Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Không có đau khổ nào hoàn toàn là đau khổ, cũng như không có niềm vui nào hoàn toàn là niềm vui.
Leon Tolstoi
Trang 1 / 10 123 ... Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 100

Chủ Đề: Biên Hoang Truyền Thuyết

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Biên Hoang Truyền Thuyết

    Biên Hoang Truyền Thuyết

    Tác giả: Huỳnh Dị



    TÓM TẮT TRUYỆN

    Biên hoang truyền thuyết, một câu chuyện tình cảm đầy xúc động, hào hùng, đau thương, bi đát, lãng mạn...nơi anh hùng xưng bá thiên hạ, tranh hùng võ lâm.
    Ở giữa vùng Hoài Thủy và Tứ Thủy, có một dải đất lớn hoang phế, trải dài hàng trăm dặm, toàn thành tan làng nát, quang cảnh như địa vực, người Hán ở phương Nam gọi nó là Biên Hoang, còn người Hồ ở phương Bắc gọi là Âu Thoát.
    Tên gọi tuy kỳ dị, nhưng nhất định là một vùng độc nhất vô nhị thời bấy giờ. Nó vừa là nơi phơi xác lương dân, vừa là nơi những kẻ lưỡi đao nhuốm máu chen nhau cướp lấy; nguy hiểm tuy đầy rẫy, nhưng cơ hội cũng trùng trùng; là nơi anh hùng hào kiệt chết không có đất chôn, cũng là võ đài cho những kẻ bạt mạng liều lĩnh thành danh lập nghiệp; càng là một vùng đất lý tưởng để chính quyền các nơi tiến hành những vụ ngoại giao bí mật. Lúc này nó có thể là Đào Nguyên thời loạn, lúc khác lại biến thành địa ngục Tu La giữa trần gian. Không có nơi nào đáng sợ hơn Biên Hoang, nhưng cũng không có nơi nào khác đáng yêu như nó. Biên Hoang là nơi ông trời tạo ra cho những người có bản lĩnh, triết lý và pháp quy để sinh tồn ở đó không giống bất kỳ vùng đất nào trên cõi đời này.

    Tập 1



    MỤC LỤC [−]

    1. Vung roi quất xuống nước
    2. Ngàn cân treo sợi tóc
    3. Thoát nạn trong gang tấc
    4. Hùng tài đại lược
    5. Các pháp các sư
    6. Hoang thiên đại pháp
    7. Trại đêm nấu rượu
    8. Xà huyết mỹ nhân
    9. Thái bình ngọc bội
    10. Hoạn nạn chân tình
    11. Hung hoài đại chí
    12. Tần Hoài chi nguyệt
    13. Thiếu mất một chút
    14. Hiểm tử hoàn sinh
    15. Tỵ nạn chi sở
    16. Di Lặc dị đoan
    17. Vì họa được phúc
    18. Dị đoan tà thuyết
    19. Liễu ám hoa minh
    20. Ngư mục hỗn châu
    21. Hoàn thành nhiệm vụ
    22. Phá vây thoát thân
    23. Chia đường chạy
    24. Ơn tri ngộ
    25. Tiêu Dao yêu giáo
    26. Tiêu Dao Đại Đế
    27. Ngự long chi quân
    28. Ánh mắt động lòng người
    29. Biệt vô thoái lộ
    30. Đồng hồ Đan kiếp
    31. Đệ kế huynh vị
    32. Đại chiến tiền tịch
    33. Phì Thủy chi chiến
    34. Phì Thủy lưu tuyệt
    35. Phe tề mạc cập
    36. Tham tao yếu hại
    37. Đan kiếp chi nạn
    38. Hỏa băng dị tượng
    39. Nam Bắc song hùng
    40. Tống quân thiên lý
    41. Kiếp hậu dư sinh
    42. Tránh trát cầu tồn
    43. Di Lặc nam lai
    44. Minh tranh ám đấu
    45. Sĩ thứ chi biệt
    46. Phi lai hoanh họa
    47. Thiết xỉ thống hận
    48. Thời bất ngã dữ
    49. Lộ chuyển phong hồi
    50. Tam thiên chi ước
    51. Thiên hạ cô bổn
    52. Bất hoài hảo ý
    53. Huyền công sơ thành
    54. Ý trời khó lường
    55. Tự nhiên chi đạo
    56. Dĩ nhãn hoàn nhãn
    57. Nữu chuyển càn khôn
    58. Đại nhậm lâm thân
    59. Giai nhân hữu ước
    60. Tần Hoài chi mộng
    61. Danh kỹ bản sắc
    62. Vô địch tổ hợp
    63. Âm thần Dương thần
    64. Thống nhất chi mộng
    65. Biên Hoang kinh biến
    66. Sơ thí đề thanh
    67. Dã hỏa vãn yến
    68. Phong hổ long vân
    69. Tối giai vũ khí
    70. Biên Hoang chi dạ
    71. Dạ Oa phong tình
    72. Biến hóa hoành sinh
    73. Thiên kim tán tận
    74. Giai nhân hữu ước
    75. Động thiên phúc địa
    76. Công khai khiêu chiến
    77. Đại địa phi ưng
    78. Linh thủ khước địch
    79. Giang hồ thủ đoạn
    80. Ngoan cường đối thủ
    81. Đại địch đương đầu
    82. Biên Hoang tầm mộng
    83. Truy Hung đại kế
    84. Hữu nguy hữu cơ
    85. Thản thành hợp tác
    86. Người tình như mộng
    87. Kỳ nhân chi đạo
    88. Quyền lực du hí
    89. Vĩnh viễn khai thủy
    90. Hội nghị lầu chuông
    91. Thủ danh cố khách
    92. Siêu cấp thần bộ
    93. Nhất lộ thuận phong
    94. Đại kế trừ yêu
    95. Thiên sư Tôn Ân
    96. Chiến vân mật bố
    97. Sát thân họa nguyên
    98. Hoa Yêu thật giả
    99. Ái tình du hí
    100. Dạ Oa chiến sĩ
    101. Trừ yêu hành động


    Hồi 1

    Vung roi quất xuống nước
    Ở giữa vùng Hoài Thủy và Tứ Thủy, có một dải đất lớn hoang phế, trải dài hàng trăm dặm, toàn thành tan làng nát, quang cảnh như địa vực, người Hán ở phương Nam gọi nó là Biên Hoang, còn người Hồ ở phương Bắc gọi là Âu Thoát.

    Tên gọi tuy kỳ dị, nhưng nhất định là một vùng độc nhất vô nhị thời bấy giờ. Nó vừa là nơi phơi xác lương dân, vừa là nơi những kẻ lưỡi đao nhuốm máu chen nhau cướp lấy; nguy hiểm tuy đầy rẫy, nhưng cơ hội cũng trùng trùng; là nơi anh hùng hào kiệt chết không có đất chôn, cũng là võ đài cho những kẻ bạt mạng liều lĩnh thành danh lập nghiệp; càng là một vùng đất lý tưởng để chính quyền các nơi tiến hành những vụ ngoại giao bí mật. Lúc này nó có thể là Đào Nguyên thời loạn, lúc khác lại biến thành địa ngục Tu La giữa trần gian. Không có nơi nào đáng sợ hơn Biên Hoang, nhưng cũng không có nơi nào khác đáng yêu như nó. Biên Hoang là nơi ông trời tạo ra cho những người có bản lĩnh, triết lý và pháp quy để sinh tồn ở đó không giống bất kỳ vùng đất nào trên cõi đời này.

    Sự tồn tại kỳ lạ của Biên Hoang có một lịch sử lâu đời và nhiều nhân tố khách quan, mỗi đoạn sử chương đều được viết bằng máu của những chiến binh và nỗi lầm than của dân chúng.

    Từ khi tôn thất nhà Hán sụp đổ, hào kiệt các nơi nổi dậy, chiến sự kéo dài lan rộng triền miên, sản xuất đình trệ dẫn đến nạn đói, cái ác hoành hành khiến miền trung thổ vốn dĩ đã phát triển được nghìn năm bỗng chìm vào cảnh xương trắng phơi ngoài nội, ngàn dặm không có một ánh lửa thổi nấu.

    Thời Tam Quốc, nước Ngô của họ Tôn và nước Ngụy của họ Tào, mỗi lần chiến sự hầu hết đều bạo phát ở vùng Hoài Tứ, khiến cho thành quách nơi đây bị phá hủy, đồng ruộng hoang hóa, nhân dân lưu lạc bốn phương, nhà cửa bỏ trống không ai ở, hàng trăm dặm lạnh ngắt không một bóng người.

    Đến khi họ Tư Mã nhà Tây Tấn thống nhất thiên hạ, dân cư vùng này lẽ ra đã được sống vui vẻ, đáng tiếc loạn Bát Vương, họa Vĩnh Gia theo nhau bùng phát, ngũ đại Hồ tộc là Hung Nô, Tiên Ti, Khương, Đê, Hạt hợp nhau nổi dậy chống Tấn, tạo một cơn phong bạo lớn trong lịch sử, lại làm cho trung thổ thêm tàn tạ. Đến khi Hoài Mẫn nhị đế của nhà Tấn phải đào vong, tôn thất nhà Tấn bị bức dời qua Nam, hình thành cục diện

    Nam Bắc đối lập, vùng Hoài Tứ vẫn là một hung địa chiến tranh, chịu nhiều thiệt hại nặng nề nhất. Hoài Thủy và Tứ Thủy trở thành biên giới bất thành văn của chính quyền Nam Bắc triều, Biên Hoang chính là "vùng đất không có người" nằm ở biên giới đó.

    Tình trạng đặc biệt của Biên Hoang được tạo nên trong một hoàn cảnh như vậy.

    Đối với những người Hồ xuất thân từ dân du mục phương Bắc, theo tập tục tất phải chừa một khoảng cách gọi là Âu Thoát ở nơi giáp ranh giữa hai tộc, coi như vùng tạm hoãn xung đột, những lúc nhàn sự hai bên Hồ và Hán đều không được xâm nhập, cấm chỉ với cả khách vãng lai, ngược lại sẽ coi như khơi bờ gây chuyện. Còn đối với chính quyền phương Nam, mảnh đất địa đầu này cũng không thích hợp để dân cư trú, chỉ hữu ích khi thực thi chiến lược "thành không nhà trống", ngăn cản vó ngựa Hồ tràn xuống phía Nam. Những lý do ấy khiến cho vùng đất rộng lớn, trải dài hàng trăm dặm dần dần hoang liêu tàn tạ.

    Biên Hoang đã hình thành trong tình hình kỳ quái đặc biệt, được các thế lực Nam Bắc mặc nhiên thừa nhận như vậy.

    Ở trung thổ, Biên Hoang là nơi hoang vu nhất, nhưng điều mâu thuẫn là Biên Hoang Tập - nằm giữa vùng Hoài Thủy và Tứ Thủy, thuộc trung tâm của Biên Hoang, bên bờ tây Dĩnh Thủy - lại chính là vùng hưng vượng nhất của trung thổ. Nó là đầu mối chuyển vận duy nhất giữa Nam và Bắc, là cây cầu thông thương của hai miền, là nơi các thế lực hào cường trong thiên hạ tranh quyền đoạt lợi, là địa bàn hành sự cho những bang hội buôn lậu và làm ăn phi pháp. Chỉ cần bảo đảm được tính mệnh để rời khỏi đây, bất luận là thương nhân, kỹ nữ, thợ thầy, hay bất kỳ ai đều có thể kiếm được số tiền tài nhiều gấp mười lần nơi khác. Điều này khiến Biên Hoang trở thành một địa phương đầy sức thu hút ma quỷ, là vùng mà trời đất tạo nên để dành riêng cho những kẻ có bản lĩnh và tốt số.

    Ở đây, vương pháp không tồn tại. Những kẻ xâm nhập vùng này được gọi là "Hoang nhân", không thuộc nhà Tấn ở phương Nam, cũng không thuộc chính quyền Hồ tộc ở phương Bắc.

    Hạng Thành, tiền thân của Biên Hoang Tập, vốn là một thành đô lớn bị khói lửa chiến tranh làm cho tan phế. Nhiều năm gần đây, Biên Hoang Tập không bị bạo loạn càn quét, sự hưng vượng của nó đạt tới đỉnh cao chưa từng thấy từ trước tới giờ, đáng tiếc một trường chiến tranh hung tàn mờ mịt lại đang manh nha ở phương Bắc, đe dọa tràn qua để xuống phương Nam, trước mắt Hoang nhân đại họa gần bức đến.

    ° ° °

    Phù Kiên, thủ lĩnh Đê Tần, gò ngựa lại trên một mỏm cao, lướt nhìn xuống đội tiên phong khí thế đỉnh thịnh, tinh kỳ phần phật. Đại cử tiến công chỉ còn lại địch thủ cuối cùng - nhà Tấn ở phía Nam, mà mục tiêu của đợt ra quân đầu tiên là Thọ Dương, một trấn có tầm quan trọng chiến lược vùng nam ngạn Hoài Thủy. Cảm xúc phấn chấn đắc ý trong lòng ông ta lúc này, quả thực khó mà diễn tả thành lời.

    Bảy năm về trước, Phù Kiên điều binh khiển tướng phá diệt kình địch là Đại quốc của Tiên Ti, thống nhất phương Bắc dưới vó ngựa sắt của mình. Năm tộc lớn là Hung Nô, Tiên Ti, Khương, Yết, Hán đều cúi đầu xưng thần với Phù Kiên, kết thúc bảy mươi hai năm (tính từ "họa Vĩnh Gia" của Tấn triều khiến tôn thất nhà Tấn phải dời xuống Nam) các bộ tộc tranh giành trục lộc ở tái nội và tái ngoại, ổn định được cục diện hỗn loạn như quần long mất đầu, công nghiệp cái thế chấn động cổ kim. Hiện tại tất cả mọi điều kiện để nam chinh đã hội đủ, hai châu Lương, Ích của nhà Tấn và một trấn quan trọng là Tương Dương đều đã lọt vào tầm kiểm soát của Phù Kiên, khả năng thống nhất thiên hạ sắp đến lúc có thể thò tay là nắm được, còn ai đủ lực đứng ra tranh cường với ông ta đây?

    Chuyến này tiến quân xuống phương Nam, Phù Kiên cho thân đệ là Phù Dung làm soái, đại tướng Mộ Dung Thùy và Diêu Trường làm phó, xuất động sáu mươi vạn bộ binh, hai mươi bảy vạn kỵ binh, ngoài ra còn có tám vạn thủy sư từ Ba Thục xuôi dòng Trường Giang và Hán Thủy xuống phía đông, phối hợp tác chiến, thực lực đủ để nghiến nát bất kỳ sự kháng cự nào của quân Tấn vốn tướng ít binh thưa.

    Phù Kiên năm nay bốn mươi lăm tuổi, thân thể khang kiện của người vốn quen dãi dầu nắng mưa nơi tái ngoại, sinh lực sung mãn, khuôn mặt vuông vức, râu ria lởm chởm xồm xoàm quanh miệng, kết hợp với sống mũi cao và cặp mắt sâu, diện mạo thật nổi bật, ngồi trên lưng ngựa tràn đầy khí độ quân chủ. Lúc này ông đang ngưng thần vọng về nơi xa, mắt lấp lánh sáng, tựa như đã nhìn thấy trước cái suy sụp thất thế của nhà Tấn, thê thảm bại vong dưới bước tiến của đạo quân hùng sư liên hợp các bộ tộc Hán, Đê, Khương, Tiên Ti và Yết của ông.

    Mười mấy viên tướng lãnh quây quanh bên trái bên phải, sau lưng Phù Kiên như chúng tinh ủng nguyệt, đại diện cho những nhân vật lãnh tụ kiệt xuất nhất của các bộ tộc Bắc phương, một lòng theo ông thực thi chính sách "hợp nhất tứ hải", là thành quả kiêu hãnh mà ông luôn lấy làm tự hào, khiến cho sự hưng khởi cường thịnh trước mắt đây trở thành sự thực. Trước kia, người thất bại trong chiến tranh luôn khó thoát khỏi cảnh thê thảm vong quốc diệt tộc, nhưng đến lượt mình, Phù Kiên khéo léo đối đãi với những kẻ đã rơi vũ khí, mỗi lần diệt một nước, ông đều ban quan hàm cho quân thần ở đó, lại ra lệnh cho những bộ thuộc thống lĩnh cũ duy trì "vương đạo". Đối với Phù Kiên, đó là phương pháp đối nhân xử thế tất yếu trong việc thống nhất thiên hạ.

    Trong số tướng lãnh ấy, người có thanh danh nhất là viên đại tướng đang đứng hàng đầu bên trái ông, Mộ Dung Thùy tộc Tiên Ti. Người này võ công cái thế, tay cầm cây thương Bắc Bá quán thế vô địch, là một thống soái tung hoành bất bại trên chốn sa trường. Y tập hợp dưới tay nhiều chiến binh Tiên Ti kiêu dũng thiện chiến, đã lập được vô số công lao hãn mã, uy chấn cả vùng tái nội và tái ngoại. Thu dụng được y là phúc khí lớn nhất của Phù Kiên, nếu không đó sẽ là một đối thủ vô cùng đáng sợ.

    Mộ Dung Thùy kém Phù Kiên mười tuổi, thân hình hùng vĩ như núi, cao hơn Phù Kiên ít nhất nửa cái đầu, diện mạo tuấn vĩ, mái tóc dài đen nhánh phủ xuống vai, một vòng sắt bọc quanh trán, cặp mắt có thần, sâu thẳm không đoán được, lưng thẳng, thân hình toát ra khí thế bức nhân uy nhiếp chúng sinh, như một ma thần từ âm phủ hiện lên giữa chốn trần gian.

    Bên phải Phù Kiên là Diêu Trường, mãnh tướng của Khương tộc, thanh danh chỉ xếp sau Mộ Dung Thùy, tuy tướng ngũ đoản, thấp hơn người thường đến một khúc, nhưng cổ to lưng dày, mặt như sắt đúc, cái đầu báo đặc biệt lớn, cặp mắt lấp lánh như chuông đồng, lại thêm đôi huyền thiết đoản mâu nặng cỡ năm mươi cân, chẳng ai còn dám xem thường y. Hiếm người nào có thể chịu đựng được hậu quả của việc đó.

    Những tướng lĩnh khác thì mỗi người một dạng, nhưng đều dẻo dai dũng mãnh, đã trải qua bao sóng to gió lớn của chiến trường.

    Phù Kiên thu ánh mắt, nhìn lướt hai bên trái phải, khóe môi phớt một nụ cười, nhận xét với đôi chút trào lộng: "Người ta nói An Thạch bất xuất, tương như thương sinh hà? Hiện tại An Thạch đã ra mặt, lo việc quân chính cho Tư Mã Diệu, để xem lão có thể biến hóa đến mức nào trong bàn tay trẫm?".

    Đại tướng Lữ Quang của Đê tộc đang đứng bên kia Mộ Dung Thùy cười khẩy: "Tạ An đáng gì? Thần xem bất quá cũng thuộc hạng như Ân Hạo, tự xưng phong lưu danh sĩ, những chuyện đạo giáo thì không ai nói lại, nhưng đối với chiến trận sa trường cùng lắm chỉ biết vuốt ve thanh kiếm". Lữ Quang có ngoại hiệu "Long Vương", kể về công phu dưới nước thì được xưng tụng là quán quân Hoàng Hà, binh khí sử một đôi Hồn Thủy Thích.

    An Thạch là tên gọi khác của Tạ An, tể tướng nhà Tấn ở phương Nam, được tôn xưng đệ nhất danh sĩ Trung Nguyên, nhưng ẩn cư ở Đông Sơn mười sáu năm, từ chối con đường hoạn lộ, nên mới có câu "An Thạch bất xuất, tương như thương sinh hà", hàm ý bộc lộ sự kỳ vọng và ngưỡng mộ của người Tấn đối với ông ta. Ân Hạo cũng là một danh sĩ đức cao vọng trọng của Đông Tấn, tuy học đủ năm xe sách, nhưng không hiểu quân sự, không tự lượng sức cũng mon men nối bước những danh tướng nhà Tấn như Tổ Địch,

    Dữu Lượng, Dữu Dực dẫn quân bắc phạt, sau thảm bại quay về, vừa phụ tiếng thơm danh sĩ, vừa chuốc lấy sự đả kích của người trong thiên hạ. Lữ Quang coi Tạ An như Ân Hạo, đó cũng là thái độ chung của các tướng lĩnh Hồ tộc, khinh khi và xem thường loại danh sĩ tự nhận thanh cao như Tạ An.

    Chư tướng nhao nhao phụ họa, phấn hứng vô cùng, duy chỉ có Mộ Dung Thùy và Diêu Trường thì im lặng không nói gì hết.

    Phù Kiên thấy lạ, chau màu hỏi với vẻ không vui: "Hai vị khanh gia phải chăng có suy nghĩ khác? Mau nói thật với trẫm!".

    Diêu Trường nghiêm túc bẩm lên: "Tôn thất Tấn tuy yếu, nhưng chỗ dựa là Trường Giang hiểm trở, Giang Nam trù mật. Ngày nay chúng ta dẫn quân xuống, người phương Nam nhất định sẽ đoàn kết một lòng, nên thần chưa dám khinh địch".

    Phù Kiên lạnh lùng, ngạo mạn nói: "Người phương Nam xưa nay ăn trắng mặc trơn, chìm đắm trong hoan lạc, không chuyên cần võ bị; lại thêm sự khuynh loát lẫn nhau giữa thế gia đại tộc thiên di về Nam và các thế tộc lâu đời ở bản địa, cho dù thấy quân đến dưới thành nên đoàn kết, cũng đã quá muộn rồi. Còn cái gọi là thế hiểm của Trường Giang, với bách vạn hùng sư của chúng ta, chỉ cần quật roi xuống nước là đủ ngăn dòng chảy. Mấy tên oắt con phương Nam đó, có đáng nhắc đến không?".

    Bọn họ đều nói tiếng Hán, thời ấy là ngôn ngữ thông dụng thịnh hành nhất, không một thổ ngữ Hồ tộc nào sánh bằng, là ngôn ngữ chính thức để chứng minh cho thân phận cao quý trong các dân tộc. Đê Tần là quốc gia bị Hán hóa sâu sắc nhất trong các tộc người Hồ, Phù Kiên luôn cho mình là hiểu biết tôn chỉ "vương đạo" của Nho gia còn hơn người Hán, thường cảm khái "đã ổn định bốn phương, duy có vùng đông nam chưa nhiễm vương hóa", hiện tại cuối cùng cũng đã đến thời khắc lịch sử để trừ bỏ mối di hận ấy.

    Khi Phù Kiên đưa mắt nhìn Mộ Dung Thùy, viên đại tướng võ công và binh pháp kiêm toàn đệ nhất phương Bắc ấy bình thản thưa: "Binh lực của người phương Nam đúng là kém xa chúng ta, nhưng do Tạ An một tay ráo riết thành lập. Bắc Phủ binh, do cháu ông ta là Tạ Huyền đôn đốc huấn luyện, tuy không quá mười vạn quân, nhưng không thể xem thường, mong chúa thượng minh xét".

    Phù Kiên gật đầu tán thưởng: "Nói hay lắm, Tôn Tử có viết: biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng. Bắc Phủ binh sớm đã nằm trong dự tính của trẫm, chuyến này chúng ta xua quân xuống thẳng đô thành Kiến Khang của người phương Nam, họ chỉ có hai chọn lựa, một là phải lao ra dốc hết sức quyết chiến, một là đóng cửa thành tử thủ. Mà bất luận lựa chọn thế nào, cũng đều không còn hy vọng. Trẫm nén lòng chờ đợi nhiều năm

    nay, đến lúc này thần phục Bắc cương, lại lo lắng bị tập hậu, mới dốc hết lực lượng, dùng binh uy áp đảo, quyết một trận nghiến nát giấc mộng dẹp yên của bọn Tư Mã Diệu, Tạ An. Còn Tạ Huyền tuy được xưng tụng là đệ nhất kiếm thuật đại gia của phương Nam, thượng thượng phẩm cao thủ trong hàng ngũ cửu phẩm, đáng tiếc kinh nghiệm hành quân tác chiến còn non kém, có thể chiến thắng nhiều trận đều là do chưa gặp qua cường địch. Trong hàng ngũ tướng lĩnh của Nam Triều, chỉ có Hoàn Xung còn tạm coi là một nhân vật, thừa hưởng được mấy phần bản lĩnh của người cha là Hoàn Ôn, đáng tiếc lại bị trẫm kềm chế ở Kinh Châu, đành tử thủ Giang Lăng, không cựa quậy gì được nữa".

    Rồi ông gọi lớn: "Chu khanh gia, trẫm nói vậy khanh thấy thế nào?".

    Một Hán tướng đứng ở hàng cuối cùng, tên là Chu Tự nghe gọi giật mình, vội vàng ứng tiếng: "Chúa thượng thông hiểu tình hình phương Nam, mọi việc đều nắm rõ trong lòng bàn tay, vi thần bội phục sát đất".

    Chu Tự vốn là đại tướng của nhà Tấn, bốn năm trước trấn thủ Tương Dương, thất bại đầu hàng, được Phù Kiên trọng dụng, Phù Kiên cũng thông qua y tìm hiểu cặn kẽ phân bố, điểm mạnh điểm yếu của binh lực Nam Triều. Nhưng đó là chuyện bốn năm về trước.

    Phù Kiên ngửa mặt lên trời cười dài, thần tình đắc ý vô cùng, một luồng tráng chí trào thấu tâm can: "Chu khanh gia yên tâm, trẫm xưa nay tiến hành chuyên chính theo vương đạo, lấy đức thu phục lòng người, coi bốn bể là một nhà, tuyệt không lạm sát dân tình vô tội. Bình định được phương Nam rồi, người của Nam Triều sẽ được cân nhắc sử dụng, Tư Mã Diệu có thể làm Thượng thư Tả bộc xạ, Hoàn Xung làm Thị trung, Tạ An thì có thể giữ chức Lại bộ Thượng thư, dựa theo cách chia xếp cửu phẩm của họ, trẫm sẽ chọn được chỗ sử dụng người hiền".

    "Xoẹt!".

    Phù Kiên tuốt bội kiếm, trỏ thẳng vào vầng triêu dương vừa nhô lên từ đường chân trời ở phương đông, sau đó nhích dần kiếm sang hướng nam, chỉa về phía đô thành của nhà Tấn, thét lớn: "Quân ta tất thắng!".

    Chúng tướng nhao nhao tuốt binh khí, Diêu Trường gõ chéo cặp đoản mâu, tiếng kim loại giao nhau vang lên chát chúa nhất tề rầm rầm hưởng ứng.

    "Đại Tần tất thắng! Đại Tần Thiên Vương vạn tuế!", tiếng tung hô thoạt tiên vang lên từ đám thân binh đứng xung quanh hộ vệ, tiếp theo lan ra cả bình nguyên Tứ Thủy, dập dồn như tiếng triều lên với sự hô ứng của đoàn quân hàng vạn chiến binh.

    Trải dài bất tuyệt, đằng trước không thấy hàng đầu, đằng sau nhìn không hết đội ngũ, đại quân Đê Tần được tập hợp từ các binh chủng, rầm rập tỏa về hướng Hoài Thủy, đợi đến lúc họ công hãm Kiến Khang Thành, Hán tộc ở Trung nguyên sẽ mất đi căn cứ địa cuối cùng, toàn bộ sẽ chìm vào vòng nô lệ mất nước, biến thành thần dân bị ngoại tộc xâm lấn thống trị.

    ° ° °

    Đô thành Kiến Khang của nhà Tấn, tọa lạc ở nam ngạn vùng hạ du Trường Giang, chẹn cứng lấy cửa khẩu dẫn ra biển, là trung tâm quân sự, chính trị và kinh tế quan trọng nhất của khu vực này. Ngoài ra, nó còn là yếu địa giao thông then chốt của cả đường sông, đường bộ và đường biển, là thành thị chuyển vận đường thủy và đường bộ giữa hai miền nam bắc.

    Kiến Khang nằm trên rẻo đất cao của Kê Lung Sơn và Phúc Chu Sơn, phía đông nam nối sang bình nguyên Thái Hồ và lưu vực sông Tiền Đường bằng phẳng rộng lớn, đất đai phì nhiêu trải dài ngàn dặm. Trường Giang bắt nguồn từ hướng tây nam lượn qua thành quách chảy về phía đông bắc, Tần Hoài quanh co uốn khúc từ phía nam đổ vào Trường Giang, địa hình hiểm hóc, ưu việt, có thế rồng cuộn hổ ngồi. Diêu Trường nhận xét "Trường Giang hiểm yếu, Giang Nam trù phú", thực không phải lời nói giả.

    Khi Tây Tấn bị Hung Nô tiêu diệt, Lạc Dương biến thành vùng đất cháy xạm tro tàn, thì Tư Mã Duệ, tằng tôn của Tư Mỹ Ý hoàng đế khai quốc nhà Tấn, đang trấn thủ đô thành Kiến Nghiệp - đô thành được xây dựng bởi Tôn Quyền thời Tam Quốc, nắm đại quyền quân chính ở Dương Châu, Giang Nam. Phương bắc chìm trong tang tóc, Tư Mã Duệ dưới sự phò trợ của bọn Vương Đạo, Vương Quách lưu vong sang phía nam, tự lập làm Tấn Vương ở Kiến Nghiệp, năm sau đó xưng đế. Đến thời Tấn Mẫn Đế, chính thức đổi tên Kiến Nghiệp thành Kiến Khang.

    Kiến Khang Thành chu vi hai mươi dặm mười chín bộ, ngoại vi có một loạt các thành thị như Đông Phủ Thành, Thạch Đầu Thành và Chu Dương Quận Thành, hình thế to lớn, như đám sao vây quanh mặt trăng, tạo nên một quần thể thành thị với Kiến Khang là trung tâm. Đặc biệt Thạch Đầu Thành, nằm ở thượng du phía tây Kiến Khang, là một ấp lũy quân sự kiên cố, vai trò như thần hộ vệ, nếu không công hãm được Thạch Đầu Thành, đừng nghĩ đến chuyện làm tổn hại một mảy may của Kiến Khang.

    Khi đoàn quân Đại Tần của Phù Kiên tiến nhập khu vực Biên Hoang ở Hoài Tứ, tướng quân Hồ Bân của nhà Tấn, đang đóng chốt ở trọng trấn Thọ Dương vùng nam ngạn Hoài Thủy, liền nhận được phi cáp truyền thư của thám tử tiền tuyến đã cài sẵn trà trộn trong Biên Hoang Tập, biết được bách vạn đại quân của Đại Tần, đang vượt qua Hoài Thủy tiến thẳng tới đây.

    Biên Hoang Tập là vùng mà tin tức nhanh chóng nhất, hai miền nam bắc dù có chút gió lùa cỏ động, bất luận là sự thực hay đồn đãi, đều được truyền ra đầu tiên ở đó. Lâu dần hình thành một tổ chức gọi là "Phong Mai" chuyên môn buôn bán tin tức, người làm "Phong Mai" phải tinh thông ngôn ngữ các dân tộc, tư chất nhạy bén, biết phân tích độ khả tín của nguồn tin, không phải là hình thức làm ăn mà ai cũng nhào vào được.

    Hồ Bân nhận được tin thất kinh, sau khi kiểm chứng kỹ càng, lập tức phi báo về Kiến Khang, nhấn mạnh điều này có liên quan đến sự sinh tử tồn vong của tôn thất nhà Tấn. Tấn Đế Tư Mã Diệu kinh hoảng đến mức hồn bất phụ thể, lại sợ tin tức truyền ra khiến lòng người hoang mang, quần thần đào vong, vội vàng mật triệu ba vị trọng thần là Tạ An, Vương Thản Chi, Tư Mã Đạo Tử, vào Thân Chính Thất trong nội đình Kiến Khang để thương nghị đại kế giữ nước.

    Tạ An làm Trung Lang Lệnh cho nhà Tấn, là nhân vật ngồi ghế thứ hai dưới Tư Mã Diệu, tổng quản triều chính, năm nay sáu mươi tư tuổi, thời trẻ có ra làm quan một dạo ngắn, sau lui về ở ẩn tại Đông Sơn, mãi đến năm bốn mươi tuổi dưới sự thiên hô vạn hoán bắt đầu xuống núi, kế thừa chính sách an dân "Trấn chi dĩ tĩnh" của Thừa tướng khai quốc là Vương Đạo, khiến cho đất nước yên ổn. Tạ An cùng với đại tướng Hoàn Xung, một văn một võ, là hai cột trụ lớn của triều đình, được gọi là "Giang Tả Vĩ Nhân".

    Lúc này nhà Tấn chỉ còn nắm quyền kiểm soát ở vùng hạ du Trường Giang và lưu vực Dân Giang, Châu Giang, trong đó hai châu Kinh, Dương, cả về hai mặt quân sự và chính trị đều có tầm ảnh hưởng rất lớn.

    Dương Châu là tiền trạm ở mặt bắc kinh đô Kiến Khang, tầm quan trọng của nó không nói cũng biết. Kinh Châu nằm trên trung du Trường Giang, hình thế hiểm yếu, cũng là một trọng trấn chiến lược ở mặt tây của nước Tấn. Thứ sử Kinh Châu lại kiêm quản luôn việc quân sự của các châu phụ cận, để ứng phó với rợ Hồ hung mãnh ở phương Bắc, do vậy dưới tay y là đất rộng binh cường. Phàm những người nhậm chức thứ sử Kinh Châu, thường có thực lực phân quyền mạnh mẽ nhất. Vì vậy dưới thời nhà Tấn, thế lực trung ương và địa phương đấu tranh ngang ngửa, phần lớn là có liên quan đến việc tranh chấp Kinh Châu và Dương Châu. Kinh Châu đời trước do Hoàn Ôn chủ sự, quyền nghiêng triều dã. Cũng may Hoàn Xung hiện nay, tuy là con trai của Hoàn Ôn, nhưng không có dã tâm như cha, Kinh, Dương dần dần đi vào ổn định. Trong ba người

    mà Phù Kiên xem trọng, ngoài Tấn Đế và Tạ An, còn tính thêm cả Hoàn Xung, qua đó có thể thấy được phần nào vai trò của y.

    Tể tướng Tạ An, người được xưng tụng là đệ nhất danh sĩ đương thời, tuy đã hơn sáu mươi, nhưng tướng mạo tinh anh, thâm trầm, linh hoạt và tuấn lãng, tay cầm quạt lông vũ, dáng vẻ như Gia Cát Võ Hầu tái thế, râu dài năm nhánh, thân hình cao lớn, phong tư tiêu sái ung dung, cô ngạo bất quần.

    Vương Thản Chi là con trai Thừa tướng Vương Đạo, giữ chức Tả tướng, là đại thần có vai trò quan trọng nhất, ngoài Tạ An, ở triều đình Kiến Khang. Năm nay năm mươi hai tuổi, luận về tướng mạo thì kém xa Tạ An, lại thêm nỗi thấp lùn, tóc đã điểm bạc, cũng may khuôn mặt thường tươi cười, giọng nói điềm đạm rõ ràng, cằm dày và đầy đặn, béo nhưng không phệ phạc, vẫn có tư thái tự tin và cởi mở của thế gia vọng tộc, không gợn chút hiềm khích.

    Hai họ Vương, Tạ là thế gia đại tộc nổi danh nhất vùng Giang Tả. Từ khi tôn thất nhà Tấn thiên di về Nam, họ càng hết lòng phò tá, thay nhau nắm giữ các vị trí cốt cán trong triều đình. Nhà Tấn chủ trương ‘tìm người hiền không ngoài thế tộc, dụng tài năng không đâu bằng quyền quý’, khiến hai họ Vương, Tạ càng như cá gặp nước, càng được trọng vọng tôn sùng. Trúc môn đi lại với trúc môn, hai gia tộc xưa nay quan hệ vốn thân thiết, lại dựa vào nhân duyên để thắt chặt thêm tình cảm, cùng nhau phụ giúp việc triều chính.

    Tư Mã Đạo Tử là thân đệ của Tấn Đế Tư Mã Diệu, được công nhận là đệ nhất nhân tài của vương tộc, đứng trong danh sách "cửu phẩm cao thủ", hiện đang giữ chức Lục Thượng thư lục điều sự, tổng quản các bộ phận lo việc triều chính, quyền chức lớn đủ để kềm chế Tạ An, là một quân cờ do hoàng tộc đặt ra để giám sát Tạ An, vì vậy từ xưa đến nay quan hệ giữa y và ông ta không được tốt.

    Tư Mã Đạo Tử năm nay ba mươi tám tuổi, thân hình dài mà gầy, sống mũi thẳng đứng như cái quản bút, trên mép để ria, mái tóc dày rậm, mình mặc võ phục, tướng mạo cân đối, tràn đầy khí độ cao quý của hoàng tộc. Chỉ có đôi mắt thỉnh thoảng híp lại như hai rãnh hẹp, để lộ bản chất lãnh khốc vô tình trong tim. Bên hông y đeo thanh trường kiếm Vong Ngôn, là vũ khí sắc bén nhất và đáng sợ nhất của vương tộc, trong thành Kiến Khang, ngoài Tạ Huyền và con trai của Vương Thản Chi là Vương Quốc Bảo ra, không có ai xứng mặt địch thủ.

    Thân Chính Sảnh là nơi xử lý sự vụ của Tư Mã Diệu trong nội đình, hội nghị quân sự quan trọng nhất kể từ khi ông ta tự mình khai quốc đã trải qua hai canh giờ. Bên ngoài cung, thân đệ của Tạ An là Tạ Thạch bồn chồn chờ đợi, từ chính ngọ đến lúc

    hoàng hôn, mới thấy Tạ An ung dung đi ra, nét mặt vẫn một vẻ tự nhiên nhàn nhã, nhưng Tạ Thạch xưa nay hiểu rõ con người Tạ An, đã nhanh chóng nắm bắt thần tình bối rối trong ánh mắt huynh trưởng. Y chưa từng thấy Tạ An như thế bao giờ, có thể ức đoán buổi thương nghị đã diễn ra trong không khí nặng nề và gay gắt.

    Tạ Thạch tiến lên đón. Tạ An thoắt đứng sững lại, trầm giọng nói: "Tìm Tạ Huyền về đây cho ta!".

  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 2

    Ngàn cân treo sợi tóc
    Hạng Thành để lại cho Biên Hoang Tập, ngoài những bức tường đổ nát, những hào và sông hộ thành bị san bằng, thì chỉ có một gác chuông lớn, cao đến mười lăm trượng nằm ở trung tâm thị tập, trong gác còn bỏ lại chiếc chuông đồng, giống như một dấu tích thần thánh.

    Có hai con đường lớn giao nhau và chạy xuyên qua dưới gác chuông, tỏa ra bốn nhánh chính từ gác chuông đến bốn cửa Đông Nam Tây Bắc, tên gọi lần lượt là Đông Môn Đại Nhai, Nam Môn Đại Nhai, Tây Môn Đại Nhai và Bắc Môn Đại Nhai, những nhánh con khác, từ bốn nhánh lớn song song tỏa ra. Chu vi thành quây dài mười hai dặm, cũng là một quy mô thành thị khá lớn thời bấy giờ.

    Nhà phố, lầu gác, cửa hiệu trong Tập mới được lục tục xây dựng chừng mười năm trở lại đây, phần lớn là những kiến trúc bằng gỗ và đá thiết kế đề cao sự tiện dụng, trông đơn sơ mộc mạc, nhưng đầy ắp sự đặc sắc về phong cách của các dân tộc cư trú trong Biên Hoang Tập, phản ánh những tập quán sinh hoạt và tín ngưỡng khác nhau.

    Ở Biên Hoang Tập, tất cả lấy lợi ích làm mục tiêu, không có bằng hữu vĩnh viễn, cũng không có địch nhân vĩnh viễn. Sự cừu hận giữa các dân tộc liên tục hằn sâu, nhưng hiện thực lại buộc họ phải chịu đựng, phải thỏa hiệp với nhau, đạt tới một sự cân bằng vi diệu trong hoàn cảnh tuyệt nhiên không ổn định và tùy thời đều có thể sinh biến này.

    Mảnh đất Biên Hoang Tập, chính là sự phản chiếu thu nhỏ tình hình thực tế của trung thổ, với lực lượng mạnh nhất là Đê Bang, kế đó theo thứ tự là Tiên Ti Bang, Hung Nô Bang, Hán Bang, Khương Bang và Yết Bang. Sáu thế lực lớn này, phân chia lợi ích của Biên Hoang Tập.

    Vị thế của Hán Bang có phần đặc biệt, vì là bang hội duy nhất kiểm soát được hàng hóa từ phương Nam lại, những tộc khác cần đến sự hợp tác của Hán Bang mới có thể kinh doanh kiếm lợi. Tuy nhiên vị thế ấy, cùng với sự thảo phạt xuống Nam của Đê Tần, đã hoàn toàn thay đổi.

    Cho dù Đê Bang thế lực mạnh nhất, nhưng bình thời cũng không dám mạo nhiên công kích bất kỳ một bang phái nào, nếu không lưỡng bại câu thương, tất khó tránh khỏi kiếp vận bị trục xuất khỏi Biên Hoang Tập.

    Đừng nghĩ rằng nơi đây chỉ toàn là cường đồ hung hãn. Bốn con đường chính lúc nào cũng phồn thịnh nhiệt náo, nam nữ các tộc chen vai thích cánh, cửa tiệm cửa hiệu các loại san sát hai bên, thanh lâu đổ trường hạng gì cũng có, phạn điếm tửu quán trà thất khách trạm đầy đủ, nhưng nổi danh nhất không ai qua được Biên Hoang Đệ Nhất Lâu nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Hán Bang ở Đông Môn Đại Nhai. Lão bản Bàng Nghĩa kinh doanh sành sỏi, tài nghệ bếp núc siêu quần, đồ ăn thức uống vừa đa dạng, vừa hợp khẩu vị và tập quán ẩm thực của các dân tộc, nhưng nguyên nhân quan trọng nhất, lại nằm ở tuyệt thế giai tửu Tuyết Giản Hương do y tự tay cất lấy, thiên hạ chỉ có chính hãng của y, không đặt phân hiệu.

    Đệ Nhất Lâu là một kiến trúc toàn bằng gỗ hiếm hoi ở Biên Hoang Tập, lầu cao hai tầng, mỗi tầng xếp được khoảng ba mươi cái bàn tròn lớn mà vẫn thông thoáng rộng rãi. Ở tầng trên, mạn gần đường có một ngăn riêng quây giậu gỗ, trong ngăn đặt một cái bàn.

    Lúc này ở tầng hai Đệ Nhất Lâu hoàn toàn vắng vẻ, chỉ có một mình Yến Phi trong ngăn đó, đang tựa vào bàn, một vò một chén, tự rót tự uống, ánh mắt ưu tư dõi xuống Đông Môn Đại Nhai bên dưới.

    Dưới ấy toàn là người Hán đang chen chúc rời khỏi Biên Hoang Tập, từ các đường nhánh cũng liên tục có người ùn ùn đổ ra, nhập vào đám đông tìm đường đào thoát.

    Đông Môn Đại Nhai mới hôm qua vẫn phồn vinh thịnh vượng, giờ đã nhốn nháo tiếng người hét, ngựa hí, lừa kêu và tiếng bánh xe nghiến rào rạo mặt đường. Mọi cửa hiệu đều khóa kỹ, chẳng ai muốn trở thành nô lệ dưới ách Phù Kiên, đành thu nhặt tài vật tế nhuyễn, vội vã rời đi, giẫm đạp trên những ngả đường đào vong mờ mịt không đoán định.

    So với cái ‘động’ bên dưới, thì cái ‘tĩnh’ của Yến Phi tỏ ra khác lạ một cách dị biệt. Thanh bảo kiếm Điệp Luyến Hoa uy nhiếp Biên Hoang, đang nằm trong vỏ, trên bàn, bên tay phải chàng, càng khiến người ta cảm thấy mức dị thường của tình hình. Sự đối sánh giữa ‘động’ và ‘tĩnh’, càng gây căng thẳng trước những bão táp sắp tràn về.

    Tia sáng đầu tiên của ngày xuất hiện nơi chân trời Đông Môn, trên cao mây đen dày đặc, tựa như nung nấu một cơn cuồng phong bạo vũ, khiến trái tim người ta càng thêm trĩu nặng.

    Tin Phù Kiên kéo quân sang vừa bay đến Biên Hoang Tập, ba cửa Nam, Bắc, Tây lập tức bị các tộc khác bịt kín, chỉ còn Đông Môn do Hán Bang kiểm soát là giành để người Hán sơ tán chạy nạn.

    Yến Phi nâng chén lên uống cạn.

    Đã tròn một năm rồi!

    Một năm trước Yến Phi đặt chân lên Biên Hoang Tập, từ một kiếm thủ lặng lẽ vô danh, đến lúc phá xuất danh đường, trở thành một nhân vật không ai dám động tới; từ chỗ chán ghét nơi này, đến chỗ sinh lòng yêu thương nó sâu sắc, tư vị và những khúc mắc bên trong, người ngoài không tài nào biết được. Thoạt đầu, chàng tuyệt không quen nổi cái thị tập trắng trợn xé bỏ mọi thứ ngụy trang, người người bất chấp thủ đoạn vì mình mà tranh ích đoạt lợi này. Nhưng dần dần, chàng nhận ra cho dù trong hoàn cảnh ác liệt ti tiện như vậy, nhân tính vẫn còn le lói. Hiện tại thế cân bằng giữa các lực lượng ở Biên Hoang Tập đã bị sự xuất hiện của Phù Kiên triệt để phá hoại, trong lòng chàng bất giác cảm thấy mịt mờ.

    Tất cả của tất cả, quá khứ, hiện tại và tương lai, đã mất hết mọi ý nghĩa, chỉ vì tình cảnh rối loạn khiến người ta lo lắng bất an này!

    Chàng mơ hồ nhận thấy những ngày tháng trân quý nhất cuộc đời mình đã tan thành mây khói theo sự hung tàn của cuộc chiến tranh mù trời nam bắc. Bất luận cuối cùng hươu chết về tay ai, thiên hạ cũng không thể là cái thiên hạ của ngày xưa nữa. Tuy thiên hạ trước đây chẳng phải là có nhiều thứ đáng để lưu luyến, nhưng cơn ác mộng đang tới càng khiến người ta khó mà chịu đựng nổi.

    Tiếng bước chân gấp gáp đi lên thang gác, làm đứt đoạn dòng suy nghĩ dập dồn của Yến Phi. Không cần ngoảnh đầu lại, chàng cũng biết đó là lão bản Bàng Nghĩa của Đệ Nhất Lâu, qua độ nặng nhẹ của bước chân, chàng đồng thời nhận ra nỗi hoảng hốt và sợ hãi trong lòng đối phương, đó là sự thường tình của con người.

    Yến Phi lãnh đạm nói:

    "Nhớ giành thêm hai vò rượu ngon nữa cho ta, coi như để tạm biệt!".

    Bàng Nghĩa lên lầu hai, xót xa nhìn quanh, ve vuốt một cách nặng lòng cái bàn gần chỗ y nhất, rèm mắt còn kịp thu lấy bóng dáng Yến Phi. Mỗi lần nhìn Yến Phi, y luôn cảm thấy bờ vai rộng ấy có thể chịu được bất kỳ gánh nặng nào, miễn là chàng muốn. Nếu không có Yến Phi tiếp quản nhiệm vụ bảo vệ Đệ Nhất Lâu, Bàng Nghĩa thật không biết phải làm ăn thế nào, tuy quan hệ giữa họ chỉ là làm thuê trả tiền, nhưng y vẫn hết sức cảm kích.

    Yến Phi dường như không nhận thấy Bàng Nghĩa đến gần, kéo ghế xuống ngồi bên cạnh, mắt chàng cứ chằm chằm nhìn xuống đoàn nạn dân đang theo nhau rời khỏi Biên Hoang Tập.

    Bàng Nghĩa là một đại hán vạm vỡ thô hào, mặt đầy râu quăn, y đưa mắt ngó Yến Phi rồi cau mày thắc mắc hỏi: "Sau khi người của Hán Bang đi hết, Quy Noãn Tử bên

    Đê Bang sẽ nói chuyện đạo đức nhân nghĩa với ngươi sao? Hôm kia ngươi mới đánh trọng thương hai người của bọn chúng, đừng làm chuyện ngốc nghếch nữa! Mau cùng chúng ta đi đi!".

    Cặp mắt của Yến Phi lúc đó, như chung đúc linh khí của trời đất, trong trẻo, rõ ràng mà sâu thẳm, bỗng thoáng qua một nét dị thường của hồi ức xa xôi.

    Vùng đất hoang phế trải dài mấy trăm dặm quanh Biên Hoang Tập đấu tranh thù sát vĩnh viễn không ngưng này, đang chứng kiến một kiếp nạn của thời đại. So với nó, cặp mắt Yến Phi quả thực là một dị bẩm tuyệt nhiên khác lạ, khiến Bàng Nghĩa tạm thời quên đi hiện tại lãnh khốc vô tình.

    Không ai rõ xuất thân lai lịch của Yến Phi, chàng tựa hồ đầy rẫy nhược điểm, nhưng người ngoài nhìn vào thường nghĩ chàng hoàn mỹ vô khuyết, bởi thân hình cao lớn đẹp đẽ, đường nét như được tạc từ đá Đại Lý trong suốt óng ánh, và càng bởi khí chất chàng bẩm sinh tự nhiên tiêu sái thoát tục. Có điều nếu đánh giá theo tiêu chuẩn của Bàng Nghĩa, Yến Phi không chỉ lười biếng, thái độ sống tiêu cực, mà còn là một tửu quỷ hoàn toàn, ý chí tiêu tán, không thèm hay biết mình đang lãng phí tuổi thanh xuân. Trong máu Yến Phi có lẽ pha trộn huyết thống người Hồ, nên ở chàng vừa có cái vẻ văn tú của người Hán, vừa mang một chút thô dã hào hùng của dân du mục Bắc phương. Nói tóm lại Yến Phi là một nhân vật xuất chúng, hồi mới gặp chàng Bàng Nghĩa đã không dám coi thường, tự nhủ chàng lăn lộn ở Biên Hoang Tập, làm một tay bảo tiêu thật là phí phạm tài năng.

    Giọng nói thấp trầm, ấm áp mềm mại nhưng rõ ràng của Yến Phi như tiếng trống vụt gõ vào tai Bàng Nghĩa: "Ta còn nhớ huynh từng nói, đừng để nảy sinh tình cảm gì với người và vật ở Biên Hoang Tập... Kiếm đủ tiền rồi là đi xa thật xa, sau đó quên tất cả những việc đã xảy ra ở đây. Chúng ta vốn thỏa thuận từ đầu, huynh cho ta tiền tài, Yến Phi ta thay huynh giải nạn, một bán một mua, hai bên không thiếu nợ gì nhau. Đi đi! Hãy từ từ sống những ngày an lạc, mỗi tối ngủ khỏi phải lo lắng hôm sau Đệ Nhất Lâu có thể bị người ta phá hoại!".

    Bàng Nghĩa cười khổ, thò tay giằng lấy chén Tuyết Giản Hương vừa được rót đầy, uống như đổ rượu vào trong cổ họng, tuyệt vọng nói: "Những ngày an lạc ư? Ôi! Đâu còn nơi nào sống được những ngày an lạc? Người Hán chúng ta không có hy vọng gì nữa rồi. Bàng Nghĩa ta đã mất bao gian khổ từ phương Bắc tháo chạy đến đây, thầm nghĩ ra sức kiếm được đủ tiền, rồi xuống phương Nam thành gia lập thất, an cư lạc nghiệp. Hiện tại tất cả đã hết rồi, Biên Hoang Tập cũng hết rồi, đất đai phương Nam cũng sẽ biến thành hung địa nhân gian sinh linh điêu tàn như phương Bắc, chúng ta đành sống lay lắt cho

    qua ngày đoạn tháng thôi. Ngươi xem ta là huynh đệ hay không không quan trọng, ta chỉ không chịu nổi thấy ngươi bị người ta loạn đao phanh thây, đi đi! Mọi người cùng đi!".

    Yến Phi giơ tay nắm lấy miệng vò, nhưng không nhìn rượu, mà lần đầu tiên đưa mắt sang phía Bàng Nghĩa, mỉm cười nói: "Tin tức tối hôm qua vừa đưa tới, Đê Bang, Hung Nô Bang và Khương Bang đã lập tức tổng động viên, đầu tiên là liên thủ phong tỏa các cảng lớn nhỏ phía đông bắc thị tập, còn tịch thu tất cả thuyền bè đang neo ở bến, đánh bị thương giết chết hơn một trăm người, bức Hán Bang và Hán nhân chỉ có thể chạy trốn theo đường bộ, huynh nghĩ chúng có mục đích gì?".

    Bàng Nghĩa biến sắc: "Quân khốn kiếp! Lẽ nào thấy người ta rơi xuống giếng lại còn ném thêm đá, giết người cướp của?". Y chuyển ánh nhìn xuống dòng người chạy trốn hỗn loạn như sắp phải đối mặt với ngày tận thế, bất giác sinh lòng sợ hãi cho tương lai của bản thân và của bọn họ.

    Yến Phi vẫn giữ thần sắc thong dong du nhàn: "Nhớ mang theo con dao thái rau của huynh, ra khỏi tập rồi chạy thật xa nơi đông người, chọn chỗ hoang vắng hẻo lánh mà đi, có thể giữ được tính mệnh đấy".

    Bàng Nghĩa khí lạnh dội ngược, chằm chằm nhìn dòng người bơ vơ đang chen chật Đông Môn Đại Nhai, kinh hãi hỏi: "Bọn họ biết làm sao bây giờ?".

    Yến Phi nâng vò lên nhìn, cười khổ: "Ta năm nay hai mươi mốt tuổi, lúc còn nhỏ xíu không kể, từ khi lớn lên mắt đã nhìn thấy nhiều chuyện bế tắc, tai đã nghe thấy nhiều chuyện thảm liệt, tất cả chỉ quyết định ở chỗ nắm đấm của ai cứng rắn. Cũng may bây giờ rốt cục ta đã nghĩ thông một chuyện, đó là ta đã đến bước đường cùng muốn tránh cũng không tránh được nữa, lại không thể chỉ cung cúc lo cho bản thân mình. Ta tuy không ưa Tổ lão đại bên Hán Bang, nhưng phải thừa nhận y là một kẻ tinh minh lão luyện giang hồ, y sẽ có cách giúp cho những người được y bảo hộ giảm thương vong tổn thất xuống mức thấp nhất. Thêm nữa ba bang ấy, trước tiên sẽ đi qua Đông Môn do Yến Phi ta trấn giữ. Đừng khuyên can ta nữa, huynh lập tức rời khỏi đây đi, bên mình ta còn thanh kiếm, thì không phải lo lắng gì cả, Yến Phi vẫn có một tia sinh cơ".

    Bàng Nghĩa trong lòng trào lên một cơn kích động, mãi đến lúc này, y mới minh bạch tay kiếm khách xưa nay tựa hồ vẫn vô tình ấy lại dung dưỡng trong lòng những tình cảm cao thượng như vậy, nhất thời y không nói nên lời, chỉ biết há hốc miệng.

    Yến Phi giơ cánh tay phải thuôn dài, sắc da trong như cẩm thạch nắm chặt lấy Bàng Nghĩa, lần đầu tiên trong đời hé một nụ cười sáng bừng như ánh dương, nói: "Ai cũng có quyền lựa chọn vận mệnh cho mình, biết mình đang làm gì không phải là kẻ ngu xuẩn. Huynh đi ngay lập tức, sau khi rời khỏi Tập hãy quên hết mọi việc ở đây,

    đừng nói thêm một lời nào cả. Ha! Huynh cho ta tiền bạc, ta sẽ thay huynh giải trừ tai họa, thỏa hiệp vẫn có hiệu lực".

    Bàng Nghĩa đứng lên buông tay, cúi chào thật thấp: "Ngươi cũng biết rõ là rượu cất ở đâu rồi đấy, lúc cần thiết nó có thể trở thành nơi tránh nạn an toàn cho ngươi". Ánh nhìn lướt qua Điệp Luyến Hoa, hai mắt chợt đỏ lên, bắn ra những tia phẫn oán không nén nổi, rồi cắm cúi lao như bay xuống gác.

    Yến Phi hớp khẽ một ngụm Tuyết Giản Hương, nhìn theo Bàng Nghĩa vai khoác đãy, hòa vào dòng người rời khỏi thị tập, rồi biến mất ngoài cửa đông. Cả dãy Đông Môn Đại Nhai trở nên im lìm như quỷ vực, không còn một dấu vết người.

    Tiếng móng ngựa đột ngột vang lên, từ đầu kia con đường truyền lại.

    Yến Phi uống cạn ngụm rượu còn đọng trong chén, ngước mắt nhìn thinh không đang nặng trĩu mây đen, tựa như đã trông thấy tương lai mạt vận của mình. Sống thì có gì vui vẻ? Mà chết thì có gì đáng sợ?

    ° ° °



    Đô thành Kiến Khang quay mặt về nam. Kiến Khang Cung nằm ở phía bắc thành, cửa nam vào cung là Đại Tư Mã Môn, từ Đại Tư Mã Môn đến Tuyên Dương Môn ở cửa thành chính nam là đoạn ngự đạo dài hai dặm, lại ra khỏi Tuyên Dương Môn đến Chu Tước Kiều ở Tần Hoài là một đoạn ngự đạo dài năm dặm khác, ngự đạo dài tổng cộng bảy dặm ấy, là trục chính xuyên hết Kiến Khang Thành.

    Bên ngoài Đại Tư Mã Môn là một đường ngang rộng rãi chạy về hai hướng đông tây, hướng đông dẫn đến cửa thành phía đông là Liên Xuân Môn, hướng tây dẫn đến cửa thành phía tây là Tây Minh Môn, chia đô thành ra làm hai bộ phận bắc và nam. Bắc là khu cung thành, nam dành cho thượng thư ngự sử của triều đình. Các viện phủ công quyền khác, cùng các khu thương mãi, cư dân, cho chí phủ trạch biệt quán của tể tướng đại thần, đều đặt ngoài thành, chủ yếu phân bố ở hai bên ngự đạo dài năm dặm từ Tuyên Dương Môn đến Tần Hoài. Sau khi Tây Tấn diệt vong, phương bắc hoang tàn bởi khói lửa chiến tranh, Hán tộc rời về nam, dân số có đến hàng trăm vạn người. Nhà Tấn dần dần đặt ra các Kiều quận ở khu vực Kiến Khang, lưỡng ngạn Tần Hoài mỗi ngày một phồn hoa, trong thành ngoài thành tấp nập người phương Bắc tìm đến, khiến Kiến Khang trở nên một thành thị dung hợp phong cách của cả hai miền nam bắc, hết sức nhiệt náo thịnh vượng.

    Chu Tước Kiều còn được gọi là Chu Tước Hàng hay Chu Tước Phù Hàng, là cây cầu chính dẫn từ ngự đạo vượt qua Tần Hoài. Phù Hàng có nghĩa là cầu liền với thuyền, bình thời có tác dụng như một cầu nổi, khi gặp sự biến, tháo thuyền ngắt cầu, lập tức chặt đứt giao thông hai bờ. Phù Kiều như vậy, Tần Hoài có đến hai mươi bốn chiếc, nhưng không có cái nào nổi danh bằng Chu Tước Kiều.

    Nếu Chu Tước Kiều là cây cầu nổi danh nhất của khu vực Kiến Khang, thì hẻm Ô Y, cách đó không xa lắm, bên bờ Tần Hoài, phía đông ngự đạo ngoài cửa Tuyên Dương, khẳng định là con đường danh tiếng nhất, vì thế gia vọng tộc hiển hách của Đông Tấn, là hai nhà Vương, Tạ, đều định cư ở trong ngõ này.

    Hẻm Ô Y lầu son san sát, kèo khắc cột chạm, là cấm nhai trọng địa mà bá tánh tầm thường không được phép bước vào. Ô Y Hào Môn đã trở thành một danh xưng có tính đại diện cho những danh gia hiển hách thời bấy giờ.

    Lúc này một đội nhân mã, ào ào như gió lốc vượt qua Chu Tước Kiều, lên đến ngự đạo liền rẽ sang phải, ngựa không dừng vó phi thẳng vào hẻm Ô Y. Bọn vệ binh canh gác không những không dám ngăn cản, mà còn đứng nghiêm kính cẩn, nét mặt lộ vẻ sùng bái ngưỡng mộ.

    Tạ Huyền mặc bộ võ phục trắng toát, áo choàng đơn sắc xanh, lưng khoác thanh Cửu Vận Định Âm Kiếm danh chấn Giang Tả, cưỡi một con bạch mã lông mượt như tuyết, gương mặt anh tuấn lạnh băng, không để lộ một chút cảm xúc nội tâm nào. Dù là chót vót trên lưng ngựa, thân hình thẳng cao của y vẫn để lộ khí phách phi phàm, tràn đầy sức mạnh và tự tin, giống như một thanh bảo đao chưa tuốt vỏ. Năm nay y vừa tròn bốn mươi tuổi, nhưng bề ngoài tựa hồ chưa quá ba mươi, thần thái bay bổng.

    Phi ngựa bên cạnh là Lưu Lao Chi, viên mãnh tướng số một của Tạ Huyền, giữ chức Tham quân Bắc Phủ binh, tuổi khoảng hai lăm hai sáu. Đằng sau có mười mấy tên tùy tướng, ai nấy vóc dáng mạnh mẽ, đều là những chiến binh tinh nhuệ đã kinh qua chiến trận lâu ngày.

    Tạ Huyền nhận mệnh làm thứ sử Cổn Châu, xuất trấn Quảng Lăng, với sự giúp đỡ của thúc phụ Tạ An, y ra sức chiêu binh ở bờ nam Tần Hoài và bờ bắc Trường Giang. Dân cư Giang Bắc tính tình mạnh mẽ, võ nghệ cao cường, dưới sự huấn luyện sắc sảo của Tạ Huyền, thời gian trôi đi đã trở thành một quân lữ tinh nhuệ, hiệu Bắc Phủ binh. Phù Kiên nhiều lần cho quân xuống nam, Bắc Phủ binh ra mặt ngăn cự, đánh trận nào thắng trận ấy, thanh danh vang dội, vẻ tôn kính của đám vệ binh vừa rồi hoàn toàn không phải là giả bộ.

    Chỉ có điều lần này Phù Kiên thân suất đại quân, nhân số chiếm ưu thế áp đảo, lại có danh tướng như Mộ Dung Thùy phò trợ, cho dù Tạ Huyền võ công trác việt, dụng binh như thần, cũng không có nửa phần chắc chắn là đẩy lui được địch nhân.

    Theo sau Tạ Huyền, đám khinh kỵ phi qua cổng lớn mở toang tiến vào đại quảng trường trước chính điện của Tạ phủ, mười mấy tên gia nhân chạy lại kềm ngựa phục dịch cho từng người.

    Tạ Huyền nhấn vào bàn đạp để bước xuống, Tạ Thạch bước lên đón kinh ngạc hỏi: "Huyền điệt về nhanh quá, tối hôm qua ta mới gửi phi cáp truyền thư cho cháu mà!".

    Tạ Huyền ngạc nhiên: "Cái gì mà phi cáp truyền thư? Ba ngày trước tiểu điệt nhận được tin Phù Kiên Thiên Vương của Đại Tần tiến quân từ Trường An đến Lạc Dương, toán tiên phong đã đặt chân lên Biên Hoang, hướng tiến trực chỉ Kiến Khang, quân lực đạt tới mấy trăm vạn... Do vậy phải lập tức quay về để gặp An thúc".

    Lưu Lao Chi đứng bên Tạ Huyền vội vã thi lễ với Tạ Thạch, Tạ Thạch ân cần nói: "Lưu Tham quân và các huynh đệ đường xa mệt rồi, hãy nghỉ ngơi nhấp ngụm trà nóng trước đi!".

    Liền có tên gia nhân chạy tới dẫn bọn Lưu Lao Chi vào chính điện. Tạ Thạch dắt tay Tạ Huyền, đi vòng qua trước cửa, chậm rãi tiến về hướng thư hiên của Tạ An ở nhà trong, hạ giọng nói: "Chúng ta vội gần chết, nhị huynh lại cứ thong dong thư thả như thường, tối qua mới đến Tần Hoài Lâu ở bên sông để thưởng lãm ca vũ của Kỷ Thiên Thiên, sớm nay chưa tỏ mặt người đã đi du sơn ngoạn thủy ở Tiểu Đông Sơn. Cũng may cháu về rồi, ít nhất có thể hỏi huynh ấy cho rõ ràng minh bạch".

    Tạ Huyền trầm giọng: "Phía triều đình có phản ứng thế nào?".

    Tạ Thạch lộ vẻ bực bội đáp: "Tư Mã Đạo Tử khăng khăng chủ trương cố thủ Kiến Khang, dựa vào sự hiểm trở của Trường Giang, Tần Hoài, lại gợi ý hoàng thượng xa giá qua Tuyên Thành, rõ ràng là muốn thừa cơ bao quát quân quyền, vừa may nhị ca và Vương Tả tướng cực lực phản đối, nhị thúc cháu lại dùng dân ý nhân tâm kích động hoàng thượng... Những chuyện này đều do Vương Tả tướng kể cho ta, còn nhị thúc cháu ngoài câu ‘Tìm Tạ Huyền về đây’ thì chẳng nói bất cứ một điều gì khác".

    Tạ Huyền nghe nhắc tên Tư Mã Đạo Tử, hai mắt lóe lên những tia dữ dội, rồi lại hỏi tiếp: "Nhị thúc kích động hoàng thượng như thế nào?".

    Tạ Thạch đáp: "Nhị thúc cháu nói rất khéo léo, huynh ấy tâu với hoàng thượng rằng: ‘Từ xưa tới nay chỉ có nước hữu đạo đánh vua vô đạo, lần này Tần chúa cậy mạnh tràn đến, vô cớ tấn công Đại Tấn chúng ta, vừa quay lưng lại đạo nghĩa, vừa đánh mất

    lòng tin của dân chúng, binh gia viết ‘Lưỡng quốc giao binh, vô đạo tất bại’, hoàng thượng chỉ cần hiệu lệnh quân dân cả nước, dĩ hữu đạo kháng vô đạo, tất giữ được nước an được dân". Hoàng thượng đương nhiên biết giữa nhị thúc cháu và Tư Mã Đạo Tử ai mới là người được lòng dân, huống hồ Hoàn Xung thượng tướng quân xưa nay không ưa Tư Mã Đạo Tử, Bắc Phủ binh lại nằm gọn trong tay cháu, hoàng thượng cho dù có không muốn, cũng đành phải gia phong nhị ca làm Chinh Thảo Đại đô đốc, để huynh ấy toàn quyền xử lý việc kháng địch".

    Họ đi xuyên qua con đường tắt rải đá, hai bên trồng đầy thúy trúc, tiến vào trung viên nơi đặt thư trai của Tạ An. Đây là một khu rừng nhỏ chủ yếu là trúc và đá, trong vườn có tứ quý giả sơn, lần lượt dùng Duẫn Thạch, Hồ Thạch, Hoàng Thạch, Tuyên Thạch xếp lên thành bốn ngọn núi Xuân, Hạ, Thu, Đông, mỗi ngọn thể hiện một loại thời tiết. Thư hiên ở giữa ngọn núi mùa hạ và mùa thu, lưng quay hướng bắc mặt quay về nam, to lớn hùng vĩ, bố cục ba gian bảy cột, hoành phi khắc tam đại tự "Vong Quan Hiên", cột chính nơi thềm mái treo một đôi liễn: "Cư quan vô quan quan chi sự / Xử sự vô sự sự chi tâm".

    Cho dù hai người đang u ẩn trĩu nặng, nhưng vừa đặt mình vào khung cảnh cô ngạo thanh cao, rộng lớn tú lệ rung động lòng người như vậy, nhất thời cũng quên bẵng tâm sự, quên bẵng những điều trần tục ưu tư.

    Đột nhiên một võ sĩ trẻ trung nộ khí bừng bừng, xồng xộc đi ra khỏi Vong Quan Hiên, trông thấy hai người phẫn uất kêu lên: "Thiên hạ là thiên hạ của Tạ gia các ngươi! Vương Quốc Bảo ta quả thực phải xem các ngươi ứng phó với Phù Kiên ra sao!". Đoạn đi thẳng không ngoái lại.

    Hai người nghe nói lẳng lặng nhìn nhau, rồi Tạ Thạch lắc đầu thở dài. Vương Quốc Bảo là nhi tử của Vương Thản Chi, nữ tế của Tạ An, kiếm pháp cao minh, đáng tiếc là một kẻ vô hạnh, nhìn thái độ có thể đoán biết Tạ An đã cự tuyệt dùng y vào chiến dịch kháng Tần, khiến y tức khí, nói ra những lời khó nghe như vậy.

    Lúc đó thanh âm nhu hòa của Tạ An từ phía Vong Quan Hiên đưa tới: "Có phải Tiểu Huyền đến đấy chăng? Đúng lúc lắm! Ta đang định tìm người lại đánh cờ!". Tạ Huyền và Tạ Thạch bốn mắt ngó nhau, đều không hiểu nổi suy tính của Tạ An, giữa lúc nước sôi lửa bỏng thế này, vẫn còn tâm trí để đánh cờ?


  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 3

    Thoát nạn trong gang tấc
    Yến Phi chậm rãi nâng vò lên chăm chú, tựa hồ không nghe thấy tiếng vó sắt gấp gáp, càng không trông thấy một người đơn độc đang cố sống cố chết phóng ngựa về phía Đông Môn, sau lưng là mười mấy kỵ mã Yết tộc tay cầm cung cong đã trương tên đuổi theo rất rát.

    "Phập! Phập! Phập!".

    Tên mạnh vùn vụt lao đi, tưởng chừng gã kỵ sĩ đằng trước sẽ biến thành một con dím. Vừa lúc gã đến được Đệ Nhất Lâu, miệng chửi, người bật lên khỏi lưng ngựa nhanh như khỉ, lăng không lộn hai vòng, rớt xuống ngay đằng sau Yến Phi, gã vụt thò tay ra trước mặt chàng, giơ lên ba ngón, nói: "Ba lượng hoàng kim!".

    Chiến mã hí lên thảm thiết, đổ sụp xuống đất, vó trước đã khuỵu ngã, nhưng dư lực còn kéo nó trượt đi một quãng, thân mình trúng ít nhất bảy, tám mũi tên, khiến người ta thương xót không nỡ nhìn.

    Chủ nhân nó lại tuyệt nhiên không tỏ ra bận tâm. Gã là một tiểu tử gầy gò, khuôn mặt lưỡi cày, tuổi ước mười tám, mười chín, thân hình tầm thước, nhưng tay dài chân dài trông khá linh hoạt. Đặc biệt là đôi mắt gã, lanh lợi tinh minh, lộ vẻ giảo hoạt đa mưu. Sự thực tiểu tử người Hán tên gọi Cao Ngạn này là một trong những nhân vật được ưa chuộng nhất Biên Hoang Tập, gã hành nghề ‘Phong Mai’ rất thành thạo, chuyên môn mua bán tin tức, bình thời hết sức đĩnh đạc, không biết vì sao lại trở nên cuống quít như thế này.

    Yến Phi một tay nâng chén rượu, một tay xòe cao năm ngón, Cao Ngạn thất thanh: "Năm lượng hoàng kim, ngươi muốn giết ta hả?".

    Lúc đó đám chiến binh của Yết tộc đã thúc ngựa chạy đến, gò vàm thả lỏng dây cương, tỏa thành hình bán nguyệt, đứng dưới đường lớn ngóng nhìn lên lầu, ai nấy mắt lộ hung quang, nhưng chưa dám phát tiễn, hiển nhiên là rất úy kị Yến Phi.

    Yến Phi chậm rãi uống rượu.

    Một đại hán có lẽ là kẻ cầm đầu cất tiếng: "Đây là ân oán giữa Yết Bang và Cao Ngạn, Yến Phi ngươi khôn hồn thì đừng xen vào!".

    Cao Ngạn đứng sau lưng Yến Phi, trông ủ rũ như con gà rù, bỗng nghiến răng nghiến lợi bảo: "Năm lượng thì năm lượng, coi như ta thua kẻ thấy nhà cháy chạy lại hôi của như ngươi".

    Yến Phi dằn cái chén không xuống, vẻ say rượu trong mắt vụt tan biến, thần quang sắc bén như mắt chim ưng vụt sáng lên, ngữ khí lại hết sức bình tĩnh, chàng điềm đạm nói vọng xuống lầu: "Lập tức cút đi cho ta, nếu không hối hận cũng sẽ muộn đấy!".

    Đại hán Yết tộc tay siết chuôi kiếm, song mục hung quang đại thịnh, bộ dạng dữ dằn như muốn ăn tươi nuốt sống người ta. Y trợn mắt nhìn Yến Phi một lúc khá lâu, rồi tức giận nói: "Được, chúng ta đi, rồi xem Yến Phi ngươi còn đắc ý được bao lâu!".

    Y huýt sáo, dẫn đồng bọn quay ngược trở lại con đường vừa đến, nhanh như gió cuốn.

    Cao Ngạn thở ra một hơi thật dài, quẹt mồ hôi lạnh túa lua đầy trán, thả mình xuống chỗ Bàng Nghĩa ngồi lúc nãy, tiện tay vớ lấy vò rượu, rồi dốc ừng ực liền mấy ngụm lớn, sau đó gã đặt vò xuống, chằm chằm ngó Yến Phi: "Ngươi ở lại đây làm gì? Có phải chán sống rồi không?". Thấy ánh mắt rõ rành của Yến Phi cứ đăm đăm nhìn lại, không mảy may chớp động, gã bất giác lộ vẻ đau đớn, gật đầu nói: "Ồi! Coi như ta thua ngươi!", rồi móc từ trong mình ra một gói nhỏ, dốc xuống năm đĩnh vàng óng ánh, miễn cưỡng đẩy qua trước mặt Yến Phi, than thở: "Ta vào sinh ra tử, ngươi thì ngồi một chỗ hưởng lợi, thế có công bằng không?".

    Yến Phi tuyệt không khách khí, thu lấy mấy đĩnh vàng nhét vào trong bọc, rồi chau mày hỏi: "Ngươi vì sao còn ở lì mãi đây?".

    Cao Ngạn sáng mắt, nhoài lên trước hạ giọng thì thầm: "Đây là cơ hội phát tài ngàn năm có một, bọn phương Nam sẽ trả tiền. Tiện thể ta báo ngươi biết một tin, ít nhất cũng đáng giá một đĩnh vàng, nhưng lần này coi như tặng không cho ngươi, vì cái mạng của ngươi cũng chẳng kéo dài được lâu nữa. Ngũ Đại Hồ Bang của Biên Hoang Tập đã kết thành liên minh, chuẩn bị nghênh đón đoàn quân tiên phong do thân đệ của Phù Kiên là Phù Dung dẫn đầu, lại quyết định là không bỏ qua cho bất kỳ một người Hán nào. Bọn họ đang tập kết nhân mã ở quảng trường chỗ gác chuông, trước sau truy sát Hán Bang chạy nạn. Mẹ nó! Ngươi có biết mãnh tướng thủ hạ của Phù Dung là ‘Hào Soái’ Thư Cừ Mông Tốn tộc Hung Nô đêm qua đã bí mật đến đây, liên kết các tộc rồi không? Ôi! Đủ chưa? Ta phải đi đây!". Rồi gã bật lên, băng ngang căn phòng như một làn khói, xuyên ra ngoài qua một cửa sổ khác, nháy mắt đã không còn thấy đâu nữa.

    Yến Phi tựa hồ chẳng nghe thấy lời gã, đột nhiên nắm lấy Điệp Luyến Hoa, lộn mình nhảy khỏi chiếc ghế, đáp xuống giữa lòng đường, sau đó thong thả cất bước về phía Đông Môn.

    Tiếng vó ngựa đột ngột vang lên sau lưng, càng lúc càng tới gần.

    Yến Phi xoay vụt lại như gió lốc, đầy trời mưa tên như châu chấu đã trút xuống rào rào.

    ° ° °

    Thư đường Vọng Quan Hiên’ của Tạ An thấm đẫm phong vị thế gia đại tộc nhà Ngụy Tấn. Bố cục kiến trúc của Tứ diện sảnh, những cội mai già trăm năm và trúc mềm uyển chuyển trong viên lâm xung quanh, Hạ Sơn tú lệ ở hướng tây bắc, Thu Sơn hùng vĩ ở hướng đông, tiểu đình và ao xanh ở hướng bắc, xuyên qua những ô cửa sổ song hoa trổ khắp bốn bề tường, ẩn ước như lồng vào thư hiên, khiến người ta cảm thấy được hòa mình trong bốn mùa cảnh sắc.

    Hiên đường trần thiết những đồ gia dụng bằng gỗ hồng, bốn mặt tường treo những bức họa danh tiếng, trên mỗi cột nhà gắn bốn ngọn đèn bát giác kiểu cung đình, cảnh tượng phú quý mà vẫn không mất vẻ văn nhã, bộc lộ rõ rệt thân phận và hứng thú của Tạ An.

    Dưới ánh ban mai nhu hòa, Tạ An và Tạ Huyền ngồi bên bàn cờ đặt giữa hiên đường, Tạ An vẫn giữ dáng điệu tự nhiên nhàn tản, Tạ Huyền thì có chút lơ đãng, chau mày nhìn Tạ An chọn lấy quân đen.

    Từ tư thế ngồi, có thể nhận ra sự khác nhau về tập quán sinh hoạt của người Hán và người Hồ thời đó. Người Hán từ thời Ân Chu bắt đầu ngồi kiểu hai đầu gối quỳ về đằng trước, phần hông tựa trên ‘bàn tọa’ được tạo bởi hai bụng chân, kiểu ngồi ấy trở thành một bộ phận quan trọng trong văn hóa lễ giáo nho gia. Kiểu ngồi ‘ky cứ’ đặt bệt mông xuống đất, hai chân duỗi ra đằng trước và kiểu ngồi trên cao thả chân xuống đều bị coi là hành vi cấm kỵ, bất kính. Từ sau thời Hán trở đi, ở những nơi người Hán và người Hồ sống lẫn với nhau, loại ghế cho phép người ta ngồi thả chân và kiểu ngồi ‘ky cứ’ của người Hồ lại lan rộng ra trong người Hán, tạo nên phong cách mới về nội thất, thể hiện trên những chiếc giường, ghế, hoặc đôn chân cao. Có điều trong những gia tộc thế phiệt, kiểu ngồi của người Hồ vẫn bị coi là bất kính hoặc không có tu dưỡng, không có văn hóa.

    Tạ An khẽ cười ý nhị, đặt quân đen, ăn đi con rồng to mà Tạ Huyền vất vả lắm mới tạo ra được, một góc trên bàn cờ lập tức bị quân đen chiếm mất.

    Tạ Huyền gục đầu khuất phục: "Tiểu điệt thua rồi!".

    Tạ An thong thả nói: "Từ khi Huyền điệt thông hiểu kỳ đạo, năm năm nay đây là lần đầu tiên ta thắng, có thể thấy con đường phân định hơn thua bắt nguồn từ trái tim. Huyền điệt tâm phiền ý loạn, không thể chuyên chú, vì thế mới bại. Nếu trên chiến trường, cháu vẫn hấp tấp nóng nảy như vậy, thì cho dù binh pháp chiến lược của Phù Kiên đều kém xa cháu, cháu cũng khó tránh khỏi thất bại!".

    Tạ Huyền cười khổ: "Nếu không vì Phù Kiên binh lực nhiều gấp mười lần, tiểu điệt làm sao phải tâm phiền ý loạn chứ?".

    Tạ An bật cười, đứng dậy, hay tay chắp sau lưng, bước đến cửa sổ phía đông, ngưng vọng cảnh sắc xinh đẹp của khu vườn bên ngoài, lắc đầu nói: "Không phải đâu! Huyền điệt vì tâm tình bất ổn, đến nỗi không nhận ra nhược điểm của Phù Kiên. Lần này y dẫn quân xuống nam, không chỉ đánh mất thiên thời, mất địa lợi, còn mất nhân hòa, chính cái mất cuối cùng đó, là yếu tố dẫn đến sự bại vong của y. Chỉ cần biết triệt để tận dụng, là có thể khiến Đại Tần của y đất tan ngói vỡ, còn Đại Tấn chúng ta thì sẽ khôi phục được Trung thổ".

    Tạ Huyền bất động, song mục lấp lóe tinh mang, nhìn chăm chăm vào bóng dáng tiêu sái phóng khoáng của thúc phụ, trầm giọng thốt: "Xin nhị thúc chỉ dạy!".

    Tạ An ung dung nói: "Đại Tấn ta năm nay được tuổi, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu; phương bắc Phù Kiên chinh chiến liên miên, đất đai phì nhiêu cũng trở thành khô cháy, sản xuất tiêu điều, vừa thống nhất phương bắc, cơ sở chưa vững, thời cơ chưa chín mùi, đã đại cử dụng binh. Vậy là thất thời".

    Rồi ông xoay mình lại, mỉm cười: "Phù Kiên lao sư viễn chinh, vượt qua Biên Hoang, bị cản trở vì dòng chảy, chúng ta thì dựa vào Trường Giang hiểm yếu cắt ngăn Nam Bắc. Vậy là thất địa".

    Tiếp đó ông cất bước trở về phía Tạ Huyền, ngồi xuống, hân hoan nói: "Phù Kiên sở dĩ lấy được thiên hạ phương bắc, đều nhờ thi hành chính sách ‘hòa hưng’, thu dụng đủ các loại hàng binh hàng tướng, đó là nhân tố thành công của y, nhưng cũng trồng xuống một thứ mầm họa. Quân đội Đại Tần tuy đông đến bách vạn, kỳ thực đều là chắp vá nhặt nhạnh, sức chiến đấu trông thì mạnh, nhưng bản chất lại yếu. Ta tin chắc những kẻ như Chu Tự, thân ở Tần quân mà lòng hướng về Đại Tấn. Suy đến cùng Đại Tấn ta vẫn là chính thống ở Trung Nguyên, tuy lệch về Giang Tả, nhưng không có sơ thất nhiều. Lần này ngoại địch đến xâm phạm, mọi người ngồi chung một con thuyền, càng không

    thể không đoàn kết lại, cùng nhau chống cái nhục từ bọn rợ. Còn về đám tướng lĩnh của Phù Kiên, kẻ nào cũng có trọng binh riêng của tộc mình, bọn Mộ Dung Thùy, Diêu Trường... đều là hạng ngang tàng khó thuần dưỡng, sao có thể cam tâm xưng thần mãi dưới trướng người khác? Vậy là không được nhân hòa, ta sẽ thắng còn chúng sẽ thua. Vì thế chỉ cần Huyền điệt nhắm vào điểm này, thi hành kế sách phân hóa ly gián, không chỉ tìm hiểu được bố trí thực hư của đối thủ, mà còn có thể mưu định kế hoạch hành động về sau, dấy binh một trận là đánh bại được Đê Tần, trừ đi mối họa lớn ở phương bắc".

    Tạ Huyền hai mắt thần quang lấp lóe, gật đầu nói: "Huyền điệt vâng lời chỉ dạy, phải chăng là chúng ta nên đối đầu trực diện với y?".

    Tạ An khóe môi nhích một nét cười, điềm đạm trả lời: "Cháu là đại tướng nơi tiền tuyến, am tường chiến sự hơn hẳn ta, cháu hãy tự quyết định tất cả. Trên danh nghĩa tam thúc Tạ Thạch của cháu là nguyên soái, nhưng thực tế mọi sự vụ tác chiến cụ thể, đều phải do cháu chỉ huy. Cần xúc tiến nhanh không thể trù trừ được nữa, vì binh lực hai bên cách biệt quá lớn, triều đình Đại Tấn ta đã ở lâu trong cảnh an nhàn, lại thêm bọn tiểu nhân như Tư Mã Đạo Tử thừa cơ làm gió làm mưa, nếu để Phù Kiên dẫn quân đến Trường Giang, ổn định được cơ sở, chúng ta dù không bị đánh cũng sẽ bại. Đi đi! Sự tồn vong của Đại Tấn nằm trong nhất niệm của cháu, đừng quên ban nãy cháu đã thua như thế nào!".

    Tạ Huyền đứng dậy, cung cung kính kính cúi lạy Tạ An, nghiêm túc thưa: "Tiểu Huyền xin vâng".

    Tạ An vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, hai mắt lóe lên những biểu tình phức tạp, khẽ thở dài nói: "Trận này nếu thắng, thanh vọng địa vị của Tạ gia sẽ đạt tới đỉnh cao trước nay chưa từng có, đây là điều ta vẫn muốn tránh để không xảy ra. Chúng ta ở hẻm Ô Y uống rượu nói chuyện, viết văn làm thơ, chan chứa tình thân, cuộc sống êm ả mà phong lưu đó, xem ra sẽ mất đi không thể nào phục hồi lại nữa. Cháu hãy chiếu cố cho Diễm nhi, để y có chút cơ hội rèn luyện".

    Tạ Huyền gật đầu: "Tiểu Huyền hiểu!" rồi lặng lẽ lui ra ngoài hiên. Ánh dương từ cửa sổ phía đông tràn vào, Tạ An như hòa tan trong khung cảnh yên tĩnh mà ưu mỹ của Vọng Quan Hiên, thần thái không hề tỏ lộ chút tư lự nào về cuộc chiến có quan hệ đến sự sinh tử tồn vong của Hán tộc, đang như giông bão từ phương bắc cuốn tung xuống nam.

    Tạ Huyền rời khỏi thư hiên, Tạ Diễm nãy giờ đứng đợi bên ngoài với Tạ Thạch, vội vàng tiến đến bên, hạ giọng hỏi: "Cha có nói gì không?".

    Tạ Huyền giơ tay nắm lấy bờ vai dày rộng của người em họ vốn thừa hưởng đầy đủ những nét tuấn tú của Tạ gia, mỉm một nụ cười nhẹ nhõm, dịu dàng đáp: "Chúng ta đi du sơn ngoạn thủy nào!".

    ° ° °

    Cho dù Yến Phi kiếm pháp danh chấn thiên hạ, vẫn không dám ngăn đỡ trực diện hơn hai mươi ngọn kình tiễn bắn ra từ những cánh cung cứng trong tay đám chiến binh Hung Nô thiện kỵ thiện xạ.

    Yến Phi bật cười, thoắt nhích sang mé hữu, tránh loạt mưa tên đầu tiên, hích mạnh bắp tay phải vào cánh cửa gỗ đã khóa kín của tiệm tạp hóa nằm đối diện Đệ Nhất Lâu, động tác như hành vân lưu thủy, tiêu sái đẹp mắt.

    Nghe nói Thư Cừ Mông Tốn đã bí mật xâm nhập Biên Hoang Tập, y tất nghe được chàng không cần thể hiện uy dũng vẫn có thể kềm chế liên quân của bốn bang kia, khiến bọn chúng khó mà truy kích những người Hán và Hán Bang chạy nạn. Thư Cừ Mông Tốn quyết sẽ không dung tha bất cứ cao thủ nào có khả năng thích sát Phù Kiên ẩn nấp trong tập, bởi cho dù thích sát thất bại, y cũng rất khó tránh khỏi trách nhiệm, vì vậy chỉ cần Yến Phi lúc ẩn lúc hiện, là có thể trở thành mối lo trong tâm trong phế mà Thư Cừ Mông Tốn muốn trừ bỏ, so ra, giết đám người Hán chạy loạn chỉ là một chuyện nhỏ.

    "Rắc!".

    Cánh tay nạp đầy tiên thiên chân khí của Yến Phi dộng mạnh, tấm cửa gỗ kiên cố bục ra như tờ giấy mỏng, hiện lên một cái lỗ hình chữ nhân to tướng, cả người chàng liền lọt thỏm vào tiệm tạp hóa vuông vắn bỏ hoang, bên trong đồ đạc la liệt khắp mặt đất, lộn xộn vô cùng.

    Bên ngoài bật lên mấy tiếng chửi rủa, tiếng móng gõ tiếng ngựa hí, tình thế hỗn loạn, mấy ngọn kình tiễn theo lỗ cửa vun vút bắn vào, có thể thấy sự hung hãn lang độc của người Hung Nô.

    Yến Phi không ngoảnh đầu, lắc chếch mình đi, ung dung tránh khỏi luồng tiễn, rồi nhanh chóng lướt về hướng cửa sau, định bụng trước khi địch nhân giăng xong mạng lưới bao vây sẽ rời khỏi nơi nguy hiểm này, bằng không kết cục tất sẽ rất thê thảm.

    Đúng lúc đó, phiến cánh cửa sau ngay trước mặt chàng bỗng biến thành những mảnh gỗ tan tành bắn lại, dưới thanh thế kinh khiếp của những mảnh gỗ bay như mưa hoa đó, một thanh trường mâu khổng lồ nặng trịch như từ mười tám tầng địa ngục chọc thẳng lên nhân gian, thoắt một cái đâm xốc tới yết hầu chàng, đầu mâu lấp lóe kim quang, cảm giác ngụy dị vô cùng.

    Cứ nhìn đối phương có thể kịp thời đuổi đến cửa sau, ngăn chặn trước khi mình thoát ra, xuất thủ công kích không hề có dấu hiệu báo trước, đủ thấy y thuộc hạng nhất đẳng cao thủ. Yến Phi đột nhiên nghĩ tới một người, dù tâm lý xưa nay không coi sống chết vào đâu, chàng cũng bất giác phát run.

    "Keng!".

    Điệp Luyến Hoa tuốt vỏ, lóe sắc xanh biếc, chém mạnh xuống mũi mâu.

    Điệp Luyến Hoa dài ba thước tám tấc, thân kiếm chi chít những vân mờ hình quả trám, khắc ba chữ Điệp Luyến Hoa theo lối triện, lưỡi kiếm không bằng thẳng, sống kiếm mảnh như sợi chỉ, chỗ rộng nhất ước chừng ở chỗ cách đốc kiếm khoảng nửa thước, rồi lượn cong vào phía trong, đến gần mũi kiếm lại một lần nữa nhô ra ngoài sau đó chuốt vào thành mũi nhọn, toàn thể ánh xanh lóng lánh khiến người ta cảm thấy lạnh như băng tuyết, lại sắc bén như thổi đứt cả sợi lông tơ.

    Yến Phi biết sách lược tốt nhất lúc này là phải hóa giải kình lực, dẫn dụ đối phương đi lướt qua mình, đả thông con đường phía trước, chàng sẽ có thể thoát ra theo cửa sau, nhưng mũi mâu này uy thế quả thực kinh thiên hãi địa, kình khí như sơn ép thẳng tới, không khí bốn bề tựa như bị rút cạn trong nháy mắt, đừng nói đến chuyện hóa giải, mà có thể ngăn đỡ được hay không còn chưa dám chắc, đành phải thi triển đại lực, so thử xem ai có chân tài thực liệu hơn.

    Không phải Yến Phi yếu thế, chỉ vì đối phương đã chuẩn bị sẵn sàng tấn công, còn chàng lại là vội vàng gặp nguy ứng chiến, tình hình nhanh chậm bất đồng, cao thủ tương tranh, thắng phụ chỉ quyết định trong sự khác biệt tựa chân tơ kẽ tóc này thôi.

    Điệp Luyến Hoa chém nhanh về phía trước, những mảnh gỗ bị kiếm khí đẩy bay dạt sang ngang, giống như dòng nước chia cắt ở giữa, một chút cũng không chạm được tới người Yến Phi.

    "Choang!".

    Yến Phi toàn thân rung mạnh, tuy chém trúng vào đầu mâu, nhưng thân mình bất giác bị kình lực của đối phương đẩy bật về sau.

    "Rắc!".

    Cánh cửa trước bắn tung xuống như phấn bụi, hiện ra một hán tử xấu xí tộc Hung Nô, mặt sẹo chằng chịt, tóc buông rũ rượi, dáng người không cao không thấp, lưng rộng vai dày cổ to xù xì, mỗi tay cầm một cây cự phủ sắc bén nặng ít nhất cũng năm mươi cân, y hét vang, song phủ như bánh xe lăn xòng xọc xả xuống cột sống của Yến Phi lúc đó còn đang bật lui về đằng sau, hạ thủ không một chút lưu tình, ý muốn dồn Yến Phi vào chỗ chết.

    Yến Phi sớm đã biết có thể sa vào hiểm cảnh tiến thoái lưỡng nan cửa sau hổ nấp cửa trước sói rình, chàng lùi lại chính là muốn trong thời gian ngắn nhất hóa giải kình lực của người ở cửa sau, để ứng phó với sự đột kích từ cửa chính công tới.

    Địch nhân ở cửa sau hiện ra, nơi bờ môi và cằm của y toàn là râu ria tua tủa lởm chởm xám đen, giống như một cái bàn chải, đỉnh đầu lại hói sọi, nét mặt xanh tái hết sức dị thường, cặp mắt lạnh băng băng, tựa hồ bất luận nhìn cái gì đều không tỏ lộ tình cảm. Thân hình cao gầy, nhưng đôi tay cầm mâu lại như chứa đựng một sức lực vô cùng vô tận.

    Yến Phi thầm kêu khổ, nhìn binh khí và ngoại hình của hai người, chàng đã nhận ra đối thủ là ai. Tin tức mà tên tiểu tử Cao Ngạn nói đáng giá một đĩnh vàng đó chỉ mới nhắc đến một nửa sự thật, hai người này khét tiếng phương Bắc, bất kỳ ai trong bọn họ dẫm chân một cái, cũng đủ làm rung chuyển cả Biên Hoang Tập.

    Kẻ sử song phủ mà Cao Ngạn gọi bằng danh hiệu Hào Soái, chính là Thư Cừ Mông Tốn mãnh tướng dưới tay Phù Kiên, người kia là một mãnh tướng khác, hiệu Vạn Luyện Hoàng Kim Mâu danh chấn tây bắc, được xưng tụng là cao thủ lợi hại nhất của Tiên Ti, sau Mộ Dung Thùy - Ngốc Phát Ô Cô.

    "Đinh!".

    Yến Phi lật tay kiếm, hành động vượt ngoài dự liệu của Thư Cừ Mông Tốn, đâm trúng vào cây cự phủ đang xả xuống trước, hai loại chân khí một nhu một cương tuyệt nhiên khác biệt mâu thuẫn lẫn nhau thấu qua lưỡi phủ xâm nhập vào thân thể, Thư Cừ Mông Tốn công lực kinh nhân cũng hãi hùng không kịp trở tay, phủ kình bị triệt để hóa giải, khiến cho lưỡi búa chậm lại, không vận dụng nổi nửa phần lực đạo, trong khi lưỡi búa kia lại đầy rẫy chân kình, một nặng một nhẹ, khó chịu cùng cực, y bất đắc dĩ đành dịch sang ngang.

    Trong khi hai bên đang giao thủ, ba bốn tên chiến binh của Hung Nô Bang đã dần dà tiến lại, thấy Thư Cừ Mông Tốn thất thế phải nhích ra, bọn chúng lập tức nhào lên lấp vào chỗ trống, đao mâu kiếm nhất tề chĩa vào Yến Phi, không cho chàng cả một cơ hội để thở.

    Yến Phi biết rõ thân lâm hiểm cảnh, vẫn an nhiên không sợ hãi, đột ngột xoay mình huơ kiếm, vạch ra một đường bình thường chẳng có gì kỳ lạ.

    Ngốc Phát Ô Cô lúc này đã biến hóa đầy trời mâu ảnh, chụp trên bủa dưới công kích Yến Phi, tưởng như đắc thủ đến nơi, ai ngờ Điệp Luyến Hoa vạch ra, bất luận y biến hóa thế nào, vẫn bị Yến Phi vạch trúng vào đầu mâu một lần nữa, không cách gì tiếp tục được, lại sợ đối phương thừa cơ truy kích, đột phá qua khe trống, y bèn thu mâu hơi lùi lại.

    Mấy tên chiến binh Hung Nô với đủ loại binh khí cũng bị quét trúng một loạt, chỉ cảm thấy lưỡi kiếm của đối phương rùng rùng lực đạo hết sức cổ quái, khiến lực đạo của mình không chỉ tiêu tán hết, mà còn bị đẩy thêm một luồng kình khí nén tim ép ruột mạnh đến nỗi kêu thảm, lảo đảo thoái lui.

    Thư Cừ Mông Tốn thét vang, sắp lại trận thế, huơ phủ công lên, chẳng ngờ Yến Phi kiếm khí bạo phát, chỉ nghe ‘tinh tang’ một tràng liên miên bất tuyệt, trong chớp mắt, như muốn tỷ đấu tốc độ với Thư Cừ Mông Tốn, chàng liên hoàn đâm ra bảy kiếm, kiếm kiếm lần lượt đâm trúng hai búa trái phải, khóa chặt chiêu số tấn công của y, bức y phải bật ra lần nữa.

    Song Yến Phi tự biết, Ngốc Phát Ô Cô và Thư Cừ Mông Tốn thực sự danh bất hư truyền, chàng đã thi triển toàn bộ chiêu số, vẫn không thể gây tổn hại đến bất kỳ người nào, mà chân nguyên hao kiệt đã nhiều, không còn chi trì lâu được nữa, nếu để hai người tạo thành thế liên thủ, chàng nhất định bị dồn vào chỗ chết.

    Đám chiến binh Hung Nô Bang theo cửa chính ào ào tràn vào như nước triều, cửa sau vẫn do một mình Ngốc Phát Ô Cô trấn giữ, mà trấn giữ vững vàng như vách sắt tường đồng. Trong khoảnh khắc, Yến Phi hiểu rõ sinh lộ duy nhất là phải liều thân, xông phá qua cửa ải của Ngốc Phát Ô Cô. Ý chuyển kiếm xuất, Điệp Luyến Hoa tỏa ra kiếm vũ đầy trời, như phá sóng chặt bờ đổ về phía ấy.

    Ngốc Phát Ô Cô thần sắc trầm ổn, Vạn Luyện Hoàng Kim Mâu hóa thành trùng trùng kim quang mâu ảnh, sắp sửa ngạnh đấu chính diện, đột nhiên trên mặt thoáng vẻ kinh hãi, y vụt nhích mạnh sang ngang, để khuyết một khoảng trống. Nguyên lai một người áo xám thân hình khôi vĩ, diện mạo che kín bằng tấm mạng đen hiện ra sau lưng y, hai tay cầm hai thanh đao thi triển thế công kích, khiến Ngốc Phát Ô Cô phải hoảng hồn nhảy tránh.

    Người đó trầm giọng thốt: "Yến Phi!".

    Yến Phi không dám trù trừ, tiện tay chém Ngốc Phát Ô Cô một nhát, toàn lực đề khí, chạy theo cứu tinh xuyên qua hậu viện, vượt bờ tường bao, vội vàng tháo thoát.


  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 4

    Hùng tài đại lược
    Phủ đệ của Tạ gia ở hẻm Ô Y trải một khoảnh rộng hơn mười mẫu, xây dựng bên bờ Tần Hoài, hợp bởi năm khu viên lâm độc đáo, trong đó Tứ Quý Viên nơi cất Vọng Quan Hiên là nổi danh nhất, nếu luận về cảnh sắc, thì Đông Viên và Nam Viên tọa lạc bên sông có thể coi như trội hơn hẳn.

    Tùng Bách Đường là kiến trúc hùng vĩ nhất trong tổ hợp phủ đệ này, cao rộng hoa lệ, bên trong là kết cấu Uyên Ương Sảnh, khu trung tâm có tám cánh bình phong phân cách, trần thiết hòa mục cao nhã. Tùng Bách Đường cũng là điện chính của Tạ gia, bên ngoài liền với cửa lớn là đại quảng trường, đến dịp khánh điển, rời chuyển bình phong đi chỗ khác, là có thể đặt được hơn ba mươi bàn tiệc, chứa được mấy trăm người vui vẻ tụ họp.

    Bên ngoài chính môn là hẻm Ô Y, phía đối diện có lầu các viên lâm nguy nga của nhà họ Vương xưa nay vẫn sát vai sát cánh cùng Tạ gia trong mọi phương diện. Phía tây hẻm Ô Y tiếp giáp với ngự đạo, dài tới nửa dặm, hai bên lối ngõ thẳng băng đều là nơi ở của những bậc thế gia vọng tộc.

    Lúc này trong một góc của Tùng Bách Đường, Tạ Huyền, Tạ Thạch, Tạ Diễm và Lưu Lao Chi đang cùng thương lượng đại kế.

    Sau khi thảo luận vài việc thông thường có liên quan đến chiến tranh, Tạ Huyền đột nhiên trầm ngâm một lúc lâu, rồi nói như chém đinh chặt sắt: "Phải khiến Chu Tự quay trở lại bên chúng ta!".

    Tạ Thạch chau mày: "Y là phản đồ của Đại Tấn, chuyện này khó thực hiện lắm. Chẳng biết y có theo Phù Kiên xuống nam hay không, mà cho dù biết rõ y ở trong doanh trướng của quân Tần, muốn tìm y trực tiếp đàm phán cũng khó hơn lên trời".

    Tạ Diễm hừ lạnh: "Nhân sĩ thà chết không chịu nhục, đại trượng phu lập thân xử thế, khí tiết làm đầu, uổng cho Chu Tự thân phận là con cháu vọng tộc ở Lạc Dương, lại đầu nhập làm tù binh của địch, kẻ này căn bản không bận tâm đến phẩm cách. Dù có giành lại được y, sự cát hung về sau cũng khó lường".

    Tạ Huyền cười nhạt: "Chúng ta hiện đang lo nghĩ làm sao để chế địch thủ thắng trên chiến trường, hoàn toàn không phải là lúc bình giá phẩm cách cao hạ của người ta,

    An thúc nhìn người tuyệt không thể sai. Chúng ta nhất định phải liên lạc với Chu Tự, nếu có thể sách động y làm nội ứng, quay trở về với ta, sẽ nắm chắc thêm mấy phần chiến thắng".

    Tạ Diễm nghe nói là ý của cha, lập tức ngậm miệng không bàn tán gì nữa.

    Tạ Thạch nhăn tít lông mày: "Từ đầu cho đến lúc vượt Hoài Hà đánh hạ Thọ Dương, Đê Tần chỉ hành quân ở những nơi trống vắng hoang dã, làm sao tiếp xúc được với Chu Tự mà không để người ngoài hay biết?".

    Lưu Lao Chi gật đầu: "Phù Kiên vừa tới, tất cả những người Hán ở Biên Hoang Tập đã tháo chạy bốn phương tám hướng, thám tử của chúng ta cài ở đó cũng phải lui đi, chuyện này có những khó khăn nhất định. Tuy nhiên...".

    Tạ Huyền phấn chấn hỏi: "Tuy nhiên thế nào?".

    Lưu Lao Chi do dự giây lát, rồi đáp: "Vẫn có người làm được, đó là một tì tướng thủ hạ của tôi, tên là Lưu Dụ. Người này gan dạ cẩn thận, trí dũng song toàn, không chỉ võ công cao cường, mà thuật khinh thân đề khí cũng hết sức lợi hại, nhiều năm nay phụ trách thu thập tin tức khu vực Biên Hoang Tập, đã nhiều lần bí mật đến đó, có quan hệ lâu dài với những tay Phong Mai xuất sắc, hiểu biết hết sức cặn kẽ về tình hình Hoang Nhân, điều hiếm có nhất là y lại tinh thông ngôn ngữ của Đê tộc và Tiên Ti".

    Tạ Diễm hỏi: "Xuất thân lai lịch của y thế nào?".

    Tạ Huyền và Tạ Thạch nghe thấy đều cau mày, vào lúc hoàng triều nguy nan như cá nằm trên thớt, Tạ Diễm vẫn kiên trì với quan niệm gia thế, lại tẩn mẩn hỏi đến xuất thân, khiến người ta không biết là đáng giận hay đáng cười nữa.

    Lưu Lao Chi cũng hơi lúng túng. Y vốn xuất thân hàn vi, được Tạ Huyền bỏ qua chuyện gốc gác, phá lệ đề bạt mới có ngày hôm nay, nhưng cũng không thể không đáp, đành nói: "Lưu Dụ là sĩ tộc sa sút, thời trẻ gia cảnh bần hàn, sống nhờ nghề nông, còn làm tiều phu, mười sáu tuổi gia nhập Bắc Phủ Binh, từng tham gia nhiều chiến dịch, công lao lâu năm thăng đến tì tướng".

    Tạ Huyền không để cho Tạ Diễm có cơ hội nhận xét, cắt ngang: "Chính những người xuất thân như thế, mới biết cách giao hảo với đám Hoang Nhân giảo hoạt. Lao Chi ngươi lập tức quay về, lệnh cho Lưu Dụ thâm nhập vào vùng địch, đưa công văn mật đến tận tay Chu Tự. Nhất định phải thông báo cho y rõ tình hình, hành sự tùy cơ ứng biến, ngộ biến tùng quyền, chúng ta sẽ hết sức hỗ trợ những quyết định tức thời của y, việc làm xong có thưởng, Tạ Huyền ta quyết không nói chơi".

    Tạ Thạch hỏi: "Hồ Bân nắm trong tay năm nghìn binh mã, nhiệm vụ của Lưu Dụ thành bại khó lường, chúng ta có nên tăng cường viện binh không?".

    Tạ Huyền nhích một nụ cười khó hiểu bên khóe môi: "Trước tiên nhượng Phù Kiên một nước. Khi đại quân tiên phong của Đê Tần đến bờ bắc Hoài Thủy ngoài thành Thọ Dương và tập kết đủ nhân lực vật lực để công thành, lệnh cho Hồ Bân vượt Tứ Thủy ở bên đông, lui về cố thủ tại Giáp Thạch Thành trong vùng núi Bát Công, ta sẽ khiến Phù Kiên không thể vượt qua Tứ Thủy đến nửa bước".

    Tạ Thạch, Tạ Diễm và Lưu Lao Chi rất ngạc nhiên, đồng thời cũng biết Tạ Huyền đã hoạch định toàn bộ kế hoạch tác chiến, không úy kị gì Phù Kiên nữa cả.

    ° ° °

    Khoái đĩnh chạy vùn vụt khỏi bờ tây Dĩnh Thủy, dưới tài chèo thuyền của người che mặt, bọn truy binh bị bỏ lại bờ mỗi lúc một xa. Yến Phi gác Điệp Luyến Hoa ngang đầu gối, nhắm mắt tĩnh tọa ở đầu mũi thuyền, điều tức vận khí để khôi phục lại thể lực.

    Chiếc thuyền nhẹ theo dòng rất nhanh xuôi xuống hai dặm, rẽ trái qua một nhánh sông nhỏ bên phía đông, bơi ngược dòng chừng một dặm, mới chầm chậm cặp vào một nơi rậm rạp cây cối.

    Yến Phi mở mắt, đôi con ngươi ưu tư của hắn lóe lên những tia vui vẻ hiếm hoi, thân hình đột nhiên bật khỏi chiếc thuyền nhỏ đến gần một trượng, hạ xuống chạc ngang của cây to bên bờ sông, rồi tiếp tục tung mình lên hai lần nữa, đến gần đỉnh ngọn, một chạc ngang cách mặt đất chừng bốn trượng, nhổ vẹt cành lá, quan sát động tịnh xa gần. Điệp Luyến Hoa không biết từ lúc nào, đã treo lủng lẳng sau lưng hắn.

    Người che mặt tiện tay thả mái chèo xuống, gỡ tấm khăn, để l gương mặt tươi cười sáng bừng như ánh dương, ngước nhìn Yến Phi đang chồm hỗm trên cây cao, vui vẻ gọi: "Yến Phi, kiếm pháp của ngươi tăng tiến nhiều đó. Ung dung vô sự giữa trận giáp kích của hai đại cao thủ như Ngốc Phát Ô Cô và Thư Cừ Mông Tốn, chuyện này mà truyền ra ngoài danh tiếng của ngươi sẽ chấn động cả phương bắc, nhất định có nhiều người không tin nổi đâu". Nói đoạn lộn mình lên bờ, cột con thuyền vào thân cây.

    Người này xấp xỉ tuổi Yến Phi, là một người Tiên Ti thân hình rắn rỏi mạnh mẽ, cao lớn khôi ngô, tóc dài rủ xuống vai, tướng mạo khá đặc biệt, mũi diều hâu khoằm khoằm, sống mũi rất thẳng, đôi mắt sâu hoắm, trên trán có hai mấu xương gồ cao, bộ dạng lẽ ra cũng khiến người ta nhìn vào mà khiếp hãi, nhưng cặp mắt chim ưng sắc sảo,

    như muốn soi thấu mọi sự, ẩn dưới hàng mày rậm rạp phảng phất ngụ ý trên đời này chẳng có chuyện gì y không làm được, lại khiến người ta cảm thấy tất cả phối hợp với nhau rất hài hòa. Còn thêm vầng trán rộng rãi, khuôn miệng rộng luôn tươi cười, cái cằm tròn trịa, đôi tai lớn vành cao hơn lông mày, khiến người ta tưởng y hình như không bận tâm tới chuyện gì hết. Chỉ có người hiểu rõ y như Yến Phi, mới biết nếu nhìn nhận y như vậy, chết rồi cũng không biết là đã xảy ra chuyện gì.

    Người đó ngồi xuống một tảng đá bên bờ sông, cơn gió thổi tới, quạt vạt áo y phần phật, mái tóc dài đen nhánh xõa bay theo gió, khiến hình dáng y càng có vẻ uy mãnh cô độc.

    Y ngẩng mặt nhìn mây đen đang cuồn cuộn tới, hai mắt lộ vẻ thương cảm, rầu rầu nói: "Sắp mưa to rồi! Tối hôm đó cũng mưa to ngập nhà ngập cửa, mình vẫn còn là trẻ con mười mấy tuổi, bốn phương tám hướng đều là địch nhân, chúng ta sát cánh đánh phá trùng vây, nhìn thấy thúc bá huynh đệ từng người từng người một gục ngã bên cạnh... Ôi! Chuyện cũng lâu rồi ấy nhỉ?".

    Yến Phi nhún vào cành cây, hạ xuống bên y nhẹ nhàng như cánh én, ngồi lên cành cây đối diện, ôm vòng lấy hai đầu gối, vẻ ưu tư trong mắt dường như càng trầm trọng, lạnh lẽo thốt: "Bảy năm rồi! Ngươi tại sao chỉ nói tiếng Hán?".

    Người đó nhìn Yến Phi, vẻ thương cảm tan biến, thay vào đó là sự thù hận mãnh liệt, ngữ khí ngược lại tỏ ra hết sức bình tĩnh và lạnh lùng: "Yên Đại ta sở dĩ bại vong dưới tay Phù Kiên, chính vì không hiểu được gánh nặng của các dân tộc từ bỏ dần gốc gác như Phù Kiên, không biết tiếp xúc với người Hán, càng không biết học đạo trị quốc của người Hán. Một Vương Mãnh, mà giúp cho Phù Kiên thống nhất phương bắc, có thể thấy chỉ người Hán mới thực hiện được mọi sự thông đồng bén giọt. Bỏ tiếng Tiên Ti dùng tiếng Hán, chỉ là bước đầu Thác Bạt Khuê ta học theo họ thôi".

    Yến Phi gật đầu đồng ý.

    Từ sau trận Xích Bích, Ngụy Thục Ngô ba nước tạo thế chân vạc, trong đó nhà Ngụy của họ Tào nằm tiếp giáp với lưu vực Hoàng Hà thì thực lực là mạnh nhất, Tư Mã thị dựa vào dư thế, lập nên nhà Tây Tấn, từ đó thống nhất thiên hạ. Đáng tiếc sau loạn Bát vương, các tộc tây bắc theo nhau nổi dậy, hình thành đại hỗn chiến giữa các dân tộc. Họa Vĩnh Gia càng khiến cho sự thống trị của Tây Tấn suy yếu, nhà Tấn thiên di về nam.

    Trước nhà Tần của họ Phù, phương bắc lần lượt xuất hiện chính quyền Hồ tộc của ba dòng họ lớn là họ Lưu của Hung Nô, họ Thạch của Yết tộc và họ Mộ Dung của Tiên Ti, nhưng đều do Hán hóa không triệt để, lại xúc tiến chính sách dân tộc cao độ do Hồ và Hán phân chia cai trị, từ đó theo nhau bại vong. Thác Bạt Khuê cao minh ở chỗ nhận

    ra, chính sách dung hòa dân tộc của Phù Kiên là con đường duy nhất, mà sự duy nhất của Phù Kiên cũng là sai lầm chí mệnh, bởi dung hòa chưa đủ chín muồi, còn quá sớm để phát động nam chinh.

    Thác Bạt Khuê quỳ một gối xuống trước, dang hai tay, nắm lấy bờ vai rộng của Yến Phi, cặp mắt lấp lánh những ánh sáng lạ lùng, nghiến răng nhả ra từng chữ: "Thác Bạt Khuê ta chờ đợi đủ bảy năm, hiện tại thời cơ ngàn năm có một cuối cùng cũng đã đến, Phù Kiên sẽ phải trả món nợ máu đã thiếu của họ Thác Bạt Tiên Ti. Ta vốn không hoàn toàn chắc chắn, nhưng giờ có Yến Phi trợ giúp, còn sợ gì đại sự không thành. Trong thiên hạ, chỉ một mình Yến Phi, dù về kiếm thuật hay tài trí, đều khiến Thác Bạt Khuê ta tâm phục khẩu phục".

    Yến Phi cười cười, thò tay vỗ lên má y: "Hảo tiểu tử! Không phải là ngu ngốc đến nỗi muốn hành thích Phù Kiên chứ?".

    Thác Bạt Khuê buông hắn ra, đứng dậy, quay mình chắp tay, ánh mắt nhìn theo dòng nước, lặng lẽ nói: "Hiểu Thác Bạt Khuê không ai bằng Yến Phi, chúng ta lại quen biết từ nhỏ, đã sống chung nhiều năm. Ha! Giết Phù Kiên đối với ta có trăm điều hại chứ không được một ích lợi nào cả, vì làm như vậy tức là chuyển hết tiện nghi cho Phù Dung kẻ hiện nay quyền vị chỉ đứng sau Phù Kiên. Phù Dung còn tinh minh và hiểu biết hơn huynh trưởng của y nhiều, cũng là một trong những người phản đối kịch liệt nhất chuyến nam chinh lần này. Y mà ra nắm chính quyền Đê Tần, tất lập tức lui binh, khiến giấc mộng đẹp của ta tan thành mây khói".

    Rồi quay vụt lại như cơn gió, hai tay giơ cao, ngửa mặt khảng khái nói với trời xanh: "Điều ta muốn là Đại Tần gạch nát ngói vỡ, Phù Kiên nước mất nhà tan, nếu không làm sao rửa được mối nhục vong quốc của họ Thác Bạt Tiên Ti ta chứ!".

    Cuồng phong cuộn tới, Thác Bạt Khuê tóc bay tung lên đỉnh đầu, hình dáng thê lệ, rồi những hạt mưa lớn như hạt đậu vô tri vô giác trút xuống người y rào rào, ban đầu thưa, càng lúc càng mau, hóa thành một trận mưa lớn thối đất thối cát, bốn bề một màn mờ mịt. Cơn mưa lớn tích tụ từ lâu rốt cục cũng xả xuống, tựa hồ lời nói của Thác Bạt Khuê đã chọc giận đến trời đất.

    Yến Phi ngửng đầu, để mặc cho mưa quất xuống mặt, chảy vào trong cổ, hàn khí xâm nhập thân thể, hắn lại cảm thấy vô cùng sảng khoái, bởi hắn đang cần một sự hạ nhiệt và điều chỉnh mãnh liệt như vậy.

    Yến Phi thở dài: "Ta chẳng phải là không muốn giúp ngươi, nhưng Tần bị diệt rồi thì sao? Phương bắc chẳng phải vẫn là nơi năm bè bảy mối, các bộ tộc thề không đội

    trời chung sao? Những người không chết đều phải sống mà chịu tội, từ khi sinh ra, ta cũng chưa có một ngày nào không phải trải qua như thế, đã mệt mỏi muốn chết rồi!".

    Thác Bạt Khuê thân hình hạ thấp, hai gối khuỵu xuống đất, quỳ chân, chìa hai tay, há miệng đón lấy nước mưa, uống ừng ực mấy ngụm, tâm tình bình tĩnh lại, chậm rãi bảo: "Yến Phi, ngươi đừng tưởng ta là kẻ ngốc. Tuy mấy năm nay ta không biết ngươi đã rúc vào chỗ nào, nhưng Yến Phi vẫn là Yến Phi, chảy trong thân thể ngươi, một nửa là huyết dịch cao quý của vương tộc Thác Bạt Tiên Ti, một nửa là dòng máu của người Hán, bất kỳ nửa nào cũng không cho phép ngươi cam tâm làm nô tài mất nước dưới vó ngựa sắt của Phù Kiên. Lần này Thác Bạt Tiên Ti ta quật mồ sống lại, không phải là Tiên Ti của họ Thác Bạt chỉ biết chuyện ăn thịt, uống máu, mặc da súc vật, quanh năm di chuyển, không thích xây thành giữ thành, xem thường việc canh điền nông tang, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, không coi trọng tích lũy trưng thu như ngày xưa nữa. Sau khi Phù Kiên bại vong, cục diện hỗn loạn lúc đó sẽ do ta an bài, vì ta đã chuẩn bị đầy đủ, đã học hỏi nhiều hơn bất kỳ ai từ những sai lầm trong quá khứ. Phương hướng của Phù Kiên là đúng, chỉ đi sai một nước, đó là khi chưa thể an định các tộc, chưa thể khống chế được toàn bộ phương bắc, đã mạo nhiên tiến xuống phương nam. Cũng may Vương Mãnh chết sớm, nếu không sự việc tất không thể phát sinh. Đây là cơ hội mà trời xanh ban cho Thác Bạt Khuê, ngươi không còn lựa chọn nào khác, phải toàn lực phò trợ ta".

    Yến Phi toàn thân ướt sũng, nhưng trong lòng thì có một ngọn lửa đang rừng rực thiêu đốt. Thác Bạt Khuê rốt cục cũng đã trưởng thành, từ tử vong và khổ nạn đã lĩnh hội được lý lẽ tồn vong của quốc gia dân tộc, trở thành một người lãnh đạo cao thâm viễn lự, đại lược hùng tài, không ai hiểu rõ bản lĩnh và sự lợi hại của Thác Bạt Khuê hơn hắn, khi y đã định rõ mục tiêu, là bất chấp tất cả để làm cho bằng được, chỉ có cái chết mới ngăn chặn được y. Yến Phi thở dài, hỏi: "Ngươi dựa vào cái gì mà đánh bại được bách vạn đại quân của Phù Kiên?".

    Nụ cười xuất hiện nơi khóe môi Thác Bạt Khuê, mỗi lúc một nở rộng, cuối cùng bật thành tiếng cười lớn: "Đây gọi là nhờ thế mà thành sự, Yến Phi ngươi có biết hai người đáp ứng phò tá Phù Kiên nam chinh lần này, chính là Diêu Trường và chú họ xa của chúng ta là Mộ Dung Thùy, nếu không phải có hai người đó chấp nhận phò tá, Phù Kiên đâu thể nhất ý cô hành xua quân xuống nam, trước sự phản đối dữ dội của vương tộc Phù thị như vậy được".

    Thân hình rắn rỏi của Yến Phi khẽ rung lên, hai mắt thần quang lấp lóe, chằm chằm nhìn Thác Bạt Khuê.

    Thác Bạt Khuê mắt không chớp nháy, cũng đăm đăm nhìn trả hắn, trầm giọng nói: "Bảy năm nay, ta luôn thông qua Biên Hoang Tập bán cho bọn người nam những thứ mà chúng thiếu thốn, nhất là lương thảo và chiến mã, một mặt là muốn đổi được những hàng hóa cần thiết, để trang bị và nuôi sống những binh sĩ cơ sở của ta, mặt khác muốn đẩy nhanh sự lớn mạnh của Bắc Phủ Binh, gián tiếp thúc ép tâm lý chậm sợ không kịp của Phù Kiên. Để giữ bí mật, ta tuy biết rõ ngươi đến Biên Hoang Tập, nhưng tránh không liên lạc với ngươi, sợ tiết lộ cơ mật việc trong bóng tối của ta. Nếu không phải vì nắm rõ chuyện ở Biên Hoang Tập như trong lòng bàn tay, hôm nay đã không thể giúp ngươi thoát được đại nạn rồi".

    Yến Phi ngây người nhìn y, trong lòng suy nghĩ dập dồn. Thác Bạt Khuê mà hắn quen, lúc mười tuổi đã hiển lộ hết những phong cách đại tướng của một lãnh tụ, trầm tĩnh kiên nghị đa mưu túc trí, tâm lang thủ lạt, là kiêu hùng trong thời loạn, nhưng hắn chưa từng tưởng tượng được thủ đoạn của y lại cao minh lợi hại đến mức này.

    Mưa lớn cứ sầm sập không ngớt, đánh lên lá cây ngọn cỏ, đất, cát, và dòng sông, hình thành một bản đại hợp tấu hỗn mang các loại giai điệu mưa, bốn bề mông lung, bọn họ tựa hồ đã biến thành trung tâm của trời đất, đang quyết định mệnh vận sau này trong thiên hạ, cho dù nhìn từ tình thế hiện tại, chuyện đó có vẻ tuyệt nhiên không thể thực hiện nổi.

    Yến Phi cười khổ: "Được rồi! Ngươi đã tích lũy nhiều năm như vậy, chắc có cách đối phó với Phù Kiên. Tuy nhiên, giả thiết Phù Kiên thua trận, được lợi lớn nhất là bọn người nam, hoặc là Mộ Dung Thùy, lại hoặc là Diêu Trường thực lực vốn thấp hơn một chút, ngươi chỉ có thể đứng ở một chỗ rất xa phía cuối hàng không ai nhìn thấy. Ôi! Nỗi khổ này ở đâu ra? Ngươi cho rằng Mộ Dung Thùy sẽ ủng hộ ngươi chăng? Nếu ta là Mộ Dung Thùy, người đầu tiên ta phải giết, sẽ chính là ngươi đó".

    Thác Bạt Khuê phì cười: "Ngươi đánh giá quá cao đối thủ của ta rồi đấy. Trước tiên hãy nói đến bọn người nam, cái vận của chúng là mất nước, Tấn đế Tư Mã Diệu và Tư Mã Đạo Tử thân đệ của y đều là loài rùa đen, thối rữa đến tận gốc rễ, không có ai hiểu rõ hơn ta rằng, bọn chúng chỉ mưu đồ an ổn và duy trì tâm thái nực cười của chính quyền Giang Tả, khoan nhắc đến phong khí thanh đạm xuất thế huyền tưởng của bọn cao môn đại tộc ngụ bên Giang Tả, điểm chí mệnh nhất là bọn chúng thường cho rằng kẻ nào đuổi được người Hồ ta, kẻ đó có tư cách xưng đế, thành ra trung ương của tôn thất nhà Tấn sinh ý nghi kỵ đối với bất kỳ ai mang tư tưởng bắc phạt, không chỉ không ủng hộ, mà còn nghĩ đủ mọi cách để đả kích gây khó dễ, khiến việc bắc phạt mãi mãi không thể thành công. Thêm nữa, nhà Đông Tấn còn có hai mối lo ngầm: thứ nhất là Giang Tả Song Huyền, Tạ Huyền là một, ngoài ra còn một cao thủ dùng đao, thân đệ của Hoàn Xung, tên gọi Hoàn Huyền, thanh danh chỉ đứng sau họ Tạ, y nhờ uy vọng mấy đời cha anh, rất được tiếng ở Kinh Châu, người này không có hùng tâm, không nghĩ đến việc

    thừa cơ sinh biến để quật khởi, vốn ít khả năng trở thành mối họa, nhưng nếu Phù Kiên thất bại, Tạ gia tất gặp phải sự quản chế của nhà Tấn, lúc đó cơ hội của Hoàn Huyền sẽ đến".

    Yến Phi cúi đầu không nói, từng lời Thác Bạt Khuê quả đã nhìn thấu suốt triệt để tình hình chính trị của hai miền nam bắc.

    Thác Bạt Khuê tiếp: "Mối lo ngại thứ hai trong tâm phế, là Ngũ Đẩu Mễ đạo, bọn này dựng căn cứ địa ở Hải Nam, Đạo chủ Tôn Tư, võ công vượt xa Cửu Phẩm cao thủ do mấy đại gia tộc vùng Giang Tả bình chọn, lại giỏi đạo thuật mê hoặc chúng sinh, sớm muộn gì cũng nổi loạn. Vì vậy một khi ta thống nhất được phương bắc, chính quyền Giang Tả sẽ chỉ còn là đàn súc vật đợi làm thịt mà thôi. Về phía Mộ Dung Thùy, Diêu Trường, rồi cả Ngốc Phát Ô Cô, Thư Cừ Mông Tốn, sẽ do ta lo liệu, hiện tại, ta chỉ cần ngươi giúp ta làm một việc thôi".

    Yến Phi biết không cách nào từ chối y, cười khổ đáp: "Ta nghe đây".

    Thác Bạt Khuê mỉm cười: "Tìm Tạ Huyền cho ta, nhắn y rằng Mộ Dung Thùy sẽ không đời nào xuất toàn lực cho Phù Kiên, thậm chí còn chặn cứng đường lui của y, phải khiến Phù Kiên thua bại trong cuộc đại chiến này, nếu Tạ Huyền chịu gật đầu đồng ý, chúng ta sẽ căn cứ vào tình thế mà vạch ra kế hoạch hợp tác với y".

    Yến Phi ngạc nhiên: "Mộ Dung Thùy?".

    Thác Bạt Khuê vụt đứng dậy, lôi từ trong bọc ra một túi da dê, đưa cho hắn: "Ta không có thời gian giải thích, trong túi này đựng bảo ngọc truyền đời trứ danh của Mộ Dung Tiên Ti, ngươi có thể dùng nó làm vật chứng, để Tạ Huyền biết rằng ngươi tuyệt không nói vô bằng vô cớ. Chuyện này rất khẩn cấp, chỉ ngươi mới có thể làm cho ta được, Tạ Huyền là người thông minh, sẽ không bỏ qua bất cứ cơ hội nào để đánh bại kẻ địch".

    Hai người lại bàn bạc thêm một hồi về cách thức liên lạc, cách thức ứng biến, những nơi có thể ẩn thân trong tập, bao gồm cả hầm chứa rượu bí mật của Bàng Nghĩa. Rồi Thác Bạt Khuê vội vã bỏ đi.

    Nhìn theo bóng y chìm dần trong rừng dưới cơn mưa ào ạt, Yến Phi hiểu cuộc sống phiêu bạt chân trời góc bể rất nhiều năm nay đã kết thúc, hắn sắp phải dấn thân vào vòng xoáy loạn lạc của thời đại.


  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 5

    Các pháp các sư
    Phù Dung hướng mục quang vào chiếc khoái thuyền ẩn kín bên sông, thần sắc lộ vẻ dò hỏi. Hai mãnh tướng cao thủ Tiên ti là Ngốc Phát Ô Cô và Thư Cừ Mông Tốn phân ra đứng hai bên tả hữu. Ngoài ra còn hơn chục thân binh thủ vệ phía sau, đang đốc thúc quân sĩ ráo riết lùng sục hai bên bờ dòng sông nhỏ. Đang là tiết đại vũ mùa thu. Tuy rằng mây đen vần vũ, lại có thể thoáng trông thấy nền trời trong sáng, đang khi mưa lớn, nhưng bốn bề sớm sẽ trở lại quang đãng.

    Phù Dung đầu mang chiến khôi, vai khoác trường bào, cổ choàng khăn lông thú, bên trong áo giáp bó chặt, quần ngắn đẹp đẽ rủ xuống, chống kiếm vươn mình, khí thế bất phàm. Sức lực của gã không hề khiến người khác chú ý, nhưng song mục sáng ngời phát ra sát khí đằng đằng, không ai dám coi thường.

    Ngốc Phát Ô Cô gầm gừ nói: "Nếu chẳng có cơn mưa rào không đúng lúc này, chúng ta tất đã bắt được hai tên tiểu tặc phân thây trăm mảnh rồi".

    Phù Dung lạnh lùng: "Bọn chúng sao không thuận dòng chuồn đi xa, lại dùng chiếc thuyền nát này lên bờ nhỉ?"

    Ngốc Phát Ô Cô có chút ngạc nhiên, Thư Cừ Mông Tốn gật đầu nói:"Bọn chúng định quay trở lại Biên hoang Tập mưu đồ chuyện gì lạ đây?".

    Bóng người chợt thoáng, trước mặt Phù Dung xuất hiện một thân hình cao gầy, bên ngoài áo choàng màu đỏ, đỉnh đầu đội mũ tròn, mình bận áo ngắn, bên dưới mang quần ngắn màu đen, hình tướng quái dị. Sắc mặt trơ khấc như hoạt khô lâu của hắn không có đến nửa điểm giống người, cặp mắt cá chết như chẳng nhìn vào đâu, khiến người ta trông thấy phải phát run.

    Ngốc Phát Ô Cô và Thư Cừ Mông Tốn đồng thời lộ xuất thần sắc kinh sợ. Mục quang Phù Dung chuyển từ tiểu thuyền qua phía người này, tinh thần phấn chấn nói: "Quốc Nhân chẳng phải đã có phát hiện gì mới chứ?".

    Người mới tới là cao thủ lừng danh Tiên Ti tộc, chỉ xếp dưới Mộ Dung Thùy, tên gọi Khất Phục Quốc Nhân, trong số các tộc nhân lẫn lộn ở vùng Ngũ hồ, Tiên Ti là bộ tộc đông đúc nhất, các bộ lạc phân lập, đều không chịu phụ thuộc ai. Mạnh nhất có Mộ

    Dung, Thác Bạt, Đoạn, Vũ Văn, Ngốc Phát, Khất Phục các dòng họ, đều lấy họ của tộc trưởng làm tên gọi.

    "Đang, đang...".

    Khất Phục Quốc Nhân buông tay, một đôi đao rơi xuống đất vang lên âm thanh chát chúa, những cử động ẻo lả của hắn khiến người ta cảm thấy bất ngờ. Một thanh âm eo éo cất lên: "Hai tên đó chia tay tại đây, một đi theo hướng Biên hoang Tập, trên đường vứt bỏ binh khí, kẻ kia vượt sang bờ bên kia, để lại chút vết tích trên lớp bùn ở bờ sông, những dấu vết khác bị mưa xóa đi, có lẽ đi về phía nam".

    Phù Dung nhíu mày nói: "Kẻ chạy về phía nam đương nhiên là Yến Phi, người còn lại là ai? Cặp đao này xem ra chẳng phải là binh khí tùy thân của hắn, vì việc che dấu thân phận, sợ chúng ta thông qua binh khí biết được y là thần thánh phương nào, do đó khẳng định hắn thiện dụng kỳ môn binh khí, lại rất có danh tiếng, khiến người ta thoạt nhìn cũng nhận ra?".

    Khất Phục Quốc Nhân da mặt bất động: "Cách buộc thuyền vào gốc cây này người tộc Tiên Ti hay dùng, chẳng cần Quốc Nhân nói ra, Phù tướng thử đoán xem kẻ nào dám tới chọc giận chúng ta".

    Phù Dung lập tức sát cơ cực thịnh lộ ra trên song mục, Thư Cừ Mông Tốn hằm hè: "Nhất định là tên cướp trời đánh, Mã tặc Thác Bạt Khuê, hắn thiện dụng song kích, không dụng kích mà đổi dùng song đao".

    Ngốc Phát Ô Cô cười âm hiểm: "Lần này hắn dám động thổ trên đầu thái tuế, ta nhất định bắt hắn muốn chết không được, cầu sinh chẳng xong".

    Phù Dung nói: "Chúng ta không có thời gian lằng nhằng với hắn, cứ việc dùng khoái đao trảm loạn ma, nghênh đón thiên vương nhập tập".

    Nói đoạn, trầm giọng quát: "Mông Tốn, Ô Cô, hai ngươi lập tức tới thành ngoại điều một đội nhân mã nhập tập, lấy người của Tiên Ti bang trùng trùng vây khốn, bất luận già trẻ trai gái, giết sạch không chừa ai, giết lầm người không quan hệ, quan trọng nhất là không để cá lọt lưới, ta dám bảo đảm Thác Bạt Khuê có mặt trong đó, bằng không sao có thể kịp thời cứu thoát Yến Phi".

    Mông Tốn, Ô Cô dạ vang, vâng mệnh bỏ đi. Phù Dung quay sang phía Khất Phục Quốc Nhân, trầm ngâm nói: "Xem như vậy, Yến Phi cùng Thác Bạt Khuê tất có quan hệ mật thiết, hắn ta thực sự xuất thân lai lịch thấp kém sao, với kiếm pháp của hắn, đáng ra không phải là kẻ nhàn cư mới phải".

    Khất Phục Quốc Nhân lãnh đạm nói: "bất luận hắn là kẻ nào, chỉ cần Phù chủ soái lệnh Quốc Nhân đi truy sát, bảo đảm hắn không thể sống quá ba ngày".

    Phù Dung ngẩng nhìn trời cười: "Kẻ này đi về phía nam, tất có ý đồ, nếu có thể bắt sống hắn, có thể bức hắn khai ra Thác Bạt mã tặc lẩn trốn nơi nào, bọn chúng đã khiến chúng ta nhiều năm qua khốn khổ ở miền biên cương phía bắc. Quốc Nhân ngươi thuật truy tung thiên hạ vô song, Yến Phi có cánh cũng không thoát khỏi bàn tay ngươi".

    Khất Phục Quốc Nhân hú lên một tiếng chói tai, tiếp đó thần tình lại trở nên ngơ ngẩn: "Tôi sẽ khiến hắn đến cả khuê danh của mẹ hắn cũng phải nói ra". Một tiếng vỗ cánh từ thinh không truyền lại, một con chim ưng săn mồi hạ xuống đậu trên vai hữu Khất Phục Quốc Nhân.

    Khất Phục Quốc Nhân chân không chạm đất, hướng về phía sau phóng đi, tóc bay phất phơ, mau chóng gia tăng thân pháp như qui mị, Phù Dung đứng trông theo, có cảm giác không rét mà run. Mặc dù Yến Phi là địch nhân, cũng không vì nỗi hắn không tránh khỏi bị khuất nhục mà sinh dạ bùi ngùi.

    Khất Phục Quốc Nhân phi qua bờ bên kia, thoắt đã không thấy đâu, biến mất trong rừng cây rậm rạp.

    ° ° °

    Kinh Châu, Giang Lăng, phủ thứ sử, nội đường.

    Hoàn Huyền lao qua cửa như một cơn gió, đến sau lưng Hoàn Xung đang thưởng ngoạn cảnh sắc ngoài vườn qua song cửa, giận dữ nói: "Còn có đạo lý gì không? Đại ca thử nói coi, đệ thân làm Nam quận vương, đang khi quốc gia hữu nạn, Hoàn Huyền này tự động xin đi giết giặc, nguyện lãnh ba ngàn quân tinh nhuệ lui về thủ vệ kinh thành, nguyện để Tạ An sai khiến, vậy mà ông ta không thèm nhận, nói cái gì đệ cứ yên tâm, ba ngàn binh mã có cũng không nhiều, không có cũng không ít, cần nhất bảo vệ yên ổn Kinh Châu. Đại ca nói xem, ta nên làm gì, chẳng lẽ ngồi coi Tạ An gây ra tai họa cho nước cho dân sao?".

    Hai người là anh em cùng cha khác mẹ, Hoàn Xung là trưởng, Hoàn Huyền là thiếu, thế nhưng vẻ ngoài, tính tình đều không giống nhau.

    Hoàn Xung thân hình trung đẳng, tướng mạo chất phác vụng về, năm nay sáu mươi mốt tuổi, mũi to, trán cao, mục quang thận trọng kiên định, ngoại hình không làm người ta để ý, nhưng lại khiến người ta có cảm giác rất yên tâm.

    Hoàn Huyền kém anh hơn ba chục tuổi, vừa mới hai mươi bảy, thực tế mặt mũi lại còn trẻ hơn tuổi, tinh thần sáng láng, ngũ quan đoan chính, nhưng cặp mắt nhỏ mà dài khiến cho gã có chút khí chất tà dị, tựa như gã sở hữu một lực lượng thần bí, lại vừa khiến cho gã nổi bật hẳn lên so với thường nhân, thể hiện rõ ràng tài trí thông minh của gã.

    So với Hoàn Xung, gã cao hơn tới nửa đầu, thân hình mảnh dẻ cân xứng, da trắng như ngọc, lại có được cái gọi là bẩm phú xuất chúng của con em thế gia vọng tộc, chính là điều khiếm khuyết chí tử của Hoàn Xung. Hoàn Huyền thân mình mang y phục võ sĩ hoa lệ, hông đeo bảo đao Đoạn Ngọc Hàn, xác thực có mị lực mê người.

    Hoàn Xung mắt vẫn ngắm nhìn cảnh đẹp buổi sơ đông bên ngoài, như không hề nghe thấy lời gã, bỗng nói: "Thủy quân Phù Kiên từ Ba Thục xuôi dòng mà tới, ngươi thấy tình hình ra sao?".

    Hoàn Huyền hơi ngơ ngác, bất quá vì gã rất tôn kính Hoàn Xung, không dám trái ý ông, miễn cưỡng đàn áp nộ hỏa bừng bừng trong tâm: "Chúng đã tiến công Kiến Bình thành ở thượng du, một cánh quân khác tiến tới dừng lại ở Tương Dương, thành thế ỷ giốc, uy hiếp Giang Lăng, đệ đã phái thêm binh mã phòng thủ Nghi Đô, Cảnh Lăng hai thành, nếu người Tần dám tấn công một trong hai nơi, chúng ta sẽ mang đại quân theo đường thủy mau chóng cứu viện".

    Hoàn Xung trầm giọng nói: "Nếu hai cánh địch quân này hợp làm một, thuận dòng tiến thẳng tới Kiến Khang, tiểu đệ ngươi biết sẽ có hậu quả gì chứ?".

    Hoàn Huyền ấm ức nói: "Đệ đương nhiên rất hiểu, nhưng đã có đại ca trấn thủ Kinh Châu, Dương Châu cũng ổn như Thái Sơn, đệ bất quá chỉ muốn vì triều đình tận tâm tận lực. Hãy xem, Tạ An dùng toàn người của Tạ gia, Tạ Thạch làm thống soái, tiên phong đốc quân là Tạ Huyền và Tạ Diễm, đệ về mặt này làm sao mà không bằng họ, từ khi mới mười sáu tuổi đã đem quân kháng địch, lập vô số công lao hãn mã. Hiện tại Phù Tần mang đại quân áp tới, Tạ An vẫn cứ cái kiểu một mình mình làm, tiếp tục buông thả nói suông. Đệ thừa nhận Tạ An đích thực là thạch trụ của triều đình, nhưng về quân sự lại ấu trĩ như trẻ con bị bịt mắt, chư tướng ngoài trận tiền nhiều người còn it kinh nghiệm tác chiến, thêm vào đó còn quân số nhiều ít khác nhau, thiết tưởng hậu quả ra sao cũng không khó đoán, bên ta chúng tướng đều trở thành nô lệ vong quốc hết".

    Hoàn Xung thở dài, tựa hồ cũng có đôi chút đồng ý với Hoàn Huyền, cười khổ nói: "Chính vì đại quân áp cảnh, cho nên chúng ta không có lựa chọn nào khác. Tạ An có lẽ không đến nỗi như đệ tưởng tượng, Tạ Huyền lại là danh tướng mưu dũng đầy đủ. Tiểu đệ, hãy giúp ta thủ ổn Kinh Châu, ngoài ra chỉ còn xem khí số Đại Tấn ra sao mà thôi".

    Hoàn Huyền ngó xung quanh người Hoàn Xung, lạnh lùng nói: "Đại ca chẳng nghe thiên do mệnh? Bằng vào uy vọng của đại ca nhất ngôn cửu đỉnh, đệ lập tức mang quân tới Kiến Khang gặp thánh thượng phân tách lợi hại, may ra có thể khiến thánh thượng hồi tâm chuyển ý thì thật là vạn phúc cho dân chúng".

    Hoàn Xung không buồn nhìn gã, lắc đầu: "Trận tiền dụng binh, há là việc của người trí giả? Cứ cho là Bắc phủ chư tướng đều tâm phục, lại càng khiến cho đại kế kháng địch trở thành loạn cục, những kẻ tiểu nhân như Tư Mã Đạo Tử nhân cơ làm rối, thừa nước đục thả câu, việc này tuyệt đối không thể làm".

    Hoàn Huyền căm hận nói:" Đại ca, Hoàn gia chúng ta tuyệt không thể đã sai lại sai nữa. Năm đó cha đã ép Tấn đế hành lễ cửu tích nhượng vị,nếu chẳng phải do Tạ An, Vương Thản Chi đồng lòng gây trở ngại, cha đã sớm lên ngôi bảo tọa, thiên hạ không còn của nhà Tư Mã mà là của Hoàn gia chúng ta. Chỉ hận cha không lâu vì bệnh mất đi, đại ca lại vô tâm với ngôi báu, hiện tại...".

    Hoàn Xung rốt cuộc thấy rõ lòng dạ gã, song mục thần quang sáng rực quát lớn: "Câm miệng, hiện tại Tấn thất không cần tranh giành cắn xé lẫn nhau, mà cần đoàn kết, chúng ta chỉ cần làm tròn bổn phận, nếu không hậu quả sẽ trở thành vong quốc nô. Ngươi mau cút về Nghi Đô cho ta, nhược bằng trái lệnh, chớ trách Hoàn Xung ta không niệm tình huynh đệ. Lập tức cút đi".

    Hoàn Huyền nhìn thẳng Hoàn Xung, muốn nói rồi lại thôi, cuối cùng hậm hực bỏ đi.

    ° ° °

    Màn đêm buông xuống, một cỗ chiến thuyền xuất phát từ Thọ Dương, nương theo Phì Thủy đi lên hướng bắc, tiến vào Hoài Thủy chuyển về hướng tây, ngược dòng đi lên Dĩnh Khẩu là đầu mối giao tiếp Dĩnh Thủy và Hoài Thủy. Trên thuyền toàn thể đều là thân binh của Thọ Dương trấn tướng Hồ Bân, do Lưu Lao Chi dặn dò, việc này cần bảo đảm tối mật, không thể để tiết lộ ra ngoài, chỉ biết là phải hộ tống một người đến Dĩnh Khẩu, mục đích gì thì với thân phận trọng tướng ở tiền tuyến như Hồ Bân cũng không biết mảy may. Tên tiểu tỳ tướng Lưu Dụ được phái đến hết sức coi thường người ta, ngay cả với hắn cũng thủ khẩu như bình, nhất định không tiết lộ manh mối, cùng hắn gặp mặt trao đổi không tới mười câu.

    Hồ Bân cùng Lưu Dụ đứng trên đầu thuyền, tên này đương giương cặp mắt sáng rực quan sát tình thế trên bờ bắc Hoài Thủy.

    Hồ Bân hết nhẫn nại, cất lời thăm dò: "Lưu Dụ ngươi với tình thế Biên Hoang có nắm rõ hay không?".

    Lưu Dụ thần sắc lãnh đạm khẽ gật đầu, không kiêu không nhún nói: "Thuộc hạ từng phụng mệnh nhiều lần tới Biên Hoang thám thính tin tức".

    Hồ Bân nhịn không nổi quay ra quan sát gã, trong lòng hết sức hiếu kỳ. Lần này Lưu Lao Chi phái Lưu Dụ tới Biên Hoang, Hồ Bân cho là uổng công vô ích. Vì rằng trọng trách nắm tiền tuyến quân tình là do hắn phụ trách, tự nghĩ khi Phù Kiên đem quân nam hạ, hắn đã sớm cho người trinh sát cẩn thận, gã tiểu tử này, căn bản không làm được chuyện gì, huống hồ gã mới ngoài hai chục tuổi, chắc kinh nghiệm không đủ. Nhưng hắn lại có cảm giác không thể coi thường gã, Lưu Dụ mang vẻ kiên cường, trầm tĩnh tự tin, khiến người ngoài tin tưởng ngày sau gã nhất định trở thành nhân vật phi thường.

    Lưu Dụ chỉ cao hơn người thường một chút, được cái mặt to tai lớn, thân hình mạnh mẽ, tướng mạo đường đường, song mục thần ẩn kín, song chưởng đặc biệt to lớn, tuy không làm động tác gì, vẫn khiến người ta có cảm giác kinh dị, tùy thời có thể bộc phát lực lượng kinh nhân.

    Hồ Bân nói: "Sau khi tiến nhập Biên Hoang tập, ngươi sẽ phải độc lập tác chiến, người của ta muốn ứng cứu sợ cũng không kịp. Ngươi thực không rõ tham quân đại nhân phái ngươi tới đó để làm gì sao? Nơi đó nay Hán nhân đi sạch không còn một ai, Hồ nhân hễ thấy người Hán là ra tay tàn sát, thủ đoạn thật tàn nhẫn, nếu ngươi bị chúng tìm bắt được, tiết lộ điều cơ mật, chẳng phải là khéo mà hóa vụng sao?".

    Lưu Dụ bình tĩnh chậm rãi nói: "Thuộc hạ địa vị thấp kém, về quân tình hiểu biết ít ỏi, nếu gặp tình thế bất ổn, ngay khi đó sẽ một bước tự tận, xin tướng quân khoan tâm". Hồ Bân thấy mình chơi bài này, Lưu Dụ vẫn không chịu thổ lộ điều gì, trong lòng bực bội, không nói thêm nữa.

    Chiến thuyền chậm chậm tạt vào hữu ngạn, Dĩnh Thủy từ mạn bắc cuồn cuộn đổ về, nhập vào Hoài Thủy, lại tiếp tục chảy về nam, sóng nước giao kích, dòng nước mạnh mẽ xô tới khiến lòng thuyền rung rinh.

    Lưu Dụ nhìn sang bờ bắc Hoài Thủy, Dĩnh Thủy tự nơi xa xăm vô tận chảy về, bên bờ là bình nguyên hoang dã. Từ đây mà đi lên hướng bắc, với cước trình của gã, một đêm có thể tới được tòa thành đổ nát Nhữ Âm, từ đây lại đi thêm hai ngày sẽ tới Biên Hoang Tập, trong lòng bất giác nổi lên hào tình tráng chí, Hồ Bân ở bên cạnh cũng không biết chuyến đi này của gã chẳng những quan hệ đến sự tồn vong của nhà Tấn, mà còn liên quan đến sự nghiệp vinh nhục cả đời gã. Gã đã chờ đợi cơ hội này, chỉ có điều không phải là giao chiến lập công trên chiến trường, mà là thâm nhập vùng địch hậu, tiến hành những sứ mệnh hầu như bất khả thi.

    Chiến thuyền áp sát bờ sông, Hồ Bân lạnh lẽo nói: "Đi đi, chớ cầu lập công, hãy cầu toàn mạng trở về".

    Lưu Dụ vỗ vào bao phục trên lưng, đang muốn tung người nhảy lên bờ, bỗng nhiên song thủ run lên, biểu thị đề phòng.

    Có tiếng y phục xé gió vọng đến, hai người giật mình nhìn sang, một đạo hắc ảnh từ mặt nước vọt lên, bay quá bánh lái của con thuyền chừng một trượng về bên trái, mau lẹ không gì bằng lao đến phía hai người. Kẻ đến mang áo choàng màu xám lớn căng phồng theo gió sông giống như đôi cánh của một con dơi hút máu ban đêm, cặp mắt lóe lên những đốm quỷ hỏa màu lục đáng sợ, biểu thị một đường lối tu luyện nội công riêng biệt, ngụy dị vô luân.

    Người chưa tới, một đạo kình khí cường đại đã áp tới, hơn chục thân binh còn chưa kịp bạt xuất binh khí, thích khách song thủ phân ra, vươn trảo chụp vào thiên linh cái Hồ Bân và Lưu Dụ...

    ° ° °

    Trên đống lửa, mỡ chảy xuống từ cái đùi sói nướng, khiến cho ngọn lửa bập bùng lúc sáng lúc tối, kèm theo âm thanh lụp bụp.

    Sau hai ngày đêm vội vã mải miết đi, Yến Phi đã rời xa Biên Hoang Tập, cần phải dừng lại nghỉ ngơi, bảo trì cái bụng. Dĩnh Thủy đã ở cách nơi này chừng nửa dặm, bờ sông bên kia là Biên Hoang Tập và tòa thành hoang phế Nhữ Âm thuộc Dĩnh Khẩu. Tuy gã vẫn chưa biết làm cách nào để gặp mặt Tạ Huyền, nhưng gã quyết định cứ việc đàng hoàng, chuyện tiếp kiến tới Thọ Dương sẽ nghĩ biện pháp giải quyết. Trước mắt, chuyện cấp bách không gì hơn là hưởng thụ mỹ thực vừa săn được. Nếu có thêm một vò Tuyết Giản Hương thì càng lý tưởng.

    Dòng sông Dĩnh Thủy êm ả khác thường, không thấy bóng thuyền bè, nhưng cơn cuồng phong bạo vũ vừa qua gây cảm giác trầm trọng bức bách. Vầng trăng sáng tỏ treo cao lại người ta khó mà liên tưởng tới một trường phong vũ khốc liệt hai hôm trước.

    Yến Phi rút thanh chủy thủ, cắt một miếng thịt sói bỏ vào miệng ăn đầy vẻ thích thú, tự mình cảm thấy rất vui sướng. Hắn gần một năm nay không trải qua cuộc sống lưu lãng hoang dã, bỗng nhiên thấy lại cảm giác kỳ thú trước đây, nhược bằng không có chiến tranh, đây đã là một chuyện khoái ý rồi; hắn thích mong cầu thật ít thì mong cầu thật ít, đơn giản chỉ muốn kiếm sống một cách đàng hoàng, như vậy đủ cho hắn nhàn tản được mấy năm, chỉ đáng tiếc hiện thực lại tương phản với giấc mộng đó.

    Bất giác nhớ lại lần nói chuyện với Thác Bạt Khuê trước lúc chia tay, Thác Bạt Khuê tự nhận tình thế hiện nay nắm rõ như trong lòng bàn tay, nhưng đối với người phương nam nhận thức lại thực có chỗ chưa tới nơi. Bởi vì Thác bạt Khuê không từng cùng hắn quay lại sống qua một thời gian đủ dài ở phương nam, đối với Ô Y môn lại càng không có những kiến giải đủ sâu sắc.

    Nếu lấy Vương, Tạ làm đại biểu cho Ô Y Hào Môn, vốn là hạng áo mũ xênh xang trong triều đình bắc phương, từ sau khi nam độ trở nên kiều tính sĩ tộc, trong hàng cửu phẩm được chính sách tuyển quan dụng nhân bảo hộ, tại mảnh giang san còn lại của nam Tấn, chuyện này vẫn tiếp tục không đổi, hình thành những thế gia vọng tộc nguồn gốc sâu xa phát triển lớn mạnh, con em đệ tử có tư chất thì phong lưu hấp dẫn, nắm giữ ngôi công khanh, duy trì thế lực của gia tộc, khiến chúng ngạo thị người thường, tới mức dựa vào quân công giả mạo để tỏ ra tôn quý. Thậm chí đến hoàng đế như Tư Mã Diệu chỉ có thể phong quan tước cho hàn nhân, nhưng vô pháp biến họ thành quý tộc, vì rằng đó là luật lệ đã được truyền lại từ đời này qua đời khác, không thể với một đạo thánh chỉ mà thay đổi được.

    Đối với thế gia đại tộc mà nói, ai làm hoàng đế không thành vấn đề, cần nhất là bảo tồn địa vị ưu việt của gia tộc, không có chuyện thương cảm hay tiếc nuối chi hết. Họ quan tâm tới việc phát triển gia tộc, chứ chẳng quan tâm triều đình hưng suy. Cho nên xử lý quốc sự có thể thoải mái tùy tiện, nhưng kế thừa sự nghiệp gia tộc không thể có một chút hàm hồ. Nói như vậy, trong đám con em hai thế gia này, muốn tìm trung thần khó ngang lên trời, nhưng hiếu tử thì quơ tay là đụng.

    Chính cái chế độ cao môn đại phiệt này đã hình thành nên tình huống quái dị đó.

    Mặc dù Vương, Tạ là lưỡng gia sĩ tộc hàng đầu, nhưng gia phong lại hết sức khác nhau. Vương gia coi trọng nho học, Tạ gia con em thì cao đạo xuất trần, tận tình theo lễ, sùng bái huyền học Lão Trang, khiến sĩ tộc hình thành vị thế sánh vai cùng Tấn thất

    phối hợp đồng hành, miễn sao vượt qua lợi ích chính trị của người ngoài, biến thành lực lượng bảo thủ áp bức các hào môn bổn địa cùng hàn môn mới quật khởi.

    Tình huống này, cho dù quyền cao chức trọng như Tạ An, Vương Thản Chi cũng vô pháp thay đổi, Tấn thất lại càng không có khả năng, mâu thuẫn này ngày càng trầm trọng, tất sẽ dẫn đến đại loạn, khơi ra bởi nam Tấn hoặc bởi ai đó, có thể không do tay Phù Kiên, mặc dầu lúc nào đó ông ta khẽ cong ngón tay cũng đủ nên chuyện, chỉ không biết kẻ này từ phương bắc tới hay lại là loạn thế anh hùng bản địa mới quật khởi.

    Đang khi nghĩ ngợi tới chỗ đó, Yến Phi bỗng chậm rãi thu dọn mấy miếng thịt nướng đang tỏa hương vị thơm ngon, khẽ quát:" Ra đi, bằng hữu".


  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 6

    Hoang thiên đại pháp
    Trong số tướng lĩnh Bắc phủ, Hồ Bân có thể coi là cao thủ hạng nhất, tuy không so được với Lưu Lao Chi, Hà Khiêm, Tôn Vô Chung ba người, nhưng e sánh với Cát Khản, Cao Hành, Lưu Quỹ và Điền Tế không hề sút kém. Khi trảo của địch nhân chụp tới còn cách đỉnh đầu vài thước, hắn đã nhanh như cắt rút bội kiếm tiến lên, đồng thời khuỵu thân tọa mã, triển khai một tư thế đủ cả công lẫn thủ, không chút sơ hở.

    Nào ngờ đối phương bỗng nhiên biến chiêu, đổi trảo thành phất, tay áo vụt quất xuống dưới, giống như cánh tay tự dưng dài thêm ba thước, trường tụ chứa đầy chân khí nặng như non chụp vào thân kiếm, đáng sợ hơn là kình khí theo thân kiếm xâm nhập nội thể, Hồ Bân ngay lập tức bị chấn liệt hổ khẩu, không chịu nổi sức công phá, nửa thân mình đau đớn kịch liệt, trường kiếm thoát thủ bay xuống sông. Đây là lần đầu tiên hắn bị đối phương đánh bật kiếm khỏi tay.

    Đang khi cực kỳ kinh hãi, lại thấy đối phương vung cước kích tới trước mặt, muốn tránh cũng không kịp, thầm kêu "mạng ta hỏng rồi", các thân binh bên cạnh ào tới cứu viện thảy đều chậm mất một bước.

    "Bồng".

    Tiếng kình khí giao nhau vang động bên tai Hồ Bân, hắn cảm giác thấy bên kia Lưu Dụ bật lùi về phía sau, địch nhân một cước suýt lấy mạng hắn vọt ra xa còn mau hơn, một tràng cười dài truyền tới, "coi như Hồ Bân ngươi mạng lớn".

    Các thân binh vây quanh Hồ Bân, bảo vệ hắn vòng trong vòng ngoài, người nào người nấy đều kinh hãi mất vía. Hồ Bân miễn cưỡng đứng dậy, liếc nhìn Lưu Dụ, thấy viên tướng trẻ này đã cho đao vào vỏ, thần tình vẫn lạnh lùng, đang chăm chú nhìn về phía bờ sông nơi thích khách đã mất dạng trong tăm tối. Hồ Bân không nhẫn nại được nữa, giọng tán thưởng: "Tiểu huynh đệ, thật không ngờ, hoàn toàn một đao của ngươi lui địch, chuyện này ta nhất định sẽ báo cáo rõ với tham quân đại nhân".

    Lưu Dụ nói: "Mục tiêu của hắn là Hồ tướng quân, lại thêm coi thường tại hạ, vì vậy mới may mắn đắc thủ. Nếu tại hạ đoán không sai, kẻ này nếu chẳng phải Thái Bình Thiên Sư Tôn Tư, thì cũng là truyền nhân đắc ý của hắn, bằng không chẳng thể có sức mạnh đến vậy, hắn ta mắt chiếu thanh quang lấp lánh, chính là đã thi triển địa pháp nằm trong Hoàng Thiên Đại Pháp của Tôn Tư".

    Hồ Bân đã thay đổi hoàn toàn cách nhìn với Lưu Dụ, ân cần nói: "Người này có thể ẩn nấp đâu đó tính cách hại ngươi, hay là thủ tiêu kế hoạch đêm nay, đêm mai ta sẽ an bài cho ngươi tìm chỗ khác tiềm nhập Biên Hoang".

    Lưu Dụ quả quyết nói: "Không cần đâu, tại hạ biết cách tự lo cho mình". Nói xong tung mình lên biến mất trên bờ sông tối tăm.

    ° ° °

    Cành lá rung rinh, một người tự ngọn cây nhảy xuống, cười ha ha nói:"Ta đã tưởng nam quân ở cái chốn ma mọi này mới thiết lập một tòa phong hỏa đài, nguyên lai là tiểu tử Yến Phi nướng thịt ngon, hại mỗ lập tức thực chỉ rung động (tích cũ: có người mỗi khi sắp được ăn món ngon, ngón tay máy động báo trước, sau gọi là thực chỉ), người này không chút khách khí ngồi ngay xuống bên cạnh Yến Phi.

    Yến Phi cắt một tảng thịt to đưa cho hắn nói: "Ta lại cho là ngươi chết quách đi rồi".

    Người mới tới chính là tay Phong Mai xuất sắc nhất ở Biên Hoang Tập tên Cao Ngạn, gã cầm miếng thịt đùi sói ăn ngấu nghiến, nói không ra tiếng: "Câu này lý ra là để ta hỏi ngươi mới phải. Ngươi lần này nghênh ngang như thế, không sợ chọc cho Hồ nhân tới sao?".

    Yến Phi mười phân thành thực nói: "Cho là có kẻ theo dấu truy tìm ta, cũng đã bị thủ pháp nghi binh dẫn dụ truy theo hướng ngược lại sang Nhữ Âm thành ở bờ bên kia. Nói tới phản truy tung, ta cũng có được một số biện pháp. Làm sao ngươi lại thay đổi chủ ý? Ngươi không phải muốn lưu lại Biên Hoang Tập để đại phát tài sao?".

    Cao Ngạn lắc đầu cười khổ: "Suýt chết con bà nó thì có. Bỗng dưng quân tiên phong của Phù Dung từ bốn phương tám hướng ập vào Biên Hoang Tập, chặn đường tiến ra thông đạo, lại sai người trùng trùng bao vây Biên Hoang Tập, một lũ giết người hung dữ như lang sói, may sao ta đã lo liệu trước, dự bị sẵn đường lui, mau chóng chuồn đi, bằng không thì cái mệnh nho nhỏ này cũng đi đứt rồi".

    Yến Phi cắt ngang: "Ngươi có thông đạo bí mật có thể ly khai Biên hoang tập sao?".

    Cao Ngạn giơ ba ngón tay cười hi hi: "Muốn ta nói ra cho ngươi sao? Lão tử cho ngươi một cái giá ưu đãi nha".

    Yến Phi cảm giác rất không ổn, tuy xem ra tự mình không có khả năng, nhưng Phù Dung lần này rõ ràng chĩa mũi nhọn vào Thác Bạt Khuê, bất giác tâm tình hết sức bối rối, chẳng biết nên tiếp tục hoàn thành công việc Thác Bạt Khuê phó thác, hay là quay trở lại Biên Hoang Tập coi cứu cánh, trong lòng day dứt không yên, bực tức nói: "Cút mẹ ngươi đi. Ngươi hiện giờ tính đi đâu vậy?".

    Cao Ngạn hận đến nhe hết cả bộ xỉ ra: "Không ăn được thì đạp đổ. Ngươi nhân lúc người ta gặp cơn nguy khốn, ăn chặn của ta năm đĩnh vàng mồ hôi xương máu, may sao hiện tại ta lại có thể tìm nam nhân bán chút tin tức, thu lại mấy đồng vậy".

    Yến Phi ngưng thần nhìn ngọn lửa, trầm giọng nói: "Cao Ngạn, ta có thể tin ngươi chăng?".

    Cao Ngạn ngạc nhiên đáp: "Vấn đề của ngươi thật cổ quái. Bất quá vì ngươi mấy năm nay giúp ta không ít, lão tử tuy không phải loại người cảm ân phải báo, nhưng cũng có mấy điểm cảm động. Nói đi".

    Yến Phi liếc nhìn gã, nhíu mày nói: "Ngươi cuối cùng là loại người gì? Ngoài việc bán tin tức kiếm tiền, thực không có lý tưởng hay mục đích cao xa gì sao?".

    Cao Ngạn kỳ quái hỏi: "Ngươi chẳng phải là gã Yến Phi mọi sự đều chẳng quan tâm sao? Sao bỗng dưng lại quan tâm tới ta vậy? Thấy người ta bằng hữu thân thiết, ta cũng không đành lừa ngươi, Cao Ngạn này là người thấy tiền là sáng mắt, lý tưởng duy nhất là kiếm tiền không ngừng, sau này tìm chốn phong lưu khoái hoạt. Không cần tín nhiệm ta, chỉ cần ra giá đủ hấp dẫn, với ai ta cũng có thể bán tin tức cho".

    Yến Phi cười nhẹ: "Ngươi đang lừa ta thì có, ngươi chỉ sợ bị người ta nhin thấu nội tâm lương thiện, mới đánh lộn sòng coi tiền như mệnh, thấy lợi quên nghĩa như vậy. Bớt nói lời thừa đi, coi đây!".

    Vừa nói, vừa dùng chủy thủ đào đất, đưa tay lần mò, rồi tiếp tục đào, dưới đôi mắt trợn trừng của Cao Ngạn, đã thấy mười đĩnh vàng trong tay hắn rực rỡ dưới ánh hỏa quang.

    Cao Ngạn hai mắt phát sáng, trừng trừng nhìn đống vàng giận dữ nói: "Ngươi không phải là muốn vật quy nguyên chủ, lại trả tiền để mua tin tức quan trọng hay sao? Mẹ nó chứ, thiên hạ đâu có chuyện dễ dàng như thế nhỉ? Nói mau, chỉ cần không bắt ta quay lại Biên Hoang Tập, nhất định kiếm cách cho ngươi thỏa đáng rồi".

    Yến Phi nói: "Chuyện này nói lạ thì không lạ, nói khó cũng không khó, mà cần lợi dụng nhân duyên quan hệ của ngươi, giúp ta tìm Hồ Bân, nói với hắn năm ngày sau, vào khoảng từ giờ Dậu đến giờ Tuất ta sẽ tới Lang Tử Cương ngoài thành Thọ Dương, nếu Tạ Huyền muốn tìm kiếm một chiến thắng to lớn nhất kể từ sau trận Xích Bích thì tự thân tới đó, Yến Phi ta sẽ không để hắn phải thất vọng đâu".

    Cao Ngạn lộ thần sắc kinh ngạc ngoài sức tưởng tượng, ngơ ngác nhìn hắn một lúc lâu, lẩm bẩm: "ngươi không đùa chứ, muốn Tạ Huyền tới gặp ngươi, chẳng lẽ cứ nói khơi khơi là xong hay sao?".

    Yến Phi tiện tay cầm khúc xương đùi đã bị hai người chén hết thịt quăng đi, thu cất chủy thủ, điềm nhiên nói: "Ta đương nhiên có tín vật làm bằng, bất quá món hàng đáng giá bảy đĩnh vàng mà ngươi đòi lấy của ta mười đĩnh".

    Cao Ngạn ngạc nhiên: "Phải là mười đĩnh, đúng không?".

    Yến Phi cười nhẹ: "Ba đĩnh này là ta mua tin tức về thông đạo bí mật ra vào Biên Hoang Tập".

    Cao Ngạn hạ thấp giọng nói: "Ngươi thật có biện pháp cho Tạ Huyền thắng trận này sao?".

    Yến Phi cười khổ:" Thiên vương lão tử cũng chẳng có cách nào đưa ra bảo chứng cho chuyện này, bất quá khả dĩ khiến cho hắn có nhiều cơ hội giành chiến thắng hơn, còn chi tiết cần phải bảo mật, Tạ Huyền trông thấy vật chứng, tự khắc minh bạch".

    Cao Ngạn xòe bàn tay, tức giận nói: "Xong rồi!".

    Yến Phi bốc vàng bỏ vào tay hắn: "Không phải ngươi sẽ chuồn đi chứ?".

    Cao Ngạn thở dài: "Nếu vậy ta còn làm người được sao? Chưa kể giao tình của chúng ta, ta dầu gì đi nữa cũng là Hán nhân, lại còn tiểu tử ngươi chân trời góc biển truy sát, hại ta ngày đêm lo sợ nữa".

    Lại nói tiếp: "Phế viện Lương thị, đông bắc thành, trong khu vườn phía đông có một ao sen, nhập vào thủy đạo sẽ thông ra Dĩnh Thủy, chiều dài chừng mười mấy trượng, đủ rộng để một người chui lọt, coi chừng đại bản doanh của Để bang ở ngay cạnh".

    Yến Phi chìa ra một cái túi da dê chứa bảo, nói: "Ngươi tốt nhất đừng mở ra coi, khỏi lo không chịu nổi bị dụ hoặc, gây chuyện lụy người lụy mình".

    Cao Ngạn tiếp lấy, nhíu mày ngó Yến Phi: "Ngươi cứu cánh là loại người gì vậy?". Yến Phi ngẩng đầu nhìn vầng trăng sáng bên trên, thần sắc biểu hiện thống khổ, nét u uất trong ánh mắt lại càng trầm trọng, miệng khẽ ngâm:

    " Dạ trung bất năng mị, khởi tọa đàn minh cầm.
    Bạc duy giám minh nguyệt, thanh phong xuy ngã khâm.

    Cô hồng hiệu ngoại dã, tưởng điểu minh bắc lâm.

    Bồi hồi tương hà kiến? Ưu tư độc thương tâm"



    Cao Ngạn nghe mà ngơ ngác, gã không hề biết Yến Phi ngâm tác phẩm Vịnh hoài thi của Nguyễn Tịch, người đứng đầu Trúc lâm thất hiền trước tác hơn trăm năm trước. Tuy gã chữ nghĩa không nhiều, nhưng mà những hình ảnh gì gì tiếng đàn đêm khuya, trăng lạnh gió gào, cánh hồng cô độc cũng khiến gã đồng cảm với Yến Phi cùng nội tâm mê mang, tịch mịch, đau thương hắn mang trong lòng. Điều này ẩn khuất không lộ ra chút nào, người quen biết cũng chỉ thấy dấu vết của những lo âu tư lự mà thôi.
    Có thể thấy Yến Phi không thể kềm chế nổi mà biểu lộ ra lúc này, thực có một trái tim đau thương chồng chất, nhất thời Cao Ngạn muốn hỏi mà không thốt nên lời. Yến Phi bỗng lộ thần sắc cảnh giác, chăm chú nhìn lên trời, Cao Ngạn nhảy bổ lên, quét mắt nhìn bầu trời đêm, một chấm đen đang lượn tròn trên đầu hai người. Yến Phi thần sắc ngưng trọng, trầm giọng nói: "Nếu ta không nhầm, con súc sinh này chính là của Khất Phục Quốc Nhân tên gọi Tái Bắc Thần Ưng Thiên Nhãn". Cao Ngạn lập tức toàn thân rét run.

    Khất Phục Quốc Nhân là cao thủ đáng sợ thuộc Tiên Ti tộc, chỉ xếp sau Mộ Dung Thùy, thủ đoạn tàn nhẫn, tinh thông thuật truy tung, điều khiến người ta sợ hãi nhất là hắn ta lại ham thích nam nhân, lọt vào tay hắn coi như phải chịu nhục nhã ê chề, sống không bằng chết, gã cũng quên luôn không hỏi bằng cách nào Yến Phi nhận ra đó là Thiên Nhãn Ưng của Khất Phục Quốc Nhân, kinh hãi nói: "Bọn ta chuồn thôi".

    Yến Phi vẫn thần thái thản nhiên: "Không cần vội vã. Ta sẽ chỉ cho ngươi theo đường nào mà đi, ngươi chỉ cần lập tức y theo như thế, chuồn càng xa càng tốt, đến tận Thọ Dương trấn cũng chẳng cần quay đầu nhìn lại, ta tự khắc có cách bảo mệnh trốn chạy".

    Cao Ngạn hồi hộp yên lặng chờ đợi. Yến Phi nhắm mắt, bỗng quát khẽ:"Đông nam!".

    Cao Ngạn chỉ hận cha mẹ sinh ra cho hắn có một cặp giò, kêu khẽ:"Tiểu tâm" rồi vọt đi như một tia khói.

    Yến Phi chầm chậm rút Điệp Luyến Hoa đứng lên, mở to cặp hổ mục. Nháy mắt đã thấy Khất Phục Quốc Nhân áo choàng đỏ tung bay, phiêu dương như quỷ mị, từ góc tây bắc rừng rậm mà lại, chân không chạm đất, xuất hiện như u linh trước mắt.

    ° ° °

    Lưu Dụ lưng đeo bội đao, dưới ánh trăng chiếu sáng vằng vặc trên đồng hoang, mau lẹ chạy một hơi hơn mười dặm đường, cảm thấy vừa an ủi, lại vừa thất vọng. Hắn an ủi là do nguyên nhân trên đường không bắt gặp một cao thủ Ngũ Đẩu Mễ Đạo nào, chẳng phải vì hắn lo không địch nổi, mà vì không muốn sinh chuyện gì. Chẳng may thất thố thì thật là một trở ngại lớn cho nhiệm vụ lần này; hắn thất vọng lại vì chẳng kiếm nổi một nửa tên hoang dân nào trốn từ Biên Hoang Tập ra, bởi hắn hy vọng từ miệng bọn này khai thác tình hình bên trong Biên Hoang Tập. May mà hắn tính cách kiên nghị, cho nên cũng chẳng vì vậy mà tiết giảm ý chí.

    Bên phải là dòng sông Dĩnh Thủy uốn khúc chảy về nam. Hắn đang phân vân không biết có nên theo bờ tây Dĩnh Thủy đi lên bắc, như thế nhiều khả năng gặp được hoang nhân. Bỗng nhiên một tiếng kêu thê thảm từ cánh rừng hoang phía tây bắc vọng tới, theo hắn dựa vào nhĩ lực phán đoán, nơi đó cách chừng nửa dặm.

    Lưu Dụ trong lòng rung động, thầm nghĩ hẳn là cường đồ chặn đường cướp đoạt, xem ra cũng thuận đường, lại thêm khả năng trên đường là hoang nhân chạy trốn khỏi Biên Hoang Tập, thêm nữa là cơ hội hành hiệp trượng nghĩa, không chút do dự, theo hướng thanh âm phóng tới.

    ° ° °

    Khất Phục Quốc Nhân tựa như hồng y lệ quỷ từ địa ngục hiện lên, đứng dưới ánh trăng cách chừng hai trượng ngắm nhìn Yến Phi ngạo nghễ đứng bên đống lửa, tay không mang võ khí, nhưng Yến Phi biết rõ cây trượng thành danh Huyền Thiết Xích của hắn theo thói quen vẫn giắt sau lưng.

    Yến Phi ung dung nói: "Khất Phục Quốc Nhân ngươi chẳng phải gần đây không có tiền hô hậu ủng thì mất oai phong sao? Vì cớ gì đêm nay lại lạc bước lênh đênh một mình vậy?".

    Khất Phục Quốc Nhân cặp mắt cá chết chợt thần thái đại thịnh, toàn thân cũng tự hồi phục sinh khí, khùng khục cười như gà mái: "Đã có tiểu tử ngoan ngoãn ngươi bồi tiếp, bổn nhân đâu còn sợ tịch mịch".

    Yến Phi không chút động tĩnh, mặt thoáng lộ nét cười, Điệp Luyến Hoa đã xuất khỏi vỏ, đồng thời vung tả cước đá tung đống lửa, hất bay cả đám than hồng, ngập trời hỏa tinh ập thẳng vào mặt Khất Phục Quốc Nhân. Điệp Luyến Hoa trong tay hữu hóa thành một luồng sáng xanh mau lẹ đâm tới điểm yếu hại trên ngực đối thủ, tất cả động tác thực hiện cực kỳ lăng lệ. Gã hiểu rõ sự lợi hại của đối phương, cướp tiên cơ toàn lực xuất thủ, không chút lưu tình.

    Khất Phục Quốc Nhân cười ha hả, áo choàng tung bay, tựa như nhất phiến mây hồng lượn tròn cuộn lên phản kích, ngay lập tức khiến cho Yến Phi không những mất mục tiêu công kích, mà kình khí cuộn tới còn khiến toàn bộ đám tàn than lửa bị hất ngược trở lại, gã thầm kêu bất diệu, vội vã thối lui. Gã nghe đối phương danh vang Cửu hỉ, nhưng không nghĩ Khất Phục Quốc Nhân đạt đến cảnh giới ấy.

    Khất Phục Quốc Nhân thực ra cũng phải âm thầm kêu khổ, hắn không tưởng Yến Phi biến chiêu linh hoạt đến thế, tùy tiện muốn tới thì tới, muốn lui thì lui, nếu để chân khí xảo kình từ áo choàng quét trúng thân kiếm, hắn sẽ thừa cơ thi triển thủ pháp tinh ảo đoạt kiếm, may mà Yến Phi hiện tại đã rơi vào bại thế, hắn chỉ cần thừa thế truy kích, bảo đảm Yến Phi vô lực hoàn thủ. Huyền Thiết Cích dài hai thước tám tấc danh tiếng lẫy lừng võ lâm phương bắc tìm theo công kích Yến Phi như hình với bóng.

    "Bồng! Bồng! Bồng!".

    Âm thanh của kình khí giao kích vang lên không ngừng. Bụi than tàn lửa bắn ra tứ tung, Khất Phục Quốc Nhân đụng phải ba tầng kiếm khí vô hình hữu thực, mỗi tầng kiếm khí đều ngăn trở hắn không cách nào tiến tới, nhuệ khí hoàn toàn tiêu thất sau lần va động cuối cùng. Lần đầu tiên Khất Phục Quốc Nhân gặp phải thứ kiếm pháp như vậy.

    Nguyên Yến Phi khi bay ngược trở lại đã bủa ra một lưới kiếm chia ra ba tầng bức bách Khất Phục Quốc Nhân vô pháp thừa cơ truy kích, theo nhận xét của Yến Phi, Khất Phục Quốc Nhân tuy bề ngoài thanh thế hung hãn, nhưng trong chiêu thức cựu lực đã tận, tân lực chưa sinh trong lúc lúng túng, vì vậy không thể tận dụng cơ hội. Luồng thanh mang trong tay đại thịnh, kiếm vũ ngập trời hướng đến kẻ địch đáng sợ đánh tới.

    Khất Phục Quốc Nhân hành động ra ngoài dự liệu của Yến Phi, chẳng hề thoái lui, cũng không thèm dùng thiết xích phong tỏa chiêu thức của gã, mà thân mình quỳ xuống, đầu lắc mạnh, một cuộn vải bố to tướng vụt phất lên xâm nhập trung tâm lưới kiếm, đập trúng vào Điệp Luyến Hoa.

    Bảo kiếm giống như bị trúng một chùy ngàn cân, sém chút đã thoát thủ bay đi, toàn thân kinh mạch hầu như tê liệt, khó chịu vô cùng, biết rõ đây là thời khắc sinh tử tồn vong, Yến Phi vội miễn cưỡng đề khởi chân khí, mượn thế xoay người, Điệp Luyến Hoa hóa ra kiếm khí che phủ toàn thân, nghiêm mật phòng thủ.

    Khất Phục Quốc Nhân đắc ý cười dài, thân mình bay vọt lên, lao tới trên đầu Yến Phi, Huyền Thiết Xích cuồng mãnh kích tới Yến Phi, không để lọt một kẽ hở nào cho gã đào thoát.

    Yến Phi dựa thế xoay mình hóa giải kình khí xâm nhập nội thể, mắt thấy Khất Phục Quốc Nhân dùng chiêu thức cao minh đến vậy, thầm kêu lợi hại, Điệp Luyến Hoa lập tức đảo ngược lên phản kích.

    " Đinh đinh đang đông".

    Kiếm, xích giao nhau vang lên một chuỗi âm thanh bất tận, Khất Phục Quốc Nhân từ phía trên liên tiếp đánh xuống, Yến Phi toàn lực ứng phó đối thủ đáng sợ này, thế công như bài sơn hải đảo của hắn khiến gã muốn sức cùng lực kiệt, chân không ngừng thối lui theo hướng Dĩnh Thủy.

    Chỉ trong chớp mắt, Yến Phi đã ngạnh tiếp hơn chục chiêu thức quán chú đầy chân kình, biến hóa lúc khinh lúc trọng, có thể theo phương bất kỳ đánh tới.

    "Pang!".

    Khất Phục Quốc Nhân bay vọt lên, hữu cước liên tiếp kích trúng mũi kiếm của Yến Phi.

    Một cỗ kình lực không thể chống nổi ập tới, Yến Phi cánh tay cầm kiếm đau đớn kịch liệt, loạng choạng lùi lại phía sau.

    Khất Phục Quốc Nhân cũng bị cường lực phản chấn không sao tiếp tục truy kích được nữa, thân mình vọt ngược ra sau hạ xuống đất.

    Khoảng cách giữa hai người bây giờ đã xa tới hai trượng.

    Yến Phi chập choạng đứng lên, oa một tiếng, phun ra một búng máu, Điệp Luyến Hoa lại trỏ vào đối thủ.

    Khất Phục Quốc Nhân Huyền Thiết Xích cũng trỏ thẳng Yến Phi, mớ tóc đen và tấm áo choàng không gió tự lay động, hình dáng như lệ quỷ, song mục phát xuất những tia âm lãnh kỳ dị hiếm thấy, chân khí bao trùm khóa chặt đối thủ, cất giọng âm hiểm: "Hảo kiếm pháp, Khất Phục Quốc Nhân ta gần mười năm nay mới gặp thứ kiếm thuật xuất sắc đến thế, với tuổi trẻ như ngươi cực khó đạt được, tiền đồ vô hạn lượng, chỉ tiếc là đêm nay kiếp số khó thoát".

    Yến Phi dùng toàn lực chống lại luồng kình khí Khất Phục Quốc Nhân không ngừng phát động áp tới gã, minh bạch đối phương đã bỏ ý định bắt sống, biến thành toàn tâm sát tử bản thân mình, tránh để ngày khác thành đại họa, cười nhẹ nói: "Cứ việc tận lực ra tay đi, coi xem có như ý ngươi không".

    Khất Phục Quốc Nhân trên mặt xuất hiện nét cười tàn nhẫn: "Ta biết ngươi là kẻ nào rồi, Mộ Dung Văn chẳng phải đã chết trong tay ngươi sao? Chỉ cần tin tức này truyền đi, cho là đêm nay ngươi may mắn trốn đi, người của Mộ Dung Tiên Ti há lại bỏ qua ngươi?".

    Yến Phi trong lòng rung động, tuy biết Khất Phục Quốc Nhân dùng kế công tâm, nhưng cũng bị ảnh hưởng rõ rệt, kiếm khí giảm đi mất ba phần.

    Khất Phục Quốc Nhân hét lên một tiếng, tấm áo choàng vụt bay ngược ra sau, thiết xích trên tay quán đầy kình lực rung trời chuyển đất, uy lực kinh người kích đến.

    Yến Phi gắng thu nhiếp tâm thần, luồng kiếm quang trên tay bung ra, toàn lực triển khai chiêu thức bảo mệnh trong Nhật Nguyệt Ly Thiên Tâm Pháp, Điệp Luyến Hoa vẽ thành một chuỗi những vòng tròn, từ vòng lớn dần hóa thành vòng nhỏ, bất kể chiêu số Khất Phục Quốc Nhân biến hóa ra sao, cuối cùng cũng bị một vòng tròn phong tỏa.

    Khất Phục Quốc Nhân trước tiên cảm nhận một cỗ kiếm khí dương cương thấu qua thiết xích kích tới, bụng bảo dạ tiểu tử lợi hại, vội vận xuất toàn lực, thầm nghĩ Yến Phi không chết cũng trọng thương, bỗng thấy dương kình hóa thành âm nhu, kình khí hắn phát xuất bị hóa tán ít nhất một nửa, khi biết trúng kế thì đã muộn.

    "Tang!".

    Yến Phi lại phun ra một búng máu, nhắm thẳng vào đầu vào mặt Khất Phục Quốc Nhân bắn tới, thân mình nương thế bay ngược trở lại, cười nói: "Cho lão ca ngươi một cơ hội phao tin đồn nhảm nghe".

    Khất Phục Quốc Nhân vừa mau lẹ chuyển thân tránh qua ngụm tiên huyết chứa đầy kình khí, Yến Phi đã thấy ở ngoài mười trượng xa, càng chạy càng nhanh, giận dữ gầm lên, đề khí truy theo như điên như cuồng.


  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 7

    Trại đêm nấu rượu
    Lưu Dụ từ một lối mòn trong cánh rừng rậm rạp nhảy ra, dưới ánh trăng chiếu sáng rực rỡ xuất hiện một tòa thành bảo màu xanh thẫm, gã không lạ chút nào, loại thành bảo như thế ở miệt bắc sông Hoài là sản phẩm độc đáo của địa phương này, có điều tòa thành trước mắt rõ ràng đã bị bỏ hoang khá lâu, cỏ dại um tùm, tường thành đổ nát, không một ánh đèn lửa, cổng vào đã biến thành ô trống tối thui.

    Từ Vĩnh Gia chi họa trở về sau, những thành bảo kiểu này trở thành một loại cứ điểm sanh tồn dành cho bách tính chống lại chiến hỏa tàn phá, người cùng thôn hoặc cùng họ tụ tập sinh sống, nghiễm nhiên thành ra đơn vị võ trang tự vệ dựa vào thành cao hào sâu. Thành bảo loại lớn có tới hàng ngàn hộ dân sinh sống, khói lửa mặn nồng, xóm giềng thân thiết.

    Theo kiến trúc mà coi tòa thành bảo trước mắt thuộc loại nhỏ, cũng có vọng lâu, trên tường còn đắp một đoạn thành dài chừng ba thước, qui mô chỉ hơn trăm hộ cư trú. Bất quá đấy là chuyện quá xưa rồi, hiện giờ chỉ còn vườn không nhà trống, tự tại lặng thinh tố cáo lão thiên gia về khổ nạn trên thân mình.

    Lưu Dụ bỗng nhiên tăng nhanh tốc độ, chuồn vào cổng bảo, thò đầu ra nhìn, mục quang quét nhanh, ba xác người liên tiếp nằm trên con đường lớn, giống như được xếp thành hàng cách nhau một trượng, thi thể gần nhất bị người bóp nát sọ, trảo kình thực là kinh khủng.

    Lưu Dụ hoàn toàn không muốn nhập bảo truy tìm căn nguyên, càng không muốn gióng chuông kêu gọi yêu đạo Thái Bình Giáo tới, chỉ liếc qua rồi quay đầu mau chóng li khai, hướng Nhữ Âm chuốn thẳng.

    Nếu để hỏng chuyện chính, huyết án trong bảo căn bản không đáng để nói đến.

    ° ° °

    Khất Phục Quốc Nhân chạy tới bờ đông Dĩnh Thủy, dòng sông trải dài dưới ánh trăng, sóng nước long lanh, trên bờ rừng cây tỏa bóng, hư hư thực thực, càng khiến người ta nghi thần nghi quỷ, Yến Phi thì không thấy tăm dạng.

    Thiên nhãn ưng liệng vòng tròn trên cánh rừng hoang rậm rạp bờ bên kia, hiển nhiên chưa nhìn ra nơi ẩn náu của Yến Phi trên một cành cây thô tháp giống như một cánh tay đang thuận dòng trôi xuống phía nam.

    Khất Phục Quốc Nhân lạnh lùng cười gằn, Yến Phi nhất định ôm cây ẩn núp trên sông, lại tá lực sang ngang cách bờ chừng sáu trượng, sau đó chuồn vào rừng rậm, hòng tránh né ánh mắt tinh tường của Thiên nhãn. Nghĩ tới đó, đang còn do dự, đại điểu đã đằng không lượn đi, hướng tới những khúc cây trôi trên sông, vô luận là cự ly hay tốc độ bập bềnh trên sóng ra làm sao cũng đều chụp tới không sót tí gì.

    Mắt đang nhìn mũi nước, đột nhiên dị biến phát sinh hết sức mau lẹ, khiến cho Khất Phục Quốc Nhân bản lĩnh ứng biến như vậy mà cũng không kịp phòng bị, cước bộ đại loạn.

    Từng tấc từng tấc cả một vùng bị băm nát, một đạo thanh mang phá thủy xung thiên vọt tới, kích thẳng vào những điểm yếu hại của Khất Phục Quốc nhân.

    Khất Phục Quốc Nhân quát to một tiếng, thi triển bản lĩnh đề kháng giấu kín xưa nay, là chiêu thức cứu mệnh tối hậu, cố gắng đề khởi chân lực vào hữu cước thay cho tả cước đạp thẳng lên trên mũi kiếm, toàn thân công lực đều tụ vào Dũng Tuyền huyệt.

    "Oanh!".

    Trường kiếm bay lên cắm xuông mặt sông, Khắc Phục Quốc Nhân rú lên kinh thiên động địa, chiếc giày nát bấy, tiên huyết bắn tóe từ bàn chân, loạng choạng mấy cái, quay đầu đi mất về bờ đông.

    Dưới nước Yến Phi tuy thầm vui mừng diệu kế thành công, nhưng cũng bị lực phản chấn của đối phương khiến cho toàn thân khí huyết dâng trào, lại càng tiếc trong hoàn cảnh thuận lợi như thế nhưng cũng không thể dồn đối phương vào tử địa, dù sao thì Khất Phục Quốc Nhân cũng đã nếm mùi lợi hại, nếu không tốn thời gian điều dưỡng đừng mong quay lại truy bắt gã.

    Kế sách xảo diệu của gã chính là trước tiên bám cây gỗ qua sông, chuồn vào rừng rậm, nhử cho Thiên nhãn tới truy tìm, lại bí mật xuống nước, tại đó phục kích kẻ địch. Khất Phục Quốc Nhân vừa đặt chân xuống đất, lập tức kêu gọi Thiên nhãn rồi thong thả tiến vào rừng cây bên bờ đông.

    Yến Phi trèo lên bờ tây, thở sâu một hơi, không dám dừng lại, hướng Nhữ Âm tiến tới. Gã thụ nội thương nghiêm trọng, cần tìm nơi ẩn mật tránh được Thiên nhãn nhòm ngó, điều tức dưỡng thương, chờ khi phục nguyên rồi lại quay về Biên Hoang Tập. Không có chốn nào lý tưởng hơn tòa thành hoang phế này.

    ° ° °

    Đô thành Kiến khang của Nam Tấn, Ô Y Hạng, Tạ phủ, Vong Quan Hiên trong Tứ Qúy Viên.

    Tạ An trải chiếu ngồi gần song cửa phía đông, đang tấu cây đàn ngũ huyền cổ cầm, ánh trăng vàng rải khắp vườn, trong hiên không một ngọn đèn, chỉ có ngọn lửa trong lò than nhỏ bập bùng, một vị tăng mang bạch y phong thần tú dật dùng quạt quạt lửa hâm rượu, thần thái du nhàn tự đắc.

    Tạ An đã tiến vào thế giới của cầm âm, hiện thực không còn tồn tại, tất thảy chỉ còn âm nhạc, gió theo tây song dịu dàng thổi đến, y phục hai người không ngừng bay lất phất, phảng phất như tiên nhân. Cầm âm chuyển điệu, khi thanh thoát khích lệ vượt lên, bỗng lại tiêu trầm ai oán, bất luận biến đổi ra sao, đều khiến người ta rũ sạch lo âu, tâm tình trong sáng, quên đi trần tục.

    Tiếng đàn ngưng lại, nhưng dư âm chưa dứt, vẫn quanh quẩn trong hiên. Tăng nhân nọ lắc đầu ngâm:

    "Ngoại bất ký ngoại,

    Nội nhuận quỳnh dao;

    Như bỉ tiềm hồng,

    Phất vũ vân tiêu.

    Tạ huynh ẩn thì tiêu sái, làm quan thì hiển hách; ẩn thời là phong lưu danh sĩ, quan thì vẫn là phong lưu tể tướng, cả đời phong lưu, nhưng điều khiến Chi Tuần ta bội phục ấy là lúc ở ẩn không quên tình thiên hạ, khi làm quan không quên tình núi sông, không thẹn là đệ nhất phong lưu nhân vật tự xưa tới nay".

    Tạ An cười nhẹ: "Chi Tuần đại sư sao bỗng dưng tán tụng Tạ An như thế, Tạ An thẹn không dám nhận, tự Hán Tấn trở lại đây, danh sĩ bội xuất, khi nào mới tính đến ta, ta coi đại sư có ý khác đúng không?".

    Chi Tuần gật đầu: "Nghe tiếng đàn của Tạ huynh mới rõ huynh bên ngoài tỏ ra phóng đạt tiêu dao, bên trong lại có mối thâm tình lưu luyến, âm thầm chất chứa niềm thương tiếc đối với trường nội loạn ngoại nạn này, tiếng đàn đêm nay tâm sự lại càng thêm nặng nề. Có phải vì lo lắng trường đại chiến sắp tới chăng?".

    Nói xong đặt hồ rượu lên trên lò than, tay kia lấy ra hai cái chén, tự nhiên đi tới ngồi xuống đối diện Tạ An.

    Tạ An khoan thai nói: "Cuộc chiến này thành bại, đã giao cho bọn trẻ phụ trách, Tạ An ta không để trong lòng. Chỉ bất quá vào thời khắc quyết định Đại Tấn tồn vong này, ta lại nghĩ đến rất nhiều điều trước đây không để ý. Đạo cùng tắc biến, vật cấp tất phản, đấy là cái lý của trời đất, không người nào đủ sức cải biến".

    Nói những lời cuối cùng, hiện ra một nét khổ sở tuyệt vọng.

    Chi Tuần nâng hồ rượu nóng rót cho Tạ An, nói: "Huynh nói như dễ lắm. Thế nhưng ta lại biết rõ ngay khi Phù Kiên quật khởi, huynh đã lập tức chuẩn bị ứng phó với trường đại quyết chiến này, chẳng những tiến hành biên tịch thổ địa, thu hồi vô số đất đai từ các thế tộc, mà còn chiêu mộ tráng đinh rất nhiều, thành lập Bắc phủ binh. Chỉ bất quá huynh nhất nhất phụng mệnh hoàng thượng mà làm, hoàn toàn không làm khó cho dân, làm như kẻ thiện chiến mà không công lao hiển hách, kỳ thực thì lấy hòa tĩnh mà trấn giữ, dùng kế lâu dài để phòng ngự, vì đại cục mà bỏ qua tiểu tiết, dạy người dưới bằng hành động, bề ngoài vụng về mà bên trong cực khéo, đâu có giống như huynh nói không hề can thiệp vào chuyện gì?".

    Lại tự châm rượu cho mình, nói tiếp: "Từ hưng thịnh coi ra suy diệt, theo sinh cơ mà biết tử vong, thịnh suy sinh tử tuần hoàn xoay chuyển, chỉ một qui luật, Tạ huynh sao còn trăn trở tiếc nuối?".

    Tạ An nâng chén mời, hai người một hơi uống cạn.

    Tạ An đặt chén xuống, ưu tư nói:



    "Thứ nhất vong tình,

    Thứ hai tận tình,

    Thứ nữa nhờ tình,

    Gõ tiếng chuông tình,

    Chính thị bọn ta.

    Vừa rồi ta đánh đàn, bỗng nhiên nghĩ đến vị trí của bản thân, mới sinh ra cảm giác lo lắng".

    Chi Tuần ngạc nhiên hỏi:"Vì sao lại nói thế?".

    Tạ An không trực tiếp trả lời mà nói: "Do Vương Đạo đến gặp ta, mỗi lần đều thúc giục chuyện cắt đất, sự thực chỉ muốn chiếm đoạt đất đai và nhân khẩu trong tay các thế tộc, nhưng bọn ta Vương, Tạ hai nhà đều là thế tộc trong hàng thế tộc, đại sư nói coi thế chẳng phải là rất mâu thuẫn hay sao?".

    Chi Tuần đã hiểu rõ.

    Tấn thất lập nước, đại phong tông thất, dùng các tông vương nắm giữ các đạo quân, gieo mầm cái họa Bát vương, là cao môn thế tộc, đương nhiên theo phẩm cấp hưởng đặc quyền chiếm đất, cha truyền con nối, chiếm đoạt đất đai hộ khẩu nhiều vô số kể, lại còn được miễn trừ đóng góp cho quốc gia, cắt đất chính là hạn chế loại đặc quyền này của các công khanh thế tộc, lại càng có ý đối phó với vấn đề cưỡng chiếm thổ địa với thủ đoạn có xu hướng ngày càng ác độc.

    Tạ An trầm giọng nói: "Cuối thời Đông Hán, hết loạn khăn vàng lại đến loạn Đổng Trác, quần hùng thiên hạ quật khởi, công phạt lẫn nhau, chiến họa liên miên, đến nay cũng chưa ngừng nghỉ, trải hai trăm năm, chỉ có Đại Tấn ta là thực hiện được việc thống nhất tạm thời, tuy mới có được ba mươi tám năm, trung thổ lại bị phân liệt thành cục diện cát cứ. Loạn Bát vương đương nhiên tạo sự phá hoại nghiêm trọng đối với Đại Tấn, cũng có thể vì vậy khiến các tộc Hồ làm loạn, không ai lường nổi, làm cho bách tính lưu vong, Trung Nguyên tiêu điều, ngàn dặm không thấy bóng khói, cơ hàn lưu tổn, ruộng đồng bỏ hoang, dân chúng không nơi nương tựa, từ khai thiên lập địa, theo thư tịch để lại, chưa bao giờ có chuyện như thế. Xét cho cùng nguyên nhân chính là do quyền lợi môn phiệt làm tối mắt và Hồ tộc xâm nhập Trung Nguyên, Tạ An mỗ thân là thế tộc chi thủ, nghĩ đến chuyện này, trong đầu thật quả là ngổn ngang trăm mối".

    Chi Tuần nói: "Tạ huynh có thể tự mình chiếu tình huống nghiêm khắc cảnh tỉnh mọi người, tin rằng Đại Tấn lại có hy vọng".

    Tạ An cười khổ: "Ta vì phát giác không còn hy vọng mới sanh ra đa cảm, ta cũng già rồi, ngày tháng không còn nhiều nữa, chỉ mang hy vọng ký thác vào điệt nhi Tạ Huyền, chỉ cần coi hắn tổ chức Bắc phủ binh, có thể biết hắn là người dám dỡ bỏ thành kiến, không quan tâm chuyện môn hộ, theo tài mà dùng người. Nhưng mà hiện giờ tình thế rõ ràng, cuộc chiến này nếu bại đương nhiên chẳng nói làm gì, nhược bằng đắc thắng, triều đình tất sẽ mọi bề áp chế hắn, vì sợ hắn lại trở thành một Hoàn Ôn nữa, uy hiếp cơ nghiệp hoàng triều của Tư Mã gia, trong tình huống này, Huyền điệt muốn duy trì địa vị gia tộc thật chẳng dễ, cần kíp bàn luận tiến hành cải cách nền chính trị hiện thời. Ai! Đại Tấn chẳng có hy vọng gì rồi".

    Chi Tuần nghe rồi mặc nhiên không nói gì.

    Tạ An bỗng nhiên vươn tay ve vuốt cây đàn, thanh âm như lưu thủy vang lên, cất giọng ca:

    "Vị quân ký bất dịch,

    Vị lương thần độc nan,

    Trung tín sự bất hiển,

    Nãi hữu kiến nghi hoạn...".

    (Tạm dịch: vì người đã không dễ, làm trung thần còn khó hơn. Trung tín không mang lại vinh hiển, chỉ gây nên sự nghi ngờ)

    Giọng ca trầm thấp khàn đục, chứa đầy nỗi niềm lo nước thương đời vang mãi đi xa.

    ° ° °

    Nhữ Âm thành chịu đựng sự phá hoại còn quá Biên Hoang Tập, tường thành hầu như không còn tồn tại, quá nửa số phòng ốc bị thiêu trụi, chỉ hai bên nam bắc con đường lớn còn lại khoảng trăm nhà dân cùng cửa tiệm vẫn được bảo trì hoàn chỉnh như cũ, tuy nhiên cửa giả các cái đều tan tành, cỏ dại tràn lan thật thê lương.

    Lưu Dụ từ phía nam thận trọng tiến vào, ánh trăng chiếu xuống con đường âm u, Dĩnh Thủy chừng như ở bên hữu chảy qua, cảm thấy nguy cơ bốn bên tiềm phục, không rõ vì bị ám ảnh bởi Thái Bình yêu nhân hay là do trực giác quân nhân mẫn cảm của gã.

    Phán đoán dứt khoát rồi, gã quyết định không nhập thành, mà chuyển thành đi quanh khu vực hoang phế góc đông nam, theo Dĩnh Thủy tiếp tục đi lên phía Bắc, lấy Dĩnh Thủy làm phương hướng chỉ dẫn, cho dù trăng mờ gió lớn cũng không lo lạc đường.

    Vốn gã muốn vào thành tìm kiếm hoang nhân người Hán chạy trốn, nhưng tiến vào trong thành thấy tình cảnh như vậy liền hiểu rõ, dù rằng có hoang nhân trốn trong thành cũng rất mất công tìm kiếm, lại còn sợ gặp phải Thái Bình yêu đạo, nghĩ rằng thêm một việc chẳng bằng bớt một việc, mới quyết định vượt qua chứ không vào thành. Đã quyết định xong chủ ý, không do dự triển khai thân pháp, men theo bức tường thấp phía nam toàn tốc tiến về phía đông, sau đó rẽ lên phía bắc dựa vào tường thành mà đi, đó chính là nét cơ trí của gã, gặp sự tùy thời có thể tránh vào khu vực hoang phế, muốn đánh muốn chạy đều dễ.

    Vừa qua khỏi góc đông bắc Nhữ Âm thành, bỗng nghe phía trước có tiếng vó ngựa dội lại, Lưu Dụ thầm kêu may mắn, vội vọt lên bức tường đổ phía tả cao chừng ba trượng chăm chú nhìn về phía bắc.

    Dưới ánh trăng vàng vọt, cách đó chừng một dặm, chim chóc kinh hãi bay vọt lên, bụi đất mịt mù, ánh lửa nhập nhoạng, dùng con mắt nghề nghiệp đánh giá, thấy chừng vài trăm quân lính chắc là quân phong dọn đường của Phù Kiên, đang làm công tác chuẩn bị, dọn dẹp chướng ngại cho đại quân vượt Hoài Hà

    Gã cũng rõ kiểu này không chỉ có một đội, mà chia nhiều đường tiến tới khống chế cả khu vực Dĩnh thủy.

    Bản thân gã không nhất thiết phải quay lại đi lên phía bắc, có thể tránh không đụng phải chủ lực của địch nhân, nhưng lại nhiều khả năng bị trinh sát kỵ binh của đối phương bắt gặp trên đường, tính toán lợi hại thấy tốt nhất tránh vào thành nội, đợi địch quân đi qua mới tiếp tục bắc hành. Hơn nữa từ giờ đến lúc trời sáng chỉ còn chừng hai canh giờ, trời sáng rồi càng khó mà ẩn giấu tung tích.

    Lưu Dụ hít thầm một hơi thở, nhảy lên bờ tường đổ phía tây, theo đường lớn chạy tới đám phòng xá phía đông bắc, một mặt quan sát hình thế nhà cửa, ghi nhớ vào lòng chuẩn bị đường tiến lui.

    Đương khi gã tiềm nhập vào một tiệm ăn bên con đường lớn phía đông bắc qua song cửa lớn nhìn ra phía tây, thấy mấy trăm lính Tần vừa vào thành, phân ra hai đội di chuyển về phía nam, không buồn vào nhà tra xét.

    Lưu Dụ lớn gan phục bên cửa sổ quan sát địch tình, hiểu rõ trước đó đã có thám tử vào thành tra xét nên toàn đội yên tâm vào thành không lo bị phục kích.

    Gã thậm chí còn nhìn rõ dưới ánh lửa chiếu vào địch nhân đều mang nét mỏi mệt, hiển nhiên từ lúc xuất phát ngựa không dừng gót, vất vả bạt thiệp trường đồ, đang khi chăm chú nhìn, phía sau bỗng có thanh âm truyền tới.

    Lưu Dụ thất kinh quay đầu lại ngó, lập tức ánh mắt trở nên ngơ ngác.

    ° ° °

    Yến Phi ung dung vô nhân vô ngã, quên hết mọi sự, đương yên lặng điều tức tĩnh dưỡng, bị tiếng động của đoàn quân nhập thành làm cho tỉnh lại, bao nhiêu thương thế trong mình đã không thuốc mà lành.

    Nội công tâm pháp cơ sở của gã được mẫu thân truyền thụ, cộng thêm tự gã sáng tạo khổ luyện mà thành.

    Từ sáu năm trước, thoát ly cuộc sống an lạc, dần dần giảm nhẹ nỗi đau do cái chết của từ mẫu mang đến, chuyên chí kiếm đạo, một mình một kiếm đi khắp thiên hạ, lưu lãng tứ xứ, tìm kiếm bậc cao hiền, tận sức với đan đạo huyền học, ra sức khai phá cảnh giới mới của kiếm đạo, tới Biên Hoang Tập mới yên tâm dừng bước, trải qua quá trình rèn luyện âm thầm bền bỉ, đến một đêm minh nguyệt treo cao mới ngộ thông đạo "hữu vô", sáng tạo ra Nhật Nguyệt Ly Thiên Đại Pháp, lấy nhật nguyệt vi hữu, lấy thiên không vi vô, lấy hữu chiếu vô, minh thuộc nhật nguyệt, ám thuộc về hư không, hư thực cùng phát huy, tự đây mới bắt đầu thấp thoáng thấy cảnh giới của kiếm đạo.

    Từ sau khi nhà Hán mất, huyền học phát triển mạnh mẽ, lấy công phu của Lão Tử, Trang Tử và Chu dịch làm căn bản, uyển chuyển kết hợp với xu hướng tư tưởng kinh nghĩa của nho gia hết sức phong phú thời lưỡng Hán mà thành, căn bản cuối cùng tập trung ở hai chữ "hữu vô". Ứng dụng vào võ học, tất thành " thiên địa vạn vật lấy vô làm gốc", cùng với " hữu vốn tự sinh" là hai loại tâm pháp chủ yếu, nay Yến Phi có thể dung hợp hai đại chủ lưu tâm pháp này, sáng tạo ra độc môn tâm pháp xưa nay chưa từng có. Tuy mới chỉ ở tầng sơ bộ, nhưng khả năng phát triển là vô hạn. Cũng trong khi phát triển tiềm lực này gã mới hiểu rõ Khất Phục Quốc Nhân không đời nào bỏ qua cho mình.

    Một câu nói của Khất Phục Quốc Nhân khơi dậy tâm sự chất chứa trong lòng gã. Gã chẳng phải sợ Mộ Dung Tiên Ti tộc truy sát, mà là bị chạm đến hồi ức đau khổ về cái chết của từ mẫu.

    Mộ Dung Văn chính là nguyên hung hại chết mẹ gã.

    Bảy năm trước, Phục quốc bị Phù Tần diệt, ngoại công của gã Văn đại vương Thập Dực Kiền bị bắt rồi bị giết, gã cùng mẫu thân theo bộ hạ của Thác Bạt Khuê đi theo một bộ phận phân liệt của Phục quốc là bộ lạc của Lưu Khố Nhân. Tuy là sống nhờ người ta, nhưng cũng có được nơi an lạc qua ngày, chỉ tiếc ngày vui không dài, do Phù Kiên ngầm ra lệnh, Mộ Dung Văn đột ngột tập kích Lưu khố Nhân, thi hành thủ đoạn diệt tộc tàn bạo. Lưu Khố Nhân tử chiến tại chỗ, mẫu thân gã Tiên Ti Phi Yến Thác Bạt Yến vì bảo hộ gã cùng Thác Bạt Khuê mà thân trúng nhiều kiếm, mang bọn gã chạy tới nương nhờ bộ lạc Hạ Lan. Thác Bạt Yến cố sống được mấy tháng, cuối cùng chết vì thương thế bất trị. Gã cùng Thác Bạt Khuê trở thành một đôi cô nhi không cha không mẹ cùng quyết chí phục cừu. Thác Bạt Khuê hơn gã được một điểm, ít nhất hắn cũng biết cha mẹ là ai, gã thì lại không biết người cha Hán tộc của mình là thần thánh phương nao. Thác Bạt Yến tới khi chết cũng không chịu tiết lộ bí mật, còn những người trong nội tộc biết rõ sự tình đều vì chiến tranh liên miên mà chết cả.

    Không muốn giữ mãi họ mẹ mang niềm đau thương về người quá cố, gã đổi tên thành Yến Phi để kỷ niệm vong mẫu.

    Dù Thác Bạt Khuê phản đối dữ dội, gã vẫn nhất quyết cất bước lên đường lưu lãng cho tới tận ngày nay.

    Hai năm trước, gã tiềm nhập kinh thành Trường An của Phù Tần, giữa phố đông giết chết Mộ Dung Văn, sau đó toàn thân thoái lui, chuyện này làm chấn động phương Bắc, cũng khiến Mộ Dung Tiên Ti cừu hận thấu trời, khi đó em trai của Mộ Dung Văn là Mộ Dung Xung và Mộ Dung Vĩnh từng phát động toàn lực truy bắt gã, may gã tinh thông thuật ẩn gấu hành tung, cuối cùng trốn đến Biên Hoang Tập mới yên tâm dừng bước, kết thúc những năm tháng sống lưu lãng phục thù.

    Khất Phục Quốc Nhân đã thông qua thanh kiếm và kiếm pháp mà nhận ra gã, giấy đã không gói được lửa, lần này nếu gã không chết, về sau cần ứng phó thế lực mạnh nhất ở phương Bắc là Mộ Dung Tiên Ti hoàn thành việc báo thù.

    Tuy nhiên gã cũng không để chuyện đó trong lòng, tự khi mẹ chết, gã không còn quan tâm đến chuyện sinh tử. Đời sống này không còn gì luyến tiếc, loạn thế hoàn toàn không hy vọng, kết thúc chỉ có cái chết khốn khổ, nhất thiết tùy ý làm cái mình muốn, cho đến tận khi chết.

    Ánh trăng dịu dàng chiếu qua song cửa nát, bất giác khiến gã nhớ lại tình cảnh khi còn là một đứa trẻ, trên bình nguyên, trong căn lều tạm, trên trời vầng nguyệt vừa to vừa tròn, mẫu thân xinh đẹp ngồi trên một bọc chăn bên ngoài căn lều đang làm một tấm áo mới cho gã, khẽ hát lên một khúc ca của nhi đồng trên thảo nguyên, lọt vào nơi gã đang ngủ trong lều.

    Giọng ca ôn nhu ngọt ngào đầy thâm tình của mẫu thân lúc này vang bên tai gã, nước mắt dâng tràn khóe mắt, tự sau khi mẹ chết, gã chưa bao giờ khóc, đêm nay bị Khất Phục Quốc Nhân khơi dậy niềm tâm sự, lại thêm xúc cảnh sinh tình, mới không có cách nào áp chế tâm trạng buồn đau giấu kín.

    Từ khi gã hiểu sự, mẹ luôn vui cười, nhưng lại không phải chân chánh khoái lạc, tình yêu của bà hoàn toàn trút cho gã, nhưng gã lại không thôi bướng nghịch khiến cho mẫu thân không vui, hiện tại hối mà không kịp, vô pháp sửa chữa. Từ ngày mẫu thân quá thế đến giờ, vết thương đau trong lòng gã không sao hồi phục, Nhật Nguyệt Ly Thiên cũng bằng vô dụng.


  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 8

    Xà huyết mỹ nhân
    Cho dù nhìn thấy đích thị Thái Bình yêu đạo, cũng chưa chắc khiến Lưu Dụ có phản ứng như thế, bởi vì nhân vật vừa xuất hiện lại là một vị thiên kiều bách mị nữ tử, loại người chẳng có lý do gì để có mặt ở đây vào lúc này. Nàng ta từ cửa sau tối tăm tiến ra châm lửa, ánh sáng bừng lên, mang theo một cảm giác quỷ dị không tên. Lưu Dụ tuy bị vẻ kiều diễm của nàng ta làm chấn động, nhưng lại thấy sự xuất hiện đột ngột của nàng ta hết sức tà môn, liền âm thầm cảnh giới.

    Mỹ nữ mặc áo xanh nhạt, vạt áo đuôi én bằng tơ nõn màu lục khâu chồng lên nhau, nối liền với áo ngoài phiêu phất, bên dưới quần rộng bằng lụa bạch sắc, dây lưng to bản, trang điểm như thể đang trình diện ở đại gia hào môn nào đó trong đô thành Kiến Khang, với cảnh trí nơi đây không chút hòa hợp, tuy nhiên thần thái hoàn toàn tự nhiên của nàng ta lại khiến điều bất hợp lý biến thành hợp lý.

    Mái tóc đen mịn màng đẹp như gấm đoạn xõa xuống lưng một cách tự do thoải mái, da thịt nõn nà được trang điểm sơ sài càng làm nổi bật dung nhan như hoa như ngọc, cặp mắt mê người tự biết nói, như nhìn thấu mọi sự đời, thần thái ngây thơ hồn nhiên, thuần mỹ như một đóa sen trắng còn ngậm nụ.

    Nàng ta tựa như không để ý đến Lưu Dụ, bỗng mau lẹ bước tới bên song cửa, ngó nghiêng ra ngoài, rồi nói nhỏ:" Trung Hoàng Thái Ất". Thanh âm trong trẻo dễ nghe, đầy chất nhạc động lòng người, thanh khiết lạ thường, cùng với dung nhan đẹp đẽ, đều có dị lực câu hồn nhiếp phách. Lưu Dụ bỗng nghĩ tới một người, ngấm ngầm thất kinh, lắc đầu nói: "Ta chỉ là một hoang nhân qua đường".

    Trong Bắc phủ binh, gã phụ trách công tác điều tra, đối với tình hình nam bắc rất quen thuộc, vì vậy mới sơm nhận ra kẻ hành thích Hồ Bân có quan hệ với Tôn Tư, nữ tử này mỗi câu nói đều dùng ám ngữ, khiến gã liên tưởng tới một nữ tử tại bắc phương hoành hành một thời, hành sự ác độc, lập tức hiểu rõ mình không may bị hãm vào tình thế hết sức nguy hiểm, sơ sảy một chút sẽ táng mạng vì ngu xuẩn.

    Trung Hoàng Thái Ất là vị thần giặc khăn vàng thời Hán mạt tin theo, giặc khăn vàng có hai đại hệ thống, phân biệt bởi Thái Bình đạo do Trương Giốc sáng lập và Thiên Sư đạo của Trương Lăng. Sau khi giặc khăn vàng bị diệt, hai hệ đạo môn lưu truyền lại, phân liệt thành nhiều hệ phái, Tôn Tư chính là tông sư của đạo giáo tại nam phương, tự xưng là kẻ kế thừa Thái Bình đạo, muốn thống nhất lưỡng đạo Thái Bình Thiên Sư làm một.

    Ở phương bắc, vốn dĩ thờ phụng Thái Thanh Huyền Nguyên Thiên Sư đạo tổ sư là Trương Lăng, giáo chủ hiện thời Giang Lăng Hư, danh mãn lưu vực Hoàng Hà, cùng Tôn Tư tranh đoạt danh vị kế thừa đạo thống, thế như thủy hỏa, không thể tương dung.

    Độc lập với lưỡng đại đạo thống là một nhân vật xuất chúng tên là An Thế Thanh, ngoại hiệu Đơn Vương, chuyên về thuật luyện đơn, tự xưng đạo gia phi đạo giáo, coi Thái Bình và Thiên Sư lưỡng đạo là tà dị ngu dân, sống ẩn dật ngoài tầm ảnh hưởng của hai đạo giáo này.

    Nhân phẩm và hành động của người này ra sao, ít ai biết đến, vì người này không có nơi định cư, thường qua lại các danh sơn và đại giang tìm phúc địa để luyện đơn. Sở dĩ người này tên tuổi lẫy lừng là do Giang Lăng Hư và Tôn Tư đều muốn qua ông ta kiếm đạo giáo bảo vật gì đó, lần lượt phái từng nhóm cao thủ vào núi tìm An Thế Thanh, lại bị ông ta đánh cho tơi bời khói lửa, kẻ chết thì hoành thây đương trường, kẻ bị thương chạy về thì không cách chữa trị, hai sự kiện này làm rung động thảo nguyên nam bắc. Tự đó Giang Lăng Hư và Tôn Tư không dám đụng chạm đến ông ta nữa.

    Đương khi mọi chuyện dần lắng dịu, bắc phương bỗng nhiên lại xuất hiện một vị nữ tử mỹ lệ tự xưng là An Ngọc Tình, nhi nữ của An Thế Thanh, liên tiếp chọc giận tam đạo đàn Thái Ất giáo, khiến cho Thái Ất giáo đồ đông đảo truy sát, khi đó hành tung của nàng ta lại biến mất. Không còn nghi ngờ gì, nữ tử trước mắt chính thị nàng ta.

    Lưu Dụ đồng thời cũng minh bạch cao thủ đáng sợ lúc trước của Thái Bình đạo không phải sẵn có ý định giết Hồ Bân, chỉ vì trên đường tới Nhữ Âm thành, vớ được cơ hội thuận tiện ra tay, bản thân coi ra An Ngọc Tình cũng không phải là người của Thái Ất giáo, mà có khả năng liên quan tới đại sự của đạo giáo phát sinh tại đó, dẫn dụ được Thái Bình đạo nhân, An Ngọc Tình khơi khơi kiếm nẻo tìm tới tòa thành hoang phế này.

    Lưu Dụ liền nghĩ đến chuyện sau khi chờ đợi Tần quân tới, phải lập tức rời xa chốn này.

    Đúng lúc này, bàn tay gã bỗng có cảm ứng, hữu thủ vụt bung ra đỡ lấy tay áo thoảng hương của An Ngọc Tình, chạm vào vật gì đó cực kỳ sắc bén, tỉnh ngộ ra là một ngọn thiết tật lê, thì đã bị thích trúng đầu ngón tay. Một cảm giác đau nhức khó chịu lập tức theo tay truyền lên, hiển nhiên mang theo kịch độc.

    An Ngọc Tình có lẽ vì gã có thể kịp thời ứng phó với thủ pháp độc môn ám khí vô thanh vô tức, vô ảnh vô hình của mình, ngước mắt nhìn gã, cứ như không có chuyện gì, ngạc nhiên nói: "Quả nhiên chân tay lanh lẹ, thật là không ngờ đấy".

    Lưu Dụ trong tâm đại nộ, thầm nghĩ lão tử không đụng tới ngươi, ngươi lại dám trêu vào ta, căn bản còn phải lo không giữ được tính mệnh, hiểu rõ tuy dung mạo tựa thiên tiên, nhưng chính thị là yêu nữ coi mạng người như cỏ rác, không biết so với Thái Hồ yêu đạo hơn kém bao nhiêu. Bất quá lúc này trục độc là khẩn yếu, tạm thời chưa tính toán với ả, chỉ ầm ừ một tiếng khô khan, đề khởi công pháp, ra sức tống xuất kịch độc theo độc tật lê ra ngoài, hầu mong nhanh chóng hồi phục.

    Gã càng thêm cảm kích lão thiên gia, đã ban cho gã một đôi tay như vậy.

    Lưu Dụ mười sáu tuổi tòng quân, đi theo thủ hạ thân tín của Lưu Lao Chi là phó tham quân Tôn Vô Chung, được ông ta chọn đúng làm thân binh, trải qua huấn luyện đặc biệt, không tới hai năm vô luận võ công tâm pháp đều vượt hẳn người đứng đầu Bắc phủ thập kiệt, được Tôn Vô Chung đặc biệt coi trọng, đề bạt làm chức quan tư mã, chuyên trách thâm nhập vào vùng địch thám sát tình hình.

    Tôn Vô Chung có nhãn quan đặc biệt, với gã đặc biệt đánh giá cao song thủ thần kỳ, không những đối với các loại kỹ nghệ học đâu hiểu đấy, mà còn có cảm xúc linh mẫn dị thường, khiến gã vượt lên trên những bon chen của lũ hạ nhân, trở thành vì tinh tú mới mọc của Bắc phủ binh.

    Trước mắt nhiệm vụ cấp bách, lại ở cách xa Tần quân, phải mau chóng thanh trừ độc tố trong mình, bằng không, yêu nữ có thể sẽ hạ sát thủ đối với gã mà không chút cố kỵ.

    An Ngọc Tình nhẹ nhàng như nói một mình: "Không nói được nữa sao? ngươi trúng phải một trong chín loại độc đơn do cha ta luyện ra, kiến huyết phong hầu, ngươi lần này chết chắc, nhưng đừng có trách người ta, chết rồi cũng đừng có tìm người ta đòi nợ, có trách chỉ nên trách ngươi sinh ra nhằm giờ xấu, ở đây làm vướng víu chân tay người ta thôi".

    Lưu Dụ khí tức đầy ruột, nhưng cũng cảm thấy kỳ quái, ả nói cái gì độc tố huyền bí lợi hại, vì sao rõ ràng mình dễ dàng bài xuất ra ngoài như thế.

    "Trích!".

    Máu tươi theo tật lê tràn ra, rỏ xuống đất.

    An Ngọc Tình nhìn xuống, thần tình bình tĩnh, hốt nhiên trong tay xuất hiện một thanh chủy thủ, ánh sáng lóe lên, nhằm vào bên cổ Lưu Dụ vạch xuống.

    ° ° °

    Cái đuôi của đoàn quân Tần vừa khuất sau một ngã tư.

    Yến Phi chuồn từ nhà nọ qua nhà kia, theo dãy sau của tòa phá viện nhảy lên mái nhà, di chuyển tới mặt trước của một ngôi điếm, nhìn qua song cửa gãy nát ra ngoài, theo dõi quân binh của Phù Tần vừa ly khai, chếch bên đối diện của đường phố là một tòa điếm khác, bên trong quang mang lóe lên, hiển nhiên là ánh sáng phản xạ của binh khí, trong lòng rất lấy làm kỳ. Bất quá tuy cách có một con đường, nhưng bằng cả thiên sơn vạn thủy, trước khi Tần quân rời thành, gã không cách nào qua đó coi cứu cánh.

    Tiếng vó ngựa dần dần đi xa, bỗng nhiên từ phía tây bắc, sau những dãy phòng truyền lại tiếng rên rỉ thảm thiết. Yến Phi không khỏi run lên, toàn thần giới bị. Gã cảm thấy rõ Nhữ Âm thành đêm nay hoàn toàn không như vẻ ngoài bình an của nó, trái lại nguy cơ tứ phía rình rập.

    ° ° °

    An Ngọc Tình tay cầm chủy thủ hướng Lưu Dụ đâm tới. Lưu Dụ nắm chắc độc tật lê dùng đầu ngón tay xảo diệu bắn ra, nhanh như điện chớp nhằm vào tấm lưng thon nhỏ bé hấp dẫn của đối phương, vị trí và góc độ hết sức chính xác, nếu yêu nữ nguyên thức không đổi, ở cự ly cực gần, nhất định trúng chiêu, đồng thời người cũng mau lẹ thối lui, động tác như hành vân lưu thủy, gọn gàng nhanh nhẹn.

    An Ngọc Tình chủy thủ đổi chiều, hướng xuống dưới điểm tới, nhằm trúng độc tật lê, ám khí theo tay văng xuống đất phát ra một tiếng ba do kình khí tiếp xúc, có thể thấy dụng kình thật tinh xảo.

    Lưu Dụ tự nghĩ mình không làm nổi như vậy, chợt có ý nghĩ, ngờ rằng ả e có người nghe thấy, sợ bại lộ hành tung, đối tượng có khả năng là Tần quân, lại nhiều khả năng là Thái Bình yêu đạo hoặc là người của Thái Ất giáo.

    Nghĩ tới đó, liền có kế sách, thân mình đang tựa vào vách tường, mau chóng đứng thẳng lên, đao rời vỏ sau lưng xuất ra, chỉ thẳng vào đối thủ mỹ lệ như tiên, lập tức đao khí dàn dụa mau chóng phong tỏa toàn thân đối phương. Lưu Dụ trong lòng tự tin mãnh liệt, bất kể đối phương lợi hại cỡ nào, gã cũng đã nắm chắc điểm yếu chí mệnh của ả, cũng không cần để ý tấm nhan sắc kiều diễm mê người.

    An Ngọc Tình quả nhiên không thừa thế công kích, đứng lặng mỉm cười, hộ thể chân khí vẫn tự nhiên cự lại đao khí cúa gã, cặp nhãn tinh tựa như hàm tình đắm đuối lộ xuất thần sắc kinh dị, nhìn trên ngó dưới săm soi gã, thần thái tỏ ra đã có cách nhìn khác hẳn, môi đào hé mở nói: "Không đánh được! Xem ngươi nha! Mà lại còn không sợ độc đan nữa chứ".

    Lưu Dụ chẳng biết nên giận hay nên cười, ả đã không tự trách mình thi triển độc thủ, lại còn trách người không chịu trúng độc. Lúc này tiếng vó câu đã xa, gã chắc chắn đối thủ sợ bại lộ hành tung, càng không dám chơi tới bến, liền hạ giọng nói: "Cất giùm ta thanh chủy thủ đi".

    An ngọc Tình cười ngọt ngào, thần tình ngây thơ xòe đôi ngọc chưởng nhỏ nhắn trắng như tuyết, yêu kiều nói: "Không thấy rồi nha".

    Quả nhiên chủy thủ đã biến đi đâu, kỹ xảo thật thần kỳ.

    Lưu Dụ biết ả tùy lúc có thể tái xuất chủy thủ, rất không nên trêu vào ả ta, sự thực gã cũng như ả đều không muốn bị người khác phát giác, để khỏi dính phải những phiền não không cần thiết, ảnh hưởng đến chánh sự.

    Gã khẽ cười nói: "Ta lại thay đổi chủ ý rồi, quyết có oán báo oán, có thù báo thù, giết chết ngươi".

    Trong mắt An ngọc Tình thấp thoáng một tia khác lạ, nhưng lập tức biến mất, bình tĩnh nói: "Con người ngươi là cái giống quỷ gì vậy? Người ta lần đầu tiên tới đây, ngươi lại kêu gào muốn đánh muốn giết. Nói thật nha, người ta thấy ngươi thân thủ cao minh, bỗng dưng sanh tâm ái mộ, còn đánh nhau gì nữa chứ?".

    Lưu Dụ tuy biết rõ lời ả không có lấy một câu thực lòng, nhưng nghe một nữ tử thiên kiều bách mị cất lên âm thanh nũng nịu mê người nói ái mộ mình, đao khí lập tức giảm đi mấy phần lợi hại, lắc đầu cười khổ, cắm đao vô bao, nói: "Ta phải đi đây".

    An Ngọc Tình nhìn trước ngó sau, vẫy tay nói: "Đi đâu chứ? Chuyện hay sắp đến rồi, hãy bồi tiếp người ta ở lại đây coi nhiệt náo chẳng phải hay lắm sao?".

    Lưu Dụ đề tụ công lực vào song nhĩ, tiếng vó ngựa trên quan đạo ngoài thành ẩn ước truyền lại, thầm nghĩ nếu lúc này lập tức ly khai, có khi lại đánh động nhân mã phía sau của Tần quân, biện pháp thông minh là rời xa yêu nữ, tới tường thành phía bắc quan sát tình thế, rồi mới quyết định đi hay ở. Nhưng nghĩ là nghĩ như thế, cặp giò dường như mọc rễ không muốn cất bước, phát giác mình đã di chuyển về vị trí ban đầu, cùng ả ta nhòm về phía con đường lớn, bỗng tỉnh ngộ, yêu nữ này tuy độc như xà hiết, phản phúc không lường, mặt khác lại có sức hấp dẫn rất mạnh với gã. Lập tức có cảm giác kích

    thích hung hiểm như đang chơi với lửa, bất giác ngước nhìn ả, dưới ánh trăng lung linh, ả thần tình chuyên chú, các đường nét trông nghiêng của khuôn mặt như được điêu khắc hết sức tinh tế, không có chút tỳ vết nào, da thịt mềm mại mịn màng, chứa đầy sinh khí thơm ngát, tốt tươi mạnh khỏe, một thân hình cao và đẹp đẽ ẩn ẩn lộ lộ dưới lớp áo, khiến người ta cầm lòng không được liên tưởng đến ngọc thể mê người, hẳn phải là tuyệt phẩm nhân gian.

    An Ngọc Tình đi lại phía gã, Lưu Dụ cảm thấy khó hiểu trong lòng, ngạc nhiên mở to mắt lúng túng, yêu nữ bật cười khúc khích nói nhỏ: "Tử sắc quỷ, muốn dùng mắt để chiếm tiện nghi của người ta à?".

    Lưu Dụ nghe lời này, trong lòng ngứa ngáy, càng biết rõ hàm ý ả muốn ám chỉ ham muốn xấu xa kín đáo của mình, đang lúc muốn nói, thanh âm như xé gió từ con đường lớn theo không gian truyền lại.

    ° ° °

    Yến Phi kín đáo chạy qua nhiều ngôi nhà dân, kẻ này sau khi giết người ở phía sau dãy nhà nào đó, thầm lén tiến tới cửa tiệm bên kia, khiến gã phát giác hành tung qua tiếng y phục phất động khe khẽ. Kẻ này có khả năng là Khất Phục Quốc Nhân? Hay là người của hắn? Nhưng khẳng định là cao thủ. Đổi lại nếu kẻ truy sát gã chẳng phải Khất Phục Quốc Nhân, gã sẽ lập tức ly khai, nhưng chỉ nghĩ đến Thiên nhãn có lẽ đang lượn vòng tìm kiếm trên bầu trời hoang thành, thế thì trốn ở một nơi có mái ngói che đầu chắc rằng sẽ ổn hơn.

    Ngôi nhà đối diện tối om, không chút động tĩnh, ánh trăng ôn nhu trải dọc con đường, lặng yên như quỷ vực.

    Ví như thực có chuyện âm hồn bất tán, khẳng định sẽ có hàng ngàn hồn ma bóng quỷ đang dật dờ trong chốn hoang lương này, khóc than cho số mệnh đau buồn của mình, trăn trở với một nghi nan không lời giải về định mệnh, phải chăng bản thân sẽ thành dã quỷ?

    Yến Phi tâm trí chuyển sang nghĩ về Thác Bạt Khuê, tiểu tử này chắc chắn không đánh giá thấp Phù Dung, vấn đề là ở chỗ có thể có phản ứng ngoài dự liệu. Chính điều đáng nói là Thác Bạt Khuê trong lúc khẩn cấp xuất thủ cứu gã, sẽ bại lộ hành tàng, chỉ coi Khất Phục Quốc Nhân dễ dàng suy đoán ra mình là người đã giết chết Mộ Dung Văn, có thể biết Khất Phục Quốc Nhân trong lòng đã sớm biết người cứu gã chính là Thác Bạt

    Khuê, bởi vì Mộ Dung Văn cùng Thác Bạt tộc có mối thâm cừu là chuyện nhiều người biết.

    Phù Dung điều quân từ ngoài nhập thành, khiến gã cảm giác những suy đoán của mình dù không đúng cũng không mấy sai trật. Chẳng những Thác Bạt Khuê bị rơi vào tình thế nguy hiểm, mà những người của Tiên Ti bang có quan hệ với hắn cũng sẽ đại họa lâm đầu. Phù Dung nếu bắt được Thác Bạt Khuê, khả năng sẽ lưu lại mạng sống của hắn, bức bách hắn nói ra sào huyệt bí mật của tộc nhân, nếu gã kịp thời quay về, nói không chừng có thể tận điểm nhân lực, cùng lắm là bồi thêm một mạng chứ sao?

    Nghĩ tới đây, liền hạ quyết tâm, không lý đến Thiên nhãn trên trời giám thị, quyết ý toàn tốc chạy về Biên Hoang tập.

    ° ° °

    Lại nói lúc này, vang lên âm hưởng của tay áo, trước mắt hình ảnh lay động, nhập lại thành một người xuất hiện trên đường phố.

    Đó là một lão nhân to béo mặc đạo bào trắng, trên đạo bào trước sau có hình thêu đẹp đẽ màu đen và đỏ, biểu thị phẩm cấp cao nhất. Trong đen có chấm đỏ, trong đỏ có chấm đen, thể hiện dương trong âm hòa âm trong dương, hết sức bắt mắt.

    Lão không lùn, nhưng do thân thể to béo, cái bụng phình ra to tướng, miễn cưỡng mới cài được khuy áo, nhìn cách nào cũng thấp hơn người khác một đoạn. Đầu tóc quấn thành một búi to, nằm trong đạo quan, coi hình dung sạch sẽ, dù gặp gỡ lâu cũng không khiến người ta chán ghét, nét mặt lúc nào cũng tươi cười thiện ý, coi ra cũng có chút hoạt kê, chỉ vì cặp mắt nhỏ sâu thẳm tinh tường ẩn hiện tử quang lấp loáng, kẻ có nhãn lực cao minh nhìn là biết lão không phải hạng dễ trêu vào.

    Bàn đạo nhân chuyển mình xoay tròn, cười ha ha nói: "An toàn mà! Đúng lúc Phụng Thiện giáo huấn".

    Lưu Dụ đang lúc ngưng thần nhìn trộm động tĩnh của bàn đạo nhân Phụng Thiện, bên tai vang lên giọng nói dù cố tình hạ thấp nhưng vẫn đầy nhạc điệu mê hoặc dễ nghe của An ngọc Tình: "Phụng Thiện yêu đạo là môn đồ đắc ý được chân truyền của Thái Ất giáo chủ Giang Lăng Hư, đừng có vì lão lúc nào cũng cười cợt mà coi thường, lão càng cười càng muốn sát nhân. Thật ta hận không thể một đao xẻ lão làm đôi".

    Lưu Dụ lấy làm kỳ, vừa mới rồi ả nhất tâm muốn lấy cái tiểu mệnh của mình, hiện giờ lại như bằng hữu thâm giao giải thích tình hình cho gã, bỗng nhiên tỉnh ngộ, thì ra ả sợ mình bỏ đi, mà ả lại không dám kinh động đến Phụng Thiện nên vô pháp xuất thủ, vì thế cố ý nói những lời vừa rồi, đều là vì muốn lưu gã ở lại.

    Lại nghĩ sâu thêm một tầng, ả vừa rồi động thủ giết mình, lý do có lẽ cũng giống như Thái Bình yêu đạo, là muốn tận sát những người sống ở kế bên, tránh để bí mật gì đó bị tiết lộ. Cũng có khả năng nữ nhân này đang lợi dụng gã, nhưng gã cũng có thể tùy tình huống biến thành hữu dụng cho mình.

    Lưu Dụ tài trí hơn người, chỉ với mấy lời qua loa của yêu nữ suy đoán ra ngần ấy chuyện, quả thực tài giỏi.

    Lưu Dụ cười thầm trong bụng, cố ý nói: "Đối với mấy chuyện này ta không hứng thú, chỉ muốn đi thôi".

    An Ngọc Tình quả nhiên trúng kế, vội nói: "Ngươi không muốn biết lão vì cái gì mà tới đây sao?".

    Lưu Dụ nhún vai: "Biết rồi thì làm sao? Đối với ta có ích gì?".

    An Ngọc Tình tức khí phồng mang trợn mắt nói: "Nếu chẳng phải thấy ngươi thân thủ không tệ, ta đã sớm đá cho ngươi một phát rơi xuống hoàng tuyền rồi, cái gì mà không chút lợi ích gì, thật sự là đại đại ích lợi ấy chớ".

    Phụng Thiện đạo nhân nhàn nhã đứng trên đường, như thể cứ thế mà chờ mà đợi tới lúc thế giới tận cùng.

    Lưu Dụ di chuyển ánh mắt nhìn vào khuôn mặt đẹp đẽ khiến gã cho đến tận lúc này vẫn lo sợ bị sắc đẹp quyến rũ không thôi, nói: "Nói đi nào, ta không có tính nhẫn nại đâu nhé".

    An Ngọc Tình trừng mắt dữ tợn nhìn gã: "Ba năm trước, Thái Ất giáo chủ Giang Lăng Hư và Thái Bình giáo chủ Tôn Tư, hứ! Ngươi có biết bọn họ là ai không chứ?". Lưu Dụ cười hi hi: "Nói đi! An đại tiểu thư của ta".

    An Ngọc Tình ngạc nhiên, hơi bối rối khi nghe gã nói ra danh tánh của mình, trợn mắt nhìn gã, cười mắng: "Đồ quỷ chết toi nhà ngươi, là đoán bừa mà trúng chứ gì".

    Giọng nói của Phụng Thiện đạo nhân lại vang lên ngoài đường: "Phụng Thiện ứng ước mà tới, nếu đạo huynh còn không chịu hiện thân, Phụng thiện đành quay về gặp Thái Tôn phục mệnh".

    Lưu Dụ ngoảnh đầu nhìn ra, gã đoán đạo huynh mà Phụng Thiện nhắc tới chính là Thái Bình yêu đạo, liền phát sinh ra ý định tọa sơn quan hổ đấu.

    Giọng nói yêu kiều của An ngọc Tình lại rót vào tai gã: "Không cần nói chi tiết, hai người bọn họ vì tranh đoạt một khối bảo ngọc đồ có quan hệ với hai hoàn tiên đan, ác đấu một trận, kết quả là lưỡng bại câu thương, chẳng ai làm gì được ai, mỗi người quay về nam bắc dưỡng thương, ước định ba năm sau phái xuất đồng môn tái quyết chiến để quyết định xem đan ngọc đồ về tay ai. Nếu như ngươi giúp ta cướp được đơn ngọc đồ, người ta chia cho ngươi một hoàn tiên đơn thì thế nào?".

    Lưu Dụ khẳng định tiên đơn cho dù có cũng chỉ có một hoàn, chỉ bất quá ả nói có hai hoàn để dụ gã, hơn nữa gã cũng không tin tưởng cái gì tiên đơn diệu dược, bằng không người luyện đơn đã chẳng nuốt ngay từ đầu.

    Đang khi cười thầm trong bụng, phong thanh vụt nổi lên, bốn đạo nhân ảnh phân ra đông nam tây bắc từ các mái nhà lao tới Phụng Thiện, đao kiếm tề phi.


  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 9

    Thái bình ngọc bội
    Phụng Thiện đạo nhân cười ha ha, đạo bào toàn thân vụt phình to, còn kịp nói: "Người ta nói tiên lễ hậu binh, các ngươi lại tiên binh hậu lễ, thú quá thú quá". Dứt câu cuối cùng, bỗng nhiên thân mình bay vọt lên.

    Những kẻ tấn công đều bận hắc y, diện mạo che kín, nhất đao tam kiếm, chia ra công tới bối tâm, trước ngực, đỉnh đầu và song cước của Phụng Thiện, ẩn chứa trận pháp, hiển nhiên đã quen hiệp đồng tác chiến, phong tỏa đường tiến lui của đối phương, dẫu rằng Phụng Thiện vọt người bay thẳng lên nhưng khó tránh khỏi màn đao lưới kiếm như thiên la địa võng. Quả nhiên bất kể Phụng Thiện bay lên thế nào, chiêu thức của bốn người này cũng y thế biến hóa, xoay ra công vào đỉnh đầu, tiểu phúc, bối tâm và giữa ngực lão.

    Bốn kẻ tập kích đều công lực thập phần đầy đủ, vừa nhập trường lập tức thi triển sát thủ, Lưu Dụ tự nghĩ nếu đổi mình là Phụng Thiện, cũng hết cách đối phó.

    An Ngọc Tình lại coi thường nói: "Một lũ vô dụng!".

    Nói chưa dứt lời, thắng bại đã phân.

    Tại sát na tam kiếm nhất đao sắp chạm tới, đạo bào của Phụng Thiện bỗng xẹp lại, thành dán sát vào người, làm lộ rõ thân thể to béo của lão, tiếp đó lại đột ngột phồng ra, kình khí kích hưởng, một cỗ kình lực phản chấn chấn văng ba kiếm giả ra xa, hiển nhiên khí công của bàn đạo nhân này đã tới mức đăng phong tạo cực.

    Lưu Dụ thầm nghĩ, từ công lực của Phụng Thiện mà suy thì võ công của sư phó của lão Giang Lăng Hư còn cao tới mức độ nào?

    " Ya!".

    Gã bịt mặt vung đao chém xuống đỉnh đầu Phụng Thiện rú lên một tiếng thê thảm, Phụng Thiện đã thi triển thủ pháp tinh vi đoạt đao trong tay gã, đồng thời song cước tung lên lần lượt đá trúng ngực bụng địch nhân. Thân hình người này văng ngược lên rồi rơi xuống mặt đất, nằm bất động.

    Tuy phì nộn nhưng thân thủ của Phụng Thiện cực kỳ linh hoạt.

    Người kia thất khiếu chảy máu, ứng cước văng đi, nằm chết đương trường.

    Lại một tiếng la thảm phát xuất từ kiếm thủ bị Phụng Thiện chấn lui, gã bị Phụng Thiện đánh đến khí huyết trồi ngược, mắt nổ đom đóm, lại thêm nghe tiếng đồng bọn kêu thảm lúc lâm tử, tự biết còn lâu mới là đối thủ của Phụng Thiện, sớm có ý chạy trốn, đang lúc nương thế lùi xa, hốt nhiên phát giác sau lưng chạm vào ai đó, trong khi đang hồn phi phách tán, đỉnh đầu cảm thấy một trận đau đớn kịch liệt, mắt tối sầm, miễn cưỡng đớp hơi thở cuối cùng, uể oải ngã lăn ra chết.

    Ở phía bên kia của con đường, Yến Phi coi mà sởn gai ốc, Phụng Thiện công lực cao cường, thủ đoạn ác độc, nhưng so với lão, đạo nhân áo xám cao gầy từ bên cửa tiệm bất thần xuất hiện không hề chịu kém, nhanh như quỷ mị lao tới phía sau một kẻ tập kích đang chạy trốn trên đường, tùy tiện vung trảo bóp hắn chết lăn ra đất, trảo kình lợi hại đến phát sợ.

    Phụng Thiện cười to: "Lư đạo huynh, ngươi khỏe chứ".

    Lão mau chóng lập thế cung thân, nhằm địch nhân đã chạy trốn tới đầu đường phía đông đánh ra một quyền cách không, người này bị quyền kình đánh trúng, tiên huyết phun ra như mưa, ngã ngửa người ra, vĩnh viễn không thể tự mình trở dậy.

    "Bồng".

    Gã bị Phụng Thiện đá trúng hai cước lúc này mới nặng nề rơi xuống đất, có thể thấy chuỗi các động tác cực kỳ nhanh chóng.

    "Nha!".

    Một tiếng kêu thê thảm, người còn lại bị đạo nhân cao gầy đuổi theo, song trảo bóp nát đầu.

    Phụng Thiện vẫn đứng nguyên chỗ, xoa xoa hai tay như muốn chùi đi vết máu trên ngón tay, lại như xấu hổ vì đã can dự vào chuyện vớ vẩn, song mục lấp lóe nhìn về phía đạo nhân cao gầy đứng cách đó không tới hai trượng, cười hi hi nói: "Mỗ đã vì đạo huynh thất ước mà thất vọng biết bao".

    Tại chỗ trú ẩn, Lưu Dụ đang dụng thần ước lượng đạo nhân áo xám từng ám toán Hồ Bân, chỉ thấy hắn ta cao gầy như một cây sào trúc phơi áo, nhẹ tênh như thể không trọng lượng, mặt mũi khô héo vàng khè, đầu đội khăn vàng, song mục nhỏ mà dài, phối hợp với đôi nhãn thần lấp loáng như điện, khiến cho cặp mắt của hắn ta giống như một cặp kiếm sắc nhìn thật đáng sợ.

    An Ngọc Tình thanh âm như mật ngọt khi nhanh khi chậm truyền vào tai gã: "Kẻ này tên là Lư Tuần, em rể của Thiên sư Tôn Tư, đời trước là Phạm Dương thế tộc, đợi khi bọn chúng lưỡng bại câu thương là đến cơ hội của chúng ta".

    Mục quang Lưu Dụ quét qua bốn hảo thủ nằm chết trên đường, nhíu mày nói: "Bọn chúng là ai?".

    An Ngọc Tình hết nhẫn nại nói:" chỉ là mấy tên dư nghiệt khăn vàng, ngươi quan tâm tới chúng làm gì?".

    Tiếng cười the thé của Lư Tuần từ ngoài vọng vào, lôi cuốn sự chú ý của hai người, chỉ nghe hắn nói: "Phụng Thiện đạo huynh xin chớ trách tội bổn nhân chậm trễ. Chiếu lý ước hẹn đêm nay, trừ sư tôn ra, chỉ có ngươi biết ta biết, lại có kẻ mang tin tức tiết lộ ra ngoài, làm cho một lũ phản đồ sinh tâm thèm muốn, bổn nhân đành phí chút thời gian tiến hành trừng trị chúng, sự việc cũng kỳ quái lắm".

    Phụng Thiện cười gằn một tiếng, chẳng nhanh chẳng chậm nói: "Bọn chúng tập kích ta chứ không phải đạo huynh, thiên hạ đời nào lại có người cố ý đưa người đến đối phó bản thân mình hay sao? Người ta niên kỷ càng lớn, lý nên nhẫn nại hơn, riêng ta thì ngược lại, ngươi mang vật tới rồi chứ?".

    Lư Tuần giương hai hố mắt vừa dài vừa hẹp ngó lên trời: "cCon súc sinh này chẳng lẽ giữa đêm khuya bay đi chơi, lại còn không ngừng lượn vòng trên đầu chúng ta, có tà môn không cơ chứ?".

    Bên kia Yến Phi rủa thầm, rõ ràng Khất Phục Quốc Nhân đã phục nguyên, lại đã tìm đến Nhữ Âm này rồi.

    Phụng Thiện cũng ngẩng đầu nhìn lên trời, gật đầu:"Xem ra không phải là điềm lành, đêm nay thật không đúng lúc, vừa mới đụng phải Hồ binh nam phạm, chúng ta có nên kiếm chỗ khác ước kỳ tái chiến không?".

    Lư Tuần lắc đầu nói:" Đạo huynh so với bổn nhân quả thừa nhẫn nại. Chuyện đã phải giải quyết đương nhiên nên càng nhanh càng tốt, chúng ta đêm nay cần phân thắng phụ, quyết định " Thái bình Động Cấp Kinh" thuộc về Thái Ất giáo ngươi hay về Thái Bình đạo chúng ta".

    Lưu Dụ nghe tới đây quay lại trợn mắt nhìn An Ngọc Tình ở phía sau, ả khẽ nhún vai, không chút ngượng ngùng dùng phép thúc âm thành tuyến nói:"Trong Động Cấp Kinh có thuật luyện đan, luyện ra hai hoàn, chẳng phải mỗi người một hay sao?".

    Lưu Dụ tức mình, cất bước định đi, sự thực gã đã có ý rời xa chốn nguy hiểm, hai yêu đạo này võ công cao cường khó đối phó, lại thêm con súc sanh bay lượn trên không khiến gã sinh lòng cảnh giác, nữ nhân này tâm địa bất lương, thượng sách là chuồn vào ẩn nấp trong đám nhà cửa khác, coi lại tình hình rồi nhân đêm tối rời khỏi chốn thị phi này.

    An Ngọc Tình giương mắt nói vội:"Đừng có đi, bằng không nô gia sẽ có cách khiến bọn chúng liên thủ đối phó ngươi, đến lúc đó sợ ngươi gánh không nổi thôi". Lưu Dụ hận ả đến tận xương tủy, nhất thời lại không cách gì đối phó ả, đành ngoan ngoãn ở nguyên chỗ cũ.

    Lại nghe Phụng Thiện ở ngoài nói: "Đạo huynh đã không thiếu nhã hứng, Phụng Thiện đương nhiên phải phụng bồi tới nơi, chỉ không biết đạo huynh có y ước mang bảo bối tới đây không?".

    Lư Tuần đáp:"Người trong đạo môn tối trọng lời hứa, xem đây!".

    Liền móc ra một cái túi chỉ bằng nửa bàn tay, lôi ra một khối tuyết bạch cổ ngọc hình bán cầu, dưới ánh trăng long lanh, bạch ngọc lạnh lẽo ẩn hiện những tia hồng sắc, kỳ quái nhất là bên dưới có những vết lồi lõm hình răng cưa, đơn giản chỉ riêng việc mài dũa ngọc thành hình dạng như vậy cũng mất rất nhiều công sức.

    Phụng Thiện lập tức lộ ra vẻ thèm khát, chăm chú nhìn vọng tới bảo ngọc trên tay Lư Tuần, mong nhìn rõ những đường văn nhỏ li ti trên đó, bất quá điều đó là không thể được. Cổ ngọc phản quang khiến những đường văn khi ẩn khi hiện, cự ly lại quá xa.

    An Ngọc Tình cũng mắt mở trừng trừng nhìn Lư Tuần giơ cao bảo ngọc, Lưu Dụ lờ mờ cảm thấy Lư Tuần vốn hỉ nộ không lộ ra ngoài, là hạng người thâm trầm bỗng nhiên biến thành hào sảng, rất không hợp lẽ thường, nhưng nhất thời đoán không ra dụng ý của hắn.

    Lư Tuần ung dung nói:"Có đi có lại mới toại lòng nhau, Phụng Thiện huynh là người minh bạch, chắc cũng hiểu nên làm thế nào chứ?".

    Phụng Thiện ho khan liên tiếp, gật đầu nói:"Cái đó đương nhiên, Phụng Thiện có một đề nghị, chúng ta cùng đặt bảo ngọc qua một bên, sau khi động thủ phân cao hạ, người thắng cứ việc mang bảo đi, ý đạo huynh thế nào?".

    Vừa nói vừa moi ra một khối ngọc khác giống hệt khối ngọc trong tay Lư Tuần, xem hình dạng các vết khuyết trên hai khối ngọc này, nếu hiệp lại sẽ thành một khối ngọc hoàn chỉnh, bên trong có một khe tròn nhỏ.

    Lư Tuần cười the thé nói:"Chẳng cần làm chuyện vô ích, mỗ tính cứ giao bảo ngọc cho đạo huynh bảo quản, sau đó sẽ bằng bản lĩnh thâu lại từ nơi đạo huynh, chẳng phải thú vị và kích thích hơn sao?".

    Nói xong không kể Phụng Thiện có phản đối hay không, bàn tay vung lên, bảo ngọc hóa thành một vệt sáng trắng bắn tới Phụng Thiện, nghe âm thanh như xé gió mới biết bảo ngọc quán mãn chân khí, kình đạo hết sức mãnh liệt.

    Đòn này quả nhiên nằm ngoài dự liệu của ba người đang nấp xem trộm, Phụng Thiện lại càng thất kinh, tuy biết rõ Lư Tuần không tử tế gì, nhưng cũng không thể để bảo ngọc vỡ nát, lại thêm có tâm lý cầu may, bởi vì chỉ cần cầm được bảo ngọc, tiện đường vui vẻ chuồn đi coi như đại công cáo thành.

    Phụng Thiện quả là kẻ tâm kế đa đoan, thấy Lư Tuần ngay sau khi ném ngọc đồng thời cũng lao bổ tới, biết rằng nếu đưa nốt tay kia ra tiếp lấy bảo ngọc thì hóa thành cả hai tay cùng vướng, lại sợ kẻ địch trước mặt thừa cơ làm tới, thời gian và tình huống lại không đủ để cất bảo ngọc vào người, nhân cấp sinh trí, bèn chú nhập âm kình vào bảo ngọc trong tay đưa ra nghênh đón khối ngọc đang bay tới trước mặt, tay kia nắm lại thành quyền đầu nhằm Lư Tuần mau lẹ công tới một quyền cách không, chỉ cần ngăn trở đối thủ một khắc thời gian, lão có thể tranh thủ thâu nhập viên Thái Bình bảo ngọc hoàn chỉnh, khi đó muốn đánh muốn ngưng là tùy mình.

    Tưởng hai khối ngọc va vào nhau sẽ cùng nát vụn như cám, nào hay Phụng Thiện sử dụng thủ pháp khéo cực, chẳng những hóa giải kình lực của Lư Tuần, mà còn khiến hai khối ngọc tiếp xúc phát ra một âm thanh trong trẻo. "Đắc", những chỗ lồi lõm hình răng cưa đã khớp vào nhau rất vừa vặn, biến thành một hòn ngọc hoàn mỹ, dụng kình thật là tinh xảo, phương vị thời gian hết sức chuẩn xác, thật đáng thán phục. Đáng tiếc những người bàng quan là Yến Phi, Lưu Dụ và An Ngọc Tình đều hiểu rõ chính lúc này mới bắt đầu tai họa của Phụng Thiện.

    Hai người võ công khác biệt không nhiều, bằng không Lư Tuần cũng không phải dùng đến kế sách mạo hiểm này, hiện giờ Phụng Thiện quá nửa tâm thần và công lực phân ra để tiếp lấy nửa khối cổ ngọc kia, chỉ còn đơn thủ ứng phó địch nhân, mạnh yếu thế nào chả cần nói cũng biết.

    Quả nhiên Lư Tuần cười dài một tiếng nói: "Đạo huynh trúng kế rồi".

    Đúng vào thời điểm quyền đối phương ập đến, lão liền xoay người, hóa giải đại bộ phận quyền kình, tốc độ lao tới không những không giảm mà tăng lên, đập mạnh vào bụng Phụng Thiện.

    Phụng Thiện thất kinh, đạo bào toàn thân lập tức bung ra giống như lần trước, mới hay Lư Tuần đã vọt mình bay lên đỉnh đầu mình.

    Phụng Thiện chẳng những khiến người ta kinh ngạc, mà còn hoàn toàn không kể gì thân phận, ngã người lăn tròn trên mặt đất, khối ngọc từ giữa đường lăn lăn qua một bên, tuy tránh được cú đòn sấm sét này, nhưng lại bị hãm vào tình thế cực kỳ nguy hiểm, tuy vậy vào thời điểm cuối cùng lão vẫn cướp được khối ngọc về tay.

    Lư Tuần xoay người, chớp mắt truy theo Phụng Thiện, Phụng Thiện không biết bằng cách nào mau lẹ vung song cước đá vào tiểu phúc và vào háng Lư Tuần. Lư Tuần thấp giọng quát: "Chân!" song chưởng ép xuống, đập trúng hai bàn chân Phụng Thiện, một người dùng toàn lực, một người miễn cưỡng phản kích, cao thấp đã rõ.

    Phụng Thiện há miệng phun ra huyết hoa đầy trời, bị chưởng kình đánh trúng lăn người đi, Lư Tuần đang muốn đuổi theo kết liễu sanh mệnh lão, Phụng Thiện bàn tay vung mạnh, Thái Bình bửu ngọc cả khối hoàn chỉnh thoát thủ bay đi, vọt lên trên không.

    Lư Tuần làm sao còn do dự, buông lời: "Đa tạ đạo huynh", bỏ ý định sát nhân, xoay sang tìm kiếm, tung người theo hướng bay của bửu ngọc.

    Một tiếng quát lanh lảnh cất lên, An Ngọc Tình lặng yên nãy giờ chợt bay ra như một chú se sẻ nhẹ nhàng xinh đẹp, tay áo bay bay lao tới phía trước Lư Tuần, vọt lên không đuổi theo bảo ngọc.

    Phụng Thiện thọ thương không nhẹ, "pang" một tiếng đập tan cửa, lăn vào trong một gian điếm, gần chỗ Lưu Dụ.

    Lưu Dụ không hề cản trở An Ngọc Tình, theo lập trường của gã, Tôn Ân và Lư Tuần của Thái Bình giáo chính là đại họa tâm phúc của Nam Tấn, nếu Thái Bình giáo theo đồ hình trên bảo ngọc tìm được Thái Bình Động Cấp Kinh gì đó, không ai biết được sẽ có chuyện gì xảy ra. Dù hậu quả ra sao, nếu cái đó rơi vào tay An Ngọc Tình có vẻ ổn hơn, hà huống Lư Tuần tất không chịu bỏ qua cho An Ngọc Tình, khi đó gã dễ dàng bỏ đi.

    Thái Bình bảo ngọc lúc này đang từ trên cao hơn mười trượng rơi xuống, An Ngọc Tình chỉ cách đó chừng năm trượng, Lư Tuần thì còn ở bảy tám trượng ngoài, cặp mắt trắng dã xem tình hình An Ngọc Tình có thể nhanh chân tới trước, giận đến mức song mục thiếu điều phun lửa.

    Vào lúc khẩn trương này, một đạo bạch quang từ bên kia đường bắn tới nhanh như thiểm điện, kích thẳng vào bảo ngọc, phát sau mà tới trước, khẳng định là chính xác không sai, bắn trúng bửu ngọc sẽ hóa thành bụi phấn. Chiêu này quả nằm ngoài dự liệu người ta, đột nhiên xảy đến, không ai tưởng lại có biến cố này.

    Người xuất thủ đương nhiên là Yến Phi, gã cũng giống Lưu Dụ đối với Thái Bình Động Cấp Kinh hoàn toàn không lưu tâm, có lẽ coi Phụng Thiện, Lư Tuần hai người hành sự tác phong đầy tà ác, nghĩ nếu loại người này có được bảo kinh chẳng phải là chuyện tốt đẹp, gã hoàn toàn tùy tâm mà làm, liền rút chủy thủ định kích nát ngọc hoàn, kết thúc mọi chuyện.

    Lưu Dụ lúc này mới biết có người ẩn thân trong ngôi nhà đối diện, tuy chưa biết đối phương là ai, cũng đại khái đoán được tâm ý của người xuất thủ, trong lòng kêu hảo

    An Ngọc Tình mắt thấy bảo ngọc sắp bị kích trúng, mặt ngọc xuất hiện thần sắc phẫn nộ, hương tụ nhấc lên, chủy thủ trong tay áo bắn vọt ra, hướng tới chủy thủ trong tay Yến Phi. Lại vì lăng không vận kình nên ả không thể duy trì chân khí, đành hạ mình rơi xuống.

    "Đang".

    Chủy thủ giao kích, cùng bay ra ngoài rơi xuống đất.

    Lư Tuần kêu thầm một tiếng trời giúp ta, song cước dùng lực nhảy tới, chắc mẩm có thể xông tới trước An Ngọc Tình cướp lấy bảo ngọc. Nào ngờ phía bên tả bỗng nhiên kiếm quang đại thịnh, Yến Phi xuyên qua cửa sổ bay ra, không lý gì đến bảo ngọc, chỉ hướng tới hắn toàn lực ngăn chặn.

    Lưu Dụ nhìn thấy Yến Phi lập tức nhận ra, gã từng nhiều lần tiến nhập Biên Hoang tập, đương nhiên hiểu Yến Phi là thần thánh phương nào, mỗi lần cùng Cao Ngạn tới Đệ nhất lâu, Yến Phi đều ngồi trên gác uống rượu tiêu sầu, do Cao Ngạn giới thiệu, hai bên đã chào hỏi qua loa, nhưng không giao đàm, đều là do thái độ cự tuyệt người ngoài ngàn dặm của Yến Phi. Lúc này bỗng nhiên gặp lại Yến Phi, không biết sao lòng rất vui mừng, chẳng những từ gã có thể biết rõ tình thế Biên Hoang tập mà còn có thể thông qua gã liên lạc với Cao Ngạn, như thế đối với nhiệm vụ của mình trăm đường lợi mà vô hại.

    Nghĩ tới đó chẳng chút do dự, xuyên qua cửa sổ nhảy ra, chỉ nghĩ có thể nhanh hơn An Ngọc Tình một bước, hủy đi bảo ngọc, hoàn thành tâm nguyện của Yến Phi.

    "Bồng, bồng" một chuỗi âm thanh liên tiếp vang lên, nộ khí công tâm, Lư Tuần tận xuất toàn thân bản lĩnh, tụ trảo đụng nhau, có lẽ sau khi lực chiến đã thụ thương, lại bị Yến Phi bức bách rơi xuống, đành ngồi nhìn Lưu Dụ đang xông tới chỗ bảo ngọc.

    Yến Phi nhìn kẻ phá ngang vừa tới, tuy không nhớ tên nhớ tuổi, cũng không biết thân phận chân chánh của gã, nhưng nhận ra gã cùng Cao Ngạn có qua lại giao dịch, thấy gã xuất trường đao từ thiên không lao xuống chỗ bảo ngọc rơi, mừng rỡ kêu: "Xuất hiện đúng lúc lắm".

    Lưu Dụ cười dài trả lời: "Vật tà ác, người người đều có quyền hủy đi, Yến huynh ngươi yên tâm".

    Mắt thấy trường đao sắp kích trúng bửu ngọc, An Ngọc Tình lúc này đôi chân thanh mảnh vừa tiếp xuống đất, còn chưa kịp vận khí phát lực, thấy Lưu Dụ đã tại ngoài xa năm trượng chuẩn bị hủy ngọc, vội kêu thất thanh: "Đừng!".

    Ba người đang chú mục nhìn, bỗng nhiên một bóng đỏ phi tới trên đầu Lưu Dụ, từ trong tay áo bắn ra cuộn dây lưng dài ước một trượng, nhanh hơn một bước cuốn lấy bảo ngọc, khiến trường đao của Lưu Dụ chém vào hư không.

    Khất Phục Quốc Nhân.

    Yến Phi chân điểm trên mặt đất, vui vẻ nhìn Lư Tuần và An Ngọc Tình không hề để mắt đến gã, đang một trước một sau xông vào Khất Phục Quốc Nhân.

    Lưu Dụ vừa nhào tới xong, cuộn dây lưng vải đang thu lại ngay sau lưng gã, giận dữ vươn người, trường đao theo đà chém ra, trúng vào dây lưng vải, dây lưng ứng đao đứt đôi, gã lập tức phi lên, dồn kình lực tung ra một cước trúng bảo ngọc, nghĩ rằng cổ ngọc phải vỡ tan thành bụi, nào ngờ cổ ngọc cứng rắn dị thường, chỉ bị đá văng lên cao, bay về phía Yến Phi.

    An Ngọc Tình và Lư Tuần nào tính đến biến hóa như vậy, Khất Phục Quốc Nhân đã từ trên bổ xuống, hắn ẩn phục bên ngoài quan sát đã lâu, biết ba người đều là hạng khó đối phó, nhảy vọt lên tránh khỏi Lưu Dụ, ném bỏ dây lưng vải, song tụ phất ra công tới Lư Tuần và An Ngọc Tình đang hung hãn lăng không phi tới.

    Yến Phi vọt người lên hành động ngoài ý liệu của Lưu Dụ, không xuất thủ hủy ngọc mà chụp lấy nó, cao giọng hô:"Huynh đệ, chuồn thôi".

    Chẳng cần gã kêu gọi, Lưu Dụ cũng mau lẹ tách khỏi chiến trường, đuổi theo Yến Phi đang chạy về phía Tây.

    Khất Phục Quốc Nhân, An Ngọc Tình và Lư Tuần ba người đã nhập chiến cục, ta đánh ngươi, ngươi đánh ta, giết được địch hay không không biết, nhưng không ai có thể phân thân truy đuổi hai kẻ chạy trốn.


  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 10

    Hoạn nạn chân tình
    Yến Phi cùng Lưu Dụ kẻ trước người sau chuồn vào một cánh rừng rậm, cả hai đều cảm thấy kiệt lực. Người trước vọt lên một ngọn cây cao, người sau tựa vào thân cây khác quay lại nhìn ra khoảng đất hoang bên ngoài. Nhữ Âm thành đã biến thành một chấm đen nhỏ nằm ở phía đông.

    Yến Phi nhảy xuống đất nói: "Con chim ưng săn mồi không thấy theo đến". Lưu Dụ hỏi: "Nó kêu là Thiên nhãn phải không?".

    Yến Phi kinh ngạc: "Huynh đài kiến thức bất phàm, chính là Thiên nhãn".

    Lưu Dụ cười cười: "Mỗ nhận được áo choàng đỏ của Khất Phục Quốc Nhân, hơn nữa hắn ta hình dung quái dị, khó mà nhầm lẫn. Yến huynh hình như đã quên mỗ tên Lưu Dụ".

    Yến Phi vẻ ân hận nói: "Lưu huynh chớ thấy kỳ quái, mỗ uống say rồi thời không nhớ được bất cứ chuyện gì. Lưu huynh đúng là người can đảm, biết là gặp Khất Phục Quốc Nhân mà chẳng chút sợ hãi, xuất đao chém đứt dây lưng của hắn".

    Lưu Dụ thản nhiên nói: "Mỗ xưa nay không sợ bất kỳ kẻ nào, chỉ không rõ làm sao Yến huynh không lập tức hủy đi bảo ngọc?".

    Yến Phi lấy bảo ngọc ra, đưa cho Lưu Dụ, lãnh đạm nói: "Mỗ thực ra chỉ quấy rối địch, khiến Khất Phục Quốc Nhân vướng chân vướng tay, hiện tại ngọc này đã mất tác dụng, xin giao luôn cho Lưu huynh xử trí".

    Lưu Dụ tiếp lấy bảo ngọc, vận mục lực dưới ánh trăng quan sát kỹ càng những đường vân nhỏ trên đó, nói: "Như vậy có thể nói mục đích của Khất Phục Quốc Nhân không phải là đoạt ngọc, chính là tìm Yến huynh mà gặp đúng cơ hội. Không biết huynh với Phù Kiên có dây dưa gì?".

    Yến Phi đáp: "Chuyện này một lời khó nói hết, Lưu huynh vì chuyện gì mà tới Nhữ Âm? Nữ tử nọ có phải cùng đường với huynh không?".

    Lưu Dụ biết Yến Phi không muốn trả lời, chính mình cũng không phải là không có điều khó nói, cười khổ: "Tiểu đệ cũng là nhất ngôn nan tận, yêu nữ nọ tên là An Ngọc Tình, tình cờ gặp trong thành, còn muốn giết chết ta. Thật là kỳ quái, bằng vào sơn thủy địa lý đồ trên bảo ngọc, dù cho nhận ra được đấy là danh sơn thắng cảnh nào, lại chẳng có vị trí tiêu kỳ tàng kinh, có để làm gì?". Nói xong chìa bảo ngọc cho Yến Phi coi. Yến Phi vốn hoàn toàn không hứng thú, chẳng đừng được dụng tâm coi kỹ: "Đúng là kỳ quái!".

    Lưu Dụ thâu bảo ngọc lại nói: "Ngọc này có lẽ còn giá trị lợi dụng, Yến huynh có phải từ Biên Hoang tập tới? Có biết tình hình Cao Ngạn không?".

    Yến Phi đối với vị bằng hữu sơ giao trí dũng song toàn này có chút hảo cảm, không muốn lừa dối gã, liền đáp: "Nếu huynh lập tức chạy tới Thọ Dương có lẽ hắn còn ở đó, cùng lắm nếu không gặp ở đó thì từ chỗ Hồ Bân có thể biết hướng đi của hắn, huynh với Hồ Bân là đồng liêu mà".

    Lưu Dụ thất vọng ra mắt, không trả lời Yến Phi, chán nản nói: "Vậy mỗ chỉ trông vào vận khí của mình thôi, Biên Hoang tập tình hình ra sao?".

    Yến Phi đã sớm đoán mục đích của gã chính là Biên Hoang tập, cười nhẹ đáp: "Lưu huynh chớ cười ta hiểu ít nói nhiều, quân tiên phong của Phù Dung đã tiến vào Biên Hoang tập, phong tỏa toàn bộ đường xuất nhập, chờ nghênh tiếp đại quân của Phù Kiên, huynh tìm tới Biên Hoang tập như vậy, không khác nào đi vào chỗ chết. Bất quá nếu Lưu huynh có thể nói thẳng cho ta biết là chuyện gì, biết đâu ta có biện pháp giúp huynh đỡ phiền phức".

    Lưu Dụ ngấm ngầm thở ra, gã tuy cùng Yến Phi mới gặp đã thấy có duyên, chỉ cần coi gã biết rõ Khất Phục Quốc Nhân ẩn nấp dòm ngó ngay bên cạnh mà vẫn không kể gì an nguy của bản thân xuất thủ hủy ngọc, tránh để yêu nhân đoạt được, có thể biết gã là hạng người nào. Vấn đề là chuyện quá quan trọng, nếu để tiết lộ việc mình tìm cách liên lạc với Chu Tự tới tai Phù Kiên, thì mọi sự hỏng bét. Cười khổ nói: "Tiểu đệ phụng nghiêm lệnh, mong Yến huynh lượng thứ".

    Yến Phi buông thõng: "Lưu huynh đã có điều bí ẩn khó nói, ta cũng không tiện truy vấn, hiện tại trời còn chưa sáng, ta lại muốn đi thêm một đoạn nữa, chúng ta chia tay bây giờ chăng? Hy vọng có ngày gặp lại".

    Lưu Dụ nắm chặt hai tay Yến Phi thành khẩn nói: "Yến huynh bỏ quá cho, Lưu Dụ hết sức cảm kích, ta đối với Yến huynh thật là nhất kiến khuynh tâm, nếu còn giữ được mạng này, Yến huynh lại có dịp qua Quảng Lăng, có thể tới phủ đệ của Tôn Vô Chung tướng quân, tiểu đệ tất sẽ tận tình bồi tiếp".

    Gã nói điều này cũng giống như gián tiếp thừa nhận mình là người của Bắc Phủ binh.

    Yến Phi nghe tới tên Tôn Vô Chung, trong lòng máy động, đang muốn nói thì dị biến đột khởi.

    Ban đầu, hai người vẫn như trong mộng, không hiểu là có chuyện gì, bọn họ đang trong mật lâm khuôn viên chừng ba trượng, cành lá bỗng rung động ào ào, kèm theo cuồng phong từ cánh đồng hoang phía tây bắc thổi tới.

    Tiếng kêu gào tựa hồ từ bốn phương tám hướng truyền lại, ban đầu còn nhẹ bên tai, chỉ sau một sát na đã biến thành những âm hưởng vang dội trong rừng, ập vào màng nhĩ hai người, xung quanh tràn đầy kình khí, hình thành vô số những đợt sóng chưởng mãnh liệt sắc như dao quét tới, giống như bỗng nhiên bị hãm trong cuồng phong bạo vũ, thiếu chút là đứng cũng không vững, đến khi miễn cưỡng trụ bộ được thì đã kết thúc.

    Yến Phi cảm thấy trời đất tối sầm lại, ánh sáng tự nhiên đương nhiên không thay đổi, vầng trăng sáng vẫn nguyên dạng, chỉ có hộ thể chân khí bị luồng khí thể cuộn xoáy kia tập kích tan mất, chân lực giảm sút đến mức chưa từng thấy. Vậy mà cho đến lúc này gã còn chưa biết vị trí của kẻ tập kích, chỉ biết kẻ này võ công chí cao, chẳng những từ trước chưa từng thấy, chưa từng nghe, mà thậm chí còn chưa từng nằm mơ đến.

    "Xoẹt!".

    Lưu Dụ rút hậu bối đao ra, trong lúc Yến Phi đang nghiêng trái ngả phải mơ hồ nhìn ra bãi hoang. Gã vốn đã chịu đựng không nổi, ứng phó lại càng vất vả.

    Thoắt cái hai luồng kình khí như thể hữu hình, uy lực không thể kháng cự phân biệt ập thẳng vào bối tâm hai người, nếu bị đánh trúng chắc chắn lục phủ ngũ tạng đều tan nát, hộ thể chân khí hoàn toàn không còn tác dụng.

    Yến Phi qua cảm giác hiểu rõ Lưu Dụ do không có cách nào tránh khỏi nên đành phải huy đao chém vào luồng kình khí, mà khí công của người công kích chắc chắn hơn hẳn hai người, lại đem toàn lực thi xuất, hậu quả thế nào khả dĩ đoán được.

    Yến Phi liền đem nguyệt kình chuyển thành nhật khí, mũi kiếm phát xuất âm thanh vi vút xé gió, mau lẹ đâm vào khoảng trống giữa hai luồng khí trụ, mũi kiếm lách ngược dòng khí lưu đâm vào đối thủ.

    Lưu Dụ lúc này toàn thân chân kình dồn lên nhất đao đã đánh trúng luồng khí trụ sắc bén, hốt nhiên phát giác kình đạo đối phương thâu giảm mấy thành, nhưng đã như bị một chùy ngàn cân quật trúng lưỡi đao, oẹ một tiếng, phun ra một bụm máu, bay ngược ra sau, đến khi sống lưng đụng phải một thân cây khô mới ngồi phệt xuống, khí huyết đảo nghịch, chỉ chút nữa là không giữ nổi hậu bối đao vốn xưa nay chưa hề rời khỏi tay.

    Kình khí giao kích vang lên thành một chuỗi thanh âm liên tiếp trong khoảng rừng tối đen mịt mùng, Lưu Dụ mắt còn đang nổ đom đóm bỗng thấy một hắc y nhân cao lớn, mang mặt nạ quỷ dữ tợn đáng sợ, song tụ bay tung, đánh cho Yến Phi khốn đốn, luồn đông tránh tây, bên trái thừa thì bên phải thiếu, nguy cơ trùng trùng, sơ sảy là táng mạng tại đương trường.

    Lưu Dụ biết Yến Phi liều mạng kháng địch cứu mình, bằng không mình chẳng còn ngồi đây mà thở, mà đã biến thành xác chết từ khuya rồi, trong lòng rất cảm động, mau chóng hồi phục khí lực, lấy bảo ngọc trong người ra quát to: "Thái Bình bảo ngọc ở đây!". Rồi dụng kình ném bảo ngọc ra ngoài rừng.

    Ma đầu đáng sợ vung tay áo đánh bật Yến Phi sang bên, rồi bỗng nhanh như quỷ mị xuyên qua rừng cây đuổi theo bảo ngọc.

    Lưu Dụ hoang mang chạy lại chỗ Yến Phi đang cố gắng đứng lên, sắc mặt trắng bệch như tờ giấy, đầy vết máu.

    Bỗng nhiên từ bên ngoài truyền vào tiếng quát tháo đánh nhau, Yến Phi lộ thần sắc vui mừng, đặt tay lên vai Lưu Dụ nói: "Trời giúp ta rồi, chính là Khất Phục Quốc Nhân vừa tới, chắc hắn không còn mệnh, chí ít không tới tìm bọn ta được. Mau đi thôi".

    ° ° °

    Hai người ngồi trong một khoảnh rừng rậm trên đỉnh đồi có một nhánh sông chảy quanh, cách xa nơi bị tập kích hàng chục dặm. Họ phục tại chỗ trũng ở bờ sông lạnh lẽo, há miệng thở dốc.

    Lưu Dụ bỗng nhiên bật cười, lại phun ra một búng máu, không biết gã đang vui vẻ hay đang thống khổ nữa.

    Yến Phi vốn muốn hỏi, chợt cũng bật cười, cười đến khổ sở, nhưng cực kỳ thoải mái.

    Lưu Dụ cảm khái: "Mỗ nói viên ngọc tà ma đó có chỗ dùng, chẳng ngờ lại dùng để cứu mạng, lại còn biết đâu nhờ nó lấy đi mạng chó của Khất Phục Quốc Nhân. Ai! Mẹ nó! Thiên hạ lại có cao thủ đáng sợ như thế, coi y không dám lộ mặt thật, theo mỗ đoán nếu chẳng phải Tôn Tư thì là Giang Lăng Hư hai yêu nhân đó".

    Yến Phi bò lên phía trước hai bước, vục đầu xuống dòng nước mát, Lưu Dụ thấy hay, cũng học theo gã, tiến tới nhúng đầu xuống sông.

    Trời dần sáng, dòng sông nhỏ cuộn chảy quanh khu đất rừng, trên bờ cây cối ken dày, tạo thành nơi tỵ nạn lý tưởng cho hai người.

    Lưu Dụ nhấc đầu lên khỏi mặt nước trước tiên, mặc kệ nước chảy đầy mặt, ngó quanh nói: "Y cũng có thể là An Thế Thanh, phụ thân của An ngọc Tình, tuy nhiên khả năng không cao. Hãy coi thử xem ai có thể tìm thấy chúng ta, từ đấy có thể biết người ấy là ai".

    Yến Phi chống gối ngồi dậy hành khí vận huyết, nói: "Thương thế Lưu huynh sao rồi?".

    Lưu Dụ xoay người nằm ngửa, nhìn lên khoảng không trên đầu rừng: "Chỉ là ngoài da, không đáng ngại lắm. Còn chưa có lúc nào đa tạ đại ân cứu mệnh của huynh". Yến Phi cười khẽ: "Huynh cứu ta, ta cứu huynh, mọi người cùng chung hoạn nạn, huynh phải chăng vẫn muốn tới Biên Hoang tập?".

    Lưu Dụ chợt nói: "Việc càng khó, ta càng cảm thấy hứng thú, hoặc giả ta là loại người không cam chịu, ưa sự kích thích. Ta đang cảm thấy chưa bao giờ cuộc đời có ý nghĩa như bây giờ".

    Yến Phi gật đầu nói: "Huynh quả thật là một người rất đặc biệt, trước hết có thể trả lời ta một vấn đề hay không?".

    Lưu Dụ lờ mờ đoán được Yến Phi muốn nói gì, trải qua cuộc chiến vừa rồi, quan hệ giữa hai người đã khác hẳn, gần như đồng sanh đồng tử, kề vai tác chiến, liền đáp: "Được chứ! Ta thân mang trọng trách được thứ sử đại nhân phó thác, dù cho mất mạng cũng phải dấn thân".

    Yến Phi nhẹ giọng: "Tạ Huyền?".

    Lưu Dụ thản nhiên đáp: "Mệnh lệnh là do Tạ thứ sử tự thân phát ra". Yến Phi vui mừng nói: "Vì sao bỗng nhiên huynh lại nói thật ra như vậy?".

    Lưu Dụ quay sang nhìn, những đường nét đẹp đẽ đầy nam tính dương cương trên khuôn mặt Yến Phi lọt vào mắt gã, không một chút tục khí giang hồ, mà lại rất sáng láng đẹp đẽ, khiến người khác vui vẻ tín nhiệm cùng gã giao kết, liền nhẹ nhàng nói: "Đạo lý rất đơn giản, nếu không có huynh giúp đỡ, ta tuyệt không có khả năng hoàn thành sứ mệnh, vì vậy đó là lựa chọn sáng suốt của ta".

    Yến Phi hướng mục quang về phía gã, ánh mắt giao nhau, đều cảm thấy tin cậy lẫn nhau, không còn chút nghi kỵ nào nữa.

    Yến Phi nói: "Thực không dám giấu, Cao Ngạn tới Thọ Dương để vì ta hẹn gặp Tạ Huyền. Ta vốn có biện pháp khiến cho ông ta thắng trận này, đáng tiếc hiện tại lại không thể nắm chắc".

    Lưu Dụ nghe tới đó bật ngồi dậy, nghiêm túc nói: "Xin được nghe rõ".

    ° ° °

    Tạ Huyền dừng ngựa bên ngoài Quảng Lăng thành, hai bên là hai đại tướng thủ hạ Lưu Lao Chi và Hà Khiêm, hai người này toàn thân giáp trụ, càng làm nổi bật Tạ Huyền nho cân bố y, phong thần tuấn tú, nhiều phần khác biệt.

    Hai vạn quân tiên phong do Tạ Diễm suất lãnh hướng về phía trước tiến lên, mục tiêu là trọng điểm chiến lược Bát Công Sơn trên bờ đông Phì thủy.

    Tạ Huyền nhìn Bắc Phủ binh như lang như hổ hùng dũng diễu qua trước mặt, tâm tư như triều thủy cuộn trào.

    Từ khi thành lập Bắc Phủ binh tới nay, hắn chưa từng nếm qua vị đắng chiến bại, khiến cho uy danh vang dội, trận chiến xác lập địa vị ngày nay xảy ra bốn năm trước, khi đó Phù Kiên phái nhi tử là Phù Phi suất lãnh bảy vạn quân, tiến công Nam Tấn, trước tiên công chiếm Tương Dương, bắt thứ sử Chu Tự làm tù binh, chiếm được cứ điểm dừng chân rồi, lập tức phái Bành Siêu tiến công Bành Thành, làm chấn động triều đình Kiến Khang. Khi đó toàn do Tạ An một mình xếp đặt nghị sự, hắn kinh nghiệm ít ỏi nhận mệnh xuất chiến, lần đó Tạ An chỉ nói hai câu: "Hư trương thanh thế, thanh đông kích tây", do vậy hắn y theo dặn dò của Tạ An, hư trương thanh thế muốn tiến công nơi chứa lương của Bành Siêu, buộc Bành Siêu phải kéo quân về bảo vệ, Hà Khiêm mới thừa cơ thu phục Bành Thành. Bành Siêu sau khi hội quân với cánh quân kia, mang binh lực hơn sáu vạn lại xua quân tiến về phía nam, bao vây trọng trấn Tam A cách Quảng Lăng chừng trăm dặm, hắn lập tức từ Quảng Lăng tây tiến đánh úp, đại phá Tần quân, lại đốt cháy chiến hạm lương thuyền của địch, cắt đường rút lui, tiến công tiêu diệt gần hết sáu vạn quân Tần ở Tam A, đáng tiếc đã mất Tương Dương, khiến cho có ngày hôm nay Phù Kiên muốn đích thân kéo quân nam hạ.

    Lần này đại quân Phù Tần nam lai, so với năm đó khác hẳn, chẳng những tận xuất mãnh tướng tinh binh, Mộ Dung Thùy cùng Diêu Trường là những chiến tướng dũng mãnh cái thế, khiến hắn nửa phần chiến thắng cũng không nắm được, bất quá hắn hoàn

    toàn tin vào một tay sắp xếp của Tạ An, vì xưa nay chưa bao giờ ông nhìn sai, chỉ không biết lần này có linh nghiệm hay không?

    ° ° °

    "Pang!".

    Hoàn Huyền một chưởng bổ xuống mặt bàn bằng gỗ nam, lập tức một dấu tay hiện ra, hắn cả đêm trước không ngủ được, một mình tại nội đường uống rượu giải sầu, trong lòng đầy phẫn uất.

    Lời trách mắng của Hoàn Xung vẫn vang vang bên tai, hắn tự xét thấy so với Tạ Huyền, trên mọi phương diện mình đều trội hơn, vậy mà liệt danh trên bảng cửu phẩm cao thủ, Tạ Huyền chiếm ngôi đệ nhất, hắn đành chịu thứ hai; hiện giờ đại quân Phù Tần nam lai, Tạ Huyền đốc quân nghênh chiến, mình chỉ có thể khốn thủ Kinh Châu, đang khi càng nghĩ càng tức. Mưu sĩ thủ hạ thân tín nhất Khuông Sĩ Mưu từ ngoài nói vọng vào:" Sĩ Mưu có chuyện trọng yếu muốn lập tức bẩm lên".

    Hoàn Huyền trầm giọng đáp: "Nếu chẳng phải chuyện gấp rút thì đừng làm phiền ta".

    Khổng Sĩ Mưu nhẹ bước tới sau lưng hắn, chắp tay nói nhỏ: "Đại tư mã chẳng biết có phải vì lo lắng tình thế Giang Hoài, sau khi gặp Nam quận công vết thương cũ tái phát, phải nằm trên giường, vô phương chữa trị, xem ra tình hình bất diệu".

    Đại tư mã chính là Hoàn Xung, còn ấp phong của Hoàn Huyền là Nam quận, cố nhiên là Nam quận công.

    Bốn năm trước trong trận chiến Tương Dương, Hoàn Xung trúng độc của người Tần, trục độc còn dư, từ đó lúc nào độc thương cũng có thể phục phát, thủy chung vẫn không có cách nào thanh trừ độc tố trong mình, khiến ông sức lực ngày càng kém, lại thêm niên kỷ cao, không thể nào hồi phục sự dũng mãnh năm nào.

    Khuông Sĩ Mưu trang phục văn sĩ, thân thể gầy mòn, cặp mắt gian xảo lén lút, là loại người rất thích dùng tâm kế xảo thuật.

    Hoàn Huyền lại uống cạn một chén rượu, vẻ bất cần nói: "Ông ta chết đi là tốt nhất, uy phong bao nhiêu đều mất sạch cả rồi".

    Khuông Sĩ Mưu mừng rỡ: "Chỉ bằng một câu nói của Nam quận công ngài, hoàng đồ bá nghiệp tất thành".

    " Choang!".

    Chén rượu trong tay Hoàn Huyền rơi xuống mặt bàn vỡ tan, hắn giật mình nói: "Ngươi nói gì vậy?".

    Khuông Sĩ Mưu cung kính: "Chiến bại thì khuynh gia, chiến thắng thì phúc tộc, chuyện này là kết cục tất yếu của tất cả các trọng thần danh tướng công cao át chủ của Nam Tấn. Hiện tại đại quân của Phù Kiên nam lai, triều đình rối ren, nếu đại tư mã có chuyện cái gì đấy ba dài hai ngắn, Tư Mã Diệu không có chọn lựa nào khác, ắt để Nam quận công kế thừa vị trí của đại tư mã, để làm an lòng quân Kinh Châu. Đây là thời cơ trời ban, bằng không nếu chuyện này xảy ra trong lúc yên ổn, Tư Mã Diệu sẽ thừa cơ tước đi binh quyền của Hoàn gia".

    Hoàn Huyền sắc mặt trắng bệch nói: "Nếu Phù Kiên đắc thắng thì thế nào?".

    Khuông Sĩ Mưu nói: "Chỉ cần Nam quận công đang nắm binh quyền, có thể thuận lý thành chương tự lập làm vua, hiệu triệu quân dân nam phương, nhân lúc Phù Kiên chưa vững chân, lợi dụng thế lợi đầu nguồn, thuận dòng đánh úp, đẩy lùi Phù Kiên lên phương bắc, có thể thành đại nghiệp".

    Sắc mặt Hoàn Huyền càng thêm trắng bợt, ngưng thần nhìn những mảnh chén vỡ trên mặt bàn, nói từng tiếng một: "Ngươi muốn ta...".

    Khuông Sĩ Mưu vội nói: "Sĩ Mưu nào dám mạo phạm đến Nam quận công, nhất thiết là do ngài tác chủ, Sĩ Mưu chỉ cố tận trách nhiệm thần tử, không muốn Nam quận công để mất cơ hội tốt".

    Hoàn Huyền yên lặng không nói, nhưng lồng ngực nhô lên thụt xuống không ngừng, rõ ràng nội tâm đang đấu tranh dữ dội.

    Khuông Sĩ Mưu lại hạ giọng kề tai hắn nói: "Chỉ cần Nam quận công làm bộ mong mỏi bệnh tình đại quận công mau khỏi, sau đó xin giao cho hạ nhân dùng thánh dược liệu thương chữa trị cho Đại tư mã, khi đó có thể thỏa mãn tâm nguyện xưng bá thiên hạ của Đại tư mã rồi".

    Hoàn Huyền kể từ lúc này như có một chỗ tựa êm ái, tự tan mất hết thứ lực lượng xuyên suốt từ trước, nhắm mắt rên rỉ: "Nếu ông ta phục dược mà chết đi, Hoàn Huyền ta chẳng phải trở thành kẻ bất nhân bất nghĩa hay sao?".

    Khuông Sĩ Mưu nói: "Nam quận công xin yên tâm, loại thuốc này sau khi dùng phải ba năm mới phát tác, tác dụng của nó chỉ khiến Đại tư mã vô pháp áp chế dư độc trong thân thể, bảo đảm thần bất tri quỷ bất giác. Ai! Nhân vì Sĩ Mưu mong liễu giải nỗi niềm tâm sự của Nam quận công mà phí mất một phen công phu thu xếp về đây".

    Hoàn Huyền trầm giọng nói:" Thuốc đâu?".

    Khuông Sĩ Mưu rút từ trong bọc ra một hộp gấm, cung kính đặt lên bàn.

    Hoàn Huyền mở to song mục, nhìn xoáy vào hộp gấm, hỏi: "Chuyện này có ai biết?".

    Khuông Sĩ Mưu chắc mẩm lập công to, mắt mũi sáng rực nói: "Sĩ Mưu làm sao có thể sơ hốt như vậy, chuyện này chỉ duy nhất có Sĩ Mưu biết mà thôi".

    Hoàn Huyền gật gật đầu, bỗng phản thủ một chưởng, đập vào ngực Khuông Sĩ Mưu, tiếng xương vỡ thịt dập vang lên, Khuông Sĩ Mưu trúng chưởng văng ra xa, không kịp kêu thảm lấy một tiếng trước lúc chết.

    Hoàn Huyền cầm chiếc hộp gấm lên, thận trọng cất vào trong bọc, giống như không có chuyện gì xảy ra, bình tĩnh nói: "Hiện tại chỉ mình ta biết thôi".


Trang 1 / 10 123 ... Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Truyền Thuyết Lão Tử
    By giahamdzui in forum Phim Trung Quốc Online
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 05-27-2019, 05:17 PM
  2. Truyền Thuyết Lão Tử
    By giavui in forum Phim Trung Quốc Online
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-07-2019, 09:58 PM
  3. Cánh Đồng Truyền Thuyết
    By giahamdzui in forum Truyện Ngắn Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-06-2016, 06:55 PM
  4. Truyền Thuyết Chiến Lang - Legend of the Red Dragon 1994
    By giahamdzui in forum Phim Lẻ Online
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-17-2014, 04:45 PM
  5. Sư Sĩ Truyền Thuyết
    By giavui in forum Audio Kiếm Hiệp
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-18-2013, 06:49 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •