Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Hạnh phúc nào cũng phải đánh đổi bằng ít nhiều đau khổ.
Margaret Oliphant
Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12
Results 11 to 15 of 15

Chủ Đề: Đỉnh Non Thần

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Đỉnh Non Thần

    Đỉnh Non Thần

    Tác giả :Lan Khai




    CHƯƠNG I

    Tòa thánh đất châu Đại Man đứng sừng sững bên bờ phía tây sông Gấm, trên một gò cao hình phẩm oản.

    Bốn thung lũng bọc chung quanh chân gò như một cái hào thiên nhiên.

    Nhà cửa dân cư vây kín bên ngoài phần nhiều là mái tranh vách đất.

    Đường từ phố vào thành chỉ có một lối khuất khúc chạy đến một đoạn cầu treo men qua lòng vực thẳm, ngay phía cửa tiền.

    Bờ thành cao hơn trượng, bốn cửa có bốn vọng gác, ngày đêm lúc nào cũng canh giữ nghiêm cẩn.

    Trong giữa thành, một tòa nhà kiểu cung điện, mặt ngoảnh về phương nam, mái lợp ngói vẩy rồng, toàn thân bằng gỗ sến sắc hồng. Hướng nhà ấy không phải là ngẫu nhiên. Chính do cái ý ngầm nam diện xưng cô 1 của Ma Vạn Thắng.

    Ma nhận thấy tình trạng trong nước nhiễu loạn, nào giặc Cờ Đen, Cờ Vàng, Cờ Trắng 2, Cờ Đỏ nổi tứ tung liền cũng tự xưng làm Đại Tiết chế, lấy danh nghĩa phù tá triều đình, nhưng bản thân thì thực có chia giang sơn riêng cõi, làm tỏ mặt can trường...

    Ma Vạn Thắng giấu rất kỹ cái ý mình nên các tả hữu thân tín cũng không ai biết được. Là bởi, Ma tự liệu sức mình chưa thể cùng một lúc với Hoàng Sùng Anh (tướng Cờ Vàng), Lưu Vĩnh Phúc (tướng Cờ Đen), và triều nhà Nguyễn được.

    Một buổi chiều kia, mặt trời vừa lặn, Ma Vạn Thắng lên vọng lầu đứng nhìn phong cảnh.

    Những chỏm núi xa trùng điệp hãy còn vương bụi nắng chiều vàng trong khi chân núi bắt đầu tan trong sương lam mờ tỏa...

    Dưới lòng thung, rừng cây rì rầm như sóng bể, vang lên để rồi im hơi lặng tiếng...

    Đêm ngàn trở lại với tiếng cú kêu, hùm rống, và những bí mật rợn người.

    Dòng sông Gấm thờ ơ chảy, màu nước biếc xanh phủ bọt trắng ngần, nom như một tấm lam hoa bạc.

    Vạn Thắng vuốt chòm râu quai nón, lẩm bẩm nói một mình:

    - Làm tài trai nên có lúc đắc chí như Tào Mạnh Đức cầm ngang ngọn giáo, nốc rượu say rồi ngâm thơ trên mũi thuyền chiến ở cửa Tam Giang!... Núi Thần, sông Gấm, cảnh đẹp như tranh, ai bảo không phải là non sông riêng của ta!

    Nói đoạn, Ma cất tiếng cười khanh khách, phô ra hai hàm răng bàn cuốc màu ngà cũ...

    Bỗng, một tiếng kêu thăm thẳm, như lọt tự lòng đất lên khiến Ma Vạn Thắng cau mặt. Ma lắng tai nghe. Tiếng kêu bẵng hẳn. Rồi lại văng vẳng âm thầm...

    Ma Vạn Thắng vỗ mạnh hai bàn tay vào nhau, gọi:

    - Sẩu à!... Sẩu!...

    Một người đàn ông lực lưỡng hiện ra, mình trần đến thắt lưng, bắp thịt nổi rõ dưới làn da bánh mật, ngực đen những lông như lông gấu. Cạnh sườn tay trái anh ta đeo một con dao to bản, cài trong chiếc vỏ đồng. Cặp mắt anh ta lim dim như mắt mèo, hàm răng khểnh như răng vượn già, toàn thân có cái dáng nhanh nhẹn của một con đười ươi, vẻ mặt lạnh lùng như của một pho tượng đá.

    Ma Vạn Thắng hỏi:

    - Nó đâu?

    Mùn Sẩu giơ ngón tay trái qua vai đáp:

    - Vẫn còn nguyên chỗ cũ.

    - Tao vừa nghe như nó kêu thì phải?

    - Vâng, chính nó kêu.

    - Mày có biết ý nó lại đây làm gì và từ đâu đến chăng?

    - Hình như nó từ Hà Giang về thì phải. Nó lẻn vào phố, thì thầm với tên chủ nhà trọ Nông Văn Phù một cách bí mật.

    - Chắc nó là tay sai của Hoàng Sùng Anh về đây do thám. Hãy tống nó xuống hầm, đừng để lộ tai tiếng, chờ xem động tĩnh ra sao đã.

    Vạn Thắng không cần phải dặn thì Mùn Sẩu cũng toan làm như thế. Đối với bọn giặc Khách, Mùn Sẩu ghét hơn ghét bệnh hủi.

    - Thưa chúa công, nó sục sạo luôn luôn, tưởng có thể trốn thoát được. Lại nhiều lúc nó nằm cù rù như một con chó ốm vậy...

    Vạn Thắng nhìn Mùn Sẩu, nhưng tỏ ý chán tai không muốn nghe nữa.

    Cảnh chiều hôm với những núi rừng bát ngát làm cho Vạn Thắng say sưa, náo nức lên. Những tư tưởng hào hùng, những hy vọng vĩ đại dào dạt trong tâm hồn Vạn Thắng như mặt bể sóng cồn. Từng cơn gió nóng ngào ngạt mùi hương, chốc chốc thoảng vào mặt Vạn Thắng như những hơi thở nồng nàn, bí mật. Ai đó khẽ đặt bàn tay lên vai Vạn Thắng. Võ tướng quay lại, Yến Xuân đã đứng ở sau lưng chồng tự lúc nào.

    Một tấm áo lụa màu chàm buông xuống gần bén gót Yến Xuân. Vội vàng từ khuê phòng bước ra, Yến Xuân chẳng kịp phấn sáp trang điểm gì cả, một mớ tóc xòa xuống ngực, lách qua dưới làn yếm nổi căng thêu mỏng. Hai má hồng hào, cặp mắt lấp lánh. Yến Xuân bảo với chồng bằng một giọng đắc thắng:

    - Lưu Vĩnh Phúc về hàng với nhà Nguyễn rồi!

    - Ai bảo nàng biết?

    - Tôi khắc biết!

    Vạn Thắng mỉm cười vì nhớ ra rằng chị họ vợ mình lấy Hoàng Tiền Đình, một tướng của Lưu.

    Yến Xuân nói tiếp:

    - Lưu đã được nhà vua cho ở mạn Lào Cai để cự địch với Hoàng Sùng Anh. Hắn thế nào chẳng sắp có thư mời ta cùng hợp lực với hắn để đánh Hà Giang!

    - Nhưng ai dại gì đem thân dẹp đường cho hắn!

    Yến Xuân cả quyết:

    - Ta thể nào cũng phải giúp Lưu Vĩnh Phúc.

    Vạn Thắng cau lông mày tỏ ý tức giận:

    - Tại sao?

    Yến Xuân cười nhạt:

    - Xưa nay, Lưu - Hoàng vẫn là hai cái đinh ở trước mắt ta. Chúng nó mà hòa nhau thì ta mong gì ngóc đầu lên được! Nay tự nhiên chúng kình nhau, tức là trời giúp ta đấy. Ta phải vờ phò Lưu để diệt Hoàng vì đường lối vùng này ta rất thông thuộc. Khi Hoàng đã thua, đã chết, ta sẽ mượn tiếng làm tôi nhà Nguyễn quay lại đánh Lưu. Hai cái đinh cùng nhổ cả rồi thì một vùng từ Tuyên Quang lên tới Hà Giang chẳng thuộc về ta, còn về ai nữa. Vua tôi nhà Nguyễn có biết vậy, song còn mải chống nhau với giặc... chắc cũng phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Ta ung dung xây đồn, lập trại, chứa lương, mộ lính, mỗi ngày một gây thêm sức mạnh để dự bị về sau. Đến lúc mọi việc đã như ý muốn, thì dù ai có biết cũng chẳng làm gì nổi ta.

    Dứt lời. Yến Xuân thuật rõ cho chồng nghe tất cả những mưu chước của mình: nào xúi giục cho các tướng lĩnh của Lưu, Hoàng ghét nhau, nào thuê người do thám cả hai bên.

    - Chẳng một việc gì lợi cho ta mà lại không làm. Tôi chẳng quản khó nhọc, nguy hiểm gì cả. Vì chàng, tôi chẳng đã làm hơn nữa đó ru? Tôi đã giết chồng, tôi đã bỏ con tôi giữa khi còn trứng nước!...

    Ma Vạn Thắng biến sắc. Câu chuyện từ hai mươi năm qua Vạn Thắng đang cố quên đi không ngờ Yến Xuân còn động tới!

    Cả một dĩ vãng lại sống lại trước mắt Vạn Thắng đẫm máu hồng...

    Vạn Thắng ngoảnh mặt đi để tránh cặp mắt của vợ. Yến Xuân ngồi phịch xuống bao lan gỗ, tay ôm mặt khóc...

    Nhưng chỉ giây phút, Yến Xuân đã chùi ráo lệ, hứa sẽ không nghĩ đến chuyện xưa và quả quyết rằng mình sung sướng, đoạn nàng cố nhắc lại những kỷ niệm êm đềm, những mộng thắm tươi về tương lai, những công cuộc dự bị tranh bá đồ vương phần nhiều đã như ý muốn.

    Yến Xuân nhìn chồng, khe khẽ sát mình vào ngực chồng một cách nũng nịu.

    Vạn Thắng đẩy nàng ra, lùi lại phía sau một bước. Mối tình mà Yến Xuân cố nhóm lại đã chỉ còn như một mớ than gần vạc. Vả lại, chính mối tình ấy đã phát nguyên ra trong lòng Vạn Thắng biết bao đau khổ, biết bao hối hận ngấm ngầm. Chính nó đã làm cho Vạn Thắng chóng già hẳn đi. Hai vai Vạn Thắng đã dần dần trĩu xuống, mái tóc đã điểm hoa râm, vòm trán đã hiện nhiều vệt nhăn như sóng gợn. Trán Yến Xuân cũng thế, cũng nhăn rồi. Hai người đối diện nhau, nhìn nhau một cách hằn thù dữ dội.

    Con đường núi vào thành bắt đầu trở nên đông đảo. Từng đàn trâu bò đi nối nhau, làm vẩn bụi đường. Từng lũ dân Thổ, Mán bước nhanh vai kĩu kịt, mỗi người một gánh thóc. Đó là những dân khắp vùng châu Đại Man nhớ ngày đem lương thảo về nộp. Sự cung ứng gạo thịt ấy đối với họ - những tâm hồn chất phác và phục tùng, được coi là những bổn phận thiêng liêng. Bởi thế nên họ không phàn nàn, oán hận mà trái lại, họ còn vui vẻ, hãnh diện được mang nộp cho chủ tướng nữa. Họ vừa đi vừa hát vang lên để quên gánh nặng và dặm trường.

    Tiếng hát cất lanh lảnh, xuống dần, xuống dần, ngắc ngoải, mất tăm trong tĩnh mịch lớn lao của rừng núi để rồi lại vút lên như con chim bị đạn còn gượng bay... Thực là buồn, buồn vô cùng, buồn đến tiêu mòn hết nghị lực và tấm lòng hăng hái của người ta, một cái buồn cũng khó hiểu, cũng đen tối thăm thẳm như tâm hồn bọn man dân nọ.

    Giống hệt dòng thác lũ, đám người đổ dồn vào cổng thành rồi đứng lại trên mặt sân, trước thềm điện chính.

    Một lão già leo lên vọng lâu mình gầy đét trong tấm vải chàm rách bướp, tay chống cái gậy trúc màu vàng.

    Mùn Sẩu tuốt gươm nhảy lại. Yến Xuân hét:

    - Chém!

    Vạn Thắng vội quát theo:

    - Không được giết!

    Lão già đứng im như tượng gỗ.

    Vạn Thắng vẫy tay ra hiệu. Lão già mủm mỉm cười lùi xuống chân thang.

    Yến Xuân hỏi chồng:

    - Sao lại không giết? Tôi biết lão thầy mo ấy, tên nó là Ké So, nó đi lại thì thọt với mấy tên gian tế của Hoàng Sùng Anh, có lẽ chực làm nội phản.

    Vạn Thắng nhận cũng có biết và nghi như thế, song hãy để dùng lão thầy cúng ấy đã. Theo ý Vạn Thắng thì chưa vội gì phải giết lão. Còn như bảo lão có thể nguy hiểm được, Vạn Thắng không những không tin mà còn buồn cười là khác.

    - Thôi im đi!

    Yến Xuân quát lên đoạn kể lại những sự nhục nhã của nàng một hôm đi xem hội. Hôm ấy, Yến Xuân vừa cưỡi ngựa tới đám thì Ké So trông ngay thấy. Lão đứng lên một mô cao giảng to về lẽ thiện ác cho mọi người nghe, lại cố ý nói mỉa mai những kẻ phản bội như lừa thầy, phản bạn, rẫy vợ, giết chồng. Yến Xuân hổ thẹn phải quất ngựa chạy. Đằng sau, công chúng phá lên cười.

    Ké So mà sống ngày nào thì mối thù của Yến Xuân còn chưa báo được. Nàng chỉ muốn sai Mùn Sẩu bắt lão trói gô lại rồi thân tự cầm dao mà xẻo từng miếng thịt lão cho hả giận.

    Vậy, cớ sao Vạn Thắng nhất định không giết lão? Cớ sao Vạn Thắng cứ để cho lão sống hoài để nói xấu nói hổ nàng như một loài rắn phun nọc độc?

    Yến Xuân lo sợ, chỉ e một ngày kia những lời thị phi độc ác sẽ làm chuyển lòng Vạn Thắng, rồi Vạn Thắng sẽ bỏ nàng. Đến nông nỗi ấy, nàng phỏng còn mong gì? Từ khi còn con gái, Yến Xuân đã nuôi trong lòng cái hy vọng làm bà chủ một giang sơn. Chính vì để đạt cái mục đích ấy nên Yến Xuân đã xúi Vạn Thắng giết chồng cũ nàng là Bàn Văn Nhị, và bỏ một đứa con trai mới đẻ, theo Vạn Thắng về châu Đại Man. Nhờ sự bội phản của Yến Xuân nên Trung quân Tổng thống Đoàn Thọ của Nguyễn triều mới dẹp yên được vùng Tuyên Quang và Vạn Thắng mới được nhà vua tin cậy.

    Yến Xuân rít lên:

    - Tôi theo chàng là cốt tìm lấy một bậc anh dũng để nương nhờ...

    Vạn Thắng điềm nhiên nói ngắt:

    - Thì nơi nương tựa này đáng tin chớ sao?

    Yến Xuân run người, cảm thấy máu của dòng vũ tướng Lương Văn Lợi (đồng đẳng của Bàn Văn Nhị trước) sôi nổi lên trong huyết quản.

    - Nhưng chàng hèn nhát lắm, chàng nhu nhược lắm! Ké So nó nhục tôi, chàng không cho giết. Bọn dân hỗn xược dám nhạo báng tôi, chàng cũng để yên, tôi còn nhờ cậy chàng được việc gì?

    Vạn Thắng làm thinh giả điếc. Y vịn vào bao lan, nhìn đám đông lòe loẹt ở dưới sâu, giữa những cuôi gạo lót lá dong và những con trâu, con bò thản nhiên, trầm mặc.

    Ánh sáng mỗi lúc một nhạt...

    Trong công đường, bọn lính đã bắt đầu nổi trống mõ thu không...

    Bỗng, con thị tỳ hớt hơ hớt hải chạy lên.

    Vạn Thắng và Yến Xuân cùng hỏi:

    - Cái gì mà bay như kẻ mất vía vậy?

    - Bẩm, nàng Nhạn đi săn chẳng biết sao mãi bây giờ chưa về.

    Vạn Thắng hoảng sợ vội hỏi:

    - Đi tự lúc nào?

    - Bẩm, đi từ lúc đứng bóng.

    - Đi ngựa hay đi chân?

    - Đi ngựa.

    - Có đứa nào theo?

    - Bẩm có hai tên Nọong Phù và Dưỡng theo hầu, cũng như mọi khi.

    - Nàng ra cửa tiền hay cửa hậu?

    - Bẩm, ra cửa tiền.

    - Mùn Sẩu!

    Tên hộ pháp lại hiện ra.

    - Mày có trông thấy nàng đi về phía nào không?

    - Bẩm có. Con có thấy nàng đi về phía đền Âm Hồn.

    Vạn Thắng quay ra phía trước dịch lâu, nhìn con đường khuất khúc.

    Ánh sáng đã tắt dần. Nhiều ánh đèn của nhà dân đã bắt đầu le lói sáng.

    Vạn Thắng giương to hai mắt sắc như mắt vọ nhìn bới móc đằng phía trước. Con đường vẫn vắng tanh. Những con dơi bay thấp thoáng quanh đầu Vạn Thắng trăm nghìn ý nghĩ tối tăm, rối loạn...

    Yến Xuân hậm hực vớ ngay lấy dịp để nghiến ngẩm chồng:

    - Hừ! Đã bảo có nghe đâu! Chả cứ chiều con gái mãi vào! Trường xác mười chín hai mươi tuổi đầu còn giong giả hết săn lại bắn... Thời buổi thì nào có bình yên gì cho cam: giặc cướp như ong, mà cứ ra khỏi nhà luôn thế lo ngại chẳng bị nó bắt đi rồi ấy à!

    Vạn Thắng càng lo sợ và càng gắt bẳn:

    - Mùn Sẩu! Sai đóng mười con ngựa và xuất mười tên giáp sĩ đi về phía đền Âm Hồn tìm xem. Nếu không thấy, cho phép mày cứ sục khắp nhà dân, bất kỳ đứa nào có dáng tình nghi đều bắt cổ nó về đây cho ta!

    Yến Xuân không thấy Vạn Thắng để ý đến lời mình nói, lấy làm căm lắm. Nàng vùng vằng xuống khỏi dịch lâu.

    Mùn Sẩu vâng lệnh chủ tướng, lập tức xuống trại điểm quân và sai đóng ngựa. Chỉ loáng cái, cửa thành đã mở rộng, đoàn dũng sĩ đã kéo nhau ra...

    Nhưng, cùng lúc ấy, Vạn Thắng vụt hét to:

    - Hãy thong thả xem cái gì kia đã!

    Quả nhiên, từ đầu đường xa, một bóng người đương cúi rạp xuống lưng con ngựa bạch, phóng như bay lại...

    Bóng người mỗi lúc một gần.

    Trong cái yên lặng của hoàng hôn, tiếng vó ngựa phi nghe đã rõ...

    Nhưng, đó chỉ là một người đàn ông!

    - Quái! Không phải! Người nào trông lạ lắm!

    Vạn Thắng hồi hộp, bứt rứt, không thể đứng yên được nữa liền chạy tốc xuống cổng thành!

    Người lạ cũng vừa tới nơi. Chàng gò cương nhảy phắt xuống đất, tay bế một người con gái.

    Vạn Thắng lạnh toát người như bị nước dội, trái tim tựa hồ đứng sững lại.

    Chàng trai trẻ cúi chào và hỏi:

    - Tôi muốn gặp Ma đại nhân.

    - Chính tôi! Trời ơi, con gái tôi làm sao thế này?

    - Bẩm đại nhân, tiểu thư bị thương, máu chảy nhiều quá nên ngất đi...

    Vạn Thắng nhìn cái áo lụa bạch của con gái và áo gấm ngắn màu lam của khách lạ thì quả nhiên ướt đẫm máu hồng.

    - Sự thể làm sao lại như thế được?

    - Xin đại nhân hãy cho vào trong nhà để buộc lại vết thương cho tiểu thư đã.

    Vạn Thắng khen phải liền đi trước dẫn đường.

    Khỏi cổng... Qua sân rộng... lên thềm.

    Cánh cửa mở toang ra như bị gió thốc. Tiếng xôn xao, tiếng bàn ghế bị xô dịch làm cho tòa lâu đài nhất đán trở nên ồn ào rối loạn...

    Chàng trai trẻ êm ái đặt thiếu nữ lên cái mặt sập giữa nhà, Vạn Thắng lập tức cho gọi lương y đến và chỉ một lát sau, vết thương của thiếu nữ đã được rửa ráy, buộc lại thuốc cẩn thận.

    Vạn Thắng mời chàng trai trẻ ngồi và bấy giờ mới kịp để ý nhìn chàng.

    Trạc độ ngoài hai chục tuổi, khách có một khuôn mặt rất khôi ngô. Màu da chàng hồng hào; cặp mắt chàng đen láy; mũi chàng thẳng; môi chàng dày, đỏ thắm; hàm răng đều và trắng bóng như ngọc trai.

    Chàng trai trẻ cuốn trên đầu một vuông khăn chéo màu nhiễu lam càng tôn sắc mặt. Mình mặc cái áo gấm lam ngắn rộng tay, chân đi giày cỏ. Dưới vạt áo, thấp thoáng một thanh gươm cổ.

    - Tráng sĩ từ đâu lại và vì sao tiện nữ lại bị thương như thế?

    - Bẩm đại nhân, tôi xin người cho phép tôi được miễn xưng tên họ. Tôi chỉ là một kẻ vô danh nay đây mai đó mà thôi. Vừa rồi, lúc tôi qua Rừng Cấm có chút việc, tôi bỗng thấy tiểu thư nhà đương đánh nhau với bọn giặc ở ngay cạnh hai cái xác chết!...

    - Ồ! Giặc nào dám cả gan như vậy nhỉ?

    - Bẩm đại nhân, chúng nó đều là người Khách, có lẽ quân Cờ Vàng.

    Vạn Thắng giật mình:

    - Quân Cờ Vàng?

    - Chắc thế. Chúng vây quanh lấy lệnh tiểu thư và toan bắt sống. Tiểu thư chống cự cũng giỏi lắm, song cánh tay bị thương nên có nguy cơ. Tôi chợt đến nơi, liền xông vào đánh giúp thì may sao giết được cả bốn đứa, duy chỉ một mình tên Mán già chạy thoát mà thôi.

    - Hoài của! Chẳng hay nó chạy về phía nào?

    - Lão lê gậy trúc lẩn vào rừng mất...

    - Nó cầm gậy trúc?

    - Bẩm vâng!

    Cặp lông mày chổi xể của Vạn Thắng cau lại, hai mắt hắn quắc lên. Hắn quay đầu gọi:

    - Mùn Sẩu!

    - Dạ.

    - Gọi Ké So vào đây, mau!

    Mùn Sẩu đâm xổ ra ngoài một lúc lâu mới trở lại, mặt cắt không còn giọt máu.

    - Bẩm đại nhân Ké So biến đâu mất rồi, con tìm mãi không thấy!

    Vạn Thắng đấm mạnh xuống bàn làm cho đọi đèn ụp đổ, ngọn lửa tắt, trong nhà tối om.

    - À, quân phản tặc! Tao thề nhai xương quân phản tặc phen này!

    --------------------------------
    1 Ngoảnh mặt về phía Nam mà xưng làm chúa.
    2 Xem Bóng cờ trắng trong sương mù đã đăng trong Phụ bán nguyệt san.

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG XI
    Đêm đã khuya lắm.

    Trong một hốc cây nào đó, con tắc kè đã kêu ba tiếng đều đặn, ba tiếng như ba giọt nước lạnh rỏ thánh thót trong lòng hang sâu...

    Trời cao thẳm, hơi vẩn sương mù tuy mấy ngôi sao nhấp nháy trong vô tận vẫn trông thấy rõ...

    Rừng núi nổi từng đám đen quái gở, bí mật, vẻ lì lì như đang thầm tính những chuyện gì ghê gớm.

    Thỉnh thoảng, một hơi gió thở dài qua kẽ lá... Rồi, đâu đó lại im lặng, một thứ im lặng thăm thẳm, bứt rứt ám ảnh, từ trong đó, vẳng ra cái tiếng suối đổ mơ hồ, nó gieo vào tâm hồn ta một cảm giác mông mênh về sự vật trường tồn...

    Động Phù Yên đã ngủ say như chết. Các trại quân đều chìm trong bóng tối và yên lặng... Chốc chốc, tiếng mõ cầm canh nổi một hồi rộn rã để một phút sau không còn chút vang động nào... Giữa đêm ngàn nặng trĩu bí mật mà trí tuệ không thể hiểu, cái dấu hiệu của loài người ấy có một tính cách thảm thê. Cái số kiếp người ta sinh ra chỉ là để ghê sợ lẫn nhau, để giữ miếng nhau từng tí!

    Nhưng cảm tưởng ấy rõ rệt đến nỗi một người có tâm hồn mộc mạc như ông già Bàn Văn Tam cũng phải ngơ ngẩn, vẩn vơ.

    Trái với mọi đêm, ông già tự nhiên thấy khó ngủ. Ông đã đi nằm nhưng sau lại vùng dậy... Là vì, trằn trọc mãi trên giường để cho các đầu xương cứ xung khắc mãi với ván cứng, ông đã thấy đau ê ẩm cả người.

    Ông vùng dậy, ngồi nhìn bâng khuâng bóng tối và lắng nghe cái tịch mịch bao trùm sự vật. Ông cảm thấy rờn rợn vì cái mà người ta vẫn quen gọi là lặng lẽ, ông bắt đầu thấy ngầm chứa rất nhiều hoạt động thầm kín.

    Ông ngờ vực như quanh mình có cả một thế giới đương thức, đương hằn học, thù hằn một cách ghê gớm. Hơn nữa, ông thấy mình ngẫu nhiên được chứng kiến một cuộc âm mưu vĩ đại của sự vật. Tiếng con mọt gặm cột bương, tiếng giường phản cựa lắc rắc, tiếng chuột chạy trên kèo nhà, tiếng gió lùa khe cửa mọi khi nghe rất thường, giờ có một ý nghĩa thầm kín làm cho ông sởn gai ốc.

    "Quái! Chẳng lẽ mình nhát thế!". Ông già lẩm bẩm nhắc đi nhắc lại câu nói như một chiến sĩ lúc ra trận cất tiếng hát to bài võ ca để lừa dối những hồi hộp trong lòng.

    Nhưng, càng quả quyết rằng mình không sợ, ông già càng thấy sợ hơn.

    Ông cố bới móc trong đầu lấy một chuyện gì để quên cái cảm giác lạnh lẽo nó bám lấy tâm hồn ông như một con nhện đen lạnh lẽo.

    Tuyết Hận đi, hẹn sẽ đem thủ cấp Ma Vạn Thắng về. Hừ! Cu cậu chừng hối hận. Sự hối quá bao giờ cũng là một cái hay. Nó cũng ví như thang thuốc đắng. Không biết cháu ta nó lấy đâu được những ý nghĩ rất lạ!

    Những ý nghĩ mà ông cho là phiền phức, khó hiểu và vô ích lại văng vẳng bên tai ông trong giọng nói buồn rầu của chàng trai trẻ: "Người ta sống trong bầu cảnh vật đẹp đẽ nhường này, cớ sao lại cứ phải thù oán giết hại nhau? Cớ sao, trước muôn nghìn hình sắc tốt tươi, trước muôn tiếng chim ca gió thổi, người ta không mở rộng tấm lòng để đón lấy những rung động êm đềm? Cớ sao người ta không yêu mến đồng loại và các sinh vật khác mà Hóa công đã tạo nên một cách đa tình? Cớ sao ta cứ ghen ghét nhau, hằn học nhau, độc ác, ích kỷ? Và, như thế để làm gì để một ngày kia lăn đùng ra chết!".

    Ông già mỉm cười, khẽ lẩm bẩm:

    - Thực là viển vông. Tuổi trẻ thiếu kinh nghiệm tưởng cuộc đời như một bài thơ mà người ta ở với nhau như trong họ mạc cả! Họ mạc còn có khi đâm chém nhau đấy!

    Dứt lời, ông lại nghĩ đến cái chết của anh ông là Bàn Văn Nhị, đến mối thù sâu mà ông mang nặng từ hai chục năm trời. Mối thù ấy, vừa rồi, ông tưởng đã rửa sạch bằng máu cừu nhân không ngờ lại hỏng mất cơ hội. Ông hậm hực mãi. Vết thương trong tim hồ đóng vẩy lại sướt ra và rớm máu. Nhưng sau cái chết can đảm của Yến Xuân, cái mưu kế mà Tựu Nghĩa đã đem sang châu Đại Man, nhất là sự hối quả của Tuyết Hận dần dần làm cho ông nguôi lòng.

    Yến Xuân đã vì hối hận mà tự sát, thì nỗi căm hờn thù ghét nhân loại trong lòng ông đã giảm hẳn đi được một nửa. Ừ, như thế thì người đời có hỏng bất quá như trái cây mới thối có một phần!

    Tựu Nghĩa hăng hái đi phục thù khiến ông càng vững lòng tin rằng sự thù oán cố kết của ông là hợp lẽ, mặc dầu đã có lúc ông thấy nó lung lay trước những lời phân trần của Tuyết Hận.

    Chẳng thế mà chính Tuyết Hận bây giờ cũng phải hổ thẹn mà hứa sẽ lấy đầu Vạn Thắng đem về.

    Chắc hẳn cháu ông cảm thấy vì sự hy sinh của Tựu Nghĩa. Một người bề tôi không máu mủ còn biết thương xót tức giận thay huống hồ con rứt ruột đẻ ra?

    Những sự may mắn đó có thể là điềm tốt. Ông già có thể ngay từ bây giờ xoa tay chờ đợi tin mừng được.

    Ý nghĩ này làm cho Bàn Văn Tam khoan khoái. Ông hớn hở nhìn quanh như tìm một ai để chia sẻ sự đắc ý, nhưng đêm tối chung quanh vẫn lầm lầm bí mật, vẫn như một người bạn ngúng nguẩy quay đi.

    Rút cái điếu can dài, ông quay ra hút thuốc.

    Phải, những lúc buồn rầu hay sung sướng mà người ta chỉ có một mình thì người ta chỉ có thể có được một người bạn thân tín nhất, kín đáo nhất là cái điếu mà thôi.

    Mồi thuốc cháy, một làn khói tỏa thơm lên nghi ngút làm cho ý nghĩ ông già cũng nhẹ nhàng bay bổng. Một cảm giác bùi ngùi tan dần thấm dần trong miệng làm cho tâm hồn say sưa, phiêu diêu, khinh khoái...

    Bỗng, ông đắc chí nói một mình:

    - Có lẽ trong lúc này khắp thế gian chỉ có ta còn thức!

    Nhưng, ông già đã nhầm và ông sẽ nhận thấy mình nhầm nếu ông ra khu rừng phía Bắc, gần ngay trại quân của ông.

    Khu rừng tối tăm, bí hiểm lúc ấy tưởng chỉ là nơi lai vãng của hùm beo rắn rết, chứ ngờ đâu còn thấp thoáng có bóng người!

    Phải, một cái bóng người từ trên một cây bồ đề cao vút từ từ leo xuống, đoạn cắm đầu cúi đi...

    Tiếng lá cây bị giày xéo ràn rạt tới đâu, giun dế lại ngừng kêu đến đấy như ngạc nhiên kinh dị...

    Bóng đen cứ mò mẫm tiến lên, chắc chắn không còn ai nom thấy hoặc bắt gặp mình nữa.

    Hắn vừa đi vừa giơ tay ra phía trước rẽ lau vạch cỏ. Lưỡi đao trong tay lão thỉnh thoảng nhấp nhánh sáng.

    Chốc chốc, một con vật chạy roàn roạt làm cho bóng đen đứng dừng lại nghe ngóng...

    Tiếng động qua, bóng đen không thấy gì nguy hiểm lại vững dạ tiến lên.

    Nhưng, uỵch! Hắn vướng dây ngã.

    Một tiếng càu nhàu!

    A! Đích thị là người chứ không phải ma quái như thời khắc bấy giờ vẫn dễ làm cho người ta tin có sự phi thường.

    Sức cản trở của thảo mộc dần dần khiến cho bóng đen mệt nhọc vì hơi thở của hắn bắt đầu cấp bách và mạnh.

    Nhưng, hắn vẫn đi nhanh...

    Là vì, sau lưng hắn, đàn muỗi đói từ nãy vẫn đuổi theo vo vo như đàn ong. Chúng theo, theo mãi, theo chẳng khác một cái ám ảnh. Và dạn dần, chúng bay xít lại gần gáy hắn...

    Từ những lớp lá cây rụng chồng đống lên nhau đã mục nát, những con vắt vô hình đua nhau rúc vào trong áo, vẽ lên mình bóng đen những vết lạnh buốt làm cho hắn sởn gai tuy hắn không sợ gì cả.

    Đồn trại Phù Hiên đã gần...

    Thấy động, đàn chó trong sân cùng sủa rầm rĩ. Những con ngỗng nuôi để giúp quân canh cũng quàng quạc váng lên...

    Trong trại, người ta cựa mình, thức giấc... Những tiếng xì xào chạy từ miệng này sang miệng khác như một cái rùng mình...

    Bóng đen đứng lại.

    Đàn chó càng sủa già!

    Đàn ngỗng càng kêu to.

    - Những của chết tiệt!

    Bóng đen chưa dứt lời thì tiếng trống đã nổi vang động.

    Rồi, những hiệu lệnh tung ra.

    Trong trại đã đánh hơi thấy một sự nguy hiểm. Bóng đen ngần ngừ: tiến hay thoái?

    Tiếng ông già BànVăn Tam cất lên lanh lảnh:

    - Quân bay!

    Một tiếng dạ như sóng cồn.

    - Phòng có gian tế rình mò!

    Lập tức, chân người chạy huỳnh huỵch rồi một lát sau một loạt hỏa hổ bắn ra rừng, về phía chó cắn. Lửa bắn vào cỏ khô lem lém cháy, tiếng nổ nghe lép bép...

    Những bụi rậm, những thân cổ thụ hình thù quái gở, những đoạn dây leo to bằng bắp chân đột ngột hiện ra trong vùng sáng đỏ nom như ma quỷ hiện hình và những con trăn rắn dữ tợn...

    Bóng người thấy nguy, vội trèo thực nhanh lên một cây to, ôm chặt lấy nửa thân cây chìm khuất trong tối.

    Đàn chó dần dần bớt sủa. Ngỗng dần dần thôi kêu... Lửa dần dần tắt...

    Quân sĩ không thấy gì lạ, lại cùng nhau ai về chốn nấy. Sự im lặng lại bao trùm lấy sự vật. Chờ một lúc lâu, bóng đen mới thong thả tụt xuống đất.

    Lần này, hắn bước rất nhẹ và đi rất thong thả chứ không dám bước bạo như trước nữa. Hắn mon men về hướng Tây...

    Con bìm bịp chợt kêu làm cho bóng đen lại qua một lúc hốt hoảng.

    "Mau lên mới được! Trời gần sáng rồi!".

    Hắn rẽ xuống một tràn lau thấp, rồi lúc sau lại nhô lên ở một sườn đồi cao.

    Sương mù bắt đầu xuống...

    Không khí dần dần lạnh như nước...

    Thời khắc giao canh là lúc đêm đã gần tàn, ngày đang sắp lại.

    Bóng đen in rõ trên nền trắng đục nom lực lưỡng và cao to như một người khổng lồ.

    Hắn víu vào rễ cây, nắm lấy cỏ rậm cố leo lên tới đỉnh đồi thì trong khoảng mù mịt của sương trùm cây cỏ, đột hiện ra trước mắt hắn một khúc tre dài mà hai đầu mất hút vào khoảng xa...

    - Đây rồi!

    Bóng đen kêu lên một tiếng khẽ. Hắn ghé tai nghe: bên trong ống máng, nước vẫn chảy róc rách...

    Đó là cái máng nước bắc từ núi xa về tận nhà ông Bàn Văn Tam.

    Dân đường rừng họ không bao giờ chịu ăn nước ngòi, nước sông. Sông, ngòi chỉ là nơi để rửa ráy và cho trâu đằm.

    Họ lấy tre luồng đục thủng mắt nối liền lại với nhau, một đầu bắc ghé vào nguồn nước mới ở lòng đất phun ra kẽ đá, một đầu ghé vào máng ở đầu nhà. Cái máng có khi dài bằng hai ba cây số đặt lên những cái gạc bằng gốc vầu già hoặc bằng cành nhội là những thứ chịu được sương nắng lâu ải.

    Nhờ mẹo đó, người ta quanh năm được thứ nước trong như lọc để uống. Nước đó không hề ngâm lá cây hoặc dằm nát những thây loài vật chết. Nước ấy còn dùng để rót vào chày máy giã gạo nữa.

    Óc sáng chế và lợi dụng của người đường rừng đã biết lợi dụng sức vận động thiên nhiên của nước chảy.

    Bóng đen lại gần máng nước, khẽ tháo bỏ đoạn tre về phía nguồn đặt xuống đất. Tức khắc, nước tung tóe ra trên mặt cỏ.

    Hắn tháo xong, liền rút ở trong khăn gói ra một phong giấy bản lớn. Đoạn trút tuột cả thứ bột trắng ở trong gói vào máng nước đương còn nguyên trên nạng gỗ.

    Cúi xuống nhắc đoạn tre bỏ ghếch ở sườn đồi, hắn nối liền vào như cũ để thuốc độc có thời giờ tan ra nước và chảy về nhà ông già. Khi đã để nước chảy đủ rồi, bóng người bí mật lại tháo máng ra như lúc nãy rồi bỏ chạy.

    Từ lúc chó sủa, ngỗng kêu, ông già Tam tự nhiên có vẻ lo lắng.

    Cuộc âm mưu bí mật mà ông cảm thấy tiềm tàng quanh mình ông, trở nên cảm giác rõ rệt, ghê gớm.

    Trong già nửa đời người, ông đã từng quen xông pha giữa rừng tên mưa đạn, ông đã từng phen chạm trán với thần Chết, nhưng ông thực chưa biết sợ là gì. Có lẽ bởi sự nguy hiểm lớn lao từ trước vẫn hiện ra trước mắt ông, một cách rõ rệt, chính đại.

    Nó khác hẳn với lần này: sự nguy hiểm chỉ mập mờ lẩn lút, như một kẻ thù hèn nhát nhưng nguy hiểm. Ông không biết nó ở chỗ nào tuy ông vẫn thấy nó bất thần có thể xảy ra được. Cái trò chơi ú tim làm cho ông già rất khó chịu.

    Ông vùng đứng dậy, vươn vai, bước mạnh trên sàn gỗ như người đang cơn tức giận.

    Tiếng con bìm bịp kêu vang đâu đó làm cho ông già nhận thức rằng trời sắp sáng.

    Để khuây khỏa, ông tự mình lại gần khuôn bếp nhóm lửa đoạn xách ấm ra máng lấy nước vào đun.

    Ánh đỏ chờn vờn nhảy nhót làm cho ông già dễ chịu. Ông ngồi trước bếp để hứng lấy cái hơi ấm áp hiện ông đương cần phải có, sau một đêm sống giữa sự đìu hiu...

    Chợt nhớ tới bài hịch mà quân sĩ đem trình ông chiều hôm trước, ông chỉ mới xem qua, Bàn Văn Tam liền lấy ra đọc lại...

    Ấm nước đã sôi reo vào chờ cho ngấm đoạn sẽ rót ra chén.

    Khói thơm bốc lên ngào ngạt...

    Ông nâng chén chè nóng, nhấp từng hớp một. Hương vị tuyệt vời giúp thêm cho lòng hăng hái của con sư tử về già.

    Ông rung đùi, cất tiếng ngâm nga mấy câu Chinh phụ mà ông còn nhớ rõ:

    Chí làm trai dặm nghìn da ngựa

    Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao

    Giã nhà đeo bức chiến bào

    Thét roi cầu vị ào ào gió thu...

    Tiếng ngâm dứt, ông lại cầm chén nước thứ hai lên uống. Lòng ông dạt dào khí phách như lúc còn thanh niên...

    Hai chén rồi ba chén...

    Bỗng, tay ông đờ ra, bỏ rơi chiếc chén cổ, mắt ông trợn lên, miệng ông sùi bọt, tứ chi ông run như gà cắt tiết và sau cùng, ông ngã vật xuống ván sàn.

    Ngay cùng lúc ấy, một tên quân chạy lên trình lớn:

    - Bẩm tướng quân, Tựu Nghĩa đã chém được đầu Ma Vạn Thắng.

    Ông già ngoảnh cổ, ngóc đầu thét:

    - Thật à? Bảo nó mang lên đây, mau. Công tử cũng về đấy chứ?

    - Bẩm, đức công tử gặp lão tướng Tựu Nghĩa nên cũng cùng về.

    Một vẻ mừng rỡ phi thường hiện trên gương mặt hấp hối:

    - Bảo lên cả đây, mau! Ta sắp chết vì... thuốc độc!

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG XII
    Tấm lòng thù oán của ông già Nùng Phay loắt choắt làm cho Tuyết Hận vừa buồn cười lại vừa ghê sợ.

    Chàng có cái cảm giác như ai thấy một con cầy giông yếu đuối nhưng cứ nhất định nhăn răng giơ móng, nhảy vào cắn người thợ săn.

    Chàng buồn cười khi so sánh ông già ấy với Ma Vạn Thắng, nhưng chàng lo lắng khi sự cừu thù kia có thể trút xuống đầu nàng Nhạn.

    Chàng không muốn cho thiếu nữ có thể gặp một sự nguy hiểm nào hết.

    Và tuy đã hẹn với lòng rằng không nghĩ ngợi lôi thôi gì nữa, Tuyết Hận vẫn cứ chẳng thể nào quên nàng Nhạn được. Hình ảnh của thiếu nữ cứ lởn vởn trước mắt chàng, mỗi lúc càng thêm mỹ miều khả ái, mỗi lúc càng đáng thương đáng tiếc.

    Nếu một mai, sự tình cờ sẽ run rủi cho chàng giết được Ma Vạn Thắng, đem được thủ cấp thù nhân về động Phù Hiên, thì trong khi mọi người xúm nhau lại để khen chàng, gọi chàng là anh hùng, là hiếu tử, trong khi ông chú của chàng vui vẻ thấy cái mộng tưởng lâu ngày ôm ấp của mình thực hiện, trong khi ấy, tấm lòng Tuyết Hận không rõ rồi ra sao. Điều ấy, chàng có thể tưởng tượng mà biết được. Là vì, ngay bây giờ, cứ nghĩ đến những đau đớn của thiếu nữ khi nàng thấy kẻ giết cha nàng lại chính là Tuyết Hận, cứ nghĩ thế, chàng trai trẻ đã ngùi ngùi thương xót.

    Chàng bằng cứ vào đâu mà dám nghĩ như thế, làm tựa hồ biết chắc chắn thiếu nữ đã yêu mình?

    Tuy chưa có một chứng cớ gì về tình yêu của thiếu nữ, Tuyết Hận cũng tin được, một khi chàng thấy lòng mình yêu tha thiết chân thành. Một tấm lòng thành là đủ. Một tấm lòng thành quỷ thần còn chứng giám nữa là!

    Nhưng dù sao, Tuyết Hận cũng phải giữ lời hứa. Dù sao, Tuyết Hận cũng phải giết Ma Vạn Thắng! Nếu sai hẹn lần này nữa, chàng còn mặt mũi nào mà trông thấy ông chú già!

    Thiếu nữ người yêu chàng sẽ đau đớn thù oán chàng ư? Chàng đành cam chịu. Vả lại chính lòng cũng đã phải đau đớn ngay từ bây giờ rồi.

    Số mệnh đã muốn rằng tình yêu tha thứ nhứt của chàng lại chính là cái nguồn khổ não cho chàng thì làm thế nào?

    Chàng do dự đến ngày nay đã là chậm lắm.

    Tuy có một quan niệm về cuộc đời khác hẳn, tuy cho sự thù oán loanh quanh là nhỏ nhen, Tuyết Hận vẫn cảm thấy mình đối với cha chú đã có một điều lỗi.

    Điều ấy càng rõ rệt, càng day dứt chàng từ khi mẫu thân chàng tự sát. Cái chết ấy như vạch hẳn cho chàng một con đường máu mà chàng phải qua.

    Không những thế, ngay như vừa rồi, thái độ của ông già Nùng Phay, em lão Ké So, cũng khiến chàng khó chịu, có một cảm giác gần giống như sự hổ thẹn.

    Thế là nghĩa làm sao?

    Người ta có quyền gì bắt một người khác phải chịu cái quan niệm của mình?

    Tại sao, những người quanh mình chàng không một ai cùng nghĩ như chàng để phải lẻ loi một mình bênh vực một ý niệm trái ngược?

    Chàng thấy mình như một tảng đá trơ trơ giữa dòng nước lũ, tuy vẫn cố đứng mà chân đã bị mài mòn gần đứt hay như một cây chơ vơ giữa đồng bị cả một cơn giông tố xô đẩy...

    Chàng thở dài tự hỏi:

    - Tại sao lại như thế được? Tấm lòng của mọi người khác với lòng chàng hay sao? Mọi người chỉ biết thù, biết oán chứ không ai có mảy may thương xót yêu đương?

    Những ý nghĩ này cứ lung tung trong óc Tuyết Hận, như một đàn ngựa bất kham, Tuyết Hận không sao ngủ được. Chàng đứng vào một ngã ba, băn khoăn giữa hai tiếng gọi của lẽ phải và của tấm lòng.

    Đêm dần dần khuya.

    Ông già ngủ đã say lắm! Thỉnh thoảng ông nghiến răng, nói lảm nhảm hoặc thở dài sườn sượt... Sau cùng, có một lúc ông hét ầm lên:

    "A ha! Chém được Ma Vạn Thắng rồi! Chém chết được Ma Vạn Thắng rồi!".

    Tiếng kêu làm Tuyết Hận phải nhỏm dậy. Ông già cũng giật mình thức giấc. Sau khi thở đánh phào một tiếng, ông lão Nùng Phay ngớ ngẩn hỏi:

    - Vừa rồi cái gì thế?

    Tuyết Hận bật cười trong bóng tối:

    - Cụ vừa nói vừa mê đấy ạ!

    - Thế à!

    Nùng Phay à một tiếng dài rồi lại nằm xuống ngủ.

    Sự im lặng dần dần trở lại nặng nề.

    Chàng trai trẻ lắc đầu chép miệng.

    Sự mê sảng của ông lão Nùng Phay chẳng là thù oán đã đâm mầm mọc rễ rất sâu trong tâm hồn người ta rồi đó ư? Sống ở tình trạng ấy, loài người còn phải khổ sở, mà cái cảnh núi xương, sông máu đã đành là cái cảnh không bao giờ tránh được!

    Nhưng nghĩ ngợi gì mặc lòng. Những sự nhọc mệt và sức ngủ của tuổi trẻ dần dần cũng thắng.

    Tuyết Hận nhắm mắt thiu thiu rồi sau cùng ngủ rất say...

    Mơ màng Tuyết Hận bỗng thấy mình ở nhà, lại hình như hai họ Ma, Bàn đã trở nên hòa hảo. Không những thế, không những bao nhiêu cừu thù cùng tiêu tán, mà ông chú còn hỏi thiếu nữ nhà họ Ma cho chàng nữa. Tuyết Hận sung sướng thấy cái mộng êm ái nhất của đời mình thực hiện...

    Ngày cưới đã đến.

    Hai họ sửa soạn linh đình...

    Bàn Tuyết Hận mặc bộ võ trang lộng lẫy, cưỡi ngựa bạch theo sau ông chú sang châu Đại Man đón dâu.

    Mở đầu là tiếng trống chiêng rồi đến cờ quạt, rồi đến một đội kỵ mã, tiếp theo sau là những quân hầu khiêng những hòm xiêm công phượng. Sau lưng, quân sĩ đi hộ vệ rất đông... Tóm lại, một đám cưới long trọng, đúng như các đám cưới ông hoàng trong cổ tích.

    Đến nơi, nhà gái tưng bừng đón rước. Nào hát thi, nào chè chén, nào những cuộc đánh cồng du dương do một đoàn vũ nữ rực rỡ như tiên nga vừa nhảy múa, vừa cất tiếng trong như suối ngọc hát những câu chúc tụng êm đềm. Vui vẻ, no say trong hai ngày thì nhà trai đón dâu về.

    Cô dâu, đầu quấn khăn thêu đính năm bông cúc vạn thọ bằng vàng nạm ngọc, mình mặc tấm áo gấm lam tay rộng, hai hàng cúc ngọc thạch phanh ra trước tấm yếm dát vàng như một mảnh áo giáp mà hai cái hổ phù úp trên hai quả đào tơ thì gọt bằng ngọc màu hồng. Thấp thoáng dưới gấu quần điều thủy ba chân chỉ, đôi hài cánh phượng nhẹ nhàng đặt trên bàn đạp, lộ ra đôi gót thắm như son.

    Hai vợ chồng mới, chồng ngựa bạch, vợ ngựa hồng song song đi trên con đường phủ cỏ non xanh màu hoa lý điểm lưa thưa những khóm hoa màu tím đỏ...

    Tiếng chiêng trống dội lên, tiếng hát của bọn thị nữ làm cho hai linh hồn phiêu phiêu rung động thêm mùi trầm thoang thoảng, say sưa, ngây ngất...

    Tuyết Hận nhìn người yêu, lòng phơi phới như được bay trong đám mây ngũ sắc nó là con đường kỳ diệu nối cảnh Bồng Lai với cõi hồng trần...

    Họ nhà gái ra tiễn chân cô dâu, chú rể.

    Tiếng mãn địa hồng nổ vang làm cho Tuyết Hận giật mình tỉnh dậy, mở mắt trông ra thì bóng nắng đã đứng, mặt trời đã tới giữa vòm không trong biếc...

    Chàng mỉm một nụ cười buồn, rồi lẩm bẩm:

    - Hừ! Chẳng qua là một giấc mộng!

    Ừ, cái cảnh tốt tươi kia ở trong giấc mộng. Đời chàng thử hỏi còn mong gì cái hạnh phúc được cùng thiếu nữ chắp mối tơ duyên...

    - Ồ, nhưng mà ta ngủ dữ thật! Ngày đã trưa rồi!

    Chàng nhỏm dậy, tìm ông già Nùng Phay thì không thấy đâu nữa. Chợt nhớ đến câu nói của ông ta đêm trước: "Nghe đâu ngày mai nó mộ thêm quân để đánh nhau với Cờ Vàng, tôi sẽ len vào đó!"... Tuyết Hận biết rằng lão Nùng Phay đã đi rồi. Chàng nóng ruột, vội lấy nước rửa mặt, súc miệng rồi chải đầu, sửa soạn lại khăn áo:

    - Ta cũng phải ra xem tình hình ra sao mới được!

    Những tiếng nổ lốp bốp cùng tiếng hò reo xa xa có lẽ là tiếng mãn địa hồng nổ trong lúc Tuyết Hận chiêm bao vụt khiến chàng để ý.

    - Quái! Gì như họ đương đánh nhau thì phải!

    Tuyết Hận chạy ra ngoài, nhìn về phía Bắc...

    Chàng giật mình, quả nhiên trong thành châu Đại Man đương có sự gì biến cố. "Hay lão Nùng Phay đã làm xong được cái việc lão toan làm, tranh mất của ta?".

    Tuyết Hận chưa quay vào lấy ngựa. Một người từ phía đền Âm Hồn mải miết phóng tới làm cho chàng đứng sững lại.

    Đoàn người ngựa đã lại gần.

    - A kìa, Tựu Nghĩa!

    Lão tướng gò cương vái chào:

    - Kính bẩm công tử!

    - Cái gì thế ông?

    Tựu Nghĩa tươi cười, một tay gõ gõ vào một bọc đỏ treo ở cổ ngựa:

    - Đầu Vạn Thắng!

    Tuyết Hận nhắc như cái máy:

    - Đầu Vạn Thắng?

    - Bẩm vâng.

    Thực chưa bao giờ Tuyết Hận xúc động mạnh như khi nghe cái tin ấy. Chàng run lên cũng chẳng biết vì mừng, vì đau đớn cho thiếu nữ hay vì ngạc nhiên nữa.

    - Ông làm thế nào mà nhẹn thế?

    - Bẩm công tử, đó cũng là làm liều mà gặp may.

    Tựu Nghĩa thuật rõ đầu đuôi việc đã xảy ra cho Tuyết Hận nghe. Hai mắt giương tròn chàng trai trẻ ngạc nhiên và thán phục viên lão tướng không biết chừng nào! Cái gan góc ấy, cái mưu cơ ấy, sự xếp đặt ấy và cách thực hành như chớp nhoáng ấy tỏ ra lão tướng là một bậc vũ dũng và đa mưu quán thế!

    - Giờ xin mời công tử cùng về để dự cuộc tế cáo Đại Vương!

    Tuyết Hận cầm lấy bàn tay to lớn của lão tướng và nói một câu có lẽ Tựu Nghĩa không hiểu:

    - Xin đa tạ lão tướng đã cứu tôi.

    Dứt lời, chàng để lão tướng lại với sự bỡ ngỡ, chạy tọt vào trong nhà.

    Một lát sau, đoàn ngựa đã phóng như bay trên dải đường hun hút...

    Hơn một ngày chạy không thương đến ngựa, sáu người đã thấy dinh trại hiện ra xa trên gò cao...

    Ai nấy rạo rực nỗi mừng...

    Tựu Nghĩa mừng vì sẽ đem về cho chủ tướng một sự hả lòng mong đợi đã từ hai mươi năm. Bốn dũng sĩ mừng vì sẽ được bạn coi như các tay quán chúng.

    Còn Tuyết Hận, chàng cảm ơn sự ngẫu nhiên run rủi cho chàng khỏi dúng tay vào máu.

    Thực vậy, Ma Vạn Thắng bị giết và bị cướp mất đầu lâu, y như phụ thân chàng khi trước, điều khiến cho mọi người cùng được hỉ hả mà vẫn không phải tự tay làm đau lòng thiếu nữ. Nàng thương cha thực mà có điều nàng không đến nỗi phải ân hận rằng cha nàng đã bị chính tay chàng giết. Vả nếu biết rõ tội ác của cha, thiếu nữ phải công nhận đó chỉ là một sự báo ứng thiêng liêng.

    Điều nhận thức ấy sẽ làm cho thiếu nữ bớt sầu não.

    Tuyết Hận không ngờ đâu sự thể lại xoay ra thế! Chàng thực như người cất được cái gánh nặng.

    - Hừ! Ta thực không ngờ!

    Tới nơi, mọi người nhảy xuống ngựa và chưa ai kịp thở, Tựu Nghĩa đã giục tên quân hầu:

    - Lên trình chủ tướng rằng chúng tôi đã mang được thủ cấp Ma Vạn Thắng về đây!

    Tên quân hầu chạy lên, một lát sau hắn hoảng hốt kêu:

    - Công tử mau mau, chúa công nguy rồi...

    Tin báo như sét đánh làm cho ai nấy lạnh toát người. Họ nhảy từng bốn bậc thang một lên nhà.

    Bàn Văn Tam lúc này đã gần mê. May nhờ có sự mừng rỡ lớn lao đột ngột quá, làm cho ông còn gượng ngồi dậy được. Ông tựa lưng vào cột nhà, hai tay chống xuống mặt sàn, đầu lắc lư đợi...

    Vừa thấy Tuyết Hận và Tựu Nghĩa, ông già đã reo ầm lên, tuy giọng ông đã lạc:

    - Đâ... u?... Nó đâu?

    Tựu Nghĩa run bây bẩy, luống cuống mở lá cờ, cầm lấy tai Vạn Thắng và nhấc cái thủ cấp giơ lên. Một vẻ sung sướng rất cảm động lòe ra như một tia nắng mới trên gương mặt đã xám... Bàn Văn Tam lẩy bẩy giơ tay cầm lấy chiếc thủ cấp:

    - Ồ! Ha... Ha... hai mươi năm trời nay! Vạn Thắng! Đạo Trời chí công... mày...

    Ông cố bật lên một tiếng cười, một tiếng cười lạnh lẽo, ghê rợn...

    Nhưng, cái đầu lâu đã lọt tay rơi xuống sàn, lăn như một cái nồi đất.

    Tuyết Hận hấp tấp chạy lại đỡ lấy chú.

    Ông già há mồm ra thở, đầu từ từ ngoẹo xuống một bên vai, sắc mặt trắng bệch như tờ giấy bản...

    Tuyết Hận bồi hồi thương cảm. Chàng run giọng gọi to:

    - Chú! Chú! Chú làm sao vậy? Chú tỉnh lại... Cháu đây mà!

    Ông già nhăn nhó tỏ ra đau đớn dữ dội, ông cố gượng mở hai mắt nhìn ngơ ngác...

    - Nó... Nó đầu độc máng nước! Chú vô tình uống phải... chết đến nơi rồi!

    Ngừng lại, ông lần bàn tay đoạn nắm lấy tay Tuyết Hận:

    - Đêm qua... chó cắn dữ lắm! Chú đã ngờ... Thì ra nó đến... Hừ! Thằng gian tặc này gớm ghê thực...

    Tuyết Hận thở dài. Chàng hối hận vì bất cẩn một chút để cho Ma Vạn Thắng trốn thoát nay ông chú chàng mới nên nông nỗi ấy.

    - Vạn Thắng chết... chú hả lòng! Không ân hận gì nữa! Cháu đặt bàn để tế vong hồn thầy cháu...

    Bàn Văn Tam nói đến đấy thì cơn đau chừng lại nổi lên kịch liệt, khiến hai tay ông ôm lấy bụng; toàn thân ông quằn quại như một con đỉa phải vôi...

    Từ trắng bệch, mặt ông dần dần nổi từng đám đỏ tía như người lên mề đay; mắt ông đỏ như đẫm máu, hai góc mép đùn ra rất nhiều bọt đỏ.

    Tuyết Hận bảo Tựu Nghĩa:

    - Hay ta đón lương y?...

    Tựu Nghĩa lắc đầu, thở dài:

    - Không ăn thua! Tôi biết thứ thuốc độc này, ai đã uống phải thì chỉ có mà Trời cứu!

    Ông già quằn quại một lát rồi lại mở mắt nhìn quanh và nói bằng một giọng yếu ớt:

    - Tuyết Hận!

    - Dạ!

    - Thù cha cháu thế là báo được xong. Về phần chú... sáu bảy mươi tuổi đầu rồi... cũng đến cõi... Nhưng cháu, cháu còn trai trẻ, không nên sống vùi mãi ở chốn rừng rú này làm gì... Tờ Hịch Cần vương kia rồi cháu đọc kỹ... nên ra mà phò vua giúp nước! Gây lấy một chút công với giang sơn... Chớ... chớ để cho họ Bàn thành vô dụng...

    - Tựu Nghĩa!

    - Chúa công dạy gì tiểu tướng?

    - Nhà ngươi là một bề tôi rất trung dũng... Ta bằng lòng lắm! Nay ta có mình nào, ngươi nên vì vong linh đại vương, nên vì ta mà xem nom Tuyết Hận, nghe không?

    - Tiểu tướng xin tuân di mệnh!

    - Tuyết Hận tiếng thế còn nông nổi lắm, cần phải được đời dạy cho rất nhiều mới khôn lên được! Bất cứ việc gì, hai người cũng phải bàn tính cùng nhau rồi hãy làm.

    - Dạ!

    Im lặng...

    Bàn Văn Tam thở rất gấp; trong cuống họng đã có đờm khò khè...

    Bỗng, người ốm cựa mình, giọng nói chỉ còn như trong chiêm bao:

    - Tuyết Hâ... ận! Sau khi chú chết rồi, việc tang ma xong, cháu nên đi ngay!

    - Cháu xin vâng lời chú.

    - Tờ hịch giữ cho cẩn trọng...

    - Vâng.

    Cặp mắt lờ đờ cố chếch về phía chàng trai trẻ.

    - Trước kia, thù sâu chưa trả được, chú cố ý ngăn cấm cháu. Nhưng... bây giờ... cháu có thể yêu...

    Tuyết Hận thổn thức, ôm chặt lấy đầu ông già.

    - Sách có chữ... oan gia nghi giải bất nghi kết. Thù oán hai nhà đến đây nên dứt là hơn. Họ Bàn với họ Ma có thể thông gia được mặc dầu...

    Còn đủ sáng suốt để nhận thấy câu nói cay độc, ông già ngừng lại rồi đổi sang lời khác:

    - Trong phút này, chú mới cảm thấy như lời cháu đã nói, cần phải xót thương và tha thứ... Chú thương cháu và thương cả con Nhạn không biết chừng nào. Nó là con riêng của Ma Vạn Thắng... Chú vui lòng cho cháu lấy nó.

    Nước mắt trào ướt cả hai gò má chàng trai trẻ. Chàng bóp mạnh tay ông già tỏ ý biết ơn.

    - Nhưng, trước hết, cháu hãy đi làm cái bổn phận của người con trai...

    - Lời chú dạy cháu xin ghi lòng!

    Một nụ cười phát ra trên cặp môi tím nhợt.

    Thấy chú nằm im. Tuyết Hận bảo Tựu Nghĩa giúp mình khiêng ông lên giường lấy chăn đắp cho ông tử tế.

    Những nốt đỏ trên người bệnh dần dần tím ngắt lại như sắc bồ quân chín. Đờm kéo lên mỗi lúc một nhiều, làm cho ông cụ nghẹn thở...

    Ông há mồm, nhăn mặt, cố hết sức để thở nhưng hơi mỗi lúc một nghẹn... Sau cùng, ông đưa quai hàm dưới ra, ngớp mạnh một cái, hai con ngươi lệch đi...

    Đồng thời, tiếng đập rộn rã trong ngực ông tĩnh hẳn, im lặng một cách sâu thẳm...

    Tuyết Hận thở dài một tiếng mạnh. Chàng giơ tay khẽ vuốt mắt cho ông già, lẩm bẩm nói:

    - Chủ tướng quy rồi!

    Tựu Nghĩa cất tiếng khóc...

    Ủ rũ, Tuyết Hận ngồi phịch ngay xuống mặt sàn...

    Không khí tự nhiên trở nên lạnh lẽo.

    Thời gian như đứng dừng hẳn lại.

    Cái giây phút mà cuộc đời con người tiêu tan trong cái hư vô ấy, Tuyết Hận rùng mình cảm thấy nó nghiêm trọng và bi đát không biết chừng nào!

    Chàng lặng đi hồi lâu mới nói:

    - Lão tướng, người nên phát hiệu cho các doanh trại đều biết.

    Tựu Nghĩa buồn rầu đứng lên, vớ khẩu súng đồng bước ra sân đoạn lần lượt bắn lên không ba phát.

    Ba tiếng nổ cách quãng đều nhau xé toang cái tịch mịch của rừng núi...

    Lập tức, trống mõ các nơi nổi lên rộn rịp, rồi một lát sau, các tướng sĩ kéo đến vấn tang.

    Họ lần lượt theo thứ bực và lễ trước thi thể ông già, mặt người nào cũng lộ vẻ đau đớn, cặp mắt người nào cũng ướt nhấp nhánh.

    Họ thành thực tiếc thương vị tướng soái rất nhân từ, tuy nghiêm khắc nhưng có lòng thương yêu sĩ tốt như con và nhất là có tính giản dị như một người thường dân.



  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG XIII
    Ngồi trước đài gương, nàng Nhạn uể oải đưa chiếc lược ngà trên mái tóc mây buông kín xuống sau lưng như những gợn sóng thơm lấp lánh...

    Nàng Nhạn không còn là thiếu nữ vừa mới đây còn cưỡi ngựa chạy chơi một cách nghịch ngợm và vui vẻ nữa.

    Gương mặt nàng, vẫn xinh đẹp, giờ đã mất cái màu tươi thắm của bông hồng mới nở. Những món tóc rủ lòa xòa càng nổi rõ xanh xao, rầu rĩ của dung nhan ấy. Thế nhưng, trái hẳn lại, cặp mắt thiếu nữ càng sáng lên một cách lạ lùng, lóng lánh giữa hai quầng thâm chẳng khác hai ngôi sao trên thẳm trời đen tối.

    Nàng hờ hững trải đầu, hờ hững búi mớ tóc mây thõng thượt sau cái gáy trắng ngần như mỡ đọng.

    Sự trang điểm, đối với nàng, đã mất hết cái thi vị nó làm cho các thiếu nữ say sưa kiêu hãnh. Nàng ngã lòng, cảm thấy rõ rệt và đau đớn cái vô ích của hết thảy mọi cử động, của hết thảy mọi công việc ưa thích hàng ngày.

    Thân thể nàng trở nên mềm nhũn, chân tay rời rạc. Từ bồng bột như ngày xuân đầy tiếng chim kêu trong hoa nở, tâm hồn nàng trở nên nguội lạnh, im lìm như mặt hồ thu không gió.

    Trong khi ấy thì, trước mắt nàng, Hóa công đương phô ra một bức cảnh chiều đầu xuân, nồng nàn, rực rỡ. Về bên tay trái, ngọn nước từ phía Đài Thị xô về, bị những hòn ghềnh màu gan gà cản trở, bắn tóe lên, phản chiếu ánh mặt trời, chói lọi như một cây nước phun qua ánh điện. Chếch về phía dưới, dòng sông Gấm lại trở nên hiền từ, phẳng lặng, chảy lười biếng qua hai rặng bờ cỏ xanh non mơn mởn điểm hoa sim... Bên kia sông, dải đồi liên tiếp chạy dài như một chuỗi ngọc bích đặt nằm trên nền hộp nhung màu hoa lý. Xa nữa núi Thần sừng sững trên nền chân mây vàng rực, nom mơ màng như một thi sĩ già ngồi tư lự giữa mớ hào quang...

    Ngọn núi Thần kỳ diệu, biến hóa trăm nghìn mặt, lúc tươi tỉnh, lúc âm thầm, lúc cau có dữ tợn, lúc mỹ miều nhí nhảnh ấy, vẫn là một vật ngắm nghía không bao giờ chán của thiếu nữ.

    Nhất là câu chuyện hoang đường về núi đó đã từng phen làm cho tưởng tượng nàng bị kích thích say sưa.

    Theo cổ tích thì ngày xưa, đã lâu lắm, không biết về đời nào, có một vị thiên thần giáng xuống thế gian. Vị thiên thần ấy tên gọi là Chất Khươi. Cùng thuở ấy, thủy tổ họ Ma có một người con gái đẹp lắm. Không biết cô đẹp chừng nào, nhưng người ta vẫn nhớ được rằng da cô nõn nà như tuyết, tóc cô đen nhánh như mun, môi cô đỏ như máu và mắt cô sáng rực như đèn.

    Chất Khươi tình cờ được gặp thiếu nữ. Tuy là thiên thần, Chất Khươi cũng có tình, một mối tình còn thiết tha, đằm thắm bằng vạn tình thương của người ta.

    Bởi vậy, thiên thần đã say mê cô gái nhà họ Ma. Ngài đem bao nhiêu thứ vật đến hỏi. Lễ hỏi cũng long trọng như lễ hỏi của vua Hùng Vương của Sơn Tinh và Thủy Tinh.

    Nhưng, chê thần là một vị khổng lồ, họ Ma nhất định từ chối.

    Thất vọng, Chất Khươi liền cướp lấy thiếu nữ.

    Họ Ma xuất gia đinh đuổi theo, gấp quá Chất Khươi vội vốc tay xuống đất lấy một tảng đá lớn đặt chắn đường.

    Tảng đá ấy sau thành ra ngọn núi Thần mà cái vực sâu đó do tảng đá bị moi lên để lại thì xoáy thành con sông Gấm.

    Câu chuyện cổ nhiễm cái thi vị lãng mạn ấy đã làm cho nàng tưởng tượng rất dữ, đã mở cho nàng cả một cõi Bồng Lai kỳ diệu, nhất là từ khi gặp chàng trai trẻ, nàng Nhạn đã bao lần nhầm mình với cô gái họ Ma nọ và Tuyết Hận với vị thiên thần kia.

    Một thị nữ thân yêu, thị Quản, sau khi đã xâu vào chân nàng đôi hài thêu, khẽ ngẩng đầu nói:

    - Nàng vui lên chứ! Kìa phong cảnh đẹp biết bao nhiêu.

    Nàng Nhạn thở dài gật đầu, nói bằng một giọng yếu đuối:

    - Ừ, đẹp thực!

    Thị Quản nhìn nàng ái ngại.

    - Nàng mệt lắm sao?

    - Ừ, ta mệt lắm!

    - Con pha nước chè thơm nàng uống nhé?

    Cảm động về tấm lòng tốt của tên thị nữ, Nhạn mỉm cười:

    - Cũng được.

    Thị Quản vội quay vào trong nhà lấy ấm chén.

    Ngồi lại một mình, nàng Nhạn nhìn đăm đăm phía trước, mặt không lộ một tình cảm nào hết. Nàng có dáng một pho tượng đá, vô hồn.

    Thị Quản pha xong nước bưng ra, rót vào chén.

    - Chè thơm lắm, nàng xơi đi...

    Thiếu nữ uể oải giơ tay cầm chén nước. Làn khói mảnh và thơm bốc nghi ngút... Nàng Nhạn nhìn theo làn khói im lặng.

    - Nàng nghĩ gì thế?... Nàng đừng nên nghĩ quá. Việc đã qua rồi! Nhạn rùng mình. Vết thương tâm bị chạm đến lại rơm rớm máu đào.

    Nàng nghĩ ngợi một lát rồi khẽ hỏi thị nữ:

    - Quản, mãi chiều hôm đầu tháng Mùn Sẩu mới ở bên Phù Hiên về, phải không?

    - Thưa nàng, vâng.

    - Quản có rõ đầu đuôi câu chuyện ấy thế nào không?

    - Con nghe thì ra quan nhà sai Mùn Sẩu mang thuốc độc sang bỏ vào máng nước nhà ông Bàn cái gì này này...

    - Bàn Văn Tam.

    - Phải rồi.

    - Chết chửa! Thế sau ra làm sao?

    - Ông Bàn Văn Tam vô tình uống phải nên chết ngay.

    Thiếu nữ kinh hãi.

    - Thế còn có ai việc gì nữa không?

    Đó là tiếng kêu tha thiết của trái tim đau khổ.

    Thị nữ điềm nhiên nói:

    - Con cũng chẳng rõ nữa.

    - Quản chạy đi hỏi Mùn Sẩu cho ta xem nào!

    - Bây giờ hắn còn đi dạy quân. Cứ như những câu chuyện con nghe lỏm được thì hình như không ai việc gì nữa.

    Nhạn bíu ngay lấy cái hy vọng mong manh do câu nói ấy.

    - Nếu vậy thì thực may quá!

    - Thế là đều nhau, phải không nàng?

    - Đều nhau cái gì?

    - Đều nhau nghĩa là chẳng đằng nào phải chịu thiệt.

    - Quản nói ta không hiểu!

    - Con định nói rằng người nhà ông Bàn Văn Tam đã giết quan lớn thì Mùn Sẩu lại giết Bàn Văn Tam... Như thế tức là đã báo được thù...

    Nàng thở dài, lẩm bẩm:

    - Thù!

    Nghe Mùn Sẩu nói lại, nàng đã biết rằng cha mình xưa kia là thủ túc của phụ thân Tuyết Hận. Sau vì thấy chúa sa cơ, cha nàng đã lập tâm phản, chặt đầu chúa đem hàng quan triều để cầu công danh. Không những thế, cha nàng đã cướp lấy vợ chúa nữa.

    Nhạn hãy còn nhớ rõ rằng từ khi có Yến Xuân, cảnh gia đình nhà nàng không mấy ngày là không lục đục. Mẫu thân nàng buồn rầu âm ỉ đến nỗi sau mang bệnh mà chết. Vì thế nên dì ghẻ và con chồng thành ra có mối thù. Mối tức giận ấy ngày nay đã tiêu tán vì Nhạn đã biết Yến Xuân là mẹ Tuyết Hận. Không những thế, Nhạn còn thương chàng khổ sở. Nàng tưởng tượng nỗi đau đớn ngấm ngầm của mẹ. Sự ấy rất dễ hiểu bởi chính nàng cũng ở vào trong tình trạng ấy.

    Thấy cha bị giết một cách thảm thê. Nhạn đau xót lắm. Nhưng nghĩ đến tội ác của cha nàng thì nàng lại giận. Nàng giận bao nhiêu lại càng thương thân và nghĩ đến Tuyết Hận bấy nhiêu.

    Không biết chàng nghĩ ngợi ra thế nào? Cha bị giết, chú bị giết bởi tay cha nàng, cái thù ấy liệu một cái chết của cha nàng đã đủ chưa? Chàng có còn nghĩ đến nàng nữa hay không? Và, nếu còn nghĩ đến nàng, thì sự nghĩ ngợi ấy đã khiến chàng thương hay là tức giận.

    Thù oán nối nhau mãi như cái vòng xúc xích, nàng liệu rồi có còn được gặp chàng hay cứ mỗi ngày phải xa chàng?

    Không chừng Tuyết Hận đương tính việc trả thù nữa!

    Kẻ thù đã chết thì chàng sẽ giết thân nhân kẻ thù để cân với hai cái mạng thân yêu của cha chú.

    Trời, nếu vậy thì Nhạn sẵn lòng nhận lấy mũi dao của Tuyết Hận.

    Phải chàng giết chẳng còn êm ái gấp mười sự lánh xa, ghét bỏ của chàng ư?

    Nghĩ thế nên đã nhiều phen Nhạn có cái ý định điên rồ là đi tìm Tuyết Hận khiêu khích cho Tuyết Hận giết mình.

    Nàng tưởng tượng khi mũi dao sắc và lạnh buốt của chàng đâm trúng tim nàng.

    Nhạn rùng mình...

    Cái cảm giác ấy sẽ đau đớn và êm ái biết bao nhiêu.

    Thực thế, mũi dao của Tuyết Hận sẽ đau đớn vì nó là nhát dao của người nàng yêu quý giết nàng.

    Nhưng nó êm ái biết bao nhiêu vì nhờ nó trái tim của nàng sẽ không đau khổ nữa, linh hồn của nàng sẽ được giải thoát tất cả những sầu bi chua xót!

    - Và, nếu sau khi thí cho ta một nhát dao, chàng sẽ hối hận và thương ta, ôm ta bên lòng, rỏ cho ta vài giọt nước mắt!

    Thực tế, Nhạn đợi chờ mấy giọt nước mắt của người yêu, người nàng yêu mà nàng biết chắc rằng cũng khổ sở như nàng, cũng chẳng khác bông hoa gần ủ rũ, chờ đợi mấy giọt mưa xuân vậy...

    Thấy Nhạn lặng im tư lự, thị Quản như đoán được ẩn tình của chủ khẽ rụt rè nói:

    - Nàng có còn nhớ cậu con trai xinh đẹp đã cứu nàng không?...

    Nhạn giật mình nhìn thị nữ.

    - Có, làm sao?

    - Mùn Sẩu bảo với con rằng cậu ta là cháu Bàn Văn Tam.

    - Điều ấy ta đã biết!

    - Nghĩa là cũng có thù với nhà ta...

    - Phải rồi.

    - Thế mà cậu ta còn cứu nàng...

    - Hừ!

    - Cậu ta tử tế lắm!

    - Sao Quản biết?

    - Con nghe bọn quân hầu do thám thì hay rằng Bàn Văn Tam vẫn giận cậu ta vì coi sự báo thù là một việc ác...

    Nhạn hấp tấp hỏi:

    - Thật à? Bọn thám tử nói như thế à?

    - Bẩm vâng.

    - Ồ!

    - Không những thế đâu, nàng ạ.

    - Còn gì nữa?

    - Chúng còn nói rằng ngay hôm quan nhà bị giết, cậu... chẳng biết tên là gì, một tí nữa...

    - Tuyết Hận.

    - A phải, cậu Tuyết Hận! Thế ra nàng cũng thuộc tên cậu ấy.

    Nhạn cúi đầu, hai gò má dần dần đỏ ửng...

    - Hôm ấy, cậu Tuyết Hận cũng hình như lại đây, không phải để làm cái việc độc ác kia, mà để thi hành một điều gì bí mật lắm.

    Nhạn bồi hồi xúc động... Tính tò mò tự nhiên bị ngứa ngáy. Rồi, tưởng tượng khi Tuyết Hận vơ vẩn ngay ở ngoài thành mà nàng không biết, nàng bỗng buồn rầu nghĩ đến cái cảnh trái ngược cách nhau gang tấc mà hóa ra ngàn trùng quan san. "Nào có thế thôi! Sự xa cách của chàng với ta biết đâu chẳng là một sự xa cách vĩnh viễn cho đến ngày sang kiếp khác".

    Nhạn băn khoăn mãi về "một điều gì bí mật lắm" mà Tuyết Hận chực làm.

    - Điều gì?

    Trừ phi gặp chàng mới có thể biết rõ được!

    Nàng ngẫu nhiên nhớ đến câu chuyện cổ tích về thần Chất Khươi và cô gái họ Ma xưa.

    Tủm tỉm cười, Nhạn lẩm bẩm nói thầm;

    - Hay lại chực cướp con gái nhà họ Ma rồi chạy trốn đấy!

    Nụ cười chạy thoáng trên mặt thiếu nữ như một tia nắng lướt trên bông hoa ủ rũ...

    - Ừ, biết đâu đấy, biết đâu bị thất vọng vì hai nhà cứ thù oán loanh quanh nhau mãi, chàng chẳng nảy ra cái ý định liều lĩnh muốn rủ nàng cùng đi trốn!

    Nhạn ngả đầu xuống lưng ghế, từ từ nhắm mặt lại.

    Say sưa, nàng để mặc cho thiên tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm cấu tạo dần dần trong óc.

    Mở đầu thiên tiểu thuyết ấy, một thiếu nữ đương não nùng tư lự trong buồng khuê vì tưởng nhớ người tình lang mà thiếu nữ chẳng hy vọng có ngày gặp gỡ lần thứ hai nữa. Người tình lang chỉ thoáng qua cuộc đời tối tăm u uất của nàng rồi biến mất. Giữa khi ấy thì, một đêm mưa gió mịt mù, thanh niên chợt hiện ra bên ngoài cửa sổ. Chàng mạo hiểm tìm đến nàng!

    Thiếu nữ hoảng hốt và sung sướng, luống cuống không biết nên làm thế nào...

    Lần vào giường để mặc chàng đứng đấy? Thiếu nữ e chàng sẽ giận mà đi mất. Mở cửa đón chàng vào? Nhưng, cái không khí buồng khuê trong suốt, có thể là cái không khí để cho sự thở hút của hai người? Tấm lòng trinh bạch của nàng run lên như một con chim muốn tránh sức thôi miên của hai cái mắt rắn lóng lánh nhưng vẫn mê man vì cặp mắt ấy.

    Giữa cơn bối rối thì cánh cửa buồng từ từ mở. Chàng lạ mặt bước vào, tiến sát lại bên mình nàng.

    Thiếu nữ muốn kêu lên nhưng tiếng kêu tan mất trong cuống họng.

    Chàng lạ mặt ôm chầm lấy thiếu nữ, nhấc bổng ra ngoài, đặt nàng lên lưng một con ngựa buộc sẵn ở chỗ tối, nhảy theo lên rồi quất cho ngựa chạy.

    Luồng gió lạnh đêm khuya và sự xóc mạnh của ngựa phi làm cho thiếu nữ dần dần tỉnh. Bị ôm ghì vào ngực chàng trai trẻ bởi một cánh tay cứng như sắt, thiếu nữ không còn đủ chỗ cho tim nàng đập. Con ngựa vẫn bay như gió, tiếng chân gõ xuống mặt đường chan chát.

    Thiếu nữ mê man, nhìn hai bên, như qua một giấc mộng, những nhà cửa, cây cối, núi non loang loáng chạy giật lùi trong bóng tối mơ hồ.

    Những ý tưởng nào có thể nảy ra trong trí nàng lúc ấy?

    Nàng chỉ còn như một con chim bồ câu trắng hồi hộp trong móng chân con diều hâu tha bay trên chín từng mây tít thẳm...

    Sự kinh hãi và đắm say làm cho nàng im thin thít, làm cho máu trong người nàng giá lạnh, làm cho cái năng lực của nàng tê bại. Chân tay nàng rời rã, ý chí nàng lỏng lẻo cùng như bắp thịt chùng hẳn lại và, nếu không có cánh tay sắt ghì giữ lấy, nàng có lẽ rơi xuống khỏi lưng ngựa như một cái áo rời khỏi mắc.

    Mấy lần, nàng bàng hoàng cảm thấy hơi thở mạnh và cặp môi nóng như lửa đặt xuống má nàng.

    Con ngựa vấp suýt ngã, nàng vội víu chặt lấy chàng trai trẻ. Một luồng điện chạy khắp thân thể nàng.

    Thiếu nữ giật mình mở mắt...

    Nàng lẩm bẩm tiếc giấc chiêm bao:

    - Cũng như Chất Khươi ngày xưa!

    Thị nữ hỏi:

    - Nàng nói gì vậy?

    Nhạn nóng bừng cả mặt.

    Bỗng, hai người cùng chú ý...

    Một tiếng Krèng lau đâu đó du dương trong cái tĩnh mịch rực rỡ của chiều xuân êm ái...

    Thoạt đầu còn rụt rè, tiếng Krèng mỗi lúc một thiết tha chầm bổng, khiến cho hết thảy sự vật đều như lắng nghe, thổn thức lắng nghe...

    - Lạ, ai thổi mà hay thế?

    - Vâng, chính con cũng chưa từng nghe ai thổi hay như vậy bao giờ!

    - Không biết từ đâu lại nhỉ?

    Thị nữ nghiêng, nghiêng đầu, nín lặng một phút đoạn khẽ nói:

    - Nàng ạ...

    - Cái gì?

    - Con nghe thì hình như tiếng Krèng đó...

    - Từ đâu?

    - Từ đỉnh non Thần!

    Nhạn ngửa mặt nhìn mơ màng lên đỉnh núi.

    - Phải đấy! Từ đỉnh non Thần! Lạ thực! Xưa nay có ai dám lần mò lên tận đấy bao giờ.

    Nàng tủm tỉm cười, nói giỡn:

    - Hay là Chất Khươi nhớ cô tình nhân nhà họ Ma đấy!

    Miệng nàng tuy nói thế, song lòng nàng thì lại nói:

    - Chưa biết chừng là tiếng Krèng của Tuyết Hận.

    Ừ, trong cái khắc huyền ảo ấy, sự phi thường nào mà không có thể xảy ra được!

    Nhạn tự nhủ lòng như thế thì sự tin tưởng kỳ khôi kia càng bám riết lấy nàng.

    - Quản à?

    - Dạ!

    - Bảo nó đóng ngựa mau lên.

    Thị nữ giương tròn hai mắt...

    Nàng giục:

    - Bảo nó đóng ngựa mau lên!

    - Để nàng đi đâu?

    - Để ta lên đỉnh non Thần xem ai thổi sáo!

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG XIV
    Thi thể của Bàn Văn Tam phồng to và tím ngắt được liệm vào trong lòng một cây gỗ vàng tâm lớn mà người ta nạo giữa rỗng như một cái thuyền lườn. Nắp quan gắn bằng sơn rất kỹ.

    Tang lễ cử hành rất long trọng.

    Ba thầy mo được mời về để cúng cho vong linh người quá cố. Họ mặc những áo vóc vàng thêu hình bát quái viền đen, tay cầm giáo nhọn, đi hài thêu, trên đầu mỗi người đội một cái mũ thêu hình cá chép hoặc đầu ngựa.

    Họ ngồi trước linh sàng, vẻ mặt nghiêm nghị và thần bí, tia mắt buông chìm vào khoảng khói hương mù mịt như trông thấu cõi vô hình. Trong khi những thanh la, trống cái, trống cơm khua inh ỏi, họ ề à đọc những bài dài thườn thượt hoặc để an ủi vong hồn, hoặc để nhắc lại các đức tính của người chết mà họ phóng đại ra một cách thản nhiên không ngượng.

    Các tướng tá và quân sĩ đều phải khăn trắng, áo tang như để trở bố mẹ. Họ thành thực tiếc thương vị chủ tướng nhân từ, giản dị, can đảm và công bình.

    Tuy thế, trong khi làm việc túi bụi, họ vẫn cười nói như thường mỗi khi có thể cười nói được.

    Ngoài sân, dưới bóng ngọn phướn bằng vải sô mắc trên đầu một cành tre tươi còn nguyên lá, hàng chục con trâu cứ kế tiếp lảo đảo rồi ngã gục xuống mỗi khi có tiếng súng nổ. Họ dắt từng con ra giữa sân, gí ngọn súng vào khoảng giữa hai ống sừng rồi bóp cò. Những con vật nặng nề như bị sét đánh, chỉ loạng choạng được mấy cái rồi ngã giụi. Tức thì những đống lửa rơm cháy lên ngùn ngụt như đình liệu. Màu da trâu mấy phút trước còn đen trũi thì thoáng cái đã vàng rực. Họ mổ lấy hết nội tạng ra rồi cứ để nguyên cả con thế mà khiêng vào trong nhà, đặt nằm phủ phục trên những mâm lớn. Ngoài ra, lại còn những dê, lợn gà, vịt bị giết vô kể.

    Mỗi lần cúng như thế xong thì các con vật chết lại được khiêng ra sân. Dao thớt lúc này mới lên tiếng. Rồi sau, trên các mâm đồng to như từng cái nong một, người ta chỉ thấy những thịt là thịt. Bên cạnh mỗi mâm, từng hũ rượu đầy ăm ắp. Rồi tất cả cùng ngồi ăn, theo đúng thứ bậc trên dưới. Lúc đã no say rồi, ai nấy lại càng tỏ ra thương xót chủ tướng lắm. Họ nói đến chuyện phục thù báo oán, họ bàn những kế sách đánh nhau, họ tưởng tượng lớn lên những cuộc tru lục ghê gớm, hãi hùng. Họ không phải những người chỉ nói suông. Những lúc ấy mà được lệnh thì họ có thể đem lời nói thực hành ngay được.

    Cúng lễ, ăn uống như thế mãi đến trưa ngày thứ ba thì cử hành việc an táng. Thực là một cuộc rước xách linh đình. Mở đầu có năm lá cờ rồi trống chiêng, rồi bát âm, và sau cùng, linh cữu đi theo sau ba ông thầy mo khiêng bởi mấy chục tên quân lực lưỡng. Kèm hai bên đám rước, quân sĩ từng hàng dài cắp giáo, gươm sáng quắc. Hết thảy cùng vận quần áo, ở xa nom trắng lốp như một đàn cò.

    Đám đi rất chậm. Theo dịp phách gõ, bọn đô tùy cứ tiến lên một bước thì lại lui về ba bốn bước.

    Nhưng, rồi đến nơi, nghĩa là đến một quả gò nổi như mâm xôi ở giữa ở chân lũng phẳng, ba mặt có dải núi cao. Thầy mo đoán kiểu đất này quả là quả ấn để trên một cái ngai. Đô tùy khiêng cữu hạ huyệt.

    Trước khi lấp đất, bọn lính súng bắn một loạt hỏa mai rất hùng dũng. Cái chết của một vị võ tướng, nhờ vậy có một khí vị oai hùng.

    Công việc xong xuôi, Tuyết Hận truyền gọi tất cả tướng sĩ lại mà bảo rằng:

    - Thúc phụ tôi trước khi mất có đem bài Hịch Bình Tây giao cho tôi và có bảo tôi nên đem cuộc đời tôi vào việc phụng sự cho vua, cho nước. Di mệnh ấy, bổn phận của tôi là phải vâng theo, nhưng nghĩ rằng việc gì mình làm mình chớ nên ép ai phải làm theo với mình. Bởi lẽ đó nên hôm nay tôi mới cùng tướng sĩ có cuộc hội họp này.

    Ý tôi muốn rằng, trong các người, ai theo tôi càng hay, còn những ai muốn ở lại thì tôi sẽ đem ruộng đất ở đây chia đều cho để mà cày cấy an cư lạc nghiệp.

    Theo hay không, các người chớ coi là một việc quan hệ, hoặc có thể làm cho tôi vui lòng hay phiền lòng. Người ta không nên ép cái chí muốn của mình. Vả lại, dù đi hay ở, các người đều có thể tỏ ra là những dân tốt của nước là đủ. Tôi chỉ cần các người có một điều: sự hòa hợp. Các người bấy lâu cùng thờ một chủ, cùng chia nhau một sự vui, một sự buồn, một nỗi vất vả hay một vinh quang. Thế thì từ nay về sau, các người cứ nên coi nhau như trong một họ, nên nhường nhịn nhau, nên thương yêu nhau, nên giúp đỡ nhau. Được như thế các người dù có không theo ta nhưng tức là vẫn tốt với ta đấy.

    Nghe Tuyết Hận nói, mọi người nhìn nhau, cùng tỏ vẻ cảm động, ngơ ngẩn. Họ không đợi chờ sự chia phôi ấy.

    Một sự im lặng bao phủ xuống đám đông trong đó người ta cảm thấy rõ rệt những bồi hồi, những thổn thức, những hăng hái quả quyết, những phân vân do dự và cả nước mắt ngấm ngầm nữa.

    Tuyết Hận nín một lúc lâu mới lại nói:

    - Ngay hôm nay ta sẽ biên thư cho một thủ lĩnh quân Cần Vương để ngỏ ý xin theo giúp. Mọi việc ở đây, ta sẽ giao cho lão tướng Tựu Nghĩa. Những ai muốn theo ta cũng do lão tướng kê vào danh sách. Và phân thành đội ngũ khác. Những ai muốn ở lại cũng do lão tướng chia ruộng nương cho. Các người có điều gì muốn nói, ý gì muốn bày tỏ, cứ trình với lão tướng là đủ, bất tất hỏi ta làm gì.

    Từ nay đến trăm ngày thúc phụ ta, ta nhất định không lưu tâm bất cứ một việc nào hết thảy.

    Tuyết Hận nói xong, lui về phòng riêng sau khi đã truyền khao thưởng tướng sĩ về công phu vất vả trong mấy ngày tang lễ còn bề bộn.

    Lúc này mọi người mới xôn xao bàn tán... Cũng như trong mọi đám đông thường thấy ý kiến mọi người xung đột nhau rồi do đấy càng trở nên mãnh liệt một cách bướng bỉnh.

    Trong khi ấy thì, trong phòng riêng, Tuyết Hận chống tay dưới cằm, ngồi lặng im nghĩ ngợi.

    Theo ý chàng thì sự thù oán của hai nhà từ nay có thể coi như là kết liễu. Oan cừu có thể dứt bỏ được để gây lấy cuộc đời hòa hảo nó là nguồn gốc cái hạnh phúc tha thiết của chàng với nàng.

    Tuyết Hận cảm động một cách sâu xa những lời mà ông chú chàng đã nói trước khi tắt thở. Ông không giận nhà họ Ma nữa. Hơn thế, ông đã tán thành cái tình yêu của Tuyết Hận. Nếu bây giờ chàng lấy nàng Nhạn, vong hồn ông ở dưới suối vàng tất coi Nhạn như một người cháu dâu thương mến.

    Nhưng...

    Nhưng, về nhà nàng, chẳng hay người ta có nghĩ như thế chăng? Nhất là Nhạn, nàng nghĩ ngợi ra sao về cái chết của ông bố? Nàng coi cái chết của phụ thân như một quả báo của thiên lý hay lại mang thêm một mối thù, coi chàng như một kẻ đáng ghê tởm? Trời! Nếu vậy thì Tuyết Hận còn mong gì nữa! Nếu vậy thì, bước chân ra khỏi rừng xanh, Tuyết Hận sẽ mang theo cái chết ở trong lòng.

    Sự nghi ngờ làm cho Tuyết Hận cực kỳ khổ sở. Chàng tính chỉ còn một cách là giáp mặt nàng Nhạn để dò xem ý kiến nàng ra sao.

    Sự ấy rất khó khăn. Nhưng tuổi trẻ có bao giờ chịu thua sự khó khăn! Tuyết Hận nhất định sẽ gặp nàng Nhạn thì rồi đây chàng sẽ gặp, không có sức gì ở trên đời ngăn chàng nổi.

    Tuyết Hận thổn thức đến cái phút được giáp mặt nàng, được nhìn cặp mắt trong sáng, làn môi tươi, gương mặt êm đềm mỹ lệ và nhất là cái giọng nói, cái giọng nói êm như tiếng đàn...

    Trong lúc ấy thì dù có phải chết, Tuyết Hận cũng vui lòng vì chết giữa lúc cả tấm lòng đương rung động chẳng hơn là sống mãi mãi mà trái tim đã thành ra cái mả vùi lấp tình yêu?

    Tuyết Hận nóng nảy chờ cho hết trăm ngày của ông chú. Chàng nhất định sẽ ra đi, nhất định xéo lên muôn nghìn gian hiểm để xem cuộc đời của chàng sẽ kết liễu ra thế nào, sung sướng hay khổ sở.

    Một buổi sáng kia, Tựu Nghĩa vào.

    Tuyết Hận đương nằm xem sách vội nhỏm dậy:

    - Cái gì thế, lão tướng?

    - Bẩm công tử, có thư của thủ lĩnh Cần vương.

    - À!

    Tuyết Hận vừa nói vừa run tay tiếp lấy chiếc phong bì dán kín. Chàng mở thư ra đọc, vẻ mặt cảm động.

    Hồi lâu, Tuyết Hận bảo Tựu Nghĩa:

    - Các tướng Cần vương lấy làm vui vẻ và nhận lời. Phong trào phản đối lan mỗi ngày một rộng. Chưa biết rồi đây thời thế sẽ đem cho ta những sự lạ gì!

    - Cứ như lời tên đưa thư thì miền xuôi hiện thời loạn lạc dữ lắm. Phía Tây thì quân Xiêm La, Lào sang quấy nhiễu, quân Pháp mỗi ngày một tìm cách bắt nạt triều đình. Trong nước thì bọn giáo dân làm tay trong cho giặc, khiến cho các bậc chí sĩ thêm tức giận mà đảng Văn Thân trở nên mạnh lớn vô cùng. Triều đình tuy không ra mặt nhưng vẫn có ý ngấm ngầm tán trợ.

    Tuyết Hận thở dài.

    - Nước mình khổ sở thực! Gỡ cho xong ngần ấy mối loạn cũng còn lâu. Rút cục lại chỉ khổ cho trăm họ...

    Ý tưởng ấy hiện ra rồi mất ngay. Máu thiếu niên dù sao vẫn còn nóng, Tuyết Hận sáng mắt, đỏ mặt lên mà rằng:

    - Không gì tức bằng giòi trong xương giòi ra. Những quân chó chết ấy phải giết cho kỳ không còn mống nào nữa rồi giang sơn dù có mất cũng hả.

    - Công tử định hôm nào ra quân?

    - Chỉ trong nội tháng này.

    Nghĩ ngợi một lát, chàng hỏi:

    - À, thế nào, các tướng sĩ đi, ở ra sao?

    - Họ tình nguyện theo nhiều lắm! Chỉ trừ những người nào già cả, yếu đuối, bận bịu có gia quyến mà thôi.

    - Lão tướng đã ghi tên tuổi những người xin theo vào sổ quân rồi chứ?

    - Bẩm vâng.

    - Tổng số được bao nhiêu?

    - Cứ kể thì nhiều, nhưng tôi phải gạt một số lớn.

    Tuyết Hận ngạc nhiên:

    - Thế là thế nào?

    - Tôi chỉ lấy có hai nghìn quân lựa trong những người thực khỏe mạnh, nhanh nhẹn và quen việc đánh chác mà thôi. Là vì đem quân đi xa, việc lương hướng khó khăn lắm.

    - Thế còn những người kia?

    - Những người kia tôi cũng nhận nhưng bảo họ hãy yên chí ở đây, tập luyện cho tinh đã rồi khi nào cần đến sẽ gọi đến sau...

    - Tôi tưởng.

    - Thưa công tử, mình bây giờ chỉ cốt giết bọn nội phản mà thôi. Thảng hoặc có phải xung đột với ngoại địch thì cũng chỉ theo cái phương pháp thủ hiểm phục binh, dĩ đoản kích trường, chứ đương diện chiến đấu thì mình địch sao lại với súng lớn quân địch. Phép đánh cất lén này, như công tử đã rõ không cần phải nhiều mà chỉ cốt những quân tinh nhuệ. Nhiều quân lắm, việc cai quản, việc chuyển vận lương thực và đổi thay địa điểm chỉ tổ khó khăn mà thôi.

    Tuyết Hận gật gù khen phải.

    - Lão tướng liệu việc giỏi lắm! Tôi xin cảm phục.

    - Tôi đã chia hai nghìn quân ấy ra làm hai mươi tiểu đội. Một tiểu đội gồm có một trăm người cho một dũng sĩ quản đốc.

    - Thế là thế nào?

    - Như thế là theo đúng cách hành quân của Bắc Bình vương Nguyễn Huệ khi xưa vậy. Hai mươi tiểu đội có thể rời ra mà huy động biệt lập, tuy bề trong, vẫn có liên lạc mật thiết với nhau. Mỗi lần cùng quân địch chiến đấu, ta hợp lại tan ra biến hiện không thường làm cho quân địch không biết đâu mà lường được. Hễ nó đánh dồn về phía trước thì ta lẻn thúc vào sau lưng. Nếu nó ồ sang phía tả thì ta quật vào phía hữu. Ta thì ung dung thủ hiểm, quân địch phải hoảng hốt ứng cứu, vừa nhọc, vừa hãi, sức chiến đấu sẽ giảm đi nhiều.

    Tuyết Hận mỉm cười:

    - Sách có chữ "phi lão thành bất thành". Phương ngôn cũng nói "hơn một ngày hơn một chước", tiểu tướng xin khâm phục tướng quân!

    - Chả dám! Chúng tôi chịu lời ủy thác của chủ súy, chẳng qua hết lòng báo đáp mà thôi.

    - Tướng quân hà tất khiêm tốn. Kể về sức trai tráng xông pha, tướng quân có lẽ kém tôi thực, nhưng kể về kinh nghiệm và mưu kế thì tôi xin nhường quyền điều khiển cho tướng quân. Tướng quân là bộ óc của ba quân mà tôi tức là cánh tay vậy.

    Tựu Nghĩa cảm động:

    - Xin đa tạ công tử!

    - Lão tướng làm ơn chủ trương mọi việc cho. Tôi chờ xong bách nhật của thúc phụ tôi thì tôi sẽ sang qua châu Đại Man rồi lúc về thì ta khởi quân xuống Trung Châu.

    - Xin vâng lệnh công tử và xin công tử cứ an tâm, mọi việc đã có chúng tôi cáng đáng.

    Thế là, một buổi sáng mùa đông, Tuyết Hận ra đi từ sáng sớm, nai nịt gọn ghẽ, vai đeo cung tên và hành lý, cưỡi trên lưng ngựa bạch.

    Chàng đi dưới mưa, nắng, gió, sương, khát thì uống nước suối, đói thì ăn lương khô và hoa quả.

    Chẳng bao lâu, chàng lận vào rừng.

    Trên một cành ba soi, một con gà rừng lách đầu trong cánh ngủ đương say...

    Tuyết Hận, không biết nghĩ ngợi ra sao, rút ngay gươm phạt một nhát đứt hai chân con gà rồi lại lững thững đi...

    Mấy giờ sau, Tuyết Hận leo lên một đỉnh gò cao vút.

    Chàng thoáng thấy ở một mỏm đá cheo leo hai con dê rừng đang cùng nhau đứng ngắm xuống lòng vực thẳm.

    Tuyết Hận gò cương, giương cung, đặt tên, ngắm rõ đích xác rồi bắn ra một phát. Một con sơn dương bị trúng giữa sườn ngã lăn xuống vực. Con kia giật mình cũng ngã quăng cổ xuống nốt.

    Tuyết Hận mỉm cười, sắc mặt dữ tợn, một màng máu đỏ chàm qua hai mắt, máu trong người chàng sôi lên. Chàng cũng không hiểu tại sao chàng tự nhiên nảy ra một sự khát máu.

    Ngựa xuống hết nửa đồi, qua một tràn lau phẳng rồi sau lại vào khu rừng già.

    Những thân cây to, những cột lớn của một ngôi đền chùa vĩ đại. Dưới lớp trần xanh, trong cái tờ mờ tranh tối tranh sáng, thỉnh thoảng một con công bay là là khoe bộ lông đuôi rực rỡ hoặc một con trĩ cất cánh vụt lên ngọn cây cao, lông trắng như quét phấn, hay một con sóc nhảy loắt thoắt trên cành, nhìn chàng với vẻ ngẩn ngơ kinh hãi.

    Tuyết Hận bắn giết không biết chán, dễ dàng như một giấc chiêm bao.

    Chàng cảm thấy có một niềm vui sướng mọi rợ! Mỗi khi thấy một con vật lăn xuống bụi rậm, một vết máu đào hoặc thoáng nghe một tiếng kêu đau đớn...

    Có lẽ mối tình tuyệt vọng trong lòng chàng đã khiến cho Tuyết Hận trở nên hung ác. Khi người ta đau khổ, người ta thường muốn cho mọi sự vật cùng đau khổ. Trong cái ý muốn vô lý ấy, người ta như tìm được sự an ủi, khoái lạc.

    Tuyết Hận càng lại gần cái mục đích của cuộc lữ hành càng cảm thấy băn khoăn hồi hộp...

    Hình ảnh của nàng Nhạn, Tuyết Hận thấy mỗi ngày một xa mờ đi, cách trở rất nhiều khó khăn mà chàng cho rằng sức người khó mà vượt được. Tương lai vì thế hiện ra trước mắt chàng tối tăm như chìm trong một cảnh sương móc...

    Đến châu Đại Man, Tuyết Hận trông cảnh vật điêu tàn ngán ngẩm lòng càng thấy như có một mớ tro tàn.

    Qua nhà ông lão Nùng Phay, chàng rẽ vào thì đồ vật trong nhà vẫn y nguyên như cũ. Chỉ khác có một điều là bỏ vắng lâu ngày, không khí phảng phất một mùi ẩm mốc và, trên các vật một lớp bụi phủ lên như cám rắc.

    Chàng nghỉ trong túp nhà đó một đêm. Hôm sau, dậy sớm, Tuyết Hận đập đá lấy lửa nấu ăn xong rồi thủng thỉnh ra đi. Chàng vơ vẩn trong các phố, nghe ngóng binh tình nhưng không nghe gì lạ ngoài đám tang lớn và cái chết giữ dội của Ma Vạn Thắng. Mà cũng chẳng ai đả động chi tới nàng Nhạn. Xem chừng từ khi ấy, nàng Nhạn ở lỳ trong phòng khuê chứ không ra ngoài.

    Nếu vậy thì gặp mặt nàng quả nhiên là một sự khó.

    Tuyết Hận nghĩ quanh nghĩ quẩn mãi không ra một kế gì.

    Sau cùng, chàng lững thững trèo lên đỉnh núi Thần để nhìn vào trong thành họa may có thấy bóng nàng.

    Núi cao và rậm rạp lại chưa từng có dấu chân người. Trừ khi ai đó can đảm hoặc run rủi bởi sức mạnh của tình yêu như Tuyết Hận lúc ấy thì mới dám mạo hiểm phạm vào một nơi linh thiêng mà dân vùng đó vẫn kiêng sợ.

    Tuyết Hận lên tới đỉnh núi, ngồi vắt vẻo trên một tảng đá nhìn vào thành. Tuyệt nhiên không thấy bóng nàng Nhạn đâu cả.

    Tòa thành xa nom chỉ bằng cái nia nên dù nàng Nhạn có ra ngoài, Tuyết Hận cũng khó lòng trông thấy. Chàng đưa mắt nhìn những dải núi trùng trùng điệp điệp nổi lên ở vùng châu Đại Man, y như những làn sóng khổng lồ không động. Dưới chân chàng, sông Gâm từ từ chảy như một dòng bạc lỏng.

    Tuyết Hận thở dài, lẩm bẩm:

    - Hừ! Núi dài sông rộng, loài người cớ sao không chia nhau ra đấy mà sinh cơ lập nghiệp, lại cứ xúm nhau lại một chỗ để rồi tranh nhau từng thước đất, lấn nhau từng hàng rào, rồi ghen ghét, giết hại nhau...

    Buồn rầu, Tuyết Hận rút dao lưng cắt những ống sậy mọc quanh mình, tỉ mỉ ghép lại thành một cái Krèng xinh đẹp.

    Chàng bắt đầu thổi...

    Nỗi nhớ nhung sầu muộn trong lòng chàng như thoát qua ống sáo, tản mạn trong không gian.

    Chính tiếng Krèng ấy đã vẳng tới tai nàng Nhạn. Chính những âm thanh ngụ cả một mối tình đau đớn ấy đã làm cho thiếu nữ cảm động và mơ màng...

    Và, sau cùng, Nhạn như bị một sức thôi miên hấp dẫn, truyền đóng ngựa để lên chơi đầu núi...


  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG XV
    Nghe tiếng chân ngựa, Tuyết Hận giật mình ngoảnh lại rồi đứng phắt lên, như bị điện giật.

    Nàng Nhạn đột ngột hiện ra trước mắt chàng trắng như một con chim bồ câu...

    Hai người đứng sững nhìn nhau. Sự kinh ngạc, sự vui mừng, sự đau đớn, trăm nghìn cảm xúc trái ngược làm cho hai người rung động nghẹn ngào...

    Sau cùng, Tuyết Hận bước lại gần thiếu nữ. Chàng rung động khẽ nói.

    - Ồ! Nếu không có sự run rủi thiêng liêng thì sao tôi lại... gặp nàng vì, xin thú thực, tôi đương mong ước được thấy... nàng...

    - Chàng mong ước được gặp tôi, nhưng... để làm gì nhỉ?

    Câu sau cùng, thiếu nữ nói khẽ như một hơi thở nhẹ.

    - Nàng Nhạn ơi!

    - Khổ tôi lắm...

    - Nàng hãy nghe tôi nói...

    - Thôi, chàng...

    - Phải, tôi biết rằng nàng sẽ khổ sở; sẽ thù ghét tôi không biết chừng nào, song lỗi có phải tôi đâu! Câu chuyện đầu đuôi thế nào, chắc nàng đã rõ. Cha tôi khi xưa bị phụ thân nàng ám hại. Tôi hồi ấy hãy còn trứng nước chưa biết gì. Ngay đến hôm được gặp nàng trong rừng Cấm, tôi cũng vẫn chưa biết gì...

    Tuyết Hận ngừng lại, khẽ thở dài rồi nói tiếp:

    - Trời ạ! Nếu tôi được rõ câu chuyện gớm ghê từ khi trước! Tại sao tôi lại phải biết nó sau khi đã gặp... nàng! Câu chuyện đau lòng làm sống lại tất cả những thù xưa oán cũ. Tôi không thể nào tránh được mặc dầu lòng tôi thực tình muốn tránh. Những bổn phận nặng nề, đau đớn của kẻ làm con, ai mà làm sao được! Vả, nếu tôi không xứng đáng là con của cha tôi thì chắc ngay chính nàng cũng sẽ đem lòng khinh bỉ chứ đừng nói chi ai khác. Tôi phải báo thù! Nhưng, cũng may mà sự việc xảy ra đã tránh cho tôi cái việc hãi hùng đẫm máu ấy. Phụ thân nàng phải giết y như cha tôi, có điều không phải tôi giết người. Ngay khi ấy thì chính phụ thân nàng lập kế ám hại chú tôi, có lẽ cả tôi nữa! Chú tôi đã chết! Phụ thân nàng dù bị giết tưởng cũng không còn ân hận gì. Theo ý tôi thì thù oán hai nhà đến đây có thể coi như đã hết vì máu đã chảy nhiều lắm rồi nàng ạ...

    Nhạn bồi hồi quá, cảm động quá, đành phải ngồi xuống một tảng đá phủ dưới lần rêu mịn màng như nhung...

    - Khốn nỗi, theo ý tôi thì thế mà chẳng biết thúc phụ nàng nghĩ sao? Nhất là nàng... Phải, nàng có cho như thế là xong thù oán hay là lại coi những cái chết thảm độc kia làm những sự chia rẽ đau lòng? Quái! Tôi không hiểu làm sao người ta cứ phải thù oán giết hại lẫn nhau, hình như không còn có việc gì làm nữa. Kìa nàng xem: núi dài, sông rộng, cảnh đẹp như tranh. Người ta sống trong khung cảnh rỡ ràng tươi tốt ấy, cớ sao không yêu mến, thương xót nhau, làm cho cuộc đời nhờ thế mà trở nên êm đềm, sung sướng?

    Nàng Nhạn thở dài, hai tay ôm đầu, nín lặng.

    - Chính vì băn khoăn không hiểu ý nghĩ của nàng ra sao nên tôi mới lại đây... lại đây để mong gặp nàng, để biết rõ ý nghĩ của nàng...

    Tuyết Hận vừa nói vừa khẽ cầm lấy tay thiếu nữ. Nàng rùng mình nhưng không rụt tay lại.

    - Nếu nàng vẫn coi là thù oán chưa thể hết được thì nàng có thể dùng thanh gươm tôi đeo đây mà trả thù. Tôi vui lòng để cho nàng lấy máu trong tim tôi mà rửa vết máu của phụ thân nàng! Thực thế! Tôi chẳng thà chết còn hơn là sống mà bị nàng oán ghét. Cuộc đời như thế, có khác gì một oan nghiệt! Nhưng, nếu nàng cũng nghĩ như tôi thì!

    Tuyết Hận khẽ bóp bàn tay ngà ngọc của thiếu nữ, cả hai cùng cảm thấy rung động thổn thức tới đáy lòng.

    - Nàng Nhạn ơi! Từ hôm mới gặp nàng, tôi đã nhận thấy rằng lòng tôi yêu nàng. Đến nỗi, chỉ một ý nghĩ phải xa nàng cũng khiến tôi không thiết gì sống nữa. Thực, hôm nay đến đây, lòng tôi lo lắng, xấu khổ bao nhiêu, thì lại nhớ nhung, yêu mến bấy nhiêu! Tôi đương tìm xem có cách gì được gặp nàng thì không ngờ được gặp. Phải chăng sự run rủi này là do tự ý trời?...

    Thiếu nữ rụt rè nói:

    - Bao nhiêu lo lắng, sầu khổ, bao nhiêu thương nhớ, yêu mến của chàng em đều có hết. Nghĩa là ngay từ hôm được chàng cứu cho thoát khỏi kẻ phũ phàng, em cũng đã bắt đầu cảm thấy... yêu chàng!

    Mặt thiếu nữ dần dần đỏ ửng...

    Trong ánh chiều xuân rực rỡ, nàng trở nên êm ái thắm tươi như một bông hoa.

    Tuyết Hận ngây ngất và càng bóp chặt hai bàn tay Nhạn làm toàn thân nàng nóng bừng như lửa cháy.

    - Trời ơi! Nhạn nhắc lại câu vừa nói cho tôi nghe, nhắc lại cả một nghìn lần.

    - Em tưởng chàng nhìn em đã đoán ngay từ hôm ấy!

    - Tôi cũng đoán như vậy nhưng tôi chưa dám tin ở một sự hạnh phúc tốt đẹp quá... Nhất là sau khi nghe câu chuyện oán cừu, tôi thực không còn hy vọng gì. Nhạn có biết rằng từ lúc ấy đến nay, lòng tôi khổ sở thế nào chăng?

    Thiếu nữ thở dài và lần thứ nhất nàng dám bạo dạn bóp bàn tay Tuyết Hận.

    - Em chỉ sợ chúng ta yêu nhau như thế này là một điều tội lỗi.

    - Tại sao lại có thể là tội lỗi được. Chính ngay thúc phụ tôi khi hấp hối cũng đã...

    - Sao? Người bảo sao?

    - Thúc phụ tôi nói rằng hai họ Ma, Bàn không nên gây thù chuốc oán với nhau nữa và nếu...

    Tuyết Hận nhìn thiếu nữ:

    - Nếu hai chúng ta lấy được nhau thì vong hồn Người rất sung sướng.

    Nhạn cảm động lâm râm nước mắt.

    - Sau cùng, thúc phụ tôi ngỏ ý muốn rằng, trong lúc còn tang chế, tôi hãy đem quân về xuôi giúp các đảng Văn Thân...

    - Có, em đã được xem tờ hịch của các nhà chí sĩ. Cái ý của họ tốt đẹp lắm vả, chàng là người nam nhi lại con nhà tướng, chàng rất nên lập lấy một chút công danh với đất nước, để tên tuổi sau này khỏi chìm khuất dưới cỏ cây...

    - Thế em cũng nghĩ như thúc phụ tôi?

    - Vâng.

    - Cám ơn em! Từ khi thúc phụ tôi mất, tôi đã quyết chí ra đi nhưng trước hết hãy lại đây tìm em đã. Nay được rõ lòng em, tôi có thể lên mình ngựa với một niềm vui sướng trong lòng...

    - Chí làm trai dặm nghìn da ngựa, chàng nên đi. Ở nhà, em sẽ chiều chiều lên đỉnh non Thần chờ nghe tin báo tiệp... Hai người im lặng, mắt nhìn xa đôi chim nhạn tung trời...

    Không khí chiều xuân mỗi lúc một trong sáng.

    Mặt trời tà dần dần xuống thấp rồi lặn hẳn. Về phía Tây, những dải núi tím hồng như những con rắn khổng lồ đương quằn quại trong đám lửa đỏ rực...

    Dưới chân núi, những tiếng rì rầm của phố xá như sóng bổ vỗ khẽ vào những tảng đá mấp mô...

    Hình sắc của sự vật mỗi lúc một rực rỡ lên. Sự im lặng bát ngát trùm xuống cây cỏ!

    Những sôi nổi trong tấm lòng hai người dịu hiền, tiêu tan trong bầu không khí thơm ngát, nhuộm ráng mây chiều...

    Nhạn khẽ nói:

    - Chàng lại thổi một khúc Krèng êm ái nữa cho em nghe...

    Tuyết Hận mỉm cười, ôm chiếc Krèng và bắt đầu thổi...

    Những thanh âm thoảng nhẹ trong không khí trong như pha lê, dịu dàng và mơn trớn.

    Hai mắt Nhạn sáng lên, vẻ mặt nàng êm ái, làn môi tươi hé mở như hớp lấy những âm ba tuyệt diệu.

    - Tiếng Krèng này sẽ cứ văng vẳng trong lòng em... và mai kia, mỗi lần em lên đỉnh non Thần, nhìn về phương Nam xa tít, em sẽ lại nhớ đến cái phút thần tiên mà hai ta sống buổi chiều hôm nay...

    - Chính cái ý nghĩ đó sẽ làm cho tôi vui vẻ ham sống. Nó sẽ theo tôi trong những lúc tịch mịch, những khi chán nản, nhớ nhung...

    Mặt trời lặn...

    Những màu tốt tươi trên sự vật mỗi phút một phai nhòa...

    Gió chiều hiu hắt thổi, làm cho lá cây xào xạc.

    Nhạn đứng lên khẽ nói:

    - Thôi chàng đi... và chong chóng cho em được biết tin lành...

    Tuyết Hận vừa sung sướng, vừa não nùng nhìn thiếu nữ.

    Và, sau cùng, chàng giơ tay đón Nhạn...

    Hai người ghé sát vào nhau, im lặng nghe những phút êm ái dần qua...

    Ánh sáng dần dần tắt...

    Nhạn thở dài, lẩm bẩm:

    - Ngày vui ngắn chẳng tày gang! Trời đã tối rồi. Em phải về. Nhưng, từ nay, linh hồn em lúc nào cũng phảng phất bên chàng...

    - Còn tôi, dù đi xa, lòng vẫn ở đây, vẫn để lại trên đỉnh non Thần để chiều chiều đợi em lên rồi ta cùng ngắm cảnh...

    Nhạn bùi ngùi lên yên ngựa.

    Tuyết Hận đứng nhìn theo, buồn tê tái... Bỗng, chàng lại ôm chiếc Krèng lau, thổi một bài tiễn biệt...

    Tuyết Hận đã theo đảng Văn Thân và được ai nấy cảm phục sự can đảm cùng cái tài thao lược của chàng.

    Chàng xông pha trong các cuộc chiến đấu, thu được nhiều chiến tích vinh quang. Những khi cần phải trèo thành, phá lũy, những khi cần đến người đi làm một việc nguy hiểm, thì Tuyết Hận bao giờ cũng đứng lên trước. Nhiều phen ai nấy đã yên trí là chàng bị bắt hay bị giết thế mà sau chàng lại toàn vẹn trở về.

    Bao giờ Tuyết Hận cũng thoát nạn một cách rất lạ.

    Toán quân Phù Yên bởi thế trở nên một toán quân thượng lưu, đầy vẻ vang rực rỡ và được kính trọng vô cùng.

    Nhưng, một đêm kia, chàng vâng lệnh trên, đem quân đến vây phá một làng đạo, chàng đã ngã gục ngay trên bãi chiến trường, ngực bị thủng vì đạn của quân Pháp đến cứu viện bắn.

    Trước khi chết, chàng còn gượng mở mắt nhìn Tựu Nghĩa.

    - Lão tướng quân! Tôi giữa đường gặp nạn, lòng thực không ân hận gì cả. Làm tài trai, được chết trên bãi sa trường thế này là một vẻ vang. Tôi vui lòng đã không để nhục đến dòng dõi con nhà võ tướng. Nhưng...

    Máu đỏ trào ra miệng, làm cho Tuyết Hận phải ngừng lại một lúc lâu.

    Chàng thở rít lên rồi gượng nói:

    - Nhưng, tôi nghe cái chết đã tới gần rồi... lão tướng quân hẳn biết mối tình của tôi với nàng Nhạn... Và, nếu mai đây có dịp tương phùng, xin lão tướng nói giùm lại cho nàng...

    - Điều ấy xin công tử yên tâm.

    Tuyết Hận khẽ mấp máy đôi môi như nói lời vĩnh biệt rồi tắt thở...

    Từ khi Tuyết Hận ruổi ngựa ra đi, chiều chiều nàng Nhạn vẫn lên đỉnh non Thần dõi hình bóng chàng, và luôn nhớ người chiến sĩ đi không trở lại. Cảnh ngộ nàng, hệt như người chinh phụ xưa:

    Đoái trông theo những cách ngăn

    Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh

    Nàng ngóng đợi tin chàng đến mòn mỏi như đã hóa thành tượng đá Vọng Phu, cho tới một bữa nọ có tin từ mặt trận do Tựu Nghĩa mang về, làm cho Nhạn ngất đi, bất tỉnh.

    Nàng đau đớn tê mê, càng nghĩ càng như ngây như dại. Sau cùng, Nhạn phát điên hẳn và cứ chiều chiều nàng lủi thủi thả một tấm lòng đã chết lên đỉnh non Thần, chờ mong cuộc gặp gỡ chẳng bao giờ lại có.

    Theo bản in lần đầu trên Phổ thông bán nguyệt san, năm 1941


Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-24-2015, 11:41 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •