Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tình yêu thường làm cho con người mù quáng. Khi hai kẻ yêu nhau bao giờ cũng cho người mình yêu và những chuyện của mình hoàn toàn hợp lý. Chỉ có những người ngoài mới nhận được đâu là phải đâu là sai.
Albert Camus
Trang 11 / 11 ĐầuĐầu ... 91011
Results 101 to 107 of 107

Chủ Đề: Anh Em Nhà Karamazov

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Anh Em Nhà Karamazov

    Anh Em Nhà Karamazov

    Tác giả :Fyodor Dostoevsky

    Dịch giả: Phạm Mạnh Hùng





    Lời người dịch

    (Trích từ "Lời giới thiệu" của dịch giả Phạm Mạnh Hùng từ "F. Dostoievsky. "Anh em nhà Karamazov". Nhà Xuất bán Văn học, Hà Nội. 1988)

    "Anh em nhà Karamazov" là tác phẩm cuối cùng của Dostoievsky, ông viết tác phẩm này từ 1878 đến 1880. Dostoievsky thuộc loại thiên tài hiếm hoi mà càng về cuối đời thì sự nghiệp sáng tác càng lên tới đỉnh cao hơn.

    "Anh em nhà Karamazov" là tác phẩm vĩ đại nhất của ông, là tác phẩm tổng kết cả cuộc đời viết văn của ông: ở đây hội tụ tất cả những ý tưởng chủ đạo mà nhà văn ấp ủ suốt đời và đã giãi bày một phần trong tác phàm trước đó, đây là sự kết tinh kinh nghiệm sóng sóng gió đầy đau khổ của nhà văn và vô vàn quan sát trong thực tế, tay nghề điêu luyện sau bốn chục năm lao động văn học.

    Thời kỳ viết "Anh em nhà Karamazov" là một thời kỳ tương đối êm đềm, hạnh phúc trong đời tư của Dostoievsky. Quang vinh của ông lên tới tột đỉnh: ông được bầu vào Viện hàn lâm cuối tháng 7 năm 1877 và bài diễn văn về Puskyn ông đọc vào tháng 6 năm 1880 đã gây chấn động trong toàn nước Nga, làm cho uy tín của ông càng thêm lẫy lừng. Cảnh túng bấn thường xuyên trước đây đã chấm dứt, ông có thể làm việc bình tĩnh hơn, không bị những "eo xèo" về cơm áo bám riết nữa, Anna Grigonevna là người vợ hoàn hảo, người thư ký tận tuỵ của ông.

    Hoàn cảnh nước Nga những năm 70 hết sức phức tạp và đau thương.

    Sau cuộc cải cách nông thôn nam 1861, quan hệ tư bản phát triển mãnh liệt ở Nga, nông thôn tan rã, nông dân phá sản, bần cùng hoá, kéo ra thành thị để trở thành người làm thuê cho các chủ xưởng máy bóc lột tàn nhẫn. Gorki viết rằng trong những năm 70-80, "tất cả những gì mang tính thú vật đều được chính phủ cổ vũ", "tất cả những gì có tính người đều bị truy bức". Đồng thời, đây cùng là thời kỳ mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, ý thức cách mạng của quản chúng lao động phát triển sâu sắc thêm, phong trào phản đối dẩy lên trong nông dân, trí thức, nhằm chống bóc lột chống sự chuyên chế của chế độ Sa hoàng và sự lộng quyền của cảnh sát. Nói cách khác là những năm tình thế cách mạng.

    Trong hoàn cảnh nóng bỏng ấy, trước sự rạn nứt của mọi nền móng xã hội và bóng dáng của cuộc cách mạng xả hội đã hiện rõ, đau đớn nhìn thấy những đau khổ tột cùng của nhân dân, Dostoievsky đã viết tác phẩm lớn nhất của ông về tình trạng hỗn loạn xã hội khúc xạ qua sự tan rã gia đình, về sự tìm kiếm "ý nghĩa của tồn tại" ở những con người đại diện cho các thế hệ thuộc quá khứ, hiện tại và tương lai của nước Nga, về những đau khổ vô lượng của nhân dân, về những con đường có thể có để đi đến hoà đồng xã hội.

    Trước khi bắt tay vào viết tác phẩm mà thật ra ông đã ấp ủ ý đồ từ nhiều năm trước, Dostoievsky đã linh cảm thấy mình nắm bắt được một đề tài xứng đáng với tầm vóc của mình. Ông viết: "Ít khi tôi gặp trường hợp nói lên được những điều mới mẻ, đầy đủ, độc đáo như thế này". Tiếp đó là quá trình làm việc hết sức căng thẳng. Trong một lá thư đề ngày 23-7-1879, ông viết: "Cuốn tiểu thuyết tôi đang viết (Anh em nhà Karamazov) hiện thời nuốt hết mọi sức lực và thời giờ của tôi… Tôi viết không hối hả, không vội làm cho xong việc, sửa đi sửa lại, gọt tỉa, tôi muốn tận tâm hoàn tất tác phẩm, bởi vì chưa hề có tác phẩm nào mà tôi nhìn nhận một cách nghiêm túc hơn tác phẩm này".

    Thoạt nhìn Anh em nhà Karamazov là cuốn tiểu thuyết về đề tài gia đình, về sự tan rã của "gia đình ngẫu hợp" tức là loại gia đình ở đó không có những mồi quan hệ trong sạch, vững chắc, không có nền móng đạo lý và tan rã trong hoàn cảnh của một xã hội đang băng hoại, thối nát. Sự chọn lựa như thế cũng dễ hiểu: tất cả các tiểu thuyết của Dostoievsky đều viết về đề tài gia đình. Đối với Dostoievsky, vấn đề quan hệ gia đình là vấn đề hết sức quan trọng. Năm 1854, ông viết cho em trai là Andrei: "Ngay cả trước đây cũng thế, bao giờ tôi cũng cho rằng trên đời không có gì cao cả hơn hạnh phúc gia đình". Trước khi bắt tay vào "Anh em nhà Karamazov", trong thư viết cho nữ văn sĩ K. D. Antsevskaia, ông nói rằng nhiệm vụ chủ yếu của ông là nhận thức "thế hệ trẻ" và "gia đình Nga thời nay mà tôi linh cảm thấy rằng mới hai mươi năm trước đây, nó hoàn toàn không như thế".

    Cơ sở cốt truyện của "Anh em nhà Karamazov" là một chuyện có thật mà tác giả nghe được trong thời gian đi tù khổ sai. Cùng bị giam ở nhà tù Omsk với Dostoievsky có một trung uý hỏi hưu tên là Ilinsky, anh ta bị kết án hai mươi năm tù khổ sai về tội "giết cha". Kẻ sát nhân thực sự là em trai anh ta, gã muốn một mình thừa kế gia tài của bố. Anh ta thụ hình phạt được mười hai năm thì người em hối hận, ra tự thú và tự nguyện xin đi đày. Ông đã kể chuyện này trong "Bút ký nhà chết". Trong phác thảo viết năm 1874 cho cuốn tiều thuyết, nhân vật thậm được đặt tên là Ilinsky.

    Ông còn được nghe một chuyện tương tự ở Tobonsk. Có hai anh em trai, người anh có vợ chưa cưới xinh đẹp mà người em thầm say mê. Người anh là trung uý, ăn chơi hoang đàng và thường xuyên xích mích với bố. Thế rồi ông bố mất tích mấy ngày. Cuối cùng người ta nhìn thấy xác ông bố trong hầm nhà. Người em không ở với bố nên không bị nghi. Người anh bị buộc tội, bị kết án khổ sai. Lúc mang xiềng đi tù, anh hỏi vợ chưa cưới: "Em có tin không?". Thật ra người em mới là kẻ sát nhân, song đã nguỵ tạo chứng cớ một cách khôn khéo. Về sau vợ chưa cưới của người anh thành vợ của người em. Mười hai năm sau, người em đến thăm anh ở nơi đầy khổ sai, hai bên nhìn nhau không nói mà cũng hiểu. Bày năm nữa trôi qua. Người em thăng quan tiến chức, nhưng bỗng mắc chứng u uất, bị giày vò. Cuối cùng anh ta thú nhận với vợ là mình giết bố. "Anh nói với tôi điều ấy để làm gì?" - nàng hỏi. Người em đến gặp người anh tù khổ sai, ăn năn tội lỗi. Người tù nói: "Tôi quen rồi". Hai anh em nhất trí với nhau: "Như thế là chú cũng đã bị trừng phạt". Một hôm nhân lễ sinh nhật của mình, người em tuyên bố trước khách khứa: "Tôi mới là kẻ giết cha".

    Người ta cho là anh ta điên. Cuối cùng người anh được tha trở về, người em đi tù khổ sai thay anh, anh ta cầu xin anh làm bố các con anh ta. Anh ta "đã được lên con đường chính đạo".

    Ta trở lại tiều thuyết "Anh em nhà Karamazov". Một ông bố, ba người con chính thức và một đứa con hoang, kết quả của một lần đi lại gần như cưỡng hiếp một người phụ nữ điên dại. Trừ người con trai thứ ba - Alecxei, - cả gia đình sống trong sự căm thù lẫn nhau mà kết quả là vụ giết bố và một người bị oan đi tù khổ sai. Trong tất cả các nhân vật của "nhà Karamazov", khó nói ai là nhân vật chính. Tất cả đều là nhân vật chính, đều có vai trò quan trọng ngang nhau trong sự phát triển câu chuyện.

    Trước hết là ông bố - Fedor Pavlovich Karamazov - lão già thuộc tầng lớp quý tộc nhỏ này kiêu ngạo về chút vốn tiếng bọt bèo hời hợt của văn hoá Tây phương, y cố thích nghĩ với chủ nghĩa tư bản hiện đại. Y là một loại tài năng trong thủ đoạn kiếm tiền kiểu con buôn: điều này được tác giả phơi bày qua những chi tiết cụ thể, qua lời bộc lộ của chính nhân vật. "Tôi căm ghét nước Nga biết chừng nào!" - y không thấy cần phải giấu giếm lòng yêu nước của mình. Săn đuổi khoái lạc, đấy là mục đích tối cao của cả cuộc đời y. Ngoài khoái lạc, y không thừa nhận một trách nhiệm đạo lý nào hết, ngay cả đối với hai người vợ đã quá cố và các con y. Thậm chí y tìm thấy cả khoái lạc trong tình cảnh sỉ nhục: y khoái trá khi làm thằng hề múa vui cho bọn giàu có để kiếm miếng ăn, khi vợ bỏ theo trai, y thích thú với vai ông chồng mọc sừng để được thiên hạ thông cảm. Đểu cáng ra mặt đi đôi với đạo đức giả, dâm đãng tột độ và keo kiệt bủn xỉn, tàn bạo, đấy là bản chất của y. Đây không còn là con người mà là con vật độc ác, bệnh tật, đáng kinh tởm.

    Tuy nhiên, mỗi nhân vật của Dostoievsky bao giờ cũng đầy mâu thuẫn, mang trong mình nhưng nét trái ngược chuyển biến lẫn nhau. Fedor Pavlovich trâng tráo và dâm đãng, nhưng là một cá tính không nhạt nhẽo chút nào. Y là "thằng hề", nhưng pha trò có duyên và giễu cợt rất đắt. Y là nhà triết học trong loại của mình. Y biết tìm ra cơ sở triết lý cho cách sống vô luân vô liêm sỉ của mình. Y lý sự về địa ngục: "Ta cứ nghĩ, khi ta chết không thể nào quỷ lại không dùng móc câu lôi ta đi. Nhưng ta lại nghĩ: Móc ư? Chúng đào đâu ra móc. Làm bằng gì? Sắt ư? Thế thì rèn móc ở đâu? Ở địa ngục có xưởng rèn chắc?". Y biến quan niệm tôn giáo về đời sống ở thế giới bên kia thành cái cụ thể thô thiển nhất để khẳng định tính phi thực tế của nó và gạt bỏ. Không có cả địa ngục lẫn thiên đường thì không có gì phải sợ. Cứ sống như ta muốn.

    Cái đinh của cốt truyện là sự xung đột giữa ông bố và người con trai cả Mitia Karamazov vì tiền và tình. Ngoài sự tranh chấp giữa hai bố con về quyền thừa kế tài sản của mẹ Mitia để lại, xen vào quan hệ tình địch của họ còn có một món tiền cụ thể, nó là nguyên nhân trực tiếp gây ra vụ giết người: số tiền ba nghìn rúp mà Mitia rất cần để gỡ danh dự, nhưng lại là số tiền Fedor Pavlovich dành tặng cho Grusenka "thiên thần của tôi", "con gà con của tôi", "nếu nàng đến với tôi".

    Mitia Karamazov là mẫu người tập trung những đam mê xác thịt dữ dội, không gì kìm hãm nổi, về điểm này anh ta đích thị là dòng máu của bố. "Thượng đế ban dục tình cho sâu bọ", anh ta nghĩ vậy. Nhưng mặc dù ngụp mình trong vũng bùn truỵ lạc, anh ta vẫn khát vọng cái cao đẹp, ở anh ta "lý tưởng Madona" giao tranh với lý tưởng "Xodom", "ở đây quỷ và Chúa Trời giao tranh với nhau mà chiến trường là trái tim con người", "ở đây hai giải bờ gặp nhau, ở đây mọi mâu thuẫn cùng chung sống". Vì thế tâm hồn anh ta quằn quại trong những đam mê, nhưng bất thần ở anh ta lại xuất hiện những ý nghĩ và hành động cao cả. Trong cảnh gặp gỡ lần đầu tiên với Ekaterina Ivanovna tại nhà anh ta, Mitia đã có những tình cảm và hành vi cao quý. Sự say mê, thậm chí tình yêu của anh ta với Grusenka, là tình cảm trong trắng của tuổi trẻ. Trong cuộc tình này lẽ phải thuộc về gã chứ không phải ở phía con dê già kia.

    Mitia căm thù bố, nhưng không nhúng tay vào tội ác ghê tởm, anh ta sa đoạ nhưng vẫn giữ được bộ mặt con người, theo tác giả, là vì anh ta vẫn còn tin vào Thượng đế: "Cho dù tôi đáng bị nguyền rủa, cho dù tôi hèn hạ và đê tiện, nhưng hãy cho tôi hôn gấu bộ áo mà Chúa Trời của tôi khoác trên người, cho dù tôi đi với quỷ, nhưng tôi vẫn là con của Ngài, ôi Chúa Trời, tôi yêu Ngài…" Mitia nghĩ ngợi về nhưng đau khổ của con người tràn lan khắp thế gian. Nhưng suy nghĩ về đau khổ của chúng sinh và về sự hiện hữu của Thượng đế đã đưa Mitia đến sự phục hưng trong đau khổ.

    Anh ta bị toà án hình sự kết tội, nhưng toà án lương tâm bào chữa cho anh ta. Anh ta chọn con đường cứu chuộc qua đau khổ, qua sự quy thuận để chuộc lỗi của mình "có ý định giết cha" và chuộc lỗi cho kẻ phạm tội thực sự Dostoievsky viết về nhân vật này: "… tôi sẽ nhấn mạnh hơn nữa tính cách của Mitia Karamazov, trước nguy cơ phải gánh chịu sự bất hạnh và bị kết tội oan, anh ta tự gột rửa mình bằng trái tim và bằng lương tâm. Tâm hồn anh ta chấp nhận "sự trừng phạt không phải vì anh ta đã làm wệc ấy mà vì anh ta xấu xa đến mức từng mong muốn thực hiện cái hành vi phạm tội mà sau này anh ta bị kết tội oan do sai lầm của toà án. Một tính cách hoàn toàn Nga: "Sấm không gầm lên thì gã mugich không làm dấu thánh". Sự gột rửa tâm hồn như thế, xét về mặt hoàn canh tâm lý cụ thể, là hoàn toàn có thể xảy ra, nhưng ở đây phần khiên cưỡng do tác giả cố ý ép đặt vẫn nhiều hơn sự chuẩn bị nội tâm cho nhân vật.

    Thủ phạm thật sự của vụ giết cha là Ivan Karamazov và Pavel Xmerdiakov.

    Xmerdiakov là một trong những hình tượng ghê tởm nhất, hiện thân của sự đe doạ ghê gớm của con người mà Dostoievsky đã tạo nên với sức mạnh nghệ thuật kinh hoàng. Ra đời do sự dâm đãng của Fedor Pavlovich với một cô gái dở điên dở dại Lizaveta Xmerdiasaia mà có lẽ không một ai có thể thèm muốn, là con hoang không được thừa nhận của lão già, chỉ được coi là đầy tớ trong nhà, hắn sống trong sự căm thù dữ dội của kẻ đã sinh ra hắn. Chịu ảnh hưởng giáo dục của tính ích kỷ độc ác của lão già, hắn không coi cái gì là thiêng liêng. Hắn không có chút tình cảm nào với những người nuôi dưỡng hắn, hắn sẵn sàng chào mừng Napoleon xâm chiếm Nga, mơ ước chiếm được số tiền ba nghìn rúp để trốn ra nước ngoài mở một tiệm ăn nhỏ. Bên cạnh chủ nghĩa hư vô thô thiển, tính ngạo mạn tôi đòi và sự khinh miệt toàn nhân loại của hắn được miêu tả với sức mạnh nghệ thuật đặc biệt. Là một kẻ vô học, thân phận hèn kém, hắn lại khinh miệt dân Nga "vô học"! Ngu dốt, thiển cận, nhưng hắn có logic tôi đòi, phép biện chứng tôi đòi riêng của hắn, cái biện chứng trâng tráo nhưng mềm dẻo, linh hoạt, biện bạch cho bất cứ hành động đê tiện và tội ác nào. Tâm lý tôi đòi thật dễ sợ. Fedor Pavlovich chết chính bởi tay hắn, kẻ được lão tiêm nhiễm thói độc ác và hèn mạt bị lão làm cho hư hỏng.

    Tuy nhiên, Xmerdiakov chỉ là kẻ thực thi việc giết cha, Ivan Karamazov mới là đầu não, là "nhà lý luận" khơi gợi và cũng cố cho hắn ý nghĩ giết người, thúc đẩy hắn đi đến hành động, Ivan Karamazov là nhân vật mang tất cả gánh nặng của những hoài nghi và tìm kiếm triết lý trong cuốn tiểu thuyết.

    Lòng ham sống mãnh liệt, "yêu bầu trời xanh thẫm", hoạt động tìm kiếm ráo riết của tư tưởng, đấy đích thực là "chất Karamazov" thể hiện ở Ivan. Nhưng Ivan không phải là "đứa con của tự nhiên" như Mitia, anh ta trước hết là con người duy lý đầu óc lạnh lùng, người của "văn hoá phương Tây".

    Anh ta là kẻ nhẫn tâm: xung đột giữa anh Dmitri và bố đến độ có thể gây án mạng, vậy mà anh ta thản nhiên, coi đó là chuyện tự nhiên, "rắn nuốt rắn". Với Ivan, tình cảm ruột thịt là một thành kiến. Lý trí cao hơn mọi mong muốn và khát vọng. Đầu óc duy lý lạnh lùng của Ivan kết hợp với chủ nghĩa cá nhân ích kỷ: "Tội ác chẳng những phải được cho phép, mà thậm chí được thừa nhận là lối thoát khôn ngoan nhất của người vô thần để ra khỏi tình thế khó khăn". Xmerdiakov giết người theo lý luận "mọi việc đều được phép làm" của Ivan, hắn chính là kẻ song trùng của Ivan. Với tư cách là nhà triết lý, Ivan đã đi từ cực đoan này đến cực đoan khác nhiều khi phản lại chính mình, ở anh ta không có sự thống nhất giữa nói và làm. Lý thuyết trừu tượng của anh ta dẫn tới nhưng hậu quả bẩn thỉu mà anh ta không thể nào nuốt trôi được. Cuộc đối chất của Ivan với lương tâm trong cuộc đối thoại với quỷ thật là đau lòng. Quỷ nhìn thấu ruột gan anh ta, nhắc lại lời lẽ trước đây anh ta đã nói, đòi anh ta phải nói - làm đi đôi với nhau. Số phận đã buộc chàng Ivan vô thần phải soi gương tự ngẫm kỹ mình, điều đó làm anh ta phát điên. Qua nhân vật Ivan, Dostoievsky biểu lộ sự thù ghét của ông đối với loại người vô thần duy lý.

    Lý trí lạnh lùng không chấp nhận tín ngưỡng, Ivan không chấp nhận Thượng đế, anh ta là con người nổi loạn. Cái ác ngự trị trên thế gian, bục tranh tội ác mà Ivan về ra với Alecxei rùng rợn đến nỗi Alecxei - người của Chúa buột miệng thốt lên: "Phải bắn". Sự phê phán của Ivan về trật tự cuộc sống đích thực là "nổi loạn". "Tôi nghĩ rằng, - Ivan bàn về Thượng đế nếu như không có quỷ, có nghĩa là quỷ do người tạo ra thì con người tạo ra quỷ theo hình ảnh của mình và giống như mình…" và "cả trái đất, từ vỏ đến ruột, đều thấm đẫm nước mắt".

    Ivan nhất quyết chống lại kiểu hài hoà của thế giới khiến cho con nai nằm ngủ cạnh con sư tử, nạn nhân hôn kẻ sát hại mình, kiểu hài hoà mà bà mẹ với viên tướng đã xua chó xé xác con bà, cùng với đứa con, cả ba ôm lấy nhau, mắt đẫm lệ cùng reo lên: "Chúa có lý!". Kiểu hài hoà ấy "không đáng một giọt nước mắt trẻ thơ". Như vậy thì Ivan thà cứ ôm những đau khổ không được trả thù còn hơn, "cho dù là tôi không có lý đi nữa". Đồng thời Ivan cũng cự tuyệt cái thế giới kiểu trại lính, được lý trí tổ chức theo định luật hình học, trong đó tất cả được xếp đâu vào đấy, được giản lược hoá, cá tính và tự do bị xoá bỏ.

    Câu chuyện "Viên Đại pháp quan tôn giáo" mà Ivan kể cho Alecxei nghe là những trang thâu tóm những suy nghĩ lâu năm của Dostoevsky về đạo thiên chúa La Mã, về vấn đề cá nhân và xã hội nói chung.

    Mười lăm thế kỷ sau ngày bị đóng đanh câu rút, Chúa trở lại thế gian, tới thành Xevin Tây Ban Nha giữa thời Pháp đình Tôn giáo tàn ác nhất.

    Dân chúng nhận ra Chúa và vui mừng khôn xiết. Viên Đại pháp quan chợt xuất hiện, ra lệnh bắt giam Chúa, dân chúng sợ một phép, im thít. Ban đêm, viên Đại pháp quan một mình vào ngục tối, bảo cho Chúa biết: từ khi Chúa về trời, thế gian đã được thu xếp ổn định, Chúa đến làm cho con chiên và các đấng chăn chiên không thể sống mà không bị lương tâm trách móc. Đạo của Chúa cao siêu quá, không vừa sức các tín đồ trần thế, nhà thờ đã từ bỏ nó từ lâu. Suy cho cùng, con người không đi tìm chúa Trời, mà tìm bánh mì trần gian. Nhà thờ Thiên Chúa nhân danh đấng Kito, nhưng đã sửa chữa Chúa, dùng cây thập giá và thanh kiếm thiết lập nhà nước của mình làm một tổ chức cưỡng bức để đem lại hạnh phúc cho con người. Nhà nước Thiên Chúa giáo đặt nền tảng trên phép lạ, sự bí mật và quyền lực. Đối với viên Đại pháp quan, mọi vấn đề đều đã được giải quyết dứt khoát.

    Quần chúng nhân dân, theo lời viên Đại pháp quan, vốn yếu đuối, bất lực, sai lầm của Chúa là không hiểu rằng con người không cần tự do bằng bánh mì. Bởi vì tự do đi đôi với lựa chọn, mà tự do lựa chọn tức là đau khổ gánh trách nhiệm. Chúa quên mất rằng "không có gì quyến rũ con người bằng tự do ý chí, nhưng cũng không có gì đau khổ hơn". Vì vậy quần chúng sẵn sàng đem đổi tự do lấy sự no đủ, yên bình. Các đấng chăn chiên cho họ một ít tự do và chủ yếu là bánh mì. "Phải, chúng tôi bắt họ làm việc, nhưng những lúc rảnh rỗi, chúng tôi tổ chức đời sống của họ như một trò chơi trẻ em, với những bài ca trẻ em, ban đồng ca, những điệu vũ hồn nhiên. Ồ, chúng tôi cho phép họ phạm tội, họ yếu đuối và bất lực, họ sẽ yêu chúng tôi như trẻ con yêu người lớn, vì chúng tôi cho phép họ phạm tội. Chúng tôi sẽ nói với họ rằng tội nào cũng có thể tha thứ được nếu sự phạm tội ấy được chúng tôi cho phép… Sự trừng phạt về những tội ấy, chúng tôi sẽ nhận lấy".

    Trong bản trường ca "Viên Đại pháp quan", Dostoievsky lên án gắt gao đạo Thiên Chúa mà ông căm ghét và đả kích quan niệm chủ nghĩa xã hội kiểu trại lính (Dostoievsky coi quan niệm này là chung cho mọi học thuyết về chủ nghĩa xã hội). Đây cũng là bài ca chống lại sự áp bức, sự xuyên tạc những tư tưởng vĩ đại. Lịch sử đã từng biết có những phong trào vĩ đại, mở đầu với lý tưởng cao đẹp, với những hứa hẹn hấp dẫn và kết cục lại ngược với lý tưởng. Chẳng hạn cuộc đại cách mạng Pháp thế kỷ XVIII với khẩu hiệu "Tự do - Bình đẳng - Bác ái" đã dẫn tới xã hội tư sản Pháp thế kỷ XIX nằm trong tay bọn con buôn.

    Trong tiểu thuyết, theo niềm tin của tác giả, tính ích kỷ và sự phủ nhận đạo đức gắn liền với quan niệm vô thần, không tin có Thượng đế, điều đó làm què quặt con người, dẫn đến tai hoạ: Fedor Pavlovich bị giết, kẻ sát nhân Xmerdiakov treo cổ tự tử, cuộc đời Ekaterina Ivanovna tan nát…

    Đối lại với những con người vô thần và Đại pháp quan, Dostoievsky hướng về Chúa cứu thế, về tu viện và xây dựng nhân vật Aliosa và Zoxima.

    Aliosa phải giữ một vai trò đặc biệt trong tác phẩm. Nhà văn gọi đó là "chàng trai của thời đại chúng ta", tất cả thiện cảm của ông dành cho nhân vật này. Aliosa là một "anticorp" (phản cơ thể) của gia đình Karamazov.

    Anh là một tâm hồn trong trắng của cái gia đình sục sôi dục vọng này, anh yêu con người và cho rằng mình không có quyền phán xét người khác. Anh có thiên khiếu khơi gợi lòng yêu mến của mọi người đối với mình, không bao giờ để bụng những điều xúc phạm đến mình. Tuy nhiên, "thày tu" này không xa lạ với dục vọng của con người, hiểu biết sâu sắc những đau khổ. Khi Ivan kể với Aliosa về chú bé nông nô bị chó săn xé xác, trả lời câu hỏi anh sẽ xử trí như thế nào với viên tướng đã làm việc đó, Aliosa kêu lên: "xử bắn!". Đấy là sự vi phạm điều răn không chống lại cái ác. Khi Ivan nói lên sự cảm phẫn đối với thế giới của Chúa. Aliosa nói: "Đấy là sự nổi loạn". Lại một lần nữa Aliosa vi phạm điều răn của nhà thờ. Đó là sự thắng lợi của chủ nghĩa hiện thực của Dostoievsky. Sự nghi ngờ của Aliosa về tính thần thánh của trưởng lão Zoxima khi xác ông bốc mùi cũng là thắng lợi của thực tế đối với ý đồ chủ quan. Về mặt tâm lý, hình tượng Aliosa có sức sống sinh động. Nhưng vai trò mà tác giả muốn gắn cho hình tượng này - vai trò của người nhờ ánh sáng tôn giáo mà vượt thắng được sự độc ác, lính tham lam, dục vọng điên cuồng - thì có vẻ ngây thơ, liệu sức thuyết phục. Người như Aliosa không làm ác với ai, nhưng thánh hạnh của anh bất lực, không làm nên điều thiện.

    Qua thư từ của Dostoievsky chúng ta được biết rằng với nhân vật Zoxima, nhà văn định khắc hoạ một người Kito giáo trong trắng, lý tưởng, có lý luận mà những lời thuyết giáng của ông ta sẽ đập tan tành những lời lẽ báng bổ Thượng đế của Ivan. Nhưng qua tác phẩm chúng ta thấy thế nào?

    Trong lời thuyết giảng tràng giang đại hải của trưởng lão về đời sống của nhân dân, trên thực tế, ta thấy đau khổ đầy rẫy dưới thế gian, cái ác đánh bại cái thiện. Người dân chết dần chết mòn vì nạn say rượu, tàn bạo với gia đình, với vợ con, "ở các công xưởng thậm chí tôi đã thấy cả những trẻ em mười tuổi, chúng còm cõi, héo hon và đã truỵ lạc". Trưởng lão nhìn thấy sự đối kháng giữa chủ và tớ diễn ra khắp nơi, ở châu Âu người nghèo nổi dậy dùng sức mạnh chống lại bọn bóc lột giàu có, đầu rơi máu chảy khắp nơi vậy thì làm sao mà chấp nhận được thế giới của Chúa Trời?

    Lối thoát mà trưởng lão đề ra cho nước Nga là "Chúa Trời sẽ cứu vớt con dân của Ngài, bởi vì nước Nga vĩ đại do sự quy thuận của mình" và "rồi đây cuối cùng ngay cả người giàu đồi bại nhất của chúng ta cũng sẽ xấu hổ với người nghèo về sự giàu có của mình, còn người nghèo thấy người giàu khiêm nhượng như vậy, sẽ hiểu họ và vui sướng nhượng bộ". Thật là ngây ngô, nhạt nhẽo. Những lời răn như thế lại do ngồi bút của nhà văn hiện thực và nhân đạo chủ nghĩa vĩ đại Dostoievsky viết ra, thật khó hiểu!

    Còn về lập luận của Zoxima đáp lại những lời lẽ vô thần và báng bổ Thượng đế của Ivan thì thật là yếu ớt, không có sức thuyết phục.

    Dostoievsky viết cho Pobedonoxev ngày 24 tháng Tám 1879: "Tôi sợ và run lên vì lo cho ông ta: liệu ông ta có đủ sức không?". Ý định của Dostoievsky dành cho Zoxima vai trò người thầy của cuộc sống rõ ràng là không thành công.

    Trong "Anh em nhà Karamazov", có một loại nhân vật hầu như không liên can gì đến gia đình Karamazov mà chiếm một vị trí lớn trong tác phẩm: trẻ em. Phần thứ mười của tác phẩm mang tên là Những cậu bé.

    Cuốn tiểu thuyết kết thúc bằng bài diễn thuyết của Aliosa Karamazov trước những đứa trẻ ấy trong ngày đưa đám Aliosa Xneghiriov. Những điều Aliosa nói với các chú bé là điều hết sức quan tròng đối với Dostoievsky.

    Mượn lời Aliosa, ông nói lên những ý nghĩ dường như là lời kêu gọi của ông với thế hệ mai sau.

    Những trang ông viết về trẻ em - đặc biệt về Iliusa và Cha Kraxotkin - thấm thía, cảm động phi thường, cho thấy tài nghệ tuyệt luân và sự am hiểu tâm lý trẻ em có một không hai mà khó có nhà văn nào viết nổi như thế. Nhà văn dành cả một chương cho hình tượng Kolia Kraxotkin. Tính cách của nhân vật này tập trung tất cả những suy nghĩ nhiều năm của Dostoievsky về trẻ em. Chú bé "hư vô chủ nghĩa" này thực ra rất tuyệt diệu: thông minh tự hào, công bằng, chân tình, dũng cảm, nhưng luôn nghi ngờ bản thân, muốn vượt trội hơn tất cả các bạn, ý muốn có ra mình có học và độc lập khiến chú phủ định tất cả những gì mà chú không biết (lên án việc dịch Voltaire mặc dù chú không biết Voltaire, chỉ trích Belinsky tuy chú chưa hề đọc Belinsky). Khuynh hướng chủ yếu của Kraxotkin vẫn là hướng tới tình bạn và lòng chân thành. Loại trẻ em như thế hiện có không ít trong các trường học của chúng ta thời nay.

    Tôn sùng sự trong trắng của tuổi thơ mà mỗi người nhất định phải gìn giữ trong tâm hồn, bất kể khi lớn lên anh trở thành người thế nào, đấy là điều tâm niệm của Dostoievsky. Đoạn kết của tác phẩm vang lên tiếng nói trẻ thơ, điều đó lộ niềm tin tươi sáng của nhà văn vào tương lai nhân loại.

    "Anh em nhà Karamazov" là một tác phẩm hiện thực theo nghĩa cao cả nhất có sức tố cáo hết sức lớn, đồng thời là tác phẩm rất lôi cuốn, khiến người đọc hồi hộp với sự phát triển căng thẳng của cốt truyện hình sự được bố trí rất mực khéo léo, nhưng bao trùm tất cả, nó là cuốn tiểu thuyết "triết lý" tuyến "triết lý" chiếm địa vị thống trị. Những vấn đề tư tưởng trọng đại, sự xung đột giữa các luồng tư tưởng đó thể hiện dưới hình thức những nghị luận của các nhân vật về các đề tài triết học, bản thân các nhân vật bị ám ảnh bởi những tư tưởng nhất định, các nhân vật gắn liền với tư tưởng của mình đến mức tư tưởng trở thành "bản ảnh thứ hai" của nhân vật. Thế nhưng đọc "Anh em nhà Karamazov" ta vẫn thấy Dostoievsky trong tác phẩm này là nhà tiểu thuyết hơn là nhà tư tưởng. Tài nghệ gắn kết một cách hữu cơ những yếu tố nghệ thuật khác loại - bức tranh hiện thực, tình kết hình sự, truyền thuyết, sự tích các thánh, triết luận, đã đạt tới mức thần tình số một trong văn học thế giới.

    Dostoievsky rất quý trọng những sự kiện có thực làm cơ sở cho tác phẩm, kể cả những chi tiết về địa điểm và thời gian hành động. Trong số ghi chép chuẩn bị cho "Anh em nhà Karamazov", ta đọc thấy: "Tìm hiểu xem có thể nằm dài giữa đường ray dưới xe lửa phóng hết tốc lực không", "Tìm hiểu về lao động của trẻ em trong các công xưởng". Để tả về tu viện và các tu sĩ, ông đã cùng với người bạn mới quen là triết gia Vladimir Xoloviev đến thăm tu viện Optina, ở lại đấy hai ngày. Theo nhận xét của Anna Grigorievna, vợ Dostoievsky, đoạn tả người phụ nữ đến gặp trưởng lão để được an ủi về đứa con trai lên ba tuổi vừa chết phản ánh chân thực nỗi đau xé ruột của bà và Dostoievsky về bé Alecxei của họ vừa qua đời; Alecxei chết năm lên ba và những lời than khóc của họ cũng như vậy. Như vậy ta hiểu được vì sao sự miêu tả của cuộc sống của tác giả cụ thể và sống động đến vậy.

    Trong tất cả các tác phẩm của Dostoievsky, "Anh em nhà Karamazov" là cuốn tiểu thuyết dễ hiểu nhất, nhiều tính cụ thể nhất, bố cục sáng rõ nhất của ông. Ở đây không có cái mù mờ của Bọn người quỷ ám, không có cái rắc rối của Gã mới lớn. Sự phân chia các phần, quyển, chương ứng với những giai đoạn hành động. Phần thứ nhất kể về lịch sử trước đó của gia đình Karamazov, ta được biết các tính cách, linh cảm thấy bầu không khí tội lỗi và vụ sát nhân sẽ xảy ra, nhưng không ngờ đích xác cho ai: Phần thứ hai là sự kìm chậm hành động, chuyển sang đề tài hệ tư tưởng. Phần thứ ba, tội phạm xảy ra, Dmitri bị kết án, ở đây Dostoievsky phỉ nhổ cái toà án giả dối, tàn bạo thời đó. Phần thứ ba giải quyết vấn đề: ai giết? Mỗi chương đều có chức năng, vai trò rõ rệt.

    Nhà nghiên cứu Xô viết có uy tín M. M. Bakhotin đã chỉ rõ tính đa thanh (nhiều giọng nói) là đặc điểm quan trọng nhất ở các tiểu thuyết của Dostoievsky. Trong tính đa thanh, điều trước hết là lập trường nghệ thuật mới của tác giả đối với nhân vật: nhân vật có tính tự chủ, có tự do bên trong, về nguyên tắc không chịu sự xác định trước theo cách định giá dứt khoát của tác giả. Tiếng nói của tác giả về nhân vật được tổ chức như tiếng nói của người đang có mặt, nghe tác giả nói và có thể trả lời tác giả. Tiếng nói của nhân vật (quan điểm của nhân vật về thế giới) có giá trị ngang tiếng nói của tác giả, cùng cất lên với tiếng nói của tác giả và tiếng nói đay đủ giá trị của các nhân vật khác. Như vậy, trong tác phẩm của Dostoievsky, nhiều nhân vật cùng thuật chuyện về một sự biến, tạo nên những cách hiểu khác nhau về sự biến đó. Chẳng hạn, diễn văn của biện lý và luật sư trong phiên toà xử Mitia. Tính đa thanh còn có trong tâm hồn mỗi nhân vật, nhân vật có thể có nhiều quan niệm, ý kiến, dao động, nói một đằng nghĩ một nẻo.

    Cũng do tính đa thanh, đối thoại chiếm một vị trí phi thường trong tác phẩm Dostoievsky. Các nhân vật của ông tranh cãi với nhau, nêu lên những vấn đề quan trọng nhất về thế giới quan, về bổn phận đạo đức, về ương quan giữa người với người. Ivan Karamazov, trên lập trường không chấp nhận thế giới hiện có, đã say sưa đưa ra luận chứng đanh thép đến nỗi các nhân vật của phái "quy thuận" không sao bác bỏ được. Thế nhưng ý tưởng được đề cập tới trong tranh luận không phải là thuần tuý trìu tượng, mà mang cả tính riêng của người phát biểu: không có "sự thật phi cá tính", sự thật về thế giới bao giờ cũng là sự thật của cá nhân. Cho nên, tư tưởng được nêu lên bao giờ cũng đậm đà mãnh liệt, mặt khác nhân vật dù có tính tiêu biểu đến đâu cũng không thành biểu tượng, mà là có xương có thịt.

    Một trong những cái độc đáo nữa của Dostoievsky là các nhân vật của ông bao giờ cũng hiện hữu trước hết với chính bản thân mình, với lương tâm của chính mình. Vì thế, những tâm tư sâu kín của nhân vật hiện ra trước chúng ta với tất cả sự bộn bề của "những câu hỏi đáng nguyền rủa".

    Thời gian nghệ thuật của Dostoievsky cũng khác thường, cô nén đặc biệt. Sự biến rất nhiều dồn lại trong thời gian hết sức ngắn, xung quanh một việc làm trung tâm. Hiện tại bao giờ cũng hàm chứa dĩ vãng và bao giờ cũng mang mầm mống của tương lai. Ivan Karamazov bị giày vò vì ý thức được tất cả những tội ác mà nhân loại phạm phải trong tất cả các thế kỷ. Mitia Karamazov muốn chuộc lỗi về một tội mà mình chỉ nghĩ đến chứ chưa làm. Với Dostoievsky, tương lai hiện ra như sự chấm dứt đau khổ, như mơ ước về "sự phục hưng" con người.

    Tiểu thuyết "Anh em nhà Karamazov" là một bằng chứng hùng hồn về Phép màu của sự thể hiện nghệ thuật: vốn sống được dùng để tạo nên hình tượng có thể rộng hơn quan niệm chủ quan của tác giả. Nói theo lời Doboroliubov, ở đây logic của sự liên kết các sự kiện khách quan và những kết luận nảy sinh từ đó bắt đầu có tác động.

    Herman Hexxo, nhà văn Đức thời nay viết: "Một con người đơn độc mà viết nổi "Anh em nhà Karamazov" thì đó là phép màu".

    Lời tác giả
    Tặng Anna Grigorievna Dostoievskaia
    Thực, ta bảo thực các ngươi: nếu hạt lúa mì gieo xuống đất chẳng chết đi thì nó sẽ cứ ở một mình, nhưng nếu nó chết đi thì kết quả được nhiều.
    Phúc Âm theo Gioan, chương XII, tiết 24

    Bắt đầu vào pho tiểu sử nhân vật của tôi. Alecxei Fedorovich Karamazov, tôi hơi băn khoăn. Thế này nhé: tuy tôi gọi Alecxei Fedorovich là nhân vật của tôi nhưng chính tôi biết anh ta tuyệt nhiên không phải là con người vĩ đại 1 , vì thế tôi thấy trước những câu hỏi không tránh khỏi đại loại như anh chàng Alexei Fedorovich của ông có gì đáng chú ý mà ông chọn anh ta làm nhân vật của mình? Anh ta đã làm được điều gì đáng kể. Ai biết đến anh ta và vì lẽ gì? Tại sao tôi là người đọc lại phải mất thời giờ nghiên cứu nhưng sự việc trong cuộc đời anh ta?

    Câu hỏi cuối cùng là ác nghiệt nhất, bởi vì tôi chỉ có thể trả lời: "Có lẽ, chính bạn sẽ thấy khi đọc bộ tiểu thuyết". Nhưng nếu người ta đọc mà không thấy, không đồng ý rằng Alexei Fedorovich của tôi có cái đặc sắc thì sao? Tôi nói thế là bởi tôi đau lòng thấy trước điều đó. Theo tôi thì anh ta là con người đặc sắc nhưng tôi rất ngờ là tôi có thể chứng minh điều đó với bạn đọc.

    Duyên do vì có lẽ đây là một nhà hoạt động, nhưng nhà hoạt động loại gì thì không xác minh được, không rõ ràng, tuy nhiên trong cái thời buổi như thời buổi chúng ta mà đòi hỏi ở người ta sự rõ ràng thì kể cũng lạ. Dut có một điều có lẽ khá chắc chắn: đây là con người lạ lùng, thậm chí là kỳ quặc. Nhưng thói lạ đời và kỳ quặc gây tác hại hơn là cho người ta cái quyền được chú ý, đặc biệt khi cả bàn dân thiên hạ đều ra sức hợp nhất những cái riêng lẻ và tìm một ý nghĩa chung nào đó cho sự hỗn độn toàn thể. Kẻ kỳ quặc, trong đa số trường hợp là hiện tượng riêng biệt. Phải thế không?

    Nhưng nếu các bạn không đồng ý với luận điểm trên đây và trả lời "Không phải thế" hay "Không phải bao giờ cũng thế" thì có lẽ tôi sẽ phấn chấn lên về giá trị nhân vật Alexei Fedorovich của tôi. Bởi vì kẻ kỳ quặc chẳng những không phái bao giờ cũng là" cái riêng biệt, mà trái lại, nhiều khi có lẽ kẻ đó mang trong mình cái cốt lõi của toàn thể, còn tất cả những người cùng thời khác, không rõ vì lý do gì, bị một ngọn gió vô hình nào đó tạm thời cuốn dời khỏi kẻ đó…

    Tuy nhiên, tôi không muốn đi vào những lời giải thích nhàm chán và mơ hồ ấy mà muốn bắt đầu ngay một cách giản dị tự nhiên, không tựa đề gì hết: thích thì đọc nhưng khốn nỗi truyện tiểu sử của tôi chỉ có một, mà hoá ra lại thành hai tiểu thuyết. Tiểu thuyết chính là tiểu thuyết thứ hai, đây là hoạt động của nhân vật của tôi, mà lại trong thời đại chúng ta, đúng vào lúc này của chúng ta. Tiểu thuyết thứ nhất viết về chuyện xảy ra từ mười ba năm trước, thậm chí hầu như không phải là tiểu thuyết, mà chỉ là một quãng trong thời đầu tuổi xuân của nhân vật của tôi. Tôi không thể bỏ qua tiểu thuyết thứ nhất vì như thế sẽ có nhiều điều trong tiểu thuyết thứ hai trở nên không thể hiểu được. Nhưng như vậy sự lúng túng ban đầu của tôi càng trở nên rắc rối hơn: nếu như tôi, tức là chính người viết tiểu sử cho rằng một tiểu thuyết cũng quá đủ đối với một nhân vật xoàng xĩnh và bất định như thế thì cớ gì tôi lại ra mắt với hai tiểu thuyết vả tôi lấy gì giải thích sự nhông nhạo như thế về phần tôi".

    Lúng túng trong việc giải đáp nhưng câu hỏi này, tôi quyết định bỏ qua không giải đáp gì cá. Đương nhiên, độc giả tinh ú đã đoán ra từ lâu rằng ngay từ đầu tôi đá nhằm mục đích ấy và chỉ bực về nỗi tại sao tôi phí lời vô ích và phí thời gian quý báu. Về điều này tôi xin trả lời rành rẽ, tôi phí lời vô ích và phí thời gian quý báu, thứ nhất là vì lễ độ, thứ hai là vì ranh mãnh: dù sao tôi đã báo trước một điều gì. Tuy nhiên, tôi vẫn lấy làm vui sướng vì tiểu thuyết của tôi tự nó tách thành hai truyện có "sự thống nhất căn bản của toàn bộ": xem xong truyện đầu, bạn đọc đã tự thân rõ có nên bắt vào truyện thứ hai không. Cố nhiên chẳng ai bị ràng buộc gì hết, có thể quẳng sách đi ngay sau khi đọc vài trang đầu để rồi không bao giờ mở sách ra nữa. Nhưng cũng có những độc giả kỹ tính nhất quyết muốn đọc đền hết để khỏi sai lầm trong sự phán đoán vô tư của mình: chẳng hạn tất cả các nhà phê bình Nga đều như thế. Trước những người như thế dù sao ta cũng đỡ ngại hon: mặc dù tất cả sự cẩn thận và tận tâm của họ, tôi vẫn cứ cho họ một cái cớ hết sức chính đáng để vứt bó cuốn truyện ngay ở đoạn đầu của thiên tiểu thuyết. Tất cả lời nói đầu chỉ có thế thôi. Tôi hoàn toàn đổng ý rằng nó là thừa, nhưng vì đã viết rồi thì cứ để thế.

    Còn bây giờ thì vào việc.

    TÁC GIÀ



    Quyển 1. Câu chuyện một gia đình
    Chương 1

    Fedor Pavlovich Karamazov
    Alecxei Fedorovich Karamazov là con thứ ba một địa chủ hạt chúng tôi tên là Fedor Pavlovich Karamazov, người đã có thời làm xôn xao dư luận (mà đến tận bây giờ cũng còn được nhắc đến ở vùng chúng tôi) do cái chết bi thảm và mờ ám của ông ta xảy ra đúng mười ba năm trước, rồi đến một lúc nào đó tôi sẽ kể chuyện này. Còn bây giờ, về ông "địa chủ" đó người ta gọi ông ta như vậy, tuy suốt đời ông ta hầu như không cư ngụ tại điền địa của mình, tôi chỉ nói rằng đấy là một kẻ thuộc loại người lạ lùng tuy là khá thường gặp, chính là loại người chẳng những đồi bại và trác táng mà còn vô lối biết lo liệu rất khôn khéo mọi việc lắt léo liên quan đến tài sản của mình. Chàng hạn Fedor Pavlovich bước vào đời gần như là tay trắng, vốn điền sản của ông ta rất nhỏ nhoi, ông ta chuyên đi chực bữa nhà người, khét tiếng là kẻ ăn boóng, vậy mà lúc chết ông ta còn có đến một trăm ngàn rúp tiền mặt. Tuy thế suốt đời òng ta cứ là kẻ ngông cuồng nhất trong hạt chúng tôi. Tôi xin nhắc lại lần nữa: đây không phải là ngu xuẩn; phần lớn những kẻ ngông cuồng ấy khá tinh khôn và ranh mãnh, mà đây là vô lối nhưng là cái vô lối khá đặc biệt, mang màu sắc dân tộc.

    Ông ta đã hai đời vợ và có ba con trai: con cả, Dmitri Fedorovich, là con người vợ thứ nhất, hai đứa còn lại Ivan và Alecxei, là con người vợ sau. Người vợ đầu của Fedor Pavlovich là con một gia đình khá giàu có và danh tiếng thuộc dòng họ quý tộc Miuxov, cũng là địa chủ vùng chúng tôi. Làm sao một cô gái có của hồi môn, lại xinh đẹp, thêm nữa lại thuộc loại thông minh lanh lợi, - loại thiếu nữ không lấy gì làm hiếm trong thế hệ hiện nay, nhưng thời trước cũng vẫn có, - mà chịu lấy một gã "còm nhom" (như mọi người hồi ấy vẫn gọi gã) và hèn mọn như thể, điều này tôi sẽ không giải thích rườm rà. Tôi biết một cô gái thuộc thế hệ "lãng mạn" thời trước, sau mấy năm đeo đuổi mối tình bí ẩn với một người danh giá mà cô ta bao giờ cũng có thể rất yên tâm về làm vợ ông ta, nhưng rốt cuộc cô ta lại tưởng tượng ra những trở ngại không thể vượt qua được và một đêm bão bùng, từ mé bờ cao giống như một ghềnh đá cheo leo, cô ta gieo mình xuống dòng sông khá sâu cháy xiết: cô ta chết do tính đồng bóng của chính mình, chỉ cốt để được giống như Ophelia của Shakespeare, thậm chí nếu như bờ đá cheo leo ấy, mà cô đã để ý và ưa thích từ làu, không được nên thơ như thể, nếu như hay vào đó chỉ là một bờ sông bằng phẳng tầm thường thì có lẽ không làm gì có chuyện tự vẫn. Đấy là việc có thực, và hẳn là trong đời sống Nga của chúng ta, hai hay ba thế hệ gần đây, những sự việc cùng loại đã xảy ra không ít. Cũng tương tự như vậy, hành động của Adelaida Ivanovna Miuxova chắc chắn là hồi âm của những luồng gió nước ngoài dội vào: đồng thời cũng là sự bực tức của tư tưởng bị cầm tù. Có lẽ nàng muốn biểu lộ ý chí độc lập của phụ nữ, đi ngược lại hoàn cảnh xã hội, chống lại sự chuyên chế của họ mạc và gia đình, và trí tưởng tượng hay chiều lòng người khiến nàng tin chắc, dù chỉ trong giây lát rằng Fedor Pavlovich tuy có tiếng là kẻ ăn chực, nhưng vẫn là một người can đảm nhất và tinh quái nhất trong cái thời đại đang chuyển mình theo chiều hướng tốt: nhưng thực ra gã chỉ là một thằng hề độc ác, không hơn không kém. Điều giật gân là sự việc xoay chuyển tới chỗ cô nàng bỏ nhà trốn theo gã và lấy thế làm khoái chí. Còn về phần Fedor Pavlovich thì thậm chí do địa vị xã hội của gã, gã hoàn toàn sẵn sàng thực hiện tất cả những trò vào loại đó, và gã háo hức muốn tiến thân bằng bất kỳ cách nào: chui luồn được vào một gia đình tử tế và kiếm được món hồi môn, là điều hết sức hấp dẫn. Còn về tình yêu đôi lứa thì hình như hoàn toàn không có, cả nàng cũng như chàng, mặc dù Adelaida Ivanovna rất xinh đẹp. Thành thử có lẽ đấy là trường hợp duy nhất thuộc loại này trong đời Fedor Pavlovich, một kẻ suốt đời háo sắc, sẵn sàng bám ngay lấy bất cứ cái váy nào vẫy gọi gã. Duy chỉ có người phụ nữ này không khơi gợi trong gã một hứng thú tình dục đặc biệt nào cả.

    Ngay sau khi bỏ nhà theo gã, Adelaida Ivanovna thấy ngay rằng nàng chỉ có thể khinh bỉ chồng, ngoài ra không còn gì khác. Như vậy, hậu quả của cuộc hôn nhân bộc lộ ra nhanh chóng lạ thường. Tuy sau đó khá nhanh, gia đình đành chấp nhận cuộc hôn nhân ấy và cho cô gái trốn nhà theo trai một món hồi môn, nhưng cuộc sống vợ chồng hết sức lục đục và chuyện cãi cọ xảy ra luôn. Nghe đâu cô vợ trẻ tỏ ra thanh tao và cao cả hơn Fedor Pavlovich nhiều, gã này, như về sau được biết, ngay hồi ấy đã nẫng luôn của nàng tất cả số vốn liếng hai mươi nhăm ngàn rúp khi nàng vừa mới nhận được, từ đó, mấy chục ngàn ấy mất tăm luôn. Còn một cái ấp nhỏ và một ngôi nhà khá đẹp ở thành phố cũng là một hồi môn của nàng, thì trong một thời gian dài gã dùng đủ mọi cách sang tên cho mình bằng thủ tục giấy tờ hợp lệ nào đó, và đã đạt được mục đích ấy hẳn là chỉ bằng một thủ đoạn duy nhất: thường xuyên nài ép và van vỉ một ách trơ trẽn khiến nàng khinh bỉ và ghê tởm gã, và chỉ vì mệt mỏi về tinh thần mà nàng đành ưng thuận, cốt sao khỏi bị gã làm rày. May sao gia đình Adelaida can thiệp và kìm tay kẻ chiếm đoạt. Ai nấy đều biết giữa hai vợ chồng thường xảy ra xô xát, nhưng theo lời đồn, người đánh đòn không phải là Fedor Pavlovich, mà là Adelaida Ivanovna, nàng là một phụ nữ nóng nảy, táo bạo, nước da bánh mật, thiếu kiên nhẫn, khỏe lạ thường. Rốt cuộc nàng bỏ chồng trốn đi với một anh chàng chúng sinh nghèo kiết xác, để lại cho Fedor Pavlovich thằng Mitia mới lên ba. Fedor Pavlovich tức khắc lập lên trong nhà cả một hậu cung và ăn chơi nhậu nhẹt bừa phứa. Những lúc tạm nghỉ, y đi lung tung gần khắp tỉnh và gặp ai cũng than vãn thảm thiết về cô ả Adelaida Ivanovna đã bỏ y, thêm nữa y còn kể lể những chi tiết hết sức đáng ngượng về sinh hoạt vợ chồng của y. Đáng kể nhất là y tuồng như thích thú, thậm chí khoái trá trình diễn trước thiên hạ vai trò anh chồng mọc sừng lố bịch của mình và còn tô đậm màu sắc những chi tiết về nỗi nhục của y. "Nom cứ như anh được thăng chức vậy. Fedor Pavlovich ạ. Anh có vẻ hể hả lắm bất chấp tất cả sự đau xót của anh", - những kẻ nhạo báng nói với y như vậy. Nhiều người còn nói thêm rằng có lẽ y lấy làm vui sướng trong bộ dạng mới của vai hề và để tăng thêm hiệu quả gây cười, y cố ý làm như không nhận thấy tình thế khôi hài của y. Nhưng ai biết được, có thể đấy là sự ngây thơ của y. Cuối cùng y đã tìm ra tung tích cô vợ theo trai. Cô nàng ở Peterburg: nàng đến đấy cùng với anh chàng chủng sinh và ở đó nàng dấn mình vào một cuộc sống hoàn toàn phóng túng. Fedor Pavlovich lập tức tất tưởi sửa soạn đi Peterburg, - để làm gì? - cố nhiên chính y cũng không biết. Của đáng tội, có lẽ y muốn đi thật đấy, nhưng một khi đã quyết như vậy, y cho rằng y có cái quyền đặc biệt lại lao đầu vào cuộc rượu tràn cung mây để thêm hăng hái trước khi lên đường.

    Nhưng đúng lúc ấy gia đình bên vợ nhận được tin con gái họ đã bạc mệnh ở Peterburg. Nàng chết bất thần trên một gác trang, người thì bảo là do bệnh thương hàn, người thì bảo là chết đói.

    Fedor Pavlovich biết tin vợ chết giữa lúc đang cơn say. Người ta kháo rằng y chạy ra phố và gào lên, vui sướng giơ hai tay lên trời: "Từ nay Chúa giải thoát cho con"; một số người khác lại nói rằng y khóc rưng rức như đứa trẻ, thậm chí nhìn y mà thương tâm, mặc dù người ta ghê tởm y. Rất có thể là cả hai bên đều đúng, nghĩa là y vừa vui sướng vì được giải phóng, vừa khóc người giải phóng cho mình. Nhiều khi người đời, dù là độc ác, cũng vẫn ngây thơ và chất phác hơn ta tưởng. Vả chăng, chính chúng ta cũng thế.

    --------------------------------
    1 "Heroi" trong tiếng Nga vừa có nghĩa là nhân vật, vừa có nghĩa là người anh hùng, tương đương với từ héros tiếng Pháp (N.D).

  2. #101
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 11

    Không có tiền, không có cuớp của
    Trong lời lẽ của người bào chữa, có một điểm làm mọi người sửng sốt, đó là hoàn toàn phủ nhận sự tồn tại của ba ngàn rúp ác hại ấy, vì vậy là phủ nhận khả năng cướp đoạt số tiền ấy.

    - Thưa quý vị bồi thẩm, - luật sư bắt đầu, - trong vụ này, bất cứ người nào mới lạ và không thiên kiến đều sửng sốt vì một đặc điểm, đó là: buộc tội cướp của, đồng thời hoàn toàn không có khả năng thực tế chỉ rõ cướp cái gì? Cướp tiền, người ta bảo thế, chính là ba ngàn rúp, mà sự tồn tại thực của nó thì không ai biết. Các vị hãy thử xét xem: làm thế nào chúng ta biết rằng có ba ngàn ấy, ai trông thấy nó? Chỉ có tên đầy tớ Xmerdiakov trông thấy và chỉ ra rằng nó để trong chiếc phong bì có chữ đề. Y nói cho bị cáo và em ruột bị cáo là Ivan Fedorovich điều đó từ trước khi tai hoạ xảy ra. Cả Xvetlova cũng biết. Nhưng dùsao cả ba nhân vật ấy không nhìn thấy tiền, chỉ có Xmerdiakov nhìn thấy, nhưng một câu hỏi tự nó nảy ra: nếu đúng là có số tiền ấy và Xmerdiakov nhìn thấy thì hắn nhìn thấy lần cuối cùng khi nào? Nếu ông chủ lại lấy số tiền ấy từ dưới đệm và cho vào hộp mà không cho hắn biết thì sao? Xin lưu ý rằng theo Xmerdiakov thì tiền nằm dưới đệm, bị cáo hẳn phải lấy ra từ dưới đệm, nhưng giường vẫn không nhàu nát tí nào, điều đó được ghi cẩn thận trong biên bản. Bằng cách nào bị cáo có thể hoàn toàn không làm giường nhàu nát, thêm nữa hai tay vấy đầy máu mà không làm bẩn tấm dra mới cố ý đem ra trải lần này? Nhưng người ta sẽ nói với chúng ta: thế còn phong bì trên sàn? Chính về chiếc phong bì ấy là điều đáng nói. Ban nãy thậm chí tôi hơi ngạc nhiên: vị công tố tài cao, khi nói về chiếc phong bì ấy, đã tuyên bố, chính quý vị nghe thấy đấy, ở chỗ mà ông chỉ ra sự vô lý của giả thuyết rằng Xmerdiakov giết: "Nếu không có cái phong bì ấy, nếu nó không nằm trên sàn như một tang chứng, nếu kẻ cướp của mang luôn nó đi thì cả thế gian này không ai biết có chiếc phong bì đựng tiền, vì vậy là bị cáo đã cướp tiền". Như vậy, duy chỉ có mảnh giấy bị xé rách trên đề chữ, thậm chí theo lời thú nhận của chính bị cáo, là sự buộc tội bị cáo cướp của, "nếu không thì sẽ không ai biết là có cướp của, và có lẽ là có tiền". Nhưng chẳng lẽ chỉ riêng việc mảnh giấy lãn lóc trên sàn là bằng chứng rằng trong đó có tiền và tiền đã bị cướp đi ư? Nhưng người ta đáp: "Xmerdiakov nhìn thấy tiền ở trong phong bì", nhưng hắn nhìn thấy tiền lần cuối khi nào, tôi hỏi. Tôi đã nói chuyện với Xmerdiakov, hắn nói với tôi rằng hắn thấy tiền hai ngày trước khi xảy ra tai hoạ! Nhưng tại sao tôi không thể giả thiết một tình huống chẳng hạn ông già Fedor Pavlovich ngồi lì ở nhà, suốt ruột bồn chồn chờ người tình, vì không có việc gì làm, chợt nảy ra ý nghĩ lấy chiếc phong bì và xé nó ra: "Phong bì làm cái quái gì, có lẽ nàng sẽ không tin, còn nếu ta giơ cho nàng xem một tập ba chục tờ giấy ngũ sắc thì có tác động mạnh hơn, nàng sẽ thèm nhỏ rãi ra", - thế là ông già xé phong bao lấy tiền ra, còn phong bì thì vứt xuống sàn bằng bàn tay oai quyền của ông chủ, và cố nhiên không sợ để lại tang chứng gì cả. Thưa quý vị bồi thẩm, quý vị nghe đấy, giả thuyết như thế, sự kiện như thế có thể có quá đi chứ? Tại sao không nhỉ? Nhưng nếu sự việc như thế có thể có dù lời buộc tội cướp của tự nó tiêu ma: không có tiền, vì vậy cũng không có chuyện cướp của. Nếu phong bì nằm trên sàn như một tang chứng rằng trong đó có tiền thì tại sao tôi lại không thể khẳng định ngược lại, chính là phong bì nằm lăn lóc trên sàn là bởi trong đó không còn tiền, ông chủ trước đó đã lấy ra rồi. "Phải, nhưng vậy thì tiền biến đi đâu, nếu chính Fedor Pavlovich đã lấy ra, khám xét trong nhà không tìm thấy tiền kia mà?". Thứ nhất, trong hộp của ông ta đã tìm thấy một phần tiền, thứ hai là ông có thể lấy tiền từ buổi sáng, thậm chí từ hôm trước, dùng tiền vào việc khác, thanh toán, gửi đi, cuối cùng là thay đổi ý nghĩ của mình, thay đổi tận gốc kế hoạch hành động của mình và không thấy cần thiết phải báo trước cho Xmerdiakov biết thì sao? Nếu giả thuyết như vậy có thể có, chodù chỉ là một khả năng nhỏ nhoi thôi, thì làm sao có thể buộc tội bị cáo một cách dai dẳng và cương quyết như thế rằng bị cáo giết người để cướp của và thực sự có cướp của. Vì như vậy là chúng ta đi vào lãnh vực tiểu thuyết. Nếu khẳng định rằng một vật bị cướp thì cần chỉ ra vật ấy hay ít ra chứng minh rằng chắc chắn rằng vật đó có thực. Đằng này chẳng ai nhìn thấy nó. Mới đây ở Peterburg, một người trẻ tuổi, gần như còn trẻ con, mười tám tuổi, bán hàng rong lặt vặt, giữa thanh thiên bạch nhật cầm rìu vào một tiệm đổi tiền và táo tợn phi thường, điển hình, giết chủ tiệm, lấy đi một ngàn năm trăm rúp mà y đã kịp tiêu đi, người ta tìm thấy tất cả số tiền còn lại. Ngoài ra người tài công trở lại tiệm sau vụ giết người đã báo cho cảnh sát biết số tiền ấy gồm những loại tiền gì, nghĩa là bao nhiêu tờ ngũ sắc, bao nhiêu tờ xanh, bao nhiêu tờ đỏ, bao nhiêu tiền vàng và những loại gì, trên người kẻ sát nhân bị bắt có đúng những loại tiền giấy và nền vàng như thế. Thêm vào đó là sự thú nhận thành khẩn, đầy đủ rằng y đã giết người và lấy chính số tiền ấy. Thế mới gọi là tang chứng chứ, thưa quý vị bồi thẩm. Ở đây tôi biết, tôi nhìn thấy, sờ mó thấy tiền và không thể nói rằng không có tiền. Trong trường hợp này có như thế không? Thế mà đây là chuyện sống hay chết, số mệnh con người. "Đúng vậy, người ta sẽ nói, nhưng ngay đêm hôm ấy anh ta đã ăn uống hoang toàng, tiêu tiền như rác, đã tìm thấy ở anh ta ngàn rưởi rúp, anh ta lấy đâu ra số tiền ấy?" Nhưng chính bởi vì phát hiện thấy ở anh ta có ngàn rưởi rúp thôi, nửa còn lại của số tiền không thể tìm ra được, nên điều đó chứng minh rằng tiền ấy hoàn toàn không phải là số tiền không hề có trong phong bì. Tính thời gian (mà tính hết sức chặt chẽ), cuộc điều tra sơ bộ đã chứng tỏ rằng bị cáo, sau khi từ chỗ người đầy tớ gái chạy đến nhà viên chức Perkhotin, thì không ghé qua nhà và không tạt vào đâu cả, rồi suốt thời gian sau đó, anh ta ở trước mắt mọi người, thành thử không thể tách ra một nửa của ba ngàn và giấu vào đâu cả. Chính đó là nguyên nhân khiến ông công tố giả định rằng bị cáo giấu tiền vào một khe kẽ nào đó ở Mokroe. Phải chăng là giấu trong hầm lâu đài, Udonfơ 1 , thưa quý vị? Phải chăng đấy là một giả thuyết hoang đường, lãng mạn? Xin lưu ý, chỉ cần loại bỏ giả thuyết có cái gì cất giấu ở Mokroe là lời buộc tội cướp của bay biến, bởi vì nghìn rưởi ấy ở đâu, biến đi đâu? Bằng phép màu nào nó có thể biến mất, nếu chưng minh được rằng bị cáo không hề đi đâu? Bằng những thiên tiểu thuyết như thế, chúng ta có thể huỷ diệt mạng người như chơi! Người ta sẽ bảo: "Dù sao anh ta không thể giải thích ngàn rưởi anh ta có lấy đâu ra, ngoài ra mọi người đều biết rằng trước đó anh ta chẳng có đồng nào". Vậy thì ai biết điều đó? Nhưng bị cáo đã khai rõ ràng và dứt khoát về việc lấy tiền ở đâu ra, và nếu muốn, thưa quý vị bồi thẩm, trước kia cũng như hiện nay không thể có cái gì dễ tin hơn lời khi ấy, phù hợp hơn với tính cách và tâm hồn bị cáo. Vì công tố thích pho tiểu thuyết của mình: bị cáo tính nết nhu nhược, chịu lấy ba ngàn đồng do vợ chưa cưới đưa ra trong"điều kiện hết sức nhục nhã anh ta không thể để riêng ra một nửa và khâu vào cái túi, nếu như có khâu thì cứ hai ngày anh ta lại tháo ra lấy một trăm rúp và như vậy một tháng là hết nhẵn". Các vị hãy nhớ rằng tất cả những điều đó được trình bày bằng giọng không cho phép phản đối Nhưng nếu sự việc diễn ra hoàn toàn không như trong cuốn tiểu thuyết đã tạo ra, mà ở đây có một nhân vật hoàn toàn không như trong cuốn tiểu thuyết đã tạo ra, mà lại có một nhân vật hoàn toàn khác thì sao? Vấn đề chính là ở chỗ vị công tố đã tạo nên một nhân vật khác! Có lẽ người ta sẽ phản đối: "Có những người làm chứng rằng anh ta đã ăn chơi ở làng Mokroe hết cả ba ngàn rúp lấy của cô Verkhovxeva, một tháng trước khi xảy ra tai hoạ, tiêu luôn một lần hết sạch, thành thử không có chuyện anh ta tách ra một nữa". Nhưng những người làm chứng ấy là ai? Mức độ xác thực của những người làm chứng ấy tại toà đã bị phơi trần. Ngoài ra, miếng bánh trong tay người khác bao giờ xem ra cũng to hơn. Rốt cuộc, không người nào trong số những người làm chứng tự tay đếm số tiền ấy, chỉ phán đoán bằng mắt.

    Như nhân chứng Maximov khai rằng bị cáo cầm trong tay hai chục ngàn đồng. Các vị thấy đấy, thưa quý vị bồi thẩm, bởi vì tâm lý học có hai đầu, nên xin cho phép tôi dùng đầu kia và ta sẽ xem kết quả ra sao. Một tháng trước khi xảy ra thảm hoạ, bị cáo được tiểu thư Verkhovxeva trao cho ba ngàn rúp để gửi đi bằng bưu điện: có đúng là được trao trong điều kiện nhục nhã, mất phẩm giá như vừa nói ban nãy không? Theo lời khai đầu tiên của tiểu thư Verkhovxeva về việc này thì hoàn toàn không phải như thế; trong lời khai lần thứ hai chúng ta nghe thấy tiếng gào thét giận dữ, trả thù, tiếng gào thét của nỗi căm hờn đã che giấu lâu ngày. Nhưng chỉ riêng một việc người làm chứng khai lần đầu đã không đúng khiến chúng ta có quyền kết luận rằng khai lần thứ hai cũng không đúng. Công tố viên "không muốn, không dám" (đây là lời của ông) đụng chạm đến thiên tiểu thuyết ấy. Thôi được tôi cũng sẽ không đụng chạm đến, tuy nhiên cho phép tôi chỉ đưa ra nhận xét rằng nếu một nhân vật trong trắng, đạo đức cao không phải bàn cãi gì nữa như tiểu thư Verkhovxeva, tôi xin nói, một người như thế mà đột nhiên, tại toà, thay đổi lời khai lần đầu của mình, nhằm mục đích trực tiếp là làm hại bị cáo, thì cũng rõ ràng là lời khai của tiểu thư không vô tư, không bình tĩnh. Chẳng lẽ chúng ta không có quyền kết luận rằng người phụ nữ báo thù có phóng đại nhiều điều? Đúng, chính là phóng đại nỗi hổ thẹn và sĩ nhục do số tiền mình trao gây ra. Trái lại, tiền ấy được trao sao cho còn có thể nhận được, đặc biệt một người nông nổi như bị cáo của chúng ta. Cái chính là anh ta vẫn nhắm sẽ nhận được ba ngàn đồng mà cha còn thiếu anh ta theo sự tính toán. Thật là nông nổi, nhưng chính vì nông nổi mà anh ta tin chắc rằng cha sẽ trả cho anh ta, anh ta sẽ nhận được, vì vậy bao giờ cũng có thể trả cho tiểu thư Verkhovxeva số tiền đưa anh ta nhờ gửi bưu điện, và thanh toán hết nợ nần. Nhưng ông công tố tuyệt nhiên không muốn chấp nhận rằng ngay trong ngày hôm ấy, ngày buộc tội, anh ta có thể lấy ra nửa số tiền và khâu vào cái túi: "Tinh cách anh ta không phải như thế, anh ta không thể có những tình cảm như thế. Nhưng chính ông lại lớn tiếng nói về hai vực thẳm mà Karamazov có thể ngắm nhìn, Karamazov chính là một bản chất hai mặt, hai vực thẳm, ngay lúc có nhu cầu ăn chơi trác táng anh ta có thể dừng lại nếu có cái gì làm anh ta sửng sốt từ phía bên kia. Mà cái phía bên kia ấy là tình yêu, chính là tình yêu lúc ấy bùng cháy như thuốc súng, mà để giữ được tình yêu ấy thì cần có tiền, cần hơn nhiều so với số tiền để ăn uống với chính người yêu ấy. Nàng sẽ bảo anh ta: "Em là của anh, em không muốn lấy Fedor Pavlovich", anh ta sẽ vồ lấy nàng và đưa đi, nhưng phải có tiền mới được. Cái đó quan trọng hơn cả việc nhậu nhẹt. Karamazov không hiểu điều đó sao? Anh ta đau đớn chính vì mối lo âu ấy, - vậy thì có gì khó tin nếu anh ta để dành một số tiền, cất đi phòng xa? Thế nhưng thời gian trôi đi, Fedor Pavlovich không trao cho bị cáo ba ngàn đồng, mà nghe đâu ông già dùng chính số tiền ấy làm mồi nhử người anh ta yêu. "Nếu cha không đưa tiền, - anh ta nghĩ, - thì đối với Ekaterina Ivanovna ta tà kẻ ăn cắp". Anh ta nảy ra ý nghĩ rằng ngàn rưởi mà anh ta vẫn mang trong cái túi ấy, anh ta sẽ đem đến đặt trước mặt Verkhovxeva và nói: "anh là thằng đểu cáng, nhưng không phải là thằng ăn cắp". Vậy là có hai nguyên nhân để giữ gìn ngàn rưởi ấy như giữ lòng ngươi con mắt, không tháo túi lấy từng trăm ra tiêu. Vì sao vị công tố lại không thừa nhận là bị cáo có ý thức danh dự? Không, anh ta có ý thức danh dự, chodù là không đúng, chodù là thường sai lầm, nhưng anh ta có, có đến say mê, và anh ta đã chứng minh điều đó. Thế nhưng công việc trở nên phức tạp, nỗi dằn vặt ghen tuông lên đến tột đỉnh, vẫn hai câu hỏi trước đây lộ rõ ngày một day dứt hơn trong bộ não viêm tấy của anh ta: "Ta mà trả lại cho Ekaterina Ivanovna thì lấy đâu ra tiền để đưa Grusenka đi?". Nếu anh ta điên cuồng như thế, say sưa bét nhè như thế, làm loạn trong các tửu quán thì có lẽ là vì anh ta đau xót quá, không chịu đựng nổi. Hai câu hỏi ấy rốt cuộc gay gắt đến nỗi đưa anh ta đến tuyệt vọng. Anh ta nhờ em út đến hỏi cha ba ngàn đồng lần cuối cùng, nhưng chờ mãi không được trả lời, anh ta xộc vào và cuối cùng là đánh ông già trước mặt một số người. Sau đó thì ông bố bị đánh sẽ không đưa tiền nữa, chẳng biết lấy ở đâu. Tối hôm ấy, anh ta đấm ngực, chính là phần trên ngực chỗ có khâu cái túi và cúi mình nói với em rằng, anh ta có phương tiện để không trở thành kẻ đểu cáng, nhưng dùsao vẫn cứ là thằng đểu cáng, bởi vì anh ta thấy trước rằng sẽ không dùng đến phương tiện ấy, không đủ sức mạnh tinh thần, không đủ cương quyết. Tại sao, tại sao bên công tố lại không tin lời Alecxei Fedorovich khai một cách trong trắng, thành thật, không chuẩn bị và dễ tin như vậy? Trái lại, tại sao lại buộc tội phải tin vào số tiền nhét trong khe hở nào đó, trong hầm lâu đài Udonfơ? Tối hôm ấy, sau khi nói chuyện với em, bị cáo viết lá thư ác hại nọ, và lá như ấy là chứng cứ chính, quan trọng nhất tố giác bị cáo cướp của! "Tôi sẽ hỏi tiền khắp bàn dân thiên hạ, người ta mà không cho mượn thì tôi sẽ giết cha lấy tiền dưới nệm, trong chiếc phong bì buộc dải băng hồng, chỉ cần Ivan đi nơi khác" - cả một chương trình hành động, không anh ta thì ai? "Làm như đã viết!" - công tố kêu lên. - Nhưng trước hết đấy là thư viết lúc say rượu và trong tâm trạng cáu kỉnh ghê gớm; thứ hai anh ta lại viết về chiếc phong bì theo lời Xmerdiakov, bởi vì bản thân anh ta không nhìn thấy cái gói, thứ ba, viết thì viết, nhưng có xảy ra như đã viết không, lấy gì chứng minh? Bị cáo có lấy chiếc phong bì dưới đệm không, có tìm thấy tiền không, thậm chí có tiền thật hay không? Và bị cáo có phải là người hám tiền không, các vị nhớ lại cho, xin nhớ lại cho! Anh ta cắm đầu cắm cổ chạy không phải để cướp của, mà chỉ để biết nàng ở đâu, người phụ nữ làm anh ta buồn khổ, - không phải theo chương trình, không đúng như đã viết, nghĩa là không phải để cướp của như đã suy tính kỹ, mà là bất ngờ: vô tình, cuồng nộ vì ghen tuông! "Phải, người ta sẽ nói, nhưng dùsao anh ta vẫn chạy tới, giết cha và chiếm đoạt tiền". Vâng, rốt cuộc thì anh ta có giết hay không? Tôi phẫn nộ bác bỏ lời buộc tội cướp tiền: không thể buộc tội cướp của nếu không chỉ rõ đích xác cướp cái gì, đây là tiên đề! Nhưng anh ta có giết không, có giết người mà không lấy của không? Phải chăng đó là tiểu thuyết.

    --------------------------------
    1 "Những bí mật của lâu đài Udonfơ", nếu thuyết của nữ văn sĩ Anh Ann Radeliffe (1764-1823), nổi tiếng ở Nga nửa đầu thế kỷ XIX.



  3. #102
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 12

    Cũng không có giết người
    Thưa quý vị bồi thẩm, đây là cuộc đời con người, cho nên phải thận trọng. Chúng ta đã nghe thấy bên công tố xác nhận rằng cho đến tận hôm nay, ngày mở phiên toà, công tố vẫn ngần ngừ chưa muốn buộc tội bị báo hoàn toàn chủ tâm giết người, cho đến lúc lá thư "say" ác hại ấy được đưa ra trình toà.

    "Việc diễn ra như đã biết!" Nhưng tôi xin nhắc lại lần nữa: anh ta chạy đến chỗ nàng, tìm nàng, chỉ để biết nàng ở đâu. Đấy là sự kiện hiển nhiên. Nếu nàng ở nhà, anh ta sẽ chẳng chạy đi đâu cả sẽ ở bên nàng và sẽ tránh được cái việc mà anh ta đã doạ trong thư. Anh ta chạy đi một cách vô tình và bất ngờ, còn về lá thư "say" của mình thì có lẽ anh ta hoàn toàn không nhớ. "Anh ta sẽ vơ theo cái chày", và các vị nên nhớ, vì cái chày ấy mà người ta đã đưa ra cho chúng ta cả một pho tâm lý: tại sao anh ta phải lấy cái chày ấy làm vũ khí, vơ lấy nó làm vũ khí, v.v… và v.v đến đây tôi chợt nảy ra một ý nghĩ bình thường nhất: nếu như cái chày ấy không nằm ngay trước mắt, không nằm trên giá để đồ cho bị cáo vơ lấy, mà cất trong tủ thì sao? - khi ấy nó không đập vào mắt bị cáo, bị cáo sẽ chạy đi tay không, không vũ khí và có lẽ sẽ chẳng giết ai. Bằng cách nào tôi có thể kết luận về cái chày như bằng chứng về sự vũ trang và chủ mưu? Phải, nhưng anh ta đã gào thét khắp các quán rượu rằng anh ta sẽ giết cha, hai ngày trước, buổi tối anh ta viết lá thư say, anh ta trầm lặng và trong quán rượu anh ta chỉ cãi nhau với một người tài công vì "Karamazov không thể không cãi nhau". Về việc đó tôi xin trả lời rằng nếu như đã mưu tính việc giết người như thế, mà lại theo kế hoạch đã viết ra thì chắc chắn là sẽ không cãi nhau với viên tài công, mà có lẽ cũng không đến quán rượu làm gì vì một người mưu tính một việc như thế đi tìm sự yên tĩnh, lánh mình, biến mất, không đề ai nhìn thấy, nghe thấy mình: "Hãy quên tôi đi, nếu có thể được", mà đấy không phải là do tính toán, mà theo bản nàng. Thưa quý vị bồi thầm, tâm lý là chiếc đòn xóc hai đầu, và chúng ta cũng biết hiểu tâm lý. Còn về những lời la hét trong quán rượu suốt tháng đó thì trẻ con và những kẻ nhậu say sưa khi ra khỏi quán, cãi nhau thường vẫn nói: "Tao sẽ giết mày", nhưng rồi có giết đâu. Ngay chính lá thư ác hại ấy, phải chăng nó cũng là sự bực tức trong cơn say, là sự quát tháo của kẻ ra khỏi quán rượu: tao sẽ giết, tao sẽ giết tất cả chúng mày! Tại sao lại không phải như vậy, tại sao lại không thể như vậy? Tại sao lại có lá thư ác hại ấy, tại sao, nó không buồn cười ư! Chính bởi vì đã tìm thấy xác chết của ông bố bị giết, bởi vì người làm chứng đã nhìn thấy bị cáo ở trong vườn, có vũ khí và đang bỏ chạy, và chính ông ta bị đánh gục thành thử tất cả diễn ra như đã viết, vì thế lá thư không buồn cười, mà ác hại. Sáng danh Chúa, chúng ta đã đến điềm "ở trong vườn tức là giết người". Bằng hai từ đó: đã có mặt thì nhất định là, thế là đầy đủ hết, thâu tóm cả lời buộc tội, - "đã có mặt thì tức là". Nhưng nếu tuy có mặt nhưng không tức là thì sao? Ôi, tôi đồng ý rằng toàn bộ các sự kiện gộp lại, sự trùng hợp các sự kiện thực sự khá hùng hồn. Nhưng hãy xét các sự kiện ấy riêng biệt, không gộp chúng lại với nhau: tại sao bên công tố nhất quyết không muốn chấp nhận lời khai của bị cáo rằng anh ta chạy xa cửa sổ là chân thực? Hãy nhớ lại sự châm chọc mà bên công tố nói về sự kính cẩn và những tình cảm hiếu thảo đột nhiên dậy lên trong bị cáo. Nhưng nếu ở đây quả thật có cái gì giống như thế, nghĩa là dù không tôn kính, nhưng hiếu thảo thì sao? "Hẳn là mẹ tôi đã cầu nguyện cho tôi lúc ấy", - bị cáo khai trong lúc điều tra, anh ta đã chạy đi ngay khi tin chắc rằng Xvetlova không có ở trong nhà cha. "Nhưng nhìn qua cửa sổ thì không thể biết rõ được". - bên công tố phản bác chúng tôi. Tại sao không thể được nhỉ? Cửa sổ mở ra theo mật hiệu mà bị cáo đã gõ kia mà! Ở đây Fedor Pavlovich có thể thốt ra một tiếng gì đó, có thể kêu thét lên, và bị cáo có thể biết chắc rằng Xvetlova không có trong phòng. Tại sao lại cứ giả định như chúng ta tưởng tượng, như người ta đề nghị chúng ta tưởng tượng ra? Thực tế có thể có cả ngàn sự việc mà ngay nhà tiểu thuyết tinh vi nhất cũng không quan sát thấy. "Phải, nhưng Grigori thấy cửa mở, như vậy bị cáo chắc chắn ở trong nhà, tức là bị cáo giết". Về cánh cửa đó, thưa quý vị bồi thẩm… Các vị thấy đấy, vì cánh cửa ấy chỉ có mỗi một người làm chứng, nhưng lúc đó người ấy ở trong trạng thái mà… Nhưng thôi được, cứ cho là cửa mở đi, cứ cho là bị cáo chối cãi, nói dối vì ý thực tự vệ rất dễ hiểu trong hoàn cảnh của anh ta, cứ cho là anh ta lọt vào nhà. Ở trong nhà thì đã sao, tại sao hễ đã ở trong nhà thì nhất định là giết? Anh ta có thể xộc vào, chạy qua các phòng, có thể xô đẩy cha, thậm chí có thể đánh cha, nhưng thấy rõ ràng "Xvetlova không ở đây" anh ta chạy đi, vui sướng vì Xvetlova không ở đây và anh ta đã chạy đi mà không giết cha. Có lẽ chính vì thế lát sau anh ta từ bờ tường nhảy xuồng chăm sóc Grigori đã bị mình đánh gục trong lúc hãng máu, là bởi anh ta có khả năng cảm thấy một tình cảm trong sạch, động lòng thương xót, bởi vì anh ta đã tránh được sự cám dỗ giết cha, bởi vì anh ta cảm thấy trái tim mình trong sạch và vui sướng vì không giết cha. Ông công tố sẽ miêu tả hùng hồn với chúng ta tâm trạng ghê gớm của bị cáo ở làng Mokroe, khi tình yêu lại đến với anh ta, kêu gọi anh ta đi xây cuộc đời mới, khi anh ta không còn có thể yêu được nữa, bởi vì đằng sau lưng là cái thây đẫm máu của cha anh ta, tiếp đó là án tử hình. Tuy nhiên công tố viên vẫn chấp nhận tình yêu mà ông giải thích theo tâm lý học của mình: "Trạng thái say rượu, người ta đưa kẻ phạm tội đi hành hình, thời gian còn lâu v.v… và v.v…". Nhưng thưa vị công tố, có phải ông đã tạo nên nhân vật khác không, tôi lại xin hỏi? Bị cáo có thô thiển và bất nhân đến mức trong lúc ấy vẫn có thể yêu đương và quanh co trước toà nếu như quả thực trên mình còn vấy máu cha? Không, không, không! Vừa mới khám phá ra rằng nàng yêu anh, gọi anh theo mình, hứa hẹn với anh hạnh phúc mới, ôi, tôi xin thề rằng anh ta cảm thấy nhu cầu gấp đôi, gấp ba phải tự vẫn và nhất quyết sẽ tự vẫn, nếu như sau lưng anh ta là cái xác cha! Ồ không, anh ta sẽ không quên mấy khẩu súng của mình ở đâu! Tôi biết bị cáo: sự nhẫn tâm mọi rợ, gỗ đá mà người ta buộc cho anh ta không phù hợp với tính cách anh ta. Anh ta sẽ tự vẫn, đấy là điều chắc chắn; anh ta không tự vẫn chính bởi vì "mẹ cầu nguyện cho anh ta", tôi giết cha không trĩu nặng trong tim anh ta, đem hôm ấy ở Mokroe anh ta đau khổ, buồn phiền chỉ vì lão Grigori bị anh ta đánh gục và cầu trời cho lão tỉnh lại, đòn đánh của anh ta không giết chết lão và anh ta không mắc tội. Tại sao lại không chấp nhận cách giải quyết sự việc như thế? Chúng ta có bằng chứng vững chắc nào là bị cáo nói dối chúng ta? Thế còn cái xác của người cha; người ta sẽ lại vạch ra với chúng ta: anh ta đã bỏ chạy, anh ta không giết, vậy thế ai giết ông già? Tôi xin nhắc lại: đây là toàn bộ logic của bên công tố: ai giết, nếu không phải là anh ta? Chẳng có ai thay anh ta. Thưa quý vị bồi thẩm, có phải như vậy không? Có thật là là dùsao cũng không tìm được ai thay vào không? Chúng ta đã nghe thấy bên công tố điểm tên từng người vẫn ở đấy và đêm hôm ấy có mặt tại nhà này. Có năm người. Tôi đồng ý là có ba người không chịu cách nhiệm, ấy là: nạn nhân, Grigori và vợ lão. Thành thử chỉ còn bị cáo và Xmerdiakov vị công tố đã kêu lên một cách đầy cảm hứng rằng bị cáo đổ cho Xmerdiakov vì không có ai mà đổ tội nữa nếu có người thứ sáu nào đó, chodù là bóng ma của một người thứ sáu thì bị cáo sẽ lập tức không đổ cho Xmerdiakov nữa vì xấu hổ, mà đổ cho người thứ sáu ấy ngay.

    Nhưng thưa quý vị bồi thẩm, tại sao tôi không thể kết luận hoàn toàn ngược lại? Có hai người: bị cáo và Xmerdiakov - tại sao tôi không thể nói rằng công tố buộc tội khách hàng của tôi chỉ vì không còn ai khác? Mà không còn ai khác là vì do thiên kiến có sẵn, ông đã loại bỏ bất cứ sự nghi ngờ nào đối với Xmerdiakov. Phải, quả thực là đổ tội cho Xmerdiakov chỉ có bản thân bị cáo, hai anh em bị cáo và Xvetlova, chỉ có vậy thôi. Nhưng vẫn còn những người trong số những người khai cung: đấy là sự rì rầm trong xã hội, tuy là mơ hồ, với những câu hỏi, những nghi ngờ nào đó, có những tin đồn mập mờ, ta cảm thấy có sự chờ đợi nào đó. Cuối cùng, sự đối chiếu các sự kiện, sự đối chiếu rất đặc sắc, tuy xin thú thật là vu vơ, cũng là một bằng chứng; thứ nhất là lên cơn động kinh đúng vào ngày xảy ra đại hoạ, không hiểu sao bên công tố buộc phải ra sức biện bạch, bảo vệ nó, tiếp đến sự tự sát bất ngờ của Xmerdiakov trước phiên toà. Tuy nhiên, lời khai không kém "phần bất ngờ của người em lớn của bị cáo tại phiên toà hôm nay, cho đến lúc ấy anh ta vẫn tin rằng anh mình có tội, vậy mà anh ta mang tiền đến và lại nêu đích danh Xmerdiakov là kẻ giết người! Ôi, cùng với toà và bên công tố, tôi hoàn toàn tin chắc rằng Ivan Karamazov ốm và lên cơn sốt mê sảng, lời khai của anh ta thực sự có thể là một mưu toan tuyệt vọng, mà lại trong cơn mê sảng, để cứu anh bằng cách đổ tội cho kẻ đã chết. Tuy nhiên, tên Xmerdiakov đã được thốt lên, dường như là nghe thấy một cái gì bí ẩn. Ở đây có cái gì chưa nói hết, thưa quý vị bồi thẩm, chưa xong hắn. Và có lẽ sẽ còn được nói nốt. Nhưng ta hãy tạm gác chuyện ấy lại, chuyện ấy để sau. Ban nãy toà đã quyết định tiếp tục phiên xử, nhưng bây giờ, trong lúc chờ đợi, tôi có thể vạch ra một đôi điều, chẳng hạn những nhận xét về tính cách của Xmerdiakov đã qua đời mà vị công tố đã vẽ ra một cách tinh vi và tài ba. Nhưng tuy ngạc nhiên về tài năng của ông, tôi không thể đồng ý với ông về thực chất của những nhận xét của ông. Tôi đã đến nhà Xmerdiakov, đã gặp hắn và nói chuyện với hắn, hắn gây cho tôi ấn tượng hoàn toàn khác, hắn yếu sức khỏe, đấy là sự thật, nhưng về tính cách, trái tim thì hoàn toàn không, đây hoàn toàn không phải là con người yếu đuối như bên công tố kết luận. Đặc biệt tôi không thấy hắn nhút nhát, sự nhút nhát mà vị công tố đã miêu tả hết sức đặc sắc với chúng ta. Hắn hoàn toàn không chất phác, trái lại, tôi thấy một sự đa nghi ghê gớm ẩn dưới cái vẻ ngoài ngây thơ và một trí tuệ có khả năng quan sát rất nhiều. Ồ! Bên công tố quá chất phác cho rằng hắn gàn dở. Hắn để lại cho tôi một cảm tưởng hoàn toàn dứt khoát: tôi ra về với niềm tin chắc rằng con người này rất độc đáo, háo danh vô tận hay trả thù và ghen tị kinh khủng. Tôi đã thu thập được một số điều: hắn căm thù nguồn gốc của mình, xấu hổ về điều đó và nghiến răng nhắc lại rằng hắn là "con của Xmerdiasaia".". Đối với Grigori và vợ lão là những ân nhân của hắn thời thơ ấu, hắn có thái độ thiểu tôn trọng. Hắn nguyền rủa và chế nhạo nước Nga. Hắn mơ ước sang Pháp để trở thành người Pháp. Trước đó, hắn nói nhiều và thường xuyên rằng hắn không có tiền đề làm việc đó. Tôi có cảm giác rằng hắn không yêu ai ngoài bản thân mình, hắn tự đánh giá mình cao kỳ lạ. Hắn cho rằng trình độ học thức thể hiện ở bộ quần áo bảnh bao, sơ mi sạch sẽ và đôi ủng bóng lộn. Tự coi mình là con hoang của Fedor Pavlovich (mà đây là sự thật), hắn có thể căm thù địa vị của mình so với các con chính thức của chủ: họ có tất cả, còn hắn chỉ là tên nấu bếp. Hắn cho tôi biết rằng hắn cùng với Fedor Pavlovich cho tiền vào phong bì. Cố nhiên hắn căm ghét mục đích dùng số tiền đó - với số tiền ấy hắn có thể tiến thân. Thêm nữa, hắn đã nhìn thấy ba ngàn rúp toàn bạc trăm mới tinh (tôi cố ý hỏi hắn điều đó). Ôi, đừng bao giờ cho kẻ ghen tị và tự ái trông thấy số tiền lớn, đây là lần đầu tiên hắn nhìn thấy một bàn tay cầm số tiền như thế. Xấp giấy bạc trăm có thể gây cảm tưởng bệnh hoạn đến trí tưởng tượng của hắn, lần đầu thì chưa có hậu quả gì cả. Vị công tố tài năng của chúng ta đã vạch ra một cách tình vi lạ thường tất cả những giả thuyết pro và contra về khả năng kết tội Xmerdiakov giết người và đặc biệt hỏi: vì cớ gì hắn giả vờ động kinh? Phải, nhưng hắn có thể hoàn toàn không giả vờ, cơn bệnh có thể đến hoàn toàn tự nhiên, nhưng cũng có thể qua khỏi hoàn toàn tự nhiên, người ốm có thể chợt tỉnh. Ta giả sử là không khỏi hẳn, nhưng đến một lúc vẫn cứ hồi tỉnh lại như thường có trong những cơn động kinh. Công tố hỏi: Xmerdiakov giết người vào lúc nào? Nhưng chỉ ra lúc đó hết sức dễ. Hắn có thể tỉnh giấc và trở dậy sau giấc ngủ sâu (bởi vì hắn chỉ có chìm trong giấc ngủ; sau cơn bệnh động kinh bao giờ cũng là giấc ngủ sâu), đó chính là lúc lão Grigori chộp lấy chân bị cáo leo lên bờ tường, gào vang: "Thằng giết cha!", tiếng gào ấy thật lạ thường trong đêm hôm thanh vắng và có thể làm Xmerdiakov thức giấc, lúc ấy hắn có thể ngủ không say lắm: tất nhiên hắn cũng có thể thức giấc một giờ trước đó. Rời khỏi giường, vô ý thức và không có dự định nào, hắn ra chỗ có tiếng gào, xem có chuyện gì, đầu hắn mụ mị, trí tưởng tượng vẫn còn mơ màng, nhưng hắn đã ở trong vườn, tới gần những cửa sổ sáng và được chủ cho biết một tin làm hắn hết sức mừng. Nhưng tính toán lập tức bừng lên trong đầu hắn. Ông chủ sợ hãi cho hắn biết mọi chi tiết. Thế là dần dần, trong trí não ốm đau, rồi loạn của hắn nảy ra một ý nghĩ ghê rợn, nhưng hấp dẫn và có tính logic không cưỡng lại được: giết, lấy ba ngàn đồng và đổ tất cả cho cậu chủ - bây giờ người ta còn nghĩ đến ai nếu không phải là con ông chủ, có thể kết tội ai nếu không là con ông chủ, mọi chứng cứ, cậu ta có mặt ở đây kia mà? Máu tham tiền, tham chiếm đoạt choán hết tình thần hắn, đồng thời với ý nghĩ về việc thoát khỏi sự trừng phạt. Ôi, những cơn bốc đồng bất ngờ và không thể cưỡng lại được ấy thường xảy đến khi có dịp, cái chính là thường đến một cách bất ngờ với những kẻ giết người mà một phút trước không hề biết rằng mình muốn giết người! Thế là Xmerdiakov có thể vào chỗ ông chủ và thực hiện kế hoạch của mình, bằng vũ khí gì - bằng viên đá đầu tiên mà hắn nhặt trong vườn. Nhưng để làm gì, với mục đích gì? Thế còn ba ngàn rúp đấy là con đường công danh. Ôi, tôi không tự mâu thuẫn với mình: có thể có số tiền. Thậm chí có thể chỉ mình Xmerdiakov biết tìm tiền ở đâu, tiền ông chủ giấu ở đâu. "Ờ, thế còn giấy phong bao tiền, chiếc phong bì bị xé rách nam trên sàn?" Ban nãy, khi ông công tố nói về chiếc phong bì ấy, ông đã trình bày cực kỳ tinh tế suy nghĩ của ông vế việc chỉ có kẻ không quen ăn cắp như Karamazov mới có thể để lại chiếc phong bì trên sàn, chứ hoàn toàn không phải là Xmerdiakov, hắn không đời nào để lại tang chứng như vậy, - thưa quý vị bồi thẩm, tôi nghe và bỗng cảm thấy rằng tôi nghe một điều gì hết sức quen thuộc. Các vị tưởng tượng xem, chính sự suy nghĩ như vậy, sự phỏng đoán như vậy về việc Karamazov có thể làm như thế nào với chiếc phong bì, đúng hai ngày trước tôi đã nghe chính Xmerdiakov nói, hơn thế nữa hắn nói điều đó khiến tôi sửng sốt: tôi có cảm giác rằng hắn vờ làm ra vẻ ngây ngô nói chặn trước ràng buộc cho tôi ý nghĩ ấy để tự tôi rút ra kết luận, như thể gà cho tôi. Phải chăng hắn đã mớm ý nghĩ ấy cả cho vị công tố tài ba của chúng ta. Người ta sẽ nói: thế còn bà già vợ Grigori? Bà ta đã nghe những người ốm nằm gần bà rên suốt đêm. Vâng, có nghe thấy, nhưng đấy là lý do rất lung lay. Tôi đã nghe một bà già phàn nàn một cách chua xót rằng tiếng chó sủa ở sân suốt đêm làm bà thức giấc, không để bà ngủ yên. Thế nhưng người ta biết rằng con chó tội nghiệp suốt đêm chỉ sủa có hai ba lần. Điều đó tự nhiên thôi: một người ngủ và bỗng nghe tiếng rên, thức giấc, bực bội vì mình bị đánh thức, nhưng lại ngủ thiếp đi ngay. Khoảng hai giờ sau lại có tiếng rên lại thức giấc và lại ngủ thiếp đi, cuối cùng lại rên lần nữa, lần này cũng lại hai tiếng sủa, cả đêm chỉ có ba lần. Sáng ra, người ngủ trở dậy và than phiền rằng ai đó suốt đêm rên rỉ và luôn luôn làm mình thức giấc. Nhưng nhất định người ấy phải cảm thấy như thế. Khoảng thời gian ngủ, mỗi lần chừng hai tiếng, người ấy không nhớ, chỉ nhớ những lần thức giấc, và có cảm giác rằng mình tỉnh giấc suốt đêm. Nhưng tại sao, ông công tố kêu lên, tại sao Xmerdiakov không thú nhận trong thư để lại? "Về một việc thì đủ lương tâm, về việc khác thì không". Nhưng xin nói: lương tâm, đấy là sự sám hối những kẻ tự sát không thể có sự sám hối, chỉ có sự tuyệt vọng mà thôi. Tuyệt vọng và sám hối là hai điều hoàn toàn khác nhau. Tuyệt vọng có thể độc ác và không thoả hiệp, kẻ tự sát, lúc kết thúc cuộc đời, có thể căm thù gấp bội những người mà y ghen tức suốt đời! Thưa quý vị bồi thẩm, hãy tránh sai lầm khi phán quyết! Tất cả những điều tôi vừa trình bày và miêu tả với quý vị, có cái gì khó đáng tin không? Hãy tìm sai lầm trong sự trình bày của tôi, hãy tìm xem có cái gì không thể có, phi lý? Nhưng nếu trong các giả thuyết của tôi thoáng có chút gì có thể đúng nghe được thì xin đừng kết án. Mà lẽ nào chỉ thoáng có phần thật? Xin viện tất cả những gì thiêng liêng ra mà thề rằng tôi hoàn toàn tin ở cách giải thích tôi vừa trình bày với quý vị về vụ giết người. Cái chính làm tôi bối rối và không yên tâm vẫn là ý nghĩ rằng trong tất cả khối sự kiện mà bên công tố chồng chất lên bị cáo, không có lấy một sự kiện ít nhiều chính xác và không thể bác bỏ được, mà kẻ xấu số chết chỉ vì tập hợp các sự kiện đó. Phải, tập hợp các sự kiện đó thật kinh khủng; máu nhỏ từ các đầu ngón tay, áo trong bết máu, đêm tối mịt, tiếng hét "thằng giết cha" vang vọng, kẻ la hét ngã lộn nhào, đầu vỡ toác, rồi đến bao nhiêu lời nói, lời khai, điệu bộ, tiếng la hét, - Ôi điều ấy có ảnh hưởng rất lớn, có thể lấy được lòng tin, thưa quý vị bồi thẩm, liệu có thể lấy được lòng tin của quý vị không? Các vị nên nhớ, các vị có quyền hành mênh mông, quyền gỡ tội và quyết định. Nhưng quyền càng lớn thì sử dụng quyền càng đáng sợ! Tôi nhất quyết không từ bỏ điều tôi vừa nói, nhưng thôi được, cứ cho là trong giây lát tôi tạm đồng ý với lời buộc tội rằng khách hàng của tôi đã hai tay vấy máu cha. Đấy chỉ là giả thuyết, tôi nhắc lại, tôi không một phút nào nghi ngờ sự vô tội của anh ta nhưng thôi được, tôi cứ giả định rằng bị cáo của tôi phạm tội giết cha, nhưng xin hãy như tôi nói, chodù tôi có chấp nhận giả thuyết ấy đi nữa. Trong lòng tôi vẫn có điều phải nói với quý vị bởi vì tôi cảm thấy trong trái ti.ai và khối óc quý vị vẫn diễn ra cuộc đấu tranh mãnh liệt… Xin thứ lỗi cho tôi đã nói về trái tim và khối óc quý vị. Nhưng tôi muốn chân thành đến cùng. Chúng ta sẽ thành thực!…"

    Đến đây một tràng vỗ tay khá rầm rộ ngắt lời luật sư. Quả thật, những lời cuối cùng của ông nói với giọng thành thực đến nỗi mọi người đều cảm thấy có lẽ thực sự ông có điều gì muốn nói và điều ông sắp nói là quan trọng nhất. Nhưng chánh án nghe tràng vỗ tay, lớn tiếng doạ "mời hết ra khỏi phòng", nếu "sự việc tương tụ" còn tái diễn. Cả phòng im lặng, và Fetiukovich bắt đầu bằng một giọng thấm thía khác hẳn giọng ông vẫn nói cho đến giờ.


  4. #103
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 13

    Kẻ ngoại tình trong suy nghĩ
    - Không phải chỉ tập hợp các sự kiện làm hại khách hàng của tôi, thưa quý vị bồi thẩm, - ông ta tuyên bố, - không, làm hại khách hàng của tôi thực ra chỉ có một sự kiện: đấy là cái xác ông bố già! Nếu đây là một vụ giết người bình thường dù với tính chất nhỏ mọn, vô căn cứ, hoang đường của các sự kiện khi xét mỗi sự kiện riêng biệt, chứ không phải tập hợp các sự kiện, các vị sẽ bác bỏ lời buộc tội, ít ra các vị cũng nghi ngờ việc làm hại một đời người chỉ dựa vào thành kiến với người đó, thành kiến mà hỡi ôi, người đó rất đáng phải chịu! Nhưng đây không phải là vụ giết người bình thường, mà là giết cha! Điều đó khiến người ta phải e sợ, tới mức độ ngay cả tính chất nhỏ mọn và vô căn cứ hoàn toàn của những sự kiện buộc tội cũng trở nên không nhỏ mọn và vô căn cứ lắm, ngay cả trong một đầu óc chẳng có chút thành kiến nào. Làm cách nào gỡ tội cho một bị cáo như thế? Làm thế nào giết cha mà không bị trừng phạt - hầu như vô tình, bản năng mỗi người đều cảm thấy trong lòng như vậy. Phải, làm đổ máu cha thực là kinh khủng - máu của người sinh ra mình, yêu mình, máu của người đã không tiếc đời vì ta, từ lúc ta còn bé đã lo lắng khi ta đau ốm, suốt đời đau khổ vì hạnh phúc của ta, và chỉ sống báng những niềm vui, những kết quả của ta! Ôi, giết một người cha như thế - không thể nào tưởng tượng được! Thưa quý vị bồi thẩm, thế nào là người cha, người cha thực sự, tiếng ấy vĩ đại biến bao, cái tên ấy mang một ý niệm vĩ đại biết chừng nào? Chúng ta vừa vạch rõ một phần thế nào là người cha chân chính, người ấy phải như thế nào. Trong vụ án mà chúng ta đang nghiên cứu, vụ án làm tâm hồn chúng ta đau đớn. Fedor Pavlovich Karamazov đã quá cố tuyệt nhiên không xứng với khái niệm người cha, khái niệm vừa được nói với trái tim chúng, ta. Đấy là một tai hoạ. Quả thật vậy, có người cha giống như tai hoạ. Ta hãy xét tai hoạ đó kỹ hơn - không nên sợ gì hết, thưa quý vị bồi thẩm, vì tầm quan trọng của quyết định sắp tới. Thậm chí bây giờ đặc biệt chúng ta không được sợ và có thể nói là lảng tránh một ý niệm, như trẻ con hay những phụ nữ nhút nhát, như vị công tố tài ba của chúng ta diễn tả rất đạt.

    Nhưng trong bài nói nồng nhiệt của mình, đối thủ đáng kính của tôi, và là đối thủ, ngay từ trước khi tôi thốt lên lời đầu tiên, đã mấy lần kêu lên: "Không, tôi không để cho ai cãi cho bị cáo, tôi không nhường việc bênh cãi bị cáo cho luật sư bào chữa từ Peterburg về, tôi là người buộc tội, chứ không phải người bào chữa!". Ông đã mấy lần kêu lên như vậy, nhưng ông quên không nhắc rằng suốt hai mươi ba năm trời bị cáo khủng khiếp vẫn biết ơn chỉ vì một funt hạt dẻ của một người duy nhất đã gửi đến cho anh ta thuở anh ta còn bé ở nhà cha, thì một người như thế không thể không nhớ trong suốt hai mươi ba năm trời ấy, anh ta đi chân đất chạy "ở sân sau, chân không ủng, quần chỉ có một chiếc cúc", theo lời của bác sĩ Gherxenstube nhân ái. Ôi, thưa quý vị bồi thẩm, chẳng cần gì phải nhìn gần hơn "tai hoạ" này, nhắc lại điều mà ai nấy đều biết. Khi đến nhà cha, khách hàng của tôi gặp điều gì? Tại sao phải miêu tả khách hàng của tôi thành người không có tình cảm, kẻ ích kỷ, con quái vật? Anh ta hung hãn, mọi rợ và cuồng liệt, bây giờ chúng ta xử anh ta về điều đó nhưng ai có lỗi về số phận anh ta, ai có lỗi khi mặcdù có những khuynh hướng tốt, có trái tim nhạy cảm cao quý, anh ta thâu nhận được sự giáo dục lố lăng như vậy? Có ai mở mang trí óc cho anh ta không, anh ta có được dạy các môn khoa học không, có ai ít nhiều yêu thương anh ta thuở thơ bé không?

    Khách hàng của tôi lớn lên dưới sự đùm bọc của Chúa Trời, tức là như con thú hoang. Có lẽ anh ta khao khát thấy mặt cha sau thời gian xa cách lâu dài, có lẽ một ngàn lần trước đó, khi nhớ lại thời thơ ấu trong giấc mơ, anh ta xua đuổi những bóng ma đáng ghét đã mơ thấy thuở bé, và hết lòng mong muốn miễn thứ cho cha và ôm lấy cha! Thế thì sao? Người ta đón anh ta chỉ bằng những lời giễu cợt vô sỉ, sự ngờ vực và hoạnh họe vì tranh chấp tiền nong. Anh ta chỉ như thấy những chuyện và những lề lối sinh hoạt khiến trái tim đảo lộn, hàng ngày nốc cognac, rốt cuộc anh ta thấy cha dùng tiền của anh ta, con trai ông, để chiếm đoạt người tình của anh ta. Ôi, thưa quý vị bồi thẩm, thật là tởm lợm và tàn bạo! Vậy mà ông già ấy kêu ca với mọi người về sự vô lễ và hung bạo của con, bôi nhọ anh ta trong xã hội, làm hại anh ta, vu khống anh ta, mua những giấy vay nợ của anh ta để bỏ tù anh ta! Thưa quý vị bồi thẩm, những tâm hồn ấy, những người bề ngoài nhẫn tâm, hung bạo và bất kham như khách hàng của tôi, thường thường lại có tấm lòng hết sức hiền dịu, có điều không tỏ ra ngoài thôi. Đừng cười, xin đừng cười ý tưởng của tôi! Vị công tố tài ba ban nãy vừa chế nhạo khách hàng của tôi một cách tàn nhẫn, phơi bày ra rằng anh ta yêu Siller, yêu "cái đẹp cao cả". Ở địa vị ông công tố, tôi sẽ không chế nhạo điều đó! Vâng, những trái tim ấy, - ôi, hãy cho phép tôi bảo vệ những trái tim ấy, ít khi người ta hiểu và hiểu sai lệch về nó, - những trái tim ấy thường khao khát sự trìu mến, cái đẹp và sự công bằng, và chính dường như tương phản với sự hung hãn, sự tàn bạo của mình, - nó khao khát một cách vô ý thức, chính là khao khát. Bề ngoài đam mê và tàn bạo, họ có khả năng yêu đến đau khổ, chẳng hạn yêu một người phụ nữ, và nhất thiết là yêu bằng tình yêu tinh thần cao cả. Một lần nữa xin đừng cười tôi: đấy chính là điều thường hay xảy đến nhất trong những bản tính như vậy! Họ chỉ không thể che giấu niềm đam mê của mình, đôi khi rất thô tạo, - đây là điều làm ta sửng sốt, đây là điều người ta chú ý, còn nỗi lòng của họ thì người ta không nhìn thấy. Trái lại, một niềm đam mê của họ được thoả mãn nhanh chóng, nhưng bên cạnh một người cao đẹp, con người có lẽ là thô lỗ và tàn bạo ấy đi tìm sự đổi mới, tìm khả năng sửa chữa, trở nên tốt hơn, trở thành cao cả và trung thực - "cao đẹp", mặcdù tiếng đó bị chế nhạo! Ban nãy tôi vừa nói rằng tôi sẽ không cho phép đụng đến thiên tình sử giữa khách hàng của tôi với tiểu thư Verkhovxeva. Tuy nhiên, có thể nói nửa chừng: ban nãy chúng ta nghe không phải là lời khai, mà chỉ là tiếng thét của người phụ nữ điên cuồng vì trả thù, và không phải nàng có quyển trách người ta phản bội, vì chính nàng phản bội! Nếu như có ít nhiều thời gian để suy nghĩ thì hẳn nàng sẽ không đưa ra lời chứng như thế. Ôi, đừng tin nàng, không, không phải "con quái vật" là khách hàng của tôi, như nàng gọi! Một người yêu con người, bị đóng đanh câu rút, khi sắp lên cây thập giá, đã nói: "Ta là kẻ chăn chiên nhân hậu, kẻ chăn chiên nhân hậu dành tất cả tâm hồn vì con chiên của mình, và không một con nào chết…" Chúng ta không giết chết linh hồn con người! Vừa rồi tôi hỏi: thế nào là người cha, và kêu lên rằng đấy là một từ vĩ đại, một danh hiệu quý giá. Nhưng thưa quý vị bồi thẩm, phải dùng danh từ một cách ngay thẳng, và tôi xin phép gọi sự vật bằng chính tên của nó: Người cha như ông già Karamazov bị giết không thể và không đáng được gọi là cha. Lòng yêu người cha không xứng đáng là sự lố lăng, là không thể có được. Không thể tạo nên tình yêu từ chỗ không có gì, chỉ có Chúa Trời mới sáng tạo từ cái không có gì. "Hỡi các cha, chớ làm các con mình buồn phiền", - một sứ đồ viết xuất phát từ trái tim rực lửa tình yêu của mình. Không phải vì tình yêu mà bây giờ tôi dẫn ra những lời thiêng liêng ấy, tôi nhắc lại cho tất cả những người làm cha. Ai cho tôi quyền dạy những người cha? Chẳng ai cả. Là một con người và công dân, tôi kêu gọi - vivos voco 1 " Chúng ta sống trên trái đất không lâu, chúng ta làm nhiều việc xấu và nói nhiều lời xấu xa. Bởi thế chúng ta sẽ nhân lúc thuận tiện được giao tiếp với nhau đề nói với nhau một lời tốt đẹp. Tôi đang làm như thế: trong lúc còn đang ở đây, tôi lợi dụng phút này. Chẳng phải vô cớ mà ý chí tối cao dành cho chúng ta diễn đàn này: cả người Nga nghe chúng ta. Tôi nói không phải chỉ với những người cha có mặt ở đây, tôi kêu lên với tất cả những người cha: "Hỡi những người cha, đừng làm cho con cái mình buồn phiền". Trước hết chính chúng ta hãy thực hiện lời răn của Chúa Kito, rồi hãy cho phép mình đòi hỏi con cái chúng ta. Nếu không chúng ta không phải là cha, mà là kẻ thù của con cái chúng ta, và chúng không phải là con cái chúng ta, mà là kẻ thù của chúng ta, và chính chúng ta làm cho chúng dành kẻ thù của chúng ta! "Các người đo người ta bằng cái gì thì người ta cũng đo các người bằng cái ấy", - đấy không phải là tôi nói, mà là Phúc âm, hãy đo bằng cái thước mà người ta dùng để đo các vị. Làm sao kết tội con cái, khi chúng ta đo chúng bằng cái thước của chúng ta? Mới đây ở Phần Lan, một cô hầu gái bị nghi là đã bí mật sinh con. Người ta bắt đầu theo dõi cô ta và trên gác trần, trong một góc sau đống gạch, người ta tìm thấy chiếc rương, không ai biết là có chiếc rương đó, mở ra và tìm thấy xác đứa trẻ sơ sinh bị cô ta giết. Cũng trong chiếc rương đó người ta còn tìm thấy bộ xương của hai đứa hài nhi đã bị cô ta giết ngay lúc sinh ra, cô ta nhận tội. Thưa quý vị bồi thẩm, đấy có phải là mẹ của các con mình không? Phải, cô ta đã sinh ra chúng, nhưng cô ta có phải là mẹ chúng không? Có người nào trong chúng ta dám dừng tiếng "mẹ" thiêng liêng để gọi cô ta không? Chúng ta sẽ can đảm, thưa quý vị bồi thẩm, thậm chí sẽ táo tợn, thậm chí chúng ta có trách nhiệm phải như thế vào lúc này, không sợ một số từ và ý niệm, như một số bà thương gia Moskva sợ từ "kim loại" và "lưu huỳnh nóng" 2 . Không, trái lại chúng ta sẽ chứng minh rằng sự tiến bộ trong những năm gần đây đụng chạm đến sự phát triển của chúng ta và sẽ nói thẳng: sinh con chưa phải là cha, mà còn phải xứng đáng là cha. Ồ, cố nhiên vẫn còn một ý nghĩa khác, một cách giải thích khác từ "cha", theo đó thì người cha, dù là con quái vật, dù là kẻ bất lương với các con mình, vẫn cứ là cha, vì đã sinh ra con. Nhưng ý nghĩ đó có thể nói là thần bí, tôi không hiểu bằng trí tuệ, mà chỉ có thể tiếp nhận bằng niềm tin hay nói cho đúng hơn là bằng tín ngưỡng, tương tự như nhiều điều khác mà tôi không hiểu, nhưng tôn giáo lệnh cho tôi phải tin. Nhưng trong trường hợp như vậy, điều đó vẫn sẽ ở ngoài lãnh vực đời sống thực. Trong lãnh vực đời sống thực, nó chẳng những có quyền của mình mà chính nó áp đật những trách nhiệm vô cùng lớn lao: trong lãnh vực này, nếu chúng ta muốn là người nhân đạo, cuối cùng là người cơ đốc, chúng ta có bổn phận và trách nhiệm chỉ tin ở những gì được lý trí và kinh nghiệm chứng tỏ là đúng trải qua sự phân tích, tóm lại là hành động hợp lý, chứ không phải là điên rồ như trong giấc ngủ hay cơn mê sảng, để khỏi làm hại con người, để khỏi làm khổ và huỷ hoại con người. Khi ấy sẽ là việc làm chân chính của người theo đạo Kito, không chỉ là thần bí, mà là hợp lý và đích thị là yêu thương con người… "

    Đến đây những tràng vỗ tay rầm rộ nổ ra ở những dãy cuối phòng, nhưng Fetiukovich xua tay như van công chúng đừng ngắt lời ông, để ông nói nốt. Tất cả lập tức im bặt. Diễn giả nói tiếp:

    "Thưa quý vị bồi thẩm, các vị có cho rằng những vấn đề như thế bỏ qua con cái chúng ta, giả sử là ở tuổi thanh niên, giả sử là bắt đầu biết suy xét hay không? Không, không thể được, và chúng ta sẽ không đòi hỏi chúng đừng suy xét, điều đó không thể được! Bề ngoài của ông bố không xứng đáng, đặc biệt là so với những ông bố khác xứng đáng của những đứa khác cùng tuổi bất giác gợi cho thanh niên những câu hỏi khổ ải. Người ta sẽ trả lời những câu hỏi ấy một cách khuôn sáo: "Ông già sinh ra anh, anh là máu của ông ta, vì thế anh phải yêu ông ta". Chàng thanh niên bất giác nghĩ ngợi: "Ông ấy có yêu tôi khi sinh ra tôi không, - anh ta tự hỏi, ngày càng ngạc nhiên hơn. - chẳng lẽ ông ấy sinh ra tôi là vì tôi ư: ông ấy không biết tôi, thậm chí không biết tôi là nam hay nữ vào lúc lửa dục bốc lên, có lẽ do rượu kích thích, có lẽ ông ấy chỉ truyền cho tôi lòng ham thích say sưa, đấy là tất cả ân huệ của ông ấy… Việc gì tôi phải yêu ông ấy, chỉ vì ông ấy đã sinh ra tôi mà suốt đời tôi phải yêu ông ấy?" Ồ có lẽ các vị thấy những câu hỏi ấy là thô lỗ, tàn bạo, nhưng đừng đòi hỏi trí tuệ trẻ tuổi phải tránh né cái không thể tránh né được: "Đuổi thiên nhiên ra qua cửa lớn, nó sẽ vào cửa sổ" cái chính là chúng ta sẽ không sợ "kim loại" và "lưu huỳnh nóng" và giải quyết vấn đề theo lẽ phải và lòng yêu người, chứ không theo những khái niệm thần bí. Giải quyết nó như thế nào? Như thế này: hãy để con trai đứng trước cha và hỏi cha: "Cha ơi, hãy nói cho con biết: vì lẽ gì con phải yêu cha? Cha hãy chứng minh rằng con phải yêu cha". Nếu ông bố có can đảm và khả năng trả lời và chứng minh thì đấy là gia đình bình thường, thực sự, không chỉ dựa trên thiên kiến thần bí, mà dựa trên cơ sở hợp lý, nhân đạo chặt chẽ. Ngược lại, nếu người cha không chứng minh được, thì giá trị ấy cáo chung: ông không phải là cha, người con trai được tự do và được quyền từ nay coi cha là người xa lạ với mình và thậm chí là kẻ thù của mình. Diễn đàn của chúng ta, thưa quý vị bồi thẩm, phải là trường học chân lý và những khái niệm lành mạnh!"

    Đến đây những tràng vỗ tay mãnh liệt, gần như cuồng loạn ngắt lời diễn giả. Cố nhiên, không phải cả phòng vỗ tay, nhưng dùsao vẫn là nửa phòng. Các ông bố và bà mẹ vỗ tay. Phía trên nơi các bà ngồi, có tiếng gào thét. Người ta vẫy khăn tay. Chánh án ra sức lắc chuông. Ông bực tức ra mặt về cách xử sự của công chúng, nhưng không dám doạ "mời ra" khỏi phòng như mới đây ông đã đe: vỗ tay và vẫy khăn hoan hô diễn giả có cả những quan chức lớn ngồi ở phía sau, trên những ghế riêng, những ông già mặc áo đuôi tôm ngực đeo đầy huân chương, thành thử khi tiếng ồn ào lắng dịu, chánh án chỉ dùng giọng hết sức nghiêm khắc đe "mời ra" khỏi phòng, còn Fedorovich đắc thắng và xúc động lại tiếp tục nói.

    - Thưa quý vị bồi thẩm, quý vị vẫn nhớ cái đêm ghê rợn mà hôm nay người ta nói đến rất nhiều, khi con trai vượt qua tường và vào nhà cha, mặt đối mặt với kẻ đã sinh ra mình, đồng thời là kẻ thù, kẻ xúc phạm mình. Tôi cực lực nhấn mạnh - lúc ấy anh ta chạy tới không phải vì tiền: buộc tội cướp của là lố lăng, như tôi đã trình bày trước đây. Và anh ta xộc vào không phải để giết người, ồ không; nếu anh ta chủ tâm mưu sát thì ít ra anh ta đã chuẩn bị sẵn vũ khí, còn cái chày đồng anh ta vơ lấy theo bản năng, bản thân cũng chưa biết để làm gì. Chodù anh ta lừa dối cha bằng những mật hiệu, chodù anh ta đã lọt vào phòng cha, tôi đã nói rằng không một lúc nào tôi tin câu chuyện hoang đường ấy, nhưng thôi được, hãy tạm giả định rằng có một

    lúc tôi tin! Thưa quý vị bồi thẩm, tôi xin viện tất cả những gì thiêng liêng ra thề với các vị rằng nếu đấy không phải là cha anh ta, mà là người ngoài thì sau khi chạy qua các phòng, biết chắc rằng người phụ nữ ấy không có trong nhà này, anh ta sẽ cắm cổ chạy đi, không làm hại gì kẻ tình địch của mình, có thể sẽ đánh, xô đẩy người đó, nhưng chỉ thế thôi, anh ta chẳng còn bụng dạ đâu, anh ta không có thời giờ, anh ta chỉ cần biết nàng ở đâu. Nhưng người cha, người cha, ôi, tất cả chỉ tại đã nhìn thấy kẻ mà anh ta căm ghét từ bé, kẻ thù của anh ta, kẻ xúc phạm anh ta, còn bây giờ là kẻ tình địch quái gở. Lòng căm hờn dậy lên trong anh ta một cách vô tình, không kìm hãm nổi, không thể suy xét được nữa: tất cả dậy lên trong một lúc. Đấy là cơn điên loạn, nhưng là do tác động của thiên nhiên trả thù một cách mãnh liệt và vô ý thức cho những quy luật muôn đời của mình, cũng như xưa nay trong thiên nhiên. Nhưng kẻ giết người đã không giết, - tôi khẳng định điều đó, tôi lớn tiếng kêu gào điều đó, - không, anh ta chỉ vung cái chày lên trong sự phẫn nộ ghê tởm, không muốn giết, không biết rằng mình sẽ giết. Không có cái chày ác hại đó trong tay, có lẽ anh ta chỉ đánh cha thôi, chứ không giết. Khi bỏ chạy, anh ta không biết ông già bị anh ta đánh gục có bị giết chết không. Giết người như thế chỉ có thể quy vào tội giết cha do thành kiến! Nhưng đấy có phải là giết người không, có thật là giết người không, tôi lại kêu gọi quý vị lần nữa từ đáy lòng tôi! Thưa quý vị bồi thẩm, chúng ta sẽ kết án bị cáo, và anh ta sẽ tự nhủ: "Nhưng con người này không làm gì cho số phận của ta, không giáo dục dạy dỗ ta để ta tốt hơn lên, để làm cho ta trở thành con người. Những người này không cho ta ăn uống, không đến thăm ta khi ta trần như nhộng ở trong ngục thất, và bây giờ họ đưa ta đi tù khổ sai. Ta với họ thế là xong nợ, bây giờ ta không nợ nần gì họ và đời đời kiếp kiếp không nợ nần gì ai. Họ độc ác và ta cũng sẽ độc ác. Họ tàn bạo, ta cũng sẽ tàn bạo". Anh ta sẽ nói như thế đấy, thưa quý vị bồi thẩm. Tôi xin thề rằng quý vị kết án anh ta chỉ làm cho anh ta nhẹ mình, lương tâm anh ta sẽ nhẹ nhõm, anh ta sẽ nguyền rủa máu do tay anh ta làm đổ ra, chứ không hối tiếc. Đồng thời quý vị giết chết trong anh ta khả năng trở thành con người, bởi vì anh ta sẽ độc ác và đui mù suốt đời. Nhưng phải chăng quý vị giết chết trong anh ta một cách đáng sợ, ghê gớm, bằng một hình phạt khủng khiếp nhất có thể tưởng tượng ra, nhưng để cứu vớt và phục hưng linh hồn anh ta mãi mãi? Nếu vậy, hãy trấn áp anh ta bằng lòng nhân từ của quý vị! Quý vị sẽ nhìn thấy, sẽ nghe thấy tâm hồn anh ta run lên và khiếp sợ: "Ta có chịu đựng nổi ơn huệ ấy không, ta có xứng với sự yêu thương như thế không!" - anh ta sẽ kêu lên như vậy! Ôi, tôi biết, tôi biết trái tim ấy, đấy là trái tim man rợ, nhưng cao quý, thưa quý vị bồi thẩm. Nó sẽ bái phục công đức của quý vị, nó khao khát một hành động vĩ đại của tình yêu, nó sẽ bốc cháy và phục sinh mãi mãi. Có những tâm hồn do sự hạn hẹp của mình mà lên án cả thế gian. Nhưng hãy đè nén tâm hồn ấy bằng lòng nhân từ, hãy bày tỏ lòng yêu thương nó, nó sẽ nguyền rủa việc làm xấu xa của mình, vì nó có bao nhiêu man thiện. Tâm hồn ấy sẽ mở rộng ra và sẽ thấy Chúa Trời nhân từ biết bao, người đời đẹp và công bằng xiết bao. Sự sám hối sẽ làm y khiếp sợ sẽ đè nén y và cơ man nào là món nợ y phải mang từ nay. Khi ấy y sẽ không nói: "Thế là xong mọi nợ nần", mà sẽ nói: "Ta có tội với tất cả mọi người và càng không xứng đáng với mọi người". Nước mắt chan hoà vì ân hận và cảm kích đến đau khổ day dứt, y sẽ kêu lên: "Mọi người tốt hơn ta, bởi vì họ không muốn hại ta, mà cứu vớt ta!" "Ôi, các vị làm việc đó dễ biết bao, đấy là hành động nhân từ, bởi vì không có bất cứ bằng chứng nào có thể phần nào tin là thật, quý vị có nghe thấy tiếng nói trang nghiêm ấy từ thế kỷ trước của lịch sử quang vinh của chúng ta không? Kẻ hèn mọn như tôi có phải nhắc quý vị rằng toà án Nga không phải chỉ trừng phạt, mà còn cứu vớt con, người hư hỏng không? Ở các dân tộc khác là câu chữ và sự trừng phạt thì mặc họ, còn ở chúng ta là tinh thần và ý nghĩa, là sự cứu vớt và phục hưng những kẻ hư hỏng. Nếu thế, nếu nước Nga và toà án của nó thực sự là như thế thì nước Nga tiến lên, và xin đừng doạ, ôi xin đừng doạ chúng tôi bằng cỗ xe tam mã phóng như điên mà các dân tộc đều kinh tởm tránh ra! Không phải là cỗ xe tam mã điên cuồng, mà là cỗ xe ngựa Nga uy nghi, trịnh trọng và bình tĩnh đi tới đích. Số phận khách hàng của tôi ở trong tay quý vị, số phận sự thật Nga của chúng ta cũng ở trong tay quý vị. Các vị sẽ cứu vớt nó, các vị sẽ bảo vệ nó, các vị sẽ chứng minh rằng có người gìn giữ sự thật ấy, nó ở trong những bàn tay đáng tin cậy!"

    --------------------------------
    1 Tôi kêu gọi những người đang sống! (tiếng Latin).
    2 Dưới địa ngục, tội nhân bị đổ "lưu huỳnh nóng" và "nhựa nóng chảy" (N.D).

  5. #104
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 14

    Nông dân tự bảo vệ mình
    Fetiukovich kết thúc như vậy, và lần này sự hoan hỉ của người nghe bùng ra như bão táp. Không thể tưởng tượng được chuyện kìm hãm sự hoan hỉ đó: phụ nữ khóc, nhiều đàn ông cũng khóc, ngay cả hai quan chức lớn cũng rơi nước mắt.

    Chánh án cũng bị chinh phục, thậm chí chậm lắc chuông: "Xúc phạm đến sự phấn khỏi đó là sự xúc phạm đến điều thiêng liêng" - sau này các bà la lên như vậy. Bản thân diễn giả cũng cảm động thành thực. Đúng lúc ấy Ippolit Kirinlovich của chúng ta đứng lên "đối đáp lại". Người ta căm tức nhìn ông: "Sao? Thế là cái quái gì? Ông ta còn dám phản đối ư?" - các bà rì rầm.

    Nhưng cho dù các bà trên cả thế giới đều rì rầm, mà đứng đầu bọn họ là bà vợ Ippolit Kirinlovich thì lúc ấy cũng không thể nào kìm giữ được ông. Ông tái nhợt, ông run lên vì xúc động; những lời đầu tiên, những câu đầu tiên ông thốt ra thậm chí khó hiểu; ông nghẹn thở, nói kém, lẫn lộn. Tuy nhiên, lát sau ông sửa được. Nhưng trong lần phát biểu thứ hai này của ông tôi chỉ xin dẫn ra mấy câu.

    ".… Người ta trách chúng tôi đã sáng tạo những tiểu thuyết. Nhưng ông luật sư bào chữa làm cái gì, nếu không phải là một tiểu thuyết dựa trên một tiểu thuyết? Chỉ còn thiếu mấy vần thơ nữa thôi. Fedor Pavlovich trong khi chờ đợi người tình đã xé phong bì và ném xuống sàn. Thậm chí còn dẫn ra lời ông ta đã nói trong trường hợp này. Đây chẳng phải là bài trường ca sao? Đâu là bằng chứng rằng ông ta đã rút rên rỉ, ai nghe thấy ông ta nói? Thằng ngốc dở người Xmerdiakov biến thành một nhân vật của Byron trả thù xã hội vì mình là con hoang - đấy chăng phải là bài trường ca theo kiểu cách Byron sao? Còn anh con trai đột nhập vào phòng cha, giết cha, nhưng đồng thời lại không giết, đấy thậm chí không phải là tiểu thuyết, không phải là trường ca, mà là con nhân sư đặt ra câu đố bí hiểm mà ông cố nhiên không giải được. Đã giết là đã giết, còn lập luận như thế nghĩa là đã giết mà là không giết, - ai hiểu được kia chứ? Rồi người ta lại cho chúng ta biết rằng diễn đàn của chúng ta là diễn đàn của chân lý và khái niệm lành mạnh, và từ diễn đàn của "khái niệm lành mạnh" này phát ra một tiên đề, kèm theo lời thề thốt, rằng gọi việc giết cha là một thành kiến và mỗi người con sẽ phải hỏi cha mình: "Cha ơi, tại sao con phải yêu cha?" thì chúng ta sẽ ra sao, còn gì là nền tảng của xã hội, gia đình vứt đi đâu? Giết cha, các vị thấy chứ, đấy chỉ là "lưu huỳnh nóng" của bà thương gia Moskva. Nhưng truyền thống quý giá nhất, thiêng liêng nhất trong chức năng và tương lai của toà án Nga bị trình bày xuyên tạc và nông nổi chỉ để đạt mục đích, chỉ để bào chữa cho cái không bào chữa được. "Ôi, hãy đè nén anh ta bằng lòng nhân từ", - luật sư kêu lên, kẻ phạm tội cũng chỉ cần có thế, ngày mai mọi người sẽ thấy hắn bị đè nén như thế nào! Luật sư có khiêm tốn quá không khi ông chỉ đòi tha bồng cho bị cáo? Vì sao không xin đặt một khoản trợ cấp cho tội giết cha, để lưu lại đời đời công trạng đó cho hậu thế và cho giới trẻ? Người ta sửa đổi Phúc âm và tôn giáo: đấy tất cả là thần bí, còn chúng ta chỉ có đạo Kito đích thực đã được kiểm chứng bằng sự phân tích của lý trí và những khái niệm lành mạnh. Và người ta dựng lên trước chúng ta hình ảnh giả mạo của Chúa Kito! Các người đo người ta bằng cái gì thi người ta cũng đo các người bằng cái ấy, luật sư bảo vệ kêu lên và tức khắc rút ra kết luận rằng Chúa Kito truyền cho ta đo bằng cái thước mà người ta dùng để đo chúng ta, mà đấy là nói trên diễn đàn của chân lý và khái niệm lành mạnh! Mãi đến trước khi phát biểu ta mới nhìn vào Phúc âm chỉ để tỏ ra rằng ta biết một tác phẩm khá đặc sắc có thể thích dụng và gây nên hiệu quá nào đó, tuỳ theo mức cần thiết tất cả là tuỳ theo mức cần thiết! Vậy mà Chúa Kito chính là dạy không được làm thế, phải tránh làm như thế, bởi vì thế giới độc ác chính là vẫn làm như thế, chúng ta phải tha thứ và chìa má ra, chứ không phải là ăn miếng trả miếng với những kẻ xúc phạm chúng ta. Chúa Trời dạy chúng ta như thế, chứ không dạy cấm con giết cha là một thành kiến. Từ trên diễn đàn của chân lý và khái niệm lành mạnh, chúng ta sẽ không sửa chữa Phúc âm của Chúa chúng ta mà luật sư hạ cố chỉ gọi là "người bị đóng đanh câu rút" trái với cả người Nga cgính giáo vẫn kêu cầu: "Ngài là Chúa của chủng con!… "

    Đến đây chánh án can thiệp và chặn lời diễn giá say mê, yêu cầu ông đừng nói ngoa, nên có chừng mực v.v… và v.v… như các chánh án thường nói trong những trường hợp như thế này.

    Vả chăng phòng xử án không yên. Công chúng xôn xao, thậm chí phẫn nộ kêu lên. Fetiukovich thậm chí không phản đối, ông chỉ đứng lên đặt tay vào tim, dùng giọng bị xúc phạm nói mấy lời đầy tự hào. Ông chỉ giễu cợt lại nói qua đến "tiểu thuyết" và "tâm lý" và tiện thể, ở một chỗ ông chen vào: "Jupite, Ngươi tức giận vì vậy Ngươi không có lý", khiến cho công chúng cười khúc khích tán thưởng, bởi vì Ippolit Kirinlovich chẳng giống Jupite chút nào. Tiếp đó, đáp lại lời buộc tội trạng ông cho phép thế hệ thanh niên giết cha, Fetiukovich đường hoàng tuyên bố rằng ông không phản đối. Còn về: "hình ảnh giả mạo về Chúa Kito" và về việc ông không gọi Kito là Chúa mà chỉ gọi là "người yêu nhân loại bị đóng đanh câu rút" và "điều đó trái với đạo chính thống và không thể nói ra từ diễn đàn của chân lý và "khái niệm lành mạnh" thì Fetiukovich nói xa xôi đến "sự ám chỉ", rằng khi sửa soạn đến đây, ít ra ông đã dự tính rằng diễn đàn ở đây bảo cho ông tránh được lời buộc tội "nguy hiểm đối với cá nhân ông với tư cách là công dân và thần dân trung thành…". Nhưng nghe những lời ấy, chánh án chặn ông lại, và Fetiukovich nghiêng mình, chấm dứt sự trả lời trong sự xôn xao tán thưởng của cả phòng, Ippolit Kirinlovich, theo ý kiến các bà, "bị đè bẹp vĩnh viễn", tiếp đó bị cáo được nói.

    Mitia đứng lên, nhưng chàng nói ít. Chàng mệt kinh khủng, cả về thể xác lẫn ảnh thần. Vẻ ung dung và mạnh mẽ lúc sáng khi chàng xuất hiện trong phòng hầu như đã mất hẳn. Trong ngày hôm ấy, chàng dường như đã sống cả cuộc đời, đã học và hiểu ra được điều gì hết sức quan trọng mà trước kia chàng không hiểu. Tiếng nói của chàng yếu đi, chàng không gào lên như trước nữa. Lời nói của chàng có cái gì mới lạ, cam chịu, thất bại và ủ rũ.

    - Tôi còn biết nói gì nữa, thưa quý vị bồi thẩm! Đả đến lúc xét xử tôi tôi cảm thấy bàn tay Chúa đặt lên mình tôi. Thế là xong đời kẻ phóng đăng! Chẳng khác gì xưng tội với Chúa, tôi xin nói với quý vị: "Tôi không có tội làm đổ máu cha tôi!". Lần cuối cùng tôi nhắc lại:" Tôi không giết người". Tôi phóng đãng, những tôi yêu cái thiện. Lúc nào tôi cũng cố gắng sửa chữa, nhưng tôi sống như con thú hoang. Cảm ơn ông biện lý, ông đã nói với tôi nhiều điều mà tôi không biết, nhưng tôi không giết cha tôi, ông biện lý lầm! Cảm ơn ông luật sư, tôi đã khóc khi nghe ông nói, nhưng không phải tôi giết cha, không nên giả định như vậy. Đừng tin các bác sĩ, tôi hoàn toàn tỉnh táo, chỉ có tâm hồn tôi đau đớn. Nếu ân xá cho tôi và tha tôi ra thì tôi sẽ cầu nguyện cho các vị. Tôi sẽ trở nên tốt hơn, tôi hứa như vậy, hứa trước Chúa Trời. Nếu kết án tôi thì tôi sẽ bẻ gấy cây kiếm của tôi trên đầu và hôn mảnh kiếm gẫy! Nhưng hãy dung thứ cho tôi, đừng làm tôi mất Chúa Trời của tôi, tôi biết mình; tôi sẽ kháng cáo. Lòng tôi đau đớn, thưa quý vị bồi thẩm… hãy tha thứ cho tôi!

    Chàng hầu như ngã ngồi xuống ghế, tiếng nói của chàng tắc nghẹn, câu cuối cùng chàng phải khó nhọc mới thốt lên được.

    Rồi toà bắt đầu đạt câu hỏi và xin các bên kết luận. Tôi sẽ không miêu tả chi tiết. Cuối cùng các bồi thẩm đứng lên, lui vào nghị án. Chánh án rất mệt nói, vì thế ông căn dặn rất yếu ớt: "Xin các vị hãy vô tư, đừng để lời lẽ hùng biện của luật sư ảnh hưởng đến mình, nhưng hãy cân nhắc, hãy nhớ rằng quý vị gánh một trách nhiệm vĩ đại" v.v… và v.v… Các bồi thẩm lui vào, phiên toà tạm nghỉ. Có thể đứng lên, đi lại, trao đổi những ấn tượng đã tích luỹ, ăn tại quán ăn nguội. Muộn lắm rồi, đã ngót một giờ sáng, nhưng không ai ra về. Tất cả đều rất căng thẳng và nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi. Tất cả đều chờ đợi, im lặng đi, tuy rằng không phải mọi người đều như thế. Các bà sốt ruột điên lên, nhưng trong lòng thì bình tĩnh: "Tha bổng là cái chắc". Tất cả bọn họ đều chuẩn bị đón phút hoan hỉ chung. Tôi thừa nhận rằng cánh đàn ông trong phòng có rất nhiều người tin chắc rằng thế nào cũng tráng án. Một số người vui sướng, một số kẻ chau mày, một số khác ủ ê: họ không muốn tha bổng! Bản thân Fetiukovich tin chắc ông thành công. Người ta vây quanh ông, ông tiếp nhận lời chúc mừng, người ta xun xoe với ông.

    - Có những sợi dây vô hình nối liền luật sư với bồi thẩm. - ông nói trong một nhóm người, như người ta thuật lại sau này. - Hai bên ràng buộc với nhau và tôi linh cảm thấy điều ấy ngay trong lúc nói. Ta cảm thấy nhưng sợi dây liên ệể ấy, chúng tồn tại Chúng ta sẽ được, cứ yên tâm.

    - Bây giờ những ông nông dân của chúng ta sẽ nói gì? - Một người cau có thốt lên, đấy là một địa chủ to béo, mặt rỗ ở gần thành phố, tới gần một nhóm người đang nói chuyện.

    - Đấy không phải chỉ toàn nông dân, còn bốn viên chức nữa.

    - Phải, còn viên chức nữa. - Một uỷ viên hội đồng Zemxtvô tới gần, nói.

    - Thế ông có biết Nazarev Prokhor Ivanovich không, ông thương gia đeo huy chương ấy mà, bồi thẩm đấy.

    - Sao?

    - Thông minh lắm đấy.

    - Thế mà cứ im lặng suốt.

    - Im lặng càng hay thôi. Ông luật sư Peterburg kia không dạy được ông ta đâu, chính ông ta sẽ dạy cho cả Peterburg cho mà xem. Mười hai người con, gớm không!

    - Xin hỏi, chẳng lẽ lại không tha bổng ư? - Một trong những viên chức trẻ lớn tiếng nói trong một nhóm khác.

    - Chắc chắn là tha bổng. - Một tiếng nói kiên quyết.

    - Không tha bổng thì thật xấu hổ, nhục nhã! Gã viên chức kêu lên. - Chodù anh ta có giết đi nữa, những người cha như thế nào mới được chứ! Với lại anh ta trong trạng lái cuồng loạn như vậy, thật ra anh ta có thể chỉ vung cái chày, thế là ông ta ngã liền… Tệ cái là người ta lại lôi thằng hầu vào đây. Quả là câu chuyện buồn cười. Tôi mà là luật sư thì tôi nói thẳng: anh ta giết, nhưng không có tội, thôi mặc xác các vị.

    - Thì chính ông ấy nói như thế, chỉ không có mặc xác các vị thôi.

    - Không, Mikhail Xemenich, ông ta gần như nói thế. - tiếng người thứ ba phụ hoạ.

    - Này các vị ạ, vào tuần ân chay lớn, ở vùng chúng tôi, người ta đã tha bổng một nữ diễn viên đã cắt cố vợ chính thức của người tình cô ta. Nhưng chưa cắt đứt hẳn.

    - Đằng nào cũng thế thôi, cũng thế thôi, đã bắt đầu cắt.

    - Ông ta nói về con cái như thế nào? Tuyệt quá.

    - Tuyệt.

    - Còn vẻ sự thần bí nữa, về sự thần bí nữa, sao hả?

    - Thôi không nói về chuyện thần bí nữa. - Một người nào nữa kêu lên. - Hãy xem Ippolit ấy, số phận ông ta từ hôm nay ra sao!

    - Ngày mai bà vợ sẽ móc mắt ông ta ra về chuyện Mitia.

    - Bà ta có đây không?

    - Có đây để làm gì? Bà ta mà có đây thì bà ta móc mắt luôn. Bà ta ngồi nhà, đau răng. Hê-hê-hê!

    - Hê-hê-hê!

    Trong nhóm thứ ba:

    - Nhưng có lẽ Mitia sẽ được tha bổng.

    - Thể thì gay, ngày mai anh ta sẽ phá tan tành quán "thủ đô", sẽ say sưa mười ngày liền.

    - Đúng thật là con quỷ, không thể thiếu quý được, nó còn ở đâu, nếu không phải ở đây.

    - Thưa quý vị, cứ cho là hùng biện đi. Nhưng không thể đập bể đầu cha mà không bị trừng phạt. Nếu không thì chúng ta sẽ đi đến đâu?

    - Cỗ xe, cỗ xe, các vị nhớ chứ?

    - Phải, người ta biến cỗ xe tải thành xe trận.

    - Ngày mai người ta lại biến xe trận thành xe tải, "tuỳ theo sự cần thiết, tất cả là tuỳ sự cần thiết".

    - Người ta trở nên láu cá. Ở nước Nga chúng ta có sự thật không, thưa quý vị, có hay không?

    Chuông lại rung. Các hội thẩm bàn bạc đúng một giờ, không hơn, không kém. Im lặng như tờ, chỉ có công chúng lại ngồi xuống. Tôi nhớ, các bồi thẩm vào phòng. Rốt cuộc đã kết thúc! Tôi sẽ không nêu câu hỏi từng điểm một, vả lại tôi cũng quên mất rồi. Tôi chỉ nhớ câu trả lời thứ nhất và câu hỏi chính thức của chánh án là "có giết người với mục đích cố ý cướp của không?" (văn bản tôi không nhớ). Tất cả lặng đi. Người đứng đầu đoàn bồi thẩm, chính là ông viên chức trẻ nhất, lớn tiếng tuyên bố rành rọt trong bầu không khí yên lặng như tờ:

    - Có, có tội!

    Tiếp đó, về tất cả mọi điểm đều như vậy: có tội, không mảy may giảm nhẹ! Thật không ai ngờ, ít ra hầu hết mọi người đều tin là sẽ được giảm nhẹ. Trong phòng vẫn im ắng như tờ, đúng là mọi người đều sững sờ, cả những người khát khao trừng phạt, cả những người khát khao tha bổng. Nhưng đấy chỉ là những phút đầu. Rồi đến sự hỗn loạn khủng khiếp. Trong nam giới nhiều người hể hả. Một số người thậm chí xoa tay, không che giấu sự vui sướng. Những người bất bình dù có vẻ chán nản, nhún vai, thì thầm, nhưng dường như vẫn chưa hiểu. Nhưng lạy Chúa tôi, chuyện gì xảy ra với các bà của chúng ta! Tôi nghĩ rằng họ nổi loạn. Thoạt đầu họ dường như không tin tai mình, bỗng nhiên, có những tiếng kêu vang khắp phòng: "Thế là thế nào? Còn chuyện gì nữa thế này?". Họ bật dậy. Chắc họ tưởng lúc này vẫn có thể thay đổi và làm lại tất cả. Lúc ấy Mitia đứng phắt dậy và gào thét bằng giọng xé lòng xé ruột, giang hai tay về phía trước.

    - Thề có Chúa và toà phán xét cuối cùng của Chúa, tôi không làm đổ máu cha tôi! Katia, tôi tha thứ cho cô! Hỡi các em và bạn bè, hãy thương người phụ nữ kia!

    Chàng không nói hết đã khóc ầm lên, khóc ghê gớm, giọng không còn là giọng của mình nữa, mà là giọng mới mẻ, bất ngờ, chỉ có Chúa biết được tại sao chàng có cái giọng như thế. Trên lan can ở phía trên, tận cuối phòng vang lên tiếng rú thất thanh của phụ nữ: đấy là Grusenka. Nàng đã cầu van ai đó và được vào phòng xử từ trước cuộc tranh cãi tại toà. Người ta đưa Mitia ra.

    Việc tuyên án để sang ngày mai. Cả phòng đứng dậy trong sự hỗn độn, nhưng tôi không chờ và không nghe nữa. Tôi chỉ nhớ mấy câu khi đã ở bậc thèm lồi ra.

    - Hai mươi năm hầm mỏ.

    - Không ít hơn đâu.

    - Phải, cánh mugich của chúng ta đã tự bảo vệ mình.

    - Và đã kết liễu đời Mitenka của chúng ta!


  6. #105
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Phần kết
    Chương 1

    Dự tính cứu Mitia
    Sang ngày thứ năm sau phiên toà xử Mitia, sáng sớm, mới chín giờ, Aliosa đã đến Ekaterina Ivanovna để thoả thuận dứt khoát về một việc hết sức quan trọng đối với cả hai và ngoài ra còn có một việc khác được uỷ thác. Nàng ngồi nói chuyện với anh ngay trong căn phòng mà trước đây nàng đã tiếp Grusenka; bên cạnh, trong một phòng khác, Ivan Fedorovich lên cơn sốt nằm mê man. Ngay sau việc xảy ra ở toà án, nàng cho đưa Ivan Fedorovich đã ngất đi về nhà mình, bất chấp mọi lời dị nghị không tránh khỏi và sự chê trách của dư luận. Một trong hai người họ hàng ở với nàng ngay sau phiên toà lập tức về Moskva, người kia ở lại. Nhưng chodù cả hai ra đi, Ekaterina Ivanovna cũng sẽ không thay đổi quyết định và sẽ ở lại chăm sóc người ốm, ngồi bên chàng suốt ngày đêm. Varvinsky và Gherxenstube chữa cho chàng; vị bác sĩ Moskva ra về, không chịu cho biết bệnh sẽ kết thúc ra sao. Các bác sĩ còn lại tuy khuyến khích Ekaterina Ivanovna và Aliosa, nhưng rõ ràng họ chưa thể cho một hy vọng chắc chắn. Aliosa đến thăm anh ngày hai lần. Nhưng lần này anh có việc đặc biệt phiền toái, anh linh cảm thấy sẽ rất khó nói, trong khi đó anh rất vội: sáng hôm ấy anh có việc khác khẩn thiết ở một chỗ khác và phải gấp lên. Hai người nói chuyện đã mười lăm phút. Ekaterina Ivanovna mặt tái nhợt, mệt lắm, đồng thời kích động một cách bệnh hoạn: nàng linh cảm thấy lần này Aliosa đến nàng có việc gì.

    - Về cách giải quyết việc ấy thì chú đừng lo. - Nàng nói với vẻ bền bỉ kiên quyết. - Dù thế nào đi nữa thì anh ấy sẽ phải chọn lối thoát ấy: anh phải chạy trốn. Con người bất hạnh ấy, người anh hùng ấy của danh dự và lương tâm không phải là Dmitri Fedorovich, mà là người đang nằm sau cánh cửa này và hy sinh bản thân mình cho anh ruột. - Katia nói thêm, mắt sáng quắc. - Ivan đã cho tôi biết từ lâu toàn bộ kế hoạch chạy trốn. Chú biết không, Ivan đã tìm mối manh… Tôi đã cho chú biết một phần… Chú ạ, nhiều phần chắc là chuyện ấy sẽ xảy ra vào chặng thứ ba khi đoàn tù khổ sai được đưa đi Sibir. Ôi, đến đấy còn xa lắm. Ivan Fedorovich đã đến gặp người thủ trưởng chặng thứ ba. Chỉ chưa biết người cầm đầu đoàn tù, vả lại cũng không thể biết trước được. Ngày mai có lẽ tôi sẽ cho chú xem toàn bộ kế hoạch tỉ mỉ mà Ivan đã để lại cho tôi trước khi mở phiên toà, để phòng xa… Chú nhớ chứ, đấy chính là lần buổi tối chú bắt gặp chúng tôi cãi nhau: anh đang xuống cầu thang, còn tôi, thấy chú, tôi bắt anh quay trở lại - chú nhớ chứ? Chú biết vì sao hồi ấy chúng tôi cãi nhau không?

    - Không, tôi không biết. - Aliosa nói.

    - Cố nhiên, hối đó Ivan giấu chú: chính vì kế hoạch chạy trốn ấy. Ba ngày trước đó anh ấy cho tôi biết tất cả những điểm chính - từ đó chúng tôi bắt đầu cãi nhau và cãi nhau suốt ba ngày. Chúng tôi, cãi nhau là vì khi Ivan tuyên bố với tôi rằng nếu Dmitri Fedorovich bị kết án, Dmitri sẽ trốn ra nước ngoài cùng với con kia thì tôi bỗng nổi khùng lên, chính tôi không thể nói cho chú biết là vì sao, bởi chính tôi cũng chẳng biết vì sao… Ôi, cố nhiên là vì con súc sinh kia, vì con súc sinh kia mà tôi nổi cáu, chính là vì nó cùng Dmitri Fedorovich trốn ra nước ngoài! - Ekaterina Ivanovna kêu lên, môi run run vì tức giận. - Thấy tôi nổi cáu vì con kia, Ivan Fedorovich lập tức nghĩ rằng tôi ghen với Dmitri về nó tức là tôi vẫn yêu Dmitri. Thế là nảy ra cuộc cãi cọ đầu tiên. Tôi không muốn thanh minh, tôi không thể xin lỗi; tôi đau lòng vì người như Ivan có thể ngờ tôi vẫn yêu người kia như trước Vậy mà trước đó đã lâu, chính tôi đã nói thẳng với Ivan rằng tôi không yêu Dmitri, mà chỉ yêu anh ấy thôi! Chỉ vì tức tối con kia mà tôi cáu cả với anh ấy. Ba ngày sau, vào buổi tôi chú đến, Ivan mang đến cho tôi một phong bì niêm phong để tôi mở ra đọc nếu có chuyện gì xảy ra với anh ấy. Ôi, anh ấy nhìn thấy trước bệnh của mình! Anh ấy bộc lộ với tôi rằng trong phong bì có kế hoạch chi tiết về việc trốn tù và nếu anh ấy chết hay ốm nặng thì một mình tôi cứu Mitia. Anh ấy để lại luôn tiền cho tôi, ngót mười ngàn rúp, chính là số tiền mà ông biện lý đã được một người nào đó cho biết anh ấy gửi đi để đổi và ông ta đã nhắc đến khi phát biểu. Một điều khiến tôi rất đỗi sửng sốt là Ivan Fedorovich vẫn ghen với tôi và vẫn tin chắc rằng tôi yêu Mitia, nhưng vẫn không từ bỏ ý nghĩ cứu anh và giao cho chính tôi thực hiện việc đó! Ôi, đấy là sự hy sinh! Không, chú không hiểu hết được sự hy sinh như thế đâu, Alecxei Fedorovich ạ! Tôi muốn sụp xuống chân anh ấy tỏ lòng tôn kính, nhưng tôi bỗng nghĩ rằng anh ấy sẽ coi đấy là tôi vui sướng vì Mitia được cứu thoát (nhất định anh ấy sẽ nghĩ như vậy!). Tôi bực tức chỉ vì anh ấy có thể có ý nghĩ bất công đến như thế, thành thử đáng lẽ hôn chân anh ấy, tôi lại gây sự! Ôi, tôi thật khốn khổ! Tính tôi nó như thế, tính nết kinh khủng, khốn khổ! Ôi, rồi chú sẽ thấy: tôi sẽ làm cho anh ấy đi đến chỗ bỏ tôi theo một phụ nữ khác mà với người đó anh ấy dễ sống hơn, như Dmitri, nhưng khi ấy… Không, khi ấy tôi sẽ không chịu đựng nổi, tôi sẽ tự sát! Khi chú đến, còn tôi gọi chú và bảo anh ấy quay trở lại, anh ấy cùng vào với chú thì tôi tức giận vì luồng mắt căm thù, khinh miệt của anh ấy nhìn tôi đến nỗi chú nhớ chứ, tôi thét lên rằng anh ấy, chỉ mình anh ấy cả quyết với tôi rằng anh Dmitri là kẻ giết người! Tôi cố ý nói ra để chọc tức Ivan lần nữa, chứ anh ấy chưa bao giờ cả quyết với tôi như thế, mà trái lại, chính tôi nói chắc với anh ấy điều đó! Ôi, tất cả là tại tính điên rồ của tôi! Chính là tôi, tôi đã chuẩn bị cái cảnh đáng nguyền rủa ấy tại toà! Ivan muốn chứng minh với tôi rằng anh ấy cao quý và mặcdù tôi yêu anh của anh ấy, anh ấy vẫn không hãm hại anh mình để trả thù vì ghen tuông. Vì thế mà anh ấy ra toà… Tôi gây ra tất cả, lỗi chỉ tại tôi!

    Chưa bao giờ Katia thú nhận như thế với Aliosa và anh cảm thấy lúc này nàng đau khổ không thể chịu đựng nổi, khi trái tim kiêu hãnh nhất đau đớn tiêu diệt sự kiêu hãnh của mình và rơi xuống, chịu thua vì đau xót. Ôi, Aliosa còn biết một nguyên nhân nữa của nỗi đau khổ hiện nay, mặc đù nàng hết sức giấu anh trong tất cả những ngày sau khi Mitia bị kết án. Nhưng không hiểu sao anh sẽ quá đau lòng nếu như nàng quyết nằm sấp mặt xuống đất và lúc này, giây lát này, tự nàng nói với anh về nguyên nhân ấy. Nàng đau khổ về "sự phản bội" của mình tại toà, và Aliosa linh cảm thấy rằng lương tâm thôi thúc nàng nhận lỗi chính là nhận lỗi trước anh, Aliosa, khóc lóc, kêu gào, loạn thần kinh, đập đầu xuống sàn. Nhưng anh sợ giây lát ấy và muốn tha thứ cho người phụ nữ đang đau khổ. Việc mà anh được giao phó đến đây càng khó khăn hơn. Nàng lại bắt đầu nói về Mitia.

    - Không sao, không sao, đừng sợ cho Mitia! - Katia lại bắt đầu một cách ương bướng và gay gắt, - Mitia chỉ như thế một lúc thôi, tôi biết anh ấy, tôi biết quá rõ trái tim ấy. Hãy tin chắc rằng Mitia đồng ý đi trốn. Cái chính là không phải bây giờ, sẽ đến lúc Mitia quyết định. Đến lúc ấy Ivan Fedorovich sẽ bình phục và tự mình sẽ khu xử hết, thành thử tôi sẽ chẳng phải làm gì cả. Đừng lo, Mitia sẽ bằng lòng chạy trốn. Vả lại Mitia ưng thuận thôi: Mitia có thể nào bỏ lại ả kia của mình? Người ta sẽ không cho ả theo đến chỗ khổ sai, vậy thì tại sao anh ta lại không bỏ trốn? Cái chính là anh ta sợ chú, sợ chú không tán thành việc trốn tù về phương diện đạo đức, nhưng chú phải rộng lòng cho phép anh ta trốn tù, nếu sự phê chuẩn của chú cần thiết đến vậy, - Katia nói thêm một cách độc địa. Nàng im lặng một lúc và nhếch mép cười.

    - Anh ta nói về thánh ca, - nàng lại bắt đầu, - về cây thập giá mà anh ta phải mang, về bổn phận nào đó, tôi nhớ Ivan Fedorovich đã nói nhiều với tôi về điều đó, giá chú biết anh ấy nói như thế nào! - Katia bỗng kêu lên với tình cảm mãnh liệt; - giá chú biết lúc đó Ivan yêu người anh bất hạnh biết chừng nào khi anh ấy nói với tôi về Mitia, mà có lẽ cùng rất căm ghét Mitia! Còn tôi, tôi đã nghe anh ấy kể và khóc, nhếch mép cười kiêu hãnh! Ôi, thú vật! Tôi là thú vật,! Tôi đã làm cho anh ấy phát sốt phát nóng! Còn kẻ bị kết án, chẳng lẽ anh ta sẵn sàng chịu đau khổ sao. - Katia tức giận kết luận. - Kẻ như thế có biết đau khổ không? Những kẻ như Mitia không bao giờ biết đau khổ.

    Những lời đó chứa đựng lòng căm thù, sự khinh miệt ghê tởm nào đó. Thế nhưng nàng đã phản bội Mitia. "Phải thôi, có lúc nàng cảm thấy rất có lỗi với anh Mitia, nên có lúc nàng căm thù, anh ấy" - Aliosa nghĩ bụng. Anh muốn đấy chỉ là "có lúc". Trong những lời cuối cùng của Mitia, anh nghe thấy sự thách thức, nhưng không nêu ra.

    - Hôm nay tôi mời chú lại để chú hứa với tôi sẽ thuyết phục Mitia. Hay theo ý chú, chạy trốn cũng là không ngay thẳng, không dũng cảm hay là… không đúng tinh thần Kito giáo, phải thế không? - Katia nói thêm, càng có vẻ khiêu khích hơn.

    - Không, không sao. Tôi sẽ nói hết với Mitia… - Aliosa ấp úng. - Anh ấy mời chị hôm nay vào thăm anh ấy! - Anh bỗng nói thẳng tuột, kiên quyết nhìn vào mắt nàng. Nàng giật mình và hơi nhích ra xa anh một chút trên đi văng.

    - Tôi à?… Như thế có thể được không? - Nàng lắp bắp, mặt tái đi.

    - Có thể và cần phải như vậy! - Aliosa vẫn bền bỉ và tươi tỉnh hẳn lên. - Anh ấy rất cần chị, chính là bây giờ. Tôi sẽ không nói với chị về chuyện đó và làm chị đau khổ quá sớm, nếu không cần thiết. Anh ấy ốm, như người mất trí, luôn luôn đòi mời chị đến. Anh ấy mời chị đến không phải để giải hoà, miễn là chị đến, đứng ở ngưỡng cửa. Từ hôm ấy có nhiều điều đã xảy ra với anh ấy. Anh ấy hiểu là anh ấy có lỗi vô cùng với chị. Anh ấy không muốn xin tha thứ: "Không thể tha thứ cho tôi được" - chính anh ấy nói, chỉ cần chị đến đứng ở ngưỡng cửa…

    - Chú nói với tôi đột ngột quá… - Katia lắp bắp. - Trong tất cả những ngày qua tôi vẫn cảm thấy chú sẽ đến đưa ra đề nghị ấy… Tôi vẫn biết rằng anh ấy sẽ mời tôi đến!… Không thể được đâu!

    - Không thể được nhưng chị vẫn cứ làm đi. Chị nên nhớ rằng lần đầu tiên anh ấy sửng sốt vì đã xúc phạm chị như thế, lần đầu tiên trong đời, trước kia chưa bao giờ anh ấy hiểu điều đó đầy đủ như vậy! Anh ấy nói: nếu như cô ấy không chịu tới thì "bây giờ tôi sẽ suốt đời không có hạnh phúc". Chị nghe đây: một người đi tù khổ sai hai mươi năm mà còn dự tính sẽ có hạnh phúc, đáng thương không? Chị nghĩ xem: chị đến thăm một người vô tội bị huỷ hoại cuộc đời, - Aliosa buột ra với giọng thách thức, - tay anh ấy sạch sẽ, không hề vấy máu! Vì những đau khổ vô lượng của anh ấy trong tương lai, chị nên đến thăm anh ấy! Chị hãy đến dẫn dắt anh ấy trong tối tăm… hãy đến đứng trên ngưỡng cửa, chỉ thế thôi. Chị phải làm, phải làm việc đó! - Aliosa kết luận, nhấn rất mạnh tiếng "phải làm".

    - Phải làm, nhưng tôi không thể làm được, - Katia dường như rền rĩ. - Anh ấy sẽ nhìn tôi… tôi không thể chịu đựng nổi.

    - Mắt anh chị phải gặp nhau. Nếu bây giờ chị không quyết thì suốt đời chị sẽ sống thế nào?

    - Thà đau khổ suốt đời còn hơn.

    - Chị phải đến, chị phải đến. - Aliosa lại nhấn mạnh một cách khắc nghiệt.

    - Nhưng tại sao lại hôm nay, tại sao lại ngay bây giờ?… Tôi không thể bỏ người ốm ở lại được…

    - Chị có thể đến một phút, chỉ một phút thôi. Nếu chị không đến, đêm nay Mitia có thể lên cơn sốt mê sảng. Tôi không nói dối đâu, chị nên thương anh ấy.

    - Chú nên thương tôi. - Katia trách móc chua xót và oà khóc.

    - Vậy là chị sẽ đến - Aliosa cương quyết nói khi thấy nhưng giọt nước mắt của nàng. - Tôi sẽ đi nói với anh ấy rằng bây giờ chị sẽ đến.

    - Không, nhất quyết đừng nói! - Katia sợ hãi kêu lên. - Tôi sẽ đến, nhưng chú đừng nói trước với anh ấy, bởi vì tôi sẽ đến, nhưng có lẽ sẽ không vào… Tôi vẫn chưa biết… tiếng nói của nàng đứt đoạn. Nàng thở nặng nhọc. Aliosa đứng dậy ra về.

    - Ngộ nhỡ ở đấy tôi sẽ còn gặp người nào nữa thì sao? - Nàng bỗng khẽ nói, mặt lại tái nhợt đi.

    - Cần làm sao để chị không gặp ai cả. Sẽ không có ai đâu, chị nên đi ngay đi. Chúng tôi sẽ đợi. - Aliosa khăng khăng kết luận và ra khỏi phòng.

  7. #106
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 2

    Trong chốc lát sự dối trá thành sự thật
    Anh vội đến bệnh viện, bây giờ Mitia nằm ở đấy. Sang ngày thứ hai sau khi toà phán quyết, anh mắc bệnh sốt nóng thần kinh và được đưa vào bệnh viện thành phố, khu điều trị người bị giam. Nhưng theo yêu cầu của Aliosa và nhiều người khác (Khokhlakova, Liza và vân vân), bác sĩ Varvinsky không để Mitia ở chỗ những người bị bắt giam, mà cho nằm riêng, trong căn phòng trước kia Xmerdiakov đã nằm. Kể ra ở cuối hành lang có lính gác, cửa sổ có chấn song sắt, và Varvinsky có thể yên tâm về ân huệ không hợp pháp lắm của mình, nhưng ông ta còn trẻ, tốt bụng và giàu lòng trắc ẩn. Ông ta hiểu một người như Mitia đột nhiên lọt vào đám những kẻ giết người và bịp bợm thì thật khổ tâm và trước hết phải tập cho quen. Họ hàng và người quen đến thăm phải có phép của bác sĩ, cả giám ngục, cả cảnh sát, tất cả đều trong tầm tay. Nhưng trong những ngày ấy chỉ có Aliosa và Grusenka đến thăm. Hai lần Rakitin tìm cách vào thăm: nhưng Mitia nài nỉ Varvinsky đừng cho vào.

    Aliosa thấy anh ngồi trên giường, mặc áo choàng bệnh viện, hơi sốt, đầu quấn chiếc khăn nhúng nước pha giấm. Mitia nhìn Aliosa bước vào bằng cái nhìn vu vơ, dường như nghiền ngẫm điều gì một cách đau khổ và gay go, quên người mới vào. Nếu chàng ra khỏi trạng thái trầm tư và bắt đầu nói thì bao giờ cũng là bất ngờ và nhất định không phải về điều mà chàng thực sự cần nói. Đôi khi chàng đau khổ nhìn em. Gặp Grusenka, chàng dường như thoải mái hơn gặp Aliosa. Thực ra chàng hầu như không nói gì với nàng, nhưng hễ nàng vào, mặt chàng bừng lên niềm vui sướng. Aliosa lẳng lặng ngồi xuống cạnh anh trên giường. Lần này chàng lo lắng chờ Aliosa, nhưng không dám hỏi gì cả. Chàng cho rằng Chúa không đời nào chịu đến, đồng thời chàng cảm thấy nếu nàng không đến thì chàng sẽ không thể nào chịu đựng nổi. Aliosa hiểu tình cảm của anh.

    - Trifon Borisovich, - Mitia vội vã nói, - nghe nói đã làm tan hoang cả quán trọ của y: y lật cả sàn nhà, bóc ván, phá nát cả "lan can" để tìm của, chính là số tiền ngàn rưởi mà viên biện lý nói là tôi giấu ở đó. Nghe nói về đến nhà là hắn làm ngay. Đáng đời thằng bịp bợm! Hôm qua người lính gác ở đây kể cho tôi, anh ta từ nơi ấy đến.

    - Này, - Aliosa thốt lên, - chị ấy sẽ đến, nhưng không biết khi nào, có lẽ hôm nay, có lẽ một vài ngày nữa, tôi không biết, nhưng sẽ tới, sẽ tới, đấy là điều chắc chắn.

    Mitia giật mình, muốn thốt lên điều gì, nhưng im lặng. Tin ấy tác động mạnh đến chàng. Rõ ràng chàng đau khổ muốn biết chi tiết cuộc nói chuyện, nhưng lại sợ hỏi lúc này: có cái gì tàn bạo và khinh miệt từ Katia như mũi dao đâm vào chàng lúc này.

    - Ngoài ra chị ấy nói: nhất định tôi sẽ làm cho lương tâm anh ấy yên ổn về việc chạy trốn. Nếu đến lúc ấy Ivan không bình phục thì chính tôi sẽ lo liệu.

    - Chú đã nói chuyện ấy với tôi rồi. - Mitia trầm ngâm nói.

    - Còn anh đã kể lại với Grusa. - Aliosa nhận xét.

    - Phải. - Mitia thú nhận, - sáng hôm nay Grusenka sẽ không đến, - chàng rụt rè nhìn em. - Chiều nàng mới đến. Hôm qua khi tôi vừa nói với nàng rằng Katia sẽ hành động, nàng im lặng, rồi bĩu môi. Nàng chỉ thì thầm: "Mặc nó!" Nàng hiểu đây là việc quan trọng. Tôi không dám thử hơn nữa. Hình như bây giờ nàng hiểu rằng Katia yêu Ivan, chứ không phải yêu tôi.

    - Thật ư? - Aliosa buột ra.

    - Có lẽ, mà cũng không phải như thế. Có điều sáng nay nàng sẽ không đến. - Mitia vội vã cho biết lần nữa. - Tôi giao cho nàng một việc… Chú này, Ivan hơn tất cả chúng ta. Chú ấy phải sống, chứ không phải chúng ta. Chú ấy sẽ khỏe lại.

    - Anh tưởng tượng xem, Katia tuy lo sợ cho anh ấy, nhưng hầu như không nghi ngờ gì rằng anh ấy sẽ bình phục. - Aliosa nói.

    - Như vậy là nàng tin chắc rằng Ivan sẽ chết. Vì sợ hãi nên nàng mới tin là chú ấy sẽ khỏi.

    - Anh ấy tạng người khỏe mạnh. Tôi cũng rất hy vọng rằng anh ấy sẽ bình phục. - Aliosa nói với vẻ lo ngại.

    - Phải, chú ấy sẽ bình phục. Nhưng nàng tin chắc rằng chú ấy sẽ chết. Nàng đau xót nhiều…

    Bắt đầu im lặng. Mitia đau khổ vì một cái gì rất quan trọng.

    - Aliosa, tôi yêu Grusenka lắm lắm. - Chàng bỗng thốt lên bằng giọng run run đầy nước mắt.

    - Người ta không cho chị ấy đến đây đâu. - Aliosa nói ngay.

    - Tôi còn muốn nói với chú điều này nữa, - Mitia bỗng nói bằng giọng âm vang, - nếu ở dọc đường hay ở đấy người ta đánh tôi thi tôi sẽ không chịu đâu, tôi sẽ giết và sẽ bị bắn. Mà nhưng hai mươi năm trời! Ở đây chúng đã bắt đầu xưng mày tao với tôi anh gác gọi tôi là mày. Tôi nằm đây và suốt đêm tôi tự xét mình: tôi chưa sẵn sàng! Tôi không đủ sức tiếp nhận! Tôi muốn hát "thánh ca", tôi không thể chịu nổi lính gác xưng mày tao với tôi. Vì Grusa tôi chịu đựng hết, chịu đựng hết… trừ việc đánh đập. Nhưng người ta sẽ không cho nàng đến đây.

    Aliosa mỉm cười dịu dàng.

    - Này anh ơi, hãy nghe một lần và nhớ mãi, - Aliosa nói, - đây là ý nghĩ của tôi về việc đó. Anh biết rằng tôi sẽ không nói dối anh. Anh nghe đây: anh chưa sẵn sàng, cây thập giá như thế không phải để cho anh. Ngoài ra, anh không cần nó, anh chưa sẵn sàng mang cây chập giá tuẫn đạo ghê gớm như thế. Nếu anh giết cha thì tôi sẽ lấy làm tiếc rằng anh không chịu mang cây thập giá của mình. Nhưng anh vô tội, mà cây thập giá như thế đối với anh là quá đáng. Anh muốn qua đau khổ làm sống lại trong anh nốt con người khác. Theo tôi, chỉ cần anh luôn luôn nhớ đến con người khác đó. Suốt đời, bất kể anh trốn đi đâu, với anh như thế là đủ. Việc anh không chấp nhận khổ hình, thập giá lớn lao ấy sẽ chỉ giúp anh cảm thấy anh mang trong mình một bổn phận càng lớn lao hơn và từ nay, cảm giác ấy sẽ suốt đời giúp anh phục sinh, có lẽ còn hơn là anh đến đâu bởi vì ở đấy anh sẽ không chịu đựng nổi và sẽ than vãn, cuối cùng anh sẽ nói: "Thế là ta xong nợ". Trong trường hợp này luật sư nói đúng. Không phải ai cũng mang được gánh nặng như thế, một số người không mang nổi… Còn tôi nghĩ thế nào, nếu anh rất cần biết thì tôi xin nói. Nếu anh trốn đi mà những người khác phải chịu trách nhiệm: sĩ quan, binh lính thì tôi sẽ nói với anh rằng "tôi không cho phép" anh chạy trốn. - Aliosa mỉm cười. - Nhưng người ta nói và cam đoan (chính người đứng đầu đội áp giải nói với Ivan) rằng biết thu xếp thì có thể không bị trừng phạt nặng, có thể không khó khăn gì mà êm việc. Cố nhiên mua chuộc là bất chính ngay cả trong trường hợp này, nhưng tôi sẽ không xét đoán gì cả, bởi vì thực ra, nếu Katia và Ivan giao cho tôi lo liệu việc này vì anh thì tôi biết rằng tôi cũng sẽ mua chuộc; tôi phải nói hết sự thật với anh. Cho nên tôi không có quyền phán xét hành động sắp tới của anh: nhưng anh nên biết rằng tôi sẽ không bao giờ lên án anh. Với lại, làm sao có chuyện lạ lùng là tôi có thể phán xét anh trong chuyện này? Thế là bây giờ dường như tôi đã xem xét đủ hết rồi đấy.

    - Nhưng tôi tự lên án mình! - Mitia kêu lên. - Tôi sẽ trốn tù, điều đó đã được quyết định không có chú: Mitka Karamazov có thể nào không chạy trốn? Nhưng tôi tự lên án và tôi sẽ suốt đời chuộc lỗi ở đấy! Các tu sĩ dòng Tên nói như vậy phải không, phải thế không? Như tôi nói với chú bây giờ, phải không?

    - Đúng vậy. - Aliosa mỉm cười dịu dàng.

    - Tôi yêu chú vì bao giờ chú cũng nói hết sự thật, không giấu giếm gì cả! - Mitia cười sung sướng, kêu lên. - Như vậy tôi bắt chộp được Aliosa của tôi là một tu sĩ dòng Tên rồi! Cần hôn chú về việc đó thế đấy! Nào, bây giờ như phần còn lại nhé, tôi sẽ phơi bày với chú nửa còn lại của tâm hồn tôi. Tôi tưởng tượng và quyết định thế này: Nếu tôi trốn đi, chodù có tiền và hộ chiếu và thậm chí sang Mỹ thì điều khích lệ tôi là ý nghĩ rằng trốn đi không phải để hưởng vui sướng, để hưởng hạnh phúc, mà thực sự là chịu loại khổ sai khác, có lẽ không kém loại khổ sai này! Không kém hơn đâu, Alecxei ạ, tôi nói thực là không kém hơn đâu! Tôi biết nước Mỹ ấy, quỷ xé xác nó ra, bây giờ tôi đã căm ghét nó. Chodù là Grusenka sẽ đi với tôi, nhưng hãy nhìn xem: nàng có phải là một phụ nữ Mỹ không? Nàng là người Nga, Nga đến tận xương tuỷ, nàng sẽ nhớ nước mẹ, còn tôi sẽ từng giờ nhìn thấy nàng vì tôi mà nhớ nhung, vì tôi mà mang cây thập giá ấy, mà nàng có tội gì? Còn tôi, liệu tôi có chịu đựng nổi những tên nông dân ở đấy không, mặcdù tất cả bọn chúng đều tốt hơn tôi? Bây giờ tôi đã căm ghét nước Mỹ ấy rồi! Mà chodù tất cả bọn họ đều là những nhân viên kỹ thuật tuyệt trần hay gì gì đi nữa thì cũng mặc xác họ, họ không phải là người của tôi, không có tâm hồn như tôi! Tôi yêu nước Nga, Alecxei ạ, tôi yêu Thượng đế Nga, tuy bản thân tôi là thằng đểu giả! Ở đấy tôi sẽ chết mất! - chàng bỗng kêu lên, mắt long sòng sọc, tiếng nói của chàng run lên vì nước mắt. Tôi đã quyết định như thế đấy, Alecxei ạ, nghe đây! - Chàng lại bắt đầu, cổ nén xúc động. - Tôi sẽ cùng Grusa đến đấy, ở đấy tôi sẽ cày ruộng, làm lụng với những con gấu hoang dã, ở nơi cô quạnh, ở một vùng xa xôi. Ở đấy cũng sẽ có một vùng xa xôi! Nghe nói ở đấy còn có những người da đỏ, ở một nơi cùng tận của chân trời, nơi có những người Mohikan cuối cùng. Và lập tức bắt đầu học ngữ pháp, tôi và Grusa. Làm việc và học ngữ pháp, như vậy ba năm. Trong ba năm chúng tôi sẽ học được tiếng Anh như chính người Anh. Chỉ khi đã thành thạo tiếng Anh chúng tôi sẽ từ bỏ nước Mỹ! Chúng tôi sẽ trở về đây, về Nga, với tư cách là công dân Mỹ. Chú dừng lo, chúng tôi sẽ không về thành phố này đâu. Chúng tôi sẽ náu mình ở một nơi nào xa, ở miền Bắc hay miền Nam. Đến lúc ấy tôi sẽ thay đổi, nàng cùng thế, ở Mỹ bác sĩ sẽ làm cho tôi một nốt ruồi, họ là thợ cơ khí mà. Mà không, tôi sẽ tự chọc thủng một mắt tôi sẽ để bộ râu dài một arsin, bộ râu bạc (bạc vì nhớ người Nga), có lẽ người ta sẽ không nhận ra. Nếu người ta nhận ra thì cứ việc đưa tôi đi đầy, mặc kệ, ấy là số kiếp. Ở đây tôi cũng sẽ cày đất ở một vùng hẻo lánh nào đó, suốt đời tôi vẫn làm như mình là người Mỹ. Nhưng chúng tôi sẽ chết trên đất quê hương. Đấy là kế hoạch của tôi, nhất quyết là như thế. Chú tán thành chứ?

    - Tôi tán thành. - Aliosa nói, không muốn cãi lại anh.

    Mitia dừng một lát rồi lại nói:

    - Ở toà người ta đã chơi khăm tôi như thế nào? Chơi đến ác!

    - Nếu như không có chuyện ấy thì anh vẫn bị kết án. - Aliosa thở dài, nói.

    - Phải, tôi đã làm công chúng ở đây chán ngấy! Thôi mặc họ, nhưng nghĩ thực đau lòng! - Mitia rên rỉ đau khổ.

    Lại im lặng một lát.

    - Aliosa, chú giết tôi ngay đi! - Chàng bỗng kêu lên. - Cô ấy có đến bây giờ hay không, nói đi! Cô ấy nói gì? Cô ấy nói gì?

    - Chị ấy bảo rằng sẽ đến, nhưng tôi không biết hôm nay có đến không. Chị ấy khổ tâm lắm! - Aliosa rụt rè nhìn anh.

    - Không thể nào được, tất nhiên là khổ tâm rồi! Aliosa ạ, tôi đến phát điên mất. Grusa vẫn cử nhìn tôi hoài. Cô ấy hiểu. Lạy Chúa tôi, xin hãy làm cho tôi yên tâm: tôi đòi hỏi gì? Đòi hỏi Katia. Tôi có hiểu tôi đòi hỏi gì không? Thói bất kham nhà Karamazov, sự thiếu sùng kính! Không, tôi không có khả năng đau khổ! Thằng đểu cáng, có vậy thôi!

    - Chị ấy kia rồi! - Aliosa kêu lên.

    - Lúc ấy Katia đột nhiên xuất hiện trong ngưỡng cửa. Nàng dừng lại trong khoảnh khắc, nhìn Mitia bằng cặp mắt lơ đãng.

    Chàng đứng phắt dậy, mặt chàng lộ vẻ sợ hãi. Chàng tái nhợt đi, nhưng lập tức rụt rè, nụ cười cầu khẩn thấp thoáng trên môi chàng, bỗng nhiên, không sao cưỡng lại được, chàng chìa cả hai tay về phía Katia. Thấy thế, nàng đâm bổ đến với chàng. Nàng nắm lấy hai tay chàng và gần như dùng sức kéo chàng ngồi xuống giường, tự nàng ngồi xuống bên chàng và vẫn không buông tay chàng, xiết chặt lấy như tay bị co rút. Mấy lần nàng toan nói gì, nhưng dừng lại và im lặng, cả hai mỉm cười kỳ lạ, chăm chú nhìn nhau không dứt. Hai phút cứ thế trôi qua.

    - Em có tha thứ hay không? - Cuối cùng Mitia lắp bắp và lập tức quay về phía Aliosa, mặt méo đi vì sung sướng, hét lên với anh:

    - Chú có nghe thấy tôi hỏi không, có nghe thấy không?

    - Em yêu anh vì anh có tấm lòng hào hiệp! - Katia bỗng buột ra. - Anh không cần sự tha thứ của em, em cũng không cần sự tha thứ của anh. Dù có tha thứ hay không thì suốt đời, anh vẫn là cái ung nhọt trong tâm hồn em, mà em là cái ung nhọt trong tâm hồn anh, phải như thế thôi… - Nàng dừng lấy hơi. - Em đến đây để làm gì? - Nàng lại bắt đầu nới một cách kích động và vội vã. - để ôm chân anh, xiết chặt tay anh, xiết cho đến đau tay, anh nhớ hồi ở Moskva em đã xiết tay anh như thế nào chứ, để lại nói với anh rằng anh là Thượng đế của em, niềm vui sướng của em, để nói với anh rằng em yêu anh đến điên cuồng. - Nàng dường như rên rỉ trong dau khổ và đột nhiên thèm khát áp môi vào chàng. Nước mắt trào ra trên mắt nàng.

    Aliosa đứng yên lặng và bối rối; anh không hề chờ đợi sự thể lại như thế.

    - Tình yêu đã qua rồi, Mitia! - Katia lại bắt đầu nói. - Nhưng em quý trọng đến dau đớn những gì đã qua. Bây giờ anh nên biết điều đó và ghi nhớ suốt đời. Nhưng bây giờ, dù chỉ trong giây lát thôi, hãy để cho cái gì có thể xảy ra sẽ thành sự thật. - Nàng lắp bắp với nụ cười mếu máo, lại vui sướng nhìn vào ánh mắt chàng. - Bây giờ anh yêu một người khác, còn em yêu một người khác, nhưng dùsao em vẫn yêu anh suốt đời, anh cùng sẽ yêu em suốt đời, anh có biết điều đó hay không? Anh ạ hãy yêu em, suốt đời! - Nàng kêu lên, giọng run run gần như hăm doạ.

    - Anh sẽ yêu em, và… Katia ạ, - Mitia nói, cứ mỗi tiếng lại nghĩ lấy hơi, - em ạ, năm ngày trước, tối hôm ấy anh yêu em… Khi em ngã xuống và người ta mang em đi… Suốt đời! Sẽ cứ như thế. suốt đời…

    Cả hai cứ nhỏ to với nhau những lời gần như vô nghĩa và cuồng loạn, có lẽ thậm chí là giả dối, nhưng lúc ấy tất cả đều thực và bản thân họ tin là mình thật lòng.

    - Katia, - Mitia bỗng kêu lên, - em có tin rằng anh giết người không? Anh biết rằng em không tin nhưng khi ấy… khi khai trước toà… lẽ nào em tin, lẽ nào!

    - Ngay cả khi ấy em cũng không tin! Không bao giờ em tin! Em căm ghét anh và đột nhiên em tự bảo mình rằng, lúc ấy.… khi em khai… em cả quyết và em tin… Khai xong, em không tin nữa. Anh nên biết tất cả. Em quên rằng em đến để tự xử tội mình! - Nàng nói với vẻ khác hẳn, không giống những lời thỏ thẻ yêu đương ban nãy.

    - Cô khổ tâm lắm, cô ạ! - Mitia bỗng buột thốt lên, không gì kìm hãm nổi.

    - Thôi để em về - nàng ấp úng, - em sẽ còn đến nữa, bây giờ thì khổ tâm lắm…

    Nàng toan đứng dậy, nhưng đột nhiên kêu to lên một tiếng và lùi trở lại. Grusenka đột nhiên vào phòng, tuy đi rất khẽ. Chẳng ai ngờ nàng đến, Catia bước nhanh ra cửa, nhưng đi ngang qua Grusenka, nàng bỗng dừng lại, mặt trắng ra như phấn, và khe khẽ gần như thì thầm, rền rỉ nói:

    - Tha lỗi cho tôi!

    Grusenka nhìn thẳng vào mặt nàng, chờ giây lát, rồi trả lời bằng giọng cay độc, ác nghiệt:

    - Chúng ta đều độc ác, mẹ ạ! Cả hai ta đều độc ác! Chúng ta đâu có quyền tha thứ, cả cô lẫn tôi? Cô hãy cứu anh ấy, suốt đời tôi cầu nguyện cho cô!

    - Cô không muốn tha thứ! - Mitia quát lên với Grusenka giọng trách móc điên rồ.

    - Yên tâm, tôi sẽ cứu anh ấy cho cô! - Katia thì thầm nói nhanh và chạy ra khỏi phòng.

    - Em có thể không tha thứ cho cô ấy, khi cô ấy đích thân nói với em: "tha lỗi cho tôi"? - Mitia lại kêu lên một cách chua xót.

    - Anh Mitia, đừng trách chị ấy, anh không có quyền! - Aliosa sôi nổi lớn tiếng nói với anh.

    - Miệng cô ta nói những lời kiêu hãnh, chứ không phải trái tim cô ta, - Grusenka nói với giọng kinh tởm. - Cô ta mà giải thoát cho anh thì em sẽ tha thứ hết…

    Nàng im bặt, dường như đè nén cái gì trong lòng. Nàng vẫn chưa thể hồi tâm. Sau này mới biết nàng vào đây hoàn toàn tình cờ hoàn toàn không nghi ngờ gì, không ngờ sẽ có cuộc gặp gỡ vừa rồi.

    - Aliosa, chạy theo chị ấy! - Mitia vội nói với em. - Nói với chị ấy tôi không biết nên nói gì… đừng để chị ấy ra đi như thế!

    - Tôi sẽ trở lại với anh trước buổi tối! - Aliosa nói to và chạy theo Katia. Anh đuổi kịp nàng khi nàng đã ở ngoài bức tường bệnh viện. Nàng đi nhanh, vội vã, nhưng khi Aliosa vừa đuổi kịp nàng, nàng nói nhanh với anh:

    - Không, trước người phụ nữ ấy tôi không thể tự hành tội mình! Tôi nói với cô ta "hãy tha thứ cho tôi" bởi vì tôi muốn thẳng tay tự hành tội tôi. Cô ta không tha thứ. Vì thế tôi yêu cô ta! - Katia nói thêm, giọng lạc hẳn đi, mắt nàng loé lên niềm hằn học man rợ.

    - Anh tôi hoàn toàn không ngờ. - Aliosa ấp úng. - Anh ấy tin chắc rằng Grusenka không đến…

    - Hẳn rồi. Ta sẽ gác chuyện ấy lại. - Nàng ngắt lời. - Này, bây giờ tôi không thể cùng chú đến dự đám tang. Tôi đã gửi hoa đến viếng, tiền thì hình như họ vẫn còn. Nếu cần dù cứ nói, sau này tôi sẽ không bao giờ bỏ rơi họ… Bây giờ thì để tôi yên, xin để tôi yên. Chú đến muộn mất rồi đấy, chuông buổi lễ cuối đang đổ… Thôi, xin buông tha tôi!


  8. #107
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 3

    Đám tang Iliusa. Diễn từ bên tảng đá
    Aliosa đến muộn thật. Người ta đợi anh và đã quyết định không chờ nữa, cứ đưa chiếc quan tài nhỏ xinh xắn phủ đầy hoa vào nhà thờ. Đấy là quan tài của Iliusa, chú bé tội nghiệp. Nó chết hai ngày sau khi Mitia bị kết án. Aliosa mới đến cổng nhà, bọn trẻ bạn Iliusa đã reo hò.

    Cả bọn nóng lòng chờ anh và mừng rỡ vì cuối cùng anh đã đến. Chúng có khoảng mười hai đứa, tất cả đều đeo cặp hoặc túi xách. "Ba tớ sẽ khóc, các bạn hay đến với ba tớ". - lúc sắp chết, Iliusa trối lại với chúng như vậy, bọn trẻ nhớ điều đó. Đứng đầu bọn chúng là Kolia Kraxotkin.

    - Tôi sung sướng vì anh đã đến, Karamazov ạ! - Nó kêu lên, chìa tay cho Aliosa. - ở đây thật khủng khiếp. Sự thật nhìn thật đau lòng. Xneghiriov không say, chúng tôi biết chắc rằng hôm nay ông không uống, nhưng dường như ông say… Tôi bao giờ cũng cứng rắn, nhưng việc này thật khủng khiếp. Anh Karamazov, nếu không cản trở anh, tôi muốn hỏi thêm anh một câu hỏi trước khi anh vào, được không?

    - Hỏi gì, Kolia? Aliosa dừng lại.

    Anh của anh có tội hay không? Anh ấy giết cha hay thằng hầu giết? Anh nói thế nào tôi sẽ tin như vậy. Bốn đêm tôi không ngủ vì ý nghĩ ấy.

    - Thằng hầu giết, anh tôi vô tội. - Aliosa trả lời.

    - Thì tôi cũng nói như vậy! - Xmurov bỗng nói to.

    - Như vậy anh ấy hy sinh vì sự thật như một nạn nhân vô tội! - Kolia kêu lên. - Tuy anh ấy hy sinh, nhưng anh ấy hạnh phúc! Tôi sẵn lòng ghen tỵ với anh ấy!

    - Sao cậu lại nói thế, để làm gì kia chứ? - Aliosa ngạc nhiên kêu lên.

    - Ồi, nếu như đến một ngày tôi có dịp hy sinh cho sự thật. - Kolia hào hứng thốt lên.

    Nhưng không phải trong một việc như thế, không phải nhục nhã như thế, không khủng khiếp như thế! - Aliosa nói, cố nhiên… tôi muốn chết vì toàn nhân loại còn về chuyện nhục nhã thì bất cần: tên tuổi ta tiêu ma cũng được. Tôi kính trọng ông anh của anh!

    - Tôi cũng thế! - Đột nhiên có tiếng kêu hoàn toàn bất ngờ trong đám đông, đấy là đứa trẻ đã tuyên bố rằng nó biết ai sáng lập ra thành Troa. La lên xong, cũng hệt như hồi ấy, mặt nó như hoa mẫu đơn.

    Aliosa vào phòng, Iliusa nằm trong chiếc quan tài xanh trang điểm dải băng trắng, hai tay chắp lại, mắt nhắm. Đường nét khuôn mặt gây rộc của nó hầu không thay đổi, và lạ thay, xác hầu như không bốc mùi. Vẻ mặt nghiêm chỉnh, như suy tư. Đôi tay bắt chéo nom rất đẹp, như tạc bằng đá hoa cương. Người ta đặt hoa vào tay nó, cỗ quan tất cả trong lẫn ngoài đều trải hoa mà Liza Khokhlakova Ivanovna gửi đến từ sáng sớm. Nhưng còn có cả hoa của Ekaterina Ivanovna gửi đến, và khi Aliosa mở cửa thì đại uý cầm một bó hoa, hai tay run rẩy rắc xuống đứa con yêu quý. Ông thoáng đưa mắt nhìn Aliosa bước vào, và không muốn nhìn ai nữa, thậm chí cả bà vợ loạn trí đang khóc lóc cố đứng lên bằng đôi chân đau và nhìn gần hơn đứa con đã chết. Ninotrka thì đã được bọn trẻ nhấc cả ghế lên đặt sát cạnh quan tài. Có người gục đầu vào quan tài, và hẳn là cũng khóc khe khẽ. Mặt Xneghiriov có vẻ náo nức, nhưng dường như bối rối, đồng thời hung tợn. Trong điệu bộ của ông, trong những lời ông buột ra có cái gì dở điên dở dại. "Con ơi, con đáng yêu của ta ơi". - chốc chốc ông lại nhìn Iliusa kêu lên. Ông có thói quen ngay từ lúc Iliusa còn sống, vẫn âu yếm nói với ông: "Con ơi, con yêu quý của ta ơi!".

    - Bố nó ơi, đưa hoa cho tôi, lấy ở tay nó kia kìa, cành hoa trong kia kìa, đưa cho tôi! - Bà mẹ điên dại nức nở. Hoặc là bà rất thích bông hồng trắng ở trong tay Iliusa, hoặc là bà muốn lấy bông hoa làm kỷ niệm, nhưng bà giãy giụa, giơ hai tay về phía bông hoa.

    - Tôi không cho ai, không cho cái gì hết! - Xneghiriov cáu bẳn quát lên. - Hoa của nó, chứ không phải của bà. Của nó tất, không có cái gì của bà cả.

    - Ba ơi, cho mẹ một bông hoa! - Ninochka bỗng ngước khuôn mặt đẫm nước mắt lên.

    - Tao không cho cái gì hết, bà ấy tao càng không cho! Bà ấy không yêu nó. Hồi nọ bà ấy đã lấy khẩu thần công của nó, còn nó đã tặng bà ấy. - Đại uý bỗng khóc nức lên khi nhắc tới chuyện hỏi nọ Iliusa đã nhường khẩu thần công của mình cho mẹ. Bà mẹ điên dại đáng thương nước mắt đầm đìa, khóc khe khẽ, hai tay bưng mặt. Bọn trẻ thấy ông bố nhất định không muốn rời chiếc quan tài nhưng đã đến lúc đưa quan tài đi, liến đứng vây chặt xung quanh và khiêng lên.

    - Tôi không muốn mai táng nó ở bốn trong bức tường! - Xneghiriov bỗng gào lên. - Tôi sẽ chôn nó bên tảng đá, tảng đá của Iliusa con tôi! Iliusa dặn như vậy. Tôi không cho mang nó đi!

    Cũng như trước, suốt ba ngày ông nói về việc chôn bên tảng đá. Nhưng Aliosa. Kraxotkin, bà chủ nhà, chị Iliusa và bọn trẻ can thiệp.

    - Sao ông lại nghĩ ra chuyện ấy, chôn bên tảng đá thật là tởm, cứ như bị đè bẹp. - Bà lão chủ nhà nghiêm giọng nói. - Còn ở bên trong bức tường là đất có cây thánh giá. Ở đấy có thể cầu nguyện cho nó được. Nó nghe thấy tiếng hát lễ từ nhà thờ vọng ra, ông trợ tế đọc kinh rành rọt và rất hay, lần nào cũng đến tai nó hết, như đọc kinh trên mộ. Rốt cuộc đại uý vung hai tay: "Muốn mang đi đâu thì mang!"

    Bọn trẻ nâng quan tài lên, nhưng khi đi qua chỗ bà mẹ, chúng dừng lại trước bà giây lát và hạ quan tài xuống để bà có thể vĩnh biệt Iliusa. Nhưng nhìn thấy gương mặt nhỏ thân thiết ở khoảng cách gần, mà ba ngày trời bà chỉ nhìn từ xa, bà bỗng run khắp toàn thân, mái đầu bạc bắt đầu cuống cuồng ngất ngưởng trên quan tài.

    - Mẹ ơi, làm dấu thánh giá cho"nó đi, ban phước cho nó đi, hôn nó đi. - Ninochka kêu lên. Nhưng bà mẹ, như cái máy tự động, vẫn ngất ngưởng đầu, chẳng nói chẳng rằng, mặt méo đi vì đau xót quá đỗi, bỗng bắt đầu đấm tay vào ngực, quan tài bắt đầu được đưa đi. Lần cuối cùng Ninochka áp môi vào miệng đứa em đã qua đời khi quan tài đi qua chỗ mình. Khi ra khỏi nhà, Aliosa nói với bà chủ nhà, nhờ bà trông nom những người ở lại, nhưng bà không để anh nói hết:

    - Hẳn rồi, tôi sẽ ở bên họ, chúng tôi cũng là người Kito giáo mà. - Bà lão vừa nói vừa khóc.

    Đến nhà thờ không xa, ba trăm bước, không hơn. Ngày sáng sủa, yên ả; giá rét, nhưng chút ít thôi, tiếng chuông nhà thờ vẫn còn gióng giả. Xneghiriov tất bật và bối rối chạy theo quan tài, mặc chiếc măng tô mỏng mảnh, cũ kỹ. Ông có điều gì bận tâm không thể giải quyết nổi, khi thì bỗng chìa tay ra đỡ lấy đầu quan tài chỉ làm vướng những người khiêng, khi thì chạy bên cạnh tìm xem mình nên đứng vào đâu. Một bông hoa rơi xuống tuyết ông lao tới nhát lên, như thể có việc gì trọng đại nìy thuộc vào sự mất mát ấy.

    Còn bánh mì, quên mất bánh mì rồi! - ông bỗng kêu lên, sợ hãi ghê gớm. Nhưng mấy thằng bé lập tức nhắc ông rằng ông đã mang theo miếng bánh mì từ ban nãy, nó đang ở trong túi ông. Ông lấy ngay miếng bánh trong túi ra và thấy nó, ông yên tâm.

    - Iliusechka dặn như vậy, Iliusechka, - ông giải thích cho Aliosa, một đêm tôi ngồi bên giường nó, và nó bỗng bảo: "Ba ơi, khi đã lấp đất lên mộ con rồi, hãy nhớ bánh mì rắc lên cho chim sẽ bay tới, con sẽ nghe thấy tiếng chim bay tới và sẽ vui vẻ vì con không nằm một mình".

    - Rất tốt thôi. - Aliosa nói. - Cần thường xuyên mang tới.

    - Hàng ngày, hàng ngày! - Đại uý lắp bắp, như náo nức hắn lên.

    Cuối cùng họ đến nhà thờ và đặt quan tài ở giữa. Bọn trẻ quấn tròn xung quanh, và đứng trang nghiêm như thế suốt buổi lễ. Nhà thờ đá cổ và khá nghèo nàn, nhiều ảnh thánh không có khung, nhưng cầu nguyện trong những nhà thờ như thế tốt hơn.

    Trong lúc làm lễ, Xneghiriov tuồng như yên ắng một chút, tuy đôi lúc ở ông vẫn buột ra mối lo ngại vô thức và dường như quẫn trí: khi thì ông tới gần quan tài sửa lại tấm vải phủ, dải băng có hình Chúa và Đức mẹ, khi thì ngọn nến trên giá đổ xuống, ông đâm bổ tới dựng lại và loay hoay với nó rất lâu. Rồi ông yên tâm và đứng yên ở đầu quan tài, mặt lo âu ngơ ngẩn và dường như băn khoăn. Sau khi đọc Sứ đồ thư, ông bỗng thì thầm với Aliosa đứng cạnh ông rằng người ta đọc không đúng, nhưng ông không giải thích ý nghĩ của mình. Khi người ta hát xưng tụng các thánh, ông cũng hát theo, nhưng không hát hết, và quỳ gối, áp trán vào sàn đã nhà thờ và cứ phủ phục như vậy rất lâu.

    Cuối cùng người ta làm lễ cầu siêu, phân phát nến. Ông bố đã phát điên lại rối rít, nhưng tiếng hát lễ tang cảm kích, rung động đã thức tỉnh và làm rối loạn tâm hồn ông. Ông như thể co dúm lại, nức lên những tiếng ngắn ngủn liên hồi, thoạt đầu ông cố nén tiếng khóc, nhưng rốt cuộc ông nức nở rất to. Khi đã bắt đầu vĩnh biệt và đậy nắp quan tài, ông đang hai tay ra ôm lấy nó, như không muốn cho đậy nắp, và bắt đầu háo hức không ngừng hôn vào miệng thằng bé đã chết. Cuối cùng người ta đã khuyên can được ông và đã đưa ông xuống bậc thềm, nhưng ông bỗng đưa nhanh tay ra, và giật lấy mấy bông hoa trong quan tài. Ông nhìn những bông hoa ấy và một ý tưởng mới chợt đến trong óc ông, thành thử ông dường như quên mất cái chính trong giây lát. Dần dần ông dường như rơi vào trạng thái trầm tư và không còn chống cự nữa, khi người ta khiêng quan tài lên và đem ra huyệt.

    Huyệt ở không xa, trong bức tường, ngay bên nhà thờ, đắt tiền, nhưng Ekaterina trả hết. Sau nghi lễ bình thường, những người phu hạ huyệt. Xneghiriov hai tay cầm hoa, cúi sát miệng huyệt đến nỗi bọn trẻ sợ hãi níu lấy măng tô của ông và kéo ông trở lại. Nhưng ông dường như không hiểu rõ lắm chuyện gì đang diễn ra. Khi bắt đầu lấp huyệt, ông bỗng lo ngại trỏ đất rơi xuống và thậm chí nói gì, nhưng chẳng ai nghe rõ được, và tự dưng ông bỗng im bặt, đến đây người ta bỗng nhắc ông cần bẻ vụn bánh mì và ông bỗng lo lắng ghê gớm, tôi vội miếng bánh ra, bắt đầu bỏ và vứt lung tung trên mộ: "Bay đến đi, chim ơi, bay đến đi, hỡi các chú chim sẽ!" - ông ấp úng lo âu. Trong bọn trẻ có đứa bảo ông rằng hai tay cầm hoa ông khó bẻ bánh và hãy tạm đưa cho một đứa giữ hộ. Nhưng ông không đưa, thậm chí bỗng sợ hãi về những bông hoa của mình, như e sợ người ta muốn lấy mất của ông, và sau khi nhìn nằm mộ, thấy rõ mọi việc đã xong xuôi, bánh mì đã bẻ hết, đột nhiên ông hoàn toàn bình tĩnh quay mình đi, lê bước về nhà. Tuy nhiên, bước đi của ông mỗi lúc một gấp hơn và vội vã hơn, ông hối hả, gần như chạy. Bọn trẻ và Aliosa không tụt lại sau ông.

    - Cho mẹ nó những bông hoa, cho mẹ nó những bông hoa! Mẹ nó đã bị xúc phạm. - ông bắt đầu kêu lên. Có người gào lên bảo ông đội mũ vào, không thì bây giờ trời lạnh, nhưng nghe thấy thế, ông dường như tức giận quăng mũ xuống tuyết và thốt lên! "Tôi không muốn đội mũ, không muốn đội mũ!" Thằng bé Xmurxov nhặt mũ lên và đi theo ông. Tất cả bọn trẻ, không trừ đứa nào, đều khóc, nhưng khóc tợn hơn cả là Kolia và thằng bé đã khám phá ra Troa, và Xmuxov, tay cầm chiếc mũ của ông đại uý tuy cũng khóc ghê lắm, nhưng gần như vừa chạy vừa lượm nhưng mảnh gạch đỏ trên con đường tuyết ném vào bầy chim sẽ đang bay nhanh. Cố nhiên là ném không trung và vẫn tiếp tục vừa chạy vừa khóc. Đi được nửa đường Xneghiriov bỗng dừng lại, đứng chừng nửa phúc, như có điều gì sửng sốt và đột nhiên, quay trở lại như thế, chạy tới nấm mồ đã bị bỏ lại. Bọn trẻ lập tức đuổi kịp ông và xúm quanh níu lấy ông. Đến đây, như bất lực và chịu thua, ông ngã xuống tuyết và lăn lộn, gào rú và nức nở, yêu thét lên: "Con ơi, Iliusechka, con yêu quý của ta ơi!".

    Aliosa và Kolia nâng ông dậy, nài nỉ, khuyên can ông:

    - Đại uý thôi đi, người dũng cảm phải chịu đựng. - Kolia lầu bầu.

    - Ông làm hỏng cả hoa đấy. - Aliosa nói. - "Bà mẹ" đang chờ mong đấy, bà đang ngồi khóc vì ban nãy ông không cho bà hoa của Iliusa. Ở nhà vẫn còn chiếc giường của Iliusa…

    - Phải, phải, về với mẹ nó! - Xneghiriov lại chợt nhớ ra. - Người ta sẽ mang chiếc giường đi, sẽ mang đi. - ông nói thêm, như sợ hãi rằng quả thật người ta sẽ mang giường đi, ông bật dậy và chạy về nhà. Nhưng chẳng còn cách nhà bao xa, mọi người cùng chạy tới một lúc. Xneghiriov mở cửa thật nhanh và gào lên gọi vợ, dù ban nãy ông đã cãi nhau rất nhẫn tâm với bà.

    - Mẹ nó ơi, mình yêu quý ơi, Iliusechka gửi hoa cho mình đây này, chân của mình bị đau mà! - ông la lên, đưa cho vợ túm hoa đã cóng và gãy nát lúc ông vật vã trên tuyết. Nhưng đúng lúc ấy, ông thấy trước giường Iliusa, trong góc nhà, đôi ủng của Iliusa xếp hai chiếc cạnh nhau, và chủ nhà vừa thu dọn lại - đôi ủng cũ đã đỏ quạch, cứng queo, vá víu. Ông giơ hai tay lên, nhảy bổ tới, quỳ xuống, vồ lấy một chiếc ủng, áp môi vào, háo hức hôn và gào lên: "Con ơi, Iliusechka, con cưng của ta ơi, chân con đâu rồi?"

    - Ông mang nó đi đâu rồi? Ông mang nó đi đâu rồi? - Bà vợ loạn trí gào lên bằng giọng tan lòng nát ruột. Đến đây cả Ninochka cũng nức nở. Kolia chạy ra khỏi phòng, cả bọn trẻ cũng ra theo. "Mặc cho họ khóc, - Anh nói với Kolia, - không thể an ủi được đâu. Ta đợi một lát, rồi sẽ trở lại".

    - Phải, không thể an ủi được, thật là khủng khiếp - Kolia xác nhận. - Này, anh Karamazov ạ, - nó bỗng hạ giọng để không ai nghe thấy, - tôi rất buồn, nếu như có thể làm nó sống lại thì tôi sẵn lòng đánh đổi hết mọi thứ trên đời!

    - A, tôi cũng thế. - Aliosa nói.

    - Anh nghĩ thế nào, Karamazov, tối nay chúng ta có phải đến đây không? Ông ấy sẽ uống say nhè.

    - Có thể ông ấy sẽ nốc rượu. Chỉ có tôi với cậu đến thôi, như thế là đủ, ngồi với họ chừng một giờ, với bà mẹ và Ninochka, còn nếu ta đến cả bọn thì họ sẽ nhớ lại tất cả! - Aliosa khuyên.

    - Ở đấy bây giờ bà chủ nhà đang bày bàn, cỗ tang, chắc cha cố sẽ đến, ta có trở lại đấy bây giờ không, anh Karamazov?

    - Nhất định. - Aliosa nói.

    - Tất cả những chuyện ấy thật lạ lùng, anh Karamazov ạ, hết sức đau xót và bỗng nhiên lại cỗ bàn, tôn giáo của chúng ta thật trái tự nhiên!

    - Ở đấy sẽ có cá hồi. - Thằng bé đã khám phá ra Troa bỗng nói to.

    - Tao nghiêm chỉnh yêu cầu mày đứng có xen những chuyện dớ dẩn của mày vào, Kartasov ạ, đặc biệt khi người ta không nói với mày và thậm chí không muốn biết có mày trên đời. - Kolia cáu kỉnh ngắt lời nó. Cartasov đỏ bừng mặt nhưng không dám trả lời gì hết. Nhưng họ vẫn tiếp tục thong thả đi trên con đường mòn; Xmurov bỗng kêu lên:

    - Kia là tảng đá của Iliusa mà người ta định chôn nó dưới đó!

    Tất cả lẳng lặng dừng lại bên tảng đá lớn. Aliosa nhìn, và toàn bộ cảnh tượng mà trước đây Xneghiriov đã kể về Iliusa, về việc nó vừa khóc, vừa ôm lấy bố kêu lên: "Ba ơi, ba ơi, nó làm nhục ba biết bao!" lập tức hiện ra trong hồi ức của anh. Có cái gì chấn động trong tâm hồn anh. Vẻ nghiêm trang và quan trọng, anh đưa mắt nhìn tất cả các gương mặt dễ mến, tươi sáng đó của các học sinh, bạn thua, và bỗng nói với chúng:

    - Thưa các bạn, tôi muốn nói với các bạn một lời ở đây, ngay tại chỗ này.

    Bọn trẻ vây lấy anh, và lập tức nhìn anh chằm chằm, chờ đợi.

    - Thưa các bạn, chúng ta sắp chia tay nhau. Tôi còn ở đây một thời gian nữa với hai người anh, một người sắp đi đầy, một người sắp chết. Nhưng chẳng mấy nữa tôi sẽ rơi bỏ thành phố này, có lẽ sẽ rất lâu. Thế là chúng ta sẽ chia tay nhau, thưa các bạn. Ở đây, bên tảng đá này của Iliusa, hẳn chúng ta sẽ đồng ý với nhau rằng ta sẽ không bao giờ quên Iliusa trước hết, sau nữa là không quên nhau. Sau này dù có chuyện gì xảy ra với ta trong đời dù hai mươi năm sau ta không gặp nhau, chúng ta sẽ vẫn nhớ tới chúng ta đã mai táng thằng bé tội nghiệp mà ta đã từng ném đã vào nó, ở bên cầu, các bạn nhớ chứ? - nhưng sau đó tất cả chúng ta đều rất đỗi yêu nó. Nó là thằng bé tuyệt vời, nhân hậu và can trường, cảm thấy danh dự và sự nhục mạ cay đắng mà cha nó phải chịu, và nó suốt đời, thưa các bạn. Mặcdù chúng ta sẽ bận nhưng việc hết sức quan trọng, đạt được nhưng vinh dự hay sa cơ lỡ bước bất hạnh ghê gớm - dùsao cũng đừng quên rằng đã có lần ở đây chúng ta sung sướng, tất cả chúng ta gắn bó với nhau bằng những tình cảm tốt lành, tình thương yêu với cậu bé tội nghiệp kia có lẽ đã làm cho chúng ta trong thời gian ấy trở nên tốt hơn trong thực tế. Nhưng con bổ câu nhỏ của tôi, - hãy cho tôi gọi như vậy, - vì các bạn rất giống chúng, những con chim màu xám nhạt xinh đẹp ấy, bây giờ, vào lúc này, khi tôi nhìn những gương mặt hiền lành, dễ thương của các bạn, - hỡi các em đáng yêu của tôi, có lẽ các em không hiểu điều tôi sẽ nói với các em, bởi vì tôi nói thường rất khó hiểu, nhưng dùsao các bạn cũng cứ ghi nhớ, rồi sau này sẽ có lúc các bạn đồng ý với tôi. Các bạn nên biết rằng không có gì cao hơn; mạnh mẽ hơn, trong lành hơn và có ích hơn cho cuộc đời bằng một kỷ niệm tốt đẹp, đặc biệt là một kỷ niệm thời thơ ấu sống dưới mái nhà mẹ cha. Người ta nói nhiều với các bạn về sự giáo dục của các bạn nhưng một ký niệm tuyệt đẹp, thiêng liêng giữ được từ thuở bé có lẽ là sự giáo dục tốt nhất. Nếu thu thập được nhiều kỷ niệm như thế đem vào đời thì con người sẽ được cứu vớt suốt đời. Chodù chỉ còn một kỷ niệm đẹp ở trong tim chúng ta thì cũng sẽ có ngày nó cứu vớt chúng ta. Có thể sau này chúng ta sẽ trở thành người độc ác, thậm chí chúng ta không đủ sức cưỡng lại hành động xấu, chúng ta sẽ cười chế giễu trước mắt con người, chế giễu những người vẫn nói, như Kolia ban nãy vừa kêu lên, "tôi muốn chịu đau khổ cho tất cả mọi người" - có thể chúng ta sẽ chế giễu độc ác những con người như vậy. Mặcdù chúng ta độc ác như thế nào, cứu trời tránh cho chúng ta điều đó, nhưng chúng ta sẽ nhớ tới ta đã mai táng Iliusa ra sao, chúng ta đã yêu mến nó trong ngày cuối cùng như thế nào, và giờ đây chúng ta hoà hợp với nhau như thế nào bên tảng đá này thì người tàn bạo nhất trong chúng ta và hay giễu cọt nhất, nếu chúng ta trở thành những người như thế, trong thâm tâm cũng sẽ không dám báng nhạo người đã từng có tình cảm tốt lành trong giây phút này! Ngoài ra, có lẽ chỉ riêng kỷ niệm đó đã giữ cho ta tránh khỏi cái ác lớn lao, người đó sẽ nghĩ lại và sẽ nói: "Phải, hồi ấy ta tốt bụng, can đảm và chính trực!". Cứ mặc cho người đó tự cười mình, không sao; con người thường cười cái nhân hậu và tốt đẹp; đấy chỉ là nhẹ dạ; nhưng thưa các bạn, tôi cam kết với các bạn rằng người nào cười thì lập tức trái tim sẽ nói: "Không, ta cười là xấu, vì chuyện ấy không thể cười được!"

    Nhất định sẽ như thế, Karamazov ạ, tôi hiểu anh, Karamazov! - Kolia kêu lên, mắt loé sáng. Mấy thằng bé xúc động, cũng muốn kêu lên điều gì, nhưng nén được, chăm chú và cảm kích nhìn diễn giả.

    - Áy là tôi nói về nỗi sợ hãi rằng chúng ta sẽ trở thành người xấu Aliosa nói tiếp. - Nhưng tại sao ta lại trở thành người xấu, phải không, thưa các bạn? Thứ nhất và trước hết là chúng ta sẽ nhân hậu, rồi sau đó là chính trực, tiếp đó chúng ta sẽ không bao giờ quên nhau. Điều này tôi xin nhắc lại lần nữa. Tôi hứa với các bạn là sẽ không quên một người nào trong các bạn; mỗi gương mặt lúc này đang nhìn tôi, tôi sẽ không quên, dù là hai mươi năm nữa. Ban nãy Kolia nói với Kartasov rằng chúng ta dường như không muốn biết "có cậu ta trên đời hay không". Lẽ nào tôi có thể quên rằng có Kartasov ở trên đời, rằng lúc này cậu ấy không đỏ mặt như khi khám phá ra thành Thoa, mà nhìn tôi bằng cặp mắt tuyệt đẹp, nhân hậu và vui vẻ. Thưa các bạn, các bạn đáng yêu của tôi, tất cả chúng ta sẽ rộng lượng và can đảm như Iliusa, thông minh, cản đảm và hào hiệp như Kolia (nhưng lớn lên Kolia sẽ thông minh hơn nhiều), và chúng ta cũng sẽ bẽn lẽn, không khá thông minh và đáng yêu như Kartasov. Mà tại sao tôi chỉ nói đến hai người ấy! Tất cả các bạn từ nay đều đáng yêu đối với tôi tôi thâu nhận tôi vào trái tim tôi, và tôi mong các bạn cũng sẽ thâu nhận tôi vào trái tim các bạn! Nhưng ai đã liên kết chúng ta trong tình cảm tốt lành ấy mà bấy giờ chúng ta sẽ luôn luôn nhớ tới, dự định nhớ tới, ai nếu không phải là Iliusechka, cậu bé nhân hậu, cậu bé đáng yêu, cậu bé mãi mãi thân thiết với tất cả chúng ta! Chúng ta sẽ không bao giờ quên Iliusa, kỷ niệm tốt đẹp về Iliusa sống mãi trong lòng chúng ta, từ nay và mãi mãi về sau.

    - Đúng thế, đúng thế, mãi mãi, mãi mãi! - Tất cả các cậu bé reo vang lanh lảnh, vẻ mặt cảm kích.

    - Chúng ta sẽ nhớ cả gương mặt, cả quần áo, cả đôi ủng tàng, cả cỗ quan tài nhỏ bé của bạn ấy, cả ông bố khốn khổ tội lỗi của bạn ấy, cả việc bạn ấy đã can đảm một mình chống lại cả lớp để bênh vực bố!

    - Chúng tôi sẽ nhớ, sẽ nhớ. - Bọn trẻ lại reo lên. - Bạn ấy can trường, bạn ấy tốt bụng.

    - Tôi yêu bạn ấy biết bao! - Kolia kêu lên.

    - Ôi, các em, các bạn thân mến của tôi, đừng sợ cuộc sống! Cuộc sống đẹp xiết bao, khi ta sẽ làm một việc gì tốt đẹp và chân thực!

    - Đúng thế, đúng thế. - Bọn trẻ hoan hỉ nhắc lại.

    - Anh Karamazov, chúng tôi yêu anh. - tiếng một người hăm hở kêu lên, hình như là Kartasov.

    - Chúng tôi yêu anh, chúng tôi yêu anh. - Tất cả hùa theo.

    Nhiều em long lanh nước mắt.

    - Hoan hô Karamazov! - Kolia phấn chấn tuyên bố.

    - Nhớ mãi người bạn nhỏ đã qua đời! - Aliosa nói thêm với giọng thấm thía.

    - Đời đời ghi nhớ! - bọn trẻ lại phụ hoạ.

    - Anh Karamazov! - Kolia gào to. - Có đúng tôn giáo nói rằng tất cả chúng ta sẽ từ kẻ chết sống lại, chúng ta sống lại và sẽ lại gặp mặt nhau, kể cả Iliusechka phải không?

    - Nhất định chúng ta sẽ hồi sinh, nhất định sẽ gặp lại nhau và vui vẻ sung sướng kể với nhau mọi chuyện đã xảy ra. - Aliosa trả lời, nửa cười cợt, nửa hân hoan.

    - A, như vậy thì hay quá.

    - Còn bây giờ, chúng ta sẽ thôi không nói nữa và đến dự cỗ tang Iliusa. Đừng bối rối về chuyện cỗ bàn trong đám tang. Đấy là cổ lệ từ xưa, như vậy có cái hay của nó, - Aliosa bật cười. - Ta đi thôi! Bây giờ ta nắm tay nhau cùng đi.

    - Và mãi mãi sẽ như thế, suốt đời tay nắm tay! Hoan hô Karamazov! - Kolia hoan hỉ reo lên lần nữa, và một lần nữa tất cả bọn trẻ cùng reo lên với nó.

    HẾT
    Fedor Pavlovich (Karamazov) = bố

    Dmitri Fedorovich (Karamazov) = Mitia , con cả

    Ivan Fedorovich (Karamazov) = con thứ

    Alexei Fedorovich (Karamazov) = Aliosa, con út

    Xmerdiakov (Karamazov) = con rơi của người bố

    Grigori Vaxilievich, người hầu của bố

    Marfa Ignatievna, vợ của Grigori

    Agafia Ivanovna, con gái đầu viên trung tá

    Ekaterina Ivanovna = Katia, con gái thứ hai trung tá

    Grusenka = Grusa = Agrafena Alecxandrovna =, người mà Mitia yêu

    Kuzma Kuzmir; bố nuôi, bồ già của Grusenka

    Gherxenstube, bác sĩ

    Ekaterina Oxipovna Khokhlakova mẹ của Elizaveta (Liza)

    Elizaveta (Liza) cô bé bị liệt

    Prokhorovna: bà mẹ có con đi lính không có tin tức

    Nikolai Parfenovich Nekhliudov, dự thẩm

    Perkhotin , Petr Ilych, bạn của Mitia, cầm đồ

    Fetiukovich, luật sư bào chữa cho Mitia

    Trifon Borisovich, chủ quán ở Mokroe

    Ippolit Kirinlovich, biện lý

    Mikhail Makarovich, cảnh sát trưởng


Trang 11 / 11 ĐầuĐầu ... 91011

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-18-2017, 02:18 PM
  2. Anh Em Nhà Karamazov - Dostoevski
    By giavui in forum Thư Viện E-Books
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-15-2016, 06:13 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-20-2016, 01:43 PM
  4. Thủ tướng Anh: Đã tiêu diệt hai công dân Anh theo IS
    By duyanh in forum Tin Tức Quốc Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-08-2015, 12:12 PM
  5. Nhớ Anh Nhớ Đoạn Trường - Hoài Niệm 20 Năm
    By giahamdzui in forum Nhạc Trung Hoa
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-26-2015, 09:00 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •