Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Cái trở ngại to nhất của hạnh phúc là trông chờ một hạnh phúc khác to hơn.
Fontenelle
Trang 1 / 2 12 Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 14

Chủ Đề: Thung Lũng Khủng Khiếp

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Thung Lũng Khủng Khiếp

    Thung Lũng Khủng Khiếp

    Tác giả :Arthur Conan Doyle




    Chương 1

    Tin báo


    Holmes không đụng một tý nào đến bữa điểm tâm, cứ ngồi chống tay xuống bàn, ngắm nghía mãi một tờ giấy vừa lôi ở một bì thư ra. Anh đưa bì thư ra ánh sáng, chăm chú xem xét cả trong lẫn ngoài:

    - Tuồng chữ của thằng Por. Mặc dầu tôi chưa nhìn thấy tuồng chữ nó đến hai lần, nhưng chắc chắn đây là của nó. Nhưng thằng này mà phải gửi thư cho tôi thì nhất định là có chuyện quan trọng. - Por là ai vậy?

    - Tôi tò mò hỏi.

    - Por chỉ là một cái tên giả, một loại ký hiệu để nhận ra nhau thôi. Đằng sau cái tên ấy là một thằng tinh như mạ Đã có lần nó viết thư nói thẳng thừng rằng Por đâu có phải tên thật của nó, và nó thách tôi tìm xem nó là ai. Sở dĩ tôi chú ý nhiều đến nó, không phải vì bản thân nó mà chính vì nó có liên quan đến một "đại nhân" mà tôi đang theo dõi. Thằng này cũng giống như kiểu con chó rừng đi trước con sư tử, một thằng người tý hon hợp tác với một tên khổng lồ vậy. Mà cái tên khổng lồ đó, chẳng những rất ghê gớm, mà còn khủng khiếp nữa kìa. Watson, đã có lần nào tôi nói với anh về giáo sư Mori chưa?

    - Tên tội phạm khoa học trứ danh ấy chứ gì? - Chết, anh mà gọi hắn như vậy, thì anh sẽ phải ra toà. Mà chính cái chỗ đó mới là tuyệt đấy. Hắn, một thằng chủ mưu của tất cả những gì bẩn thỉu nhất đã xảy ra từ trước đến naỵ Một bộ Óc chỉ huy tất cả các tầng lớp cặn bã nhất của xã hội.

    Thế nhưng, không hề có một mối nghi ngờ, thậm chí không có cả một lời phê bình nhỏ nào có thể đụng đến lông chân hắn. Hắn đã che giấu những thủ đoạn của hắn khéo đến mức hắn có thể lôi anh ra toà chỉ vì mấy câu nói vừa rồi, và toà sẽ tịch thu hết số tiền lương hưu trí của anh để đền bù danh dự cho hắn. Nhưng rồi thế nào chúng ta cũng phải đấu với hắn thôi.

    Tôi bốc lên:

    - Mong rằng lúc ấy, tôi sẽ có mặt bên cạnh anh. Nhưng mà anh dang nói về tên Por kia mà. - à, Por chính là một mắt xích trong sợi dây xích, gần mốc trung tâm đó. Cho đến bây giờ, Por là mắt xích yếu nhất của sợi xích. - Thì sức bền của một sợi dây xích tùy thộc vào mắt yếu nhất của nó. Chính vì thế mà thằng Por là rất quan trọng đối với tôi, thằng này đôi lúc cũng có ý trở lại con đường lương thiện, lại thêm, lâu lâu, tôi có gửi cho anh ta mười bảng Anh, thành ra đã có hai, ba lần, nó có báo cho tôi một vài tin tức có giá trị, các loại tin tức có thể giúp tôi biết trước và ngăn ngừa tội ác, nhưng không trừng phạt được kẻ định gây ra. Chắc chắn là nếu có chìa khoá giải được mật mã, thì lá thư này cũng là loại tin tức ấy đấy.

    Holmes trải tấm giấy lêm bàn, tôi đứng dậy, đi lại đằng sau, nhìn qua trên vai anh và đọc được những giòng chữ này:

    534 C2 I3 I27 3I I7 2I 4I Du-gia I09 203 37 Birlstone 26 Birlstone 9 I27 I7I - Anh nghĩ gì thế, Holmes? - Tất nhiên đây là một cách để hắn báo tin cho tôi đấy.

    - Nhưng viết mật mã mà không cho chìa khoá giải thì có lợi ích gì? - Trong trường hợp cụ thể này, thì bức mật mã này đúng là không làm gì được. - Tại sao lại nói rằng "trong trường hợp cụ thể này" - Bởi vì có nhiều bức mật mã ta có thể đọc dễ dàng cũng như đọc tin rao vặt trong báo vậy. Nhưng lần này.... tôi đứng trước một cái gì có khác đây. Rõ ràng nó có liên hệ đến các chữ trong một trang của một cuốn sách nào đó. - Thế tại sao có hai chữ Du-gia và Brilstone - Tại vì trong trang sách đó không có hai chữ này.

    - Thế thì tại sao nó lại không nói rõ tên cuốn sách? - Có ai cho cả mật mã lẫn chìa khó giải vào trong cùng một bì thử Vì nếu thư bị đưa nhầm người thì tiêu ngaỵ Cho nên chắc không lâu đâu, sẽ có một bức thư thứ hai nữa.

    Những dự đoán của Holmes đều đúng cả. Chỉ vài phút sau, người giúp việc mang đến cho chúng tôi bức thư chờ đợi. Holmes vừa xé bì thư vừa nhận xét:

    - "Cũng cùng một thứ chữ, nhưng lần này thì lại ký tên nữa". Holmes vừa trải tờ giấy ra vừa nói một cách đắc thắng. "Này Watson ơi, chúng ta tiến lên được rồi", nhưng vừa đọc được vài dòng, trán Holmes bỗng nhăn lại.

    - Thế là bao hy vọng tan vỡ như bọt xà phòng, chỉ mong thằng Por không bị gãy cổ. Holmes đọc to bức thư cho tôi nghe:

    "ông Holmes thân mến. trong vụ này tôi sẽ không mạo hiểm thêm nữa. Nó nguy hiểm quá. Thình lình lão đến, vào lúc tôi đã viết xong phong bì này với ý định báo cho ông biết cách giải mã, tôi đã giấu được cái bì thư đi. Nhưng tôi đọc trong mắt lão, thấy lão nghi ngờ tôi. tôi xin ông hãy đốt bức mật mã đi, vì bây giờ nó chẳng còn có ích gì cho ông nữa" F. Por. Holmes ngồi xuống, vò nát bức thư trong tay mắt nhìn sững vào ngọn lửa trong lò sưởi.

    "Có lẽ hắn tự biết là hắn đã phản bội chủ hắn, nên hắn tưởng tượng ra lời buộc tội trong mắt của lão kia". - Lão kia là lão giáo sư Morỉ - Tôi hỏi.

    - Khi một tên trong cái băng này nói đến "lão ta" thì mọi người đều hiểu là ai rồi. Đối với bọn chúng, chỉ có một "lão ta" mà thôi.

    - Nhưng lão có thể làm gì được? - Khi người ta là một trong những bội óc lớn nhất của Châu âu và được những quyền lực đen tối nhất sùng bái, thì người ta đã nắm trong tay những khả năng vô hạn. Por đang hoảng sợ. Anh đem so sánh chữ trong bức thư với chữ trên phong bì mà xem. Chữ ở cái phong bì thì viết rắn rỏi, còn trong bức thư thì run quá. - Thế hắn viết thư làm gì? Hắn chỉ việc bỏ rơi tất cả là xong. - Hắn sợ rằng nếu đột nhiên hắn lại câm bặt đi thì rồi mình sẽ đi điều tra xem tại sao, và điều đó có thể gây phiền phức cho hắn. - Anh nói có lý, lẽ dĩ nhiên là....

    Tôi cầm bức mật mã lên quan sát thật cẩn thận:

    -.... Bực thật, một điều bí mật rất quan trọng đã được viết trên mảnh giấy này, mà lại không làm sao đọc được. Holmes đẩy mâm thức ăn ra, rồi đốt cái tẩu thuốc. - Anh thử xem lại. Liệu có một vài cho tiết nào đó mà cái bộ Óc quỉ quái của anh đã để lọt lưới chăng? - Tôi đề nghị. - Nào, ta hãy xét bài toán này về phương diện lý trí thuần túy xem sao. Thằng Por nó chỉ cho ta là phải chiếu vào một cuốn sách nào đó. Đấy. Điểm bắt đầu là từ đấy.

    - Cũng mơ hồ quá đi thôi.

    - Thì chúng ta làm cho rõ hơn? Chúng ta có những chỉ dẫn gì về cuốn sách này?

    - Chẳng có gì cả. - Ồ, ồ, bản mật mã bắt đầu từ con số 534 phải không? Ta đặt giả thiết đây là con số của trang sách. Như thế thì cuốn sách này khá dầy đấy. Thử xem có còn những chỉ dẫn nào nữa về cuốn sách này không? Mã hiệu thứ nhì là chữ C2. Anh nghĩ gì về chữ C2 này.

    - Chương 2, chắc thế. - Tôi ngờ là không phải, vì đã ghi số trang thì số chương không cần thiết nữa. Vả lại nếu trang 534 mà lại mới chỉ ở chương 2, thì bề dày của cuốn sách là không thể tưởng tượng được. - Không phải chương 2, mà là cột - tôi kêu lên. - Hoan hô, sáng nay óc anh sáng chói như một ánh chớp vậy. Ta đã hình dung ra một cuốn sách dày, in hai cột, mỗi cột khá dài.

    Vì trong bản mật mã của ta có một chữ mang đến con số 203. Nếu đây không phải là một cuốn sách thường dùng, thì nó đã gửi cho mình cuốn đó. theo trong thư thì trước khi bị "lão kia" bắt gặp, nó có ý định gửi cho ta cái khoá giải mã ở ngay trên bì thư này. Điều này có nghĩa đây là một cuốn sách mà mình có thể dễ dàng có được ngaỵ Một cuốn sách mà nó có, và nó nghĩ rằng mình cũng có, nghĩa là một cuốn sách rất phổ biến. - Có lý lắm. - Vậy cái diện điều tra sẽ được giới hạn vào một cuốn sách dầy, in hai cột, và thông dụng Tôi kêu lên một cách đắc thắng:

    - Cuốn Kinh Thánh. - Tốt, tốt. Nhưng mà không tốt lắm. Kinh Thánh thì có biết bao nhiêu là bản in khác nhau, làm sao mà Por biết được là bản của nó với bản của mình có cùng một số trang như nhau. Không. Đây phải là một cuốn sách in đồng loạt, và Por phả biết chắc chắn rằng số trang 534 là có trong cuốn sách của mình kia. - Như thế là có thể thu nhỏ diện tích tìm kiếm lại nữa.

    - Đúng thế. Cuộc tìm kiếm của chúng ta hướng về những cuốn sách in hàng loạt mà nhà nào cũng có. - Cuốn "Chỉ dẫn giờ tàu hoả". - Ngôn ngữ trong cuốn này quá khô khán., không dễ gì dùng những chữ ở trong đó để tạo nên một bức thợ Chúng ta loại bỏ cuốn "Chỉ dẫn giờ tàu hoả". Cũng loại bỏ cuốn tự điển vì những lý do đó. Thế thì còn gì nữa nào?

    - Một cuốn Lịch niên giám. - Xuất sắc. Nào ta thử xét cuốn Lịch niên giám xem, nó rất thông dụng, nó có đủ số trang đòi hỏi, nó in trên hai cột, ở quãng đầu thì ngôn ngữ của nó có hạn chế thật, nhưng phần cuối nó cũng hùng biện lắm đấy....

    Holmes giật lấy cuốn sách để trên bàn. - Đây , trang 534 cột 2, mình thấy một bài văn tràng giang đại hải nói về nền thương mại và những tài nguyên của xứ ấn độ thuộc Anh, Watson, anh ghi các chữ này lại đi. Số 13 là chữ "Ma". Hứ, cái bắt đầu này có vẻ bất lợi rồi, chữ số 127 là "Chính phủ". cũng còn có ý nghĩa một chút, nhưng chẳng có liên can gì đến chúng ta và giáo sư Mori cả. Bây giờ cứ thử nữa xem, Chính phủ làm gì? Than ôi, chữ sau là "lông heo" thôi thế là hết. Chúng ta đã thua cuộc....

    Holmes nói với một giọng hài hước nhưng cay đắng. Nản lòng, tôi cũng ra ngồi cạnh lò sưởi. Sự im lặng kéo dài, bỗng nhiên bị phá vỡ bởi một tiếng kêu của Holmes. Anh chạy vội đến chiếc tủ đứng và moi ra một cuốn sách dày cộm khác, bìa màu vàng. - Tại vì chúng ta muốn đi trước thời đại. Hôm nay là ngày mùng 7 tháng giêng, cho nên chúng ta mới đi tra cứu một cuốn lịch niên giám năm mới. Nhưng chắc chắn là Por đã dùng một cuốn lịch năm ngoái, và có lẽ nó đã nói rõ cho chúng ta biết điều này nếu như nó viết được lá thơ chỉ dẫn. Nào, thử xem cái trang 534 có cái gì nào?

    Số 13 là chữ "một". A, có vẻ hứa hẹn rồi. Số 127 là "nguy hiểm". Mắt Holmes long lanh lên. Những ngón tay thon nhọn của anh cứng đờ ra trong lúc anh lẩm bẩm đếm chữ. - à. Một nguy hiểm. . . Ghi lại đi Watson, ghi "một nguy hiểm.... cấp bách.... đe doa. một người tên là.... Ở đây chúng ta có chữ "Du-gia" một người tỉnh nhỏ giàu có ở tại Birlstonẹ Xác thực. Nguy hiểm. Khẩn cấp.... ". Đó watson. Nếu anh bạn tạp hoá ở đầu phố mà có bán một vòng hoa thì tôi sẽ cho đi mua về để tự tặng thưởng cho mình. Tôi đọc lại bức thư kỳ lạ mà tôi đã ghi nguệch ngoạc trên giấy khi Holmes đang giải mã, và thở dài:

    - Vì sao lại tìm một cách phức tạp đến thế này để viết vài câu.

    - Trái lại, thằng Por đã hành động xuất sắc đấy. Nếu định tìm chữ trong một cột thôi thì sẽ khó mà tìm cho đủ chữ để nói hết ý nghĩ. Ở đây trái lại, nội dung thư là hoàn toàn rõ ràng. Người ta đang âm mưu chống lại một người nào đó tên là Du-gia, chắc chắn là một tay địa chủ giầu có ở tỉnh. Por biết đích xác là sự nguy hiểm rất cấp bách. (Nó không tìm thấy chữ "đích xác" trong cột in chữ nên phải dùng chữ "xác thực"). - Chúng ta vừa làm được một công trình kiệt tác về phân tích. Holmes vui như một nghệ sĩ chân chính trước một tác phẩm thành công nhất của mình, và anh đang còn giữ một nụ cười trên môi, khi Bili mở cửa để cho viên thanh tra mật thám Dona bước vào.

    Chuyện này xảy ra vào những năm 1800. Vào thời ấy, Dona là một trinh thám trẻ, năng nổ, cũng đã có đôi chút thành tích trong một vài vụ án.... Cả cái vóc người to lớn, cũng chứng tỏ sức mạnh phi thường của anh tạ Trán rộng, đôi mắt sáng nằm sâu trong hai hốc mắt, lông mày rậm rì. Đó là một chàng trai ít nói, tính tình nghiêm nghị, đứng đắn. Holmes đã có dịp giúp anh ta thành công một đôi lần và không chịu nhận bất cứ một ơn huệ nào. Điều này giải thích được tại sao người thanh tra xứ Ecosse này kính trọng và yêu mến anh bạn đồng nghiệp tài tử của mình. Holmes đon đả chào hỏi:

    - Ông là một loài chim dậy sớm, xin chúc ông nhiều may mắn trong khi đi săn sâu bọ sáng nay, nhưng tôi sợ rằng ông đến vào giờ này không khéo lại có một chuyện chẳng lành xảy ra. Dona trả lời với một nụ cười tâm lý:

    - Ông Holmes, nếu ông thay chữ "tôi sợ rằng" bằng chữ "tôi mong rằng" thì có lẽ ông gần sự thật hơn. Không, tôi không hút thuốc đâu, cám ơn. Tôi phải lên đường ngay bây giờ, vì những giờ đầu tiên của một vụ án là những giờ có ích lợi nhất, nhưng....

    Viên thanh tra bỗng ngưng bặt, ông ta vừa thấy tờ giấy trên đó tôi đã ghi lại lời giải mã, ông ta há hốc mồm nhìn tờ giấy.

    - Du-gia, Birlstone, thế này là thế nào, ông lấy những cái tên này ở đâu ra vậy?

    - Đây là một bức mật mã mà bác sĩ watson và tôi vừa giải ra. Nhưng sao những cái tên này làm ông phải bối rối?

    - Một ông tên là Du-gia ở lâu đài Birlstone vừa bị ám sát sáng hôm naỵ - Dona nói.

  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 2

    Ông Sherlock Holmes diễn thuyết
    Nói rằng một cái tin kỳ lạ như vậy làm anh ta phải bối rối hay xúc động thì là nói ngoa. Mặc dù là người không có tính độc ác, nhưng vì sống mãi trong những cái "giật gân' thành ra cũng chai người đi rồi. Và nếu những xúc cảm của anh có bị cùn nhụt đi thì trái lại sự thông minh của anh lại tăng thêm. Holmes nói lớn:

    - Phi thường. Thật phi thường. - Hình như ông không ngạc nhiên gì thì phải?

    - Tại sao tôi lại phải ngạc nhiể Tôi nhận được một bức thư nặc danh báo cho biết là có một sự nguy hiểm đang đe doa. một người nào đó. Rồi một giờ sau, tôi hay tin rằng sự nguy hiểm đó đã thành sự thật và người kia đã chết. Vậy thì tôi có chú ý, chớ không hề ngạc nhiên. Holmes kể lại cho viên thanh tra nghe chuyện chúng tôi vừa giải mã bức thự Dona ngồi xuống hai tay đỡ lấy cằm, và hai con mắt chỉ còn như hai cái khe màu vàng. Ông ta nói:

    - Tôi định sáng nay sẽ đi xuống lâu đài. Tôi rẽ vào đây để hỏi xem ông có cùng đi không? Nhưng bây giờ làm việc ở Luân Đôn có lẽ có kết quả hơn. - Tôi không nghĩ thế. - Holmes nói.

    - Ông hãy xem, chỉ ngày mai hay ngày kia thôi, là báo chí sẽ làm rùm beng lên về câu chuyện bí mật ở lâu đài đó. Nhưng bí mật ở đâu kia chứ, vì ngay tại Luân Đôn, đã có người báo tin trước khi án mạng xảy ra. Vậy chúng ta hãy tóm cổ cái vị tiên tri ấy, thì mọi việc còn lại sẽ tuồn tuột theo ra cả thôi.

    - Chắc chắn là thế. Nhưng làm cách nào mà ông tóm cổ được cái tên Por này?

    Dona lật ngược lá thư mà Holmes vừa đưa cho anh tạ - Thùng thư ở trạm bưu điện Camberwell. Điều này cũng không giúp được gì? Theo ông thì cái tên này là tên giả? Có phải ông nói rằng ông có gửi tiền cho hắn ta phải không? - Hai lần. - Bằng cách nào?

    - Gửi qua bưu điện - Ông không bao giờ đi xem mặt người lĩnh số tiền đó. - Không. Viên thanh tra tỏ ra hơi ngạc nhiên và khó chịu.

    - Tại sao lại không? - Bởi vì bao giờ tôi cũng giữ đúng lời hứa, Khi hắn viết thư cho tôi lần đầu tiên, tôi đã hứa với hắn là sẽ không tìm cách theo dõi hắn. - Ông có nghĩ rằng có một người nào khác đằng sau hắn không? - Tôi không nghĩ, mà tôi biết chắc kia. - Cái vị gíao sư mà ông đã nói với tôi?

    - Đúng đấy.

    Dona mỉm cười và nháy mắt với tôi - Ông Holmes ạ. Chính tôi đã đích thân điều tra về ông ta:

    mọi cái đều cho thấy rằng đây là một con người rất đáng kính, một nhà bác học đầy tài năng. - Tôi thật sung sướng thấy ông nêu lên những tài năng của ông tạ - Thật vậy, người ta chỉ còn biết cúi đầu kính chào ông ta mà thôi. Tôi có lần ngồi nói chuyện với ông ta về nguyệt thực, nhật thực, mà thật quái quỷ:

    tôi cũng không hiểu bằng cách nào câu chuyện lại quay sang đến vấn đề đó. Nhưng thực tình chỉ với một cái đèn và một quả đia. cầu, ông ta đã cắt nghĩa tất cả cho tôi hiểu trong có một phút đồng hồ. Ông ta có cho tôi mượn một cuốn sách, nhưng nó quá cao đối với tôi. Ông ta có một bộ mặt nhẵn nhụi, mái tóc hoa râm, và cách ăn nói hơi trịnh trọng đủ để làm một ông bộ trưởng. Holmes phát ra một tiếng cười, xoa hai bàn tay vào nhau:

    - Thật là tuyệt, có phải cuộc đàm đạo mê ly và xúc động ấy là ở ngay trong buồng làm việc của giáo sư phải không? - Đúng thế. - Một căn phòng rất đẹp - Rất đẹp, đúng thế. - Ông ngồi trước bàn làm việc của ông ta - Vâng - Mặt trời chiếu vào mắt ông, còn mắt của giáo sư thì ở trong bóng tối.

    - Lúc đó à vào buổi tối, cái đèn quay về phía tôi - Tất nhiên là như thế. Ông có nhận thấy ở trên đầu chỗ giáo sư có treo một bức tranh không? - Vâng, bức tranh. Một người phụ nữ trẻ tuổi, hai tay ôm đầu và liếc nhìn xuống người xem tranh. - Bức tranh của hoa. sĩ Greuse đấy Viên thanh tra chăm chú nghe, Holmes ngả người vào lưng ghế, chụm đầu các ngón tay vào nhau , nói tiếp:

    - Greuse là một hoa. sĩ người Pháp. Các nhà phê bình hiện đại đánh giá cao hoa. sĩ này.

    Hai mắt của viên thanh tra dãn ra:

    - Có lẽ tốt hơn hết là chúng ta hãy....

    Holmes cắt ngang ngay:

    - Tất cả những điều tôi nói với ông đều có một mối liên quan với cái bí mật của lâu đài Birlstone đấy. Thực ra, chúng ta đang đứng ở trung tâm của lối bí này.

    Dona miễn cưỡng mỉm cười và nhìn tôi:

    - Ông suy nghĩ có hơi nhanh quá. Ông nhảy mất một hay hai bước. Thành ra tôi không theo kịp ông nữa. Làm sao lại có thể có một mối liên hện giữa nhà họa sĩ của thế kỉ trước với vụ án này được. - Sự kiện một bức tranh của Greuse đem ra bán giá bốn nghìn bảng không đủ làm chuyển bánh cả một đoàn tàu dài những suy nghĩ trong chất xám của ông sao?

    Không biết có phải là chuyển bánh không? Nhưng thấy viên thanh tra gãi đầu ghê quá, Holmes lại tiếp tục:

    - Lương giáo sư Mori là 700 bảng Anh một năm. Vậy thì làm sao mà ông ta có thể mua được bức tranh? Đoàn tàu của viên thanh tra bây giờ đang chạy hết tốc lực:

    - Thật hấp dẫn. Tôi rất thích nghe ông nói chuyện. Holmes mỉm cười. Anh ta rất khoái những sự tán thưởng ngây thơ như vậy.

    - Thế ở lâu đài đã xảy ra chuyện gì? Holmes hỏi.

    - Chúng ta có thì giờ ông ạ. Có một xe ngựa đợi tôi ở dưới đường kia. Về chuyện bức tranh.... Ông Holmes ạ, có lần ông đã khẳng định với tôi là ông chưa hề gặp mặt giáo sư bao giờ. - Đúng. Tôi chưa hề gặp mặt ông tạ - Thế thì làm sao ông biết được căn buồng của ông tạ - Tôi đã đến nhà ông ta ba lần:

    Hai lần tôi đã kiếm cớ ngồi chờ ông ta, và tôi đã đi khỏi trước khi ông ta về; Còn một lần.... chính lần đó tôi đã tự cho phép tôi đọc qua những giấy tờ của ông ta và kết luận thật là bất ngờ. - Ông có tìm thấy một cái gì phạm pháp không? - Tuyệt đối không có. Chính điều đó làm tôi bối rối. Nhưng mà ông đã thấy tầm quan trọng của chi tiết bức tranh rồi chứ, chi tiết ấy nói lên rằng ông giáo sư rất giàu. Nhưng ông ta làm gì mà lại giàu thế? ông ta không lấy vợ. Em ông ta là một người xếp ga quèn ở miền Tây.

    - Vậy thì sao?

    - Suy luận ra cũng đơn giản thôi.

    - Ông cho rằng ông giáo sư có những nguồn thu nhập lớn, và những nguồn này là bất hợp pháp phải không? - Đúng là như thế. Cái ý nghĩ này, tất nhiên không phải là chỉ có dựa trên bức hoa. của Greuse thôi, Tôi có cả tá những sợi tơ mong manh dẫn tôi đến trung tâm của màng nhện, là nơi con vật đó đứng im rình mồi. Sở dĩ tôi nêu lên chuyện bức hoạ, cũng chỉ vì nó nằm trong giới hạn tầm mắt của ông mà thôi.

    - Những điều ông vừa nói là hết sức đáng chú ý. Nhưng nếu có thể, chúng ta thử đào sâu thêm một tý xem sao. Có phải ông ta đã làm giàu bằng mánh mung, lừa đảo làm bạc giả....

    - Ông đã có bao giờ đọc một cái gì nói về Jona chưa?

    - Có phải là tên của một nhân vật tiểu thuyết không không? Trong đó các ngài thám tử đều làm được những việc rất kỳ diệu.

    - Jona không phải là thám tử cũng không là một nhân vật tiểu thuyết. Đó là một tên tội phạm bậc thầy đã sống vào khoảng năm 1750. Ông Dona, ông nên đọc lại tất cả những tài liệu ghi chép lại các vụ án. Tất cả mọi việc đều chỉ lặp lại mà thôi, kể cả lão giáo sư Mori nữa. Jona là sức mạnh của những tên tội phạm của Luân Đôn. Hắn đã bán bộ Óc cho bọn này lấy 15% hoa hồng trong mỗi vụ. Tất cả những chuyện đã làm trước đây, sẽ còn được làm lại nữa. Tôi sẽ kể cho ông nghe một vài việc về Mori mà có lẽ sẽ làm ông vui thích. - Tôi xin dỏng cả hai tai lên. - Tôi đã tìm hiểu được ai là khâu đầu tiên của sợi xích. Một sợi dây xích mà đầu này là một tên tôi phạm thượng thặng, còn đầu kia là cả trăm tên ăn cắp, móc túi, những tên đi tống tiền, những tên bợm cờ bạc. Ở giữa hai đầu sợi xích đó, là tất cả các loại tội ác. Tham mưu trưởng của bọn chúng là tên đại tá Mô-ran. Theo ông thì lão giáo sư trả lương cho hắn ta bao nhiêu tiền? - Tôi muốn biết điều đó lắm. - Sáu nghìn bảng Anh một năm. Tôi cũng Tôi cũng tình cờ mà biết được chi tiết này thôi. Ngài đại tá Mo-ran lương còn cao hơn cả thủ trưởng, những cái cái séc bình thường để trả tiền sinh hoạt trong nhà thôi. Nó được trả vào tài khoản của sáu ngân hàng khác nhau. Chi tiết này có làm cho ông phải suy nghĩ không? - Tất nhiên cũng đáng chú ý thật. Nhưng từ đó ông suy luận ra những gì? - Những gì à, là hắn không muốn ai bép xép gì về của cải của hắn, hắn có khoảng 20 tài khoản ở ngân hàng, và phần lớn tài sản của hắn thì ký gửi ở Pháp hoặc Đức. Dona ngồi lặng đi, chìm đắm trong một suy nghĩ sâu lắng, nhưng rồi cái óc thực tế xứ Ecosse lại kéo anh ta đứng lên. - Hiện giờ, thì lão ta có thể cứ tiếp tục . Ông đã kéo chúng tôi đi quá xa với những câu chuyện cổ tích của ông rồi. Tôi chỉ còn ghi nhận được cái điều cốt yếu là có một sự liên hệ nào đó giữa giáo sư với tội ác. Vậy xin hỏi ông, liệu chúng ta có thể đi xa hơn thế không? - Ông đã nói với chúng tôi rằng vụ án mạng này hiện giờ chưa giải thích được. Nếu chúng ta giả thiết, rằng nguồn gốc của nó là như chúng ta đã nói, thì có thể phải xét đến hai động cơ khác nhau. Trước hết, Mori cai quản cái thế giới của lão bằng một cây roi sắt. Bộ luật hình của hắn chỉ gồm có một hình phạt:

    Xử tử. Như vậy có thể Du-gia đã phản bội sếp của hắn. Hình phạt đã được thi hành, và cái chết này sẽ thổi một luồng gió sợ hãi vào những tên còn sống trong băng của lão.

    - Đó là một gợi ý, thưa ông Holmes - Giả thiết thứ hai, là vụ án mạng đã được Mori dựng lên như một vụ thông thường mà thôi. Ở đó có mất gì không, ông Donả - Tôi không nghe nói có mất gì cả. - Nếu có mất đồ thì điều này chống lại giả thiết thứ nhất và sẽ phù hợp hơn với giả thiết thứ hai. Mori có thể đã bị đẩy đến chỗ phải gây ra vụ án mạng này để chia phần, hoặc là hắn đã được bọn nào đó thuê tiền để tổ chức vụ án. Cả hai khả năng này đều có thể cả. Nhưng dù sao, thì cũng phải đến đó mới tìm được lời giải.

    Dona bật đứng dậy, reo lên:

    - Vậy thì phải đi tới lâu đài Birlstone thôi.

    Holmes vừa thay áo vừa nói:

    - Trong khi đi đường, xin ông Dona kể lại cho chúng tôi nghe tất cả. Chữ "tấtcả" này thật ra là quá ít ỏi. Nhưng cũng đủ để cho Holmes phải chăm chú nghe. Những chi tiết lặt vặt đã làm cho anh cứ xoa mãi hai tay vào nhau, mặt hồng hào hẳn lên. Chúng tôi vừa mới sống mấy tuần lễ quá tẻ nhạt, và hôm nay mới lại đứng trước một bí mật xứng đáng với những tài năng của Holmes. Viên thanh tra cũng nói rõ rằng đây chỉ là những chi tiết anh ta lấy từ một bản báo cáo vội vã mới gửi theo chuyến tàu sớm nhất. Người trinh sát của cơ quan Công an địa phương đó là bạn của ông tạ Vì vậy ông ta được tin rất sớm, khác hẳn với mọi lần. Dona đọc to cho chúng tôi nghe bức thư của Maso "Dona thân mến, những tài liệu chính thức cần cho các bộ phận công tác của ông đã được gửi trong một bao bì riêng. Thư này là gửi riêng cho một mình ông. Hãy điện ngay cho tôi biết ông đi chuyến tàu nào xuống đây để tôi ra đón. Đây là một bài toán sẽ làm cho ông phải đau đầu. Xin ông hãy xuống ngaỵ Nếu ông có thể mời được cả ông Holmes thì hay quá. Thực tình, tôi thấy phức tạp quá". Holmes nhận xét:

    - Gớm, ông bạn của ông có vẻ sắc mắc nhỉ? - Vâng đúng thế, thưa ông. Maso xưa nay vẫn là con người tích cực lắm. - Được. Thế ông có tin gì khác nữa không, ông Donạ - Không, khi nào đến nơi, Maso sẽ cho biết. - Thế thì tại sao ông lại biết Du-gia bị ám sát. - Trong bản báo cáo chính thức có nêu tên Du-gia và ghi rõ là đã bị giết bởi một viên đạn súng săn bắn vào giữa đầu. Cũng có ghi cả giờ báo động là trước lúc nửa đêm hôm qua một chút. Báo cáo nói thêm là đây chắc chắn là một vụ án mạng rồi., nhưng chưa bắt giữ ai, và vụ án này có một vài khía cạnh kỳ lạ làm cho người ta phải bối rối.

    - Vâng, ông Dona, nếu ông cho phép thì chúng ta tạm ngưng ở đây. Hiện giờ thì tôi mới chỉ thấy có hai điều là:

    có một bộ Óc lớn ở Luân Đôn và một cái xác chết ở Sussex . Vấn đề là phải tìm được sợi dây xích nối hai cái này lại với nhau.

  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 3

    Tấn bi kịch ở Birlstone
    Làng Brirlstone là một nơi thưa thớt những căn nhà nhỏ bé nửa gỗ, nửa gạch ở bìa phía bắc quận Sussex. Trong hàng thế kỷ trước, ngôi làng vẫn giữ nguyên phong cách cổ xưa, nhưng vào khoảng vài năm gần đây, đã có nhiều địa chủ giàu có đến dựng những biệt thự Ở chung quanh. Trong các cánh rừng bọc theo bờ của khu rừng lớn Weald chạy dài mãi đến tận chân những ngọn đồi đá vôi ở bờ biển. Lâu đài nằm cách làng khoảng 800 thước, trong một khu vườn cũ nổi tiếng về những cây giẻ gai cực lớn. Một phần của toà lâu đài này đã được dựng lên từ thời Đệ nhất thập tự chiến. Năm 1534, một trận hoa? tai đã thiêu trụi tất cả. Một số gạch đá ám khói còn sót lại, đến thời các vị vua Jacques, đã được dùng để xây nên một toà lâu đài khác trên nền của toà lâu đài cũ. Toà lâu đài mới này với những đầu hồi chi chít và những khuôn cửa sổ có lắp những mảnh kích hình quả trám, gợi lại hình ảnh của nền kiến trúc vào thế kỷ thứ 17. Về hai đường hào trước đây thì nay chỉ còn lại đường bên trong. Đường hào ngoài đã được tát khô, và bây giờ trở thành một mảnh vườn trồng rau. Đường hào còn lại bao quanh cả toà lâu đài dài, rộng đến 12 thước nhưng sâu không quá một thước. Nước trong hào là từ một dòng sông nhỏ chảy vào, nên không hôi thối. Những cửa sổ của tầng dưới cũng chỉ cao hơn mặt nước khoảng 30 phân. Lối đi duy nhất để vào lâu đài là một cây cầu rút, đã hư hỏng từ lâu. Nhưng người chủ lâu đài hiện nay cho sửa chữa lại để buổi sáng thì hạ xuống, đến chiều tối lại rút lên:

    sự phục hồi lại truyền thống của thời phong kiến đã biến toà nhà ban đêm thành một hòn đảo.

    Khi gia đình Du-gia đến làm chủ toà lâu đài này thì nó đang sắp đổ nát. Gia đình chỉ gồm hai người:

    Du-gia và vợ Ông tạ Du-gia khoảng 50 tuổi, có một cái quai hàm thật khoẻ, nét mặt rắn rỏi, một bộ râu hoa râm, một đôi mắt xám rất sắc, vóc người lực lưỡng, dáng điệu cứng cỏi. Những gia đình lân cận có học thức hơn, đã tiếp đãi ông với một sự tò mò và có phần dè dặt, nhưng ông thì lại rất được lòng người dân ở trong làng. Ông tham gia đóng góp rất rộng rãi vào tất cả mọi hoạt động ở địa phương, phụ trách các buổi hoà nhạc, và vốn có một giọng nam trầm, bao giờ ông cũng sẵn sàng giúp vui bằng một bài hát thật haỵ Hình như ông có khá nhiều tiền, và người ta đồn rằng ông đã làm giàu trong các mỏ vàng ở xứ Cali Điều đó thì không biết có đúng không, nhưng chỉ cần nghe ông nói chuyện cũng biết ông đã sống cả một phần đời ở bên Mỹ, người ta lại càng kính trọng ông hơn vì ông hoàn toàn coi thường sự nguy hiểm. Mặc dù cưỡi ngựa rất tồi, nhưng mỗi khi có những cuộc thi ngựa là thế nào ông cũng tham dự, và cái tính bướng bỉnh đó đã đem lại cho ông mấy lần ngã ngựa đến kinh hồn. Khi bên nhà thờ bị cháy, lính cứu hoa? địa phương đã bó tay, ông một mình xông vào cứu những đồ đạc ra. Cứ như thế, trong vòng năm năm trời, Du-gia trở thành một nhân vật nổi tiếng ở Birlstonẹ Vợ Ông ta cũng được bạn bè kính nể, ở đây, bà ít đi lại chơi bời. Nhưng số ít bạn bè này là đã quá đủ cho một bà chủ nhà vốn có tính dè dặt, và hình như chỉ để hết thời gian chú ý, săn sóc chồng. Người ta biết rằng bà phu nhân người Anh này thuộc tầng lớp xã hội thượng lưu, và đã làm bạn với ông ở Luân Đôn khi ông này goá vợ. Bà rất đẹp, vóc người cao lớn, thanh mảnh, tóc màu nâu, trẻ hơn chồng đến 20 tuổi, bà thường tỏ ra rất kín đáo về quá khứ của chồng mình. Hình như bà ta không hiểu biết gì nhiều lắm về ông tạ Một vài người còn thấy bà vợ có vẻ bồn chồn, lo lắng mỗi khi ông chồng về trễ. Trong một vùng nông thôn thanh bình như thế này, người ta rất thích thú bàn tán về những câu chuyện mách lẻo, và khi vụ án xảy ra thì dư luận càng xôn xao và cho rằng đúng là những điều nhận xét ấy có một ý nghĩa rất đặc biệt. Trong lâu đài còn có một nhân vật nữa, tuy không sống ở đó một cách thường xuyên. Đó là ông Bar. Cái dáng cao lênh khênh rất quen thuộc trong làng, vì ông ta hay đến lâu đài, và được người ở đó quí mến lắm. Người ta nói rằng ông là người nhân chứng duy nhất biết về quá khứ của ông Du-gia. Bar chắc chắn là một người Anh rồi, nhưng qua những câu chuyện của ông ta, thì có thể hiểu được rằng, ông ta quen biết Du-gia trước đây là ở bên Mỹ và lúc đó hai người sống với nhau thân thiết lắm. Hình như ông ta cũng giàu có lớn thì phải và hiện vẫn chưa lập gia đình. Ông ta trẻ hơn ông Du-gia, chỉ trạc độ 45 tuổi là hết mức, người cao lớn, lưng thằng, thân hình nở nang, mặt mũi nhẵn nhụi, không để râu. Ông ta có hai hàng lông mày đen nhánh và nhất là đôi mắt đen áp đảo người khác. Ông ta không đi săn, không cưỡi ngựa, suốt ngày cứ ngậm cái tẩu thuốc đi dạo chung quanh làng. Nếu không thì lại dong xe đi vào các vùng nông thôn với ông chủ nhà, và khi nào ông này vắng, thì với bà chủ nhà. Người đầu bếp Am trong lâu đài nói "Đó là một vị thượng lưu vô tư hào phóng". Nhưng cũng bổ xung thêm "Nhưng thực tình, tôi không bao giờ lại dại dột muốn cãi lại ông tạ Ông ta rất nhiệt tình với ông Du-gia, và cũng không kém phần nhiệt tình với vợ Ông Du-giạ" Còn đối với những người khác cùng ở trong lâu đài, thì tôi chỉ cần kể đến anh đầu bếp Am, nhanh nhẹn, đứng đắn đáng kính; bà A-len tươi tắn phốp pháp, một tay giúp việc đắc lực cho bà chủ nhà. Còn sáu người gia nhân khác thì không dính dáng gì đến những sự kiện xảy ra trong đêm đó. Đồn cảnh sát địa phương được báo tin vào 12 giờ kém 15 phút đêm. Lúc đó là buổi trực của thượng sĩ Will thộc cảnh sát quận Sussex. Ông Bar, đã đến đập cửa và kéo chuông ầm ầm, báo tin rằng ông Du-gia đã bị ám sát. Báo xong, ông lại vội vã trở về lâu đài. Sau khi đã báo lên thượng cấp, thượng sĩ Will đến ngày hiện trường. Khi đến nơi, Will thấy chiếc cầu đã được hạ xuống, các cửa sổ đều sáng đèn; và toàn thể lâu đài ở trong một tình trạng rối loạn. Các gia nhân, mặt mũi xám ngoét, đứng sát vào nhau ở phòng ngoài, còn anh đầu bếp, cứ vặn hai bàn tay vào nhau trên bực cửa, chỉ một mình ông là có vẻ tự chủ và kìm được nỗi xúc động. Ông mở cửa ở phòng ngoài, và mời thượng sĩ đi theo ông. Cùng lúc đó bác sĩ Wu ở trong làng, cũng đến. Cả ba người bước vào căn phòng đã xảy ra tấn thảm kịch. Anh đầu bếp theo vào, đóng cửa lại.

    Nạn nhân nằm ngửa. chân tay duỗi thẳng ở giữa buồng, trên người chỉ có một cái áo choàng màu hồng, phủ ra ngoài bộ quần áo ngủ, chân đi giày vải. Vị bác sĩ cầm cây đèn đặt lên bàn và quỳ xuống bên cạnh xác chết; thoáng nhìn qua ông lắc đầu:

    Du-gia đã chết. Một thứ vũ khí kì lạ được đặt tréo ngực ông ta:

    Đó là một khẩu súng ngắn mà nóng đã được cưa ngắn đi, chỉ cách cò súng khoảng 30 phân. Trông rõ ràng là ông ta đã bị bắn rất gần, và bị trúng đạn vào ngay giữa mặt. Cả hai cò súng đã được nối liền với nhau bằng một sợi dây thép, để lúc bắn thì cả hai nòng đều bắn một lượt làm cho sức công phá càng ghê gớm. Viên cảnh sát nói thất thanh:

    - Không ai được sờ mó vào một tý gì ở đây, trước khi cấp trên của tôi đến. Ông Bar nói dứt khoát:

    - Chưa có ai đụng vào đây cả, tất cả mọi vật đều vẫn y nguyên như lúc đầu.

    - Vào lúc mấy giờ? Viên thượng sĩ đã rút cuốn sổ tay ra. - Vào lúc 11 giờ rưỡi. Lúc đó tôi vẫn ngồi trước lò sưởi ở trong phòng tôi, thì nghe thấy tiếng nổ. Nổ không to lắm. Hình như có cái gì bịt kín lại vậy. Tôi vội đâm bổ xuống dưới nhà. Tôi nghĩ rằng từ trên đó xuống đến đây không quá 30 giây đồng hồ. - Lúc đó cửa có mở không? - Cửa mở, ông Du-gia thì nằm đúng như thế này. Ngọn nến trong buồng vẫn cháy sáng ở trên bàn làm việc. Sau đó một chút thì chính tối đã thắp cây đèn lên. - Ông có trông thấy ai không? - Không. Tôi nghe thấy tiếng bà Du-gia ở trên lầu chạy xuống sau tôi, và tôi đã ngăn bà lại để cho bà khỏi trông thấy cảnh thương tâm này. Bà hầu phòng A-len cũng chạy đến và đã dìu bà chủ đi lên. Rồi anh đầu bếp Am đến, và tôi với ông ta cùng đi vào trong phòng. - Tôi tưởng rằng cây cầu rút đêm nào cũng kéo lên kia mà. - Đúng thế. Nhưng chính tôi đã hạ nó xuống để đi báo cho ông. - Nhưng vậy thì tên sát nhân làm sao trốn ra được. Phải đặt vấn đề khác đi thôi:

    Có thể là ông Du-gia tự tử chăng? - Chúng tôi cũng đã có nghĩ đến điều đó. Nhưng ông xem đây này....

    ông Bar kéo tấm rèm để lộ một khuôn cửa sổ cao mở toang. - Và mời ông xem cái này nữa.

    ông Bar đưa cái đèn lại gần thành cửa sổ, nơi đó có một vết máu giống hệt như hình đế của một chiếc giầy.

    - Rõ ràng là có người đã trèo qua đây.

    - Có phải ông muốn nói rằng có người đã chạy trốn bằng cách vượt qua con hào này, phải không? Nhưng mà nếu chưa đầy nửa phút sau vụ án, ông đã có mặt ở đây, thì người ấy lúc đó còn phải đang lội nước. - Chắc chắn là như vậy. Ôi tiếc quá, không hiểu sao lúc đó tôi không nhẩy bổ ngay qua cửa sổ. Bị cái rèm cửa này che khuất, thành ra tôi không nghĩ ra nữa.

    Vị bác sĩ cũng lẩm bẩm nói khẽ:

    - Tôi chưa bao giờ trông thấy một vết thương nát bấy ra như vậy.

    Viên thượng sĩ vẫn cứ ngắm mãi khuôn cửa sổ mở rộng. - Nhưng mà này, câu chuyện có người lội nước qua khe hào nghe thú vị thật, nhưng hắn làm cách nào để vào được lâu đài, vì chiếc cầu rút đã bị kéo lên rồi mà. - à vâng. Đó, tất cả vấn đề là ở chỗ đó. - Ông Bar nói.

    - Thế mấy giờ thì người ta kéo cầu lên? - Lúc đó là gần 6 giờ chiều.

    - Ông Am trả lời.

    - Tôi nghe nói là ở đây vẫn thường rút câu lên vào lúc mặt trời lặn. Như thế vào mùa này thì gần 4 giờ rưỡi hơn là gần 6 giờ chứ. - Viện thượng sĩ lại nhấn mạnh - Hôm nay bà chủ tiếp khách. Tôi không thể đụng đến cây cầu khi các vị khách chưa ra về. Chính tay tôi đã rút cây cầu lên. - Anh Am giải thích - Nếu như có những người từ bên ngoài vào lâu đài thì họ phải đi qua cầu trước sau giờ, rồi trốn ở trong này, vì ông chủ mãi sau 11 giờ đêm mới bước vào căn buồng này - Đúng như thế. Đêm nào, trước khi đi ngủ, ông Du-gia cũng đi một vòng quanh lâu đài để xem đã tắt hết đèn chưa? Chính trong khi đi vòng như vậy, ông đã vào căn buồng này. Tên sát nhân đã đợi ông ta ở đây, và bắn thẳng vào ông tạ Rồi hắn trốn bằng cách leo qua cửa sổ, bỏ lại cây súng. - Bar giải thích. Viên thượng sĩ cúi xuống nhặt một mẩu bìa cứng ở bên cạnh xác chết trên có ghi ba chữ T.L.V và một con số 341, chữ viết rất thô kệch. Ông ta giờ mẩu bìa lên hỏi:

    - Cái gì thế này?

    ông Bar nhìn mẩu bìa một cách tò mò:

    - Tôi cũng không để ý thấy nó. Có lẽ tên hung thủ lúc chạy trốn đã bỏ rơi lại.

    - T.L.V . 341. Tôi chẳng hiểu gì cả. Viên thượng sĩ cứ xoay đi xoay lại mãi mẩu bìa.

    - T.V.L? Có lẽ là những chữ đầu tiên của một người nào đây chăng. Bác sĩ Wu, bác sĩ có cái gì đó. Ông bác sĩ đã nhặt được một chiếc búa khá to trước lò sưởi. Ông Bar chỉ vào một hộp dính dầu bằng đồng trên mặt lò sưởi, giải thích:

    - Ngày hôm qua, ông Du-gia có thay đổi chỗ treo mấy bức tranh. Tôi thấy ông ta đứng trên chiếc ghế này để treo bức tranh lớn bên trên. Việc đó cắt nghĩa tại sao lại có chiếc búa trên đây.

    Viên thượng sĩ gãi đầu ra vẻ khó nghĩ:

    - Có lẽ chúng ta nên để lại chiếc búa ở nơi tìm thấy nó thì hơn. Phải những cái đầu giỏi nhất ở Scotland Yard mới hiểu thấu đáo được mọi việc. Rồi ông ta cầm lấy chiếc đèn từ từ đi quanh căn phòng. - Có người đã trốn ở đây, chắc chắn là như thế....

    ông thượng sĩ hạ cây đèn thấp xuống:

    ở một góc, thấy những vết giầy có dính bùn rất rõ. - Việc phát hiện này là phù hợp với gỉa thiết của ông, ông Bar ạ. Có thể là tên hung thủ đã vào lâu đài sau 4 giờ chiều khi những tấm rèm cửa sổ đã được buông xuống; và trước sáu giờ, khi cây cầu được rút lên. Nó lẩn ngay vào đây, trốn đằng sau bức rèm này.

    Rất có thể ý định của nó là vào ăn trộm, nhưng chẳng may ông Du-gia lại bắt gặp nó, thế là nó giết ông ta và chạy trốn. - Tôi cũng nghĩ gần giống như vậy. Nhưng ông có thấy rằng chúng ta đã mất bao nhiêu thời giờ quí báu rồi không? Tại sao chúng ta không kéo cả mọi người ra đi lùng sục khám xét khắp xung quanh, trước khi hung thủ có thể trốn thoát được. - Bar đề nghị. Viên thượng sĩ cắn môi suy nghĩ một lát:

    - Không có chuyến tàu nào chạy trước sáu giờ sáng. Vậy nó không thế trốn thoát đi bằng đường tàu hoả. Nếu nó đi đường bộ thì với cái quần ướt sũng, thế nào nó cũng bị người ta để ý. Nhưng dù sao tôi cũng không thể rời khỏi đây được trước khi có người đến thay tôi.

    Vị bác sĩ lại cầm lấy cây đèn để khám lại tử thi một lần nữa. Ông bỗng hỏi:

    - Cái vết này là cái gì đây. Nó có liên quan gì đến vụ án này không? Cánh tay áo bên phải của người chết đã được kéo lên khuỷu tay, ở giữa cánh tay thấy nổi lên trên da hình màu nâu của một tam giác nằm trong một vòng tròn. Bác sĩ Wu nói:

    - "Đây không phải là một vết xâm. Tôi coi bộ như ngưòi này đã bị đánh dấu bằng một cái khuôn nung đỏ, giống như người ta đánh dấu đàn gia súc vậy." Bác sĩ nói thêm:

    "Thế này là thế nào?" - Tôi không hiểu được. Có điều là từ mười năm nay, tôi đã nhiều lần nhìn thấy cái dấu này trên tay ông Du-gia. - Ông Bar nói.

    - Tôi cũng thấy nhiều lần khi ông chủ xắn tay áo lên. - Anh đầu bếp nói - Nếu như vậy thì nó không có dính dáng gì đến vụ án mạng này rồi. Nhưng dù sao thì nó cũng thật kỳ lạ. Trong vụ này không có cái gì là bình thường cả. Tôi cũng không hiểu bây giờ còn xảy ra những gì nữa đây - Viên thượng sĩ kết luận Anh đầu bếp vừa thốt kêu lên kinh ngạc và chỉ vào bàn tay duỗi thẳng của người chết, nói lắp bắp:

    - Nó tháo mất chiếc nhẫn cưới của ông rồi.

    - Cái gì? - Ông chủ tôi đeo chiếc nhẫn bằng vàng ở bên trong một chiếc nhẫn khác có gắn một hạt ngọc, chiếc nhẫn có hạt ngọc còn đây nhưng chiếc nhẫn cưới thì biến mất. - Anh ấy nói đúng đấy.

    - Bar lên tiếng - Ông vừa khai là chiếc nhẫn cưới đeo ở trong chiếc nhẫn có gắn ngọc., - Viên thượng sĩ hỏi lại.

    - Thưa vâng. - Thế thì hung thủ đã tháo chiếc nhẫn có ngọc ra, rồi sau đó nó mới đoạt lấy chiếc nhẫn cưới, rồi lại đeo lại chiếc nhẫn có hạt ngọc vào tay người chết. - Như vậy đó. Viên thượng sĩ lắc đầu lia lịa:

    - Chúng ta hãy báo cáo tất cả về Luân Đôn. Ông Maso là một tay cừ khôi. Chưa bao giờ có một vụ án nào làm ông phải lúng túng cả. Còn về phần tôi, tôi xin thú nhận là vụ này vượt quá sức hiểu biết của tôi.

  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 4

    Tối mò
    Ông Maso trông có vẻ bình tĩnh và thoải mái. Ông mặc một bộ quần áo vải tuýt rộng thùng thình, chân đi ghệt. Trông ông giống như một ông chủ trại cỡ nhỏ, một người gác rừng đã về hưu, hơn là giống một người đại diện cơ quan cảnh sát hình sự cấp tỉnh. Ông không ngừng nhắc đi nhắc lại:

    - Đây là một vụ án làm đau đầu đây, thưa ông Donạ Tôi mong rằng chúng ta sẽ làm tốt được nhiều việc, trước khi bọn ký giả rúc mũi vào cuộc điều tra làm hỏng hết các dấu vết. Có nhiều chi tiết có lẽ sẽ làm ông vui lòng., thưa ông Holmes. Cả đối với ông cũng thế, thưa ông bác sĩ Watson. Buồng của các ông đã được đăng ký trước ở khách sạn "Huy hiệu của Tây Thành". Thôi để bác khuân vác trông coi hành lý và xin mời các ông vui lòng đi theo tôi.

    Chỉ sau 10 phút là chúng tôi đã có phòng ở và 10 phút sau nữa, chúng tôi đã ngồi cả trong phòng khách của khách sạn. Ông Dona giở sổ tay ra ghị Còn Holmes thì có dáng điệu của một nhà thực vật học vừa ngạc nhiên vừa ngắm nghiá một bông hoa. Sau khi nghe xong câu chuyện, anh ta reo lên:

    - Tuyệt. Thật là tuyệt. Chưa có một vụ nào kỳ lạ như vụ này.

    ông Maso hớn hở:

    - Vâng, tôi đã trình bày với các ông tất cả những gì mà thượng sỹ Will báo cáo với tôi. Thượng sĩ đã nắm được hết mọi sự kiện. Tôi đã có kiểm tra lại, suy nghĩ, và có bổ sung thêm chút ít. - Thế ông có biết thêm điều gì mới nữa không? - Holmes hỏi.

    - Trước hết, tôi xem xét chiếc búa, không tìm thấy một dấu vết gì của bạo lực cả. Ông thanh tra Dona lưu ý:

    - Trong nhiều vụ án mạng, nạn nhân bị đập bằng búa, mà trên chiếc búa có thấy dấu vết gì đâu.

    - Đúng như vậy. Sau đó tôi xem xét đến khẩu súng. Súng được lắp đạn ghém, hai cò súng được buộc với nhau, chỉ cần bóp cò thì cả hai viên đạn ở hai nòng để nổ một lúc. Nòng súng bị cưa ngắn đi, như vậy có thể dễ dàng mang nó theo dưới một áo khoác. Toàn bộ tên của nhà sản xuất thì không thấy có, nhưng trên những đường góc giữa hai nòng súng thấy còn lại chữ "PEN", các chữ khác thì bị cưa đi mất rồi.

    Holmes hỏi luôn" - Một chữ P hoa có vẽ hoa lá bên trên, và một chữ E, một chữ N nhỏ hơn có phải không ạ? - Đúng đấy ạ. - Hãng sản xuất súng Mỹ tên là "Pennsyl-vania Small arm Company" ông Maso nhìn Holmes với cặp mắt của một ông thầy thuốc nông thôn nhìn một đại chuyên gia trong ngành y tế. - Không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là một khẩu súng Mỹ rồi. Tôi có đọc đâu đấy rằng súng săn cưa nòng, chính là một loại vũ khí thường dùng trong một số vùng nào đó ở bên Mỹ. Như vậy có rất nhiều khả năng là cái tên đã lọt vào trong lâu đài và đã giết ông chỉ nhà là người Mỹ. Ông Dona gật gù:

    - Ông đi mau quá đấy, tôi chưa có chứng cớ gì để tin rằng có một kẻ lạ mặt đã lọt vào trong này.

    - Cửa sổ mở toang, vết máu trên thành cửa, mẩu bìa cứng, vết giày ở góc nhà, khẩu súng....

    - Mấy thứ đó chẳng có cái gì mà không bố trí trước được? ông Du-gia vốn là một người Mỹ, ông Bar cũng thế, vậy thì đâu nhất thiết phải đưa một người Mỹ khác từ ngoài lọt vào để giải thích những chi tiết Mỹ đó. - Am, người đầu bếp....

    - Anh ta có đáng tin cậy không? - Anh ta đã ở với gia đình Du-gia từ 5 năm naỵ Anh ta chưa hề trông thấy khẩu súng này trong nhà. - Khẩu súng này không phải là thứ đem trưng bày cho mọi người thấy. Chính vì thế người ta mới đem cưa nòng của nó đi. Nó có thể đem cất giấu vào bất cứ một cái hộp nào. Làm sao anh Am lại có thể đoán chắc được rằng trong nhà không có một khẩu súng loại này.

    - Nhưng dù sao thì tôi cũng chưa trông thấy nó bao giờ. Dona vẫn lắc đầu không chịu:

    - Tôi vẫn chưa tin là có một người lạ mặt vào đây. Tôi xin các ông hãy thử suy nghĩ xem hậu quả sẽ như thế nào khi giả thiết rằng khẩu súng này là do một người từ bên ngoài mang vào và người này đã hành động như các ông vừa nói.

    Holmes lấy cái giọng rất "chánh án" chỉ Dona, nói:

    - Ông Dona, toà nghe lời khai của ông. - Hung thủ không phải là một tên ăn trộm tầm thường. Chuyện chiếc nhẫn và mẩu bìa cứng đã chứng tỏ rằng đây là một vụ giết người có âm mưu, vì một lý do cá nhân nào đó mà ta chưa rõ. - "Vậy hung thủ đã lẩn vào trong nhà với ý định gây ra một vụ án". Maso nói. "Hắn biết sẽ gặp khó khăn khi muốn thoát ra vì lâu đài được bao bọc bởi một đường hào đầy nước. Vậy thì hắn sẽ chọn thứ vũ khí gì? Chắc các vị sẽ trả lời tôi:

    Một vũ khí thầm lặng. Dùng vũ khí đó, thì sau khi gây ra án mạng, hắn có thể hy vọng chui nhanh qua cửa sổ, lội qua con hào rồi bình tĩnh chạy trốn. Như vậy, thì tôi có thể chấp nhận được, Còn nói hắn chọn một khẩu súng, trong khi hắn biết tiếng nổ sẽ làm cho mọi người trong nhà đổ xô đến và hắn sẽ bị phát hiện trưóc khi lội qua con hào.Liệu luận cứ này có lý không, thưa ông Holmes". Anh bạn tôi suy nghĩ một lát rồi đáp:

    - Tất nhiên là ông đã trình bày sự việc một cách không thể cãi được. Nhưng mà phải có chứng minh. Tôi xin phép được hỏi ông Maso, không biết ông có xem xét ngay bờ bên kia của đường hào để tìm dấu vết của một người từ dưới nưóc lội lên không? - Ở đó không có một dấu vết nào. Bờ bên kia xây bằng đá, thành ra cũng khó thấy.

    - Không có một cái vết, không có một dấu in nào, không có gì cả hay sao?

    - Tuyệt đối không. - A, thế nếu bây giờ tất cả chúng ta cùng đi ngay ra đấy xem lại.

    - Tôi cũng định đề nghị như vậy. Nhưng có lẽ tốt hơn cả, tôi thông báo hết mọi chuyện để ông nắm trước khi ra đấy.

    Maso nhìn Holmes, không tin tưởng gì lắm. Ông thanh tra Dona nói:

    - Tôi đã có làm việc với ông Holmes và ông đã chịu vào cuộc với chúng ta rồi.

    Holmes cười tủm tỉm:

    - Tôi vào cuộc nhưng với quan niệm riêng của tôi về cách chơi. Tôi có chú ý đến một vụ nào cũng cốt là để giúp đỡ công lý và công việc của cảnh sát mà thôi. Nếu tôi có đứng ngoài cơ quan cảnh sát thì cũng chỉ vì cơ quan này gạt tôi ra ngoài. Nói rõ như thế rồi, tôi đòi hỏi quyền được làm việc theo những phương pháp riêng và khi nào thấy có thể được, tôi sẽ xin thông báo với ông những kết quả toàn bộ làm một lần, chứ không phải từng phần một. Ông Maso nói:

    - Chúng tôi rất hân hạnh về sự có mặt của ông, bác sĩ Watson, chúng tôi hy vọng rằng sau này chúng tôi sẽ được ông dành cho một chỗ trong những tác phẩm của ông. Chúng tôi đi xuôi xuống một con đường làng giữa hai hàng cây dương đã hớt ngọn. Ở phía dưới hai cây cột bằng đá phủ rêu còn dấu vết của con sư tử đá ngày xưa. Sau một khúc quẹo gấp cuối cùng, chúng tôi trông thấy toà nhà cổ thấp xây bằng gạch cũ. Toà lâu đài đã qua ba thế kỷ, chứng kiến biết bao sự ra đời, bao lần đi xa trở về tổ ấm, bao nhiêu cuộc khiêu vũ, bao nhiêu cuộc hẹn hò. Nay những bức tường cổ kính này lại phải chứng kiến một tấn thảm kịch thương tâm. Maso chỉ cho chúng tôi:

    - Đó, cửa sổ đó. Cái cửa ở ngay bên phải sát cây cầu rút. Nó được mở toang ra đúng như trong đêm hôm quạ - Nó hẹp quá, làm sao một người chui qua được. - Tên hung thủ chắc không mập lắm. Ông và tôi, chúng ta đều chui qua được một cách dễ dàng. Holmes đi tới con hào, xem xét bãi cỏ cùng bờ đá. Maso nhắc lại:

    - Tôi đã xem kĩ lắm rồi, không có bất cứ một dấu vết gì chứng tỏ có một người từ dưới nước đi lên. - Ở đây cứ luôn đục bùn thế này?

    - Thường thì nước có màu này. Giòng nước sông đưa phù sa vào.

    - Nó sâu bao nhiêu.

    - Ở gần bờ thì khoảng 60 phân, còn giữa thì một thước. - Như vậy chúng ta có thể loại bỏ giả thiết là hắn bị chết đuối khi lội qua hào.

    - Trẻ con cũng không chết đuối.

    Chúng tôi bước qua chiếc cầu rút và một nhân vật xương xẩu ra mở cửa cho chúng tôi:

    Đó là Am. Anh chàng vẫn còn run rẩy.

    Thượng sĩ ngồi cạnh trong căn phòng xảy ra án mạng. Ông bác sĩ Wu đã về. Ông Maso hỏi:

    - Có gì mới không, thượng sĩ Will? - Thưa ông, không có gì. - Thế thì anh có thể về nhà. Khi nào cần anh, sẽ báo sau. Anh bảo anh đầu bếp hãy đi báo cho ông Bar, bà Du-gia và bà hầu phòng rằng chúng tôi cần gặp họ. Bây giờ, tôi xin trình bày quan điểm riêng của tôi, sau đó các ông sẽ nói lên quan điểm của các ông....

    Cái ông cảnh sat ở tỉnh nhỏ này coi bộ mới đàng hoàng làm sao. Ông ta nắm rất vững mọi sự kiện và có một bộ Óc sáng suốt, lạnh lùng, nhất định ông ta sẽ tiến rất xa về nghề nghiệp. Holmes nghe ông ta nói một cách chăm chú. -.... Đây là một vụ tự sát? Hay là một vụ ám sát? Nếu đây là một vụ tự sát thì chúng ta phải tin rằng người nay bắt đầu tháo chiếc nhẫn cưới của mình ra, đem giấu đị/ Rồi người đó đi xuống đây, đặt đôi giày có dính bùn vào đằng sau bức rèm cửa để làm cho người ta tưởng là có ai đứng đợi ở đó, sau đó mở toang cửa sổ ra, bôi máu lên thành....

    ông Dona cắt ngang:

    - Chúng ta có thể gạt bỏ giả thiết này.

    - Vậy thì đã xảy ra một án mạng. Chúng ta phải tìm xem hung thủ là người trong nhà hay từ ngoài vào.

    - Chúng tôi xin nghe lập luận của ông. - Trong cả hai trường hợp đó, chúng ta đều vấp phải những khó khăn to lớn. NHưng không thể có một giả thiết thứ bạ Chỉ một trong hai giả thiết đó thôi. Trước hết chúng ta hãy giả thiết:

    hung thủ là người ở ngay trong lâu đài này. Chúng đã hạ Ông Du-gia trong một thời điểm mà tất cả mọi sự đều yên tĩnh, nhưng chưa ai ngủ cả. Mặt khác, chúng đã gây án mạng bằng một vũ khí lạ nhất và ầm ĩ nhất, để sau đó mọi người đều biết. Một vũ khí mà trước đó, chưa ai nhìn thấy ở trong nhà. Như vậy thật cũng khó tin quá. - Vâng khó tin thật. - Tất cả mọi lời khai đều khớp với sự kiện này. Sau khi báo động, chỉ chưa đầy một phút, thì mọi người đã có mặt ở hiện trường. Như vậy thì liệu các ông có tin được rằng trong một khoảng thời gian rất ngắn mà hung thủ đã làm rất nhiều việc:

    in các dấu chân trong góc nhà, mở cửa sổ, làm vấy máu lên thành cửa, rút chiếc nhẫn cưới ra rồi lại gắn vào....

    Holmes tán thành:

    - Ông đặt vấn đề một cách rất rõ ràng.Tôi ngả theo quan điểm của ông. - Như vậy, chúng ta bắt buộc phải trở lại giả thiết do một người ở ngoài gây ra. Tên sát nhân đã lọt vào nhà trong khoảng thời gian từ 4 giờ rưỡi đến 6 giờ chiều. Hôm đó có tiếp khách, cửa mở rộng, nên không có gì ngăn được nó. Cũng có thể nó chỉ là một tên ăn trộm tầm thường thôi. Cũng có thể nó là một người có hận thù riêng gì với ông Du-gia. Nó đã chui vào căn phòng này và đã trốn ở đằng sau bức rèm cửa. Nó đứng ở đó đến quá 11 giờ đêm. Vào giờ này ông Du-gia bước vào phòng. Cuộc đối thoại với tên sát nhân rất ngắn ngủi, vì bà Du-gia khai rằng chồng bà mới đi xuống chừng vài phút thôi là bà đã nghe thấy tiếng súng. - Cây nến cũng phù hợp với điều đó. - Holmes nói.

    - Đồng ý. Cây nến còn mới, chỉ cháy khoảng 1 phân rưỡi, chắc ông ta đã đặt nó lên bản trước khi bị tấn công; nếu không, nó đã rơi xuống đất khi ông ta ngã. Điều này cũng chứng tỏ là ông ta không bị tấn công ngay khi vừa bước vào phòng. - Tất cả đều rõ ràng. - Bây giờ chúng ta có thể hình dung lại diễn biến của vụ án.:

    ông Du-gia bước vào phòng, đặt cây nến lên bàn. Một người từ sau bức rèm hiện ra. Hắn có mang cây súng. Hắn đòi chiếc nhẫn cưới. Ông Du-gia đưa nhẫn cho hắn. Thế là hắn bắn ông Du-gia vì ông này đã vớ được cái búa để trên thảm. Hắn bỏ rơi khẩu súng xuống, và cả mẩu bìa cứng có mang chữ "TLV 341". Rồi hắn chạy trốn qua cửa sổ và lội qua hào giữa lúc ông Bar phát hiện ra vụ án mạng. Ông nghĩ thế nào ông Holmes? - Rất hay, nhưng chưa thuyết phục được người nghe. Ông Dona kêu lên:

    - Ông bạn thân mến, tôi sẽ chứng minh cho ông thấy là nó sẽ hành động theo một cách khác. Tại sao nó dám dùng một khẩu súng sau khi nó biết rằng muốn thoát ra thì phải dùng một vũ khí thầm lặng. Nào, ông Holmes bây giờ xin ông cho biết ý kiến. Holmes hết liếc mắt từ phải qua trái rồi từ trái sang phải. Anh đứng dậy, đến quỳ bên xác chết. - Tôi muốn có thêm một vài sự kiện bổ xung, trước khi đi vào một giả thiết, thưa ông Donạ Những vết thương này thật là khủng khiếp. Chúng ta có thể cho anh đầu bếp vào đây một lát được không, các ông.... Anh Am, tôi chắc rằng anh đã được nhìn thấy nhiều lần cái hình rất kì lạ này, một tam giác trong một đường tròn, áp bằng sắt nung đỏ lên cẳng tay của ông Du-gia phải không? - Vâng, thưa ông, nhiều lần ạ. - Anh có bao giờ nghe thấy một lời nói nào có thể giải thích được ý nghĩa của cái dấu ấy không? - Thưa ông, không. - Chắc lúc mới áp vào phải đau đớn lắm đấ., Rõ ràng là một vết bỏng. Này anh Am, bây giờ tôi trông thấy một miếng băng dính ở dưới cằm ông Du-gia. Anh có nhận thấy không? - Thưa ông có ạ. Sáng hôm qua, ông ấy đã bị đứt khi cạo mặt. - Ông ấy có hay bị đứt như vậy khi cạo mặt không? - Thưa ông, hầu như không. - Rất haỵ Tất nhiên đây chỉ là một sự ngẫu nhiên thôi. Nếu không, nó chứng tỏ ông ta đang lo lắng về một mối nguy hiểm nào đó. Anh Am, ngày hôm qua anh có nhận thấy có một cái gì đó khác thường trong sinh hoạt của ông chủ không? - Ông chủ tôi có hơi bồn chồn và cáu gắt. - à, thế thì. Hình như chúng ta đã tiến thêm được vài bước. Ông Dona, ông có muốn đích thân hỏi thêm gì nữa không? - Không, xin nhường cho những người cao minh hơn. - Vậy thì chúng ta quay sang mẩu bìa "TVL 341". Đây là một loại bìa "TLV 341". Đây là một loại bìa tồi, ở trong nhà có thứ bìa nào giống thế này không? - Thưa ông, không ạ. Holmes đi lại bên bàn giấy, lấy mỗi lọ mực, đổ vài giọt lên giấy thấm. - Những chữ này không phải viết ở đây rồi. Viết bằng mực đen, còn mực ở đây màu đỏ gạch, vả lại viết bằng một ngoì bút to nét, còn những ngòi bút ở đây đều nhỏ nét cả. - Không, những chữ này đã được viết ở nơi khác rồi. Anh Am, anh có cho rằng những chữ này có ý nghĩa gì không? - Thưa ông, tôi không biết. - Ông nghĩ thế nào, ông Donả - Nó làm tôi nghĩ đến một hội kín. Cái dấu ở trên cánh tay kia cũng thế. - Tôi cũng nghĩ như vậy.

    - Ông Maso lên tiếng. - Chúng ta chọn giả thiết đó. Một thành viên của một hội kín lọt vào trong lâu đài, chờ ông Du-gia và bắn vỡ sọ Ông ta, rồi trốn ra bằng đường hào, sau khi đã vứt lại bên cạnh nạn nhân một mẩu bìa cứng có ghi những chữ mà khi báo chí đăng lên sẽ báo tin cho các thành viên khác của hội biết rằng việc trả thù đã hoàn thành. Tất cả mọi cái đều khớp. - Nhưng tại sao lại dùng súng, mà không dùng bất cứ vũ khí nào khác? - Đúng thế. - Và tại sao chiếc nhẫn cưới lại biến mất? - Đồng ý. - Tại sao người ta lại chưa bắt được người nào? Bây giờ là 14 giờ rồi, tôi chắc rằng từ rạng đông đến giờ tất cả cảnh sát đang truy lùng một người lạ mặc quần áo ướt và lấm bùn. - Vâng, ông không nhầm, ông Holmes ạ. - Nếu hắn không có một nơi ẩn nấp ở gần đây, và nếu hắn không thay được quần áo, thì cảnh sát không để lọt lưới. ấy vậy mà cho đến giờ này, hắn đã lọt lưới thật....

    Holmes đi lại phía cửa sổ, và rút chiếc kính lúp ra, xem xét vết máu trên thành cửa.

    - Đúng là vết in của một bàn chân. To hơn bình thường. Phải nói là giống như một bàn chân phẳng. Một điều kì lạ khác nữa:

    Cái vết chân dính bùn ở góc nhà kia lại có vẻ bình thường hơn vết này. Nói cho ngay ra, thì tất cả đều mờ nhạt không rõ ràng. Còn cái gì ở dưới gầm chiếc bàn con thế kiả - Những qủa tạ của ông Du-gia. - Am đáp. - Chỉ thấy có một quả thôi, Còn quả kia đâu?

    - Thưa ông, tôi không biết. Có thể là chỉ có một quả thôi, Đã hàng tháng nay tôi không nhìn xuống đó. Holmes nói một cách trầm ngâm:

    - Một quả ta....

    Một tiếng gõ cửa đã ngắt lời anh. Một người đàn ông cao lớn, mặt cạo râu nhẵn nhụi, da rám nắng, trông thông minh, lanh lẹ bước vào. Đó là Bar. Đôi mắt quen ra lệnh của ông ta đảo nhìn chúng tôi một lượt. - Tôi xin lỗi đã làm gián đoạn cuộc họp, nhưng tôi muốn báo các ông một tin cuối cùng, - Đã bắt được rồi ư? - Chưa. Nhưng người ta đã tìm thấy chiếc xe đạp, hung thủ đã bỏ nó lại. Chỉ cách cửa ngoài không đầy một trăm thước thôi, Mấy gia nhân cùng những người hiếu kì đang ngắm nghiá một chiếc xe đạp mà người ta vừa lôi ở trong một bụi cây ra. Cái túi sau yên xe đựng một chiếc cờ lê và một lọ dầu nhớt, nhưng không có một chỉ dẫn nào về người chủ của nó. Ông thanh tra thở dài, nói:

    - Công việc sẽ đơn giản biết bao nếu xe này có mang biển số. Nhưng chúng ta sẽ biết được ngay chủ nó mang xe từ đâu đến. Nhưng mà, tại sao hắn lại vứt bỏ chiếc xe đạp? Làm thế, hắn không đi xa được. Ông Holmes này, hình như chúng ta chưa có được một tia sáng nào.

    - Chính tôi cũng đang tự hỏi như vậy.

    - Holmes đáp.

  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 5

    Những nhân vật của tấn thảm kịch
    Khi chúng tôi bước ra khỏi phòng, ông Maso còn hỏi lại:

    - Các ông đã xem kỹ căn phòng này chưa?

    - Hiện nay thì đủ rồi.

    - Ông thanh tra đáp. Holmes cũng gật đầu đồng ý. - Bây giờ thì chắc các ông muốn nghe lời khai của một vài người ở trong lâu đài này. Anh Am, chúng tôi sẽ làm việc ở trong phòng ăn. Trước hết, anh hãy cho chúng tôi nghe tất cả những gì mà anh biết. Câu chuyện của anh đầu bếp kể lại đã thuyết phục được người nghe. Anh ta đã được nhận vào làm 5 năm trước đây, khi ông Du-gia vừa đến ở Birlstonẹ Ông Du-gia là một người có của và đàng hoàng, đã từng làm giầu trước đây ở bên Mỹ, ông tỏ ra là một ông chủ tốt và hào phóng, ông Du-gia ra lệnh mỗi buổi chiều phải kéo cây cầu lên là để nối tiếp lại một phong tục cũ của toà lâu đài cổ này. Ông rất ít khi đi Luân Đôn, và cũng ít khi rời khỏi làng. Nhưng một ngày, trước hôm xảy ra án mạng, ông đi lên Tunbridge Wells để mua sắm một ít đồ vật. Ngày hôm sau, chính Am nhận xét thấy ông Du-gia có vẻ hơi nóng nảy, cáu gắt và điều này thật là khác thường. Lúc xảy ra án mạng, Am đang ở trong bếp, đang cất dọn các đồ chén bát. Chính lúc đó anh nghe tiếng kéo chuông thật mạnh, nhưng không nghe thấy tiếng súng nổ vì từ bếp lên đến căn phòng ấy còn phải qua một dãy hành lang dài và mấy lớp cửa đóng. Tiếng chuông quá mạnh cũng làm cho bà hầu phòng phải chạy ra, và hai người cùng chạy lên nhà trên. Khi đến chân cầu thang, thì bà Du-gia ở trên lầu đang đi xuống. Không, bà ta không có dáng vội vàng. Và Am có cảm giác là bà ta không bối rối. Khi bà Du-gia xuống đến bậc cầu thang cuối cùng, thì ông Bar từ trong phòng chạy ra, ngăn bà lại và xin bà trở lên. Ông ấy kêu lên:

    - Chị hãy trở lên phòng ngay đi. ảnh đã chết rồi. Chị lên đi. Ông Bar phải nói mãi bà Du-gia mới chịu lên phòng. Bà không khóc. Bà không làm ồn ào. Bà hầu phòng A-len đã dìu bà lên và ở trong phòng với bà. Am và ông Bar lúc đó mới đi vào trong căn phòng. Bấy giờ ngọn nến khôngcháy, mà cây đèn lại cháy. Cả hai người nhìn qua cửa sổ, nhưng đêm tối đen như mực, và không nghe thấy gì cả. Họ đổ xô ra buồng ngoài và Am đã hạ cây cầu rút xuống để ông Bar đi báo cảnh sát. Lời khai của bà hầu phòng A-len cũng khớp với lời khai của Am. Buồng riêng của bà hầu phòng ở gần phía nhà trên hơn là chỗ bếp của Am. Bà đang đi ngủ, thì nghe tiếng chuông kéo thật mạnh. Bà có hơi nặng tai. Không biết có phải vì thế mà bà không nghe thấy tiếng súng chăng? Khi ông Am chạy lên nhà trên, thì bà cũng chạy theo ông tạ Bà có trong thấy ông Bar mặt bối rối từ trong phòng đi rạông ta chạy đến trước mặt bà Du-gia lúc đó ở trên cầu thang đi xuống. Ông ta năn nỉ mời bà Du-gia đi lên, và bà ta có trả lời lại điều gì đó mà bà A-len nghe không rõ. Ông Bar ra lệnh cho bà:

    - Bà đưa bà chủ lên lầu đi. Và ở luôn đó với bà chủ. Bà đưa bà chủ lên lầu về phòng và cố khuyên bà chủ bình tĩnh lại. Bà Du-gia, chân tay run bắn, nhưng cũng không muốn đi xuống nữa. Bà mặc chiếc áo khoác, ngồi vào bên lò sưởi, hai tay ôm lấy đầu. Bà A-len đã ở lại đó cả đêm với bà. Còn các gia nhân khác, thì họ đều đi ngủ cả, và chỉ được báo động trước lúc cảnh sát đến một chút thôi.

    Đến lượt ông Bar. Về những sự kiện xảy ra đêm hôm qua, ông cũng khai y như đã khai với thượng sĩ Will. Riêng ông, ông tin rằng tên sát nhân đã trốn qua cửa sổ. Theo ông thì vết máu ở trên thành cửa sổ không cho phép người ta nhgi ngờ điều đó. Nhưng ông ta không hiểu vì sao hung thủ lại có thể biến đi được, hoặc tại sao nó lại không chịu trốn bằng xe đạp, nếu chiếc xe ấy là của nó. Về vụ án mạng này, ông có thể có một quan điểm rất rõ ràng. Ông Du-gia là người ái Nhĩ Lan di cư sang Mỹ từ thời còn thanh niên, đã làm ăn phát đạt và Bar đã quen biết ông ta ở Calị Hai người chung vốn khai thác một cái mỏ, kết quả hết sức tốt đẹp. Đột nhiên Du-gia bán lại phần của ông ta và trở về Anh. Lúc đó Bar vừa goá vợ. ít lâu sau, Bar chuyển hết tài sản ra thành tiền mặt rồi về Luân Đôn, vì thế hai người lại nối lại tình bạn cũ. Du-gia làm cho Bar có cảm giác rằng có một mối nguy hiểm nào đó đang treo trên đầu mình, và Bar vẫn nghĩ rằng việc Du-gia đột ngột rời bỏ Cali là có liên quan đến mối nguy hiểm đó. Bar tưởng tượng một hội kín nào đó, có mối thù không đội trời chung với Du-gia. Chính một vài câu nói của Du-gia đã làm nẩy nở ý nghĩ này trong đầu Bar, chứ bản thân Bar thì chưa bao giờ hỏi gì về cái hội kín này. Bar đoán rằng những chữ viết trên mẩu bìa cứng là có liên quan đến hội kín. Ông thanh tra Dona hỏi:

    - Ông đã sống với ông Du-gia trong bao lâu ở Calỉ - Khoảng 5 năm. - Lúc đó Du-gia sống độc thân? - Goá vợ. - Bà vợ thứ nhất của Du-gia là người nước nào?

    - Thuỵ Điển. Tôi có thấy ảnh của bà tạ Đó là một phụ nữ rất đẹp, chết trước khi chúng tôi quen nhau một năm. - Liệu ông có thể xác định được quá khứ của bà ta ở một vùng nào cụ thẻ bên Mỹ không? - Du-gia có nói với tôi là ở Chicagọ Ông ta biết rất rõ thành phố này và đã làm việc ở đó, ông ta cũng có nói với tôi về những vùng mỏ khai thác than và sắt. - Ông Du-gia có làm chính trị không? Cái hội kín này có mục đích chính trị không? - Không. Ông ấy không bao giờ để ý đến chính trị. - Ông có nghĩ rằng đây là một cái hội phạm pháp không? - Tuyệt đối không. Tôi chưa thấy một người nào lại thẳng thắn và dứt khoát như ông Du-gia. - Ông có thể cho chúng tôi biết những chi tiết gì đặc biệt về cuộc đời của Du-gia ở Cali được không? - Lúc đó ông ta sống ru rú trong khu mỏ và chỉ đi đến những nơi đông người khi nào đặc biệt lắm mà thôi. Khi ông ta đột ngột bỏ về Châu âu, thì một tuần lễ sau có sáu người đến tìm ông tạ - Loại người như thế nào?

    - Những người trông có vẻ bất trị lắm. Họ kéo nhau đên khu mỏ và muốn biết Du-gia đang ở đâu. Tôi nói là ông ta đã trở về Châu âu và tôi không biết địa chỉ. - Họ là người Mỹ? Người Calỉ - Cali thì tôi không biết. Nhưng người Mỹ thì chắc chắn rồi, không phải là dân thợ mỏ. - Cách đây có đến sáu năm không? - Gần bẩy năm. - Thế mà hai ông đã sống với nhau 5 năm ở Calị Vậy thì cái vụ hội kín này phải cách đây ít nhất đến 11 năm. - Đúng thế. - Một mối thù dai dẳng. - Tôi nghĩ rằng mối thù này lúc nào cũng lởn vởn trong đầu ông tạ - Khi một người cảm thấy mình bị đe doạ, thì người đó phải nhờ cảnh sát bảo vệ chứ? - Có thể đây là một mối nguy hiểm mà các cơ quan cảnh sát không làm gì được cũng nên, Nhưng có một điều này các ông cần phải biết:

    ông Du-gia không khi nào đi ra ngoài lại không mang vũ khí. Nhưng hôm qua ông ấy lại mặc chiếc áo khoác ở nhà, và để súng ở trong buồng. Có lẽ vì thấy chiếc cầu rút đã kéo lên, nên ông ta cho thế là an toàn chăng? ông Dona hỏi thêm:

    - Ông Du-gia đã rời Cali đã sáu năm rồi. Đến năm sau thì ông cũng bỏ đi nốt phải không? - Vâng, đúng thế. - Ông ta lấy vợ khác từ năm năm naỵ Vậy thì ông trở về Anh vào lúc ông ta cưới vợ chứ? - Một tháng trước ngày cưới. Tôi là người làm chứng của ông tạ - Thế ông có quen biết bà Du-gia trước khi cưới không? - Không. Tôi đã rời khỏi nước Anh từ mười năm rồi.

    - Nhưng từ đó đến nay ông đã gặp bà ta nhiều lần rồi chứ? Bar nhìn ông thanh tra một cách hết sức nghiêm trang:

    - Tôi đã gặp ông ta nhiều lần, từ ngày cưới đến giờ. Còn nếu tôi có gặp bà ta đi nữa thì bới vì không thể ở trong nhà một người mà lại không biết đến vợ người đó. Nếu ông tưởng tượng rằng có một mối liên quan nào đó....

    - Tôi chẳng tưởng tượng gì cả. Tôi có nhiệm vụ phải tìm tất cả những gì có thể liên quan đến vụ án. Nhưng tôi không muốn làm mất lòng ai.

    Bar đáp lại một cách khô khốc:

    - Có những cái tìm kiếm làm mất lòng người khác đấy, ông thanh tra à. - Chúng tôi chỉ muốn có các sự kiện. Nếu những sự việc này được trình bày ra đây một cách sáng tỏ, thì điều này chỉ có lợi cho ông, cho mọi người. Ông Du-gia có hoàn toàn tán thành tình bạn của ông đối với với vợ Ông ta không? Bar tái mặt, hai bàn tay nắm chặt vào nhau, nói to tiếng:

    - Ông không có quyền hỏi tôi những câu như vậy. Việc này có liên quan gì đến vụ án mà ông đang điều trả - Tôi có phải nhắc lại câu hỏi này không, thưa ông? - Ông cứ nhắc lại, còn tôi, tôi không trả lời.

    - Ông có thể không trả lời, nhưng ông phải biết chính cái việc từ chối đã là một câu trả lời rồi. Bởi vì ông sẽ chịu trả lời nếu ông không có điều gì dấu diếm. Bar ngồi im lặng một lát, nét mặt căng thẳng. Rồi ông ta trở lại thư thái hơn, nhìn chúng tôi mỉm cười:

    - Thôi được, tôi thấy thật ra các ông cũng chỉ làm nhiệm vụ của mình thôi. Tôi muốn nói với các ông rằng Du-gia có một tính xấu là hay ghen. Ông ta rất quí mến tôi, Và ông ta cũng quí vợ Ông ta lắm. Mỗi lần tôi đến đây, ông ta đều rất vui lòng. Lâu tôi không đến chơi là ông liền cho người đi gọi. Tuy vậy, khi ông thấy vợ Ông và tôi ngồi nói chuyện với nhau thì ông ta nổi nóng đến mức nói tôi chẳng ra gì nữa. Đã nhiều lần tôi thề rằng sẽ không đặt chân đến đây nữa. Nhưng khi tôi hờn dỗi thì ông ấy lại viết cho tôi những bức thư rất dễ thương làm tôi không thể giận lâu hơn được nữa. Và sau đây là lời nói cương quyết của tôi:

    Không có một người phụ nữ nào lại yêu chồng và chung thuỷ như bà Du-gia. Ông thanh tra Dona hỏi:

    - Ông có biết chiếc nhẫn cưới của nạn nhân đã bị rút ra khỏi ngón tay của người ấy không? - Hình như thế. - Tại sao ông lại nói là "hình như thế". Ông biết rõ đây là một việc có thật kia mà. Bar có vẻ lúng túng:

    - Khi tôi nói "hình như thế" là tôi muốn nói rằng cũng có thể chính nạn nhân đã tự mình rút chiếc nhẫn đó ra. - Việc chiếc nhẫn cưới biến mất, đã gợi ý cho mọi người thấy rằng có một mối liên quan nào đó giữa đám cưới của ông Du-gia và vụ án này. Có phải không ông? Bar nhún vai trả lời:

    - Tôi sẽ không đi tìm xem nó gợi ý cái gì, nhưng nếu ông muốn ám chỉ rằng việc đó làm tổn thương đến danh dự bà Du-gia thì....

    Hai mắt ông ta long lanh sáng quắc, và ông ta phải dùng tất cả nghị lực để kìm hãm xúc cảm. -.... Thì ông đã đi lầm đường rồi đấy, Có thế thôi.

    ông thanh tra Dona lạnh nhạt nói:

    - Tạm thời bây gì tôi không có gì hỏi thêm ông nữa....

    Holmes vội bác ngay:

    - Xin ông một chi tiết nhỏ, thưa ông Bar. Khi ông bước vào trong phòng, thì chỉ có một ngọn nến thắp để trên bàn, có phải hông? - Vâng. - Chính nhờ ánh sáng của ngọn nến đó mà ông đã trông thấy là có một việc khủng khiếp vừa xảy ra,phải không? - Đúng thế. - Ông đã tức khắc kéo chuông ngay để báo động. - Vâng. - Và mọi người đã đổ ngay đến đấy chỉ sau một khoảng thời gian rất ngắn, Có phải không? - Chỉ sau không đầy một phút. - ấy thế mà khi mọi người vào đây lại thấy ngọn nến được tắt đi và ngọn đèn đã được thắp lên, như vậy có lạ lùng không ông? Một lần nữa, Bar lại tỏ ra hơi lúng túng. Ông ta im lặng một lát rồi mới trả lời:

    - Thưa ông tôi không thấy có gì lạ lùng. Ngọn nến chiếu ánh sáng lu mờ quá. ý nghĩ đầu tiên của tôi là phải có một ánh sáng tốt hơn. Cái đèn lúc đó để trên bàn, tôi đã thắp nó lên. - Và ông đã tắt ngọn nến đi. - Vâng. Holmes không hỏi thêm, và Bar - sau một cái nhìn thách thức về phía mỗi người chúng tôi, đã rời căn phòng đi ra. Dona viết một mảnh giấy nhỏ báo cho bà Du-gia biết là ông sẽ lên gặp bà, nhưng bà đã trả lời là bà sẽ xuống. Đó là một phụ nữ khoảng 30 tuổi, cao lớn, rất đẹp, dáng điệu chín chắn, và hết sức tự chủ, khác hẳn với hình ảnh một người bi thảm và rã rời mà tôi hình dung ra trong đầu. Bà lần lượt nhìn chúng tôi, với một biểu hiện dò hỏi. Rồi đôi mắt dò hỏi đó, nhường chỗ cho một câu hỏi đột ngột:

    - Các ông đã tìm ra gì chưa?

    Trong giọng nói của bà chứa đựng sự sợ sệt nhiều hơn là niềm hy vọng. - Thưa bà, chúng tôi đã làm những việc cần làm. Xin bà cứ yên tâm. - Dona trả lời - Xin các ông đừng ngại tốn kém tiền bạc. - bà Du-gia nói, giọng thều thào.

    - Không biết bà có đem lại cho chúng tôi một chút ít ánh sáng nào không? - Thưa, tôi sẵn sàng làm tất cả những gì mà các ông cần. - Ông Bar cho biết rằng bà không bước chân vào căn phòng xảy ra án mạng. - Vâng. Ông ta đã bắt tôi phải đi lên và trở về phòng riêng. - Bà nghe tiếng súng nổ, và bà đã tức khắc xuống ngay?

    - Tôi mặc áo khoác ngoài và tôi chạy xuống. - Từ lúc bà nghe tiếng nổ đến lúc ông Bar ngăn bà lại, mất khoảng bao nhiêu.

    - Có lẽ độ hai phút. Trong những lúc như vậy thật khó tính được thời gian. - Bà có thể dự tính được khoảng thời gian từ lúc chồng bà đi xuống nhà đến lúc bà nghe tiếng súng nổ không? - Thưa ông, chồng tôi đi từ buồng tắm ra nên tôi không nghe thấy tiếng anh ấy đi xuống. - Bà đã quen ông ấy ở Anh có phải không? - Thưa vâng, đã 5 năm rồi.

    - Bà có bao giờ nghe thấy ông ấy nói về một chuyện gfi xảy ra ở bên Mỹ và dự cảm về một mối nguy hiểm nào không? Bà Du-gia suy nghĩ lung lắm trước khi trả lời. Mãi một lúc sau bà mới nói:

    - Thưa có. Tôi vẫn có linh tính là có một sự nguy hiểm đe doa. chồng tôi. Anh không chịu bàn luận gì với tôi về việc này cả, vì anh ấy chủ tâm tránh cho tôi mọi sự sợ hãi.

    - Vậy làm sao bà lại biết được? Nét mặt bà Du - gia hồng tươi hẳn lên trong một nụ cười:

    - Tôi biết được bí mật này là nhờ vào nhiều dấu hiệu:

    vì anh ấy không chịu nói gì với tôi về một vài quãng đời của anh khi còn ở bên Mỹ. Vì tôi thấy anh ấy có những biện pháp tự vệ riêng. Vì đôi lúc anh ấy không kiềm chế được và nói lỡ vài lời. Vì thấy cái cách anh ấy nhìn những người lạ mặt bất chợt đến đây. Tôi hoàn toàn chắc chắn là anh ấy có những kẻ thù ghê gớm, mà anh ấy cho là đang dò tìm tung tích của anh, và anh luôn luôn cảnh giác đề phòng. - Ông ấy đã lỡ mồm nói ra điều gì làm bà phải chú ý. - Holmes hỏi.

    - "Thung lũng khủng khiếp". Có một lần anh ấy dùng hình tượng này để nói với tôi. Khi tôi thấy anh ấy nghiêm nghị hơn bình thường, tôi có hỏi:

    "Có bao giờ chúng ta ra khỏi được cái "Thung lũng khủng khiếp" ấy không? " Và anh ấy đã trả lời rằng:

    "Có lẽ chúng ta không bao giờ ra khỏi được". - Tất nhiên là bà có hỏi ông nhà xem ông muốn nói gì bằng hình tượng "Thung lũng khủng khiếp". - Vâng, tôi có hỏi.Nhưng anh ấy sa sầm mặt lại và lắc đầu nói:

    "Cầu trời cho cái bóng ấy không bao giờ phủ cả lên em nữa". Đó là cái thung lũng thực sự chứ không phải là một hình tượng. Anh ấy đã sống ở đó và một sự khủng khiếp đã xảy ra có liên quan đến anh. - Thế ông ấy có nêu lên một người nào không? - Cách đây ba năm, anh ấy bị sốt cao. Trong cơn mê, anh ấy luôn luôn nhắc đến một tên người. Cái tên ấy là Ganh-ty trưởng toán. Lúc anh ấy bình phục, tôi có hỏi trưởng toán Ganh-ty là ai. Anh ấy cười trả lời:

    "Nhờ trời, nó chưa bao giờ làm trưởng cái toán của anh". Nhưng chắc có một mối liên hệ nào đó giữa người trưởng toán đó và thung lũng khủng khiếp. Ông thanh tra Dona nói:

    - Bà đã gặp ông Du-gia trong nhà trọ một gia đình ở Luân Đôn và hai ông bà đã hứa hôn với nhau cũng ở đó. Trong việc lập gia đình, có một yếu tố nào bí mật hay cần phải giữ kín không? Hay là một yếu tố lãng mạn? - Lãng mạn à? Vâng, thưa có. Bao giờ thfi cũng có yếu tố lãng mạn. Không có cái gì là bí mật cả. - Ông ấy có tình địch không? - Thưa không. Lúc đó tôi hoàn toàn tự dọ - Việc mất chiếc nhẫn cưới, có gợi cho bà một ý nghĩ gì không? Nếu kẻ thù cũ đã đến đây và ám hại ông, thì có lý nào chúng lại tháo chiếc nhẫn. TRong một thoáng, tôi chợt thấy một cái gì đó như là một nụ cười rất kín đáo trên đôi môi bà Du-gia. Bà ta bình tĩnh trả lời:

    - Tôi tuyệt đối không hiểu gì cả. Thật là kỳ lạ. Ông Thanh tra nói:

    - Thưa bà, chúng tôi không giữ bà lâu hơn nữa và rất tiếc đã quấy rầy bà. Tất nhiên còn một số điều nữa phải xem xét thêm, nhưng chúng tôi sẽ xin kêu gọi sự giúp đỡ của bà khi nào cần thiết. Bà ta đứng lên, và tôi lại bất chợt một lần nữa thấy đôi mắt sắc sảo nhìn chúng tôi một cách dò hỏi. Rồi bước ra khỏi phòng ăn. Khi hai cánh cửa phòng đã khép lại, ông thanh tra Dona khe khẽ nói một cách trầm ngâm:

    "Một người đàn bà đẹp. Một người đàn bà rất đẹp. Cái tay Bar này là một người được phụ nữ ưa thích. Cậu ta công nhận rằng Du-gia có tính hay ghen. Biết đâu rằng cái ghen này không phải là vô căn cứ. Rồi lại còn chuyện cái nhẫn cưới nữa. Chúng ta không thể coi thường chi tiết ấy được. Một người mà đã rút cái nhẫn cưới ra khỏi bàn tay của một xác chết. Ông nghĩ thế nào, ông Holmes". Holmes ngồi yên lặng, hai tay ôm đầu. Anh đứng dậy ra giật chuông, và khi người đầu bếp vào, anh hỏi:

    - Anh Am, ông Bar hiện giờ ở đâu?

    - Thưa ông, để tôi đi xem. Một lát sau, anh ta trở lại báo cáo ông Bar hiện đang ở ngoài vườn. - Anh Am, anh cố nhớ lại xem, đêm hôm qua khi anh vào gặp ông Bar thì ông ta đi gì ở chân? - Ông ta đi giày vải. Tôi đã mang giày da đến cho ông ta thay để đi báo cảnh sát. - Thế đôi giày vải ấy bây giờ ở đâu rồi?

    - Dưới gầm ghế ở phòng ngoài.

    - Rất tốt, việc phân biệt giữa những vết chân của ông Bar và của một người ở ngoài là rất quan trọng chứ? Anh có đồng ý không. - Thưa ông, vâng, tôi nhận thấy các vết chân của ông Bar đều đầy dấu máu. Nhưng cả những vết chân của tôi cũng thế. - Đó là điều bình thường, nếu căn cứ vào tình trạng căn buồng lúc đó. Chúng tôi lại sẽ gọi chuông khi nào cần đến anh. Vài phút sau chúng tôi đã trở lại căn buồng có án mạng. Holmes đã nhặt mang theo đôi giày vải để ở buồng ngoài, đôi giày đỏ lòm máu.

    Holmes cầm đôi giày ra đứng trước cửa sổ chăm chú xem xét, vừa xem vừa nói khẽ một mình. - Kỳ cục. Thực là kỳ cục. Anh ta nhẹ nhàng cúi xuống và đặt chiếc giày cải lên vết máu trên khung thành cửa sổ:

    KHớp đúng như in. Anh ta mỉm cười, nhìn mọi người.

    ông thanh tra bối rối đến cực độ, hét lên như người điên:

    - Chính tay Bar này đã in dấu gìay trên thành cửa sổ. Nó rộng hơn một dấu chân bình thường. Tôi nhớ rằng ông đã có nói đây là một bàn chân phẳng. Bây giờ mới hiểu tại sao. Nhưng này ông Holmes, thế hắn định chơi cái trò gì đây?

    Holmes cũng nhắc lại một cách trầm ngâm:

    - Vâng, vâng. Trò gì nào?

    Maso tủm tỉm cười:

    xoa mãi hai bàn tay vào nhau với một niềm vui thích hoàn toàn có tính cách nghề nghiệp:

    - Tôi đã báo trước cho các ngài biết mà. Gay go hóc búa lắm chứ có phải chơi đâu.

  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    chương 6
    Một tia sáng chợt loé
    Trong khi ba nhà thám tử đi thẩm tra lại một số chi tiết, tôi đi dạo một vòng khu vườn ở bên hông lâu đài. Được bao quanh bởi những hàng cây thùy dương uy nghi, khu vườn có một bãi cỏ rất đẹp, ở giữa là một chiếc đồng hồ mặt trời cổ kính. Sự yên tĩnh ở đây làm cho thần kinh tôi như giãn hẳn ra. Đi về phía xa nhất của toà lâu đài, những lùm cây mọc sát vào nhau làm thành một thứ hàng rào rất kín. Đằng sau hàng rào, có một chiếc ghế kê khuất hẳn, người đi từ phía lâu đài lại không thể nhìn thấy được. Đi gần đến đó, tôi chợt nghe tiếng nói của đàn ông, và một tiếng nói nhỏ của phụ nữ. Một lát sau khi đã đi vòng qua hàng rào, tôi trông thấy bà Du-gia đang ngồi với ông Bar. Vẻ mặt của bà ta làm tôi phải kinh ngạc. Lúc nãy, bà tỏ ra nghiêm nghị và dè dặt bao nhiêu thì bây giờ, bà ta yêu đời bấy nhiêu; khuôn mặt vẫn còn rung lên trong sự thích thú vì câu nói vừa rồi của ông Bar. Ông ngồi nghiêng người ra phía trước, hai tay đan vào nhau, một nụ cười tươi làm rạng rỡ hẳn bộ mặt rắn rỏi. Khi trông thấy tôi, họ lấy lại nét mặt trang nghiêm, thì thầm với nhau câu gì đó, rồi Bar đứng dậy và tiến về phía tôi:

    - Thưa ông, có phải tôi đang được hân hạnh nói chuyện với bác sĩ Watson không? Tôi chào lại một cách lạnh nhạt. - Chúng tôi nghĩ rằng có lẽ đúng là ông, người mà ai ai cũng biết là bạn thân của ông Holmes. Bà Du-gia mong muốn được thưa với ông một đôi điều.

    Tôi cau mày và đi theo ông tạ Hình ảnh của người chết lại hiện ra trong đầu tôi. Chỉ vài giờ sau tấn thảm kịch thì vợ và bạn của kẻ xấu số đã cười đùa vui vẻ với nhau. Tôi chào bà Du-gia một cách dè dặt. - Tôi sợ rằng ông sẽ coi tôi là một người đàn bà không tốt. - Đó không phải là việc của tôi.

    - Tôi nhún vai, nói.

    - Có thể một ngày nào đấy, ông sẽ hiểu được rằng....

    - Cũng không cần thiết là bác sĩ Watson phải hiểu. Đúng như ông ta nói, đây không phải là việc của ông. - Ông Bar nói.

    - Đúng thế. Vì vậy tôi xin phép được tiếp tục đi dạo.

    - "Xin hãy khoan, bác sĩ Watson!". Bà Du-gia kêu lên. "ông hiểu biết ông Holmes và những mối quan hệ của ông ta với cơ quan cảnh sát hơn ai hết. Nếu có một sự việc nào đó đem nói riêng với ông ta, thì ông ta có luôn luôn đem báo cáo lại với các thám tử của chính quyền không?" - Xin hỏi ông Holmes làm việc riêng cho ông ta, hay ông ta làm việc cho cảnh sát? - Bar cũng nhấn mạnh thêm. - Tôi cũng không biết mình có đủ thẩm quyền để bàn về vấn đề này không. - Tôi van ông. Nếu ông mách cho chúng tôi điều này, thì ông sẽ giúp đỡ cho chúng tôi nhiều lắm. Trong giọng nói của bà chứa đựng một cái gì nghe thành thật quá, đến nỗi lúc đó tôi quên hết cái chuyện vô tâm của bà, và chỉ nghĩ cách làm sao cho bà vui lòng:

    - Ông Holmes là một nhà điều tra độc lập. Ông ấy tự làm chủ lấy mình và hoạt động theo sự suy nghĩ riêng của ông. Mặt khác, ông ấy cũng phải tỏ ra trung thực đối với những thám tử của nhà nước cùng làm việc trong một vụ án, và ông ấy sẽ không giấu diếm họ bất cứ một điều gì có thể giúp họ đưa các tội phạm ra trước công lý. Như vậy bà và ông nên hỏi thẳng ông Holmes. Nói thế rồi, tôi nhấc mũ lên chào và bỏ đi, để mặc họ ngồi đằng sau lùm cây.

    Khi tôi đi khỏi hàng rào và quay lại thì thấy họ vẫn đang bàn cãi và trông theo tôi.

    Khi tôi kể lại cho Holmes nghe câu chuyện vừa rồi, Holmes trả lời:

    "Tôi không mong ước được nghe những lời tâm sự của họ". Sau đó Holmes làm việc với hai đồng nghiệp suốt buổi chiều ở lâu đài và mãi 5 giờ mới về. Anh còn nhắc lại lần nữa:

    - Này Watson, không có tâm sự gì cả đấy nhé. Những tâm sự này sẽ trở nên rất cộm nếu sau này có sự bắt bớ về tội đồng loã. - Sắp tiến đến bước đó rồi à? - Khi nào tôi tiêu diệt xong cái quả trứng thứ tư này, tôi sẽ nói cho anh biết tình hình hiện naỵ Tôi không nói rằng chúng ta đã giải được bài toán. Còn xa đấy. Nhưng khi nào chúng ta tìm thấy quả tạ còn thiếu kia thì....

    - Quả tạ à? - Tất cả vụ án này quay chung quanh cái quả tạ vắng mặt kia. Một quả tạ duy nhất. Anh hãy tưởng tượng có một nhà lực sĩ nào chỉ tập với một quả tạ thôi, trẹo cột sống. Anh ta nhai nhồm nhoàm cái bánh ngọt, hai mắt long lanh tinh nghịch:

    trông anh ăn ngon như thế cũng đủ hiểu là công việc tiến hành tốt rồi ; ăn xong, anh đến ngồi bên góc chiếc lò sưởi của quán trọ, bắt đầu nói:

    - Nói dối. Nói dối to bằng cái đình. Tất cả câu chuyện của Bar là nói dối. Nhưng câu chuỵên của Bar lại được bà Du-gia công nhận. Vậy thì bà Du-gia cũng nói dối. Bởi vậy, giờ đây chúng ta đang đứng trước bài toán này:

    Tại sao họ lại nói dối, và cái sự thật họ đã cố gắng che giấu là gì? Theo họ kể lại thì tên sát nhân chỉ có một khoảng thời gian chưa đầy một phút để tháo chiếc nhẫn thứ nhất ra, lấy chiếc nhẫn cưới, rồi đeo chiếc nhẫn thứ nhất vào tay nạn nhân. Chắc chắn là không bao giờ nó làm như vậy đâu. Sau đó nó lại còn nhớ để một mẩu bìa cứng bên cạnh xác chết nữa, không thể làm kịp. Cậu có nói rằng:

    chiếc nhẫn cưới đã được rút ra khỏi tay Du-gia trước khi ông ta chết. Sự kiện cây nến cháy ít như vậy chứng tỏ cuộc đối thoại chắc phải là ngắn ngủi.

    Lại nữa một người can đảm, liều lĩnh như Du-gia liệu có tháo ngay chiếc nhẫn cưới của mình đưa cho tên sát nhân khi tên này mới đòi lấy không? Không, tên sát nhân đã ở lại một mình với xác chết một thời gian nữa sau khi cây nến được thắp lên. Nhưng phát đạn là nguyên nhân đã gây ra cái chết. Vậy thì phát đạn này được bắn sớm hơn là người ta khai báo với chúng ta, vết máu ở trên thành cửa sổ, chính là do Bar đã cố tình tạo nên ở đó để đánh lừa cảnh sát. Hôm ấy, gia nhân trong lâu đài còn đi lại đến mười giờ rưỡi đêm, vậy thì vụ án không thể xảy ra trước giờ đó được. Đến 11 giờ kém 15 thì họ đi ngủ, chỉ trừ có Am lúc đó đang ở trong bếp. Chiều nay, sau khi anh đi về rồi, tôi có tiến hành một vài thử nghiệm:

    Khi tôi đóng kín các cửa lại, Dona gây ra nhiều tiếng động trong căn phòng có án mạng ; ở dưới bếp không ai nghe thấy cả. Nhưng đứng ở căn phòng riêng của bà hầu phòng thì lại khác:

    ở trong buồng của bà này, tôi vẫn nghe thoang thoảng tiếng người nói thật to ở nhà trên. Tiếng nổ của một phát súng chắc không lớn lắm, nhưng trong cái im lặng của ban đêm, thì ở căn buồng của bà A-len cũng có thể nghe thấy được. Bà ấy có nói là hơi nặng tai nhưng mặc dầu vậy bà ấy lại khai là có nghe thấy tiếng một cánh cửa đập nửa giờ trước khi có báo động. Nửa giờ trước khi báo động, nghĩa là vào lúc 11 giờ kém 15, chắc chắn là cái tiếng mà bà ta cho là tiếng đập cửa ấy, chính là tiếng súng và thời điểm 11 giờ kém 15 ấy chính là giờ xảy ra vụ án. Giả sử ông Bar và bà Du-gia không giết người thì họ đã làm gì trong khoảng thời gian từ 11 giờ kém 15 (Là lúc họ nghe thấy tiếng súng và chạy từ trên lầu xuống) tới 11 giờ 15 (lúc họ giật chuông để báo động với gia nhân). Tại sao họ lại không báo động ngay? Khi trả lời được câu này, thì đã tiến được một bước lớn. - Tôi lại tin chắc là có một sự đồng loã giữa hai con người này. Một người đàn bà phải tàn nhẫn đến thế nào thì mới có thể cười cợt như vậy khi chồng mới chết có vài tiếng đồng hồ. - Đúng thế. Ta ít thấy có người phụ nữ yêu chồng mà lại chỉ mới nghe một lời khuyên đơn giản như thế đã không vào nhìn xác của chồng. Đó, chỗ này đạo diễn có phần "yếu" quá, vì bất luận một nhà điều tra nào dù ngu đến đâu cũng phải chú ý đến việc ở đây thiếu hẳn những lời than khóc của phụ nữ. - Vậy thì Bar và bà Du-gia là những thủ phạm của vụ án này phải không? Holmes rút cái tẩu thuốc ở mồm ra, dứ dứ vào tôi thở dài:

    - Nếu anh muốn nói rằng bà Du-gia và Bar biết sự thật về vụ án mạng nhưng họ cố che giấu thì tôi đồng ý. Nhưng còn câu kết luận của anh, thì tôi thấy chưa đủ chứng minh. Phải chăng họ đã yêu nhau và đã quyết định phải ra tay? Không. Những người trong làng đã nói là tuyệt đối không có thế. Tất cả mọi cái đều chứng minh rằng gia đình Du-gia rất thuận hoà êm ấm. Tôi nhanh chóng nhớ lại nét mặt tươi cười mà tôi đã bắt gặp trong khu vườn, nên cãi lại:

    - Về vấn đề này thì anh đã sai rồi.

    - Ừ thì ít nhất họ cũng cho ta cái cảm giác là họ thuận hoà với nhau. Như thế phải giả thiết rằng cái đôi thủ phạm kia gian giảo, đến mức vừa giết chồng, vừa đánh lừa được mọi người. Và trên đầu người bị giết đang treo lơ lửng một mối nguy hiểm nào đó....

    - Ồ.... Giả thiết về mối nguy hiểm này chỉ do một mình họ gợi ra mà thôi.

    Holmes có vẻ suy nghĩ:

    - Theo anh thì chẳng có mối nguy hiểm nào đe doa. Du-gia, chẳng có thung lũng khủng khiếp. Họ bịa ra những chuyện đó để giải thích vụ án mạng. Rồi họ lại nghĩ ra việc bố trí một cái xe đạp giấu trong bụi cây để chứng tỏ có sự hiện diện của một kẻ lạ mặt. Cả vết máu trên thành cửa sổ cũng nằm trong ý nghĩ đó. Rồi lại cả mẩu bìa cứng, đáng lẽ ra có thể chuẩn bị ngay ở trong lâu đài.

    Tất cả những cái ấy đều khớp với giả thiết của anh. Nhưng ác cái lại có những góc cạnh khác cứ lòi ra. Tại sao có súng cưa nòng? Tại sao lại là súng Mỹ? Tại sao họ tin chắc là không ai nghe thấy tiếng súng? Anh có thể giải thích được cho tôi nghe không, Watson? - Xin chịu.

    - Nếu một người đàn bà cùng nhân tình âm mưu giết chồng, thì liệu họ có dại dột đến mức tháo chiếc nhẫn cưới ở tay người chết ra để "lạy ông tôi ở bụi này" không? Điều này liệu có thế xảy ra được không? - Không? - Lại còn thế này nữa:

    Nếu chính họ là những ngưòi giấu chiếc xe đạp trong bụi cây, thì tất họ cũng đủ tinh khôn để nghĩ rằng bất cứ một viên thám tử nào cũng hiểu đây là một động tác giả, vì chiếc xe đạp chính là cái mà một người chạy trốn cần đến trước nhất để thoát. - Chịu thôi.

    - Vậy chúng ta hãy giả thiết tay Du-gia này có một bí mật đáng xấu hổ trong đời. Bí mật này đưa đến chỗ hắn bị ám sát bởi một người đi báo thù. Người này, vì một động cơ nào đó đã tháo chiếc nhẫn cưới của hắn. Ta cũng có thể giả thiết rằng mối thù này có từ thời Du-gia lấy người vợ trước kia, thì mới giải thích được việc tháo nhẫn cưới. Trước khi hung thủ trốn thoát, thì Bar và bà Du-gia ập vào phòng. Tên sát nhân nói với họ rằng nếu họ bị bắt, thì bí mật ghê gớm của Du-gia sẽ bị đưa ra ánh sáng. Hai người buộc lòng phải để cho nó chạy trốn. Có lẽ họ đã hạ chiếc cầu xuống để cho nó chạy đi rồi lại kéo cầu lên. Tên sát nhân biết rằng đi bộ tốt hơn là dùng chiếc xe đạp, nên đã để lại chiếc xe đạp ở chỗ mà người ta khó phát hiện ra trước khi nó đã đi xạ Đến đây thì chúng ta vẫn còn ở trong phạm vi những điều có thể được, đúng không? Tôi trả lời một cách không tin tưởng lắm:

    - Tất nhiên là có thể được. - Tiếp tục nhé, sau khi đã để cho tên sát nhân trốn thoát, hai người kia biết mình đã lâm nguy, bởi vì làm sao chứng minh được rằng họ không giết Du-gia hay không phải là đồng loã của tên sát nhân. Thế rồi họ chọn một quyết định:

    Bar lấy chiếc giày vải, thấm máu in vết lên thành cửa sổ để gợi ý là tên sát nhân đã trốn ra theo con đường đó. Chắc chắn họ đã để chậm nửa giờ sau khi sự việc xảy ra, rồi mới báo động. - Làm cách nào để chứng minh được những điều đó. - Một mình tôi ở lại đây một đêm thì sẽ có kết quả. - Ở một mình suốt một đêm trong căn phòng xảy ra án mạng? - Tôi đã thu xếp với bạn Am rồi. Tôi sẽ tới ngồi ở đó, và không khí trong phòng có lẽ sẽ gợi cho tôi nhiều ý nghĩ haỵ à, mà này, anh có mang theo cái ô to gộc của anh đi đấy chứ. - Có, kia kài.

    - Thế thì xin cho tôi mượn. - Được thôi. Nhưng.... nó có phải là một vũ khí đâu.

    - Không có gì nguy hiểm đâu. Bây giờ tôi chỉ còn chờ các vị đồng nghiệp chúng ta ở Tunbridge Wells về, họ lên đấy để xác minh chủ nhân của chiếc xe đạp đó. Trời tối mịt mới thấy ông thanh tra Dona và Maso trở về. Họ vui mừng ra mặt, vì họ đã tiến lên một bước khá dài.

    - Chúng tôi đã xác minh được chiếc xe đạp và đã có được hình dạng của người chủ nó. - Dona nói.

    - Tôi xin hết lòng ca ngợi nhị vị - Holmes nói.

    - Cậu Am khai là bữa trước hôm xảy ra án mạng, ông Du-gia từ Tunbridge Wells về, có tỏ ra cáu kỉnh khác thường. Vậy chắc là khi ở đó, ông được biết có một mối nguy hiểm đang đe doa. mình. Như thế nếu có ai đến đây bằng xe đạp, thì người đó xuất phát từ Tunbridge Wells. Bọn tôi mang cái xe đạp đến đó cho các khách sạn xem. Chủ khách sạn "Con ó Thương mại" nhận ra ngay là chiếc xe của một người Mỹ tên là Har đến thuê buồng ở đó đã hai ngày rồi. Tất cả hành lý chỉ có chiếc xe đạp với một cái va ly nhỏ. Anh ta khai trong sổ đăng ký là từ Luân Đôn đến, nhưng không nói rõ địa chỉ. Holmes kêu lên vui sướng:

    - Hô, hộ Hai ông đã làm được một công việc hết sức tốt, trong khi tôi và ông bạn Watson cứ ngồi đây mà xây dựng hết thuyết nọ đến thuyết kia. Đấy, óc thực tiễn có lợi là như thế đó, ông Dona ạ. Ông thanh tra nở mày nở mặt, vui vẻ nói:

    - Vâng, ông nói đúng đó. Tôi nói với Holmes:

    - Nhưng sự phát hiện này cũng khớp với giả thiết của cậu kia mà. - Khớp mà không khớp. Ông Dona, ông có tìm thấy cái gì để xác minh được người ấy không? - Không có bất cứ một thứ giấy tờ, thư từ, giấu vết gì trên quần áo. Trên bàn của hắn, có một tấm bản đồ của vùng này. Sáng hôm qua, sau khi ăn điểm tâm xong, hắn ở khách sạn ra, lên xe đạp đi, thế là biến luôn. Không ai thấy hắn nữa.

    Maso ngắt ngang:

    - Đó. Chính chỗ này làm cho tôi thắc mắc đây ông Holmesss ạ. Nếu tên này muốn làm cho người ta không chú ý đến hắn, thì hắn nên trở lại khách sạn và ở đấy như một người du lịch bình thường. Hắn thừa biết người chủ khách sạn phải báo cáo với cảnh sát về sự mất tích của hắn, và tất nhiên là người ta sẽ ráp sự mất tích của hắn với vụ án mạng. - Tất nhiên rồi, nhưng cho đến bây giờ nó vẫn chưa bị bắt. Mà các ông có nắm được hình dạng của nó không? Dona mở cuốn sổ tay ra:

    - Tôi đã ghi được những gì người ta nói với chúng tôi đây. Hắn cao khoảng 1 thước 80, cỡ 50 tuổi, tóc hơi hoa râm, râu cũng hoa râm, mũi két; về cái bộ mặt của hắn, mọi người đều mô tả là dữ dằn và đáng ngại.

    - Trời đất. Trừ cái điểm cuối cùng ra, thì phải nói là giống hệt một bức chân dung của chính Du-gia. Tay này cũng khoảng hơn 50 tuổi, tóc cũng muối tiêu, râu cũng hoa râm, và cũng cao cỡ đó. Các ông có chi tiết nào khác nữa không? - Hắn mặc bộ quần áo mầu xám rộng thùng thình, một cái áo khoác màu vàng, ngắn và đội một cái mũ mềm. - Còn về khẩu súng? - Một khẩu súng dài có 65 phân có thể xếp được hoàn toàn trong chiếc va ly, và giấu dưới áo khoác. - Thế bây giờ các ông định ráp những tin tức mới này vào khung cảnh của vụ án như thế nào?

    Mac Dona trả lời:

    - Hiện nay, chúng ta chỉ mới biết có một người Mỹ, tên là Har, ngày hôm kia đến Tunbridge Wells với một chiếc xe đạp và một cái valỵ Trong valy có một khẩu súng săn cưa nòng. Sáng hôm qua, hắn đi xe đạp tới làng Birslstone và đã giấu khẩu súng dưới áo khoác. Theo chỗ chúng ta biết, thì không ai trông thấy hắn đến đây. Nhưng hắn cũng không cần đi qua làng vẫn có thể đến được trước cổng sắt của lâu đài. Con đường hắn đi cũng có nhiều người cỡi xe đạp như hắn. Tôi đoán rằng, hắn đã giấu ngay chiếc xe đạp trong những bụi cây trúc đào. Bản thân hắn cũng nấp ở đó để rình ông Du-gia ở lâu đài. Ở trong nhà thì khẩu súng săn đúng là bất lợi, nhưng ở ngoài trời thì nó có hai ưu điểm rõ ràng:

    trước hết nó giết người được một cách chắc chắn, sau nữa sẽ không có ai để ý đến tiếng nổ, trong một vùng nông thôn có nhiều người đi săn. - Rất rõ ràng. - Holmes nói.

    - Nhưng ông Du-gia lại không ra khỏi lâu đài. Vậy thì tên sát nhân có thể làm gì được bây giờ? Hắn bỏ chiếc xe đạp ở đó và chờ sẩm tối mới lần mò vào gần lâu đài. Hắn thấy cây cầu rút vẫn còn hạ xuống mà xung quanh thì vắng vẻ cả. Hắn liều đi vào, và chắc là có chuẩn bị trước một lý do gì đó để xin lỗi nếu có gặp người ở trong nhà. Hắn không gặp ai cả. Hắn lẻn vào cái phòng gần nhất và trốn sau bức rèm cửa. Ở đó, hắn trông thấy cây cầu được rút lên, và hắn hiểu rằng sẽ phải lội qua hào để trốn ra. Hắn đợi đến 11 giờ 15. Đến giờ này, ông Du-gia bước vào buồng. Hắn giết ông ta và chạy trốn. Hắn biết rằng chiếc xe đạp của hắn có thể bị những người trong khách sạn nhận ra được, vì thế hắn đã bỏ nó lại, và dùng một phương tiện giao thông khác để trở về Luân Đôn. - Rất rõ ràng. Nhưng tôi lại tin là án mạng đã xảy ra nửa giờ sớm hơn là người ta đã nói với chúng tạ Rằng bà Du-gia và ông Bar đã cùng nhau che giấu một cái gì đó, đã giúp đỡ cho tên sát nhân trốn thoát, đã tạo ra những dấu vết để làm cho người ta tưởng là nó đã trốn qua đường cửa sổ, và có nhiều khả năng là họ đã hạ cây cầu rút xuống cho nó trốn. Hai nhà thám tử của nhà nước gật gù. Ông thanh tra Dona nói:

    - Nếu cách nhìn của ông mà đúng, thì chúng ta chỉ chuyển từ một bí mật này sang một bí mật khác thôi.

    Maso bổ sung:

    - Nhưng về một số mặt nào đó thì lại vấp phải một bí mật gay go hơn nữa. Bà Du-gia chưa hề sang Mỹ. Vậy thì bà có thể liên hệ như thế nào với một tên sát nhân người Mỹ? - Tôi công nhận là có rất nhiều khó khăn. Tôi dự tính tối nay sẽ tiến hành cuộc điều tra theo cách riêng của tôi.

    - Chúng tôi có thể giúp ông được không, ông Holmes? - Không. Chỉ cần bóng tối và chiếc ô của bác sĩ Watson thôi, ông Am sẽ giúp tôi một vài điều.

    Khi Holmess trở về phòng trọ, thì đêm đã khuya lắm rồi. Lúc Holmes mở cửa vào phòng, tôi hỏi nhỏ:

    - Thế nào Holmes, có thấy gì không? Holmes cầm một ngọn nến, cúi xuống thì thầm vào tai tôi:

    - Anh có sợ khi phải ngủ chung phòng với một thằng điên không? - Không. - Ồ, thế thì hạnh phúc cho anh đó. Thế rồi không nói thêm một lời nào nữa, anh ta chui vào chăn....

  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 7

    Giải đáp
    Sáng hôm sau, chúng tôi đi gặp ông thanh tra Dona và thám tử Masọ Họ đang họp trong cơ quan cảnh sát địa phương. Đằng trước mặt họ, trên bàn có cả xấp những thư và điện tín đã được xếp thứ tự cẩn thận. Holmes vui vẻ hỏi:

    - Vẫn trên đường đi tìm nhà cua rơ xe đạp chứ? Tin tức cuối cùng như thế nào?

    Dona buồn rầu chỉ tập thư tín, nói:

    - Người ta đã bắt hai chục người mặc áo khoác màu vàng ở khắp nơi.

    Holmes kêu lên với giọng chân thành:

    - Sáng nay, tôi đến đây để khuyên các bạn một lời. Lời khuyên này có thể tóm tắt trong ba chữ:

    "Bỏ vụ án". Dona và Maso vô cùng kinh ngạc. Mãi rồi ông thanh tra mới kêu lên được:

    - Ông thấy vụ án này tuyệt vọng đến thế kia à? - Theo cách điều tra của các ông, thì sẽ không đi đến đích. Nhưng chúng ta không được phép tuyệt vọng trong khi đi tìm chân lý. - Thế cái tên đi xe đạp ấy thì sao? Nó có phải là một vật tưởng tượng ra đâu. Nhất định nó phải ở một nơi nào chứ? - Vâng, nó phải ở một nới nào đó, và chúng ta sẽ tìm thấy nó, trong một đường bán kính hẹp hơn nhiều.

    ông thanh tra phản đối một cách bực tức rõ ràng:

    - Ông giấu chúng tôi một cái gì đó. Ông Holmes? - Ông Donạ Tôi chỉ giấu ông - trong một thời gian ngắn thôi - những gì tôi chưa thể cho ông biết được. Tôi muốn thẩm tra lại mộy số chi tiết. Việc thẩm tra xong, lúc đó tôi sẽ trở về Luân Đôn sau khi đã thông báo với các ông tất cả kết quả tôi đã thu lượm đưọc. - Chiều hôm qua ông đồng ý trên những nét lớn với những kết quả của chúng tôi. Nhưng hôm nay thì hình như có chuyện gì xảy ra đã làm ông thay đổi hoàn toàn. - Vâng. Tối hôm qua tôi đã đến ở lâu đài trong mấy tiếng đồng hồ. - Thế thì sao?

    - Tôi có đọc một tài liệu ngắn về toà lâu đài này. Tôi mua nó mấy xu ở quán bán thuốc lá trong làng. Holmes rút ở túi áo ngoài ra một tờ giấy nhỏ, có vẽ một bức hình thô sơ của toà lâu đài cũ. -.... Những loại tài liệu như thế này mang đến nhiều hứng thú cho cuộc điều trạ Tôi xin phép đọc ông nghe một đoạn sau này:

    Được dựng lên trong năm thứ năm của triều đại vua Jacques Đệ Nhị trên vị trí của một lâu đài cũ cổ xưa hơn, lâu đài Birlstone là một trong những hình ảnh rất đẹp còn nguyên vẹn của loại phủ thất có hầm vào thời các vua Jacques....

    - Ông định chế nhạo chúng tôi, ông Holmes? - Đây là lần đầu tiên tôi thấy ông nổi cáu đấy. Thôi tôi không đọc nữa. Nhưng nếu tài liệu này có nói đến việc một ông đại tá của Quốc Hội đã chiếm lấy toà lâu đài này vào năm 1644; việc nhà vua Charles có trốn tránh ở đây vài ngày trong thời kỳ nội chiến; và nhà vua Georges Đệ Nhị cũng đã có ở đây.... thì chắc ông sẽ đồng ý với tôi là những việc này có thể gợi cho chúng ta nhiều ý nghĩ liên hệ lắm. Nhà thám tử sốt sắng trả lời ngay:

    - Tôi đồng ý với ông về điều đó, ông sắp đến đích, nhưng ông quá kín đáo.

    - Tối hôm qua, tôi có tới lâu đài. Tôi không gặp ông Bar, cũng không gặp bà Du-gia, nhưng tôi được biết rằng bà chủ lâu đài đã dùng bữa tối một cách rất ngon miệng. Tôi chỉ cần gặp anh Am thôi, và anh ta đồng ý cho tôi ở lại một mình trong căn buồng xảy ra án mạng, và Am cam đoan sẽ giữ kín về việc này.

    - Thế nào? ở lại bên cạnh cái....

    - Không! Mọi vật đã được dọn dẹp cả rồi. Vì vậy tôi đã sống một vài giờ rất có ích ở đó. - Có ích thế nào thưa ông? - Tôi đi tìm quả tạ còn thiếu. Và tôi sắp thấy nó. - Ở đâu vậy?

    - Xin để tôi tiếp tục tìm kiếm. Ông thanh tra càu nhàu:

    - Ông muốn thế nào, chúng tôi cũng phải theo thế thôi. Nhưng bắt phải bỏ vụ án này đi, thì.... mà , tại sao lại phải bỏ? - Bởi mục đích cuộc điều tra của ông là....

    - Chúng tôi điều tra về vụ ám sát ông Du-gia.

    - Vâng. Nhưng các ông đừng mất công đi tìm cái tên đi xe đạp. Chuyện đó không đi đến đâu cả. - Chúng tôi phải làm gì? - Tôi xin nói cặn kẽ, nếu các ông muốn. - Tôi sẽ làm theo lời khuyên của ông. - Thế còn ông, ông Masỏ Nhà thám tử địa phương có phần hơi ngơ ngác, phương pháp làm việc của Holmes hoàn toàn mới lạ đối với ông tạ - Vâng, ông thanh tra đã đồng ý , thì tôi cũng đồng ý. - Hoan hộ Vậy hai ông hãy tổ chức một cuộc đi dạo chơi cho thật thoải mái. Người ta có nói với tôi rằng đứng từ trên cao nhìn xuống sẽ thấy phong cảnh của cánh rừng Weald tuyệt đẹp. Dona nổi cáu, đứng phắt lên:

    - Ông Holmes, ông đã đi quá giới hạn của sự bông đùa rồi đó. Holmes vỗ nhè nhẹ vào vai ông ta:

    - Thôi được! Thế thì xin tùy các ông, nhưng nhất định phải đến tìm tôi ở đây, trước buổi tối naỵ - Thật là quá lắm. - Bây giờ, trước khi tôi đi, tôi nhờ ông viết mấy chữ cho ông Bar. - Viết gì kiả - Xin mời ông viết "Thưa ông, chúng tôi nghĩ rằng, chúng tôi có nhiệm vụ phải tát cạn con đường hào để hy vọng có thể tìm thấy....

    ông thanh tra phản đối ngay:

    - Tôi đã đích thân tìm xem có cách gì tát cạn đường hào hay không, nhưng thấy không thể được. - Xin ông cứ viết. - Thôi được. Ông đọc tiếp đi.

    -.... một yếu tố mới có liên quan đến cuộc điều trạ Chúng tôi đã sắp sẵn cả. Sáng sớm mai, công nhân sẽ bắt tay vào việc đổi hướng dòng nước....

    - Tôi nhắc lại với ông rằng không thể được mà. -.... Chúng tôi thấy nên báo để ông biết trước". Vào khoảng độ 4 giờ chiều, ông cho người đưa thư tận tay ông Bar. Đó cũng là giờ chúng ta sẽ gặp lại nhau ở đây. Trong khi chờ đợi, ai muốn giải trí thế nào thì xin tùy thích, vì cuộc điều tra đang dẫm chân tại chỗ. Buổi tối, chúng tôi gặp lại nhau như đã quy định. Vẻ mặt Holmes rất nghiêm trang. Tôi thì tò mò, còn hai vị thám tử thì nghi ngờ ra mặt. Holmes bắt đầu một cách trịnh trọng:

    - Thưa các ông, bây giờ chúng ta phải tới được chỗ đứng quan sát trước khi trời tối hẳn. Chúng ta nên đi ngay bây giờ. Chúng tôi đi dọc theo bờ ngoài khu vườn của lâu đài và đến trước một lỗ hổng trong hàng rào. Chúng tôi chui qua lỗ đó. Holmes dẫn chúng tôi đến đằng sau một bụi cây nhìn chếch sang phía cổng chính và cây cầu, lúc đó còn chưa rút lên. Holmes ngồi xổm sau bụi cây. Chúng tôi cũng làm theo anh tạ Dona hỏi bằng một giọng bực tức:

    - Làm gì bây giờ đây?

    - Hãy kiên nhẫn và đừng gây ra tiếng động. - Ông nên thành thật với chúng tôi hơn. Holmes bật cười:

    - Ông Dona, tôi xin ông kiên nhẫn một chút, rồi tất cả sẽ sáng tỏ thôi.

    Đêm xuống dìm cả toà lâu đài vào bóng tối. Một màn sương lạnh từ đường hào bay lên làm chúng tôi rét thấu xương. Trên khung cửa chính chỉ có một ngọn nến được thắp, và trong căn buồng có án mạng cũng có một ngọn đèn khác đang cháy, còn tất cả chung quanh tối đen như mực. Đột nhiên ông thanh tra lại cất tiếng hỏi:

    - Phải chờ bao lâu nữa, và chờ cái gì? - Tôi không biết phải chờ bao lâu. Nếu những tên tội phạm hoạt động đúng giờ giấc như những chuyến tàu chạy, thì đỡ cho chúng ta biết bao. Còn việc chúng ta chờ.... à mà kìa, việc chúng ta chờ kia kìa.

    Trong khi Holmes nói, thì ánh sáng trong căn buồng đã bị che khuất đi bởi một người đi đi lại lại trước nó. Sau đó cửa sổ mở toang và bóng một người đàn ông nhô ra quan sát bóng tối. Hắn nhìn ngược nhìn xuôi trong mấy phút. Rồi cúi xuống và trong đêm khuya yên tĩnh, chúng tôi nghe thấy tiếng nước vỗ nhè nhẹ. Tôi có cảm giác là người đó đang dìm một vật gì cầm trong tay xuống đường hào. Sau cùng anh ta kéo một vật gì lên:

    Một vật gì đó to, tròn, khi được đem qua cửa sổ, nó che khuất cả ánh sáng ngọn đèn. Holmes kêu lên:

    - Nào, bây giờ. Ta vào đi. Chúng tôi chồm lên, líu ríu chạy theo Holmes. Holmes đã chạy tới chiếc cầu rút và giật chuông ầm ĩ. Ở phía bên kia cửa các chốt được tháo ra. Am hiện ra trong khung cửa, vẻ mặt ngơ ngác, Holmes chẳng nói chẳng rằng, gạt anh ta sang bên, rồi cùng ba chúng tôi xông vào căn buồng. Ngọn đèn dầu hoa? để trên bàn là nguồn ánh sáng mà chúng tôi trông thấy từ bên ngoài. Lúc này, nó đang ở trong tay của Bar, và ông ta đang hướng về phía chúng tôi. Nó chiếu lên một khuôn mặt cả quyết, cương nghị, một cặp mắt đe doa. thách thức. - Thế này là thế nào? Các ông tìm gì? Holmes nhìn chung quanh, rồi nhảy sổ tới một cái gói ướt sũng có buộc dây để ở trên bàn. - Chúng tôi tìm cái này đây. Cái gói có một quả tạ mà ông vừa kéo ở dưới đáy hào lên. Bar kinh ngạc:

    - Vì sao ông lại biết có quả tạ trong ấy?

    - Bởi vì chính tôi đã để quả tạ ấy vào đó. - Ông đã để quả tạ vào đó? Holmes chữa lại:

    - Ông còn nhớ chứ, ông thanh tra, việc thiếu một quả tạ ngay từ đầu đã đập vào trí tôi. Khi nước thì gần kề ngay bên, mà lại thấy thiếu một vật nặng, thì có lẽ một vật gì đó đã được nhận chìm xuống nước. Với sự giúp đỡ của anh Am, tôi đã vào được căn phòng này, và với chiếc ô của bác sĩ Watson, tôi đã vớt vật này lên và xem xét nó. Nhưng điều cơ bản là phải chứng minh được ai đã dìm cái gói đó. Bức thơ của ông Dona báo trước ngày mai sẽ tát hào. Tin này bắt buộc người đã giấu cái gói đó phải chờ đêm tối, lôi nó lên. Vậy ông Bar, đã đến lúc ông phải giải thích. Holmes đặt cái gói còn ướt sũng lên bàn và tháo dây ra. Đầu tiên anh lôi ra một quả tạ, kế đó là một đôi giày da mũi vuông. - Giày kiểu Mỹ, như các ông thấy đấy.

    - Holmes nói.

    Sau đó anh ta để lên bàn một con dao dài còn nằm trong bao. Rồi anh ta giở ra một mớ quần áo, gồm một bộ quần áo lót, một đôi tất, một bộ quần áo bằng vải tuýt xám, và một cái áo khoác màu vàng. - Quần áo thì thường thôi. Chỉ có cái áo khoác là đáng chú ý. - Holmes nói.

    Anh nhẹ nhàng trải nó ra trước ánh sáng, những ngón tay dài lần theo các đường khâu.

    - Xem đây, túi trong của nó kéo dài mãi trong lần lót để có thể giấu được một khẩu súng cưa nòng. Tên hiệu của người thợ may dính trên cổ áo dây:

    "Neale, thợ may, Vermissa, USA". Tôi đã ở cả chiều hôm nay trong căn phòng đọc sách của ông hiệu trưởng trường, và đã học thêm được một điều mới nữa:

    "Vermissa" là tên của một thành phố nhỏ ở trong thung lũng nổi tiếng về các mỏ sắt và mỏ than tại Mỹ. Nếu tôi không quên, thì thưa ông Bar, chính ông đã có nói đến mối liên quan giữa những khu mỏ và người vợ trước của ông Du-gia. Cho nên tôi suy luận từ đó ra rằng mấy chữ TLV trên miếng bìa cứng tìm thấy bên cạnh người chết có nghĩa là Thung lũng Vermissa và chính cái thung lũng này đã cử một người mang cái chết đến tận đây. Tất cả những điều ấy đã đủ rõ ràng. Và bây giờ, đến lượt ông, thưa ông Bar. Trong lúc nghe Holmes trình bày, gương mặt Bar lần lượt hiện lên nét căm giận, kinh ngạc, buồn rầu, lúng túng. Cuối cùng ông ta lẩn trốn trong một thái độ mỉa mai và cười gằn:

    - Ông biết nhiều đến thế, thì xin ông cứ nói thêm cho chúng tôi nghe.

    - Tôi có thể nói thêm được nữa, nhưng sẽ lịch sự hơn, nếu ông nói tiếp hộ cho tôi.

    - Ồ, ông tưởng thế à? Nếu ở đây có một bí mật gì, thì cái đó không phải là bí mật của tôi, và tôi không thể nói ra cái bí mật của người khác. Ông thanh tra bình tĩnh:

    - Nếu ông nghĩ như vậy, thì bắt buộc chúng tôi phải canh giữ ông cho đến khi chúng tôi nhận được trát bắt ông. Bar trả lời bằng giọng đầy thách thức:

    - Ông cứ làm. Sự đối chất hình như đã kết thúc. Bộ mặt rắn như đá hoa cương của Bar cho thấy rằng không có một sự đe doa. nào có thể bắt được ông ta nói. Nhưng bà Du-gia đã bước vào phòng. - Anh Bar, anh đã giúp chúng tôi quá nhiều rồi.

    Sherlock Holmes tán thành với một giọng nói rất nghiêm trang:

    - Tôi rất thông cảm với bà, và tôi xin khuyên bàn nên tự giác báo cáo tất cả với cảnh sát, chính tôi cũng có lỗi vì đã không đáp ứng lời thỉnh cầu của bà, khi bà nói với bác sĩ Watson đây. Lúc đó tôi tin rằng bà là người có dính líu trực tiếp đến án mạng. Bây giờ tôi biết là không phải thế. Bà Du-gia thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc khi nghe những lời nói cuối cùng của Holmes. Hai nhà thám tử và cả tôi nữa có lẽ cũng đã kêu lên như thế, khi chúng tôi trông thấy một người như là trong bức tường hiện ra, đang bước dần ra khỏi bóng tối, tiến về phía ánh đèn. Bà Du-gia nhào vào, ôm lấy cổ người đó. Bar cũng nắm chặt một cách trìu mến bàn tay của người đó. Bà Du-gia nhắc đi nhắc lại:

    - Anh yêu quí, có lẽ thế này tốt hơn anh ạ. Holmes gật đầu tán thành:

    - Vâng, đúng đấy, thưa ông Du-gia. Ông Du-gia chớp chớp đôi mắt màu xám, một bộ râu cứng đã hoa râm; một cái cằm vuông nhô ra và một cái miệng nhậy cảm. Ông ta lần lượt nhìn chúng tôi, rồi bỗng tiến về phía tôi và đưa cho tôi một tập giấy làm tôi hết sức ngạc nhiên. Ông ta nói bằng một giọng hết sức dễ chịu:

    - Tôi biết ông, bác sĩ Watson, chưa bao giờ ông có một câu chuyện giống như câu chuyện này. Tôi đã tự giam mình trong hai ngày, và đã lợi dụng những giờ có ánh sáng, trong cái lỗ chuột ấy, để viết lại toàn bộ sự việc. Đó là câu chuyện về "Thung lũng khủng khiếp". Holmes xen vào:

    - Ông Du-gia, đó là câu chuyện về quá khứ. Bây giờ chúng tôi muốn biết câu chuyện của hiện tại kia.

    - Ông sẽ được nghe ngay bây giờ. Tôi có thể vừa hút thuốc, vừa nói được không? Xin cảm ơn ông Holmes. Ông ta đứng dựa lưng vào lò sưởi, kéo những hơi thuốc dài.

    - Tôi có được nghe nói nhiều về ông, ông Holmes. Tôi không nghĩ rằng có ngày tôi lại được làm quen với ông. Nhưng khi ông đã đọc xong tất cả những cái này.... Ông ta chỉ vào tập giấy vừa đưa cho tôi.

    -.... thì chắc chắn ông sẽ nói rằng tôi có đem lại cho ông một điều gì mới lạ. Ông thanh tra Dona vẫn không rời mắt nhìn Du-gia, mãi rồi mới nói lên được:

    - Chuyện này thật vượt quá sức hiểu biết của tôi, hai ngày nay chúng tôi điều tra về cái chết của ông, thì bây giờ ông như một bóng ma từ dưới mồ chui lên vậy.

    Holmes trách móc, chỉ về phía ông thanh tra:

    - Trong cái tài liệu mà tôi đã đưa cho ông, có mô tả cái cách vua Charles đã ẩn náu trong lâu đài này. Một chỗ ẩn dùng trong thế kỷ thứ 17 rất có thể còn dùng được trong ngày naỵ Ông thanh tra nổi giận thật sự, hỏi lại:

    - Thế ông đã đóng kịch với chúng tôi từ bao lâu rồi, ông Holmes? - Chỉ mới từ tối hôm qua thôi. Vì phải đợi đến tối hôm nay mới có thể chứng minh được điều này, nên tôi có mời quí ông nghỉ xả hơi một ngày. Khi đã thấy gói quần áo trong đường hào, tôi biết rằng xác chết kia không phải là xác của ông Du-gia mà là của người đi xe đạp. Vì vậy tôi phải đi tìm nơi ông Du-gia ẩn nấp, ông đã ẩn nấp dưới sự yểm trợ của vợ và bạn ông tạ - Ông lý luận rất đúng. Tôi hài lòng vì đã gạt bỏ được những con chó vẫn đi tìm dấu chân tôi. Ông thanh tra, tôi sẽ nói hết:

    Có một vài người có nhiều lý do để căm thù tôi và sẵn sàng giết tôi. Chừng nào mà chúng còn sống, thì tôi không hề có an ninh. Chúng đã theo tôi từ Chicago đến California, rồi còn bắt buộc tôi, phải rời khỏi Châu Mỹ. Khi tôi cưới vợ và về sống ở đây, tôi đã tưởng những năm cuối của đời tôi là vô sự. Tôi chưa bao giờ nói rõ cho nhà tôi hiểu mọi chuyện vì nếu biết, nhà tôi cũng sẽ luôn sống trong lo sơ.... Du-gia nắm chặt lấy tay vợ. -.... Thưa các ông, một ngày trước hôm xảy ra sự việc, tôi có đi Tunbridge Wells, và có gặp một người ở ngoài phố. Chỉ thoáng nhìn hắn thôi, tôi cũng biết hắn là kẻ thù tệ hại nhất của tôi. Tôi trở về đây và tiến hành những biện pháp tự vệ. Tôi đã cảnh giác không bước chân ra đến ngoài vườn. Khi cây cầu đã được kéo lên, tôi mới yên tâm hơn, nhưng, tôi không ngờ rằng nó đã lẻn vào trong lâu đài và chờ tôi ở đây. khi đi kiểm tra, vừa đặt chân vào căn buồng này thì tôi cảm thấy ngay có sự nguy hiểm. Tôi thấy một đôi giầy thò ra dưới bức rèm cửa sổ, và một giây đồng hồ sau, tôi thấy cả con người đang nấp ở đó. Lúc đó tôi chỉ có một cây nến cầm ở tay, nhưng cây đèn ở buồng ngoài cũng chiếu sáng khá tốt. Tôi để cây nến xuống bàn, và nhảy đến chộp lấy cây búa trên lò sưởi. Cùng lúc đó hắn cũng nhảy bổ vào tôi. Tôi trông thấy ánh lên một lưỡi dao nhọn, và tôi đã đập nó bằng một nhát búa quay ngang. Con dao rơi xuống sàn. Nó đã lanh lẹ vòng qua chiếc bàn và lôi ra một khẩu súng giấu dưới chiếc áo khoác. Tôi nghe thấy nó lên đạn, nhưng tôi đã nắm được khẩu súng. Tôi nắm được nòng súng. Tôi với nó vật lộn trong khoảng một hai phút gì đó. Nó không rời khẩu súng, nhưng nó đã để báng súng chúc xuống dưới. Không biết là tôi đã bóp cò, hay chính nó đụng phải cò. Chỉ biết rằng nó đã lãnh cả hai viên đạn vào mặt. Tôi đang đứng bám vào thành bàn thì anh Bar chạy vào. Tôi cũng nghe thấy tiếng chân nhà tôi chạy đến nữa. Tôi ngăn nhà tôi lại.

    Tôi hứa với nhà tôi là sẽ lên với bà ấy ngaỵ Tôi nói đôi câu với anh Bar, và chỉ thoáng nhìn qua là anh đã hiểu hết tất cả mọi chuyện. Chúng tôi chờ gia nhân trong lâu đài chạy đến. Nhưng chẳng thấy ai đến cả. Lúc đó chúng tôi mới hiểu rằng không ai nghe thấy tiếng súng nổ, và chỉ có chúng tôi biết việc gì mới xảy ra thôi.

    Chính vào lúc này tôi chợt có ý kiến. Tôi vén cánh tay áo nó lên, và chúng tôi thấy ngay cái dấu hiệu của hội kín in trên đó, Đây các ông xem.... Du-gia cũng vén tay áo ngoài và tay áo sơ mi lên, chỉ cho chúng tôi thấy một cái hình tam giác màu nâu nằm trong một đường tròn, giống như cái hình chúng tôi đã thấy trên tay xác chết. - Khi tôi nhìn thấy cái dấu hiệu đó, tôi bắt đầu xếp đặt kế hoạch. Nó cũng cỡ người như tôi, cũng tóc hoa râm và dáng dấp cũng gần giống tôi. Còn về bộ mặt thì chẳng còn ai phân biệt ra được nữa. Tôi trở lên phòng để lấy bộ quần áo, và mười lăm phút sau thì Bar và tôi đã mặc vào cho nó cái áo khoác ngoài của tôi, rồi đặt nó nằm như các ông đã thấy đấy. Chúng tôi bọc hết quần áo của nó vào trong một cái gói, rồi buộc thêm vào đó quả tạ, là vật nặng duy nhất mà tôi tìm thấy lúc bấy giờ, sau đó đem ném cả gói qua cửa sổ. Mẩu bìa cứng mà nó định để cạnh xác tôi, thì nay tôi đem để cạnh xác nó. Tôi đeo mấy cái nhẫn của tôi vào ngón tay nó, nhưng đến cái nhẫn cưới thì....

    Du-gia chìa ra một bàn tay to lớn. -.... Từ ngày cưới nhà tôi đến giờ, tôi chưa hề tháo nó ra, và bây giờ có lẽ phải có một cái giũa thì mới lấy nó ra được. Tôi phải bóc cả miếng băng dính dưới cằm của tôi và dán vào cùng một chỗ trên cái phần còn lại của đầu kẻ thù. Ông Holmes, mặc dù ông là người tinh khôn, nhưng ông cũng đã có lúc sơ ý:

    vì nếu ông dở miếng băng dính ấy lên, thì ông sẽ thấy ở dưới không có một dấu đứt nào cả. Tôi định ẩn náu trong ít lâu; rồi đi đến một nơi nào đó, nhà tôi sẽ đến sau, thì may ra tôi còn có thể sống yên ổn được trong những ngày cuối cùng của đời mình. Bay giờ tôi có một điều muốn hỏi các ông:

    "Đối với luật pháp nước Anh, thì tội của tôi sẽ như thế nào?" Tất cả mọi người đều yên lặng. Mãi sau, Holmes mới lên tiếng:

    - Luật pháp nước Anh, nói chung, là một luật pháp đúng đắn. Luật pháp này sẽ công bằng đối với ông. Nhưng tôi muốn biết tại sao người đó lại biết ông ở đây, và hắn làm cách nào mà lọt được vào căn buồng này.

    - Tôi hoàn toàn không biết. Holmes tái nhợt, rất nghiêm trọng, nói như thì thầm. - Như thế thì câu chuyện này chưa kết thúc đâu. Ông sẽ còn phải đương đầu với những mối nguy hiểm còn ghê gớm hơn cả những kẻ thù của ông ở bên Mỹ nữa kìa. Xin ông hãy theo lời khuyên của tôi:

    Hãy hết sức cảnh giác. Và bây giờ, xin mời các bạn độc giả hãy theo tôi rời lâu đài Birlstone, lùi về quá khứ hai mươi năm, vượt qua một vài ngàn cây số về phía Tây, để nghe một câu chuyện lạ lùng và khủng khiếp. Và sau đó chúng ta sẽ trở lại gian buồng ở đường Baker, là nơi sẽ viết chương cuối của câu chuyện này.

  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 8

    Con người ấy
    Ngày 4 tháng 2 năm 1875 tuyết phủ đầy các đường đèo của ngọn núi Gilmerton. Chiếc xe quét tuyết đã dọn sạch được con đường hoa? xa nối liền các trung tâm mỏ than và sắt. Một con tàu đang ì ạch leo lên con đường đèo chạy từ tỉnh Stagville lên thị trấn Vermissạ Từ đó, đường tàu lại đổ xuống đến giao điểm của Barton và vùng nông nghiệp Merton. Hàng dãy dài những toa xe goòng chất đầy than hoặc quặng sắt đã lôi kéo đến đây cả một số lớn những người nhiều ý chí. Mà vùng này hiểm ác thật. Những ngọn núi trọc, trắng xoá tuyết, nhô lên từ những cánh rừng tối tăm, rậm rạp đã tạo ra một thung lũng dài ngoằn ngoèo và lộng gió. Chính trong thung lũng này, con tàu đang bò dần lên, vừa đi vừa thở phì phò. Mấy ngọn đèn dầu hỏa mới vừa được thắp lên, trên toa hành khách thứ nhất có khoảng độ 20 hay 30 người. Phần đông họ là những thợ thuyền đi làm việc ở dưới thung lũng về. ít nhất cũng có đến mười, mười hai người mặt mũi nhem nhuốc, có đeo những cây đèn an toàn. Họ hút thuốc và nói chuyện rì rào, thỉnh thoảng liếc nhìn về phía hai người cảnh sát mặc sắc phục đang đứng ở đầu toa. Có cả một số nữ công nhân và vài ba người buôn bán ở địa phương.Nhưng ở một góc toa tàu, có một người trẻ tuổi ngồi một mình. Anh ta gần ba mươi tuổi, nước da tươi tắn, vóc người trung bình. Đôi mắt mầu xám mở to vừa khôn ngoan, vừa tinh nghịch lóng lánh sau cặp kính. Rõ ràng đây là một con người cởi mở và giản dị, nụ cười sẵn sàng nở trên môi. Mới thoạt nhìn thì như vậy.

    Nhưng quan sát kĩ thêm nữa, sẽ thấy một cái quai hàm rắn chắc và chung quanh đôi môi, những vết nhăn nghiêm nghị, chứng tỏ cái anh chàng trẻ tuổi xứ ái Nhĩ Lan này cũng không phải là một tay vừa.

    Sau khi ba lần thử bắt chuyện với người thợ mỏ gần nhất, và chỉ nhận được vài tiếng trả lời càu nhàu, anh chàng đành ngồi yên, buồn bã nhìn qua cửa kính, ngắm một phong cảnh chẳng có gì thích thú. Đêm xuống dần, những tia lửa đỏ của các lò đúc lập loè trên các sườn núi, soi sáng những đống than và xi quặng cùng những giếng mỏ. Rải rác đó đây, dọc theo đường tàu, những xóm nhà gỗ nhỏ đã bắt đầu lên đèn. Tàu dừng lại ở nhiều nơi, ở mỗi nơi lại có những toán thợ thuyền bước xuống. Người hành khách trẻ tuổi ngắm nhìn xứ sở u buồn này một cách vừa chăm chú vừa ghê sợ. Thỉnh thoảng anh ta lại lôi từ trong túi ra một phong thư dày cộm, đọc một vài đoạn rồi lại nghí ngoáy vài chữ lên đó. Có một lần, anh ta lôi từ đằng sau chiếc thắt lưng ra một khẩu súng lục. Khi anh ta nghiêng nó về phía ánh sáng đèn, thì thấy rõ là khẩu súng đã lên đạn. Anh ta lại vội nhét nó vào trong túi áo. Một người thợ nói:

    - Này anh bạn, anh có vẻ chuẩn bị dữ quá đấy!

    Người trẻ tuổi mỉm cười, hơi lúng túng:

    - Đúng. Ở chỗ tôi sống trước đây, đôi lúc cũng cần đến nó.

    - Thế anh ở đâu đến?

    - Ở Chicago.

    - Anh chưa đến đây bao giờ?

    - Chưa.

    - Rồi sẽ thấy, ở đây anh cũng cần nó.

    - Thật không?

    - Anh chưa nghe gì ở đây à?

    - Chưa.

    - Thế mà tôi cứ tưởng là chuyện đã lan ra khắp xứ sở rồi chứ. Nhưng không lâu đâu, rồi anh sẽ biết hết. Thế tại sao anh lại đến cái thung lũng này?

    - Tôi tìm việc làm.

    - Anh có vào nghiệp đoàn không?

    - Có chứ.

    - Thế thì anh sẽ được toại nguyện. Anh có bạn bè không?

    - Chưa, nhưng sẽ có.

    - Nhờ đâu?

    - Tôi là hội viên của "Hội những Người Tự Do". Trong mỗi tỉnh đều có một chi hội.

    Người thợ sửng sốt, liếc nhìn những người cùng ngồi trong toa với cặp mắt ngờ vực. Nhưng những người thợ mỏ vẫn rì rào nói chuyện,. Hai người cảnh sát thì ngủ gà, ngủ gật. Người thợ liền đứng dậy đi lại gần người trẻ tuổi, ngồi xuống bên cạnh anh ta, chìa tay ra và nói:

    - Vậy hãy bắt tay tôi đi. Họ trao đổi nhau một cái bắt tay theo một kiểu riêng nào đó.

    - Được rồi. Anh nói sự thật. Nhưng tôi muốn chắc chắn hơn kia.....

    Người thợ giơ tay phải lên ngang tầm mắt phải, Anh trẻ tuổi vội giơ ngay tay trái lên ngang tầm mắt trái. Người thợ nói:

    - Những đêm đen tối rất khó chịu.

    Anh kia trả lời:

    - Phải, nhất là cho những người lạ mà phải đi lại.

    - Thôi đủ rồi, Tôi là Can-lân, chi nhánh 341, thung lũng Vermissa, sung sướng được gặp anh trong vùng này.

    - Cảm ơn. Tôi là Móc- đô, chi nhánh 29, Chicagọ Toán trưởng:

    J.H.Scott. Tôi may mắn gặp được một môn huynh như anh.

    - Không ở đâu mà Hội lại phồn thịnh như ở Thung lũng này. Có điều tôi không hiểu được là tại sao một hội viên năng nổ như anh mà lại không tìm được việc làm ở Chicago.

    - Ở đó, tôi có thể tìm được bất cứ việc nào mà tôi muốn.

    - Móc- đô trả lời.

    - Thế thì tại sao anh lại bỏ đỉ Móc- đô mỉm cười trỏ người cảnh sát:

    - Hai ông cố nội này mà biết được lý do thì hẳn là vui lắm.

    - Chuyện lôi thôi à?

    - Can-lân thì thào.

    - Nặng.

    - Tù được không?

    - Chưa đủ.

    - Không phải án mạng chứ? Móc- đô trả lời như một người vừa chợt nhận thấy rằng mình đã nói hơi quá:

    - Mình có những lý do để ra đi. Anh nghe đến thế là đủ rồi nhé.

    - Tôi không hỏi nữa. Tôi không muốn làm mất lòng anh mà. Các bạn ở đây sẽ không đánh giá xấu anh đâu. Thế bây giờ anh định đi đâu?

    - Đến Vermissa.

    - Còn ba ga nữa thì đến. Thế anh định ở đâu?

    Móc- đô rút ra một chiếc bì thơ, đưa đến gần ngọn đèn:

    - Địa chỉ đây:

    Cụ Sáp. Đường Sheridan. Đây là một nhà nấu cơm trọ. Có người ở Chicago mách cho tôi.

    - Tôi không biết nhà trọ này. Vermissa không nằm trong khu của tôi. Tôi ở Hobson'sPatch ga sau là đến. Nhưng mà này, nếu anh có chuyện gì lôi thôi ở Vermissa, thì cứ đi thẳng đến nhà hội quán và vào tìm ông chủ Ganh-tỵ Ông ta là toán trưởng của chi nhánh Vermissạ Thôi tạm biệt, sẽ gặp lại nhau ở chi hội.

    Móc- đô ngồi lại một mình với những ý nghĩ quay cuồng trong đầu. Đêm đã xuống hẳn. Trong khung cảnh tranh tối tranh sáng đó, những dáng người đen sẫm cúi xuống co, kéo, quay đi quay lại với những động tác của người máy, theo nhịp điệu những tiếng gầm gừ của sắt thép. Một tiếng nói bỗng cất lên:

    - Địa ngục có lẽ cũng giống thế này thôi.

    Móc- đô quay lại:

    Một người cảnh sát đã đến ngồi bên cạnh anh và đang ngắm nhìn cái cảnh tượng khủng khiếp đó, Người cảnh sát kia gật đầu đáp lại.

    - Đúng. Nếu ở địa ngục mà có những con quỷ sứ dữ tợn hơn một số kẻ ở đây thì tôi sẽ rất ngạc nhiên. Anh mới về vùng này phải không?

    - Phải.

    - Móc- đô trả lời.

    - Tôi khuyên anh hãy cẩn thận trong việc chọn bạn. Không nên kết bạn với Can-lân hay cái băng của hắn.

    - Đó là chuyện riêng của tôi, các anh can dự vào làm gì? Móc- đô nhe hai hàm răng ra cười.

    Hai người cảnh sát ngạc nhiên khi thấy thiện chí của mình bị đáp lại một cách thô bạo.. Một người nói:

    - Đấy là một lời báo động chỉ có lợi cho anh thôi.

    Móc- đô vẫn cứ tái đi vì tức giận, hét lên:

    - Tôi không biết vùng này thật, nhưng tôi biết rằng mỗi lần mở miệng là các anh cứ khuyên với răn.

    - Thôi được, chúng tôi sẽ được biết anh rõ hơn, anh có vẻ "chịu chơi" lắm. Người cảnh sát kia bồi thêm:

    - Đúng, rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau, không lâu đâu.

    - Tên là Móc- độ Hai người cảnh sát nhún vai và quay ra nói chuyện với nhau. Mấy phút sau, tàu từ từ vào một cái ga tối tăm, và nhiều người bước xuống, vì Vermissa là thị trấn lớn nhất trên tất cả tuyến đường. Móc- đô cầm cái bọc lên. Khi anh sắp đi vào trong bóng tối của sân ga, thì một người thợ mỏ đến nắm lấy tay anh:

    - Đưa cái bọc đây tôi mang cho, và tôi sẽ chỉ đường cho anh. Khi hai người đi đến sân ga, ngang qua đám thợ mỏ, hàng loạt tiếng chào nổi lên. Thế là trước khi đặt chân xuống Vermissa, Móc- đô đã trở thành một nhân vật nổi tiếng ở đó rồi.

    Đứng dưới thung lũng nhìn mấy đống lửa ngất trời cùng những đám khói dày đặc còn thấy một cái gì là hùng vĩ, ở đấy con người nhờ sức hai bàn tay và bộ Óc đã đẽo gọt những ngọn núi bằng máy và dựng lên những công trình. Trái lại, về đến thị trấn, chỉ thấy toàn một sự nhớp nhúa và xấu xí. Đường phố chính đã bị xe cộ đi lại biến thành một thứ tuyết pha bùn nhão như hồ. Những cây dèn chỉ dùng để làm lộ ra những dãy nhà bằng gỗ, mặt tiền có một hàng lan can, tất cả đều nhếch nhác bẩn thỉu. Vào đến trung tâm thì một vài cửa hàng có thắp đèn sáng hơn, nhưng cả một đám nhà chỉ là những hàng cà phê và sòng bạc, để cho thợ mỏ đến vung phí tiền lương. Người đưa đường chỉ vào một cái quán rượu to, nói; - Đấy nhà hội quán đấy, Ganh-ty là ông chủ.

    - Ông ta như thế nào?

    - Anh chưa bao giờ nghe nói đến ông ta?

    - Tôi mới đến.

    - Thế mà tôi cứ tưởng là khắp xứ này phải biết đến ông tạ Ông ta được đăng báo hoài mà.

    - Tại sao báo lại đăng tên ông ta?

    - Ờ thì vì.....

    Người thợ mỏ hạ giọng xuống nói nhỏ:

    -..... Vì áp phe mà.

    - áp phe gì?

    - áp phe của những "Người Tiên Phong".

    - Ừ, ở Chicago tôi cũng có đọc một cái gì đấy về những "Người Tiên Phong". Chúng nó là một bọn sát nhân, phải không? Người thợ mỏ hoảng hốt, nói lạc cả tiếng:

    - Anh muốn sống thì im ngay đi. Này anh, ở đâu mà ăn nói kiểu đó, thì không được đâu, đi mò tôm đó.

    - Không, tôi chỉ biết được đôi chút thôi.

    Anh ta liếc chung quanh, nhìn những bóng đen và đêm tối như là sợ hãi một sự nguy hiểm nào đó.

    - Nếu giết người có nghĩa là ám sát. Thì ở đây những vụ ám sát đem bán "xôn" cũng không hết. Nhưng anh đừng có dại dột mà đem cái tên của Ganh-ty đi kèm với các vụ ám sát. Bởi vì ông ta không tha thứ cho bất cứ ai xì xào về ông tạ Đây căn nhà mà anh tìm ở lùi vào đằng sau đường phố một chút đó. Móc- đô bắt tay người bạn mới:

    - Xin cám ơn anh. Anh ta đi lên con đường dẫn vào nhà, và gõ cửa. Hai cánh cửa mở ngay ra:

    trước mặt anh là một phụ nữ còn trẻ, đẹp kì lạ. Cô ta có dáng người xứ thuỵ Điển, bộ tóc vàng óng lộng lẫy tương phản với đôi mắt đen nhánh. Cô ngạc nhiên nhìn người thanh niên lạ mặt, và sự lúng túng làm sắc mặt đỏ hồng lên, một đoá hoa tươi thắm nở trên một đống than xỉ. Anh mê mẩn ngắm cô gái, không nói được nên lời và cuối cùng cô ta phải lên tiếng:

    - Tôi tưởng là ba tôi về. Ông đến tìm ba tôi? Ba tôi lên phố, cũng sắp về. Móc- đô vẫn cứ ngắm say sưa:

    - Thưa cộ Tôi không vội lắm, tôi đến đây để xin ở trọ.

    - Vậy xin mời ông vào. Tôi là Ettie, con gái ông Sáp. Má tôi đã mất, và chính tôi trông nom cái nhà trọ này. Ông có thể ngồi cạnh lò sưởi để chờ ba tôi về. à, mà kìa, ba tôi về tới rồi.

    Một người đàn ông nặng nề bước vào nhà. Móc- đô giải thích ngắn gọn lý do anh đến đây. Ông già Sáp nhanh chóng đồng ý:

    12 đô la mỗi tuần , trả tiền trước cả tiền ăn, tiền phòng.

  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Chương 9

    Người trưởng toán
    Móc- đô là một người muốn ai cũng phải để ý đến mình. Chỉ sau một tuần lễ, anh ta đã trở thành nhân vật quan trọng nhất trong nhà trọ. Buổi tối, khi những người tá túc tại đây ngồi với nhau, thì anh chàng này luôn luôn có những chuyện khôi hài làm cho họ phải phá lên cười. Sức hấp dẫn riêng của anh làm toa? sự vui vẻ ra xung quanh. Đối với những người đại diện cho pháp luật, anh tỏ thái độ khinh thường, làm cho những người trong nhà trọ hoặc là thích thú hoặc là lo ngại.

    Ngay từ khi mới đến trọ, anh đã công khai bộc lộ sự chiêm ngưỡng đối với cô thiếu nữ trong nhà rằng từ phút đầu tiên, cô gái đã chiếm hoàn toàn trái tim anh. Trong ngày thứ hai. anh nói thẳng rằng anh yêu cô ta, và từ đó, anh không ngừng nhắc đi nhắc lại cái điệp khúc ấy.

    - Cô có người khác rồi à? Cô hãy bảo cái người ấy lo công việc riêng của anh ta đi. Còn tôi, tôi sẽ không để lỡ mất dịp may duy nhất của đời tôi. Ettie, hiện giờ cô có thể nói tiếng Không. Nhưng một ngày nào đó, rồi cô sẽ trả lời là :

    Có. Tôi còn trẻ, tôi đợi được. Đó là một gã si tình nguy hiểm, với tác phong trắng trợn ái Nhĩ Lan, và những cử chỉ dịu dàng âu yếm đến mê người. Thêm nữa, anh ta được bao bọc trong một vòng hào quang của những chuyện phiêu lưu và bí mật, vòng hào quang dễ làm cho một phụ nữ phải chú ý, và từ đó dẫn đến tình yêu có xa gì. Anh ta kể về những thung lũng thanh bình, về hòn đảo xa vời đẹp như trong những chuyện thần tiên, về những ngọn núi hiền lành, những cánh đồng xanh muốt. Người ta có cảm giác là nhiều chuyện kỳ lạ đã xảy đến cho anh ta trong cái thành phố Chicago quá kỳ lạ, quá bí mật. Anh ta gợi lại với một vẻ trầm ngâm buồn rầu, một cuộc ra đi đột ngột, một cuộc chạy trốn vào nơi tận cùng của cái thung lũng âm u này. Ettie lắng nghe từng lời, đôi mắt nhung đen ánh lên một niềm thương xót và thông cảm. Móc- đô làm kế toán. Anh bận suốt ngày, và cũng chưa có thì giờ đến trình diện ở chi nhánh của "Hội những người Tự Do". Can-lân đến nhà trọ cụ Sáp vào một buổi tối. Can-lân là một mẫu người nhỏ bé, láu táu, mặt lưỡi cày. Anh ta có vẻ vui lòng khi gặp lại Móc- độ Sau vài ngụm, anh ta đi vào lý do của việc đến thăm.

    - Này, Móc- đô, sao anh chưa trình diện ông toán trưởng.

    - Tôi bận.

    - Làm gì thì làm, nhưng phải tới gặp Ganh-ty ngay đi. Lẽ ra sau ngày anh đến, anh phải trình diện ỏ trụ sở Hội rồi, anh không được làm ăn bê bối với ông tạ Móc- đô có vẻ ngạc nhiên.

    - Tôi là một hội viên đã hơn hai năm rồi. Sao lại phải đi trình diện gấp thế?

    - Ở Chicago thì không gấp như thế đâu.

    - Ở đây cũng là một Hội ấy chứ?

    - Cùng một Hội à?

    - Can-lân nhìn Móc- đô trừng trừng, mắt anh ta loé lên một tia sáng đe dọa.

    - Thế không phải là cùng một Hội sao?

    - Móc- đô hỏi lại.

    - Một tháng nữa, chúng ta sẽ trở lại chuyện cùng hay không cùng này. Tôi nghe nói là bữa nọ trên tàu anh có đối đáp gì đó với mấy tay cảnh sát.

    - Sao anh biết?

    - Ồ tin tức bay đi mà. Ở đây tin tức bay đi nhiều lắm, tốt cũng có, xấu cũng có. Ồ! Anh sẽ là người lý tưởng của Ganh-ty đó.

    - Sao vậy? ông ta cũng ghét cảnh sát ư? Can-lân bật cười, đứng dậy:

    - Hãy đi gặp ông ta ngay đi. Nếu không, thì không phải ông ta ghét cảnh sát, mà là ghét anh đó. Cũng đêm hôm đó, ông già Thuỵ Điển mời anh chàng trẻ tuổi vào phòng ông.

    - Tôi có cảm giác là anh đang ve vãn con gái tôi.

    - Tôi yêu cô ấy.

    - Thế thì anh tốn công vô ích. Có người đã đến trước anh rồi.

    - Cô ấy đã nói với cháu như thế.

    - Con bé có nói với anh là ai không?

    - Cháu có hỏi nhưng cô ấy không nói.

    - Có lẽ nó không muốn làm anh phải sợ hãi đấy.

    - Làm cháu sợ hãi à? Móc- đô đã bắt đầu nóng mặt.

    - Đúng đó,anh bạn. Nó là thằng Ted đó.

    - Cái thằng Ted ấy là một thứ ma quái dữ dằn hay sao?

    - Nó là một trong những thằng chủ của bọn "Người Tiên Phong" đấy.

    - "Người Tiên Phong" à? Tại sao mọi người ở đây lại phải sợ chúng đến thế? ông chủ trọ hạ thấp ngay giọng xuống.

    - "Người Tiên Phong" là hội viên của "Hội những Người Tự Do". Người trẻ tuổi giật mình.

    - Cháu cũng là hội viên của Hội ấy đây.

    - Anh à? Nếu tôi biết thế, thì tôi không cho anh vào nhà. Dù anh có trả tôi đến 100đô la một tuần đi nữa.

    - Hội lập ra cốt để giúp đỡ lẫn nhau, và gây tình bạn tốt. Bác hãy đọc điều lệ của nó mà xem.

    - Ở nơi khác thì như thế đó. Nhưng ở đây thì không.

    - Ở đây nó thế nào?

    - Một bọn sát nhân. Thế thôi.

    Móc- đô đáp lại bằng một nụ cười không tin:

    - Bác chứng minh được điều đó không?

    - Cả năm mươi vụ án mạng ở đây chưa đủ để chứng minh hay sao? Trong cùng thung lũng này không ai không biết những việc ấy.

    Móc- đô nói rất nghiêm trang:

    - Thưa bác, cháu muốn bác rút lại những lời vừa nói, nếu không thì bác phải giải thích.

    - Tôi chỉ nhắc lại cho anh cái gì mà tất cả mọi người đều nói ở đây. Những người chủ của Hội thì cũng là những người chủ của bọn "Tiên Phong". Nếu ai làm gì phật ý Hội, thì bọn "Tiên Phong" sẽ ra tay ngay.

    - Cháu muốn có những chứng cớ thực sự kia.

    - Nếu anh còn ở lại Vermissa này, thì rồi anh sẽ có những chứng cớ. Nhưng tôi quên mất rằng anh cũng ở trong cái băng ấy, thì rồi anh cũng chẳng hơn gì bọn chúng đâu. Trong khi chờ đợi, thưa ông, xin ông đi tìm một nơi trọ khác. Thế là Móc- đô bị kết án phải đi đày đến hai lần:

    đi đày khỏi căn buồng ấm cúng và đi đày xa người thiếu nữ. Anh đi tìm Ettie.

    - Ba em vừa mới đuổi anh. Nếu chỉ là chuyện căn buồng thôi thì anh có cần gì. Nhưng mà, anh không thể sống không có em được.

    - Ồ, ông Móc- độ Xin ông đừng nói thế. Ông đã đến quá trễ. Em chưa hứa với hắn nhưng em cũng không thể hứa với người khác được.

    - Thế nếu anh là người đến trước, thì liệu anh có một tia hy vọng nào không? Cô gái úp mặt vào hai bàn tay, khóc nức nở:

    - Em thề trước Thượng Đế là em muốn anh là người đầu tiên đến với em. Móc- đô quỳ ngay xuống bên cô gái, thốt lên:

    - Anh van em, em hãy làm theo tiếng gọi của trái tim mình. Móc- đô nắm lấy đôi bàn tay cô gái.

    - Em hãy nói rằng em là của anh, và chúng ta sẽ cùng nhau xây dựng cuộc đời.

    - Nhưgn không pảhi ở đây chứ?

    - Ở đây, ngay ở đây em ạ.

    - Không, không, anh.....

    Móc- đô ôm chặt cô gái vào trong taỵ Cô gái không chống cự.

    - Ở đây thì không được đâu anh. Nhưng..... anh có thể đi với em được không? Một trận bão nội tâm, làm rung động nét mặt người thanh niên. Một lát sau, khuôn mặt trở lại rắn đanh - Không. Anh ở đây để bảo vệ em và chống với cả hoàn cầu.

    - Thế tại sao chúng ta không đi nơi khác.

    - Không, anh không thể đi được.

    - Tại sao?

    - Nếu chúng ta yêu nhau thì ai dám ngăn cản?

    - Anh mới đến đây nên anh không biết cái thằng Ted đâu. Anh cũng không biết Ganh-ty và bọn "Tiên Phong".

    - Anh đã sống giữa những con người dữ tợn, và bao giờ rồi cuối cùng chính chúng phải kiêng anh. Nếu bọn chúng đã phạm tội thì tại sao không ai đưa chúng ra trước pháp luật.

    - Không có ai dám ra làm chứng chống lại chúng:

    người nào làm như vậy, thì ngay trong tháng đó sẽ chết.

    - Có thể người ta tìm cách hại chúng và chúng không có cách gì để tự vệ chăng?

    - Ôi, em không muốn nghe anh nói như vậy. hắn cũng nói đúng như vậy đó..... cái thằng ấy.

    - Thằng Ted ấy à? à, nó nói như vậy có phải không?

    - Và vì vậy, mà em ghét nó. Em ghét nó nhưng em sợ nó. Cho nên em cứ phải tìm cách tránh né bằng những lời hứa nửa vời.

    Nhưng nếu anh chịu đi với em, thì chúng ta sẽ đưa ba em đi, và sống mãi mãi với nhau.

    Một lần nữa nét mặt người thanh niên lại hiện lên cuộc tranh đấu nội tâm dữ dội, và một lần nữa, một quyết định không gì lay chuyển nổi.

    - Sẽ không có gì nguy hại xảy đến cho em và ba em đâu.Còn về cái bọn độc ác kia, anh tự hỏi không biết rồi em có ngạc nhiên khi thấy rằng anh còn độc ác hơn cả đứa độc ác nhất trong bon chúng, trước khi chúng ta lấy nhau.

    - Không, em tin anh..... tin suốt đời.

    Trên môi Móc- đô nở một nụ cười cay đắng.

    - Em biết anh còn ít quá, em không thể đoán biết được những gì diễn ra trong tâm hồn anh đâu. Này, ai đến kìa?

    Hai cánh cửa buồng bật toang ra, và một người trẻ tuổi bước vào, dáng điệu dương dương tự đắc, hắn đẹp trai, ăn mặc đẹp đẽ. Vóc dáng và tuổi tác cũng vào cỡ của Móc- độ Dưới chiếc mũ phớt vành đen rộng, cặp mắt dữ tợn nhìn chăm chăm vào đôi trai gái đang ngồi cạnh lò sưởi.

    Ettie vội vàng đứng bật dây, hoảng hốt.

    - Tôi rất sung sướng được ông đến chơi, ông Ted. Xin mời ông ngồi. Ted hai tay chống nạnh, nhìn thẳng vào mặt Móc- đô, hỏi:

    - Người này là ai?

    - Một người khách trọ mới. Ông Móc- đô, ông cho phép tôi giới thiệu với ông, ông Ted. Hai người thanh niên trao đổi một cái gật đầu lạnh nhạt.

    - Cô gái đã nói cho anh biết sự quan hệ của cô ta với tôi rồi chứ?

    - Tôi chẳng biết mối quan hệ nào giữa cô ta và anh cả.

    - Cô gái này là của tôi, và bây giờ thì anh đi chơi đi, ngoài kia trời dễ chịu lắm đấy.

    - Cám ơn. Lúc này tôi không thích đi chơi.

    - "Lại thế nữa kia". Đôi mắt của Ted rừng rực lửa giận. "Thế chắc ông thích đánh nhau có phải không, thưa ông khách trọ?" Móc- đô nhảy dựng lên:

    - Anh đã đoán đúng đấy. Chưa bao giờ anh lại có một lời nói đúng hơn thế nữa.

    Cô thiếu nữ kêu lên, sợ hãi:

    - Ôi, anh Móc- độ Ôi anh Móc- đô.

    - Ồ, người ta đã gọi nhau bằng anh rồi, nhanh quá nhỉ?

    - Anh Ted. Xin anh hãy độ lượng mà tha lỗi cho anh ấy.

    Móc- đô bình tĩnh nói:

    - Ettie, anh sẽ giải quyết chuyện này ổn thoa? thôi. Thưa ông Ted, ông có thấy hứng thú mà đi dạo với tôi một vòng ngoài đường kia không? Trời ban đêm đẹp lắm, đúng như ông đã nói, ở đằng sau nhà bên cạnh này có một cái bãi trống, tiện lợi lắm, ông ạ.

    - Tôi sẽ trả món nợ này, mà không cần phải bẩn taỵ Anh sẽ hối hận là đã đặt chân vào nhà này.

    - Sẽ à? Có ngay vẫn hơn chứ.

    - Tôi sẽ chọn giờ. Anh có thể để tôi thu xếp việc ấy chọ Này, nhìn đây.

    Ted kéo ống tay áo lên và chỉ vào một dấu hiệu đặc biệt:

    một hình tam gíac nằm trong một đường tròn.

    - Anh có biết cái này là gì không?

    - Tôi không biết và cũng chẳng cần biết.

    - Thế thì rồi anh sẽ biết. Ettie sẽ chỉ dẫn cho anh. Con kia, mày sẽ quỳ xuống ,và van xin trở về với tao. Sau đó, mày sẽ biết tao trừng phạt mày như thế nào. Mày đã gieo....., thì tao sẽ cho mày gặt.....

    Hắn giận dữ, nhìn hai người một lần cuối, rồi quay gót đi ra và dập cửa lại. Trong giây lát, Móc- đô và người thiếu nữ đứng lặng đi. Nhưng rồi người thiếu nữ nhào tới ôm chặt lấy anh:

    - Ôi, anh Móc- đô, anh can đảm biết bao nhiêu. Nhưng anh phải trốn ngay tối nay, nó sẽ giết anh. Em đã nhìn thấy trong mắt nó. Làm sao mà anh chống cự được với cả băng của chúng. Móc- đô dịu dàng hôn người thiếu nữ và dìu cô ngồi xuống ghế - Em đừng có lo, Anh cũng là một hội viên trong Hội những Người Tự Do, anh đã nói với ba em rồi, và bây giờ anh cũng nói cho em biết nữa, đừng ghét bỏ anh.

    - Em không thể nào ghét bỏ anh được. Nhưng nếu anh cũng là một hội viên, tại sao anh không đến lấy lòng ông Ganh-tỵ Ồ, anh đi ngay đi.

    - Anh cũng có ý đó. Em có thể nói với ba em là đêm nay anh còn về ngủ ở đây, nhưng ngày mai anh sẽ đi tìm một căn phòng khác. Quầy rượu của quán Ganh-ty đông nghẹt khách gồm toàn những bọn hạ lưu của thị trấn. Ganh-ty là nhân vật nổi tiếng, bên ngoài được che đậy bằng tác phong của một người vui tính sởi lởi. Nhưng bên trong, sự sợ hãi mà hắn gieo rắc không những ở Vermissa, mà cả trên 50 cây số của cái thung lũng này, đủ lôi kéo khách đến quán rượu của hắn rồi. Ganh-ty đã được những bọn cướp, bọn lưu manh, bầu hắn giữ chức vụ Uỷ viên Hội đồng Thành phố, và Quận trưởng Cảnh sát giao thông. Thuế má và các khoản tiền đóng góp rất lớn, những công trình công cộng thì bị bỏ bê, báo cáo trước nhân dân thì bị bóp méo sự thật Người dân thường bị bắt buộc phải câm miệng vì sợ bị tai hoạ. Thế là, năm này qua năm khác, quán rượu của ông a đã phình ra đến mức đe doa. nuốt cả một góc của phố chợ. Móc- đô đẩy cửa bước vào, chen giữa đám đông ồn ào, trong một bầu không khí ô nhiễm khói thuốc và sặc mùi rượu. Căn phòng được thắp đèn sáng choang. Những tấm gương lớn, khung mạ vàng, treo trên bốn bức tường phản chiếu và nhân lên gấp bội không biết bao nhiêu là đèn. Những người bồi rượu, tay áo sơ mi xắn lên đến khuỷu tới tấp pha rượu cho khách hàng. Ở một đầu, đứng dựa mình vào quầy, là một người đàn ông cao lớn. Đó là Ganh-tỵ Ông ta có bộ tóc đen nhánh, dài như một cái bờm rủ xuống đến tận cổ, bộ râu nham nhở hai bên má, nước da mai mái của một người ý Đại Lợi, đôi mắt đen nhìn không chớp, trông rất dữ tợn. Tất cả phần còn lại, một thân hình cân đối, nét mặt thanh tú, tác phong cởi mở, phù hợp với dáng điệu vui tính và chịu chơi mà ông ta cố làm cho mọi người thấy rõ. Một người khách lạ sẽ nghĩ rằng đây là một tay làm ăn lương thiện. Nhưgn khi đôi mắt hung bạo kia nhìn trừng trừng vào khách, thì người này bắt đầu run sợ, và cảm thấy mình đang đứng trước một thiên tai thực sự. Sau khi đã quan sát kỹ con người đó, Móc- đô, cùi tay gặt một đám xu nịnh đang bao quanh. Đôi mắt táo bạo của người thanh niên như đóng đinh vào đôi mắt đen đang soi mói nhìn anh.

    - Này anh, tôi chưa hề thấy cái bản mặt của anh ở đây.

    - Tôi mới đến, thưa ông Ganh-ty.

    - Nhưng không vì thế mà không biết thưa gởi với một người có chức vụ. Một người trong bọn xu nịnh vội giải thích:

    - Này anh, đây là ông hội đồng Ganh-ty đó.

    - Rất tiếc, thưa ông hội đồng. Tôi chưa biết hết các tập quán ở đây. Nhưng người ta có khuyên tôi đến gặp ông.

    - Thế thì anh gặp tôi rồi đó. Anh thấy tôi thế nào?

    - Ồ, nói ra bây giờ còn sớm quá. Nhưng nếu trái tim của ông cũng to như thân hình của ông, và tâm hồn ông cũng đẹp như ông, thì tôi tự thấy là bằng lòng rồi. Nghe câu trả lời đó, tên chủ quán đâm ra ngỡ ngàng, không biết nên cười cợt hay giữ một vẻ nghiêm trang với tên thanh niên này. Một lát sau, hắn mới quyết định.

    - Tổ mẹ, đúng là một kiểu ăn nói ái Nhĩ Lan rồi. Thế ra tôn ông đã hài lòng về phần người ngợm của tôi rồi, phải không?

    - Chắc chắn thế.

    - Và người ta bảo anh đến gặp tôi.

    - Vâng.

    - Ai nói?

    - Môn huynh Can-lân, chi nhánh 341, của Vermissạ Tôi xin nâng ly mừng sức khoẻ của ông, ông hội đồng. Móc- đô vừa uống vừa giơ ngón tay út lên. Ganh-ty chăm chú theo dõi anh ta và bỗng nhíu cặp mắt đen rậm lại nói:

    - Ồ, ra thế đấy. Vậy thì tôi phải xét trường hợp của ông một cách cặn kẽ hơn nữa, thưa ông.....

    -..... Móc- đô - Một cách cặn kẽ hơn nữa, thưa ông Móc- đô, vì ở đây không ai tin lời nói của ai cả. Xin mời qua đằng sau quầy này. Ở đó có một căn phòng nhỏ với những thùng rượu xếp dọc theo tường. Ganh-ty đóng cửa rồi ngồi lên một thùng, vừa cắn vào điếu xì gà vừa quan sát anh thanh niên. Hai phút trôi qua như thế. Móc- đô chịu đựng cuộc thẩm tra này một cách vui vẻ. Anh ta đút một tay trong túi áo vét, còn một tay thì vân vê ria mép. Đột nhiên Ganh-ty chồm người về phía trước và chìa ra một khẩu súng lục.

    - Này, thằng kia. Nếu mày định chơi tao thì cái này sẽ đưa mày sang thế giới bên kia ngaỵ Móc- đô bình tĩnh trả lời:

    - Đón tiếp một môn huynh như thế này thì quả thật là kỳ cục, nhất là khi người ta lại là một trưởng toán trong chi nhánh của Hội những Người Tự Do.

    - Anh được nhập hội ở đâu?

    - Chi nhánh 29, Chicago - Bao giờ?

    - Ngày 24 tháng 6 năm 1871 - Tên trưởng toán?

    - J.H.Scott.

    - Ai chịu trách nhiệm toàn khu?

    - Bartholomew Wilson.

    - Đến Vermissa làm gì?

    - Tôi cũng đi làm như ông - Anh đối đáp trơn tru lắm nhỉ?

    - Vâng, tôi không ngọng nghiụ.

    - Thế trong hành động, anh có lanh lẹ không?

    - Tôi nổi tiếng về việc ấy.

    - Rất tốt, anh sẽ được thử thách. Anh đã nghe nói đến chi nhánh ở đây bao giờ chưa?

    - Người ta nói với tôi rằng trước tiên phải là một con người đã, rồi sau mới thành một môn huynh được.

    - Đúng đó. Tại sao anh lại bỏ Chicago ra đi?

    - Ông đừng hòng bắt tôi khai.

    Ganh-ty trố mắt ra nhìn. Hắn không quen nghe những câu trả lời như vậy. Câu này, hắn thấy nó thật ngộ nghĩnh.

    - Tại sao vậy?

    - Vì môn huynh không được phép nói dối với một môn huynh khác.

    - Nghĩa là sự thật không được tốt lắm chứ gì.

    - Nếu ông muốn hiểu như vậy, thì xin tùy ông.

    - Một người trưởng toán như tôi, chắc sẽ không đưa một ai vào trong chi nhánh Hội, khi chưa biết quá khứ của anh tạ Móc- đô có vẻ lúng túng. Sau cùng, anh ta lôi ở túi áo trong ra một mảnh báo cũ, và còn hỏi lại:

    - Ông không phản thùng tôi chứ?

    - Mày mà còn nói cái kiểu ấy thì tao đập vỡ mặt mày ra bây giờ. Móc- đô tỏ vẻ hối tiếc:

    - Tôi xin lỗi ông. Tôi nói mà không suy nghĩ. Tôi biết rằng ở trong tay ông thì tôi sẽ được an toàn. Ông hãy đọc mảnh báo này đi. Ganh-ty đọc lướt qua bài báo đưa tin về vụ án mạng tên Jonas Pinto ở quán rượu phố Chợ, tại Chicago, đêm mồng 1 tháng giêng năm 1874. Hắn đưa trả lại mảnh báo cũ, hỏi:

    - Anh làm cái việc ấy à?.....

    Móc- đô trả lời bằng cái gật đầu.

    - Tại sao anh lại hạ nó?

    - Tôi giúp đỡ nhà nước đúc ra các đồng đô lạ Có lẽ những đồng đô la của tôi làm ra, vàng không đủ tuổi như đồng đô la của Nhà nước, nhưng trông nó vẫn có vẻ xài được. Cái tên Pinto này giúp tôi tiêu thụ những đồng ấy. Một hôm nó nói rằng sẽ đi tố cáo tôi. Tôi hạ nó ngay, rồi đến đây.

    - Tại sao lại đến cái xứ than này?

    - Thấy báo nói ở đây người ta không khó tính lắm. Ganh-ty bật cười.

    - Thế ra trước hết anh là một thằng làm bạc giả, rồi sau là một tên giết người, và anh nghĩ rằng đến đây anh sẽ được người ta đón tiếp tốt có phải không.

    - Vâng, đại khái là như vậy.

    - Thế bây giờ anh còn làm đươc những đồng đô la ấy không? Móc- đô móc túi lấy ra mấy đồng tiền vàng đưa cho Ganh-ty xem - Đây ông xem.....

    - Thật không? Không nói đùa đấy chứ? Ganh-ty soi các đồng tiền ra ánh sáng, để nó trên bàn tay to tướng.

    - Không thấy có gì khác cả. Tổ mẹ, thế này thì anh sẽ là một môn huynh đắc lực đây. Ở đây chúng tôi cũng có thể nhận một vài tay đầu bò đầu bướu.

    - Thưa ông, tôi sẽ giữ được vị trí của tôi, trong cuộc tự vệ đó.

    - Thần kinh của anh có vẻ vững vàng lắm. Anh không xáo động khi tôi chĩa súng vào anh?

    - Lúc đó không phải tôi đang bị nguy hiểm.

    - Thế thì ai vậy?

    - Ông. Móc- đô rút tronng túi áo vét ra một khẩu súng sáu đã lên đạn.

    - Tôi vẫn nhắm vào ông suốt trong thời gian vừa qua, tay tôi cũng không lanh kém gì ông đâu.

    ông hội đồng đỏ mặt tía tai nhưng rồi bỗng phá lên cười.

    - Tôi có cảm giác một ngày nào đó, chi nhánh Hội ta rồi sẽ đươc kiêu hãnh về anh đó..... Cái gì thế này. Chúng mày không thể để yên cho tao được nói chuyện đến năm phút với một vị khách quí hay sao?

    Người hầu bàn cúi đầu:

    - Xin lỗi ông hội đồng, có ông Ted. Ông ấy muốn gặp ông gấp. Lời báo ấy là vô ích, Ted đã hiện ra trong khung cửa.

    Hắn gặt người hầu ra rồi đóng cửa lại, và nhìn Móc- đô bằng một cặp mắt nẩy lửa.

    - Thế là mày đã đến đây trước tao rồi hả? Được, ông hội đồng, tôi có câu chuyện muốn nói với ông về cái tên này.

    Móc- đô nói như hét:

    - Thì mày nói ngay đi, nói ngay trước mặt tao nè.

    - Tao sẽ nói lúc nào tao cần nói, và nói theo cách của tao.

    Ganh-ty từ trên thùng rượu nhảy xuống, can thiệp - Ted, đây là một môn huynh mới đến, chúng ta không được đón tiếp anh ta như vậy. Hãy chìa tay ra làm lành với nhau đi.

    - Không đời nào.

    - Ted hét lên - Tôi đã mời anh ta đấu với tôi bằng tay không, hoặc bằng bất cứ thứ vũ khí nào. Thưa ông hội đồng, bây giờ tôi xin để ông phân xử cho chúng tôi.

    - Thế giữa hai anh có chuyện gì vậy?

    - Một cô gái trẻ tuổi.

    - "Tự do à?" ông trưởng toán nói tiếp. "Vì đây là giữa hai môn huynh trong cùng một chi nhánh hội, nên cô gái đó hoàn toàn tự do".

    - Ồ, luật lệ của ông là như thế đấy hả?

    - Đúng, luật lệ của tao là như thế đấy, Ted!

    Ganh-ty nhìn hắn một cách hiểm ác, tiếp luôn:

    - Phải chăng mày định chống lại luật lệ ấy không?

    - Ông gạt ra ngoài một người vẫn đứng bên ông từ năm năm nay, để ôm vào lòng một tên mà ông chưa bao giờ gặp mặt. Mẹ kiếp, đến kỳ phiếu sắp tới.....

    ông hội đồng chồm lên như một con hổ, khép chặt hai bàn tay vào quanh cổ tên kia và vật ngửa nó lên một thùng rượu. Móc- đô can thiệp. Anh kéo ông hội đồng lại, làm ông ta thả tay ra. Ted bị khuất phục. Hắn ngồi lên trên thùng rượu.

    - Ted, đã từ lâu mày đáng được một trận như thế này. Ngày hôm nay thì mày nếm mùi sơ sơ rồi đó. Mày tưởng tượng rằng nếu tao không được bầu lại làm trưởng toán thì mày sẽ chiếm chỗ tao phải không? Rồi đây chi nhánh Hội sẽ định đoạt việc này. Nhưng chừng nào tao còn là trưởng toán, thì không một đứa nào được mở mồm ra chống lại những điều tao quyết định, nghe rõ chưa?

    Ted vừa xoa cổ vừa lắp bắp nói:

    - Tôi có chống ông cái gì đâu.

    Thế là Ganh-ty đột ngột trở lại ngay cái kiểu cách ra vẻ hồ hởi thường ngày của hắn:

    - Ồ, nếu thế thì thôi. Chúng ta đều là bạn tốt với nhau cả. Và việc này coi như là xong. Lão lấy từ trong hốc tủ ra một chai sâm banh bật nút mở rượu, rót đầy vào ba cốc :

    - Nào, chúng ta hãy uống ly rượu hoà giải. Sau tuần rượu này, không có một cuộc cãi lộn nào nữa. Vậy thì bây giờ Ted, hãy để tay trái của anh lên cổ tôi đi. Rồi lão nói tiếp:

    - Thưa ông, nghĩ sao khi bị xúc phạm?

    - "Những đám mây đều nặng nề".

    - "Nhưng chúng sẽ tan đi, để không bao giờ trở lại nữa".

    - "Và điều đó, tôi xin thề". Hai người uống cạn ly rượu, và nghi lễ đó lại diễn ra giữa Ted và Móc- đô Ganh-ty xoa hai tay vui vẻ nói:

    - Được rồi. Thế là cuộc cãi lộn đã kết thúc. Nếu nó còn tái diễn thì các anh sẽ phải chịu sự trừng phạt của Hội.

    Móc- đô chìa tay ra cho Ted bắt:

    - Tôi thật không dám thế. Tôi dễ gây lộn, nhưng cũng dễ tha thứ. Người ta bảo đó là do giòng máu ái Nhĩ Lan. Nhưng đối với tôi thế là xong, và tôi không có thù hằn gì cả. Ted đành phải giơ tay ra bắt, vì đôi mắt của ông trưởng toán không rời hắn Ganh-ty ôm lấy vai hai người, thở dài:

    - Thật không thể tưởng tượng được là mảnh gấu váy ấy lại có thể làm cho hai chàng trai của tôi đến phải trở thành đối thủ của nhau. Nhưng những chuyện này vượt ra ngoài thẩm quyền của một người trưởng toán rồi. Môn huynh Móc- đô, anh được nhập vào chi nhánh 341. Chúng tôi thường hội họp vào tối thứ 7. Nếu anh đến dự, anh sẽ mãi mãi là một người Tự Do ở cái thung lũng này.

  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 10

    Chi nhánh 341 ở Vermissa
    Ngay hôm sau, Móc Đô dọn đến nhà một bà goá chồng tên là Namara ở ven thị trấn. Can-lân ít lâu sau cũng có việc về Vermissa nên hai người đến ở chung với nhau. Bà chủ trọ đã già, tính kín đáo và biết điều. Móc- đô và Can-lân ở đó không có ai khác cùng trọ nên có thể ăn nói, hoạt động rất tự dọ Cụ Sáp cũng đồng ý để cho Móc- đô khi nào muốn, cứ đến nhà dùng cơm, thành ra quan hệ của anh với Ettie không bị đứt đoạn, mà trái lại cứ ngày càng chặt chẽ, thân thiết hơn. Móc- đô bày những cái khuôn dập bạc giả ra. Một vài môn huynh của chi nhánh được phép bí mật đến nhà anh, và khi ra về thì túi nặng những đồng bạc mới. Những người cùng làm với anh thường thắc mắc tại sao anh có tài như vậy, mà lại chịu hạ mình đi làm công. Anh trả lời rằng nếu anh không có những nguồn thu nhập chính đáng, thì cảnh sát sẽ điều tra về đời sống của anh ngaỵ Sau cuộc gặp mặt lần đầu tiên với Ganh-ty, anh thường lui tới quán rượu để biết "những chàng trai". Đó là cái tên rất dễ thương mà bọn quỉ sứ trong khắp vùng này tự đặt cho mình. Móc- đô nổi tiếng trong bọn chúng vì sự nóng nảy và về cách nói táo tợn của anh. Một buổi tối, khi quán rượu đang đông khách, thì có một người bước vào. Người đó mặc binh phục màu xanh và đội mũ lưỡi trai của cảnh sát vùng mỏ. Đây là một đơn vị đặc nhiệm đã được ban điều hành của các công ty hoa? xa, mỏ than và mỏ sắt cùng dựng lên để yểm trợ cho cảnh sát dân sự. Khi người đó vừa mở cửa vào, thì cả phòng bỗng im bặt, cả mấy trăm con mắt đều đổ dồn nhìn như xiên vào mặt anh tạ Ganh-ty đứng sau quầy, không tỏ ra một chút ngạc nhiên nào khi thấy viên thanh tra ngồi vào giữa đám khách quen của ông ta.

    - Một ly uýt-ki nguyên chất. à, ông hội đồng, hình như chúng ta chưa gặp nhau lần nào?

    - Anh là đại úy mới đến đây phải không?

    - Chính tôi. Chúng tôi kêu gọi ông và tất cả mọi công dân, hãy giúp đỡ chúng tôi giữ vững pháp luật và trật tự trong thị trấn này.

    Tôi là đại úy Mavin của Công ty than và sắt.

    - Không có ông, chúng tôi thu xếp còn tốt hơn đấy. Bởi vì chúng tôi có đội cảnh sát riêng. Ông chỉ là một công cụ tư bản, đến đây để quất roi gân bò và bắn giết những người công dân nghèo mà thôi.

    Viên sĩ quan cảnh sát cười:

    - Không nên cãi vã với nhau.

    Anh ta uống cạn ly rượu và sắp đi ra thì chợt trông thấy Móc- đô đang đứng cười gằn gần đó. Anh ta vừa nhìn Móc- đô từ trên xuống dưới vừa vui vẻ gọi:

    - à, một người quen cũ đây.

    Móc- đô lảng ra.

    - Tôi chưa bao giờ là bạn của ông. Đại úy Ma-vin phá lên cười:

    - Một người quen không nhất thiết phải là một người bạn. Anh là Móc- đô, ở Chicagọ Móc- đô nhún vai, đáp lời nagy:

    - Tôi không chối tên tôi, Anh tưởng tôi xấu hổ vì cái tên tôi à?

    - Nếu anh có cảm thấy xấu hổ về cái tên của anh, thì cũng có lý thôi.

    Móc- đô đã nắm chặt lại thành hai nắm đấm và gầm lên:

    - Tôi yêu cầu ông phải giải thích những điều ông vừa mới nói?

    - Đừng có lên mặt anh chị với tôi. Trước khi tôi đến đây, tôi là một quan chức ở Chicago, và khi tôi trông thấy một thằng lưu manh của Chicago, tôi phải nhận ra được nó chứ. Móc- đô tái nhợt người, thốt lên:

    - Chắc ông không phải là Ma-vin của Sở cảnh sát trung ương ở Chicago chứ?

    - Tôi luôn luôn vẫn là Ma-vin ấy đấy. Chúng tôi cũng vẫn chưa quên được cái thằng Pinto đã bị giết.

    - Tôi không giết nó.

    - Thế à? Thế thì cũng hơi lạ đó. Bởi vì cái chết của nó đỡ cho anh biết mấy. Nó mà khai ra được trước toà, thì anh đã vào chảo rang lâu rồi. Nhưng thôi, không nói chuyện quá khứ nữa. Này, tôi nói riêng với anh một chuyện đáng lẽ tôi không đươc phép nói ra:

    cái vụ ấy mà, về phần anh không có gì là rõ ràng đâu. Ngày mai anh có thể trở về Chicago, nếu anh muốn. Anh sẽ không bị phiền đâu.

    - Tôi ở đây tốt rồi, chẳng phải đi đâu cả.

    - Ờ thì tuỳ, tôi đã mách nước cho anh, đáng lẽ anh nên có một lời cảm ơn mới phải.

    Móc- đô trả lời một cách lạn nhạt:

    - Thì cứ cho là ông muốn làm cho tôi vui lòng đi, cám ơn.

    - Chừng nào mà tôi còn thấy anh trên con đường tốt thì tôi sẽ không nói gì. Nhưng nếu anh lại muốn dở trò, thì lúc đó sẽ là câu chuyện khác đấy. Thôi, chào anh. Chào ông hội đồng!

    Ma-vin bước ra khỏi quán rượu. Tin tức nhanh chóng loan ngay đi rằng Móc- đô đã tác yêu tác quái ở Chicagọ Trước đây, khi có người hỏi anh ta về việc này anh ta chỉ tránh né với nụ cười của một người không muốn ai làm rùm beng quá khứ của một câu chuyện chẳng đáng gì. Bây giờ câu chuyện đó đã được xác nhận chính thức. Những khách quen đến bao quanh và âu yếm bắt tay anh tạ Từ nay trở đi, anh đã có một vị trí xứng đáng trong tập thể. Một tối thứ bẩy, Móc- đô được đưa ra trình diện trước hội viên trong chi nhánh. Cuộc họp được triệu tập trong một căn buồng rộng ở nhà hội quán. Khoảng 60 hội viên có mặt. Họ chỉ là một phần rất nhỏ của tổ chức thôi vì có nhiều chi nhánh khác hoạt động ở trong thung lũng cũng như ở phía sườn núi bên kia. Trong tất cả khu mỏ này, tổng số hội viên như vậy không dưới năm trăm tên. Những người tới họp, tập trung quanh một chiếc bàn dài trong căn buồng hoàn toàn trơ trụi, không có bất cứ một thứ trang trí nào. Ở một phía có một cái bàn khác trên xếp đầy rượu và lỵ Một số môn huynh đã để mắt liếc nhìn về phía đó. Ganh-ty ngồi ở một đầu bàn, đầu đội một cái mũ bình thiên bằng nhung đen, vai khoác một tấm áo chòang bằng nhung đỏ. Những vị chức sắc cao cấp nhất của chi nhánh, trong số đó có Ted, bao quanh ông tạ Người nào cũng có đeo một cái đay hay một huy chương chỉ rõ ngôi thứ và chức vụ. Phần đông trong số họ là những người tuổi, số còn lại gồm những thanh niên từ 18 đến 25 là những tay chân thừa hành. Trông mặt của các hội viên già, người ta cũng đoán thấy bên trong là những tâm hồn tàn bạo và bất trị, nhưng khi nhìn đến những người trẻ tuổi, thì không ai có thể ngờ được rằng những thanh niên này lại họp thành băng nhóm tội phạm. Đồi truỵ đến tận gốc rễ, chúng cho rằng có xin xung phong đi thủ tiêu những người chưa bao giờ động chạm gì đến chúng, thì mới gọi là có can đảm và có tinh thần hiệp sĩ. Hồi đầu, chúng còn giữ bí mật về những hành động của chúng, nhưng vào thời xảy ra câu chuyện này thì chúng công khai khoe khoang thành tích. Trong mười năm chưa một đứa nào trong bọn chúng phải chịu một án sát phạt nào.

    Móc- đô đã được báo trước là sẽ có những lễ nghi chờ đợi anh tạ Anh được hai môn huynh đưa vào một căn buồng biệt lập. Qua tấm vách ngăn bằng ván, lọt vào tiếng ồn ào của nhiều người nói trong căn buồng hẹp. Một hay hai lần gì đó, anh nghe thấy nói đến tên anh. Hình như người ta đang kháo nhau về sự chấp nhận anh vào chi nhánh hội. Rồi một người bảo vệ, bước vào căn phòng anh đang đứng đợi và truyền cho hai người môn huynh biết:

    - Ngài trưởng toán ra lệnh hãy trói người này lại, bịt mắt và đưa vào trình diện. Cả ba người lột áo anh ra, vén tay áo sơ mi bên phải lên và trói giật cánh khuỷu anh ra đằng sau. Rồi họ đội lên đầu anh một chiếc mũ lưỡi trai may bằng thứ vải đen dày, và ấn sâu xuống cho đến che hết phần trên của mặt, anh được dẫn vào phòng họp. Anh có cảm giác là đêm tối đen như mực. Anh nghe tiếng thì thào của những người dự họp, rồi tiếng nói của Ganh-ty:

    - Móc- đô, anh đã là hội viên của Hội những Người Tự Do chưa?

    Móc- đô gật đầu.

    - Chi nhánh của anh có phải là số 29 ở Chicago không? Móc- đô lại gật đầu.

    - Những đêm đen tối rất khó chịu.....

    -..... cho những người lạ mặt phải đi lại.

    - Những đám mây đều nặng nề - Một cơn bão sắp lại gần.

    - Các môn huynh đã thoa? mãn chưa?...... Có một tiếng rì rầm chứng tỏ sự đồng ý.

    - Môn huynh, anh đã đáp đúng được mật hiệu, chúng tôi biết anh thật sự là ngườ trong hội. Nhưng chúng tôi cũng muốn anh biết rằng trong khu vực này, chúng tôi có những nghi lễ và những điều bắt buộc đòi hỏi phải có lòng dũng cảm. Vậy anh có sẵn sàng để chịu đựng không?

    - Có.

    - Anh có can đảm không?

    - Có.

    - Hãy tiến lên một bước. Vừa nghe đến đây thì anh cảm thấy có hai mũi nhọn, cứng ở đằng trước mắt. Hai mũi nhọn này ấn vào hai mắt anh khiến anh có cảm giác là nếu tiến lên thêm thì hai mắt sẽ bị đâm thủng. Mặc dầu vậy, anh vẫn tiến lên một bước, và hai mũi nhọn biến mất. Anh nghe thấy những lời khen ngợi kín đáo.

    - Anh can đảm đấy. Nhưng liệu có chịu được sự đau đớn không?

    - Không kém bất kỳ ai.

    - Hãy thử thách. Móc- đô đã phải sử dụng tất cả nghị lực mới không kêu thét lên:

    một sự đau đớn khủng khiếp vừa xiên qua cánh tay anh, suýt làm anh ngất xỉu.

    - Tôi có thể chịu được hơn thế nữa.

    Lần này thì tiếng vỗ tay nổ vang lên. Chưa bao giờ chi nhánh ở đây thấy một người mới nhập hội cương quyết hơn thế. Người ta nhấc cái mũ ở trên đầu xuống, và vỗ vào lưng anh đồm độp. Anh vẫn đứng im, chớp chớp mắt cười trong khi các môn huynh tới chúc mừng anh. Ganh-ty nói:

    - Môn huynh Móc- độ Anh đã tuyên thệ giữ bí mật và trung thành, nhưng chắc anh biết rằng ai phản bội lời thề đó sẽ bị án tử hình tức khắc chứ?

    - Tôi biết.

    - Và anh có tuân theo lệnh của người toán trưởng trong bất kỳ hoàn cảnh nào không?

    - Có.

    - Vậy thì, nhân danh chi nhánh 341 của Vermissa, tôi mời anh được tham dự vào những nghi lễ và những đặc quyền của Hội. Môn huynh Can-lân, hãy cho chúng ta uống rượu đi. Có một người đem trả lại cho Móc- đô chiếc áo vét. Trước khi mặc vào, anh xem xét lại chỗ cánh tay phải vẫn còn đau như xé:

    Một cái ấn bằng sắt nung đỏ đã in lên đấy hình một tam giác nằm trong một đường tròn. Những người đứng xung quanh cũng vén tay áo lên và chỉ cho anh xem dấu ấn của họ.

    - Chúng tôi cũng đã được nhận dấu ấn này, nhưng không ai dũng cảm được bằng anh đâu.

    - Ồ, cũng không có gì ghê gớm lắm.

    - Móc- đô trả lời. Mấy tuần rượu mừng lễ nhập hội đã xong, chi hội bắt đầu bàn đến một số vấn đề thường vụ. Ganh-ty tuyên bố:

    - Việc thứ nhất của buổi họp đêm nay là bức thư của vị trưởng hạt Win ở Merton, chi nhánh 249. Bức thư như sau:

    "Qúi vị thân mến, có một việc nhỏ cần làm đối với Adrew Rae, ở công ty Rae Sturmash, chủ những mỏ bên cạnh. Chắc các vị chưa quên là chi nhánh các vị còn nợ chúng tôi về việc chúng tôi đã cử hai môn huynh đến để giúp các vị trong vụ tên cảnh sát, mùa thu vừa quạ Nếu các vị cử đến cho chúng tôi hai người tình nguyện, thì họ sẽ được người thủ quỹ Hi-gi của chi nhánh chúng tôi trông nom chu tất, và sẽ hướng dẫn họ cách hành động, ở đâu và lúc nào. Chào huynh đệ. Ký tên J.Win." ông Win chưa bao giờ từ chối cho chúng ta vay một hoặc hai người khi chúng ta cần, thì bây giờ chúng ta cũng không thể từ chối ông tạ Ganh-ty ngừng lại, đưa mắt nhìn khắp căn phòng.

    - Ai xung phong đi làm công việc này?

    Mấy thanh niên cùng giơ tay một lượt. Ông trưởng toán mỉm cười đồng ý.

    - Hổ Cóc-mắc, anh sẽ đi. Nếu anh cũng làm ăn tốt như lần trước thì mọi việc sẽ bình thường cả thôi. Cả anh nữa, Uyn-xơn. Người xung phong đó thắc mắc:

    - Nhưng tôi không có súng lục.

    - Đây là trận đầu tiêm của anh, có phải không? Thế thì phải bắt đầu bằng lễ chịu lửa đã. Còn súng lục, đến nơi sẽ có. Khi nào trở về, sẽ có ăn mừng trọng thể.

    - Thế còn tiền thưởng, lần này thì sao?

    - Cóc-mắc hỏi.

    - Tiền thưởng không phải là quan trọng. Anh ra tay vì danh dự mà. Khi nào công viẹc xong xuôi, người ta cũng sẽ vét được ở đáy két bạc một đôi đồng đô-la cũ rích nào đó để trao cho anh. Wil hỏi:

    - Cái người đó đã làm gì?

    - Chuyện đó không dính dáng gì đến chúng ta, công việc của chúng ta, là thay họ thanh toán nó, cũng như họ đã thay ta ở đây vậy. à cũng nhân đây nói luôn; tuần lễ sau sẽ có hai môn huynh của chi nhánh Merton đến đây để làm thay cho chúng ta một công việc nhỏ. Có người hỏi:

    - Ai đến thế?

    - Đừng nên đặt những loại câu hỏi như vậy. Anh chỉ cần biết đây là những người rất chịu chơi.

    Ted kêu lên:

    - Ở đây đang cần có những loại người ấy đấy. Dân chúng ở đây đã bắt đầu hơi coi thường rồi đó. Trong tuần trước ba người của chúng ta đã bị tên đốc công La-cơ đuổi không cho làm nữa. Chúng ta mắc nợ với cái thằng này từ lâu rồi, bây giờ phải hoàn lại đủ cả vốn lẫn lãi cho nó thôi.

    Móc- đô thì thầm vào tai người ngồi bên hỏi:

    - Hoàn vốn như thế nào?

    Người này phá lên cười:

    - Bằng một viên đạn súng săn chứ còn bằng cái gì nữa. Anh thấy những phương pháp của chúng tôi thế nào, môn huynh. Móc- đô tỏ vẻ tán thành những phương pháp của cái hội giết người này.

    - Phương pháp hay quá. Một chàng trai không phải thỏ đế thì ở đây tốt quá đi chứ. Những người ngồi bên vỗ tay tán thưởng. Ở đầu bàn đằng kia, ông toán trưởng hỏi với lại - Cái gì thế?

    - "Thưa ông", vị môn huynh nói, "Móc- đô thấy phương pháp làm việc của chúng ta hợp với khẩu vị của anh ấy lắm". Móc- đô đứng phắt ngay lên, trịnh trọng nói:

    - Thưa thầy kính mến, tôi muốn nói rằng, nếu thầy cần đến một người để làm một việc gì đó thì tôi sẽ tự coi như có danh dự lớn, nếu được thầy cho làm. Nhiều tiếng vỗ taỵ Chỉ có một vài môn huynh trong hội là thấy anh ta đi có hơi quá nhanh. Viên thư ký Ha-ra, một lão già râu xám ngồi bên cạnh toán trưởng, can thiệp ngay:

    - Tôi đề nghị là môn huynh Móc- đô chờ đợi khi nào chi nhánh cần đến.

    - Tất nhiên. Đó chính là điều mà tôi muốn nói. Tôi hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của chi nhánh.

    - Móc- đô đáp lại.

    Toán trưởng nói một cách an ủi:

    - Rồi sẽ đến lượt anh thôi, môn huynh. Chúng tôi nhận thấy anh là một con người cương nghị, và tin chắc rằng anh sẽ làm được những việc xuất sắc. Tối nay, nếu anh muốn, anh có thể tham dự vào một công việc nhỏ thôi.

    - Tôi xin chờ.

    - Bây giờ, trước hết tôi yêu cầu thủ quỹ cho chúng ta biết bản hạch toán tiền nong. Phải trả một số tiền kha khá cho người vợ goá của Jim. Một người ngồi bên Móc- đô giải thích cho anh ta hiểu:

    - Jim đã bị giết tháng trước trong khi đang định hạ sát Wil-cọ Thủ quĩ mở sổ sách ra trước mặt, nói:

    - Quỹ hiện nay rất phong phú, Max và công ty ông ta đã trả 500 đô-lạ Hai anh em Wan-cơ gửi đến 100 đô-la, nhưng tôi đã tự ý gửi trả lại họ, đề đòi 500 kia. Nếu từ nay đến thứ tư sau, mà tôi không có tin tức gì thì bộ cầu trục của họ có thể sẽ bị tai nạn. Năm ngoái chúng ta đã bắt buộc phải đốt cháy cái máy nghiền quặng của họ. Hiện nay chúng ta có vốn đủ để có thể đương đầu với bất cứ một yêu cầu nào.

    - Thế còn cái vụ Win- đô thì sao?

    - Nó đã bán hết gia sản và đi khỏi khu vực rồi. Cái thằng quỷ già đó có để lại cho chúng ta một bức thư nói rằng thà nó đi làm nghề quét đường ỏ Nữu-Ước còn thú vị hơn là làm một chủ mỏ lớn để bị một băng cướp tống tiền khống chế. Quân chó đẻ, cũng may là nó đã đi khỏi đây trước khi bức thư đến tay chúng tạ Một người đã đứng tuổi, mặt mũi nhẵn nhụi có dáng hiền lành hỏi:

    - Thưa ông thủ quỹ, tôi có được phép xin ông cho chúng tôi biết ai đã mua cái lô đất của người mà ta vừa đuổi chạy khỏi khu này không?

    - Được, môn huynh Mô-rít. Lô đất ấy đã do công ty Hoa? xa ở Merton mua.

    - Và ai đã mua lại những mỏ của Tod và Lee đem bán đấu giá, năm ngoái cũng vì những lý do trên.

    - Cũng lại công ty Hoa? xa.

    - Và ai đã mua lại những lò rèn của Man-sơn và Su-man khi họ bỏ lại để chạy trốn.

    - Tất cả đều được công ty mỏ tổng hợp Gilmerton mua lại hết. Toán trưởng can thiệp, hỏi lại:

    - Môn huynh Mô-rit, tên tuổi của những người đã đứng tên mua không làm cho chúng ta phải quan tâm, vì không thể bê những cái bể là đó ra khỏi vùng này được kia mà.

    - Thưa thầy kính mến, với tất cả lòng tôn kính của tôi đối với thầy, tôi vẫn nghĩ rằng vấn đề này phải được chúng ta quan tâm nhiều hơn nữa. Như thế là trong mười năm nay, chúng ta vẫn tiếp tục dùng có một phương pháp thôi. Đó là chúng ta dần dần đuổi hết những nhà thầu nhỏ ra khỏi nơi đây. Kết quả là thế nào? Họ được thay thế bởi những công ty lớn, mà những giám đốc của các công ty đó thì ngự Ở Nữu Ước hay Philadenphia, và hoàn toàn coi thường những lời đe dọa của chúng tạ Những chú nhỏ không thể làm gì chúng ta được. Nhưng, khi những công ty lớn thấy chúng ta là vật chướng ngại giữa họ và số lãi, thì họ sẽ không từ bất cứ một cố gắng nào, để đưa chúng ta ra pháp luật. Mọi người im bặt, nét mặt sa sầm xuống. Từ trước đến giờ họ vẫn cảm thấy họ có uy lực đến mức không ai dám khiêu khích họ, và họ cho rằng họ vững như thành đồng. ý kiến của môn huynh đã làm dựng chân lông những con người bất trị nhất. Diễn giả nói tiếp:

    - Vì vậy, ý kiến của tôi là, chúng ta nên nới bớt tay đối với các chủ nhỏ. Ngày nào mà họ bắt buộc phải trốn chạy đi hết, thì ngày ấy quyền lực của Hội sẽ bị tan vỡ. Không pải sự thật nào cũng nên nói ra. Khi môn huynh Mô-rit ngồi xuống, những tiếng kêu giận dữ đã nổi lên. Ganh-ty đứng dậy, vừng trán bừng bừng.

    - Này môn huynh Mô-rit, anh từ trước đến nay vẫn là người chuyên nói những điều gở dại. Chừng nào mà tất cả hội viên trong chi nhánh vẫn sát cánh với nhau, thì không có một thế lực nào làm hại đến chúng ta, những công ty lớn cũng sẽ cảm thấy được là trả tiền cho chúng ta sẽ đơn giản hơn là chọi với chúng tạ Và rồi họ cũng sẽ làm theo như các công ty nhỏ thôi. Còn bây giờ, thưa các môn huynh.....

    Ganh-ty bỏ cái mũ nhung đen và tấm đai xuống.

    -..... Chi hội chúng ta đã bàn xong mọi công việc tối nay, chúng ta chỉ còn một việc nhỏ nữa cần phải nói trước lúc chia taỵ Nhưng bây giờ đã đến lúc chúng ta nghỉ xả hơi giải khát một chút và vui hát với nhau, như anh em trong một nhà. Móc- đô có một giọng hát nam cao rất hay, anh hát bài "Em Mari, anh ngồi dưới dàn nho" và bài "Trên con sông lớn" và hốt hết các tình cảm của khán giả. Ai cũng đoán rằng rồi đây anh ta sẽ tiến bước lên những chức vụ cao nhất trong hội. Nhưng muốn làm một Người Tự Do trong cái hội này, cũng đòi hỏi phải có một vài đức tính khác nữa, Móc- đô đã hiểu ra được điều đó trước khi buổi họp tối hôm ấy kết thúc. Chai rượu uýt-ki đã được truyền tay đi mấy lần. Các chàng trai mặt đỏ như gấc, đã chín mùi để có thể làm bất cứ một việc gì. Ông trưởng toán tiếp tục:

    - Các cậu ơi, trong thành phố có một người đang cần một bài học. Đó là lão James của tờ báo Herald, gần đây hắn lại bắt đầu há cái mồm to tướng ra để chống lại chúng tạ Một tiếng rì rào đồng tình đáp lại, pha lẫn đâu đó là một vài câu chửi thề thô tục. Ganh-ty rút ở trong túi áo ra một mẩu nhật trình, đọc bài Pháp luật và Trật tự. "Sự khủng bố đang ngự trị trong vùng than và sắt. Mười hai năm đã trôi qua từ khi xảy ra những vụ ám sát đầu tiên chứng tỏ có sự hiện diện của một tổ chức tội ác trong vùng chúng tạ Từ ngày đó đến nay, những vụ án mạng không một lúc nào ngừng và bây giờ đã lên đến một quy mô làm cho chúng ta trở thành một mối ô nhục của thế giới văn minh. Một tình trạng khủng bố và vô chính phủ sẽ được thiết lập dưới bóng thiêng liêng của lá cờ tự do hay sao? Người ta biết rõ những tên cầm đầu. Chúng đã hoạt động công khai trước mắt mọi người. Chúng ta sẽ còn phải chịu đựng tình trạng này bao nhiêu lâu nữa. Chúng ta sẽ sống.....". Ông trưởng toán vứt mảnh báo xuống bàn.

    - Thôi đọc cái thứ văn chương này như thế là đủ rồi. Đó, nó nói về chúng ta như vậy đó. Câu hỏi tôi muốn đặt ra cho các bạn là:

    Chúng ta sẽ nói gì với nó. Hàng tá tiếng thét hung dữ nổi lên:

    - Giết mẹ nó đi!

    Môn huynh Mô-rit, cái người có bộ mặt hiền lành đó lại đứng lên, cãi lại:

    - Tôi đã nói với các môn huynh rằng:

    bàn tay chúng ta đập quá nặng xuống thung lũng này, và cũng chẳng còn lâu nữa sẽ đến cái ngày mà tất cả công dân trong vùng họp nhau lại để đè bẹp chúng tạ James là một ông già. Ông ta được người trong thành phố và trong vùng kính trọng. Nếu các anh giết người này, thì cả nước sẽ náo động, cho đến khi chúng ta bị tiêu diệt hết mới thôi.

    Ganh-ty rống lên:

    - Chúng tiêu diệt chúng ta bằng cách nào, thưa ngài Thỏ đế. Bằng cảnh sát chăng? Coi nào, một nửa số cảnh sát ăn lương của chúng ta, nửa kia thì sợ chúng ta như sợ cọp. Bằng toà án chăng? Chúng ta đã thử nhiều lần rồi đó, hỏi có đi đến đâu không? Môn huynh Mô-rit đáp lại:

    - Có một quan toà tên là Lynch có thể tuyên án.

    - Tôi chỉ cần giơ một ngón tay lên, là có thể đưa về đây hai trăm người để dọn sạch thành phố này từ đầu đến cuối - Ganh-ty nói Rồi bỗng ông ta chồm người về phía trước, vầng trán nhăn lại một cách dữ tợn, nói dằn từng tiếng:

    - Nghe đây, môn huynh Mô-rit, tôi theo dõi anh từ lâu rồi. Bản thân anh không có một chút can đảm nào, nhưng anh lại cứ cố gắng phá hoại lòng can đảm ở người khác. Môn huynh Mô-rit, khi nào mà tên anh được ghi trên chương trình nghị sự, thì ngày ấy sẽ là một ngày không tốt cho anh. Mô-rit mặt nhợt nhạt, ngã ngồi xuống ghế, hai đầu gối nhũn ra như bông. Ông chìa một bàn tay run rẩy ra cầm lấy ly rượu uống cạn một hơi trước khi trả lời:

    - Thưa thầy tôn kính, tôi xin thầy thứ lỗi chọ Tôi xin tất cả các môn huynh thứ lỗi cho, nếu như tôi đã quá lời. Tôi là một hội viên trung thành và trung thực, tất cả các môn huynh đều biết chính vì sợ một biến cố có thể xảy ra, nên tôi mới phát biểu ý kiến như vậy. Nhưng tôi tin tưởng ở sự phán xét sáng suốt của thầy tôn kính hơn là tin tưởng ở sự nhận thức của tôi..... Tôi xin hứa là từ giờ trở đi, tôi sẽ không bao giờ dám làm phật ý thầy nữa.

    Những nếp nhăn trên trán ngài trưởng toán dãn ra.

    - Được rồi, môn huynh Mô-rit, tôi sẽ buồn nếu phải giảng cho anh một bài học, nhưng chừng nào mà tôi còn giữ chức vụ, thì chúng ta sẽ giữ vững sự thống nhất trong chi nhánh về lời nói và việc làm. Và bây giờ, hỡi các chàng trai.....

    ông trưởng toán nhìn một vòng khắp mặt những người đứng xung quanh.

    - Nếu James lãnh đủ những gì mà hắn đáng phải nhận, thì chúng ta sẽ bị phiền nhiều. Những thằng nhà báo kết với nhau lắm đấy.

    Nếu James bị hạ, tất cả các báo chí ở Hoa Kỳ sẽ đòi cảnh sát và quân đội can thiệp. Vậy các anh chỉ nên cho hắn một lời cảnh cáo nghiêm khắc mà thôi. Môn huynh Ted, anh có thể gánh vác việc này được không?

    - Dĩ nhiên là được ạ.

    - Ted phấn khởi trả lời.

    - Anh cần bao nhiêu người?

    - Độ sáu người. Thêm hai người nữa để giữ cửa.

    - Tôi đã hứa để cho vị môn huynh mới của chúng ta được tham dự vào trận ra quân này.

    - Ganh-ty nói.

    Ted nhìn Móc- đô với một cặp mắt chứng tỏ hắn chưa tha thứ một tí gì. Hắn trả lời bằng một giọng chua như giấm:

    - Thì để anh ta đi. Công việc làm xong sớm chừng nào hay chừng ấy.

    Hội nghị chia tay nhau giữa những tiếng la, hét và những bài hát say rượu. Quầy rượu bên ngoài vẫn còn đông khách, nhiều môn huynh cũng sà vào đó. Toán đi làm nhiệm vụ thì chia nhỏ ra. Bên ngoài rét lắm. Một mảnh trăng lưỡi liềm le lói trên bầu trời giá buốt và đầy sao. Các chàng trai tụ tập trong một mảnh sân đối diện với một toà nhà lớn, giữa hai cửa sổ sáng choang có khắc hàng chữ vàng "Tuần báo Vermissa". Bên trong các máy in đang chạy đều đều.

    Ted sẵng giọng hỏi Móc- đô:

    - Anh kia, đứng đấy. Anh sẽ ở dưới này canh cửa và giữ đường thông suốt lúc chúng tôi ra. Còn những người khác theo tôi. Đừng sợ gì cả. Móc- đô cùng một người khác đứng dưới nhà. Họ nghe thấy ở tầng lầu một những tiếng thét, tiếng kêu cứu, tiếng chân người chạy, và tiếng đập phá đồ đạc. Một lát sau, một người tóc hoa râm chạy ra cầu thang. Nhưng chưa chạy xa được, thì đã bị túm lại, và cặp kính rơi xuống chân Móc- độ Một tiếng người té ngã, tiếp theo là những tiếng rên rỉ. Người đó nằm sấp, mặt úp xuống. Sáu cây gậy cùng một lúc đánh tới tấp xuống. Đánh chán một lúc sau, chúng mới ngừng tay, Ted vẫn ra sức đánh vào đầu nạn nhân. Máu đã chảy loang lổ cả vùng tóc bạc. Ted cúi xuống định đánh một đòn cuối cùng, Móc- đô nhảy bổ lên gác, gạt nó ra.

    - Mày định giết ông ta à. Thôi!

    - Cút. Mày làm gì thế này, lùi ra. Nó giơ cao cây gậy lên. Nhưng Móc- đô đã rút súng, hét lên:

    - Nếu mày động đến tao, tao bắn bể đầu mày ngaỵ Lúc nãy ông trưởng toán đã ra lệnh là không được giết ông James. Một đứa trong bọn chúng tán thành:

    - Anh ấy nói đúng đó. Người đứng gác dưới nhà gọi vọng lên:

    - Thôi nhanh lên. Các anh muốn cả phố xông ra hay sao.

    Đúng là lúc ấy ở ngoài đường đã nghe thấy nhiều tiếng người kêu gọi nhốn nháo. Bọn lưu manh chạy vội xuống và tẩu thoát ra lối cửa. Khi chúng về đến hội quán thì một vài đứa lẩn ngay vào đám khách và thì thào vào tai Ganh-tỵ Những đứa khác, trong số đó có Móc- đô thì tản ra trong các ngõ hẻm để về nhà.

Trang 1 / 2 12 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-23-2020, 10:06 PM
  2. Thung Lũng Không Tên
    By giahamdzui in forum Audio Trinh Thám hình Sự
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-10-2018, 05:59 PM
  3. Thung Lũng khủng khiếp-Thám tử Sherlock Holmes
    By hailua in forum Audio Trinh Thám hình Sự
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-17-2016, 06:14 PM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 07-12-2016, 09:39 PM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-03-2015, 09:06 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •