    - Cụ à, không rõ tại sao nhà cửa ở đấy bị cháy hết thế nầy, và cháy từ bao giờ, hả cụ?

    - Tôi cũng không được rõ, cô ơi! Hồi trước Tết tôi có đi qua đây, thấy nhà cửa hãy còn, chuyến sau tôi đi Sài gòn, đã thấy cháy rụi. Hỏi bác tài xế, bác ấy bảo là bị nhà binh Pháp đốt sau trận phục kích ở Là ngà hồi tháng ba.

    Phượng đau đớn, làm thinh, đi xe thẳng xuống Biên hòa. Cô đến nhà bà Dì. Bà Dì đã chết. Cô hỏi cậu Tấn, con trai của bà, về tin tức cậu Tình. Tấn bảo:

    - Em nghe nói có một đoàn tù binh bị đưa ra làm dân công ngoài Trung, không biết ở miệt nào. Em đoán chắc là anh Tình cũng bị giải đi trong đoàn ấy. Còn ở Biên hòa đây thì lâu lắm, từ một năm nay em không thấy bóng anh Tình.

    Tin tức của ba má cậu Tình, Tấn cũng không biết. Ở Biên hòa, Phượng thất vọng, buồn rầu, khóc sướt mướt ngày đêm. Đến hôm có đoàn xe hộ tống, cô trở về Đà Lạt.

    Người cô như thẩn thờ, chán nản. Lúc xe đi ngang qua chỗ làng Tân phú cũ, cô rưng rưng nước mắt nhìn các đám tro hoang vắng đìu hiu như đi ngang qua một nghĩa địa. Cô cảm thấy nơi đây đã chôn vùi tất cả những kỷ niệm đẹp đẽ của ngày tàn. Cuộc đời niên thiếu của cô đến đây là chết hẳn. Tình yêu ngây thơ diễm lệ nhất của cô, là tình yêu đầu tiên thơ mộng của tuổi vàng, đã nẩy nở nơi đây, vun bén nơi đây, bây giờ chỉ còn lại một đống than tro tan tác trong gió rừng! Phượng ngờ đâu buổi sáng sớm Tình từ giã Phượng để đi Biên hòa, bóng Tình biến trong sương mù đã biến luôn trong tháng ngày vô định! Phút phân ly Phượng nhìn theo bóng chàng, ngờ đâu lại là phút vĩnh biệt, than ôi!

    Tuy nhiên, Phượng vẫn còn nuôi hy vọng. Cô tự an ủi: ‘‘Biết đâu một ngày gần đây, Tình sẽ trở về?

    Với hy vọng ấy, cô lại vui vẻ, nhẫn nại, lo làm công việc cho qua ngày đoạn tháng.

    Hôm lễ Nôen, ông Giáo ở Sàigòn về. Theo thường Iệ, mỗi khi có ngày lễ ông Giáo về Đà lạt nghỉ ngơi năm ba ngày, hoặc một tuần, ông đều có đem chút ít quà về biếu vợ chồng ông Cai giữ nhà, và cô Phượng.

    Nô-en và đầu năm dương lịch, ông được nghỉ mười ngày. Một buổi sáng trời nắng ấm, cô Phượng ngồi ngoài sân lột đậu một mình, ông Giáo thích việc trồng tỉa, xách một bình tưới hứng nước máy ở góc tường, đi tưới mấy rổ hoa ông mới trồng, ông mặc đồ pyjama, chân đi guốc, đầu không đội nón, tóc không chải phất phơ dưới nắng vàng. Tưới nước xong ông đi quanh trong vườn hái mấy cành hoa cúc Nhựt bổn đủ màu kết thành một bó hoa rất đẹp. Ông đến đưa Phượng:

    - Tôi tặng cô đây, cô Phượng à.

    Phượng mỉm cười đỏ ửng đôi má. Chính cô cũng là một đóa hoa tươi tuyệt đẹp. Cô đưa hai tay nhận bó hoa:

    - Dạ, xin cám ơn ông.

    - Hoa cúc nầy quý lắm, vì ở xứ ta ít có.

    - Dạ.

    - Cô đem cấm vào bình ngay, kẻo nó héo

    - Thưa ông, sao ông không để cắm trong phòng khách?

    - Phòng khách đã có nhiều hoa. Lúc sáng sớm, ba cô có cho tôi mấy cành lê dơn trắng đẹp quá.

    Phượng cầm bó hoa cúc Nhựt bổn, đứng dậy:

    - Xin phép ông, tôi đi cắm hoa vào bình.

    - Vâng.Tôi cũng xin phép cô trong lúc vắng cô, cô cho tôi ngồi lột đậugiúp cô nhé!

    - Dạ, không dám.

    - Thưa ông đi nghỉ kẻo mệt. Ông đã tưới hoa từ sớm đến giờ.

    - Không sao, tôi rất thích công việc làm vườn. Cô tính xem: ở Sàigòn cả ngày nầy qua ngày nọ, tháng nầy qua tháng kia, tôi cứ dạy mấy anh học trò của tôi những câu triết lý khô khan, và những bài luận văn chương tràng giang đại hải. Lâu lâu mới được dịp nghỉ về Đà lat. Tôi thấy không có thú nào hơn là thú về ẩn dật nơi điền viên tĩnh mịch, sống giữa màu sắc phấn hương hoa… Tôi yêu cảnh đẹp thiên nhiên, trong sạch, thanh tao. Tôi yêu tiếng thông reo, lời suối hát …

    Phượng tủm tỉm cười, ông Giáo sực thấy mình dạng mơ mộng... Sự thật, ông bỡ ngỡ muốn nói với Phượng một câu chuyện khác mà ngượng ngùng khó nói ra lời. Ngồi truoc71c mặt Phượng ông vẫn thấy bối rối mặc dầu hai người đã quen nhau gần ba năm, như người nhà rồi, chứ đâu phải xa lạ gì nữa! Lần này cũng không phải lần đầu tiên ông ngồi một mình với Phượng. Và câu chuyện ông muốn nói với cô hôm nay cũng đâu phải là câu chuyện đầu tiên!

    Hai người ngồi đối diện. Ở giữa là một đống trái đậu màu da nhung xanh dịu và một thùng đậu đã lột rồi.

    Ông Giáo và Phượng đều cúi đầu lặng lẻ lột đậu, hình như không có gì bận rộn trong ý nghĩ của họ. Nhưng một lát, Phượng nghe ông Giáo khẽ gọi:

    - Cô Phượng à.

    Phượng khẽ đáp:

    - Dạ.

    - Câu chuyện tôi đã nói với ba má cô trong bức thư đầu năm, có làm phiền cô không?

    - Dạ thưa ông, có phiền gì đâu ạ.

    - Cô Phượng à, tôi quý mến cô lắm. Cô xem, tôi năm nay ba mươi hai tuổi, mà từ ngày người vợ trước của tôi mệnh chung đến nay đã bảy năm tôi không cưới vợ khác, chỉ vì một duyên cớ là tôi muốn chọn bạn trăm năm hoàn toàn hợp với lý tưởng của tôi. Sự ngẫu nhiên mà tôi tin rằng do trời định trước đã cho tôi được thoảng thấy bóng có một buổi sáng sớm ở một khu rừng. Ngay từ giây phút huyền bí ấy tôi đã cảm thấy như gặp được người trong lý trưởng. Ba năm qua, mỗi lần được dịp tiếp xúc với cô, tôi càng hiểu rõ tư cách của cô càng quý mến cô nhiều. Cho nên tôi đã thành thật ngỏ ý với cô ba lần. Tuy cô từ chối nhưng tôi vẫn hy vọng. Hôm nay, sẵn ngày lễ tôi về đây, tôi mong được biết ý kiến của cô một lần nữa, trước khi tôi trở xuống Sàigòn.

    Phượng suy nghĩ một lát, rồi hỏi:

    - Thưa ông, hôm nào ông đi Sàigòn?

    - Sáng mốt. Tôi nghỉ lễ được mười ngày. Tôi về Đàlạt đã tám ngày rồi.

    Ông Giáo và cô Phượng đều cúi mặt xuống lột đậu, không ai dám ngó ai. Khi cả hai đều làm thinh, một im lặng đầy rạo rực trong lòng của mỗi người, như thông cảm cùng nhau dịu dàng êm ái. Phượng mặc quần vải đen, áo bà ba trắng mới ủi, một làn tóc đen mướt chảy óng ánh xuống lưng. Đôi má trái soan, ửng một màu hồng tự nhiên và đôi môi đỏ tươi không phớt qua một làn son phấn. Dưới ánh nắng vàng ấm dịu phảng phất hương hoa, Phượng ngồi trên một góc chiếu, hai bàn tay mủm mỉm nõn nà ung dung lột đậu. Ông Giáo cũng ngồi trên góc chiếu làm công việc như Phượng.

    Một lát im lặng, ông nói tiếp:

    - Cô Phượng ạ, nếu cô có điều chi thắc mắc, xin cô cứ nói thật cho tôi rõ. Đã biết tôi gần ba năm nay, chắc cô cũng đã thấy tính tôi rất thích sự thành thật. Tôi xin nói một lần nữa để cô rõ ràng cô hoàn toàn tự do định đoạt một vấn đề quan hệ trực tiếp đến duyên phận của cô. Tôi không muốn có một sự ép buộc nào dù là một ép buộc về tinh thần. Nếu có xét thấy có một vài trở ngại gì trong việc cầu hôn của tôi, tôi xin sẵn sàng rút lời và không muốn để phiền cô một tý nào nữa. Tôi sẽ không giận cô, không oán trách cô. Trái lại, tôi vẫn luôn luôn là người bạn quý mến cô và giúp đỡ cô trong tất cả các cơ hội.

    - Dạ thưa ông, tôi hiểu ông nhiều lắm, và tôi rất cảm động được ông tỏ tình thương chân thật và cao quý như thế. Tôi tự xét thân phận hèn mọn của tôi không biết làm sao xứng đáng với tấm lòng tha thiết quảng đại của ông... Tôi tự thẹn cho tôi nhiều lắm... Tôi thấy đời tôi khổ lắm ông ạ...

    Phượng bỗng nghẹn lời, nói không được nữa. Hai ngấn Iệ rưng rưng trên mắt, Phượng chỉ lẩm bẩm được mấy tiếng: ‘‘Xin lỗi ông...’’ rồi cô đứng dậy vụt chạy vào nhà. Phượng khép cửa buồng, gục đầu xuống giường khóc nức nở.

    Lần nào ông Giáo đi Sàigòn, khi ông lên xe vợ chồng ông Cai và cô Phượng cũng thân mật ra chờ trước sân để tiễn ông. Nhưng lần này ông Giáo vui vẻ bắt tay ông Cai, chào bà Cai, mà không thấy cô Phượng. Ông khẽ hỏi:

    - Cô Phượng có nhà chứ ông Cai?

    - Dạ, thưa ông, cháu ở trong nhà … Cháu bị chóng mặt, không ra chào ông được…

    - Tôi vào thăm cô một chút được không?

    - Dạ, mời ông vào nhà.

    Ông Giáo đi thẳng xuống nhà gác dan, vào gõ cửa buồng cô Phượng. Cánh cửa mở, Phượng bẽn lẽn, không còn vẻ tự nhiên như trước. Ông Giáo đứng ngoài thềm cửa âu yếm hỏi:

    - Cô mệt sao, cô Phượng?

    - Dạ không có sao. Thưa ông, sáng nay ông đi Sàigòn?

    - Vâng.

    Ông Giáo lấy trong túi áo ra mộT phong thư đã viết sẵn để trao cho Phượng:

    - Đây là mấy lời tạm biệt cô. Tết tôi lại về.

    Phượng nhận thư. Ông Giáo khẽ nghiêng đầu chào và ông vừa ra khỏi cửa. Phượng đã ngồi xuống giường mở thư ra coi.

    Đà. lạt 2-1-1949.

    Cô Phượng thân mến,

    Tôi hồi hộp mong đợi câu trả lời của cô. Hôm nào cô muốn cho tôi rõ ý định dứt khoát của cô, xin cô vui lòng viết thư theo địa chỉ kèm đây.

    Tôi cầu nguyện Phật Trời phù hộ cho cô luôn luôn vui vẻ khỏe mạnh.

    Thành thật quý mến cô

    TRẦN –TẤT-BẢO

    Ông Giáo có dụng ý kèm theo một phong bì có dán tem và để sẵn địa chỉ của ông ở Sàigòn.

    Xem xong thư, Phượng nằm ngửa lên giường, cầm thư để trên ngực, nhắm mắt suy nghĩ một hồi lâu. Lần này có lẽ cô đã quyết định.

    °

    Nhưng Phượng chưa vội viết thư trả lời ông Giáo. Một buổi sáng gần giữa tháng chạp, Phượng soạn đồ đạt trong rương, các quần áo đẹp của cô và của mẹ cô ít có dịp mặc tới, xếp cất trong rương từ lâu. Gần Tết, sẵn trời nắng tốt cô lấy ra phơi hết một lượt. Khi dủ chiếc áo cưới màu hồng của Tình ra để giăng trên giây, Phượng giựt mình, gọi mẹ:

    - Mẹ ơi!Mẹ!

    Bà Cai ở trong bếp đủng đỉnh đi ra:

    - Cái gì đó con?

    Phượng đang mân mê chiếc áo cưới màu hồng, rưng rưng nước mắt:

    - Mẹ ơi! gián hay chuột gì cắn nát hết cái áo của con đây nè! Mẹ ra coi!

    Bà Cai ra chỗ giây phơi đồ. Bà cầm áo coi kỹ:

    - Đây là gián nhấm... Thôi, chết rồi! Nát cả cái áo!... Vạt trước, vạt sau, trên lưng, trên vai, trên tay, nó cắn rách loang lỗ thế nầy mặc làm sao đặng nữa?

    Mấy áo khác xếp gần đấy cũng bị gián nhắm nhưng ít hơn. Riêng chiếc áo cưới màu hồng đã thành ra vô dụng. Bà Cai chậm rãi nói:

    - Mẹ còn nhớ năm ngoái con nói với mẹ: ‘‘Chừng nào chiếc áo cưới màu hồng này rách mà anh Tình chưa về thì họa may con mới lấy người chồng khác.’’ Mẹ hỏi lại con: ‘‘chiếc áo hồng không bao giờ con mặc thì làm sao nó rách được?’’ Con trả lời: ‘‘Thưa mẹ, nó còn nguyên vẹn mãi thì tình yêu của con với anh Tình cũng còn nguyên vẹn mãi.’’ Hồi đó, nghe con nói như vậy, mẹ cũng tưởng rằng không bao giờ chiếc áo cưới màu hồng của con rách được. Ai có ngờ đâu hôm nay...!

    Phượng không trả lời. Cô buồn bã đau đớn bỏ vào buồng nằm.

    Ba hôm sau, có viết thư gởi ông Giáo:

    Đà lạt, ngày 16 tháng chạp.

    Kính thưa ông Giáo,

    Xin ông tha thứ cho tôi đã chậm trả lời. Sau khi suy xét cặn kẽ về hoàn cảnh của tôi, tôi thấy tôi không còn can đảm từ chối một lần nữa tình yêu mến thành thật rất cao quý của ông. Tôi hân hạnh và vui vẻ nhận lời cầu hôn của ông.

    Về lễ thành hôn, Tết nầy ông về Đà lạt chúng ta sẽ lo liệu.

    Thân ái chào ông và chúc ông khỏe mạnh

    MỸ - PHƯỢNG

    °

    Ông Giáo mừng rỡ được thư Phượng gần đúng kỳ nghỉ Tết. Hai mươi tháng Chạp ông về Đà lạt.

    Với sự đồng ý hoàn toàn của cha mẹ cô Phượng, ông Giáo và cô ấn định hôn lễ cử hành giản dị trong gia đình ngay buổi sáng Mồng một Tết. Nhân dịp này nhà ông Cai được trang hoàng lịch sự. Chung quanh Phượng, mấy cô em họ và bạn của cô, yêu kiều thướt tha, nô đùa cười giỡn rộn rịp trong nhà. Mỹ Phượng đẹp lộng lẫy. Cô vẫn không phấn sáp, nhưng khuôn mặt trái xoan đều đặn, đôi má ửng hồng, đôi môi thắm tươi, hai bên búp tai lóng lánh đôi hoa hột xoàn rực rỡ. Một tia vui mừng chiếu ngời trong cặp mắt ngà diễm lệ, huyền mơ. Hôm nay Phượng bới tóc, một mái tóc dịu dàng làm nổi bật gương mặt thần tiên của cô. Cô mặc chiếc áo nhung màu xanh da trời, mang đôi giày nhung xanh. Một cô em họ nhí nhảnh trầm trồ khen ngợi:

    - Ồ! Chị đẹp quá, chị Phượng à!

    Phượng cười tự nhiên:

    - Hôm nay là ngày Tết, ai mà chả đẹp hả em!

    Một cô bạn nhỏ, mười sáu tuổi, tên là Lê thị Hiền, tiếp lời:

    - Hôm nay là ngày Tết chung của mọi người mà lại là ngày Tết riêng của chị!

    Phượng dịu dàng kề tai nói nhỏ cô Hiền:

    - Chị mong rằng trong ba bốn năm nữa, ngày Tết chung của mọi người sẽ là ngày Tết riêng của em!

    Tất cả mấy cô quanh quẩn đấy đều cườ rồ lên và vui vẻ liệng hoa giấy cho nhau, đầy đầu đầy mình.

    Đúng mười giờ. ông Giáo Trần Tất Bảo đi với vợ chồng ông Bác sĩ và vợ chồng ông Đốc học, là hai đôi bạn thân nhất của ông, từ biệt thự qua một sân rộng đầy hoa nở, đến nhà ông Cai. Ông Giáo mặc quốc phục, khăn đen, áo sa ten đen. Gần đến nhà, ông Cai đốt một phong pháo đón mừng ông Giáo và quý khách.

    Mười lăm phút sau, cô Mỹ Phượng dạn dĩ và tự nhiên, từ trong phòng bước ra, cúi đầu chào mọi người, rồi cùng ông Giáo đến đứng hai bên bàn thờ. Ông Cai thắp đèn hương, đốt lư trầm, đứng nghiêm trang khấn vái ông bà để báo tin lễ thành hôn cho con gái. Ông lạy ba lạy. Đến lượt Mỹ Phượng và ông Giáo cùng làm lễ một lúc. Lễ xong, tự tay ông Giáo lấy một hộp vuông vức mới tinh đã để sẵn trên một bàn con kê trước bàn thờ. Ông mở hộp ra, lấy một chiếc nhẫn cưới đeo vào ngón tay áp của tân giai nhân. Mỹ Phuợng cũng tự tay lấy trong hộp một chiếc nhẫn cưới đeo vào ngón tay của ông Giáo. Cặp vợ chồng mới âu yếm nhìn nhau, mỉm cười, cô Hiền thấy cử chỉ tình tứ đẹp đẽ quá, cô vỗ tay cười, khiến cho tất cả chủ khách hai bên đều vỗ tay lên một loạt, xen với tiếng vui cười nô nức.

    Ông Giáo và cô Phượng đến trước mặt ông Cai bà Cai và cúi đầu vái ba vái, theo lễ giáo Việt nam, để tạ ơn cha mẹ. Nhưng cha mẹ cô Phượng cũng Iịch sự nghiêng đầu đáp lễ lại ông Giáo, vị ân nhân của gia đình.

    Lễ cưới xong, ông Cai ra sân đốt một tràng pháo. Mấy cô em họ và bạn của Phượng vui vẻ dọn bánh mứt lên bàn đãi quan khách, cô bạn nhỏ Lê thị Hiền tủm tỉm cười bưng ra mời riêng ông Giáo một dĩa bánh cưới xinh xắn, trên mặt bánh có in hình một con chim phượng hoàng rất mỹ thuật. Mọi người đổ xô lại coi, khen ngợi cô Hiền, và buộc đôi tân lang và tân giai nhân phải ăn hết mỗi người một nửa, Hoa giấy đủ màu bay ra tứ tung, hòa lẫn với hoa cười tươi thắm, trong lúc tiếng pháo mừng xuân nổ vang dậy cả núi rừng Đàlạt...

    Vừa đúng mười hai giờ. Ông Giáo và Mỹ Phượng tiễn vợ chồng ông Bác sĩ và vợ chồng ông Đốc học ra đến xe của họ đậu trước sân. Ông Giáo niềm nở bắt tay cảm ơn các bạn lúc họ lên xe. Mỹ Phượng nhã nhặn khẽ cúi đầu chào. Năm giờ chiều tại biệt thự, ông Giáo và Mỹ Phượng mở một tiệc trà thân mật khoán đãi các bạn bè thân thuộc của đôi bên. Giấy mời và thiệp cưới mới gửi hôm hai mươi lăm tháng chạp, nhưng quan khách ở ĐàIat và nhứt là ở Sàigòn lên rất đông, chật ních trong nhà và đây cả ngoài sân rộng.



    Mỹ Phượng vừa tuyệt đẹp, vừa nhu mì khiêm tốn, lại niềm nở bặt thiệp, gây được cảm tình nồng hậu của tất cả mọi người.

    °

    Chín giờ đêm Mồng một Tết. Quan khách đã lần lượt ra về. Ông Giáo đóng cửa, đưa vợ lên phòng riêng ở trên lầu.

    Đứng cạnh bình hoa Iê dơn hồng như đôi má của Phượng, trước chiếc giường trải nệm trắng tinh, ông Giáo đặt hai bàn tay lên hai vai Mỹ Phượng, âu yếm nhìn nàng:

    - Em!

    Phượng nhoẻn một nụ cười đầy tình tứ yêu đương:

    - Anh!

    Ông Giáo khẽ ôm Phượng vào lòng, má kề má ……………

    ............................................

    Một hồi lâu, ông Giáo đê mê nhìn cô vợ trẻ:

    - Mình ạ, mọi khi mình đẹp hơn tất cả các người đàn bà trên trái đất, hôm nay mình đẹp hơn tất cả trời đất, cả Vũ trụ!

    Phượng sung sướng, mỉm cười, âu yếm tựa đầu vào vai chồng:

    - Em đâu cô đẹp như mình khen. Nhưng nếu em đẹp, cũng là đẹp của riêng mình thôi.


  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương V
    PHƯỢNG theo chồng về Sàigòn, ở biệt thự đường Testard.

    Trong bảy năm ở độc thân, ông Giáo ngày hai buổi đi dạy học, trưa chiều ăn cơm tiệm, ông chỉ nuôi một bà xẩm già, đáng tin cậy để coi nhà và quét tước dọn dẹp. Bây giờ có vợ, ông mướn thêm một chị bếp để đi chợ với Phượng và nấu nướng.

    Thời khắc biểu của Phượng Ià của một người nội trợ đảm đương và thông minh. Buổi sáng dậy sớm lo bữa điểm tâm, rồi đi chợ cùng một lượt với chồng đi dạy học. Mười giờ coi việc bếp núc, sửa soạn bữa trưa đợi chồng về. Chiều, chồng đi dạy, cô đóng cửa ở trên lầu, đọc các sách của ông Giáo mua về, để trau dồi văn hóa.

    Năm giờ cô xuống phụ với chị bếp, sửa soạn bữa cơm tối. Tám giờ cơm nước xong, ông Giáo soạn bài, cô xem sách, hoặc hai vợ chồng đi xem chớp bóng, đi nghe diễn thuyết, hay dạo mát trên bờ sông. Phần nhiều các buổi tối, đôi vợ chồng chỉ thích nằm nhà, chuyện trò âu yếm. Phượng mê nghe những câu chuyện của chồng, rất lý thú và bổ ích cho sự mở mang trí óc của cô. Ông Giáo cũng thích nghe Phượng nói về công việc trồng tỉa bông hoa, và các chuyện mộc mạc lý thú, nhiều khi rất cảm động, của các giới cần lao thợ thuyền hay thôn dã. Hai người tâm đầu ý hợp nhau lắm, và mỗi ngày họ càng hiểu nhau thêm, càng yêu quý nhau nhiều hơn. Phượng đối với chồng, vừa yêu, vừa kính, vừa phục. Ông Giáo cư xử với vợ vừa là người chồng, người tình nhơn, và người bạn tri kỷ. Họ tin nhau hoàn toàn, và cả hai đều dịu dàng hòa nhã, phước hậu. Một tháng sau lễ cưới, một buôi tối thứ Bảy ông Giáo vừa vặn máy phát thanh trổi lên một bản nhạc, thì Phượng đứng sát cạnh chồng, một tay âu yếm choàng trên vai ông, đầu tựa vào vai bên nầy, bẽn lẽn gọi chồng:

    - Mình!

    Ông Giáo ngó Phượng với đôi mắt dịu dàng say đắm, và mỉm cười trông thấy vẻ mặt thẹn thùng của vợ:

    - Anh đoán mình muốn nói gì rồi.

    Phượng mân mê chiếc cravate của chồng:

    - Mình đoán chắc đúng. Em bắt đầu có thai mình ạ.

    Ông Giáo tủm tỉm cười:

    - Anh đã biết lúc trưa khi thấy mình muốn nôn.

    - Mình tài quá.

    Ông Giáo khẽ kéo Phượng ôm vào lòng, và hai người hôn nhau... ghi dấu nỗi niềm vui mừng, sung-sướng ấy.

    Họ yêu nhau tha thiết quá, vừa buông ra, nhìn nhau thật tình tứ một phút, rồi lại môi kề môi hôn nhau say sưa …trong lúc bản nhạc của máy phát thanh tiếp tục trầm bổng du dương.

    Sáng chủ nhật, ông Giáo lái xe ra phố một mình. Phượng muốn đi với chồng, nhưng ông cười, có vẻ bí mật:

    - Không. Mình ở nhà nghĩ cho khỏe. Anh đi một lát về ngay,

    Sự thật, là ông định để dành cho Phượng một ngạc nhiên.

    Ba mươi phút sau, ông chở về một máy may thật đẹp, gồm cả máy thêu. Phượng reo mừng, sung sướng. Ông bảo:

    - Anh tặng mình cái máy kiểu mới nầy, để mình may và thêu không mỏi mệt,

    Phuợng hôn chồng, rồi thỏ thẻ nói:

    - Em cảm ơn mình. Nhưng mình biết em bắt đầu may và thêu cho ai không?

    - Cho con.

    - Mình giỏi quá... Rồi cho ai nữa?

    - Cho... mình.

    - Không! cho chồng em trước chứ!

    Ông Giáo âu yếm vỗ vai vợ:

    - Mình đáng quý lắm. Lúc nào mình cũng nghĩ đến anh. Nhưng anh thích mình may thêm đồ cho mình trước, vì mình thiếu áo mặc.

    Phượng cười:

    - À quên! Mình có hai sơ mi rách cổ. Mình bằng lòng cho em khánh thành máy may ngay bây giờ không?

    - Bằng lòng... Nhưng anh quên mua chỉ!

    - Nhơn tiện, mình cho em đi ra phố với mình nhé? Chúng ta mua chỉ may và các thứ chỉ thêu luôn.

    - Phải đấy.

    Phượng không cần trang điểm, chỉ mặc cái áo dài vào, rồi cùng ra xe, ngồi cạnh chồng.

    Phượng ở Sàigòn với chồng được bốn tháng, đến kỳ nghĩ hè. Vợ chồng về Đàlạt, đem cả chị bếp và máy may theo. Ở biệt thự đường Prenn cũng đã có nhiều thay đổi, theo ý muốn của ông Giáo từ sau khi cưới Phượng. Vợ chồng ông Cai bây giờ đã già yếu, không thể làm vườn được. Ông Giáo mời hai ông bà lên ở biệt thự tại đây ông để giành riêng một căn buồng khá rộng ở từng dưới, giữa phòng ăn và phòng khách. Trước kia, buồng này được dùng làm thư trang của ông Giáo, có cửa sổ rộng ngó ra sân hoa và vườn rau. Trong buồng có lò sưởi.

    Dọn dẹp trang hoàng mời vợ chồng ông Cai về ở ông Giáo dời thư phòng của ông lên lầu, cạnh phòng ngủ. Ở Sàigòn về, ông Giáo và Phượng ở trên lầu, riêng biệt và tĩnh mịch. Máy may của Phượng cũng để trong thư phòng, tại đây có cả một thư viện gồm ba bốn trăm quyển sách Việt, Pháp. Anh, có ghế dài để nằm đọc sách, bàn viết, máy phát thanh, lò sưởi. Phượng và ông Giáo chỉ xuống dưới nhà trong các bữa ăn, hoặc tiếp khách, hay dạo vườn hoa, vườn rau.

    Nhà gác dan bây giờ để hai vợ chồng anh làm vườn trọ, từ Quảng nam mới tản cư vào, ở làm công cho ông Cai. Hoa lợi nhà vườn vẫn để ông Cai hưởng hết, y như trước. Bà Cai vẫn nuôi gà, vịt, để bán.

    Nghe Phượng nói đã có mang bốn tháng, bà Cai vui mừng khôn xiết. Bà chỉ bảo cho con gái những cách thức dưỡng thai và ăn uống kiêng cử trong thời kỳ thai nghén.

    Ba tháng hè. Phượng nghỉ ngơi, không làm việc gì nặng nhọc. Ông Giáo cũng không cho vợ

    đạp máy may nữa. Có điều đôi vợ chồng trẻ không vui, là mãn kỳ nghỉ hè ba tháng Bác sĩ khuyên ông Giáo đi Sàigòn một mình, nên để bà Giáoở lại Đà lạt, vì Phượng đã có mang bảy tháng, sợ rủi ro dọc đường.

    Ông bà Bác sĩ là bạn thân trong gia đình đều đồng ý không nên để Phượng đi xa trong lúc gần sanh nở. Bà Đốc bảo:

    - Đường sá lúc này không đuợc an ninh. Để bác gái đi,sợ dọc đuờng xe gặp phải tai nạn, thì

    khó khăn lắm, Bác à. Một mình bác trai có thể xoay xở được, chứ có bác gái đi nữa thì thật là bất tiện. Nhỡ xẩy ra chuyện gì bất trắc, bụng mang dạ chửa, bác sẽ Iàm thế nào? Chi bằng bác trai cứ về Sàigòn một mình, ở trên này bác gái đã có hai Cụ và chúng tôi săn sóc cho. Bác đừng lo ngại gì cả.

    Thật ta, Phượng không muốn xa chồng, và ông Giáo cũng khôrg muốn vắng mặt vợ, nhưng lời nói của vợ chồng ông Bác sĩ có ảnh hưởng đến sự định đọat cuối cùng của ông Giáo bà Giáo

    Phượng tiễn chồng ra xe, lòng nao nao buồn. Hai ngấn lệ chạy quanh trong đôi mắt ngà, Phượng cầm bàn tay của chồng, đưa lên môi hôn. Ông Giáo nắm tay vợ:

    - Anh đi, nhưng trái tim của anh và tâm hồn của anh, anh để hết lại cho mình. Anh đem theo hình ảnh yêu quý của mình, là tia sáng của tất cả đời anh, là nguồn an ủi duy nhất của anh trong những ngày ly biệt.

    Xe ông Giáo ra khỏi cổng, vùn vụt xuống dốc Prenn, cô vợ trẻ có mang còn đứng góc cây xá lị, buồn bã ngó theo.

    °

    Trong thời gian vắng ông Giáo, Phượng ít xuống nhà, trừ những bữa cơm cô ăn chung với cha mẹ già, và tiếp vài người bạn thân.

    Cô chỉ quanh quẩn trên lầu, nằm ghế dài coi sách hàng giờ, hoặc ngồi thêu tay những chiếc áo và mũ xinh xắn cho đứa con sắp ra chào đời. Gặp những giờ phát thanh, cô mở máy nhưng thích mở nhỏ để nghe văng vẳng những điệu đơn xa lạ của ngoại quốc. Cô ôn lại những bài Anh ngữ cô đã học của chồng được sáu tháng, biết khá nhiều. Cô rất thích ở trong thư phòng của ông Giáo, nơi đây cô đã quen với không khí đầm ấm thanh tao của văn nghệ. Cô nhớ ở Sàigòn một hôm sẵn bút chì xanh đỏ của chồng, cô thử vẽ chơi một vài bức tranh thiên nhiên xứ Mọi. Ông Giáo thấy đẹp, và lần đầu tiên khám phá được một tài ba họa sĩ bất ngờ, tiềm tàng trong hoa tay của vợ. Ông liền khen ngợi và khuyến khích cô. Từ hôm ấy, Phượng luyện tập bồi bổ về hội họa, bên cạnh người chồng Giáo sư văn chương và triết học theo dõi một cách chăm chú và say mê những phát triển phi thường của cô vợ tài hoa.

    Vắng ông giáo, Phượng thỉnh thoảng vẻ những bức tranh rừng núi với những màu sắc kỳ diệu để gởi tặng chồng.

    Một buổi sáng nắng đẹp, Phượng xuống sân bắt sâu cho những khóm hoa hồng. Tự nhiên, cô sực nhớ cảnh lột đậu ở trước sân, giữa ông giáo và cô hồi lễ Nô ên năm ngoái,

    Cô ngồi trên chiếc ghế mây dưới bông hoa xá lị, hồi tưởng lại rõ ràng tất cả những chi tiết của ký ức êm đềm đẹp đẽ ấy. Cô mỉm cười sung sướng, rồi nhớ lại lần hồi những kỷ niệm lý thú khác... Cô đứng dậy, đi thong thả xuống vườn rau, ra đến mương, đứng nhìn miếng ván mục đã làm cô té, nay còn nằm ngâm dưới nước và tấm ván cầu vững chắc do ông Giáo tự tay bắt qua mương. Cô nhớ rõ lại những cử chỉ rất đáng yêu của ông Giáo trong các trường hợp ấy, cô hãy còn là một cô gái nông dân, con người gác dan của ông Giáo.

    Do sự liên hệ tư tuởng, dần dần cô nhớ lại cậu Tình, vị hôn phu cũ của cô hồi ba năm trước. Cô bẻ một lá bạc hà lớn mọc nơi bờ mương, trải lên cỏ để cô ngồi. Cô mơ tưởng đến Tình, người yêu xấu số mà cô không thể nào chờ đợi được nữa, bởi ba năm anh lưu lạc nơi nào, biệt vô tín. Vì yêu anh, Phượng đã đau khổ buồn rầu trong ba năm trời. Vì yêu anh, Phượng đã từ chối hai lần tình thương thiết tha trung thành của ông Giáo. Vì yêu anh, Phượng đã quyết chí chờ đợi anh về, để giữ vẹn lời thề chung thủy với người yêu đầu tiên đã tặng cô chiếc áo cưới màu hồng hai tháng trước ngày hôn lễ. Nhưng than ôi, hoàn cảnh của Phượng không cho Phượng giữ được mối chung tình... Cha già mẹ yếu mà phận lỡ duyên ôi. Cô đã cố gắng kiên nhẫn trong ba năm, nay cô đành bội ước, không còn hy vọng ngày tái ngộ với Tình. Nhưng dù sao, Phượng vẫn thương Tình. Phượng vẫn không sao quên hẳn được tình yêu đầu tiên, mộc mạc nhưng cảm động, đã nẩy nở trong núi rừng hoang, và... đìu hiu lạnh lẽo như núi rừng hoang!

    Phượng buồn bã đứng dậy đi vào nhà. Cô ghé trước tiên vào gian nhà gỗ của gác dan, nơi đây còn để biết bao nhiêu là kỷ niệm trong ba năm ở với, mà bây giờo73là nhà trọ của vợ chồng người làm vườn mới đến. Cô bước vô nhà,đi đủng đỉnh, đứng trước cửa buồng của cô. Cô ngó vô buồng, lòng ngậm ngùi ảm đạm. Cô trở ra gặp vợ chồng người làm vườn tay lấm chân bùn, cung kính cúi đầu chào:

    - Thưa bà chủ.

    Cô dịu dàng đáp:

    - Tôi không dám. Chào anh ba và chị ba.

    Cô mỉm cười nói tiếp:

    - Xin lỗi anh chị nhé. Tôi vừa vô xem qua gian nhà trong lúc anh chị mắc tưới rau ngoài vườn.

    Vợ chồng người phu vườn kính cẩn đáp:

    - Dạ, xin bà chủ đừng ngại.

    - Phượng hiền lành nhã nhặn:

    - Cảm ơn anh chị. Chào anh chị.

    - Dạ, xin chào bà chủ.

    Phượng trở về biệt thự, vào ngay căn phòng riêng của cha mẹ cô. Bà cai đang ngồi têm trầu, âu yếm hỏi cô:

    - Con đi chơi ngoài vườn, đã về?

    - Dạ...

    Cô ngồi xuống chiếc ghế mây, thở một lúc, rồi khẽ hỏi bà Cai:

    - Mẹ à, chiếc áo cưới màu hồng của anh Tình cho con, còn trong rương chớ, mẹ?

    Bà Cai làm thinh một hồi lâu mới chậm rãi trả lời:

    - Hãy còn đó... Con hỏi chi vậy?

    Phượng buồn bã:

    - Con hỏi cho biết đó thôi.

    - Hôm mấy tháng trước con còn ở SàiGòn, mẹ có soạn lại đồ trong rương, thấy áo bị gián nhấm hư hết như con đã biết, nên mẹ muốn lấy cho chị Tư Lò gạch. Vì chị ấy nghèo hơn mình. Nhưng không biết ý con thế nào, nên mẹ do dự, để lại đó. Nếu con muốn cho chị Tư, thì bữa nào chị lên mua hột vịt, mẹ cho chị.

    - Con muốn lấy ra coi.

    Phượng đứng dậy, định đến mở rương, nhưng bà Cai bảo:

    - Con ngồi đó, để mẹ đi soạn ra cho.

    - Dạ con soạn cũng được.

    Phượng đến mở chiếc rương cũ của cô, còn y nguyên khóa cũ, để dướl đầu gầm giường lấy hết một chồng quần áo mới của bà Cai, để lên giường, Phượng thấy gần đáy rương chiếc áo cưới màu hồng còn xếp y nguyên như trước. Màu hồng vẫn còn tươi như lúc Tình mới mua. Phượng rũ áo ra xem lại những chỗ bị gián cắn. Cô bảo:

    - Mẹ à, áo nầy mạng lại còn mặc được... Có lẽ mạng tay khéo hơn mạng máy... Bây giờ con rảnh, để con đem lên lầu, mạng thử coi.

    - Con mạng lại để con mặc sao?

    - Dạ không. Con đâu có mặc nữa. Không phải vì con chê áo rách, nhưng vì là chiếc áo cưới của anh Tình. Con với ảnh không có duyên hội ngộ, nay con đã có chồng thì dù là áo gấm mới tinh của ảnh cho, con cũng không thể nào mặc được. Nhưng con mạng lại tử tế để mẹ cho chị Tư Lò Gạch.

    - Con làm sao đó con làm.

    Phượng ngồi giường mẹ, tay mân mê chiếc áo cưới vô duyên mà cô chưa mặc một lần nào trừ hôm đầu tiên cô thử áo. Phượng suy nghĩ một lát, rồi nói:

    - Tội nghiệp anh Tình! Ảnh cũng thương con nhiều lắm, chỉ vì một việc rủi ro bất ngờ mà hai đứa đành phải cách xa đôi ngã, duyên nợ không thành! Ngày nay con đã thành gia thất với người khác, đời con đã sung sướng giàu sang, còn ảnh thì... Biết đãu ảnh đang bị đày dọa trong một cảnh lao lù, hay phiêu lạc nơi chân trời góc bể, chịu phong ba bão táp của một kiếp người lận đận!... Nghĩ đến anh Tình, con vẫn không sao không thương nhớ ảnh được! Nếu ngày nay con biết ảnh bị hoạn nạn nơi nào mà con có thể cứu giúp ảnh được, con cũng không từ chối.

    Phượng buồn bã cúi xuống ngó chiếc áo hồng nằm hẩm hiu trong lòng cô. Hai hàng lệ long lanh khóe mắt, rơi trên tà áo.

    Cô trở ra, cầm áo đứng dậy. Đi ngang trước mặt bà Cai, Phượng khẽ chào:

    - Mẹ nghỉ. Con xin phép mẹ, con lên lầu.

    Phượng đóng cửa thư phòng, ngồi một mình với chiếc áo. Cô đếm kỹ tất cả bị muời hai chỗ gián cắn lủng, và năm chỗ bị nhấm sợi gần rách. Bỗng Phượng nẩy ra một ý nghĩ: ‘‘Hay là ta lấy chỉ tơ đỏ thêu hoa Phượng trên những chỗ gián nhấm để che lấp những chỗ ấy đi, và the6u luôn những hoa phượng lác đác trên áo, để cho đẹp luôn thể? Như thế, chiếc áo cưới màu hồng nầy tuy ta không mặc, nhưng vẫn là chiếc áo cười nở đầy hoa phượng!’’ Thấy ý nghĩ hay hay Phượng lấy chỉ tơ đỏ bắt đầu thêu hoa phượng...

    Cả buổi chiều, cho đến mười hai giờ khuya, cô thêu lần hồi những cánh hoa phượng che lấp hết những chỗ gián nhấm, và lác đác trên màu áo hồng những màu hoa phượng dễ thương lạ!

    Thêu xong hết, cô cắm bàn ủi điện, ủi lại áo, treo vào mắc áo và đứng ngắm thấy đẹp vô cùng!

    Sáng hôm sau, cô đem áo đưa bà Cai:

    - Đây, Mẹ. Con đã thêu hoa phượng trên chiếc áo cưới màu hồng bạc phận. Con không mặc được nữa thì mẹ cứ cho chị Tư Lò Gạch. Chứ chôn mãi nó dưới đáy rương, tội nghiệp nó!

    °

    Ông Giáo xuống Sài gòn được hơn hai tháng thì ở Đà lạt Phượng đã đến kỳ sanh nở. Ông Giáo nhận được điện tín của vợ cho hay vừa sanh được con trai, ông mừng rỡ vội vàng xin phép nghỉ một tuần lễ về Đàlạt. Trước đứa con đầu lòng ngộ nghĩnh mới ra chào đời, nỗi hân hoan đầm ấm của đôi vợ chồng không sao tả xiết. Ông giáo hãnh diện được làm cha, cũng như Phượng vui mừng sung sướng từ nay đã lên địa vị một bà mẹ. Đêm ngày, đôi uyên ương lăng xăng ríu rít trong tổ ấm ngào ngạt huơng hoa, chung quanh đứa con quí báu mà thần Ái tình đã ban thưởng cho họ.

    - Xe anh đang chạy số hai lên đèo Chuối, vừa quẹo cua sắp sửa qua cầu. Anh bóp còi. Bỗng dưng một chiếc xe nhà binh tám bánh lù lù từ bên kia cầu vụt qua thật mau, đang quẹo cua mà không ôm tay phải, sắp đâm vào xe anh. Anh hoảng hốt, nhưng điềm tỉnh lại liền, bẻ tay bánh leo lên lề đường, cách miệng hố chỉ còn chừng ba phân tây. Tài xế xe nhà binh là một chú lính da đen, cũng giựt mình nhưng bẻ sang bên trái không kịp nữa. Chú vội thắng xe, chỉ cách một ly nữa là ủi vào xe anh. Còn một ly nữa là cả xe lẫn anh phải lăn nhào xuống hố. Chú lính da đen hoảng hồn lật đật mở cửa xe nhảy xuống, xin lỗi anh. Nhưng anh bình tĩnh, mỉm cười:

    - Không sao, chú đừng lo. Vợ tôi và đứa con trai của tôi đang chờ tôi về ăn Tết ở Đà lạt, vậy không có lý do nào tôi lại nhảy xuống đốt pháo ở dưới hố sâu nầy hôm nay!

    Mặt chú lính đầy vẽ sợ sệt, chú xin lỗi anh một lần nữa. Anh xuống xe để xem địa thế như thế nào. Chú lính cũng luống cuống, chạy tới chạy lui coi có cách nào cứu vãn xe anh bị kẹt giữa xe nhà binh và miệng hố. Anh bảo:

    - Chỉ có một cách. Anh coi chừng giùm cho tôi lái xe lùi ra sau.

    - Mạo hiểm quá, ông ơi!

    - Nếu không, anh phải lùi xe anh, thì đít xe chắc chắn là sẽ tống vào cột cầu. Không biết chừng chính anh sẽ nhảy dù xuống vực thẳm đa!

    Chú lính da đen xoay tròn cặp mắt trắng như hai hột vịt, ngó hai bánh xe của anh nằm sát trên bờ hố. Rồi chú ngó xe chú, chính chú cũng không hiểu chú đã lái cách nào mà để chiếc xe kết xù, to bằng hai thớt voi ở sở Thú, lại nằm chắn xiên đường cái, đầu xe gần ủi vào xe anh, đít xe sắp chỉa vào cột cầu xi măng. Chú lắc đầu, hổ thẹn. Anh leo lên xe rồ máy, và quây lại bảo chú lính đứng sau đít xe:

    - Chú ngó chừng nhé, nhưng đừng làm tôi hoảng hốt đấy!

    - Ông lùi nhẹ nhẹ... Nhẹ nhẹ... chút xíu nữa.... Qua bên trái một tí... một tí thôi... Nhẹ nhẹ... được rồi... Qua bên phải một tí... coi chừng... một tí thôi... Được rồi. Tuyệt! ông cừ lắm!

    Xe anh tụt khá xa xuống dưới dốc, để dư chỗ cho xe chú lính quẹo tay bánh tiến tới, và bẻ qua bên phải. Xong, anh lại sang số hai, vượt lên đèo. Đi ngang chú lính da đen, chú ngồi trong xe thò đầu ra, nhe hai hàm răng trắng phếu để cười và chào anh:

    - Chúc ông gặp may và xin gởi chào vợ ông và con trai ông!

    Anh cười chào lại.

    Phượng hồi hộp nghe. Ông Giáo vừa dứt lời, cô thở ra một hơi nhẹ nhàng, để tay trên ngực nhìn lên trần nhà:

    - Cảm ơn Trời Phật đã độ mạng cho chồng tôi!

    Nhưng Phượng lại âu yếm trách chồng:

    - Thế mà hôm Tết mình về đến nhà không nói cho em biết... Để đến hôm nay...

    - Anh không muốn nói vội, vì anh sợ mấy ngày Tết vui vẻ mình lại bị ám ảnh tai nạn xe hơi, giựt mình ngủ không ngon giấc. Anh không muốn đầu năm mình nằm chiêm bao thấy anh té xuống hố!

    - Sáng sớm mai, mình lại đi Sàigòn, em lo quá.

    - Chẳng lẽ anh lại chạm trán với chú lính da đen ấy nữa sao?

    - Nhưng em không yên tâm. Thôi, em muốn lần nầy về Sàigòn mình đăng báo tìm một người tài xế. Sàigòn xe cộ càng ngày càng nhiều, thường ngày em đọc báo thấy có lai nạn xe hơi hoài, em cứ lo sợ. Vả lại mình cũng thường về Đà lạt thăm em và thăm con, đường xá nguy hiểm lỡ gặp sự rủi ro, em biết làm sao? Mình chìu em một chút đi. Trên nầy em coi báo, khi nào được thấy lời rao tìm tài xế của mình, em mới vững lòng.

    Ông giáo cúi xuống hôn Phượng:

    - Vâng. Về Sàigòn anh sẽ đăng báo ngay. Còn ngày mai, mình cứ chúc anh bốn chữ: ‘‘ thượng lộ binh an’’ là anh sẽ bình an vô sự!


  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương VI
    VỪA xuống đến Sàigòn buổi trưa, chiều ông Giáo lái xe đến liền một tòa báo, thuê đăng lời rao vặt:

    ‘‘Cần một anh tài xế, biết giỏi máy móc, và có giấy chứng chỉ tốt.

    Hỏi số nhà... đường Testard buổi trưa hoặc tối.’’

    Ngay hôm đầu có báo đăng lời rao, đã có ba anh tài xế đến xin việc. Nhưng anh thứ nhứt có giấy chứng chỉ không được tốt lắm. Anh thứ nhì nói năn vô phép, có vẻ phách lối. Anh thứ ba mới thi được giấy phép lái xe hôm trước Tết, máy móc không biết gì. Kế tiếp đến mười anh nữa, nhưng ông Giáo không bằng lòng một anh nào cả.

    Trưa hôm sau, một chàng thanh niên đến gõ cửa. Ông Giáo mở cửa, hỏi:

    - Anh là tài xế?

    - Dạ, thưa ông, tôi có thấy trong nhựt trình đăng ở đây có cần một tài xế...

    - Phải. Anh có giấy phép lái xe, và giấy chứng chỉ của chủ cũ?

    - Dạ, thưa ông, tôi có.

    Chàng thanh niên lấy bóp rút ra hai thứ giấy cần thiết, hait ay kính cẩn đưa ông Giáo. Ông Giáo xem xong, gật đầu. Ông ngó chàng, nhận thấy một nét mặt hiền lành thật thà, và cử chỉ đàng hoàng lễ phép. Nhưng ông xem lại giấy tờ, hỏi:

    - Anh ở Đà nẵng à ? Và anh đã giúp việc chp nhà binh Pháp ở ngoải ?

    - Dạ. Thưa ông, tôi là người quê ở trong nầy, nhưng vì một trường hợp đặc biệt tôi đã học lái xe ở Đà nẵng, và vì vậy giấy phép lái xe của tôi được cấp tại sở Trường Tiên Đà nẵng.

    - Anh có thẻ căn cước không ?

    - Dạ, thưa ông có. Thẻ căn cước của tôi cấp tại Biên hòa.

    - Anh bao nhiêu tuổi ?

    - Dạ, thưa ông, năm nay tôi hai mươi bốn tuổi.

    - Anh cho tôi xem căn cước.

    - Dạ.

    Chàng thanh niên lại mở bóp lấy ra giấy căn cước, cầm hai tay cúi đưa ông Giáo. Ông vừa xem vừa hỏi :

    - Tên anh là Trần văn Tình ?

    - Dạ.

    - Trước kia anh làm thợ mộc trong đồn điền Cao su, ở Trảng Bom ?

    - Dạ.

    Ông Giáo thấy Trần văn Tình mới có hai mươi bốn tuổi, nét mặt hiền lành dễ thương, nhưng trong căn cước cấp tại Biên hòa đầu năm 1945 làm thợ mộc ở đồn điền Cao su, mà giấy phép lái xe thì do sở Trường Tiền Đà nẵng cấp năm 1948, và giấy chứng chỉ hạnh kiểm tốt và tài xế giỏi lại do Nhà binh Pháp ở Đà nẵng cho ngày 27 tháng 5. Ông Giáo hỏi:

    - Tháng 12 năm ngoái anh còn làm cho nhà binh Pháp ở Đà nẵng, sao bây giờ anh lại ở Sàigòn?

    - Dạ thưa ông, tôi thôi việc nhà binh Pháp, rồi sau có tàu chiến nhà binh vô Sàigòn, tôi xin đi theo.

    - Anh về đến Sàigòn đã lâu chưa?

    - Dạ, tôi về đếnSàigòn đúng ngày 25 tháng chạp ta năm ngoái.

    - Từ đó đến nay, anh giúp việc cho ai?

    - Dạ, thưa ông, hiện giờ tôi còn thất nghiệp.

    - Sao đang làm tài xế cho nhà binh Pháp ở Đà nẵng, anh lại xin thôi, về Sàigòn chịu thất nghiệp?

    Tình do dự trả lời:

    - Dạ..., Vì... tôi nhớ Saigòn quá, không thích ở Đà nẵng nữa.

    - Tôi hơi ngạc nhiên tại sao nhà binh Pháp lại dùng một thường dân như anh không phải là binh sĩ, làm tài xế? Anh có đi lính cho Pháp không?

    - Dạ... không.

    Tình luống cuống không biết trả lời cách nào cho suông sè. Ông giáo thì nghi Tình là một binh sĩ, đào ngũ ở Đà nẵng trốn về Sài gòn. Nhưng Tình đánh bạo nói:

    - Thưa ông, chuyện của tôi làm cho nhà binh Pháp ở Đà nẵng, nếu tôi kể cho ông nghe rõ thì hơi dài, sợ mất thì giờ của ông…

    - Không sao. Trước khi nhờ anh giúp việc cho tôi, tôi cần hiểu trước kia anh làm cho ai, và tại sao anh thôi. Anh kể tóm tắt cũng được. Không cần thuật rõ. Anh vào nhà.

    Ông Giáo quây lưng vào phòng khách, Tình rón rén bước theo sau. Ông ngồi xuống ghế, chỉ một chiếc ghế khác bảo Tình ngồi. Ông mỉm cười ngó Tình:

    - Tôi thích những cuộc phiêu lưu của tuổi trẻ. Anh kể sơ cho tôi nghe làm sao từ anh thợ mộc ở Biên Hòa anh trở thành tài xế cho nhà binh Pháp ở Đà nẵng? Rồi lại bỏ nhà binh Pháp ở Đà nẵng về Sài gòn?

    - Dạ, thưa ông, chẳng qua là vì thời buổi loạn ly mà ra cả. Tháng ba năm 1946 một buổi tối tôi đứng chơi với người anh em, nghe âm nhạc cải cách trước một rạp hát ở Biên hòa, bỗng dưng ba tiếng Iựu đạn nổ ngay trong tiệm cà phê bên cạnb. Bốn người lính Tây chết, ba hay bốn người lính Ma rốc bị thương nặng. Không biết là ai ném nhưng lập tức lính Pháp và thân binh ùa tới bao vây các nẽo đường chung quanh rạp hát, bố ráp dân chúng. Tôi bi6 bắt cùng với trên hai trăm người. Dẫn về đồn lính Pháp, sáng ngày sau xét giấy tờ, một trăm năm mươi người được tha về. Tôi bị giam lại với trên năm mươi người khác, toàn là thanh niên cả. Tôi không hiểu vì sao tôi không được tha. Tôi khóc lóc với ông quan ba rằng tôi vô tội, tôi không có ném lựu đạn, nhưng ông quan ba không nghe, giữ tôi lại làm ‘‘tù binh’’ với trên năm mươi an hem kia. Ba ngày sau họ chia chúng tôi làm hai kíp. Một kíp hai muơi ba người bị giải qua đồn lính Ma rốc, có lẽ là những anh bị tình nghi nặng hơn. Còn ba mươi người với tôi ở lại đồn lính Pháp để đào hầm và làm các việc lặt vặt trong đồn, không được ai đi ra ngoài. Cũng không được người nhà tới thăm viếng. Không được giao thiệp với một người Việt nào ở trong đồn cả. Ba tháng sau, một đêm tối, hai xe cam nhông nhà binh che kín mít, đến chở hết chúng tôi ra Vũng tàu. Có năm người lính nai nịt súng liên thanh và lựu đạn đi hộ tống ngồi hai bên kèm chúng tôi, Ra Vũng tàu, họ đưa chúng tôi xuống một chiếc tàu chiến Pháp rồi bốn giờ sáng tàu nhỗ neo ra biển. Xuống tàu, họ nhốt chúng tôi dưới hầm, có lính canh. Chúng tôi không biết họ đưa đi đâu, ai nấy đều hồi hộp lo sợ. Vài ba hôm sau. Tàu đậu trước một hải cảng mà chúng tôi không biết là nơi nào. Lính áp dẫn chúng tôi xuống bến. Tại đây có hai chiếc cam nhông nhà binh đợi sẵn, chở chúng tới đến một đồn lính Pháp trên một khoảnh đất to rộng, chung quanh rào giây kẽm gai. Bốn góc có bốn chòi canh bằng xi măng cốt sắt. Trong lúc xe chạy qua các đường phố, chúng tôi ngó ra ngoài thấy vài ba tấm bảng chỉ địa điểm, mới biết đây là thành phố Đà nẵng.

    Ở đồn binh Đà nẵng, vài tháng đầu chúng- tôi còn bị giam, nhưng lần lần về sau họ để cho được đôi chút tự do. Riêng phần tôi nhờ hồi trước có học thi bằng tiểu học, biết chút ít tiếng Pháp, nên tôi được ông quan ba chỉ huy đồn tin dùng làm việc vặt trong nhà ông. Lúc đầu ông sai tôi làm cỏ trong các bồn bông trước sân. Sau ông bắt tôi quét dọn gara và lau xe. Tôi bắt đầu làm quen với anh lính Pháp tài xế của ông, tên là Jean. Anh nầy lại là một thợ máy chuyên môn sửa chữa xe hơi. Ông quan ba cho phép anh dùng tôi làm cu li để anh sai khiến. Nhờ nói được chút ít tiếng Pháp, và có lẽ cũng nhờ tính nết của tôi thật thà vui vẻ tôi được anh Jean tin cậy và thương mến. Thấy tình thế trong đồn khó mà thoát ly trốn được ra ngoài và sự đối đãi của binh lính với ‘‘tù binh’’ cũng không khắc khổ lắm, riêng tôi được sự tin cậy của ông quan ba và anh Jean, tôi quyết chí lợi dụng thời gian bị giam hãm ở đây để học nghề thợ máy xe hơi. Nhờ sự chăm chỉ tập sự, lần lần tôi hiểu hết các bộ phận trong máy và bắt đầu tập lái xe ngay chung quanh sân đồn, sau hàng giây kẽm gai. Chỉ trong mười ngày tôi đã tự lái xe được, lần đầu là xe jeep, traction, rồi đến xe hạng nặng. Ông quan ba thương tôi và khen tôi sáng trí học hiểu mau biết. Trong thời gian hai năm tôi tự mình lái được xe nhà và cả xe cam nhông nhà binh, như một người tài xế giỏi thiệt thọ. Nhờ sự giới thiệu của anh binh sĩ Jean, tài xế của ông quan ba, tôi được dự thi lấy bằng lái xe, và được sở Trường tiền Đà nẵng cấp bằng, hồi tháng sáu năm 1948.

    Tôi cũng quen thạo các máy móc và anh lính Jean cho tôi tự sửa chữa các xe bị hỏng máy dưới sự coi ngó và chỉ bảo của anh. Nhiều chiếc xe bị panh đem về xưởng, anh lính Jean bận việc, giao tôi tự sửa lấy, và tôi hãnh diện vui sướng đã thành công nhờ sự kiên nhẫn của tôi. Sau bốn năm chung đụng hằng ngày trong đồn binh, ông quan ba xét thấy là tôi đã bị bắt oan. Với cảm tình cá nhơn của ông đối với tôi, ông khuyên tôi sung vào quân đội Liên hiệp Pháp để làm tài xế cho ông và ông hứa sẽ tiến cử tôi mau lên cấp bực. Nhưng tôi nói thật với ông rằng tôi nhớ nhà quá, vì bốn năm tôi xa cách mẹ cha không tin tức. Sẵn dịp lễ Nô en, tôi khóc lóc xin ông trả tự do cho tôi, để tôi được về Biên hòa thăm cha mẹ. Vốn người nhơn từ rộng lượng, và hiểu lòng thành thật của tôi, ông quan ba thả tôi ra. Hơn nữa, chính ông vui lòng cấp cho tôi giấy chứng chỉ tốt, coi tôi như người giúp việc thật sự của ông vậy, chớ không phải ‘‘tù binh’’. Sẵn có chiếc tàu từ Đà nẵng về Sài gòn, ông quan ba giới thiệu tôi được quá giang về đây. Tôi vui sướng thấy rằng trong đoàn chúng tôi cả thảy ba mươi anh em, có hăm lăm anh cũng được trả tự do và cùng về với tôi một chuyến tàu. Còn năm anh ở lại Đà nẵng sanh sống, trong đó một anh làm thợ hớt tóc, hai anh làm thợ máy và hai anh làm thư ký cho một nhà hàng.

    Ông giáo cười vui vẻ:

    - Thế mới biết ở đời chuyện rủi có khi là chuyện may. Anh bị bắt đi ở tù, đó là chuyện rủi. Vì ở tù mà anh học được nghề tài xế và thợ máy xe hơi, đó lại là chuyện may!

    - Dạ thưa ông, nhưng chuyện may cũng lại là chuyện rủi! Vì, khi tôi được trả tự do, về quê nhà thì được thấy làng tôi ở một khu rừng hẻo lánh đã bị đốt phá từ năm 1946 và cha mẹ tôi đã thất lạc đâu rồi

    - Ủa! Thế thì anh chưa gặp được gia đình của anh sao?

    - Dạ thưa ông, chưa. Tôi có về tìm một bà Dì ở Biên hòa để hỏi tin tức nhưng bà đã chết. Người con trai một của bả đã đi hai năm nay, sau khi bán nhà cho người khác.

    Ông giáo rất thương hoàn cảnh của anh Tình, tài iế thất nghiệp. Ông lại hỏi:

    - Anh làm sao tìm Ba má anh?

    - Thưa ông, tôi định tìm những người bà con quen biết cũ, để dò hỏi. Tôi đoán là Ba má tôi nếu không bị tai nạn trong lúc xóm nhà của tội bị đốt rụi, thì cũng dọn về ở Biên Hòa hay Sàigòn. Nhưng tôi ở Đà nẵng về đây chưa gặp được ai. Cha tôi trước chiến tranh làm Đồn điề, cao su ở Trảng bom, tôi có lên đó hỏi thì Ba tôi không làm ở đấy nữa. Thưa ông, hiện giờ tôi thất nghiệp, trong túi không còn đồng xu nào, nên dù có muốn đi tìm kiếm gia đình tôi cũng khó quá. May sáng nay đọc nhựt trÌnh thấy ông cần tài xế nên tôi hỏi đến làm hầu ông. Tôi định có công ăn việc làm cho yên, rồi tôi mới dò hỏi tin tức để tìm Ba má tôi và vợ tôi.

    - Vợ anh cũng thất lạc à?

    - Dạ, thưa ông, vợ tôi chưa cưới. Còn hai tháng làm lễ thành hôn thì tôi bị bắt, thành ra đôi bên cách biệt, không ai được tin tức của ai trong bốn năm nay.

    - Vì sao vợ anh thất lạc?

    - Dạ, vợ tôi cũng ở một xóm với tôi, nhà cửa cũng bị đốt rồi không biết cô ấy lưu lạc nơi nào.

    Ông Giáo lắc đầu, chắc lưỡi, tỏ vẽ rất thương hại anh tài xế còn trẻ tuổi:

    - Tội nghiệp anh quá! Hiện giờ anh ở đâu?

    - Dạ, thưa ông, tôi ở tạm nhà một người thợ hồ ờ Bàn cờ, quen với tôi hồi còn làm chung trong sở cao su.

    Ông Giáo, tính nhân từ phúc hậu, hay thương người đau khổ, giúp kẻ bần hàn, nay nghe anh tài xế Tình kể rõ nỗi đoạn trường như thế, ông rất cảm động, và thương mến vô cùng, ông đứng dậy trả giấy tờ cho tài xế và bảo:

    - Được. Chiều nay anh dọn đến đây. Lương của anh mỗi tháng hai ngàn đồng, cơm ăn, nhà ở. Ngày hai buổi, anh lái xe cho tôi đến trường và đưa tôi về nhà. Ngoài ra, anh được rảnh rang, tự do làm gì thì làm. Xe tôi còn mới, máy móc tốt, khỏi sửa chữa gì, chỉ mỗi tuần anh chịu khó lau dầu lại một lần là được. Trước kia tôi cũng có chiếc Citroën. Vì tôi thích traction, hơn các kiểu mới bây giờ.

    Ông giáo thấy áo quần anh tài xế rách vá và đôi giầy lính tây cũ cũng vá, liền rút bóp trong túi áo lấy ra hai ngàn đồng đưa anh:

    - Đây không phải là tiền lương của anh. Tiền lương, cứ cuối tháng tôi mới trả, số tiền này, la tôi biếu riêng anh để anh mua sắm vài bộ áo quần mới giày mới, và để anh có tiền túi xài vặt đến cuối tháng. Số tiền nầy là tôi biếu hẳn anh, chớ không phải cho anh mượn trước rồi trừ vào tiền lương tháng của anh đâu.

    Tình vô cùng cảm động. Vì tấm lòng tốt rất cao thượng của ông chủ mới. Anh do dự chưa dám nhận tiền. Nhưng ông Giáo nhã nhặn vui vẻ đặt hai ghim bạc mới tinh trong bàn tay anh tài xế:

    - Anh cất tiền, đừng ngại. Chiều nay, năm giờ, anh đến ở đây. Anh ăn cơm với bà xẩm già và chị bếp. Anh ở căn phòng tài xế, cạnh ga ra. Chừng nào anh tìm được vợ anh, tôi sẽ cho phép anh đem chị ấy về ở chung với anh cho vui.

    Tình cúi đầu vâng lời ông chủ, nhưng không biết nỗi cảm ơn cách nào cho xứng đáng vì anh thấy ông chủ tử tế quá và nhơn từ phước đức ít ai bằng. Anh chỉ lẩm bẩm được mấy lời:

    - Thưa ông chủ, ông chủ có lòng thương và bao bọc giùm kẻ thất nghiệp như tôi, thật tôi không biết nói gì để tỏ lòng biết ơn của tôi... Tôi xin hứa sẽ tận tâm làm hầu ông chủ, để xứng đáng lòng thương rộng lượng của ông chủ.

    Ông Giáo cười thân mật vỗ vai anh tài xế tiễn anh ra cửa, và bắt tay anh.

    Tình bước lui vài bước, còn quây lại chấp tay lên ngực, cúi đầu chào.

    °

    5 giờ chiều ông Giáo lái xe từ trường học về nhà thì đã thấy anh tài xế đứng chờ trước cửa ga ra. Tình lễ phép chào. Ông Giáo xuống xe vui vẻ bắt tay anh:

    - Đồ đạc của anh đâu?

    - Dạ thưa ông, tôi không có đồ đạc.

    - Không có va-li, rương?

    - Dạ không.

    - Anh phải mua một cái để đựng đồ... Anh đã thấy phòng riêng của anh chưa?

    - Dạ chưa

    Ông Giáo dẫn Tình đi qua trước cửa ga ra, vòng bên hông, có hai gian phòng. Một gian là kho để đồ vặt, và một gian trống. Ông lấy chìa khóa mở gian này:

    - Đây, phòng tài xế, là phòng của anh. Có sẵn giường, tủ, bản, ghế, đèn điện. Phòng nầy vừa hai người ở. Tôi giao chìa khóa anh giữ. Muốn xuống bếp, anh đi thẳng sân nhỏ nầy vòng ra sân sau. Anh đi về tự do.

    Ông Giáo trở ra ga ra, Tình theo sau. Ông bảo:

    - Đây, chìa khóa nhà xe, tôi cũng giao cho anh. Tôi đã có riêng một chìa khác. Bây giờ anh cho xe vào, rồi về phòng nghỉ.

    -Dạ

    Tình mở cửa xe vào ngồi, cầm tay bánh, mở xăng, nhẹ nhàng rồ máy, lái xe từ từ cho vô ga ra,

    Ông Giáo đứng ngoài xem, bằng lòng và tin cậy. Rồi ông vô nhà.

    Tám giờ tối, ông ngồi bàn giấy viết thư cho vợ.

    Saigon, 7-7-1957.

    Phượng yêu dấu của anh,

    Chắc mình đã thấy lời rao cần tài xế, đăng trong báo hai kỳ rồi ngưng. Anh đã dùng một ank tài xế còn trẻ tuổi, có giấy chứng chỉ tốt của nhà binh, người hiền lành, thật thà, và lễ phép. Anh ấy đã dọn đến ở và bắt đầu nhận việc từ chiều nay. Anh rất sung sướng nghĩ rằng được tin này chắc mình yên lòng.

    Anh nhớ mình và nhớ con lắm. Anh hãnh diện mỗi khi nhìn bức họa tuyệt đẹp mà nét bút huyền dịu của một bà mẹ tài hoa, đã phác họa hình dung của đứa con trai yêu quý. Bao nhiêu âu yếm đắm say trong các màu sắc linh động kia! Anh tưởng tượng như mình vẽ hình ảnh của con bằng hơi thở thơm tho của mình, mình tô điểm nụ cười của con bằng hương phấn huyền mơ trong nụ cười của mình.

    Anh đã tự tay anh lồng kiến và đặt bức họa trong một khung vàng, treo nơi bàn giấy ngay trước mắt anh, như ý mình muốn. Những đêm ngày, giờ phút, của anh ở trong gian nhà nầy, và ở giữa Sàigon quạnh hiu vắng vẻ nầy, đều tràn ngập những hương thơm và màu sắc rạo rực, đê mê, của nét bút mình, của hơi thở mình, của nụ cười mình của Tình yêu thiêng liêng ôm ấp cả bầu trời.

    Đêm nào, ngày nào, mơ tưởng của anh cũng bay về Đà lạt. Chỉ lúc sáng dậy, anh mở mắt nhìn chung quanh mới sực nhớ rằng anh đang sống ở Sài gòn.

    Sàigon là một bãi sa mạc minh mông, vô tận, vô biên. Anh là một lữ khách đi lang thang tháng ngày trong vắng lặng. Nhưng xa xa, xa xa, nơi đồi thông xanh thẳm mịt mờ, Mình và con là ánh mộng chập chờn trước nhãn tuyến của anh. Mình và con, là nguồn suối đào tiên, mát mẻ, dịu dàng, để tâm hồn anh về đây cảm thông cùng mây gió.

    Về đây? Biết bao giờ anh lại được trở về nữa, bên cạnh mình và con? Còn một tháng thì đến lễ Hai Bà Trưng, trường anh được nghỉ hai ngày. Nhưng một tháng, còn lâu quá! Một tháng là ba mươi ngày và ba mươi đêm xa cách mình và con! Anh hồi hộp đợi chờ từ nay cho đến ngày mồng sáu tháng hai, lễ hai bà Trưng. Lần nầy anh về, chắc mình vững dạ, vì đã có anh tài xế. Mình sẽ khỏi lo anh rơi

    xuống đèo Chuối! Dù sao, anh cũng tin rằng Thần Hộ mạng của anh chính là mình và con, cho nên riêng anh không bao giờ lo ngại những rủi ro dọc đường.

    Mỹ Phượng yêu quý, anh vừa để bút xuống bàn nhắm mắt tưởng tượng anh ôm chặt mình vào lòng, anh đặt trên môi mình một nụ hôn say mê, đắm đuối, rất lâu... rất lâu... vô cùng tận... Và anh gởi con một nụ hôn âu yếm của Ba.

    TRẦN-TẤT-BẢO.

    Tám giờ sáng hôm sau, Tình lái xe đưa ông Giáo đi dạy học. Đến cổng trường, ông mở cặp da, lấy phong thư chưa dán con niêm, và hai đồng bạc đưa Tình:

    - Anh ra nhà giây thép mua tem dán thư, bỏ thư vào thùng, rồi mười giờ đem xe trở về dây, tôi đi dạy trường khác.

    - Dạ.

    Tình lái xe đi. Đến sở bưu điện anh vào mua tem. Trong lúc dán tem lên góc phong bì, anh thấy tên người nhận thư và địa chỉ:

    Bà TRẦN-TẤT-BẢO

    Biệt thự MỸ PHƯỢNG

    Đường Prenn

    ĐALAT

    Anh tủm tỉm cười, nghĩ thầm:

    - Mỹ Phượng? Cái tên Biệt thự cũng giống tên vợ mình quá nhỉ!

    Anh không có một chút nghi ngờ rằng Mỹ Phượng chính là vợ ông Giáo. Anh vui vẻ, tự nhiên, lái xe ra chợ Bến thành, tìm chỗ may vài bộ quần áo mới và mua một đôi giày với số tiền hai ngàn đồng mà ông Giáo tử tế đã cho anh.

    °

    Ông Giáo thật bằng lòng anh tài xế trẻ tuổi của ông,rất hiền lành, thật thà, lễ phép, anh không hề có những cử chỉ cộc cằn hoặc ngôn ngữ thô lỗ. Anh rất tận tâm, cần mẫn trong việc săn sóc chiếc xe của chủ. Anh lái xe thận, không chạy ẩu, không qua mặt láo xược, lúc nào cũng tôn trọng luật lệ đi đường. Với anh, ông Giáo không lo sợ tai nạn.

    Được một điều tốt nữa khiến ông Giáo rất mến anh, là anh không hay sà đà nhậu nhẹt, không uống rượu, không chơi bời lêu lỗng, không cờ bạc. Ông Giáo mến chuộng những người thanh niên có tư cách như vậy.

    Anh vào làm cho ông chiều ngày 17 tháng Hai dương lịch, đến cuối tháng hai mới được mười hai ngày, nhưng ông trả đủ lương tháng cho anh hai ngàn đồng. Với số tiền ông đã cho riêng anh để giúp đỡ anh trong khi thất nghiệp, anh chỉ sắm ba áo sơ mi trắng, và ba quần vải xanh lao động, mặc vừa đủ sạch sẽ, đứng đắn, xứng đáng là anh tài xế của ông Giáo sư. Giày, thì anh mua hai đôi giày cũ đóng lại tạm coi được thôi. Ngoài ra, anh không tiêu xài hoang phí. Anh để dành tiền là mong một ngày tìm lại được cha mẹ và cô vợ sắp cưới, Mỹ Phượng. Với tiền tiết kiệm, anh hy vọng sẽ cưới Phượng đàng hoàng và sắm thêm cho Phượng vài ba áo hàng. Anh tin rằng không sớm thì muộn anh cũng sẽ tìm lại được Phượng. Anh chắc chắn Phượng chưa lấy chồng khác và cũng đang đau đớn chờ đợi anh. Nhiều đêm trằn trọc, anh nằm chèo queo trên chiếc giường cô độc trong phòng tài xế ở nhà ông Giáo, anh tự nhủ thầm: ‘‘Chiếc áo cưới màu hồng của mình tặng Phượng, chắc Phượng chưa mặc lần nào chắc Phượng chờ ngày cưới sẽ mặc cho mình coi.’’ Nhớ Phượng, Tình buồn rầu không xiết. Anh than thở’: ‘‘Nếu mình nghe lời Phượng bữa đó mình đừng đi Biên hòa, thì đâu có xẩy ra chuyện biệt ly đằng đẵng bốn năm! Nhưng thôi, chuyệu cũ đã qua, nhớ lại chi cho thêm não lòng! Mình chỉ thương Phượng, chắc bốn năm qua Phượng âm thầm đau đớn lắm! Tội nghiệp Phượng quá! Không biết ngày giờ nầy Phượng ở nơi nào? Phượng đang làm gì? Phượng đâu có biết mình đã về Sài gòn, và đang tìm kiếm Phượng?... Phượng ơi! Anh đang kiếm em khắp hang cùng ngõ hẽm mà chẳng gặp em! Làm sao anh biết em ở đâu để anh chạy tới, anh ôm em và khóc với em?

    Phượng ơi! Em thương nhớ anh, đau khổ vì anh, bỏ ăn bỏ ngủ, chắc ngày nay em gầy ốm lắm phải không em? Phượng ơi! Phượng ơi! Em ở đâu? Em còn sống, hay em đã chết? Em vui hay em buồn? Em ơi I Em!’’ Nghĩ đến đó, Tình ngồi nhỏm dậy trên giường, ôm mặt khóc âm thầm trong đêm vắng. Tình muốn kêu lên một tiếng thật to: ‘‘Phượng ơi!’’ nhưng đêm khuya phẳng lặng, anh chỉ nấc lên một hơi, rồi gục đầu xuống thổn thức, nước mắt chảy đầm đìa trên gối chiếc. Hình ảnh của Phượng hiện ra trước mắt anh trong đêm tối, buồn bã âu sầu. Mệt lả, anh nằm co ro xuống chiếu, thiêm thiếp ngủ, nhưng hình ảnh Phượng vẫn chập chờn trong chiêm bao, Tình vẫn ôm ấp trong tương tư giấc mộng của chiếc áo cưới màu hồng … phất phơ trong nắng sớm…


  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương VII
    SÁNG hôm thứ Bảy trước ngày lễ Hai Bà Trưng, khác mọi ngày thường, ông Giáo cho gọi anh tài xế lúc bảy giờ. Tình vừa mới tỉnh dậy vội vàng thay đồ rồi chạy lên nhà. Cửa phòng khách đã mở. Anh vào đứng đợi. Anh nghe từ trong phòng giấy kế cận, tiếng ông Giáo gọi vọng ra

    - Anh tài đó phải không?

    - Dạ.

    - Anh vô đây.

    Lần đầu tiên, Tình được ông chủ kêu vô văn phòng của ông. Ông đang ngồi bàn giấy, soạn nhiều đồ lặt vặt bỏ vào cặp da.

    Ông quây lại bảo anh:

    - Hôm nay chúng ta đi Đà lạt. Anh sắp đặt tám giờ đi. Bây giờ anh lái xe ra chợ mua bánh mì lạp xưởng và bốn chai limonade, để dùng dọc đường. Nếu anh có quen biết ai ở Đà lạt, muốn mua chút ít quà lên biếu, thì mua luôn. Đây, tôi đưa anh một trăm đồng. À, anh nhớ mua cho tôi một kí chả lụa thiệt ngon. Nhà tôi thích chả lụa lắm.

    - Dạ.

    Tình cầm tấm giấy một trăm, chào ông, đi ra. Nhưng anh vừa bị một ngạc nhiên đau đớn mà anh chưa trấn tĩnh được. Lúc anh mới bước vào văn phòng của ông chủ và đứng sau lưng ông, thì bỗng dưng anh trông thấy trên tường, ngay trước mặt anh, một bức họa hình dung đứa con mới sanh, dưới có một giòng chữ:

    Tặng chồng yêu quý của em

    và ký tên: MỸ PHƯỢNG

    Tự nhiên, anh choáng váng, xẩm mày xẩm mặt. Cũng may là ông Giáo không để ý đến điệu bộ bối rối đột ngột của anh, Lúc ra đi, anh đụng mạnh một cái ghế lớn giữa phòng khách, anh giựt mình, nhưng hình như ông Giáo cũng không hay biết gì. Không nghe ông hỏi. Tình vừa đi ra cửa, vừa hỏi thầm: ‘‘Vợ ông Giáo cũng tên là Mỹ Phượng sao?... Mỹ Phượng khác, hay là Mỹ Phượng của mình?’’ Nhưng Tình lắc đầu, tự nhủ: ‘‘ không có lý! Chắc bà giáo là cô Mỹ Phượng nào khác.’’

    Tình tủm tỉm cười: ‘‘ Tại mình thương nhớ vợ mình quá nên vợ người ta mà mình tưởng lầm là vợ mình! Vô lý!’’ Tình đủng đỉnh ra mở cửa nhà xe, lái xe ra chợ.

    Ngồi trong xe, anh lại suy nghĩ: ‘‘ Minh không quen biết ai ở Đà lạt... Biết mua quà cho ai bây giờ?... Ông Giáo tử tế thật. Ông lo giùm cho mình. Nhưng lâu năm mình không có dịp nào lên Đà lạt, nếu có quen biết ai, chưa chắc họ còn ở đó! À... chị Tư Lò Gạch! Phải rồi, chị Tư Lành ở đường Lò Gạch, hồi trước quen với gia đình mình mà cũng quen với gia đình Phượng... Lạy Trời, chị Tư Lành còn ở đường Lò Gạch! Nếu chị Tư còn ở chỗ cũ, mình hỏi tin tức ông già bà già mình, và tin tức gia đình Phượng, có lẽ chị biết! Có lẽ..., nhưng đâu có chắc được?’’.

    Bỗng Tình thắng xe cái ‘‘kít’’. Anh vừa giựt mình thấy xe anh toan vượt qua một ngả tư không nhường cho chiếc xe khác từ bên tay phải phóng ngang qua, xuýt đâm vào xe anh. Anh tài xế xe kia trừng mắt chộ anh với một câu: ‘‘Mù à?’’ Anh làm thinh, không trả lời. Nhưng anh không dám nghĩ vẩn vơ nữa, chăm chú chạy ra chợ.

    Lúc trở về đến nhà mới bảy giờ hai mươi.

    Sửa soạn xong, tám giờ khởi hành. Tình lái. Ông Giáo ngồi cạnh Tình, còn ghế sau để đồ đạc. Ông Giáo nói:

    - Lễ Hai Bà Trưng, tôi chỉ được nghỉ một ngày thứ Bảy, nhờ có ngày Chúa nhựt nên được hai ngày. Tôi phải xin nghỉ thêm ngày thứ Hai nữa, là ba ngày. Vậy, chúng ta chỉ ở Đà lạt chiều nay, và ngày chú nhật, rồi sáng thứ Hai phải về Sàigon.

    - Dạ.

    Tình ‘‘dạ’’ như cái máy, vì trí óc anh không sao hết lẩn vẩn những ý nghĩ hoang mang về tên ký ‘‘Mỹ Phượng’’ trên bức họa đứa nhỏ mới sanh, ở nhà ông chủ. Lên khỏi Thủ đức, Tình hãy còn nghiền ngẫm mấy câu tự hỏi và mấy câu tự trả lời trong đầu óc: ‘‘có lẽ nào Mỹ Phượng của mình lại lấy ông Giáo? Hai người trước kia đâu có quen nhau. Ông Giáo ở Sài gòn, Đà lat, hai nơi phồn hoa đô hội hiếm gì các cô tiểu thơ, còn Phượng ở Tân phú, một xóm nhà lụp xụp ở khu rừng hẻo lánh, làm sao hai người gặp nhau được? Huống chi ông Giáo là một người làm lớn, địa vị giàu sang, ông đâu có thèm lấy một cô gái nghèo nàn quê mùa như Phượng?... Vô lý! Mình nghi ngờ bậy bạ, oan cho Phượng của mình! Đâu có phải riêng gì vợ mình mới có tên là Mỹ Phượng? Biết đâu ở Sài gòn, Đà lạt, còn có nhiều cô Mỹ Phượng khác nữa? … Nhưng …Mỹ Phượng… Mỹ Phượng sao lại có sự trùng tên kỳ cục vậy kìa?

    Thấy Tình trầm ngâm, ông Giáo hỏi:

    - Anh suy nghĩ gì mà coi bộ băn khoăn dữ vậy?

    Tình giựt mình, đáp:

    - Dạ, không ạ.



    Ông giáo hỏi đùa:

    - Nhớ vợ?...

    - Dạ, không ạ

    - Anh đã dọ hỏi tin tức Ba má và vợ anh chưa?

    - Dạ, tôi đã dọ hỏi nhiều nơi nhưng chưa tìm được.

    - Sao anh không đăng báo?

    - Thưa ông, đăng báo cách nào ạ?

    - Như tôi đã đăng kiếm tài xế hồi tháng trước đó. Anh đang thất nghiệp đâu có biết là tôi cần dùng một người tài xế, cũng như tôi đâu có biết anh là ai, nhưng nhờ anh coi mấy lời của tôi rao, trên mặt báo anh mới biết tìm đến tôi. Bây giờ anh muốn kiếm vợ anh không biết thất lạc nơi nào, thì anh nhờ nhà bào đăng mấy câu, có ngày vợ anh đọc báo, biết chỗ anh ở sẽ kiếm đến anh.

    Tình nghe ông Giáo nói có lý. Chuyện đăng báo. từ trước đến giờ anh đâu có hiểu. Anh hỏi thêm cho rõ để khi về Sàigòn, anh sẽ nghe lời ông chủ:

    - Dạ thưa ông, như tôi muốn gặp vợ tôi, thì tôi đăng cách sao để gặp được?

    - Đại khái anh rao lên mặt báo như thế nầy:

    Vi chiến tranh, vợ tôi thất lạc 4 năm nay, bà con cô bác ai biết tin tức xin mách dùm. Đa tạ.

    TRẦN-VĂN-TÌNH

    ở nhà ông Giáo TRẦN-TẤT-BẢO

    Biệt thự MỸ PHƯỢNG

    đường Prenn - ĐÀ LẠT

    hoặc đường Testard - SÀI GÒN.

    May ra có một ngày vợ anh đọc báo thấy lời rao như thế liền tìm đến biệt thự Mỹ Phượng ở Đà lạt để gặp anh, hoặc đường Testard, Saigon.

    - Dạ, lần nầy về Sài gòn, chắc tôi phải đăng báo, may ra tìm được tin tức vợ tôi chăng?

    - Anh cứ đăng như thế, không tốn tiền bao nhiêu đâu.

    - Dạ

    Tình mừng được ông giáo chỉ vẽ cho việc đăng báo, nhưng Tình cũng buồn bực mỗi lần nghe đến tên ‘‘Mỹ Phượng’’. Tình lại trầm ngâm, suy nghĩ: ‘‘Lạ thiệt! Vợ mình tên Mỹ Phượng. Vợ ông Giáo cũng tên Mỹ Phượng! Chỉ trùng tên không thôi, cũng đã lạ rồi, nếu mà trùng vợ nữa thì mình có nước tự tử mất! Chuyện nầy kỳ cục quá, nghĩ mãi không ra!’’.

    Tình bối rối bỗng lạc tay bánh xuýt đâm xe vào một chiếc xe chở gỗ. Ông Giáo nói đùa:

    - Anh làm tôi hết hồn!

    - Dạ, tại chiếc xe bò đi kỳ quá.

    Qua khỏi Trảng bom, Tình lại hoang mang nghĩ ngợi. Anh ăn năn tự trách anh: ‘‘Mình cứ nghĩ vớ vẩn hoài! Mỹ Phượng của mình mà lấy ông giáo là chuyện vô lý không thể tưởng tượng được. Tại sao mình nghi ngờ bậy bạ? Ừ mà mình quên một điều quan trọng, là Phượng của mình đâu có phải là Họa sĩ! Phượng làm gì vẽ được bức họa xinh đẹp treo nhà ông chủ? Hồi Phượng đi học ở Đà lạt là một cô nữ sinh tiểu học, cũng đã có khiếu vẽ rồi nhưng sau về rừng, sống bên góc núi, có bao giờ Phượng thích tập vẽ đâu! Mình có bao giờ thấy Phượng họa những bức tranh như họa sĩ đâu! Thôi! Thôi! Đừng có nghĩ lẩn quẩn nữa! Lên Đà lạt rồi sẽ biết!...’’

    Tình nóng lòng cho xe chạy vùn vụt trên đường núi. Sẵn đường vắng xe, Tình thả ga, phóng một trăm hai chục cây số một giờ. Xe chạy bon bon như nuốt trững con đường dài thăm thẳm. Ông Giáo tủm tỉm cười:

    - Anh muốn đốt giai đoạn, hở anh tài?

    Nghe ông Giáo rầy một cách nhã nhặn, Tình tốp bớt, cho xe chạy còn độ một trăm cây số giờ.

    Nhưng từ Tân phú, nơi làng cũ của Tình và Phượng nay đã cháy rụi, chỉ còn lại mấy đống tro tàn, Tình bỗng đạp ga phóng lên thật nhanh Đôi mắt lờ mờ như chim trong đám sương mù, Tình cho xe chạy vùn vụt như gió bão. Tình có cảm giác lạ lùng cố đuổi theo cho kịp hình ảnh của Phượng cứ chờn vờn trước mắt anh, cứ chạy lùi mãi trước tấm kiến xe hơi, nhưng anh đuổi theo hoài mà không bắt được. Có phải bóng Phượng đang chạy trong đám sương mù ở phía trước kia không?...Tình quá tưởng tượng vì Tình quá đau khổ, nhưng sự thật là chính Tình đang khóc. Đôi mắt Tình ràng rụa nước mắt … Chiếc xe lảo đảo trên con đường đèo dốc quanh co…Bỗng xuống một khúc quanh, Tình vội thắng xe: một tiếng ‘‘kít!’’. Ông Giáo đang ngồi ngủ lim dim, giựt mình tĩnh dậy, ngó ra đường:

    - Sao đó, anh tài?

    Ông kinh ngạc thấy xe vừa ngưng kịp bên đầu cầu, mũi xe sắp ủi vào cột cầu, và sắp chúi xuống một bờ suối lỏm chỏm những tảng đá.

    Ông lặng lẽ ngó anh tài xế. Ông càng ngạc nhiên thấy đôi mắt anh đầm đìa những lệ, Tình không nóỉ được nửa lời, hai tay ôm tay bánh, gục đầu xuống khóc nức nở.

    Ông giáo không hiểu lý do vì sao xe đang chạy ‘‘ngon trớn’’, không có gì trở ngại mà tự nhiên xuýt va phải đầu cầu? Anh tài thắng kịp để xe khỏi rớt xuống suối, thật là một sự may mắn vô cùng, ông cũng không hiểu anh tài có tâm sự buồn khổ thế nào mà khóc sướt mướt trong lúc đang lái xe chạy trên con đường khúc khỷu giữa núi rừng? Nhưng ông là người rất lịch sự, ông không muốn rầy la anh tài xế đã đau khổ của ông. Ông cũng không tỏ vẻ giận dỗi hay bất bình. Ông chỉ nói:

    - Trí óc anh hôm nay không được yên tỉnh. Hay là đi đường núi không quen, anh bị chóng mặt. Thôi, anh nên ngồi nghĩ. Để tôi lái.

    Tình lau nước mắt. Ăn năn vì đã làm phiền ông chủ và cảm kích lòng tử tế của ông, anh lễ phép nói:

    - Dạ ông để tôi lái.

    - Tôi quen đường Đà lạt rồi, anh cứ trao tay bánh cho tôi. Vả lại anh đã chạy trên một trăm mấy chục cây số.

    Ông giáo đổi chỗ cho tài xế. Ông lùi xe ra giữa đường, rồi sang số qua cầu.

    Đợi một lát anh tài bình tĩnh trở lại, Ông hỏi chuyện để anh khuây khỏa:

    - Tại sao lúc nãy anh khóc, anh tài?

    Tình thành thật đáp:

    - Dạ, tôi nhớ ba má tôi và vợ tôi.

    Ông giáo khen anh:

    - Người con có hiếu và người chồng trung thành như anh, ít có lắm đấy.

    Một lát, ông lại hỏi:

    - Anh năm nay mấy tuổi?

    - Thưa ông, tôi hai mươi bốn tuổi.

    Qua một khúc quanh, ông lại nói:

    - Hai mươi bốn tuổi, một thanh niên như anh đáng lẽ phải có cuộc đời vui vẻ trẻ trung, chớ sao lại tâm sầu thê thảm? Tôi cũng hai mươi bốn tuổi mới có vợ lần thứ nhứt. Nhưng được một năm, vợ tôi chết. Anh thử tưởng tượng một người thanh niên như tôi, mới hai mươi lăm tuổi đã phải chịu tang vợ, một người vợ trẻ đẹp đã đem lại hanh phúc cho tôi! Nhưng tôi chỉ đau khổ một thời gian, rồi tôi phấn đấu... Tôi tự phấn đấu với tôi, đã chịu biết bao nhiêu kiên nhẫn và bao nhiêu hy sinh. Ngày nay tôi sung sướng, bở vì tôi đã thắng. Anh cũng nên theo gương tôi, anh tài à! Anh nên có can đảm

    Thấy anh đang ở trong tình thế đau khổ đáng thương, tôi rất cảm động. Một người con thất lạc cha mẹ, một người chồng bị ly biệt với cô vợ mến yêu, đó là một hoàn cảnh rất não nùng thê thảm. Tôi hiểu tâm sự anh bây giờ xót xa vô kể. Nhưng anh phải cố gắng tự phấn đấu với số kiếp của anh, để thực hiện ý nguyện của đời anh. Anh phải kiên nhẫn, không cần than khóc làm chi, kiên nhẫn tìm ba má anh và vợ anh. Kiên nhẫn xây dựng lại tổ ấm của gia đình

    - Dạ. Thưa ông, ông có lòng thương khuyên bảo tôi, tôi xin vâng lời. Tôi cố gắng tìm lại ba má tôi và vợ tôi, thì đời tôi mới có hạnh phúc được.

    - Thế nào anh cũng tìm lại được gia đình của anh, anh đừng buồn. Tôi thấy nhiều người, vợ chồng, cha con, cũng vì hoàn cảnh bất ngờ phải cách biệt nhau mười năm, hai mươi năm, nhưng họ còn tìm lại được, nữa là anh mới xa gia đình trong bốn năm ! Trái đất nhỏ lắm, anh à. Người ta có xa nhau đến đâu đi nữa, rốt cuộc rồi cũng gần nhau hết ! Anh với tôi trước đây hai tháng đâu có biết nhau ? Thế mà ngày giờ nầy ai có ngờ đâu anh và tôi ngồi chung trong một xe ! Anh thấy không?

    Ông giáo cười, anh tài xế cũng cười. Tình thầm phục ông Giáo có nhiều tư tưởng cao rộng, và câu chuyện vui vẻ lý thú của ông đã an ủi anh một đôi phần. Đến Blao, anh hỏi ông Giáo có mệt để anh lái. Ông Giáo cười:

    - Anh khỏi sợ tôi mệt ! Đường Sài gòn – Đà lạt tôi đi đã mòn hết một chie-1c xe ! Chỉ một mình tôi lái. Lần nầy là lần đầu tiên tôi mới có một người tài xế ngồi bên cạnh tôi. Sự thay đổi ấy chính là do nhà tôi.

    Tình chăm chú nghe, nhưng thấy ông Giáo làm thinh, anh hỏi:

    - Thưa ông, tại sao ạ?

    - Tại nhà tôi, và cũng là tại tôi. Nói đúng hơn, là tại mộ chú lính da đen!

    Tình mỗi lúc mỗi ngạc nhiên. Ông Giáo thuật rõ tai nạn xe hơi xuýt chết lần trước tại Đèo Chuối do chú lính da đen lái xe nhà binh chạy ẩu. Rồi ông kết luận.

    - Tại có tai nạn hụt ấy, nhà tôi mới bảo tôi đăng báo kiếm người tài xế. Nhà tôi biết tôi đã có tài xế, thì nhà tôi mới yên tâm. Lần nầy tôi về Đà lạt, nhà tôi thấy có một người tài xế, hiền lành, thật thà như anh, chắc nhà tôi bằng lòng lắm.

    Nghĩ một chút, ông Giáo nói tiếp :

    - Nhà tôi tánh cũng dễ dãi như tôi. Nhưng tôi dặn anh điều nầy, anh nhớ nhé. Anh đừng nói lại cho nhà tôi biết chuyện anh đâm xe vào cột cầu lúc nãy. Nhà tôi mà nghe chuyện ấy thì chắc là lo sợ cho tánh mạng của tôi lắm đó. Anh nhớ, nghe anh tài ?

    - Dạ, tôi đâu dám nói chuyện ấy với bà.

    - Ừ, đừng nói. Riêng tôi, tôi không hở môi cho nhà tôi biết đâu.

    Từ đây ông Giáo hơi mỏi me65tn ít nói nữa. Anh tài xế cũng vậy.

    Nhưng ông Giáo không có chuyện tâm tình gì thắc mắc, chỉ mong mau mau về đến Đà lạt thăm vợ con yêu quý, chớ anh tài xế của ông tuy ngồi yên tĩnh bên cạnh, nhưng lòng anh rạo rực đau buồn.

    Anh nghĩ kỹ lại, có nhiều lý do để anh tin rằng Mỹ Phượng vợ của ông Giáo, không phải là Mỹ Phượng vợ của ông Giáo, không phải là Mỹ Phượng vị hôn thê của anh. Mặc dù vậy, anh vẫn có linh tính báo cho anh biết rằng có chuyện gì không hay, sẽ xẩy ra cho anh ở Đà lạt. Chuyện gì ? Có lẽ anh sẽ gặp Phượng chăng? Vợ ông Giáo có thể là một cô Mỹ Phượng tiểu thơ nào đó, thật tình anh không dám nghi ngờ nữa, nhưng biết đâu chính Mỹ Phượng của anh cũng đã lấy một người chồng nào khác ? Rất có thể như thế lắm. Rất có thể sau khi xóm làng Tân phú bị đốt cháy, Phượng tản cư lên Đà lạt, gặp một người đàn ông nào đó, hai bên làm quen với nhau rồi lấy nhau? Tình suy nghĩ nếu gặp trường hợp ấy anh sẽ cư xử với Phượng như thế nào ? Anh sẽ đối phó với hoàn cảnh mới như thế nào ?



    Nghĩ như thế, Tình buồn rười rượi trong lòng. Tình chán nản, dự định sẽ có một cuộc thanh toán quyết liệt …

    Chiếc xe traction15 CV của ông Giáo vùn vụt chạy qua Djirng, Liêm Khàng, Finnom, một giờ trưa bắt đầu vọt lên đèo Prenn. Ông Giáo vui mừng đã về gần đến Đà lạt. Chỉ còn qua cái đèo. Ông mở hết tốc lực cho chiếc xe đen bóng loáng của ông vượt lên đường núi quanh co, trời mây quang đãng, như đang bay về động Thiên thai…

    Ánh nắng vàng dìu dịu hòa với rừng thông bát ngát xanh um những sắc màu rung động. Trái tim của núi rừng hồi hộp với trái tim của lữ khách ở xa về.

    Tràn ngập nỗi niềm vui sướng, ông Giáo mỉm cười, nhìn trước mắt con đường êm ái chạy về biệt thự Mỹ Phượng, ông cao hứng nói một mình, như muốn reo ca lên:

    - Mỹ Phượng ! Mỹ Phượng ! Chắc giờ phút nầy mình đang ôm con chờ anh trước cửa ! …

    Nghe đến hai tiếng ‘‘Mỹ Phượng’’ ; Tình bỗng thấy tối tăm mặt mày. Bầu trời như đen xẩm ; Anh nghe như gió thổi ào ạt, như một cơn phong ba bão táp vừa nổi dậy trong lòng anh…Quay lại thấy anh tài tự nhiên tái mét, ông Giáo hỏi :

    - Anh chóng mặt, hả anh tài?

    - Dạ…thưa ông…tôi chóng mặt…

    - Anh đi Đà lạt vài lần sẽ quen.

    Chiếc Traction từ từ quẹo vô cổng, đổ trước sân. Ông Giáo mở cửa xe bước ra, vừa vô đến hè thì Mỹ Phượng trong nhà cũng vui mừng vừa chạy ra. Hai vợ chồng ôm nhau hôn say mê ngay trước cửa. Một phút sau, ông quay ra chỉ người trẻ tuổi mặc quần vãi xanh, đứng cạnh xe:

    - Mình à, đây là anh tài xế.

    Mỹ Phượng trố mắt ngó Tình, bỗng dưng cô xẩm mày xẩm mặt té gục vào tay chồng.

    Ông Giáo vội la lên:

    - Mình sao vậy ? Mình sao vậy ?

    Rồi ông gọi ra sân :

    - Anh tài! vào đỡ với tôi đưa bà lên lầu! Mau lên!

    Nhưng anh tài cũng vừa té xỉu xuống đất, nằm bất tĩnh bên cạnh bánh xe.

    O-ng Giáo một mình xốc vợ lên hai cánh tay, bế vào đặt trên ghế đi văng ở phòng khách ở phòng khách.

    Ông hoảng hốt bấm chuông điện gọi người nhà.


  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương VIII
    BẢY giờ tối, Phượng đã tĩnh. Nằm giường ngủ trên lầu, Phượng chớp mắt hỏi ông Giáo đang ngồi săn sóc bên cạnh cô:

    - Con trai thức hay ngủ, hả mình?

    - Con ngủ. Anh vừa cho con bú sữa chai.

    Phượng ngồi nhỏm dậy, nghiêng mình ngó trong nôi, con trai nằm ngủ ngon giấc. Cô yên lòng nằm xuống lại Ông Giáo nắm tay cô, khẽ hỏi:

    - Mình khỏe chưa?

    - Em hơi khỏe rồi, mình à.

    - Lúc trưa, mình bị đau sao?

    - Em trúng gió mình à. Tại vì hai hôm nay em cảm, trong người còn yếu, lúc trưa em chạy ra cửa đón mình, bỗng dưng bị trúng gió, em xỉu…

    - Lúc bác Đốc đến xem mạch cho mình, mình có biết không?

    - Em đang mê man, nhưng em biết. Bác Đốc chích thuốc gì cho em đó hả mình?

    - Một mũi Pressyl, bổ tim. Bác Đốc bảo Mình bị bịnh yếu tim chuyến trước nằm nhà thương Sàigon đã khỏi, lâu lâu khi nào trong người yếu, mình bị cảm mạo bịnh có thể trở lại. Nhưng không sao. Bác Đốc sẽ chích mỗi ngày, mình sẽ khỏe mạnh như thường. Chốc nữa mình ăn com với anh nhé? Anh có mua chả lụa ngon ở Sàigòn.

    - Em sẽ ngồi với mình cho vui, nhưng chắc em ăn cơm chưa được. Vì trong người em còn mệt. mình bấm chuông gọi chị bếp giùm em.

    Phượng dặn chị bếp nấu cho cô một tô cháo, đập hai quả trứng gà bỏ vào, và nêm một tí nước mắm hành tiêu.

    Chị bếp, người Bắc, lễ phép hỏi:

    - Vâng ạ. Thưa bà, chiều nay bà mệt, chốc nữa cháu bưng cháo lên đây để bà dùng, hay là cứ dọn nơi phòng ăn?

    - Chị cứ dọn trên bàn ăn. Tôi sẽ ăn với nhà tôi một lượt.

    - Thưa bà, vâng ạ.

    Chị bếp quay hỏi ông Giáo:

    - Dạ thưa ông, lúc nãy ông dặn cháu nấu thêm phần cơm cho anh tài. Cháu đã dọn cơm, nhưng anh ấy đi đâu chưa về ạ.

    - Anh ấy đi hồi nào?

    - Dạ thưa ông, anh vừa mới đi lúc năm giờ. Cháu có dặn anh bảy giờ về ăn cơm. Nhưng

    anh đi vội vàng, chả bảo gì với cháu cả.

    - Chị cứ để phần cơm chờ anh ấy nhé.

    - Thưa ông, vâng ạ.

    Chị bếp xuống. Ông Giáo quây nói chuyện với Phượng:

    - Anh tài nầy lái xe khá lắm. Nhưng có lẽ ảnh chưa đi đường Đà lạt quen, nên ảnh bị chóng mặt. Lên đèo Prenn, anh ấy tự nhiên bị xẩm này xẩm mặt. Lúc trưa mình bị cảm gió, thì ảnh cũng té xỉu cạnh chiếc xe. Trong khi anh và chị bếp ẵm mình lên lầu. thì anh có nhờ vợ chồng anh Ba làm vườn đỡ anh tài vào căn buồng của ảnh, và nhờ vợ chồng anh ấy săn sóc giùm. Chị Ba làm vườn nói là anh tài bị trúng gió, nên vội vàng đốt chổi xề trong buồng ảnh, để ảnh mau hồi tỉnh lại. Anh Ba làm vườn thì lấy dầu nóng xoa lưng và ngực. Lúc hai giờ bác Đốc đến thăm bịnh cho mình xong, bác có xuống xem cho anh tài, và chích cho ảnh một ống thuốc khỏe. Bác nói cảm xoàng, nhưng dặn phải nằm nghỉ yên đêm nay. Sáng mai bác sẽ đến chích thêm cho một ống thuốc khỏe nữa. Thế mà chưa chi, vừa tĩnh dậy anh ấy đã đi chơi rồi!

    Phượng làm thinh nghe, nhưng chăm chỉ từng câu nói của chồng, ông Giáo nói tiếp:

    - Trong số hơn mười người tài xế đến xin việc, anh thấy hoàn cảnh anh nầy đáng thương nha-1t, nên anh dùng. Chớ thật ra lúc ảnh đưa giấy chứng chỉ cho anh xem, anh hơi nghi ngờ là một binh lính trong Quân đội Pháp ở Đà nẵng đào ngũ bỏ trốn vô Sài gòn. Hỏi kỹ, anh ta mới kể thật chuyện ảnh hồi trước làm thợ mộc ở đồn điền cao su, bị bố ráp ở Biên Hòa năm 1946, bị bắt làm ‘‘tù binh’’, bị giam trong một đồn binh Pháp ở Đà nẵng. Ở đó bốn năm được sống tự do trong trại lính, anh ta học lái xe và sửa máy xe hơi. Nô en năm ngoái anh ta được tha về Sài gòn với giấy phép lái xe của sở Lục lộ Đà nẵng và giấy chứng chỉ làm tài xế cho ông quan Ba Pháp ở Đà nẵng. Từ Sài gòn, anh về thăm quê nhà, thấy nhà cửa xóm làng bị chiến tranh tàn phá hết. Cha mẹ ảnh và vợ ảnh, - người vợ sắp cưới mà ảnh thương yêu lắm – bị thất lạc đâu mất! Ảnh tìm kiếm chưa được. Ảnh có than thở với anh rằng từ hôm về Sài gòn, anh ta dọ hỏi tin tức nhiều nơi, nhưng bà con quen thuộc ảnh không ai biết hiện giờ cô vợ ấy còn sống hay chết ở nơi nào, hoặc còn ở vậy chờ anh ta, hay đã lấy chồng rồi? Ngẫu nhiên ảnh đọc báo thấy lời rao cần tài xế, ảnh đến xin việc. Anh thấy ảnh hiền lành tội nghiệp, anh thương mến và giúp đỡ. Anh ta làm việc tận tâm và giỏi dắn, nhưng lâu lâu thấy bộ anh ta như người thất tình. Nguyên do chỉ vì anh ta thương nhớ cha mẹ và cô vợ sắp cưới mà ảnh đã từ giã hai tháng trước ngày hôn lễ! Lên Đà lạt lần nầy, anh ta có nói với anh rằng anh ta ước mong được gặp lại vị hôn thê…Lúc chie-2u anh chàng bị cảm gió vừa mới tỉnh dậy đã hối hả đi như thế, chắc là đi kiếm vợ!...

    Ông Giáo cười rất tự nhiên, vô tình. Rồi ông đứng dậy đi uống một tách nước nóng. Ông không thấy trong lúc đó cô vợ cưng yêu, kiều diễm của ông vội quay mặt sang bên kia, cầm khăn lau mấy giọt lệ ứa trào xuống đôi má. Ông Giáo chưa cạn tách nước trà thì chị bếp từ dưới cầu thang bước lên:

    - Mời ông bà đi xơi cơm ạ.

    Chị đến cạnh giường bà chủ:

    - Thưa bà, bà mệt, cháu xin đỡ bà xuống ạ.

    - Cám ơn chị, Nhà tôi đỡ tôi đi được. Chị xuống trước đi.

    Ông Giáo trở lại giường, trông thấy nét mặt ủ dột uể oải của vợ, liền âu yếm ngồi bên cạnh, nắm tay vợ:

    - Chắc mình còn mệt? Mình không nên cố gượng đi xuống cầu thang. Để anh bảo chị bếp bưng cháo lên. Mình ngồi ăn cho khỏe, và trông con luôn thể.

    - Dạ, mình muốn thế cũng được. Nhưng em thích ngồi với mình cho vui.

    - Trưa mai mình khỏe hẳn, chúng ta sẽ ăn cơm chung với nhau.

    - Dạ.

    Ông Giáo hôn vợ, rồi đi xuống phòng ăn. Ông bảo chị bếp bưng cháo lên lầu. Ông ngồi bàn một mình.

    Chị bếp bưng tô cháo còn nóng hổi, khói bay thơm phức, để trong một chiếc khay với một chén nước mắm, một cái bát, một đôi đũa mun, đặt trên bàn ngủ, lể phép mời bà Giáo:

    - Xin mời bà xơi cho nóng ạ. Cháu có thêm vài cọng ngò trong cháo cho được thơm.

    - Cám ơn chị, chị để đó cho tôi. Chị xuống nhà hầu cơm ông.

    - Vâng ạ.

    Chị bếp đi. Phượng nằm luôn trên giường, không muốn dậy. Một mình trong phòng, Phượng úp mặt vào gối thổn thức khóc. Hình ảnh của Tình, vị hôn phu của cô, với chiếc áo sơ mi vải, quần xanh, lại hiện ra trước mắt cô như một mối hậu trường bi ai thảm thiết. Cô cảm thấy cả một mối sầu tình đè nặng trên tâm tư đày đạo của cô. Tình đã về đây, lại làm tài xế cho chồng cô, có phải là một mỉa mai đau đớn, mà số kiếp tàn nhẩn đã gán buộc cho cô chăng? Cô sẽ chịu một hình phạt gì ghê gớm của lương tâm? Cô phải chờ đợi một bội bạc gì đắng cay của duyên nợ? Cô yêu chồng cô, một người chồng hoàn toàn, một người yêu tha thiết. Nhưng tình yêu ấy phải chăng một mối hận thiên thu? Cô thương nhớ Tình, quý mến Tình, nhưng ai hiểu cho nỗi niềm đau khổ, thầm kín trong thâm tâm cô? Bao nhiêu lệ nỉ non trong bao nhiêu đêm trường, mà nay giòng suối hận chưa khô, lòng thiếu phụ còn ngập tràn thảm lệ!

    Bỗng đứa con trai nằm trong nôi quẩy cựa, cất tiếng khóc. Phượng vói lên đầu giường lấy khăn ướt lau mặt, ngồi đây ẵm con, cho con bú. Cô vẫn cho con bú đệm, kế tiếp một lần sữa mẹ, một lần sữa chai. Cô lấy khăn lau mặt lại một lần nữa, tự nhủ thầm: ‘‘Ta không nên để con ta nhìn thấy những giọt lệ trên mắt ta, mặc dầu con chưa hiểu gì. Ta muốn đôi mắt trong sạch ngây thơ của con ta chỉ trông thấy nơi ta những gì tinh khiết, thanh cao, những nụ cười êm dịu. Ta không muốn bao giờ đôi mắt âu yếm của chồng ta sẽ nhìn thấy trông con ngươi của ta phảng phất một áng mây sầu … Nhưng ta có nên giấu diếm chồng ta nỗi niềm tâm sự nầy chăng? Ta nên thành thật hoàn toàn để tin yêu hoàn toàn, hay nên che đậy mắt chàng một mối buồn u thảm của ta?...’’

    Phượng vừa nghĩ đến đó thì nghe tiếng giày của ông Giáo bước lên thang lầu. Ông mỉm cười đến gần vợ, ngồi kề vợ, âu yếm đặt trên vai vợ:

    - Sao mình chưa ăn cháo?...Anh sợ cháo nguội rồi, mình à.

    - Lúc nãy cháo nóng quá, em chưa ăn được. Em định cho con bú xong em ăn cũng vừa,

    Ông Giáo cúi xuống hôn trán con,- hôn gò má ửng hồng của con, và khẽ vuốt ve bàn tay mủm mỉm đang mân mê tà áo mẹ.

    °

    Tình đi đâu lúc năm giờ? Chính Tình cũng không biết là Tình đi đâu I Lúc xe đã về đậu trong sân. Tình trông thấy Phượng từ trong nhà chạy ra cửa mừng rỡ đón chồng, thì anh té che-1t giấc anh cũng không nhớ nữa. Ai đem anh vô gian buồng tài xế cạnh gara? Anh nằm mê man trên chiếc giường gỗ cho đến năm giờ anh tỉnh dậy, thấy căn nhà lạ, thấy một ống thuốc tiêm đã chích rồi còn bỏ trên bàn... Anh mới sực nhớ là anh vừa trống thấy Phượng, vị hôn thê của anh mà bây giờ là vợ của ông Giáo! Anh sực nhớ là anh đang ở trong nhà của Phượng, và đang làm tài xế cho chồng của Phượng... Ôi! Mỉa mai! Ôi! Đau đớn! Hay là Tình chiêm bao? Một ác mộng chăng? Một ám ảnh chăng? Không! Rõ ràng như bạch nhựt! Vợ của ông giáo chính là vợ của anh! Bà chủ Mỹ Phượng chính là vị hôn thê của Tình!

    Tình uất ức, đứng phăng dậy, bỏ đi ra. Chị bếp hái ngò và hành gàn đó, trông thấy anh ra cổng, liền cất tiếng bảo:

    - Anh tài, đi chơi nhớ bảy giờ về ăn cơm nhé!

    Tình đi thẳng ra đường cái, không thèm quay lại. Không trả lời. Anh đi lang thang vô thành phố nhưng không nhứt định đi đến đâu? và đi làm gì? Đầu tóc bơ phờ, Tình cúi mặt bước đi, không dám nhìn lên sợ người ta trông thấy mắt anh đỏ ngầu, đầm đề hạt lệ. Đi một quảng gần, Tình trông thấy một hồ nước bạc long lanh dưới ánh nắng hoàng hôn. Anh đi thẳng ra đó, tìm một chỗ vắng và ngồi trên bãi cỏ. Ở đây, giữa trời mây non nước. Tình gục mặt xuống đầu gối khóc nức nở. Bỗng Tình có ý nghĩ đen tối, uất hận cho đời, tủi nhục cho duyên. Tình muốn nhảy tỏm xuống hồ để chôn vùi thân thể! Nước lạnh, màu nước xanh rì, gió thổi đìu hiu, mặt hồ lăn tăn gợn sóng. Đăm đăm nhìn xuống tấm gương ảo mộng. Tình chỉ thấy hình ảnh của Phượng trong sa mù... Chiếc áo cưới màu hồng phất phơ trong nắng dịu... và Phượug mừng rỡ đón chồng, ông Giáo và Phương ôm vào nhau hôn say mê trước cửa... Phượng với nét họa đứa bé sơ sinh ‘‘âu yếm tặng chồng em’’-. Tình thấy như bầu trời u ám lại, mặt hồ như xáo động bỗng dưng mở rộng nấp mồ, mời Tình nhảy xuống... Tình xầm mặt, trầm ngâm nghĩ ngợi: ‘‘Ta đến đây vẫn cô độc nơi cùng đường tận số. Ta chết giờ phút nầy chưa trọn nghĩa chung tình. Phượng bỏ ta, nhưng ta không bao giờ bỏ Phượng. Ta đã thề cùng sống với Phượng, sao giờ nầy ta không thề cùng chết với vị hôn thê của ta? Ta thấy bóng Phượng trong tay người khác mà ta chưa tìm lại được Phượng trong tay ta! Ta phải … Ta nhứt định phải..’’



    .

    Tình không dám nói ra mặc dầu là nói thầm, ý nghĩ kín đáo vừa nảy ra trong óc Tình. Anh vùng đứng dậy, ngó mặt hồ một lần nữa như muốn nhắn lại một lời: ‘‘Ta sẽ trở lại đây... với giọt nước mắt của ta và giọt máu của Phượng. Ta muốn nơi đây hoa Phuợng sẽ nở bốn mùa, ngàn thu nhuộm đỏ khối tình bất diệt của ta!’’

    Tình quay gót đi ra đường cái lớn. Anh đã có ý định ra phố mua một con dao, để dứt khoát mối tình oan trái. Dọc theo bờ hồ, qua một chiếc cầu lên dốc chợ, anh âm thầm nhắc đi nhắc lại trong trí óc một ý nghĩ ; ‘‘ta kiếm mua một con dao nhọn thật bén.. Tối nay ta về nhà ông Giáo… Ta lựa một cơ hội nào chỉ ta với Phượng … Ta quyết …’’ Tình biết ý định nầy là tội ác lớn, anh biết đó là một hành động dã man, nhưng anh đang bị cơn uất hận nặng nề đè lên tư tưởng của anh. Anh như một oan hồn mù quáng đang lạc loài trong âm ty của tội lỗi. Anh cúi đầu đi thui thủi chung quanh chợ, không dám ngó ai, mà thật ra anh cũng không quen biết ai. Tất cả mọi người đều xa lạ. Đến trước một cửa tiệm Hoa Kiều, anh đứng nhìn vào tủ kiến bày biện đủ các thứ đồ dùng. Anh ngó một bàn ủi điện, một đèn dầu hôi, một chồng chén, tách, bình trà, một cối xay cà-phê, một con dao xắt thịt... Đôi mắt Tình bỗng sáng rực lên. Anh trố mắt nhìn kỹ con dao xắt thịt... Cán gỗ có đôi chút mỹ thuật, xinh xắn vừa vặn với tay anh. Lưỡi dao bén và nhọn, sáng quắc, dài độ một gan tay. Tình do dự một lúc, hơi ngạc nhiên là đã tìm được ngay một vật mà anh đang muốn có nội trong đêm nay. Anh đánh bạo bước vào, đến trước mặt một Hoa Kiều đứng bán hàng trong tiệm, tay anh run run chỉ con dao, giọng nói mất tự nhiên:

    - Bán tôi cái kia!

    Người Hoa Kiều hỏi:

    - Cái kia là cái gì?

    Anh đến tủ kiến chỉ vào đồ vật mà anh muốn mua:

    - Đây này.

    Người Hoa Kiều hỏi:

    - Cái dao xắt thịt hả?

    Anh gật đầu.

    Hoa kiều mở tủ lấy con dao đưa anh.

    Tình cầm con dao, làm bộ ngắm nghía, xem xét kỹ càng, quây qua quây lại hai bên, nhưng sự thật là anh cố giấu nỗi hồi hộp bối rối mà anh lo sợ lộ ra trên mặt. Rồi anh hỏi:

    - Bao nhiêu?

    - Hai mươi đồng.

    Anh không trả giá. Suy nghĩ một lúc nữa, rồi anh quyết định mua, thò tay vào túi quần móc chiếc bóp của anh. Toàn giấy bạc mới tinh, còn nguyên vẹn ba ghim. Anh lấy một ghim, rút ra một tờ, làm thinh đưa cho chú Chệt.

    Trong lúc chú nầy lấy tiền thối lại, Tình tự nhủ thầm: ‘‘ Đây là tiền ông Giáo, chồng của Phượng …’’

    Anh bảo người Hoa kiều:

    - Cho tôi miếng giấy gói lại.

    Chú Chệt để tiền thối bảy mươi đồng trên quày trước mặt khách hàng, quay ra sau lấy một tờ nhựt trình cũ, xé làm hai, đưa anh một nửa. Anh tự gói con dao, rồi cầm dao đi ra. Khách gọi lại:

    - Nầy, anh! Còn tiền thối!

    Tình quay vô lấy tiền, có vẻ không thiết lắm.

    Đèn điện đã bật sáng trưng hai bên các dãy phố. Ngó đồng hồ treo trong một tiệm may, Tình thấy vừa đúng bảy giờ. Anh đang đứng một mình, thẩn thờ trên vĩa đường Minh Mạng tay cầm con dao gói trong nhựt trình. Anh chưa định đi đâu. Về nhà ông Giáo? Anh cho là hơi sớm quá. Anh nghĩ thầm: ‘‘Giờ nầy họ đang ăn cơm’’. Đi vào tiệm ăn? Anh không đói bụng. Lần đầu tiên, anh mua một gói thuốc hút. Ngày thường anh không ưa hút thuốc, nhưng chiều nay anh thấy lọm giọng, cứ muốn chóng mặt, cứ nhổ nước miếng hoài. Nhất là từ lúc anh mua con dao xắt thịt, anh thấy rờn rợn nơi tóc gáy. Đà lạt mùa nầy ấm áp, đêm nay gió mát, cờ xí phất phơ, dân thành phố tấp nập vui chơi mừng ngày lễ Hai Bà Trưng. Nhưng Tình ơn ớn lạnh trong lòng. Trái tim anh đập mạnh. Anh thấy gần như nghẹt thở. Anh bước đi, chưa biết đi đâu. Bỗng anh dừng chơn trước một người đàn bà gánh một gánh hột vịt lộn và bắp nướng, với một lò than đỏ. Có một em bé chừng mười tuổi đi theo. Gặp anh, người đàn bà ngạc nhiên, ngó chàng chòng chọc, rồi cười:

    - Cậu quên tôi rồi sao?

    Tình bỡ ngỡ

    - Tôi thấy chị quen quen, nhưng không nhớ là ai?

    - Cậu có phải là cậu Tình không?

    - Phải. Còn chị, xin lỗi chị có phải là …

    - Đố cậu nhớ?

    Tình ngó chị mội lát rồi cười:

    - À thôi, tôi nhớ rồi. Chị Tư Lành!

    - Đúng.

    Tình vui mừng lộ ra mặt:

    - Chu cha! Lâu quá, bây giờ mới được gặp chị! Chị ở đâu, chị Tư?

    - Ở Lò gạch. Bà cai với cô Phượng cứ kêu tôi là chị Tư Lò Gạch, là tại vậy đó. Còn cậu ở đâu?

    - Tôi ở Sàigòn.

    - Bây giờ cậu làm gì?

    Tình tủm tỉm cười:

    - Tôi làm tài xế.

    - Ủa, chớ cậu làm tài xế hồi nào?

    - Bốn năm nay rồi, chị Tư à.

    - Cậu làm tài xế cho ai?

    Tình lại mỉm cười:

    - Tôi đang thất nghiệp đây... À, chị Tư nè. sẵn gặp thị đây, tôi muốn đến thăm chị cho biết nhà và nói với chị một chút chuyện.

    Chị tư cười:

    - Chuyện chi, tôi biết rồi, nhưng được sẵn gặp cậu, mời cậu về nhà tôi chơi. Cậu đợi tôi gánh, gánh nầy lại chỗ gốc cột đèn để con nhỏ nó bán rồi tôi đưa cậu về nhà.

    Chị gánh đến cột đèn, cách đó năm bước. Tình đi theo sau. Chị soạn thùng hột vịt lộn và thùng bắp để riêng ra, và bỏ thêm than vào lò rồi quạt mấy cái. Chị dặn em nhỏ:

    -Con vừa bán vừa coi chúng nghe con! Má đưa cậu Tình về nhà rồi má biểu dì Sáu con tới bán.

    - Dạ.

    Em bé mười tuổi lanh lợi ngồi trên ghế thấp bán hàng. Chị Tư Lò gạch quay lại cậu Tình:

    - Con Vẹn, con gái của tôi đó, cậu á! Bữa nào tôi hay dì Sáu nó bận viện việc thì một mình nó bán hết hai chục hột vịt lộn và ba chục trái bắp nướng

    Giao lại thúng hàng cho con Vẹn, chị Tư Lành đưa cậu Tình về đường Lò Gạch. Hai người vừa đi vừa rủ rỉ chuyện trò.

    - Mấy năm nay cậu làm gì ở đâu?

    - Tôi bị bắt ở Biên Hòa, bị đưa đi giam ngoài Đà Nẵng, trong đồn binh Pháp. Ở đó, tôi học lái xe hơi. Tháng chạp vừa rồi rồi được tha. Về Tân phú thấy nhà cửa và làng xóm bị đốt rụi, tôi xuống Sài gòn, kiếm việc làm.

    - Cậu được tin tức của ba má cậu không?

    - Không. Tôi hỏi người quen không ai biết. Tôi đang đi tìm.

    - Bà Chín chết rồi. Cậu đi độ ba tháng thì bà Chín ho nặng rồi qua đời.

    Tình giựt mình, kêu hoảng:

    - Trời ơi, mẹ tôi chết rồi sao?

    - Sau đó, tôi không nhớ là bao lâu, dân làng Tân phú bị bố ráp vì một trận phục kích ở gần đó. Cả xóm bị đốt hết. Ông Chín bị bắt, sau chết trong tù.

    - Cha tôi cũng chết?

    Tình, nước mắt ràn rụa, muốn khóc rú lên. Nhưng đường phố đông người, ai nấy đều vui vẻ kéo nhau đi xem cộ đèn chớp bóng không tiền ở Chợ, Tình cố nén lòng đau khổ và nỗi uất hận cực điểm của anh. Chị Tư khuyên giải:

    - Tôi cho việc đời gì gì chẳng qua là số phận cả, cậu Tình à. Cậu đừng buồn nữa. Ông Chín bà Chín cùng già rồi. Và giả tỉ như hồi đó cậu còn ở nhà thì cậu cũng bị bắt, chớ tránh sao khỏi! Nếu cậu bị bắt chuyến sau nầy, không biết chừng ngày nay cậu cũng không còn sống nữa! Cho nên tôi nghĩ như vụ cậu bị bắt ở Biên hòa là một chuyện rủi mà hóa ra một chuyện may!

    - Sao chị gọi là một chuyện may?

    - May, là ngày nay cậu còn sống để kế tự ông Chín bà Chín... À, mà tôi hỏi thiệt cậu, cậu ở Sài gòn lên Đà lạt có chuyện gì?

    - Đi... chơi!

    - Cậu nói cậu thất nghiệp, mà cậu đi chơi?

    - Sẵn tiện tôi đi kiếm việc làm

    - Cậu lên đây bao giờ?

    - Tôi mới lên chiều nay, chị Tư à.

    - Cậu ở nhà ai?

    - Tôi... chưa ở nhà ai hết. Ở Đà lạt tôi đâu có quen ai? Trừ chị ra, mà tôi cũng không chắc chị còn ở Đà lạt nữa!

    - Không ở Đà lạt thì ở đâu?

    Nhà chị Tư Lành, ở trong một ngõ hẽm đường Lò Gạch. Một gian nhà lá thấp lè tè,cũ kỹ. Chị Tư gõ cửa:

    - Chị về đây, Sáu. Mở cửa cho chị.

    - Dạ.

    Một thiếu nữ đẹp, chạc hai mươi hai tuổi, mở cửa hỏi:

    - Sao chị về? Chị để một mình cháu Vẹn bán sao?

    - Ừ. chị gặp cậu Tình ở Sài gòn lên, nên mời cậu về chơi cho biết nhà.

    Chị quay lai Tình đứng sau lưng chị:

    - Đây là con Sáu Hiền, em ruột của toi6, cậu còn nhớ chứ? Mời cậu vô nhà.

    Tình cúi đầu chào. Cô Hiền rất bình thản, tự nhiên, chào lại. Chị Tư bảo:

    - Em pha nước uống, rồi lên bán hàng, kẻo tối nay đông người ta, một mình con Vẹn sợ bán không kịp.

    - Dạ.

    Cô Sáu Hiền bước vào nhà trong. Cô mặc áo bà ba trắng, tóc bỏ xỏa xuống lưng. Nét mặt xinh xắn đều đặn, nhưng có vẻ dày dạn phong sương, đôi mắt Iong lanh, điệu bộ rất nghiêm trang, đứng đắn. Cô vào nhà một lúc, xách ra một bình nước trà đặt vào khay gỗ với hai cái tách để trên bàn. Cô pha nước mời chị và mời khách, xong nói với chị Tư:

    - Em lên chợ, nghe chị.

    - Ừ, em đi.

    Quay lại Tình, cô Sáu Hiền chào:

    - Anh ngồi chơi.

    - Chào cô.

    Chị Tư mời Tình một chén trà, rồi nói:

    - Con Sáu cũng ở đây với tôi, Io làm ăn buôn bán gần một năm nay. Còn tôi từ khi anh Tư nó thọ bịnh chết trong nhà thương, tôi ở vậy nuôi thằng Năm và con Sáu đi học, và nuôi đứa con tôi, là con Vẹn. Lúc hai anh em nó rủ nhau vô Bưng Biền, tôi ở nhà một mình vẫn lo buôn bán. Hồi cậu còn ở nhà. cậu còn nhớ thỉnh thoảng tôi đi Biên hòa có ghé vô thăm ông Chín bà Chín và vợ chồng ông Cai. Sau khi cậu bị bắt ở Biên Hòa tôi cũng còn ghé thăm hai gia đình, cho đến khi vợ chồng ông Cai và cô Phượng dọn về... Đà Iạt;

    Chị Tư Lành làm thinh một lúc lâu, lấy que đan và cuộn len đan áo. Chị rất ngạc nhiên thấy Tình không hỏi han một câu nào về cô Phượng, Chị hỏi:

    - Cậu có biết tin tức cô Phượng chưa?

    Tình lặng lẽ một lúc lâu mới trả lời:

    - Tôi nói thiệt với chi Tư, chi Tư à. Bây giờ tôi muốn quên hết chuyện cũ.

    Chị Tư tủm tỉm cười:

    - Cái đó cũng hay. Chuyện gì đã qua là đã qua... Nhưng chắc cậu đã biết rõ việc cô Phượng đã có chồng rồi chứ?

    Tình cười gằng:

    - Có gì lạ đâu, chị Tư!

    Tình ngó chiếc đồng hồ reo trên bàn, thấy đã 9 giờ. Sợ lỡ công việc dự định, anh đứng dậy:

    - Thôi, xin lỗi chi Tư, tôi có chuyện phải đi gấp. Không biết chừng mai tôi lại đến thăm chị, và nói chuyện nhiều.

    - Cậu ngồi chơi đã chớ, có việc gì gấp lắm sao?

    - Có chút chuyện riêng, chị Tư à.

    Chị Tư thấy thái độ của Tình có vẽ kỳ dị, mỉm cười hỏi:

    - Chuyện gì mà giờ nầy đi gấp vậy?

    Tình ngượng nghịu:

    - Chị tha lỗi...

    Tình bước ra cửa, tay anh không rời con dao xắt thịt gói kín trong nhựt trình.

    Đi đường về Biệt thự của ông Giáo, Tình suy nghĩ lung về công việc anh sắp làm. Lúc nãy gặp chị Tư Lò Gạch, anh muốn hỏi chị về việc Phượng lấy chồng từ bao giờ và trong trường họp nào. Xem chừng chị Tư biết rõ. Nhưng lạ quá, chị Tư vừa nói đến tên Phượng, là Tình không muốn nghe nữa. Tình thấy uất hận nổi lên, và chỉ chực chạy về nhà ông Giáo để giết Phượng ngay. Tình sắp đặt kế hoạch, nếu thi hành thủ đoạn tội ác nầy đêm nay không thành, thì ngày mai, ngày mốt. Anh hẹn cho anh một kỳ hạn là ba ngày.

    Về đến cỗng Biệt thự Mỹ Phượng. Anh muốn rút dao ra đâm ngay hai chữ ‘‘Mỹ Phượng’’ nhưng ngó kỹ lại thì hai chữ mà anh thù ghét lại khắc trên một tấm đá cẩm thạch và thếp vàng, đóng dình hẳn trên trụ ngõ. Tình xô ngõ đi vào. Nhà không có chó. Anh đi nhè nhẹ trong sân, ngó vào phòng khách thấy có hai người khách đang ngồi chuyện trò vui vẻ với ông giáo, ngó lên lầu thấy có đèn điện sáng trưng. Mỹ Phượng chắc ở trên lầu. Tình muốn đi quanh nhà để dò biết rõ địa điểm; vì lúc chiều anh chưa kịp xem xét. Anh bắt đầu đi ngang qua ga ra, quẹo lại gian buồng tài xế, cửa buồng vẫn mở như hồi anh ra đi. Anh tạt vào: gói quần áo của anh bọc trong túi kaki nhà binh của anh lính Jean cho anh ở Đà nẵng, vẫn cò y nguyên trên bàn. Ống thuốc chích vứt bỏ vẫn còn nằm trên nền gạch hoa đã bể ra nhiều mảnh. Anh đóng kín cửa, mở gói nhựt trình, lấy con dao ra. Anh thử giấu con dao trong lưng quần, nhưng khó khăn lắm. Anh chỉ mặc một chiếc sơ mi vải không làm sao giấu được lưỡi dao mà không lòi ra cái cán. Anh chợt nhớ lại có đem theo chiếc áo len cũ dài tay. Anh vội mở túi ka ki nhà binh lấy ra cái áo. Anh choàng vào đầu, kéo xuống kín hai cánh tay và phủ dưới áo len. Anh ngó kỹ không thấy cộn, rồi đi ra. Anh vòng ra nhà bếp. Chị Bếp vừa trông thấy anh liền bảo:

    - Anh tài đi đâu bây giờ mới về? Đã ăn cơm chưa?

    - Tôi ăn rồi, cám ơn chị,

    - Ông chủ có bảo để phần cơm cho anh.

    - Ông chủ có bảo gì tôi nữa không?

    - Ông bảo là chắc anh đi xem rước cộ đèn.

    - Đúng.

    - Cộ đèn đẹp không, anh tài?

    - Đẹp lắm.

    Tình vờ vĩnh nói cuuyện, nhưng mắt cứ ngó nơi cái cửa duy nhất, chắc là nối liền nhà bếp với nhà trên. Anh đến cửa xem xét cho rõ. Anh thấy cửa thông thương với một hành lan rộng, qua hai căn phòng. Anh hỏi chị Bếp:

  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    - Hành lan nầy đi đâu vậy chị bếp?

    - Đi ra phòng khách.

    - Hành lan có hai cửa vào phòng nào nữa đây?

    - Một cửa gần bếp, vào phòng ăn, Một cửa vào văn phòng của ông chủ hồi trước, bây giờ là buồng riêng của ông Cụ bà Cụ.

    - Ông chủ còn ông Cụ bà Cụ sao?

    - Ba Má của bà chủ đấy chứ. Ba má của ông đã qua đời lâu rồi.

    Tình tự nhủ: ‘‘Vợ chồng ông Cai cũng ở chung trong nhà nầy à?’’ Tình vờ hỏi chị Bếp:

    - Ông Cụ bà Cụ chắc đã già lắm hả? Sao tôi không thấy?

    - Ông Cụ bà Cụ đi Ban mê thuột thăm người bà con từ hôm nọ.

    - Chừng nào các Cụ về?

    - Ông cụ còn nấu hổ cốt đem về Đà lạt bán. Nghe nói các Cụ đi một tháng mới về.

    Tình không thấy cầu thang lên lầu, muốn đi thẳng vô hành lan để xem xét cho tường tận. Anh nghĩ rằng anh là tài xế ở trong nhà, anh tò mò cũng là việc thường. Nhưng trước khi bước vô hành lan, anh vờ hỏi chị Bếp:

    - Ông chủ có khách hả chị?

    - Vâng, sẳn có anh đây, nhờ anh làm ơn xách ấm nước sôi lên châm thêm trà giùm tôi. Tôi phải khuấy chai sữa cho bà gấp đây nầy. Chú ấy đang khóc the thé trên lầu, anh nghe không?

    Tình muốn chụp ngay cơ hội liền bảo:

    - Chị đưa chai sữa tôi đem lên lầu giùm cho thì được. Chứ tôi đâu phải là bồi hầu hạ quan khách!

    - Anh lên lầu đâu có được, bà chủ mắng chết!

    - Sao vậy?

    - Bà chủ thích ở yên trên lầu, không thích có ai lên xuống. Từ hôm tôi mới vào làm đến nay, đã 8 tháng, chỉ một mình tôi được bà chủ gọi lên thôi. Bà chủ rất hiền lành, giản dị. Bà phúc đức lắm, đối đãi với người ăn kẻ ở rất là tử tế. Bà bình dân, không có kiểu cách như ai, nhưng rất nghiêm.

    - Tôi là tài xế của ông chủ bà chủ, chứ ai xa lạ sao mà không được lên lầu?

    - Tài xế thì tài xế chứ.

    - Thì chị vừa đem ấm nước ra phòng khách vừa cầm chai sữa lên lầu cũng được vậy.

    - Trái lối đi. Ra phòng khách rồi trở vào phòng ăn mới lên lầu được

    - Thế à?

    - Chứ sao!

    Chị bếp không nhờ anh tài nữa. Chị cầm chai sữa lên lầu. Tình bước theo xem chị đi ngả nào. Chị bếp ra hành lan vào cửa phòng ăn, tại đấy có cầu thang. Tình do dự, không dám theo chân chị. Một phút sau chị xuống, bảo:

    - Có bà Đốc ngồi chơi với bà chủ. Lại phải châm trà lên trên lầu.

    Tình làm thinh, bỏ đi về buồng tài xế.

    Anh thấy kế hoạch sát nhơn của anh không thể thi hành được đêm nay. Anh tắt đèn nằm ngủ chờ ngày mai.

    SÁU giờ sáng hôm sau Tình dậy, tưởng một mình anh dậy sớm nhất. Không ngờ. anh vừa mở cửa ra ngoài, đã thấy ông Giáo mặc đồ pyjama ngồi bắt sâu cho mấy khóm hoa trước sân, và nưng niu mấy nụ hoa mới nở. Trông thấy anh, ông Giáo tươi cười:

    - Anh cũng dậy sớm vậy, anh tài?

    - Dạ chào ông.

    - Anh ngủ ngon không?

    - Dạ, cám ơn ông.

    - Sáng nay anh đã khỏe chưa?

    - Dạ chưa.

    Tình ngượng nghịu, nói tiếp:

    - Tôi xin phép ông cho tôi nghỉ vài ba ngày,

    - Được, anh cứ nghỉ vài ba ngày cho thật khoẻ. Nhà tôi cũng mệt, bị bịnh đau tim trở lại. Tôi muốn để xe ở lại nhà, lúc nào nhà tôi cần thì anh lái xe đi mời Bác Sĩ.

    - Ông về Sàigòn bằng gì?

    - Sáng mai tôi đi máy bay.

    Tình mừng thầm vì được cơ hội tốt. Ông Giáo chỉ còn ở nhà ngày nay. Ngày mai, Tình sẽ nói chuyện với Phượng. Ngày nay Tình viện cớ là còn đau, xin phép ông giáo cho đi lên phố tìm bà con. Nói như thế để đi vắng, khỏi bị ai nghi ngờ.

    Tình vào buồng, dấu kín con dao xắt thịt ở trong kẹt dưới chiếc giường gỗ, rồi anh đến nhà chị Tư Lò Gạch,

    Chị Tư đi chợ, chỉ có cô Sáu Hiền ở nhà với cháu Vẹn. Sau năm ba câu chuyện hỏi thăm về gia đình, cô Sáu hỏi Tình:

    - Anh có biết chị Mỹ Phượng bây giờ lấy chồng làm gì không?

    - Không.

    - Chồng chị ấy làm Giáo sư Đại học Sàigòn.

    - Tại sao hai người quen nhau? Họ quen nhau từ hồi nào, chắc co Sáu biết chớ?

    - Em không biết, vì trong thời gian đó, em ở trong Bưng. Nhưng theo lời chị Tư em nói lại, thì ông Giáo thường ở Sài gòn, ông có Biệt thự ở Đalạt nhưng không ai coi, nên ông mướn ông Cai làm gác dan. Do đó, ông giáo mỗi khi về Đàlat lại gặp chị Phượng. Rồi hai người thương nhau.

    - Họ lấy nhau bao giờ?

    - Mới Tết năm ngoái. Chị Phượng vừa mới sanh được đứa con trai. Coi bộ hai ông bà thương nhau lắm.

    - Sao cô Sáu biết rõ như thế?

    - Chị Tư em đến thăm luôn. Hồi chị Phượng chưa lấy ông giáo, chị còn làm việc vườn rau với ông Cai, còn bà Cai thường ra chợ bán trứng gà trứng vịt, và bông hoa. Một hôm chị Tư em đi chợ gặp bà Cai, bà mời về nhà chơi, rồi từ đó chị Tư em thường đến mua hột gà hột vịt của bà. Đám cưới của chị Phượng ngày mùng một Tết năm ngoái, chị Tư em và em có đến giúp.

    - Cô Sáu có thường đến nhà ấy không?

    - Ngày thường em bận việc ít hay đến. Buồn cười hồi tháng chín năm ngóai, một hôm chị Tư em đến mua hột vịt như mọi lần, bà Cai lấy cho chị Tư em một cái áo dài màu hồng, còn mới tinh, thêu những hoa phượng đỏ. Bà Cai nói đó là áo cưới của anh cho chị Phượng nhưng chị Phượng chưa mặc lần nào, cất trong rương lâu ngày bị gián nhấm. Chị Tư lấy về cho em mặc.

    Cô Hiền vui vẻ đứng dậy vào trong buồng, lấy ra chiếc áo hồng, đưa Tình xem. Tình sầm mặt chỉ liếc chớ không muốn ngó. Cô Hiền nói tiếp:

    - Em cũng mới mặc thử một lần thôi. Anh coi đây nè. Chiếc áo cưới màu hồng của anh cho chị Phượng, chị chờ anh về cưới chị nhưng chờ hơn ba năm anh không về, chị cứ cất mãi trong rương, không dè bị gián nhấm loang lỗ hết. Mãi đến bảy tháng sau khi chị Phượng lấy chồng, chị soạn đồ trong rương ra mới thấy. Chị bèn lấy chỉ tơ đỏ thêu những cành hoa phượng để lấp mấy chỗ gián cắn, và sẵn đó chị thêu lác đác nhiều cánh hoa phượng trên áo. Nhưng vì chị đã có chồng khác, chị không mặc được chiếc áo cưới của anh, nên chị cho chị Tư em. Chị Tư đem về cho lại em. Anh xem, chiếc áo cưới màu hồng của anh cho chị Phượng nay vẫn là chiếc áo cưới nở đầy hoa phượng! Em cũng mới mặc thử một lần thôi, thấy đẹp quá. Nên em cất đấy, để giành!

    Tình ngồi lặng lẽ nghe, nước mắt chảy ràn rụa.

    Cô Hiền hỏi:

    - Sao anh khóc, anh Tình?

    - Thấy chiếc áo cưới màu hồng kia, tôi buồn tủi cho tôi.

    Hiền tỏ vẻ hối hận đã vô tình nhắc chuyện ấy ra:

    - Trời ơi! Em xin lỗi anh, nghe anh Tình! Em thật thà tưởng nói chuyện vui chơi, biết đâu là, ai ngờ đã làm cho anh buồn!

    Hiền lấy que đan và cuộn len, cúi đầu đan. Một lúc cô khẽ bảo:

    - Ờ mà quên, em thật là vô tình! Nhắc chi chuyện chiếc áo cưới màu hồng của anh cho chị Phượng?...

    Hai người đều im lặng. Một lát, thấy Tình khóc thút thít, Hiền nói:

    - Thôi, anh Tình à. Chẳng qua là số phận, anh đừng buồn nữa.

    - Tôi chỉ giận thói đời đen bạc...

    - Chị Phượng đã giữ một dạ trung thành với anh chớ, chị có bạc nghĩa với anh đâu mà anh giận?

    - Trung thành?

    - Vâng, chị Phượng vẫn một lòng thủy chung với anh. Mãi cho đến ba năm sau khi chỉ hoàn toàn tuyệt vọng, không có tin tức gì của anh nữa, chỉ mới chịu lấy chồng. Theo chỗ em biết nếu chị Phượng không còn thương anh, thì chị đi lấy chồng lâu rồi, chớ không đợi đến Tết năm ngoái!

    Tình đang tức giận cười gằng:

    - Cô ấy trung thành với tôi như thế, tôi cũng xin cảm ơn cổ! Trung thành hay không, rồi đây cổ sẽ biết tôi!

    Hiền trố mắt ngó Tình:

    - Anh nói gì vậy?

    Tình bỗng hối hận vì đã lỡ lời vô ý để cho cô Hiền nghi ngờ. Tình liền cải chánh:

    - Tôi giận cổ nên nói tầm bậy đó. Chớ thật ra tôi đã định bỏ qua, không nhắc đến cô Phượng nữa. Hiện giờ tôi chỉ lo kiếm việc làm khỏi thất nghiệp.

    - Anh nói phải đó. Chuyện đã qua nên cho nó qua! Một nam nhi như anh trong lúc nước nhà gặp cơn nguy biến không làm gì hơn sao, lại để than thở buồn rầu vì một chuyện ái tình?

    Tình không muốn nghe cô Hiền nửa. Anh đang còn mang nặng khối hận trong lòng, quyết trút hết cho nhẹ cái mà anh cho là mối thù quyết liệt của anh.

    Tình từ giã cô Hiền, nét mặt càng âu sầu ủ dột.

    °

    Tám giờ sáng ngày thứ hai, ông Giáo đi Liên khàng để đáp máy bay xuống Sàigòn. Chín giờ chị bếp đi chợ. Hai vợ chồng anh Ba làm vườn cũng đã đi tưới rau. Trong nhà chỉ còn một mình Phượng. Tình viện cớ là đau, giả bộ nằm trùm mền trong buồng tài xế, chín giờ vẫn chưa ngồi dậy.

    Nhưng chín giờ mười lăm, biết lúc nhà thật vắng vẻ không còn ai nữa,Tình lốp ngốp bò dậy. Cử chỉ đầu tiên của anh là lấy con dao xắt thịt đút trong lưng quần, phủ dưới áo len.

    Nhưng anh còn do dự... bối rối, tay chưn bủn rủn, đứng trong cửa nghe ngóng môt lác. Bỗng có tiếng guốc đi ngang qua ga ra, quẹo lại phòng anh. Tiếng gõ cửa. Anh hỏi:

    - Ai?

    - Tôi.

    Tình mở hé cửa, thấy Phượng? Nhưng Phượng nhìn anh và dịu dàng bảo:

    - Anh Tình, tôi có câu chuyện muốn nói với anh. Xin mời anh lên nhà.

    Tình rất đỗi ngạc nhiên, càng thèm bối rối. Anh không ngờ Phượng đến tìm anh sáng nay! Tìm để làm gì? Tìm để nói gì? Nhưng anh đã nhứt định thi hành thủ đoạn mau lẹ, trong chốc lát. Anh đi theo Phượng. Phượng mặc áo len xanh trên áo bà ba trắng, quần đen, đi guốc, tóc bới, vẻ mặt vẫn hiền từ nhưng nghiêm trang. Phượng tuyệt đẹp, đẹp hơn xưa.

    Phượng mời anh ngồi ghế lớn giữa phòng khách, rồi thong thả khép cánh cửa. Tình toan nhảy xổ lại đâm một nhát dao thật lẹ, rồi tẩu thoát. Nhưng tự nhiên tay anh run. Anh ngồi yên không nhúc nhích. Phượng quay vào ngồi ghế đối diện anh, Phượng ngó Tình với đôi mắt dịu dàng mà Tình đã quen nhìn thuở trước. Tình bỗng ứa nước mắt, nhưng cố nén lòng, hỏi một cách giận dữ:

    - Cô còn muốn nói gì nữa?

    Phượng ôn tồn bảo, giọng nói thành thật như xưa, nhưng lần này rất cảm động:

    - Mong anh đừng giận tôi và nghe tôi nói hết lời. Tôi rất vui mừng được thấy anh trở về, sau bao nhiêu năm cách biệt. Bao nhiêu năm ấy, tôi đã chờ đợi anh, thương nhớ anh, dù hỏi tin tức anh, nhưng ba năm biền biệt, tôi đã thành ra con người tuyệt vọng...

    - Tôi cảm ơn cô, nhưng tôi không cần nghe những câu giả dối ấy nữa!

    - Anh đừng nóng, anh Tình à. Ngày nay mặc dầu vì hoàn cảnh tôi đã đi lấy chồng, tôi vẫn còn giữ cảm tình với anh nhiều lắm...

    Tình run run đứng phăng dậy, nói to:

    - Tôi không cần cảm tình của cô! Cô là kẻ thù của tôi, cô biết chưa? Cô là đồ khốn nạn!

    - Không! Tôi không phải là kẻ thù của anh, Tôi mong sẽ là bạn của anh. Chồng tôi và tôi sẽ là hai người bạn tốt của anh.

    Tình chỏ ngón tay vào Phượng, nói như người điên:

    - Tôi đếch cần cô và chồng cô! Cái mặt cô mà xứng đáng làm bạn với tôi à? Cô là con đĩ mà! Cô là con gái điếm, cô biết chưa? Tôi rất tiếc là tôi đã phí tiền mua cho cô chiếc áo cưới màu hồng! Nè, cô Phượng, tôi cho cô biết...

    Tình run rẩy thò tay vào dưới áo len, rút ra con dao bén sáng ngời, chỉ dao vào mặt Phượng:

    - Bữa nay tôi tặng cô con dao nầy để làm kỷ niệm...

    Tình tiến gần đến Phượng. Phượng ngồi yên trên ghế không nhúc nhích, đăm đăm ngó Tình nước mắt cô chảy ràn rụa trên hai gò má. Tình đến ngay trước mặt cô, chòng chọc ngó cô, đôi mắt anh đỏ ngầu, nhưng tay anh run cầm cập tự nhiên để con dao rơi xuống gạch hoa, kêu một tiếng ‘‘kẽng’’…Anh giựt mình khóc oà lên, bỏ chạy ra cửa, xô cửa chạy ra sân, chạy thẳng ra ngoài đường.

    Phượng vẫn ngồi yên, gục đầu vào thành ghế khóc nức nở.

    °

    Tình đi lảo đảo chừng mười bước, gặp chiếc xe ngựa, anh trèo lên:

    - Đường Lò Gạch.

    Anh đến nhà chị Tư Lành:

    Chi Tư đi chợ, không có ở nhà, anh thú thật hết với cô Hiền những việc vừa xẩy ra tại nhà cô Phượng.

    Nghe rõ đầu đuôi câu chuyện và tấn thảm kịch vừa rồi, cô Hiền nghiêm nghị bảo Tình:

    - Em không phục thái độ của anh đối với chị Phượng như thế. Trước kia em biết anh là một thanh niên hiền lành đúng đắn, chị Tư của em cũng khen anh, và chị Phượng cũng thường ca ngợi anh, nhưng bây giờ nghe anh vừa kể rõ lối cư xử của anh đối với chị Phượng, em thấy tụi em đều hiểu lầm anh hết. Cử chỉ và ngôn ngữ của anh sáng nay trước mặt chị Phượng, rõ rằng anh là một kẻ thô lỗ, đê hèn, tàn bạo, một nguời không xứng đáng là người, một tên vô loại, không có tư cách, không có lương tâm. Nếu chị Tư của em nghe anh thuật lại rõ ràng hành động vô liêm sỉ của anh sáng nay đối với chị Phượng, chắc là chị Tư đuổi anh ra khỏi nhà. Chính bây giờ em cũng không muốn tiếp anh nữa. Xin lỗi anh Tình, em nói thật như thế.

    Tình mắc cở quá, rưng rưng nước mắt tìm lời bào chữa:

    - Tôi biết rằng tôi quá nóng giận, nhưng cô Sáu nên hiểu giùm nỗi uất hận của tôi...

    - Anh uất hậu nỗi gì? Chị Phượng có tội lỗi gì đối với anh?

    - Tội phản bội lời thề xưa...

    - Phản bội? Chị Phượng đã một lòng tha thiết yêu anh, thương nhớ anh trong bao nhiêu năm trời, anh có biết không? Ông giáo sư đã ba lần cầu hôn với chị ba lần chị đều nhứt định từ chối, và cương quyết chờ đợi anh, anh có biết không? Suốt ba năm, chỉ đã khóc lóc, đau khổ vì không có tin tức của anh, vì lo sợ cho anh, anh có biết không? Thế anh gọi là phản bội? Chiếc áo cưới màu hồng của anh tặng chị, chị quý hóa giữ gìn trong rương cho đến mãi sau khi chị lấy chồng rồi chị vẫn còn thương tiếc, thấy nó rách chị còn chịu khó thức đến một hai giờ khuya để thêu những cành hoa phượng, thế anh gọi là phản bội? Đàn bà đời nay, chồng người ta chết chưa mãn tang người ta đã tái giá, còn chị Phượng biệt vô âm tín của anh trong ba năm trường, mà vẫn kiên nhẫn đợi anh, thế anh gọi là phản bội? Nếu chị Phượng cố tình phản bội, nếu chị Phượng đã như ai chỉ biết trọng tiền tài mà quên nhơn nghĩa, nếu chị Phượng như ai đã ham nhà cao cửa rộng chức cả quyền cao, thì chị đã lấy chồng ba năm nay rồi, chớ không đợi đến năm ngoái, anh đã biết chưa, anh Tình?

    Tình ngồi cúi đầu nghe cô Hiền công kích anh, như nghe một bản án của quan tòa. Hiền nói tiếp:

    - Anh ích kỷ lắm! Anh chỉ biết buộc người ta phải trung thành với anh, mặc dầu trong bao nhiêu năm cách biệt người ta đã đau nặng, gần chết phải đi nằm nhà thương Sài gòn một tháng! Tôi nói thật với anh, một cô thiếu nữ biết yêu, biết yêu say mê, biết yêu điên cuồng như chị Mỹ Phượng, trên đời nầy không phải là nhiều đâu nhé!

    Cô Hiền lấy que đan và cuộn len, đan được vài mũi lại bỏ xuống:

    - Tôi không cần binh vực chị Phượng. Tôi không phải là bạn thân của chị. Trái lại, tôi là bạn của anh, quen biết anh từ thuở còn đi học ở trường Đà lạt. Nhưng hôm nay, tôi thành thật nói với anh rằng tôi mất hết cảm tình với anh rồi. Anh để tay lên lương tâm của anh mà ngẫm nghĩ lại coi: những lời mà anh đã chửi mắng chị Phượng có phải là những lời lẽ của một người có đôi chút giáo dục hay không? Tại sao anh có thể mở miệng nhiếc chị Phượng là đồ dĩ? là còn gái điếm? là đồ khốn nạn? Anh thô lỗ hỗn xược như thế ấy, mà chị Phượng làm thinh, chị còn đáp lại bằng những câu rất tao nhã, rất cao thượng, thế mà anh không biết nhục à? cho đến khi anh cầm con dao bén nhọn tiến tới định đâm chị, mà chỉ vẫn ngồi yên, không nhúc nhích, nước mắt chảy ràn rụa, tôi hỏi anh, có ai can đảm và bình tĩnh được như chị Phượng không? Trước cử chỉ hèn nhát của anh, chị vẫn giữ được thái độ hòa nhã, thanh tao, tôi như anh thì tôi xấu hổ lắm! Anh biết sao chị Phựợng ngồi điềm nhiên trước lưỡi dao sát nhơn của anh không? Vì chị biết rằng anh không thể nào giết chị được! Chị biết rằng một người như anh Tình không bao giờ có can đảm giết một người như chị Phượng! Chị hiểu rõ anh như thế đó. Chị hiểu rõ anh hơn anh. Chỉ một điềm đó cũng đã thấy rằng anh thua kém chị Phượng xa lắm, anh Tình à. Anh không xứng đáng làm chồng chị Phương đâu! Không! không!

    Hiền nói đến đây thì chị Tư đi chợ về. Chị Tư rất ngạc nhiên thấy Tình ngồi gục đầu xuống bàn khóc sướt mướt. Hiền nói lại cho chị Tư nghe những việc vừa xảy ra lúc chín giờ tại nhà cô Phượng, do Tình thú thiệt hết. Nghe xong, chị Tư kéo ghế ngồi đối diện với Tình, và khẽ bảo:

    - Thôi, cậu Tình à, cậu đừng khóc nữa. Em của tôi, nó công kích hành động của cậu như thế cũng là phải. Nhưng cậu tha lỗi cho, đó là nó lấy tình bạn bè quen biết lâu năm mà thành thật phê bình cậu. Tôi cũng đồng ý với nó. Bây giờ việc đã qua rồi, cậu nên suy nghĩ lại về hoàn cảnh của cậu mà thay đổi thái độ, nhận xét chỗ sai lầm, và xây đắp một cuộc đời lành mạnh, tốt đẹp hơn, vui vẻ hơn, cậu còn thanh niên, tuổi cậu cũng còn nhiều hy vọng, tương lai của cậu còn nhiều hứa hẹn.

    Hiền tiếp lời chị:

    - Một nam nhi như anh còn biết bao nhiệm vụ cao cả đối với xã hội, với Quốc gia, Dân tộc! Tuổi nầy đâu có phải để than khóc hão huyền vì một mối tình oan trái? Tình yêu? Vâng, nó cũng là một trong những động cơ chánh của cuộc sống bồng bột của tuổi trẻ, nhưng nó đâu phải là một lẽ sống duy nhứt của chúng ta? Chỉ những kẻ nào không có chí hướng, không có mục đích cao quý, không có lý tưởng đấu tranh cho Lẽ Phải, chỉ những kẻ ấy mới lấy nhục thú của tình yêu làm trọng, mới sẵn sàng phạm tội ác vì tình yêu, hủy bỏ tấm thân cho tình yêu, và hy sinh điên dại cho tình yêu. Em biết anh chỉ lỡ lầm trong giây phút cuồng điên chớ anh đâu phải là một thanh niên suy đồi, vô dụng. Anh có nhiều đức tánh quý báu của thanh niên Việt nam. Anh còn cứu vớt được danh dự và phẩm giá của anh bằng sự phấn khởi, hy sinh đời anh cho nghĩa vụ lớn lao...

    Chị Tư cũng an ủi Tình nhiều lời dịu dàng và mời Tình ở lại ăn cơm trưa. Tình xin phép chị cho anh mượn ghế bố để nằm nghỉ một lát. Chị Tư và cô Hiền xuống bếp làm cơm và sửa sọan một thúng đậu phộng luộc, và đậu phộng rang để một giờ trưa cho Vẹn đi bán.

    Tình kêu ớn lạnh và nhức đầu. Cô Hiền lấy đưa anh hai viên calmine và rót tách nước mời anh uống thuốc. Xong, cô vô buồng lấy ra một chiếc mền đưa anh đắp.

    °

    Trưa Tình nóng vùi, nằm mê man không biết gì hết. Cô Hiền vội vàng lấy dầu thoa cho anh, và chạy ra tiệm mua thuốc cảm sốt về cho anh uống. Chiều cô đi hái các thứ lá về nấu xông cho Tình.

    Cơn sốt hạ được vài tiếng đồng hồ, rồi 8 giờ tối Tình nóng lại. Cô Hiền để tay lên trán anh, thấy nóng hực. Nhưng trong người anh vẫn lạnh. Tình nằm trên chiếc ghế bố để nhà ngoài, trùm một chiếc mền và hai chiếc chiếu vẫn còn run cầm cập. Chị Tư và bé Vẹn gánh hột vịt lộn, bắp nướng và đậu phộng rang đi bán trên phố Chợ. Một mình cô Hiền ở nhà bắt ghế ngồi cạnh ghế bố, đan áo vừa coi chừng bịnh nhơn. Gian nhà vắng lặng. Dưới ánh đèn leo lét, Hiền để cuộn len xuống đầu gối, nhìn Tình, thương hại. Chốc chốc Tình khẽ bảo,giọng nói rên rỉ, uể oải:

    - Cô Sáu ơi, làm ơn cho tôi xin tách nước...

    Hiền đứng dậy lại bàn rót nước đem đến giường, dịu dàng đỡ Tình dậy. Cô cầm tách nước khẽ nghiêng vào miệng cho Tình uống.

    Một lát Vẹn về đưa Hiền một gói thuốc, lễ phép nói:

    - Thưa Dì Sáu, Má con bảo đưa Dì Sáu gói thuốc nóng Iạnh. Dì Sáu rót nước bỏ một chút đường, cho cậu Tình uống liền bây giờ.

    - Cám ơn cháu.

    Hiền rót một tách nước khác, bỏ thuốc vào với một muỗng nhỏ đường, lẫy muỗng hòa cho đường thật tan, rồi cầm đến cho Tình uống.

    Tình uống xong, nhìn Hiền với cặp mắt biết ơn rất cảm động:

    - Tôi làm phiền cô Sáu quá... cô Sáu tha lỗi cho tôi...

    Hiền mỉm cười dịu dàng, đỡ Tình nằm xuống:

    - Anh ngủ đi.

    Sáng dậy thật sớm, Tình đi lên phố mội lúc, gần chín giờ trở về nhà chị Tư. Tình mượn cô Hiền một cây bút, lọ mực, và xin một tờ giấy. Tình ngồi bàn, suy nghĩ một hồi lâu, rồi viết:

    Lò Gạch, ngày 7 tháng 2.

    Kính gởi cô Mỹ Phượng

    Tôi rất ăn năn vì những lời nói vô lễ và cử chỉ hỗn xược của tôi đối với cô hồi sáng hôm qua.

    Tôi rất hối hận vì đã có ý nghĩ sai lầm về cô.

    Hơn nữa, tôi rất kính phục tư cách hòa nhã và cao thượng của cô. Lòng tốt quảng đại vô biên của: cô đã khiến tôi cảm kích vô cùng.

    Tôi xin cô tha lỗi cho một kẻ đã mất trí, hành động và tư tưởng mù quáng, tâm hồn bị đè nặng dưới một niềm đau khổ điên cuồng mà tôi kém phần tự chủ.

    Tôi xin nghiêng mình thành thật cảm ơn cô và kính chào cô.

    TRẦN VĂN TÌNH

    Tình đưa thư cho Chị Tư Lành và cô Hiền xem, rồi bỏ vào phong bì không dán, rồi nói:

    - Chị Tư à, sáng nay em phiền chị một việc, nhờ chị giúp em. Em vừa ra phố may mắn gặp anh Hai Ngơi mà em đã quen từ dưới Sàigòn. Anh là một tài xế giỏi, rất thạo máy và tư cách đàng hoàng, tính nết hiền lành lễ phép. Anh cũng đang thất nghiệp vì chủ anh là người Tây vừa mới xuống tàu về Pháp. Em có chỉ nhà ở đây và hẹn anh chín giờ rưởi đến. Anh vui vẻ nhận lời em nhờ anh vô giúp việc cho ông Giáo và cô, thay thế em. Vì em đã suy nghĩ kỹ: em nên xin thôi, để kiếm việc làm nơi khác. Em cũng không nên phá hạnh phúc của cô Phượng, hạnh phúc êm đẹp mà cô rất xứng đáng đưọc hưởng, và em cũng thành thật mừng cho cô đã gặp được người chồng rất tốt như ông Giáo. Em đã hoàn toàn hối hận về hành động của em hôm qua. Vậy, chốc nữa anh Hai Ngơi đến, em nhờ chị làm ơn cầm bức thư nầy đến đưa cô Phượng, nhờ chị nói rõ ý định của em và chị giới thiệu giùm anh tài xế mới. Anh có đủ các giấy tờ chứng chỉ tốt.

    Chị Tư cười:

    - Được, việc ấy tôi xin sẵn lòng giúp cậu.

    Cô Hiền cũng mỉm cười, dịu-dàng nói:

    - Thế là anh Tình đã trở lại anh Tình! Anh Tình có thế mới là anh Tình chứ!

    Hiền và Tình trao đổi cùng nhau một nụ cười đầy hứa hẹn..


  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương IX
    NĂM năm sau. Một buổi sáng tưng bừng rực rỡ trên Đại lộ Nguyễn Huệ, ở trung tâm Sàigòn, dân chúng đứng hai bên lề đường đông nghẹt xem một cuộc duyệt binh lạ thường, rất oai nghiêm và cảm động. Bộ đội kháng chiến của Thiếu tướng Trịnh minh Thế, từ chiến khu Tây Ninh, kéo về hợp tác với Chính phủ,

    Đứng dài suốt dọc đường Nguyễn Huệ, giữa hai giãy cây cổ thụ xanh um và một vườn cờ phất phơ màu vàng màu đỏ trước hai hàng phố, binh sĩ và các lớp chỉ huy toàn mặc đồ bà ba đen của Nghĩa dũng quân, sắp hàng tư, nai nịt đủ súng ống, nét mặt người nào cũng đầy vẽ oai nghi lẫm liệt. Họ đã sống bao nhiêu năm gay go anh dũng trong núi rừng, chiến đấu trung kiên cho lý tưởng cao cả: Việt nam độc lập. Không đảng phái, không âm mưu vụ lợi, họ chỉ biết phục vụ cho Tổ quốc Việt nam, Dân tộc Việt nam, và trải qua bao nhiêu thử thách, bao nhiêu cạm bẫy, họ vẫn giữ trung thành với chí hướng cho đến phút thành công.

    Dân chúng Thủ đô đã từng nghe danh tiếng lẫy lừng của Bộ đội Liên Minh Trịnh minh Thế. Nay được chứng kiến tường tận buổi lễ khải hoàn nầy, họ kéo đi xem rất đông, với tấm lòng hân hoan ngưỡng mộ.

    Nhân ngày lễ nghỉ, ông Giáo sư Trần tất Bảo và cô vợ trẻ đẹp Mỹ Phượng dắt cậu con trai sáu tuổi, cô con gái bốn tuổi,và ẳm một cô bé hai tuổi trên tay, cũng đứng coi chỗ góc đường Huỳnh thúc Kháng.

    Sau các nghi lễ long trọng mà Thiếu tướng Trịnh minh Thế nhận lãnh lá Quốc Kỳ, bộ đội kháng chiến bắt đầu biểu diễn qua trước khán đài danh dự. Họ bước đi đều đặn, oai nghiêm, quay mặt vào khán đài.

    Bỗng Mỹ Phượng đăm đăm nhìn một chiến sĩ hùng dũng nhứt, một Đại Đội trưởng, dẫn đầu một tốp quân. Mỹ Phuợng ngạc nhiên, vui mừng nhận rõ mặt người chiến sĩ kia là anh Tình. Duy có ông Giáo vì lâu ngày không còn nhớ rõ mặt người tài xế cũ của ông chỉ giúp việc cho ông không quá 15 ngày. Tình cũng đã trông thấy Phượng. Vừa đi qua trước mặt Phượng, anh nghiêm nghị, cảm động, đưa tay lên theo kiểu nhà binh chào hai vợ chồng ông Giáo. Phượng nghiêng đầu đáp lễ.

    Đi một quãng đến khúc quẹo qua đường Lê Lợi, anh Đại Đội trưởng âu yếm ngó một thiếu nữ cũng rất đẹp, nhưng đứng một mình, mỉm cười vẫy anh; cô Sáu Hiền ở Đà lạt mới xuống hôm trước để đón người chiến sĩ của lòng cô.

    °

    Nửa tháng sau, ông Giáo đưa vợ coi một thiệp cưới vừa nhận được:

    - Cô Lê thị Hiền là ai đây, hả mình?

    Mỹ Phượng cười:

    - Mình có nhớ hôm lễ cưới của hai đứa mình ở nhà Ba Má, lúc mình và em âu yếm đeo cho nhau chiếc nhẫn cưới, có một cô bạn gái rất đẹp của em vỗ tay hoan hô, mình có nhớ không?

    - Có. Chính cô ấy đem đến mời anh chiếc bánh in hình con chim phượng, phải không?

    - Phải. Cô bạn ranh mãnh ấy là Lê thị Hiền tức là cô Sáu Hiền đó. Và chiếc bánh cưới in hình chim phượng là chính tự tay cô làm ra để tặng mình với em.

    - Còn Trần văn Tình là ai? Anh nhớ mang máng cái tên mà không nhớ người.

    Phượng phì cười:

    - Thưa ông Giáo sư Văn chương của em, lần đầu tiên ông không thuộc bài: đó là tên anh tài xế cũ của ông Giáo đó ạ!

    Mỹ Phượng nói tiếp:

    - Sau khi xin thôi việc ở nhà mình, anh ấy đi chiến khu Tây Ninh, do sự giới thiệu của cô Hiền, vị hôn thê mới của anh, ờ đường Lò Gạch Đà lạt.

    Ông Giáo ngạc nhiên:

    - Còn người vị hôn thê cũ của anh ta, anh không tìm được sao?

    Mỹ Phượng ngã đầu âu yếm vào vai chồng:

    - Hình như người ấy đã có chồng rồi.

    .....................

    Ông Giáo và Mỹ Phượng đồng ý gởi nhiều quà cưới rất lịch sự tặng vợ chồng anh Đại đội trưởng và cô bạn ranh mãnh năm xưa. Tình và Hiền hết sức cảm động.

    °

    Lễ cưới xong, hôm sau, vợ chồng ông Giáo viết giấy mời Tình và Hiền dùng một bữa cơm thân mật trong gia đình. Đôi vợ chồng mới vui vẻ hân hạnh nhận lời.

    Đúng bảy giờ tối, hai người đỗ xe tắc xi trước cổng Biệt thự Mỹ Phượng, đường Prenn.

    Ông Giáo còn bận chút việc trên lầu, Phượng xuống trước mời hai bạn vào phòng khách, Phượng rất đỗi ngạc nhiên thấy cô sáu Hiền mặc chiếc áo hồng, thêu bông phượng … Nhìn kỹ, chính chiếc áo cưới màu hồng từ 8 năm trước của Tình tặng Phượng thêu hoa… nay vẫn còn như mới tinh.

    Hiền mặc vừa sít sao. Ôm chặt thân hình thướt tha uyển chuyển của nàng.

    Phượng, Hiền và Tình vui đùa chung quanh kỷ niệm lý thú ấy thì ông Giáo vừa xuống. Ông thân mật bắt tay Tình :

    - Tôi không ngờ bữa nay được hân hạnh tiếp một chiến sĩ anh dũng của Thiếu Tướng Trịnh Minh Thế ! Tôi càng không ngờ anh tài xế cũ của tôi hôm nay lại là chồng yêu quý của cô bạn Lê thị Hiền là người đã có mỹ ý tặng tôi năm xưa chiếc nhánh cưới in hình con chim phượng.

    Cả nhóm vui cười rần rộ. Ông quay lại cô Hiền, ngắm nghía chie-1c áo dài của cô, rồi cũng với giọng nói vui vẻ bình dân ấy, ông khen:

    - Bà Đại Đội Trưởng mặc chiếc áo đẹp quá !

    Hiền thân mật đáp:

    - Chiếc áo cưới màu hồng của chị Mỹ Phượng tặng em đấy ạ !

    Tiếng cười lại nổ ran lên, vang dậy cả phòng khách, như một tràng pháo cưới.

    Hết

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 07-02-2016, 01:00 PM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-16-2015, 01:57 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-25-2014, 02:14 PM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-06-2014, 12:33 PM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-05-2014, 12:55 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •