Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Cái lạc thú của những tình yêu âm thầm là vừa có những nỗi chua xót, vừa có những hạnh phúc êm đềm thắm thiết.
X.
Trang 3 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối
Results 21 to 30 of 35

Chủ Đề: Biến Mất (Tess Gerritsen)

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Biến Mất (Tess Gerritsen)

    Biến Mất (Tess Gerritsen)

    Tác giả :Tess Gerritsen


    Một cái xác vô danh được chuyển đến nhà xác chờ được khám nghiệm tử thi. Maura Isles - nhân viên pháp y của Boston chợt phát hiện thấy cái xác mở mắt. Jane Doe - tên cái xác - chống cự điên cuồng khi được chuyển vào bệnh viện. Cô ta lạnh lùng bắn chết viên bảo vệ, đồng thời bắt giữ các con tin, trong đó có Jane Rizzoli - một phụ nữ đang mang thai, đồng thời cũng là thám tử của đội điều tra án mạng. Từng giờ trôi qua, Maura cùng với chồng của Jane là Gabriel Dean - một nhân viên FBI, đã cố gắng nhận diện kẻ giết người. Nhưng vụ việc còn đi xa hơn nhiều một vụ bắt giữ con tin thông thường và Jane - người đang bị mụ điên có vũ khí ấy bắt giữ lại là người duy nhất biết được điều bí mật.

    ° ° °

    Tess Gerritsen (12/7/1953): là một bác sĩ điều trị và một tác giả nổi tiếng thế giới. Tác phẩm tiểu thuyết đầu tay của bà về sự trì hoãn trong y học đã dành được rất nhiều lời khen ngợi. Harvest là cuốn sách bán chạy nhất theo tờ Thời báo New York. Bà cũng là tác giả của nhiều cuốn sách bán chạy khác như The Mephisto Club, Vanish, Body Double, The Sinner, The Apprentice, The Surgeon, Life Support, Bloodstream và Gravity. Tess Gerritsen sống tại Maine cùng chồng và hai con trai.

    ° ° °

    "Gerritsen đã làm người đọc phải gấp gáp cuốn theo diễn biến của câu chuyện để mong sớm biết được hồi kết. Độc giả luôn phải đoán định điều gì sẽ xảy ra theo nhưng vẫn không ngờ được một kết thúc hoàn toàn bất ngờ."
    - Bangor Daily News

    "Một câu chuyện có sức mạnh đặc biệt. Mãi đến khi gấp sách lại rồi mà nó vẫn còn đeo đuổi trong tâm trí chúng ta."
    - Orlando Sentinel

    "Mê ly... không gì có thể phủ nhận sức mạnh trong cách kể chuyện của Gerritsen. Biến mất là một ví dụ điển hình của thể loại truyện tội phạm: hành động, giải trí và rất dễ hiểu."
    - Chicago Sun Times



    Chương 1
    Tên tôi là Mila và đây là hành trình của tôi.Tôi có thể bắt đầu chuyện của mình ở rất nhiều nơi, nó có thể là Kryvicy - nơi tôi đã lớn lên, cũng có thể ở bên bờ sông Servac trong quận Miadziel. Tôi có thể bắt đầu từ lúc mình 8 tuổi - hồi mẹ tôi qua đời nhưng cũng có thể hồi 12 tuổi khi cha tôi không may bị chèn dưới bánh xe tải của người hàng xóm.

    Nhưng tôi nghĩ tốt hơn cả là nên bắt đầu ở chính nơi này - hoang mạc Mexico - nơi cách xa gia đình tôi - nơi tôi đã mất đi sự ngây thơ trong trắng của mình. Chính nơi này đã chôn vùi những giấc mơ của tôi.Một ngày tháng Mười một, trời không mây, những con quạ lớn bay lượn trên không trung khiến tôi có cảm giác bầu trời như trong xanh hơn bao giờ hết.

    Tôi ngồi trong chiếc xe tải trắng do hai người đàn ông lái. Họ không biết tên tôi hoặc cũng có thể là họ chẳng thèm quan tâm đến chuyện đó. Bọn họ chỉ cười và gọi tôi là Red Sonja, họ đã gọi tôi như thế ngay khi nhìn thấy tôi ở sân bay trong thành phố Mexico. Anja nói đó là bởi vì mái tóc đỏ của tôi.

    Red Sonja là tên một bộ phim mà tôi chưa từng xem. Nó kể về một nữ chiến binh xinh đẹp đã đánh bại kẻ thù với thanh kiếm của mình. Giờ biết rồi thì tôi lại nghĩ chắc hẳn mấy gã đó đang chế nhạo mình vì tôi đâu có xinh đẹp gì, cũng chẳng phải một chiến binh. Tôi chỉ là con bé mười bảy tuổi và đang rất lo sợ vì không biết chuyện gì sẽ xảy đến với mình tiếp theo đây.

    Anja và tôi nắm chặt tay nhau, chúng tôi cùng ngồi chung trên xe với năm cô gái khác. Chiếc xe thùng đang đưa chúng tôi qua một mảnh đất khô cằn với vài bụi cây thưa thớt bên đường. Người đàn bà ở Minsk đã hứa chắc với chúng tôi đây là "Chuyến đi trọn gói Mexico", nhưng chúng tôi cũng tự ý thức được rằng đó là cuộc chạy trốn, cũng có thể xem nó là một cơ hội.

    Bà ta nói chúng tôi sẽ đi máy bay tới Mexico, sau đó có những người chờ đón bọn tôi ở đó và đưa tụi tôi vượt biên, tìm đến một cuộc sống mới. "Các cháu thử nhìn xem cuộc sống của mình ở đây thế nào nào", bà ta nói với tụi tôi. "Không có công việc nào cho ra hồn, không nhà cửa, thậm chí một thằng con trai tử tế cũng chẳng có.

    Các cháu lại chẳng có cha mẹ chăm lo nữa. Còn cháu Mila, cháu nói tiếng Anh tốt như thế, chắc chắn là cháu sẽ thích nghi nhanh với đời sống ở Mỹ thôi". Bà búng tay sau khi nói với tôi. "Nào dũng cảm lên các cô gái. Hãy tranh thủ cơ hội này. Các ông chủ ở đó sẽ trả tiền cho các cô xứng đáng, vậy thì còn chờ đợi gì nữa nào?"Chắc chắn là chúng tôi không chờ đợi những cái này rồi - một hoang mạc bất tận bên ngoài cửa sổ, tôi thầm nghĩ.

    Trong khi Anja ngồi sát lại và rất thân thiện với tôi thì mấy đứa kia chỉ yên lặng. Tất cả bọn tôi đều đang băn khoăn và nghĩ ngợi về cùng một điều. Mình đã làm gì thế này?Suốt sáng chúng tôi phải ngồi trên xe, hai người đàn ông ngồi trong khoang lái chẳng hé một lời. Nhưng gã đàn ông ngồi ở khoang hành khách cứ lúc lúc lại nhìn chúng tôi.

    Ánh mắt anh ta gần như toàn chú ý đến Anja, tôi không thích cái nhìn ấy. Anja không nhận thấy điều đó vì cô ấy đang nằm dựa vào vai tôi. Chúng tôi gọi cô ấy là Chuột con hồi còn học trong trường bởi vì cô ấy khá nhút nhát. Chỉ cần có cậu con trai nào nhìn mình là mặt cô ấy đã đỏ bừng.

    Chúng tôi bằng tuổi nhau nhưng khi nhìn Anja ngủ tôi thấy cô có gương mặt của một đứa trẻ. Tôi chợt nghĩ: Mình không nên để cô ấy cùng đi với mình. Đáng ra mình nên bảo cô ấy ở lại Kryvicy.Cuối cùng thì chiếc xe tải cũng rời đường lớn để tiến vào một con đường đầy bụi bặm khác.

    Mấy cô gái kia vẫn thức và nhìn chăm chăm ra phía ngoài cửa sổ. Ngoài đó là những triền đồi sẫm màu, nơi những tảng đá nằm ngổn ngang trông như đống xương khô. Giờ này trong thị trấn nhỏ của tôi chắc những bông tuyết đầu tiên đã rơi, thế nhưng ở đây - cái vùng mà ngay cả mùa đông cũng chẳng có thì chỉ có bụi cùng những lùm cây thấp thoáng và trời thì cứ xanh ngắt.

    Xe dừng lại, hai người đàn ông quay nhìn chúng tôi. Người tài xế nói bằng tiếng Nga:- Đã đến lúc phải xuống xe đi bộ rồi. Đây là cách duy nhất để qua biên giới.Họ kéo cửa và chúng tôi bước ra khỏi xe từng người một - bảy cô gái cả thảy đang mệt mỏi rã rời sau chuyến đi dài.

    Mặc dù trời nắng nhưng ở đây lạnh gai người, lạnh hơn là tôi tưởng. Anja xoa tay vào nhau, run rẩy nắm chặt tay tôi.- Lối này - người lái xe ra lệnh và dẫn chúng tôi ra khỏi con đường bụi bặm, đến một lối mòn ngược lên sườn đồi.Chúng tôi phải trèo cả lên những tảng đá nhọn và bị những cây gai bên đường đâm vào chân đau điếng.

    Anja đi đôi giầy hở ngón vì thế cô ấy cứ thỉnh thoảng phải dừng lại để hất mấy viên sỏi ra khỏi giầy. Chúng tôi khát khô cổ họng nhưng mấy người kia chỉ cho bọn tôi dừng lại duy nhất một lần để uống nước. Sau đó chúng tôi lại tiếp tục trên con đường đầy đá sỏi, ngoan ngoãn như những chú dê nhỏ.

    Tới đỉnh đồi, lại bắt đầu leo xuống, theo những lùm cây cho đến khi tới được chân đồi. Chúng tôi nhìn thấy một lòng sông đã cạn khô. Mấy người dẫn đường đi phía trước đến bên bờ: chai nhựa đựng nước, quần áo lấm bẩn, giầy cũ nát, những thứ ấy thấp thoáng. Chúng tôi đi theo họ cũng giống như nhiều người trước chúng tôi - những kẻ ảo mộng đi tới vùng đất Mỹ.

    Đột nhiên tôi thấy sợ hãi, nỗi sợ hãi tăng dần, tăng dần. Hai người đàn ông vẫy bảo chúng tôi đi thẳng phía trước và bắt đầu trèo lên bờ bên kia. Anja cầm tay tôi:- Mila, mình không thể đi tiếp được nữa - cô thì thầm.- Cậu phải đi.- Nhưng chân mình đang chảy máu rồi.

    Tôi nhìn xuống chân Anja, mấy ngón chân nát bươm, máu đang chảy ra. Tôi gọi mấy người đàn ông:- Bạn tôi bị đứt chân rồi!- Tao không cần biết. Cứ đi đi - gã tài xế nói.- Chúng tôi không đi tiếp được. Cô ấy cần được băng bó chân lại đã.- Hoặc là đi tiếp hoặc bọn tao sẽ bỏ hai đứa mày lại.

    - Thì ít ra cũng phải cho cô ấy đổi giầy khác đã chứ!Người đàn ông quay lại và trong khoảnh khắc trông hắn ta khác hẳn. Vẻ mặt của hắn khiến Anja phải lùi lại, mấy cô gái kia đứng yên, tròn mắt như những con cừu co cụm một chỗ khi hắn tiến về phía tôi. Hắn ra tay quá nhanh khiến tôi chẳng hiểu nó đã xảy ra khi nào, chỉ thấy mình khụy xuống và trời đất tối sầm lại.

    Tiếng thét của Anja như thật như hư ảo. Sau đó thì tôi thấy đau, một cái gì đó trong cổ họng. Tôi thấy vị tanh của máu và nhìn thấy mấy giọt đang nhỏ ra từ miệng xuống đám đá dưới chân.- Đi thôi, nhanh lên. Lãng phí từng ấy thời gian là đủ rồi.Tôi đứng dậy, Anja nhìn tôi chăm chú.

    - Mila, rồi sẽ tốt thôi. Chúng ta phải nghe lời họ. Chân mình không còn đau nữa, mình có thể đi tiếp được.- Mày đã thấy rồi chứ - gã kia nói với tôi rồi quay sang những người còn lại - Bọn mày đã hiểu sẽ thế nào nếu làm trái ý tao rồi chứ? Hay chỉ cần bọn mày nói dừng lại mà thôi.

    Giờ thì đi nhanh lên!Nhanh chóng các cô gái vượt qua lòng sông lởm chởm. Anja cầm cánh tay tôi và kéo theo. Tôi vẫn còn choáng bởi cái tát, loạng choạng bước theo bạn, nuốt máu vào trong cổ họng và sợ hãi nhìn con đường phía trước. Chỉ còn một khoảng ngắn nữa là đến bờ bên kia, bọn tôi trèo lên bờ, đi vòng qua một hàng cây là ra đến một con đường - lại một con đường bụi bặm khác.

    Hai chiếc xe tải nhỏ đang đỗ ở đó chờ bọn tôi.- Đứng thành hàng - gã lái xe ra lệnh - nhanh lên. Họ muốn kiểm tra tụi mày một chút.Cho dù chẳng muốn làm theo lệnh thì chúng tôi vẫn đứng thành hàng - bảy cô gái mệt mỏi với đôi chân ê ẩm và quần áo bẩn thỉu.Bốn người đàn ông trèo ra khỏi xe và chào chúng tôi bằng tiếng Anh.

    Họ là người Mỹ. Một người có thân hình mập mạp tiến lên phía trước, đi chầm chậm dọc theo hàng và nhìn chúng tôi chăm chăm. Ông ta đội một chiếc mũ của cầu thủ bóng chày. Ông ta cứ như một người nông dân chăm chỉ đang định giá lũ bò của mình vậy. Ông ta dừng lại trước mặt tôi và nhướn mày:- Đứa này làm sao vậy?- À, nó bảo tôi phải dừng lại, chỉ là một vết bầm thôi mà - tên lái xe trả lời.

    - Nhưng mà nó gầy quá, ai mà muốn cơ chứ?Ông ta có biết mình biết tiếng Anh không nhỉ? Liệu ông ta có quan tâm tới điều này không? Tôi có thể gầy thật nhưng ông lại có bộ mặt của một con heo đấy ông biết không. Tôi thầm nghĩ.Rồi cũng chẳng xem xét lâu, ông ta đi đến chỗ những cô gái khác.

    - Tốt rồi - ông ta nói và nhe nhởn cười - Để xem các cô này có gì nào.Gã tài xế nhìn chúng tôi rồi nói bằng tiếng Nga:- Cởi quần áo ra!Chúng tôi hốt hoảng quay nhìn hắn. Đến tận lúc này rồi mà tôi vẫn còn ảo tưởng ngu ngốc là người đàn bà ở Minsk đã nói thật, rằng bà ta đã sắp xếp công việc ở Mỹ cho chúng tôi: Anja sẽ làm cô giữ trẻ cho ba đứa nhỏ còn tôi sẽ bán váy áo cho một cửa hàng áo cưới.

    Thậm chí ngay cả khi tên tài xế tước mất hộ chiếu của chúng tôi, cả khi tôi ngã dúi dụi trên đường đi thì tôi đã vẫn nghĩ rằng: Rồi mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Tất cả những điều ấy là sự thật.Không ai trong số bọn tôi động đậy. Chúng tôi vẫn còn chưa tin vào tai mình, chưa tin vào điều mà gã ta vừa yêu cầu.

    - Bọn mày không nghe thấy gì hả? Thế chúng mày lại muốn trông giống con kia à - gã lái xe vừa nói vừa chỉ vào gương mặt vẫn còn sưng vù của tôi.Một cô gái vừa lắc đầu vừa khóc. Chuyện này làm hắn nổi cáu, hắn quay sang tát cô bé làm cô nghiêng người ngã xuống. Hắn liền dùng tay kéo cô đứng dậy, xé áo ngoài của cô.

    Hét lên vì sợ hãi cô gái cố đẩy hắn ra xa. Lần này thì một cú đòn khác chất lượng hơn khiến cô nằm bò trên mặt đất. Hắn tiến về phía cô và đá vào mạng sườn.- Nào, giờ thì còn đứa nào muốn bị như thế này nữa không - hắn quay sang bọn tôi.Một cô gái nhanh chóng đưa tay lên những nút áo.

    Giờ thì bọn tôi đều ngoan ngoãn cởi áo ngoài, váy, quần dài. Kể cả Anja, Anja bé nhỏ, e thẹn cũng đang cởi đồ của mình.- Cởi hết ra - tên lái xe lại ra lệnh - Cởi hết ra, bọn mày lề mề quá đấy. Chúng mày sẽ học cách làm chuyện này nhanh thôi, nhanh thôi.Hắn đi về phía một cô bé đang dùng hai cánh tay che ngực mình.

    Cô vẫn chưa cởi đồ lót ra. Hắn hất tay cô ra khiến cô gái lúng túng, đoạn hắn xé toang luôn bộ đồ lót.Bốn tên người Mỹ lúc này đi vòng vòng quanh chúng tôi hau háu nhìn như những con sói đói. Anja run lập cập, tôi có thể nghe tiếng hai hàm răng cô va vào nhau.- Tao sẽ kiểm tra con bé này trước.

    Một cô gái thổn thức khi bị lôi ra khỏi hàng. Gã đàn ông lộ vẻ mặt đe dọa. Hắn dúi mặt cô úp vào bên thùng xe, kéo khóa quần của mình và áp chặt người vào cô. Cô gái kêu thét lên.Mấy tên kia cũng tiến lại hàng và bắt đầu chọn người cho mình. Đột ngột Anja bị giật ra khỏi tôi, tôi cố níu cô ấy nhưng tên tài xế đã giữ tay tôi.

    - Không ai muốn mày cả đâu - hắn nói rồi đẩy tôi vào trong thùng xe, khóa cửa lại.Qua khung cửa sổ tôi nhìn thấy hết, thấy hết tất cả và cả nghe thấy nữa. Tiếng cười của lũ đàn ông trộn trong tiếng kêu khóc thảm thiết của các cô gái, vừa khóc, vừa chống cự. Tôi không thể không nhìn, cũng không thể quay đi.

    - Mila! Mila ơi, cứu mình với - Anja đang kêu khóc.Tôi cố đập ổ khóa, cố thoát ra để có thể đến với cô. Gã kia đã đẩy cô xuống đất và đang cố đẩy hai chân cô ra. Cô nằm đó, tay cào trên mặt đất còn mắt nhắm nghiền chịu đựng nỗi đau. Tôi thấy mình cũng đang hét lên, cố đẩy cái cửa sổ đang chắn trước mặt, nhưng tôi không thể, không thể thoát ra.

    Xong việc với Anja, gã đàn ông để mặc cô ở đó trần truồng với những vệt máu. Đứng dậy, kéo khóa quần lại hắn ta nói:- Tuyệt lắm, rất tuyệt!Tôi nhìn Anja. Lúc đầu tôi đã nghĩ cô ấy chết rồi vì không thấy có chuyển động gì. Gã kia chẳng thèm liếc nhìn cô mà lại đi tới một cái thùng lấy ra chai nước.

    Hắn uống một hơi dài, không nhận ra Anja đã tỉnh lại.Đột nhiên cô ấy đứng dậy. Cô bắt đầu chạy. Khi thấy cô chạy trốn vào trong sa mạc tôi tì tay lên cửa sổ và thầm nói: Nhanh lên Anja, chạy đi, chạy nhanh lên!Đúng lúc ấy một gã đàn ông hét lên:- Này, nó đang chạy trốn kìa.

    Anja vẫn tiếp tục chạy. Không một mảnh vải che thân, đôi chân trần có lẽ giờ đã bị đá cứa nhiều vết. Sa mạc bất tận đang trải ra phía trước nhưng cô ấy không hề nản chí.Đừng ngoái lại, cứ chạy đi, chạy...Tiếng súng nổ làm máu tôi đông lại.Anja ngã người về phía trước và đang bò trên mặt đất.

    Nhưng cô vẫn không chịu khuất phục. Cô gượng đứng dậy, lảo đảo bước như một người say, sau đó khuỵu xuống. Giờ thì tôi thấy cô đang trườn đi, mỗi centimet là một cuộc chiến, một sự thắng lợi. Cô cố vươn tay như đang chờ đón một cánh tay khác nâng mình dậy, cánh tay mà không ai trong chúng tôi có thể thấy.

    Lại một viên đạn nữa được bắn ra. Lần này Anja không đứng dậy được nữa.Gã lái xe khóa súng, nhét vào túi hông, nhìn các cô gái. Tất cả bọn họ đều đang khóc lóc, sợ hãi, ôm chặt nhau nhìn về phía sa mạc đằng trước nơi có cơ thể của Anja.- Phí quá - tên đã hãm hiếp Anja nói.

    - Sẽ rất rắc rối nếu để bọn chúng chạy thoát. Chúng ta vẫn còn sáu đứa nữa cơ mà - tên tài xế nói.Giờ thì những gã đàn ông bắt đầu trao đổi giá cả. Xong đâu đấy bọn họ phân chia chúng tôi như phân loại những đôi tất. Ba người vào một xe. Tôi không nghe được họ trả giá mỗi đứa chúng tôi bao nhiêu.

    Tôi chỉ biết giờ tôi chỉ là một kẻ lang thang, một đống giẻ rách bị vứt bỏ. Khi xe chạy tôi ngoái nhìn cơ thể Anja. Lũ khốn kiếp thậm chí chẳng thèm nghĩ đến chuyện chôn cất cô ấy. Cô nằm đó, mặc nắng, mặc gió và lũ chim đói đang lượn lờ trên trời chỉ chờ có xác chết là bâu đến.


  2. #21
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 21
    Jane bị đánh thức bởi tia nắng chiếu vào qua khung cửa sổ phòng bệnh. Cô nhìn Gabriel, anh đang nằm ngủ trên chiếc giường bên cạnh. Trên đầu anh cô nhận thấy có mấy sợi tóc bạc mà trước đây chưa có. Anh vẫn mặc chiếc áo từ đêm hôm trước, tay áo có những vệt máu đã khô.Máu của ai vậy nhỉ?Cảm nhận được cô đang nhìn mình, anh mở mắt, nheo lại vì nắng mặt trời.

    - Chào buổi sáng, ông bố - cô nói.Anh cười hơi mệt mỏi:- Ông bố nghĩ bà mẹ nên ngủ tiếp đi thì hơn.- Em không thể.- Đây là có thể là cơ hội cuối cùng để chúng ta được ngủ yên một lát đấy. Một khi đứa trẻ đã về nhà chúng ta sẽ không có nhiều thì giờ để nghỉ ngơi đâu.

    - Em cần được biết, Gabriel. Anh chưa kể cho em chuyện gì đã xảy ra.Nụ cười tắt trên gương mặt anh. Anh ngồi dậy, xoa mặt. Trông anh đột nhiên như già đi và cực kỳ mệt mỏi.- Họ chết cả rồi.- Cả hai ư?- Họ bị bắn chết khi cuộc đột kích diễn ra. Đấy là những điều mà đại úy Hayder đã nói cho anh biết.

    - Anh nói chuyện với ông ta khi nào?- Ông ta tới đêm qua. Lúc ấy em đã ngủ, anh không muốn đánh thức em.Cô nhìn lên trần nhà.- Em đã cố gắng nhớ. Chúa ơi. Em không nhớ được bất cứ thứ gì.- Anh cũng vậy. Họ đã dùng khí gas gây mê. Đó là điều Maura nói cho anh biết.Cô nhìn anh:- Vậy anh không thấy chuyện gì đã xảy ra à? Anh không biết Hayder nói thật hay nói dối đúng không?- Anh biết Joe và Olena đã chết.

    Đội cấp cứu đã xem xét hai cái xác.Jane im lặng một lúc, cố nhớ lại những khoảnh khắc cuối cùng lúc ở trong căn phòng. Cô nhớ cảnh Gabriel và Joe đang ngồi đối mặt nói chuyện với nhau. Joe muốn nói với chúng ta điều gì đó, cô nghĩ. Nhưng anh ta không bao giờ có cơ hội để kết thúc...- Có phải kết thúc mọi chuyện theo cách đó không - cô hỏi - Cả hai người có nhất thiết phải bị giết như thế không?Anh đứng dậy, đến bên cửa sổ.

    Nhìn ra ngoài, anh bảo:- Đó là một cách chắc chắn nhất để kết thúc sự việc.- Tất cả chúng ta đều bị bất tỉnh. Giết họ là điều không cần thiết.- Rõ ràng là đội đột kích nghĩ rằng đó là cần thiết.Cô nhìn lưng chồng:- Tất cả những thứ điên rồ mà Joe đã nói, không có gì là thật cả đúng không anh?- Anh không biết.

    - Một con chíp điện tử trong tay Olena đúng không? FBI đang truy đuổi họ phải không? Họ đều là những kẻ hoang tưởng?Anh không trả lời.- Thôi được - cô nói - Nói cho em biết điều anh đang nghĩ.Anh quay người nhìn cô- Sao Barsanti lại ở đây? Anh chưa nhận được câu trả lời thích hợp nào cho việc này.

    - Anh đã kiểm tra ở Văn phòng chưa?- Tất cả những gì anh nhận được từ văn phòng FBI là Barsanti có một nhiệm vụ đặc biệt liên quan đến Tòa án. Không ai nói cho anh biết điều gì khác. Tối qua, lúc nói chuyện với David Silver ở nhà của nghị sĩ Conway ông ta cho biết là ông ta cũng không hề biết là FBI có tham gia trong vụ này.

    - Vậy Joe chắc chắn không tin tưởng FBI?- Và giờ thì anh ta đã chết.Cô nhìn anh.- Anh đang làm em thấy sợ đấy. Anh làm em thấy băn khoăn...Tiếng gõ cửa vang lên làm cô giật mình. Tim đập mạnh cô quay ra nhìn thấy Angela Rizzoli thò đầu vào phòng.- Janie, con dậy chưa? Chúng ta có thể vào thăm được không?- Ôi - Jane cười sung sướng - Chào mẹ.

    - Con bé rất tuyệt, thật sự rất tuyệt! Chúng ta vừa nhìn nó qua cửa kính.Angela bước vào phòng, hồ hởi mang đến cho Jane nước xương hầm và mùi hương nhẹ nhàng mà Jane luôn cho rằng đó là thứ hương thơm tuyệt nhất trên đời: Mùi nhà bếp của mẹ cô. Đi sau vợ mình, Frank Rizzoli bước vào với một bó hoa lớn đến nỗi trông ông như một nhà thám hiểm đang ló đầu ra khỏi khu rừng già.

    - Thế nào con gái?- Con thấy rất khoẻ, bố ạ.- Con nhóc làm ầm ĩ trong phòng trẻ sơ sinh đấy. Nó chắc phải có mấy phổi mất.- Mikey cũng sẽ đến thăm con sau giờ làm - Angela nói - Nhìn xem, mẹ mang đến cho con spaghetti thịt cừu đấy. Con không cần phải nói cho mẹ biết thức ăn ở bệnh viện thế nào.

    Nhưng dù sao thì sáng nay họ đã mang gì cho con - Bà đến khay để đồ ăn, nhấc nắp đậy lên - Chúa ơi, nhìn đám trứng này xem Frank! Trông cứ như cao su vậy! Có phải họ đã cố làm thức ăn như thế này không nhỉ?- Không có chuyện gì với đứa nhỏ cả đúng không - Frank nói với Gabriel - Con gái vẫn là nhất phải không Gabe? Nhưng con sẽ phải trông chừng nó đấy.

    Khi nó mười sáu tuổi con sẽ phải giữ các cậu bé xa xa ra.- Mười sáu ư? Bố ơi. Lúc đó thì con chim phải rời khỏi tổ rồi - Jane nói.- Con đang nói gì? Đừng nói với bố rằng lúc con mười sáu...- Vậy con định gọi nó là gì con yêu? Mẹ không tin là các con vẫn chưa chọn được cái tên nào.

    - Tụi con vẫn đang suy nghĩ về việc đó.- Nghĩ gì chứ? Đặt tên theo tên của bà ngoại con - Regina.- Nhưng con bé có bà ngoại khác, em biết mà - Frank nói.- Thế có ai gọi nó là Ignatia không?- Nó không tốt cho mẹ con.Jane nhìn về phía nơi Gabriel đứng và thấy anh đang dựa vào cửa sổ, mặt đăm chiêu.

    Anh ấy vẫn đang nghĩ về Joseph Roke. Vẫn còn băn khoăn về cái chết của anh ta.Có tiếng gõ cửa, lại một người họ hàng nữa ghé đầu vào.- Chào, Rizzoli - Giọng Vince Korsak - Em lại da bọc xương rồi hả - anh ta bước vào trong mang theo một chùm ba quả bóng bay lơ lửng trên đầu - Thấy thế nào hả ông bà Rizzoli? Chúc mừng những ông bố bà mẹ mới!- Thám tử Korsak - Angela bảo - Anh có đói không? Tôi đã mang đến đây món spaghetti mà Jane rất thích.

    Chúng tôi cũng mang theo cả đĩa giấy nữa đấy.- Ngon đấy, nhưng tôi đang ăn kiêng thưa bà.- Spaghetti thịt cừu đấy.- Ôi, bà đúng là lắm trò, còn cố thuyết phục một người đang ăn kiêng nữa cơ đấy - anh ta nói rồi khua khoắng ngón tay béo mẫm của anh ta trước Angela, cười giả lả.

    Chúa ơi, Jane nghĩ, Korsak đang tán tỉnh mẹ mình kìa. Mình không nghĩ là thích nhìn cảnh này.- Frank, anh lấy giúp em mấy cái đĩa ra được không? Nó ở trong túi đấy.- Mới có 10 giờ sáng thôi mà. Đã đến giờ ăn trưa đâu?- Thám tử Korsak đang đói.- Anh ta vừa nói với bà là anh ta đang ăn kiêng rồi còn gì.

    Sao bà không chịu nghe anh ta nhỉ?Lại một tiếng gõ cửa nữa. Lần này là cô y tá bước vào đẩy theo một chiếc nôi. Xoay chiếc xe đến gần giường của Jane, cô tuyên bố:- Đến lúc thăm mẹ rồi - và bế đứa trẻ lên đặt vào tay Jane.Angele sà đến như chim nhìn thấy mồi.- Ông nhìn này Frank.

    Chúa ơi, nó tuyệt quá. Nhìn cái mặt nhỏ xíu kìa.- Sao mà tôi nhìn được cơ chứ? Bà che hết nó rồi còn đâu.- Nó có cái miệng của mẹ...- Hừm, đấy là một cái để khoe đây.- Janie, con nên thử cho nó ăn đi. Con cần tập trước khi sữa của con tràn ra.Jane nhìn xung quanh phòng với bao nhiêu khán giả quanh giường.

    - Mẹ. Con không thực sự thoải mái với... - Cô ngừng lại nhìn xuống đứa trẻ khi nó đột nhiên hét ầm lên. Giờ mẹ phải làm gì?- Có lẽ con bé muốn nói chuyện. Trẻ con mà, đứa nào chẳng thế.- Cũng có thể nó đói - Korsak gợi ý - Anh cũng thế.Đứa trẻ càng khóc to hơn.- Để mẹ bế nó nào - Angela bảo.

    - Ai mới là mẹ ở đây chứ - Frank bảo - con nó cần tập dần cho quen.- Ông không muốn đứa trẻ cứ khóc mãi chứ?- Có lẽ nó sẽ thôi nếu bà cho ngón tay vào miệng nó. Đấy là điều chúng ta hay làm với con đấy Janie ạ. Giống như thế này...- Đợi đã Frank! Ông đã rửa tay sạch sẽ chưa?Tiếng điện thoại của Gabriel vang lên.

    Jane nhìn chồng khi anh nghe máy và thấy anh nhướn mắt nhìn đồng hồ. Cô nghe thấy anh nói:- Tôi không nghĩ có thể làm ngay bây giờ. Sao cô không làm tiếp mà không có tôi nhỉ?- Gabriel? Ai gọi thế?- Maura. Cô ấy đang bắt đầu mổ khám nghiệm xác của Olena.- Anh nên đến đó.- Anh ghét phải xa em.

    - Không, anh cần ở đó.Đứa trẻ càng khóc dữ hơn. Chân tay khua khoắng như muốn thoát ra khỏi vòng tay mẹ nó.- Một trong hai ta phải ở đó - Jane nói.- Em chắc là em không sao chứ?- Nhìn mọi người quanh đây xem, em sẽ ở đây, không đi đâu đâu. Đi đi.Gabriel cúi xuống hôn cô- Anh sẽ gặp em sau.

    Yêu em.- Không tưởng tượng nổi - Angela lắc đầu không đồng ý khi thấy Gabriel rời phòng - Mẹ không tin được.- Gì hả mẹ?- Nó bỏ vợ và đứa con mới sinh để chạy đi xem một cái xác được cắt xẻ sao?Jane cúi nhìn đứa nhỏ đang khóc, mặt đỏ lên. Cô thở dài. Con chỉ ước mình có thể đi cùng anh ấy.

    Lúc Gabriel mặc áo khoác, bọc giầy và bước vào phòng khám ngiệm thì Maura đã mổ xong lồng ngực và đang xem xét khoang ngực. Cô và Yoshima không nói với nhau câu nào trong khi cô đang cắt những mạch máu và dây chằng để giải phóng tim và phổi của cái xác. Cô làm việc trong im lặng, đôi mắt không thể hiện chút cảm xúc nào.

    Nếu Gabriel không biết cô thì chắc anh sẽ gai người khi nhìn thấy cô như vậy.- Anh đến rồi đấy à - Maura nói.- Tôi có lỡ chuyện gì quan trọng không?- Chưa có gì đáng ngạc nhiên cả - Cô nhìn xuống Olena - Cùng một căn phòng, cùng một cái xác. Thật lạ là đây là lần thứ hai tôi nhìn thấy người phụ nữ này chết.

    Lần này cô ấy chết thật, Gabriel nghĩ.- Jane thế nào?- Cô ấy khỏe. Lúc này thì hơi khó chịu một chút vì các vị khách, tôi nghĩ thế.- Thế còn đứa trẻ - cô hỏi khi thả buồng phổi màu hồng vào trong chậu. Buồng phổi này sẽ không bao giờ còn chứa khí và máu nữa.- Rất đẹp.

    Bốn cân, hai lạng, mười ngón tay và mười ngón chân. Trông nó rất giống Jane.Lần đầu tiên thấy trong mắt Maura ánh lên nụ cười.- Tên nó là gì?- Lúc này thì vẫn là "cô bé Rizzoli Dean".- Tôi mong nó sẽ sớm thay đổi.- Tôi không biết. Tôi đang thấy bắt đầu thích âm thanh của nó rồi.

    Thật không phải khi lại nói đến những chuyện vui mừng hạnh phúc như thế khi một người chết đang nằm trước mắt họ. Anh nghĩ tới đứa con gái nhỏ của mình khi vừa hít thở luồng khí đầu tiên, khi vừa chào đời cũng là lúc cơ thể Olena lạnh ngắt.- Chiều nay tôi sẽ ghé bệnh viện để thăm cô ấy - Maura bảo - hay là cô ấy đã chán ngấy với các vị khách rồi?- Tin tôi đi, cô sẽ là một trong số những người được chào đón thực sự.

    - Thám tử Korsak đến đó chưa?- Bóng bay rồi tất cả mọi thứ. Bác Vince già tốt bụng.- Đừng có nhạo anh ta. Biết đâu anh ta lại tình nguyện làm người trông trẻ thì sao?- Đúng thứ một đứa trẻ cần. Ai đó dạy nó cách ợ cho thật to.- Korsak là một người tốt. Rất tốt - Maura cười.

    - Ngoại trừ một điều là anh ta yêu vợ tôi.Maura đặt dao xuống, nhìn Gabriel.- Anh ta muốn cô ấy được hạnh phúc. Và anh ta có thể nhìn thấy cả hai người đều như vậy - Cầm lại con dao cô nói thêm - Anh và Jane làm cho tất cả chúng tôi hy vọng.Tất cả chúng tôi? Ý là những người còn độc thân trên thế giới này đấy, anh nghĩ.

    Cách đây ít lâu anh cũng là một trong số đó mà.Anh nhìn cô đang xem xét kỹ lưỡng từng mạch vành. Cô làm rất điềm tĩnh, thậm chí ngay khi cầm trái tim của một xác chết trong tay cô cũng như vậy. Chiếc dao rạch một đường trên tim. Cô dùng máy dò, cân và đo. Còn Maura Isles dường như cố khóa chặt cánh cửa trái tim mình.

    Anh nhìn gương mặt người phụ nữ mà mọi người chỉ biết mỗi cái tên Olena. Vài giờ trước mình đang nói chuyện với cô ấy, anh nghĩ. Đôi mắt này đang nhìn mình. Thế mà bây giờ nó mờ đục, vô tri vô giác. Máu đã được gột sạch, viên đạn đã làm thành một lỗ thương màu hồng trên thái dương bên trái.

    - Trông như án tử hình ấy.- Còn những vết thương khác ở hông bên trái nữa - cô nói rồi chỉ vào tấm phim chụp X- quang - đúng vào xương sống.- Nhưng vết thương ở đây - anh nhìn xuống mặt cô gái - đây mới là phát gây tử vong.- Đội đột kích rõ ràng đã không cho họ cơ hội nào.

    Joseph Roke cũng bị bắn vào đầu.- Cô làm khám nghiệm rồi à?- Bác sĩ Bristol đã làm xong một giờ trước.- Tại sao lại phải giết họ. Họ đang bình tĩnh lại. Tất cả chúng tôi đều đang bình tĩnh giải quyết tình hình.Maura nhìn đống phổi đang để trên bàn.- Họ có thể cuốn thuốc nổ quanh người để tự nổ.

    - Nhưng không có thuốc nổ. Những người này không phải quân khủng bố.- Đội giải cứu không hiểu điều đó. Hơn nữa có một mối quan tâm là lượng khí gas gây mê họ dùng. Anh có biết loại khí gây mê đã được dùng trong vụ nhà hát Matxcơva không?- Có.- Ở Matxcơva, nó đã gây rất nhiều nguy hại, và ở đấy cũng thế.

    Thế mà họ lại dùng một thứ tương tự như vậy cho một phụ nữ đang mang thai. Bào thai sẽ không chịu được lâu. Vì thế cuộc đột kích phải thật nhanh gọn. Chắc đó là cách họ kết thúc vụ này.- Vậy có nghĩ họ nói rằng việc nổ súng là cần thiết.- Đấy là điều mà trung úy Stillman đã được nói cho biết.

    Cảnh sát Boston không có bất cứ vai trò nào trong kế hoạch đột kích cũng như thi hành nó.Quay nhìn mấy phim chụp X- quang đang được treo trên cao, Gabriel hỏi cô:- Cái này là của Olena à?- Đúng thế.Anh lại gần để nhìn cho rõ. Anh thấy có một vết trên hộp sọ.- Cái hình dấu phẩy ở đây là gì thế?- Đó là một mảnh vỡ bị mắc giữa hộp sọ và da đầu.

    Một mảnh chì bị rơi ra khi đạn va vào xương.- Chúng ta có biết thành viên nào của đội đột kích đã bắn phát đạn vào đầu này không?- Cả Hayder cũng không có danh sách tên của họ. Đến khi đội hiện trường đến để xem xét thì cả đội đột kích đã đang trên đường trở về Washington rồi.

    Họ dọn sạch tất cả mọi thứ trước khi đi. Vũ khí, vỏ đạn, tất cả. Họ còn lấy cả chiếc túi mà Joseph Roke đã mang vào trong tòa nhà. Họ chỉ để lại cho chúng ta những cái xác.- Đấy là cách thế giới vận hành bây giờ đấy Maura ạ. Lầu Năm Góc có quyền hành cử những đội quân của mình đến bất cứ thành phố Mỹ nào.

    - Tôi sẽ nói với anh vài điều - cô đặt con dao xuống rồi nhìn anh - Điều này làm tôi rất lo ngại.Máy liên lạc nội bộ kêu. Maura ngước lên khi thấy cô thư ký nói qua ống nghe:- Bác sĩ Isles, mật vụ Barsanti đang ở đầu dây. Ông ấy muốn nói chuyện với chị.- Cô đã nói gì với ông ta.

    - Không gì cả.- Tốt. Hãy nói là tôi sẽ gọi cho ông ta sau - cô dừng lại - Khi nào tôi có thời gian.- Chị biết là ông ấy đang cáu đấy.- Vậy thì cô không cần phải lịch sự với ông ta nữa - Maura nhìn Yoshima - Chúng ta hãy làm cho xong trước khi lại bị can thiệp lần nữa.Cô làm việc với phần ổ bụng, lấy ra ngoài gan, các lá lách và một chuỗi dài ruột.

    Tiếp tục với phần dạ dày cô thấy bên trong hoàn toàn trống không, chỉ có ít chất màu xanh còn bám lại trên thành. Gan, lá lách, tất cả đều bình thường - cô ghi chú. Gabriel nhìn dạ dày trống trơn và chợt nghĩ mình cũng đang trong tình trạng như thế. Nhìn xuống mặt Olena anh nghĩ: Một khi bạn đã bị mổ xẻ bên dưới lớp da thì kể cả những người phụ nữ đẹp nhất cũng giống như những người khác.

    Một đống các cơ quan nội tạng nằm sau lớp cơ bắp.- Được rồi - Maura nói khi cô nhìn sâu hơn vào trong các khoang - Tôi có thể thấy nơi những viên đạn khác đi qua. Nó sượt qua xương sống và có hiện tượng chảy máu trong. Anh có thể treo những tấm phim chụp phần bụng và phần ngực lên không? Để tôi kiểm tra vị trí của hai viên đạn kia.

    Yoshima tháo những tấm phim trước ra và treo những tấm phim Maura yêu cầu lên. Những hình ảnh lờ mờ của tim và phổi hiện lên phía sau những rẻ xương ức. Qua các bộ phận nội tạng có thể thấy viên đạn nằm như một điểm sáng trên xương sống.Gabriel nhìn tấm phim một lát rồi đột nhiên nhớ ra điều Joe đã nói với anh trong bệnh viện.

    - Không có phim chụp cánh tay à - anh nói.- Trừ trường hợp đặc biệt còn không chúng tôi ít khi chụp chân tay - Yoshima nói.- Có lẽ anh nên làm.- Tại sao - Maura ngước nhìn.Gabriel quay lại chỗ chiếc bàn, kiểm tra cánh tay trái của nạn nhân rồi bảo:- Nhìn vết khâu này mà xem.

    Cô nghĩ thế nào về nó?Maura lại gần để kiểm tra cánh tay.- Tôi có thể thấy nó, ngay bên trên cùi chỏ. Được khâu rất tốt. Tôi không thấy có bất cứ điều gì lạ. Thế nó làm sao - cô quay sang hỏi Gabriel.- Joe đã nói cho tôi một chuyện. Tôi biết là nghe có vẻ điên rồ nhưng...- Chuyện gì?- Anh ta nói rằng một con chip điện tử đã được cấy trong cánh tay của cô ta.

    Ngay ở đây, bên dưới da để lần theo dấu vết của cô ta.Maura nhìn anh một hồi. Đột nhiên cô cười.- Nghe có vẻ không bình thường lắm.- Tôi biết, tôi biết là nó như thế mà.- Một cách cổ điển. Chính phủ cấy chip điện tử.Gabriel quay nhìn phim X- quang lần nữa:- Cô có biết tại sao Barsanti lại rất nôn nóng chuyển những cái xác đi không? Ông ta nghĩ cô sẽ tìm ra được điều gì chăng?Maura im lặng nhìn cánh tay của Olena.

    - Tôi có thể chụp phim cánh tay ấy ngay bây giờ, chỉ mất một vài phút thôi mà - Yoshima bảo.- Nó chắc chắn sẽ tốn thời gian nhưng giờ chúng ta phải giải quyết các nghi vấn ngay lập tức - Maura thở dài tháo găng tay ra.Trong nắng chiều, Maura và Gabriel đứng bên cửa sổ nhìn ra ngoài trong khi chờ Yoshima chụp phim cánh tay.

    Maura nói đúng, Gabriel nghĩ. Cái này có thể sẽ rất mất thời gian. Nhưng anh phải khẳng định chắc chắn đó là sự thật hay chỉ ảo tưởng. Anh thấy Maura liếc nhìn đồng hồ trên tường. Anh biết là cô đang muốn mau mau kết thúc việc cắt xẻ này. Còn một phần quan trọng trong việc khám nghiệm là phần đầu và cổ vẫn chưa làm được.

    Lúc Yoshima đi vào phòng mình Maura bảo.- Được rồi, anh ấy xong rồi. Quay lại với công việc của chúng ta thôi.Maura đeo một đôi găng tay mới rồi đi lại chỗ bàn xác. Cô cầm dao rạch một đường trên mái tóc đen. Thật kinh hãi khi phải chứng kiến một cô gái đẹp lại phải như thế này.

    Bằng một đường cắt ngọt Maura lôi tảng da đầu lật úp lên mặt cô gái.Yoshima xuất hiện.- Tiến sĩ Isles.- Phim chụp xong chưa?- Xong rồi. Và có thứ gì đó ở đây.- Gì cơ - Maura liếc nhìn.- Cô có thể thấy nó ở dưới lớp da - anh ta nói rồi treo tấm phim lên - Là cái này - anh chỉ vào tấm phim.

    Maura đến bên tấm phim để nhìn cho rõ. Cô lặng người khi nhìn thấy một mảnh màu trắng nằm giữa các mô. Đây không phải là tự nhiên.- Cái này là do con người tạo ra - Gabriel nói - Cô có nghĩ là...- Nó không phải một con chip - Maura bảo.- Có gì đó ở đấy mà.- Nó không phải bằng kim loại.

    Nó không đủ đặc.- Vậy chúng ta đang thấy gì?- Hãy tìm ra nó - Maura nói rồi quay lại chỗ cái xác, cầm dao lên.Cô rạch một đường sâu qua lớp da, thẳng vào các cơ. Bệnh nhân này chắc sẽ chẳng phàn nàn về một vết cắt xấu như thế trên cánh tay mình hay thấy đau đớn sau tất cả những thứ cô đã phải chịu từ nãy tới giờ.

    Nó chỉ là một vết cắt trên một phần thịt đã mất cảm giác.Maura lấy một cái kẹp và ấn nó vào trong vết cô vừa cắt. Lúc cô bỏ thanh kẹp ra ngoài cô kêu lên một tiếng có vẻ hài lòng.- Tôi biết đây là cái gì - cô nói và đặt vật vừa gắp được lên chiếc khay - Đây là một ống Silastic.

    Nó đã ở sâu hơn so với bình thường mà thôi. Nó được tóm gọn lại bởi vết khâu. Đấy là lý do tại sao tôi không cảm thấy nó qua da và chúng ta đã phải chụp X- quang để thấy nó.- Cái đó để làm gì?- Không có gì cả. Ống này có chứa một hóc môn làm ngăn sự rụng trứng.- Một kiểu để tránh thai?- Đúng vậy.

    Giờ thì ta ít thấy cách làm này. Sản phẩm này đã không được dùng ở Mỹ nữa.Điện đàm lại kêu.- Tiến sĩ Isles - lại là giọng Louise - Chị có một cuộc gọi.- Cô bảo họ để lại lời nhắn được không?- Tôi nghĩ lần này chị phải nghe máy rồi. Đó là Joan Anstead từ văn phòng chính phủ.

    Maura ngẩng đầu lên. Cô nhìn Gabriel và lần đầu tiên anh thấy vẻ bực bội trong mắt cô. Cô đặt dao xuống, tháo găng tay rồi đến nhấc ống nghe.- Tiến sĩ Isles đây.Dù Gabriel không nghe được cuộc đối thoại giữa hai người nhưng qua các cử chỉ của Maura anh biết đó không phải là một cuộc gọi được mong đợi.

    - Vâng, tôi vừa mới bắt đầu. Đó là quyền hạn của chúng tôi. Tại sao FBI lại cho rằng họ có thể... - Một hồi im lặng. Maura quay mặt vào tường đứng yên lặng - Nhưng tôi phải làm cho xong khám nghiệm. Tôi vừa định mở hộp sọ. Nếu cô có thể cho tôi thêm khoảng nửa giờ nữa... - Lại im lặng.

    Sau đó là giọng lạnh lùng - Tôi hiểu. Chúng tôi sẽ sẵn sàng cho việc di chuyển trong một giờ - Cô gác máy. Hít một hơi sâu cô quay nói với Yoshima:- Đóng xác cô ấy lại. Họ cũng muốn lấy cả xác của Joseph Roke nữa.- Chuyện gì vậy - Yoshima hỏi.- Họ sẽ được chuyển đến phòng thí nghiệm của FBI.

    Họ muốn có tất cả, tất cả nội tạng và các mô. Mật vụ Barsanti sẽ chịu trách nhiệm giám sát.- Chuyện này chưa từng xảy ra trước đây.Cô tháo khẩu trang và cởi áo khoác ngoài. Cô bực tức ném hết mấy thứ đó vào thùng rác rồi nói:- Lệnh được gửi trực tiếp từ văn phòng chính phủ.


  3. #22
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 22
    Jane giật mình tỉnh dậy, mọi cơ bắp đều mỏi nhừ. Cô nhìn thấy bóng tối, nghe tiếng xe chạy dưới đường phía dưới và cả tiếng thở đều đều của Gabriel bên cạnh. Mình đang ở nhà, cô nghĩ. Mình đang nằm trên giường của mình, trong căn hộ của mình. Tất cả chúng ta đều an toàn.

    Cả ba chúng ta. Cô hít một hơi sâu và đợi cho tim đập lại bình thường. Chiếc áo ngủ đẫm mồ hôi giờ bám vào da lạnh cóng. Nhưng thực tế là những cơn ác mộng vẫn chưa hết. Nó vẫn bám lấy cô và làm cô phải hét lên trong giấc ngủ. Cô quay mặt vào chồng, cố tìm hơi ấm của anh và mùi hương quen thuộc dễ chịu.

    Nhưng vừa vòng tay đặt lên eo anh thì cô nghe tiếng đứa trẻ khóc trong phòng bên cạnh. Ôi, xin đấy, cô nghĩ. Mẹ mới cho con ăn cách đây ba giờ thôi mà. Cho mẹ thêm hai mươi phút nữa đi. Hai mươi phút thôi. Hãy để mẹ nằm trên giường thêm chút nữa. Để mẹ rũ bỏ hết cái giấc mơ tồi tệ này đã.

    Nhưng tiếng khóc càng to hơn nữa, khóc như xé da xé thịt.Jane dậy ra khỏi giường, dò dẫm trong bóng tối rồi ra khỏi phòng, đóng cửa cẩn thận để Gabriel không bị đánh thức.Cô bật đèn trong phòng cho trẻ và nhìn gương mặt đang đỏ lên vì gào thét của con gái. Mới có ba ngày tuổi mà con đã làm mẹ mệt phờ rồi, Jane nghĩ rồi cúi xuống bế đứa nhỏ lên.

    Cô thấy cái miệng tham lam đang đòi được bú. Jane ngồi xuống ghế, vạch áo cho con bú nhưng bú mẹ chỉ là sự thỏa mãn nhất thời. Bất kể có cho nó bú thế nào, ru nó ra sao, nựng nịu nó ngọt ngào đến mức nào thì đứa trẻ vẫn ngọ nguậy giãy giụa không chịu yên. Mình đã làm gì sai chứ, cô băn khoăn khi nhìn xuống đứa trẻ đang cau có kia.

    Sao mình lại lóng ngóng thế nhỉ? Hiếm khi Jane cảm thấy thiếu tự tin nhưng từ ba ngày nay đứa trẻ đã làm cô có cảm giác mình thật vô dụng. Bốn giờ sáng cô gọi cho mẹ để được tư vấn những kinh nghiệm làm mẹ. Những kinh nghiệm được xem là tự thân đã có trong mỗi người mẹ, thế mà Jane đã phải học khổ sở.

    Đừng khóc nữa con gái, đừng khóc nữa, mẹ xin đấy, Jane nghĩ. Mẹ mệt lắm rồi. Mẹ chỉ muốn được quay lại giường ngủ thôi. Thế mà con không chịu. Mẹ cũng không biết làm thế nào để con ngủ cả.Cô đứng dậy đi lại trong phòng, vừa đi vừa ru đứa trẻ. Con bé muốn gì nhỉ? Sao nó cứ khóc hoài thế? Cô bế con đi vào bếp, đứng ru con và thấy mình kiệt sức.

    Cô nghĩ về khoảng thời gian trước khi làm mẹ, trước cả khi có Gabriel. Lúc đó cô có thể trở về nhà sau giờ làm, bật một lon bia và ngồi uống ngay trên giường. Cô yêu con gái, cô cũng yêu chồng mình nhưng cô thấy rất mệt mỏi và cô không biết đến lúc nào thì mình có thể bò vào giường.

    Đêm vẫn ở trước mặt và thử thách này không biết lúc nào mới hết.Mình không thể chịu nổi nữa. Mình cần giúp đỡ.Cô mở tủ bếp và nhìn đống đồ dành cho trẻ mà bệnh viện phát miễn phí. Đứa trẻ khóc to hơn. Cô không biết phải làm gì khác. Bực mình, cô với lấy một cái chai.

    Cô đổ sữa bột vào trong bình dành cho trẻ, đổ nước rồi đặt lên bếp cho ấm. Nó là biểu tượng của sự thất bại của người mẹ.Lúc cô đưa bình sữa ra đôi môi hồng ngậm chặt chiếc núm bình bằng cao su và bắt đầu ngấu nghiến mút. Không cau có, không giãy giụa, chỉ có những tiếng động vui vẻ của một đứa trẻ đang mút sữa.

    Oa. Đúng là phép thuật.Kiệt sức. Jane ngồi xuống ghế. Mình thất bại rồi, cô nghĩ khi thấy chiếc bình dần cạn. Chiếc bình đã thắng. Cô nhìn qua cuốn sách Đặt tên cho con của bạn đang để trên bàn bếp. Nó đang mở đến vần L vì lúc trước cô đang dò tìm tên cho con gái. Đứa trẻ đã từ viện về nhà mà vẫn chưa có tên.

    Với tay lấy quyển sách mà trong lòng cô có cảm giác thất vọng.Con là ai hả nhóc con? Nói cho mẹ tên của con nào.Nhưng cô con gái chẳng tỏ ý gì về bí mật của mình cả, nó vẫn còn đang bận ngậm cái núm vú giả.Laura? Laurel? Laurelia? Quá ủy mị. Đứa trẻ này không phải người như thế.

    Nó thích phá quấy thế cơ mà.Cái chai đã cạn được phân nửa.Lợn con. Cái tên này nghe có vẻ hợp đấy.Jane lật đến trang vần M. Cô nhìn qua một loạt tên, xem xét các khả năng rồi nhìn xuống đứa trẻ trong tay.Mercy? Meryl? Mignon? Chẳng cái nào hợp cả. Cô lật sang trang bên, mắt cô đã quá mỏi, khó mà tập trung được.

    Sao chuyện này lại khó thế nhỉ? Đứa trẻ cần một cái tên, vậy thì cứ chọn lấy một cái. Mắt cô lướt xuống cuối trang rồi dừng lại.Mila.Cô chợt thấy rùng mình, nhìn cái tên chằm chằm. Cơn ớn lạnh dọc xương sống. Cô thấy mình đọc to cái tên.Mila.Căn phòng đột nhiên như lạnh hơn như kiểu có con mèo nào vừa mở cửa ghé vào đứng ngay sau cô vậy.

    Cô không thể không liếc nhìn ra phía sau. Run rẩy, cô đứng dậy bế đứa nhỏ đã ngủ ngon lành quay lại nôi. Nhưng cảm giác lạnh người vẫn chưa hết. Vào phòng con gái, cô ngồi xuống ghế, ôm lấy mình cố gắng tìm hiểu xem tại sao mình lại run như vậy. Nhìn thấy cái tên Mila đã làm cô đột nhiên trở nên như thế.

    Đứa trẻ vẫn ngủ còn cô thì vẫn còn run.- Jane?Giật mình, cô quay lại thấy Gabriel đang đứng cạnh cửa.- Sao em không đi ngủ?- Em không thể ngủ nổi - cô lắc đầu - Em không biết là đang có chuyện gì với mình nữa.- Anh nghĩ là vì em mệt quá đấy thôi.Anh bước vào phòng hôn lên tóc cô rồi bảo:- Em nên quay lại giường ngủ đi.

    - Chúa ơi, em quá tệ trong chuyện này.- Em đang nói chuyện gì?- Không ai nói cho em biết là nó lại khó khăn như thế. Những chuyện của bà mẹ ấy. Thậm chí em còn chẳng thể cho nó bú nữa. Ngay cả những con mèo ngu ngốc nhất cũng biết cho con mình bú thế mà em thì... Em thật vô dụng.

    Nó cứ làm ầm lên thôi.- Có vẻ giờ nó đã ngủ ngon lành rồi đấy.- Đó là vì em cho nó uống sữa bình. Từ một cái bình - Cô sụt sịt - Em không biết phải làm thế nào nữa. Nó đói và hét ầm lên trong khi em chỉ ngồi đây. Ai mà cần một bà mẹ khi mà con mình lại thích sữa Similac chứ?- Ôi, Jane.

    Đấy là thứ làm cho em buồn đấy hả?- Không đùa đâu.- Anh có cười đâu.- Nhưng giọng anh nói lên điều đó. - Thật quá ngu ngốc để tin điều này.- Anh nghĩ em quá kiệt sức đấy thôi. Em phải dậy mấy lần rồi?- Hai lần. À, không, ba lần. Chúa ơi, giờ thì em chẳng còn nhớ được nữa.

    - Em nên gọi anh dậy chứ? Thậm chí anh còn chẳng biết là em đã dậy nữa.- Nó không phải chỉ là vì đứa trẻ. Nó còn là... - Jane ngừng lời, nói nhỏ hơn - còn là vì những giấc mơ nữa.Anh kéo một chiếc ghế lại gần cô và ngồi xuống.- Em đang nói về những giấc mơ gì?- Cùng một giấc mơ nhưng cứ luôn lặp lại về cái đêm ở trong bệnh viện ấy.

    Trong mơ em biết có điều gì đó rất kinh khủng đã xảy ra nhưng em không thể di chuyển, không thể nói được. Em có thể cảm nhận được máu trên mặt mình, em có thể ngửi thấy nó. Em sợ đến nỗi... Em sợ chết đi được vì em nghĩ đó là máu của anh.- Mới có ba ngày thôi mà Jane. Em vẫn còn đang trong quá trình hồi phục.

    - Em chỉ muốn nó biến đi thôi.- Em cần có thời gian để vượt qua được những cơn ác mộng đó. Cả hai chúng ta.Cô nhìn gương mặt mệt mỏi của chồng, cằm lởm chởm râu.- Anh cũng mơ thấy đúng không?Anh gật đầu.- Anh đã không nói cho em biết.- Chúng ta không gặp ác mộng mới lạ chứ?- Giấc mơ của anh là về cái gì?- Em, đứa trẻ... - anh ngừng lại, mắt nhìn đi chỗ khác - anh không muốn nói về điều này chút nào.

    Họ cùng yên lặng, không ai nhìn ai. Cách đó một quãng đứa trẻ đang ngủ ngon lành trong nôi. Nó là thành viên duy nhất trong gia đình không có những cơn ác mộng. Đây chính là điều tình yêu làm cho ngươi, Jane nghĩ. Nó làm mình lo sợ, không phải dũng cảm. Nó nhe những chiếc răng độc để chỉ chờ có cơ hội là cắn vào cuộc sống của ngươi.

    Gabriel rướn người cầm tay cô và nói:- Đi nào em yêu. Đi ngủ thôi.Họ tắt đèn trong phòng trẻ sơ sinh, đi trong bóng tối về phòng ngủ của mình. Trong chiếc chăn lạnh anh ôm lấy cô. Màn đêm đã chuyển sang màu xám bên ngoài cửa sổ, những âm thanh của bình minh cũng đang bắt đầu.

    Với một cô gái sinh ra trong thành phố thì những tiếng xe tải chở rác, tiếng còi xe thân quen như lời hát ru vậy. Boston cựa mình thức giấc cũng là lúc Jane chìm vào giấc ngủ.Cô bị đánh thức bởi tiếng hát. Cô đã nghĩ không biết đấy có phải một giấc mơ khác nữa không, một giấc mơ hạnh phúc hơn nhiều.

    Nó gợi lại những kỉ niệm từ thời thơ bé. Cô mở mắt thấy ánh mặt trời lấp lánh. Cũng phải 2 giờ chiều rồi, Gabriel đã đi.Cô ra khỏi giường đi chân trần xuống bếp. Cô dừng lại ở ngưỡng cửa, ngạc nhiên vì thấy mẹ - Angela đang ngồi ở bàn bếp ăn sáng với đứa trẻ trong tay.

    Angela nhìn cô con gái:- Hai bình rồi đấy. Con bé này có vẻ biết cách ăn đây.- Mẹ. Mẹ ở đây rồi à?- Mẹ có làm con thức giấc không? Mẹ xin lỗi nhé.- Mẹ đến khi nào?- Vài giờ trước. Gabriel nói con cần được ngủ.Jane cười ngượng ngịu:- Anh ấy đã gọi cho mẹ à?- Thì nó còn có thể gọi cho ai được nữa? Con còn có bà mẹ nào khác nữa à?- Không, con chỉ... - Jane ngồi phịch xuống ghế dụi mắt - Con vẫn chưa tỉnh hẳn.

    Anh ấy đâu rồi ạ?- Nó mới đi ít phút trước. Nhận được điện thoại của thám tử Moore thế là đi luôn.- Cuộc gọi là về cái gì thế ạ?- Mẹ không biết. Chắc lại mấy việc của cảnh sát. Cà phê mới pha ở đây nè. Con nên gội đầu đi. Trông con cứ như người sống trong hang vậy.

    Lần gần đây nhất con ăn là khi nào?- Bữa tối ạ, con nghĩ thế. Gabriel mang về đồ Trung Quốc.- Đồ Trung Quốc ư? Không no đâu. Tự làm bữa sáng đi nhé, uống chút cà phê. Mẹ phải dọn dẹp vài thứ ở đây.Vâng thưa mẹ. Mẹ lúc nào cũng vậy.Jane vẫn chưa đứng dậy khỏi ghế mà ngồi nhìn Angela đang ẵm đứa nhỏ với đôi mắt mở to trong tay.

    Cô nhìn bàn tay bé xíu giơ lên chạm vào mặt Angela.- Mẹ làm cách nào vậy?- Chỉ cho nó ăn thôi. Hát cho nó nghe. Nó thích được chú ý.- Không, ý con là mẹ làm thế nào để nuôi được ba anh em chúng con? Con không bao giờ có thể biết được sẽ khó khăn thế nào khi phải sinh ba đứa con trong năm năm.

    Mà nhất là một trong ba đứa lại là Frankie - cô cười.- Ha! Anh trai con không phải đứa khó nuôi nhất đâu mà chính là con đấy.- Con á?- Lúc nào cũng khóc. Cứ ba tiếng lại tỉnh. Với con không có định nghĩa ngủ ngoan như một đứa trẻ. Frankie thì bò xung quanh đống tã còn con, mẹ phải thức suốt đêm để ru.

    Bố con chẳng giúp được gì cả. Con là may đấy vì Gabriel còn cố làm bổn phận của mình. Nhưng bố con thì... Ông ấy nói ông ấy sợ mùi tã lót. Mùi ấy làm ông ấy phát nôn vì thế chẳng bao giờ ông ấy chạm vào cả. Cứ như thể mẹ có quyền chọn vậy. Cứ sáng dậy là ông ấy đến sở làm, để mẹ với hai đứa ở nhà, Mikey trong bụng.

    Frankie động tay vào tất cả mọi thứ còn con thì khóc váng cả đầu.- Sao con lại khóc nhiều như thế nhỉ?- Một số đứa trẻ sinh ra đã là những nhà chuyên gào thét rồi. Chúng không muốn bị lờ đi.Vậy đấy, thế là giờ mình đã có thể giải thích được rồi, Jane nghĩ và nhìn con gái cô.

    Đáng đời mình. Mình thấy mình trong chính con gái.- Vậy mẹ làm thế nào? Vì con cũng đang gặp rắc rối với điều ấy đây. Con không biết làm gì nữa.- Con chỉ cần làm những thứ như mẹ đã làm khi mẹ thấy điên lên. Lúc mẹ thấy không thể ở trong nhà thêm một giây phút nào nữa.

    - Mẹ đã làm gì?- Mẹ nhấc điện thoại rồi gọi cho bà con - Angela nhìn Jane - Con hãy gọi cho mẹ Janie. Đấy là lý do sao mẹ ở đây. Chúa tạo ra các bà mẹ trên trái đất này là vì thế mà. Mẹ không nói là phải mất cả làng mới nuôi được một đứa trẻ đâu nhé - bà cúi xuống gần đứa trẻ hơn - Nhưng chắc chắn có bà bao giờ cũng tốt hơn nhóc nhỉ?Jane nhìn Angela thủ thỉ với con nhóc mà nghĩ: Ôi mẹ, con chưa bao giờ nhận ra được con cần mẹ nhường nào.

    Chúng ta có bao giờ không cần mẹ không nhỉ?Chớp mắt cho nước mắt khỏi trào ra, Jane đứng dậy đến bình pha cà phê rót cho mình một tách. Đứng nhâm nhi cà phê, cô vặn người cho đỡ mỏi. Lần đầu tiên trong ba ngày qua cô thấy mình được nghỉ ngơi một chút, được trở về là chính mình.

    Tất cả giờ đều đã thay đổi, cô nghĩ. Giờ mình đã làm mẹ.- Con là đẹp nhất đúng không cún con Regina?Jane nhìn mẹ:- Tụi con chưa đặt tên cho con bé mà.- Thì con phải gọi nó là gì chứ? Sao không lấy tên của bà?- Nó phải hợp với con nữa chứ. Nếu con bé cần một cái tên để theo suốt cuộc đời con muốn cái tên phải thật phù hợp với nó.

    - Regina là một cái tên đẹp mà. Nó có nghĩa là nữ hoàng đấy.- Con có ý khác được không?- Thế con định đặt cho nó tên gì?Jane chỉ cuốn sách đặt tên trên giá. Cô vừa uống cà phê vừa lật các trang sách, lại có cảm giác thất vọng. Cô nghĩ mình mà không chọn được cái nào nhanh thì nó sẽ mang tên Regina mất.

    Yolanthe. Yseult. Zerlena.Ôi, chết tiệt. Regina nghe vẫn hay hơn nhiều. Một bà hoàng con nít.Cô đặt quyển sách xuống, nhướn mày nhìn nó một chút sau đó lại cầm lên và lật đến vần M, tới cái tên đã đập vào mắt cô tối qua.Mila.Một lần nữa cô lại thấy lạnh dọc xương sống.

    Mình biết mình đã nghe cái tên này ở đâu rồi, cô nghĩ. Sao nó lại làm cho mình rùng mình thế nhỉ? Mình cần phải nhớ lại xem. Nó rất quan trọng, mình nhớ là…Chuông điện thoại kêu làm cô giật mình. Cô làm rơi cuốn sách xuống sàn.- Con không định trả lời à - Angela ngước mắt hỏi.

    Jane hít một hơi rồi nhấc ống nghe. Là Gabriel.- Anh hy vọng là mình không đánh thức em.- Không đâu. Em đang uống cà phê với mẹ.- Anh đã gọi cho mẹ, không sao chứ?Cô nhìn sang Angela, bà đang bế đứa trẻ vào phòng thay tã.- Anh thật sáng suốt. Em đã dặn anh như thế à?- Anh nghĩ anh nên gọi mẹ thường xuyên hơn.

    - Em đã ngủ suốt tám tiếng. Em không thể tin được nó khác như thế nào. Đầu óc em giờ lại tỉnh táo như thường rồi.- Vậy là em đã sẵn sàng để đối mặt với điều này rồi.- Chuyện gì thế anh?- Moore gọi cho anh ít phút trước.- Vâng, em biết rồi.- Bọn anh giờ đang ở Schroeder Plaza.

    Một vỏ đạn với những dấu hiệu đặc biệt. Nó có trong dữ liệu của ATF.- Vỏ đạn anh nhắc tới là vỏ đạn nào?- Vỏ đạn từ phòng bệnh của Olena. Sau khi cô ấy bắn viên bảo vệ thì một vỏ đạn đã được tìm thấy ở hiện trường.- Anh ta đã bị giết bởi chính súng của mình.

    - Và bọn anh đã tìm ra khẩu súng đó được dùng trước đây.- Khi nào? Ở đâu?- Ngày mùng 3 tháng 2. Một vụ giết người hàng loạt ở Ashburn, Virginia.Cô đứng lặng người, ống nghe sát vào tai đến mức cô có cảm giác cô nghe được cả tiếng tim mình đập trong đó. Ashburn. Joe muốn nói cho chúng ta biết về Ashburn.

    Angela quay lại bếp, vẫn ẵm đứa trẻ với mái tóc đen cong lên như một vòng vương miện. Regina - đứa trẻ nữ hoàng. Cái tên tự nhiên lại thấy rất hợp với nó.- Chúng ta biết được gì về vụ giết người hàng loạt đó - Jane hỏi.- Moore có hồ sơ ở đây.Cô quay nhìn mẹ:- Mẹ à, con cần đi ra ngoài một lát.

    Không sao chứ ạ?- Con cứ đi đi. Bà cháu mình rất vui được ở cùng nhau phải không Regina? - Angela cúi xuống nựng nựng vào mũi đứa nhỏ - Lát nữa mình sẽ đi tắm đúng không?Jane bảo Gabriel:- Đợi em hai mươi phút nữa. Em sẽ tới ngay đấy.- Thôi, gặp nhau ở chỗ khác đi.- Tại sao?- Bọn anh không muốn nói chuyện đó ở đây.


  4. #23
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 23
    Cô không tốn thời gian trang điểm, thậm chí cả tắm táp. Cô mặc bộ đồ đầu tiên cô lấy ra được khỏi tủ: một chiếc quần thụng cho bà bầu, một chiếc áo phông với hàng chữ MOM COP thêu đằng trước mà một người đồng nghiệp đã tặng. Ngồi trong xe rồi cô mới tranh thủ cho vào bụng hai lát bánh nướng.

    Cú điện thoại vừa rồi của Gabriel làm cô lo lắng, cô dừng lại ở đèn đỏ nhìn qua kính chiếu hậu thấy những chiếc xe phía sau và tỏ ý nghi ngờ: Có phải mình đã nhìn thấy chiếc Taurus lúc ở bốn dãy nhà trước không nhỉ? Có phải cùng chiếc xe tải trắng vẫn đậu ngang căn hộ cô lúc nãy không?Nhà hàng JP Doyle là nơi lui tới thường xuyên của cảnh sát Boston và mỗi tối quán này đều tập trung đầy những cảnh sát trực đêm.

    Nhưng vào lúc 3 giờ chiều thế này thì chỉ có mỗi một cô gái đang ở quầy thu ngân nhâm nhi cốc rượu trắng, bên trên là chiếc ti vi đang phát ở kênh ESPN. Jane đi thẳng tới quầy bar vào trong phòng khách nơi có những bức ảnh kỉ niệm của cảnh sát Boston dán trên tường. Những mẩu báo về Kennedy, Tip O’Neil và cảnh sát Boston được treo ở đây lâu lắm rồi, chiếc cờ treo phía trên cũng đã cũ và ố vàng.

    Vào cái giờ giữa trưa và tối này thì chỉ có hai bàn có người. Một bàn là hai vị khách, rõ ràng là khách du lịch vì thấy có tấm bản đồ Boston trải trên bàn. Jane đi qua bàn của họ đến một chiếc ở trong góc phòng nơi Gabriel và Moore đang ngồi.Cô ngồi xuống cạnh chồng, nhìn xuống tập tài liệu đang để trên bàn.

    - Các anh có gì cho tôi xem nào?Moore không trả lời mà mỉm cười một cách máy móc khi cô phục vụ đi tới.- Chào, thám tử Rizzoli. Trông chị lại gầy rồi - cô phục vụ bảo.- Không gầy bằng hồi trước.- Nghe nói chị đã sinh con gái.- Nó làm chúng tôi phải tỉnh giấc suốt.

    Đây có lẽ là cơ hội duy nhất của tôi được ăn uống yên ổn đấy.Cô phục vụ cười khi đưa ra bản thực đơn.- Vậy thì mời cô nạp năng lượng.- Thực ra tôi muốn một tách cà phê hơn, thêm mấy lát táo nữa nhé.- Lựa chọn tốt đấy. Thế còn các quý ông - cô nhìn mấy anh chàng bên cạnh.

    - Thêm cà phê cho tôi, chỉ cần thế thôi. Chúng tôi sẽ ngồi nhìn cô ấy ăn - Moore nói.Họ vẫn giữ yên lặng trong lúc tách của họ được rót thêm cà phê. Mãi đến khi cô phục vụ đưa táo đến cho Jane và đi xa rồi Moore mới chuyển tập tài liệu qua cho Jane.Bên trong là một tập ảnh kỹ thuật số.

    Cô ngay lập tức nhận ra vỏ đạn đã bắn trong vụ trước có những đặc điểm đặc biệt dựa trên tấm thép súng.- Đây là lần nổ súng trong bệnh viện à?Moore gật đầu:- Đây là vỏ đạn từ khẩu súng mà John Doe đã mang vào trong phòng bệnh của Olena. Khẩu súng mà cô ấy đã dùng để giết hắn.

    Bên đạn đạo đã kiểm tra chúng trên dữ liệu của IBIS và đã có kết quả, nó là từ ATF. Vụ giết người bằng súng hàng loạt ở Ashburn, Virginia.Cô chuyển qua những bức ảnh tiếp theo - lại một loạt ảnh về vỏ đạn.- Chúng có trùng nhau không?- Cùng kiểu thiết kế bắn đặc biệt.

    Hai vỏ đạn khác nhau ở hai vụ khác nhau. Chúng đều được bắn ra từ cùng một khẩu súng.- Và giờ thì chúng ta đã có khẩu súng ấy?- Thực ra thì chưa.- Nó phải được tìm thấy cùng với thi thể của Olena chứ? Cô ta là người cuối cùng giữ nó mà?- Nó đã không có ở hiện trường.

    - Nhưng chúng ta đã xem xét căn phòng đó mà, đúng không?- Không có một khẩu súng nào được để lại ở hiện trường. Người mang theo súng - Joe, thì trong ba lô của anh ta không tìm thấy thậm chí là vỏ đạn. Khi cảnh sát Boston tới được đó thì mọi thứ đã không cánh mà bay.- Họ đã dọn dẹp sạch sẽ hiện trường à? Thế cảnh sát Boston nói sao về chuyện này?- Có vẻ như chúng ta chẳng thể làm gì được.

    FBI bảo đó là vấn đề an ninh quốc gia và họ không muốn có bất cứ thông tin gì bị lọt ra ngoài.- Họ không tin cảnh sát Boston?- Chẳng ai tin ai cả. Chúng ta không phải những người duy nhất bị cho ra rìa. Mật vụ Barsanti cũng muốn những bằng chứng từ phía đạn đạo học và ông ta cũng không hề hài lòng khi thấy đội đặc nhiệm dính vào.

    Điều này giống như các tổ chức liên bang đang chống lại nhau. Cảnh sát Boston chỉ như một con chuột ngồi nhìn hai con voi đánh nhau thôi.Jane nhìn xuống những tấm ảnh nhỏ rồi bảo:- Anh nói vỏ đạn này cũng có ở hiện trường vụ án ở Ashburn. Ngay trước khi đội đột kích vào thì Joseph Roke cũng đang định nói cho chúng tôi biết về vụ Ashburn.

    - Ngài Roke đã rất có thể sẽ nói cho ta biết chuyện xảy ra ở đó - Moore nói rồi lấy trong chiếc cặp của anh ta một tập tài liệu khác. Anh đặt nó trên bàn - Tôi đã nhận được cái này sáng nay từ phía cảnh sát Leesburg. Ashburn là một thành phố nhỏ, đội Leesburg đảm trách vụ đó.

    - Nó không phải những cảnh hay đâu Jane ạ - Gabriel bảo.Lời cảnh báo của anh không phải điều Jane chờ đợi. Họ đã cùng nhau theo dõi rất nhiều những ca khám nghiệm tử thi, nhìn thấy nhiều xác chết rồi và cô chưa bao giờ thấy anh run cả. Thế mà giờ đến anh cũng thấy kinh hoàng trước những thứ này thì không biết mình có nên xem không nhỉ, Jane nghĩ.

    Cô chẳng thèm đợi thời gian suy nghĩ nữa mà mở luôn ra xem. Bức ảnh đầu tiên là hiện trường vụ giết người. Không tệ lắm, cô nghĩ. Cô đã từng nhìn thấy những cảnh còn ghê hơn nhiều. Một cô gái mảnh khảnh tóc nâu nằm úp mặt xuống bậc cầu thang như thể cô đang cố để bơi lên trên.

    Một dòng máu chảy xuống phía dưới, đọng thành vũng dưới chân cầu thang.- Đây là nạn nhân số một - Moore nói.- Anh không có nhân dạng của cô ấy à?- Chúng tôi không có nhân dạng của bất cứ nạn nhân nào trong ngôi nhà đó.Cô xem tiếp bức ảnh thứ hai. Lần này là một cô gái trẻ, tóc vàng, đang nằm trên giường, chăn kéo lên tận cổ, tay vẫn còn bấu chặt vào lớp vải như mong đợi nó sẽ bảo vệ cô.

    Một dòng máu chảy ra từ vết thương trên trán. Rất chuyên nghiệp, chỉ một viên đạn nhưng rất trúng đích.- Đây là nạn nhân thứ hai. Vẫn còn những người khác nữa - Moore bảo.Jane nghe thấy giọng cảnh báo trong câu của anh, cô thấy hơi lo lắng khi lật tiếp trang khác. Ở bức ảnh thứ ba, cô nghĩ: cái này có vẻ tệ hơn một chút nhưng không sao, mình vẫn nhìn được.

    Đó là cảnh cánh cửa tủ, máu tràn ra từ phía trong. Hai cô gái trẻ tóc dài ngồi ôm nhau chết.- Đây là nạn nhân thứ ba và thứ tư.- Không ai trong số họ được nhận dạng ư?- Dấu tay của họ không được lưu trong hồ sơ dữ liệu.- Chúng ta có những bốn cô gái rất hấp dẫn ở đây, thế mà không có ai trình báo mất tích sao?Moore lắc đầu.

    - Họ không phù hợp với bất cứ thông tin người bị mất tích nào.Anh ta chỉ vào bức ảnh hai cô gái trong tủ nói:- Chính vỏ đạn được tìm thấy trong chiếc tủ này đã khít với số liệu của bên IBIS. Cả hai cô gái đều bị bắn bởi cùng một khẩu súng mà viên an ninh đã mang vào trong phòng bệnh của Olena.

    - Thế còn những nạn nhân khác trong ngôi nhà này? Cũng cùng một khẩu súng à?- Không. Họ bị bắn bởi một khẩu súng khác.- Hai khẩu súng? Hai kẻ giết người?- Đúng thế.Thực ra thì chưa có hình ảnh nào thực sự làm cô thấy buồn nản. Cô mở tiếp bức ảnh cuối cùng mà không hề lo ngại - bức ảnh về nạn nhân thứ năm.

    Lần này thì bức ảnh đã làm cô giật mình, va phải bàn. Nhưng cô không thể không nhìn bức ảnh chằm chằm. Cô chỉ có thể nhìn những biểu hiện về cái chết trên gương mặt của nạn nhân. Người đàn bà này già hơn và nặng nề hơn, khoảng bốn mươi tuổi. Bà ta bị trói vào một chiếc ghế bằng một vòng dây trắng.

    - Đây là nạn nhân thứ năm, cũng là nạn nhân cuối cùng. Bốn cô gái kia đã nhanh chóng tắt thở, một viên đạn qua đầu. Nhưng còn người này thì không kết thúc bởi một viên đạn vào đầu mà mãi cho đến khi... Mãi cho đến khi chuyện này được làm với bà ta.- Bao lâu... - Jane nuốt khan - Bà ta còn sống được bao lâu trước khi chết?- Dựa trên số các vết gẫy trên bàn tay và cổ tay, thực ra thì tất cả xương của bà ta đều bị dập nát hết.

    Bên pháp y cho rằng có ít nhất khoảng bốn mươi đến năm mươi phát búa đập xuống người bà ta. Đầu búa không lớn lắm nên mỗi phát đập chỉ gây tổn thương ở một diện nhỏ, nhưng không một cái xương hay một ngón tay nào thoát.Jane gập tập tài liệu lại, không có bụng dạ nào mà nhìn bức ảnh lâu hơn được nữa.

    Thảm họa đã xảy ra nhưng những kí ức còn lại thì khó mà phai mờ.- Vậy là chúng sẽ phải có ít nhất hai tên: Một tên giữ chặt bà ta, còn một tên trói bà ta vào ghế. Một tên sẽ giữ tay bà ta trong khi tên kia làm chuyện dã man đó.- Chắc chắn sẽ có những tiếng la hét - Jane nói nhỏ - Vậy sao không ai nghe thấy bà ta gào thét?- Ngôi nhà nằm trên một con đường biệt lập, cách xa nhà cửa ở khu vực xung quanh.

    Nhớ là nó vào tháng 2.Đây là lúc mọi người đều đóng chặt cửa. Nạn nhân chắc chắn cũng biết là sẽ không ai nghe thấy bà ta, sẽ không có sự giải cứu nào cả. Điều duy nhất bà ta có thể mong đợi là lòng nhân từ của một viên đạn.- Chúng muốn gì ở bà ta?- Chúng tôi không biết.

    - Chắc chắn phải có lý do cho việc này. Có thể bà ta biết điều gì đó.- Chúng ta thậm chí còn không biết bà ta là ai. Nạn nhân thứ năm và không một ai có trong bảng những người bị mất tích cả.- Làm sao mà chúng ta lại không biết bất cứ điều gì về họ nhỉ? - Jane nói trong khi quay nhìn chồng.

    Gabriel lắc đầu.- Họ như là ma vậy. Không tên, không giấy tờ nhận dạng.- Thế còn ngôi nhà?- Lúc đó nó được thuê bởi một người đánh cá Marguerite.- Đó là ai?- Chẳng phải một phụ nữ nào đâu. Nó là một cái tên giả.- Chúa ơi. Chuyện này cứ như chúng ta đang rúc vào hang thỏ vậy.

    Những nạn nhân vô danh. Những người thuê nhà không tồn tại.- Nhưng chúng ta biết ai là chủ ngôi nhà. Một công ty có tên gọi là nhóm đầu tư KTE.- Có ý nghĩa gì không?- Có. Cảnh sát Leesburg đã mất cả tháng để dò ra nó. KTE là một công ty con thuộc tập đoàn Ballentree.Jane cảm giác như có những ngón tay lạnh ngắt đặt trên gáy mình.

    - Lại là Joseph Roke - cô thì thào - Anh ta đã nói về Ballentree, về Ashburn. Sẽ thế nào nếu anh ta không hề điên chút nào?Bọn họ lại yên lặng khi cô phục vụ tới với bình cà phê.- Chị không thích táo hả thám tử - cô ta hỏi khi thấy Jane chẳng động đến một miếng nào.- À, nó ngon đấy.

    Nhưng có vẻ như tôi không thấy đói như đã tưởng.- Rồi, hình như không ai muốn động đến chút gì thì phải. Chiều nay có vẻ có nhiều người đến đây chỉ để uống cà phê - cô phục vụ hơi phàn nàn.Gabriel ngẩng lên.- Còn ai khác nữa à?- À, anh chàng đằng kia... - cô phục vụ ngừng lời khi thấy chiếc bàn gần đó đã trống không.

    Cô nhún vai - Chắc anh ta không thích cà phê - cô nói rồi bước đi.- Được rồi các chàng trai. Chúng ta có vẻ phải rời đi rồi.Moore nhanh chóng dọn dẹp đống tài liệu của mình, bỏ chúng vào một phong bì lớn rồi bảo:- Chúng ta đi thôi.Họ ra khỏi quán Doyle. Bên ngoài nắng và rất oi bức.

    Trong bãi đậu xe họ dừng lại cạnh xe của Moore, liếc nhìn đường phố và những chiếc xe bên cạnh. Chúng ta, ba người hai cảnh sát và một mật vụ FBI, cô nghĩ, và cả ba đang lo lắng xem xét khu vực này.- Giờ tính thế nào?- Nó ngoài tầm tay của cảnh sát Boston - Moore nói - Tôi đã được lệnh không được nhúng tay vào vụ này nữa.

    - Thế còn dữ liệu - Jane nhìn chiếc bao đựng Moore đang cầm trong tay.- Tôi còn không nghĩ mình sẽ nhận được những thứ này.- Được rồi. Giờ tôi vẫn còn đang trong thời kỳ nghỉ đẻ. Sẽ chẳng ai đưa ra yêu cầu gì cho tôi đâu - cô nói rồi cầm lấy chiếc phong bì từ tay Moore.

    Cô đi về phía chiếc Subaru của mình rồi nói với Gabriel:- Gặp anh ở nhà nhé.- Jane.Khi cô đã ngồi vào sau tay lái, Gabriel cũng mở cửa xe ngồi vào cạnh cô.- Em không biết mình đang dấn thân vào vụ gì đâu.- Thế anh biết chắc?- Em đã thấy họ đã làm gì với người đàn bà đó rồi đấy.

    Đó là loại người mà chúng ta sẽ phải đối mặt.Cô nhìn ra ngoài dõi theo Moore bước vào xe và lái đi.- Em nghĩ mọi thứ sẽ qua - cô nói nhẹ - Sẽ tốt thôi. Chúng ta đã sống sót, vậy hãy tiếp tục cuộc sống của chúng ta. Nhưng nó chưa kết thúc - cô nhìn chồng - Em cần biết tại sao những chuyện này lại xảy ra.

    Em cần biết nó có ý nghĩa gì.- Hãy để anh làm việc đó. Anh sẽ tìm ra những điều anh có thể.- Thế còn em?- Em vừa ra khỏi bệnh viện mà.Cô tra chìa vào và nổ máy, phả ra luồng hơi nóng từ ống xả.- Em đâu có phải trải qua ca phẫu thuật lớn nào đâu. Em chỉ sinh một đứa trẻ thôi mà.

    - Lý do đó cũng đủ để em tránh xa chuyện này rồi.- Nhưng đây mới chính là điều đang làm phiền em, Gabriel. Chính vì điều này mà em không thể ngủ nổi - cô ngồi dựa vào ghế - Đây chính là lý do tại sao những cơn ác mộng không chịu rời đi.- Nó phải mất thời gian một chút.

    - Em không thể không nghĩ về nó - cô nhìn bãi đỗ xe - Em bắt đầu nhớ thêm được vài điều.- Điều gì?- Những tiếng đập, tiếng la hét, tiếng súng. Sau đó là máu trên mặt em...- Đấy là giấc mơ mà em đã kể cho anh.- Và em vẫn tiếp tục có những giấc mơ ấy.- Có những tiếng động và những tiếng la hét.

    Có máu trên mặt em - Máu của Olena. Không có gì đáng ngạc nhiên cả.- Nhưng có một số thứ khác. Em chưa kể với anh về nó bởi vì em đang cố nhớ lại. Ngay trước khi Olena chết cô ấy đã cố để nói cho em điều gì đó.- Nói với em gì chứ?- Cô ấy nói với em một cái tên. Mila.

    Cô ấy đã nói: "Mila biết" - Cô nhìn Gabriel.- Nó có nghĩa gì?- Em không biết.Gabriel đột nhiên quay nhìn ra phố. Anh dõi theo một chiếc xe đang chầm chậm đi qua rồi khuất vào trong một góc phố.- Sao em không về nhà đi?- Thế còn anh?- Anh sẽ ở lại đây thêm một lát - anh ghé người hôn cô - Yêu em - anh nói rồi bước ra khỏi xe.

    Cô nhìn theo anh đi xe đến đậu cách đó một quãng. Nhìn thấy anh cho tay vào túi như đang tìm khóa xe. Cô quá biết chồng mình đến nỗi chỉ cần nhìn vai anh là biết ý định của anh, biết anh đang nhìn lướt nhanh bãi đỗ xe. Cô hiếm khi thấy anh lo lắng như thế này. Điều này làm cô lo ngại, cô biết anh đang rất lo sợ.

    Anh đã vào trong xe và nổ máy, đợi cô đi trước rồi mới đi.Chỉ đến khi cô rời bãi đậu xe thì anh mới bắt đầu lái xe ra. Anh lái xe theo cô qua vài dãy nhà. Anh ấy đang xem xem mình có bị theo dõi hay không, cô nghĩ. Thế nhưng lúc anh đã lái xe đi đường khác thì cô lại thấy mình nhìn vào gương chiếu hậu để xem có ai đằng sau không.

    Cô không tìm ra được lý do nào để ai đó phải theo dõi cô. Nhưng biết đâu được. Cô không thực sự biết được điều gì cả. Cả Moore và bất cứ ai trong tổ điều tra án mạng biết được chính xác chuyện gì. Chỉ có ký ức về một tiếng thì thầm.Mila. Mila là ai?Cô nhìn qua phong bì của Moore ở ghế đằng sau.

  5. #24
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 24
    Máu dính đến tận cùi tay, Maura đang xém xét phần ổ bụng, nhấc ra bộ ruột bỏ vào chậu. Gabriel đứng yên lặng nhìn qua cửa kính. Anh không thấy vẻ biểu hiện gì trên mặt Maura, chỉ có sự tập trung cao độ của một nhà khoa học. Cuối cùng cô đưa cái chậu cho Yoshima rồi cầm dao lên tiếp.

    Đúng lúc ấy cô nhận ra sự có mặt của Gabriel.- Tôi sẽ làm thêm ba mươi phút nữa. Anh có thể vào trong này nếu muốn.Anh mặc áo khoác ngoài, che giầy bằng ni lông bảo vệ rồi bước vào phòng thí nghiệm. Dù đã cố lờ cái xác giữa họ đi nhưng nó vẫn nằm đấy, không thể không nhìn.

    Một phụ nữ với bộ khung xương và da đang phơi bày ngay trước mắt.- Tiền sử về chán ăn. Tìm thấy chết trong chính căn hộ của cô ta - Maura nói, trả lời cho câu hỏi chưa nói của Gabriel.- Cô ấy còn quá trẻ.- Hai mươi bảy tuổi. Đội cấp cứu nói tất cả những gì thấy có trong tủ lạnh nhà cô ta chỉ là rau diếp và pepsi dành cho người ăn kiêng.

    Chết đói trên một mảnh đất giàu có.Maura cho tay vào ổ bụng để thấy một khoảng dạ dày trống trơn. Yoshima cùng lúc phải kiểm tra hộp sọ của cô ta. Như thường lệ họ vẫn làm việc hiếm khi trao đổi. Họ đã thừa biết người khác cần gì nên lời nói trở nên không cần thiết.

    - Cô muốn nói với tôi chuyện gì à? - Gabriel bảo Maura dừng lại. Trong tay cô là một quả thận trông như bị bao bọc bởi một lớp màng đen sì.Cô và Yoshima nhìn nhau lo lắng. Ngay lập tức Yoshima với lấy chiếc cưa bắt đầu xử lý phần hộp sọ. Tiếng ồn làm át câu trả lời của Maura.

    - Không phải ở đây. Chưa phải lúc - cô nói nhẹ.Yoshima cưa phần chóp sọ.Maura cúi nhìn phần não trong. Cô hỏi bằng giọng khá vui vẻ:- Thế nào rồi, là một ông bố ấy?- Khác xa với những gì tôi tưởng.- Anh chị chọn cái tên Regina hả?- Bà Rizzoli nói cho chúng tôi cái tên đó.

    - Ừm, tôi thấy đó là cái tên hay đấy - Maura hạ đầu tử thi xuống - Một cái tên ý nghĩa.- Jane đã rút gọn nó lại thành Reggie.- Không hay lắm.Maura tháo găng tay rồi nhìn Yoshima. Anh gật đầu.- Tôi cần chút không khí trong lành - cô nói - chúng ta nghỉ một lát.Họ bỏ áo khoác ngoài, cô đi thẳng ra khỏi phòng.

    Mãi đến khi ra khỏi tòa nhà đến khu đậu xe cô mới bắt đầu nói chuyện.- Xin lỗi vì phải nói lòng vòng với anh. Ban nãy tôi không muốn nói vì tôi nghĩ chúng ta phải giữ bí mật.- Chuyện gì thế?- Đêm qua, vào khoảng 3 giờ sáng, đội cứu hỏa Medford đã đưa đến một nạn nhân bị chết trong vụ tai nạn.

    Thường chúng tôi khóa cửa từ bên ngoài và họ phải gọi người trực để lấy mã khóa. Lúc đến nơi, họ nhận ra cửa không hề khóa, vào trong thì đèn sáng. Họ đã gọi nhân viên bảo vệ đến kiểm tra tòa nhà. Bất cứ ai đột nhập vào trong thì cũng đã rất vội vàng vì thậm chí ngăn kéo tủ của tôi vẫn còn mở.

    - Ngăn kéo trong văn phòng của cô?Maura gật đầu.- Máy tính của bác sĩ Bristol cũng bị bật lên. Anh ấy luôn tắt máy khi rời phòng vào lúc nửa đêm - Cô dừng lại - Máy tính đang được mở đến mục dữ liệu về việc giải phẫu tử thi của Joseph Roke.- Có gì bị lấy khỏi văn phòng không?- Không, chúng tôi đã kiểm tra lại rồi.

    Nhưng có điều bây giờ tôi rất băn khoăn về sự việc đó. Ai đó đã ở trong văn phòng, trong cả phòng thí nghiệm. Chúng tôi không biết họ có ý gì. Tôi không phải là nhà giả thuyết học nhưng cứ nhìn vào những sự việc xảy ra: Hai cái xác bị đưa ra khỏi tầm kiểm soát hợp pháp của chúng ta; bằng chứng từ viện đạn đạo học cũng bị đưa về Washington.

    Vậy anh nghĩ xem ai làm những việc ở đây?Anh nhìn bãi đậu xe đang ngột ngạt vì hơi nóng.- Chắc có lẽ phải là những người có vị thế rất cao.- Thế có nghĩa là ta sẽ không động được tới họ?- Nhưng không có nghĩa là ta sẽ không thử.Jane tỉnh dậy trong đêm. Những lời thì thầm trong giấc mơ vẫn còn vang vọng trong tai.

    Vẫn là tiếng nói của Olena thì thào với cô trước lúc chết. Tại sao cô cứ mãi đeo bám tôi? Hãy nói cho tôi biết cô muốn gì. Nói cho tôi biết Mila là ai.Nhưng tiếng thì thầm đã vụt tan biến chỉ còn hơi thở của Gabriel bên cạnh. Tiếp đó là tiếng khóc của cô con gái trong phòng bên.

    Cô nhẹ nhàng ra khỏi giường để cho chồng ngủ tiếp. Giờ thì cô đã hoàn toàn tỉnh táo nhưng vẫn bị những âm thanh trong giấc mơ ám ảnh.Đứa trẻ đã đạp tung chăn ra và đang khua khoắng hai nắm tay nhỏ xíu hồng hồng. Nó có vẻ đang rất sẵn sàng để đánh nhau - một cuộc chiến với chính mẹ của mình.

    - Regina, Regina - Jane vừa thở dài vừa bế con bé ra khỏi nôi. Giờ cô lại thấy cái tên này bật ra sao lại tự nhiên đến thế. Có lẽ đúng là bẩm sinh con bé đã mang cái tên Regina này rồi. Nhưng cũng mất mấy ngày Jane mới nhận ra được điều này và thôi không cứng đầu cãi lại mẹ nữa.

    Có lẽ mẹ cô cũng đã biết cái tên này từ rất lâu rồi.Sao mà cô ghét phải thừa nhận chuyện đó đến vậy. Nhưng cô vẫn phải công nhận là mẹ luôn đúng trong rất nhiều thứ. Tên của đứa trẻ này, bình sữa này và hơn nữa bà lại còn là người sẵn sàng giúp đỡ khi cô cần. Điều này mới là điều khó chịu nhất đối với cô.

    Cô không muốn thừa nhận chuyện mình cần sự giúp đỡ của người khác, không muốn thừa nhận rằng mình không biết phải làm gì. Cô có thể làm tốt công việc của mình trong đội điều tra án mạng, có thể săn lùng cả những con "quái vật" theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nhưng bảo cô làm sao cho đứa trẻ khỏi khóc chẳng khác gì yêu cầu cô đi phá bom nguyên tử.

    Cô liếc nhìn quanh phòng với hy vọng sẽ có một bà tiên tốt bụng nào đấy đang đứng đâu đó, sẵn sàng vung cây đũa thần lên giúp mình.Nhưng không, chẳng có bà tiên nào cả. Chỉ có mình mình.Regina dùng năm phút để ngậm bầu vú bên phải, thêm năm phút nữa cho vú trái rồi sau đó sẽ là khoảng thời gian dành cho sữa bình.

    Được rồi, mẹ thất bại với con rồi, đúng như một con bò sữa vậy, Jane nghĩ rồi bồng con vào bếp. Trong lúc Regina hồ hởi ngậm bình sữa thì Jane ngồi xuống ghế, hài lòng với những khoảnh khắc im lặng ngắn ngủi. Cô nhìn mái tóc đen, ngắn của con gái. Cô nghĩ: tóc xoăn, giống mình.

    Mẹ Angela đã có lần nói rằng: Sẽ có lúc con có một cô con gái mà con đáng được có. Giờ thì đúng rồi. Một cô con gái lúc nào cũng ồn ào, không bao giờ chịu bằng lòng cả.Đồng hồ trong bếp điểm 3 giờ sáng.Jane với tay lấy tập tài liệu mà thám tử Moore để lại tối qua. Cô đã đọc xong các tài liệu về vụ Ashburn, giờ cô mở tiếp một file khác của cảnh sát Boston về xe của Joseph Roke - Chiếc xe đã bị bỏ lại ở cách bệnh viện vài dãy nhà.

    Jane đọc những ghi chép của Moore, xem vài bức ảnh chụp phần phía trong xe. Có một bản báo cáo của trung tâm AFIS về dấu vân tay và các lời nói của nhân chứng. Trong lúc cô bị kẹt trong bệnh viện thì các đồng nghiệp của cô đã rất tích cực làm việc. Họ đã tìm kiếm từng mẩu thông tin về kẻ bắt giữ con tin.

    Mình không đơn độc, cô nghĩ. Bạn bè của mình ở bên ngoài, chiến đấu vì mình và đây chính là bằng chứng cho việc đó.Cô nhìn chữ kí của một viên thám tử trong bản khai của nhân chứng rồi mỉm cười, ngạc nhiên. Ghê quá, thậm chí cả Darren Crowe - kẻ không đội trời chung với cô cũng đã làm việc rất tích cực.

    Mà tại sao lại không nhỉ? Nếu thiếu cô ở trong đội thì anh ta lấy ai mà chỉ trích cơ chứ.Cô lật tới những bức ảnh chụp phần trong xe. Trong đó thấy có những tờ giấy gói thức ăn, những lon Red Bull rỗng vứt đầy trên sàn. Quá nhiều đường và caffein - cái này chắc bác sĩ nào nhìn vào cũng thấy lo ngại.

    Trên ghế sau là một chiếc chăn được dồn thành đống, một chiếc gối và một tờ báo lá cải - tờ Weekly Confidential[6]. Trên bìa báo là ảnh Melanie Griffith. Cô cố tưởng tượng cảnh Joe nằm trên băng ghế sau, lật mấy trang báo lá cải để đọc những tin mới nhất về các bữa tiệc, các cô gái với tính khí kỳ quặc mà cô không tài nào hiểu nổi.

    Có thể anh ta thực sự quan tâm đến thế giới Hollywood? Biết đâu nhìn vào cuộc sống của họ sẽ giúp anh ta thấy cuộc đời mình dễ chịu hơn? Tờ Weekly Confidential là thú tiêu khiển vô hại cho những lúc căng thẳng.Cô đặt file của cảnh sát Boston sáng bên cạnh rồi với lấy tập tài liệu về vụ Ashburn.

    Lại thêm lần nữa cô phải đối diện với những hình ảnh về hiện trường vụ án. Thêm lần nữa cô phải dừng lại trước tấm ảnh của nạn nhân thứ năm. Đột nhiên cô thấy mình không thể nhìn tiếp vào cảnh máu me, vào cái chết thêm nữa. Lạnh gai người, cô đóng tập tài liệu lại.

    Regina đã ngủ.Cô bồng con đặt vào nôi rồi về lại giường ngủ. Nhưng cô vẫn chưa hết run cho dù hơi ấm của Gabriel làm ấm cả tấm chăn. Cô cần ngủ, rất cần. Nhưng cô không tài nào làm yên được cái đống hỗn độn trong đầu mình. Quá nhiều hình ảnh trong đầu cô. Đây là lần đầu tiên cô hiểu rõ được ý nghĩa của cụm từ quá mệt mỏi để có thể ngủ.

    Cô đã từng biết nhiều người phải vào viện vì thiếu ngủ. Có lẽ cô phải nhanh chóng vượt qua giai đoạn này nếu không muốn như thế. Phải nhanh chóng tống khứ những cơn ác mộng đi rồi cả nỗi lo về những nhu cầu của đứa trẻ. Mình phải vứt bỏ những giấc mơ này.Gabriel vòng tay qua người cô, anh gọi:- Jane?- Vâng.

    - Em đang run này. Em lạnh à?- Hơi hơi.Anh ôm chặt cô hơn nữa, sưởi ấm cho cô bằng hơi ấm của mình.- Regina tỉnh dậy à?- Vài phút trước. Em vừa cho con bé ăn xong.- Đến lượt anh rồi mà?- Đúng lúc em cũng vừa tỉnh giấc.- Sao thế?Cô không trả lời.- Lại là những giấc mơ phải không em?- Có vẻ như cô ấy vẫn đeo bám em, không chịu rời.

    Cứ hàng đêm cô ấy lại làm em không thể ngủ được.- Olena chết rồi Jane ạ.- Vậy giờ là bóng ma của cô ấy.- Em không tin vào ma quỷ cơ mà.- Đúng thế. Nhưng giờ thì…- Em thay đổi suy nghĩ rồi sao?Cô quay người nhìn vào mặt anh, thấy ánh sáng của đèn thành phố lung linh trong mắt anh.

    Gabriel tuyệt vời của cô. Sao cô lại may mắn thế nhỉ? Cô đã làm gì được cho anh? Cô chạm vào mặt anh, lùa tay vào tóc anh. Thậm chí sau đám cưới sáu tháng cô vẫn còn ngạc nhiên vì mình đã chia sẻ chiếc giường của mình với người đàn ông này.- Em chỉ muốn mọi chuyện lại như xưa, như lúc ban đầu trước khi tất cả những chuyện này xảy ra.

    Anh kéo cô lại gần mình hơn. Cô hít hà mùi xà phòng trên da thịt anh - mùi hương của chồng cô.- Hãy cho nó thêm thời gian em ạ. Có lẽ em cần có những giấc mơ này. Em vẫn đang trong quá trình hồi phục, em phải có thời gian để trải qua cơn chấn động tâm lý.- Hoặc cũng có thể em cần phải làm gì đó.

    - Làm gì?- Làm điều mà Olena muốn em làm.Anh thở dài.- Em lại đang nói về cái bóng ma đấy.- Cô ấy đã nói với em. Em không nhớ rõ lúc đó. Nhưng nó không phải một giấc mơ. Nó là ký ức về một điều gì đó đã thực sự xảy ra - cô xoay người nằm ngửa, mặt hướng lên trần nhà, mắt nhìn vào bóng đêm - "Mila biết".


  6. #25
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 25
    Lúc họ đáp máy bay tới Washington - Reagan ngực cô căng cứng và rất đau. Cơ thể cô đòi hỏi sự giải phóng - sự giải phóng mà chỉ có đứa trẻ mới giúp cô được. Nhưng Regina giờ không ở trong tầm tay cô. Con gái cô giờ đang trong vòng tay bà ngoại Angela. Nhìn qua cửa sổ máy bay Jane thầm nghĩ: Con gái của mình mới có hai tuần tuổi, vậy mà mình lại bỏ nó ở nhà.

    Mình đúng là bà mẹ tồi. Nhưng bây giờ khi thành phố Boston đã ở xa phía dưới, cô không thấy có lỗi nữa mà thay vào đó là một cảm giác nhẹ nhõm như trút được một gánh nặng của thời gian mang thai vậy. Cô đã thoát khỏi những đêm mất ngủ, hàng giờ liền cứ phải đi đi lại lại ru cho con bé ngủ.

    Có chuyện gì với mình thế nhỉ, cô tự nhủ. Mình thấy dễ chịu khi xa con gái của mình ư?Bà mẹ tồi.Gabriel đặt tay lên tay cô:- Ổn chứ em?- Vâng.- Đừng lo lắng quá. Mẹ em rất thích hợp với nó mà.Cô gật đầu, vẫn nhìn ra ngoài cửa sổ. Sao mà cô có thể nói với chồng mình rằng mình là một bà mẹ tồi cơ chứ? Một bà mẹ luôn muốn thoát ra khỏi nhà và quay lại với những cuộc truy đuổi.

    Cô nhớ công việc đến mức chỉ cần thấy hình ảnh cảnh sát trên ti vi là cô đã thấy run lên vì ghen tị.Cách họ vài hàng ghế có tiếng trẻ con khóc, ngực Jane lại căng lên, nặng sữa. Đây chính là hình phạt cho mình, cô nghĩ. Vì tội đã bỏ Regina ở nhà đi thế này.Việc đầu tiên cô làm khi xuống khỏi máy bay là vào buồng vệ sinh nữ.

    Ở đó cô dùng những miếng giấy, tự vắt sữa mình vào rồi xả đi. Cô băn khoăn không biết những con bò cái có cảm thấy thoải mái như thế này không khi bầu sữa của chúng được vắt cạn. Thật lãng phí nhưng cô không biết phải làm thế nào để tiêu thụ số sữa ấy ngoài việc cho nó trôi theo dòng nước.

    Khi quay ra ngoài cô đã thấy Gabriel đứng đợi.- Tốt hơn chưa em?- Phù!Thám tử Eddie Wardlaw ở Leesburg trông không có vẻ gì đặc biệt cả. Anh ta tầm bốn mươi tuổi, khuôn mặt lạnh lùng, không thể cất nổi một nụ cười cho dù môi anh ta đã cố cười. Jane không hiểu là do anh ta mệt mỏi hay do khó chịu vì cuộc viếng thăm của vợ chồng cô.

    Trước khi bắt tay, anh ta hỏi thẻ của họ và kiểm tra từng cái một lâu đến mức bực mình. Cứ làm như họ là những kẻ mạo danh không bằng. Lúc xong xuôi đâu đấy anh ta mới bắt tay từng người rồi mời họ đi qua chiếc bàn kiểm tra.- Tôi đã nói chuyện với thám tử Moore sáng nay - anh ta nói trong lúc dẫn họ đi dọc theo sảnh.

    - Chúng tôi bảo anh ấy là chúng tôi tới đây gặp anh - Jane nói.- Anh ấy có đảm bảo về anh chị - Wardlaw nói rồi lôi trong túi quần ra một chùm chìa khóa, nhìn họ - Tôi cần biết một số điều về anh chị. Vậy nên tôi mới phải hỏi lòng vòng như thế. Anh chị cũng biết chuyện gì đang diễn ra ở đây rồi đấy.

    - Thực ra thì chúng tôi không rõ lắm - Jane nói - Chúng tôi đang cố gắng tìm hiểu chúng.- Vậy hả? Chào mừng các vị tới câu lạc bộ.Anh ta mở một cánh cửa rồi dẫn họ vào trong một phòng họp nhỏ. Trên bàn là hộp đựng tài liệu và được đánh số từng cái một. Wardlaw chỉ đống tài liệu:- Anh chị có thể thấy chúng tôi có nhiều tài liệu đến mức nào.

    Chúng tôi không thể phô tô hết được. Tôi chỉ gửi cho Moore những thứ có thể. Những thứ này là tài liệu mật, vì vậy tôi phải chắc chắn về người sẽ xem xét nó.- Ra thế. Vậy anh có muốn kiểm tra lại lai lịch của tôi không - Jane nói - Anh cứ gọi điện tới cơ quan tôi, ở đó mọi người sẽ tiếp đón anh và nói rõ mọi điều về tôi cho anh.

    Mọi người đều biết tôi.- Không phải cô, thám tử ạ. Với cảnh sát thì tôi không có vấn đề gì. Nhưng anh chàng FBI này thì... - anh ta nhìn Gabriel - Tôi buộc phải thận trọng hơn một chút, đặc biệt là khi đã hiểu tầm quan trọng của vấn đề.Gabriel đáp lại bằng một cái nhìn rất kiên quyết, cái nhìn mà Jane đã từng trải nghiệm trong lần đầu tiên gặp anh.

    Anh nói:- Nếu anh thấy lo lắng về tôi thì hãy nói chuyện đó ngay bây giờ trước khi chúng tôi đi sâu hơn vào vấn đề này.- Tại sao anh lại ở đây, mật vụ Dean? Anh và những người như anh đã xem tất cả các tài liệu chúng tôi có rồi còn gì?- FBI cũng tham gia vào vụ này sao - Jane hỏi đầy ngạc nhiên.

    - Họ yêu cầu bản phô tô của tất cả các tài liệu, từng mảnh giấy nhỏ. Họ không tin phòng điều tra tội phạm của chúng tôi nên phải mang chuyên viên của họ tới đây để kiểm tra các chứng cớ. FBI đã xem hết tất cả - Anh ta quay sang Gabriel - Vậy nên nếu anh có bất cứ câu hỏi nào về vụ này sao anh không hỏi đồng nghiệp trong văn phòng của anh?- Tin tôi đi, tôi sẽ đảm bảo cho mật vụ Dean.

    Tôi đã lấy anh ấy mà.- Vâng, Moore cũng đã nói cho tôi biết về điều đó - Wardlaw lắc đầu cười - FBI lấy một cảnh sát. Nghe hài quá nhỉ, tôi cứ tự hỏi không biết có giống chó lấy mèo hay không - Anh ta với tay vào thùng lấy ra tập tài liệu - Thôi được rồi. Đây là những thứ anh chị cần.

    Các tài liệu điều tra. Những bản báo cáo gần đây - anh ta lấy ra từng tập một đặt trên bàn - các bản báo cáo của phòng thí nghiệm và phòng khám nghiệm. Những bức ảnh, tin tức từ các báo... - anh ta dừng lại như chợt nhớ ra điều gì đó - Tôi vừa có một thứ khác có lẽ sẽ có tác dụng - anh nói rồi quay lại cửa - Tôi sẽ đi lấy nó.

    Một lát sau anh ta quay lại mang theo một băng video.- Tôi cất nó trong ngăn kéo của mình - anh ta nói - Thấy FBI đã nhúng tay vào tất cả những thứ trong này nên tôi nghĩ mình nên cất nó vào một nơi an toàn - Anh ta đi đến bên một chiếc tủ, quay đầu máy video ra - Chúng ta đã có một vụ án bình thường nhưng lại liên quan đến nhiều tổ chức chính trị - anh ta nói rồi cắm điện - anh chị biết đấy, các cơ quan hành pháp cấp cao lại cứ hay cư xử... Vài năm trước vợ của một ngài nghị sĩ đã bị giết khi chiếc Mercedes của bà ta đang đi trên những con đường của chúng tôi.

    Rắc rối là người lái xe lại không phải chồng bà ta. Tệ hơn nữa anh ta lại là đại sứ Nga. Anh chị cũng biết FBI đã có mặt ở đây nhanh như thế nào.Anh ta bật ti vi và đứng thẳng dậy:- Tôi đang có vài thứ quan trọng trong vụ này đây.- Anh nghĩ có dính líu tới chính trị à - Gabriel hỏi.

    - Anh biết ai là người chủ sở hữu của ngôi nhà không? Chúng tôi đã mất hàng tuần để tìm ra nó.- Một công ty con của tập đoàn Ballentree.- Đấy chính là sự dính líu của chính trị. Chúng ta đang nói về người khổng lồ của Washington đấy, bạn thân của Nhà Trắng, công ty chuyên bảo vệ lớn nhất nước.

    Tôi không có ý kiến gì về chuyện tôi đã bước vào một ngôi nhà tìm thấy năm người phụ nữ bị bắn chết. Các tổ chức chính trị, FBI cũng can thiệp vào và giờ thì tôi đang sẵn sàng nghỉ hưu sớm vì vụ đó đây - Wardlaw cho băng vào đầu máy, ấn nút Play.Trên màn hình xuất hiện cảnh cây cối phủ đầy bụi tuyết.

    Đó có vẻ là một ngày đẹp trời, ánh nắng lấp lánh trên băng.- 911 nhận được điện thoại vào tầm 10 giờ sáng - Wardlaw bảo - Giọng của một người đàn ông, không chịu nói rõ mình là ai, chỉ muốn trình báo chuyện đã xảy ra trong một ngôi nhà ở đường Deerfield và nói cảnh sát nên đến kiểm tra.

    Không có nhiều nhà trên đường Deerfield nên xe cảnh sát không tốn nhiều thời gian lắm để đến đó.- Cuộc gọi là từ đâu?- Một chiếc điện thoại công cộng cách Ashburn khoảng ba mươi lăm dặm. Chúng tôi không lấy được dấu tay để lại trên máy. Chúng tôi không bao giờ tìm ra được người đã gọi cuộc điện thoại đó.

    Trên màn hình xuất hiện khoảng gần chục chiếc xe đang đỗ bên đường. Trên nền những tiếng ồn ào của những người đàn ông giọng của một người quay phim đang tường thuật:"Hôm nay là ngày mùng 4 tháng 2, 11 giờ 35 phút sáng, tại địa chỉ số 9 đường Deerfield thành phố Ashburn, Virginia.

    Đây là thám tử Ed Wardlaw và tôi - thám tử Byron McMahon..."- Đồng sự của tôi đã quay phim - Wardlaw bảo - Đó là lối xe vào trước căn hộ. Anh chị có thể thấy nó được bao quanh bởi rừng, không có hàng xóm xung quanh.Ống kính máy quay lia tiếp qua hai chiếc xe cứu thương, mọi người đang đứng lộn xộn, hơi nước thoát ra từ hơi thở của họ.

    Cuối cùng thì ống kính dừng lại ở ngôi nhà. Bức tường trắng, những cửa sổ được chắn bằng các thanh sắt. Đặc điểm kiến trúc của ngôi nhà giống như một tòa nhà chung cư trong thành phố chứ không phải một ngôi nhà thuộc vùng nông thôn yên tĩnh như thế này. Máy quay giờ tập trung vào thám tử Wardlaw đang đứng trên những bậc thang trước nhà, trông như ông chủ nhà đang chờ đón khách.

    Hình ảnh lại trượt ra trước sân khi thám tử McMahon cúi xuống kéo bọc giầy. Sau đó lại đến hình ảnh trước cửa nhà rồi theo Wardlaw vào phía trong.Hình ảnh đầu tiên đập vào ống kính máy quay là một thang gác đẫm máu. Jane đã biết chuyện gì có thể xảy ra vì đã xem những bức ảnh về hiện trường vụ án, cũng biết tư thế mỗi người chết thế nào.

    Thế mà khi máy quay quay đến hình ảnh những bậc thang cô vẫn thấy tim đập mạnh và những cảm giác sợ hãi dồn lên.Máy quay dừng lại ở nạn nhân đầu tiên, nằm úp mặt xuống cầu thang- Đây là người đã bị bắn hai phát - Wardlaw bảo - Bên pháp y nói viên đạn đầu tiên bắn vào lưng.

    Có thể nạn nhân này đang cố gắng chạy trốn lên phía trên cầu thang. Dựa vào tĩnh mạch và lượng máu cô gái mất có thể dự đoán cô ấy đã có thể sống trong khoảng năm đến mười phút trước khi bị bắn phát thứ hai vào đầu. Theo tôi thì tên sát nhân đã bắn gục cô với phát súng đầu tiên, sau đó đi tìm những người khác.

    Lúc quay trở lại xuống cầu thang hắn ta nhận ra người này vẫn còn sống nên đã bắn phát thứ hai, giết chết cô - Wardlaw nhìn Jane - Một kẻ cẩn thận.- Bao nhiêu máu như thế, thì phải có nhiều dấu chân để lại.- Cả trên gác lẫn phía dưới. Dưới gác làm chúng ta băn khoăn nhất.

    Chúng tôi thấy có hai dấu giầy lớn được xem như dấu giầy của hai tên giết người. Nhưng ngoài ra còn có thêm hai dấu chân nhỏ hơn nữa, những dấu chân này để lại trong nhà bếp.- Của những người thi hành pháp luật?- Không phải. Chúng tôi đến hiện trường chỉ sau khi vụ án xảy ra sáu tiếng.

    Máu lúc đó đã khô rồi. Những dấu chân nhỏ chúng tôi thấy lại được tạo ra khi máu còn ướt.- Vậy là dấu chân của ai?- Chúng tôi vẫn chưa biết - Wardlaw nhìn cô đáp.Bây giờ máy quay đi lên phía trên cầu thang, chúng tôi có thể nghe tiếng giấy bọc giầy cọ vào cầu thang. Lên tới hành lang phía trên cầu thang máy quay chuyển qua bên trái qua một cánh cửa.

    Sáu chiếc giường được đặt trong phòng, trên sàn nhà đầy quần áo, bát đĩa bẩn và một túi lớn khoai tây rán. Máy quay lia ngang phòng và dừng lại ở chiếc giường có nạn nhân thứ hai bị giết.- Người này nhìn có vẻ như không có cơ hội nào để trốn đi cả - Wardlaw nói - nằm trong chăn và lãnh ngay một viên đạn.

    Chiếc máy quay lại di chuyển qua những chiếc giường rồi thẳng tới chiếc tủ quần áo. Từ cửa tủ máy quay phóng to hình ảnh phần sau tủ. Hai cô gái đã cố co người lại núp sau cánh tủ cố để không bị phát hiện nhưng tên sát nhân vẫn trông thấy các cô khi chúng mở cửa tủ, hắn đã bắn hai viên đạn vào đầu hai người.

    - Mỗi người một viên - Wardlaw bảo - những tên này rất nhanh và chuẩn xác - kĩ thuật. Tất cả các cánh cửa đều bị mở, những chiếc tủ đều bị lục tung. Không có một chỗ nào trong nhà này để trốn cả. Những nạn nhân không có bất cứ cơ hội nào.Anh ta với lấy điều khiển rồi tua nhanh tiếp đoạn băng, những hình ảnh nhảy múa trên màn hình, lại đến những phòng ngủ khác, tới một chiếc thang rồi đến một gác mái.

    Sau đó lại quay về cầu thang phía dưới. Wardlaw ấn nút Play, hành trình lại chậm lại, máy quay đi tiếp vào trong phòng khách rồi vào nhà bếp.- Đây - anh ta nói nhỏ rồi ấn nút Pause - Nạn nhân cuối cùng. Bà ta đã có một đêm kinh hoàng.Người đàn bà bị bó ngồi vào một chiếc ghế.

    Viên đạn bắn vào lông mày bên phải làm đầu bà ta ngả ra sau. Bà ta đã chết trong lúc mắt hướng lên phía trên, chết với gương mặt tái mét. Cả hai tay đều để trên bàn trước mặt.Chiếc búa dính máu đặt bên cạnh hai bàn tay đã dập nát.- Rõ ràng là chúng muốn thứ gì đó từ bà ta và bà này không muốn hoặc không thể đưa cho chúng - Wardlaw bảo.

    Anh ta nhìn Jane, trong mắt như còn đọng những hình ảnh mà họ mường tượng ra: những nhát búa đập liên hồi, đập nát từng rẻ xương. Những tiếng hét vang vọng trong ngôi nhà - những tiếng hét của một người đàn bà đã chết.Anh ta ấn nút Play tiếp và đoạn phim biến mất, bỏ lại phía sau chiếc bàn đẫm máu và thịt nát.

    Vẫn còn run rẩy, họ cùng im lặng dõi theo những hình ảnh của phòng ngủ phía dưới thang gác rồi vào trong phòng khách được bài trí những chiếc ghế phủ khăn xanh. Cuối cùng họ quay lại phòng nghỉ, ở chân cầu thang nơi họ đã bắt đầu.- Đây là thứ chúng tôi đã tìm thấy - Wardlaw bảo - năm phụ nữ bị giết, không ai được nhận dạng.

    Hai khẩu súng khác nhau đã được dùng. Chúng tôi cho rằng có ít nhất hai tên giết người đi cùng nhau.Không có một chốn nào cho những nạn nhân xấu số của họ trốn, Jane nghĩ thầm. Cô nghĩ tới hai người trong tủ, ôm nhau và run rẩy thế nào khi nghe tiếng những bước chân tới gần.- Chúng bước vào và giết năm người phụ nữ - Gabriel bảo - Chúng có thể đã phải tốn khoảng một tiếng đồng hồ trong nhà bếp với nạn nhân cuối cùng, đập nát tay bà ta với chiếc búa.

    Các ông không có bất cứ thứ gì về hai kẻ giết người này? Không có dấu vết nào làm bằng chứng, không dấu vân tay?- Chúng tôi đã tìm thấy cả nghìn dấu vân tay trong ngôi nhà đó. Phòng nào cũng có nhưng đều không xác định được. Nếu những người ta đang tìm có để lại dấu tay đi nữa thì cũng không khớp với bất cứ dấu tay nào được lưu trong hồ sơ của AFIS - Wardlaw lấy điều khiển rồi ấn Stop.

    - Đợi đã - Gabriel nói, mắt dán vào màn hình.- Gì?- Tua lại đi.- Bao lâu?- Khoảng mười giây.Wardlaw nhíu mày, băn khoăn về điều Gabriel yêu cầu. Anh ta đưa điều khiển cho Gabriel:- Anh tự làm đi.Gabriel nhấn nút tua lại sau đó ấn Play. Máy quay lúc này đến phòng khách, qua những chiếc ghế với vải phủ cũ kĩ.

    Rồi nó xuống thang gác rồi đến thẳng cửa trước. Bên ngoài nắng đang lấp lánh trên những cành cây còn đọng băng. Hai người đàn ông đang đứng phía dưới nói chuyện. Một người hướng mặt vào trong nhà.Gabriel nhấn nút Pause, phóng to hình ảnh người đàn ông đang đứng- Đây là John Barsanti - anh nói.

    - Anh biết ông ta à - Wardlaw hỏi.- Ông ta cũng đã xuất hiện ở Boston.- Ra vậy, ông ta có vẻ có mặt ở khắp mọi nơi thì phải. Chúng tôi đã đến ngôi nhà đó trước đoàn người của Barsanti khoảng một tiếng. Ông ta đã cố chen vào buổi làm việc của chúng tôi nhưng chúng tôi đã kiên quyết kết thúc việc can thiệp ấy ngay ở thềm cửa.

    Cho mãi đến khi chúng tôi nhận được lệnh từ Tòa án yêu cầu chúng tôi phải hợp tác.- Làm thế nào mà FBI lại nghe về vụ này nhanh thế nhỉ - Jane hỏi.- Chúng tôi chưa bao giờ nhận được câu trả lời cho việc này.Wardlaw tiến đến lấy cuốn băng ra rồi tắt máy, quay nhìn cô.

    - Đấy là điều mà chúng ta đang phải đối mặt. Năm người phụ nữ chết, không ai có dấu tay trong hồ sơ lưu trữ. Không ai khai báo mất tích. Tất cả họ đều là Jane Doe.- Những người nước ngoài không có tài liệu lưu trữ - Gabriel nói thêm.Wardlaw gật đầu:- Tôi đoán họ là người Đông u.

    Trong phòng ngủ dưới gác có vài tờ báo bằng tiếng Nga. Tủ giầy có mấy bức ảnh Matxcơva. Theo những thứ khác mà ta tìm thấy trong ngôi nhà đó chúng ta có thể đoán được nghề nghiệp của họ. Trong chạn thấy có rất nhiều thuốc penicillin, thuốc dùng sau bữa sáng, và một hộp bao cao su - anh ta lấy một file có bản báo cáo về khám nghiệm đưa cho Gabriel - Xem phân tích AND này.

    Gabriel mở đến phần kết quả kiểm tra: "Quan hệ tình dục với nhiều người".Wardlaw gật đầu.- Kết hợp tất cả những điều này với nhau: một nhóm phụ nữ trẻ hấp dẫn sống cùng nhau dưới một mái nhà. Mua vui cho nhiều người đàn ông khác nhau. Chúng ta không thể nói đây là một nhà tu kín được.

  7. #26
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 26
    Con đường chạy cắt qua những cây sồi, cây thông um tùm. Vài tia nắng rọi qua tán lá, lấp lánh dưới mặt đường. Những tán cây to, rợp mát chen lẫn với những cây tầm thấp cố vươn lên đón nắng.- Chẳng trách hàng xóm không thể nghe thấy gì vào đêm đó - Jane nói khi nhìn rừng cây đan dày - Em thậm chí còn chẳng nhìn thấy có ngôi nhà nào quanh đây nữa.

    - Anh nghĩ nó chỉ ở ngay phía trước kia thôi, sau đám cây này.Đi thêm một đoạn nữa con đường đột nhiên mở rộng ra trước mắt. Xe của họ chầm chậm đi trong ánh chiều muộn. Một ngôi nhà hai tầng hiện ra trước mắt. Dù không được sửa sang lại nhưng cấu trúc của nó khá tốt và chắc chắn: Gạch đỏ, cửa rộng.

    Nhưng có vẻ như không có vẻ gì chào mừng họ đến. Những cửa sổ có chấn song bằng sắt, biển cấm đặt cạnh thùng thư, cỏ mọc cao lấn cả vào đường lái xe. "Đó là cái vẫy tay chào đối với kẻ nào muốn xâm lấn khu vực này." Wardlaw bảo họ đã từ bỏ việc sang sửa ngôi nhà hai tháng trước khi thiết bị bảo vệ đột nhiên bị bắt lửa rồi dẫn cháy lên tận trên gác.

    Ngọn lửa vẫn để lại những vệt đen trên các khung cửa. Những mảnh kính vỡ vẫn còn đây. Có lẽ ngọn lửa là một lời cảnh báo, Jane nghĩ. Ngôi nhà này không thân thiện chút nào.Cô và Gabriel bước ra khỏi chiếc xe họ đã thuê trong thành phố. Trên xe bật điều hòa nên bây giờ họ mới biết ở ngoài trời oi bức ngột ngạt thế nào.

    Dù chẳng nhìn thấy con muỗi nào nhưng cô có thể nghe tiếng chúng vo ve xung quanh. Đưa tay lên vỗ vào má cô thấy máu trên bàn tay mình. Thế đấy. Đây là tất cả những gì cô nghe được ở khu này - Chỉ độc có tiếng côn trùng. Không xe cộ qua lại, không tiếng chim hót, thậm chí cây cối cũng đứng yên.

    Cô thấy cảm giác gai gai trong người, không phải vì trời quá nóng mà vì trong lòng cô dội lên một mong muốn là ra khỏi nơi này. Lên xe, đóng cửa lại và lái đi, thế thôi. Cô không muốn vào trong đó.- Nào, để xem chìa khóa của Wardlaw còn hoạt động không nào? - Gabriel nói rồi đi đến cửa chính.

    Chần chừ một lát rồi cô cũng bước theo anh lên những bậc thềm đầy cỏ lan. Trong băng video của Wardlaw lúc đó là mùa đông, con đường lái xe không có cỏ. Giờ thì nó đã lan cả vào trong này rồi.Tới ngưỡng cửa Gabriel dừng lại trước ổ khóa và nghĩ, cái khóa này dùng để khóa mọi người ở trong.

    Anh tra khóa vào ổ rồi đẩy cửa. Cánh cửa kêu cọt kẹt rồi mở ra. Anh có thể ngửi được mùi khói vẫn còn ám lại. Dấu vết của vụ hỏa hoạn. Mày có thể dọn sạch nhà, sơn lại tường, thay các tấm thảm và đồ đạc cũ. Anh nghĩ rồi bước vào trong.Cô cũng bước theo anh. Cô hơi ngạc nhiên khi thấy sàn gỗ trống trơn, trong băng thì có một tấm thảm xanh cũ kỹ trải dưới sàn.

    Chắc đã được bỏ đi lúc người ta dọn dẹp hiện trường. Trong phòng khách, trần nhà cao được trang hoàng bởi ngọn đèn chùm với nhiều tiểu tiết rất đẹp mà không thể thấy được trong cuốn băng. Những vết bẩn làm thành những đám mây đen trên trần nhà.- Người nào xây ngôi nhà này chắc hẳn phải có tiền - Gabriel nhận định.

    Cô bước đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài đám cây cối. Chiều đang chuyển sang tối, họ chỉ còn một tiếng nữa trước khi tắt nắng.- Lúc mới xây chắc nó phải là một ngôi nhà rất đẹp - cô bảo.Nhưng thời đấy đã lâu rồi, trước khi tấm thảm dính đầy bụi và những thanh sắt bị hoen gỉ.

    Trước khi xảy ra thảm kịch.Họ bước qua phòng khách trống trải. Những bức tranh treo tường qua nhiều năm đã ngả màu và rách mép, ám đầy mùi thuốc lá. Họ đến phòng ăn rồi đi vào trong nhà bếp. Bàn ghế đã được đưa đi. Ánh nắng chiều rọi qua các khung cửa làm ngôi nhà thêm màu sắc liêu trai.

    Đây là nơi người đàn bà có tuổi đã chết, Jane nghĩ. Bà ta ngồi giữa phòng, bị trói chặt vào một chiếc ghế, những ngón tay thì dập nát dưới những nhát búa. Dù Jane đang nhìn căn bếp trống nhưng cô vẫn có thể hình dung ra được hình ảnh của nó trước đây - Giống như trong cuốn băng.

    Mọi hình ảnh càng như sống động hơn trong nắng chiều.- Lên gác thôi - Gabriel nói.Họ rời gian bếp, đến chân cầu thang dẫn lên tầng hai. Nhìn lên trên cô nghĩ: Đây là nơi một người nữa bị giết. Cô gái ấy chết ngay trên những bậc thang này. Cô gái với mái tóc vàng. Jane chạm tay vào tay vịn cầu thang, cảm thấy những hình khảm trên gỗ sồi và thấy mạch đập trên các đầu ngón tay.

    Cô không muốn lên gác. Nhưng giọng nói kia lại vang lên.Mila biết.Mình sẽ biết điều gì đó nếu đi lên gác kia. Cô thầm nghĩ. Điều gì đó mà giọng nói đang cố dẫn đường cho mình.Gabriel đi thẳng lên gác, Jane chầm chậm đi theo. Cô quay nhìn xuống dưới, cảm thấy tóc gáy dựng lên khi tay chạm vào lớp gỗ vẫn còn dính cát.

    Trong bóng tối lờ mờ bề mặt gỗ vẫn ánh lên những sắc xanh. Những người lau dọn chắc đã cố xóa vết máu bằng cát, cố để lau đi những điều kinh khủng. Nhưng chúng vẫn còn nguyên đấy - nơi máu của nạn nhân chảy tràn. Đây chính là nơi cô ấy đã chết, chết bò trên những bậc thang - chính chỗ Jane vừa chạm tới.

    Gabriel đã ở trên tầng hai và đi xem xét các căn phòng. Cô cũng chạy theo anh. Ở đây mùi khói nồng nặc hơn, sàn được lát bằng gỗ sồi, giấy dán tường màu xanh lá cây. Những cánh cửa mở tung để lọt ánh sáng vào trong hành lang. Cô đến trước một cánh cửa bên tay phải, nhìn vào căn phòng trống.

    Trên tường có một hình vuông ma quái là nơi treo tranh trước kia. Nó giống như bất cứ một phòng nào trong một nhà nghỉ bình thường. Mọi dấu tích trong căn phòng đã bị xóa sạch. Cô đến bên cửa sổ, nâng tấm rèm lên. Những chấn song vẫn còn nguyên vẹn. Nhìn nó cô nghĩ: Nếu có hỏa hoạn ở đây thì chịu, không thể thoát được.

    Thậm chí nếu có trèo được ra bên ngoài thì nó cũng cách mặt đất khá xa, trượt chân ngã thì đúng là hết cách.- Jane - Gabriel gọi.Cô đi theo tiếng gọi của anh sang một phòng khác. Gabriel đang nhìn vào một chiếc tủ mở toang.- Nhìn này - anh nói nhẹ.Cô đến bên anh, chạm vào bề mặt gỗ đầy cát.

    Cô lại liên tưởng đến hình ảnh được xem trong cuộn băng: Hai cô gái ôm lấy nhau như hai người tình. Họ đã trốn ở đây được bao lâu nhỉ? Chiếc tủ không lớn lắm, hơi thở sợ hãi như vẫn quanh quất trong phòng.Cô đứng thẳng dậy. Căn phòng như quá ấm cúng, quá ít khí thì phải.

    Cô đi ra hành lang, chân lạnh cứng. Đây là ngôi nhà của nỗi kinh hoàng, cô nghĩ. Nếu chú ý nghe mình có thể nghe được những tiếng la hét.Ở cuối hành lang có một căn phòng - căn phòng này đã bị bắt lửa. Trong phòng mùi khói đậm đặc, cả hai cửa sổ đều mở toang, ngập ánh nắng chiều.

    Cô lấy từ trong túi ra một chiếc đèn pin để đi vào phòng. Ngọn lửa đã làm các bức tường loang lổ. Cô soi đến một chiếc tủ bị thiếu cánh, chắc đã bị cháy mất trong trận hỏa hoạn. Lúc ánh đèn của cô chiếu vào lưng tủ, cô thấy ánh sáng biến mất. Cau mày, cô lại gần thấy một lỗ nhỏ vừa đủ nhét một ngón tay qua - rất trong và nhẵn.

    Ai đó đã khoét cái lỗ ở đây giữa phòng ngủ và cái tủ.Ánh đèn vụt qua trên đầu. Cô giật mình nhìn lên. Gabriel đang trên gác mái. Cô quay lại hành lang. Ánh sáng ban chiều đã tắt, căn nhà chìm trong một màu xám.- Này - cô gọi - Đi thế nào lên trên đó hả anh?- Tìm trong phòng ngủ ở tầng hai ấy.

    Cô tìm thấy một chiếc thang gấp. Cô trèo lên, thò đầu vào trong căn phòng nhỏ. Cô thấy Gabriel đang soi tìm trong bóng tối.- Có gì ở trên này?- Một con sóc chết.- Ý em là có gì thú vị không?- Không, chưa thấy gì cả.Cô trèo hẳn vào trong và tí nữa thì đập đầu vào trần nhà thấp.

    Gabriel vẫn đang tập trung vào việc tìm kiếm. Ánh đèn chầm chậm rà soát từng ngóc ngách.- Đứng tránh xa cái góc đó ra - anh bảo cô - Sàn bị hỏng rồi nên anh sợ nó sẽ không an toàn.Cô đi đến một đầu khác, chỗ có một cửa sổ duy nhất đang le lói chút ánh sáng cuối ngày. Cô nhận thấy cửa sổ này không hề có chấn song.

    Mà nó cũng đâu có cần. Cô nâng tấm rèm cửa, thò đầu ra ngoài. Bên ngoài chỉ có một gờ tường rất hẹp và mảng sân trống trơn phía dưới. Một đường thoát thân cho những ai muốn tự sát. Cô đóng tấm rèm lại, nhưng đột nhiên khựng người, ánh mắt dán vào đám cây cối bên ngoài.

    Trong rừng thấy có đốm sáng như một tàn lửa.- Gabriel.- Tuyệt. Đây lại có một con sóc chết nữa này.- Có ai đó ngoài kia.- Gì cơ?- Ở trong rừng ấy.Anh bước qua chỗ cô và nhìn vào trong bóng đêm dày đặc.- Đâu?- Em vừa nhìn thấy nó một phút trước.- Có lẽ có cái xe nào đấy chạy qua - anh quay lại từ cửa sổ rồi thì thầm - chết tiệt, pin sắp hết rồi.

    Anh đập vào chiếc đèn mấy cái nhưng chỉ đủ cho nó phát ra được tia sáng yếu ớt rồi tắt ngấm.Cô vẫn đứng nhìn qua khung cửa sổ chỗ cánh rừng. Tự nhốt mình trong căn nhà ma này, cô nghĩ và thấy mình lạnh xương sống. Cô quay sang chồng:- Em muốn đi khỏi đây.- Chúng ta nên thay pin trước khi về nhà…- Nào anh, năn nỉ đấy.

    Anh chợt nhận ra vẻ lo lắng trọng giọng nói của cô.- Chuyện gì vậy em?- Em không nghĩ đó là một chiếc xe chạy qua.Anh lại quay nhìn cửa sổ và đứng lặng yên. Sự im lặng của anh làm cô lo lắng, sự im lặng càng làm tăng nhịp tim của cô.- Được rồi. Chúng ta đi thôi - Anh nói.

    Họ trèo xuống thang, đi qua phòng ngủ nơi máu vẫn còn bám trên tủ quần áo. Đi xuống cầu thang nơi vẫn còn in dấu những điều kinh hoàng đã xảy ra. Năm người phụ nữ đã chết trong ngôi nhà này và không ai nghe thấy tiếng kêu gào của họ.Cũng sẽ không ai nghe thấy chúng ta.Họ đi ra cửa trước đến trước hiên.

    Lạnh người khi có ánh sáng lóa mắt chiếu vào. Jane đưa tay lên che mắt. Cô nghe tiếng bước chân trên nền sỏi, nhìn thấy lờ mờ ba dáng người đang tiến lại gần. Gabriel bước lên phía trước cô, anh lướt đi nhẹ nhàng đến nỗi mãi đến khi anh che luồng sáng trước mắt cô mới nhận ra.

    - Bọn họ đây rồi - một giọng nói cất lên.- Tôi có thể biết mình đang được tiếp chuyện ai không - Gabriel hỏi.- Hãy tự giới thiệu trước đi.- Nếu anh hạ thấp đèn xuống một chút.- Chứng minh thư?- Được rồi, được rồi. Tôi đang tìm trong túi - giọng Gabriel điềm tĩnh - Tôi không có vũ khí, cả vợ tôi cũng thế.

    Nói rồi anh từ từ rút trong túi ra cái ví và đưa ra phía trước. Nó bị lấy khỏi tay anh.- Tên tôi là Gabriel Dean. Còn đây là vợ tôi, Jane.- Thám tử Rizzoli Jane - phòng cảnh sát Boston - cô nói thêm, lóa mắt vì ánh đèn đột nhiên chiếu vào mặt cô. Giờ thì cô chẳng thể nhìn được những người đàn ông kia.

    Cô cảm thấy họ đang săm soi mình. Cô không thấy sợ nữa mà thấy dần tức giận.- Cảnh sát Boston làm gì ở đây? - Người đàn ông hỏi.- Thế các anh làm gì ở đây? - Cô vặc lại.Cô không chờ đợi câu trả lời, cô cũng chẳng nhận được nó. Người đàn ông đưa trả ví cho Gabriel rồi chĩa ánh đèn về phía chiếc xe thuê của họ.


  8. #27
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 27
    Jane ngồi một mình trong phòng phỏng vấn nhìn hình phản chiếu của mình và nghĩ: Cái gương một chiều quái quỷ này. Mình nghĩ mình ở sai phía rồi. Cô đã ngồi trong này cả tiếng đồng hồ, sốt ruột đến bên tấm cửa để xem có cơ hội nào thoát ra không nhưng nó lúc nào cũng khóa kín.

    Tất nhiên là họ phải tách Gabriel ra khỏi cô rồi. Đấy là cách người ta vẫn làm, cô cũng đã từng làm như thế khi thẩm vấn ai đó. Nhưng mọi thứ bây giờ rất khác với tình huống cô đã trải qua. Những gã kia chẳng thèm giới thiệu gì cả, không thẻ, không bảng tên, không số. Họ chỉ là những gã mặc đồ đen, những gã bảo vệ trái đất từ bụi bẩn của vũ trụ.

    Bọn họ phải mang những tù binh của mình vào tòa nhà qua một cái gara ngầm để cô khỏi nhận ra họ làm việc cho ai, cho văn phòng nào. Nhưng căn phòng thẩm vấn này thì chắc phải ở đâu đó trong thành phố Reston.- Này - Jane đi đến chỗ tấm kính và đập lên mặt nó - Các người không có quyền làm thế này với tôi.

    Các người lấy điện thoại của tôi, tôi thậm chí không được gọi luật sư nữa sao? Các người có vấn đề rồi.Cô chẳng nghe thấy ai trả lời.Ngực cô lại bắt đầu đau. Lại muốn cho sữa ra rồi. Nhưng làm sao cô có thể vạch áo ra trong những tấm kính một chiều này cơ chứ. Cô đạp vào cửa kính, mạnh hơn.

    Giờ thì chẳng còn cảm thấy sợ nữa vì cô biết họ là những người làm việc cho chính phủ - những người đã cướp không những giây phút quý giá của vợ chồng cô, cố đe dọa cô. Cô biết cô không làm gì sai cả, cô biết quyền của mình. Là một cảnh sát, cô đã luôn nỗ lực bảo vệ quyền lợi chính đáng của mọi người.

    Vậy thì cô cũng có quyền đòi quyền lợi ấy cho mình.Qua tấm kính cô chỉ nhìn thấy hình mình phản chiếu trong đó. Tóc nâu với những lọn xoăn, cằm vuông ương ngạnh. Nhìn đi, mấy tên khốn kiếp, cô nghĩ. Dù sau tấm kính có là ai đi nữa thì các người cũng đang được trông thấy một cảnh sát đang cáu tiết và ngày càng mất kiên nhẫn đấy.

    - Này! - Cô gào lên và đập vào mặt kính.Đột nhiên cửa bật mở, cô ngạc nhiên khi thấy một phụ nữ bước vào phòng. Dù gương mặt bà ta còn khá trẻ, chắc chắn là chưa qua tuổi năm mươi nhưng tóc đã có nhiều sợi bạc, làm thành màu đối lập với đôi mắt. Cũng giống như những đồng nghiệp nam của mình, bà cũng mặc bộ đồ đen cứng quèo.

    Đây là sự lựa chọn của một người làm việc với chức năng của đàn ông.- Thám tử Rizzoli - người đàn bà nói - Tôi rất xin lỗi bắt cô phải đợi lâu. Tôi đã cố gắng đến đây ngay khi có thể. Giao thông thành phố mà, cô biết đấy - Bà ta nói rồi đưa tay ra - Tôi rất vui vì cuối cùng cũng gặp cô.

    Jane không thèm bắt tay bà ta, cô nhìn thẳng mặt bà nói:- Tôi có biết bà không?- Helen Glasser. Bộ Tư pháp. Tôi thừa nhận là cô có quyền tức giận - một lần nữa bà ta đưa tay ra cố kêu gọi một tiếng nói đồng tình qua cái bắt tay.Lần này thì Jane bắt tay bà ta, giống cái bắt tay của những người đàn ông.

    - Chồng tôi đâu?- Anh ấy sẽ gặp chúng ta trên gác. Tôi muốn có cơ hội để giảng hòa với cô trước, trước khi chúng ta đi vào bàn công việc. Chuyện xảy ra tối nay chỉ là do hiểu nhầm thôi.- Chuyện xảy ra là sự vi phạm quyền của chúng tôi.Glasser chỉ tay ra cửa rồi nói:- Mời cô lên gác, chúng ta sẽ bàn về chuyện đó.

    Họ đi ra hành lang để vào thang máy. Glasser nhét vào một chiếc thẻ có mã hóa rồi nhấn nút lên tầng trên cùng. Đúng kiểu lên voi xuống chó đây. Cánh cửa thang máy mở ra và họ cùng bước vào một phòng có cửa sổ rất lớn nhìn ra toàn cảnh thành phố Reston. Căn phòng chẳng có vẻ gì là một văn phòng chính phủ.

    Jane thấy ghế dài cũng có chỗ để tay đều màu xám, ở giữa là tấm thảm dày nhạt nhẽo. Một chiếc bàn có bình cà phê, khay đựng cốc chén và đĩa. Trên tường trang trí mỗi một bức tranh - một bức trừu tượng với hình quả bóng màu cam nhìn chóng cả mặt. Treo cái này trong một đồn cảnh sát thì, cô nghĩ, các người chắc chắn là một tên cớm có óc lừa.

    Thang máy mở ra lần nữa làm cô quay ra, thấy Gabriel bước vào.- Em không sao chứ - anh hỏi.- Chưa đến nỗi điên lên như sốc điện. Nhưng em... - cô dừng lại, nhìn người đàn ông cũng vừa bước ra khỏi thang máy phía sau Gabriel. Gương mặt người đàn ông này đã xuất hiện trong cuốn băng lúc chiều cô xem.

    John Barsanti nghiêng đầu chào:- Chào thám tử Rizzoli.Jane nhìn chồng:- Anh biết chuyện gì đang diễn ra không?- Mời tất cả mọi người ngồi - Glasser bảo - Đến lúc chúng ta cần phải gỡ rối vài vấn đề rồi.Jane ngồi trên ghế dài cạnh Gabriel. Trong lúc Glasser rót cà phê và chuyển các cốc đến trước mặt mọi người, không ai nói với ai câu nào.

    Sau cách đối xử họ nhận được trước đó thì đây là cách những người kia đang cầu hòa. Nhưng Jane thì không, cô sẽ không đổi cơn giận dữ trong người chỉ lấy một nụ cười và một tách cà phê. Cô không thèm nhấp môi mà đặt cốc cà phê xuống bàn mặc cho bà kia có muốn làm lành như thế nào.

    - Chúng tôi được phép đặt câu hỏi chứ? Hay đây là cuộc thẩm vấn một chiều - Jane nói.- Tôi mong có thể trả lời tất cả các câu hỏi của cô. Nhưng chúng tôi phải bảo vệ một số thứ cho cuộc điều tra của mình - Glasser nói - Nó không có ý chỉ trích gì hai người cả. Chúng tôi đã kiểm tra cơ bản về cô và mật vụ Dean, cả hai người đã nói mình là nhân viên thi hành luật pháp.

    - Nhưng các người không tin chúng tôi.Glasser nhìn cô bằng ánh mắt lạnh như màu tóc của bà ta.- Chúng tôi không được quyền tin bất cứ ai. Nhất là trong một vấn đề nhạy cảm. Mật vụ Barsanti và tôi đã cố gắng để giữ bí mật công việc của chúng tôi. Nhưng mỗi bước đi của chúng tôi đều bị theo dõi.

    Máy tính bị đột nhập, văn phòng có kẻ lạ vào còn tôi cũng không chắc điện thoại của mình có còn an toàn không nữa. Ai đó đang cố chen vào cuộc điều tra của chúng tôi - bà ta đặt cốc cà phê xuống - Giờ tôi muốn biết anh chị đang làm gì ở đây và tại sao lại đến ngôi nhà đó.

    - Có thể cùng lý do mà bà đã nghi ngờ.- Anh chị biết chuyện đã xảy ra ở đó.- Chúng tôi đã xem các file tư liệu của thám tử Wardlaw.- Anh chị đã phải đi một quãng đường rất xa. Có điều gì đáng quan tâm trong vụ Ashburn?- Sao bà không trả lời câu hỏi của chúng tôi trước - Jane bảo - Sao bộ tư pháp lại quan tâm đến cái chết của năm cô gái điếm như vậy?Glasser im lặng, khó mà đọc được những biểu hiện trên gương mặt của bà.

    Bà nhấp một ngụm cà phê như kiểu câu hỏi đó không phải dành cho bà. Jane không thể không thấy thán phục bà ta vì bà ta khá điềm tĩnh, không thể hiện một ánh nhìn đặc biệt nào cho dù bị xúc phạm. Rõ ràng bà ta là người có quyền ra lệnh ở đây.- Hai người đã biết nhân dạng của các nạn nhân không được xác định - Glasser nói.

    - Đúng.- Chúng tôi tin họ là những người nước ngoài không có tư liệu lưu trữ. Chúng tôi đang cố gắng tìm ra xem họ đã vào nước ta bằng cách nào. Ai đã đưa họ vào đây và qua biên giới nước ta bằng đường nào.- Có phải bà đang nói cái này đều thuộc về vấn đề an ninh quốc gia - Jane hỏi, không khỏi có chút nghi ngờ trong giọng nói.

    - Nó chỉ là một phần. Từ vụ 11/9 dân Mỹ thừa nhận một điều là chúng ta cần thắt chặt an ninh biên giới hơn nữa. Người ta cho rằng chúng ta phải trục xuất hết những người nhập cư bất hợp pháp. Nhưng điều này gần như là không thể. Các phương tiện giao thông giữa Mexico và Mỹ luôn tấp nập như trên đường cao tốc vậy.

    Hàng dặm đường bờ biển dài không được giám sát. Biên giới Canada lại hiếm khi được tuần tra. Dân buôn lậu lại biết rõ tất cả các con đường, cũng như các mánh khóe. Đưa các cô gái vào nước ta là việc đơn giản. Khi đã mang họ vào đây rồi thì việc để họ làm việc kiểu ấy không phải khó.

    Glasser đặt lại cốc của mình lên bàn. Bà ngả người về phía trước, mắt đăm chiêu.- Hai người có biết có bao nhiêu người ép buộc phải làm công việc tình dục ở nước ta không? Đất nước văn minh dân chủ của chúng ta ấy? Ít nhất là năm mươi nghìn người. Đấy là tôi chưa nói đến gái điếm.

    Họ đều là những nô lệ, phải làm những điều trái với ý muốn của mình. Hàng nghìn cô gái bị mang vào đất Mỹ, nơi họ sẽ biến mất, không một dấu vết. Họ trở thành những phụ nữ vô hình. Thế nhưng họ ở ngay quanh chúng ta thôi, trong thành phố lớn cũng như thành phố nhỏ. Giấu mình trong các ổ chứa, bị khóa trong những căn nhà.

    Rất ít người biết đến sự tồn tại của họ.Jane nhớ đến những cửa sổ có chấn song chắc chắn và nghĩ về sự cách biệt của ngôi nhà. Nó không khác gì một nhà tù. Chính xác nó là một nhà tù.- Những cô gái này luôn lo sợ phải đối mặt với các nhà chức trách. Nhưng họ buộc phải tiếp khách - điều đó mới thực sự kinh khủng.

    Thậm chí nếu một cô gái cố trốn đi, cố quay lại quê hương mình thì cô ta vẫn bị lần theo và kết cục còn tệ hơn cả cái chết - bà ta dừng lại - mọi người đã xem báo cáo khám nghiệm của nạn nhân thứ năm rồi đấy. Người già hơn ấy.- Vâng - Jane nuốt khan.- Chuyện xảy đến cho bà ta là một lời nhắn rất rõ ràng.

    Làm tình với chúng tao và chúng mày sẽ kết thúc như thế này. Chúng tôi không biết bà ta đã làm gì để khiến chúng nổi giận như thế, bà ta đã biết những gì. Có thể bà ta lấy số tiền không phải của bà ta. Có thể bà ta định làm ăn trong vụ này. Rõ ràng bà ta là chủ nhà, là tú bà trong đó.

    Nhưng điều đó không đủ để cứu bà ta. Bất kể bà ta đã làm điều gì sai thì bà ta cũng đã phải trả giá cho điều đó. Còn những cô gái, họ cũng phải trả giá cùng với bà ta.- Vậy các điều tra của bà không phải là vì khủng bố - Gabriel hỏi.- Khủng bố thì có liên quan gì tới những điều này chứ?- Những người nước ngoài không có tài liệu gì nói là họ đến từ vùng Đông u - có thể có mối liên hệ với nhóm Chechen lắm chứ.

    - Những người phụ nữ này được đưa vào nước ta chỉ nhằm mục đích thương mại chứ không có lý do nào khác.Glasser nhướn mày nhìn Gabriel:- Ai đã có ý tưởng về khủng bố?- Nghị sĩ Conway. Thêm nữa có cả phó giám đốc cục tình báo quốc gia cũng tin như thế.- David Silver?- Anh ta bay tới Boston theo tiếng gọi của một vụ bắt con tin.

    Đấy là cái mà họ tin là họ đang phải đối mặt. Đe dọa khủng bố của nhóm Chechen.Glasser cười:- Mật vụ Dean, David Silver đã quá ám ảnh bởi những tên khủng bố. Anh ta thấy họ dưới mọi chiếc cầu, trên mọi tuyến đường...- Anh ta nói chuyện này đã được cả những cơ quan cấp cao hơn quan tâm.

    Chính giám đốc Wynne cử anh ta tới.- Đấy là cái giá mà mấy vị cấp cao của cục tình báo quốc gia phải trả. Là cách các ông ấy khẳng định sự tồn tại của mình. Với những người này thì tất cả đều là khủng bố, lúc nào cũng thế.- Nghị sĩ Conway cũng có vẻ để tâm đến điều này.

    - Anh tin nghị sĩ?- Tôi có nên không?- Anh đã nói chuyện nhiều với Conway, đúng không - Barsanti hỏi.- Nghị sĩ nằm trong hội đồng tình báo. Chúng tôi có gặp nhau vài lần về công việc của tôi ở Bosnia. Điều tra tội ác chiến tranh.- Nhưng anh có thực sự hiểu anh ta không?- Ý bà là tôi không hiểu đúng không?- Ông ta đã làm nghị sĩ được ba nhiệm kì rồi - Glasser nói - Để có thể kéo dài được lâu như thế anh sẽ phải có rất nhiều những hợp đồng, những dàn xếp và thỏa hiệp.

    Hãy cẩn thận với người mà anh tin tưởng. Đấy là tất cả những gì chúng tôi đang nói. Chúng tôi đã học được bài học ấy cách đây khá lâu rồi.- Vậy khủng bố không phải là thứ làm ông bà quan tâm ở đây đúng không - Jane hỏi.- Mối quan tâm của tôi đó là năm mươi nghìn phụ nữ đã biến mất.

    Họ đang phải làm nô lệ ở đâu đó trong lãnh thổ của chúng ta. Đó là sự lạm dụng con người, họ bị bóc lột bởi những vị khách chỉ quan tâm tới vấn đề tình dục - bà ngừng lời lấy hơi - Đấy là tất cả những gì ở đây.- Cái này nghe có vẻ giống một cuộc thập tự chinh vì con người của bà.

    Glasser gật đầu.- Đã gần bốn năm nay rồi.- Vậy tại sao bà lại không cứu những người phụ nữ ở Ashburn? Chắc chắn bà phải biết chuyện gì xảy ra trong ngôi nhà đó.Glasser không nói gì, thực ra thì bà cũng không phải nói. Cái nhìn khó chịu của bà đã khẳng định điều Jane dự đoán.

    Jane nhìn Barsanti:- Đấy là lý do tại sao ông lại có mặt ở hiện trường vụ án nhanh đến thế. Gần như cùng thời điểm với cảnh sát. Ông cũng đã biết chuyện xảy ra ở đó. Ông phải biết.- Chúng tôi có được đầu mối vài ngày trước đấy.- Vậy mà ông không nhảy vào ngay lập tức? Ông không cứu những người phụ nữ ấy?- Chúng tôi không có trang thiết bị nghe ở đó.

    Không có cách nào để theo dõi xem chuyện gì diễn ra bên trong.- Ông đã biết đó là một nhà chứa. Ông biết cả việc họ bị nhốt trong đó.- Nhưng nó nguy hiểm hơn là cô nhận thấy - Glasser bảo - nhiều hơn rất nhiều so với năm người ấy. Chúng tôi cần phải bảo vệ một cuộc điều tra có quy mô lớn hơn.

    Nếu chúng tôi nhảy vào quá sớm chúng tôi sẽ dễ dàng bị lộ bí mật.- Và thế là năm người kia phải chết.- Cô nghĩ tôi không biết điều đó sao? - Glasser có vẻ khá bực tức, bà đứng dậy đến bên khung cửa sổ, quay nhìn ánh đèn thành phố - Cô có biết điều tồi tệ nhất mà nước ta đã xuất khẩu sang Nga là gì không? Một thứ mà tôi ước rằng Chúa đừng bao giờ tạo ra nó.

    Nó chính là bộ phim Pretty Woman[7]. Cô biết đấy, bộ phim với diễn viên chính là Julia Roberts trong vai cô gái điếm Cinderella. Ở Nga họ rất yêu thích bộ phim này. Những cô gái xem nó rồi nghĩ: Nếu ta tới Mỹ, ta sẽ gặp Richard Gere. Anh ta sẽ lấy ta, ta sẽ giàu có và sẽ sống hạnh phúc mãi mãi.

    Vậy là dù còn nghi ngờ về điều ấy, còn không chắc chắn về công việc đang chờ đợi mình ở đất Mỹ thì các cô ấy vẫn cứ cho là nếu mình đến đó được thì mình chỉ cần phải giở vài trò mánh khóe thôi thế là Richard Gere sẽ xuất hiện để cứu cô ấy. Vì thế các cô gái đáp một chuyến bay tới thành phố Mexico, từ đó sẽ đi bằng thuyền tới San Diego.

    Hoặc có thể anh chàng lái xe nào đấy sẽ chở cô ấy đi qua biên giới tấp nập xe cộ. Rồi nếu cô ấy nói tiếng Anh mà lại tóc vàng nữa thì cô ấy sẽ được người ta vẫy ngay. Có đôi khi họ cũng chỉ đi qua mà thôi. Cô ấy nghĩ cô ấy sẽ sống cuộc đời của Pretty Woman. Nhưng thay vào đó cô ấy chỉ bị đem bán như một miếng thịt bò - Glasser quay lại nhìn Jane và nói - Cô có biết một tên dẫn khách có thể kiếm được bao nhiêu bởi một cô gái xinh đẹp không?Jane lắc đầu.

    - Ba mươi nghìn đô la một tuần. Một tuần đấy - Glasser lại nhìn ra ngoài cửa sổ - chẳng hề có cung điện và Richard Gere nào đợi cưới cô cả. Đời cô sẽ kết thúc bằng việc bị nhốt trong một căn hộ hoặc một ngôi nhà, bị kiểm soát bởi những con quái vật thực sự trong nghề. Những người sẽ huấn luyện cô, trừng phạt cô, làm mất tinh thần của cô.

    Đó là những người phụ nữ khác.- Chính là Jane Doe số 5 - Gabriel nói.Glasser gật đầu:- Chủ chứa.- Bà ta bị giết bởi chính những người bà ta làm việc cho?- Khi bơi với cá mập thì luôn có khả năng bị cá mập cắn.- Như trong trường hợp này là bị đập nát tay, xương gãy nát, Jane nghĩ, có thể là hình phạt cho việc vi phạm hoặc phản bội.

    - Năm phụ nữ chết trong ngôi nhà đó - Glasser nói - nhưng còn năm mươi nghìn tâm hồn khác đang bị vùi lấp ngoài kia, bị giam giữ trên cái đất nước luôn đặt tự do lên đầu này. Họ bị lạm dụng bởi những người đàn ông - những kẻ chỉ biết đến tình dục, chỉ biết thỏa mãn tính dục của mình, không tỏ một chút lòng thương hại khi những cô điếm ấy khóc lóc đau đớn.

    Những kẻ ấy không bao giờ mảy may nghĩ tới người mà họ đã dùng. Có thể những gã ấy sau đó quay về nhà với vợ con lại đóng vai trò một người chồng tốt. Nhưng hàng ngày, hàng tuần sau đó hắn lại trở lại nhà chứa để làm tình với những cô gái chỉ đáng tuổi con gái mình. Và chẳng bao giờ hắn ta nghĩ rằng lúc hắn soi gương thì hình ảnh trong gương là hình ảnh của một con quái vật - Giọng Glasser nhỏ dần.

    Bà hít một hơi sâu, đưa tay lên gáy như cố xoa tan cơn thịnh nộ.- Olena là ai - Jane hỏi.- Tên đầy đủ của cô ấy ư? Chúng ta có thể sẽ chẳng bao giờ biết được.Jane nhìn Barsanti:- Ông đã theo cô ấy đến tận Boston mà không biết tên cô ấy ư?- Chúng tôi biết một số thứ khác về cô ấy.

    Chúng tôi biết cô ấy là một nhân chứng. Cô ấy đã ở trong ngôi nhà đó, ngôi nhà ở Ashburn.Đúng điều này rồi, Jane nghĩ. Đây chính là mối liên hệ giữa Ashburn và Boston.- Sao ông biết?- Những dấu tay. Đội thu dọn hiện trường đã thu thập hàng tá những dấu vân tay không xác định rõ trong ngôi nhà đó.

    Những dấu vân tay không trùng với bất cứ nạn nhân nào cả. Một số là do các vị khách nam để lại nhưng có một dấu trùng với dấu vân tay của Olena.- Đợi chút - Gabriel bảo - Cảnh sát Boston đã ngay lập tức tra trên dữ liệu AFIS để tìm kiếm dấu vân tay của Olena. Nhưng họ không thấy có cái nào khớp cả.

    Ông vừa nói dấu vân tay cô ấy tìm thấy ở hiện trường vụ giết người vào tháng 2. Thế tại sao AFIS không cung cấp thông tin cho chúng tôi?Glasser và Barsanti nhìn nhau, một cái nhìn cũng đủ để Gabriel hiểu ra vấn đề:- Các ông đã lấy dấu vân tay ấy ra khỏi AFIS - Gabriel bảo - Đó là thông tin mà cảnh sát Boston có thể dùng tới.

    - Nhưng những nhóm khác cũng có thể dùng nó - Barsanti nói.- Nhóm khác là những người quái quỷ nào nữa chứ - Jane chen ngang - Tôi là người bị bắt giữ trong bệnh viện cùng cô gái ấy. Tôi là người bị chĩa súng vào đầu. Thế mà các người không có một chút thương xót cho các con tin sao?- Tất nhiên là chúng tôi có chứ - Glasser trả lời - Nhưng chúng tôi muốn tất cả mọi người được ra khỏi đó sống sót.

    Trong đó có cả Olena.- Đặc biệt là Olena - Jane bảo - Bởi vì cô ấy là nhân chứng của các vị.Glasser gật đầu.- Cô ấy đã chứng kiến chuyện xảy ra ở Ashburn. Đấy là lý do tại sao hai người đàn ông đã xuất hiện trong phòng bệnh của cô ấy.- Ai đã cử họ đến?- Chúng tôi không biết.

    - Các vị có dấu vân tay của gã mà cô ấy đã bắn. Vậy anh ta là ai?- Chúng tôi cũng vẫn không biết. Nếu anh ta là một cựu binh thì Lầu Năm Góc sẽ không cho chúng tôi biết.- Bà làm ở Bộ Tư pháp mà không thể có được thông tin đó hay sao?Glasser đi tới bàn Jane ngồi xuống một chiếc ghế và nhìn cô.

    - Giờ thì cô đã hiểu vấn đề mà chúng ta đang phải đối mặt rồi đấy. Mật vụ Barsanti và tôi đã cố gắng giải quyết vụ này thật êm thấm và bí mật. Nhưng chúng tôi lại cũng nằm trong tầm kiểm soát vì họ cũng đang theo đuổi cô ấy. Chúng tôi hy vọng sẽ tìm ra cô ấy trước.

    Chúng tôi đã đến rất gần mục tiêu. Suốt từ Baltimore đến Connecticut rồi đến Boston, mật vụ Barsanti lúc nào cũng chỉ cách cô ấy một bước chân.- Làm thế nào các vị có thể theo dấu cô ấy?- Nó khá đơn giản. Chúng tôi chỉ cần lần theo thẻ tín dụng của Joseph Roke. Chính các trạm ATM đã dẫn đường.

    - Chúng tôi cố gắng để tiếp cận anh ta - Barsanti nói - Để lại tin nhắn trên điện thoại di động của anh ta, thậm chí còn để tin nhắn cho một bà dì của anh ta ở Pennsylvania. Cuối cùng thì Roke cũng chịu gọi lại cho tôi và tôi đã cố gắng thuyết phục anh ta. Nhưng anh ta không chịu tin tôi.

    Tiếp theo thì anh ta bắn chết một cảnh sát ở New Haven. Đến lúc đó thì chúng tôi mất dấu họ hoàn toàn. Tôi nghĩ đó cũng là lúc họ tách nhau ra - Barsanti nói.- Sao ông biết họ đã đi cùng nhau?- Vào cái đêm xảy ra vụ giết người ở Ashburn - Glasser trả lời - Joseph Roke đã mua xăng ở một trạm dịch vụ gần đó.

    Anh ta đã dùng thẻ tín dụng và sau đó thì hỏi viên thu ngân xem có xe kéo không vì anh ta đã cho hai người phụ nữ đi nhờ và giờ thì cần người kéo xe của họ đi.Im lặng. Gabriel và Jane nhìn nhau.- Hai người?- Máy quay ở trạm xăng đã quay được cảnh xe của Roke trong khi nó đậu chờ đổ xăng.

    Qua kính chắn gió ta có thể thấy có một phụ nữ ngồi ở ghế đằng trước. Đó chính là Olena. Đấy chính là đêm bước ngoặt trong cuộc đời của họ, là đêm Roke đã tham gia vào chuyện này. Giây phút anh ta mời hai cô gái lên xe, vào cuộc sống của anh ta và anh ta đã trở thành một người khác.

    Năm tiếng sau khi anh ta dừng lại ở trạm xăng, nhà của anh ta đã bốc cháy. Đấy cũng là lúc anh ta nhận ra mình đã tham gia vào một vụ rắc rối, tự chuốc họa vào thân.- Thế còn người phụ nữ thứ hai? Bà nói anh ta cho hai người đi nhờ cơ mà?- Chúng tôi không biết chút gì về cô gái ấy.

    Chỉ biết cô ấy đã đi cùng với họ đến tận New Haven. Đấy là khoảng hai tháng trước.- Các vị đang nói đến cuốn băng của cảnh sát về vụ bắn cảnh sát ở New Haven đúng không?- Trong cuốn băng ấy có thể thấy một cái đầu nhô lên từ băng ghế sau. Chúng ta chỉ thấy phần sau đầu mà không nhìn thấy mặt cô ấy.

    Không có bất cứ thông tin nào của cô ấy để lại cho chúng ta cả. Chỉ có vài sợi tóc trên ghế. Chúng tôi cho rằng cô ấy đã chết.- Nhưng nếu cô ấy còn sống - Barsanti nói - thì cô ấy sẽ là nhân chứng cuối cùng của chúng ta. Người duy nhất còn lại đã chứng kiến chuyện xảy ra ở Ashburn.

    - Tôi có thể nói cho các vị tên của cô ấy - Jane nói nhẹ.- Sao?- Đó là một giấc mơ - Jane nhìn Gabriel - Là điều Olena đã nói với tôi.- Cô ấy đã luôn gặp một cơn ác mộng - Gabriel bảo - về vụ đột kích.- Chuyện gì trong giấc mơ - Glasser hỏi và nhìn Jane.- Tôi nghe thấy tiếng phá cửa vào trong phòng.

    Cô ấy ngả người về phía tôi để nói với tôi một điều - Jane nuốt khan.- Olena ư?- Đúng. Cô ấy nói: "Mila biết". Đấy là tất cả những gì cô ấy đã nói với tôi. "Mila biết".Glasser vẫn nhìn cô:- Mila biết ư? Thì hiện tại? - Bà quay nhìn Barsanti - Nhân chứng của chúng ta vẫn còn sống.


  9. #28
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 28
    - Tôi rất ngạc nhiên khi thấy cô ở đây đấy bác sĩ Isles - Peter Lukas bảo - vì tôi đã gọi cho cô mãi mà không được - Anh ta nói rồi bắt tay Maura, một cái bắt tay mang tính kinh doanh.Maura đã không thèm trả lời điện thoại của anh ta. Anh ta dẫn cô đi qua tiền sảnh của tòa soạn báo Boston Tribune đến bàn kiểm tra an ninh nơi bảo vệ đưa cho cô một chiếc thẻ khách thăm màu cam.

    - Cô sẽ phải trả lại thẻ này khi quay ra thưa cô - viên bảo vệ nói.- Cô nên làm thế còn không vị này sẽ săn đuổi cô như một con chó săn đấy - Lukas đùa.- Đã ghi nhận lời cảnh báo - Maura nói rồi kẹp cái thẻ vào áo - anh nên bảo vệ ở đây hơn là ở Lầu Năm Góc.- Cô có ý gì về chuyện sẽ có bao nhiêu người mà một tờ báo làm cho tức điên lên mỗi ngày không - anh ta nhấn nút thang máy và nhìn gương mặt chẳng hề vui vẻ của Maura - Ừm, tôi nghĩ cô chắc hẳn là một người trong số họ.

    Có phải vì thế cô không gọi lại cho tôi không?- Có rất nhiều người không hài lòng với bài báo anh viết về tôi.- Không hài lòng về tôi hay về cô?- Về tôi.- Vậy là tôi đã viết sai ý của cô sao?Cô ngần ngừ rồi thừa nhận.- Không.- Vậy tại sao cô lại khó chịu với tôi? Rõ ràng cô đang rất khó chịu.

    - Tôi đã quá thành thật với anh. Lẽ ra tôi không nên như thế.- Tôi lại thích phỏng vấn một người phụ nữ thành thực - đó là sự thay đổi tuyệt vời.- Anh có biết tôi nhận được bao nhiêu cuộc gọi không? Về cái thuyết sống lại của Chúa Jesu ấy.- Ồ. Cái đó thì...- Có cả những cuộc gọi từ Florida.

    Mọi người đều rất tức giận vì những lời báng bổ của tôi.- Cô chỉ nói ý kiến của mình thôi mà.- Khi anh có một công việc phục vụ quần chúng như tôi thì đôi khi đó là một việc nguy hiểm đấy.- Đó chỉ là ở trong khu vực của chúng ta thôi bác sĩ Isles. Cô là người của công chúng và nếu cô nói một điều gì thú vị thì nó sẽ được in ra.

    Ít ra thì cô cũng có điều gì thú vị để nói không giống như nhiều người khác tôi đã phỏng vấn.Thang máy mở ra, họ bước vào. Chỉ có hai người trong thang máy, cô nhận ra anh ta đang quan sát mình. Anh ta đứng gần cô đến mức không cần thiết.- Vậy tại sao anh gọi cho tôi? Có phải anh muốn tôi gặp nhiều rắc rối hơn nữa?- Tôi muốn biết kết quả khám nghiệm của Olena và Joe.

    Cô chưa hề đưa ra các báo cáo cho việc đó.- Tôi không hoàn thành ca khám nghiệm đó. Những cái xác đã được chuyển đến phòng khám nghiệm của FBI.- Nhưng văn phòng của cô chịu trách nhiệm làm việc đó cơ mà? Tôi không tin là cô lại để những cái xác ấy trong phòng lạnh mà không thèm làm bất cứ kiểm tra nào.

    Đấy không phải tính cách của cô.- Thế cái gì mới là tính cách của tôi - cô nhìn anh ta.- Tò mò. Nỗ lực - anh ta cười - và ngoan cố nữa.- Giống anh?- Ngoan cố thì chắc chắn là tôi không giống cô rồi. Tôi nghĩ chúng ta có thể làm bạn. Không phải vì tôi mong đợi điều gì đặc biệt đâu.

    - Anh mong đợi điều gì ở tôi?- Thì bữa tối? Khiêu vũ? Không thì ít nhất là cocktail?- Anh có bị sao không đấy?Anh ta trả lời câu hỏi của cô bằng một cái nhún vai bẽn lẽn.- Thử chẳng có hại gì.Cửa thang máy mở ra, họ cùng bước ra ngoài.- Cô ấy bị chết do những vết thương vào hông và vào đầu - Maura nói - Tôi nghĩ đó là điều anh muốn biết.

    - Mấy vết thương? Có mấy người bắn?- Anh muốn biết về tất cả những chi tiết đẫm máu?- Tôi chỉ muốn nó thật chính xác. Có nghĩa là phải đi đến tận gốc của vấn đề kể cả tôi sẽ phải làm người khác khó chịu.Họ đi vào phòng tin tức, đi qua những phóng viên đang bận bịu trên bàn phím tới một chiếc bàn nơi có những tập tài liệu và những bản ghi chú.

    Chẳng thấy có chỗ nào cho một bức của đứa trẻ hay một người phụ nữ hoặc một con chó cũng vậy. Chỗ này chỉ dành cho công việc và cô băn khoăn không biết người ta làm được bao nhiêu việc trong cái đám lộn xộn, ầm ĩ này.Anh ta yêu cầu lấy thêm một chiếc ghế từ bàn bên cạnh và chuyển cho Maura ngồi.

    Lúc cô ngồi xuống nó phát ra một âm thanh ầm ĩ, khó chịu.- Vậy là cô sẽ không gọi lại cho tôi - anh ta nói rồi cũng ngồi xuống ghế - nhưng cô sẽ tới gặp tôi tại văn phòng. Điều này có ý gì đặc biệt không?- Chuyện này đã đủ phức tạp rồi.- Vậy giờ cô cần điều gì đó từ tôi.

    - Chúng tôi đang cố tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra tối đó. Tại sao nó xảy ra.- Nếu cô có bất cứ câu hỏi nào cho tôi thì tất cả những việc cô phải làm là nhấc điện thoại lên - anh ta nhìn cô dò ý - Tôi sẽ trả lời điện thoại của cô, bác sĩ Isles.Họ im lặng. Trên bàn làm việc khác có tiếng chuông điện thoại, tiếng lách cách của bàn phím nhưng Maura và Lukas chỉ nhìn nhau.

    Không khí giữa họ là sự bực tức và còn một thứ gì nữa mà Maura không muốn biết. Có sự hấp dẫn lẫn nhau giữa hai người. Hay chỉ là do mình đang tưởng tượng ra nhỉ?- Xin lỗi - cuối cùng thì anh ta cũng nói - tôi thật ngớ ngẩn. Ý tôi là, cô đã ở đây vậy thì chắc chắn là cô có mục đích của mình.

    - Anh cũng phải hiểu cho tình thế của tôi - cô nói - là một công chức phục vụ quần chúng lúc nào tôi cũng nhận được các cuộc gọi từ nhà báo. Một trong số họ - nhiều người trong số họ - không quan tâm tới sự riêng tư của nạn nhân hay sự đau khổ của gia đình họ kể cả việc điều tra liệu có nguy hiểm không.

    Tôi đã học được là phải luôn cảnh giác và để ý những điều mình nói. Bởi vì đã quá nhiều lần tôi bực mình vì họ nói dối tôi rằng họ thề những lời phát biểu của tôi sẽ không bị ghi âm.- Vậy đó là lý do cô không gọi? Vì bí mật nghề nghiệp?- Đúng vậy.- Không còn lý do nào khác cho việc cô không gọi lại cho tôi nữa chứ?- Còn có thể có lý do nào khác nữa?- Tôi không biết.

    Tôi cho rằng có lẽ cô không thích tôi - anh ta nhìn đầy ngụ ý khiến cô khó mà nhìn anh ta được. Điều đó làm cô không thấy thoải mái.- Không phải tôi không thích anh, anh Lukas.- Ô. Tôi đánh giá cao sự khen ngợi đó.- Tôi nghĩ đám phóng viên có da rất dày.- Chúng tôi rất muốn như thế, nhất là với những người chúng tôi khâm phục - anh ta ngả người gần hơn - và dù sao thì cũng đừng gọi tôi là anh Lukas như thế.

    Cứ gọi Peter.Lại yên lặng. Vì thực ra cô chẳng biết đây là một kiểu tán tỉnh hay chỉ là một mánh khóe. Với người đàn ông này thì nó có thể là cả hai.- Nó cứ như một chùm bóng bay vậy - Lukas bảo.- So sánh rất hay nhưng tôi muốn anh đi thẳng vào vấn đề.- Tôi nghĩ là mình đang rất thẳng thắn đấy chứ?- Anh muốn thông tin từ tôi.

    Tôi cũng muốn điều như vậy từ anh. Tôi chỉ không muốn nói chuyện đó qua điện thoại mà thôi.Anh ta gật đầu tỏ ý hiểu.- Được. Vậy đây đơn giản chỉ là một cuộc trao đổi.- Điều tôi cần đó là…- Chúng ta đang tham gia vào một cuộc mua bán đúng không? Tôi không thể mời cô một tách cà phê trước sao?Anh ta nói rồi đứng dậy đi tới bình cà phê.

    Liếc nhìn máy pha cà phê, cô chỉ thấy còn có một chút cà phê đen, cô liền nói nhanh:- Không cần cho tôi, cám ơn anh.Anh ta rót một cốc cho mình rồi ngồi xuống.- Vậy có chuyện gì mà cô không nói qua điện thoại được?- Những thứ đã và đang… xảy ra.- Những thứ? Ý cô là cô thậm chí không tin cả điện thoại của chính mình?- Như tôi đã nói với anh, sự việc rất phức tạp.

    - Sự can thiệp của các tổ chức liên bang, tịch thu các chứng cứ của bên đạn đạo. FBI đang trong một cuộc chiến giằng co với Lầu Năm Góc. Kẻ bắt giữ con tin vẫn chưa được xác minh - anh ta cười - Đúng rồi, tôi cũng sẽ nói nó đang trở nên rất phức tạp.- Anh biết tất cả những điều đó?- Đấy là lý do tại sao người ta lại gọi chúng tôi là nhà báo.

    - Anh đã nói chuyện với ai?- Cô có nghĩ là tôi sẽ trả lời câu hỏi ấy không? Cứ biết rằng tôi có bạn bè bên thi hành luật đi. Và tôi có các giả thuyết.- Về việc gì?- Joseph Roke và Olena. Và vụ bắt con tin ấy thực sự là vì vấn đề gì.- Không ai biết thực sự câu trả lời là thế nào.

    - Nhưng tôi biết mấy người bên thi hành pháp luật nghĩ gì. Tôi biết giả thuyết của họ là gì - anh ta đặt tách cà phê xuống - John Barsanti đã ngồi với tôi ba tiếng đồng hồ, cô biết điều đó chưa? Cố thăm dò để tìm ra tại sao cái gã Joseph Roke kia lại chỉ muốn nói chuyện với tôi.

    Thật buồn cười về những điều nghi vấn. Người được hỏi sẽ nhận được khá nhiều thông tin từ những câu họ được hỏi. Tôi đã biết hai tháng trước Olena và Joe ở cùng nhau tại New Haven, nơi họ đã giết một cảnh sát. Có lẽ họ là một đôi yêu nhau, có thể họ là một cặp hoang tưởng.

    Nhưng sau vụ đó họ đã tách nhau ra. Ít ra nếu họ thông minh thì họ sẽ làm đúng như thế mà tôi nghĩ họ không phải là những kẻ ngớ ngẩn. Nhưng chắc chắn họ phải có một cách nào đó để giữ liên lạc với nhau. Một cách nào đó để có thể tập hợp lại khi cần. Và họ đã chọn Boston làm nơi gặp mặt.

    - Tại sao lại là Boston?Anh ta nhìn thẳng cô, cô không tránh được ánh mắt ấy.- Cô đang nhìn vào lý do đấy.- Là anh?- Không phải tôi đang cố nâng mình lên đâu. Tôi chỉ đang nói cho cô biết điều mà Barsanti nghĩ. Joe và Olena có vẻ xem tôi như một người anh hùng trong cuộc thập tự chinh của họ.

    Đấy là lý do họ tới Boston, để gặp tôi.- Chính nó cũng dẫn đến điều nghi vấn mà tôi cần đến đây để hỏi anh - cô ngả người về phía anh ta - Tại sao lại là anh? Không phải họ chỉ tình cờ lấy ra được một cái tên và cái tên đó là tên anh. Joe có thể có vấn đề về mất cân bằng tâm lý, nhưng anh ta là một người thông minh - một độc giả của các báo chí.

    Vài điều anh viết có lẽ đã làm anh ta chú ý.- Tôi biết câu trả lời cho câu hỏi đó. Barsanti cũng đã chỉ ra được vài điểm khi ông ta hỏi tôi về bài báo tôi viết hồi đầu tháng 2, về tập đoàn Ballentree.Cả hai cùng im lặng khi một nhà báo đi qua để đến lấy cà phê. Trong lúc đợi cho cô ta rót xong cốc cà phê của mình họ nhìn nhau.

    Chỉ đến khi người phụ nữ kia đã ở xa không nghe thấy họ nói chuyện thì Maura mới lên tiếng.- Cho tôi xem bài viết đó của anh.- Nó ở trên tờ LexisNexis, để tôi tra lại.Anh đến bên máy tính của mình, tra vào phần tin LexisNexis rồi đánh tên của mình vào tìm kiếm. Trên màn hình một loạt bài.

    - Để tôi tìm đúng ngày đó - anh ta nói rồi đưa con trỏ dò xuống dưới trang.- Đây là tất cả những thứ anh đã viết à?- Đúng, tất cả những cái này có thể đưa tôi về với những ngày "Big foot" của tôi.- Sao cơ?- Hồi tôi mới tốt nghiệp trường báo chí, tôi có cả đống khoản vay phải trả, Tôi viết tất cả những gì có thể kể cả việc che đậy vụ Bigfoot ở California - anh ta nhìn cô - Tôi thừa nhận điều đó.

    Tôi đã từng là một gã đưa tin tồi. Nhưng tôi có rất nhiều hoá đơn phải thanh toán.- Còn bây giờ thì anh được tôn trọng?- Ừm, tôi sẽ không đi quá xa... - anh ta dừng lại, kích vào một mục - Được rồi. Bài báo đó đây - anh ta nói rồi đứng dậy nhường ghế cho cô - Đây là cái tôi đã viết hồi tháng giêng về tập đoàn Ballentree.

    Cô ngồi xuống ghế của anh ta và tập trung vào bài báo trên màn hình.Chiến tranh là một món hời: Kinh doanh nở rộ của Ballentree.Trong khi nền kinh tế Mỹ đang đi xuống thì vẫn có một bộ phận kinh tế đang thu được những lợi nhuận lớn. Tập đoàn bảo vệ khổng lồ Ballentree vẫn đang trong guồng của những hợp đồng mới như một chú cá vùng vẫy trong cái hồ riêng của họ...- Chẳng cần phải nói - Lukas bảo - Ballentree đã chẳng hề vui vẻ gì với bài báo này.

    Nhưng tôi không phải là người duy nhất viết về vấn đề này. Những điều tranh cãi khác cũng được các nhà báo viết trên mọi cấp độ.- Nhưng Joe đã chọn anh.- Có lẽ là do bị hối thúc về thời gian thôi. Có thể ngày hôm đó anh ta đã cầm một tờ Tribune và trong đó có bài của tôi về tập đoàn Ballentree.

    - Tôi có thể xem những bài viết khác của anh được không?- Cô cứ tự nhiên.Cô quay lại phần danh sách các bài báo của anh ta trên trang LexisNexis.- Anh viết nhiều quá nhỉ.- Tôi đã viết hơn hai mươi năm nay rồi, tất cả, từ những vụ đánh nhau của mấy tay anh chị cho đến những đám cưới của dân đồng tính.

    - Cả Bigfoot nữa chứ.- Cô đừng nhắc đến chuyện đó nữa.Cô chuyển đến trang thứ nhất và thứ hai sau đó đến trang thứ ba. Cô dừng lại để xem.- Bài này được lấy tư liệu từ Washington.- Tôi tưởng đã nói với cô rồi. Tôi từng là phóng viên ở Washington cho tờ Tribune.

    Chỉ hai năm ở đó thôi.- Tại sao?- Tôi ghét nó. Tôi thừa nhận mình là người Yankee, sinh ra ở Mỹ nhưng tôi nhớ mùa đông ở đây nên tôi đã quay về Boston vào tháng hai.- Vậy anh viết gì ở D.C.?- Tất cả mọi thứ: những nét đặc trưng, chính trị, tội phạm - anh dừng lại một chút - người ta có thể cho rằng không có sự khác biệt giữa hai vấn đề cuối cùng nhưng tôi lại khác.

    Tôi thà theo một vụ giết người còn hơn là suốt ngày phải đuổi theo một ngài nghị sĩ.Cô quay ra sau nhìn anh ta:- Anh đã từng gặp nghị sĩ Conway chưa?- Tất nhiên. Ông ấy là một trong số những nghị sĩ của chúng ta mà - anh ta lại dừng một chút - Sao cô lại hỏi về ngài Conway?Thấy cô không trả lời anh ta cúi lại gần hơn, tay đặt trên lưng ghế cô ngồi- Bác sĩ Isles - giọng anh ta bỗng nhiên nhỏ lại như thì thầm vào tai cô - Cô có muốn nói cho tôi biết điều cô đang nghĩ không?Cô vẫn nhìn vào màn hình.

    - Tôi đang cố kết nối mọi thứ với nhau.- Cô có thấy bị ngứa không?- Sao?- Đấy là cách tôi nói khi đột nhiên tôi thấy mình đang ở vào một hoàn cảnh thú vị nào đấy. Nó được biết đến như khả năng ngoại cảm ấy. Hãy nói cho tôi biết sao ngài Conway lại làm cô chú ý đến vậy.

    - Ông ấy là một thành viên của ủy ban tình báo.- Hồi tháng Mười một hay Mười hai gì đấy tôi cũng đã phỏng vấn ông ấy. Bài báo chắc ở đâu đấy.Cô dò các tiêu mục về quốc hội và các nguy cơ khủng bố, một đại biểu quốc hội bị bắt giữ vì lái xe trong tình trạng say rượu, và cuối cùng cũng thấy một bài về nghị sĩ Conway.

    Sau đó cô bị thu hút bởi một tiêu đề báo ngày 15 tháng Hai.Một người đàn ông bị chết trên thuyền. Vụ mất tích của một thương nhân từ ngày mùng 2 tháng Hai.Chính cái ngày ấy làm cô chú ý. Ngày mùng 2 tháng Hai. Cô kích vào mục đó và thấy cả trang viết hiện ra trên màn hình.


  10. #29
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 29
    Mila, cô là ai? Cô đang ở đâu?Ở một nơi nào đó chắc sẽ có dấu vết của cô ấy, Jane vừa nghĩ vừa rót một tách cà phê. Cô ngồi ghế, xem xét tất cả các tài liệu mà cô đã có được từ lúc rời bệnh viện. Đó là những bản báo cáo khám nghiệm và báo cáo của cảnh sát Boston về vụ án, những tài liệu của cảnh sát Leesburgh về vụ thảm sát ở Ashburn, tài liệu của Moore về Olena và Joseph Roke.

    Cô đã xem những tài liệu này mấy lần rồi, cố tìm kiếm dấu vết của Mila - cô gái mà chưa ai biết mặt. Chỉ có duy nhất một bằng chứng chứng tỏ sự tồn tại của Mila nằm trong xe của Roke: vài sợi tóc trên băng ghế sau, những sợi tóc không khớp với Roke và Olena.Jane nhấp một ngụm cà phê và xem lại tập tài liệu về chiếc xe bị bỏ lại của Roke.

    Cô phải tranh thủ làm việc giữa các giấc ngủ của Regina. Giờ thì cô con gái nhỏ đang ngủ say rồi, cô không bỏ lỡ một giây nào để tìm hiểu thêm tin về Mila. Cô rà soát một loạt những thứ tìm thấy trong chiếc xe, xem xét xem anh ta có gì. Có một chiếc túi vải dùng đựng đầy quần áo bẩn, vài cái khăn mặt lấy cắp được từ một nhà nghỉ.

    Có một túi bánh mỳ và mứt, ít bơ và mấy hộp nước xốt Viên. Đây là thực đơn của một người không bao giờ có cơ hội nấu nướng. Một người đang trên đường chạy trốn.Cô chuyển sang những bằng chứng dấu vết và tập trung vào mấy sợi tóc cùng phân tích mô. Đây là một chiếc xe siêu bẩn, cả ghế trước và ghế sau đều cáu bẩn.

    Tất cả đều là do con người tạo ra, còn có rất nhiều sợi tóc nữa. Những sợi tóc trên ghế sau làm cô chú ý, cô đọc lại bản báo cáo.Con người, A02/B00/C02 (7cm)/D42Tóc trên đầu. Hơi quăn, đường kính 7cm, chất màu đỏ trung bình.Đây là tất cả những điều mà chúng tôi biết về cô đấy Mila, Jane nghĩ, cô có một mái tóc ngắn, màu đỏ.

    Cô quay nhìn tấm ảnh chụp chiếc xe. Cô đã nhìn thấy những tấm này nhưng mới có một lần. Cô dò xét thấy một thùng Red Bull trống, những giấy gói thức ăn, một chiếc chăn vo thành đống và một chiếc gối bẩn thỉu. Mắt cô dừng lại ở hình ảnh tờ báo lá cải ở băng ghế sau.Tờ Weekly Confidential.

    Một lần nữa cô lại thấy có điều gì đó không hợp lý - một tờ báo kiểu này trong xe một người đàn ông ư? Joe có thực sự quan tâm đến những rắc rối của Melanie Griffith hay việc chồng cô ta bỏ ra ngoài khiêu vũ vài vòng? Tờ Confidential là tờ báo dành cho phụ nữ - những người quan tâm đến những nỗi phiền muộn của các ngôi sao điện ảnh.

    Cô rời bếp vào phòng con gái. Regina vẫn đang ngủ - một trong những khoảnh khắc hiếm hoi rồi sẽ trôi qua nhanh chóng. Nhẹ nhàng, cô đóng cửa phòng lại, ra khỏi căn hộ của mình tới căn hộ của hàng xóm.Phải mất vài phút thì bà O’Brien mới ra mở cửa, nhưng có vẻ bà ta khá vui mừng vì mình có khách.

    Bất cứ vị khách nào.- Tôi xin lỗi đã làm phiền bà - Jane nói.- Mời vào, mời vào!- Tôi không thể ở lại. Tôi để Regina trong nôi và...- Con bé thế nào? Đêm qua tôi lại nghe thấy nó khóc.- Tôi rất lấy làm tiếc vì điều đó. Nó không phải đứa trẻ dễ ngủ.Bà O’Brien dựa vào cửa rồi thì thầm:- Brandy.

    - Sao cơ ạ?- À, cái núm vú giả. Tôi đã làm như thế với mấy thằng con nhà tôi và chúng đã ngủ như những thiên thần.Jane biết hai cậu con trai nhà bà ta. Thiên thần không phải là từ thích hợp cho bọn chúng.- Bà O’Brien - cô nói trước khi phải nghe thêm vài cái mẹo cho một bà mẹ tồi - Bà đặt báo Weekly Confidential đúng không?- Tôi cũng vừa có số báo tuần này "Chăm sóc vật nuôi Hollywood"! Cô có biết là vài khách sạn có cả phòng đặc biệt dành cho chó không?- Bà có còn giữ những số của tháng trước không? Tôi đang tìm một số có hình Melanie Griffith trên ảnh bìa.

    - Tôi biết tờ đó rồi - bà O’Brien vẫy Jane vào căn hộ của mình. Jane theo bà vào trong phòng khách, cô kinh ngạc nhìn những chồng báo chất đầy các góc. Chắc báo đã chất hàng thập kỉ nay, đủ các loại báo, tạp chí.Bà O’Briel đi đến một ngăn chỗ cất những tờ Confidential rồi rút ra một số có hình Melanie Griffith.

    - Đây rồi, tôi nhớ rõ mà. Đây là một số hay đấy - "Những thảm kịch phẫu thuật thẩm mỹ!". Nếu cô có ý định thẩm mỹ lại mặt mình thì nên đọc tờ này. Nó sẽ làm cô quên hết tất cả.- Bà không phiền nếu tôi mượn nó chứ?- Cô sẽ trả lại chứ?- Vâng, tất nhiên rồi.

    Tôi chỉ mượn một hoặc hai ngày thôi.- Bởi vì tôi rất muốn nó được trả lại. Tôi thích đọc lại chúng mà.Bà ta chắc thuộc lòng đến từng chi tiết rồi ấy chứ.Ngồi trong phòng bếp của mình Jane nhìn vào ngày phát hành báo: ngày 20 tháng Bảy. Tờ này được bán trước ngày Olena được kéo ra khỏi vịnh Hingham một tuần.

    Cô mở tờ báo ra và bắt đầu đọc. Tự dưng cô lại thấy thích thú dù cô nghĩ rằng: Trời ạ, đây đúng là thứ rác rưởi, nhưng là một thứ rác vui vẻ. Cô không có ý gì về việc anh chàng kia bị gay và cô gái này đã bốn năm chưa quan hệ. Cô dừng lại một chút ở phần phẫu thuật thẩm mĩ rồi mở tiếp qua mục thời trang rồi đến phần bài "Tôi đã trông thấy thiên thần"; "Một chú mèo dũng cảm đã cứu cả gia đình".

    Liệu Roke có thích thú với những tin đồn kiểu này không hay đam mê với thời trang? Liệu anh ta có xem phần phẫu thuật thẩm mĩ rồi tự nhủ: Không dành cho mình. Mình sẽ già nhanh thôi?Không, tất nhiên là không rồi. Joseph Roke không phải là người sẽ đọc tờ báo này.Vậy sao nó lại có trong xe của anh ta?Cô chuyển đến mục quảng cáo, rao vặt ở hai trang cuối cùng.

    Ở đó có hai cột quảng cáo về những dịch vụ bói toán, chữa bệnh và những cơ hội kinh doanh ngay tại nhà. Liệu có ai đáp lại không nhỉ? Liệu có ai nghĩ rằng mình có thể kiếm được hai trăm năm mươi đô la mỗi ngày mà chỉ việc ngồi nhà mà viết thư không nhỉ? Lướt đến giữa trang cô thấy có mục rao vặt cá nhân, mắt cô chợt dừng lại trên dòng quảng cáo - những chữ rất quen thuộc.

    Cái chết đã ấn định.Bên dưới là ngày giờ và một số điện thoại với mã vùng 617 - Mã vùng của Boston.Cụm từ ấy có thể chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, cô nghĩ thầm. Có thể đó là một cặp tình nhân nào đó lén lút hẹn nhau, hay hẹn lấy thuốc phiện. Nó có vẻ như chẳng liên quan gì đến Olena, Joe và Mila cả.

    Tim đập mạnh, cô nhấc điện thoại trong bếp lên, quay số ghi trong mục quảng cáo. Có tiếng chuông reo. Ba lần. Bốn lần. Năm lần. Không có ai nhấc máy, không có tiếng nói nào trên đường dây. Nó cứ tiếp tục đổ chuông đến lúc cô không nhớ đến bao nhiêu nữa. Có thể nó là số điện thoại của một người phụ nữ đã chết.

    - Alô - giọng một người đàn ông.Jane lạnh người, cô đang định dập máy. Cô áp sát ống nghe vào tai.- Có ai ở đó không? - người đàn ông hỏi, giọng có vẻ mất kiên nhẫn.- Xin chào - Jane nói - Ai ở đầu dây đấy ạ?- Hừm, ai à? Cô là người gọi điện cơ mà?- Tôi xin lỗi.

    Tôi... ừm, tôi được đưa cho số điện thoại này nhưng tôi không biết tên.- Thế hả, không có cái tên nào trên đường dây này cả. Đây là điện thoại công cộng.- Anh ở đâu?- Faneuil Hall. Tôi đang đi ngang qua đây thì nghe thấy tiếng chuông điện thoại. Nếu cô đang tìm kiếm một ai đó thì xin lỗi tôi không thể giúp gì được.

    Chào.Anh ta nói rồi treo máy.Cô lại nhìn xuống mục quảng cáo lần nữa vào năm chữ: Cái chết đã ấn định.Cô lại với tay nhấc điện thại và quay số.- Tờ Weekly Confidential đây - giọng một phụ nữ trả lời.- Xin chào - Jane bảo - Tôi muốn viết một thông báo.- Em phải bàn với anh trước đã chứ - Gabriel nói - Anh không thể tin được là em đã tự ý làm chuyện đó.

    - Em đâu có thời gian để gọi cho anh - Jane trả lời - Hạn cuối để đăng quảng cáo là 5 giờ chiều nay. Em phải quyết định luôn.- Em đâu có biết ai sẽ trả lời nó, mà số di động của em lại được in trên mặt báo.- Điều tệ nhất có thể xảy ra là em sẽ nhận được vài cú gọi kỳ quặc.

    Thế thôi.- Hoặc là em sẽ dấn thân vào những thứ nguy hiểm hơn nhiều so với chúng ta có thể nhận thấy - Gabriel tức giận ném tờ báo kia xuống sàn bếp - Chúng ta phải chuyển cái này cho Moore. Cảnh sát Boston có thể kiểm tra được các cuộc gọi. Em phải nghĩ đến điều này chứ? Hủy nó đi Jane - anh nhìn cô khẩn khoản.

    - Em không thể. Em đã nói với anh rồi, quá muộn rồi.- Chúa ơi. Tôi phải chạy đôn chạy đáo ở văn phòng suốt hai tiếng đồng hồ để rồi trở về nhà thấy vợ mình đang chơi trò gọi điện nguy hiểm trong bếp của mình.- Gabriel, nó chỉ là hai dòng quảng cáo thôi mà. Có thể sẽ có ai đó gọi cho em, nhưng cũng có thể sẽ chẳng ai thèm ngó ngàng đến nó cả.

    - Nếu có người gọi thì sao?- Thì em sẽ để Moore giải quyết nó.- Em sẽ để cho anh ấy ư - Gabriel cười - Đây là việc của anh ấy, không phải của em. Em vẫn đang trong thời gian nghỉ đẻ, nhớ không?Như để làm tình huống thêm gay cấn, một tiếng la khóc ầm ĩ cất lên trong phòng đứa trẻ.

    Jane chạy đến bên nôi con gái. Vẫn như thường lệ nó đã đá tung hết chăn ra và đang vung vẩy nắm tay như khó chịu vì những yêu cầu của nó không được đáp ứng. Hôm nay không ai chịu vui vẻ với mình cả, Jane nghĩ khi bế đứa nhỏ ra khỏi nôi. Cô cho cái miệng đang đói ngấu kia vào ngực mình và nhăn mặt.

    Mình đang cố gắng làm một bà mẹ tốt, cô nghĩ, thực sự mình rất muốn. Nhưng mình thấy mệt mỏi vì mùi sữa chua và mùi phấn trẻ con. Mình mệt mỏi vì những chuyện thế này.Mẹ đã từng truy đuổi những gã khốn kiếp, con biết đấy.Cô bế Regina vào bếp, đổi chân liên tục để cố giữ cho con bé thấy thoải mái trong khi cô đang muốn nổi cáu.

    - Thậm chí nếu em còn có thể thì em cũng không hủy mục quảng cáo ấy - cô nói.Thấy Gabriel đến bên điện thoại, cô hỏi:- Anh định gọi cho ai đấy?- Moore. Anh ấy sẽ tiếp quản vụ này từ bây giờ.- Nhưng đó là di động của em cơ mà? Là ý của em.- Nhưng không phải vụ điều tra của em.

    - Em không nói là em muốn theo đuổi cả vụ này. Em đã đưa cho họ ngày giờ chắc chắn. Chúng ta sẽ cùng ngồi với nhau vào tối đó và đợi xem ai sẽ gọi điện, được chứ? Anh, em và cả Moore nữa. Em chỉ muốn ở đó khi điện thoại rung thôi.- Em cần ra khỏi vụ này Jane ạ.- Nhưng em đã là một phần của nó rồi.

    - Em đã có Regina. Giờ em đã là mẹ.- Nhưng em chưa chết. Anh có nghe em nói không? Em - Chưa - Chết.Những từ cô nói như treo lơ lửng trong không khí. Sự tức giận của cô làm tiếng nói như được đánh ra bởi một chiếc chiêng, cứ vang vọng mãi. Regina ngừng bú, mở to mắt nhìn mẹ như ngạc nhiên.

    - Anh chưa bao giờ nói em đã... - Gabriel nói nhỏ.- Nhưng trong giọng của anh thì có nghĩa là em đã có thể như thế. Em đã có Regina. Bây giờ em có một công việc quan trọng hơn nhiều. Em cần ở nhà mà vắt sữa, để cho não em mục nát đi. Em là một cảnh sát và em cần được quay lại làm việc.

    Em nhớ công việc của mình.Cô hít một hơi rồi ngồi xuống cạnh bàn, giọng cô giờ lại thành một tiếng thổn thức.- Em là một cảnh sát.Gabriel cũng ngồi xuống rồi bảo:- Anh biết, anh biết em là cảnh sát.- Em lại không nghĩ là anh biết điều ấy - cô lấy tay lau nước mắt - Anh chẳng biết em là ai cả.

    Anh nghĩ rằng anh đã lấy một người khác. Một bà mẹ hoàn hảo.- Anh biết chính xác người anh lấy là ai mà.- Là một kẻ đáng ghét chứ gì? Vậy đấy, em là thế đấy.- Ừm - anh gật đầu - cũng thỉnh thoảng.- Không phải em chưa báo trước cho anh đâu đấy - cô đứng dậy. Regina vẫn im lặng một cách lạ lùng và vẫn nhìn Jane.

    Có vẻ như bà mẹ bỗng nhiên trở thành một cái gì đó rất thú vị để quan sát - Anh đã quá biết em là ai và luôn được quyền lấy hay không - cô nói rồi đi ra cửa.- Jane.- Regina cần được thay tã.- Mặc kệ nó, em đang lảng tránh cuộc tranh luận.Cô quay lại.- Em không lảng tránh.

    - Vậy thì ngồi xuống đây với anh. Vì anh sẽ không chạy khỏi em đâu. Anh không có ý định đó.Cô nhìn anh và nghĩ: Thật căng thẳng. Hôn nhân thật căng thẳng và đáng sợ. Anh ấy đã đúng về ý muốn trốn tránh của mình. Tất cả những gì mình muốn là tìm đến một nơi không ai có thể làm tổn thương mình.

    Cô kéo một chiếc ghế rồi ngồi xuống.- Em biết đấy, mọi thứ đã thay đổi. Nó không còn giống hồi chúng ta chưa có Regina nữa.Cô không nói gì, vẫn còn bực mình vì anh đã nói mình là đáng ghét. Cho dù điều đó có đúng.- Giờ nếu có chuyện gì xảy đến cho em thì không phải chỉ một mình em đau mà em còn có con gái nữa.

    Em còn phải nghĩ đến nhiều người khác nữa.- Em đang trong thời gian sinh đẻ chứ không phải trong tù.- Có phải em đang cho rằng em thấy tiếc là chúng ta đã có con bé?Cô cúi nhìn Regina. Con bé vẫn đang tròn mắt nhìn như thể nó có thể hiểu mọi từ ngữ.- Không, tất nhiên là không rồi.

    Em chỉ... - cô lắc đầu - Em còn hơn là một người mẹ. Em còn là em nữa. Nhưng Gabriel, em đang đánh mất chính bản thân mình. Cứ mỗi ngày em lại cảm thấy mình biến mất một chút. Giống như con mèo Cheshire ở vùng đất thần tiên. Nó dường như ngày càng khó nhớ ra mình là ai. Rồi anh về nhà và chỉ trích em về việc đăng mẩu quảng cáo ấy.

    Anh cũng phải thừa nhận đó là một ý kiến sáng suốt. Và giờ thì em nghĩ: Được rồi, Jane. Mày đã thực sự biến mất. Thậm chí chồng mày cũng đã quên mất mày là ai.Anh ngả người lại gần, ánh mắt như đốt cháy cô.- Em có biết anh đã như thế nào khi em bị giữ trong bệnh viện không? Em có nghĩ gì về điều ấy không? Em nghĩ em rất mạnh mẽ.

    Em khoác một khẩu súng lên người và đột nhiên em trở thành một phụ nữ tuyệt vời. Nhưng nếu em bị thương thì không phải chỉ mình em chảy máu Jane ạ. Anh cũng sẽ chảy máu. Em có bao giờ nghĩ đến anh chưa?Cô không nói gì.Anh cười nhưng tiếng cười lại thành âm thanh của một con vật bị thương.

    - Anh cứ như một thằng ngốc ấy, lúc nào cũng cố gắng bảo vệ em từ chính bản thân em. Ai đó phải làm điều này vì em là kẻ thù tồi tệ nhất của chính em. Em là Frankie Rizzoli coi thường đứa em gái nhỏ. Một đứa con gái. Em vẫn không phải là người thích hợp để chơi với những cậu con trai.

    Và em sẽ không bao giờ có thể.Cô nhìn anh, bực bội vì anh đã hiểu rõ cô, bực bội vì những mũi tên chính xác nhưng độc ác anh vừa bắn.- Jane - anh với tay ngang qua bàn giữ chặt tay cô trước khi cô kịp giật ra - Em không bao giờ cần phải chứng tỏ bản thân mình cho anh hay Frankie hay bất cứ ai khác cả.

    Anh biết lúc này rất khó cho em nhưng em sẽ quay lại với công việc trước khi nhận ra điều đó. Vậy hãy nghỉ ngơi một lát đi em. Cho cả anh nữa. Hãy để anh được tận hưởng những giây phút khi thấy vợ và con gái mình được ở nhà an toàn.Anh vẫn giữ chặt tay cô trên bàn. Cô nhìn xuống tay của mình, của anh và nghĩ: Người đàn ông này sẽ không bao giờ buông tay ra bất kể ta có đẩy anh ấy như thế nào.

    Anh ấy sẽ luôn bên cạnh ta, bảo vệ ta. Bất kể ta có đối tốt với anh ấy hay không thì anh ấy vẫn luôn ở bên ta. Chầm chậm, những ngón tay của họ đan vào nhau - cuộc chiến tạm ngừng.Chuông điện thoại kêu.Regina cất tiếng khóc.- Rồi - Gabriel thở dài - Giây phút yên bình không kéo dài - Lắc đầu, anh đứng dậy nghe điện thoại.

    Jane đang đưa Regina ra khỏi bếp thì nghe anh nói - Cô nói đúng. Dừng nói chuyện này trên điện thoại.Cô thấy lo lắng, quay lại để xem phản ứng trên gương mặt anh, để xem sao giọng của anh lại như vậy. Nhưng anh vẫn quay mặt vào tường. Thế là cô đành tập trung vào những cử động của vai anh.

    - Chúng tôi sẽ đợi cô - anh nói rồi gác máy.- Ai thế anh?- Maura. Cô ấy đang đến đây.BA MƯƠI MỐTMaura không xuất hiện trước căn hộ của họ một mình mà còn có một người đàn ông khá hấp dẫn với tóc đen và râu được tỉa gọn gàng.- Đây là anh Peter Lukas - cô giới thiệu.

    Jane nhìn Maura ngờ vực.- Cậu mang phóng viên đến à?- Chúng ta cần anh ta Jane ạ.- Chúng ta cần nhà báo từ khi nào vậy?Lukas tỏ một cử chỉ chào vui vẻ:- Rất vui được gặp các vị, thám tử Rizzoli, mật vụ Dean. Chúng tôi vào nhà được chứ ạ?- Không, không nói chuyện ở đây - Gabriel nói khi Jane bế đứa nhỏ ra khỏi phòng ra hành lang.

    - Chúng ta sẽ đi đâu? - Lukas hỏi.- Theo tôi.Gabriel dẫn đường lên trên gác, họ lên đến căn hộ ở tầng trên cùng. Tại đây những người thuê nhà đã thiết kế một khu vườn để nghỉ ngơi với những chậu cây xanh mát, trên có ngói che. Nhiệt độ mùa hè trong thành phố vào mùa hè cũng làm nó trở nên khá nóng nực.

    Những cây cà chua oải người vì nóng, mấy dây nho lá cũng đổi sang màu nâu vì nắng quá. Jane đặt Regina trong ghế cho trẻ con dưới bóng của chiếc bàn. Má con bé ửng hồng. Từ chỗ này họ có thể nhìn sang những vườn treo trên mái nhà khác, chào đón những mảng màu xanh trong những tòa nhà bê tông.

    Lukas đặt một tập tài liệu cạnh đứa trẻ đang ngủ.- Bác sĩ Isles nghĩ rằng các vị sẽ quan tâm đến tài liệu này.Gabriel mở tập tài liệu. Bên trong có một mảnh báo với hình ảnh một gương mặt đàn ông đang cười và dòng tiêu đề: Một người đàn ông chết trên thuyền. Một thương nhân mất tích từ ngày mùng 2 tháng Hai.

    - Charles Desmond là ai - Gabriel hỏi.- Một người đàn ông mà ít người biết rõ - Lukas trả lời - chính điều này thu hút tôi. Đấy là lý do tại sao tôi tập trung vào câu chuyện này. Cho dù bên pháp y đã nhận định đó là một vụ tự sát.- Anh nghi ngờ quyết định đó?- Không có bằng chứng nào để chứng tỏ rằng đó không phải là một vụ tự sát cả.

    Desmond được tìm thấy đã chết ở phòng tắm trong chiếc thuyền máy của ông ta. Chiếc thuyền mà ông ta đã thả neo trên một bến thuyền ở trên sông Potomac. Ông ta chết trong bồn tắm với hai cổ tay bị cứa đứt, một bức thư tuyệt mệnh để trong phòng ngủ. Lúc người ta phát hiện ra thì ông ta đã chết được mười ngày.

    Bên pháp y đã không công bố bất cứ bức ảnh nào nhưng chắc các vị cũng hiểu nó sẽ như thế nào cho bên giải phẫu.- Tôi có lẽ không nên tưởng tượng ra nó - Jane nhăn nhó.- Bức thư ông ta để lại không tiết lộ điều gì đặc biệt. Tôi tuyệt vọng, cuộc sống thật kinh khủng.

    Tôi không thể chịu đựng thêm bất cứ ngày nào nữa. Desmond được biết đến là một người nghiện rượu nặng và đã ly dị được năm năm. Nó cũng dễ giải thích cho tâm trạng chán nản của ông ta. Tất cả nghe có vẻ rất hợp lý để giải thích cho một vụ tự sát đúng không?- Vậy tại sao anh lại không thấy hợp lý?- Tôi có cảm giác như thế.

    Giác quan thứ sáu của nhà báo cho tôi biết có một điều gì đó đang diễn ra, một điều gì đó có thể dẫn đến một chuyện to tát hơn. Đây là một người đàn ông giàu có với một du thuyền, bị mất tích mười ngày trước khi có ai đó nghĩ ra việc đi tìm ông ta. Lý do duy nhất họ chỉ ra được ngày ông ta mất tích là dựa vào chiếc xe đã được tìm thấy ở bãi đậu xe của bến thuyền có vé ghi ngày mùng 2 tháng Hai.

    Hàng xóm nói ông ta thường xuyên đi ra nước ngoài nên họ không thấy có gì lạ khi một tuần không trông thấy ông ta.- Đi ra nước ngoài ư? Sao lại thế - Jane hỏi.- Không ai có thể nói cho tôi biết tại sao.- Hoặc là họ không muốn nói cho anh biết.Lukas cười.- Cô có đầu óc hay nghi ngờ người khác thám tử ạ.

    Tôi cũng vậy. Nó càng làm tôi thấy tò mò về Desmond, băn khoăn liệu còn gì khác trong chuyện này. Các vị cũng biết vụ Watergate bắt đầu thế nào rồi. Một vụ trộm có thể dẫn tới những chuyện lớn hơn rất nhiều.- Thế trong chuyện này thì điều hơn đó là gì?- Người đàn ông này là ai? Charles Desmond.

    Jane nhìn bức ảnh gương mặt Desmond. Ông ta có nụ cười dễ chịu, cà vạt gọn gàng. Đó là kiểu ảnh có thể xuất hiện ở bất cứ một bài báo nào viết về công ty quản trị doanh nghiệp...- Càng có nhiều nghi vấn về ông ta thì càng có nhiều điều lộ ra. Charles Desmond chưa từng vào đại học.

    Ông ta phục vụ trong quân đội hai mươi năm và chủ yếu là làm công việc tình báo quân đội. Năm năm sau khi ông xuất ngũ ông ta có một du thuyền đẹp và một ngôi nhà lớn ở Reston. Giờ thì các vị hoàn toàn có thể nghi ngờ: Làm thế nào mà ông ta lại có một tài khoản ngân hàng khổng lồ như thế?- Bài báo ở đây có cho biết ông ta đã làm việc cho một công ty có tên là Pyramid Services - Jane nói - Đó là gì?- Đó cũng là điều làm tôi băn khoăn.

    Tôi đã tốn vài ngày để tìm hiểu nó. Sau đó tôi tìm ra công ty Pyramid Services là công ty con của một công ty, các vị đoán thử xem nó là công ty gì?- Đừng bảo tôi nó là Ballentree nhé - Jane nói.- Đúng rồi đấy thám tử ạ.Jane nhìn Gabriel.- Cái tên đó lại xuất hiện đúng không?- Nhìn vào thời gian ông ta mất tích - Maura nói - ngày đó đã làm tôi chú ý - Ngày mùng 2 tháng Hai.

    - Ngày trước khi xảy ra vụ thảm sát ở Ashburn.- Một sự trùng hợp thú vị đúng không?- Nói cho chúng tôi biết thêm về công ty Pyramid - Gabriel bảo.- Đó là một công ty chuyên vận chuyển và an ninh thuộc tập đoàn Ballentree. Đây chỉ là một trong rất nhiều dịch vụ mà họ cung cấp trong những vùng xảy ra chiến tranh.

    Bất kể nhu cầu của anh là gì: Hộ tống, bảo vệ, vận chuyển hay thậm chí sử dụng vũ lực của cảnh sát Ballentree đều có thể đáp ứng cho anh. Bọn họ làm việc ở những nơi không có chính quyền thực thụ.- Những kẻ làm lợi nhuận từ chiến tranh - Jane bảo.- Đúng vậy, tại sao lại không? Có rất nhiều tiền được tạo ra trong chiến tranh.

    Trong cuộc xung đột Kosovo, những người lính tư của Ballentree đã bảo vệ một thủy thủ đoàn. Giờ họ cũng đang sử dụng lực lượng cảnh sát tư ở Kabul, Baghdad và những thành phố quanh biển Caspian. Tất cả tiền đều được trả bởi các khoản thuế của Mỹ. Đây cũng là cách mà Charles Desmond có thể chi trả cho du thuyền của ông ta.

    - Tôi đang làm việc cho một lực lượng cảnh sát khốn kiếp - Jane bảo - Có lẽ tôi nên đăng ký tới Kabul và tôi cũng có thể kiếm được một chiếc du thuyền.- Cô không muốn làm việc cho những người này đâu - Maura bảo - Cho đến khi nào cô biết có gì tham gia vào đó nữa.- Ý cô vấn đề là họ làm việc ở những vùng trận mạc à?- Không - Lukas nói - Vấn đề ở đây là họ bị bó buộc với một số bạn hữu rất kinh tởm.

    Bất cứ khi nào cô đến một vùng chiến tranh cô cũng sẽ phải đối mặt với các nhóm mafia trong vùng. Vì vậy nên cần thiết lập tình bạn để các tên sát nhân không kết thúc các công ty như Ballentree. Có chợ đen để buôn bán, trao đổi ma túy, vũ khí, rượu và đàn bà. Mỗi cuộc chiến tranh lại là một cơ hội, một thị trường mới và tất cả mọi người đều muốn giành được chiến lợi phẩm.

    Đấy là lý do tại sao lại có các cuộc tranh chấp cho các hợp đồng bảo vệ. Không phải vì bản thân các hợp đồng mà là vì cơ hội kinh doanh ở các chợ đen đi cùng với chúng. Năm ngoái Ballentree đã kiếm được nhiều hợp đồng hơn bất cứ một công ty bảo vệ nào khác - Lukas dừng lại - Một phần là nhờ Charles Desmond đã làm rất tốt công việc của mình.

    - Đó là gì?- Hắn là kẻ đi làm hợp đồng. Một gã mà có bạn bè ở Lầu Năm Góc và có thể có nhiều bạn ở những chỗ khác nữa.- Vì tất cả những điều mà ông ta đã làm thì ông ta đã được nhận thế này - Jane nói, nhìn xuống tấm ảnh của Desmond. Một người nằm chết mà không ai phát hiện ra trong suốt mười ngày.

    Một người đàn ông bí hiểm với hàng xóm đến mức không ai nghĩ tới việc trình báo ông mất tích.- Câu hỏi ở đây là - Lukas tiếp - Tại sao ông ta phải chết? Có phải là do những người bạn Lầu Năm Góc của ông ta? Hay một người nào khác?Không ai nói gì. Hơi nóng càng ngột ngạt hơn.

    Cây cối phía dưới cũng như tỏa ra hơi hướng kiệt quệ, tiếng xe cộ ầm ĩ. Đột nhiên Jane nhận ra Regina đã tỉnh giấc và đang chăm chú nhìn mình. Thật tuyệt vời. Mắt con tôi mới thông minh làm sao. Jane có thể thấy một phụ nữ đang tắm nắng trên một tầng mái khác, bộ bikini để mở, tấm lưng trần lấp lánh ánh dầu.

    Cô nhìn thấy một người đàn ông đang đứng ở một ban công nghe điện thoại và một cô bé đang chơi đàn violông cạnh cửa sổ. Trên trời, làn mây điểm những vệt trắng của máy bay bay qua. Có bao nhiêu người có thể thấy chúng ta? Cô băn khoăn. Có bao nhiêu máy quay hay vệ tinh vào thời điểm này đang theo dõi chúng ta từ phía trên mái nhà? Boston đã trở thành điểm tập trung của mọi ánh mắt.

    - Tôi chắc điều này đã xuất hiện trong đầu mọi người - Maura nói - Charles Desmond đã từng làm tình báo viên quân đội. Người đàn ông Olena bắn trong bệnh viện cũng từng là lính trong quân đội nhưng dấu vân tay của anh ta đã bị xóa khỏi hồ sơ. Văn phòng tôi cũng bị nhòm ngó, đột nhập.

    Vậy thì thứ ma quỷ gì ở đây? Có thể là một công ty lắm chứ?- Ballentree và FBI luôn có mối quan hệ mật thiết - Lukas nói - Điều này chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Họ cùng làm việc trong cùng đất nước, thuê cùng những gã như nhau. Kinh doanh dựa cùng vào nguồn thông tin - anh ta nhìn Gabriel - Và giờ thì họ cùng xuất hiện ở đây, trên chính nước nhà.

    Tuyên bố là có đe dọa khủng bố và chính phủ Mỹ phải xem xét bất cứ hành động nào, bất cứ sự tiêu dùng nào. Những quỹ không được nhắc đến thì ra khỏi chương trình hoạt động. Đấy là cách những người như Desmond phải kết thúc với những chiếc du thuyền.- Hay kết thúc với cái chết - Jane bảo.


  11. #30
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 30
    Thám tử Moore sốt ruột nhìn đồng hồ khi nó gần điểm 8 giờ tối. Lần gần đây nhất Jane ngồi trong phòng hội đồng của tổ điều tra án mạng là lúc cô đang mang thai tháng thứ chín. Giờ thì cô đã quay lại căn phòng ấy cùng với các đồng nghiệp nhưng mọi thứ đã khác hẳn. Căn phòng như ngột ngạt hơn theo từng phút trôi qua.

    Gabriel ngồi đối diện với Moore, thám tử Frost và Crowe ngồi ở đầu bàn. Ở giữa là trung tâm chú ý của tất cả mọi người: chiếc điện thoại của Jane, được kết nối với loa.- Chúng ta đang đến rất gần rồi - Moore nói - Cô có thấy thoải mái không? Chúng ta có thể để Frost nghe máy.

    - Không, tôi phải làm việc đó - Jane trả lời - Nếu một người đàn ông nghe máy có thể làm cô ấy hoảng sợ.Crowe nhún vai:- Nếu cô gái bí hiểm này chịu gọi điện.- Nếu anh thấy tất cả những chuyện này chỉ tốn thời gian thì anh không phải quanh quẩn ở đây nữa đâu - Jane đốp lại.

    - Tôi chỉ ở đây để xem chuyện gì xảy ra thôi.- Chúng tôi sẽ không muốn quấy rầy anh đâu.- Còn ba phút nữa - Frost can thiệp, như mọi khi anh luôn cố gắng để làm một người hòa giải giữa Jane và Crowe.- Có thể cô ta không đọc được bài quảng cáo - Crowe nói.- Tờ báo đó đã ở trên sạp năm ngày nay rồi - Moore bảo - Cô ấy có nhiều cơ hội để đọc nó.

    Nếu cô ấy không gọi điện có nghĩa là cô ấy đã quyết định như thế.Hoặc là cô ấy đã chết, Jane nghĩ. Điều này chắc chắn cũng đã lướt qua tâm trí mọi người nhưng không ai nói ra.Điện thoại của Jane đổ chuông và tất cả mọi người đều quay nhìn cô. Số trên điện thoại là một số từ Fort Lauderale.

    Đây chỉ là một cuộc điện thoại bình thường, Jane tự trấn an nhưng tim cô đập mạnh vì sợ.Cô hít một hơi sâu rồi nhìn Moore - anh ta gật đầu.- Xin chào - Jane nhấc máy.Một giọng đàn ông cất lên.- Những thứ quảng cáo trên đó là gì vậy hả?Trên nền tiếng nói ấy là một giọng cười lớn và âm thanh ầm ĩ của những người xung quanh đang rất thích thú với trò đùa.

    - Anh là ai? - Jane hỏi.- Chúng tôi ở đây đều đang rất băn khoăn. Cái câu mà cô em quảng cáo có nghĩa là gì? Câu "Cái chết đã ấn định ấy"?- Anh đang gọi cho tôi chỉ để hỏi điều đó à?- Đúng vậy. Đây có phải một trò chơi không? Chúng tôi sẽ phải đoán à?- Xin lỗi, tôi không có thời gian để nói chuyện với anh lúc này.

    Tôi đang đợi một cú điện thoại khác.- Này, này cô! Chúng tôi đang gọi đến từ một nơi rất xa đấy, chó chết!Jane tắt máy rồi nhìn Moore.- Đúng là vớ vẩn!- Nếu đó là một độc giả tiêu biểu của tờ Confidential thì tối nay sẽ rất vui đấy - Crowe bảo.- Có thể chúng ta sẽ có thêm vài cuộc gọi tương tự như thế đấy - Moore cảnh báo.

    Điện thoại lại rung. Một cuộc từ Thượng đế.Jane lại thấy mạch máu của mình như căng lên.- Alô?- Xin chào - giọng một phụ nữ - Tôi đã nhìn thấy mục quảng cáo của chị trên tờ Confidential, hiện giờ tôi đang làm một nghiên cứu về các mục quảng cáo cá nhân. Tôi muốn biết xem chị làm quảng cáo ấy có phải vì mục đích lãng mạn không hay là vì mục đích thương mại?- Cả hai đều không - Jane khó chịu trả lời rồi cúp máy - Chúa ơi, có chuyện gì với những người này vậy?8:05: Điện thoại lại kêu.

    Một số điện thoại và một câu hỏi: "Đây có phải một cuộc thi không? Tôi có nhận được giải thưởng nếu gọi điện không?"8:07: "Tôi chỉ muốn xem xem có ai dùng số này không thôi."8:15: "Cô có phải một điệp viên hay gì đó không?"Đến 8:30 không thấy có cuộc điện thoại nào nữa.

    Hai mươi phút sau đó họ cứ ngồi nhìn chiếc điện thoại câm lặng chằm chằm.- Tôi nghĩ tất cả chỉ có thế - Crowe nói rồi đứng dậy - Tôi sẽ gọi tối nay là một tối đáng giá của chúng ta.- Đợi đã - Frost nói - Chúng ta đang đến phần chính rồi.- Cái gì?- Bài quảng cáo của Rizzoli không nói rõ múi thời gian.

    Giờ mới chỉ gần 8 giờ ở thành phố Kansas thôi.- Đúng đấy - Moore nói - Hãy ngồi gần lại đây đã.- Tất cả các múi giờ ư? Vậy thì chúng ta sẽ phải ở đây đến nửa đêm - Crowe bảo.- Thậm chí có thể muộn hơn - Frost bảo - Nếu kể cả Hawaii nữa.- Vậy có lẽ chúng ta nên mang theo bánh pizza - Crowe khịt mũi.

    Cuối cùng thì Frost cũng phải ra ngoài kiếm mấy vòng xúc xích lớn và bánh từ cửa hàng Domino về. Lúc đó là vào khoảng thời gian giữa 10 và 11 giờ. Họ cùng nhau ăn, uống soda và cùng đợi điện thoại. Mặc dù Jane đã không đi làm được một tháng nhưng đêm nay làm cho cô có cảm giác mình chưa bao giờ rời công việc cả.

    Cô vẫn đang ngồi ở cùng một chiếc bàn với những cảnh sát đang rất mệt mỏi. Tất cả đều như thường lệ, Darren vẫn luôn làm cô bực mình. Chỉ khác một điều là Gabriel cũng ngồi đây cùng họ còn tất cả đều không có gì thay đổi. Mình đã rất nhớ nó, cô nghĩ, Crowe và tất cả mọi thứ.

    Mình đã rất nhớ lúc mình được là một phần trong công việc chung của mọi người, một phần của cuộc săn lùng.Điện thoại kêu khi đang ăn dở miếng pizza. Cô bỏ vội nó xuống, lấy giấy lau ngón tay và ngước nhìn đồng hồ trên tường. Chính xác 11 giờ. Số điện thoại trên màn hình là một số ở Boston.

    Cuộc gọi này đã muộn mất ba tiếng.- Alô - Jane nhấc máy.Đầu dây bên kia im lặng.- Alô - Jane lặp lại.- Chị là ai - một giọng con gái như tiếng thì thầm.Giật mình, Jane nhìn Gabriel và thấy anh cũng đã nhận ra chi tiết đó. Người gọi nói tiếng Anh bằng giọng không phải của người Mỹ.

    - Tôi là một người bạn - Jane nói.- Tôi không biết chị.- Olena đã nói với tôi về cô.- Olena chết rồi.Chính là cô ấy. Jane nhìn quanh bàn, thấy mọi người đều đang khá sửng sốt. Thậm chí đến Crowe cũng phải ngả về phía trước, vẻ mặt chờ đợi.- Mila - Jane nói - Hãy nói cho tôi biết chúng ta có thể gặp nhau ở đâu.

    Làm ơn. Tôi cần nói chuyện với cô. Tôi hứa nó sẽ an toàn tuyệt đối. Bất cứ chỗ nào cô muốn - cô nghe tiếng bên kia cúp máy - Chết tiệt - Jane nhìn Moore:- Chúng ta cần biết vị trí của cô ấy.- Anh chưa tìm thấy nó à - cô hỏi Frost.Frost trả lời:- Vùng West End. Từ một điện thoại công cộng.

    - Ngay trên đường của chúng ta - Crowe nói và chạy thẳng ra cửa.- Đến lúc anh ra được ngoài đó thì cô ấy đã đi lâu rồi - Gabriel nói.- Một chiếc xe tuần tra có thể ở đó trong vòng năm phút.Jane lắc đầu:- Không được mặc đồng phục. Nếu cô ấy trông thấy người nào mặc đồng phục cô ấy sẽ biết chuyện này đã được xếp đặt và tôi sẽ mất cơ hội liên lạc lại với cô ấy.

    - Vậy cô bảo chúng ta nên làm gì bây giờ - Crowe hỏi khi dừng ở cửa.- Cho cô ấy thêm thời gian để suy nghĩ về chuyện này. Cô ấy đã có số của tôi. Cô ấy biết làm thế nào để liên lạc với tôi.- Nhưng cô ấy không biết cô là ai - Moore nói.- Và điều đó làm cô ấy sợ.

    Cô ấy chỉ muốn đảm bảo là sẽ được an toàn.- Nghe này, cô ta có thể sẽ không gọi lại - Lại là Crowe - Đây có thể là một cơ hội nhưng cũng có thể là cơ hội duy nhất của chúng ta để đưa cô ta về đây. Hãy làm ngay bây giờ.- Anh ấy đúng đấy - Moore nhìn Jane bảo - Nó có thể là cơ hội cuối cùng của chúng ta.

    Sau một thoáng Jane gật đầu:- Thôi được. Đi thôi.Frost và Crowe rời phòng. Vài phút trôi qua, Jane vẫn nhìn chiếc điện thoại và nghĩ ngợi: Có lẽ mình nên đi cùng họ. Mình nên là người ra khỏi đây để tìm cô ấy. Cô hình dung cảnh Frost và Crowe đứng trên con phố ở West End tìm kiếm một người phụ nữ mà họ không hề biết mặt.

    Điện thoại của Moore đổ chuông, anh nghe máy. Qua biểu hiện của anh ta Jane biết đó không phải tin tốt. Anh cúp máy rồi lắc đầu.- Cô ấy không có ở đó? - Jane hỏi.- Họ đã gọi cho bộ phận CSU để kiểm tra dấu vân tay trên chiếc điện thoại - anh nói khi nhìn thấy nét thất vọng hiện rõ trên mặt Jane - ít ra thì giờ chúng ta cũng đã biết là cô ấy có thật.

    Cô ấy vẫn còn sống.- Lúc này thôi - Jane nói.Cảnh sát thì cũng phải vào cửa hàng mua sữa và tã lót.Jane đứng trong khu thực phẩm, Regina tựa vào ngực cô trong chiếc túi đeo phía trước. Cô xem xét những hộp sữa cho trẻ bày đầy trên giá, xem hàm lượng dinh dưỡng ghi trên từng vỏ hộp.

    Chúng cung cấp đủ 100% những nhu cầu của trẻ từ A đến Z. Cái nào cũng vô cùng hoàn hảo, cô nghĩ, vậy thì sao mình phải cảm thấy có lỗi nhỉ? Regina thích sữa bột mà. Mình cũng phải nhanh nhanh rồi còn về làm việc thôi. Mình phải ra khỏi giường và thôi không chỉ ngồi nhìn những cuộc rượt đuổi của cảnh sát.

    Mình cần phải nhanh nhanh rời khỏi cửa hàng thực phẩm.Cô lấy hai túi Similac rồi đi đến khu bán tã giấy Pamper rồi đi thẳng đến quầy thanh toán.Bên ngoài bãi đỗ xe nóng đến mức mồ hôi túa ra trên người. Trước khi cho Regina vào chỗ ngồi của trẻ trên xe cô dừng lại một chút.

    Những xe hàng tấp nập đẩy qua. Một tiếng còi và giọng một người đàn ông gắt lên. Không có người nào muốn ở trong thành phố vào cái giờ này. Tất cả đều muốn nằm trên bãi biển và ăn kem chứ không phải chen chúc nhau ở cái thành phố Boston này.Regina bắt đầu khóc, tóc đẫm mồ hôi bết vào má.

    Lại một người Boston khó chịu nữa. Nó vẫn tiếp tục gào lên khi Jane chuyển con bé vào ghế ngồi trong xe. Đi được vài dãy nhà rồi mà con bé vẫn còn la hét. Đường thì đông, Jane lại gặp đèn đỏ thêm lần nữa, cô nghĩ: Chúa ơi, cho con sống qua chiều nay.Điện thoại đổ chuông.Cô không thể để nó kêu mãi được nhưng khi lấy nó ra khỏi túi và nhìn thấy số điện thoại hiện lên, cô không biết là số của ai.

    - Alô?Qua tiếng khóc của đứa trẻ cô nghe thấy câu hỏi:- Chị là ai? - giọng nói nhẹ nhàng quen quen.Các cơ bắp của Jane như căng lên.- Mila à? Đừng cúp máy. Đừng cúp máy. Hãy nói chuyện với tôi.- Chị là cảnh sát.Đèn đường chuyển sang màu xanh, phía sau cô một chiếc xe nhấn còi.

    - Đúng - cô thừa nhận - Tôi là cảnh sát. Tôi chỉ đang cố gắng giúp cô thôi.- Sao chị biết tên tôi?- Tôi đã ở cùng Olena khi cô ấy...- Khi cảnh sát giết chị ấy?Chiếc xe đằng sau lại ấn còi và muốn cô nhanh nhanh tránh đường cho nó. Chết tiệt. Cô lái xe qua ngã tư, điện thoại vẫn áp trên tai.

    - Mila. Olena đã nói cho tôi về cô. Đấy là điều cuối cùng cô ấy đã nói - đó là tôi nên đi tìm cô.- Đêm qua chị đã cử người đến bắt tôi.- Tôi không...- Hai người đàn ông. Tôi đã nhìn thấy họ.- Họ là bạn tôi, Mila. Chúng tôi đang cố gắng để bảo vệ cô. Cô ở ngoài đó một mình sẽ rất nguy hiểm.

    - Chị không biết nó nguy hiểm thế nào.- Có, tôi biết! Tôi biết tại sao cô phải trốn chạy, tại sao cô lại sợ hãi. Cô đã ở trong ngôi nhà đó khi các bạn cô bị bắn chết phải không Mila? Cô đã nhìn thấy chuyện xảy ra.- Tôi là người duy nhất còn lại.- Cô có thể ra làm chứng trước tòa.

    - Chúng sẽ giết tôi trước.- Ai?Im lặng. Đừng cúp máy, Jane nghĩ. Hãy giữ máy. Cô vẫn úp máy vào tai chờ bên kia nói. Ở ghế sau Regina vẫn tiếp tục khóc mỗi lúc một ghê hơn vì mẹ mình dám lờ mình đi.- Mila?- Đứa trẻ nào đang khóc vậy?- Đấy là con gái tôi. Nó đang trong xe cùng tôi.

    - Nhưng chị nói chị là cảnh sát.- Đúng, tôi là cảnh sát. Tôi đã nói với cô. Tên tôi là Jane Rizzoli. Tôi là thám tử. Cô có thể kiểm định điều này Mila. Cô hãy gọi cho phòng cảnh sát Boston và hỏi họ về tôi. Tôi đã ở cùng Olena khi cô ấy chết. Tôi đã bị giữ trong tòa nhà cùng cô ấy - cô dừng lại - Tôi không thể cứu cô ấy.



Trang 3 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-12-2018, 12:41 AM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-03-2018, 11:37 AM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-09-2017, 11:35 PM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-21-2016, 02:33 AM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-31-2013, 02:21 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •