Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Hạnh phúc chỉ dành riêng cho những kẻ nào làm cho nhiều người được sung sướng.
Abbé Delille
Trang 2 / 11 ĐầuĐầu 1234 ... Cuối Cuối
Results 11 to 20 of 107

Chủ Đề: Anh Em Nhà Karamazov

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Anh Em Nhà Karamazov

    Anh Em Nhà Karamazov

    Tác giả :Fyodor Dostoevsky

    Dịch giả: Phạm Mạnh Hùng





    Lời người dịch

    (Trích từ "Lời giới thiệu" của dịch giả Phạm Mạnh Hùng từ "F. Dostoievsky. "Anh em nhà Karamazov". Nhà Xuất bán Văn học, Hà Nội. 1988)

    "Anh em nhà Karamazov" là tác phẩm cuối cùng của Dostoievsky, ông viết tác phẩm này từ 1878 đến 1880. Dostoievsky thuộc loại thiên tài hiếm hoi mà càng về cuối đời thì sự nghiệp sáng tác càng lên tới đỉnh cao hơn.

    "Anh em nhà Karamazov" là tác phẩm vĩ đại nhất của ông, là tác phẩm tổng kết cả cuộc đời viết văn của ông: ở đây hội tụ tất cả những ý tưởng chủ đạo mà nhà văn ấp ủ suốt đời và đã giãi bày một phần trong tác phàm trước đó, đây là sự kết tinh kinh nghiệm sóng sóng gió đầy đau khổ của nhà văn và vô vàn quan sát trong thực tế, tay nghề điêu luyện sau bốn chục năm lao động văn học.

    Thời kỳ viết "Anh em nhà Karamazov" là một thời kỳ tương đối êm đềm, hạnh phúc trong đời tư của Dostoievsky. Quang vinh của ông lên tới tột đỉnh: ông được bầu vào Viện hàn lâm cuối tháng 7 năm 1877 và bài diễn văn về Puskyn ông đọc vào tháng 6 năm 1880 đã gây chấn động trong toàn nước Nga, làm cho uy tín của ông càng thêm lẫy lừng. Cảnh túng bấn thường xuyên trước đây đã chấm dứt, ông có thể làm việc bình tĩnh hơn, không bị những "eo xèo" về cơm áo bám riết nữa, Anna Grigonevna là người vợ hoàn hảo, người thư ký tận tuỵ của ông.

    Hoàn cảnh nước Nga những năm 70 hết sức phức tạp và đau thương.

    Sau cuộc cải cách nông thôn nam 1861, quan hệ tư bản phát triển mãnh liệt ở Nga, nông thôn tan rã, nông dân phá sản, bần cùng hoá, kéo ra thành thị để trở thành người làm thuê cho các chủ xưởng máy bóc lột tàn nhẫn. Gorki viết rằng trong những năm 70-80, "tất cả những gì mang tính thú vật đều được chính phủ cổ vũ", "tất cả những gì có tính người đều bị truy bức". Đồng thời, đây cùng là thời kỳ mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, ý thức cách mạng của quản chúng lao động phát triển sâu sắc thêm, phong trào phản đối dẩy lên trong nông dân, trí thức, nhằm chống bóc lột chống sự chuyên chế của chế độ Sa hoàng và sự lộng quyền của cảnh sát. Nói cách khác là những năm tình thế cách mạng.

    Trong hoàn cảnh nóng bỏng ấy, trước sự rạn nứt của mọi nền móng xã hội và bóng dáng của cuộc cách mạng xả hội đã hiện rõ, đau đớn nhìn thấy những đau khổ tột cùng của nhân dân, Dostoievsky đã viết tác phẩm lớn nhất của ông về tình trạng hỗn loạn xã hội khúc xạ qua sự tan rã gia đình, về sự tìm kiếm "ý nghĩa của tồn tại" ở những con người đại diện cho các thế hệ thuộc quá khứ, hiện tại và tương lai của nước Nga, về những đau khổ vô lượng của nhân dân, về những con đường có thể có để đi đến hoà đồng xã hội.

    Trước khi bắt tay vào viết tác phẩm mà thật ra ông đã ấp ủ ý đồ từ nhiều năm trước, Dostoievsky đã linh cảm thấy mình nắm bắt được một đề tài xứng đáng với tầm vóc của mình. Ông viết: "Ít khi tôi gặp trường hợp nói lên được những điều mới mẻ, đầy đủ, độc đáo như thế này". Tiếp đó là quá trình làm việc hết sức căng thẳng. Trong một lá thư đề ngày 23-7-1879, ông viết: "Cuốn tiểu thuyết tôi đang viết (Anh em nhà Karamazov) hiện thời nuốt hết mọi sức lực và thời giờ của tôi… Tôi viết không hối hả, không vội làm cho xong việc, sửa đi sửa lại, gọt tỉa, tôi muốn tận tâm hoàn tất tác phẩm, bởi vì chưa hề có tác phẩm nào mà tôi nhìn nhận một cách nghiêm túc hơn tác phẩm này".

    Thoạt nhìn Anh em nhà Karamazov là cuốn tiểu thuyết về đề tài gia đình, về sự tan rã của "gia đình ngẫu hợp" tức là loại gia đình ở đó không có những mồi quan hệ trong sạch, vững chắc, không có nền móng đạo lý và tan rã trong hoàn cảnh của một xã hội đang băng hoại, thối nát. Sự chọn lựa như thế cũng dễ hiểu: tất cả các tiểu thuyết của Dostoievsky đều viết về đề tài gia đình. Đối với Dostoievsky, vấn đề quan hệ gia đình là vấn đề hết sức quan trọng. Năm 1854, ông viết cho em trai là Andrei: "Ngay cả trước đây cũng thế, bao giờ tôi cũng cho rằng trên đời không có gì cao cả hơn hạnh phúc gia đình". Trước khi bắt tay vào "Anh em nhà Karamazov", trong thư viết cho nữ văn sĩ K. D. Antsevskaia, ông nói rằng nhiệm vụ chủ yếu của ông là nhận thức "thế hệ trẻ" và "gia đình Nga thời nay mà tôi linh cảm thấy rằng mới hai mươi năm trước đây, nó hoàn toàn không như thế".

    Cơ sở cốt truyện của "Anh em nhà Karamazov" là một chuyện có thật mà tác giả nghe được trong thời gian đi tù khổ sai. Cùng bị giam ở nhà tù Omsk với Dostoievsky có một trung uý hỏi hưu tên là Ilinsky, anh ta bị kết án hai mươi năm tù khổ sai về tội "giết cha". Kẻ sát nhân thực sự là em trai anh ta, gã muốn một mình thừa kế gia tài của bố. Anh ta thụ hình phạt được mười hai năm thì người em hối hận, ra tự thú và tự nguyện xin đi đày. Ông đã kể chuyện này trong "Bút ký nhà chết". Trong phác thảo viết năm 1874 cho cuốn tiều thuyết, nhân vật thậm được đặt tên là Ilinsky.

    Ông còn được nghe một chuyện tương tự ở Tobonsk. Có hai anh em trai, người anh có vợ chưa cưới xinh đẹp mà người em thầm say mê. Người anh là trung uý, ăn chơi hoang đàng và thường xuyên xích mích với bố. Thế rồi ông bố mất tích mấy ngày. Cuối cùng người ta nhìn thấy xác ông bố trong hầm nhà. Người em không ở với bố nên không bị nghi. Người anh bị buộc tội, bị kết án khổ sai. Lúc mang xiềng đi tù, anh hỏi vợ chưa cưới: "Em có tin không?". Thật ra người em mới là kẻ sát nhân, song đã nguỵ tạo chứng cớ một cách khôn khéo. Về sau vợ chưa cưới của người anh thành vợ của người em. Mười hai năm sau, người em đến thăm anh ở nơi đầy khổ sai, hai bên nhìn nhau không nói mà cũng hiểu. Bày năm nữa trôi qua. Người em thăng quan tiến chức, nhưng bỗng mắc chứng u uất, bị giày vò. Cuối cùng anh ta thú nhận với vợ là mình giết bố. "Anh nói với tôi điều ấy để làm gì?" - nàng hỏi. Người em đến gặp người anh tù khổ sai, ăn năn tội lỗi. Người tù nói: "Tôi quen rồi". Hai anh em nhất trí với nhau: "Như thế là chú cũng đã bị trừng phạt". Một hôm nhân lễ sinh nhật của mình, người em tuyên bố trước khách khứa: "Tôi mới là kẻ giết cha".

    Người ta cho là anh ta điên. Cuối cùng người anh được tha trở về, người em đi tù khổ sai thay anh, anh ta cầu xin anh làm bố các con anh ta. Anh ta "đã được lên con đường chính đạo".

    Ta trở lại tiều thuyết "Anh em nhà Karamazov". Một ông bố, ba người con chính thức và một đứa con hoang, kết quả của một lần đi lại gần như cưỡng hiếp một người phụ nữ điên dại. Trừ người con trai thứ ba - Alecxei, - cả gia đình sống trong sự căm thù lẫn nhau mà kết quả là vụ giết bố và một người bị oan đi tù khổ sai. Trong tất cả các nhân vật của "nhà Karamazov", khó nói ai là nhân vật chính. Tất cả đều là nhân vật chính, đều có vai trò quan trọng ngang nhau trong sự phát triển câu chuyện.

    Trước hết là ông bố - Fedor Pavlovich Karamazov - lão già thuộc tầng lớp quý tộc nhỏ này kiêu ngạo về chút vốn tiếng bọt bèo hời hợt của văn hoá Tây phương, y cố thích nghĩ với chủ nghĩa tư bản hiện đại. Y là một loại tài năng trong thủ đoạn kiếm tiền kiểu con buôn: điều này được tác giả phơi bày qua những chi tiết cụ thể, qua lời bộc lộ của chính nhân vật. "Tôi căm ghét nước Nga biết chừng nào!" - y không thấy cần phải giấu giếm lòng yêu nước của mình. Săn đuổi khoái lạc, đấy là mục đích tối cao của cả cuộc đời y. Ngoài khoái lạc, y không thừa nhận một trách nhiệm đạo lý nào hết, ngay cả đối với hai người vợ đã quá cố và các con y. Thậm chí y tìm thấy cả khoái lạc trong tình cảnh sỉ nhục: y khoái trá khi làm thằng hề múa vui cho bọn giàu có để kiếm miếng ăn, khi vợ bỏ theo trai, y thích thú với vai ông chồng mọc sừng để được thiên hạ thông cảm. Đểu cáng ra mặt đi đôi với đạo đức giả, dâm đãng tột độ và keo kiệt bủn xỉn, tàn bạo, đấy là bản chất của y. Đây không còn là con người mà là con vật độc ác, bệnh tật, đáng kinh tởm.

    Tuy nhiên, mỗi nhân vật của Dostoievsky bao giờ cũng đầy mâu thuẫn, mang trong mình nhưng nét trái ngược chuyển biến lẫn nhau. Fedor Pavlovich trâng tráo và dâm đãng, nhưng là một cá tính không nhạt nhẽo chút nào. Y là "thằng hề", nhưng pha trò có duyên và giễu cợt rất đắt. Y là nhà triết học trong loại của mình. Y biết tìm ra cơ sở triết lý cho cách sống vô luân vô liêm sỉ của mình. Y lý sự về địa ngục: "Ta cứ nghĩ, khi ta chết không thể nào quỷ lại không dùng móc câu lôi ta đi. Nhưng ta lại nghĩ: Móc ư? Chúng đào đâu ra móc. Làm bằng gì? Sắt ư? Thế thì rèn móc ở đâu? Ở địa ngục có xưởng rèn chắc?". Y biến quan niệm tôn giáo về đời sống ở thế giới bên kia thành cái cụ thể thô thiển nhất để khẳng định tính phi thực tế của nó và gạt bỏ. Không có cả địa ngục lẫn thiên đường thì không có gì phải sợ. Cứ sống như ta muốn.

    Cái đinh của cốt truyện là sự xung đột giữa ông bố và người con trai cả Mitia Karamazov vì tiền và tình. Ngoài sự tranh chấp giữa hai bố con về quyền thừa kế tài sản của mẹ Mitia để lại, xen vào quan hệ tình địch của họ còn có một món tiền cụ thể, nó là nguyên nhân trực tiếp gây ra vụ giết người: số tiền ba nghìn rúp mà Mitia rất cần để gỡ danh dự, nhưng lại là số tiền Fedor Pavlovich dành tặng cho Grusenka "thiên thần của tôi", "con gà con của tôi", "nếu nàng đến với tôi".

    Mitia Karamazov là mẫu người tập trung những đam mê xác thịt dữ dội, không gì kìm hãm nổi, về điểm này anh ta đích thị là dòng máu của bố. "Thượng đế ban dục tình cho sâu bọ", anh ta nghĩ vậy. Nhưng mặc dù ngụp mình trong vũng bùn truỵ lạc, anh ta vẫn khát vọng cái cao đẹp, ở anh ta "lý tưởng Madona" giao tranh với lý tưởng "Xodom", "ở đây quỷ và Chúa Trời giao tranh với nhau mà chiến trường là trái tim con người", "ở đây hai giải bờ gặp nhau, ở đây mọi mâu thuẫn cùng chung sống". Vì thế tâm hồn anh ta quằn quại trong những đam mê, nhưng bất thần ở anh ta lại xuất hiện những ý nghĩ và hành động cao cả. Trong cảnh gặp gỡ lần đầu tiên với Ekaterina Ivanovna tại nhà anh ta, Mitia đã có những tình cảm và hành vi cao quý. Sự say mê, thậm chí tình yêu của anh ta với Grusenka, là tình cảm trong trắng của tuổi trẻ. Trong cuộc tình này lẽ phải thuộc về gã chứ không phải ở phía con dê già kia.

    Mitia căm thù bố, nhưng không nhúng tay vào tội ác ghê tởm, anh ta sa đoạ nhưng vẫn giữ được bộ mặt con người, theo tác giả, là vì anh ta vẫn còn tin vào Thượng đế: "Cho dù tôi đáng bị nguyền rủa, cho dù tôi hèn hạ và đê tiện, nhưng hãy cho tôi hôn gấu bộ áo mà Chúa Trời của tôi khoác trên người, cho dù tôi đi với quỷ, nhưng tôi vẫn là con của Ngài, ôi Chúa Trời, tôi yêu Ngài…" Mitia nghĩ ngợi về nhưng đau khổ của con người tràn lan khắp thế gian. Nhưng suy nghĩ về đau khổ của chúng sinh và về sự hiện hữu của Thượng đế đã đưa Mitia đến sự phục hưng trong đau khổ.

    Anh ta bị toà án hình sự kết tội, nhưng toà án lương tâm bào chữa cho anh ta. Anh ta chọn con đường cứu chuộc qua đau khổ, qua sự quy thuận để chuộc lỗi của mình "có ý định giết cha" và chuộc lỗi cho kẻ phạm tội thực sự Dostoievsky viết về nhân vật này: "… tôi sẽ nhấn mạnh hơn nữa tính cách của Mitia Karamazov, trước nguy cơ phải gánh chịu sự bất hạnh và bị kết tội oan, anh ta tự gột rửa mình bằng trái tim và bằng lương tâm. Tâm hồn anh ta chấp nhận "sự trừng phạt không phải vì anh ta đã làm wệc ấy mà vì anh ta xấu xa đến mức từng mong muốn thực hiện cái hành vi phạm tội mà sau này anh ta bị kết tội oan do sai lầm của toà án. Một tính cách hoàn toàn Nga: "Sấm không gầm lên thì gã mugich không làm dấu thánh". Sự gột rửa tâm hồn như thế, xét về mặt hoàn canh tâm lý cụ thể, là hoàn toàn có thể xảy ra, nhưng ở đây phần khiên cưỡng do tác giả cố ý ép đặt vẫn nhiều hơn sự chuẩn bị nội tâm cho nhân vật.

    Thủ phạm thật sự của vụ giết cha là Ivan Karamazov và Pavel Xmerdiakov.

    Xmerdiakov là một trong những hình tượng ghê tởm nhất, hiện thân của sự đe doạ ghê gớm của con người mà Dostoievsky đã tạo nên với sức mạnh nghệ thuật kinh hoàng. Ra đời do sự dâm đãng của Fedor Pavlovich với một cô gái dở điên dở dại Lizaveta Xmerdiasaia mà có lẽ không một ai có thể thèm muốn, là con hoang không được thừa nhận của lão già, chỉ được coi là đầy tớ trong nhà, hắn sống trong sự căm thù dữ dội của kẻ đã sinh ra hắn. Chịu ảnh hưởng giáo dục của tính ích kỷ độc ác của lão già, hắn không coi cái gì là thiêng liêng. Hắn không có chút tình cảm nào với những người nuôi dưỡng hắn, hắn sẵn sàng chào mừng Napoleon xâm chiếm Nga, mơ ước chiếm được số tiền ba nghìn rúp để trốn ra nước ngoài mở một tiệm ăn nhỏ. Bên cạnh chủ nghĩa hư vô thô thiển, tính ngạo mạn tôi đòi và sự khinh miệt toàn nhân loại của hắn được miêu tả với sức mạnh nghệ thuật đặc biệt. Là một kẻ vô học, thân phận hèn kém, hắn lại khinh miệt dân Nga "vô học"! Ngu dốt, thiển cận, nhưng hắn có logic tôi đòi, phép biện chứng tôi đòi riêng của hắn, cái biện chứng trâng tráo nhưng mềm dẻo, linh hoạt, biện bạch cho bất cứ hành động đê tiện và tội ác nào. Tâm lý tôi đòi thật dễ sợ. Fedor Pavlovich chết chính bởi tay hắn, kẻ được lão tiêm nhiễm thói độc ác và hèn mạt bị lão làm cho hư hỏng.

    Tuy nhiên, Xmerdiakov chỉ là kẻ thực thi việc giết cha, Ivan Karamazov mới là đầu não, là "nhà lý luận" khơi gợi và cũng cố cho hắn ý nghĩ giết người, thúc đẩy hắn đi đến hành động, Ivan Karamazov là nhân vật mang tất cả gánh nặng của những hoài nghi và tìm kiếm triết lý trong cuốn tiểu thuyết.

    Lòng ham sống mãnh liệt, "yêu bầu trời xanh thẫm", hoạt động tìm kiếm ráo riết của tư tưởng, đấy đích thực là "chất Karamazov" thể hiện ở Ivan. Nhưng Ivan không phải là "đứa con của tự nhiên" như Mitia, anh ta trước hết là con người duy lý đầu óc lạnh lùng, người của "văn hoá phương Tây".

    Anh ta là kẻ nhẫn tâm: xung đột giữa anh Dmitri và bố đến độ có thể gây án mạng, vậy mà anh ta thản nhiên, coi đó là chuyện tự nhiên, "rắn nuốt rắn". Với Ivan, tình cảm ruột thịt là một thành kiến. Lý trí cao hơn mọi mong muốn và khát vọng. Đầu óc duy lý lạnh lùng của Ivan kết hợp với chủ nghĩa cá nhân ích kỷ: "Tội ác chẳng những phải được cho phép, mà thậm chí được thừa nhận là lối thoát khôn ngoan nhất của người vô thần để ra khỏi tình thế khó khăn". Xmerdiakov giết người theo lý luận "mọi việc đều được phép làm" của Ivan, hắn chính là kẻ song trùng của Ivan. Với tư cách là nhà triết lý, Ivan đã đi từ cực đoan này đến cực đoan khác nhiều khi phản lại chính mình, ở anh ta không có sự thống nhất giữa nói và làm. Lý thuyết trừu tượng của anh ta dẫn tới nhưng hậu quả bẩn thỉu mà anh ta không thể nào nuốt trôi được. Cuộc đối chất của Ivan với lương tâm trong cuộc đối thoại với quỷ thật là đau lòng. Quỷ nhìn thấu ruột gan anh ta, nhắc lại lời lẽ trước đây anh ta đã nói, đòi anh ta phải nói - làm đi đôi với nhau. Số phận đã buộc chàng Ivan vô thần phải soi gương tự ngẫm kỹ mình, điều đó làm anh ta phát điên. Qua nhân vật Ivan, Dostoievsky biểu lộ sự thù ghét của ông đối với loại người vô thần duy lý.

    Lý trí lạnh lùng không chấp nhận tín ngưỡng, Ivan không chấp nhận Thượng đế, anh ta là con người nổi loạn. Cái ác ngự trị trên thế gian, bục tranh tội ác mà Ivan về ra với Alecxei rùng rợn đến nỗi Alecxei - người của Chúa buột miệng thốt lên: "Phải bắn". Sự phê phán của Ivan về trật tự cuộc sống đích thực là "nổi loạn". "Tôi nghĩ rằng, - Ivan bàn về Thượng đế nếu như không có quỷ, có nghĩa là quỷ do người tạo ra thì con người tạo ra quỷ theo hình ảnh của mình và giống như mình…" và "cả trái đất, từ vỏ đến ruột, đều thấm đẫm nước mắt".

    Ivan nhất quyết chống lại kiểu hài hoà của thế giới khiến cho con nai nằm ngủ cạnh con sư tử, nạn nhân hôn kẻ sát hại mình, kiểu hài hoà mà bà mẹ với viên tướng đã xua chó xé xác con bà, cùng với đứa con, cả ba ôm lấy nhau, mắt đẫm lệ cùng reo lên: "Chúa có lý!". Kiểu hài hoà ấy "không đáng một giọt nước mắt trẻ thơ". Như vậy thì Ivan thà cứ ôm những đau khổ không được trả thù còn hơn, "cho dù là tôi không có lý đi nữa". Đồng thời Ivan cũng cự tuyệt cái thế giới kiểu trại lính, được lý trí tổ chức theo định luật hình học, trong đó tất cả được xếp đâu vào đấy, được giản lược hoá, cá tính và tự do bị xoá bỏ.

    Câu chuyện "Viên Đại pháp quan tôn giáo" mà Ivan kể cho Alecxei nghe là những trang thâu tóm những suy nghĩ lâu năm của Dostoevsky về đạo thiên chúa La Mã, về vấn đề cá nhân và xã hội nói chung.

    Mười lăm thế kỷ sau ngày bị đóng đanh câu rút, Chúa trở lại thế gian, tới thành Xevin Tây Ban Nha giữa thời Pháp đình Tôn giáo tàn ác nhất.

    Dân chúng nhận ra Chúa và vui mừng khôn xiết. Viên Đại pháp quan chợt xuất hiện, ra lệnh bắt giam Chúa, dân chúng sợ một phép, im thít. Ban đêm, viên Đại pháp quan một mình vào ngục tối, bảo cho Chúa biết: từ khi Chúa về trời, thế gian đã được thu xếp ổn định, Chúa đến làm cho con chiên và các đấng chăn chiên không thể sống mà không bị lương tâm trách móc. Đạo của Chúa cao siêu quá, không vừa sức các tín đồ trần thế, nhà thờ đã từ bỏ nó từ lâu. Suy cho cùng, con người không đi tìm chúa Trời, mà tìm bánh mì trần gian. Nhà thờ Thiên Chúa nhân danh đấng Kito, nhưng đã sửa chữa Chúa, dùng cây thập giá và thanh kiếm thiết lập nhà nước của mình làm một tổ chức cưỡng bức để đem lại hạnh phúc cho con người. Nhà nước Thiên Chúa giáo đặt nền tảng trên phép lạ, sự bí mật và quyền lực. Đối với viên Đại pháp quan, mọi vấn đề đều đã được giải quyết dứt khoát.

    Quần chúng nhân dân, theo lời viên Đại pháp quan, vốn yếu đuối, bất lực, sai lầm của Chúa là không hiểu rằng con người không cần tự do bằng bánh mì. Bởi vì tự do đi đôi với lựa chọn, mà tự do lựa chọn tức là đau khổ gánh trách nhiệm. Chúa quên mất rằng "không có gì quyến rũ con người bằng tự do ý chí, nhưng cũng không có gì đau khổ hơn". Vì vậy quần chúng sẵn sàng đem đổi tự do lấy sự no đủ, yên bình. Các đấng chăn chiên cho họ một ít tự do và chủ yếu là bánh mì. "Phải, chúng tôi bắt họ làm việc, nhưng những lúc rảnh rỗi, chúng tôi tổ chức đời sống của họ như một trò chơi trẻ em, với những bài ca trẻ em, ban đồng ca, những điệu vũ hồn nhiên. Ồ, chúng tôi cho phép họ phạm tội, họ yếu đuối và bất lực, họ sẽ yêu chúng tôi như trẻ con yêu người lớn, vì chúng tôi cho phép họ phạm tội. Chúng tôi sẽ nói với họ rằng tội nào cũng có thể tha thứ được nếu sự phạm tội ấy được chúng tôi cho phép… Sự trừng phạt về những tội ấy, chúng tôi sẽ nhận lấy".

    Trong bản trường ca "Viên Đại pháp quan", Dostoievsky lên án gắt gao đạo Thiên Chúa mà ông căm ghét và đả kích quan niệm chủ nghĩa xã hội kiểu trại lính (Dostoievsky coi quan niệm này là chung cho mọi học thuyết về chủ nghĩa xã hội). Đây cũng là bài ca chống lại sự áp bức, sự xuyên tạc những tư tưởng vĩ đại. Lịch sử đã từng biết có những phong trào vĩ đại, mở đầu với lý tưởng cao đẹp, với những hứa hẹn hấp dẫn và kết cục lại ngược với lý tưởng. Chẳng hạn cuộc đại cách mạng Pháp thế kỷ XVIII với khẩu hiệu "Tự do - Bình đẳng - Bác ái" đã dẫn tới xã hội tư sản Pháp thế kỷ XIX nằm trong tay bọn con buôn.

    Trong tiểu thuyết, theo niềm tin của tác giả, tính ích kỷ và sự phủ nhận đạo đức gắn liền với quan niệm vô thần, không tin có Thượng đế, điều đó làm què quặt con người, dẫn đến tai hoạ: Fedor Pavlovich bị giết, kẻ sát nhân Xmerdiakov treo cổ tự tử, cuộc đời Ekaterina Ivanovna tan nát…

    Đối lại với những con người vô thần và Đại pháp quan, Dostoievsky hướng về Chúa cứu thế, về tu viện và xây dựng nhân vật Aliosa và Zoxima.

    Aliosa phải giữ một vai trò đặc biệt trong tác phẩm. Nhà văn gọi đó là "chàng trai của thời đại chúng ta", tất cả thiện cảm của ông dành cho nhân vật này. Aliosa là một "anticorp" (phản cơ thể) của gia đình Karamazov.

    Anh là một tâm hồn trong trắng của cái gia đình sục sôi dục vọng này, anh yêu con người và cho rằng mình không có quyền phán xét người khác. Anh có thiên khiếu khơi gợi lòng yêu mến của mọi người đối với mình, không bao giờ để bụng những điều xúc phạm đến mình. Tuy nhiên, "thày tu" này không xa lạ với dục vọng của con người, hiểu biết sâu sắc những đau khổ. Khi Ivan kể với Aliosa về chú bé nông nô bị chó săn xé xác, trả lời câu hỏi anh sẽ xử trí như thế nào với viên tướng đã làm việc đó, Aliosa kêu lên: "xử bắn!". Đấy là sự vi phạm điều răn không chống lại cái ác. Khi Ivan nói lên sự cảm phẫn đối với thế giới của Chúa. Aliosa nói: "Đấy là sự nổi loạn". Lại một lần nữa Aliosa vi phạm điều răn của nhà thờ. Đó là sự thắng lợi của chủ nghĩa hiện thực của Dostoievsky. Sự nghi ngờ của Aliosa về tính thần thánh của trưởng lão Zoxima khi xác ông bốc mùi cũng là thắng lợi của thực tế đối với ý đồ chủ quan. Về mặt tâm lý, hình tượng Aliosa có sức sống sinh động. Nhưng vai trò mà tác giả muốn gắn cho hình tượng này - vai trò của người nhờ ánh sáng tôn giáo mà vượt thắng được sự độc ác, lính tham lam, dục vọng điên cuồng - thì có vẻ ngây thơ, liệu sức thuyết phục. Người như Aliosa không làm ác với ai, nhưng thánh hạnh của anh bất lực, không làm nên điều thiện.

    Qua thư từ của Dostoievsky chúng ta được biết rằng với nhân vật Zoxima, nhà văn định khắc hoạ một người Kito giáo trong trắng, lý tưởng, có lý luận mà những lời thuyết giáng của ông ta sẽ đập tan tành những lời lẽ báng bổ Thượng đế của Ivan. Nhưng qua tác phẩm chúng ta thấy thế nào?

    Trong lời thuyết giảng tràng giang đại hải của trưởng lão về đời sống của nhân dân, trên thực tế, ta thấy đau khổ đầy rẫy dưới thế gian, cái ác đánh bại cái thiện. Người dân chết dần chết mòn vì nạn say rượu, tàn bạo với gia đình, với vợ con, "ở các công xưởng thậm chí tôi đã thấy cả những trẻ em mười tuổi, chúng còm cõi, héo hon và đã truỵ lạc". Trưởng lão nhìn thấy sự đối kháng giữa chủ và tớ diễn ra khắp nơi, ở châu Âu người nghèo nổi dậy dùng sức mạnh chống lại bọn bóc lột giàu có, đầu rơi máu chảy khắp nơi vậy thì làm sao mà chấp nhận được thế giới của Chúa Trời?

    Lối thoát mà trưởng lão đề ra cho nước Nga là "Chúa Trời sẽ cứu vớt con dân của Ngài, bởi vì nước Nga vĩ đại do sự quy thuận của mình" và "rồi đây cuối cùng ngay cả người giàu đồi bại nhất của chúng ta cũng sẽ xấu hổ với người nghèo về sự giàu có của mình, còn người nghèo thấy người giàu khiêm nhượng như vậy, sẽ hiểu họ và vui sướng nhượng bộ". Thật là ngây ngô, nhạt nhẽo. Những lời răn như thế lại do ngồi bút của nhà văn hiện thực và nhân đạo chủ nghĩa vĩ đại Dostoievsky viết ra, thật khó hiểu!

    Còn về lập luận của Zoxima đáp lại những lời lẽ vô thần và báng bổ Thượng đế của Ivan thì thật là yếu ớt, không có sức thuyết phục.

    Dostoievsky viết cho Pobedonoxev ngày 24 tháng Tám 1879: "Tôi sợ và run lên vì lo cho ông ta: liệu ông ta có đủ sức không?". Ý định của Dostoievsky dành cho Zoxima vai trò người thầy của cuộc sống rõ ràng là không thành công.

    Trong "Anh em nhà Karamazov", có một loại nhân vật hầu như không liên can gì đến gia đình Karamazov mà chiếm một vị trí lớn trong tác phẩm: trẻ em. Phần thứ mười của tác phẩm mang tên là Những cậu bé.

    Cuốn tiểu thuyết kết thúc bằng bài diễn thuyết của Aliosa Karamazov trước những đứa trẻ ấy trong ngày đưa đám Aliosa Xneghiriov. Những điều Aliosa nói với các chú bé là điều hết sức quan tròng đối với Dostoievsky.

    Mượn lời Aliosa, ông nói lên những ý nghĩ dường như là lời kêu gọi của ông với thế hệ mai sau.

    Những trang ông viết về trẻ em - đặc biệt về Iliusa và Cha Kraxotkin - thấm thía, cảm động phi thường, cho thấy tài nghệ tuyệt luân và sự am hiểu tâm lý trẻ em có một không hai mà khó có nhà văn nào viết nổi như thế. Nhà văn dành cả một chương cho hình tượng Kolia Kraxotkin. Tính cách của nhân vật này tập trung tất cả những suy nghĩ nhiều năm của Dostoievsky về trẻ em. Chú bé "hư vô chủ nghĩa" này thực ra rất tuyệt diệu: thông minh tự hào, công bằng, chân tình, dũng cảm, nhưng luôn nghi ngờ bản thân, muốn vượt trội hơn tất cả các bạn, ý muốn có ra mình có học và độc lập khiến chú phủ định tất cả những gì mà chú không biết (lên án việc dịch Voltaire mặc dù chú không biết Voltaire, chỉ trích Belinsky tuy chú chưa hề đọc Belinsky). Khuynh hướng chủ yếu của Kraxotkin vẫn là hướng tới tình bạn và lòng chân thành. Loại trẻ em như thế hiện có không ít trong các trường học của chúng ta thời nay.

    Tôn sùng sự trong trắng của tuổi thơ mà mỗi người nhất định phải gìn giữ trong tâm hồn, bất kể khi lớn lên anh trở thành người thế nào, đấy là điều tâm niệm của Dostoievsky. Đoạn kết của tác phẩm vang lên tiếng nói trẻ thơ, điều đó lộ niềm tin tươi sáng của nhà văn vào tương lai nhân loại.

    "Anh em nhà Karamazov" là một tác phẩm hiện thực theo nghĩa cao cả nhất có sức tố cáo hết sức lớn, đồng thời là tác phẩm rất lôi cuốn, khiến người đọc hồi hộp với sự phát triển căng thẳng của cốt truyện hình sự được bố trí rất mực khéo léo, nhưng bao trùm tất cả, nó là cuốn tiểu thuyết "triết lý" tuyến "triết lý" chiếm địa vị thống trị. Những vấn đề tư tưởng trọng đại, sự xung đột giữa các luồng tư tưởng đó thể hiện dưới hình thức những nghị luận của các nhân vật về các đề tài triết học, bản thân các nhân vật bị ám ảnh bởi những tư tưởng nhất định, các nhân vật gắn liền với tư tưởng của mình đến mức tư tưởng trở thành "bản ảnh thứ hai" của nhân vật. Thế nhưng đọc "Anh em nhà Karamazov" ta vẫn thấy Dostoievsky trong tác phẩm này là nhà tiểu thuyết hơn là nhà tư tưởng. Tài nghệ gắn kết một cách hữu cơ những yếu tố nghệ thuật khác loại - bức tranh hiện thực, tình kết hình sự, truyền thuyết, sự tích các thánh, triết luận, đã đạt tới mức thần tình số một trong văn học thế giới.

    Dostoievsky rất quý trọng những sự kiện có thực làm cơ sở cho tác phẩm, kể cả những chi tiết về địa điểm và thời gian hành động. Trong số ghi chép chuẩn bị cho "Anh em nhà Karamazov", ta đọc thấy: "Tìm hiểu xem có thể nằm dài giữa đường ray dưới xe lửa phóng hết tốc lực không", "Tìm hiểu về lao động của trẻ em trong các công xưởng". Để tả về tu viện và các tu sĩ, ông đã cùng với người bạn mới quen là triết gia Vladimir Xoloviev đến thăm tu viện Optina, ở lại đấy hai ngày. Theo nhận xét của Anna Grigorievna, vợ Dostoievsky, đoạn tả người phụ nữ đến gặp trưởng lão để được an ủi về đứa con trai lên ba tuổi vừa chết phản ánh chân thực nỗi đau xé ruột của bà và Dostoievsky về bé Alecxei của họ vừa qua đời; Alecxei chết năm lên ba và những lời than khóc của họ cũng như vậy. Như vậy ta hiểu được vì sao sự miêu tả của cuộc sống của tác giả cụ thể và sống động đến vậy.

    Trong tất cả các tác phẩm của Dostoievsky, "Anh em nhà Karamazov" là cuốn tiểu thuyết dễ hiểu nhất, nhiều tính cụ thể nhất, bố cục sáng rõ nhất của ông. Ở đây không có cái mù mờ của Bọn người quỷ ám, không có cái rắc rối của Gã mới lớn. Sự phân chia các phần, quyển, chương ứng với những giai đoạn hành động. Phần thứ nhất kể về lịch sử trước đó của gia đình Karamazov, ta được biết các tính cách, linh cảm thấy bầu không khí tội lỗi và vụ sát nhân sẽ xảy ra, nhưng không ngờ đích xác cho ai: Phần thứ hai là sự kìm chậm hành động, chuyển sang đề tài hệ tư tưởng. Phần thứ ba, tội phạm xảy ra, Dmitri bị kết án, ở đây Dostoievsky phỉ nhổ cái toà án giả dối, tàn bạo thời đó. Phần thứ ba giải quyết vấn đề: ai giết? Mỗi chương đều có chức năng, vai trò rõ rệt.

    Nhà nghiên cứu Xô viết có uy tín M. M. Bakhotin đã chỉ rõ tính đa thanh (nhiều giọng nói) là đặc điểm quan trọng nhất ở các tiểu thuyết của Dostoievsky. Trong tính đa thanh, điều trước hết là lập trường nghệ thuật mới của tác giả đối với nhân vật: nhân vật có tính tự chủ, có tự do bên trong, về nguyên tắc không chịu sự xác định trước theo cách định giá dứt khoát của tác giả. Tiếng nói của tác giả về nhân vật được tổ chức như tiếng nói của người đang có mặt, nghe tác giả nói và có thể trả lời tác giả. Tiếng nói của nhân vật (quan điểm của nhân vật về thế giới) có giá trị ngang tiếng nói của tác giả, cùng cất lên với tiếng nói của tác giả và tiếng nói đay đủ giá trị của các nhân vật khác. Như vậy, trong tác phẩm của Dostoievsky, nhiều nhân vật cùng thuật chuyện về một sự biến, tạo nên những cách hiểu khác nhau về sự biến đó. Chẳng hạn, diễn văn của biện lý và luật sư trong phiên toà xử Mitia. Tính đa thanh còn có trong tâm hồn mỗi nhân vật, nhân vật có thể có nhiều quan niệm, ý kiến, dao động, nói một đằng nghĩ một nẻo.

    Cũng do tính đa thanh, đối thoại chiếm một vị trí phi thường trong tác phẩm Dostoievsky. Các nhân vật của ông tranh cãi với nhau, nêu lên những vấn đề quan trọng nhất về thế giới quan, về bổn phận đạo đức, về ương quan giữa người với người. Ivan Karamazov, trên lập trường không chấp nhận thế giới hiện có, đã say sưa đưa ra luận chứng đanh thép đến nỗi các nhân vật của phái "quy thuận" không sao bác bỏ được. Thế nhưng ý tưởng được đề cập tới trong tranh luận không phải là thuần tuý trìu tượng, mà mang cả tính riêng của người phát biểu: không có "sự thật phi cá tính", sự thật về thế giới bao giờ cũng là sự thật của cá nhân. Cho nên, tư tưởng được nêu lên bao giờ cũng đậm đà mãnh liệt, mặt khác nhân vật dù có tính tiêu biểu đến đâu cũng không thành biểu tượng, mà là có xương có thịt.

    Một trong những cái độc đáo nữa của Dostoievsky là các nhân vật của ông bao giờ cũng hiện hữu trước hết với chính bản thân mình, với lương tâm của chính mình. Vì thế, những tâm tư sâu kín của nhân vật hiện ra trước chúng ta với tất cả sự bộn bề của "những câu hỏi đáng nguyền rủa".

    Thời gian nghệ thuật của Dostoievsky cũng khác thường, cô nén đặc biệt. Sự biến rất nhiều dồn lại trong thời gian hết sức ngắn, xung quanh một việc làm trung tâm. Hiện tại bao giờ cũng hàm chứa dĩ vãng và bao giờ cũng mang mầm mống của tương lai. Ivan Karamazov bị giày vò vì ý thức được tất cả những tội ác mà nhân loại phạm phải trong tất cả các thế kỷ. Mitia Karamazov muốn chuộc lỗi về một tội mà mình chỉ nghĩ đến chứ chưa làm. Với Dostoievsky, tương lai hiện ra như sự chấm dứt đau khổ, như mơ ước về "sự phục hưng" con người.

    Tiểu thuyết "Anh em nhà Karamazov" là một bằng chứng hùng hồn về Phép màu của sự thể hiện nghệ thuật: vốn sống được dùng để tạo nên hình tượng có thể rộng hơn quan niệm chủ quan của tác giả. Nói theo lời Doboroliubov, ở đây logic của sự liên kết các sự kiện khách quan và những kết luận nảy sinh từ đó bắt đầu có tác động.

    Herman Hexxo, nhà văn Đức thời nay viết: "Một con người đơn độc mà viết nổi "Anh em nhà Karamazov" thì đó là phép màu".

    Lời tác giả
    Tặng Anna Grigorievna Dostoievskaia
    Thực, ta bảo thực các ngươi: nếu hạt lúa mì gieo xuống đất chẳng chết đi thì nó sẽ cứ ở một mình, nhưng nếu nó chết đi thì kết quả được nhiều.
    Phúc Âm theo Gioan, chương XII, tiết 24

    Bắt đầu vào pho tiểu sử nhân vật của tôi. Alecxei Fedorovich Karamazov, tôi hơi băn khoăn. Thế này nhé: tuy tôi gọi Alecxei Fedorovich là nhân vật của tôi nhưng chính tôi biết anh ta tuyệt nhiên không phải là con người vĩ đại 1 , vì thế tôi thấy trước những câu hỏi không tránh khỏi đại loại như anh chàng Alexei Fedorovich của ông có gì đáng chú ý mà ông chọn anh ta làm nhân vật của mình? Anh ta đã làm được điều gì đáng kể. Ai biết đến anh ta và vì lẽ gì? Tại sao tôi là người đọc lại phải mất thời giờ nghiên cứu nhưng sự việc trong cuộc đời anh ta?

    Câu hỏi cuối cùng là ác nghiệt nhất, bởi vì tôi chỉ có thể trả lời: "Có lẽ, chính bạn sẽ thấy khi đọc bộ tiểu thuyết". Nhưng nếu người ta đọc mà không thấy, không đồng ý rằng Alexei Fedorovich của tôi có cái đặc sắc thì sao? Tôi nói thế là bởi tôi đau lòng thấy trước điều đó. Theo tôi thì anh ta là con người đặc sắc nhưng tôi rất ngờ là tôi có thể chứng minh điều đó với bạn đọc.

    Duyên do vì có lẽ đây là một nhà hoạt động, nhưng nhà hoạt động loại gì thì không xác minh được, không rõ ràng, tuy nhiên trong cái thời buổi như thời buổi chúng ta mà đòi hỏi ở người ta sự rõ ràng thì kể cũng lạ. Dut có một điều có lẽ khá chắc chắn: đây là con người lạ lùng, thậm chí là kỳ quặc. Nhưng thói lạ đời và kỳ quặc gây tác hại hơn là cho người ta cái quyền được chú ý, đặc biệt khi cả bàn dân thiên hạ đều ra sức hợp nhất những cái riêng lẻ và tìm một ý nghĩa chung nào đó cho sự hỗn độn toàn thể. Kẻ kỳ quặc, trong đa số trường hợp là hiện tượng riêng biệt. Phải thế không?

    Nhưng nếu các bạn không đồng ý với luận điểm trên đây và trả lời "Không phải thế" hay "Không phải bao giờ cũng thế" thì có lẽ tôi sẽ phấn chấn lên về giá trị nhân vật Alexei Fedorovich của tôi. Bởi vì kẻ kỳ quặc chẳng những không phái bao giờ cũng là" cái riêng biệt, mà trái lại, nhiều khi có lẽ kẻ đó mang trong mình cái cốt lõi của toàn thể, còn tất cả những người cùng thời khác, không rõ vì lý do gì, bị một ngọn gió vô hình nào đó tạm thời cuốn dời khỏi kẻ đó…

    Tuy nhiên, tôi không muốn đi vào những lời giải thích nhàm chán và mơ hồ ấy mà muốn bắt đầu ngay một cách giản dị tự nhiên, không tựa đề gì hết: thích thì đọc nhưng khốn nỗi truyện tiểu sử của tôi chỉ có một, mà hoá ra lại thành hai tiểu thuyết. Tiểu thuyết chính là tiểu thuyết thứ hai, đây là hoạt động của nhân vật của tôi, mà lại trong thời đại chúng ta, đúng vào lúc này của chúng ta. Tiểu thuyết thứ nhất viết về chuyện xảy ra từ mười ba năm trước, thậm chí hầu như không phải là tiểu thuyết, mà chỉ là một quãng trong thời đầu tuổi xuân của nhân vật của tôi. Tôi không thể bỏ qua tiểu thuyết thứ nhất vì như thế sẽ có nhiều điều trong tiểu thuyết thứ hai trở nên không thể hiểu được. Nhưng như vậy sự lúng túng ban đầu của tôi càng trở nên rắc rối hơn: nếu như tôi, tức là chính người viết tiểu sử cho rằng một tiểu thuyết cũng quá đủ đối với một nhân vật xoàng xĩnh và bất định như thế thì cớ gì tôi lại ra mắt với hai tiểu thuyết vả tôi lấy gì giải thích sự nhông nhạo như thế về phần tôi".

    Lúng túng trong việc giải đáp nhưng câu hỏi này, tôi quyết định bỏ qua không giải đáp gì cá. Đương nhiên, độc giả tinh ú đã đoán ra từ lâu rằng ngay từ đầu tôi đá nhằm mục đích ấy và chỉ bực về nỗi tại sao tôi phí lời vô ích và phí thời gian quý báu. Về điều này tôi xin trả lời rành rẽ, tôi phí lời vô ích và phí thời gian quý báu, thứ nhất là vì lễ độ, thứ hai là vì ranh mãnh: dù sao tôi đã báo trước một điều gì. Tuy nhiên, tôi vẫn lấy làm vui sướng vì tiểu thuyết của tôi tự nó tách thành hai truyện có "sự thống nhất căn bản của toàn bộ": xem xong truyện đầu, bạn đọc đã tự thân rõ có nên bắt vào truyện thứ hai không. Cố nhiên chẳng ai bị ràng buộc gì hết, có thể quẳng sách đi ngay sau khi đọc vài trang đầu để rồi không bao giờ mở sách ra nữa. Nhưng cũng có những độc giả kỹ tính nhất quyết muốn đọc đền hết để khỏi sai lầm trong sự phán đoán vô tư của mình: chẳng hạn tất cả các nhà phê bình Nga đều như thế. Trước những người như thế dù sao ta cũng đỡ ngại hon: mặc dù tất cả sự cẩn thận và tận tâm của họ, tôi vẫn cứ cho họ một cái cớ hết sức chính đáng để vứt bó cuốn truyện ngay ở đoạn đầu của thiên tiểu thuyết. Tất cả lời nói đầu chỉ có thế thôi. Tôi hoàn toàn đổng ý rằng nó là thừa, nhưng vì đã viết rồi thì cứ để thế.

    Còn bây giờ thì vào việc.

    TÁC GIÀ



    Quyển 1. Câu chuyện một gia đình
    Chương 1

    Fedor Pavlovich Karamazov
    Alecxei Fedorovich Karamazov là con thứ ba một địa chủ hạt chúng tôi tên là Fedor Pavlovich Karamazov, người đã có thời làm xôn xao dư luận (mà đến tận bây giờ cũng còn được nhắc đến ở vùng chúng tôi) do cái chết bi thảm và mờ ám của ông ta xảy ra đúng mười ba năm trước, rồi đến một lúc nào đó tôi sẽ kể chuyện này. Còn bây giờ, về ông "địa chủ" đó người ta gọi ông ta như vậy, tuy suốt đời ông ta hầu như không cư ngụ tại điền địa của mình, tôi chỉ nói rằng đấy là một kẻ thuộc loại người lạ lùng tuy là khá thường gặp, chính là loại người chẳng những đồi bại và trác táng mà còn vô lối biết lo liệu rất khôn khéo mọi việc lắt léo liên quan đến tài sản của mình. Chàng hạn Fedor Pavlovich bước vào đời gần như là tay trắng, vốn điền sản của ông ta rất nhỏ nhoi, ông ta chuyên đi chực bữa nhà người, khét tiếng là kẻ ăn boóng, vậy mà lúc chết ông ta còn có đến một trăm ngàn rúp tiền mặt. Tuy thế suốt đời òng ta cứ là kẻ ngông cuồng nhất trong hạt chúng tôi. Tôi xin nhắc lại lần nữa: đây không phải là ngu xuẩn; phần lớn những kẻ ngông cuồng ấy khá tinh khôn và ranh mãnh, mà đây là vô lối nhưng là cái vô lối khá đặc biệt, mang màu sắc dân tộc.

    Ông ta đã hai đời vợ và có ba con trai: con cả, Dmitri Fedorovich, là con người vợ thứ nhất, hai đứa còn lại Ivan và Alecxei, là con người vợ sau. Người vợ đầu của Fedor Pavlovich là con một gia đình khá giàu có và danh tiếng thuộc dòng họ quý tộc Miuxov, cũng là địa chủ vùng chúng tôi. Làm sao một cô gái có của hồi môn, lại xinh đẹp, thêm nữa lại thuộc loại thông minh lanh lợi, - loại thiếu nữ không lấy gì làm hiếm trong thế hệ hiện nay, nhưng thời trước cũng vẫn có, - mà chịu lấy một gã "còm nhom" (như mọi người hồi ấy vẫn gọi gã) và hèn mọn như thể, điều này tôi sẽ không giải thích rườm rà. Tôi biết một cô gái thuộc thế hệ "lãng mạn" thời trước, sau mấy năm đeo đuổi mối tình bí ẩn với một người danh giá mà cô ta bao giờ cũng có thể rất yên tâm về làm vợ ông ta, nhưng rốt cuộc cô ta lại tưởng tượng ra những trở ngại không thể vượt qua được và một đêm bão bùng, từ mé bờ cao giống như một ghềnh đá cheo leo, cô ta gieo mình xuống dòng sông khá sâu cháy xiết: cô ta chết do tính đồng bóng của chính mình, chỉ cốt để được giống như Ophelia của Shakespeare, thậm chí nếu như bờ đá cheo leo ấy, mà cô đã để ý và ưa thích từ làu, không được nên thơ như thể, nếu như hay vào đó chỉ là một bờ sông bằng phẳng tầm thường thì có lẽ không làm gì có chuyện tự vẫn. Đấy là việc có thực, và hẳn là trong đời sống Nga của chúng ta, hai hay ba thế hệ gần đây, những sự việc cùng loại đã xảy ra không ít. Cũng tương tự như vậy, hành động của Adelaida Ivanovna Miuxova chắc chắn là hồi âm của những luồng gió nước ngoài dội vào: đồng thời cũng là sự bực tức của tư tưởng bị cầm tù. Có lẽ nàng muốn biểu lộ ý chí độc lập của phụ nữ, đi ngược lại hoàn cảnh xã hội, chống lại sự chuyên chế của họ mạc và gia đình, và trí tưởng tượng hay chiều lòng người khiến nàng tin chắc, dù chỉ trong giây lát rằng Fedor Pavlovich tuy có tiếng là kẻ ăn chực, nhưng vẫn là một người can đảm nhất và tinh quái nhất trong cái thời đại đang chuyển mình theo chiều hướng tốt: nhưng thực ra gã chỉ là một thằng hề độc ác, không hơn không kém. Điều giật gân là sự việc xoay chuyển tới chỗ cô nàng bỏ nhà trốn theo gã và lấy thế làm khoái chí. Còn về phần Fedor Pavlovich thì thậm chí do địa vị xã hội của gã, gã hoàn toàn sẵn sàng thực hiện tất cả những trò vào loại đó, và gã háo hức muốn tiến thân bằng bất kỳ cách nào: chui luồn được vào một gia đình tử tế và kiếm được món hồi môn, là điều hết sức hấp dẫn. Còn về tình yêu đôi lứa thì hình như hoàn toàn không có, cả nàng cũng như chàng, mặc dù Adelaida Ivanovna rất xinh đẹp. Thành thử có lẽ đấy là trường hợp duy nhất thuộc loại này trong đời Fedor Pavlovich, một kẻ suốt đời háo sắc, sẵn sàng bám ngay lấy bất cứ cái váy nào vẫy gọi gã. Duy chỉ có người phụ nữ này không khơi gợi trong gã một hứng thú tình dục đặc biệt nào cả.

    Ngay sau khi bỏ nhà theo gã, Adelaida Ivanovna thấy ngay rằng nàng chỉ có thể khinh bỉ chồng, ngoài ra không còn gì khác. Như vậy, hậu quả của cuộc hôn nhân bộc lộ ra nhanh chóng lạ thường. Tuy sau đó khá nhanh, gia đình đành chấp nhận cuộc hôn nhân ấy và cho cô gái trốn nhà theo trai một món hồi môn, nhưng cuộc sống vợ chồng hết sức lục đục và chuyện cãi cọ xảy ra luôn. Nghe đâu cô vợ trẻ tỏ ra thanh tao và cao cả hơn Fedor Pavlovich nhiều, gã này, như về sau được biết, ngay hồi ấy đã nẫng luôn của nàng tất cả số vốn liếng hai mươi nhăm ngàn rúp khi nàng vừa mới nhận được, từ đó, mấy chục ngàn ấy mất tăm luôn. Còn một cái ấp nhỏ và một ngôi nhà khá đẹp ở thành phố cũng là một hồi môn của nàng, thì trong một thời gian dài gã dùng đủ mọi cách sang tên cho mình bằng thủ tục giấy tờ hợp lệ nào đó, và đã đạt được mục đích ấy hẳn là chỉ bằng một thủ đoạn duy nhất: thường xuyên nài ép và van vỉ một ách trơ trẽn khiến nàng khinh bỉ và ghê tởm gã, và chỉ vì mệt mỏi về tinh thần mà nàng đành ưng thuận, cốt sao khỏi bị gã làm rày. May sao gia đình Adelaida can thiệp và kìm tay kẻ chiếm đoạt. Ai nấy đều biết giữa hai vợ chồng thường xảy ra xô xát, nhưng theo lời đồn, người đánh đòn không phải là Fedor Pavlovich, mà là Adelaida Ivanovna, nàng là một phụ nữ nóng nảy, táo bạo, nước da bánh mật, thiếu kiên nhẫn, khỏe lạ thường. Rốt cuộc nàng bỏ chồng trốn đi với một anh chàng chúng sinh nghèo kiết xác, để lại cho Fedor Pavlovich thằng Mitia mới lên ba. Fedor Pavlovich tức khắc lập lên trong nhà cả một hậu cung và ăn chơi nhậu nhẹt bừa phứa. Những lúc tạm nghỉ, y đi lung tung gần khắp tỉnh và gặp ai cũng than vãn thảm thiết về cô ả Adelaida Ivanovna đã bỏ y, thêm nữa y còn kể lể những chi tiết hết sức đáng ngượng về sinh hoạt vợ chồng của y. Đáng kể nhất là y tuồng như thích thú, thậm chí khoái trá trình diễn trước thiên hạ vai trò anh chồng mọc sừng lố bịch của mình và còn tô đậm màu sắc những chi tiết về nỗi nhục của y. "Nom cứ như anh được thăng chức vậy. Fedor Pavlovich ạ. Anh có vẻ hể hả lắm bất chấp tất cả sự đau xót của anh", - những kẻ nhạo báng nói với y như vậy. Nhiều người còn nói thêm rằng có lẽ y lấy làm vui sướng trong bộ dạng mới của vai hề và để tăng thêm hiệu quả gây cười, y cố ý làm như không nhận thấy tình thế khôi hài của y. Nhưng ai biết được, có thể đấy là sự ngây thơ của y. Cuối cùng y đã tìm ra tung tích cô vợ theo trai. Cô nàng ở Peterburg: nàng đến đấy cùng với anh chàng chủng sinh và ở đó nàng dấn mình vào một cuộc sống hoàn toàn phóng túng. Fedor Pavlovich lập tức tất tưởi sửa soạn đi Peterburg, - để làm gì? - cố nhiên chính y cũng không biết. Của đáng tội, có lẽ y muốn đi thật đấy, nhưng một khi đã quyết như vậy, y cho rằng y có cái quyền đặc biệt lại lao đầu vào cuộc rượu tràn cung mây để thêm hăng hái trước khi lên đường.

    Nhưng đúng lúc ấy gia đình bên vợ nhận được tin con gái họ đã bạc mệnh ở Peterburg. Nàng chết bất thần trên một gác trang, người thì bảo là do bệnh thương hàn, người thì bảo là chết đói.

    Fedor Pavlovich biết tin vợ chết giữa lúc đang cơn say. Người ta kháo rằng y chạy ra phố và gào lên, vui sướng giơ hai tay lên trời: "Từ nay Chúa giải thoát cho con"; một số người khác lại nói rằng y khóc rưng rức như đứa trẻ, thậm chí nhìn y mà thương tâm, mặc dù người ta ghê tởm y. Rất có thể là cả hai bên đều đúng, nghĩa là y vừa vui sướng vì được giải phóng, vừa khóc người giải phóng cho mình. Nhiều khi người đời, dù là độc ác, cũng vẫn ngây thơ và chất phác hơn ta tưởng. Vả chăng, chính chúng ta cũng thế.

    --------------------------------
    1 "Heroi" trong tiếng Nga vừa có nghĩa là nhân vật, vừa có nghĩa là người anh hùng, tương đương với từ héros tiếng Pháp (N.D).

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 6 - TẠI SAO TRÊN ĐỜI LẠI CÓ MỘT NGUỜI NHƯ THẾ!
    Dmitri Fedorovich là một thanh niên hai mươi tám tuổi, người tầm thước có khuôn mặt dễ coi, nhưng dường như già hơn tuổi. Thân hình chàng cơ bắp nở nang, có thể đoán được chàng có thể lực hơn người, nhưng mặt chàng có một vẻ gì bệnh hoạn. Mặt hốc hác, má hõm, nước da vàng ệch. Mắt ốc nhồi khá to thẫm màu, có cái nhìn rõ ràng là bướng bỉnh, nhưng hơi vu vơ. Ngay cả khi chàng xúc động và nói năng cáu kỉnh, ánh mắt dường như cũng không ăn nhập với nội tâm, mà biểu lộ một cái gì khác đôi khi hoàn toàn không phù hợp với lúc đó". "Khó mà biết được anh ta đang nghĩ gì". - những người đã nói chuyện với chàng đôi khi nhận xét như vậy. Có khi người ta nhìn thấy trong mắt chàng một vẻ gì đăm chiêu và buồn bực nhưng bỗng nhiên người ta sửng sốt vì tiếng cười bất ngờ chứng tỏ chàng đang có những ý nghĩ vui vẻ và tinh nghịch đúng vào lúc mắt chàng lộ vẻ buồn bực như vậy. Tuy nhiên, mặt chàng lúc này hơi có vẻ đau ốm thì cũng dễ thôi: mọi người đều biết hoặc nghe nói về cuộc sống "chơi bời" sóng gió mà chàng dấn mình vào trong thời gian gần đây, cũng như ai nấy đều biết chàng hết sức bực tức do những cuộc cãi cọ với bố về chuyện tranh chấp tiền nong. Trong thành phố đã lan truyền mấy chuyện tiếu lâm về việc này. Của đáng tội, anh chàng vốn bẳn tính, một "đầu óc tản mạn và lệch lạc" như viên thẩm phán hoà giải Xemion Ivanovich Katsannikov của chúng tôi đã nhận xét trong một cuộc họp. Chàng vào, ăn mặc bảnh bao không chê vào đâu được, áo ngoài cài cúc, đi găng tay đen, hai tay cầm chiếc mũ cao thành. Là một quân nhân mới xuất ngũ, chàng để ria còn râu cằm cạo nhẵn. Tóc màu hạt dẻ sẫm cắt ngắn và hai bên tóc mai chải lật về phía trước. Chàng bước những bước dài cả quyết, kiểu con nhà binh. Chàng dừng lại giây lát ở ngưỡng cửa, đưa mắt nhìn tất cả mọi người rồi tiến thắng đến trước trưởng lão vì đoán ra Cha là chủ ở đây. Chàng rạp mình chào và xin ban phước. Trưởng lão đứng dậy ban phước, Dmitri kính cẩn hôn tay Cha và thốt lên, giọng xúc động lạ thường gần như cáu kỉnh.
    - Xin rộng lòng thứ lỗi cho tôi đã để các vị phải chờ lâu như thế. Nhưng mặc dù tôi hỏi đi hỏi lại là mấy giờ, tên gia nhân Xmerdiakov mà ba tôi sai đi đã hai lần trả lời hết sức quả quyết rằng thời gian đã định là một giờ. Bây giờ tôi mới biết rằng…
    - Ông đừng ngại, - trưởng lão ngắt lời - không sao, chậm một chút không có gì ghê gớm…
    - Rất đỗi cảm ơn Cha, lòng tốt của Cha quả đúng như con mong đợi.
    Nói xong mấy lời gọn lỏn ấy, Dmitri Fedorovich cúi chào lần nữa, rồi đột ngột quay về phía "ba" mình, rạp mình chào cũng kính cẩn như thế. Rõ ràng là chàng đã nghĩ kỹ từ trước về cái chào ấy với tấm lòng chân thành, chàng cho rằng mình có bổn phận bày tỏ sự tôn kính và thiện ý. Fedor Pavlovich này bị bất ngờ, nhưng lập tức ứng biến theo cách riêng của ông ta: đáp lại cái chào của con, ông ta bật dậy khỏi ghế và chào lại con cũng cung kính như thế. Mặt ông bỗng trở nên minh trọng và oai nghiêm, nhưng vì thế lại có vẻ hết sức độc ác. Dmitri Fedorovich lặng lặng cúi chào tất cả mọi người có mặt trong phòng, rồi sải mấy bước dài và cả quyết đi về phía cửa sổ, ngồi xuống chiếc ghế duy nhất còn lại cách chỗ Cha Paixi không xa, và nhoai hẳn người về phía trước, sẵn sàng nghe người ta bàn tiếp câu chuyện bỏ dở.
    Sự xuất hiện của Dmitri Fedorovich chiếm mất không quá hai phút, và cuộc chuyện trò không thể không tiếp tục. Nhưng lần này Petr Alecxandrovich không thấy cần thiết phải trả lời câu hỏi dai dẳng và gần như cáu kỉnh của Cha Paixi.
    - Tôi xin phép gác bỏ đề tài này, - ông nói với giọng khinh khỉnh của người thượng lưu. - Vả chăng đây là một đề tài rắc rối.
    - Đấy kìa, Ivan Fedorovich đang cười chúng ta đấy, chắc hẳn anh ấy có chuyện gì thú vị muốn nói.
    - Chẳng có gì đặc biệt, ngoài một nhận xét nhỏ! - Ivan Fedorovich trả lời liền. - Nói chung, chủ nghĩa tự do châu Âu và ngay cả thói tài tử phóng túng của người Nga chúng ta đã từ lâu vẫn hay trộn lẫn những kết quả cuối cùng của chủ nghĩa xã hội và những kết quả cuối cùng của Kito giáo. Cái kết luận kỳ quái ấy cố nhiên là một nét đặc trưng. Thế nhưng không phải chỉ có những người theo chủ nghĩa tự do và những kẻ có đầu óc tài tử mới lẫn lộn chủ nghĩa xã hội với Kito giáo, mà trong nhiều trường hợp cả sen đầm cũng vậy, tất nhiên đây là nói sen đầm nước ngoài. Cái giai thoại Paris mà bác vừa kể khá tiêu biểu đấy, bác Petr Alecxandrovich ạ.
    - Nói chúng tôi xin phép quý vị gác bỏ đề tài ấy. - Petr Alecxandrovich nhắc lại. - Thưa quý vị, thay vào đó tôi xin kể một giai thoại khác, rất lý thú và rất tiêu biểu về chính Ivan Fedorovich. Cách đây không quá năm ngày, trong một cuộc họp mặt tại thành phố này mà phụ nữ chiếm phần lớn, nhân lúc tranh luận anh ấy đã tuyên bố rằng trên trái đất này tuyệt nhiên không có cái gì khiến người ta phải yêu đồng loại, không có cái luật tự nhiên nào bảo người ta phải yêu nhân loại, nếu như cho đến nay vẫn có tình yêu trên trái đất thì không phải là do luật tự nhiên, mà chỉ là vì người ta tin ở linh hồn bất diệt của mình, Ivan Fedorovich khi ấy đã mở ngoặc nói thêm rằng tất cả luật tự nhiên ở đó, thành thử nếu tiêu huỷ trong con người lòng tin ở linh hồn bất diệt thì chẳng phải tình yêu, mà mọi sinh lực để tiếp tục cuộc sống trần thế sẽ cạn kiệt. Hơn nữa, khi ấy sẽ không còn cái gì là vô đạo đức, mọi việc đều được phép làm, ngay cả án giết người. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, cuối cùng anh ấy còn kết luận rằng đối với mỗi con người cá biệt như chúng ta đây chẳng hạn, nếu không tin có Thượng đế cũng như không tin mình có linh hồn bất diệt thì luật đạo đức của thiên nhiên ắt phải lập tức biến thành cái đối lập hoàn toàn với luật đạo đức tôn giáo trước đây và con người chẳng những phải được phép ích kỷ đến độ tàn ác mà sự ích kỷ đó còn được thừa nhận là lối thoát cần thiết, hợp lý nhất và gần như là cao quý nhất của con người. Cứ theo cái ý kiến ngược đời như thế, thưa quý vị, có thể kết luận về tất cả những gì còn lại mà Ivan Fedorovich đáng mến, con người kỳ quặc và ưa sự ngược đời, thấy là nên công bố và có lẽ vẫn còn có ý định công bố ra.
    - Xin cho hỏi. - Dmitri Fedorovich đột nhiên kêu lên, - nếu tôi nghe không lầm: "Sự gian ác chẳng những được phép làm, mà còn được thừa nhận là lối thoát hết sức cần thiết và thông minh nhất cho bất cứ người vô thần nào". Phải thế không ạ?
    - Đúng thế - Cha Paixi nói.
    - Tôi sẽ ghi nhớ.
    Nói đoạn, Dmitri Fedorovich im bặt ngay, cũng đột ngột như khi chàng xen vào câu chuyện. Mọi người tò mò nhìn chàng.
    - Có thực ông tin chắc trong khi con người không còn tin có linh hồn bất diệt thì hậu quả ắt là như thế không? - Trưởng lão bỗng hỏi Ivan Fedorovich.
    - Vâng tôi khẳng định điều đó. Không có đức hạnh nếu không có sự bất diệt của linh hồn.
    - Nếu ông tin như thế thì ông thật hạnh phúc hoặc là rất bất hạnh!
    - Tại sao lại bất hạnh? - Ivan Fedorovich mỉm cười.
    - Bởi vì nhiều phần chắc là ông không tin linh hồn ông là bất diệt, mà cũng không tin những gì ông viết về giáo hội và vấn đề giáo hội.
    - Có lẽ Cha có lý!… Nhưng dẫu sao không hẳn là tôi nói đùa… - Ivan Fedorovich bỗng thú nhận, và sự thú nhận lạ lùng ấy lập tức khiến chàng đỏ mặt.
    Không hẳn là ông đùa, đúng vậy. Ý nghĩ ấy vẫn chưa nhất quyết trong tâm tư ông, vì vậy ông bị giày vò. Nhưng kẻ bị hành hạ đôi khi thích tiêu khiển bằng sự thất vọng của mình, hoặc giả cũng do thất vọng. Hiện giờ do thất vọng mà ông tiêu khiển bằng các bài báo, những cuộc tranh luận phù phiếm, nhưng chính ông không tin phép biện chứng của mình và đau lòng tự cười mình. Ở ông vấn đề đó chưa được giải quyết đấy là nỗi đau xót lớn của ông, vì nó khẩn thiết đòi phải được giải quyết.
    - Thế liệu nó có thể được giải quyết trong tâm tư tôi không?
    - Giải quyết theo hướng khẳng định ấy à? - Ivan Fedorovich tiếp tục nêu ra câu hỏi lạ lùng đồng thời nhìn trưởng lão, miệng vẫn mỉm cười khó hiểu.
    - Nếu không thể giải quyết theo hướng khẳng định thì không bao giờ có thể giải quyết hướng phủ định, chính ông, biết tính chất ấy của trái tim ông, tất cả sự giày vò của nó là vì thế. Nhưng ông hãy cảm ơn đấng Tạo Hoá đã cho ông một trái tim cao cả có khả năng đau khổ vì nỗi day dứt như thế, có khả năng "suy ngẫm và tìm kiếm những việc trên Trời. Vì chỗ ở của chúng ta là ở trên Trời". Cầu Chúa cho trái tim ông tìm được cách giải quyết ngay trên cõi thế gian này và Chúa ban phước lành cho con đường ông đi!
    Trưởng lão giơ tay lên, toan ngồi tại chỗ làm dấu thánh giá cho Ivan Fedorovich. Nhưng chàng bỗng đứng dậy, tới trước Cha, nhận phước Cha ban cho, rồi hôn tay Cha và lẳng lặng trở về chỗ. Nom chàng kiên quyết và nghiêm trang. Hành động ấy cũng như toàn bộ cuộc nói chuyện trước đó với trưởng lão, cuộc nói chuyện bất ngờ do Ivan Fedorovich mà ra, có tính chất bí ẩn và thậm chí có phần trịnh trọng khiến cho mọi người đều sửng sốt đến nỗi tất cả đều im lặng một lát, còn mặt Aliosa lộ vẻ gần như sợ hãi. Nhưng Miuxov bỗng nhún vai và đúng lúc ấy Fedor Pavlovich bật dậy khỏi ghế.
    - Kính thưa trưởng lão thần thánh và tối thiêng liêng! - ông ta trỏ Ivan và kêu lên. - Đây là con trai con, máu mủ ruột thịt của con phần máu thịt yêu quý nhất của con! Đây là đứa con đáng trọng nhất của con, có thể nói là Carl Mor, còn anh con trai này vừa vào ban nãy, mà con muốn nhờ Cha giúp con để trị nó, là tên Franx Mor đại bất kính, - cả hai đều là nhân vật trong "Lũ kẻ cướp của Siller, còn bản thân con trong trường hợp này, con là Regierender Graf Von Mor!(1)" Xin Cha hãy phân xử và cứu vớt chúng con! Chúng con không chỉ cần những lời cầu nguyện của Cha, mà cần cả lời tiên tri của Cha.
    - Ông đừng nói năng kiểu dở điên dở dại và đừng có xúc phạm người nhà ông. - Trưởng lão trả lời bằng giọng suy kiệt.
    Cha mệt mỏi trông thấy, càng về sau càng đuối hơn, mất sức rõ rệt.
    - Một trò hài kịch vô liêm sỉ mà tôi linh cảm thấy ngay khi đến đây. - Dmitri Fedorovich phẫn nộ kêu lên, thậm chí đứng phắt dậy. - Trình Cha, xin Cha thứ lỗi, - chàng nói với trưởng lão, - con là kẻ ít học, thậm chí con không biết tôn xưng Cha thế nào, nhưng người ta đánh lừa Cha, và Cha quá tốt nên mới cho chúng con hội họp ở nhà Cha. Ba con chỉ cần gây chuyện tai tiếng, còn để làm gì thì đấy là mưu tính của ông. Ông ấy bao giờ cũng có tính toán. Nhưng hình như bây giờ con biết ông ấy nhằm mục đích gì rồi…
    - Tất cả đều buộc tội, tất cả bọn họ! - Đến lượt Fedor Pavlovich kêu lên. - Cả Piotr Alecxandrovich kia cũng thế. Ông buộc tội tôi, Petr Alecxandrovich, ông buộc tội tôi! - ông ta bỗng quay về phía Miuxov, tuy Miuxov không hề có ý ngắt lời ông ta. - Họ buộc tội tôi giấu tiền của các con tôi và lấy hết sạch trơn của chúng, nhưng xin hỏi, phải chăng không có toà án? Ở đấy người ta sẽ tính toán, Dmitri Fedorovich ạ, căn cứ vào chính những giấy biên nhận, thư từ và giao kèo của anh, thế là sẽ rõ ngay anh có bao nhiêu, tiêu hết bao nhiêu, còn lại bao nhiêu thôi mà! Vì sao Petr Alecxandrovich tránh lên tiếng? Dmitri Fedorovich đâu có phải là người dưng nước lã đối với ông ấy. Là bởi vì mọi người đều quy tội cho tôi, còn thằng Dmitri Fedorovich thì rút cục nó thiếu nợ tôi, không phải là ít, mà đến mấy nghìn rúp, tôi có đủ mọi giấy tờ chứng minh điều đó! Cả thành phố điên đảo ầm ĩ lên vì nhũng cuộc ăn chơi của nó đấy thôi! Còn ở nơi trước kia nó tại ngũ, nó phung phí tới một vài ngàn đồng để quyến rũ con gái nhà tử tể. Ta biết chuyện ấy, Dmitri Fedorovich ạ, biết cả những chi tiết hết sức bí mật, và ta sẽ chứng minh… Thưa đức cha chí thánh chí thiện, chẳng biết Cha có tin không: hắn đã say mê một cô gái hết sức cao quý, con nhà tử tế có gia tư, con gái vị chỉ huy trước kia của hắn, một đại tá dũng cảm có công lao được thưởng huân chương "Anna với hai thanh gươm"(2); tai hại cho cô gái là hắn đã cầu hôn, bây giờ nàng hiện ở đây, mồ côi, nàng là vợ chưa cưới của hắn, vậy mà ngay trước mắt nàng, hắn vẫn lui tới với một ả có tiếng quyến rũ đàn ông ở vùng ta đây. Bất kể rằng cô ả có thể nói là kết hôn theo luật với một người đáng trọng, nhưng tính tình độc lập, một pháo đài bất khả xâm phạm đối với tất cả mọi người, dù sao cô ả cũng là vợ hợp pháp, cô ả là người đức hạnh mà, dạ vâng, cô ả là người đức hạnh! Vậy mà Dmitri Fedorovich muốn mở cửa pháo đài ấy bằng chiếc chìa khoá vàng, vì thế bây giờ nó xấc láo với tôi nó muốn bòn tiền của tôi, nhưng đến nay nó đã phung phí hàng nghìn đồng cho con yêu phụ đó, cho nên nó không ngớt vay tiền, mà vay ai, các vị có tưởng tượng được không? Nói ra hay thôi, Mitia?
    - Im mồm đi! - Dmitri Fedorovich quát lên. - Hãy để tôi ra khỏi đây đã, chứ trước mặt tôi ông chớ có cả gan bôi nhọ một người con gái cao quý nhất… Chỉ riêng một điều ông dám hé răng nói đến nàng cũng là làm nhục nàng rồi… Tôi không cho phép!
    Chàng ngạt thở.
    - Mitia, Mitia! - Fedor Pavlovich la lên một cách nóng nảy, cố rặn cho ra nước mắt. - Lời chúc phúc của bố, mày không coi vào đâu à? Nếu tao nguyền rủa thì sẽ ra sao?
    - Thật là trơ trẽn và dối trá! - Dmitri Fedorovich gầm lên.
    - Nó đối xử với bố nó như thế đấy, với bố nó! Thế thì với người khác còn ra thế nào? Thưa các vị, các vị tưởng tượng xem: Ở đây có một người nghèo, nhưng đáng kính, một đại úy giải ngũ, ông ta gặp chuyện rủi ro phải rời khỏi quân ngũ, chứ không phải vì bị kỷ luật, không phải ra tòa, danh dự ông vẫn nguyên vẹn, ông ta phải gánh vác một gia đình đông người. Vậy mà ba tuần trước ở quán rượu, Dmitri Fedorovich của chúng ta túm râu ông ta lôi xềnh xệch ra đường và đánh ông ta ở ngoài đường trước mắt cả bàn dân thiên hạ, tất cả chỉ vì ông ta là người được tôi kín đáo nhờ lo liệu cho tôi một việc.
    - Dối trá tuốt! Bề ngoài là sự thật, bên trong là dối trá! - Dmitri Fedorovich giận run cả người lên. - Ba ơi! Tôi không bào chữa cho hành động của tôi, vâng, tôi thú nhận trước tất cả mọi người: tôi đối xử dã man như thú vật với ông đại úy ấy và bây giờ tôi lấy làm tiếc, tôi tự khinh mình về cơn giận dã man ấy, nhưng ông đại úy ấy của ba, người được ba ủy nhiệm đã đến gặp chính người đàn bà mà ba gọi là kẻ quyến rũ đàn ông và nhân danh ba đề nghị nàng lấy những kỳ phiếu của tôi hiện nằm trong tay ba, rồi phát đơn kiện để tôi bị tù vì những kỳ phiếu đó, nếu như tôi cứ nằng nạc đòi ba thanh toán tài sản cho tôi. Bây giờ ba trách tôi mê người đàn bà ấy, trong khi chính ba bày cách cho nàng đưa tôi vào bẫy! Nàng kể lại không úp mở, chính nàng đã kể với tôi để chế nhạo ba! Ba muốn bỏ tù tôi chỉ vì ba ghen với tôi về nàng, bởi vì chính ba bắt đầu bám người đàn bà ấy, chuyện đó tôi cũng biết hết, và nàng cười ba, nghe đây, chính là để chế nhạo ba mà nàng kể lại. Thưa các Cha, con người này là như thế đấy cái ông bố trách mắng đứa con trai phóng đãng! Các vị chứng kiến sự việc này, xin thứ lỗi cho sự giận dữ của tôi, nhưng tôi đã cảm thấy trước rằng ông già quỷ quyệt này mời tất cả các vị đến đây để gây nên một vụ đấu khẩu tai tiếng. Tôi đến đây để tha thứ, nếu như ba tôi đưa tay ra cho tôi, tôi đến để tha thứ và xin tha thứ! Nhưng bởi vì lúc này đây ông ấy không chỉ lăng nhục tôi, mà lăng nhục cả cô gái vô cùng cao quý mà thậm chí tôi không dám tùy tiện nói tên ra vì tôn kính nàng, nên tôi quyết công khai phơi ra tất cả trò chơi của ông ấy, tuy ông ấy là bố tôi…
    Chàng không nói tiếp nữa. Mắt chàng quắc lên, chàng thở hồng hộc. Nhưng mọi người có mặt trong phòng đều lo lắng.
    Trừ trưởng lão, tất cả bồn chồn đứng lên. Các giáo sĩ nom nghiêm nghị, nhưng họ chờ xem ý trưởng lão. Trưởng lão vẫn ngồi, mặt tái mét nhưng không phải vì xúc động mà vì ốm yếu. Một nụ cười van vỉ hiện rõ trên môi Cha, thỉnh thoáng Cha giơ tay lên như muốn ngăn chặn những kẻ đang nổi cơn điên, và cố nhiên chỉ một cử chỉ của Cha cũng đủ để chấm dứt màn kịch này; nhưng Cha dường như vẫn như đợi điều gì và chăm chú nhìn dường như muốn hiểu rõ điều gì, dường như có điều gì vẫn chưa rõ lắm. Cuối cùng Petr Alecxandrovich Miuxov dứt khoát cảm thấy mình bẽ mặt và bị làm nhục.
    - Tất cả chúng ta đều có lỗi về cái chuyện nhục nhã vừa xảy ra! - ông nói một cách sôi nổi. - Nhưng khi đến đây tôi vẫn không cảm thấy trước điều đó, tuy tôi biết tôi giao thiệp với ai… Việc đó phải chấm dứt ngay tức khác! Trình Cha, xin Cha tin rằng tôi không biết đích xác mọi chi tiết vừa được phanh phui, ở đây tôi muốn tin, và mãi bây giờ lần đầu tiên tôi mới biết… Bố ghen với con về một ả đĩ thoã, và chính mình âm mưu với ả để đưa con vào tù… Tôi bị ép đưa đến đây nhập bọn với những kẻ như thế. Tôi bị lừa, tôi tuyên bố với tất cả các vị rằng tôi bị lừa không kém gì những người khác…
    - Dmitri Fedorovich! - Fedor Pavlovich bỗng gào lên, giọng lạc hẳn đi. - Nếu như anh không phải là con trai tôi thì ngay lúc này tôi sẽ đòi anh… đấu súng. Cách ba bước… Qua chiếc mùi xoa, qua chiếc mùi xoa! - ông ta giậm hai chân bành bạch, dứt lời.
    Những người già dối trá suốt đời đóng kịch vẫn có những phút nhập vai đến mức họ thực sự run lên và khóc vì xúc động, mặc dù ngay lúc ấy, hay chỉ một giây sau, họ đã có thể tự nhủ: "Ta dối trá mà, lão già trơ trẽn, ngay cả lúc này ta vẫn đóng trò thôi mà, mặc dù tất cả cơn giận "thiêng liêng" và phút giận dữ thiêng liêng của ta".
    - Tôi cứ tưởng… Tôi cứ tưởng rằng. - Chàng nói khẽ và dè dặt. - Tôi về quê với người vợ chưa cưới, thiên thần của tâm hồn tôi để chăm sóc cha già, vậy mà tôi chỉ thấy một kẻ dâm đãng, hám gái, một tên hề hết sức đê tiện!
    - Đấu súng! - Lão già lại gào lên, thở hổn hển và cứ mỗi lời lại phun nước miếng ra. - Còn ông Petr Alecxandrovich Miuxov, thưa tiên sinh, tiên sinh nên biết rằng có lẽ trong cả dòng họ của ngài chưa bao giờ có người phụ nữ nào cao quý hơn và chính trực hơn, ông nghe đây, chính trực hơn người phụ nữ mà ông dám cả gan gọi là "đồ súc sinh" nọ. Còn anh, Dmitri Fedorovich, anh đã đánh đổi vợ chưa cưới của anh lấy "con súc sinh" đó, vậy là chính anh xét anh rằng vợ chưa cưới của anh không bén gót cô ta, cái đồ súc sinh ấy là thế đấy!
    - Xấu hổ! - Cha Ioxif buột thốt lên.
    - Xấu hổ và nhục nhã! - Kalganov từ đầu đến giờ vẫn im lặng bỗng kêu lên bằng cái giọng thiếu niên run run vì xúc động của mình, mặt đỏ bừng.
    - Sao lại có con người như thế ở trên đời này cơ chứ! - Dmitri Fedorovich gầm lên bằng giọng khàn, tức giận gần như điên cuồng, phướn cao hẳn hai vai lên đến nỗi nom như gù. - Ồ không, tôi xin hỏi, liệu còn có thể để cho ông ta làm ô danh trái đất này nữa không. - Chàng vừa giơ tay trỏ ông già vừa đưa mắt nhìn tất cả mọi người, nói một cách chậm rãi và đều đều.
    Các vị nghe thấy chứ, thưa các đấng tu hành, các vị nghe thấy thằng con giết bố nói gì chứ. - Fedor Pavlovich sừng sộ với Cha Ioxif. - Câu trả lời cho tiếng "xấu hổ" của Cha đó! Có gì là xấu hổ nào? "Cái đồ súc sinh" đó, "ả ớ thoã" đó có lẽ còn thánh thiện hơn chính các ngài giáo sĩ đang tu hành để cứu rỗi linh hồn! Có lẽ thời trẻ nàng đã sa ngã, do hoàn cánh xô đẩy(3), nhưng nàng "đã yêu nhiều". Mà Chúa Kito tha thứ cho người đàn bà đã yêu nhiều…
    - Chúa Kito không tha thứ cho thứ tình yêu như thế… - Cha Ioxif hiền lành buột thốt lên, không kiên nhẫn nổi nữa.
    - Không, tha thứ cho tình yêu như thế, cho chính tình yêu ấy, thưa các đấng tu hành, cho tình yêu ấy! Các vị ở đây ăn bắp cải để cứu rỗi linh hồn và tưởng mình là bậc công chính! Các vị ăn cá bống, mỗi ngày một con cá bống và tính chuyện mua Chúa Trời bằng cá bống!
    - Không thể chịu nổi, không thể nào chịu nổi! - Tiếng nói rộn lên từ khắp các phía trong phòng.
    Nhưng toàn bộ màn kịch đã đi đến chỗ bậy bạ chợt chấm dứt hết sức bất ngờ. Trưởng lão đột nhiên đứng dậy. Aliosa sợ hãi đến mức gần như rối trí, sợ cho thầy và cho mọi người, nhưng anh ta đã kịp đỡ tay thầy. Trưởng lão bước về phía Dmitri Fedorovich, và khi tới sát gần chàng, Cha quỳ xuống trước mặt chàng. Aliosa tưởng Cha ngã vì đuối sức, nhưng không phải. Quỳ xuống, đoạn, trưởng lão rạp mình dưới chân Dmitri Fedorovich, đấy là cái cúi lạy toàn thân rành rẽ, có ý thức, thậm chí trán Cha chạm đất. Aliosa sửng sốt đến nỗi không kịp đỡ Cha khi Cha đứng dậy. Một nụ cười yếu ớt thoáng hiện trên môi Cha.
    - Xin thứ lỗi! Xin thứ lỗi về tất cả mọi điều! - Cha vừa nói vừa cúi chào tứ phía từ tạ khách.
    Dmitri Fedorovich đứng ngây ra một lúc như trời trồng: người ta sụp lạy dưới chân chàng, thế là thế nào? Cuối cùng chàng bỗng kêu lên: "Trời ơi!" và hai tay bưng mặt đâm bổ ra khỏi phòng. Khách cũng ồ ạt ra theo hết, họ bối rối đến nỗi quên cả cáo biệt và chào chủ nhà. Chỉ có mấy giáo sĩ lại đến để trưởng lão ban phước.
    - Sao Cha lại sụp lạy dưới chân nó thế, một thứ ngụ ý gì không? - Fedor Pavlovich thử gợi chuyện, không hiểu sao ông ta đã trở nên thuần tính, tuy nhiên ông ta chỉ nói trống không, không dám nói riêng với ai cả. Lúc ấy tất cả bọn họ đã ra ngoài bức tường bao quanh tu xá.
    - Tôi không chịu trách nhiệm về nhà điên và những kẻ điên. - Miuxov hằm hằm đáp lại tức thời, - nhưng tôi sẽ không dính dáng gì với ông nữa, không bao giờ nữa, ông hãy tin như thế, Fedor Pavlovich ạ. Ông thầy tu ban nãy đâu nhỉ?
    Nhưng "ông thầy tu ấy", tức là người hồi nãy đã mời họ đến dùng bữa với Cha viện trưởng, không để họ phải chờ đợi. Ông ta lập tức đón khách ngay khi họ vừa xuống bậc thềm nhà trưởng lão như thể ông ta vẫn chờ họ suốt thời gian ấy.
    - Thưa Cha, nhờ Cha trình lại với Cha viện những là tôi hết lòng tôn kính Ngài và xin Ngài thứ lỗi cho Miuxov này: do những điều bất ngờ không lường trước được đã xảy ra, tôi không thể đến dự bữa ăn trưa nay, dù đó là một vinh dự mà tôi hết lòng mong muốn. Petr Alecxandrovich nói với ông thày tu bằng giọng cáu kỉnh.
    - Cái điều không lường trước được ấy chính là tôi đấy! - Fedor Pavlovich tiếp lời ngay. - Này Cha ạ, ấy là vì Petr Alecxandrovich không muốn ngồi lại cùng với tôi, chứ không thì ông ấy đã đến ngay. Ông cứ đến đi. Petr Alecxandrovich ạ, cứ đến thăm Cha viện trưởng đi, và chúc ông ăn ngon miệng! Ông ạ chính tôi sẽ tháo lui, chứ không phải ông. Tôi về nhà, về nhà, ăn ở nhà: chứ ở đây thì tôi cảm thấy không thể nuốt trôi được. Ông Petr Alecxandrovich, người bà con rất chi là đáng mến của tôi ạ!
    - Tôi chưa bao giờ là người bà con của ông cả. Ông là một kẻ hèn hạ!
    - Tôi cố ý nói như vậy để chọc cho ông nổi khùng, bởi vì ông vẫn lẩn tránh mối quan hệ họ hàng, tuy dù sao ông vẫn là chỗ bà con với tôi, cho dù ông có mưu mô thế nào đi nữa thì tôi cũng sẽ chứng minh điều đó theo lịch giáo hội(4), Ivan Fedorovich, rồi ba sẽ cho ngựa đến đón con đúng lúc, con cũng ở lại đi, nếu con muốn. Còn ông Petr Alecxandrovich ạ, phép lịch sự buộc ông bây giờ phải đến Cha viện trưởng, phải xin lỗi về những chuyện tôi với ông đã gây ra ở đây…
    - Có thật là ông về không? Không nói dối chứ!
    - Petr Alecxandrovich, tôi đâu dám như thế sau những chuyện vừa xảy ra! Tôi đã đi quá trớn, xin các ông thứ lỗi, tôi đã đi quá trớn! Ngoài ra tôi bàng hoàng! Và xấu hồ nữa! Thưa các vị con người ta người dù có trái tim như của Alecxandr Maxeđoan, người thì có trái tim như tim con chó Fidelca. Tim tôi như tim con chó Fidelca. Tôi đâm ra nhút nhát! Đã giở trò lếu láo như thế mà lại còn vác mặt đến ăn, thưởng thức các món nước sốt của tu viện ư? Xấu hổ lắm, tôi chịu thôi, xin lỗi!
    "Có quỷ biết được lão, lão là chúa hay đánh lừa" - Miuxov dừng lại, phân vân, băn khoăn nhìn theo lão hề đang ra xa. Lão già quay mặt lại, thấy Petr Alecxandrovich đang nhìn theo, lão đưa tay gửi ông cái hôn.
    - Anh đến Cha viện trưởng chứ? - Miuxov hỏi Ivan Fedorovich bằng giọng nhát gừng.
    - Sao lại không nhỉ? Thêm nữa Cha viện trưởng đã mời riêng cháu từ hôm qua kia.
    - Khổ thật, thực quả tôi cảm thấy gần như nhất thiết phải có mặt trong bữa ăn chết tiệt này, - Miuxov nói vẫn với giọng cáu kỉnh, cay đắng, thậm chí không để ý đến ông thầy tu đang nghe. - Ít nhất là để xin lỗi vì cái việc không hay chúng ta đã gây ra ở đây và nói rõ rằng không phải chúng ta… Anh thấy thế nào?
    - Vâng, nên nói rõ ràng không phải chúng ta. Được cái ba cháu không có mặt trong bữa ăn. - Ivan Fedorovich đáp.
    - Lại còn có mặt ba cháu nữa thì vừa! Bữa ăn chết mệt ấy!
    Tuy nhiên mọi người đều đến dự. Ông thầy tu lẳng lặng nghe họ nói với nhau. Lúc đi qua khoảnh rừng, ông chỉ lưu ý rằng Cha viện trưởng chờ đã lâu và đã trễ đến hơn nửa giờ. Không ai trả lời. Miuxov căm ghét nhìn Ivan Fedorovich.
    "Vậy mà hắn đến ăn như không có chuyện gì xảy ra! - ông nghĩ. - Cái trán bằng đồng và lương tâm nhà Karamazov".
    Chú thích
    (1) Đây là tên các nhân vật chính trong vở kịch "Lũ kẻ cướp" của Siller. Từ năm 10 tuổi, Dostoievsky đã say mê tác phẩm này của Siller. Những đề tài của Sillr được đề cập đến nhiều lần trong "Anh em nhà Karamazov". Regierender Graf Von Mor (tiếng Đức) nghĩa là: bá tước fon Mor quyền uy (N.D).
    (2) Từ 1866, trên huân chương thánh Anna, cũng như các huân chương chiến công khác, có hình hai thanh gươm bắt chéo (N.D)
    (3) Dostoievsky không chấp nhận thuyết cho rằng con người là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội, nhà văn cho rằng thuyết đó rũ bỏ trách nhiệm đạo đức của con người. Theo Phúc âm Luca, Chúa Kito phán về người đàn bà xấu nết "Tội lỗi người đàn bà này nhiều lắm, nhưng đã được tha hết, vì nàng đã yêu nhiều" (N.D)
    (4) Lịch giáo hội - lịch về các thánh và các ngày lễ Kito giáo theo thứ tự thời gian cho cả 12 tháng trong năm. Không thể dùng lịch giáo hội để chứng minh quan hệ họ hàng (N.D)

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 7 - GÃ CHỦNG SINH HÁM DANH LỢI
    Aliosa đưa trưởng lão về phòng ngủ và đỡ Cha ngồi xuống giường. Đấy là căn phòng rất nhỏ, chỉ có những đồ đạc cần thiết; chiếc giường hẹp bằng sắt phủ tấm da thay cho nệm. Ở góc phòng trước những tranh thánh có chiếc bàn nhỏ chân cao trên đặt cây thánh giá và cuốn Phúc âm. Trưởng lão buông mình xuống giường, không còn chút sức lực nào nữa: mắt Cha long lanh, Cha thở hổn hển. Ngồi xuống rồi, Cha chăm chú nhìn Aliosa như ngẫm nghĩ điều gì.
    - Con đi đi, con yêu dấu, đi đi, Porifi ở đây với ta là đủ rồi, con đi ngay đi. Ở đấy cần có con, con đến Cha viện trưởng đi, giúp phục dịch trong bữa ăn.
    - Cha cho phép con ở lại đây. - Aliosa van vỉ.
    - Ở đấy cần con hơn. Ở đấy không yên ổn đâu. Con sẽ phục dịch bữa ăn và sự có mặt của con sẽ có ích lợi. Nếu ma quỷ tác quái thì con hãy cầu nguyện. Con nên biết, con trai bé bỏng của ta ạ (trưởng lão thích gọi anh như vậy), từ nay chỗ của con không phải là ở đây. Hãy nhớ kỹ điều đó, chàng trai ạ. Khi Chúa xét thấy ta đáng được đến trước mặt Chúa thì con hãy ra khỏi tu viện. Rời bỏ hẳn.
    Aliosa giật mình.
    - Con làm sao thế? Hiện thời chỗ của con không phải ở đây. Cha cho con biết: con có một trách nhiệm vô cùng lớn lao phải làm tròn trong đời. Con còn phải lưu lạc nhiều. Và con sẽ phải lấy vợ phải như thế. Con sẽ phải chịu đựng hết trước khi trở lại đây. Sẽ có nhiều việc phải làm. Nhưng ta không hề nghi ngờ gì về con, vì thế ta phái con đi. Chúa Kito ở cùng con. Hãy hết lòng với Chúa và Chúa sẽ che chở cho con. Con sẽ trải qua nỗi đau xót lớn lao và sẽ hạnh phúc trong nỗi đau xót ấy. Đấy là lời căn dặn ta để lại cho con: hãy tìm hạnh phúc trong đau khổ. Hãy làm việc, làm việc không ngừng. Nhớ lấy lời ta, bởi vì mặc dù ta sẽ còn nói chuyện với con, nhưng sự sống của ta không chỉ tính từng ngày, mà từng giờ kia.
    Gương mặt Aliosa lại lộ vẻ xúc động mạnh. Hai bên mép anh run lên.
    - Con lại làm sao thế? - Trưởng lão hơi mỉm cười. - Hãy để cho người ngoài đời tiễn đưa người quá cố của họ bằng nước mắt, còn ở đây chúng ta vui sướng khi một Cha đạo ra đi. Chúng ta vui sướng và cầu nguyện cho người đó. Thôi hãy để mặc Cha. Cha cần cầu nguyện. Con đi đi và mau lên. Hãy ở bên các anh con. Không phải ở bên một người, mà cả hai người.
    Trưởng lão giơ tay ban phước. Không thể không tuân lời, tuy Aliosa hết sức muốn ở lại. Anh còn muốn hỏi một điều, thậm chí câu hỏi đã suýt buột ra: "Cha rạp đầu cúi lạy anh Dmitri con là nghĩa làm sao?", nhưng anh không dám hỏi. Anh biết rằng nếu có thể được thì trưởng lão sẽ tự ý cắt nghĩa cho anh, không cần anh phải hỏi. Nhưng như vậy là Cha không muốn nói. Cái lạy ấy khiến Aliosa hết sức sửng sốt: Anh tin một cách mù quáng rằng nó chứa đựng một ý nghĩa bí ẩn. Một ý nghĩa bí ẩn, mà có lẽ là khủng khiếp.
    Khi anh ra khỏi bức tường vây của tu xá để kịp đến tu viện lúc bắt đầu bữa ăn ở chỗ Cha viện trưởng (tất nhiên chỉ để phục dịch trong bữa ăn), anh bỗng thấy đau nhói trong tim và anh dửng phắt lại: bên tai anh dường như lại vang lên rõ mồn một lời trưởng lão đoán trước rằng Cha sắp từ giã cõi đời đến nơi rồi. Trưởng lão đã nói trước, mà lại nói đích xác như vậy thì việc đó ắt phải xảy ra. Aliosa tin thầy một cách thiêng liêng. Nhưng liệu thầy anh sẽ ra sao, có thể nào anh sẽ không được nhìn thấy thầy, nghe thầy nói nữa? Và anh sẽ đi đâu? Thầy bảo anh không được khóc và phải đi khỏi tu viện.
    Trời ơi! Đã lâu rồi Aliosa không hề cảm thấy buồn như thế. Anh đi nhanh qua khoảng rừng ngăn cách tu xá và tu viện, và không chịu đựng nổi những ý nghĩ đè trĩu trong tâm tư, anh nhìn những cây thông cổ thụ hai bên con đường rừng. Đoạn đường không dài, chừng năm trăm bước, không hơn. Giờ này không thể gặp ai, nhưng bất ngờ ở khúc quanh đầu tiên anh thấy Rakitin. Anh ta đang đón đợi ai.
    - Anh đợi tôi không? - Đến chỗ anh ta, Aliosa hỏi.
    - Chính thế, - Rakitin nhếch mép cười. - Anh đang vội đến Cha viện trưởng. Tôi biết, Cha mời khách dùng bữa mà. Từ hồi Cha tiếp đón Đức Giám mục và tướng Pakhatov đến nay, anh nhớ chứ chưa hề có bữa đãi khách nào như thế. Tôi sẽ không đến đâu, còn anh đi đi, anh sẽ bưng bê món ăn. Này, Alecxei, hãy cho tôi biết điều này: giấc mơ ấy có ý nghĩa gì? Tôi muốn hỏi anh điều ấy đấy.
    - Giấc mơ nào kia?
    - Cái cúi lạy sát đất trước Dmitri Fedorovich nhà anh ấy mà. Mà lại rập trán xuống nữa chứ!
    - Anh nói về Cha Zoxima phải không?
    - Phải, về Cha Zoxima.
    - Rập trán xuống đất?
    - Ôi, tôi nói năng vô lễ quá! Nhưng thôi được. Vậy giấc mơ ấy có ý nghĩa gì?
    - Tôi không biết. Misa ạ.
    - Tôi biết mà, trưởng lão sẽ không cắt nghĩa cho anh đâu. Tất nhiên thôi, chẳng có gì là lạ, vẫn là những trò dớ dẩn làm ra vẻ đứng đắn như tự muôn thuở. Nhưng cái ngón đó có chủ ý hẳn hoi. Bây giờ những kẻ vờ sùng đạo sẽ huyên truyền khắp thành phố và khắp tỉnh: "Giấc mơ ấy có ý nghĩa gì?". Theo tôi ông già quả là thấu thị: ông ngửi thấy mùi tội hình sự. Gia đình anh bốc mùi xú uế.
    - Tội hình sự gì kia?
    Rakitin rõ ràng muốn nói ra điều gì.
    - Nó sẽ xảy ra trong gia đình anh, vụ hình sự đó. Nó sẽ xảy ra giữa các anh và ông bố giàu có của anh. Bởi thế Cha Zoxima mới rập trán xuống đất để phòng xa mọi chuyện có thể xảy ra sau này. Sau này, nếu có chuyện gì xảy ra thì "A, trưởng lão lánh thiện đã báo trước, đã tiên tri rồi mà", tuy rằng tiên tri quái gì cái việc rập trán ấy? Không, đấy là một biểu tượng, một ám dụ, có ma quỷ biết được gì gì nữa! Người ta sẽ huyên truyền, sẽ ghi nhớ: trưởng lão đã đoán trước tội lỗi, đã chỉ ra kẻ gây tội. Những thánh hài xưa nay vẫn vậy: làm dấu thánh giá cho quán rượu, nhưng lại ném đá vào đền thờ. Trưởng lão của anh cũng thế: với kẻ công chính thì dùng gậy đuổi đi, với kẻ giết người thì lại cúi lạy.
    - Tội ác nào? Kẻ giết người nào? Anh nói gì lạ vậy? - Aliosa đứng sững lại như trời trồng. Rakitin cũng dừng bước.
    - Kẻ nào? Cứ làm như anh không biết vậy? Tôi đánh cuộc rằng chính anh cũng đã nghĩ đến điều ấy. Nhưng kể cũng lạ: này, Aliosa, anh bao giờ cũng nói thật, mặc dù anh vẫn ngồi trên hai chiếc ghế: anh có nghĩ đến điều ấy hay không, trả lời đi?
    - Có nghĩ. - Aliosa khẽ đáp. Ngay cả Rakitin cũng bối rối.
    - Anh nói gì? Anh mà cũng nghĩ đến ư? - Anh ta kêu lên.
    - Tôi… không hẳn là tôi nghĩ tới. - Aliosa nói lý nhí, - nhưng anh vừa nói đến chuyện ấy một cách rất kỳ lạ, thành thử tôi có cảm giác rằng chính tôi cũng nghĩ đến.
    Anh thấy đấy (và anh diễn tả điều đó mới rõ ràng làm sao), anh thấy chứ? Hôm nay khi nhìn ba anh và anh Mitenka, anh nghĩ đến tội ác phải không? Vậy là tôi không lầm chứ gì?
    - Khoan, khoan đã. - Aliosa lo lắng ngắt lời. - Vì sao anh thấy như thế? Và trước hết tại sao chuyện ấy làm anh bận tâm đến như vậy?
    - Hai câu hỏi riêng biệt, nhưng tự nhiên. Tôi trả lời từng câu một. Tại sao tôi nhìn thấy? Tôi sẽ chẳng thấy gì hết nếu như hôm nay, tôi không bỗng nhiên và tức khắc hiểu được toàn bộ bản chất ông anh Dmitri Fedorovich của anh thực sự là thế nào, hiểu toàn bộ và đúng như trong thực tế. Căn cứ vào một đường nét nào đó là tôi tức khắc nắm bắt được toàn bộ. Ở những con người hết sức chính trực nhưng ham mê nhục dục ấy có một đường vạch chớ nên vượt qua. Nếu không thì anh ta sẽ cho ông bố một nhát dao. Mà ông bố lại nghiện rượu và trác táng vô độ - không bao giờ biết chừng mực là gì. Cả hai sẽ không kìm nổi mình, thế là sẽ lăn cả xuống hố…
    - Không. Misa, không, nếu chỉ là như thế thì anh làm tôi vững tâm hơn. Sự thể sẽ không đến nông nỗi ấy.
    - Thế thì can gì anh run đến cả chân tay lên thế? Anh biết thừa đi rồi phải không? Cho dù anh ta là con người chính trực, anh chàng Mitenka ấy (anh ta đần, nhưng chính trực, khốn nỗi anh ta là kẻ ham nhục dục). Anh ta là như vậy, bản chất anh ta là thế. Đấy là ông bố đã truyền cho anh ta cái ham nhục dục đốn mạt của ông. Tôi chỉ ngạc nhiên về anh thôi, Aliosa ạ: làm sao anh vẫn là trai tân? Anh cũng là dòng dõi Karamazov kia mà! Trong gia đình anh, lửa dục bốc hừng hực. Giờ đây ba kẻ ham mê nhục dục đang canh chừng nhau… dao thủ sẵn trong người. Ba người đã chạm trán nhau, anh có lẽ là người thứ tư.
    - Anh lầm về người phụ nữ ấy, Dmitri… khinh bỉ cô ta. - Aliosa rùng mình, nói.
    - Grusenka ấy à? Không, người anh em ạ, anh ta không khinh đâu. Một khi trên thực tế anh ta đánh đổi vợ chưa cưới của mình lấy ả thì anh ta không khinh đâu. Ở đây… Ở đây có cái gì hiện giờ anh chưa hiểu được, người anh em ạ. Khi con người ta say mê một sắc đẹp, mê một thể xác phụ nữ, hay thậm chí một bộ phận trong thân thể phụ nữ, kẻ ham mê nhục dục có thể hiểu được điều đó thì vì ả đó hắn sẵn lòng bỏ cả con, bán cả cha lẫn mẹ, cả nước Nga, cả Tổ quốc. Người chính trực thì có thể đi ăn cắp, người hiền lành thì có thể cắt cổ người khác, người chung thuỷ có thể phản bội. Puskyn nhà thơ ca ngợi cặp giò phụ nữ, đã tán tụng những cặp giò ấy bằng những vần thơ, những người khác không ca ngợi bằng thơ ca nhưng không thể nhìn những cặp giò ấy mà không dâm dật. Nhưng không phải chỉ có những cặp giò… Người anh em ạ, ở đây sự khinh bỉ không giúp ích gì, cho dù anh ta có khinh Grusenka đi nữa. Khinh, nhưng không dứt ra được.
    - Điều đó thì tôi hiểu, - Aliosa bộp chộp thốt lên.
    - Thực ư? Như vậy quả thực là anh hiểu, có thế thì mới buột ra rằng anh hiểu chứ, - Rakitin nói với giọng hí hửng. - Đấy là anh vô tình hở ra, anh buột miệng. Sự thú nhận do đó càng đáng giá: như vậy đó là đề tài quen thuộc đối với anh, anh đã nghĩ đến chuyện ấy, nhục dục. Hỡi ôi, chàng trai tân! Anh là ông thánh giả. Anh là thánh, tôi đồng ý, nhưng là thánh giả, có quỷ biết còn cái gì anh chưa nghĩ đến, có quỷ biết anh đã nếm trải những gì! Trai tân mà đã am hiểu sâu như thế, tôi để ý quan sát anh từ lâu rồi. Anh là một Karamazov, một Karamazov hoàn toàn, vậy là dòng giống và sự chọn lọc vẫn có ý nghĩa nào đó. Anh là kẻ ham nhục dục do máu bố, anh là thánh hài do dòng mẹ. Tại sao anh run? Tôi nói đúng sự thực chứ gì? Anh biết không, Grusenka yêu cầu tôi: "Anh dẫn anh ta lại đây (tức là dẫn anh ấy mà), em sẽ lột áo thầy tu của anh ta cho mà xem". Cô ta cứ nài nỉ: "Dẫn tới nhé, dẫn tới nhé!" Tôi đâm ra băn khoăn: cớ gì cô ấy tò mò muốn biết về cậu ta đến như vậy nhỉ? Thế đấy, cô ấy cũng là một phụ nữ phi thường!
    - Nhờ anh chuyển lời chào chị ấy và hãy nói rằng tôi không đến đâu - Aliosa nhếch mép cười gượng. - Nói nốt câu chuyện anh đã mở đầu đi, Mikhail, rồi tôi sẽ cho biết ý nghĩ của tôi.
    - Có gì mà nói nốt, rõ cả rồi. Tất cả chỉ là bản nhạc cũ thôi, người anh em ạ. Nếu anh có máu ham nhục dục thì Ivan là anh cùng mẹ với anh như thế nào? Ivan cũng là con nhà Karamazov mà! Tất cả vấn đề nhà Karamazov các người là thế này: ham nhục dục, hám lợi và điên loạn! Ông anh Ivan của anh bây giờ tiêu khiển bằng cách viết những bài báo về thần học, do một sự tính toán cực kỳ ngu xuẩn nào đó không ai biết, vì anh ta là người vô thần, và chính anh ta thú nhận sự đê tiện ấy, ông anh Ivan của anh. Ngoài ra anh ta đang giành giật vợ chưa cưới của Mitia, có lẽ anh ta sẽ đạt mục đích ấy. Mà lại còn được chính Mitia chấp thuận nữa chứ, bởi vì chính Mitia nhường lại cô nàng cho Ivan, miễn là thoát khỏi sự ràng buộc với vợ chưa cưới để mau mau đến với Grusenka. Và sự thể là như thế, mặc dù tất cả sự cao thượng và không vụ lợi của anh ta, xin chú ý cho. Những người ấy chính là những người vô cùng tai hại. Vậy thì có mà quỷ hiểu được các người: tự mình ý thức được sự đê tiện của mình mà vẫn lao đầu vào việc đê tiện! Hãy nghe tiếp nhé: bây giờ ông bố già chặn đường Mitenka. Chính ông già tự dưng phát cuồng lên về Grusenka, cứ nhìn thấy ả là ông thèm chảy rãi ra. Vừa rồi ông già gây chuyện cãi cọ tai tiếng trong phòng tu chỉ là vì cô ả đấy thôi, chỉ cốt để Miuxov dám gọi cô ả là đồ súc sinh đĩ thõa. Ông già mê ả như mèo động cỡn. Trước kia ả chỉ làm cho ông một số việc ám muội và nhơ nhuốc để được trả công, còn bây giờ đột nhiên ông già để ý nhìn kỹ cô nàng và đâm ra mê mẩn, xán lăn vào đề nghị với ả điều này điều khác tất nhiên là toàn những điều bất lương. Thế là bố con đụng nhau trên con đường nhỏ ấy. Grusenka không theo hẳn bên nào; ả còn lấp lửng và khêu gợi cả hai, xem bên nào lợi hơn, bởi vì tuy với ông bố thì có thể bòn được nhiều tiền hơn, nhưng ông ta sẽ không cưới ả về làm vợ và về sau có thể sẽ đâm ra keo kiệt và thắt chặt túi tiền. Trong trường hợp đó thì Mitenka lại có giá: anh ta không có tiền, nhưng có khả năng cưới ả làm vợ. Đúng thế, có thể lấy ả thực sự! Bà vợ chưa cưới đẹp tuyệt trần, Ekaterina Ivanovna giàu có, dòng dõi quý tộc, con gái một đại tá để lấy Grusenka, vốn là gái bao của Xamxonov, một thương gia già, một thằng đàn ông trác táng và là thị trưởng. Từ tất cả những điều đó, thực sự có thể xảy ra cuộc đụng độ gây án. Còn anh Ivan của anh vẫn chờ đợi kết quả ấy như vậy thì anh ta sướng như tiên non bồng; vừa lấy được Ekaterina Ivanovna mà anh ta héo hồn tơ tưởng, vừa vớ được sáu chục ngàn hồi môn. Với một kẻ hèn mọn và nghèo xác như anh ta, bước đầu như thế là bở quá đi rồi! Còn điều này nữa đáng chú ý: Không những anh ta không xúc phạm đến Mitia, mà Mitia còn chịu ơn anh ta đến ngày xuống mồ. Tôi biết chắc chắn rằng tuần trước ở quán rượu cùng với mấy ả Zigan. Mitia say khướt đã gào toáng lên rằng mình không xứng đáng với vợ chưa cưới là cô ả Ekaterina. Ivan mới xứng đáng. Mà bản thân Ekaterina Ivanovna thì cuối cùng tất nhiên không cự tuyệt một người có sức cám dỗ như Ivan Fedorovich; hiện giờ nàng cũng đang phân vân giữa hai người. Có điều anh chàng Ivan ấy có cách gì khiến tất cả các người mê mẩn đến nỗi tôn sùng hắn như vậy? Còn hắn thì hắn cười các người: ta thật thần tiên, cứ ngồi để các người bày cỗ sẵn cho ta xơi.
    - Làm sao anh biết tất cả những điều ấy? Tại sao anh nói quyết như vậy? Aliosa bỗng cau mày hỏi bằng giọng gay gắt.
    - Thế tại sao lúc này anh hỏi tôi mà chưa chi đã sợ câu trả lời của tôi? Như vậy chính anh đồng ý rằng tôi nói đúng sự thật.
    - Anh không ưa anh Ivan. Ivan không hám tiền.
    - Thật ư, Thế còn sắc đẹp của Ekaterina Ivanovna? Đây không phải chỉ có tiền, tuy sáu mươi ngàn đồng cũng đáng mê lắm.
    - Ivan nhìn cao hơn, Ivan không hám mấy ngàn đồng. Ivan không theo đuổi tiền bạc, không tìm kiếm sự yên ổn. Có lẽ anh ấy tìm kiếm sự đau khổ.
    - Lại giấc chiêm bao gì nữa thế này? Ôi chao các người… những kẻ quý tộc.
    - Này Misa, anh ấy có tâm hồn mãnh liệt. Trí tuệ anh ấy bị giam hãm. Anh ấy có một tư tưởng vĩ đại chưa được giải quyết. Anh ấy thuộc loại người không cần hàng triệu đồng, mà cần giải quyết tư tưởng.
    - Trò ăn cắp văn, Aliosa ạ. Anh nhìn lại lời trưởng lão của anh. Chà chà. Ivan đã ra cho anh một câu đố! - Rakitin gào lên, vẻ hằn học ra mặt. Thậm chí mặt anh ta biến đổi hẳn, môi méo xệch đi. - Mà là câu đố dớ dẩn, chẳng có gì phải đoán. Nghĩ một tí là hiểu ngay thôi. Bài viết của anh ta nực cười và lố lăng.
    Vừa rồi anh đã nghe cái thuyết dớ dẩn của anh ta đấy: "Không có sự bất diệt của linh hồn thì cũng không có đức hạnh, nghĩa là mọi việc đều được phép làm". (Còn Mitenka, anh nhớ chứ, anh ta đã kêu lên: "Tôi sẽ ghi nhớ!"). Một thuyết hấp dẫn cho những kẻ đê tiện. Ấy chết, tôi quá lời như thế thật là xuẩn… không, không phải cho những kẻ đê tiện, mà cho những kẻ huênh hoang còn trên ghế nhà trường với "những tư tưởng sâu sắc không sao giải đáp được". Một kẻ khoác lác, thực chất chỉ là "ngựa trắng và bạch mã". Tất cả lý thuyết của anh ta chỉ là trò đê tiện! Nhân loại sẽ tự mình tìm được sức mạnh để sống cho đức hạnh, cho dù không tin có linh hồn bất diệt đi nữa! Nó sẽ tìm thấy sức mạnh trong lòng yêu tự do bình đẳng, bác ái…
    Rakitin nổi nóng, gần như không tự chủ được nữa. Nhưng bỗng nhiên, như nhớ ra điều gì, anh ta dừng lại.
    - Nhưng thôi, đủ rồi. - Anh ta nhếch mép cười càng gượng gạo hơn trước. - Anh cười gì? Anh tưởng tôi là một thằng hèn kém ư?
    - Không, tôi không hề nghĩ rằng anh hèn kém. Anh thông minh, nhưng… thôi, gạt chuyện ấy đi, tôi mỉm cười vì bộp chộp thôi. Tôi hiểu là anh có thể nổi nóng, Misa ạ. Thái độ hăng say của anh khiến tôi đoán ra rằng chính anh không thờ ơ với Ekaterina Ivanovna, người anh em ạ, điều đó tôi nghi ngờ từ lâu rồi, chính vì thế mà anh không ưa anh Ivan. Anh ghen với anh ấy chứ gì?
    - Và ghen cả về tiền của nàng phải không? Anh sẽ nói thêm nữa chứ gì?
    - Không, tôi sẽ không nói thêm gì về tiền, tôi sẽ không xúc phạm anh.
    - Tôi tin, bởi vì anh đã nói như thế, nhưng quỷ tha ma bắt anh cùng với Ivan nhà anh đi! Các người không ai hiểu rằng cho dù có gạt Ekaterina Ivanovna ra ngoài cuộc thì vẫn rất có thể không ưa hắn chứ. Vì lẽ gì tôi phải yêu hắn, đồ quỷ! Hắn ban cho tôi cái vinh hạnh được hắn thoá mạ. Tại sao tôi lại không có quyền thoá mạ hẳn nhỉ?
    - Tôi chưa bao giờ nghe thấy anh ấy nói một lời nào về anh, dù tốt hay xấu. Anh ấy chẳng hề nói gì về anh.
    - Tôi nghe nói hôm kia ở nhà Ekaterina Ivanovna hắn mạt sát tôi thậm tệ: kẻ tôi đòi ngoan ngoãn này của anh được hắn quan tâm đến như vậy đấy. Sau chuyện ấy thì người anh em ạ, chưa biết ai ghen ai! Hắn còn thấy cần thiết phải bày tỏ ý nghĩ rằng nếu sắp tới tôi không chịu bằng lòng với danh phận tu viện trưởng và không dám cắt tóc đi tu thì nhất định tôi sẽ đi Peterburg và sẽ làm việc cho một tờ tạp chí đấy, nhất định là ở mục phê bình, tôi sẽ viết khoảng năm mươi, rồi cuối cùng sẽ giành lấy tờ tạp chí đó thành của mình. Sau đó tôi sẽ lại cho nó ra mắt và nhất quyết là theo khuynh hướng tự do và vô thần, mang sắc thái xã hội chủ nghĩa, phết chút nước sơn xã hội chủ nghĩa, nhưng phòng ngừa cẩn thận, thực chất là chơi cờ nước đôi và lường gạt bọn ngốc. Vẫn theo ông anh của anh, con đường danh lợi của tôi kết cục là thế này: mặc dù mang sắc thái xã hội chủ nghĩa, tôi vẫn cứ gửi tiền vào nhà băng và gập dịp thì đem ra quay vòng dưới sự chỉ đạo của một tên đầu cơ Do Thái nào đó, cho đến khi tôi xây được một toà nhà bề thế ở Peterburg để chuyển toà soạn về đó, các tầng còn lại thì cho bọn Do Thái đến ở. Hắn còn chỉ rõ vị trí xây nhà: ở bên cầu Đá Mới qua sông Neva mà nghe đâu người ta đang vạch đồ án xây dựng ở Peterburg, giữa khu Litaynaia và Vybor…
    - A, Misa, có lẽ điều đó sẽ được thực hiện đầy đủ, đúng từng lời một! - Không nhịn được. Aliosa mỉm cười vui vẻ, kêu lên.
    - Cả anh cũng lại châm chọc tôi. Alecxei Fedorovich.
    - Không, không, tôi đùa thôi, xin lỗi. Tôi có ý nghĩ khác hẳn. Nhưng xin hỏi: ai có thể cho anh biết những chi tiết như thế. Anh có thể nghe được những điều như thế ở ai? Anh không thể có mặt ở nhà Ekaterina Ivanovna lúc anh ấy nói về anh chứ gì?
    - Tôi không ở đấy, nhung Dmitri Fedorovich có mặt và chính tai tôi nghe được từ miệng Dmitri Fedorovich, nghĩa là, nếu anh muốn biết, không phải anh ta nói với tôi, mà tôi nghe lỏm được, tất nhiên là tình cờ, bởi vì tôi ngồi trong phòng ngủ của Grusenka và không thể ra ngoài được suốt trong thời gian Dmitri Fedorovich ở phòng bên kia.
    - À vâng, tôi quên, cô ấy là chỗ bà con với anh…
    - Bà con ư? Grusenka mà là chỗ bà con với tôi? - Rakitin bỗng quát lên, mặt đỏ bừng. - Anh hoá điên rồi chắc? Trí óc anh không bình thường.
    - Thế sao? Không phải là chỗ bà con à? Tôi nghe nói thế mà…
    - Anh nghe ở đâu? Không thưa các ngài Karamazov, các ngài làm ra bộ mình thuộc dòng họ quý tộc cao sang lâu đời, trong khi đó thì ông bố của các ngài tìm làm thằng hề ở bàn ăn nhà người và được người ta gia ơn coi như một chân làm bếp. Ừ thì tôi chỉ là con một cha cố và thứ bọ rệp so với những kẻ quý tộc các người, nhưng đừng lăng nhục tôi một cách nông nổi và vui vẻ như thế. Tôi cũng có danh dự chứ, Alecxei Fedorovich! Tôi không thể có họ hàng bà con gì với Grusenka, một gái làng chơi, xin hiểu cho!
    Rakitin tức giận ghê gớm.
    - Vì Chúa, xin thứ lỗi cho tôi, tôi không ngờ đâu như thế, vả chăng sao chị ấy lại là gái làng chơi kia chứ, lẽ nào chị ấy lại… là người như thế? - Aliosa bỗng đỏ mặt. - Tôi nhắc lại, tôi nghe bảo chị ấy là chỗ bà con với anh. Anh thường hay đến nhà chị ấy và chính anh nói rằng anh không có quan hệ tình ái gì với chị ấy… Tôi không bao giờ nghĩ rằng anh lại khinh miệt chị ấy như thế! Lẽ nào chị ấy đáng khinh như vậy?
    - Tôi đến đấy là có lý do riêng nhưng về phần anh thế là đủ rồi. Còn về quan hệ họ hàng thì nhiều phần chắc hơn cả là ông anh anh hay chính ông bố anh sẽ làm cho anh phải nhận cô ta là chỗ họ hàng, chứ không dính gì đến tôi. Kìa, họ đã đến kia rồi. Anh nên xuống bếp đi thì hơn. Ái chà, thế là thế nào, chuyện gì thế nhỉ? Hay là ta đến muộn? Có thể nào họ ăn nhanh thế được? Hay cha con nhà Karamazov lại gây chuyện gì rồi? Chắc vậy. Kìa, ba anh đang ra, cả Ivan Fedorovich theo sau. Họ từ chỗ Cha viện trưởng ùa ra. Cha Ixidor đứng trên bậc thềm hướng về phía họ la thét cái gì. Cả ba anh cũng la hét và vung tay, chắc là chửi mắng. Ơ kìa, Miuxov cũng đã lên xe, anh thấy đấy. Ông ấy ra về. Còn kia nữa, ông địa chủ Maximov đang chạy - có chuyện lôi thôi gì rồi; vậy là chưa kịp ăn! Liệu họ có đánh Cha viện trưởng không? Hay họ bị ăn đòn? Nếu vậy thì đáng đời!…
    Rakitin không lầm. Quá là đã xảy ra một vụ tai tiếng chưa từng có và bất ngờ. Mọi việc xảy ra "do diệu cảm".

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 8 - VỤ TAI TIẾNG
    Khi Miuxov và Ivan Fedorovich đến nhà Cha viện trưởng dù trong tâm trạng Petr Alecxandrovich - vốn là một người lịch sự tử tế và tế nhị - đã mau chóng xảy ra một diễn biến tế nhị: ông xấu hổ vì mình đã nổi cáu. Ông tự cảm thấy rằng đáng ra ông không nên đếm xỉa gì đến lão Fedor Pavlovich tệ hại, không nên mất bình tĩnh trong phòng trưởng lão, không nên rối trí đến nỗi để sự tình xảy ra như vậy. "Ít ra thì các tu sĩ cũng không có lỗi gì".
    Ông chợt quyết định khi bước lên bậc thềm nhà Cha viện trưởng, mà nếu ở đây cũng là những người tử tế cha viện trưởng Nicolai (hình như cũng là dòng dõi quý tộc) thì tại sao ta lại không nhã nhặn, lịch thiệp, lễ độ với họ? Ta sẽ không tranh cãi, thậm chí ta sẽ phụ hoạ với họ, ta sẽ tỏ ra nhã nhặn để thu hút thiện cảm của họ và… và cuối cùng ta sẽ chứng tỏ với họ rằng ta không cùng một giuộc với tên Ezov ấy, tên hề ấy, tên hề kịch câm ấy, ta bị hố cũng như tất cả bọn họ…".
    Về quyền đồn gỗ trong rừng và đánh cá trên sông hiện đang còn tranh chấp (mà cái đó ở đâu chính ông cũng chẳng biết), ông quyết định nhường cho họ, nhường đứt, ngay hôm nay, nhất là những cái đó cũng không đáng gì, ông sẽ đình chỉ mọi việc kiện cáo tu viện.
    Những ý định tốt đẹp ấy càng vững chắc thêm khi họ vào phòng ăn của Cha viện trưởng. Tuy vậy đây không phải là phòng ăn, vì Cha chỉ có hai phòng trong căn nhà thực ra thì rộng rãi hơn và tiện lợi hơn nơi ở của trưởng lão. Nhưng các thứ bày biện trong phòng cũng không tiện lợi lắm: đồ đạc bằng gỗ hồng sắc bọc da, kiểu cổ của những năm hai mươi; thậm chí còn không sơn; nhưng tất cả đều sạch bóng, trên các cửa sổ có nhiều loại hoa đắt tiền: nhưng xa hoa nhất lúc này đương nhiên là cái bàn bày biện sang trọng, mặc dù đây là nói một cách tương đối: khăn bàn sạch, bát đĩa bóng lộn, bánh mì nướng tuyệt khéo ba loại(1) hai chai mật ong tuyệt trần đời của tu viện và một bình thuỷ tinh to đựng nước kvax của tu viện đã nổi tiếng khắp các vùng lân cận. Không có vodka. Về sau Rakitin kể lại rằng bữa ăn lần này có năm món: cháo cá tẩm với bánh nướng nhân cá; rồi cá hầm nhừ chế biến từ kiểu đặc biệt ngon hết chỗ nói, rồi chả cá bống băm viên, kem và nước quả, cuối cùng là chè bột quả tương tự như món đông hạnh nhân. Rakitin đã đánh hơi được tất cả những món đó, vì anh ta không nén nổi, đã cố tình tạt vào bếp của Cha viện trưởng: anh ta cũng có những mối quen biết ở đó. Anh ta có những mối quen biết ở khắp mọi nơi và ở đâu anh ta cũng moi được tin tức. Tính anh ta thích nhiễu sự và rất hay ghen tị. Anh ta có ý thức đầy đủ về những khả năng đáng kể của mình, nhưng do thói tự phụ anh ta phóng đại quá đáng những khả năng ấy. Chắc anh ta biết rằng rồi đây anh ta sẽ là một nhà hoạt động trong loại của mình, nhưng Aliosa vốn rất mến anh ta, lấy làm khổ tâm về nỗi anh bạn Rakitin của anh là kẻ bất lương mà không hề tự biết, trái lại, anh ta tự nhủ lòng rằng mình sẽ không bao giờ đánh cắp tiền của ai cho dù tiền để ngay trên mặt bàn, anh ta đinh ninh rằng như vậy là hết sức ngay thẳng rồi. Về mặt này không chỉ riêng Aliosa, mà chẳng ai có thể làm gì được.
    Rakitin thân phận hèn mọn, không thể được mời đến bữa ăn, nhưng người ta mời Cha Ioxif, Cha Paixi và một giáo sĩ nữa. Khi Petr Alecxandrovich, Kalganov và Ivan Fedorovich vào thì họ đã chờ sẵn trong phòng ăn của Cha viện trưởng. Cả tay địa chủ Maximov cũng đã có mặt ở đấy, đứng riêng một chỗ. Cha viện trưởng ra giữa phòng đón khách. Đấy là một ông già cao, gầy, vẫn còn tráng kiện, tóc đen đã điểm bạc nhiều, khuôn mặt dài rầu rĩ và nghiêm trang. Cha lặng lặng cúi chào khách, nhưng lần này thì khách đến để Cha ban phước. Miuxov toan đánh bạo hôn tay Cha, nhưng Cha đã kịp rụt tay lại, thế là cái hôn bị hẫng. Song Ivan Fedorovich và Kalganov lần này được ban phước trọn vẹn, nghĩa là hôn tay Cha chùn chụt theo kiểu bình dân hết sức chất phác.
    - Trình Cha, chúng tôi phải hết lời xin lỗi Cha, - Petr Alecxandrovich lên tiếng, miệng mỉm cười nhã nhặn, nhưng giọng vẫn nghiêm trang kính cẩn, - xin Cha thứ lỗi vì chúng tôi đến mà không có Fedor Pavlovich, người đã được Cha mời và cũng cùng đi với chúng tôi. Ông ấy buộc lòng phải cáo từ không dự bữa tiệc ăn này, và không phải không có lý do. Ở phòng Cha Zoxima, do quá hăng máu trong cuộc cãi lộn vô phước với con trai, ông ta đã nói mấy lời rất chi là không tiện… tóm lại là rất đỗi thô bỉ… mà hình như là (ông nhìn các giáo sĩ) Cha cũng đã biết rồi. Ông ta tự biết mình có lỗi và thành thực hối hận. Ông ta xấu hổ và bởi vì không vượt qua được nỗi hổ thẹn, ông ta nhờ tôi và con trai ông ta là Ivan Fedorovich trình lại với Cha rằng ông ta hết sức hối tiếc, buồn phiền và ân hận… Tóm lại ông ta hy vọng và mong mỏi sau này sẽ chuộc lỗi đầy đủ, còn bây giờ ông ta xin Cha ban phước và cầu xin Cha quên đi chuyện đã lỡ xảy ra…
    Miuxov im tiếng. Nói xong mấy lời cuối cùng của đoạn độc thoại dài, ông ta bằng lòng với mình lắm đến độ cơn tức giận mới đây không còn dấu vết gì trong tâm hồn ông. Ông lại hoàn toàn chân thành yêu nhân loại. Cha viện trưởng nghiêm trang nghe ông nói từ đầu chí cuối, đoạn hơi cúi đầu đáp lại:
    - Tôi rất lấy làm tiếc là ông ấy đã vắng mặt. Nếu dự bữa ăn với chúng ta, có lẽ ông ấy sẽ yêu mến chúng ta, cũng như chúng ta sẽ yêu mến ông ấy. Xin mời quý vị vào bàn.
    Cha đứng trước ảnh thánh và cầu kinh, đọc thành tiếng. Mọi người kính cẩn cúi đầu, riêng ông địa chủ Maximov thậm chí tiến hẳn lên phía trước, hai tay chắp lại trước bụng tỏ ý sùng kính đặc biệt.
    Đúng lúc ấy Fedor Pavlovich giở ngón trò cuối cùng. Nên biết rằng ông ta muốn bỏ về thật và thực tâm cảm thấy rằng sau khi đã giở những trò nhục nhã như thế trong phòng trưởng lão thì không thể muối mặt đến ăn ở nhà Cha viện trưởng như thể không có gì xảy ra. Không phải là ông ta hổ thẹn quá và tự kết tội mình; có lẽ trái hẳn lại là đằng khác; nhưng ông ta vẫn cảm thấy rằng đến ăn thì thật bỉ ổi. Nhưng khi chiếc xe ngựa long sòng sọc đến thềm nhà khách thì ông ta vừa đặt chân lên đã dừng lại ông ta bỗng nhớ đến những lời mình đã nói ở phòng của trưởng lão: "Khi đến bất cứ nơi nào tôi cũng cảm thấy mình là kẻ ti tiện nhất và mọi người đều coi tôi là thằng hề, vậy thì tôi sẽ làm hề thực sự, bởi vì tất cả các người, không trừ một ai, đều ngu xuẩn và ti tiện hơn tôi". Ông ta tự dưng muốn trả thù tất cả mọi người về những việc làm hèn mạt của mình. Lúc này ông ta chợt nhớ lại trước kia có lần người ta đã hỏi ông: "Vì sao ông thù ghét người ấy thế?". Thế là mượn thói trơ trẽn của vai hề, ông ta đáp: "Là bởi thế này, của đáng tội thì hắn cũng chẳng làm gì tôi, nhưng tôi đã chơi cho hắn một vố cực kỳ đểu cáng, và chơi xong vố ấy lập tức tôi đâm ra thù ghét hắn". Bây giờ nhớ lại chuyện ấy ông ta trầm ngâm giây lát, nhếch mép cười lặng lẽ và hiểm ác. Mắt ông ta long lên, thậm chí môi run run. "Đã bắt đầu thì cứ làm đến cùng", - ông ta bỗng quyết định. Cái cảm giác thầm kín nhất của ông ta trong giây lát ấy chỉ có thể diễn đạt bằng những lời: "Bây giờ không thể nào lấy lại danh dự được nữa, thế thì cứ trâng tráo khinh đứt họ đi cho họ biết rằng: ta không xấu hổ với các người đâu, có vậy thôi!". Ông ta bảo người đánh xe chờ mình, rồi rảo bước trở lại tu viện và đến thẳng chỗ Cha viện trưởng. Ông ta vẫn chưa biết rõ mình sẽ làm gì, nhưng ông ta biết mình không còn tự chủ được nữa, chỉ một kích thích nhỏ là lập tức ông ta sẽ đi đến giới hạn tột cùng của một hành vi đốn mạt nào đó, nhưng chỉ là hành vi đốn mạt thôi, chứ tuyệt nhiên không phải là hành vi phạm tội hay một việc cuồng dại có thể bị toà án trừng phạt. Gặp trường hợp này bao giờ ông ta cũng biết tự kìm mình và thậm chí có những lần ông ta lấy làm ngạc nhiên về điều đó. Ông ta xuất hiện trong phòng ăn của Cha viện trưởng đúng vào lúc đọc kinh xong và mọi người đến bàn ăn. Ông ta dừng lại ở ngưỡng cửa, nhìn khắp lượt tất cả mọi người, ngạo nghễ nhìn thẳng vào mắt họ và bật ra một tiếng cười dài, trâng tráo và độc ác.
    - Thế mà họ tưởng tôi đã ra về, nhưng tôi đây này! - ông ta gào vang khắp phòng.
    Trong khoảnh khắc, mọi người đều nhìn chằm chằm vào ông ta và im lặng, bỗng nhiên ai nấy đều cảm thấy rằng bây giờ sắp xảy ra một chuyện gì tởm lợm, lố lăng, nhất định là gây tai tiếng, Petr Alecxandrovich đang hết sức khoan khoái bỗng trở nên cuồng nộ. Tất cả những gì đã tắt lịm trong lòng ông lập tức sống lại và bùng lên.
    - Không, tôi không thể chịu đựng nổi! - ông gầm lên. - Tôi không sao chịu nổi… Không có cách gì chịu nổi!
    Máu xông lên đầu. Thậm chí ông nói nhịu, nhưng bây giờ không còn là lúc lựa lời nữa, ông chộp lấy mũ.
    - Ông ta không chịu nổi cái gì kia chứ? - Fedor Pavlovich la lên. - "Không có cách gì chịu nổi và không sao chịu nổi" ư? Trình Cha, tôi có vào được không? Cha có tiếp nhận tôi là khách mời không?
    - Rất vui lòng mời ông. - Cha viện trưởng đáp. - Thưa các vị! Tôi mạo muội, - Cha bỗng nói thêm, - hết lòng cầu xin các vị tạm gác lại những xích mích ngẫu nhiên giữa các vị, gắn bó cùng nhau trong tình yêu và trong sự hoà thuận anh em, cầu nguyện Chúa Trời, cùng dự vào bữa ăn khiêm nhường của chúng ta.
    - Không, không, không thể được. - Petr Alecxandrovich la lên dường như mất bình tĩnh.
    - Đã không thể được đối với Petr Alecxandrovich thì cũng không thể được đối với tôi, tôi sẽ không ở lại đâu. Tôi đến đây cũng cốt là như thế, bây giờ Petr Alecxandrovich ở đâu thì tôi sẽ ở đấy: ông đi thì tôi sẽ đi. Petr Alecxandrovich ạ, ông ở thì tôi sẽ ở.… Thưa Cha viện trưởng, Cha vừa nói đến sự hoà thuận anh em tức là Cha châm chọc ông ấy; ông ấy không muốn nhận là có quan hệ họ hàng với tôi! Phải thế không, Fon Zon?(2) Fon Zon đứng đây này. Chào ông, Fon Zon.
    - Ông… ông nói với tôi đấy ư? - Địa chủ Maximov sửng sốt, nói lúng búng.
    - Cố nhiên là với anh. - Fedor Pavlovich la lên. - Chứ còn với ai nữa? Cha viện trưởng không thể là Fon Zon được!
    - Nhưng tôi cũng không phải là Fon Zon, tôi là Maximov.
    Không, anh là Fon Zon. Trình Cha, Cha có biết Fon Zon là gì không? Có một vụ án hình sự như thế: ông ta bị giết trong nhà thổ hình như các vị gọi những chốn ấy như thế, - bị giết và bị cướp lột mặc dù tuổi ông ta đã rất cao, người ta nhét ông ta vào cái hòm và gửi từ Peterburg về Moskva trong toa tàu chở hàng, có đánh số hẳn hoi. Lúc đóng hòm, bọn gái nhà thổ hát hỏng và chơi đàn guxli(3), tức là đàn piano ấy mà. Đấy chính là Fon Zon ấy, ông ta từ những kẻ chết sống lại, phải không Fon Zon?
    - Thế là thế nào? Sao lại thế kia chứ? - Có tiếng lao xao trong đám giáo sĩ.
    - Ta đi đi! - Petr Alecxandrovich lớn tiếng nói với Kalganov.
    - Ồ không! - Fedor Pavlovich tru tréo lên, bước thêm một bước trong phòng. - Để tôi nói nốt đã. Ở phòng trưởng lão, ông mắng tôi như thể tôi đã phạm tội bất kính, chỉ vì tôi lớn tiếng nói về cá bống, Petr Alecxandrovich Miuxov, người bà con của tôi thích lời nói phải plus de noblesse que de sincerite(4), còn tôi thì trái lại, tôi thích lời nói phải plus de sincerite que de noblesse(5) tôi cóc cần noblesse(6)! Phải thế không, Fon Zon? Vô phép Cha viện trưởng, tôi tuy là thằng hề và làm trò hề, nhưng tôi là trang hiệp sĩ trọng danh dự và tôi muốn bày tỏ ý kiến của mình. Vâng, tôi là trang hiệp sĩ trọng danh dự, còn Petr Alecxandrovich chỉ có lòng tự ái bị tổn lương, ngoài ra không còn gì hơn. Tôi đến đây có lẽ là để xem xét và nói lên ý nghĩ của mình. Con trai tôi là Alecxei đang tu ở đây, tôi là bố nó, tôi chăm lo đến số phận của nó và đấy là bổn phận của tôi. Trong lúc diễn trò tôi vẫn nghe thấy hết, tôi ngấm ngầm xem xét, và bây giờ tôi muốn hiến các ngài hồi cuối cùng của vở diễn: Thói thường ở ta là thế nào? Thói thường ở ta là ngã thì cứ nằm đấy. Ở ta một khi đã ngã thì cứ nằm suốt đời. Đừng hòng! Tôi muốn đứng dậy. Thưa các cha thánh thiện, tôi phẫn nộ về các cha. Xưng tội là một bí tích vĩ đại mà tôi tôn sùng và tôi sẵn lòng phủ phục xuống để tỏ lòng tôn sùng, vậy mà ở phòng trưởng lão mọi người đều quỳ gối bô bô xưng tội cho người khác nghe thấy. Có phép đâu bô bô xưng tội cho người ngoài nghe thấy không? Các cha thánh thiện đã định rằng xưng tội chỉ nói thầm vào tai thôi, chỉ khi đó xưng tội mới là bí tích, cái lệ ấy đã có từ cổ xưa. Mà thế là phải, làm sao tôi có thể công nhiên giãi bày trước mặt mọi người rằng chẳng hạn tôi đã làm thế này… ờ, tôi đã làm thế nọ, các vị hiểu chứ? Đôi khi có những điều nói ra quá là bất lịch sự. Như vậy thì không khỏi mang tai mang tiếng! Không, thưa các cha, trong việc này mà theo các cha thì có lẽ sẽ bị cuốn vào giáo phái Khlưxtư(7)… Hễ có dịp là tôi sẽ viết thư lên Hội nghị tôn giáo, còn thằng Alecxei con tôi thì tôi sẽ lôi nó về nhà… Ở đây xin lưu ý một điều. Fedor Pavlovich đã nghe được một số lời đồn đại. Trước đây đã có những chuyện đơm đặt độc ác thậm chí đã đến tai cả giáo chủ (không phải chỉ trong vùng chúng tôi, mà cả ở các tu viện khác có lập trưởng lão), theo đó thì dường như các trưởng lão được tôn sùng quá đáng, thậm chí phương hại đến uy quyền của viện trưởng, và ngoài ra, dường như các trưởng lão lạm dụng bí tích xưng tội và vân vân. Lời buộc tội thật phi lý, vì thế nó đã tự tiêu tan ngay từ thời ấy, cả ở vùng chúng tôi cũng như ở khắp mọi nơi. Nhưng con quỷ ngu ngốc đã bốc Fedor Pavlovich lên và mang ông ta đi mỗi lúc một xa xuống cái vực sâu nhục nhã này lại nhắc ông ta nhớ tới lời buộc tội trước đây mà bản thân ông ta chẳng hiểu tí gì hết. Vả chăng ông ta cũng không biết trình bày cho nên đầu nên đũa, nhất là lần này ở phòng trưởng lão chẳng có ai quỳ gối bô bô xưng tội để mọi người nghe thấy, vì Fedor Pavlovich không thể chính mắt nhìn thấy chuyện như thế và chỉ nói theo lời đồn và những chuyện đơm đặt trước kia mà ông nhớ láng máng. Nhưng nói xong những lời ngu ngốc, ông ta cảm thấy mình phun ra những điều vô lý lố bịch, và ông ta bỗng muốn chứng minh rằng hoàn toàn không phải là ông ta nói nhảm. Tuy ông ta biết rõ mười mươi rằng càng nói thêm câu nào thì ông ta càng vô lý và lố lăng hơn, nhưng ông ta không nén được và cứ như lao tuột xuống dốc.
    - Đê tiện quá đi! - Petr Alecxandrovich la lên.
    - Xin lỗi, Cha viện trưởng bỗng lên tiếng. - Đời xưa có câu: "Người ta bắt đầu nói nhiều điều không đâu về tôi, thậm chí cả những điều xấu xa. Tôi nghe hết và tự nhủ: ấy là thuốc của Chúa Kito gửi xuống để chữa cho tôi cái bệnh háo danh". Vì thế chúng tôi cúi mình cảm tạ ông, thưa vị khách quý báu!
    Và Cha rạp mình cúi chào Fedor Pavlovich.
    - Ôi cha-cha! Đạo đức giả và câu nói suông cũ rích! Những câu nói cũ rích và những điệu bộ cũ rích! Sự giả dối cũ rích và cái trò rạp đầu bái tạ theo khuôn sáo mòn! Chúng tôi biết những cái lạy tạ ấy rồi! "Hôn vào môi và cắm lưỡi dao vào tim" như trong vở "Lũ kẻ cướp" của Siller. Tôi không ưa sự giả dối, thưa các cha, tôi muốn chân lý! Nhưng chân lý không phải ở những con cá bống, điều đó tôi đã tuyên bố rõ! Thưa các cha thày tu, các cha ăn chay làm gì? Tại sao các cha ăn chay để mong được ân thưởng ở trên trời? Để được ân thưởng như thế thì đến cả tôi cũng xin ăn chay! Không, thưa đấng tu sĩ thánh thiện, hãy đức hạnh trong đời sống, làm lợi cho xã hội, chứ không phải là giam mình trong tu viện ăn bánh mì có sẵn và chờ đợi sự ân thưởng ở trên kia - như vậy còn khó hơn. Thưa Cha viện trưởng, tôi cũng biết nói năng ra đầu ra đũa đấy chứ. Người ta dọn những món gì thế này? - ông ta tới gần bàn. - Rượu Porto cũ của Farton, rượu vang Medog của anh em Elixxeev(8), các cha cừ thật! Những thứ này không có gì giống cá bống. Các cha lại còn đưa ra cả chai rượu này nữa chứ, hê-hê-hê! Nhưng ai cung phụng tất cả những thứ này? Người nông dân Nga, người lao động đã bằng hai bàn tay chai sần của mình kiếm từng đồng xu đem đến đây, bòn của gia đình và của nhu cầu nhà nước! Thưa các cha thánh thiện, các cha hút máu dân đen!
    - Ông bậy bạ quá đấy. - Cha Ioxif thốt lên. Cha Paixi một mực im lặng. Miuxov đâm bổ ra khỏi phòng, Kalganov ra theo.
    - Thôi, thưa các cha, tôi cũng về theo Petr Alecxandrovich! Tôi sẽ không đến đây nữa, các cha có quỳ xuống cầu xin tôi cũng không đến nữa. Tôi đã gửi cho các cha một nghìn rúp, thế là các cha đã lại sáng mắt ra, hê-hê-hê! Không, tôi sẽ không cho thêm nữa đâu. Tôi trả thù cho tuổi trẻ đã qua của tôi, cho tất cả sự nhịn nhục của tôi! - ông ta đấm tay xuống bàn trong cơn uất ức giả tạo. - Tu viện này có ý nghĩa lớn trong đời tôi! Tôi đã cay đắng đổ nhiều nước mắt vì nó! Các người đã xúi giục người vợ điên dại của tôi chống lại tôi. Các người đã nguyền rủa tôi tại bảy Hội nghị giám mục(9), phỉ báng tôi khắp quanh vùng! Đủ rồi, thưa các cha, bây giờ là thời đại tự do, thời đại của tàu thủy và đường sắt. Các người sẽ không được tôi cho nghìn nào, trăm nào, thậm chí trăm xu nào nữa, không có gì nữa hết!
    Còn điều nữa đáng lưu ý. Chưa bao giờ tu viện của chúng tôi có ý nghĩa đặc biệt gì như thế trong đời ông ta, cũng chưa bao giờ ông ta nhỏ một giọt nước mắt cay đắng nào vì tu viện. Nhưng ông ta say sưa với những giọt nước mắt bịa đặt ấy đến nỗi trong giây lát ông ta gần như không tin bản thân mình nữa: thậm chí ông ta suýt khóc vì cảm động; nhưng chính lúc ấy ông ta cảm thấy nên quay càng xe tháo lui là vừa.
    Đáp lại những lời bịa đặt hằn học của ông ta, Cha viện trưởng cúi đầu lại nói:
    - Còn có câu này nữa: "Hãy vui vẻ chịu đựng sự sỉ nhục tự dưng đến với con, đừng bối rối, cũng đừng căm thù kẻ đã bêu riếu con": Chúng tôi sẽ làm như thế.
    - Ái chà-chà! Lại một mớ những lời bá láp! Các cha cứ suy xét đi, tôi về đây! Còn thằng Alecxei con tôi thì từ nay tôi lôi hẳn nó về, quyền làm bố của tôi, Ivan Fedorovich con trai vô cùng đáng kính của ba, ba lệnh cho anh đi theo ba! Fon Zon, anh còn đứng đấy làm gì! Về thành phố đi, đến nhà tôi. Ở nhà tôi vui ra trò. Chỉ một dặm đường thôi mà, thay cho dầu cây tôi sẽ đãi lợn sữa và cháo đặc; ta sẽ làm một bữa chén, sẽ có cognac, rượu mùi nữa, lại cả gái đẹp… ê, Fon Zon, đừng bỏ lỡ hạnh phúc!
    Ông ta đi ra, vừa gào thét vừa hoa tay múa chân. Chính lúc ấy Rakitin nhìn thấy và chỉ cho Alecxei.
    - Alecxei! - Nhác thấy con, ông ta thét gọi từ xa - Hôm nay về hẳn nhà, đem theo cả gối và chân nệm, sao cho ở đây không còn hơi hướng gì của con nữa.
    Aliosa đứng sững lại như trời trồng, lẳng lặng chăm chú quan sát cảnh tượng trước mắt. Trong lúc đó Fedor Pavlovich lên xe, tiếp đó Ivan Fedorovich lặng lẽ và cau có lên theo, thậm chí không ngoảnh lại từ biệt Aliosa. Nhưng lại một cảnh hề nữa gần như không thể tưởng tượng nổi xảy ra, bổ sung cho cuộc diễn trò. Địa chủ Maximov bỗng xuất hiện bên bác xe. Ông ta chạy hộc tốc để khỏi bị chậm. Rakitin và Aliosa nhìn thấy ông ta chạy.
    Ông ta vội vã đến nỗi hấp tấp bước luôn lên cái bậc xe vẫn còn bàn chân trái của Ivan Fedorovich đặt ở đó và víu lấy thành xe, toan nhảy vào trong.
    - Tôi cũng đi, cho tôi đi với! - ông ta vừa la vừa nhảy cẫng lên, vui vẻ cười khúc khích, mặt tràn trề hạnh phúc, sẵn sàng làm mọi việc. - Cho tôi đi với!
    - Thì tôi đã bảo mà, - Fedor Pavlovich hân hoan reo lên, - đấy là Fon Zon! Đấy thực sự là Fon Zon sống lại từ nhưng kẻ chết. Nhưng anh làm cách nào thoát ra khỏi nơi ấy? Anh đã làm trò quỷ quái gì ở đấy và làm thế nào thoái thác được bữa ăn? Muốn vậy phải có cái trán bằng đồng! Tôi có cái trán như thế, còn anh, người anh em ạ, tôi ngạc nhiên về cái trán của anh. Nhảy lên, nhảy lên mau mau! Cho ông ấy lên, Vania, càng thêm vui. Ông ta sẽ nằm tạm dưới chân được đấy. Anh nằm được chứ, Fon Zon?
    - Hay để ông ta ngồi ghé lên ghế xà ích?… Nhảy lên ghế xà ích đi, Fon Zon…
    Nhưng Ivan Fedorovich đã ngồi vào chỗ bỗng lẳng lặng ra sức xô mạnh vào ngực Maximov khiến ông ta văng đi đến vài thước.
    Ông ta không ngã là may.
    - Đi thôi! - Ivan Fedorovich giận dữ quát lên với người đánh xe.
    - Sao lại làm thế? Sao con lại làm thế? Sao lại xô ông ấy? - Fedor Pavlovich sửng cồ lên, nhưng xe đã đi. Ivan Fedorovich không trả lời.
    - Con lạ thật đấy! - im lặng được vài phút, Fedor Pavlovich lại lên tiếng, mắt liếc nhìn con. - Chính con bày ra tất cả chuyến đi thăm tu viện này, chính con giục giã, thế thì tại sao bây giờ lại cáu kỉnh?
    - Ba nói lảm nhảm đủ rồi đấy, bây giờ thì ngủ đi một chút. - Ivan Fedorovich nghiêm nghị ngắt lời.
    Fedor Pavlovich lại yên lặng vài phút.
    - Giá được một ly cognac bây giờ thì tốt, - ông ta nói với giọng trịnh trọng. Nhưng Ivan Fedorovich không trả lời.
    - Về đến nhà, con cũng nên uống một chút.
    Ivan Fedorovich vẫn lặng thinh.
    Fedor Pavlovich chờ thêm hai phút nữa.
    - Dù thế nào ba cũng lôi Alecxei ra khỏi tu viện, mặc dù anh sẽ rất khó chịu về việc đó, Carl Fon Mor vô cùng đáng kính của ta ạ.
    Ivan Fedorovich khinh khỉnh nhún vai và quay mặt đi, nhìn ra ngoài đường. Sau đó cho đến lúc về tới nhà, không ai nói năng gì.
    Chú thích
    (1) Theo phong tục, người Nga thường dùng ba loại bánh mì trắng, xám nâu và đen (N.D).
    (2) vụ án Fon Zon xử tại toà án khu Peterburg ngày 18 và 19 tháng ba 1870, Fon Zon bị nhử vào một lưu manh ở trung tâm Peterburg, bị giết một cách dã man, của cải bị cướp sạch (B.T)
    (3) loại đàn dây thời cổ, đặt trên đùi, chơi bằng cả hai tay (N.D).
    (4) Tiếng Pháp trong nguyên bản: nhiều tao nhã hơn là thành thật (N.D).
    (5) Tiếng Pháp trong nguyên bản: nhiều thành thật hơn là tao nhã (N.D).
    (6) Tiếng Pháp trong nguyên bản: tao nhã (N.D)
    (7) Một trong những phái ly giáo tăm tối nhất, cuồng tín nhất, xuất hiện ở Nga vào thế kỷ XII (N.D)
    (8) Tên các của hàng thực phẩm nổi tiếng (N.D).
    (9) Trong số bảy Hội nghị giám mục toàn thế giới (những đại hội các giới chức cao cấp của giáo hội Kito), nhà thờ chính giáo thừa nhận bảy hội nghị đầu tiên. Kể từ hội nghị đầu tiên, trong đó giáo phái Ariut bị lên án là tà đạo, hầu như mỗi lần hội nghị đều có người bị nguyền rủa và lên án (N.D).

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    PHẦN III - CHƯƠNG 1 - TRONG CĂN NHÀ GIA NHÂN
    Nhà Fedor Pavlovich không phải ở ngay trung tâm thành phố nhưng cũng không hẳn ở ngoại ô. Ngôi nhà khá cũ kỹ, nhưng bề ngoài nom dễ thương: một tầng, có gác nóc, sơn xám, lợp tôn đỏ. Tuy vậy nó còn vững chãi chán, rộng rãi và tiện lợi. Trong nhà có nhiều buồng kho, nhiều xó xỉnh và những cầu thang bất ngờ. Nhà có chuột, nhưng Fedor Pavlovich cũng không lấy thế làm bực tức gì cho lắm. "Dù sao tối đến cũng không buồn tẻ quá khi ta chỉ có một mình". Quả thực là ông có thói quen ban đêm cho đầy tớ xuống ngủ nhà dưới, còn ông khoá cửa ở trên nhà một mình suốt đêm. Căn nhà dưới ấy ở sân, rộng thênh thang và vững chãi, Fedor Pavlovich đặt bếp ở đấy, tuy nhà trên cũng có bếp: ông ta không ưa mùi nhà bếp, và thức ăn phải đưa lên qua sân, đông cùng mùa hè. Nói chung ngôi nhà xây cho một gia đình lớn: có thể chứa được một số người nhiều gấp năm, cả chủ lẫn đầy tớ. Nhưng vào lúc xảy ra câu chuyện này, trên nhà chỉ có Fedor Pavlovich và Ivan Fedorovich, còn ở căn nhà dưới của gia nhân chỉ có ba người đầy tớ: lão Grigori, mụ Marfa vợ lão và Xmerdiakov, gã đầy tớ khá trẻ. Cần nói kỹ hơn chút nữa về ba nhân vật này. Về lão Grigori Vaxilievich thì chúng ta nói khá nhiều rồi. Đấy là một con người cứng rắn và kiên cường, bền gan đi thẳng tới đích của mình, miễn là cái đích ấy, do những nguyên nhân nào đó (thường là phi lôgic kỳ lạ), được lão coi là chân lý hiển nhiên. Nói chung lão là người chính trực và không mua chuộc được. Vợ lão, Marfa Ignatievna, mặc dù suốt đời một mực tuân theo ý chồng, đã có lần dầy dà chồng ghê gớm, chẳng hạn ngay sau khi giải phóng nông nô, mụ cứ nằng nặc đòi bỏ Fedor Pavlovich đi Moskva để buôn bán lặt vặt gì ở đó (hai vợ chồng cũng có được tý tiền). Nhưng ngay hồi ấy Grigori đã quyết định, một lần dứt khoát, là mụ nói tầm bậy "vì đàn bà ả nào cũng bất nghĩa bất nghì", nhưng bỏ chủ cũ mà đi thì không được, dù chủ thế nào đi nữa, "vì bây giờ bổn phận của họ là như vậy".
    - Bà có hiểu thế nào là bổn phận không? - Lão nói với vợ.
    - Tôi hiểu. Ông Grigori Vaxilievich ạ, nhưng sao chúng ta lại có bổn phận phải ở lại đây dù tôi chẳng hiểu gì cả. - Marfa Ignatievna trả lời dứt khoát.
    - Không hiểu thì thôi, nhưng vẫn cứ phải như vậy. Từ nay đừng nói nữa.
    Đúng như thế: họ không đi, Fedor Pavlovich ấn định cho họ một khoản tiền công nhỏ thôi, nhưng trả sòng phẳng. Thêm nữa Grigori biết rằng lão có ảnh hưởng không chối cãi được đối với chủ. Lão cảm thấy như thế, và cũng hợp lý thôi: tay hề ranh mãnh và bướng bỉnh Fedor Pavlovich tính tình rất cương quyết "trong một số việc của đời sống", theo lối nói của chính ông ta, nhưng lại rất non gan trong "một số sự việc khác của đời sống", điều mà chính ông ta cũng lấy làm lạ. Chính ông ta biết đó là những việc gì. Ông ta biết và có nhiều điều ông ta sợ. Trong đời có những trường hợp cần đề phòng cẩn thận, khi ấy không có một người trung thành thì thật gay, mà Grigori là người trung thành bậc nhất: trong cuộc đời bon chen của mình, đã nhiều lần Fedor Pavlovich có thể bị ăn đòn, và ăn đòn đau, nhưng bao giờ ông ta cũng được Grigori cứu thoát, tuy sau mỗi lần như thế lão đều la rầy ông đến rát tai. Nếu chỉ là bị đánh thôi thì có lẽ Fedor Pavlovich không sợ: có những trường hợp hơn thế, thậm chí rất tinh vi và phức tạp, mà khi ấy, chính Fedor Pavlovich có lẽ cũng không hiểu tại sao ông tức khắc cảm thấy hết sức cần một người thân tín trung thành. Đấy là những trường hợp gần như bệnh hoạn: là một kẻ hết sức trụy lạc và nhiều khi dâm đãng đến tàn bạo, như một con sâu độc, đôi khi, vào những lúc say, bỗng dưng Fedor Pavlovich cảm thấy một nỗi sợ hãi không đâu, một cơn chấn động tinh thần có ảnh hưởng gần như về mặt thể xác trong tâm hồn. "Những lần ấy tâm hồn tôi như run rẩy trong cổ họng" - đôi khi ông ta nói như vậy. Những lúc ấy ông ta thích bên cạnh mình, dù không phải ở cùng phòng, mà ở nhà dưới, có một người tin cẩn, cương quyết, không trụy lạc như ông ta, tuy nhìn thấy tất cả những trò phóng đãng đang diễn ra và biết hết mọi bí mật, nhưng vì trung thành mà dung thứ hết, không chống lại, nhất là không trách móc và không doạ nạt ông bằng bất cứ hình phạt gì trong cuộc đời hiện nay hay ở kiếp sau; khi cần thì sẽ bảo vệ ông - chống lại ai? Chống lại kẻ nào đó không biết, nhưng ghê gớm và nguy hiểm. Cái chính là nhất thiết phải có một người khác, một người thân thiết lâu năm mà lúc đau buồn có thể gọi đến chỉ để chăm chú nhìn vào mặt, có thể trao đổi một lời dù là tầm phơ, và nếu người đó không hề cáu kỉnh thì nỗi lòng vợi hẳn đi, còn nếu người đó cáu kỉnh thì trong lòng càng buồn thêm. Có khi (tuy là rất hiếm) Fedor Pavlovich đương đêm xuống nhà dưới đánh thức Grigori dậy, bảo lão lên với ông ta một lát. Lão lên, ông ta nói những chuyện hết sức vẩn vơ, rồi lát sau cho lão xuống nhà, đôi khi thậm chí giễu cợt và pha trò, rồi nhổ một bãi nước bọt, đi nằm và ngủ một giấc ngon lành của người công chính. Ngay cả sau khi Aliosa về nhà cũng đã xảy ra một trò gì tương tự như thế. Aliosa "đâm thủng tim" ông vì anh "nhìn thấy hết và không chê trách gì". Hơn thế nữa, ở anh còn có một điều chưa từng thấy: anh hoàn toàn không khinh ông già, trái lại bao giờ cũng dịu dàng với ông, thương mến ông một cách hoàn toàn thẳng thắn, tự nhiên, tuy ông chẳng xứng đáng được như thế. Đối với lão già dâm đãng sống độc thân, tất cả những điều đó hoàn toàn bất ngờ, hết sức bất ngờ đối với một người như ông ta trước nay chỉ ham thích "cái bỉ ổi". Aliosa đi rồi, ông ta tự thú với mình rằng ông ta đã hiểu được điều gì trước nay ông ta không muốn hiểu.
    Khi mới vào câu chuyện, tôi đã nói rằng Grigori ghét Adelaida Ivanovna, người vợ đầu tiên của Fedor Pavlovich và mẹ của con trai cả của ông - Dmitri Fedorovich - và trái lại, lão bênh người vợ thứ hai mắc bệnh "ngộ dại" của chủ, Xofia Ivanovna, chống lại chính ông chủ và bất cứ ai thốt ra một lời tồi tệ hay nông nổi về bà ta. Thiện cảm của lão đối với người đàn bà bất hạnh ấy biến thành cái gì thiêng liêng đến mức hai mươi năm sau lão vẫn không chịu nổi khi bất kỳ ai nói xấu bà chủ và lão lập tức phản đối kẻ xúc phạm. Vẻ ngoài Grigori là một người lạnh lùng và nghiêm trang, không nhiều lời, nói ra là xác đáng, chắc nịch.
    Thoạt gặp không thể đoán chắc được lão có yêu người vợ ngoan ngoãn tận tụy không, thế nhưng lão thực sự yêu vợ, và bà vợ cố nhiên cũng biết như thế. Marfa Ignatievna chẳng những không đần mà có lẽ còn tinh khôn hơn chồng, ít ra cũng chín chắn hơn trong đời sống, nhưng mụ nhẫn nại phục tùng chồng vô điều kiện, ngay từ khi thành vợ thành chồng, hiển nhiên là mụ kính trọng chồng vì đức độ cao cả. Đáng chú ý là hai vợ chồng cả đời rất ít nói với nhau, ngoài những điều hết sức cần thiết và những việc hàng ngày. Grigori nghiêm trang và oai vệ chỉ nghiền ngẫm một mình mọi công việc và ưu tư của mình, vì thế Marfa Ignatievna đã từ lâu hiểu rõ dứt khoát rằng chồng không cần đến lời bàn của mụ. Mụ cảm thấy rằng chồng quý trọng sự im lặng đó của mụ và cho như thế là khôn ngoan. Lão không bao giờ đánh vợ, trừ có một lần, nhưng cũng nhẹ thôi.
    Năm đầu tiên sau khi Adelaida Ivanovna và Fedor Pavlovich thành hôn, có lần đàn bà con gái trong làng hồi ấy còn là nông nô, tụ họp ở sân nhà chủ để hát và nhảy. Họ hát bài "Trong những đồng cỏ" và Marfa Ignatievna, hồi ấy còn trẻ, bỗng nhảy ra đi điệu vũ Nga bằng một kiểu đặc biệt, không như các bà trong làng, mà như mình vẫn nhảy hồi còn là người hầu trong gia đình Miuxov giàu có: những người biểu diễn vũ trên sân khấu nhà họ đều được một vũ sư ở Moskva về dạy cho. Grigori thấy vợ nhảy rất chi là "điệu", và một giờ sau, ở nhà ông ta cho vợ bài học, nắm tóc giúi nhẹ mấy cái. Nhưng việc đánh vợ chỉ có độc một lần như thế thôi, không tái diễn lần nào, vả lại từ đó Marfa Ignatievna thề không nhảy nhót gì nữa.
    Trời không cho họ có con, sinh được một đứa nhưng bỏ mất rồi, Grigori rõ ràng là yêu trẻ, mà lão cũng không giấu giếm điều đó nghĩa là nói ra mồm không ngượng ngập. Khi Adelaida Ivanovna bỏ nhà trốn đi, lão đem Dmitri Fedorovich mới lên ba về nuôi, chăm nom thằng bé gần một năm, tự tay chải đầu cho nó, tự tay tắm rửa cho nó trong chiếc chậu giặt. Rồi lão chăm nom cho Ivan, cả Aliosa, vì thế mà lão được ăn cái tát; nhưng về chuyện ấy tôi đã kể đầy đủ rồi. Còn chính con lão chỉ đem lại cho lão niềm vui sướng hy vọng lúc Marfa Ignatievna còn mang thai. Khi đã ra đời, nó làm cho lão đau xót và khiếp sợ. Số là đứa bé sinh ra có sáu ngón tay. Thấy thế Grigori chán nản đến nỗi chẳng những không hé răng nửa lời cho đến ngày làm lễ rửa tội, và cố ý lánh ra vườn để khỏi nói năng gì. Bấy giờ là mùa xuân, suốt ba ngày lão đánh luống rau trong vườn, đến ngày thứ ba phải làm lễ rửa tội cho đứa bé. Lúc ấy Grigori đã nghĩ ra một cách. Trong nhà đã có mặt cha xứ, khách khứa và chính Fedor Pavlovich đến để làm cha đỡ đầu, Grigori vào và đột nhiên tuyên bố là "không nên làm lễ rửa tội" cho đứa bé, lão nói khẽ thôi, không nhiều lời, khó nhọc thốt ra từng tiếng, chỉ giương mắt ngây ngô nhìn linh mục chằm chằm.
    - Sao lại thế? - Linh mục hỏi, vẻ ngạc nhiên và vui vẻ.
    - Là bởi vì đấy là… con rồng… - Grigori ấp úng.
    - Sao lại rồng, rồng nào?
    Grigori im lặng một lúc.
    - Thiên nhiên lầm lộn… - Lão ấp úng, nói không rõ ràng, nhưng rất kiên quyết và dễ thấy là lão không muốn dài lời thêm nữa.
    Người ta cười và dĩ nhiên là vẫn cứ làm lễ cho đứa bé tội nghiệp. Grigori nhiệt tâm cầu nguyện bên chậu nước làm lễ, nhưng không thay đổi ý kiến về đứa bé mới sinh. Tuy nhiên, lão không cản trở gì hết, có điều suốt mấy tuần lễ đứa bé ốm yếu còn sống, lão hầu như không nhìn đến nó, thậm chí không muốn nhận thấy là có nó, và phần lớn thời gian lão đi khỏi nhà.
    Nhưng hai tuần sau khi đứa bé chết vì bệnh tưa mồm thì lão tự tay đặt nó vào cỗ quan tài nhỏ, hết sức buồn rầu nhìn nó, và khi người ta lấp cái huyệt nhỏ, đào nông thì lão quỳ xuống, rạp mình sát đất trước nấm mồ. Từ đó, suốt nhiều năm lão không hề nhắc đến con mình lần nào, cả Marfa Ignatievna cũng không bao giờ nhắc đến đứa con trước mặt chồng, còn khi buộc phải nói với ai về "con mình" thì chỉ nói thì thầm, cho dù là Grigori không có mặt ở đấy. Theo nhận xét của Marfa Ignatievna, từ sau khi chôn đứa bé, ông chồng đâm ra mê mải chăm "việc thần linh", đọc kinh Treti-minei, đeo cặp kính tròn to tướng gọng bạc lên và phần nhiều là lẳng lặng đọc một mình. Ít khi lão đọc thành tiếng, trừ phi vào tuần chay. Lão thích cuốn Jov, lão kiếm đâu ra được tập lời giảng và giáo lý của "Cha Ixaac người Sy-ri của chúng ta, đấng rao truyền ý Chúa", lão kiên gan đọc nhiều năm mà hầu như chẳng hiểu gì cả. Gần đây lão bắt đầu chú ý tìm hiểu kỹ giáo phái Khlưxtư, nhờ có những người hàng xóm mà lão có dịp làm việc đó, rõ ràng lão xúc động mãnh liệt, nhưng lão chưa có ý theo đạo mới. Do đọc nhiều thánh kinh, dĩ nhiên diện mạo lão càng có vẻ trịnh trọng hơn;
    Có lẽ lão có khuynh hướng thần bí. Vậy mà như có sự sắp đặt sẵn, việc đứa con sáu ngón ra đời và chết lại trùng khớp với một việc tình cờ khác hết sức lạ lùng, bất ngờ, kỳ dị mà như lời lão nói sau này, đã để lại "dấu ấn" trong tâm hồn lão. Chuyện là thế này: đúng hôm chôn đứa con sáu ngón, Marfa Ignatievna đương đêm thức giấc, nghe như có tiếng khóc của trẻ sơ sinh. Mụ sợ hãi đánh thức chồng dậy. Lão lắng tai nghe và nhận xét rằng có tiếng ai rên thì đúng hơn, "hình như tiếng đàn bà". Lão trở dậy, mặc quần áo, đấy là một đêm tháng năm khá ấm áp. Ra đến thềm, lão nghe thấy rõ tiếng rên ở trong vườn. Nhưng ban đêm vườn khoá từ phía sân, và ngoài lối đi đó thì không vào vườn được vì khắp xung quanh là tường rào chắc chắn và cao. Grigori vào nhà thắp đèn, lấy khoá vườn và không để ý gì đến sự sợ hãi điên cuồng của vợ - vợ lão càng tin chắc rằng mụ nghe thấy tiếng khóc, chắc là thằng bé gọi mụ - và lão lặng lặng đi ra vườn. Đến đây lão hiểu rõ ràng tiếng rên vọng ra từ buồng tắm hơi ở trong vườn, cách cửa rào không xa, và đúng là tiếng rên của đàn bà. Mở cửa buồng tắm, lão thấy một cảnh tượng khiến lão sững người: cô gái ngây dại vẫn đi lang thang trên các đường phố và cả thành phố đều biết, biệt hiệu là ELizaveta Xmerdiasaia, đã vào được buồng tắm và vừa sinh một đứa con. Đứa hài nhi nằm cạnh cô ta, còn cô ta đang hấp hối. Cô ta chẳng nói năng gì, vì một lẽ đơn giản là cô ta không biết nói. Nhưng tất cả những điều đó cần phải giải thích riêng.

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 2 - LIZAVETA XMERDIASAIA
    Ở đây có một điều đặc biệt khiến Grigori xúc động sâu sắc, làm tăng thêm mối nghi ngờ ghê tởm trước kia vốn đã có. Cô Lizaveta Xmerdiasaia này vóc người rất nhỏ bé, "chỉ già hai arsin một chút"(1) như mấy bà già sùng đạo trong thành phố đã động lòng thương cảm nhớ lại sau khi cô ta chết. Khuôn mặt con gái đôi mươi khỏe mạnh, bầu bĩnh và hồng hào, hoàn toàn ngây độn; mắt nhìn trân trân đến khó chịu, nhưng hiền lành. Suốt đời, đông cũng như hè, cô ta đi chân đất, mặc độc một chiếc sơ mi bằng vải gai thô. Mái tóc gần như đen, rất dầy rậm, xoăn tít như lông cừu, nom như chiếc mũ rất lớn trên đầu. Ngoài ra, người lúc nào cũng lấm lem bùn đất, dính đầy lá lẩu, cành vụn, vỏ bào, vì cô ta bao giờ cũng ngủ dưới đất và cả trong bùn. Bố cô ta là Ilya, một tiểu thị dân vô gia cư, đã phá sản và ốm o, rất nghiện rượu và nhiều năm nay vẫn làm lao công cho những người phong lưu cũng là tiểu thị dân vùng này để được nuôi ăn. Mẹ Lizaveta chết đã lâu. Luôn luôn ốm đau và hung ác, cha đánh đập Lizaveta tàn nhẫn mỗi khi con về nhà. Nhưng cô gái ít khi về nhà bởi vì cô được cả thành phố cho ăn, coi cô là một "thánh hài" trời sinh. Cả các chủ của Ilya, cả chính Ilya, thậm chí nhiều người giàu lòng trắc ẩn trong thành phố, những thương gia và phần lỡn là những thương gia, đã nhiều lần cho Lizaveta mặc tử tế hơn, chứ không phải chỉ là một chiếc áo sơ mi, mùa đông bao giờ cũng mặc áo lông cho cô và cho cô đi ủng. Nhưng thường thường cô ta cứ để yên cho mặc, rồi cô ta đi và trút bỏ hết những gì người ta cho ở một chỗ nào đó, phần lớn là ở sân nhà thờ. Khăn quàng, váy hay áo lông, ủng, cô ta bỏ ráo, lại đi đất và trên mình chỉ độc một chiếc sơ mi như trước. Có lần, quan tổng đốc mới tỉnh tôi, nhân kinh lý qua thị trấn này, nhìn Lizaveta và điều đó xúc phạm ghê gớm đến những tình cảm tốt đẹp nhất của Ngài và tuy Ngài hiểu rằng đó là "một thánh hài" như người ta đã trình với Ngài, nhưng Ngài vẫn cứ quở rằng một đứa con gái trẻ chỉ mặc một chiếc sơ mi đi lang thang ngoài phố là có hại cho thuần phong mĩ tục, từ nay trở đi không được để như thế nữa. Nhưng quan tổng đốc đi rồi, người ta lại vẫn để mặc cô gái như trước. Cuối cùng bố cô ta chết, cô ta mồ côi mồ cút và càng được tất cả những người sùng đạo quý mến hơn.
    Quả là cô ta dường như được mọi người yêu mến, ngay cả bọn trẻ con trai cũng không trêu ghẹo và xúc phạm cô, mà bọn trẻ con trai ở vùng tôi, đặc biệt là học trò thì tinh nghịch lắm. Cô ta vào những nhà không quen biết cũng chẳng ai đuổi cô ra, trái lại ai cũng trìu mến và cho cô đồng nửa xu. Được người ta cho đồng xu, cô cầm lấy và lập tức đem đi bỏ vào một cái hốc nào đó ở nhà thờ hay nhà tù. Khi ở chợ người ta cho bánh mì vòng hay bánh kalats, thế nào cô ta cũng đem cho một đứa trẻ gặp trước tiên, không thì níu một bà nào giàu nhất vùng lại mà đưa tặng; bà này nhận ngay, thậm chí vui mừng mà nhận. Bản thân cô ta chỉ ăn bánh mì đen và uống nước lã. Có khi cô ta tạt vào một cửa hàng giàu có, ngồi chơi ở đấy, trước mặt là hàng hoá đắt tiền, cả tiền nữa, nhưng chủ nhà chẳng bao giờ canh chừng cô, họ biết rằng cho dù họ có lấy ra trước mắt cô hàng nghìn đồng và bỏ quên thì cô cũng chẳng đụng đến một xu. Ít khi cô đi nhà thờ, cô ngủ hoặc là ở sân nhà thờ, hoặc là leo qua hàng giậu đan bằng cành cây (vùng chúng tôi cho đến nay vẫn còn nhiều hàng giậu chứ không phải là tường rào) vào vườn rau nhà ai đó. Cô ta về nhà nghĩa là đến những chủ nhà mà trước kia bố cô ta vẫn ở nhờ, chừng một tuần một lần, mùa đông thì ngày nào cũng đến, nhưng chỉ để ngủ đêm thôi, và ngủ ở phòng ngoài hoặc trong chuồng bò. Người ta ngạc nhiên thấy cô ta chịu đựng nổi cuộc sống như thế, nhưng cô ta quen rồi. Cô gái này nhỏ người, nhưng thể chất khỏe lạ thường. Một số người tầng lớp trên bảo rằng cô ta làm ra như thế vì tính kiêu hãnh, nhưng nói vậy xem ra không ổn: cô ta không nói được tiếng nào, chỉ thỉnh thoảng uốn lưỡi ú ớ cái gì và rống lên, thế thì kiêu hãnh cái nỗi gì. Thể rồi có một lần (đã khá lâu rồi), vào một đêm tháng chín sáng sủa và ấm áp, trăng tròn vành vạnh, đã khuya lắm rồi theo thói quen sinh hoạt của chúng tôi, một bọn các ông chủ đi đánh chén ở câu lạc bộ về, say ngật ngưỡng, chừng năm sáu mống, đi tắt qua cái "sân sau". Hai bên các ngõ hẻm là bờ giậu vườn rau các nhà kế cận. Lối ngõ dẫn ra chiếc cầu bắc qua một rãnh nước dài và hôi thối mà ở vùng chúng tôi người ta quen gọi là con sông. Bọn người này nhìn thấy Lizaveta đang ngủ bên hàng giậu, trong đám tầm ma và ngưu bằng. Những ông chủ chếnh choáng say dừng lại trước cô gái, cười hô hố và phun ra những câu pha trò hết sức thô bỉ. Một cậu ấm con nhà chợt nảy ra một câu hỏi kỳ quái về một câu chuyện không thể tưởng tượng được: "Liệu có người nào có thể coi con vật này là một ả đàn bà và ngay bây giờ… ". Cả bọn đều tỏ vẻ ghê tởm kiêu căng, cả quyết là không. Nhưng trong đám có Fedor Pavlovich, ông ta lập tức nhảy ra và nói quyết rằng ông ta có thể coi đây là một người đàn bà, thậm chí rất hứng thú là đằng khác, ở đây có một cái gì thuộc loại khoái trá đặc biệt v.v và v.v. Thực ra, hồi ấy ông ta đang gắng hết sức làm nổi đình đám cho vai hề của mình, ông ta hay nhảy ra làm trò vui cho những kẻ giàu có, cố nhiên bề ngoài có vẻ ngang vai bằng vế, nhưng thực ra đối với họ ông ta chỉ là một kẻ hạ đẳng.
    Chuyện này xảy ra đúng vào thời gian ông ta nhận được tin từ Peterburg là người vợ đầu của ông, Adelaida Ivanovna đã chết và ông ta đeo băng tang trên mũ mà vẫn rượu chè trác táng đến nỗi ngay cả những kẻ phóng đãng nhất trong thành phố cứ nhìn thấy ông ta cũng phải khó chịu. Tất nhiên cả bọn phá lên cười vì cái ý kiến bất ngờ, có kẻ thậm chí còn xúi giục Fedor Pavlovich, nhưng những người khác bắt đầu nhổ bọt càng dữ dội hơn, tuy vẫn cực kỳ vui vẻ, cuối cùng họ ra về cả. Sau này Fedor Pavlovich thề sống thề chết rằng ông ta cũng bỏ đi cùng với những người khác. Có thể đúng như thế, không ai biết chắc và không bao giờ biết được, nhưng năm sáu tháng sau, cả thành phố đều thực tâm hết sức phẫn nộ khi thấy Lizaveta có mang, người ta hỏi nhau và tìm xem kẻ nào gây ra cơ sự này, kẻ nào làm nhục cô gái? Thế rồi bỗng nhiên lời đồn đại lạ lùng lan ra khắp thành phố: kẻ làm nhục cô gái chính là Fedor Pavlovich. Lời đồn ấy ở đâu ra? Hồi này trong số những ngài chơi bời tối hôm ấy, ở thành phố chỉ còn lại một người, mà lại là một vị đã có tuổi, một viên tham nghị bậc năm đáng kính có gia đình và các con gái lớn, hẳn là ông ta sẽ không hở điều gì, cho dù sự thể đã xảy ra là thế nào đi nữa. Những người khác có mặt trong buổi hôm ấy, chừng năm người, đã rời khỏi vùng này. Nhưng lời đồn nêu đích danh Fedor Pavlovich và vẫn không ngừng nêu đích danh ông ta. Cố nhiên ông ta không lấy gì làm bực bõ cho lắm: ông ta không thèm trả lời mấy tên nhà buôn và mấy đứa tiểu thị dân. Hồi ấy ông ta đang hãnh diện và chỉ chuyện trò với các quan chức và quý tộc mà ông ta ra sức làm trò vui cho họ. Chính thời kỳ ấy Grigori cực lực bênh vực chủ, chẳng những bác lại tất cả những lời nói xấu ấy, mà còn to tiếng cãi cọ khiến nhiều người phản đối. "Chính là tại ả, con bé hèn hạ ấy", - lão nói quyết như vậy, còn kẻ gây nên cơ sự ấy chẳng phải ai khác ngoài "thằng Carfơ có súng" đấy là một tên tù ghê gớm, khét tiếng trong thành phố, hồi ấy đã vượt ngục và lẩn quất trong thành phố chúng tôi).
    Nghe chừng có lý lắm, người ta chưa quên Carfơ, người ta vẫn nhớ rằng mấy đêm đó, vào cữ sắp sang thu, hắn lởn vởn trong thành phố và đã cướp lột ba người. Nhưng việc không hay đã xảy ra và lời đồn đại chẳng những không làm cho mọi người mất thiện cảm với cô gái ngây dại mà người ta càng trông nom chăm sóc cô hơn. Bà nhà buôn Condratieva, một bà góa phong lưu, cho người đưa Lizaveta về nhà bà ta từ cuối tháng tư và dặn phải giữ cô ta lại cho đến khi sinh nở. Người ta canh giữ rất kỹ, nhưng mặc dù vậy, đến ngày cuối cùng, buổi tối Lizaveta trốn khỏi nhà Condratieva lúc nào không biết và lọt vào vườn nhà Fedor Pavlovich. Bụng mang dạ chửa như thế, cô ta làm thế nào vượt qua được tường rào cao và chắc chắn bao quanh vườn, đấy vẫn còn là điều bí ẩn. Một số người bảo có người đưa cô ta qua, một số khác nói rằng đấy là do "phép trời". Việc đó tuy lạ lùng, nhưng nhiều phần chắc là đã diễn ra một cách tự nhiên: Lizaveta vẫn trèo qua được các hàng rào vào ngủ đêm trong vườn rau nhà người ta thì cũng có cách leo được lên bờ tường nhà Fedor Pavlovich, rồi từ đấy nhảy xuống vườn; mặc dù đang bụng mang dạ chửa, nhảy như thế là tự hại mình. Grigori đâm bổ đi tìm Marfa Ignatievna và bảo vợ chăm sóc cho Lizaveta, còn lão chạy đi mời bà đỡ ở gần đấy. Đứa bé mới sinh thì cứu được, còn Lizaveta tắt thở lúc gần sáng. Grigori bế đứa bé vào nhà, bảo vợ ngồi xuống và đặt đứa bé lên đùi vợ, áp ngay vào vú: "Đứa trẻ mồ côi trời sinh này là bà con của tất cả mọi người, với vợ chồng ta lại càng gần hơn. Nó là do đứa nhỏ đã chết của chúng ta gửi đến cho chúng ta, nó là con trai của quỷ và một phụ nữ công chính. Hãy nuôi nó và từ nay đừng khóc nhiều nữa". Thế là Marfa Ignatievna nuôi dạy đứa trẻ. Nó được rửa tội và đặt tên là Pavel, còn phụ danh thì chẳng ai bảo, mọi người đều gọi nó là Fedorovich, Fedor Pavlovich chẳng những không chống đối, mà thậm chí còn coi đó là chuyện thú vị, tuy ông ta vẫn dứt khoát không nhận nó đích thực là con mình. Trong thành phố người ta khen ông ta đã nuôi đứa con rơi. Sau này ông ta đặt họ cho nó là Xmerdiakov, theo biệt hiệu của mẹ nó là Lizaveta Xmerdiasaia.
    Chính Xmerdiakov ấy là người đầy tớ thứ hai của Fedor Pavlovich và trong phần đầu câu chuyện của chúng ta, hắn ở căn nhà dưới cùng với lão Grigori và bà lão Marfa. Hắn giữ chân nấu bếp. Rất cần nói một số điều riêng về hắn, nhưng, tôi lấy làm ngượng vì đã làm độc giả mất nhiều thì giờ như thế về những gia nhân rất đỗi tầm thường, vì vậy tôi đi vào câu chuyện của tôi hy vọng rằng quá trình kể chuyện, tự nhiên sẽ phải đả động đến Xmerdiakov.
    Chú thích
    (1) 1 arsin = 0.71m, hai arsin là khoảng 1,4m (N.D)

  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 3 - LỜI XƯNG TỘI CỦA MỘT TRÁI TIM NỒNG NHIỆT: QUA NHỮNG VẦN THƠ
    Nghe lời quát bảo của bố từ trên cỗ xe ngựa đang rời khỏi tu viện, Aliosa vẫn đứng im tại chỗ một lúc, hết sức băn khoăn. Không phải là anh đứng trơ ra như cây cột, không phải thế. Trái lại mặc dù hết sức lo lắng, anh đã kịp tức khắc xuống bếp nhà Cha viện trưởng dò hỏi xem bố mình đã gây chuyện gì ở trên nhà. Sau đó anh ra đi, hy vọng trên đường về thành phố anh sẽ tìm được cách gì giải quyết vấn đề giày vò anh. Tôi xin nói trước: lời ông bố quát thét ra lệnh cho anh phải trở về nhà, mang theo "Chăn gối nệm giường" không làm anh sợ chút nào. Anh hiểu quá rõ ràng cái lệnh như thế, công nhiên nói ra trước mọi người và lại làm ra bộ quát nạt, chỉ là "cơn bốc đồng", thậm chí có thể nói là để làm mẽ, chẳng khác gì mới đây trong thị trấn của họ, một người quá chén trong bữa tiệc mừng ngày lễ thánh của chính mình, bực tức vì người ta không cho ông ta uống rượu thêm nữa, ngay trước mắt khách khứa đã đập vỡ bát đĩa của nhà, xé cả áo của mình và của vợ, đập phá đồ đạc, cuối cùng đập cả kính cửa, cũng chỉ để làm mẽ; với bố anh hôm nay cố nhiên đại loại cũng như thế. Hôm sau tỉnh rượu, cố nhiên cái người đã quá trớn kia tiếc số đĩa chén bị đập vỡ. Aliosa biết rằng hôm sau chắc ông già sẽ cho anh trở lại tu viện, thậm chí có thể ngay hôm nay cũng chưa biết chừng. Thêm nữa anh tin chắc rằng ai không biết, chứ riêng anh thì bố không muốn làm phiền lòng. Aliosa tin chắc rằng trên đời chẳng bao giờ có ai muốn xúc phạm đến anh, chẳng những không muốn mà còn không thể có chuyện ấy nữa kia. Đối với anh đấy là một tiên đề đã được xác lập vĩnh viễn, không cần lý lẽ gì hết, và về mặt này anh cứ thẳng đường tiến bước, không một chút do dự.
    Giây phút ấy lòng anh thấp thỏm một nỗi sợ khác, thuộc loại hoàn toàn khác hẳn, điều càng khổ tâm hơn là chính anh không định rõ được nó là cái gì, đúng ra đấy là sợ một người phụ nữ, chính là sợ Ekaterina Ivanovna đã gửi cho anh bức thư ngắn mà bà Khokhlakova vừa chuyển cho anh, trong đó nàng khẩn khoản mới anh đến có chuyện gì không rõ. Đòi hỏi đó và việc anh nhất định phải đến gây nên trong tâm tư anh một nỗi giày vò. Suốt buổi sáng và càng về sau cảm giác ấy càng nhức nhối hơn, mặc dù sau đó đã xảy ra những cảnh om sòm và những chuyện bất ngờ ở tu viện, rồi ở nhà Cha viện trưởng, v.v… Anh sợ không phải vì anh không biết nàng sẽ nói gì với anh và anh sẽ trả lời nàng ra sao. Và không phải anh sợ phụ nữ nói chung: cố nhiên anh ít biết phụ nữ, nhưng dẫu sao, suốt đời, từ thuở ấu nhi cho đến lúc vào tu viện, anh chỉ ở với phụ nữ. Anh sợ người phụ nữ ấy, sợ chính Ekaterina Ivanovna. Anh sợ nàng ngay từ lần đầu gặp nàng. Anh gặp nàng chỉ một vài lần, thậm chí có lẽ ba lần, có lần tình cờ anh còn nói với nàng mấy lời. Anh nhớ lại nàng là một cô gái xinh đẹp, kiêu hãnh, hách dịch. Nhưng không phải sắc đẹp của nàng giày vò anh, mà là một cái gì khác. Chính vì không giải thích được vì sao mà sợ nên giờ đây càng sợ thêm. Cô gái ấy theo đuổi những mục đích cao quý: anh biết. Nàng tìm cách cứu Dmitri, kẻ có tội với nàng, mà nàng làm như thế chỉ vì độ lượng. Thế nhưng, mặc dù biết rõ rằng mình không thể không công bằng với tất cả những tình cảm cao quý và độ lượng ấy, càng đến gần nhà nàng anh càng cảm thấy lạnh sống lưng.
    Anh cho rằng anh sẽ không gặp Ivan Fedorovich ở đấy, tuy Ivan rất thân với nàng: lúc này Ivan chắc đang ở nhà bố, Dmitri lại càng không có ở nhà Ekaterina. Aliosa linh cảm thấy tại sao. Như vậy chỉ có hai người nói chuyện với nhau. Trước khi bước vào cuộc nói chuyện tai ác ấy, Aliosa rất muốn ghé qua nhà Dmitri để gặp anh mình. Không cần đưa bức thư ra, anh có thể nói với Dmitri một điều gì. Nhưng, nhà Dmitri ở xa, và chắc bây giờ cũng không có nhà. Anh đứng tại chỗ một lát, rồi cuối cùng anh quyết định. Anh làm dấu thánh bằng một cử chỉ quen thuộc và vội vã, mỉm cười cái gì không rõ và cả quyết đi đến gặp người phụ nữ đáng sợ ấy.
    Anh biết nhà nàng. Nhưng nếu ra Phố Lớn, rồi qua quảng trường và vân vân thì không phải là gần lắm đâu. Thành phố chúng tôi không lớn, nhưng phân bổ hết sức rải rác, từ khu vực này đến khu vực khác khá xa. Vả lại, ông già đang chờ anh, có lẽ ông vẫn chưa quên việc ông ra lệnh cho anh phải về nhà, có thể ông sẽ lại nổi tính đồng bóng, vì vậy cần gấp vội lên để kịp đến đấy và mau mau về nhà. Vì những lý do ấy, anh quyết định đi tắt qua lối sân sau cho nhanh, ngõ ngách trong thành phố anh biết rõ như năm đầu ngón tay mình. Đi lối sân sau tức là hầu như không có đường, men theo các bờ tường vắng vẻ, đôi khi trèo qua hàng rào nhà người ta, đi qua những mảnh sân nhà ở đó ai cũng biết anh và mọi người đều chào hỏi anh. Đi cách ấy anh có thể rút ngắn được nửa đường ra Phố Lớn. Ở một chỗ, anh phải đi qua sát cạnh nhà bố, phải qua một khu vườn cạnh vườn nhà, khu vườn này thuộc về một căn nhà nhỏ cũ kỹ, xiêu vẹo có bốn cửa sổ. Aliosa biết rằng người chủ nhà này là một bà lão tiểu thị dân cụt chân sống với cô con gái trước là một cô hầu phòng văn minh, thủ đô, mới đây cô ta còn đi làm cho các nhà quan, nhưng chừng một năm nay mẹ ốm nên cô ta ở nhà, song lúc nào cũng vẫn diện những bộ cánh sang trọng. Bà lão này và cô con gái đã lâm vào cảnh nghèo túng ghê gớm, thậm chí hàng ngày vẫn sang bếp nhà Fedor Pavlovich xin súp và bánh mì. Marfa Ignanevna sẵn lòng đãi họ. Cô con gái này phải đi xin súp, song không bán một bộ cảnh nào cả, thậm chí cô ta có một bộ áo đuôi dài lê thê.
    Điều này Aliosa biết được cũng là hoàn toàn tình cờ, qua anh bạn Rakitin của mình - Rakitin biết hết mọi chuyện trong cái thành phố nhỏ của họ, - nhưng rồi dĩ nhiên Aliosa cũng quên ngay.
    Nhưng bây giờ đến vườn nhà bà hàng xóm, anh chợt nhớ đến chính cái đuôi áo ấy, đang cúi đầu ngẫm nghĩ anh ngẩng phắt lên và bỗng xảy ra một cuộc gặp gỡ hết sức bất ngờ:
    Phía sau dãy rào khu vườn hàng xóm, Dmitri Fedorovich đứng lên cái gì không rõ, lộ hình đến ngực, ra sức vung hai tay làm hiệu gọi anh, rõ ràng là chẳng những không dám thét to, mà thậm chí không dám gọi thành tiếng sợ người ta nghe thấy. Aliosa lập tức chạy đến gần hàng rào.
    - May mà chú ngoảnh lại nhìn, không thì suýt nữa tôi gọi to lên. - Dmitri Fedorovich vội vã thì thầm với em bằng giọng sung sướng. - Trèo vào đấy! A, chú đến thật tuyệt quá. Tôi vừa nghĩ đến chú…
    Chính Aliosa cũng mừng, anh chỉ băn khoăn không biết làm cách nào vượt qua rào. Nhưng "Mitia" đưa bàn tay lực sĩ đỡ khuỷu tay em, giúp em nhảy qua. Aliosa vén áo thụng, nhảy qua khéo léo như một thằng bé chân đất ở thành phố.
    - Nào thôi, ta đi đi! - Mitia buột thốt lên, giọng thì thầm hoan hỉ.
    - Đi đâu?
    Aliosa cũng thì thầm, nhìn khắp xung quanh và thấy mình ở trong một khu vườn hoàn toàn vắng vẻ, chẳng có một ai ngoài hai anh em. Vườn nhỏ thôi, nhưng ngôi nhà nhỏ của chủ nhân cách họ không dưới năm chục bước. Ở đây có ai đâu, việc gì anh phải nói thầm?
    - Việc gì phải nói thầm à? A, quái quỷ! - Dmitri Fedorovich bỗng lớn tiếng nói oang oang. - Ừ, việc gì tôi phải thì thầm nhỉ? Chú thấy đấy, trong thiên nhiên bỗng dưng có thể xảy ra sự lộn xộn như thế đó. Tôi náu mình ở đây để rình mò một bí mật. Rồi tôi sẽ giải thích, nhưng vì đây là sự bí mật nên tự dưng tôi nói năng một cách bí mật, tôi thì thầm như một thằng ngốc, tuy là không cần thiết. Ta đi đi! Đến đằng kia! Chú hãy cứ im lặng đã nhé! Tôi muốn hôn chú.
    Sáng danh Chúa cả trên đời!
    Sáng danh Chúa cả trong tôi…
    Lúc này tôi nói trước mặt chú, chứ lúc ngồi ở đây tôi vẫn lặp đi lặp lại suốt.…
    Khu vườn rộng khoảng một dexiatin(1) hay hơn một chút, chỉ trồng cây xung quanh dọc theo bốn dãy rào: táo, thích, bồ đề, phong. Giữa vườn là một khoảng trống, một bãi cỏ mà mùa hè người ta cắt được mấy pud(2) cỏ khô. Mùa xuân bà chủ cho thuê vườn lấy mấy rúp. Cũng có những luống ngấy, lý gai, phúc bổn tử nhưng đều ở gần hàng rào; vườn rau ở ngay cạnh nhà, nhưng mới trồng gần đây thôi. Dmitri Fedorovich đưa khách đến một góc vườn xa nhà nhất. Ở đấy, giữa đám bồ đề san sát và những bụi cây lâu đời - phúc bồn tử và cơm cháy, tú cầu và tử đinh hương, - bỗng xuất hiện một cái gì tựa như di tích một chòi hóng mát màu lục rất lâu năm đã sạm đen và xiêu vẹo, tường chấn song, nhưng trên có mái che và vẫn còn có thể trú mưa được. Cái chòi dựng lên không biết tự bao giờ, nghe đâu từ năm chục năm trước, theo lệnh ông chủ nhà hồi bấy giờ là Alecxandr Karlovich Smidt, một trung tá về hưu. Mọi cái đã mục nát hết, sàn đã mục, ván sàn lung lay, gỗ bốc mùi ẩm mốc. Trong chòi còn một chiếc bàn gỗ sơn màu lục, chân bàn chôn xuống đất, xung quanh có những chiếc ghế dài, cũng sơn màu lục, còn ngồi được Aliosa nhận thấy ngay anh mình đang hân hoan, nhưng vào trong chòi, anh thấy trên bàn nửa chai cognac và cái ly nhỏ.
    - Đấy là cognac! - Mitia cất tiếng cười hô hố. - Chú nhìn như thế hẳn là chú nghĩ bụng: "lại say sưa", thế chứ gì? Nhưng đừng tin cái bề ngoài.
    Đừng tin đám đông hão huyền và dối trá.
    Hãy quên đi những ngờ vực trong lòng(3)
    Tôi không nghiện ngập đâu, tôi "nhấm nháp chơi" thôi, như thằng Rakitin chó đểu của chú vẫn nói, nó rồi sẽ leo lên đến chức quan tham bậc năm và sẽ luôn luôn nói là "tôi nhấm nháp chơi" thôi mà. Ngồi xuống đây. Tôi muốn ôm lấy chú, Aliosa ạ, ghì chặt chú vào ngực đến làm chú chết bẹp, bởi vì trên đời này… thực sự là thực sự. (chú nên hiểu, nên hiểu cho rõ) tôi chỉ yêu có chú thôi!
    Câu sau cùng anh ta nói gần như trong cơn điên loạn.
    - Chỉ có chú và một ả "đốn mạt", tôi mê ả và vì thế mà đời tôi đi đứt. Nhưng mê không có nghĩa là yêu. Có thể mê mà vẫn căm ghét. Chú hãy nhớ lấy! Bây giờ còn đang vui vẻ, tôi nói với chú vậy đấy. Hãy ngồi xuống bên bàn này, còn tôi sẽ ngồi bên cạnh, sẽ nhìn chú và nói luôn miệng. Chú sẽ cứ im lặng, còn tôi sẽ cứ nói, bởi vì kỳ hạn đã đến rồi. Nhưng chú ạ… tôi nghĩ rằng nên nói thực khẽ, vì ở đây… Ở đây… có thể có những cái tai nghe trộm hết sức bất ngờ. Tôi sẽ nói rõ hết, thì tôi đã bảo là còn phần tiếp theo mà. Tại sao tôi nóng lòng gặp chú, ban nãy tôi khao khát gặp chú, suốt mấy ngày qua và cả bây giờ nữa? (Tôi bỏ neo ở đây đã năm ngày rồi). Suốt mấy ngày ấy? Bởi vì tôi sẽ nói hết chỉ với một mình chú thôi, bởi vì cần phải như thế, bởi vì tôi cần chú bởi vì ngày mai tôi sẽ lộn nhào từ trên mây xuống, bởi vì ngày mai cuộc đời sẽ chấm dứt và lại sẽ bắt đầu. Có bao giờ chú cảm thấy, có bao giờ chú mơ thấy mình rơi từ trên cao xuống vực sâu không? Thế mà bây giờ tôi đang rơi xuống đấy, rơi thực chứ không phải là trong chiêm bao đâu. Nhưng tôi không sợ, chú cũng đừng sợ. Nghĩa là tôi có sợ, nhưng lại khoái trá. Kể ra không phải là khoái trá, mà là hân hoan… Ờ mà quỷ thật, đằng nào mà chả vậy? Tinh thần mạnh mẽ, tinh thần yếu đuối, tinh thần đàn bà, cũng thế cả mà thôi! Ta hãy ca ngợi thiên nhiên: chú xem đây. Ánh nắng chan hoà, trời trong veo, cây lá xanh tươi còn đang là mùa hè, mới hơn ba giờ chiều, yên ắng! Chú đi đâu vậy?
    - Tôi đến thăm ba, nhưng định ghé qua chỗ Ekaterina Ivanovna đã.
    - Đến nhà nàng rồi về nhà ba! Ôi chao! Thật là trùng hợp! Chú có biết vì sao tôi gọi chú, vì sao tôi mong chú, vì sao tôi khát khao mong mỏi bằng tất cả mọi ngóc ngách tâm hồn, thậm chí bằng cả xương sườn tôi không? Chính là để nhờ chú thay tôi đến gặp ba, rồi đến Ekaterina Ivanovna và giải quyết cho dứt cả với nàng và với ba. Nhờ một thiên thần đi hộ tôi. Tôi có thể nhờ bất cứ ai dĩ nhiên rồi, nhưng tôi cần nhờ một thiên thần kia. Thế mà chính chú lại đang đến gặp nàng và ba.
    - Anh muốn nhờ tôi đi thật à? - Aliosa thốt lên, mặt lộ vẻ đau đớn.
    - Khoan, chú biết điều đó mà. Tôi thấy rằng chú hiểu hết ngay tức thì. Nhưng chú đừng nói gì, đừng nói gì vội, đừng thương hại và đừng khóc!
    Dmitri Fedorovich đứng dậy, nghĩ ngợi và đặt một ngón tay lên trán.
    - Nàng mời chú đến, nàng gửi cho chú một lá thư hay nhắn nhe gì đó, vì thế chú mới đến, không thì chú đến làm gì?
    - Thư đây,- Aliosa lấy lá thư ở trong túi. Mitia lướt mắt đọc nhanh.
    - Và chú đi tắt lối sau! Tạ ơn thần linh đã xui khiến chú đi lối sân sau, vì thế bất đồ chú chạm trán với tôi, như con cá vàng rơi vào tay lão già đánh cá ngu độn trong truyện cổ tích(4). Này nghe đây Aliosa, nghe đây, chú em. Bây giờ tôi định nói hết đấy. Bởi vì cũng phải nói với người nào chứ. Tôi đã nói với thiên thần trên trời rồi; nhưng phải nói cả với thiên thần dưới đất nữa. Chú là thiên thần dưới đất. Chú sẽ nghe cho hết, chú sẽ phán xét, và chú sẽ tha thứ… Mà tôi lại cần một người cao quý nhất tha thứ cho tôi. Này chú ạ, nếu có hai người bỗng nhiên bứt khỏi tất cả những gì là trần tục và bay vào cõi siêu phàm, hay ít ra là một trong hai người và trước khi bay đi biệt tích hay lìa đời, người đó đến nói với người kia: hãy làm cho tôi điều này điều nọ, những điều như thế người ta không bao giờ cầu xin, mà chỉ khi sắp chết mới có thể nói ra được, vậy thì người kia lẽ nào lại không làm… nếu như đấy là người bạn, người em?
    - Tôi sẽ làm, nhưng anh nói rõ đấy là việc gì đi và nói nhanh lên. - Aliosa nói. - Nói nhanh lên…
    - Hừm. Đừng vội, Aliosa ạ, chú vội vã và lo lắng. Bây giờ không cần gì phải vội. Bây giờ thế giới đi ra con đường mới rồi. Ối chao, Aliosa, tiếc rằng chú chưa bao giờ hứng chí lên! Ờ mà tôi nói gì thế nhỉ? Có tôi mới không biết hứng chí thì có! Tôi thật là đần độn.
    Người ơi, hãy giữ lấy tấm lòng thanh cao(5)
    Thơ của ai đấy nhỉ?
    Aliosa quyết định chờ đợi. Anh hiểu rằng mọi công việc của anh có lẽ quả thực chỉ là ở đây thôi. Mitia nghĩ ngợi một lát, chống khuỷu tay lên bàn và gục đầu vào lòng bàn tay. Cả hai cùng im lặng.
    - Aliosa, - Mitia nói, - chỉ có chú là không cười! Tôi muốn bắt đầu… Lời xưng tội của tôi… bằng bài thơ ca tụng niềm vui của Siller, An die Frende!(6) Nhưng tôi không biết tiếng Đức, tôi chỉ biết An die Frende. Đừng tưởng tôi say đâm ra ba hoa đâu. Tôi chằng say tý nào. Cognac là cognac, nhưng tôi phải uống hai chai mới say.
    Thần Xilen gương mặt đỏ hồng
    Ngất ngưởng trên con lừa loạng choạng(7)
    mà tôi uống chưa đến một phần tư chai và tôi không phải là Xilen. Không phải là Xilen nhưng lại rất khỏe, vì tôi đã có một quyết định không bao giờ thay đổi nữa. Chú tha thứ cho tôi cái trò chơi chữ(8) hôm nay chú phải bỏ quá cho tôi nhiều điều; chứ đừng nói gì đến chuyện chơi chữ. Đừng lo, tôi không thể kể lể con cà con kê đâu, tôi nói chuyện thiết thực và vào việc ngay đây. Tôi sẽ không quá quắt như một tên Do Thái đâu. Khoan, thế nào nhỉ…
    Mitia ngẩng đầu lên, nghĩ ngợi và bỗng hân hoan bắt đầu đọc:
    Rụt rè, trần truồng và mọi rợ(9)
    Người nguyên thuỷ ẩn mình trong hang đá
    Người du cư lang bạt trên ruộng đồng
    Tàn phá sạch trơn hoa lợi
    Người săn thú mang giáo đeo cung tên
    Hung hăng lùng sục trong rừng rậm
    Khốn thương thay kẻ gió dập sóng vùi
    Trôi dạt rời bến hoang dại
    Từ đỉnh Olimp cao vòi vọi
    Mẹ Xere xuống chốn trần gian
    Tìm nàng Prozerpin bị bắt cóc(10)
    Trước mắt nữ thần, cõi thế gian hoang vu mọi rợ
    Không chỗ trú ngụ, không vật cũng lễ.
    Không một đền thờ
    Biểu hiện lòng tôn kính thần linh
    Tiệc trần gian không còn ngời ngợi
    Quả ngon đồng nội, nho thơm ngọt ngào
    Chỉ còn những mảnh than xác bốc khói
    Trên bàn thờ đẫm máu
    Mắt buồn rười rượi, nữ thần Xere nhìn khắp cõi trần.
    Chỉ thấy nơi nơi
    Con người chìm ngập trong sỉ nhục.
    Từ lồng ngực Mitia bỗng bật ra tiếng nức nở. Chàng vồ lấy Aliosa:
    - Bạn ơi, bạn ơi, chìm ngập trong sỉ nhục và bây giờ cũng vẫn chìm trong sỉ nhục. Con người trên trái đất phải chịu đựng quá nhiều, quá nhiều tai hoạ! Đừng nghĩ rằng tôi chỉ là một kẻ thô bỉ mặc áo sĩ quan, uống cognac và trác táng. Chú ạ, tôi gần như chỉ nghĩ đến chuyện ấy, nghĩ về con người chịu khuất nhục, nếu như tôi không nói dối. Thề có trời, bây giờ tôi không nói dối và không tự tâng bốc mình. Tôi nghĩ đến kẻ khuất phục, vì kẻ đó chính là tôi.
    Bằng sức mạnh tâm hồn
    Muốn vượt ra khỏi sự thấp hèn
    Con người hãy kết mối liên minh đời đời
    Với Mẹ đất cổ xưa(11)
    Nhưng vấn đề là: tôi làm thế nào để kết nối liên minh đời đời với Mẹ Đất! Tôi không hôn đất, không xé toang ngực đất: tôi làm sao có thể trở thành người cày ruộng hay người chăn gia súc! Tôi dĩ nhiên mà không biết mình rơi vào chỗ hôi thối và ô nhục hay đi tới ánh sáng và niềm vui. Tai hoạ là ở đấy, bởi vì mọi cái trên đời đều bí ẩn! Khi tôi ngụp sâu trong vũng bùn trụy lạc ô nhục (mà với tôi thì chỉ có thế thôi) bao giờ tôi cũng đọc bài thơ về Xere và về con người. Nó có làm tôi sửa đổi được không? Không bao giờ! Bởi vì tôi là Karamazov. Chỉ vì khi tôi rơi xuống vực thì rơi thẳng tuột, đầu lộn xuống dưới, chân ngược lên trời, thậm chí tôi lấy làm hài lòng vì mình rơi chính ở tư thế như vậy và cho rằng đối với mình như thế là đẹp. Và chính giữa lúc nhục nhã như vậy tôi bỗng hát bài tụng ca. Cho dù tôi đáng bị nguyền rủa, cho dù tôi hèn hạ và đê tiện, nhưng hãy cho tôi hôn gấu bộ áo mà Chúa Trời của tôi khoác trên người: cho dù tôi vẫn đi theo quỷ nhưng tôi vẫn là con của Ngài, ôi Chúa Trời, tôi yêu Ngài, tôi cảm thấy niềm vui sướng mà thiếu nó thì thế gian này không đứng vững và không tồn tại.
    Niềm vui vĩnh cửu
    Nuôi dưỡng linh hồn sáng tạo,
    Sức mạnh lên men bí ẩn
    Khơi bùng lửa thiêng trong chiếc chén đời(12)
    Cám dỗ cỏ cây hướng về ánh sáng.
    Biến hỗn mang thành những mặt trời
    Chói lọi khắp mọi miền không gian
    Ngoài vòng quyền uy của nhà chiêm tinh học,
    Muôn loài biết thở dưới trần gian
    Uống niềm vui trên ngực thiên nhiên tốt lành.
    Niềm vui lôi cuốn vạn vật
    Và mọi dân tộc
    Đem lên cho ta bạn bè trong cơn hoạn nạn
    Nước nhỏ ngọt ngào, vòng hoa các nữ thần Duyên dáng(13)
    Đem lại dục tình cho sâu bọ,
    Thiên thần sẽ đến hầu Thượng đế.
    Nhưng thơ với thẩn đủ rồi! Tôi đã rơi nước mắt, chú cứ để cho tôi khóc một chút. Mặc dù như thế là dớ dần, thiên hạ sẽ cười chê, nhưng chú vẫn không. Đấy kia, mắt chú rực lên. Thơ với thẩn đủ rồi. Bây giờ tôi muốn nói với chú về loài sâu bọ được Thượng đế ban cho dục tình:
    Đem lại dục tình cho sâu bọ,
    Chú ạ, tôi chính là thứ sâu bọ, câu ấy nhằm nói về tôi. Cả dòng họ Karamazov chúng ta đều thế cả, ngay cả chú, tuy chú là thiên thần, con sâu ấy vẫn sống trong chú và gây nên bão táp trong máu chú. Đấy là bão táp, bởi vì dục tình là bão táp, còn hơn cả bão táp nữa kia! Sắc đẹp thật đáng sợ, và khủng khiếp! Đáng sợ vì nó là cái không thể xác định được, và không thể xác định được là bởi Trời chỉ cho ta những câu đố hóc hiểm. Ở đây hai cái bờ gặp nhau. Ở đây mọi mâu thuẫn cùng chung sống. Chú ạ, học vấn của tôi rất ít ỏi, nhưng tôi lại nghĩ nhiều về điều đó. Cơ man nào là bí mật! Quá nhiều bí ẩn đè nặng lên con người trên cõi trần. Hãy cố mà giải đáp và khéo tìm kế thoát thân. Tôi không thể chịu đựng nổi khi một người có tấm lòng cao cả và anh minh khởi đầu từ lý tưởng của Madona mà kết thúc bằng lý tưởng Xodom(14). Đáng sợ hơn nữa là kẻ có lý tưởng Xodom trong tâm hồn mà vẫn không phủ nhận lý tưởng Madona, và vì thế trái tim hắn thực sự rực cháy, thực sự rực cháy như trong những năm tuổi trẻ trắng trong. Không, con người rộng lớn lắm, thậm chí quá rộng lớn, tôi muốn thu hẹp nó lại. Có quỷ biết thế là thế nào, vậy đấy! Cái mà đối với trí tuệ là sự nhục nhã thì đối với trái tim lại hoàn toàn là cái đẹp. Xodom có cái đẹp của nó không? Hãy tin rằng đối với đa số người, Xodom có cái đẹp, chú có biết điều bí mật ấy hay không? Điều khủng khiếp là cái đẹp không chỉ đáng sợ, mà còn bí ẩn nữa. Ở đây quỷ và Chúa Trời giao tranh với nhau, mà chiến trường là trái tim con người. Mà thôi, ai đau ở đâu thì nói về nỗi đau ấy. Nghe đây, bây giờ đi ngay vào việc.
    Chú thích
    (1) 1 dexiatin bằng 1.0925 ha (N.D).
    (2) 1 pud = 16.38 kg (N.D).
    (3) Mấy câu thơ của Nekraxov N. A, trong bài "Khi từ trong bóng tối của lầm lạc…"
    (4) ý nói truyện cổ tích "Ông lão đánh cá và con cá vàng" của A. Puskyn (N.D)
    (5) Câu đầu trong bài thơ nổi tiếng của Goethe: Das Goethche ("Sự thánh thần") (N.D).
    (6) Tiếng Đức trong nguyên bản: đến với niềm vui!
    (7) Thần Xilen *theo thần thoại Hy lạp) là người dạy dỗ đồng thời là bạn đồng hành của thần rượu nho Dionidox. Xilen thường được miêu tả là một ông già hói, vui tính, đôn hậu, luôn luôn say khướt, đeo túi da đựng rượu nho (N.D).
    (8) Xilen, tính từ ngắn đuôi trong tiếng Nga, có nghĩa là "khoẻ", vì thế Mitia mới nói đến trò chơi chữ (N.D).
    (9) Mitia mở đầu lời tự thú của mình bằng bài thơ "Ngày hội Elevzinxki" của Siller: đây là khổ hai, ba, bốn của bài thơ.
    (10) Theo thần thoại Hy Lạp. Xere là con gái của Sartun và Rea, bà là nữ thần chủ trì đất đai canh tác. Xere có với Zơt một con gái là Prozerpin, Prozerpin bị thần âm phủ bắt cóc về làm vợ (N.D).
    (11) Nửa đầu khổ thơ thứ bảy trong bài thơ nói trên của Siller.
    (12) Trích bài thơ "Đến với niềm vui" của Siller.
    (13) Ba nữ thần con của Zớt và Afrodita (N.D).
    (14) Madona, tiếng Ý, tức là Đức Mẹ đồng trinh Marfa. Theo sự tích Kinh Thánh. Xodom là một thành phố gần cửa đông Juocđanh, dân ở đây sống đồi trụy. Chúa Trời phun lửa diêm sinh xuống để trừng phạt. Xodom ở đây có nghĩa là sự hỗn loạn, đồi truỵ (N.D).

  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết





    CHƯƠNG 4 -
    - Tôi ăn chơi thì cứ gọi là bạt mạng. Vừa rồi ba nói rằng tôi tiêu hàng ngàn đồng để quyến rũ gái tơ. Đấy là sự bịa đặt đê tiện, không hề có chuyện đó, còn về những cuộc tình có thật thì lại không cần trang trí, là thứ làm tăng nhiệt huyết, là bối cảnh. Hôm nay cô nàng là người tình của tôi, ngày mai thay cho nàng đã có một ả giang hồ. Tôi mua vui cho cả hai, tôi vung tiền như rác, âm nhạc, cuộc vui náo động, các ả Zigan. Nếu cần tôi cũng cho họ tiền, bởi vì cho thì họ cũng lấy, họ cũng ham tiền, phải thừa nhận như thế, họ hể hả và biết ơn mình. Các phu nhân cũng yêu tôi không phải tất cả, mà đôi khi cũng có. Nhưng bao giờ tôi cũng thích những ngõ hẻm, những ngõ ngách vắng tanh và tăm tối ở phía sau quảng trường, ở đấy có những cuộc tình chốc lát, những điều bất ngờ, có khi vớ được hạt ngọc trong vũng bùn. Chú ạ, đấy là tôi nói theo lối ví von. Trong thành phố chúng ta không có những ngõ hẻm như thế thực đâu, chỉ là theo nghĩa bóng thôi. Nhưng nếu chú cũng như tôi thì chú sẽ hiểu thôi. Tôi yêu sự tàn bạo: tôi không phải là con rệp, là con sâu độc hại sao? Thì đã bảo là tôi người dòng họ Karamazov mà! Có lần người ta tổ chức một cuộc picnic(1) cả thành phố, bảy chiếc xe tam mã; mùa đông, trong bóng tối, tôi nắm chặt tay một cô gái ngồi bên và hôn ào đi, cô ta là một viên chức nhà nghèo, dễ thương, nhu mì, nhẫn nhịn. Cô để cho tôi giở nhiều trò ma mãnh trong bóng tối. Tội nghiệp, cô bé tưởng hôm sau tôi sẽ đến cầu hôn (dù người ta vẫn coi tôi là một chàng trai đang kén vợ mà); nhưng sau đó tôi không nói với cô ta một lời nào, năm tháng trời tôi không hé răng nửa lời. Đôi khi, trong những buổi khiêu vũ (ở chỗ tôi thỉnh thoảng vẫn có khiêu vũ), tôi thấy cô ta từ trong góc phòng nhìn theo tôi bằng đôi mắt nảy lửa, đốm lửa phẫn nộ hiền lành. Trò chơi ấy chỉ kích thích dục tình của con sâu mà tôi vẫn nuôi dưỡng trong tôi. Năm tháng sau cô ta lấy một người viên chức và rời đi nơi khác… cô ta giận mà vẫn yêu, có lẽ thế. Bây giờ vợ chồng họ sống hạnh phúc. Nên biết rằng tôi không kể câu chuyện ấy với ai, không làm hại thanh danh của cô ta: tôi tuy có những ham muốn hèn hạ và tôi yêu sự hèn hạ, nhưng tôi không phải là kẻ bất lương. Kìa chú đỏ mặt mắt chú long lên. Chú chán ngấy cái chuyện nhơ bẩn này rồi. Nhưng đấy chưa phải là cái gì ghê gớm lắm đâu, mới chỉ là những bông hoa bé nhỏ kiểu Paul de Koek thôi(2) chứ con sâu ác hại đã phát triển, đã bành trướng trong tâm hồn. Về việc này tôi có cả một tập an-bom kỷ niệm kia, chú ạ. Cầu trời ban sức khỏe cho những cô bạn nhỏ đáng yêu ấy. Khi đoạn tuyệt, tôi không thích có chuyện cãi cọ. Và không bao giờ tôi để lộ ra, không bao giờ làm hại đến danh dự một cô nào cả. Nhưng thôi, đủ rồi, chú tưởng tôi gọi chú đến chỉ để nghe những chuyện tầm bậy ấy thôi sao? Không, tôi sẽ kể cho chú nghe một chuyện kỳ thú hơn: nhưng đáng ngạc nhiên vì tôi không ngượng với chú, mà lại còn vui mừng là đằng khác.
    - Anh nói thế là vì thấy tôi đỏ mặt. - Aliosa bỗng nói. - Tôi đỏ mặt không phải vì lời nói của anh, cũng không phải vì việc làm của anh đâu, mà bởi vì tôi cũng như anh.
    - Chú ấy ư? Này thôi, chú đi quá xa rồi đấy.
    - Không, không nói quá đâu. - Aliosa hăm hở thốt lên có lẽ anh đã ấp ủ ý nghĩ ấy từ lâu - Cũng vẫn là những bậc thang ấy thôi. Tôi ở bậc dưới cùng, anh ở bậc trên cùng, vào khoảng bậc thứ mười ba. Tôi nhìn nhận sự việc như thế đấy, nhưng vậy thì cũng chẳng có gì khác lắm, cùng một loại cả thôi. Kẻ nào đã bước lên bậc đầu thì thế nào cũng bước lên bậc trên.
    - Vậy thì chớ nên đặt chân lên chứ gì?
    - Nếu có thể được thì chớ đặt chân lên.
    - Chú có thể làm như vậy được không?
    - Có lẽ là không.
    - Đừng nói nữa, Aliosa, đừng nói nữa, chú, tôi muốn hôn tay chú; thế thôi, vì cảm động. Ả phù thuỷ Grusenka ấy hiểu người lắm, nó đã từng nói với tôi rằng sẽ có ngày nó ăn tươi nuốt sống chú. Thôi, tôi không nói nữa đâu! Ta hãy rời khỏi chốn nhơ bẩn, rời khỏi mảnh đất đầy ruồi nhặng để chuyển sang tấn bi kịch của tôi cũng là một chỗ đầy ruồi nhặng, nghĩa là có đủ mọi thứ ti tiện. Kể thì ông già có dựng chuyện về việc tôi quyến rũ gái tơ, nhưng trong tấn bi kịch của tôi thì chuyện ấy thực ra là có thật mà chỉ có mỗi lần ấy thôi, và cũng chưa biến thành hành động. Ông già bịa đặt ra để trách mắng tôi, chứ chuyện này thì ông lại không biết: tôi chưa bao giờ kể với ai, chú là người đầu tiên tôi kể cho nghe, cố nhiên là trừ Ivan, Ivan biết hết. Biết trước chú từ lâu. Nhưng Ivan kín như nấm mồ.
    - Anh Ivan như nấm mồ ư?
    - Phải.
    Aliosa nghe hết sức chăm chú.
    - Hồi ấy tôi ở một tiểu đoàn biên phòng, tuy tôi là trung úy nhưng vẫn cứ bị giám sát như một kẻ đi đày. Nhưng ở thị trấn người ta trọng đãi tôi lắm. Tôi vung tiền như phá, người ta tin rằng tôi giàu, và chính tôi cũng tin như thế. Tuy nhiên, tôi được lòng họ hẳn là cũng có nguyên nhân khác. Tuy họ lắc đầu, nhưng thực ra họ yêu tôi. Ông trung tá chỉ huy của tôi cũng già rồi, tự dưng ông ta không ưa tôi. Ông ta kiếm chuyện với tôi; nhưng tôi là tay cứng cựa, vả lại cả thành phố bênh tôi. Chẳng làm gì nổi tôi. Lỗi chính là tại tôi, tôi cố ý tỏ ra thiếu kính trọng ông đúng mức. Tôi kiêu ngạo. Ông già ương gàn ấy thực ra là người rất tử tế và hiếu khách, đã có hai đời vợ, cả hai đều mất rồi. Bà vợ trước con nhà bình dân, để lại cho ông ta một cô con gái cũng giản dị như mẹ. Hồi tôi đến đấy cô ta đã hai mươi tư tuổi ở với bố và bà dì, em mẹ. Bà dì là người chất phác ít nói, còn cô cháu, con gái đầu của ông trung tá thì giản dị nhưng hoạt bát. Bây giờ nhớ lại, tôi muốn nói một lời tốt đẹp: tôi chưa từng gặp một phụ nữ nào tính tình đáng yêu như cô gái ấy. Tên cô là Agafia, chú ạ, Agafia Ivanovna. Cô khá xinh, xinh theo quan niệm của người Nga: cao to, đậm đà, mắt tuyệt đẹp, gương mặt thì hơi thô. Cô không lấy chồng, tuy đã có hai đám dạm hỏi, cô đều từ chối và vẫn giữ được tính tình vui vẻ. Tôi kết bồ với cô, không phải quan hệ trăng gió, không, mà hoàn toàn trong sạch, trên tình bạn bè. Tôi thường có quan hệ thân tình hoàn toàn trong trắng với phụ nữ, trên tình bạn bè. Tán chuyện với cô nhiều khi tôi nói những điều hết sức bỗ bã đến nỗi người ta có thể la lên, cô chỉ cười. Chú nên biết, nhiều phụ nữ thích những chuyện bỗ bã, mà cô ấy lại là gái chưa chồng, như vậy tôi cảm thấy càng thú hơn. Còn điều này nữa: không thể liệt cô ấy vào hàng tiểu thư được. Ở nhà bố, cô ấy cùng với bà dì tự ý hạ mình xuống, không theo đòi thiên hạ. Mọi người đều yêu cô ta và cần đến cô, vì cô cắt may nổi tiếng: cô có hoa tay, may giúp không vì tiền, chỉ vì thịnh tình, nhưng người ta biếu thì cô cũng không từ chối. Còn trung tá lại là chuyện khác! Trung tá là một trong những người danh vọng nhất vùng. Ông sống hào phóng, tiếp đãi cả thành phố, nào tiệc tùng, nào khiêu vũ. Khi tôi đến phục vụ tại tiểu đoàn này, cả thị trấn đều nói về cô con gái thứ hai của trung tá sống ở thủ đô sắp hạ cố về thăm vùng chúng tôi, cô nàng đẹp tuyệt trần, vừa tốt nghiệp một trường đại học quý tộc ở thủ đô, người con gái thứ hai ấy chính là Ekaterina Ivanovna, con người vợ thứ hai của ông trung tá. Người vợ thứ hai này, nay đã qua đời, là dòng dõi quyền quý, con một nhà đại quan nhưng tôi biết đích xác rằng bà ta cũng không đem lại cho trung tá chút tiền của nào cả. Vậy là lấy được người dòng dõi trâm anh, thế thôi, cũng có chút hy vọng nào đó, nhưng của cải thật thì không có gì. Tuy nhiên, khi cô sinh viên này về (về chơi thôi chứ không ở hẳn), cả thị trấn chúng tôi như đổi mới hẳn, các bà mệnh phụ quyền quý nhất của chúng tôi, hai bà quan, một bà đại tá và tất cả các bà khác đều tranh nhau săn đón nàng, mua vui cho nàng, nàng là hoàng hậu của các vũ hội, các cuộc picnic, người ta tổ chức những hoạt cảnh để giúp đỡ những nữ gia sư nào đó. Tôi im lặng, chỉ nhậu nhẹt, chính bấy giờ tôi làm một vố khiến cả thành phố xôn xao. Một bận tôi thấy nàng đưa mắt liếc tôi từ đầu tới chân, lúc ấy là ở nhà ông chỉ huy tiểu đoàn và lúc đó tôi cũng không đến gần nàng, tỏ ra tôi không thèm làm quen. Một thời gian sau tôi mới đến gần, cũng trong một buổi tối họp mặt, tôi nói với nàng, nàng nhìn tôi bằng nửa con mắt, bĩu môi khinh khỉnh, à được, tôi nghĩ, đợi đấy, ta sẽ trả thù! Hồi ấy trong hầu hết mọi trường hợp tôi là kẻ cực kỳ thô lỗ, chính tôi cũng cảm thấy như vậy. Cái chính là tôi cảm thấy như vậy. Cái chính là tôi cảm thấy ả "Katenka" không phải là một nữ sinh ngây thơ, mà là cô gái có cá tính, kiêu hãnh và quả thực là đức hạnh, nhất là thông minh và có học, mà hai điều đó tôi đều thiếu hẳn. Chú tưởng tôi muốn hỏi nàng làm vợ ư? Tuyệt không, tôi chỉ muốn trả thù, tôi giỏi trai như thế mà nàng không cảm thấy. Thế là tôi ăn chơi phá phách tung trời. Đến nỗi rốt cuộc ông trung tá phạt giam tôi ba ngày. Đúng lúc ấy ba gửi cho tôi sáu ngàn rúp sau khi tôi đã gửi cho cụ giấy tờ hợp thể thức xác nhận tôi không còn quyền lợi gì nữa, nghĩa là giữa hai bố con "đã thanh toán sòng phẳng", tôi sẽ không đòi hỏi gì thêm. Hồi ấy tôi chằng thiếu gì cả: chú ạ, cho đến khi tôi về đây, thậm chí cho đến những ngày gần đây nhất, mà có lẽ đến tận hôm nay, tôi vẫn chẳng hiểu gì về tất cả những chuyện tranh chấp tiền tài giữa tôi với ba. Nhưng thôi dẹp chuyện ấy lại, sau hãy hay. Hồi ấy, sau khi nhận được sáu ngàn rúp, đột nhiên qua lá thư của một người bạn, tôi được biết một điều rất thú vị đối với tôi: ấy là người ta không bằng lòng về ông trung tá của chúng tôi, người ta nghĩ ông không liêm khiết, tóm lại kẻ thù của ông đang chuẩn bị cho ông một đòn. Quả vậy, thủ trưởng sư đoàn về đơn vị và, khiển trách ông tơi bời. Sau đó ít lâu, ông được lệnh phải xin từ chức. Tôi sẽ không kể tỉ mỉ tất cả những chuyện đó, ông ta quả thật có một số kẻ thù, trong thành phố đột nhiên người ta hết sức lạnh nhạt với ông và cả với gia đình, người ta dường như lảng tránh ông. Bấy giờ tôi mới giở ngón đầu tiên: tôi gặp Agafia tôi vẫn giữ quan hệ bạn bè với nàng và nói: "Ba cô thiếu tiền công quỹ bốn ngàn rưởi rúp", - "Chết rồi, sao anh lại nói thế? Mới rồi tướng quân về đơn vị, vẫn còn đủ cơ mà…" - "Lúc bấy giờ thì còn, nhưng hiện giờ thì thiếu". Nàng sợ phát điên lên: "Xin đừng dọa tôi, anh nghe ai nói như vậy?" - "Đừng lo, tôi sẽ không nói với ai đâu, cô nên biết, về chuyện ấy tôi kín như nấm mồ, nhưng tôi muốn nói với cô điều này, có thể coi là "để phòng xa": ngộ nhỡ người ta hỏi đến bốn ngàn rưởi rúp ấy mà ông cụ lại thiếu, thì để tránh khỏi ra tòa, khỏi bị giáng làm lính lúc tuổi già, hãy bảo em gái cô kín đáo đến với tôi, tôi vừa nhận được tiền người ta gửi cho, tôi sẽ đưa cho cô ấy bốn ngàn và sẽ giữ kín như bưng". - "A, anh đểu giả quá (cô ta nói như vậy đấy) anh là một thằng đểu giả, ác độc quá chừng! Sao anh dám cả gan như vậy!". Cô ta hầm hầm ra về, tôi còn hét với theo lần nữa rằng điều bí mật sẽ được giữ kín như bưng. Hai người phụ nữ ấy, Agafia và dì cô ta, tôi xin nói trước: trong toàn bộ câu chuyện này, họ là những thiên thần trong trắng, họ thực sự tôn sùng cô nàng Katia kiêu hãnh ấy, hạ mình trước cô nàng, phục dịch cô ta… Nhưng cái chuyện đùa cợt ấy, tức là cuộc nói chuyện giữa chúng tôi, thì chỉ cần Agafia kể lại với Katia. Điều đó sau này tôi biết đích xác là cô đã kể. Cô không giấu giếm mà tôi cũng chỉ cần có thế.
    Đột nhiên một thiếu tá ở nơi khác đến tiếp nhận tiểu đoàn. Ông ta tiếp nhận. Ông trung tá già tự dưng bị ốm, không cử động được, ở nhà hai ngày liền, không giao nộp công quỹ. Ông bác sĩ Kraptrenco của chúng tôi cam đoan rằng trung tá ốm thực.
    Riêng tôi, do nguồn tin riêng, tôi biết tường tận và biết từ lâu rằng tiền quỹ, mỗi lần cấp trên kiểm tra xong, lại tạm thời biến mất, đã bốn năm liền như thế. Trung tá lấy tiền cho một người hết sức tin cẩn mượn tạm, đấy là một thương gia góa vợ ở vùng chúng tôi, lão Trifonov có râu, đeo kính gọng vàng. Lão đem tiền đi buôn bán, xong việc lão hoàn lại nguyên vẹn cho trung tá lại thêm quà biếu và khoản hoa hồng kha khá. Nhưng lần này tất cả chuyện đó, tôi hoàn toàn tình cờ biết được qua một gã thiếu niên, thằng nhãi con nhà Trifonov, đứa con thừa tự, một thằng nhóc hư hỏng trên đời, lần này sau chuyến buôn về, Trifonov không hoàn lại cái gì hết. Trung tá bò đến tìm lão. "Tôi chưa bao giờ nhận cái gì của ông cả, làm sao tôi lại có thể mượn được tiền của ông kia chứ" - Lão trả lời như vậy. Thế là ông trung tá cứ ngồi lỳ ở nhà, đầu quấn chiếc khăn mặt, bà dì và hai cô con thay nhau đắp nước đá lên đầu ông ta. Bất thình lình người lính hầu đến đưa quyển sổ và lệnh trên: "Nộp tiền quỹ ngay lập tức, sau hai tiếng nữa". Ông ta ký tên, sau này tôi đã nhìn thấy chữ ký ấy trong quyển sổ. Ông ta đứng dậy, bảo là đi mặc quân phục, ông vào phòng ngủ, lấy khẩu súng săn hai nòng của mình, nạp đạn, tháo ủng chân trái, chĩa nòng súng vào ngực, chân bắt đầu tìm cò súng, Agafia đã cảm thấy ngờ vực, cô nhớ tới lời tôi nói hôm ấy, cô lẻn tới và kịp thời nhìn thấy; cô xộc vào, đâm bổ đến từ phía sau ôm lẩy bố, đạn nổ phóng lên trần nhà; không ai bị thương; hai người kia chạy vào, giữ lấy ông, giằng được khẩu súng, giữ tay ông… Tất cả những chuyện ấy sau này tôi biết tường tận. Hôm ấy tôi ngồi nhà, đã sẩm tối, đang định đi chơi, đã mặc quần áo, chải đầu, sức nước hoa vào mùi xoa, lấy mũ thì đột nhiên cửa mở và trước mắt tối, trong phòng tôi là Ekaterina Ivanovna.
    Đôi khi có những điều kỳ lạ: ngoài phố không ai nhận thấy nàng lẻn vào nhà tôi, vì thế trong thành phố không có điều tiếng gì. Tôi thuê nhà của hai bà vợ công chức, hai bà già khú đế, họ phục dịch tôi, kính nể tôi, tôi bảo gì cũng nghe và theo lệnh tôi, sau này họ hoàn toàn kín tiếng. Cố nhiên tôi hiểu hết ngay lúc đó. Nàng vào và nhìn thẳng vào tôi, cặp mắt tối sầm đầy vẻ kiên quyết thậm chí táo tợn, nhưng môi và xung quanh môi, tôi thấy vẫn lộ vẻ do dự.
    - Chị tôi bảo rằng anh sẽ trao cho tôi bốn ngàn năm trăm rúp nếu tôi đến lấy… đích thân đến gặp anh. Thì tôi đến đây… anh đưa tiền đi!… - Nàng không cầm được nữa, ngạt thở, sợ hãi, nghẹn giọng, khóe môi và những đường nét gần môi run run - Aliosa, chú có nghe không hay chú ngủ đấy?
    - Anh Mitia, tôi biết anh sẽ nói hết sự thật. - Aliosa hồi hộp thốt lên.
    - Tôi sẽ nói hết. Nếu nói hết sự thật thì là thế này, tôi sẽ không nương nhẹ bản thân mình. Ý nghĩ đầu tiên là ý nghĩ của mọi người dòng họ Karamazov. Chú ạ, có một lần tôi bị rết cắn, tôi sốt nằm bẹp mất hai tuần: vậy là lúc ấy tôi cảm thấy bị rết cắn vào tim, một loài côn trùng dữ độc, chú hiểu chứ? Tôi nhìn nàng từ đầu đến chân. Chú nhìn thấy nàng rồi chứ? Quả là một người đẹp. Nhưng lúc ấy nàng đẹp cách khác. Lúc ấy nàng đẹp vì nàng cao quý, còn tôi là thằng đê tiện, nàng đẹp vì nàng cao cả hy sinh cho cha, còn tôi là con rệp. Thế nhưng nàng hoàn toàn lệ thuộc vào tôi một con rệp, một thằng đê tiện, lệ thuộc toàn bộ, cả tâm hồn lẫn thể xác. Nàng bị hãm trong cái vòng phù chú. Tôi nói thật với chú: ý nghĩ ấy, ý nghĩ rắn rết đã tiêm nọc vào tim tôi khiến nó muốn lịm đi chỉ vì khắc khoải. Dường như không có cách gì cưỡng lại được nữa: chỉ còn cách hành động như một con rệp, như một con nhện độc dữ dằn, không chút xót thương… Thậm chí tôi nghẹn thở. Chú ạ, tất nhiên hôm sau tôi sẽ đến cầu hôn, để kết thúc mọi việc một cách cao quý nhất, nếu có thể nói như vậy, để không ai biết và không ai có thể biết được việc này. Bởi vì tuy rằng tôi là kẻ có những ham muốn hèn hạ, nhưng tôi ngay thẳng. Ấy thế mà giây lát ấy bỗng có kẻ nào thì thầm vào tai tôi: "Ngày mai anh đến cầu hôn, cô ả này sẽ không thèm ra tiếp đâu, ả sẽ sai thằng đánh xe đuổi cổ anh ra khỏi sân. Cốt ý báo với anh rằng: cứ việc đi mà bêu riếu ta khắp thành phố đi ta không sợ đâu". Tôi nhìn nàng, tiếng nói của tôi không lừa dối tôi: đúng vậy, sự thể sẽ như thế. Tôi sẽ bị đuổi cổ ra, nhìn mặt nàng lúc này là có thể biết được rồi. Tôi giận sôi lên, tôi muốn chơi một trò hết sức đểu giả, chó má, đặc kiểu con buôn: nhìn nàng với vẻ giễu cợt, và ngay lúc nàng đang đứng trước mặt tôi làm cho nàng choáng người bằng một giọng mà chỉ gã con buôn mới có thể có được:
    - Những bốn ngàn rúp kia! Tôi nói giỡn vậy thôi, cô tưởng thật à? Cô cả tin quá đấy, thưa tiểu thư. Hai trăm thì có thể được, thậm chí tôi sẵn lòng chấp thuận ngay, chứ bốn ngàn thì đâu phải chuyện thường, thưa tiểu thư, đâu có thể quẳng đi một cách nông nổi như vậy. Cô đã nhọc công vô ích.
    Như vậy cố nhiên tôi sẽ mất hết, nàng sẽ bỏ chạy, nhưng đấy sẽ là một đòn trả thù ghê rợn, nó đáng giá với một cái khác sau này chắc tôi sẽ rống lên vì ân hận, nhưng lúc này hãy chơi một vố như vậy đã! Nói không biết chú có tin không, chưa bao giờ có một người phụ nữ nào, dù là một người duy nhất, mà trong cái phút như thế tôi lại nhìn người đó với vẻ căm thù như vậy, tôi xin làm dấu thánh giá mà thề rằng lúc ấy tôi nhìn nàng khoảng hai ba giây với vẻ căm thù ghê gớm, cái căm thù chỉ cách tình yêu điên cuồng nhất có một sợi tóc! Tôi đến chỗ cửa sổ, áp trán vào kính giá buốt, tôi còn nhớ băng giá làm trán tôi rát như phải bỏng. Tôi không giữ nàng lâu, cứ yên tâm, tôi quay lại, đến gần bàn, mở ngăn kéo, lấy một trái khoán vô danh năm ngàn rúp lãi năm phân kẹp trong cuốn từ điển tiếng Pháp. Rồi tôi lẳng lặng giơ cho nàng xem, gập lại trao cho nàng, đoạn tự tay mở cửa cho nàng ở phòng ngoài, và lùi lại một bước, rạp mình xuống chào nàng, cái chào hết sức kính cẩn, hết sức chân thành, chú hãy tin điều đó! Toàn thân nàng run lên, nàng chăm chú nhìn giây lát, mắt trắng bệch ra như tấm khăn trải bàn, và đột nhiên cũng không nói một lời, không lật đật, mà rất đỗi mềm mại, nàng nhẹ nhàng cúi rạp mình thụp xuống ngay dưới chân tôi, trán chạm đất, đấy không phải là kiểu cách của nữ sinh viên, mà là theo kiểu Nga! Rồi nàng bật dậy và hấp tấp ra về. Lúc nàng bỏ đi, tôi có sẵn thanh kiếm bên mình, tôi rút kiếm và muốn đâm cho mình một nhát, để làm gì tôi cũng chẳng biết nữa. Dớ dẩn quá, cố nhiên rồi, nhưng hẳn là vì hoan hỉ. Chú có hiểu không, đôi khi niềm hoan hỉ có thể khiến người ta tự sát; nhưng tôi không tự đâm mình, tôi chỉ hôn thanh kiếm rồi lại tra vào bao. Tuy nhiên, lẽ ra có thể không kể lại với chú điều này. Dường như lúc này, kể với chú tất cả cuộc đấu tranh nội tâm ấy, tôi có hơi tô vẽ để khoe mình. Nhưng thôi kệ, thế cũng được, quỷ xé xác tất cả những kẻ chuyên dò xét trái tim người khác đi cho rồi! Đó, toàn bộ "câu chuyện đã xảy ra" giữa tôi và Ekaterina Ivanovna là như vậy. Vậy là bây giờ có Ivan và chú biết chuyện, và chỉ có hai người thôi!
    Dmitri Fedorovich đứng dậy, hồi hộp đi một vài bước, rút mùi xoa lau trán rồi lại ngồi xuống, nhưng không ngồi vào chỗ trước đây, mà ngồi chỗ khác, trên chiếc ghế dài đối diện ở phía tường bên kia, thành thử Aliosa phải quay hẳn về phía anh.
    Chú thích
    (1) Picque-nique (tiếng Pháp), cuộc đi chơi tập thể ra ngoài thành phố (N.D)
    (2) Paul de Koek (1793-1871), nhà tiểu thuyết Pháp thế kỷ XIX, được ưa chuộng ở Nga, ý muốn nói: mới chỉ là những nét tô điểm nhẹ nhàng (N.D).

  9. #18
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 5 - LỜI XƯNG TỘI CỦA MỘT TRÁI TIM NỒNG NHIỆT "NGÃ LỘN ĐẦU"
    - Bây giờ thế là tôi biết nửa đầu vụ việc. - Aliosa nói.
    - Nửa đầu, chú hiểu đấy, nó là tấn kịch, và nó xảy ra ở đằng ấy. Nửa thứ hai là tấn kịch và nó sẽ xảy ra ở đây.
    - Nửa thứ hai cho đến lúc này tôi vẫn không hiểu gì hết. - Aliosa nói.
    - Thế còn tôi? Chú tưởng tôi hiểu à?
    - Không, anh Dmitri. Ở đây có một điều trọng yếu. Anh nói đi: anh là người chồng chưa cưới, bây giờ anh cũng vẫn là người chồng chưa cưới chứ?
    - Tôi không phải đã hứa hôn ngay, mà mãi ba tháng sau câu chuyện ấy. Hôm sau tôi tự nhủ rằng chuyện ấy thế là xong, kết thúc rồi, sẽ không có phản đáp nữa. Tôi có cảm giác là đến cầu hôn thì thật là hèn hạ. Về phía nàng, suốt sáu tuần sau đó, nàng còn ở thành phố chúng ta, nhưng không hề đánh tiếng gì hết. Của đáng tội, còn một sự việc nữa: nàng đến đây hôm trước thì hôm sau người hầu phòng nhà họ lén đến nhà tôi, không nói năng gì, đưa cho tôi một phong bì. Trên phong bì đề địa chỉ. Tôi mở ra: số tiền còn lại của tấm trái khoán năm ngàn rúp. Chỉ cần có bốn ngàn năm trăm rúp, bán trái khoán bị trừ mất hơn hai trăm rúp. Nàng gửi trả lại tôi hai trăm sáu mươi rúp cả thảy, hình như thế tôi không nhớ rõ, và trong phong bì chỉ có tiền thôi, không có lấy một mẩu thư, không một chữ, không giải thích gì hết. Tôi cố tìm trong phong bì một dấu hiệu nào đó bằng bút chì thôi: không có gì hết! Thôi được, tôi đem số tiền còn lại ăn chơi lu bù, đến nỗi ông thiếu tá mới đến rút cục phải khiển trách tôi. Thế còn ông trung tá thì đã nộp đủ tiền quỹ, nộp chu tất, khiến mọi người đều ngạc nhiên, bởi vì không ai cho rằng ông ta có đủ tiền. Nộp xong ông phát ốm, nằm bẹp ba tuần, rồi đột nhiên ông bị nhũn não và năm ngày sau thì qua đời. Ông được mai táng theo nghi lễ nhà binh, ông vẫn chưa kịp từ chức. Mai táng bố xong xuôi, mười ngày sau Ekaterina Ivanovna cùng với cô chị và bà dì về Moskva. Mãi đến khi họ ra đi, đúng hôm họ lên đường (tôi không gặp họ và không đi tiễn), tôi nhận được một phong bì nhỏ xíu màu xanh, trong có một tờ giấy nhỏ có khía răng cưa, ở đó chỉ có một dòng viết bằng bút chì: "Tôi sẽ viết thư cho anh, hãy đợi. K". Vẻn vẹn có thế thôi.
    Bây giờ tôi giải thích vắn tắt để chú hiểu. Ở Moskva, cảnh ngộ của họ xoay chuyển nhanh như chớp và bất ngờ như trong truyện cổ A Rập. Bà quan ấy, người họ hàng quan trọng nhất của nàng đột nhiên mất hai người thừa kế gần nhất, hai cô cháu gái gần nhất, - cả hai cùng chết trong một tuần vì bệnh đậu mùa. Bà lão bàng hoàng, gặp Katia bà vui mừng như gặp được con đẻ, như gặp ngôi sao cứu mệnh, bà vồ ngay lấy nàng, tức khắc lập di chúc đề lại gia sản cho nàng, nhưng đó là việc về sau, còn ngay bây giờ bà cho luôn nàng tám mươi ngàn rúp: đây là của hồi môn của con, con muốn làm gì tuỳ ỷ. Bà ta là người loạn thần kinh, sau này tôi đã có dịp quan sát bà tại Moskva. Chính thời gian ấy đột nhiên tôi nhận được bốn ngàn năm trăm rúp chuyển qua bưu điện. Tất nhiên tôi băn khoăn và ngạc nhiên đến không thốt lên được. Ba ngày sau, bức thư nàng đã hứa đến tay tôi. Bức thư ấy hiện giờ tôi vẫn giữ đây, tôi luôn luôn giữ nó bên mình, chết tôi cũng mang theo, chú có muốn tôi cho xem không? Nhất định chú phải đọc: nàng ngỏ ý muốn đính hôn với tôi, chính nàng ngỏ ý gắn bó cuộc đời với tôi, "em yêu anh đến điên cuồng, dù anh không yêu em cũng chẳng sao, chỉ cần anh là chồng em. Anh đừng sợ, em sẽ không gò bó gì anh hết, em sẽ là cái bàn ghế của anh, em sẽ là tấm thảm để anh bước lên… Em muốn yêu anh suốt đời, em muốn cứu anh thoát khỏi chính bản thân anh…". Aliosa, tôi không xứng đáng kể lại những dòng ấy bằng thứ lời lẽ đê tiện của tôi và bằng cái giọng điệu đê tiện của tôi, giọng điệu của tôi bao giờ cũng đê tiện và tôi không bao giờ có thể sửa chữa được! Lá thư ấy cho đến hôm nay vẫn đâm thấu qua tim tôi, chú tưởng bấy giờ tôi thanh thản ư, chú tưởng hôm nay tôi thanh thản ư? Dạo ấy tôi viết thư trả lời ngay (tôi không thể nào đích thân đi Moskva được). Tôi viết lá thư bằng nước mắt, có một điều mãi mãi làm tôi xấu hổ: tôi nhắc lại rằng bây giờ nàng giàu và có của hồi môn, còn tôi chỉ là một kẻ thô lậu nghèo xác - tôi nhắc đến tiền! Lẽ ra tôi phải chịu đựng điều đó, nhưng nó đã buột ra từ ngòi bút. Tôi tức khắc viết thư về Moskva cho Ivan và giãi bày hết với chú ấy những gì có thể nói được, thư dài sáu trang, và tôi nhờ Ivan đến gặp nàng. Sao chú cứ nhìn tôi chằm chằm thế? Ừ, Ivan yêu nàng say đắm, bây giờ cũng vẫn yêu, tôi biết, tôi đã làm một việc ngu xuẩn theo cách nhìn nhận của các người, của người đời, nhưng có lẽ duy chỉ có sự ngu xuẩn ấy bây giờ mới cứu được tất cả chúng ta. Úi chà! Chú không thấy nàng tôn sùng, nàng kỉnh trọng Ivan thế nào ư? So sánh tôi với Ivan, lẽ nào nàng có thể yêu được một người như tôi, mà lại sau tất cả những gì đã xảy ra ở đây?
    - Thế mà tôi tin chắc rằng nàng yêu người như anh, chứ không phải người như anh Ivan.
    - Nàng yêu đức hạnh của nàng, chứ không phải yêu tôi. - Dmitri Fedorovich buột miệng thốt lên, gần như hằn học. Chàng bật cười, nhưng lát sau mắt chàng long lên, mặt chàng đỏ gay, chàng đấm mạnh tay xuồng bàn. - Tôi thề với chú, Aliosa ạ. - Chàng kêu lên trong cơn giận ghê gớm và thành thật đối với chính bản thân mình. - Chú tin hay không thì tuỳ, nhưng nó thật như Chúa Trời là thiêng liêng, như đấng Kito là Chúa Trời, tôi thề với chú rằng tuy bây giờ tôi chế nhạo những tình cảm cao cả của nàng, nhưng tôi biết tâm hồn tôi một triệu lần hèn mọn hơn nàng và những tình cảm cao thượng ấy của nàng là thành thật như thiên thần trên thượng giới! Bi kịch chính là ở chỗ tôi biết chắc điều đó. Ờ, con người ta đôi khi ngẫm ngợi một chút thì đã sao đâu nhỉ? Chẳng phải là tôi đang ngẫm ngợi ư? Nhưng mà tôi thành thật, tôi thành thật. Còn về Ivan thì tôi hiểu rằng chú ấy nhìn thiên nhiên bằng con mắt chất chứa sự nguyền rủa, mà chú ấy trí lự như thế! Ai, cái gì đáng được yêu chuộng hơn? Kẻ được yêu chuộng hơn lại là một con quái vật mà ngay tại đây, mặc dù đã đính hôn và bất chấp con mắt bàn dân thiên hạ nhìn vào, vẫn không kìm nổi mình mà lại lăn vào sự truỵ lạc, mà lại ngay trước mắt vợ chưa cưới, ngay trước mắt vợ chưa cưới! Kẻ như tôi lại được yêu vì hơn, còn chú ấy thì bị cự tuyệt. Nhưng vì sao kia chứ. Ấy là do tấm lòng cao quý mà cô nàng muốn cưỡng hiếp cuộc đời và duyên số của mình! Vô lý! Chưa bao giờ tôi nói gì với Ivan về điều này. Tất nhiên Ivan cũng chưa bao giờ hé răng với tôi về chuyện này, dù là bóng gió xa xôi đi nữa, nhưng số phận rồi vẫn sẽ là số phận, kẻ xứng đáng rồi sẽ về vị trí của mình, còn kẻ không xứng đáng sẽ mãi mãi chui lủi trong ngõ hẻm, trong cái ngỏ hẻm bẩn thỉu của mình, cái ngõ hẻm mà hắn yêu mến và vốn là dành cho hắn, và hắn sẽ chết ở đó, tự nguyện và thích thú, trong bùn lầy hôi thối. Tôi nói nhăng cuội nhiều quá toàn những lời sáo mòn, như thể bạ đâu nói đấy, nhưng những gì mà tôi đã chỉ rõ ắt phải xảy ra. Tôi sẽ chết chìm trong cái ngõ hẻm, còn nàng sẽ lấy Ivan.
    - Khoan đã, anh. - Aliosa lại ngắt lời, vẻ cực kỳ lo lắng. - Vẫn còn một điều anh chưa giải thích rõ cho tôi: anh là chồng chưa cưới, anh vẫn là chồng chưa cưới phải không? Sao anh lại muốn đoạn tuyệt, nếu như người vợ chưa cưới không muốn thế?
    - Tôi là chồng chưa cưới hợp thức và đã được ban phước, mọi việc xảy ra ở Moskva, sau khi tôi đến đấy, có đám rước, có tượng thánh, lễ nghi trọng thể. Bà quan cầu phước cho chúng tôi và chú có tin không, bà còn chúc mừng Katia: cháu lựa chọn giỏi đấy, cô nhìn thấu suốt ruột gan anh chàng. Và chú có tin không, bà không ưa Ivan và không khen chú ấy. Ở Moskva tôi đã nói chuyện nhiều với Chúa, tôi kể hết với nàng về bản thân tôi, với tấm lòng cao quý, đúng thực, chân thành. Nàng nghe hết:
    Tôi đã thấy sự bối rối đáng yêu.
    Cùng những lời dịu dàng…
    Ừ, cũng có cả những lời kiêu hãnh. Nàng bắt tôi trịnh trọng hứa sẽ tu tỉnh. Tôi đã hứa. Thế rồi…
    - Rồi sao?
    - Rồi tôi gọi chú và lôi chú đến đây ngày hôm nay, hôm nay là ngày… nhớ lấy! Để nhờ chú ngay hôm nay đến gặp Ekaterina Ivanovna và…
    - Sao kia?
    - Nói với nàng rằng tôi sẽ không bao giờ đến gặp nàng nữa, tôi gửi lời chào nàng.
    - Có thể thế được ư?
    - Thì tôi nhờ chú đi thay tôi chính là vì không thể thế được, làm sao chính tôi có thể nói với nàng điều ấy cho đang?
    - Thế anh sẽ đi đâu?
    - Đến cái ngõ hẻm.
    - Tức là đến chỗ Grusenka! - Aliosa kêu lên một cách chua xót, vung hai tay lên. - Không lẽ Rakitin nói đúng ư? Vậy mà tôi cứ tưởng anh chỉ chơi bời một thời gian và đã thôi hẳn rồi.
    - Chồng chưa cưới mà đi lại với gái như thế ư? Lẽ nào có thể như thế, mà lại có người vợ chưa cưới như thế và trước mắt thiên hạ? Tôi cũng có danh dự chứ. Một khi tôi đã đi lại với Grusenka thì lập tức tôi không còn là chồng chưa cưới và không còn là người trung thực nữa, tôi hiểu điều đỏ lắm. Chú nhìn tôi gì vậy? Chú ạ, thoạt đầu tôi đến Grusenka là để đánh nàng. Tôi được biết và bây giờ tôi biết chắc chắn là lão đại úy ấy do ông già nhà mình phái đi, đã trao cho Grusenka một kỳ phiếu có chứ ký của tôi để nàng kiện tôi, cốt để tôi nhụt chí và bỏ cuộc. Họ muốn làm tôi hoảng sợ. Tôi đến là để đánh Grusenka một trận. Trước đó tôi cũng đã từng loáng thoáng nhìn thấy nàng. Nàng không phải loại phụ nữ thoạt gặp đã làm ta ngây người. Tôi đã biết chuyện nàng với lão thương gia già, bây giờ lão ốm yếu, nằm bẹp một chỗ, nhưng dầu sao lão sẽ để lại cho nàng một món tiền kha khá. Tôi cũng biết nàng hám tiền, nàng kiếm lời bằng cách cho vay cắt cổ, đấy là một ả gian manh, một con phù thuỷ, không biết thương ai. Tôi đến để đánh nàng, và đã ở lại với nàng. Cơn giông đã bùng ra, dịch hạch đã phát, tôi nhiễm bệnh và nhiễm bệnh đến bây giờ, tôi biết thế là hết, không còn cách nào khác nữa, không bao giờ. Lúc bấy giờ, như có sự xếp đặt, tôi đang nghèo kiết xác mà bỗng nhiên trong túi có ba ngàn rúp. Tôi đưa nàng đi Mokroe, cách đây hai mươi nhăm dặm, tôi cho bọn Zigan, cả nam lẫn nữ, mở sâm banh, cho tất cả bọn mugich ở đấy uống sâm banh, cả đàn bà con gái nữa, tôi có tiền nghìn kia mà. Ba ngày sau tôi nhẵn túi, nhưng tôi là con chim ưng. Chú tưởng con chim ưng đã xơ múi được gì chăng? Thậm chí ả chẳng cho tôi được xơ múi gì. Tôi xin nói với chú: ả uốn lượn như rắn. Ả phù thuỷ Grusenka ấy có tấm thân uốn lượn như rắn, cả chân nó nom cũng thế, ngay cả ngón út của bàn chân trái cũng thế. Tôi nhìn thấy nó và hôn nó, thế thôi, tôi thề với chú, nó nói: "Anh muốn em lấy anh, tuy anh nghèo xác. Anh hãy hứa rằng anh sẽ không đánh em và mặc cho em muốn làm gì thì làm, như vậy có thể em sẽ lấy anh đấy" - nó cười. Và bây giờ nó vẫn còn cười.
    Dmitri Fedorovich đứng bật dậy với thái độ gần như hung cuồng, đột nhiên chàng như người say. Mắt chàng bỗng đỏ ngầu tia máu.
    - Thế anh định lấy chị ấy thật à?
    - Nàng bằng lòng thì tôi lấy ngay, không thì tôi vẫn cứ ở lỳ tại đấy; tôi sẽ làm người quét sân cho nàng. Chú… chú, Aliosa… - Chàng đứng phắt lại trước mặt Aliosa, vồ lấy hai vai em, lắc thật lực - Chú là một chàng trai trong trắng, chú có biết hay không tất cả chuyện ấy là cơn mê sảng, cơn mê sảng không thể tưởng tượng được, bởi vì đây là tấn bi kịch! Alecxei, chú nên biết rằng tôi có thể là con người hèn hạ, có những dục vọng xấu xa ti tiện, nhưng Dmitri Karamazov không bao giờ có thể là kẻ trộm, là tên móc túi, tên ăn cắp vặt. Nhưng bây giờ chú nên biết tôi là tên ăn cắp, tên móc túi, tên ăn cắp vặt! Ngay trước khi tôi đến Grusenka để đánh cô ta thì Ekaterina Ivanovna mời tôi đến, nhờ tôi một việc mà nàng bảo là phải hết sức bí mật, lúc này không để cho ai biết (vì sao thì tôi không rõ, có lẽ nàng cần như thế): nàng yêu cầu tôi ra thị xã và gửi bưu điện về Moskva cho Agafia Ivanovna ba ngàn rúp. Ra gửi tận thị xã để ở đây không ai hay biết. Thế là với ba ngàn rúp trong túi, tôi đến Grusenka và đưa nàng đi Mokroe.
    Sau đó tôi làm ra vẻ như đã ra thị xã, nhưng không đưa cho Ekaterina xem giấy biên nhận. Tôi nói rằng đã gửi rồi, sẽ đưa cho nàng giấy biên nhận, nhưng đến giờ vẫn không đưa, vì tôi quên. Bây giờ chú nghĩ sao, hôm nay chú sẽ đến nói với nàng: "Anh ấy nhờ tôi gửi lời chào chị", còn nàng sẽ hỏi chú: "Thế tiền đâu?". Đáng lẽ chú vẫn còn có thể trả lời nàng rằng: "Anh ấy là một kẻ hèn hạ ham mê nhục dục, là một kẻ ti tiện có những ham muốn không thể kìm nén được. Anh ấy không gửi số tiền của chị đi, mà đã tiêu hết, vì đã không tự kìm nén được, thật là đồ súc vật", nhưng lẽ ra chú vẫn có thể nói thế: "Tuy vậy anh ấy không phải là quân ăn cắp, ba ngàn rúp của chị đây, anh ấy gửi trả lại, chị hãy tự tay gửi đi cho Agafia Ivanovna, anh ấy gửi lời chào chị". Nhưng bây giờ ngộ nhỡ nàng hỏi: "Thế tiền đâu?".
    - Mitia, anh thật là bất hạnh, đúng thế! Nhưng cũng chưa đến nỗi như anh tưởng đâu - đừng quá thất vọng, đừng quá thất vọng mà hại thân!
    - Thế chú tưởng tôi sẽ tự sát nếu không xoay ra ba ngàn rúp để trả nợ chắc? Khốn nỗi tôi lại không tự sát được kia. Hiện giờ tôi không đủ gan, sau này thì có thể, còn bây giờ thì tôi sẽ đến Grusenka… Muốn ra sao thì ra!
    - Ở luôn đấy ư?
    - Tôi sẽ là chồng nàng, rồi nàng sẽ ban cho tôi ân huệ ấy, còn nếu nhân tình của nàng tới thì tôi sẽ sang phòng khác. Tôi sẽ lau chùi giầy bẩn cho các bạn trai của nàng, sẽ đun ấm xamôva, sẽ để nàng sai vặt…
    - Ekaterina Ivanovna sẽ hiểu hết. - Aliosa bỗng nói một cách trịnh trọng. - Chị ấy sẽ hiểu thấu đáo tất cả nỗi đau xót ấy và sẽ bỏ qua. Chị ấy hết sức thông tuệ, tự chị ấy sẽ thấy không ai có thể bất hạnh hơn anh.
    - Nàng sẽ không bỏ qua hết đâu. - Mitia toác miệng cười. - Chú ạ, có những điều mà không một người đàn bà nào có thể bỏ qua được. Thế chú có biết tốt nhất là thế nào không?
    - Thế nào kia?
    - Trả lại ba ngàn rúp.
    - Lấy đâu ra? Này anh ạ, tôi có hai ngàn, Ivan sẽ cho thêm một ngàn là ba, anh lấy mà trả.
    - Bao giờ thì có được ba ngàn ấy của chú? Thêm nữa chú chưa đến tuổi trưởng thành, mà hôm nay nhất thiết chú phải thay tôi gửi lời cáo biệt nàng, dù có tiền hay không, vì tôi không thể kéo dài được nữa, mắc mớ là ở đấy. Ngày mai thì muộn mất, muộn mất. Tôi nhờ chú đến gặp ông già.
    - Gặp ba?
    - Phải, đến ông già trước khi đến nàng. Hãy hỏi xin ông già ba ngàn rúp.
    - Ba không cho đâu, anh Mitia ạ.
    - Đừng hòng, tôi biết chứ. Nhưng Alecxei, chú có biết thế nào là thất vọng không?
    - Biết.
    - Thế này nhé: về mặt pháp lý ông già không nợ gì tôi cả. Tôi đã nhận đủ phần của tôi, điều đó tôi biết. Nhưng về mặt đạo lý, ông còn nợ tôi, phải thế không? Vì ông bắt đầu làm ăn được là nhờ hai mươi tám ngàn rúp của mẹ tôi và đã kiếm lời được hàng trăm ngàn. Vậy thì ông hãy cho tôi ba ngàn trong số hai mươi tám ngàn, chỉ ba ngàn thôi là ông sẽ cứu vớt được linh hồn tôi ra khỏi địa ngục và ông sẽ chuộc được vô số tội lỗi của ông! Còn về phần tôi, tôi thề với chú là được ba ngàn rúp ấy là tôi thôi, ông già sẽ không bao giờ còn nghe nói đến tôi nữa. Lần cuối cùng tôi cho ông ấy có dịp đáng mặt làm người bố. Hãy nói với ông ấy rằng chính Thượng đế cho ông dịp may đó.
    - Anh Mitia, không đời nào ba cho đâu.
    - Tôi biết, tôi biết lắm chứ. Nhất là bây giờ. Tôi còn biết điều này nữa: vừa rồi, mới đây thôi, có lẽ chỉ mới hôm qua thôi, lần đầu tiên ông nhận đưa tin xác thực (tôi nhấn mạnh là xác thực) rằng Grusenka có lẽ là không đùa và có ý định lấy tôi thật. Ông ấy biết tính nó, ông biết con mèo cái ấy. Đã thế thì lẽ nào ông còn cho tôi tiền để tạo cơ hội tốt cho tôi, trong khi chính ông cũng mê mẩn vì nó? Chưa hết đâu, tôi còn có thể cho chú biết điều này nữa: tôi biết rằng từ năm ngày nay ông đã để riêng ra ba ngàn rúp, toàn giấy bạc trăm, để trong một phong bì lớn niêm phong kỹ lưỡng, bên ngoài buộc dải băng đỏ. Chú thấy đấy, tôi biết tỉ mỉ lắm chứ! Trên phong bì viết: "Tặng thiên thần Grusenka của tôi, nếu nàng thuận đến đây"; tự tay ông viết nguệch ngoạc, hết sức bí mật, không ai hay biết ông có tiền giấu một chỗ, trừ thằng hầu Xmerdiakov mà ông tin sự thật thà của nó như tin chính bản thân. Đã ba bốn ngày nay ông chờ Grusenka, hy vọng nó sẽ đến lấy chiếc phong bì, ông đã bắn tin cho nó, còn nó cũng bắn tin rằng "có thể tôi sẽ đến". Nếu nó đến với ông già thì tôi còn lấy nó được chăng? Bây giờ thì chú hiểu vì sao tôi ẩn nấp ở đây và tính cái gì chứ?
    - Rình cô ta à?
    - Ừ. Mấy con đĩ chủ nhà ở đây cho Foma thuê một căn buồng. Foma là người vùng ta, trước là lính ở đơn vị tôi. Y hầu hạ bọn kia, đêm thì canh gác, ngày thì đi bắn gà lôi, sinh nhai bằng cách ấy. Tôi ẩn nấp ở chỗ y. Cả y và mấy mụ chủ nhà đều không biết bí mật của tôi, không biết tôi ở đây là để rình mò.
    - Chỉ mình Xmerdiakov biết thôi à?
    - Chỉ mình nó. Nó sẽ báo cho tôi biết nếu Grusenka đến.
    - Chính nó nói với anh về chiếc phong bì ư?
    - Nó. Tuyệt đối bí mật. Ngay cả Ivan cũng không biết vẻ món tiền, không biết gì hết. Ông già sai Ivan đi Trermasma vài ba ngày: có một người muốn mua khu rừng để đốn gỗ, với giá tám ngàn, ông già nhờ vả Ivan: "con đi giúp ta" vài ba ngày gì đó. Ông muốn lúc Grusenka đến thì không có Ivan ở nhà.
    - Vậy là hôm nay ba chờ Grusenka tới ư?
    - Không, hôm nay ả sẽ không đến, có những dấu hiệu cho biết như vậy. Chắc là sẽ không đến! - Mitia bỗng quát lên. - Cả Xmerdiakov cũng cho là như vậy. Lúc này ông già đang nhậu nhẹt bên bàn ăn cùng với Ivan. Alecxei, chú hãy đến hỏi xin ông già ba ngàn ấy…
    - Anh Mitia thân mến, anh làm sao thế - Aliosa kêu lên, bật dậy khỏi chỗ và nhìn chằm chằm vào Dmitri Fedorovich, lúc này như điên như dại. Có một lúc anh ngờ anh mình loạn trí.
    - Chú sao thế? Tôi không loạn trí đâu. - Dmitri Fedorovich nhìn chăm chú, thậm chí hơi trịnh trọng thốt lên. - Tôi nhờ chú đến gặp ba và tôi biết tôi nói gì: tôi tin phép lạ.
    - Phép lạ ư?
    - Phép lạ của mệnh trời. Thượng đế biết rõ lòng tôi. Ngài nhìn thấy tất cả nỗi tuyệt vọng của tôi. Ngài nhìn thấy tất cả cảnh tượng này. Lẽ nào Ngài để xảy ra việc khủng khiếp? Aliosa, tôi tin có phép lạ, chú đi đi.
    - Tôi sẽ đi. Nhưng anh đợi tôi ở đây chứ?
    - Tôi sẽ đợi, tôi hiểu rằng không nhanh chóng đâu, không thể đến một cái là nói độp vào việc ngay được! Lúc này ông già đương say. Tôi sẽ đợi, dù là ba, bốn, hay năm, sáu, bảy tiếng nhưng chú nên biết rằng hôm nay, dù là nửa đêm chú cũng phải đến Ekaterina Ivanovna, dù là có tiền hay không có tiền, và nói với nàng: "Anh tôi bảo gửi lời chào chị". Tôi muốn chú nói đúng như thế: "Anh tôi bảo gửi lời chào chị".
    - Anh Mitia! Thế ngộ nhỡ Grusenka đến hôm nay… không hôm nay thì ngày mai, ngày kia thì sao?
    - Grusenka hả? Tôi sẽ rình, tôi sẽ xông vào và cản phá…
    - Thế nếu…
    - Thì tôi sẽ giết. Nếu vậy thì không thể nào chịu nổi.
    - Giết ai kia?
    - Giết ông già. Tôi sẽ không giết nàng.
    - Kìa, anh nói gì vậy!
    - Tôi cũng chẳng biết nữa… Có thể tôi sẽ không giết, mà có thể tôi sẽ giết. Tôi sợ rằng chính lúc ấy cái mặt ông già bỗng làm cho tôi căm thù ông. Tôi căm ghét cái yết hầu của ông, mũi ông, mắt ông, cái cười giễu cợt trơ trẽn của ông. Tôi cảm thấy ghê tởm con người ông. Đấy chính là điều tôi sợ. Ngộ nhờ tôi không nén nổi…
    - Tôi sẽ đi, anh Mitia ạ. Tôi tin rằng Thượng đế sẽ thu xếp thật khéo để không xảy ra chuyện ghê rợn.
    - Còn tôi sẽ ngồi đợi phép lạ. Nếu phép lạ không diễn ra thì…
    Aliosa trầm ngâm đi đến nhà bố.

  10. #19
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 6 - XMERDIAKOV
    Đúng là lúc anh đến bố vẫn ngồi ở bàn ăn. Như lệ thường, bữa ăn dọn trong phòng khách, tuy nhà có phòng ăn hẳn hoi. Đây là căn phòng lớn nhất, đồ đạc bày biện với tham vọng tạo nên phong cách cổ. Đồ gỗ rất cổ, màu trắng, lớp bọc rất cũ kỹ, màu đỏ, bằng thứ vải pha lụa. Ở các khoảng tường giữa các cửa sổ có đặt nhưng tấm gương với những bộ khung cầu kỳ chạm khắc theo lối cổ, cũng màu trắng thếp vàng. Trên các bức tường bọc giấy bồi trong nhiều chỗ đã nứt rạn, có treo hai bức chân dung lớn: chân dung của một công tước nào không rõ ba mươi năm trước đã từng là tổng đốc tỉnh nhà, và chân dung một giáo chủ cũng đã qua đời từ lâu. Ở góc phía trước có mấy bức ảnh thánh, ban đêm trước ảnh thắp ngọn đèn thờ… cốt để sáng phòng hơn là để thờ phụng. Fedor Pavlovich thường đi ngủ rất muộn, quãng ba, bốn giờ sáng, trước giờ đó ông ta thường đi lại trong phòng hay ngồi suy nghĩ trong ghế bành. Điều đó đã thành thói quen. Ông ta thường ngủ một mình trong nhà, cho gia nhân xuống nhà ngang, nhưng nhiều khi vẫn để tên hầu Xmerdiakov ở lại với mình, hắn ngủ ở phòng ngoài trên một chiếc hòm dài. Lúc Alecxei đến, bữa ăn đã xong, nhưng người nhà đang đưa mứt và cà phê lên. Sau bữa ăn Fedor Pavlovich thích dùng đồ ngọt với cognac, Ivan Fedorovich cũng ngồi ở bàn và uống cognac. Gia nhân Grigori và Xmerdiakov đứng bên bàn. Rõ ràng là cả chủ lẫn tớ đều hào hứng vui vẻ lạ thường.
    Fedor Pavlovich cười hô hố; ngay từ phòng ngoài Alecxei đã nghe thấy tiếng cười chói tai rất quen thuộc của bố và nghe tiếng cười, anh kết luận rằng bố chưa say chút nào và lúc này là lúc ông dễ tính nhất.
    - Nó đây rồi, nó về đây rồi! - Fedor Pavlovich gào lên, đột nhiên hết sức vui mừng khi thấy Aliosa. - Vào đây với chúng ta, ngồi xuống đi, dùng cà phê nhé, cà phê là món chay mà anh, cà phê nóng, tuyệt lắm nhé! Ta không thết con cognac, con ăn chay mà, nhưng con muốn uống, con muốn phải không? Không, ta cho con uống rượu mùi thì hơn, rượu mùi trứ danh! Xmerdiakov, ra tủ lấy đi. Ở ngăn thứ hai bên phải, chìa khoá đây, nhanh lên!
    Aliosa từ chối.
    - Thì cũng cứ mang ra, con không uống thì chúng ta uống, - Fedor Pavlovich mặt mày hớn hở. - Nhưng này, con đã ăn chưa?
    - Con ăn rồi ạ. - Aliosa nói, thực ra anh mới chỉ ăn một miếng bánh mì và uống một cốc nước kvaz ở bếp nhà Cha viện trưởng.
    - Con yêu quý! Cừ lắm! Nó sẽ uống cà phê. Có phải hâm lại không? Ồ không, vẫn nóng sôi. Cà phê trứ danh, Xmerdiakov pha đấy Xmerdiakov của ta là một nghệ sĩ về món cà phê, bánh nướng kulêbik(1) và cả món cháo cá nữa, chỉ cần cho biết trước. A mà khoan, ta đã báo con hôm nay mang hết nệm gối về hẳn nhà phải không? Con mang chăn nệm về rồi chứ? Hê - hê hê!…
    - Không, con không mang về. - Aliosa cũng nhếch mép cười.
    - Thế nhưng con sợ, lúc ấy con sợ, con sợ phải không? Ồ, con yêu quý của ta, ta nỡ lòng nào làm con phiền lòng. Này, Ivan ạ, khi nó nhìn vào mắt ta và cười như thế này này thì ta chịu không nổi, chịu không nổi. Nhìn thấy nó là ta nở cả ruột gan, ta yêu nó! Aliosa, đến đây ba ban phước cho con trai của ba nào.
    Aliosa đứng lên, nhưng Fedor Pavlovich đã đổi ý.
    - Không, không, bây giờ ta chỉ làm dấu thánh cho con thôi, nào, ngồi xuống. Này nhé, bây giờ con sẽ thích thú, mà chính là về một đề tài con ưa thích. Con sẽ tha hồ mà cười. Con lừa cái Balaam(2) của chúng ta đã bắt đầu nói, mà nói ra nói kia chứ! Con lừa Balaam là thằng hầu Xmerdiakov. Nó còn trẻ, mới hai mươi tư, tính tình rất khó gần và lầm lì. Không phải là nó thô lậu hay có điều gì hổ thẹn, không, trái lại nó ngạo mạn và dường như khinh miệt cả thiên hạ. Nhưng không thể không nói đôi lời về nó, mà chính là lúc này. Nó được Marfa Ignachievna và Grigori Vaxilievich nuôi dạy, nhưng lớn lên nó là đứa trẻ "hết sức vô ơn", nói như Grigori, nó thích lánh riêng một mình, ẩn trong xó tối nhìn đời. Thuở bé nó rất thích treo cổ mèo, rồi làm lễ chôn cất hẳn hoi. Nó choàng tấm khăn trải giường lên người làm áo thụng thầy tu, vừa hát vừa đưa đi đưa lại cái gì đó trên xác con mèo như chao bình hương. Việc đó nó làm lén lút giấu rất kín. Có lần Grigori bắt được nó đang làm cái trò ấy và quật nó một trận rất đau. Suốt tuần nó chúi vào một xó nhà và gườm gườm nhìn ra. "Nó không yêu chúng ta, con quái vật này, - Grigori nói với Marfa Ignatievna - mà nó cũng chẳng yêu ai. Mày mà là người ư, - đột nhiên lão nói thẳng với Xmerdiakov, - mày không phải là người, mày từ hơi ẩm nhà tắm mà nảy nòi ra, thế đấy…".
    Sau này mới rõ rằng Xmerdiakov không bao giờ tha thứ cho lão những lời đó. Grigori đã dạy cho nó biết đọc và đến năm nó mười hai tuổi, lão bắt đầu dạy nó sự tích Kinh Thánh. Nhưng đấy là việc thành công cốc. Có lần, mà mới chỉ trong buổi học thứ hai hay thứ ba, thằng bé bỗng nhếch mép cười mỉa mai.
    - Mày cười cái gì? - Grigori hỏi, hầm hè nhìn nó qua cặp kính.
    - Không ạ. Chúa Trời tạo ra thế giới trong ngày đầu, còn mặt trời, mặt trăng và sao thì đến ngày thứ tư mới tạo ra. Vậy ngày đầu tiên lấy đâu ra ánh sáng?
    Grigori ngây người. Thằng bé nhìn thấy với vẻ giễu cợt. Ngay trong ánh mắt của nó đã có cái gì cao ngạo. Grigori không nén nổi. "Ánh sáng ở đây ra này!" - lão quát lên và cho nó cái tát trời giáng. Tháng bé chịu đựng, không thốt lên lấy một lời. Nhưng lại chúi vào xó nhà mấy ngày. Chẳng hiểu sao sau đó một tuần, nó bỗng phát bệnh động kinh lần đầu tiên trong đời, và chứng bệnh ấy suốt đời không buông tha nó. Biết việc này, Fedor Pavlovich bỗng có cái nhìn khác đối với thằng bé. Trước kia ông ta thờ ơ với nó, tuy không bao giờ mắng chửi, và mỗi khi gặp bao giờ ông ta cũng cho nó một xu. Lúc hứng chí, đôi khi ông ta bảo đem cho nó món đồ ngọt gì đó trên bàn ăn của mình.
    Nhưng khi biết nó mắc bệnh, ông ta bắt đầu chăm nom nó, ông mời bác sĩ, muốn chạy chữa cho nó, nhưng hoá ra bệnh nó không thể chữa được. Trung bình nó lên cơn mỗi tháng một lần, kỳ hạn không nhất định. Cơn cũng mạnh yếu khác nhau: có những cơn nhẹ, có những cơn rất nặng. Fedor Pavlovich nghiêm cấm Grigori đánh đập thằng bé và cho nó lui tới nhà trên với mình. Tạm thời ông ta cũng cấm không được bắt nó học hành gì cả nhưng có lần hồi nó đã mười lăm, Fedor Pavlovich thấy nó vơ vẩn cạnh tủ sách và đọc tên sách qua ô kính. Fedor Pavlovich có khá nhiều sách, khoảng hơn một trăm cuốn, nhưng chưa ai thấy ông ta đọc sách bao giờ. Ông ta lập tức trao chìa khoá tủ cho Xmerdiakov: "Thế thì đọc đi, mày làm thủ thư cho tao còn hơn là đi tha thẩn ngoài sân, ngồi mà đọc sách đi. Đọc cuốn này này" - và Fedor Pavlovich lấy cho nó cuốn "Nhưng buổi chiều ở một ấp gần Dikanki"(3).
    Thằng bé đọc hết, nhưng không thích, không lần nào mỉm cười trái lại đọc xong nó cau có.
    - Sao? Không buồn cười à? - Fedor Pavlovich hỏi. Xmerdiakov im lặng.
    - Trả lời đi, thằng ngốc.
    - Toàn những chuyện bịa đặt. - Nó cười khẩy, nói lí nhí.
    - Cút xéo đi, cái thứ tôi đòi có khác. Khoan đã, đây là cuốn "Lịch sử thế giới" của Xmaragdov, viết toàn sự thật thôi, đọc đi.
    Nhưng Xmerdiakov không đọc được nổi mười trang của Xmaragdov, vì cảm thấy chán quá. Thế là tủ sách lại khoá kín. Ít lâu sau Marfa và Grigori kể với Fedor Pavlovich rằng thằng này bỗng dưng trở nên rất lạ, tự dưng có tính hay kinh tởm: ngồi trước đĩa súp, nó cảm thìa khuấy tìm mãi, cúi xuống nhìn kỹ, múc một thìa giơ ra ánh sáng.
    - Có con gián ư? - Có lần Grigori hỏi.
    - Hay con ruồi - Marfa nói.
    Gã trai ưa sạch sẽ không lần nào trả lời, nhưng với bánh mì, và mọi món ăn khác cũng đều như thế: nó dùng đĩa giơ miếng ăn ra chỗ sáng, xem xét kỹ như soi kính hiển vi, cân nhắc chán rồi mới đưa vào mồm. "Gớm chưa, rõ ra tuồng cậu ấm con nhà"
    Grigori lầu bầu nhìn nó. Nghe nói về đức tính mới nảy sinh của nó, Fedor Pavlovich lập tức quyết định dùng nó làm đầu bếp và gửi nó đi học ở Moskva. Sau mấy năm học ở đấy, nó trở về, mặt nom khác hẳn đi. Nó già đi nhanh lắm, mặt nhăn nheo quá so với tuổi, nước da vàng bủng, nom nó như một kẻ bị hoạn. Về tính tình thì cũng vẫn gần như trước khi đi Moskva, vẫn ưa cô độc, không mảy may cảm thấy cần giao du với ai cả. Ở Moskva, theo lời người ta kể lại, nó cũng lầm lầm lì lì như trước; bản thân Moskva không rõ vì sao rất ít làm nó hứng thú, thành thử nó chỉ biết được một đôi điều, còn mọi cái khác nó không hề để ý đến, thậm chí nó có đi nhà hát một lần, nhưng lúc về nó không nói chẳng rằng, coi bộ không ưng ý. Nhưng khi ở Moskva trở về, nó ăn vận tươm tất, áo đuôi tôm và đồ lót sạch sẽ, ngày nào nó cũng hai lần tự tay chải quần áo cẩn thận, còn ủng của nó là đôi ủng sang trọng bằng da bê, nó rất thích đánh ủng bằng một loại xi đặc biệt của Anh, thành thử đôi ủng lúc nào cũng bóng loáng như gương. Nó trở thành một tay nấu bếp thượng thặng, Fedor Pavlovich ấn định đền công cho nó, hầu như toàn bộ số tiền đó Xmerdiakov tiêu hết vào việc sắm quần áo, kem mặt, nước hoa, v.v.… Nhưng với phụ nữ, hình như nó cũng coi khinh chẳng kém gì coi khinh giới đàn ông, nó làm bộ đạo mạo, gần như không thể đến gần được. Fedor Pavlovich bắt đầu nhìn nó bằng con mắt khác. Độ này cơn động kinh của nó xảy ra thường xuyên hơn và nặng hơn, những ngày ấy Marfa Ignatievna thay nó nấu ăn và Fedor Pavlovich không vừa ý chút nào.
    - Vì sao mày lên cơn nhiều hơn trước? - Đôi khi ông nhìn chòng chọc vào mặt gã đầu bếp mới, hỏi. - Mày nên lấy vợ đi thì hơn, mày có muốn lấy vợ không?
    Nghe những lời đó, Xmerdiakov chỉ tái mặt đi vì bực tức, nhưng không trả lời gì hết. Fedor Pavlovich phẩy tay bỏ đi. Có lần Fedor Pavlovich say rượu để rơi xuống vũng bùn sân nhà ba tờ một trăm rúp vừa nhận được, mãi đến hôm sau ông ta mới nhớ đến. Ông ta vừa đâm bổ đi lục tìm các túi áo thì những tờ giấy bạc ấy đã nằm trên bàn của ông ta, đủ cả ba tờ. Ở đâu ra?
    Xmerdiakov nhặt được và để lên đấy từ hôm qua. "Này chú mày ạ ta chưa từng thấy ai như chú mày". - Khi ấy Fedor Pavlovich chỉ nói gọn lỏn như vậy và thưởng cho nó mười rúp. Cần nói thêm rằng chẳng những ông ta tin nó ngay thẳng, mà chẳng rõ vì sao còn yêu nó, tuy với ông ta nó cũng gườm gườm như với người khác, và lúc nào cũng im lặng. Họa hoằn lắm nó mới mở miệng. Lúc ấy nếu có người nào nhìn nó mà nảy ra câu hỏi: thằng cha này quan tâm đến chuyện gì và nó hay nghĩ đến điều gì nhiều hơn cả thì quả tình là không thể tìm ra câu giải đáp. Thế nhưng nhiều khi ở trong nhà hay ở sân, hay ở ngoài đường nó bỗng dừng lại, trầm ngâm và đứng như thế có đến mười phút. Nhà tướng số nhìn kỹ nó hẳn sẽ nói rằng ở đây chẳng có suy tư nghĩ ngợi gì hết, mà chỉ là một trạng thái chiêm nghiệm. Hoạ sĩ Kramxkoi có một bức tranh đặc sắc nhan đề "Người chiêm nghiệm" một cánh rừng mùa đông, trên con đường chạy qua rừng một người nông dân mặc chiếc áo kaftan rách rưới, đi dép bện bằng cỏ cây, đứng trơ trọi một mình giữa nơi cô tịch, nom như đang suy tưởng, nhưng anh ta chẳng hề nghĩ ngợi gì, mà đang "chiêm nghiệm". Nếu như đụng vào anh ta, anh ta sẽ giật mình nhìn ta, như chợt tỉnh giấc, nhưng chẳng hiểu gì cả. Sự thực thì anh ta tỉnh hẳn ngay, nhưng nếu hỏi anh ta nghĩ ngợi gì mà đứng như thế thì chắc hẳn anh ta sẽ chẳng nhớ được gì, nhưng hẳn là anh ta vẫn giữ trong lòng cái cảm tưởng đã có trong lúc chiêm nghiệm. Nhưng cảm tưởng ấy rất quý báu đối với anh ta, chắc là anh ta tích luỹ chúng mà không để ý đến mà không hề có ý thức gì - cố nhiên cũng không biết là vì sao và để làm gì. Có thể sau khi tích luỹ cảm tưởng trong nhiều năm, đột nhiên anh ta sẽ vứt bỏ hết và đi Jeruzalem, lang thang đi tìm sự cứu rỗi, có thể anh ta đột nhiên sẽ đốt làng quê mình, mà cũng có thể hai việc cùng xảy ra đồng thời. Trong dân gian có khá nhiều kẻ chiêm nghiệm. Có lẽ Xmerdiakov là một trong những kẻ chiêm nghiệm như vậy, có lẽ hắn cũng háo hức tích luỹ cảm tưởng mà gần như không biết để làm gì.
    Chú thích
    (1) bánh nướng nhân thịt, cá, v.v… (N.D).
    (2) Theo huyền thoại thánh, con lừa cái của nhà tiên tri Ballaam bỗng cất tiếng nói (Thành ngữ này tương tự như "Cóc mở miệng" của ta (N.D)
    (3) Tập truyện ngắn của nhà văn Nga nổi tiếng N. Gogol (N.D)

  11. #20
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 7 - CUỘC TRANH LUẬN
    Nhưng con lừa Balaam bỗng lên tiếng. Về một đề tài kỳ dị: buổi sáng, nhân đến lấy hàng ở tiệm buôn của Lukianov, Grigori được ông ta kể cho nghe câu chuyện về một người lính Nga bị những người châu Á bắt làm tù binh tại một vùng biên giới xa xôi, chúng buộc anh ta phải từ bỏ đạo Kito và theo đạo Hồi, doạ nếu không nghe chúng sẽ hành hạ khổ sở cho chết một cách chậm chạp, anh lính không chịu bỏ đạo và nhận khổ hình, chịu cho chúng lột da mình, chết mà vẫn ngợi ca Chúa Kito. Công tích đó được đăng trên tờ báo nhận được hôm ấy. Grigori kể câu chuyện ấy trong bữa ăn. Xưa nay cứ sau bữa ăn, lúc dùng món tráng miệng, Fedor Pavlovich vẫn thích vui cười và tán gẫu, dù là chỉ với Grigori. Lúc này ông ta đang thoải mái và thích thú. Ông ta vừa nhắp cognac vừa nghe, nghe xong ông ta bảo rằng nên phong thánh cho người lính đó và đưa bộ da bị lột của anh ta về một tu viện nào đó: "Thiên hạ sẽ đổ xô đến và sẽ cúng khối tiền". Grigori nhăn nhó vì thấy Fedor Pavlovich đã không cảm động chút nào, mà còn nhạo báng theo thói quen xưa nay của mình. Lúc ấy Xmerdiakov đứng cạnh bỗng nhếch mép cười.
    Trước đây Xmerdiakov cũng vẫn hay được phép đến đứng gần bàn ăn, đúng hơn là vào cuối bữa ăn. Từ khi Ivan Fedorovich về nhà thì gần như bữa nào Xmerdiakov cũng đến.
    - Mày cười gì vậy? - Fedor Pavlovich hỏi, ông ta nhận thấy ngay nụ cười và cố nhiên ông ta hiểu đây là cười Grigori.
    - Con nghĩ đến anh chàng nọ. - Xmerdiakov đột nhiên nói to. - Nếu như công tích của người lính đáng khen ấy thực hết sức lớn lao thì theo con, anh ta cũng chẳng có tội lỗi gì nếu anh ta chối bỏ tên đấng Kito và phép rửa tội của mình để cứu lấy tính mạng mình. Sống để làm những việc thiện mà nhiều năm sau sẽ chuộc được sự yếu hèn chốc lát.
    - Sao lại không có tội là thế nào? Mày nói nhảm, vì thế mày đáng phải xuống địa ngục và sẽ bị nướng trong lửa như miếng thịt cừu. - Fedor Pavlovich nói.
    Vừa hay Aliosa vào, Fedor Pavlovich, như chúng ta đã biết, rất đỗi vui mừng khi thấy Aliosa.
    - Đang nói về đề tài quen thuộc của con đây, về đề tài quen thuộc của con đây! - ông ta cười hì hì, kéo Aliosa ngồi nghe.
    - Về chuyện nướng trong lửa địa ngục thì không có đâu, sẽ không có chuyện gì đâu, theo đúng lẽ công bằng thì không thể có chuyện như thế được. - Xmerdiakov nói một cách đĩnh đạc.
    - Theo đúng lẽ cỏng bằng là thế nào? - Fedor Pavlovich la lên càng vui vẻ hơn, huých đầu gối vào Aliosa.
    - Nó là thằng đê tiện, thế thôi! - Grigori buột thốt lên. Lão hằm hằm nhìn thẳng vào mắt Xmerdiakov.
    - Chớ vội gọi con là kẻ đê tiện, bác Grigori Vaxilievich ạ. - Xmerdiakov cãi lại một cách bình tĩnh và từ tốn. - Bác nên suy xét một chút thì hơn: một khi con đã rơi vào tay những kẻ hành hạ người Kito giáo và chúng bắt con phải nguyền rủa tên Đức Chúa Trời và chối bỏ lễ rửa tội của con thì con hoàn toàn có quyền tuân theo trí xét đoán của mình, bởi vì như thế không có tội gì hết.
    - Điều đó thì mày nói rồi, đừng tô vẽ thêm nữa, mà chứng minh đi! - Fedor Pavlovich quát lên.
    - Thằng bếp mạt hạng! - Grigori lầu bầu với vẻ khinh miệt.
    - Xin chớ vội quá lời, bác đừng chửi mắng mà hãy suy xét xem, bác Grigori Vaxilievich ạ, chỉ vì hễ con nói với bọn hành hạ rằng: "Không, tôi không phải là người Kito giáo và tôi nguyền rủa Chúa Trời đích thực của tôi" là lập tức con sẽ bị toà phán xét tối cao của Chúa Trời nguyền rủa, con sẽ bị giáo hội rút phép thông công như một kẻ tà đạo, thậm chí ngay giây lát đó, - không cần con nói ra câu đó, mà hễ con vừa có ý định nói ra là chưa đầy một phần tư giây đồng hồ con đã bị rút phép thông công có phải thế không, bác Grigori Vaxilievich.
    Nó nói với Grigori với vẻ thích thú ra mặt, tuy thực ra nó chỉ trả lời những câu hỏi của Fedor Pavlovich và nó hiểu rất rõ điều đó nhưng cố ý làm ra vẻ như những câu hỏi ấy là do Grigori đặt ra cho nó.
    - Ivan! - Fedor Pavlovich bỗng lớn tiếng gọi. - Hãy cúi xuống sát tai ba. Nó biện luận dông dài như thế cốt để con nghe đấy, nó muốn con khen nó đấy. Khen nó một chút đi.
    Ivan Fedorovich nghe câu nói hoan hỉ đó của bố với thái độ hết sức nghiêm trang:
    - Khoan, Xmerdiakov, hãy im đi một lát. - Fedor Pavlovich lại lớn tiếng nói. - Ivan, lại cúi sát gần nữa đi, Ivan Fedorovich lại cúi xuống với vẻ hết sức nghiêm trang.
    - Ba yêu con cũng ngang với Aliosa. Đừng nghĩ rằng ta không yêu con. Con uống cognac chứ?
    - Vâng. - "Nhưng ba say lắm rồi". - Ivan Fedorovich nhìn bố chằm chằm.
    Chàng nhìn Xmerdiakov bằng con mắt hết sức tò mò.
    - Ngay lúc này mày cũng bị nguyền rủa rồi. - Grigori bỗng nổi khùng. - Thằng khốn kiếp, vậy thì làm sao mày còn dám luận bàn nếu như…
    - Đừng thoá mạ, Grigori, đừng thoá mạ! - Fedor Pavlovich ngắt lời.
    - Hãy cố kiên nhẫn một chút xíu, bác Grigori Vaxilievich và xin hãy nghe nốt, vì con chưa nói hết mà. Này nhé, đúng vào lúc con bị Thượng đế nguyền rủa, đúng vào thời khác cực trọng ấy, con tuồng như đã trở thành một kẻ tà đạo, lễ rửa tội của con bị xoá bỏ và không còn ràng buộc gì nữa, phải thế không ạ?
    - Kết luận đi, chú mày, kết luận đi. - Fedor Pavlovich giục, khoái trá nháp cognac.
    - Nếu con không còn là người Kito giáo thì tức là con không nói dối quân dữ khi chúng hỏi: "Mi có phải là tín đồ Kito giáo không? " bởi vì chính Chúa Trời đã cởi bỏ đạo Kito cho con rồi, chỉ vì con đã có ý định chối đạo và ngay trước khi con kịp mở miệng nói với quân dữ. Một khi con đã mất đạo thì bằng cách nào và vì lẽ gì mà ở thế giới bên kia người ta có quyền xét hỏi con như một người Kito giáo về tội chối bỏ Chúa Kito, khi con chỉ mới có ý định chứ chưa kịp chối bỏ thì đã mất phép rửa tội rồi! Một khi con không còn là người Kito giáo, tức là con không thể chối bỏ đấng Kito, bởi vì lúc ấy con chẳng có gì để mà chối bỏ nữa. Bác Grigori Vaxilievich ạ, sẽ chẳng có ai hỏi tội một tên Tarta theo tà đạo, dù là chất vấn ở trên trời đi nữa, về việc tại sao hắn không sinh ra là người Kito giáo, chẳng ai lại đi trừng phạt hắn về tội ấy, bởi vì không thể lột da con bò hai lần được.
    Và chính Thượng đế toàn năng nếu có hỏi tội tên Tarta khi hắn chết đi thì con cho rằng Ngài chỉ phạt rất nhẹ thôi (vì không thể hoàn toàn không trừng phạt được) bởi Ngài nghĩ rằng hẳn chẳng có tội gì khi bố mẹ hắn theo tà đạo lại sinh ra hắn là kẻ tà đạo. Chúa Trời liệu có thể dùng quyền phép bắt đi một tên Tarta rồi bảo rằng hắn là tín đồ Kito giáo không? Nếu vậy thì đấng Toàn năng hoàn toàn nói trái sự thật. Đấng Tối cao cai quản bầu trời và trái đất có thể dối trá như vậy được không, dù chỉ là một lời dối trá thôi?
    Grigori ngây người trố mắt nhìn kẻ hùng biện. Lão không hiểu rõ lắm, nhưng đột nhiên lão cũng hiểu đôi chút những lời rối rắm ấy và lão như người bỗng nhiên vập trán vào tường.
    Fedor Pavlovich uống nốt ly rượu và cười ré lên:
    - Aliosa. Aliosa, kỳ chưa! A, nhà quỷ biện! Chắc là nó đã từng gặp gỡ các thầy tu dòng Tên ở đâu đó, Ivan ạ. Chà - chà, mày sặc mùi dòng Tên, ai dạy mày thể hả? Nhưng chẳng qua là mày nói dối, thằng quỷ biện ạ, mày nói dối, nói dối và nói dối. Đừng buồn phiền, Grigori chúng ta sẽ đập nó tan tành ngay bây giờ. Này, mày nói đi, con lừa kia: ừ thì trước mắt quân dữ mày có lý, nhưng tự trong tâm tưởng mày đã chối bỏ đạo của mày và mày nói rằng ngay lúc đó mày đã bị nguyền rủa, mà một khi mày đã bị nguyền rủa thì xuống địa ngục người ta sẽ không xoa đầu mày đâu. Về việc này mày nghĩ sao, gã tu sĩ dòng Tên tuyệt diệu của ta?
    Ivan Fedorovich nghe câu nói hoan hỉ đó của bố với thái độ hết sức nghiêm trang:
    - Đương nhiên là tự trong tâm tưởng con đã bỏ đạo; nhưng như vậy cũng chẳng có tội lỗi gì lắm, nếu có tội thì tội cũng rất thường thôi.
    - Sao lại rất thường là thế nào? Mày nói láo, thằng trời đánh! - Grigori rú lên.
    - Bác hãy tự suy xét xem, bác Grigori Vaxilievich, - Xmerdiakov nói tiếp bằng giọng đều đều đĩnh đạc, nó biết mình thắng, nhưng dường như khoan hồng với kẻ bại. - Bác hãy tự mình suy xét xem, bác Grigori Vaxilievich: Kinh Thánh nói rằng nếu có đức tin dù chỉ bằng hạt thóc thôi thì bảo trái núi lăn xuống biển, núi cũng lăn xuống tức thì, chỉ cần ta ra lệnh. Này bác Grigori Vaxilievich ạ, con là kẻ không tin đạo, còn bác là người giầu đức tin đến độ luôn luôn mắng mỏ con, vậy bác hãy thử bảo trái núi kia lăn đi, không phải là lăn xuống biển (vì biển xa đây quá), mà chỉ cần lăn xuống con sông nhỏ hôi hám chảy qua sau vườn nhà ta thôi, và bác sẽ thấy ngay rằng chẳng có cái gì nhúc nhích, tất cả vẫn y nguyên như trước, dù bác có quát thét thế nào đi nữa. Như vậy tức là cả bác cũng không tin đạo một cách thích đáng, mà chỉ vin vào cớ đó để mắng người khác thôi. Lại còn thế này nữa, trong thời đại chúng ta, không riêng gì bác, mà dứt khoát là không một ai, kể từ những đấng bậc cao cả nhất cho đến người mugich hèn kém nhất, không một ai có thể làm cho núi lăn xuống biển, may ra thì trên cả trái đất này có được một người, nhiều lắm là hai, có thể làm được việc đó, nhưng có lẽ họ giấu mình tu hành ở một chỗ nào trong sa mạc Ai Cập, vì vậy không thể tin được họ. Nhưng nếu vậy, nếu tất cả mọi người còn lại đều không tin đạo, tức là cả bàn dân thiên hạ, trừ có vài người ẩn tu trong sa mạc, thì lẽ nào hết thảy đều bị Chúa Trời nguyền rủa, mặc dù ai cũng biết rằng Ngài lòng lành vô cùng, lẽ nào Ngài không tha thứ cho ai hết. Vì thế con hy vọng rằng dù con có nghi ngờ đi nữa, con cũng sẽ được tha thứ khi con nhỏ nước mắt ăn năn.
    - Hãy khoan! - Fedor Pavlovich la ré lên khoái chí tột độ. - Vậy là có hai người có thể bắt núi phải chuyển chỗ, mày vẫn thừa nhận là có những người như thế chứ gì? Ivan, nhớ kỹ lấy điểm ấy, ghi vào: toàn bộ bản chất người Nga thể hiện ở đấy.
    - Ba nhận xét hoàn toàn đúng: đấy là một nét đặc biệt của tín ngưỡng dân gian, - Ivan Fedorovich mỉm cười tán thành nói.
    - Con đồng ý! Con mà đồng ý thì đúng là như thế rồi! Aliosa, có phải đúng như thế không? Tín ngưỡng Nga hoàn toàn là như thế phải không?
    - Không, Xmerdiakov hoàn toàn không có tín ngưỡng của người Nga. - Aliosa nói một cách nghiêm chỉnh và cả quyết.
    - Ba không nói về tín ngưỡng của hắn, mà về cái nét ấy, về hai người tu trong sa mạc, chỉ về nét ấy thôi: đấy là theo lối Nga phải không?
    - Vâng, đấy là một đặc điểm hoàn toàn Nga. - Aliosa mỉm cười.
    - Câu ấy của mày đáng giá một đồng tiền vàng, con lừa ạ, tao sẽ giao cho mày đồng tiền ấy ngay hôm nay, nhưng còn về mọi cái khác thì mày nói láo toét, láo toét. Này thằng ngốc ạ, mày nên biết rằng tất cả chúng tao ở đây mà không tin đạo thì chỉ vì tính lông bông, vì không có thời giờ: thứ nhất là công việc bù đầu thứ hai là Trời cho ít thời gian quá, một ngày chỉ có hai mươi tư tiếng đồng hô, thành thử không đủ thời giờ ngủ cho no giấc chứ đừng nói gì đến chuyện ăn năn. Còn mày chối đạo nước quân dữ khi mày chỉ còn có việc nghĩ đến đạo và chính là lúc cần chứng tỏ đức tin! Như vậy là có tội, chú mày ạ, tao nghĩ vậy đúng không?
    - Có tội thì có tội nhưng bác hãy xét xem, bác Grigori Vaxilievich ạ, dẫu sao thì tội cũng nhẹ thôi. Vì là con có tội nếu không vì đạo của mình mà chịu khổ nhục, mà lại theo tà đạo của Mohamet. Nhưng lẽ ra cũng không đến nỗi phải chịu khổ hình, bởi vì lúc đó chỉ cần bảo trái núi: hãy đè bẹp con gián, và con sẽ ung dung bỏ đi, miệng ngợi ca uy danh Chúa Trời. Nhưng nếu chính lúc ấy con đã thử thách mọi cách, thét lên với trái núi: đè chết những quân dữ kia đi, mà núi vẫn trơ ra thì bác bảo làm sao con không nghi ngờ cho được, nhất là vào cái giờ ghê rợn sợ đến chết người như thế? Vả chăng con vẫn biết rằng con không thể được hưởng trọn vẹn nước thiên đàng (bởi vì núi không chuyển dịch theo lời con bảo thì nghĩa là Trời chẳng tin gì lắm đức tin của con, bởi thế phần thưởng dành cho con ở thế giới bên kia chẳng to tát gì lắm), đã thế thì cớ gì con phải chịu cho người ta lột da con khi sự hy sinh đó chẳng có lợi gì cả? Bởi vì cho dù con có bị lột da đến ngang lưng đi nữa thì núi vẫn không hề nhúc nhích khi con bảo nó hay gào thét lên. Lúc ấy chẳng những có thể nghi ngờ, mà còn có thể mất trí vì khiếp sợ nữa kia, thành thử không thể phán đoán gì được nữa. Vậy thì con có tội lỗi gì ghê gớm nếu như không thấy mình có lợi lộc gì, phần thưởng gì cả ở đấy cũng như ở đây, con tìm cách ít ra cùng cứu lấy cái mạng mình? Và bởi vì con rất tin vào lòng nhân từ của Chúa Trời, nên con hy vọng rằng con sẽ được tha thứ hoàn toàn…

Trang 2 / 11 ĐầuĐầu 1234 ... Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-18-2017, 02:18 PM
  2. Anh Em Nhà Karamazov - Dostoevski
    By giavui in forum Thư Viện E-Books
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-15-2016, 06:13 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-20-2016, 01:43 PM
  4. Thủ tướng Anh: Đã tiêu diệt hai công dân Anh theo IS
    By duyanh in forum Tin Tức Quốc Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-08-2015, 12:12 PM
  5. Nhớ Anh Nhớ Đoạn Trường - Hoài Niệm 20 Năm
    By giahamdzui in forum Nhạc Trung Hoa
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-26-2015, 09:00 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •