Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Hạnh phúc giống như tiếng vang, chỉ nghe được tiếng trả lời mà không bao giờ thấy đến.
Carmen Sylva
Trang 3 / 10 ĐầuĐầu 12345 ... Cuối Cuối
Results 21 to 30 of 100

Chủ Đề: Biên Hoang Truyền Thuyết

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Biên Hoang Truyền Thuyết

    Biên Hoang Truyền Thuyết

    Tác giả: Huỳnh Dị



    TÓM TẮT TRUYỆN

    Biên hoang truyền thuyết, một câu chuyện tình cảm đầy xúc động, hào hùng, đau thương, bi đát, lãng mạn...nơi anh hùng xưng bá thiên hạ, tranh hùng võ lâm.
    Ở giữa vùng Hoài Thủy và Tứ Thủy, có một dải đất lớn hoang phế, trải dài hàng trăm dặm, toàn thành tan làng nát, quang cảnh như địa vực, người Hán ở phương Nam gọi nó là Biên Hoang, còn người Hồ ở phương Bắc gọi là Âu Thoát.
    Tên gọi tuy kỳ dị, nhưng nhất định là một vùng độc nhất vô nhị thời bấy giờ. Nó vừa là nơi phơi xác lương dân, vừa là nơi những kẻ lưỡi đao nhuốm máu chen nhau cướp lấy; nguy hiểm tuy đầy rẫy, nhưng cơ hội cũng trùng trùng; là nơi anh hùng hào kiệt chết không có đất chôn, cũng là võ đài cho những kẻ bạt mạng liều lĩnh thành danh lập nghiệp; càng là một vùng đất lý tưởng để chính quyền các nơi tiến hành những vụ ngoại giao bí mật. Lúc này nó có thể là Đào Nguyên thời loạn, lúc khác lại biến thành địa ngục Tu La giữa trần gian. Không có nơi nào đáng sợ hơn Biên Hoang, nhưng cũng không có nơi nào khác đáng yêu như nó. Biên Hoang là nơi ông trời tạo ra cho những người có bản lĩnh, triết lý và pháp quy để sinh tồn ở đó không giống bất kỳ vùng đất nào trên cõi đời này.

    Tập 1



    MỤC LỤC [−]

    1. Vung roi quất xuống nước
    2. Ngàn cân treo sợi tóc
    3. Thoát nạn trong gang tấc
    4. Hùng tài đại lược
    5. Các pháp các sư
    6. Hoang thiên đại pháp
    7. Trại đêm nấu rượu
    8. Xà huyết mỹ nhân
    9. Thái bình ngọc bội
    10. Hoạn nạn chân tình
    11. Hung hoài đại chí
    12. Tần Hoài chi nguyệt
    13. Thiếu mất một chút
    14. Hiểm tử hoàn sinh
    15. Tỵ nạn chi sở
    16. Di Lặc dị đoan
    17. Vì họa được phúc
    18. Dị đoan tà thuyết
    19. Liễu ám hoa minh
    20. Ngư mục hỗn châu
    21. Hoàn thành nhiệm vụ
    22. Phá vây thoát thân
    23. Chia đường chạy
    24. Ơn tri ngộ
    25. Tiêu Dao yêu giáo
    26. Tiêu Dao Đại Đế
    27. Ngự long chi quân
    28. Ánh mắt động lòng người
    29. Biệt vô thoái lộ
    30. Đồng hồ Đan kiếp
    31. Đệ kế huynh vị
    32. Đại chiến tiền tịch
    33. Phì Thủy chi chiến
    34. Phì Thủy lưu tuyệt
    35. Phe tề mạc cập
    36. Tham tao yếu hại
    37. Đan kiếp chi nạn
    38. Hỏa băng dị tượng
    39. Nam Bắc song hùng
    40. Tống quân thiên lý
    41. Kiếp hậu dư sinh
    42. Tránh trát cầu tồn
    43. Di Lặc nam lai
    44. Minh tranh ám đấu
    45. Sĩ thứ chi biệt
    46. Phi lai hoanh họa
    47. Thiết xỉ thống hận
    48. Thời bất ngã dữ
    49. Lộ chuyển phong hồi
    50. Tam thiên chi ước
    51. Thiên hạ cô bổn
    52. Bất hoài hảo ý
    53. Huyền công sơ thành
    54. Ý trời khó lường
    55. Tự nhiên chi đạo
    56. Dĩ nhãn hoàn nhãn
    57. Nữu chuyển càn khôn
    58. Đại nhậm lâm thân
    59. Giai nhân hữu ước
    60. Tần Hoài chi mộng
    61. Danh kỹ bản sắc
    62. Vô địch tổ hợp
    63. Âm thần Dương thần
    64. Thống nhất chi mộng
    65. Biên Hoang kinh biến
    66. Sơ thí đề thanh
    67. Dã hỏa vãn yến
    68. Phong hổ long vân
    69. Tối giai vũ khí
    70. Biên Hoang chi dạ
    71. Dạ Oa phong tình
    72. Biến hóa hoành sinh
    73. Thiên kim tán tận
    74. Giai nhân hữu ước
    75. Động thiên phúc địa
    76. Công khai khiêu chiến
    77. Đại địa phi ưng
    78. Linh thủ khước địch
    79. Giang hồ thủ đoạn
    80. Ngoan cường đối thủ
    81. Đại địch đương đầu
    82. Biên Hoang tầm mộng
    83. Truy Hung đại kế
    84. Hữu nguy hữu cơ
    85. Thản thành hợp tác
    86. Người tình như mộng
    87. Kỳ nhân chi đạo
    88. Quyền lực du hí
    89. Vĩnh viễn khai thủy
    90. Hội nghị lầu chuông
    91. Thủ danh cố khách
    92. Siêu cấp thần bộ
    93. Nhất lộ thuận phong
    94. Đại kế trừ yêu
    95. Thiên sư Tôn Ân
    96. Chiến vân mật bố
    97. Sát thân họa nguyên
    98. Hoa Yêu thật giả
    99. Ái tình du hí
    100. Dạ Oa chiến sĩ
    101. Trừ yêu hành động


    Hồi 1

    Vung roi quất xuống nước
    Ở giữa vùng Hoài Thủy và Tứ Thủy, có một dải đất lớn hoang phế, trải dài hàng trăm dặm, toàn thành tan làng nát, quang cảnh như địa vực, người Hán ở phương Nam gọi nó là Biên Hoang, còn người Hồ ở phương Bắc gọi là Âu Thoát.

    Tên gọi tuy kỳ dị, nhưng nhất định là một vùng độc nhất vô nhị thời bấy giờ. Nó vừa là nơi phơi xác lương dân, vừa là nơi những kẻ lưỡi đao nhuốm máu chen nhau cướp lấy; nguy hiểm tuy đầy rẫy, nhưng cơ hội cũng trùng trùng; là nơi anh hùng hào kiệt chết không có đất chôn, cũng là võ đài cho những kẻ bạt mạng liều lĩnh thành danh lập nghiệp; càng là một vùng đất lý tưởng để chính quyền các nơi tiến hành những vụ ngoại giao bí mật. Lúc này nó có thể là Đào Nguyên thời loạn, lúc khác lại biến thành địa ngục Tu La giữa trần gian. Không có nơi nào đáng sợ hơn Biên Hoang, nhưng cũng không có nơi nào khác đáng yêu như nó. Biên Hoang là nơi ông trời tạo ra cho những người có bản lĩnh, triết lý và pháp quy để sinh tồn ở đó không giống bất kỳ vùng đất nào trên cõi đời này.

    Sự tồn tại kỳ lạ của Biên Hoang có một lịch sử lâu đời và nhiều nhân tố khách quan, mỗi đoạn sử chương đều được viết bằng máu của những chiến binh và nỗi lầm than của dân chúng.

    Từ khi tôn thất nhà Hán sụp đổ, hào kiệt các nơi nổi dậy, chiến sự kéo dài lan rộng triền miên, sản xuất đình trệ dẫn đến nạn đói, cái ác hoành hành khiến miền trung thổ vốn dĩ đã phát triển được nghìn năm bỗng chìm vào cảnh xương trắng phơi ngoài nội, ngàn dặm không có một ánh lửa thổi nấu.

    Thời Tam Quốc, nước Ngô của họ Tôn và nước Ngụy của họ Tào, mỗi lần chiến sự hầu hết đều bạo phát ở vùng Hoài Tứ, khiến cho thành quách nơi đây bị phá hủy, đồng ruộng hoang hóa, nhân dân lưu lạc bốn phương, nhà cửa bỏ trống không ai ở, hàng trăm dặm lạnh ngắt không một bóng người.

    Đến khi họ Tư Mã nhà Tây Tấn thống nhất thiên hạ, dân cư vùng này lẽ ra đã được sống vui vẻ, đáng tiếc loạn Bát Vương, họa Vĩnh Gia theo nhau bùng phát, ngũ đại Hồ tộc là Hung Nô, Tiên Ti, Khương, Đê, Hạt hợp nhau nổi dậy chống Tấn, tạo một cơn phong bạo lớn trong lịch sử, lại làm cho trung thổ thêm tàn tạ. Đến khi Hoài Mẫn nhị đế của nhà Tấn phải đào vong, tôn thất nhà Tấn bị bức dời qua Nam, hình thành cục diện

    Nam Bắc đối lập, vùng Hoài Tứ vẫn là một hung địa chiến tranh, chịu nhiều thiệt hại nặng nề nhất. Hoài Thủy và Tứ Thủy trở thành biên giới bất thành văn của chính quyền Nam Bắc triều, Biên Hoang chính là "vùng đất không có người" nằm ở biên giới đó.

    Tình trạng đặc biệt của Biên Hoang được tạo nên trong một hoàn cảnh như vậy.

    Đối với những người Hồ xuất thân từ dân du mục phương Bắc, theo tập tục tất phải chừa một khoảng cách gọi là Âu Thoát ở nơi giáp ranh giữa hai tộc, coi như vùng tạm hoãn xung đột, những lúc nhàn sự hai bên Hồ và Hán đều không được xâm nhập, cấm chỉ với cả khách vãng lai, ngược lại sẽ coi như khơi bờ gây chuyện. Còn đối với chính quyền phương Nam, mảnh đất địa đầu này cũng không thích hợp để dân cư trú, chỉ hữu ích khi thực thi chiến lược "thành không nhà trống", ngăn cản vó ngựa Hồ tràn xuống phía Nam. Những lý do ấy khiến cho vùng đất rộng lớn, trải dài hàng trăm dặm dần dần hoang liêu tàn tạ.

    Biên Hoang đã hình thành trong tình hình kỳ quái đặc biệt, được các thế lực Nam Bắc mặc nhiên thừa nhận như vậy.

    Ở trung thổ, Biên Hoang là nơi hoang vu nhất, nhưng điều mâu thuẫn là Biên Hoang Tập - nằm giữa vùng Hoài Thủy và Tứ Thủy, thuộc trung tâm của Biên Hoang, bên bờ tây Dĩnh Thủy - lại chính là vùng hưng vượng nhất của trung thổ. Nó là đầu mối chuyển vận duy nhất giữa Nam và Bắc, là cây cầu thông thương của hai miền, là nơi các thế lực hào cường trong thiên hạ tranh quyền đoạt lợi, là địa bàn hành sự cho những bang hội buôn lậu và làm ăn phi pháp. Chỉ cần bảo đảm được tính mệnh để rời khỏi đây, bất luận là thương nhân, kỹ nữ, thợ thầy, hay bất kỳ ai đều có thể kiếm được số tiền tài nhiều gấp mười lần nơi khác. Điều này khiến Biên Hoang trở thành một địa phương đầy sức thu hút ma quỷ, là vùng mà trời đất tạo nên để dành riêng cho những kẻ có bản lĩnh và tốt số.

    Ở đây, vương pháp không tồn tại. Những kẻ xâm nhập vùng này được gọi là "Hoang nhân", không thuộc nhà Tấn ở phương Nam, cũng không thuộc chính quyền Hồ tộc ở phương Bắc.

    Hạng Thành, tiền thân của Biên Hoang Tập, vốn là một thành đô lớn bị khói lửa chiến tranh làm cho tan phế. Nhiều năm gần đây, Biên Hoang Tập không bị bạo loạn càn quét, sự hưng vượng của nó đạt tới đỉnh cao chưa từng thấy từ trước tới giờ, đáng tiếc một trường chiến tranh hung tàn mờ mịt lại đang manh nha ở phương Bắc, đe dọa tràn qua để xuống phương Nam, trước mắt Hoang nhân đại họa gần bức đến.

    ° ° °

    Phù Kiên, thủ lĩnh Đê Tần, gò ngựa lại trên một mỏm cao, lướt nhìn xuống đội tiên phong khí thế đỉnh thịnh, tinh kỳ phần phật. Đại cử tiến công chỉ còn lại địch thủ cuối cùng - nhà Tấn ở phía Nam, mà mục tiêu của đợt ra quân đầu tiên là Thọ Dương, một trấn có tầm quan trọng chiến lược vùng nam ngạn Hoài Thủy. Cảm xúc phấn chấn đắc ý trong lòng ông ta lúc này, quả thực khó mà diễn tả thành lời.

    Bảy năm về trước, Phù Kiên điều binh khiển tướng phá diệt kình địch là Đại quốc của Tiên Ti, thống nhất phương Bắc dưới vó ngựa sắt của mình. Năm tộc lớn là Hung Nô, Tiên Ti, Khương, Yết, Hán đều cúi đầu xưng thần với Phù Kiên, kết thúc bảy mươi hai năm (tính từ "họa Vĩnh Gia" của Tấn triều khiến tôn thất nhà Tấn phải dời xuống Nam) các bộ tộc tranh giành trục lộc ở tái nội và tái ngoại, ổn định được cục diện hỗn loạn như quần long mất đầu, công nghiệp cái thế chấn động cổ kim. Hiện tại tất cả mọi điều kiện để nam chinh đã hội đủ, hai châu Lương, Ích của nhà Tấn và một trấn quan trọng là Tương Dương đều đã lọt vào tầm kiểm soát của Phù Kiên, khả năng thống nhất thiên hạ sắp đến lúc có thể thò tay là nắm được, còn ai đủ lực đứng ra tranh cường với ông ta đây?

    Chuyến này tiến quân xuống phương Nam, Phù Kiên cho thân đệ là Phù Dung làm soái, đại tướng Mộ Dung Thùy và Diêu Trường làm phó, xuất động sáu mươi vạn bộ binh, hai mươi bảy vạn kỵ binh, ngoài ra còn có tám vạn thủy sư từ Ba Thục xuôi dòng Trường Giang và Hán Thủy xuống phía đông, phối hợp tác chiến, thực lực đủ để nghiến nát bất kỳ sự kháng cự nào của quân Tấn vốn tướng ít binh thưa.

    Phù Kiên năm nay bốn mươi lăm tuổi, thân thể khang kiện của người vốn quen dãi dầu nắng mưa nơi tái ngoại, sinh lực sung mãn, khuôn mặt vuông vức, râu ria lởm chởm xồm xoàm quanh miệng, kết hợp với sống mũi cao và cặp mắt sâu, diện mạo thật nổi bật, ngồi trên lưng ngựa tràn đầy khí độ quân chủ. Lúc này ông đang ngưng thần vọng về nơi xa, mắt lấp lánh sáng, tựa như đã nhìn thấy trước cái suy sụp thất thế của nhà Tấn, thê thảm bại vong dưới bước tiến của đạo quân hùng sư liên hợp các bộ tộc Hán, Đê, Khương, Tiên Ti và Yết của ông.

    Mười mấy viên tướng lãnh quây quanh bên trái bên phải, sau lưng Phù Kiên như chúng tinh ủng nguyệt, đại diện cho những nhân vật lãnh tụ kiệt xuất nhất của các bộ tộc Bắc phương, một lòng theo ông thực thi chính sách "hợp nhất tứ hải", là thành quả kiêu hãnh mà ông luôn lấy làm tự hào, khiến cho sự hưng khởi cường thịnh trước mắt đây trở thành sự thực. Trước kia, người thất bại trong chiến tranh luôn khó thoát khỏi cảnh thê thảm vong quốc diệt tộc, nhưng đến lượt mình, Phù Kiên khéo léo đối đãi với những kẻ đã rơi vũ khí, mỗi lần diệt một nước, ông đều ban quan hàm cho quân thần ở đó, lại ra lệnh cho những bộ thuộc thống lĩnh cũ duy trì "vương đạo". Đối với Phù Kiên, đó là phương pháp đối nhân xử thế tất yếu trong việc thống nhất thiên hạ.

    Trong số tướng lãnh ấy, người có thanh danh nhất là viên đại tướng đang đứng hàng đầu bên trái ông, Mộ Dung Thùy tộc Tiên Ti. Người này võ công cái thế, tay cầm cây thương Bắc Bá quán thế vô địch, là một thống soái tung hoành bất bại trên chốn sa trường. Y tập hợp dưới tay nhiều chiến binh Tiên Ti kiêu dũng thiện chiến, đã lập được vô số công lao hãn mã, uy chấn cả vùng tái nội và tái ngoại. Thu dụng được y là phúc khí lớn nhất của Phù Kiên, nếu không đó sẽ là một đối thủ vô cùng đáng sợ.

    Mộ Dung Thùy kém Phù Kiên mười tuổi, thân hình hùng vĩ như núi, cao hơn Phù Kiên ít nhất nửa cái đầu, diện mạo tuấn vĩ, mái tóc dài đen nhánh phủ xuống vai, một vòng sắt bọc quanh trán, cặp mắt có thần, sâu thẳm không đoán được, lưng thẳng, thân hình toát ra khí thế bức nhân uy nhiếp chúng sinh, như một ma thần từ âm phủ hiện lên giữa chốn trần gian.

    Bên phải Phù Kiên là Diêu Trường, mãnh tướng của Khương tộc, thanh danh chỉ xếp sau Mộ Dung Thùy, tuy tướng ngũ đoản, thấp hơn người thường đến một khúc, nhưng cổ to lưng dày, mặt như sắt đúc, cái đầu báo đặc biệt lớn, cặp mắt lấp lánh như chuông đồng, lại thêm đôi huyền thiết đoản mâu nặng cỡ năm mươi cân, chẳng ai còn dám xem thường y. Hiếm người nào có thể chịu đựng được hậu quả của việc đó.

    Những tướng lĩnh khác thì mỗi người một dạng, nhưng đều dẻo dai dũng mãnh, đã trải qua bao sóng to gió lớn của chiến trường.

    Phù Kiên thu ánh mắt, nhìn lướt hai bên trái phải, khóe môi phớt một nụ cười, nhận xét với đôi chút trào lộng: "Người ta nói An Thạch bất xuất, tương như thương sinh hà? Hiện tại An Thạch đã ra mặt, lo việc quân chính cho Tư Mã Diệu, để xem lão có thể biến hóa đến mức nào trong bàn tay trẫm?".

    Đại tướng Lữ Quang của Đê tộc đang đứng bên kia Mộ Dung Thùy cười khẩy: "Tạ An đáng gì? Thần xem bất quá cũng thuộc hạng như Ân Hạo, tự xưng phong lưu danh sĩ, những chuyện đạo giáo thì không ai nói lại, nhưng đối với chiến trận sa trường cùng lắm chỉ biết vuốt ve thanh kiếm". Lữ Quang có ngoại hiệu "Long Vương", kể về công phu dưới nước thì được xưng tụng là quán quân Hoàng Hà, binh khí sử một đôi Hồn Thủy Thích.

    An Thạch là tên gọi khác của Tạ An, tể tướng nhà Tấn ở phương Nam, được tôn xưng đệ nhất danh sĩ Trung Nguyên, nhưng ẩn cư ở Đông Sơn mười sáu năm, từ chối con đường hoạn lộ, nên mới có câu "An Thạch bất xuất, tương như thương sinh hà", hàm ý bộc lộ sự kỳ vọng và ngưỡng mộ của người Tấn đối với ông ta. Ân Hạo cũng là một danh sĩ đức cao vọng trọng của Đông Tấn, tuy học đủ năm xe sách, nhưng không hiểu quân sự, không tự lượng sức cũng mon men nối bước những danh tướng nhà Tấn như Tổ Địch,

    Dữu Lượng, Dữu Dực dẫn quân bắc phạt, sau thảm bại quay về, vừa phụ tiếng thơm danh sĩ, vừa chuốc lấy sự đả kích của người trong thiên hạ. Lữ Quang coi Tạ An như Ân Hạo, đó cũng là thái độ chung của các tướng lĩnh Hồ tộc, khinh khi và xem thường loại danh sĩ tự nhận thanh cao như Tạ An.

    Chư tướng nhao nhao phụ họa, phấn hứng vô cùng, duy chỉ có Mộ Dung Thùy và Diêu Trường thì im lặng không nói gì hết.

    Phù Kiên thấy lạ, chau màu hỏi với vẻ không vui: "Hai vị khanh gia phải chăng có suy nghĩ khác? Mau nói thật với trẫm!".

    Diêu Trường nghiêm túc bẩm lên: "Tôn thất Tấn tuy yếu, nhưng chỗ dựa là Trường Giang hiểm trở, Giang Nam trù mật. Ngày nay chúng ta dẫn quân xuống, người phương Nam nhất định sẽ đoàn kết một lòng, nên thần chưa dám khinh địch".

    Phù Kiên lạnh lùng, ngạo mạn nói: "Người phương Nam xưa nay ăn trắng mặc trơn, chìm đắm trong hoan lạc, không chuyên cần võ bị; lại thêm sự khuynh loát lẫn nhau giữa thế gia đại tộc thiên di về Nam và các thế tộc lâu đời ở bản địa, cho dù thấy quân đến dưới thành nên đoàn kết, cũng đã quá muộn rồi. Còn cái gọi là thế hiểm của Trường Giang, với bách vạn hùng sư của chúng ta, chỉ cần quật roi xuống nước là đủ ngăn dòng chảy. Mấy tên oắt con phương Nam đó, có đáng nhắc đến không?".

    Bọn họ đều nói tiếng Hán, thời ấy là ngôn ngữ thông dụng thịnh hành nhất, không một thổ ngữ Hồ tộc nào sánh bằng, là ngôn ngữ chính thức để chứng minh cho thân phận cao quý trong các dân tộc. Đê Tần là quốc gia bị Hán hóa sâu sắc nhất trong các tộc người Hồ, Phù Kiên luôn cho mình là hiểu biết tôn chỉ "vương đạo" của Nho gia còn hơn người Hán, thường cảm khái "đã ổn định bốn phương, duy có vùng đông nam chưa nhiễm vương hóa", hiện tại cuối cùng cũng đã đến thời khắc lịch sử để trừ bỏ mối di hận ấy.

    Khi Phù Kiên đưa mắt nhìn Mộ Dung Thùy, viên đại tướng võ công và binh pháp kiêm toàn đệ nhất phương Bắc ấy bình thản thưa: "Binh lực của người phương Nam đúng là kém xa chúng ta, nhưng do Tạ An một tay ráo riết thành lập. Bắc Phủ binh, do cháu ông ta là Tạ Huyền đôn đốc huấn luyện, tuy không quá mười vạn quân, nhưng không thể xem thường, mong chúa thượng minh xét".

    Phù Kiên gật đầu tán thưởng: "Nói hay lắm, Tôn Tử có viết: biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng. Bắc Phủ binh sớm đã nằm trong dự tính của trẫm, chuyến này chúng ta xua quân xuống thẳng đô thành Kiến Khang của người phương Nam, họ chỉ có hai chọn lựa, một là phải lao ra dốc hết sức quyết chiến, một là đóng cửa thành tử thủ. Mà bất luận lựa chọn thế nào, cũng đều không còn hy vọng. Trẫm nén lòng chờ đợi nhiều năm

    nay, đến lúc này thần phục Bắc cương, lại lo lắng bị tập hậu, mới dốc hết lực lượng, dùng binh uy áp đảo, quyết một trận nghiến nát giấc mộng dẹp yên của bọn Tư Mã Diệu, Tạ An. Còn Tạ Huyền tuy được xưng tụng là đệ nhất kiếm thuật đại gia của phương Nam, thượng thượng phẩm cao thủ trong hàng ngũ cửu phẩm, đáng tiếc kinh nghiệm hành quân tác chiến còn non kém, có thể chiến thắng nhiều trận đều là do chưa gặp qua cường địch. Trong hàng ngũ tướng lĩnh của Nam Triều, chỉ có Hoàn Xung còn tạm coi là một nhân vật, thừa hưởng được mấy phần bản lĩnh của người cha là Hoàn Ôn, đáng tiếc lại bị trẫm kềm chế ở Kinh Châu, đành tử thủ Giang Lăng, không cựa quậy gì được nữa".

    Rồi ông gọi lớn: "Chu khanh gia, trẫm nói vậy khanh thấy thế nào?".

    Một Hán tướng đứng ở hàng cuối cùng, tên là Chu Tự nghe gọi giật mình, vội vàng ứng tiếng: "Chúa thượng thông hiểu tình hình phương Nam, mọi việc đều nắm rõ trong lòng bàn tay, vi thần bội phục sát đất".

    Chu Tự vốn là đại tướng của nhà Tấn, bốn năm trước trấn thủ Tương Dương, thất bại đầu hàng, được Phù Kiên trọng dụng, Phù Kiên cũng thông qua y tìm hiểu cặn kẽ phân bố, điểm mạnh điểm yếu của binh lực Nam Triều. Nhưng đó là chuyện bốn năm về trước.

    Phù Kiên ngửa mặt lên trời cười dài, thần tình đắc ý vô cùng, một luồng tráng chí trào thấu tâm can: "Chu khanh gia yên tâm, trẫm xưa nay tiến hành chuyên chính theo vương đạo, lấy đức thu phục lòng người, coi bốn bể là một nhà, tuyệt không lạm sát dân tình vô tội. Bình định được phương Nam rồi, người của Nam Triều sẽ được cân nhắc sử dụng, Tư Mã Diệu có thể làm Thượng thư Tả bộc xạ, Hoàn Xung làm Thị trung, Tạ An thì có thể giữ chức Lại bộ Thượng thư, dựa theo cách chia xếp cửu phẩm của họ, trẫm sẽ chọn được chỗ sử dụng người hiền".

    "Xoẹt!".

    Phù Kiên tuốt bội kiếm, trỏ thẳng vào vầng triêu dương vừa nhô lên từ đường chân trời ở phương đông, sau đó nhích dần kiếm sang hướng nam, chỉa về phía đô thành của nhà Tấn, thét lớn: "Quân ta tất thắng!".

    Chúng tướng nhao nhao tuốt binh khí, Diêu Trường gõ chéo cặp đoản mâu, tiếng kim loại giao nhau vang lên chát chúa nhất tề rầm rầm hưởng ứng.

    "Đại Tần tất thắng! Đại Tần Thiên Vương vạn tuế!", tiếng tung hô thoạt tiên vang lên từ đám thân binh đứng xung quanh hộ vệ, tiếp theo lan ra cả bình nguyên Tứ Thủy, dập dồn như tiếng triều lên với sự hô ứng của đoàn quân hàng vạn chiến binh.

    Trải dài bất tuyệt, đằng trước không thấy hàng đầu, đằng sau nhìn không hết đội ngũ, đại quân Đê Tần được tập hợp từ các binh chủng, rầm rập tỏa về hướng Hoài Thủy, đợi đến lúc họ công hãm Kiến Khang Thành, Hán tộc ở Trung nguyên sẽ mất đi căn cứ địa cuối cùng, toàn bộ sẽ chìm vào vòng nô lệ mất nước, biến thành thần dân bị ngoại tộc xâm lấn thống trị.

    ° ° °

    Đô thành Kiến Khang của nhà Tấn, tọa lạc ở nam ngạn vùng hạ du Trường Giang, chẹn cứng lấy cửa khẩu dẫn ra biển, là trung tâm quân sự, chính trị và kinh tế quan trọng nhất của khu vực này. Ngoài ra, nó còn là yếu địa giao thông then chốt của cả đường sông, đường bộ và đường biển, là thành thị chuyển vận đường thủy và đường bộ giữa hai miền nam bắc.

    Kiến Khang nằm trên rẻo đất cao của Kê Lung Sơn và Phúc Chu Sơn, phía đông nam nối sang bình nguyên Thái Hồ và lưu vực sông Tiền Đường bằng phẳng rộng lớn, đất đai phì nhiêu trải dài ngàn dặm. Trường Giang bắt nguồn từ hướng tây nam lượn qua thành quách chảy về phía đông bắc, Tần Hoài quanh co uốn khúc từ phía nam đổ vào Trường Giang, địa hình hiểm hóc, ưu việt, có thế rồng cuộn hổ ngồi. Diêu Trường nhận xét "Trường Giang hiểm yếu, Giang Nam trù phú", thực không phải lời nói giả.

    Khi Tây Tấn bị Hung Nô tiêu diệt, Lạc Dương biến thành vùng đất cháy xạm tro tàn, thì Tư Mã Duệ, tằng tôn của Tư Mỹ Ý hoàng đế khai quốc nhà Tấn, đang trấn thủ đô thành Kiến Nghiệp - đô thành được xây dựng bởi Tôn Quyền thời Tam Quốc, nắm đại quyền quân chính ở Dương Châu, Giang Nam. Phương bắc chìm trong tang tóc, Tư Mã Duệ dưới sự phò trợ của bọn Vương Đạo, Vương Quách lưu vong sang phía nam, tự lập làm Tấn Vương ở Kiến Nghiệp, năm sau đó xưng đế. Đến thời Tấn Mẫn Đế, chính thức đổi tên Kiến Nghiệp thành Kiến Khang.

    Kiến Khang Thành chu vi hai mươi dặm mười chín bộ, ngoại vi có một loạt các thành thị như Đông Phủ Thành, Thạch Đầu Thành và Chu Dương Quận Thành, hình thế to lớn, như đám sao vây quanh mặt trăng, tạo nên một quần thể thành thị với Kiến Khang là trung tâm. Đặc biệt Thạch Đầu Thành, nằm ở thượng du phía tây Kiến Khang, là một ấp lũy quân sự kiên cố, vai trò như thần hộ vệ, nếu không công hãm được Thạch Đầu Thành, đừng nghĩ đến chuyện làm tổn hại một mảy may của Kiến Khang.

    Khi đoàn quân Đại Tần của Phù Kiên tiến nhập khu vực Biên Hoang ở Hoài Tứ, tướng quân Hồ Bân của nhà Tấn, đang đóng chốt ở trọng trấn Thọ Dương vùng nam ngạn Hoài Thủy, liền nhận được phi cáp truyền thư của thám tử tiền tuyến đã cài sẵn trà trộn trong Biên Hoang Tập, biết được bách vạn đại quân của Đại Tần, đang vượt qua Hoài Thủy tiến thẳng tới đây.

    Biên Hoang Tập là vùng mà tin tức nhanh chóng nhất, hai miền nam bắc dù có chút gió lùa cỏ động, bất luận là sự thực hay đồn đãi, đều được truyền ra đầu tiên ở đó. Lâu dần hình thành một tổ chức gọi là "Phong Mai" chuyên môn buôn bán tin tức, người làm "Phong Mai" phải tinh thông ngôn ngữ các dân tộc, tư chất nhạy bén, biết phân tích độ khả tín của nguồn tin, không phải là hình thức làm ăn mà ai cũng nhào vào được.

    Hồ Bân nhận được tin thất kinh, sau khi kiểm chứng kỹ càng, lập tức phi báo về Kiến Khang, nhấn mạnh điều này có liên quan đến sự sinh tử tồn vong của tôn thất nhà Tấn. Tấn Đế Tư Mã Diệu kinh hoảng đến mức hồn bất phụ thể, lại sợ tin tức truyền ra khiến lòng người hoang mang, quần thần đào vong, vội vàng mật triệu ba vị trọng thần là Tạ An, Vương Thản Chi, Tư Mã Đạo Tử, vào Thân Chính Thất trong nội đình Kiến Khang để thương nghị đại kế giữ nước.

    Tạ An làm Trung Lang Lệnh cho nhà Tấn, là nhân vật ngồi ghế thứ hai dưới Tư Mã Diệu, tổng quản triều chính, năm nay sáu mươi tư tuổi, thời trẻ có ra làm quan một dạo ngắn, sau lui về ở ẩn tại Đông Sơn, mãi đến năm bốn mươi tuổi dưới sự thiên hô vạn hoán bắt đầu xuống núi, kế thừa chính sách an dân "Trấn chi dĩ tĩnh" của Thừa tướng khai quốc là Vương Đạo, khiến cho đất nước yên ổn. Tạ An cùng với đại tướng Hoàn Xung, một văn một võ, là hai cột trụ lớn của triều đình, được gọi là "Giang Tả Vĩ Nhân".

    Lúc này nhà Tấn chỉ còn nắm quyền kiểm soát ở vùng hạ du Trường Giang và lưu vực Dân Giang, Châu Giang, trong đó hai châu Kinh, Dương, cả về hai mặt quân sự và chính trị đều có tầm ảnh hưởng rất lớn.

    Dương Châu là tiền trạm ở mặt bắc kinh đô Kiến Khang, tầm quan trọng của nó không nói cũng biết. Kinh Châu nằm trên trung du Trường Giang, hình thế hiểm yếu, cũng là một trọng trấn chiến lược ở mặt tây của nước Tấn. Thứ sử Kinh Châu lại kiêm quản luôn việc quân sự của các châu phụ cận, để ứng phó với rợ Hồ hung mãnh ở phương Bắc, do vậy dưới tay y là đất rộng binh cường. Phàm những người nhậm chức thứ sử Kinh Châu, thường có thực lực phân quyền mạnh mẽ nhất. Vì vậy dưới thời nhà Tấn, thế lực trung ương và địa phương đấu tranh ngang ngửa, phần lớn là có liên quan đến việc tranh chấp Kinh Châu và Dương Châu. Kinh Châu đời trước do Hoàn Ôn chủ sự, quyền nghiêng triều dã. Cũng may Hoàn Xung hiện nay, tuy là con trai của Hoàn Ôn, nhưng không có dã tâm như cha, Kinh, Dương dần dần đi vào ổn định. Trong ba người

    mà Phù Kiên xem trọng, ngoài Tấn Đế và Tạ An, còn tính thêm cả Hoàn Xung, qua đó có thể thấy được phần nào vai trò của y.

    Tể tướng Tạ An, người được xưng tụng là đệ nhất danh sĩ đương thời, tuy đã hơn sáu mươi, nhưng tướng mạo tinh anh, thâm trầm, linh hoạt và tuấn lãng, tay cầm quạt lông vũ, dáng vẻ như Gia Cát Võ Hầu tái thế, râu dài năm nhánh, thân hình cao lớn, phong tư tiêu sái ung dung, cô ngạo bất quần.

    Vương Thản Chi là con trai Thừa tướng Vương Đạo, giữ chức Tả tướng, là đại thần có vai trò quan trọng nhất, ngoài Tạ An, ở triều đình Kiến Khang. Năm nay năm mươi hai tuổi, luận về tướng mạo thì kém xa Tạ An, lại thêm nỗi thấp lùn, tóc đã điểm bạc, cũng may khuôn mặt thường tươi cười, giọng nói điềm đạm rõ ràng, cằm dày và đầy đặn, béo nhưng không phệ phạc, vẫn có tư thái tự tin và cởi mở của thế gia vọng tộc, không gợn chút hiềm khích.

    Hai họ Vương, Tạ là thế gia đại tộc nổi danh nhất vùng Giang Tả. Từ khi tôn thất nhà Tấn thiên di về Nam, họ càng hết lòng phò tá, thay nhau nắm giữ các vị trí cốt cán trong triều đình. Nhà Tấn chủ trương ‘tìm người hiền không ngoài thế tộc, dụng tài năng không đâu bằng quyền quý’, khiến hai họ Vương, Tạ càng như cá gặp nước, càng được trọng vọng tôn sùng. Trúc môn đi lại với trúc môn, hai gia tộc xưa nay quan hệ vốn thân thiết, lại dựa vào nhân duyên để thắt chặt thêm tình cảm, cùng nhau phụ giúp việc triều chính.

    Tư Mã Đạo Tử là thân đệ của Tấn Đế Tư Mã Diệu, được công nhận là đệ nhất nhân tài của vương tộc, đứng trong danh sách "cửu phẩm cao thủ", hiện đang giữ chức Lục Thượng thư lục điều sự, tổng quản các bộ phận lo việc triều chính, quyền chức lớn đủ để kềm chế Tạ An, là một quân cờ do hoàng tộc đặt ra để giám sát Tạ An, vì vậy từ xưa đến nay quan hệ giữa y và ông ta không được tốt.

    Tư Mã Đạo Tử năm nay ba mươi tám tuổi, thân hình dài mà gầy, sống mũi thẳng đứng như cái quản bút, trên mép để ria, mái tóc dày rậm, mình mặc võ phục, tướng mạo cân đối, tràn đầy khí độ cao quý của hoàng tộc. Chỉ có đôi mắt thỉnh thoảng híp lại như hai rãnh hẹp, để lộ bản chất lãnh khốc vô tình trong tim. Bên hông y đeo thanh trường kiếm Vong Ngôn, là vũ khí sắc bén nhất và đáng sợ nhất của vương tộc, trong thành Kiến Khang, ngoài Tạ Huyền và con trai của Vương Thản Chi là Vương Quốc Bảo ra, không có ai xứng mặt địch thủ.

    Thân Chính Sảnh là nơi xử lý sự vụ của Tư Mã Diệu trong nội đình, hội nghị quân sự quan trọng nhất kể từ khi ông ta tự mình khai quốc đã trải qua hai canh giờ. Bên ngoài cung, thân đệ của Tạ An là Tạ Thạch bồn chồn chờ đợi, từ chính ngọ đến lúc

    hoàng hôn, mới thấy Tạ An ung dung đi ra, nét mặt vẫn một vẻ tự nhiên nhàn nhã, nhưng Tạ Thạch xưa nay hiểu rõ con người Tạ An, đã nhanh chóng nắm bắt thần tình bối rối trong ánh mắt huynh trưởng. Y chưa từng thấy Tạ An như thế bao giờ, có thể ức đoán buổi thương nghị đã diễn ra trong không khí nặng nề và gay gắt.

    Tạ Thạch tiến lên đón. Tạ An thoắt đứng sững lại, trầm giọng nói: "Tìm Tạ Huyền về đây cho ta!".

  2. #21
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Hồi 21

    Hoàn thành nhiệm vụ
    Có các cao thủ thân cận là Tịch Kính và Hồ Khiếu Thiên đi kèm hai bên trái phải, Giang Hải Lưu bước vào Tần Hoài Lâu, mình vận áo dài màu xanh, dáng điệu ung dung, giữ đúng phong phạm đại thủ lãnh Long đầu của một bang hội lớn, hoàn toàn không nhiễm chất "Vong mệnh thương" danh chấn giang hồ.

    Y xếp hạng ba trong hàng ngũ cửu phẩm cao thủ, sau Tạ Huyền và Tư Mã Đạo Tử, và cũng là người miền nam duy nhất. Giang Hải Lưu năm nay vừa qua tuổi bốn mươi, người rất dài, mặt gầy, ít cười. Y luôn búi gọn mớ tóc hoa râm ra sau gáy, thắt thêm một sợi dây dài thả thõng xuống lưng, vầng trán y cao, hơi gồ, bên trên cái mũi diều hâu là cặp mắt lóe tinh quang mỗi lần chớp chớp, khiến người ta có cảm giác công phu của y rất sâu sắc, không giận mà có uy, tinh minh mưu trí.

    Sự thực thiên hạ này là do y tự tranh đấu để giành lấy, Đại Giang là mạch máu chính trị kinh tế ở phương nam, khắp nơi có bao nhiêu bang hội lớn nhỏ, bao nhiêu thế lực lục lâm kèn cựa, nếu y không có một chút vai trò, làm sao có thể một tay biến Đại Giang Gang trở thành đại bang hội độc bá giang hồ. Hiện tại ngoài Lưỡng Hồ Bang, những bang hội khác phải nhìn sắc mặt y mà hành sự. Phạm vi thế lực của Lưỡng Hồ Bang chủ yếu khoanh vùng ở hai hồ Động Đình và Bà Dương, đôi bên nước sông không phạm nước giếng.

    Vì việc gì mà Tạ An đột ngột triệu kiến y, mãi đến lúc này y vẫn không hiểu.

    Tống Bi Phong đã đợi rất lâu, trông thấy y bước qua ngạch cửa liền tiến lên đón: "An công đang ở trên Vũ Bình Đài đón chờ đại giá của Long đầu. Xin để Bi Phong dẫn đường".

    Giang Hải Lưu nhẹ nhàng đi theo Tống Bi Phong về hướng Vũ Bình Đài. Bọn đại hán bảo vệ Tần Hoài lâu đều nghiêm chỉnh cúi chào, không dám thở mạnh, đủ thấy uy thế của Giang Hải Lưu ở Kiến Khang.

    Giang Hải Lưu thân mật nói: "Nghe đồn Bi Phong đêm qua đã đánh trọng thương thủ hạ của tên súc sinh Tư Mã Nguyên Hiển, đánh hay lắm, nếu vì việc này mà bị phiền toái gì thì đừng kinh động đến An công, cứ tìm ta là được rồi".

    Tống Bi Phong thầm kinh hãi nguồn tin nhạy bén của Giang Hải Lưu, nhưng không ngạc nhiên gì về sự thù địch của y với Tư Mã Nguyên Hiển. Nhà họ Hoàn từ xưa đến nay vẫn bất hòa với Tư Mã Đạo Tử, Giang Hải Lưu lại thuộc về một chi hệ của Hoàn gia, đương nhiên mong Tạ An và Tư Mã Đạo Tử thêm thù hằn.

    Tống Bi Phong nói: "Nào dám phiền tới Giang Long đầu".

    Giang Hải Lưu cười lớn, dang tay ra rồi chắp lại sau lưng, vui vẻ nói: "Đều là người một nhà, Bi Phong đừng khách sáo".

    Bốn người bước trên lối đi uốn khúc vành khuyên, xuyên qua những lớp cảnh sắc xinh đẹp kiến tạo bên sông. Đến một sảnh nhỏ bên dưới Vũ Bình Đài, Giang Hải Lưu bảo Tịch Kính và Hồ Khiếu Thiên: "Các ngươi đợi ở đây".

    Tống Bi Phong tránh sang một bên dãy bậc cấp bằng gỗ, đưa tay mời. Giang Hải Lưu cười tươi, ung dung bước lên, thầm nhủ không biết có được nhân tiện liếc qua nhan sắc tuyệt thế của Kỷ Thiên Thiên không. Tạ An đang đứng quay lưng về phía y, nhân vật trác việt nổi danh thiên hạ ấy đang đứng một mình chỗ sân lộ thiên, tựa vào lan can ngắm cảnh đẹp của sông Tần Hoài.

    Tạ An không ngoảnh mặt lại, chỉ nhẹ nhàng nói: "Hải Lưu hãy đến bên ta đây".

    Giang Hải Lưu bước nhanh hơn, đến gần Tạ An, dừng lại ở một bên hơi chếch về mé sau, cung kính thi lễ: "An công có việc gì xin cứ dạy bảo, Giang Hải Lưu dù mất mạng cũng sẽ giải quyết ổn thỏa cho người".

    Khóe miệng Tạ An phớt một nụ cười, Giang Hải Lưu tuy nói với giọng điệu giang hồ nhưng ngụ ý thì hoàn toàn chân thật, bởi vận mệnh của y hiện tại đã gắn liền với Tạ An. Nếu Phù Kiên nhất thống Giang Nam thì thế lực lớn nhất ở phương bắc là Hoàng Hà Bang sẽ bành trướng đến Trường Giang, lúc đó, e rằng Giang Hải Lưu chẳng còn lấy một tấc đất cắm dùi. Vì vậy việc Phù Kiên xuống nam đã uy hiếp đến tất thảy lợi ích của các thế lực đương quyền và giang hồ ở đây, có điều, tình hình này chỉ là tạm thời, sau cơn mưa trời lại sang, một cục diện mới sẽ xuất hiện, sự thay đổi đó chẳng ai dự liệu nổi.

    Luận về các bang hội và giáo phái, có ba bang và bốn giáo nổi danh nhất thiên hạ. Ba bang gồm Hoàng Hà Bang, Đại Giang Bang và Lưỡng Hồ Bang. Bốn giáo là Thái Ất Giáo, Thiên Sư Đạo, Di Lặc Giáo và một giáo phái cực kỳ bí mật là Tiêu Dao Giáo. Tam bang tứ giáo này đại diện cho bảy thế lực hùng mạnh nhất trong nhân gian, khuynh loát, tranh đoạt địa bàn, bành trướng ảnh hưởng lẫn nhau.

    Tạ An điềm tĩnh hỏi: "Văn Thanh khỏe không?".

    Giang Hải Lưu lộ vẻ dịu dàng và vui tươi ít thấy, y hân hoan nói: "An công quan tâm thực quý hóa. Văn Thanh chỉ phải cái mỗi ngày một phóng túng, các mặt còn lại đều được".

    Giang Văn Thanh là con gái duy nhất của Giang Hải Lưu, năm nay mới mười chín tuổi, nhan sắc chim sa cá lặn, thông tuệ hơn người, võ công chân truyền của cha, được Giang Hải Lưu cưng hơn trứng mỏng.

    Tạ An thở dài: "Hôm nay ta cho mời Hải Lưu tới, quả thực có một việc tối quan trọng muốn nhờ ông làm, nếu ông giải quyết ổn thỏa, ta sẽ không kỳ kèo gì nhiều vụ giao dịch mờ ám gần đây giữa ông với Tôn Ân. Tuy vậy từ tối nay ông phải đoạn tuyệt quan hệ với Tôn Ân".

    Giang Hải Lưu công phu hàm dưỡng rất cao mà cũng phải biến sắc khi nghe những lời ấy, một vì Tạ An nói thẳng vào vấn đề, không quanh co vòng vèo gì hết, hai vì y vốn cho rằng việc của y với Tôn Ân cực kỳ bí mật, chẳng ngờ đã đến tai Tạ An rồi. Tạ An nhắc đến con gái y là muốn lưu tâm y nên quý trọng những gì đang có, ngụ ý cảnh cáo uy hiếp y chứ không sai.

    Giang Hải Lưu muốn nói nhưng khó mở lời, nhất thời chẳng biết làm thế nào.

    Trên đời này chắc chỉ có Tạ An mới dám vỗ vào mặt Giang Hải Lưu như vậy. Ngay cả hạng Hoàn Xung còn phải khéo léo rào trước đón sau, huống hồ những người khác, phải chán sống rồi mới nghĩ đến chuyện làm thế.

    Một lúc rất lâu sau, y đành thừa nhận: "Cũng bởi Nhân tại giang hồ, thân bất do kỷ cả thôi. Giang Hải Lưu này mà không làm ăn với Tôn Ân nữa, nhất định Nhiếp Thiên sẽ thế chân tôi ngay. Hiện tại thế lực của Tôn Ân mỗi ngày một lớn, hào cường sống dựa vào dải duyên hải đông nam rất nhiều, mua bán muối hầu như do y khống chế. Ôi! Hải Lưu này chẳng có lựa chọn nào khác".

    Tạ An quay lại nhìn y, đôi mắt nhấp nháy tinh quang, giọng rất êm ái: "Ông đã chịu cung kính gọi ta một tiếng An công, ta làm sao chịu nổi khi nhìn thấy ông lún sâu thêm nữa. Tôn Ân nuôi ý tạo phản, ai mà chả nhận ra, ông cũng khó tránh khỏi liên đới. Dù y thành công hay thất bại, hậu quả sau này đều bất lợi cho ông. Nếu Đại Tư Mã biết được, người sẽ không bỏ qua cho ông đâu. Ta có thể che giấu giúp, nhưng Nhiếp Thiên có chịu làm thế không? Tôn Ân thì chỉ muốn thiên hạ đại loạn. Cái kim trong bọc lâu ngày cũng thò ra".

    Nhiếp Thiên là thủ lãnh của Lưỡng Hồ Bang, tính tình thô lỗ bá đạo nhưng rất được lòng bọn đại hào hắc đạo, thông thạo mưu lược, phát dương thanh thế ở hai hồ

    Động Đình và Bà Dương. Hoàn Xung đã nhiều lần càn quét hang ổ, nhưng vẫn chưa thể làm hao tổn nguyên khí của y, cùng lắm là khiến y im ắng bớt đi thôi.

    Giang Hải Lưu cười vẻ bứt rứt, cúi đầu thưa: "Đa tạ An công chỉ bảo, Hải Lưu hiểu nên làm thế nào rồi!".

    Tạ An vẫn giữ thái độ ung dung, lại đưa mắt ra sông Tần Hoài đang chảy dưới Vũ Bình Đài: "Trận chiến với Phù Kiên, nếu thua, tất nhiên chúng ta chẳng thể nhắc gì được đến những điều ấy nữa. Nhưng nếu may mắn thủ thắng, trong một thời gian dài vó ngựa Hồ sẽ không dám phạm xuống đất Nam, lúc đó nếu Tạ An này còn đủ ảnh hưởng, sẽ nhân cơ hội tốt ngàn năm có một, liên thủ với Đại Tư Mã chỉnh đốn toàn bộ miền nam, xử lý đầu tiên là Nhiếp Thiên và Tôn Ân. Ta xem Hải Lưu như người nhà nên tối nay mới mời ông đến đây để nói chuyện này. Hải Lưu đừng làm ta thất vọng".

    Giang Hải Lưu thầm khen lợi hại, bất giác thấy tâm phục khẩu phục. Tạ An xưa nay vẫn ưa dùng thủ đoạn ân uy kết hợp, vừa cứng vừa mềm. Ông ta rất ít khi giận dữ, nhưng ai cũng biết, người nào khiến ông ta nổi cơn lôi đình sẽ chẳng làm sao mà thoát được. Giang Hải Lưu thở dài, gật đầu: "Hải Lưu hiểu rồi, nhất định sẽ không để An công thất vọng, nhưng xin người gia ân cho ít thời gian".

    Tạ An tủm tỉm: "Làm thế nào, mức độ đến đâu, ông hãy tự quyết. Giang hồ có quy củ của giang hồ, ta hiểu điều đó".

    Nghe những lời ấy, dân anh chị như Giang Hải Lưu cũng phải cảm kích, y khẳng khái nói: "An công muốn tôi làm gì, xin cứ phân phó".

    Tạ An khoan thai nói: "Ta muốn ông theo dõi một người".

    Giang Hải Lưu ngạc nhiên: "Việc dễ dàng như vậy ư? Mong An công dạy rõ".

    Tạ An trầm giọng bảo: "Ta muốn ông theo dõi Trúc Lôi Âm, trụ trì chùa Minh Nhật, xem lão ta có rời Kiến Khang không".

    Giang Hải Lưu giật mình, Trúc Lôi Âm không phải là một cao tăng đức hạnh gì, lão ta tiếng xấu đồn xa, bên cạnh có nữ đồ đệ Diệu Âm mới thực là dâm loàn hết chỗ nói. Nhưng luận về võ công, Trúc Lôi Âm là cao thủ thuộc hạng nhất nhì trong Sa môn ở đô thành Kiến Khang, ngoài ra còn qua lại rất thân thiết với huynh đệ Tư Mã Đạo Tử, cùng một phường mèo mả gà đồng, giới Phật tử tuy luôn ngứa mắt vì lão ta nhưng vẫn bó tay bất lực, giận mà không dám nói. Giang Hải Lưu hiểu Tạ An muốn y đứng ra làm là để tránh bên nhà Tư Mã Đạo Tử biết có bàn tay ông ta can thiệp trong đó. Thêm nữa, Đại Giang Bang là bang hội có thế lực nhất ở Kiến Khang, tai mắt rải khắp các trạm gác bến bãi lớn nhỏ, Trúc Lôi Âm muốn che giấu hành tung với họ, kể còn khó hơn lên trời.

    Giang Hải Lưu gật đầu: "Cứ giao việc này cho Hải Lưu".

    Tạ An nói: "Tạm thời chắc lão ta cũng chẳng có động thái gì khác lạ đâu, nhưng khi chúng ta quyết thắng bại với Phù Kiên, Trúc Lôi Âm sẽ không đứng xem đâu, mà sẽ đi Lạc Dương đón Nhị đương gia của Di Lặc giáo là Trúc Bất Quy trở về Kiến Khang, ta muốn ông báo cáo từng li từng tí hành động của lão ấy cho ta biết, kể từ hôm nay".

    Giang Hải Lưu chấn động, hiểu ra rằng người Tạ An muốn đối phó là bọn tà giáo Di Lặc mà ai nghe đến tên cũng phải biến sắc, thầm nhủ nếu Di Lặc giáo mà gây dựng cơ đồ ở Kiến Khang thì Đại Giang Bang nhất định sẽ là một trong những đối tượng bị ảnh hưởng, y vội gật đầu: "Không vấn đề gì, nếu lão tới Lạc Dương, nhất định sẽ đi qua Biên Hoang. Ở Biên Hoang có Hán bang, Chúc Lão đại của Hán bang là chỗ bạn bè sống chết với tôi, nhất định sẽ thu xếp ổn thỏa cho An công".

    Rồi không nhịn được, y hỏi: "Về cuộc chiến với Phù Kiên, An công có bao nhiêu phần chắc thắng?".

    Tạ An nhìn y, tủm tỉm: "Nếu ta nói là mười phần, ngươi có tin không?".

    Giang Hải Lưu nói vẻ gượng gạo: "An công là một trong số ít người khiến Hải Lưu tâm phục khẩu phục. Nếu An công nói chắc chắn tuyệt đối, thì tức là chắc chắn tuyệt đối".

    Tạ An thở một hơi khoan khoái, ngửa mặt nhìn vầng trăng sáng đang treo cao giữa trời, nói giọng êm ái: "Ta chẳng chắc chắn gì về thành bại của cuộc chiến hết, nhưng ta tuyệt đối tin Tạ Huyền".

    ° ° °

    Chu Tự trở về chỗ nghỉ ở Tây Uyển, mệt mỏi gần chết, đầu óc rối bời, thầm nhủ lại một đêm mất ngủ mắt mở trừng trừng nữa cho xem.

    Phù Kiên tinh lực hơn người, khổ nhất là ông ta không hiểu chẳng phải ai cũng như mình nên hứng lên là kiếm bừa một người để chuyện gẫu, mặc kệ là canh hai hay canh ba.

    Có điều sự mệt mỏi về thể xác vẫn chưa bằng nỗi khổ sở về tinh thần, y đã bước vào con đường phản bội tổ quốc, không còn lối quay đầu nữa, nhưng thực sự y tin chắc rằng nhà Đông Tấn ở phương nam kia còn lâu mới là đối thủ của Phù Kiên. Vì tính mệnh của bản thân, y chẳng còn lựa chọn nào khác, đành chấp nhận sự an bài của số phận, nhận lệnh cho xong.

    Tên tùy tùng thân tín đang cố chống mắt lên cưỡng lại cơn buồn ngủ để đợi hầu y. Chu Tự cho gã lui, đẩy cửa bước vào phòng ngủ tạm thời, vừa cởi áo khoác, cửa sổ bỗng kẹt một tiếng rồi mở toang.

    Chu Tự cảnh giác ấn tay lên đốc kiếm.

    Một giọng nói khẽ vang lên ngoài song: "Chu tướng quân đừng nói to. Tôi là Lưu Dụ, người do Huyền soái phái đến, có thư mật gửi ông".

    Chu Tự còn đang ngạc nhiên, một người ăn vận quân phục như các tùy tùng của Phù Kiên đã băng mình vào qua cửa sổ, quỳ trước mặt Chu Tự, giơ hai tay nâng bức mật hàm lên đầu.

    Chu Tự trù trừ, cuối cùng đón lấy thư, kinh ngạc hỏi: "Sao ngươi trà trộn vào đây được? Ngửa mặt lên xem!".

    Lưu Dụ vâng lời, mỉm cười nói: "Đại nhân đã từng gặp Lưu Dụ hai lần rồi, còn nhận ra không?".

    Chu Tự soi thật kỹ dưới ánh trăng, gật đầu nói: "Quả thực quen mặt lắm, tướng mạo của ngươi rất đặc biệt, ta cũng còn có chút ấn tượng. Ô! Ngươi không nên đến đây, mà đứng dậy đi, ngươi đâu có phải thuộc hạ của ta!".

    Lưu Dụ đứng dậy cung kính nói: "Đại nhân cứ xem qua thư mật Huyền soái sai tôi đưa đến rồi hãy hay!".

    Chu Tự lặng thinh chốc lát, xé mộc ấn niêm trên thư, rút bên trong ra tờ hoa tiên, Lưu Dụ khêu ngọn đèn dầu trên đầu giường, xong lùi vào một góc sao cho không để lộ bóng mình, rũ tay đứng vẻ cung kính.

    Chu Tự ngồi xuống mép giường, mở thư ra đọc kỹ.

    Lưu Dụ quan sát y không chớp mắt, thầm nhủ nếu y có hành động gì khác lạ, chẳng hạn như dùng thủ pháp ngầm thông báo cho thuộc hạ, mình sẽ lập tức vung đao giết chết, sau đó sẽ cùng Yến Phi và Thác Bạt Khuê - lúc này đang cảnh giới sau viện - lập tức chạy trốn.

    Hiện gã đang ở tại trung tâm Tần doanh, hơn lúc nào hết thấu hiểu tình cảnh của Chu Tự hơn ai hết. Vào lúc khí thế của Phù Kiên đang lên, muốn Chu Tự từ bỏ tất cả để quay lưng lại ông ta, trở về trợ sức cho Đông Tấn đang binh thưa lực mỏng thì quả thực là một việc rất khó. Vì có thể dự kiến rằng nếu Phù Kiên thắng trong trận này, Chu Tự nhất định sẽ được trọng dụng, vì y hiểu rõ người nam hơn bất kỳ một thủ hạ tướng lĩnh nào của Phù Kiên.

    Phong thư này của Tạ Huyền, nhất định không lôi chuyện đạo nghĩa tình cảm ra để đánh động y, mà là phân thuyết lợi hại, chỉ cho Chu Tự nhận ra chiến thắng đang nằm vững trong tay Tạ Huyền rồi. Còn Tạ Huyền dùng miệng lưỡi gì để thuyết phục Chu Tự, thực sự gã chỉ biết phỏng đoán mà thôi. Thấy Chu Tự chăm chú xem thư, bất giác lộ vẻ suy nghĩ, gương mặt thoạt sáng thoạt tối, đủ biết bức thư này quả thực có uy lực lay chuyển y, Lưu Dụ bỗng chốc đem lòng khâm phục Tạ Huyền.

    Xem đến cuối thư, Chu Tự bỗng rùng mình, lộ vẻ kinh ngạc và vui mừng khó bề che giấu, gập nhỏ bức thư đốt cháy trên ngọn lửa.

    Giấy bắt lửa, quăn thành tro, rơi xuống đất.

    Chu Tự thõng tay, mặc tro tàn vương trên sàn, đôi mắt bắn ra vẻ kiên định nhìn Lưu Dụ, giọng bình tĩnh lạ thường, như đã âm thầm hạ quyết tâm, hỏi gã: "Ngươi biết trong thư viết gì không?".

    Lưu Dụ lắc đầu, trong bụng cười buồn, thầm nghĩ tiểu tử thân phận đê hèn, nếu không nhờ nhiệm vụ bí mật lần này thì làm gì có tư cách ngồi nói chuyện với Chu đại nhân ngài.

    Chu Tự trầm ngâm chốc lát, gật đầu bảo: "Thứ sử đại nhân dạy, sự thống nhất của nước ta không thể trông chờ vào huyết thống, mà phải là trình độ văn hóa, quả thực rất chính xác".

    Lưu Dụ đang gấp, nhưng không dám giục Chu Tự mau tỏ rõ thái độ để gã còn về báo cáo lại với Tạ Huyền, đồng thời cũng hiểu Chu Tự đột nhiên thảo luận quan điểm của Tạ Huyền trong thư hoàn toàn không phải vì cao hứng nhất thời, mà muốn dựa vào đó để khơi nguồn cho những suy nghĩ của mình, để kiên định ý muốn phản Tần. Nghĩ tới đây, gã càng không dám thúc Chu Tự, gật đầu nói: "Ở Trung nguyên, văn hóa cao nhất tất nhiên là người Hán chúng ta, vì vậy nhất thống thiên hạ cuối cùng sẽ do người Hán chúng ta hoàn thành, thêm vào đó trong lịch sử dân tộc, chưa có lần nào người Hồ thống nhất thành công cả".

    Chu Tự điềm đạm bảo: "Ngươi nói đúng, nhưng đó không phải là quan điểm của Thứ sử đại nhân. Người nói Phù Kiên muốn thống nhất người Hán và các tộc người Hồ khác nhau, nhất định sẽ tiến hành Hán hóa, muốn Hán hóa thì phải đề cao người Hán, đề cao người Hán thì chẳng thể bỏ qua người bản địa. Hiện tại Trung nguyên phần lớn đã theo tôn thất nhà Tấn xuống nam, vì vậy người Hán đang nhất thống miền nam chứ không phải miền bắc. Nếu không tấn công lấy được nhà Đông Tấn, bất kể Phù Kiên nói hoa nói lá gì, trước sau cũng không thể lên ngôi chính thức, không thể dùng những người văn minh hàng phục các tộc Hồ, rồi người Hán sẽ ăn ở hai lòng. Vì vậy Phù Kiên theo đuổi kế hoạch Nam chinh, đủ thấy ông ta chưa thể hóa giải được mâu thuẫn giữa các dân tộc, đó là một nguyên nhân rất đáng kể cho sự bại vong của ông ta trong cuộc chiến này".

    Lưu Dụ nghe nói rất phục, Tạ Huyền quả là người phi thường, cũng có kiến giải phi thường. Chu Tự chính vì tin chắc chính quyền Giang tả là chính thống của Trung nguyên, Hán tộc là chỗ dựa, vì vậy vẫn có cảm giác tội lỗi, phản bội dân tộc khi giúp Phù Kiên đánh Đông Tấn.

    Nghĩ vậy gã khẽ nói: "Huyền soái liệu việc như thần, thẳng thắn mà nói, tối nay Lưu Dụ đến được đây đem thư gửi đại nhân, cũng vì có người Hồ ngấm ngầm trợ giúp, bách vạn đại quân của Phù Kiên hoàn toàn không đoàn kết vững vàng như ông ta tưởng tượng đâu".

    Chu Tự phấn khởi hỏi: "Thật như vậy ư?".

    Lưu Dụ hiểu niềm tin tất thắng vào Phù Kiên của Chu Tự đã lung lay rồi, gã ngẫm nghĩ, Tạ Huyền trăm phương nghìn kế muốn lôi kéo Chu Tự quay trở về, tất nhiên việc này hết sức quan trọng, liên đới đến cả sự thành bại của trận chiến, hiện tại Chu Tự xem thư xong đã dao động, mình phải đẩy thêm vào, có khả năng tranh thủ được y ngay, tốt nhất là khiến Phù Kiên nghi ngờ Mộ Dung Thùy. Gã hạ quyết tâm nhanh chóng đem chuyện Yến Phi và Thác Bạt Khuê dặn dò ra, những sự kinh hiểm uẩn khúc trong đó, ai có thể một lát mà biên ra câu chuyện kín kẽ như vậy, chắc Chu Tự sẽ tin.

    Quả nhiên, Chu Tự nghe xong phấn chấn hẳn lên, như biến thành một con người khác: "Thảo nào Khất Phục Quốc Nhân dẫn người đi tìm cũng không thấy gì, thì ra là vậy".

    Biết thời gian không còn nhiều, Lưu Dụ nói: "Chúng ta phải lập tức chia tay, đại nhân có gì cần nhắn xin dạy bảo, tệ chức sẽ chuyển lại cho Huyền soái không sót một chữ".

    Chu Tự ngửa mặt lên rầm nhà, trầm giọng nói: "Nhờ ngươi nói với Huyền soái, Chu Tự vĩnh viễn không quên đại ân đại đức của An công đối với Chu gia. Chu Tự sẽ y lời hành sự, còn thành công hay không, thì phải xem khí số của Đại Tấn ta".

    Lưu Dụ không hiểu Tạ An đã làm gì cho Chu Tự, nhưng việc này tất nhiên không thể hỏi, càng không nên hỏi vì nó trái với chức trách của gã. Vì vậy gã lập tức quỳ gối, khấu đầu lạy Chu Tự ba lạy: "Lưu Dụ thay mặt tất cả người Hán của Đông Tấn, cảm tạ đại đức và nghĩa cử của Chu đại nhân".

    Nói vậy nhưng bụng gã bảo dạ: "Ba lạy này, lại thêm cái danh đại nghĩa dân tộc, vẫn chưa đủ để Chu Tự vững lòng dốc sức cho Tạ Huyền".

    Nếu Chu Tự có thể nhìn thấu tâm can của Lưu Dụ, hẳn phải đánh giá khác về công phu hàm dưỡng và sự thâm trầm của gã. Nhưng đương nhiên là y không hiểu, vẫn tỏ vẻ cảm động, nhoài mình lên đỡ Lưu Dụ dậy: "Mau về đi!".

    Lưu Dụ đáp: "Chẳng may bị người Tần phát giác, tôi sẽ tự tận trước khi bị bắt, quyết không tiết lộ việc này, Chu đại nhân yên tâm". Mấy câu này không phải là giả trá, Lưu Dụ quả có thể làm như vậy thật.

    Nói rồi nhào mình ra ngoài cửa sổ mà đi.

  3. #22
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 22

    Phá vây thoát thân
    Khất Phục Quốc Nhân rảo bước qua cửa chính đi vào Đệ Nhất Lâu, theo sau là một võ sĩ Tiên Ti vạm vỡ, đôi mắt lập loè như hai đốm lửa ma trơi, đôi môi mỏng mím lại thành một đường, gây cho người ta cảm giác lạnh lùng tàn độc vô tình.

    Người đó chính là Mộ Dung Vĩnh, thân huynh đệ của Mộ Dung Xung, huynh trưởng của họ là Mộ Dung Văn đã bị Yến Phi thích sát ở Trường An, vì vậy họ nuôi mối thù hận sâu xa với hắn. Mộ Dung Vĩnh đến Biên Hoang Tập, nghe tin Yến Phi chính là hung thủ thật sự giết chết anh mình, lại biết hắn ẩn nấp trong tập, không quản gian khó, liền chủ động mời Khất Phục Quốc Nhân đi tìm tung tích địch thủ.

    Mộ Dung Xung phụng mệnh Phù Kiên đóng lại ở Trường An cùng một thủ hạ Tiên Ti là Nhị Lang, không tham gia vào chuyến Nam chinh lần này.

    Mộ Dung Vĩnh không hiểu Khất Phục Quốc Nhân vì sao vừa trở về đã lục soát triệt để Đệ Nhất Lâu, có điều xưa nay y vẫn khâm phục tài trí của Khất Phục Quốc Nhân, lại thêm trong lòng vốn nuôi sẵn cừu hận đợi ngày báo phục với Yến Phi, chỉ sợ Khất Phục Quốc Nhân bỏ dở tìm kiếm, vì vậy phụng bồi việc gì cũng đến nơi đến chốn. Đằng sau hai người là mười mấy tên cao thủ Đê tộc.

    Lúc này Phù Kiên và Phù Dung vừa mới rời khỏi, trong lầu không một bóng người. Khất Phục Quốc Nhân đi thẳng vào nhà bếp, đột ngột dừng bước. Y đã sục sạo khắp Biên Hoang Tập mà không mảy may thấy bóng dáng địch thủ đâu, lòng vẫn không ngừng gợn lên hình ảnh Đệ Nhất Lâu, lờ mờ cảm thấy có lẽ mình đã sơ suất bỏ qua một điều gì đó.

    Y rất giỏi lùng tìm tông tích kẻ thù, nhờ một thứ linh mẫn đặc biệt trời sinh, hệt như chó săn có thể đánh hơi ra địch thủ vậy.

    Mộ Dung Vĩnh bước đến bên cạnh y, những người khác tản ra thành hình rẻ quạt sau lưng họ, hai người trong đó giơ đuốc lên soi, đối diện với mặt đá đổ nát, cánh cửa dẫn thẳng ra hậu viện đã đóng chặt.

    Ánh mắt Khất Phục Quốc Nhân dừng lại trên cái chảo sắt to bít lấy lối ra của hầm rượu, bỗng rúng động: "Cái chảo kia vừa rồi không có ở đấy".

    Mộ Dung Vĩnh nhanh như cắt dịch tới trước, thò tay nhấc chảo. Cái chảo lẳng vào tường rồi rơi xuống đất, phát ra tiếng động loảng xoảng, vang lên đặc biệt chói tai trong đêm khuya khoắt.

    Một lối vào lộ ra rõ rệt.

    Đám cao thủ đằng sau Khất Phục Quốc Nhân ào lên, giơ binh khí, chĩa vào phía hầm rượu, nhưng không có tiếng mở cửa.

    Khất Phục Quốc Nhân lướt tới, "bình" một tiếng phá cửa, phóng ra hậu viện, Mộ Dung Vĩnh vội vã theo sát.

    Hai mắt Khất Phục Quốc Nhân rực hung quang, y quát bằng tiếng Đê: "Ai là người phụ trách ở đây?".

    Một tên quân quản người Đê dạ ran, từ hậu viện đẩy cửa chạy vào, hoảng hốt đáp: "Ti chức phụ trách ạ".

    Khất Phục Quốc Nhân trầm giọng hỏi: "Có ai đi ra khỏi đây không?".

    Tên quân quản đáp: "Có hai nhóm, tổng cộng ba người. Người đầu tiên thừa lệnh Thiên Vương đi mời Chu Tự tướng quân đến gặp. Hai người sau đi chung, phụng mệnh Thiên Vương đến nhắn tin cho quốc sư ngài, còn đòi một con bảo mã nữa".

    Khất Phục Quốc Nhân và Mộ Dung Vĩnh trao đổi một ánh nhìn, đều nhận ra sự giận dữ trong mắt nhau, nhất là nghĩ đến việc kẻ thù có thể đã rời Tập từ lâu rồi. Một tên thủ hạ từ nhà bếp chạy bổ ra, báo cáo: "Bên dưới là một hầm trữ rượu, không có tông tích địch nhân".

    Khất Phục Quốc Nhân sực nghĩ ra điều gì, thét: "Đông môn!". Nói rồi tung mình lên, mũi chân điểm vào tường bao sân, lại lộn lên mái Đệ Nhất Lâu, lướt về phía cửa Đông.

    Mộ Dung Vĩnh cũng nghĩ tới việc nếu địch nhân muốn trà trộn lẻn ra khỏi Tập, nhất định sẽ chọn lối Đông môn, vì bên ngoài cửa là Dĩnh Thủy, đi về phía nam rời khỏi Mộc Trại đại môn, càng tiện trốn bằng đường thủy hoặc bơi về bờ đông, đào tẩu tiện hơi ba cửa kia rất nhiều, thêm nữa đó cũng là lối ra gần Đệ Nhất Lâu nhất, vì vậy còn do dự gì nữa, đuổi theo Khất Phục Quốc Nhân cho rồi. Đúng lúc đó, tiếng vó câu của ba kỵ mã lướt qua Đông Môn Đại Nhai bên dưới Đệ Nhất Lâu, thẳng hướng đến Đông môn.

    ° ° °

    Yến Phi, Lưu Dụ và Thác Bạt Khuê nhờ khẩu lệnh vượt qua các cửa, phi ngựa thẳng đến Đông Môn Đại Nhai không gặp trở ngại gì, ngang qua Đệ Nhất Lâu, phi như bay về phía cửa đông được canh gác rất nghiêm ngặt, bên cạnh cửa đông chính là Tổng đàn Hán bang - hành cung tạm thời của Phù Kiên.

    Đã trông thấy Đông Môn hiện ra, con đường sống để rời khỏi Tập đã ở ngay trước bắt, bất chợt có chút gì đó căng thẳng.

    Họ cũng đã cân nhắc về việc ra khỏi Tập bằng cửa Tây, gần Tây Uyển chỗ nghỉ của Chu Tự nhất, nhưng bên ngoài doanh trại trùng trùng, họ lại không biết khẩu lệnh dùng bên ngoài Tập, đành đi ra bằng cửa Đông, lúc cần thiết có thể mau chóng nhảy xuống Dĩnh Thủy, bơi sang bờ bên kia, bên đó ở mặt đông của doanh trại vẫn chưa đặt vọng gác, chạy trốn dễ dàng hơn rất nhiều.

    Đông Môn Đại Nhai được đèn đuốc bên đường chiếu sáng rỡ như ban ngày, ở các cao điểm của nhà quán hai bên đường đều đặt trạm tiễn, nơi cửa tập còn có canh gác dày đặc, muốn xông ra thực chẳng khác nào mộng tưởng.

    Trên Đông Môn Đại Nhai chỉ có mình ba người họ, lập tức đã thu hút sự chú ý của các bốt gác. Họ đành giảm bớt tốc độ, tránh khuấy động đến Phù Kiên lúc đó có lẽ đang nghỉ ngơi.

    Lúc này chỉ còn cách cửa ra khoảng hai trăm bộ, lính gác cũng là người mình, phục sức thân binh của Phù Kiên, vì vậy hoàn toàn không có vẻ giới bị hay giám sát gì, tưởng chừng thành công đã nắm chắc trong tay, đúng thời khắc quan yếu đó, từ đằng sau trên cao tiếng tay áo phất gió bất chợt vang lên, giọng Khất Phục Quốc Nhân cũng đồng thời vẳng tới, ầm ĩ: "Chặn chúng lại, ba đứa đó là gian tế!".

    Yến Phi lúc này không kịp ngoảnh đầu nhìn Khất Phục Quốc Nhân, nhưng từ tiếng tay áo xé gió đã nhận ra ngoài Khất Phục Quốc Nhân lướt đi trên mái ngói Đệ Nhất Lâu còn có một cao thủ khác võ công không kém y là mấy, đồng thời từ tiếng động soạt soạt phất động kỳ lạ từ tấm áo khoác đỏ của Khất Phục Quốc Nhân, chàng cũng đã phân biệt được hai người. Chỉ có điều hai người này đã đủ để giữ họ lại rồi.

    Nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời khắc đó mà chàng phải làm là quyết định sách lược chạy trốn, vì chàng còn thông thạo tình hình Biên Hoang Tập hơn Lưu Dụ và Thác Bạt Khuê nhiều, mà hai người thì càng vì chàng mà trở nên chiến hữu, vì vậy điều này quan hệ đến chuyện sinh tử tồn vong, nhất định phải do chàng quyết định.

    Yến Phi vừa thét lớn: "Chạy theo ta", vừa bật khỏi lưng ngựa, lăng không lộn một cái trên cao, Điệp Luyến Hoa rời vỏ, hóa thành muôn điểm hàn tinh, kiếm tới đâu người theo tới đó, nghênh đón Khất Phục Quốc Nhân và Mộ Dung Vĩnh. Chính là tư thế ngạnh đấu chính diện.

    Dựa vào một câu nói, Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ đã đồng thời nắm được tâm ý liên thủ đột phá vòng vây của Yến Phi, hiểu rõ địch nhân thế mạnh đến mức hoàn toàn không thể so sánh, cho dù chia ngả tháo chạy, vẫn không thể kéo giãn lực lượng ngăn chặn vây hãm của địch. Hai người Yến Phi tấn công lúc này là hai kẻ mạnh nhất, đúng là thăm bệnh bốc thuốc, một mặt tránh được tên bắn, mặt khác tạo được tình hình hỗn loạn.

    Nghĩ tới đây, Lưu Dụ và Thác Bạt Khuê không dám nghi ngờ gì nữa, cũng bắt chước Yến Phi bật lên khỏi lưng ngựa, song kích nhất đao, lao lên giáp công hai bên trái phải Khất Phục Quốc Nhân lúc đó đang lăng không phóng tới.

    Gần ba mươi cây kình tiễn từ các điểm tựa bắn xuống, nhưng người đã đi chỉ còn ngựa không, tai họa đổ ập xuống những con ngựa vô tội.

    Lính gác ở Đông Môn ước chừng một trăm người, như sói như hổ ào ào đổ đến con phố dài đang biến thành bãi chiến trường này.

    Lúc ấy, đám cao thủ thân tùy đang trực ở hành cung Phù Kiên cũng đến mười mấy người, vẫn chưa hiểu rõ tình hình địch ta thế nào. "Đang" một tiếng, Khất Phục Quốc Nhân đã như một ráng mây đỏ lướt về phía toà lầu ở mặt bắc con đường.

    Khất Phục Quốc Nhân phải lui lại, một vì vẫn chưa phục hồi sau trận chiến với tên quái nhân mặt quỷ, trong mình vẫn mang nội thương, hai vì không ngờ Yến Phi gan dạ dám quay lại phản kích, lại thêm Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ liên thủ, bất kể y có tự phụ thế nào, có thống hận Yến Phi đến đâu, nhưng rốt cục tính mệnh vẫn là trọng, đành tá lực giãn ra.

    Thảm nhất là Mộ Dung Vĩnh, Khất Phục Quốc Nhân vừa đi, cục diện đã trở thành y một mình đấu chính diện với ba đại cao thủ, cây đao răng cưa trên tay hữu lực nhưng khó thi triển, khó ứng phó, nhưng dẫu sao y cũng là nhất đẳng cao thủ, lâm nguy bất loạn, buộc ba người không dám truy kích, vụt một cái trầm khí sử Thiên cân trụy, thay đổi được tình thế, lún xuống đất.

    Yến Phi và hai người lướt qua trên đầu y, nhảy lên mái ngói Đệ Nhất Lâu.

    Lúc này trên nóc Đệ Nhất Lâu đã có bốn tên lính Tần, ai nấy giương cung lắp tên, nhưng chưa dám bắn, vì sợ ngộ thương Khất Phục Quốc Nhân và Mộ Dung Vĩnh, điều này có thể tuy thấy lại không có gì trở ngại, lại vì con đường dài đầy những người mình ào ào chạy tới, chỉ cần một mũi tên bắn chệch, kình tiễn lại bắn vào nhân mã của mình,

    đang còn do dự, ba người đã lăng không đến gần, kiếm quang đao ảnh kích khí đổ ào xuống, giữa những tiếng kêu thảm, bốn tên Tần binh máu tươi bắn tung toé lăn xuống dốc bên kia của mái ngói, rơi thẳng xuống hậu viện.

    Yến Phi là người đầu tiên đáp xuống mái ngói, quét mắt nhìn quanh, thấy quân Tần chen nhung nhúc khắp các đường lớn ngõ nhỏ, chỉ cần nhóm của chàng dừng lại hít thở một chút, nhất định sẽ rơi vào giữa muôn trùng vây, đừng nghĩ đến việc toàn mạng trở ra.

    Yến Phi thét lớn: "Chạy lối này!", rồi hai chân phát lực, phóng về một mé khác của nóc nhà, liên tục tăng tốc độ trong vòng hai trượng ngắn ngủi. Đến khi mũi chân điểm lên mút cuối của mái, lực thăng bằng dồn tích đến mức cao, y toàn lực bay lên, thẳng lên khoảng không cách mặt đất đến mười mấy trượng, hầu như đã chìm lấp vào trời đêm.

    Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ đều không hiểu Yến Phi đang nung nấu cái gì trong đầu, bắt bọn họ từ Đệ Nhất Lâu nhảy xuống thì đương nhiên không thành vấn đề, nhưng từ độ cao hơn mười trượng ngã xuống đất thì không phải là chuyện đùa nữa, nhất định sẽ vỡ đầu gãy xương, táng mạng quy tiên luôn.

    Nhưng hai người họ tuyệt đối tin tưởng Yến Phi, biết nhắc chắn có kết quả tốt hóa nguy thành an, còn lần chần ở đây thì chắc chết không nghi ngờ gì nữa, mà điều quan trọng nhất là nhìn Yến Phi có vẻ như dốc hết sức, sự thực vẫn còn dư lực, vì vậy điểm rơi có lẽ sẽ là một mục tiêu cố định.

    Hai người một trước một sau bay theo hướng Yến Phi, giữa những tiếng la hét. Những mũi tên bắn về chỗ ba người vừa đứng đều hụt vào khoảng không.

    Khất Phục Quốc Nhân và Mộ Dung Vĩnh nóng lòng tấn công, dẫn một đám Tần binh hỗn loạn từ mặt đất đuổi theo ba người. Khất Phục Quốc Nhân lờ mờ cảm thấy sự vây bủa ở đây có một lỗ hổng rất lớn, chính là do ba người đã dễ dàng trà trộn vào trong đội ngũ đang vây bắt, mà do bên Tần nhân số quá đông, lại đang đêm khuya, đối phương có thể dễ dàng lộng giả thành chân, có điều cái lỗ hổng này đã không thể nào vá víu được nữa, nếu sớm một bước có thể khiến tất cả mọi người không được rời khỏi vị trí, ai nấy cố thủ tác chiến, ba người dù mọc cánh cũng khó thoát, hiện tại hối thì đã muộn, chỉ mong có thể chính mình chặn được ba người, đó là cơ hội duy nhất của y.

    ° ° °

    Kỷ Thiên Thiên bước đến sau lưng Tạ An, nhíu đôi mày thanh tú, khẽ hỏi: "Hình như tất cả mọi chuyện đều phát sinh vào thời gian này, tại sao lại thế?".

    Tạ An chăm chú nhìn lửa đèn lấp lánh bên bờ kia sông Tần Hoài, vẳng nghe tiếng đàn ca sáo nhị từ thuyền thanh lâu vọng tới, điềm tĩnh nói: "Đơn giản mà, nghĩa phụ đây thời gian không còn nhiều, phải thay đổi sách lược thỏa hiệp trấn chi dĩ tĩnh, phải nhân thời cơ này, dốc hết tâm lực vì bá tánh Giang Nam".

    Kỷ Thiên Thiên tiến lên, đặt bàn tay nhỏ nhắn lên đầu vai Tạ An, trách khẽ: "Nghĩa phụ đừng nói không nhiều thời cơ gì đó nữa có được không? Nghe thế Thiên Thiên cũng thấy phiền muộn lắm, cũng cảm thấy quả thực không còn nhiều thời gian nữa. Nghĩa phụ nhất định sẽ sống lâu trăm tuổi, dẫn dắt người Hán chúng ta lấy lại những dải non sông đã mất".

    Tạ An than: "Mình biết chuyện nhà mình thôi, từ năm bốn mươi bảy tuổi vì xao nhãng luyện đan, suýt chút nữa là tẩu hỏa nhập ma, sau đó tuy được Đan Vương An Thế Thanh ra tay cứu giúp, giữ lại được tính mạng, song di hại rất sâu, mãi đến nay vẫn còn nhức nhối. Gần đây có cơ tái phát, khiến ta biết thọ nguyên sắp tận, có thể kéo dài được hai, ba năm nữa cũng là kỳ tích rồi".

    Kỷ Thiên Thiên lần đầu tiên nghe nói đến chuyện đó, cũng là lần đầu tiên biết Tạ An cũng đã từng say mê Đan thuật đến nỗi suýt mang họa, nàng hết sức ngạc nhiên.

    Tạ An nhìn nàng, đôi mắt hiền từ, dịu dàng nói: "Nghĩa phụ không coi trọng chuyện sống chết, chẳng bao giờ đặt nặng vấn đề ấy, mà vốn dĩ cũng không phải việc mình quyết định được. Vừa may trải qua bao nhiêu năm nỗ lực, cuối cùng cũng bồi dưỡng cho Tiểu Huyền thành tài, thiên hạ sau này phải trông nhờ vào bản lĩnh của y. Hiện tại nghĩa phụ vẫn còn có chút ảnh hưởng, nên giúp y giảm bớt trọng trách mà thôi!".

    Ông ta lại đưa mắt ra sông Tần Hoài, chậm rãi nói giữa những tiếng dạt dào vô hạn: "Hiện tại Trúc Pháp Khánh cuối cùng cũng thọc Ma trảo vào miền nam rồi, còn thông qua Trúc Lôi Âm và Quốc Bảo để thiết lập quan hệ với huynh đệ hoàng thượng, việc này nếu thành công, còn tai họa hơn cả Thiên Sư Đạo của Tôn Ân. Hừ, Tạ An ta đâu thể ngồi nhìn việc ấy diễn ra trước mắt, ngày Trúc Bất Quy đến nam sẽ là ngày mệnh chung của y luôn. Với cái loại tà giáo tàn nhẫn đáng sợ đó thì chẳng phải nói đạo lý gì hết".

    Kỷ Thiên Thiên lộ vẻ lo âu: "Nghĩa phụ không ngại chọc giận hoàng thượng ư? Tại sao không liên kết với đại thần trong triều, hết lòng can gián hoàng thượng, khuyên giải người thu hồi thánh lệnh".

    Tạ An cười buồn: "Hoàng thượng là người như thế nào, ta rõ hơn ai hết. Đã không thể lấy lý để xử, thì phải dùng uy để trấn. Đương nhiên, tất cả vẫn còn phụ thuộc vào việc thắng bại của Tiểu Huyền!".

    Kỷ Thiên Thiên thấy lòng trào lên cảm giác tin cậy và sùng mộ đối với Tạ An. Nàng tin rằng Tạ Huyền sẽ không phụ sự kỳ vọng ấy, sẽ đánh lui đại quân Phù Kiên kéo đến xâm phạm miền nam này, nghĩa phụ của nàng, không những là đệ nhất danh sĩ được ngưỡng vọng nhất hiện nay, mà còn là nhân vật lưu danh thiên cổ.

    ° ° °

    Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ nhìn Yến Phi đang hạ xuống một rừng trúc, thầm khen diệu, nhuyễn lực của trúc có thể hóa giải được kình lực đáp xuống, vốn dĩ họ muốn đáp xuống một nơi như ao hồ hay đầm nước, vậy cũng có thể khiến họ an toàn không bị thương, có điều sẽ ướt sũng hết, thành ra địch nhân sẽ biết rõ dấu vết và truy đuổi đích xác. Rừng trúc khác ao hồ một trời một vực, thực lý tưởng.

    Trúc lay động, kêu xoàn xoạt. Yến Phi nhờ phản kình liên tục giảm tốc độ, sau đó chạy về hướng nam, biến mất trong một ngõ nhỏ, Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ không dám chậm trễ, vội vàng theo sau.

    Ba người gặp lại nhau trong ngõ, rồi băng mình đi ra theo đầu ngõ kia. Tiếng tù và từ hướng Đông Môn Đại Nhai vẳng lại, báo cho vệ binh trên cả Biên Hoang Tập rằng có địch đến xâm phạm.

    Ba người không ngạc nhiên mà lại mừng, vì điều ấy sẽ khiến tình hình càng thêm hỗn loạn, chỉ nghe thấy tiếng tù và lại không hiểu được số gian tế là bao nhiêu, càng không thể biết được địch nhân đã hóa trang thành người mình.

    Lao ra khỏi con ngõ dài, Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ phát giác là đã theo Yến Phi đi vào Nam Môn Đại Nhai, một đội Tần binh hơn năm mươi người đang từ cửa nam chạy ra, trông tư thế có lẽ là đang chạy đến Đông Môn Đại Nhai, hai bên va vào nhau.

    Yến Phi tiên phát chế nhân, quát to bằng tiếng Đê: "Bọn Tấn vô dụng!".

    Người dẫn đầu tức thì đáp lại "Không chịu nổi một cú!", nhìn rõ là thân binh của Phù Kiên, thái độ của y trở nên cung kính hẳn, y quát bảo ngừng lại hỏi: "Đã xảy ra việc gì vậy?".

    Yến Phi đáp: "Có thích khách trà trộn vào Tập, bọn ta phụng mệnh Thiên Vương đi bảo vệ đại môn ngoài trại, mau theo chúng ta đi". Nói rồi chạy trước về phía cửa nam. Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ thầm tán thưởng sự cơ trí của Yến Phi, vì không có cách thoát hiểm nào vẹn toàn hơn, bèn theo bọn lính chạy ào đi, thẳng về phía Nam Môn. Tên lính Tần giữ cửa Nam nhìn thấy người mình liền chạy lại, ai nấy có vẻ hoang mang, Yến Phi thét to: "Chuẩn bị ngựa!".

    Tên dẫn đầu nhóm cũng hét theo: "Còn không chuẩn bị ngựa mau?". Tên lính gác cửa không dám chậm trễ, dắt ngựa ngoài cửa Tập vào. Yến Phi và hai người kia nào khách khí, lập tức phi thân lên ngựa.

    Ở giữa ngoài cửa nam và bức tường ngoài trại, có hai nhóm quân doanh, không đèn đuốc gì hết, chỉ có một số ít người thức dậy, ra khỏi doanh trại ngó nghiêng, đủ thấy Tần binh thực đã quá mệt, cho dù tù và giục giã vẫn không thể đánh thức họ.

    Nhưng ở ngoại trại vẫn thắp sáng tưng bừng, mỗi vọng bắn treo một ngọn đèn gió, Đại Trại Môn cửa khép kín, càng sáng rỡ ràng, canh gác dày đặc.

    Yến Phi thúc ngựa ngoái đầu nhìn, một số lượng lớn Tần binh đang men theo Nam Môn Đại Nhai đổ tới như nước triều, do cự ly gần một ngàn bộ, chưa nhìn thấy rõ có bóng áo đỏ của Khất Phục Quốc Nhân trong đó không, không dám chần chừ, hắn kẹp hai bên lườn ngựa, phi đầu tiên lao về Nam Trại Môn, hai người kia cũng phi nhanh theo. Đằng sau là một đội kỵ binh Đê Tần dài lẵng nhẵng bị họ xỏ mũi.

    Ra khỏi cửa Tập, cơ hội chạy thoát của ba người tăng lên, như mãnh hổ về rừng, giao long về biển, toàn thân kình lực sung mãn, đợi đến thời khắc quan trọng nhất là tới Trại Môn.

    Ba người liên tục tăng tốc phi ngựa, hướng về phía Trại Môn.

    Đám Tần binh bảo vệ Trại Môn tuy chưa lắp tiễn, song ai nấy đều lộ vẻ cảnh giác, tiểu tướng phụ trách hô to: "Dừng lại!".

    Thác Bạt Khuê hét lớn: "Chúng ta có thủ lệnh của Thiên Vương, lập tức xuất trại lùng bắt địch nhân. Mau mở cửa!".

    Yến Phi giảm tốc, thò tay vào trong ngực áo, như thể lấy thủ lệnh ra thật.

    Đội quân đằng sau láng máng cảm thấy có điều gì không ổn, bởi bọn Yến Phi nói năng tiền hậu bất nhất, nhưng vì khoảng cách quá xa, lại chỉ mới là nghi ngờ, nhất thời không kịp cảnh báo. Gió bỗng rít lên, Khất Phục Quốc Nhân và Mộ Dung Phục vút qua hai bên trái phải chúng.

    Lúc này ba người đã đến trước Trại Môn, dũng sĩ canh gác tiến lên muốn nắm lấy cương ngựa.

    Yến Phi biết đã đến lúc, thét lớn: "Thủ lệnh đây!" Vừa nói vừa cùng Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ bật mình khỏi lưng ngựa, lăng không mà đi, chân điểm lên đầu cửa, tá lực bắn ra xa ngoài Trại.

    Lúc này Khất Phục Quốc Nhân và Mộ Dung Vĩnh tuy chân không chạm đất nhưng như đã dồn hết tốc độ để đuổi tới, nhưng nhìn thấy rõ ba người đã vượt khỏi Trại Môn, biến mất ngoài trại, biết rằng đã muộn một bước rồi, thõng tay nhìn ba người cao chạy xa bay, chẳng biết làm thế nào nữa.


  4. #23
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 23

    Chia đường chạy
    Đến bờ đông Phì Thủy, phía bắc Hoài Thủy, cách Biên Hoang Tập hơn năm mươi dặm, chạy không nổi nữa, Yến Phi, Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ nằm xoài xuống.

    Họ đã cách rất xa tuyến Dĩnh Thủy chảy về Thọ Dương, lại chuyên chọn nẻo hoang rừng rậm mà đi, vượt qua hai sông Dĩnh Thủy và Phì Thủy, chưa dừng lại lấy một lần - mãi cho tới đây - để tránh truy binh và cặp mắt tinh tường của Khất Phục Quốc Nhân.

    Thác Bạt Khuê nằm vật xuống trước nhất. Yến Phi vừa ngả mình ra là lập tức nằm ngửa, ngắm bầu trời mê đắm đang chuyển dần từ đêm sang buổi ban mai. Lưu Dụ thì khuỵu hai gối, thở hồng hộc.

    Lúc ấy, họ cảm nhận được một cách đặc biệt sự quý giá và hiếm hoi của sinh mệnh, khiến họ càng hân hoan trân trọng một sự thực là mình còn sống.

    Thác Bạt Khuê vùi mặt vào nền cỏ đẫm sương đêm, vừa thở vừa cười rũ rượi, hai tay đấm đất: "Yến Phi quả là thú vị, hiếm có nhất là trong khoảnh khắc phát sinh biến cố đột ngột đã mau chóng đưa ra lựa chọn chính xác thế này, bằng không chúng ta đã phơi xác ở Biên Hoang Tập rồi. Thật không uổng một mối huynh đệ chi giao".

    Lưu Dụ quỳ đến đau nhức đầu gối, đành ngồi bệt xuống, nghe nói vậy kinh ngạc hỏi: "Đoạn trước huynh nói tôi hoàn toàn đồng ý, nhưng đến đoạn sau, không hiểu hai huynh có quan hệ gì?".

    Thác Bạt Khuê nói một cách khó khăn giữa những chuỗi cười: "Người mà Thác Bạt Khuê này xem trọng mới được ta coi như anh em. Ngươi còn không hiểu ư?".

    Yến Phi ngửa mặt ngắm ánh sáng tinh mơ, lòng trào lên cảm giác ấm áp, thân thể tuy mệt mỏi muốn chết nhưng tinh thần thoải mái khoan khoái lạ thường. Chàng hiểu vĩnh viễn cũng không thể quên thời khắc này, quên cái cảm giác xúc động khi hai người đồng tâm hiệp lực tiến hành một nhiệm vụ hầu như không có cơ may hoàn thành, trừ bỏ được bao nhiêu khó khăn, trong cái chết lại tìm được đường sống.

    Từ khi lọt lòng mẹ đến giờ, lần đầu tiên chàng cảm thấy sinh mệnh quý giá biết dường nào, không hơi đâu nảy ra cái ý nghĩ chết cho xong nữa.

    Ba người thở hổn hển, gắng hít thật nhiều dưỡng khí để bù cho nhu cầu bị thiếu hụt.

    Lưu Dụ xoay mình một cách khó khăn, quay mặt ra Phì Thủy, nhìn nước sông chảy về Hoài thủy, nói sang chuyện khác: "Rất có thể chúng ta đã giúp ả yêu nữ ấy một tay, tạo cho ả một cơ hội thoát thân".

    Yến Phi và Thác Bạt Khuê thầm đồng ý, ả đã có bản lĩnh thoát khỏi sự sục sạo của Khất Phục Quốc Nhân, toàn thân lại giắt pháp bảo, đương nhiên có thể cao chạy xa bay nhờ tận dụng tình thế hỗn loạn do bọn họ gây ra khi đột phá vòng vây.

    Kỳ lạ là ba người đều phát giác nỗi hận của họ đối với ả đã tiêu tan, đây có lẽ là điểm đặc biệt nhất của An Ngọc Tình, bất kể ả làm việc gì xấu cũng có vẻ là chuyện đương nhiên, nếu khác đi thì không thể phô bày được tư thái phong tình riêng có của ả, quả thực là một yêu nữ hoàn toàn.

    Thác Bạt Khuê cuối cùng cũng ngừng cười, hít sâu nói: "Ả mà còn để ta trông thấy mặt, nhất định ta sẽ giáo huấn cẩn thận".

    Lưu Dụ cười tinh quái: "Huynh định đối phó thế nào đây? Ả không phải là loại dễ bắt nạt đâu nhé".

    Thác Bạt Khuê nói: "Chính vì không dễ ta mới làm, vậy mới thú!".

    Lưu Dụ nhìn hắn, vừa lúc Thác Bạt Khuê đang nằm dưới đất cũng ngẩng đầu lên nhìn gã. Mắt họ gặp nhau, cả hai cùng cười lớn, tiếng cười đầy mùi dục tình đàn ông với đàn bà.

    Thác Bạt Khuê thấy Yến Phi không có phản ứng gì, bèn lăn đến bên cạnh chàng, chống tay đỡ lấy má, nhìn khuôn mặt tuấn tú của Yến Phi, kinh ngạc hỏi: "Ngươi đang nghĩ gì vậy? Không định làm anh hùng cứu mỹ nhân khỏi ma trảo của hai đứa bọn ta đấy chứ? Nhưng mà anh em nhắc nhở ngươi, đó là một mỹ nhân độc như rắn rết!". Nói tới câu cuối, hắn và Lưu Dụ cùng cười phá lên, Lưu Dụ ngửa cổ ra mà cười, đập tay vỗ đùi, trông cũng đủ khiến người ta tức cười lắm rồi.

    Thác Bạt Khuê cười đến đau hết cả người, hổn hển nói: "Ta chưa từng thử qua trò gì vui vẻ như thế này, chuyện gì cũng cảm thấy buồn cười".

    Yến Phi cuối cùng cũng tủm tỉm, thong thả nói: "Lý do đơn giản thôi mà, mất rồi mà lấy lại được thường khiến người ta vui vẻ, nhất là khi lấy lại được ba cái mạng như thế này. Thành ra chúng ta đang nhâm nhi cái tư vị hân hoan mà chưa bao giờ chúng ta được hưởng".

    Lưu Dụ gật đầu: "Nói hay lắm! Hà! Huynh vẫn chưa trả lời câu hỏi vừa rồi của Thác Bạt lão huynh".

    Yến Phi hờ hững đáp: "Đầu óc ta trống rỗng rồi, chỉ biết mình đang ngắm trời cao, bây giờ mất tìm lại được, biết đâu sẽ có lúc được rồi lại để mất, không vui vẻ chẳng phí lắm ư".

    Thác Bạt Khuê lật mình lại, bắt chước Yến Phi nằm ngửa ngắm bầu trời đang chuyển sáng dần: "Hai vị có dự tính gì?".

    Yến Phi vụt ngồi dậy, vừa giãn gân cốt vừa nói: "Điều ta muốn nhất là ngủ một giấc thật ngon, không bị quấy nhiễu mảy may, nhưng đáng tiếc trước mắt hãy còn trong vòng nguy hiểm, vì vậy hy vọng đi xa được chừng nào thì hay chừng ấy".

    Thác Bạt Khuê im lặng chốc lát, nhìn sang Lưu Dụ. Lưu Dụ hiểu ý, biết hắn có điều muốn nói riêng với Yến Phi, thậm chí còn đoán được hắn sẽ nói gì. Gã đứng dậy, lòng chỉ mong hắn không thể thuyết phục nổi Yến Phi: "Gần đây chắc có suối mát uống được, để ta thử đi tìm xem". Nói rồi đi xuống dốc.

    Thác Bạt Khuê nhìn theo bóng Lưu Dụ, lẩm nhẩm: "Một người miền nam thật đặc biệt, không những thể chất bất phàm, tính cách kiên nghị, mà nhìn qua cũng biết là người mưu trí".

    Yến Phi liếc hắn, điềm tĩnh nói: "Gã giống ngươi nhiều điểm, nhưng cũng có những điểm trái ngược hoàn toàn".

    Thác Bạt Khuê ngồi dậy: "Nghe giọng ngươi, dường như không muốn cùng ta quay về bắc".

    Yến Phi giơ tay nắm lấy hai vai hắn: "Ta không thể sống cuộc sống đêm nào cũng gối đầu lên vũ khí ngủ như trước kia được nữa. Vả lại người nhà Mộ Dung đã biết Mộ Dung Văn chết bởi tay ta, nếu ta theo ngươi về, ngươi chưa công toại danh thành thì đã bị cả họ nhà gã gây hấn, ngay cả Mộ Dung Thùy cũng chưa chắc bảo vệ cho ngươi được. Hãy sáng suốt lên một chút! Ngươi làm sao có thể vì một mình ta mà từ bỏ đại nghiệp phục quốc cơ chứ!".

    Thác Bạt Khuê im lặng.

    Yến Phi hiểu hắn là người thế nào, càng hiểu rõ hơn tác dụng của những lời ấy đối với hắn, mà quả tình những điều chàng nói đều là sự thực cả. Cái chết của Mộ Dung Văn không chỉ là một mối cừu hận đối với cả họ Mộ Dung Tiên Ti, mà còn là một vết nhơ, một mối sỉ nhục, mối hận mối nhục ấy chỉ có thể rửa sạch bằng máu của Yến Phi.

    Thác Bạt Khuê nhìn Yến Phi, mắt ánh lên những tình cảm chân thành sâu sắc, hắn trầm giọng nói: "Ngươi nhớ cẩn thận. Một ngày kia Thác Bạt Khuê ta có chỗ đứng vững chắc rồi, ngươi nhất định sẽ trở về bên ta".

    Yến Phi thầm thở phào, Thác Bạt Khuê là người duy nhất mà chàng cảm thấy không thể từ chối được khi bị yêu cầu. Giao tình giữa họ bén rễ từ thuở ấu thơ, đã trải qua bao nhiêu thử thách, không gì có thể thay đổi. Mặc dù Thác Bạt Khuê lớn lên tâm lang thủ lạt, bất chấp thủ đoạn, nhưng đối với chàng vẫn một mực mến yêu.

    Yến Phi buông hai tay, mỉm cười: "Ta cũng muốn nếm mấy ngụm nước suối ngọt mát, còn nhớ những ngày tháng tươi đẹp chúng ta nghịch nước bên thác không?".

    Thác Bạt Khuê kéo chàng đứng dậy, cười vui: "Nếu ngươi không nhắc là ta quên béng đi rồi ấy. Mấy năm nay ta rất ít khi hồi tưởng lại chuyện cũ, trong đầu chỉ toàn là báo thù với phục quốc. Ha! Ngươi ghê thật đấy, đến Mộ Dung Văn mà cũng phải chết bởi tay ngươi, thật khiến ta khoan khoái".

    Hai người bá vai nhau đi xuống dốc theo hướng Lưu Dụ vừa đi. Xuyên qua một dải rừng thưa, trông thấy Lưu Dụ đang quỳ bên một dòng suối nhỏ chảy giữa những tàng cây, cả đầu gã đang dầm trong nước.

    Nghe tiếng động, Lưu Dụ nhấc đầu lên. Trông thấy hai người, gã đứng dậy gọi to vui vẻ, đầu mặt ướt lướt thướt.

    Thác Bạt Khuê dang rộng hai tay, mỉm cười: "Chiến hữu cừ của ta, để ta ôm ngươi một cái nào. Đây là biệt lễ của người tộc Tiên Ti Thác Bạt ta".

    Lưu Dụ cười ha hả, bước lại ôm Thác Bạt Khuê thật chặt, ngạc nhiên hỏi: "Huynh không ở lại xem kết cục của Phù Kiên sao?".

    Thác Bạt Khuê buông gã ra, lại bóp chặt hai cánh tay gã, mắt sáng quắc: "Lúc này là lúc thanh thế của Phù Kiên đang lên. Khó khăn lắm ta mới dò ra được rằng đại loạn sắp diễn ra ở phương bắc, phải chạy nhanh một bước về chuẩn bị cho chu đáo, cướp lấy ngọn roi trước".

    Lưu Dụ phấn khởi: "Hảo tiểu tử! Suy tính thật cẩn thận, nếu Phù Kiên thắng, huynh cũng nhanh hơn người ta một bước rồi, chuồn ra vùng tái ngoại cho xong".

    Thác Bạt Khuê than: "Hy vọng tình hình không đến nỗi thế! Nhưng nếu phương nam nguy khốn, ngươi cũng quốc vong nhân vong, ta thì thà chết còn hơn là phải khuất phục trước Phù Kiên, càng không chịu tháo chạy".

    Thác Bạt Khuê thả lỏng hai tay, gật đầu: "Được! Hiện tại ta cũng hiểu Lưu Dụ là người thế nào rồi. Một ngày kia nếu thống nhất được phương bắc, mọi người không

    chừng sẽ còn phải gặp nhau trên sa trường, nhưng ta sẽ vĩnh viễn không quên chúng ta đã từng là hảo huynh đệ sát cánh tác chiến trong Biên Hoang Tập".

    Nói rồi lùi về phía sau, cười một tràng dài, phất tay ra đi, dáng đi tiêu sái quyết tuyệt, đầy hào tình tráng ý khiến người ta xúc động.

    Yến Phi thẫn thờ nhìn theo bóng hắn mờ dần, trong lòng chộn rộn bao cảm xúc, gần như đã sẵn sàng vì hắn mà trở về cuốn mình vào cuộc sống cuồng liệt phong bạo ở phương bắc! Nếu Phù Kiên thất bại, phương bắc nhất định sẽ chia năm xẻ bảy, trong số chư hùng thủ hạ Phù Kiên, chỉ có Mộ Dung Thuỳ đáng mặt kỳ phùng địch thủ của Thác Bạt Khuê.

    Giọng Lưu Dụ chợt vang lên bên tai chàng: "Yến huynh có cùng tôi đi gặp Huyền soái không?".

    Yến Phi nghĩ với vẻ lơ đễnh một lúc, cuối cùng nhớ đến lời hẹn với Tạ Huyền, lắc đầu bảo: "Đi gặp Huyền soái của nhà ngươi cũng chẳng để làm gì, ta biết ngươi hiểu điều đó còn rõ hơn ta. Ta có còn tác dụng gì nữa đâu".

    Lưu Dụ ngạc nhiên: "Thế huynh định đi đâu?".

    Yến Phi lộ vẻ mông lung, hờ hững đáp: "Ta không biết. Cần phải tranh thủ thời gian, Lưu huynh đừng bận tâm đến ta nữa, mau về Thọ Dương đi, bằng không lỡ việc quân thì vừa gặp may xong lại thành ra gặp rủi đấy".

    Lưu Dụ biết không cách nào lay chuyển nổi Yến Phi, bèn thi lễ từ biệt, đoạn dứt khoát bỏ đi.

    Còn trơ trọi một mình, Yến Phi đến bên suối quỳ xuống, vục đầu vào nước. Trong óc bất giác mường tượng lại thời gian nửa năm ở Trường An lo kế hoạch thích sát.

    Để thám sát hành trạng của Mộ Dung Văn, chàng phải đóng giả làm một thế gia đệ tử ngao du thiên hạ, mỗi đêm ra vào những nơi vui thú yên hoa, kết giao bằng hữu, cuối cùng đã nhắm cơ hội phục sát thành công trên đường lớn bên ngoài một thanh lâu tiếng tăm ở Trường An.

    Tuy đã trừ bỏ mối thù hận trong lòng, nhưng cũng đã tạo nên một vết sẹo sâu và đau vĩnh viễn không thể bình phục! Đây là một nguyên nhân khác khiến chàng muốn tránh xa Biên Hoang Tập.

    Hiện nay Biên Hoang Tập đã biến trành đại bản doanh phòng vệ hậu phương của Phù Kiên. Thiên hạ tuy lớn, nhưng chàng không nghĩ ra chỗ nào để dung thân. Ở nơi không có Tuyết Giản Hương và Đệ Nhất Lâu, chàng quả thực không hiểu làm sao mà sống được?

    ° ° °

    Giữa trưa ngày thứ hai, sau hôm Yến Phi, Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ chia tay, thám tử phi báo cho Hồ Bân ở Thọ Dương: Phù Dung suất lĩnh tiên phong tiến về Hoài Thủy, tốp đi đầu đã vượt qua Nhữ Âm.

    Hồ Bân nghĩ thế là đã đến lúc rồi, lập tức thông báo cho Tạ Huyền, khi ấy vẫn ở Thọ Dương.

    Tạ Huyền điềm tĩnh nghe hồi báo, ung dung cười: "Phù Kiên không ngờ nổi đâu! Ta sẽ giúp y hoàn thành tâm nguyện, cung tay nhường Thọ Dương cho y. Chúng ta lập tức rút về Hiệp Thạch Thành".

    Hồ Bân một lòng một dạ muốn cố thủ Thọ Dương, bèn vớt vát lần cuối: "Theo thám tử ước đoán, tiên phong của Phù Dung chừng ba mươi vạn, trong đó kỵ binh khoảng hai mươi vạn, còn lại là bộ binh. Với binh lực như vậy, chiếm cứ Thọ Dương xong chúng đủ sức vượt qua Phì Thủy, từ đó tiến quân vào Bát Công Sơn đánh Hiệp Thạch Thành. Nếu cả hai thành đều thất thủ, và do đó dẫn đường cho bọn chúng tiến đến Kiến Khang, thì với binh lực hiện tại, chúng ta quyết không ngăn nổi vó ngựa Hồ tràn xuống phương nam. Đến khi tất cả các trấn nằm ở bờ bắc Đại Giang thất thủ, Kiến Khang sẽ rơi vào thế yếu, bị động".

    Nào ngờ Tạ Huyền nhoẻn cười tươi tắn, vui vẻ bảo: "Ta đang mong Phù Kiên nghĩ giống ngươi đó. Thắng lợi sẽ quyết định ở đây chứ không phải ở Kiến Khang. Vốn dĩ kế hoạch của y là dùng binh lực áp đảo đánh thốc vào Thọ Dương, lại dùng một đạo quân khác phục kích bất kỳ cánh quân nào đến viện binh cho Thọ Dương, hoặc cắt đứt quan hệ giữa Thọ Dương và Hiệp Thạch Thành, đồng thời phái nhân mã kềm chế cánh quân tinh nhuệ của Đại Tư Mã ở Kinh Châu, ba hướng cùng tiến xuống, một trận đập tan lực lượng phản kích của chúng ta, cổ vũ sĩ khí cho đại quân Đê Tần. Dựa vào Biên Hoang Tập làm trạm trung chuyển giữa hai miền nam bắc, triển khai hành động tác chiến lâu dài, từng bước nuốt chửng các trấn ở bờ bắc Trường Giang, khiến Kiến Khang trở nên trơ trọi, không còn gì che chắn, khiến chúng ta ở vào cái thế không đánh cũng tan, về mặt sách lược Phù Kiên suy tính rất chu đáo kín kẽ".

    Hồ Bân nảy lên: "Nếu đã vậy, vì sao Huyền soái còn muốn từ bỏ Thọ Dương? Nếu Hà Khiêm tướng quân đánh tan được cánh quân địch vượt qua hạ du Hoài Thủy, chưa chừng chúng ta có thể giữ được Thọ Dương, thêm nữa, nếu Đại Tư Mã cũng báo tiệp ở trận chiến phía tây thì chúng ta có cơ hội thủ thắng rồi".

    Tạ Huyền mỉm cười: "Nếu ngươi là Phù Kiên, đột nhiên giành được Thọ Dương mà không mất một giọt máu nào, ngươi sẽ nghĩ sao?".

    Hồ Bân đứng đực ra hồi lâu, đáp: "Tôi sẽ nhận định rằng binh lực của Huyền soái rất mỏng, không đủ để cố thủ Thọ Dương. Vì vậy lấy Thọ Dương xong, có thể lập tức phát binh vượt Phì Thủy, tấn công Hiệp Thạch Thành".

    Tạ Huyền nói: "Hình như ngươi hơi hiếu thắng quá? Lao sư viễn chinh, từ Trường An đến Lạc Dương, từ Lạc Dương đến Tứ Thủy, lại từ Biên Hoang Tập vượt Hoài Thủy đến Thọ Dương, đó không phải là một hành trình ngắn ngủi gì đâu".

    Hồ Bân đứng hẳn vào lập trường của Phù Kiên: "Nhưng tôi phải phối hợp với cánh quân vượt sông ở hạ du, nếu không thể kềm chế địch nhân ở Hiệp Thạch Thành, địch nhân sẽ dốc sức tấn công cánh quân vốn dĩ muốn dùng để giáp kích hai bên tả hữu Thọ Dương".

    Tạ Huyền gật đầu tán thưởng: "Nếu quân đội của ngươi thành công, tiến vào chiếm cứ Thọ Dương, bỗng nhiên có tin báo về, đợi đại quân tập kết nghỉ ngơi". Hồ Bân thán phục vô cùng, gật đầu nói: "Tôi đành án binh bất động ở Thọ Dương, đợi đại quân tập hợp nghỉ ngơi rồi mới tính chuyện vượt Phì Thủy sang đông".

    Tạ Huyền tươi cười nói: "Hồ tướng quân đã hiểu rồi đó. Hai mươi vạn tinh kỵ của Phù Dung chính là chủ lực của đại quân Đê Tần, nếu nó bại, Phù Kiên coi như thua hết cả một trận thế. Địch nhân lao sư viễn chinh, lấy được Thọ Dương, song lại trái với sự bố trí ban đầu của chúng. Ta không những mong họ mau tăng tốc tăng binh, mà còn hy vọng Phù Kiên đích thân lâm trận chỉ huy, đây chính là một trong những mục đích ta phái Lưu Dụ đi gửi thư cho Chu Tự".

    Đến đây Hồ Bân mới rõ nhiệm vụ bí mật của Chu Tự, nhưng trong lòng vẫn thấp thỏm không yên, nếu năm nghìn quân tinh nhuệ của Hà Khiêm không tìm thấy cánh quân Tần vượt hạ du Hoài Thủy, hoặc không có cách nào nắm được thời cơ tấn công cánh quân đó, thì đến lượt chính họ sẽ thua trong trận chiến ấy.

    Thắng bại chỉ cách nhau trong gang tấc.

    ° ° °

    Hà Khiêm và mười mấy thân binh mai phục trong một khoảnh rừng ở đông ngạn Lạc Giản 1, lén quan sát động tĩnh ở tây ngạn Lạc Giản và bắc ngạn Hoài Thủy, đáng tiếc không thấy một chút dấu vết nào của địch nhân.

    Bên cạnh y còn có Lưu Lao Chi vừa mới đến để thám thính binh tình. Do sự việc quan hệ mật thiết đến thành bại của trận chiến, Lưu Lao Chi không yên tâm được, bèn để thủy sư lại một nơi bí mật ở hạ du, dùng phi cáp truyền thư xin phép Tạ Huyền mau chóng trợ trận. Về cấp quan y đứng trên Hà Khiêm, y có thể điều động quân của Hà Khiêm. Vì sợ kỵ binh phương bắc linh hoạt như thần, họ chỉ dám phái thám tử vượt Hoài Hà và Lạc Giản vào ban đêm để thám sát hành tung của địch. Năm nghìn tinh nhuệ đã quen ngủ trong tình trạng sẵn sàng đợi báo động, hiện tập kết trong một vạt rừng rậm kín đáo ở bờ đông Lạc Giản, tránh tai mắt của địch.

    Theo như họ ước đoán, kỵ binh của địch nhất định sẽ vượt Hoài Hà qua lối Lạc Giản, ngầm lên bờ tây, lại dựa vào dinh lũy tự nhiên nằm giữa hai sông Hoài và Lạc Giản, tiến về phía tây hỗ trợ tấn công Thọ Dương. Chỉ hận là mãi cho đến lúc này, vẫn chưa thể nắm bắt được hành tung của địch. Nếu để địch nhân đặt được cơ sở vững chắc rồi, họ sẽ mất đi cơ hội tốt, quân Tấn ở Hiệp Thạch Thành coi như sẽ rơi vào tình thế lưỡng diện thọ địch.

    Mặt trời tàn chìm dần xuống dãy núi phía tây, trời đất ngả màu hôn ám, gió se sắt lùa qua khoảng rộng nơi hai sông cắt nhau.

    Hà Khiêm ghé tai Lưu Lao Chi nói nhỏ: "Việc đêm nay quan trọng lắm, theo tin báo, tiên phong của Phù Dung đã rùng rùng tiến đến Thọ Dương, rất có khả năng sẽ vượt Hoài Hà trong đêm, không chừng sẽ có cánh quân nào đó của chúng qua sông ở đoạn này, tôi chuẩn bị dốc hết trinh thám ra dò xét tình hình của địch, không mạo hiểm e không thành công được".

    Lưu Lao Chi thầm thở dài, tự nhủ nếu thám tử bị địch phát giác, đánh rắn động cỏ, lúc đó năm nghìn quân đi tập kích cánh quân lớn mạnh của định, chắc chắn như trứng chọi đá, nhưng ngoài cách đó ra thì chẳng còn cách nào khác cả.

    Đúng lúc ấy, một bóng người nhô ra ở mé sông Hoài, chạy thật nhanh ven bờ đông Lạc Giản, vừa chạy vừa ẩn mình trong rừng rậm cỏ cao, nếu vào lúc tối trời hơn, tất cả một màn đen đặc, thì chắc chắn họ đã bị thân pháp phiêu hốt của người đó qua mặt.

    Hà Khiêm định hạ lệnh cho thủ hạ ra chặn bắt, xem có phải gian tế của địch không, thì bỗng Lưu Lao Chi giật mình, nhảy ra khỏi vạt rừng la lên: "Lưu Dụ!". Người kia ngạc nhiên, chuyển hướng chạy về phía họ, khuôn mặt vui mừng, chính là tiểu tướng Lưu Dụ, vừa nhận nhiệm vụ đặc biệt thâm nhập Biên Hoang Tập về.

    Gã chạy thẳng đến trước mặt Lưu Lao Chi, thở hổn hển nói: "Thuộc hạ phát hiện Lương Thành suất lĩnh bốn vạn quân, xem chừng chuẩn bị đêm mai vượt Hoài Hà ở mạn thượng du, cách Lạc khẩu ba dặm. Nếu tập kích chúng, đêm mai là thời cơ tốt nhất".

    Hà Khiêm vừa chạy đến bên Lưu Lao Chi, nghe Lưu Dụ nói xong, y và Lưu Lao Chi nhìn nhau sững sờ, hoàn toàn không hiểu vì sao Lưu Dụ biết tướng Đê là Lương Thành cầm quân, lại còn biết binh lực của địch là bốn vạn người!

    Lưu Dụ tiếp: "Bọn chúng toàn là khinh kỵ thôi, ngày núp đêm ra, chuyên chọn rừng thưa để di chuyển, vừa may tôi dụng tâm tìm kiếm, dọc đường lưu ý xem xét, cuối cùng đến chỗ cách Hoài Thủy ba dặm, phát hiện thấy toán đầu đang ì ạch hành quân. Người gà gật ngựa uể oải, số lượng tuy đông nhưng không đáng sợ, có điều nếu để chúng lập trại ở Hoài Hà, chúng ta không còn cơ hội nữa".

    Lưu Lao Chi quả quyết hạ lệnh cho Hà Khiêm, lập tức trở về doanh trại, huy động hết năm nghìn tinh kỵ, chuẩn bị đêm nay vượt Lạc Giản. Bắc Phủ binh chỉ có tám ngàn kỵ binh, nếu năm ngàn tinh kỵ ở đây thua bại, coi như vỡ hết kỵ binh của Bắc Phủ binh.

    Hà Khiêm lĩnh mệnh đi.

    Lưu Lao Chi bảo Lưu Dụ: "Nhân lúc còn rỗi, ngươi kể tường tận ta nghe những điều ngươi đã trông thấy, đừng bỏ sót điều gì".

    Lưu Dụ thầm phục tâm cơ linh mẫn của Tạ Huyền, nếu không phải Tạ Huyền sáng suốt đoán trước, bố trí người ở đây, cho dù gã nắm bắt được hành trạng chính xác của địch, cũng chẳng có ai mà thông tri, làm lỡ mất cơ hội tốt, chẳng biết làm thế nào!

    --------------------------------
    1 Lạc Giản là nơi Lưu Lao Chi thua Tần. Lạc Giản thời nay thuộc sông Lạc chi lưu của Hoài Hà, chảy qua phía đông thành phố Hoài Nam tỉnh An Huy. Lạc Giản còn có tên là Lạc Thuỷ, theo sử sách thì Trung Quốc có đến ba Lạc Thủy, một là Lạc Giản, một là Lạc Hà thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay, và một là Lạc Hà nằm phía bắc tỉnh Thiểm Tây ngày nay.

  5. #24
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 24

    Ơn tri ngộ
    Yến Phi lượn lờ không mục đích khắp Biên Hoang, cố ý tránh những làng hoang đường vắng, chọn những nơi không người đặt chân đi dần về phía đông. Lúc đói hái quả dại lót lòng, lấy trời làm chăn, lấy đất làm giường, trở lại cuộc sống phiêu bạt trước đây.

    Đầu óc chàng trống rỗng, chẳng nghĩ ngợi gì hết, song tự nhiên cứ đến một giờ giấc nhất định lại luyện công. Mấy ngày rồi chàng giao phong với nhiều cao thủ cũng có ích lợi, rất nhiều chỗ vi diệu tinh tế trước đây chưa thể lĩnh ngộ quán thông, bỗng trở nên thông suốt trong mấy ngày thảnh thơi nhàn nhã ấy. Nhưng có tinh tiến chút nào về Nhật Nguyệt Lệ Thiên công pháp hay không, chàng tuyệt không bận tâm, tuyệt không để ý.

    Đêm ấy chàng ngồi trên một đầu núi, vầng trăng lưỡi liềm treo cao trên trời. Yến Phi cảm thấy khoan khoái, một cảm giác lạ lùng không hiểu vì sao sinh ra trong khi thân đang trong hoàn cảnh như thế này.

    Chừng bốn năm dặm về phía Tây, có một cái thôn hoang vắng với khoảng năm mươi căn nhà nát, như một chứng cứ cho sự tàn phá của chiến tranh, cảnh tượng thê lương u tịch.

    Chàng đang ở đâu, muốn đi đến đâu, tất cả đã trở nên không quan trọng nữa rồi, chàng đã dốc hết sức cho Thác Bạt Khuê và người Hán ở phương nam, không còn vướng bận gì nữa, chiến tranh diễn tiến đến đâu đã vượt ra ngoài phạm vi quan tâm của chàng rồi.

    Cái cảnh ở Đệ Nhất Lâu nhìn Hoang nhân Hán tộc chạy nạn dường như chỉ vừa mới xảy ra, bỗng nhiên chàng ngẩn người, việc đã xảy ra lại có một cảm giác ảo mộng không thật. Cảm giác an toàn được rời xa Biên Hoang Tập, ngược lại lại khiến chàng trở lại với những cơn ác mộng tiếp diễn suốt một năm nay, trở nên lười biếng và ngại ngần không muốn nhắc đến đối với bất cứ sự việc gì. Nhưng chàng phải lựa chọn, vì bản thân, ít nhất là một phương hướng.

    Nếu tiếp tục đi về hướng đông, cuối cùng lại đến bên bờ đại hải. Nghĩ tới đây lòng gợn lên, nghe nói ngoài biển có một thắng cảnh khác, nơi gần nhất là nước người lùn và đất người man di, chàng đã cảm thấy mệt mỏi vì những nỗi khổ của chiến tranh ở Trung nguyên, cớ gì mà không nghĩ cách vượt biển đi tìm một mảnh đất vui vẻ không có chiến tranh, cùng lắm thì vùi thân trong biển rộng.

    Nghĩ tới đây, Yến Phi rời đỉnh núi, đi xuống dưới.

    ° ° °

    Phù Kiên thúc ngựa phi ra khỏi Đại Trại Nam Môn, phóng thẳng về phía rẻo cao ngoài trại, hai bên trái phải có các đại tướng Khất Phục Quốc Nhân, Mộ Dung Vĩnh, Ngốc Phát Ô Cô, Thư Cừ Mông Tốn, Lữ Quang, Chu Tự... theo sau là hơn một trăm thân binh tùy tùng.

    Nơi xa trên Dĩnh Thủy, khói báo động bốc lên trời đêm, đó là Phong Hỏa đài gần Biên Hoang Tập nhất, dùng lửa khói truyền tin báo về Biên Hoang Tập. Quanh vùng có khoảng một trăm Phong Hỏa đài như thế, phân bố khắp tây ngạn Dĩnh Thủy, dùng để thông tin liên lạc giữa tiền tuyến và hậu phương.

    Phù Kiên nghe tin có lửa khói, cảm thấy hứng khởi, lập tức xuất trại đích thân đi xem cho rõ ràng.

    Toán kỵ mã cuốn lên đầu núi như một cơn lốc, Phù Kiên kềm ngựa lại. Các tướng cũng vội vàng ghì cương, dừng lại đằng sau.

    Phù Kiên nhíu mày như không dám tin vào mắt mình, kinh ngạc nói: "Thọ Dương đã bị vây hãm rồi!".

    Lữ Quang vội nói: "Nhờ hồng phúc của Thiên vương, Thọ Dương đánh một trận là lấy được. Kiến Khang cũng chỉ là chuyện ngày một ngày hai".

    Thư Cừ Mông Tốn cười ha hả: "Bọn nhóc miền Nam gan nhỏ như gan chuột nhắt. Mông Tốn thấy, Tạ Huyền đã sợ đến mức cụp đuôi trốn khỏi Kiến Khang chạy về ổ cũ rồi".

    Khất Phục Quốc Nhân không lộ vẻ cao hứng như Thư Cừ Mông Tốn và Lữ Quang, y điềm tĩnh bảo: "Khoái mã tiền phương có thể sẽ trở về trước lúc trời sáng, lúc đó chúng ta sẽ biết rõ tình hình Thọ Dương.

    Phù Kiên trầm ngâm chốc lát rồi nói: "Chu khanh gia, khanh thông thạo tình hình phương nam nhất, có kiến giải và suy nghĩ gì về việc này?".

    Chu Tự đang nóng lòng chờ câu đó, nghe hỏi bèn lôi đáp án đã chuẩn bị trước ra: "Hiện tại binh lực của Bắc Phủ Binh ước chừng tám vạn người, một phần mười trong số đó là kỵ binh, còn lại đều là bộ binh. Trước mắt lực lượng ấy phải phân chia đồn trú ở sáu trọng trấn vùng Giang Bắc là Thọ Dương, Hiệp Thạch, Hu Di, Hoài Âm, Đường Ấp, Lịch Dương để đề phòng quân ta vượt Hoài Hà tập kích, ngoài ra còn phải để trọng binh lưu lại Kiến Khang. Chia nhỏ tất yếu, xem ra số quân giữ Thọ Dương không được đến năm nghìn. Vì vậy khi Hồ Bân thấy lực lượng tấn công Thọ Dương đông đảo, tất cương quyết cắt bỏ, rút quân đồn trú Thọ Dương về Hiệp Thạch thành, hy vọng có thể dựa vào địa thế hiểm trở của Bát Công Sơn, dựa vào sự ngăn cách của Phì Thủy, tập trung binh lực của hai thành lại để chống đỡ".

    Mộ Dung Vĩnh cười gằn: "Sách lược duy nhất ấy là vô kế khả thi, nhưng lại đúng với sự sắp xếp cao minh của chúng ta khi cho hai cánh quân đánh úp lại từ hai bên trái phải".

    Phù Kiên ngửa mặt cười: "Bản lĩnh của Tạ Huyền xem chừng chỉ có vậy".

    Chu Tự thầm nghĩ: "Chính các người mới trúng kế ấy", rồi thừa cơ nói: "Đợi lát nữa đây thám tử tiền tuyến hồi báo thì biết ngay nhận định của vi thần về kế sách rút lui của Hồ Bân là đúng hay sai. Vi thần còn một kiến nghị nữa, nếu Hồ Bân quả thực hành động như vi thần suy đoán, thì điều đó minh chứng cho việc lực lượng của Bắc Phủ Binh bị phân tán mỏng. Thiên Vương có thể đích thân lên trận tiền đốc sư tác chiến, làm nức lòng quân, đánh một trận mà phá được Hiệp Thạch thành, đánh thẳng đến giang biên, người Tần cũng không thể phản kích, lúc đó Kiến Khang thất thủ là chắc chắn".

    Khất Phục Quốc Nhân liếc mắt nhìn Chu Tự: "Bộ binh của chúng ta đến Biên Hoang Tập chỉ có hơn mười vạn, những cánh khác vẫn đang hành quân, mệt mỏi không biết ngần nào mà kể. Hiện đã lấy được Thọ Dương thì Hiệp Thạch chỉ là chuyện ngày một ngày hai, xin Thiên Vương mưu định hành động về sau, không nhanh không chậm, góp gió thành bão, thống nhất thiên hạ".

    Phù Kiên cười ha hả: "Nhị vị khanh gia nói đều có lý lắm, nhưng hai cánh quân tiên phong của chúng ta hợp lại đã được hai mươi vạn rồi, cho dù Bắc Phủ Binh có tập trung lại hết ở Hiệp Thạch thành thì vẫn không chịu được một đòn tấn công của chúng ta. Ý trẫm đã quyết, nếu sự thực như Chu khanh gia dự đoán, sáng mai trẫm sẽ thân dẫn hai vạn tinh kỵ lên tiền duyên, công phá Hiệp Thạch. Đêm nay các khanh phải chuẩn bị kỹ càng để hành quân".

    Mọi người dạ ran. Khất Phục Quốc Nhân vốn có chủ kiến khác, nhưng cũng phải nhận thấy lấy được Hiệp Thạch là việc nằm gần trọn trong lòng bàn tay.

    Chu Tự càng tăng niềm tin đối với Tạ Huyền, vì điều y đã nói đều theo chỉ thị Tạ Huyền đã biên trong thư, Tạ Huyền thậm chí đã đoán được rằng Phù Kiên nhất định sẽ trúng kế.

    Phù Kiên giật cương ngựa, quay đầu phi về hướng doanh trại. Chưa bao giờ trong suốt quá trình nhằm tới mục tiêu thống nhất thiên hạ, lòng tin của y lại mãnh liệt như lúc này.

    ° ° °

    Lưu Dụ trèo lên mặt bắc đầu thành Hiệp Thạch. Ở đó có Hồ Bân, và phía trước y là Tạ Huyền, đang đứng sừng sững, nhìn ra xa quan sát động tĩnh của địch ở tây ngạn Phì Thủy mé dưới chân Bát Công sơn, tay chắp sau lưng, mình vận bộ nho phục vải trắng, tà áo phần phật trong gió lạnh, lưng đeo thanh Cửu Vận Định Âm kiếm danh nhiếp thiên hạ, dáng vẻ tự tin và kiên nghị khó tả, như thể một thiên thần giáng phàm, khiến người ta bất giác mềm lòng khâm phục và sùng kính. Đặc biệt khi nghĩ y là đại diện trên chiến trường cho đệ nhất danh sĩ Tạ An, Lưu Dụ càng cảm thấy phấn chấn.

    Lưu Dụ xưa nay luôn ác cảm với đám danh môn quý tộc cao cao tại thượng, nhưng Tạ gia là ngoại lệ duy nhất, một mình Tạ Huyền cũng đã đủ khiến gã cam lòng hy sinh, huống hồ Tạ An vốn được muôn dân kính ngưỡng.

    Tạ Huyền ngoảnh đầu nhìn gã. Lưu Dục giật mình xúc động, tiến lại quỳ xuống hành lễ, run giọng nói: "Tì tướng Lưu Dụ may không làm nhục sứ mệnh, đã hoàn thành nhiệm vụ Huyền soái giao cho".

    Tạ Huyền nhanh như chớp lắc mình tới, nâng gã lên, còn nắm chặt lấy hai tay gã, đôi mắt có thần sáng lên dị thường, cười nói: "Hay lắm! Không thẹn là nam nhi của Đại Tấn ta! Vất vả cho ngươi rồi!".

    Lần đầu tiên được tiếp xúc với Tạ Huyền gần đến thế, Lưu Dụ cảm động suýt nữa không nói nên lời, mọi nỗi mệt nhọc vì phải phi ngựa đêm ngày không nghỉ về báo cáo đã tiêu tan hết. Cặp mắt đỏ hoe, gã nói: "Huyền soái... tôi...".

    Tạ Huyền mỉm một nụ cười chân thành khiến người ta xúc động tận tâm can, tựa hồ đã thấu hiểu hết những cố gắng và hiểm nguy gian khó mà Lưu Dụ đã trải qua. Y tỏ ra như không có một chút khác biệt nào giữa trên và dưới, không có một khoảng cách khó vượt qua nào giữa danh gia vọng tộc với kẻ bần hàn, nắm lấy cánh tay Lưu Dụ, dắt ra một đầu thành khác.

    Thân binh của y tránh sang hai bên, để tiện cho họ nói chuyện riêng.

    Khi hai người đi qua bên cạnh Hồ Bân, Hồ Bân giơ tay vỗ vai Lưu Dụ, thái độ rất thân thiện hữu hảo, tỏ sự chân thành và cảm kích với người đã từng cứu mạng mình, cách cư xử so với lần đầu gặp mặt thì khác một trời một vực.

    Lưu Dụ có cảm giác như giấc mộng của mình thành hiện thực, gã không còn là một chân sai vặt nhỏ nhoi nữa, mà đã tiến vào hàng ngũ cốt cán lãnh đạo của Bắc Phủ Binh, sự thăng tiến trong tương lai thực không thể tiên lượng.

    Tạ Huyền dừng lại, buông gã ra, ánh mắt dõi về phía Thọ Dương.

    Lưu Dụ cũng nhìn theo. Từ Đông lộ ở Bát Công sơn, lên núi vào thành, đến lúc này mới có dịp trông thấy tình hình Thọ Dương, chỉ thấy bên tây ngạn Phì Thủy doanh trại lớp lớp, đèn đuốc sáng bừng, chiếu trong ngoài thành Thọ Dương rực rỡ như ban ngày, doanh trại dựng tựa vào núi, tinh kỳ phấp phới, khí thế đỉnh thịnh.

    Thành Thọ Dương hoàn toàn không có cửa, các cầu treo ở cổng thành đều đã bị bẻ gãy hết, sông hộ thành không những đã bị cắt đứt dòng chảy, mà còn bị đá cát lấp bằng, chỉ chưa đến mức phóng hỏa đốt thành mà thôi. Có thể tưởng tượng trong thành không còn một đấu lương thực nào, đừng nói gì đến binh khí cung tiễn.

    Ở bên này, dưới chân Bát Công sơn có mọc lên mấy chục ụ tên, sắp cao thấp men theo thế núi, ụ thấp nhất cách Phì Thủy chỉ khoảng mấy trăm bộ, giống như một Thủ hộ thần chẹn lấy khu vực nông nhất có thể lội nước qua sông của Phì Thủy.

    Địch nhân tuy có bộ dạng hùng dũng khí thế, nhưng Lưu Dụ đã rõ đối phương ngựa đói người mệt, chẳng hơi sức đâu mà ứng phó với việc qua sông tập kích của bên mình vào lúc này.

    Phù Kiên không đánh mà lấy được Thọ Dương, sự tấn công phối hợp đã bị phá vỡ so với tính toán ban đầu, quân đội của Lương Thành tối ngày mai có thể vượt Hoài Hà lên đến bờ tây Lạc Giản, vì vậy Phù Dung phải đợi Lương Thành ổn định, mới bắt đầu tiến hành đại kế giáp kích đông tây Hiệp Thạch thành, chỉ nhìn từ điểm đó, Tạ Huyền đã chiếm được tiên cơ, nắm được quyền chủ động.

    Tạ Huyền chắp tay sau lưng, điềm tĩnh nói: "Kẻ tỏ ra hùng mạnh vẫn để lộ chỗ yếu. Người làm vẻ yếu ngược lại vẫn hùng mạnh. Phù Dung à! Ngươi vẫn còn kém lắm".

    Lưu Dụ nghe nói thế, trong lòng càng hiểu vì cớ gì mà Tạ Huyền được tôn sùng như binh pháp đại gia xuất sắc nhất Nam triều dạo gần đây, sau Tổ Địch và Hoàn Ôn. Chỉ nhìn khí độ ung dung và sự minh mẫn thấu suốt của y lúc lâm địch, là đủ biết danh

    bất hư truyền. Bản thân gã cũng không ngại, có điều biết rõ tình hình của địch, có phân ra cao thấp.

    Tạ Huyền nói: "Tiểu Dụ hãy kể lại tường tận từ đầu đến cuối ta hay, đừng bỏ sót một điều gì".

    ° ° °

    Yến Phi đi trên con đường nhỏ rậm cỏ dẫn đến hoang thôn, trong bụng đã định sẵn, sẽ đi vòng qua hoang thôn, rồi tiếp tục hành trình về phía đông.

    Đang định rời khỏi con đường nhỏ, bỗng nhiên chàng có cảm giác lạ, bèn nhìn sang một cây to bên đường, ở trên thân cây, quãng cách mặt đất chừng một trượng, có ánh kim loại lấp lóe do phản chiếu ánh mặt trời.

    Yến Phi định thần nhìn, chợt giật mình, nhảy vút lên, rút cái vật găm trên thân cây ấy ra, rồi nhảy trở xuống đất.

    Yến Phi than thầm. Vật chàng lấy được chính là con dao thái rau của Bàng Nghĩa. Hiển nhiên là Bàng Nghĩa đã theo chỉ dẫn của chàng, chuyên chọn nẻo hoang rừng vắng mà trốn chạy, nhưng đến đây thì ngộ nạn, phải dùng tới con dao thái rau hộ thân, song không chém trúng mục tiêu, xem ra lành ít dữ nhiều. Cũng may quanh đây không có thi thể vết máu, vẫn còn một tia hy vọng.

    Chàng giắt dao thái rau vào sau thắt lưng, đổi hướng, men theo con đường nhỏ đi vào rừng, hy vọng có thể tìm thấy ở đâu đây Bàng Nghĩa đang bị thương, chứ không phải là xác chết của y.

    ° ° °

    Lưu Dụ kể xong, im lặng đợi chỉ thị của Tạ Huyền.

    Tạ Huyền chăm chú nhìn Thọ Dương, gật đầu bảo: "Tiểu Dụ làm việc tốt lắm, không phụ sự kỳ vọng của Lưu tham quân vào ngươi. Qua hành trình mà ngươi kể đó, có thể thấy ngươi phúc duyên thâm hậu, tiền đồ tương lai không thể tiên lượng. Nếu chúng ta giành thắng lợi trong trận chiến này, ta sẽ sắp xếp cho ngươi một vị trí khác trong

    quân. Hiện tại ta lập tức thăng ngươi lên phó tướng, ngươi hãy tiếp tục cố gắng, hết lòng mà làm việc".

    Lưu Dụ vui mừng tột độ, không chỉ vì vượt qua phiên tướng, được thăng liền hai cấp, mà còn vì Tạ Huyền đã nói rõ là sẽ tận lực đào tạo, đề bạt gã. Gã vội vàng quỳ xuống tạ ơn.

    Tạ Huyền lại nâng gã lên, vui vẻ nói: "Sự tưởng thưởng này là do ngươi dùng trí tuệ và sự gan dạ của mình giành được. Trên đường về, ngươi còn thám sát rõ ràng động thái của cánh quân Lương Thành, đó là điểm mấu chốt cho thành bài của trận chiến này".

    Lưu Dụ đứng vững, vẫn còn cảm giác khoan khoái bay bổng. Từ khi gia nhập Bắc Phủ Binh đến nay, gã phấn đấu không mỏi mệt, chỉ hy vọng có lúc cất mặt lên với đời, mà tất cả mọi cố gắng lúc này cuối cùng cũng đã gặt hái được thành quả tốt đẹp.

    Tạ Huyền bỗng cau mày suy nghĩ, một lúc lâu sau mới hỏi: "Theo ngươi, Thác Bạt Khuê là người thế nào? Đừng phóng đại, cũng đừng vì hắn là người Hồ mà khinh rẻ bẻ bai y".

    Lưu Dụ càng ngày càng nhận ra sự khác biệt giữa Tạ Huyền và những danh sĩ cao môn khác. Thói quen bình phẩm các nhân vật vẫn được duy trì từ thời Hán mạt đến nay. Danh môn Giang Tả khi phẩm bình nhân vật thường khinh rẻ xem nhẹ những người không thuộc dòng dõi, còn như đối với người Hồ, thì càng khinh thị, xem như một chủng tộc man di chưa khai hóa mà thôi. Vì vậy lời nhắc nhở của Tạ Huyền càng nhấn mạnh chỗ độc đáo ở con người ông ta.

    Lưu Dụ sắp xếp lại các thông tin trong đầu rồi cung kính đáp: "Thác Bạt Khuê là một người kiến thức rất rộng, đầy đủ các điều kiện để làm một thống soái, biết nhìn xa, lại nhìn nhận rất triệt để, thấy một hiểu mười, nguyên việc Huyền soái bỏ Thọ Dương, hắn cũng hiểu được Huyền soái có tính toán gì. Một khi hắn nảy ra quyết định gì, là kiên trì đến cùng. Khuyết điểm duy nhất của hắn là quá kiêu ngạo tự phụ, nếu hắn nắm quyền lực trong tay, nhất định sẽ là một bạo chúa chuyên chế tai ngược".

    Ánh mắt Tạ Huyền lộ vẻ kinh ngạc rõ rệt, chăm chú quan sát Lưu Dụ một hồi, ông ta gật đầu đáp: "Ngươi đánh giá rất toàn vẹn. Nếu trí lực ngươi không ngang ngửa với Thác Bạt Khuê, quyết không thể nhìn thấu ưu điểm và khuyết điểm của hắn như vậy được. Theo ngươi thấy, làm một thống soái cần phải có những điều kiện gì?".

    Lưu Dụ thầm kêu khổ, đành phải móc hết bản lĩnh đã cất giấu xuống tận đáy hòm của mình ra để phô bày. Gã chỉ muốn nói làm thống soái là phải giống như Thứ sử đại nhân ngài đây, nhưng lại sợ Tạ Huyền cho rằng gã bợ đỡ tâng bốc, đành đáp: "Theo thiển kiến của tệ chức, thống soái là người chỉ huy và điều hành thiên quân vạn mã, nhất định phải biết mình biết ta. Trên chiến trường thiên biến vạn hóa phải biết ra quyết sách tỉnh táo, lâm nguy bất loạn, thấy sóng cả không ngã tay chèo. Trong Biên Hoang Tập, Thác Bạt Khuê đã biểu hiện được cá tính ấy, đặt biệt là trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng, hắn đã hiển lộ được sự cơ trí trong ứng biến. Khi tệ chức vì cảm thấy gian nan mà muốn từ bỏ việc đưa thư cho Chu Tự đại nhân, thì đều nhờ hắn cương quyết thuyết phục, cuối cùng mới có thể hoàn thành nhiệm vụ, về sau tệ chức nhớ lại, vẫn cảm thấy tự hổ thẹn".

    Tạ Huyền mỉm cười: "Ngươi đừng hổ thẹn. Đổi là ta lúc đó, cũng sẽ cân nhắc nặng nhẹ, lập tức trở về báo cáo quân tình. Từ đó đủ thấy cái trác việt bất phàm của Thác Bạt Khuê".

    Rồi y ngẩng mặt nhìn trời đêm, nói tiếp: "Tộc Thác Bạt Tiên Ti kiêu dũng thiện chiến, Đại quốc tuy đã suy vong, nhưng Thác Bạt Tiên Ti vẫn còn dư thế ở miền tái ngoại. Bọn mã tặc do Thác Bạt Khuê lãnh đạo tung hoành miền tây bắc, Phù Kiên bất lực, ta cũng nghe danh đã lâu. Nếu để Thác Bạt Khuê thống nhất các bộ tộc Thác Bạt Tiên Ti, nhất định sẽ lãnh đạo họ đột khởi, trở thành một lực lượng không thể xem thường ở phương bắc".

    Lưu Dụ gật đầu: "Chỉ nhìn hắn giữ mãi mối liên hệ với Mộ Dung Thùy, mà Mộ Dung Thùy cũng chấp nhận, đủ thấy người đó có chỗ bất phàm. Tuy vậy tôi dám khẳng định Mộ Dung Thùy đang dưỡng hổ di họa, Thác Bạt Khuê tuyệt không cam lòng khuất ủy dưới bất kỳ ai, cho dù là Mộ Dung Thùy đi nữa".

    Tạ Huyền lại một lần nữa quan sát Lưu Dụ với ánh mắt kinh ngạc, giọng ôn hòa và thân mật, điềm tĩnh hỏi: "Còn Tiểu Dụ thì thế nào nào?".

    Lưu Dụ giật mình, vội đáp: "Tệ chức chỉ luận việc xét người, không dám có ý khác".

    Tạ Huyền bật cười, nhẹ nhàng nói: "Mỗi người, vào tuổi thanh xuân của mình đều nên có những ý nghĩ bạo dạn, ta cũng vậy thôi, nhưng tuổi mỗi ngày một cao, nhiều suy nghĩ không thiết thực nữa sẽ dần dần bị từ bỏ hoặc thay đổi. Hiện tại ta chỉ mong có thể phục hưng tôn thất nhà Tấn, giúp nhân dân hưởng những ngày an lạc".

    Lưu Dụ thầm nhủ, đây chính là điều khiến tôi khâm phục ông, người muốn làm nên đại sự phải biết tránh câu nệ tiểu tiết và đừng giữ lòng dạ đàn bà. Như Yến Phi tuy đáng yêu đáng kính, nhưng không phải là loại tranh giành nổi thiên hạ, lại cũng không phải là người có dã tâm ấy. Người như y và Thác Bạt Khuê mới đáng đem ra để luận anh hùng.

    Tạ Huyền nói: "Muôn quân dễ kiếm, một tướng khó tìm. Nhân tài như ngươi đây, Tạ Huyền ta tuyệt không thể để mai một. Con đường trước mặt còn gian khổ, tối nay ngươi nghỉ ngơi cho khỏe, bắt đầu từ mai, ngươi theo liền bên ta, chịu khó học tập".

    Từ sâu trong tim, Lưu Dụ nảy lòng tri ngộ sâu sắc với Tạ Huyền, nhờ sự đại lượng của Tạ Huyền, gã mới có thể giải bày những điều chân thành nhất, đối với những người khác, kể cả Tôn Vô Chung mà gã rất trân trọng, gã cũng giấu giấu giếm giếm để tránh bị người ta nhìn thấu chí hướng hoài bão của mình.

    Lưu Dụ thi lễ cáo lui, Tạ Huyền đột nhiên nói với vẻ thư thái: "Tiện thì nói thôi nhé. Tiểu Dụ hãy cho ta biết, hiện tại việc ngươi muốn làm nhất là gì? Đương nhiên không phải ta hỏi đến ngủ nghê đâu nhé".

    Lưu Dụ ngượng ngùng đáp: "Vẫn liên quan đến ngủ thôi. Là muốn ôm một cô thật xinh ngủ cùng".

    Tạ Huyền cười phá lên. Trong lúc ấy Lưu Dụ đã vội vã theo bậc cấp đi xuống. Lúc ngang qua chỗ Hồ Bân, Hồ Bân bắt tay gã thật chặt, khiến Lưu Dụ cảm thấy tim dâng đầy ấm áp, biết mình đã giành được giao tình của vị tướng lĩnh quan trọng này, đó là một việc rất có lợi cho tương lai.

    Đi hết khỏi bậc cấp đá, gã nghĩ tới Yến Phi, chiến hữu khó quên. Nhờ có chàng, gã mới có được phong quang hiện nay.


  6. #25
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 25

    Tiêu Dao yêu giáo
    Yến Phi đi vào hoang thôn, nhà cửa phần lớn đã tiêu điều đổ nát, người không thể ở được, chỉ là chỗ cư trú cho cỏ dại và cáo chồn chim chuột, may thay còn vài căn vẫn được giữ gìn hoàn chỉnh. Nơi vào thôn có một tấm biển, trên đề ba chữ "Ninh Gia Trấn".

    Nhìn kỹ dấu tích, có thể thấy vết dây leo bị chặt đứt, có lẽ gần đây đã có người đi ngang qua, đã phá đi để mở đường. Gió lạnh hun hút thổi, càng nhấn mạnh thêm cái hoang lương của thị trấn.

    Chàng ngó quanh, thôn này nằm giữa một nhánh rẽ của hai dãy núi, giống như một cái cửa ra vào do trời kiến tạo, là một thông đạo dẫn thông hai miền nam bắc trong vòng mấy chục dặm. Có thể tưởng tượng, thời kỳ cực thịnh trong thôn, Ninh Gia Trấn tất là một con đường cho thương lữ, là một lối khác dẫn đến hướng đông Biên Hoang Tập, lúc đó nhất định cực kỳ hưng vượng, chỉ có điều ngày nay đã biến thành một tiểu trấn hoang phế như địa vực.

    Nhà cửa phía nam trấn đều đã đổ nát, tường sập ngói vỡ cháy đen, có dấu hiệu bị hỏa hoạn. Chàng lật tìm từng ngôi nhà, nhưng không phát hiện được gì, giữa trấn có đôi ba căn nhà còn tương đối nguyên vẹn, phát hiện thấy có dấu vết của người, vì có dấu hiệu nhóm lửa và vụn lương thực, có thể là Hoang nhân đi qua, mà cũng có thể là chính Bàng Nghĩa.

    Khi chàng đi từ bên nam sang một bên khác, chỉ còn một căn nhà. Hy vọng tìm thấy Bàng Nghĩa càng mong manh, tim trĩu nặng, điều duy nhất an ủi là không tìm thấy xác chết của Bàng Nghĩa.

    Đúng lúc đó, ở căn nhà duy nhất còn nguyên vẹn bỗng bùng sáng một ngọn lửa màu xanh lục, lập lòe như ma trơi lọt qua ô cửa ra, độ sáng vượt xa đèn lửa bình thường, chiếu hắt đến cả bình nguyên hoang dã ở xa xa về mặt bắc trấn. Nếu Yến Phi tin vào thuyết quỷ thần, ắt hẳn sẽ sợ đến vắt chân lên cổ mà chạy, ngờ rằng mãnh quỷ xuất hiện.

    Nhưng Yến Phi chẳng sợ gì cả, chỉ đề cao cảnh giác mà thôi. Chàng cẩn thận đi từng bước đến gần căn nhà chiếu ra ánh lửa xanh lục nọ.

    Ánh lửa xanh lực sau khi qua giai đoạn bùng cháy rực rỡ nhất thì từ từ dịu đi, đến khi Yến Phi đến được trước khuôn cửa sổ cũ nát, màu lửa xanh lục đã biến thành một ngún sáng yếu ớt, hắt in hình một thân thể đàn bà xinh đẹp, đang nghiêng mình nhìn về phía cổng trấn, thông qua cửa sổ mặt bắc của căn nhà.

    Yến Phi ngạc nhiên kêu lên: "An Ngọc Tình!".

    An Ngọc Tình quay lại, nhìn chàng, tươi cười như hoa, dịu dàng nói: "Yến thiếu hiệp đại giá quang lâm, thực là vinh hạnh, chỉ tiếc không có trà nước đãi khách".

    Lúc đó ánh lửa xanh đã tắt rụi hoàn toàn, căn phòng chìm vào một màn tối đen, mãi một lúc sau mới được thay thế bằng ánh trăng nhàn nhạt, lại có thể nhìn thấy lờ mờ mọi vật, không gian chuyển từ sáng sang tối như thế, khiến người ta có cảm giác kỳ dị như mộng ảo.

    Nếu không phải một lòng muốn tìm kiếm Bàng Nghĩa nên mới đi vào trấn, Yến Phi nhất định sẽ lập tức phất tay áo mà bỏ đi. Tuy chàng không căm hận ả hoặc nung nấu báo thù như Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ, nhưng chàng vẫn không có chút thiện cảm nào với ả yêu nữ giảo hoạt như hồ ly, hành vi tà dị này, biết rằng dính dáng với ả chẳng có kết quả gì tốt đẹp cả.

    An Ngọc Tình õng ẹo bước đến mở cửa ra, trìu mến nói với chàng như thể một người vợ hiền dịu: "Ngoài đó gió mạnh lắm, vào đi nào!".

    Yến Phi thông minh hơn người, lập tức nhớ đến ngọn lửa xanh ả phóng ra trong nhà, hẳn rằng ngọn lửa đó đã bị gió lạnh thổi tắt, hoặc không thể duy trì được lâu. Như vậy, có lẽ ả đang phát tín hiệu cho ai đó ở phía bắc trấn. Hiện tại thái độ của ả thân mật như vậy, rất có khả năng ả muốn lừa chàng lưu lại đây, sau đó sẽ cùng người kia liên thủ dồn chàng vào chỗ chết.

    Tuy chàng không có thâm thù đại hận gì với ả, thậm chí còn có ơn, song, hạng yêu nhân này hành sự bất chấp đạo lý, có thể chỉ vì chàng đã từng nhìn thấy Thái Bình ngọc bội mà ả cũng sẵn sàng lấy mạng hắn.

    Yến Phi hừ một tiếng, quay ngoắt đầu theo đường đi ra.

    Điều đó thực vượt ra ngoài dự liệu của An Ngọc Tình, ả chạy ra khỏi nhà đuổi theo, áp sát vào lưng chàng hờn trách: "Ôi cái anh chàng này! Đang yên đang lành thì nổi đóa lên. Thôi nào! Coi như Ngọc Tình sai, nhưng người ta chỉ là muốn cầu sinh mà thôi! Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ, hai cái gã ấy chẳng ôn văn nho nhã, từ bi bồ tát như ngươi gì cả, lúc nào cũng bộ dạng hung hăng như muốn xé xác người ta ra. Ngươi xem đó! Cuối cùng các người cũng có làm sao đâu?".

    Lúc này Yến Phi đã đi đến giữa trấn, vụt đứng lại, không ngoảnh đầu, thở dài: "Cô và ta không phải địch nhân, tất nhiên càng không phải bằng hữu, cô muốn làm cái trò bí mật gì ta cũng mặc xác, nhưng đừng có lôi kéo ta. Hiện tại cô đi đường cô, ta đi đường ta. Nếu cô không biết điều, để người khác phải động đao động kiếm, đều không có lợi cho cả cô và ta".

    An Ngọc Tình vòng lên trước mặt chàng, làm ra bộ kinh ngạc, ngắm nghía chàng với vẻ yêu kiều, kế đó cười khúc khích nói: "Ngươi nổi giận trông thật đẹp trai". Yến Phi mỉm cười: "Nếu cô còn chặn đường, chớ trách kẻ thô lỗ này không biết tiếc ngọc thương hương".

    An Ngọc Tình tỏ vẻ tủi thân: "Ta chỉ sợ ngươi gặp bọn Thái Ất yêu đạo giết người không chớp mắt. Với cái tính cục cằn của ngươi, không chừng sẽ thiệt to đấy!". Yến Phi ngạc nhiên vô cùng, lẽ nào đồng bọn mà ả gọi tới, hoàn toàn không phải để đối phó với chàng, mà là bọn Thái Ất Giáo ả đang nhắc tới đây.

    Trên con đường nhỏ chạy qua khu rừng rậm mạn ngoài phía nam trấn, có tiếng người vọng đến, chứng thực ả biết đích xác có người từ hướng đó đi đến gần, chỉ cần người đến đó đi ra khỏi khu rừng rậm, là có thể lập tức phát hiện ra họ. Chàng đồng thời nghĩ đến tác dụng của việc phóng lửa xanh vừa rồi là không muốn ánh xanh bùng lên, chỉ giới hạn cho người trong trấn trông thấy.

    An Ngọc Tình nói: "Mau theo ta!". Tà áo lất phất lướt đi về phía mé trái căn nhà.

    Yến Phi thầm nghĩ, chỉ có kẻ ngốc mới theo ngươi đi, bèn lao bổ về một căn nhà nằm ở lề bên kia con đường, chàng xuyên qua cửa sổ vào. Vừa di chuyển đến bên cửa sổ, tiếng gió đã nổi lên. An Ngọc Tình xinh đẹp đã nhảy vào theo qua khuôn cửa sổ nát, đến cạnh bên kia của cửa sổ, nói gấp và khẽ: "Coi như ta van xin ngươi được không? Lát nữa bất kể xảy ra việc gì, nhất thiết đừng lộ diện, tất cả kệ người ta đến ứng phó. Nếu không đến ta cũng không bảo vệ được ngươi đâu".

    Yến Phi nghe mà chẳng hiểu gì, có điều ả tỏ vẻ khẩn thiết chưa từng thấy. Nhưng do ấn tượng trước đây, chàng lại cảm thấy, đây có thể chỉ là một cái bẫy khác mà ả giăng ra, nhưng bất giác lại nghĩ, ả hoàn toàn không biết chàng có thể đến Ninh Gia Trấn, không thể có chuyện rắp tâm mưu mô hãm hại chàng. Yến Phi nghĩ ngợi một hồi, cảm thấy rối rắm.

    Đúng lúc ấy, từ xa xa phía bắc trấn vẳng lại tiếng vó ngựa và bánh xe nghiến xuống mặt đường.

    ° ° °

    "Sạt! Sạt! Sạt!".

    Lưu Dụ mở cửa phòng. Gã đang chuẩn bị lên giường ngủ, chợt nghe thấy tiếng gõ cửa bèn ra mở. "Bạn cũ" Cao Ngạn đứng bên ngoài, sau lưng là bốn tên vệ sĩ Bắc Phủ Binh lúc trước đã đưa gã tới đây.

    Cao Ngạn cười ha hả: "Cung hỉ! Cung hỉ! Lưu Phó tướng Lưu đại nhân". Lưu Dụ được y xưng tụng đỏ cả mặt, mời Cao Ngạn vào phòng. Bốn tên vệ sĩ khép cửa lại sau lưng họ.

    Hai người đến một góc ngồi xuống, Cao Ngạn lộ vẻ cảm kích: "Thứ sử đại nhân quả thực là người tình nghĩa, đi tìm tôi, đích thân cảm ơn tôi, kể với tôi rằng không những huynh đã quay về, mà còn thăng quan phát tài. Ha! Rốt cuộc huynh đã làm được bao nhiêu việc, có phải gặp tên tiểu tử Yến Phi đó rồi không. Nếu không vì sao huynh vừa mới đến, Thứ sử đại nhân đã biết Yến Phi không thể tới phó ước, nhưng Thứ sử đại nhân vẫn vui vẻ hòa nhã lắm, lại còn tặng vàng coi như thù lao. Ha! Thiên hạ lại có việc tiện nghi như vậy".

    Nghe giọng điệu quen thuộc và tốc độ nói như pháo liên châu của y, Lưu Dụ cảm thấy ấm lòng, chẳng biết có phải vì kết giao với Yến Phi, yêu người yêu cả lối đi, trước đây gã đối với Cao Ngạn chỉ có cảm giác lợi dụng lẫn nhau. Nghe vậy mỉm cười: "Tốt nhất là huynh đừng moi móc nguồn cơn cội rễ nữa, nếu không e rằng không ra khỏi Hiệp Thạch thành được đâu. Ai phê chuẩn cho huynh đến thăm tôi thế?".

    Cao Ngạn thè lưỡi: "Làm gì bí mật vậy? Thứ sự đại nhân đích thân phê chuẩn đó, tôi không dám hỏi thẳng ông ấy, đành đến hỏi huynh".

    Lưu Dụ lấy làm lạ: "Huynh quan tâm đến Yến Phi hả?".

    Cao Ngạn thở dài: "Ở Biên Hoang Tập, người mắng chửi tôi nhiều nhất là Bàng Nghĩa, người không thèm đếm xỉa đến tôi nhất là Yến Phi. Hồi ở Tập thì vẫn không cảm thấy gì, nhưng rời khỏi đó rồi, mới nhận ra hai người này là những người bạn đúng nghĩa nhất đối với tôi. Phải rồi! Yến Phi chưa bị Khất Phục Quốc Nhân làm thịt chứ?".

    Lưu Dụ vui vẻ bảo: "Y còn sống khỏe hơn Khất Phục Quốc Nhân ấy chứ, đừng lo lắng cho y. Ờ! Lưu Dụ tôi cũng rất ít khi chú ý đến người khác, nhưng Yến Phi lại là một ngoại lệ, y có một thứ khí chất khiến người khác khó quên, quả thực là một anh hùng hảo hán".

    Rồi gã hỏi: "Hiện nay gia đình nhà cửa huynh sung túc thế, đã định đi đâu ăn chơi phè phỡn chưa?".

    Cao Ngạn lập tức nhướng mày: "Không phải là phè phỡn, mà là hưởng thụ cuộc sống. Kiếm bạc là để tiêu, kiếm càng vất vả, tiêu càng thống khoái. Đêm nay rời Hiệp Thạch, tôi đi Kiến Khang, văn kiện do đích thân Thứ sử đại nhân ký duyệt đây rồi, có thể đường hoàng đến Kiến Khang vui chơi. Tôi đã nghe kể chuyện trăng gió Tần Hoài lâu lắm rồi nhưng chưa nếm trải tư vị của nó bao giờ, nếu huynh có thể đi cùng tôi thì tôi sẽ bao tất cả mọi chi phí, như ôn lại những ngày vui vẻ khi chúng ta dạo khắp thanh lâu Biên Hoang".

    Lưu Dụ nhăn mặt: "Tôi hiện tại chỉ muốn ngủ một giấc thật đẫy, dường như huynh không ý thức được là chúng ta đang đánh trận?".

    Cao Ngạn cười hì hì: "Chính vì biết là đang chiến tranh, và chiến thắng của chúng ta thật mỏng manh, nên lúc nào vui vẻ được là phải vui vẻ. Tôi cứ đóng chốt ở thanh lâu làm giấc mộng thanh thu con mẹ nó cho xong, tỉnh mộng rồi hẵng tính tiếp".

    Lưu Dụ cảm thấy, gã và Cao Ngạn là hai loại người khác nhau hoàn toàn, nhưng gã còn thấy rằng, so với những kẻ luôn mồm rao giảng nhân nghĩa đạo đức, thì ít nhất Cao Ngạn còn chân thành một cách đáng yêu.

    Cao Ngạn đứng dậy: "Huynh nghỉ đi, nếu đánh thắng, hãy đến Kiến Khang tìm tôi. Chắc tôi không quay về Biên Hoang Tập nữa đâu, sẽ mãi lăn lộn trong hương khuê của Tần Hoài đệ nhất danh kỹ Thiên Thiên tiểu thư, sống cuộc đời mà thần tiên cũng phải thèm muốn".

    Lưu Dụ đứng dậy tiễn, phì cười bảo: "Tên tiểu tử này, cứ tưởng có mấy đồng xu kẽm là khiến Kỷ Thiên Thiên rung động hay sao, chẳng biết đã có bao nhiêu danh sĩ cao môn, thương lữ hào phú dốc hết bản lĩnh mong được trông thấy mặt nàng một lần đấy".

    Cao Ngạn nói vẻ đầy tự tin: "Cứ đợi mà xem! Nhớ đến tìm tôi nhé!". Lưu Dụ ôm vai y, mở cửa cho, cười bảo: "Mong đến lúc ấy, vẫn nhận ra cái gói da bọc xương vì tửu sắc quá độ của ngươi".

    Cao Ngạn cười ngất, bỏ đi.

    ° ° °

    Ba tên đạo nhân Thái Ất Giáo mình vận đạo bào màu vàng xuất hiện trên con đường bên ngoài căn nhà nơi Yến Phi và An Ngọc Tình đang ẩn nấp. Chúng đứng dàn hàng, chắn ngang lối đi, bộ dạng ung dung nhàn nhã, giữ vẻ khoan thai của cao thủ, ánh mắt dõi về đầu kia con đường của tiểu trấn, tựa hồ rất rõ có ai đang đợi mình.

    Người đứng giữa thân hình cao ngẳng, hai người hai bên lùn hơn, đều đeo trường kiếm, dáng điệu hạc cốt tiên phong, người nào cũng để râu năm chòm, nhưng ánh mắt thì tà ác quỷ dị, khiến người ta có cảm giác đó là những kẻ không đường hoàng.

    Yến Phi không để tâm đến bọn chúng lắm, vì An Ngọc Tình đã sớm biết chúng sẽ ở đây chặn đường những người từ phía bắc xuống, nên đã nhanh tay phóng lửa xanh báo hiệu cho đối phương.

    Đây rõ ràng là một cái bẫy.

    Chỉ có điều một An Ngọc Tình đã không dễ xử, huống hồ mấy tên mới đến này còn chưa biết là cao thủ phương nào. Điều khó hiểu là vì sao An Ngọc Tình lại khẩn khoản bảo chàng đừng nhúng mũi vào việc không phải của mình? Còn nói cái gì mà nếu chàng bất cẩn lộ diện, đến ả cũng không bảo vệ chàng được.

    Rốt cục là chuyện gì ấy nhỉ?

    Theo lý mà nói, nếu ả là con gái của Đan Vương An Thế Thanh, thì chỉ có An Thế Thanh mới buộc ả phải nghe lời. Trừ phi ả không phải con gái của An Thế Thanh, mà là mạo xưng.

    Mãi cho đến lúc này, chàng mới bắt đầu hoài nghi thân phận thật sự của An Ngọc Tình, đều vì hành vi của ả ngụy bí khó đoán, như thuộc về một bang hội nào đó hơn là con gái của một ẩn sĩ độc lai độc vãng.

    Bất giác chàng nhìn sang ả, đôi mắt An Ngọc Tình lấp lóe sáng đang quan sát ba đạo nhân Thái Ất Giáo bên ngoài, nét mặt nhìn nghiêng rất đẹp, trông ngây thơ, không gợn chút ma giáo nào.

    Tiếng vó ngựa và tiếng bánh xe từ từ lại gần, ở phía bắc con đường vào trấn xuất hiện hai dãy đuốc, tạo nên hai dòng sáng chiếu rực cả con đường. Yến Phi di chuyển về phía cửa sổ quay ra hướng bắc, trông thấy dẫn đầu là hai thanh niên vận y phục võ sĩ, một tay khiển ngựa, một tay cầm đuốc, tiến vào tiểu trấn.

    Đằng sau họ là tám người trẻ tuổi vận võ phục, sau đó là hai tên tì nữ võ trang đầy đủ và một cỗ xe tứ mã hoa lệ hoàn toàn không ăn nhập gì với vùng hoang trấn sơn dã này, người đánh xe là một đại hán trọc đầu dữ dằn, sau xe còn có tám võ sĩ nữa.

    Quan sát một hồi, Yến phi hầu như khẳng định đây là đội ngũ xuất hành của một nhà giàu nào đó, nhưng lại ngấm ngầm hiểu rằng sự việc không đơn giản như sự phô bày bề ngoài. Ít nhất có thể họ là người cùng phe với An Ngọc Tình, và ở lập trường đối địch với ba đạo nhân Thái Ất trên con đường ngoài kia.

    An Ngọc Tình đến bên chàng, khẽ bảo: "Ba tên bên ngoài là Tam đại Hộ pháp, cao thủ nhất lưu trong Thái Ất Giáo, võ công cao cường lắm đấy".

    Yến Phi nhìn đội ngựa xe đang từ từ đi đến gần, hỏi: "Bọn kia là ai?". An Ngọc Tình trách khẽ: "Đừng hỏi được không? Lẽ ra ta phải giết phứt ngươi đi mới phải".

    Yến Phi nghe giọng ả không có chút khác lạ nào, điềm tĩnh hỏi: "Cô không phải là con gái của An Thế Thanh, đúng không?".

    Mắt An Ngọc Tình lóe sát cơ, nhưng không nói gì.

    Bên ngoài có tiếng nói vẳng vào: "Vinh Trí, Vinh Định, Vinh Tuệ, hộ pháp của Thái Ất Giáo cung kính đợi ở đây đã lâu, xin vấn an phu nhân".

    Yến Phi và An Ngọc Tình đã di chuyển lại cửa sổ cũ, nhìn ra người vừa cao giọng nói chính là một đạo nhân Thái Ất.

    Dáng điệu họ như đã nắm chắc đối phương trong tay.

    Đoàn xe ngựa từ từ dừng lại cách họ bốn trượng, giọng đàn bà ngọt ngào mê hoặc khiến người ta thần hồn điên đảo từ trong xe vẳng ra: "Ba vị đạo trưởng! Các ông lao sư động chúng đến đây, nô gia chỉ có một thân một mình làm sao ứng phó được, làm sao mà nuốt trôi được đây? Giang giáo chủ không đến ư? Phải chăng chê nô gia chẳng bõ bẩn mắt?".

    Ả nói câu nào cũng đa nghĩa, khiến bọn giáo chúng liên tưởng đến chuyện nam nữ phòng the, đậm mùi dâm dật.

    Đạo nhân lùn bên cạnh Vinh Trí cười khẩy: "Mạn Diệu Mị Tâm thuật của Mạn Diệu phu nhân là công phu tác dụng đệ nhất trên giường, làm gì có chuyện không ứng phó nổi? Hãy ngoan ngoãn đi theo chúng ta!".

    Giọng Mạn Diệu phu nhân lại vẳng ra: "Ôi chà! Vinh Định đạo huynh vẫn chưa thử qua công phu của nô gia, làm sao mà rõ được bản lĩnh của nô gia? Những lời đồn thổi đều khoa trương cả. À! Nô gia suýt nữa quên thỉnh giáo các vị, làm sao biết đêm nay nô gia đi qua lối này vậy?".

    Một đạo nhân khác, Vinh Tuệ, hét bảo: "Đừng rườm lời nữa, đêm nay phu nhân không may mắn thoát được đâu. Ngoài phu nhân ra, những người khác cút hết về Tiêu Dao Giáo cho ta, bảo với Nhậm Dao rằng, nếu muốn đòi người, hãy tới tổng đàn của chúng ta".

    Yến Phi nghe vậy, không kềm được liếc sang An Ngọc Tình, thầm nhủ lẽ nào ả cũng là yêu nữ của Tiêu Dao Giáo. Chuyện này quả thực rất có khả năng, Tiêu Dao Giáo là một trong tam bang tứ giáo, chỉ có đại bang đại giáo như thế mới có thể bồi dưỡng được nhân vật lợi hại tà dị như An Ngọc Tình. Chàng bất giác hối hận, chàng và Lựu Dụ lại đem bức thủy mặc đồ hình trên ngọc bội giao cho ả, hậu quả thực khó lường.

    An Ngọc Tình giả như không biết Yến Phi đang nhìn mình, vẫn giữ vẻ tự nhiên, khiến người ta không hiểu nổi ả đang nghĩ gì?

    Tiêu Dao Giáo rõ ràng là đang ở thế nước – lửa với Thái Ất Giáo, vì vậy ba tên Hộ pháp của Thái Ất mới chặn đường cướp người. Không hiểu Mạn Diệu phu nhân của Tiêu Dao Giáo vì cớ gì phải vượt đường dài từ bắc xuống nam qua Biên Hoang Tập này mà lại để lộ hành tung.

    Yến Phi giật mình bỗng đoán ra. Mạn Diệu phu nhân đi chuyến này là đã thông qua một kênh nào đó tiết lộ cho Thái Ất Giáo biết, để dẫn dụ người của Thái Ất Giáo đến, mục đích không chừng chính là Giang Lăng Hư – giáo chủ Thái Ất Giáo. Chỉ không ngờ Giang Lăng Hư lại phái ba hộ pháp đi. Nếu ba người này có mệnh hệ gì, nhất định sẽ là một đòn đả kích rất lớn đối với Thái Ất Giáo.

    Tiêu Dao Giáo là một giáo phái tà ác thần bí vô cùng trên giang hồ, sào huyệt của chúng ở đâu? Trong giáo có những ai? Giang hồ đều không biết. Chắc Thái Ất Giáo cũng chẳng biết được nhiều nhặn gì hơn những người khác, vì vậy nắm được tuyến đường xuống nam của Mạn Diệu phu nhân, bèn phái cao thủ đi chặn đường cướp người, để ép Tiêu Dao Giáo chủ phải xuất đầu lộ diện.

    Đến lúc này, cuối cùng chàng đã dựa vào trí lực của mình để xâu chuỗi toàn bộ sự kiện.

    Giọng Mạn Diệu phu nhân vang lên: "Các ngươi không nghe thấy ư? Ba vị đạo huynh bảo các người cút đi!".

    Yến Phi còn tưởng ả nói móc, nào ngờ đám võ sĩ và tì nữ nghe vậy đều đồng thanh vâng mệnh, quay ngựa bỏ đi, ngay cả tên đại hán đánh xe trông uy võ ngời ngời cũng tung mình lên đáp xuống lưng ngựa của một tên võ sĩ, rồi mau chóng đi xa dần, chạy sạch không còn một mống.

    Không chỉ Yến Phi hoang mang, mà cả ba đạo nhân cũng ngó nhau, lộ vẻ kinh ngạc.

    Mạn Diệu phu nhân vẫn ẩn mình trong cỗ xe hoa lệ, sau lớp rèm che, thở dài êm ái, từ tốn nói đầy vẻ dụ hoặc: "Đường xa tịch mịch, còn không mau lên xe xoa dịu nô gia, nô gia đã chờ đến sốt ruột sốt gan rồi!".

    Ba đạo nhân mắt rực hung quang, nhìn chằm chằm vào cỗ xe ngựa trơ trọi nằm ở đầu đường, chuẩn bị xuất thủ.

    Họ đều là những tay lão luyện giang hồ, đương nhiên hiểu sự tình không đơn giản như bề ngoài.

    Yến Phi đang ngầm quan sát từ trong nhà, cũng thở dài, biết ba đạo nhân chẳng may mắn gì rồi. Chàng đang suy nghĩa, bỗng thấy nơi hông kêu keng một tiếng. Ánh mắt ba đạo nhân bên ngoài lập tức đổ về phía chàng.


  7. #26
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 26

    Tiêu Dao Đại Đế
    Chỉ trong khoảnh khắc, khi tiếng động còn chưa tan, Yến Phi đã hiểu ra. An Ngọc Tình lén tấn công chàng, nhưng chỉ đánh trúng vào con dao thái rau của Bàng Nghĩa mà chàng vẫn giắt trong lớp áo bên thắt lưng, nhờ đó chàng mới tránh được kiếp nạn này.

    Sự thực, chàng đã ngấm ngầm đề phòng ả mọi đường mọi nẻo, một là vừa rồi sự chú ý bị thu hút vào diễn tiến kỳ cục xảy ra bên ngoài, hai là vì ả đứng ngang bằng với chàng, khiến chàng chỉ đề phòng sự tấn công trực diện, nào ngờ ả lại dùng thủ đoạn xảo quyệt đánh vòng ra sau lưng chàng.

    Yến Phi đồng thời liếc mắt sang ả, chỉ thấy một sợi dây nhỏ mảnh, hệt như độc xà về hang đang rút dần vào trong ống tay áo rũ thấp của ả, ở mút cuối còn nối với một cái dùi nhọn nhỏ, nhoáng một cái không thấy đâu nữa.

    "Có mai phục! Rút mau!".

    Vinh Trí đạo nhân bên ngoài thét to, ba đạo sĩ bèn đồng thời rút lui rất nhanh.

    Yến Phi chưa quyết định được nên đối phó với ả đàn bà hèn hạ này thế nào, bỗng nhận ra huyết sắc trên mặt ả bợt dần, không những không có ý tàn độc là đuổi đánh đến tận cùng, mà còn giống như là hoàn toàn không phòng bị chàng sẽ phản kích ả với sự giận dữ tột cùng. Đôi môi thơm mấp máy, chực nói lại thôi.

    Đứng ở góc độ của chàng không nhận ra có phải là vị trí cỗ xe ngựa hoa lệ không, lúc này bỗng có tiếng kèn kẹt chói tai, khiến người ta chẳng hiểu ngô khoai gì cả, liền đó là tiếng gọi của Vinh Trí: "Nhậm Dao!".

    Tiếng gió rít vang lên, trong khoảnh khắc từ bên cạnh cỗ xe vẳng đến khoảng không bên ngoài cửa sổ của Yến Phi, chỉ thấy một quý công tử anh tuấn vẻ ngoài chưa quá ba mươi, ăn vận rất giống vương hầu quý tộc, phục sức hoa lệ đến mức kỳ dị lướt tới, nhanh như quỷ mị, lao bổ theo hướng ba đạo sĩ vừa rút đi.

    Khi Tiêu Dao Giáo chủ Nhậm Dao lướt qua, y còn tranh thủ thời gian liếc về phía Yến Phi một cái, đôi mắt lóe rực dị quang.

    Yến Phi lập tức có cảm giác tất cả những chướng ngại vật như bóng tối hay tường vách đều không mảy may gây cản trở gì đối với con người này, y có thể nhìn thấu suốt

    hết. Tuy chàng cũng biết rằng điều đó thực sự là không thể, nhưng ánh mắt sắc sảo đáng sợ của đối phương như chứng thực cho năng lực ấy.

    Từ ngày xuất đạo đến nay, tất cả những cao thủ chàng từng gặp không ai sánh kịp tên quái nhân mặt quỷ đã tập kích chàng trong khu rừng rậm gần Nhữ Âm, đến nay lại thêm tên này, tuy chưa từng chính diện giao phong với y, nhưng đã đủ để phán đoán rồi. Yến Phi tu dưỡng cao thâm là thế, cũng bất giác thấy lạnh người.

    Nhậm Dao chỉ nháy mắt đã tới nơi, liền đó trong những tiếng va chạm và kình khí, tiếng kêu kinh hãi của ba đạo nhân và tiếng rít của đao kiếm chém xuống, mau chóng bùng lên kịch liệt.

    An Ngọc Tình thét khẽ vào tai chàng, vẻ lo lắng: "Đi mau!".

    Yến Phi nhìn ả, ả đàn bà đẹp đang cắn chặt môi dưới, đôi mắt ánh lên những tia hoảng loạn.

    Yến Phi là hạng người rất đặc biệt, luôn có cảm giác cực kỳ linh mẫn về người khác, tuy hoàn toàn mù tịt về hành vi trước sau bất nhất của An Ngọc Tình, song chàng cảm thấy rất rõ ràng, lúc này ả không những không có chút địch ý nào với chàng mà thậm chí còn quá cả thiện ý, mong muốn chàng tránh xa được nơi nguy hiểm này. Chàng cũng biết rõ ở lại đây không có kết quả gì tốt đẹp, trong xe ít nhất còn có một Mạn Diệu phu nhân cao thâm mạc trắc.

    "Ôi chà!".

    Tiếng kêu thảm từ chỗ bốn người ác đấu vẳng đến, Yến Phi nhận ra đó là giọng Vinh Định, rõ ràng là tiếng kêu lúc hấp hối.

    Lúc này mà không đi thì còn đợi lúc nào.

    Yến Phi liếc An Ngọc Tình, thi triển thân pháp, xuyên cửa sau chạy thật nhanh đi.

    Yến Phi vừa lướt vào khu rừng rậm phía tây trấn, thì đến lượt tiếng kêu thảm thiết của Vinh Huệ vang lên.

    Trong ba đạo sĩ, công lực của Vinh Trí là cao nhất, mà vẫn khó khăn chống đỡ, đấu kiếm với Nhậm Dao không ngơi tay, nhưng xem chừng không chịu đựng được bao lâu nữa, võ công của Nhậm Dao quả thực là đáng sợ.

    Yến Phi không bỏ đi ngay. Lướt đi chừng một trăm bộ trong rừng, chàng lại ngầm quay trở về hoang trấn, lén chui vào một căn nhà cũ nát dựa vào mặt tây trấn, ẩn trong bóng đêm, lặng lẽ ngồi thu lu vào một góc giữa hai bức tường đổ, cách cỗ xe chỉ một căn nhà nát.

    Ngọn lửa xanh bùng lên khoảng không, rồi ngay lập tức bớt chói mắt, trở về dìu dịu, trời đêm khôi phục lại vẻ tối tăm lúc trước.

    Đầu đằng kia không còn nghe thấy tiếng đả đấu nữa, Vinh Chí có lẽ lành ít dữ nhiều rồi.

    Tiếng vó ngựa từ xa đến gần, chắc là bọn giáo đồ Tiêu Dao Giáo hộ tống cỗ xe đã lộn trở lại.

    Giọng Mạn Diệu phu nhân vẳng tới: "Đế Quân đại triển thần oai, đè bẹp sự kiêu căng ngạo mạn của bọn Thái Ất Giáo, xem Giang Lăng Hư còn dám thọc tay vào việc của chúng ta nữa thôi".

    Một giọng đàn ông rất rõ ràng và dễ nghe bật cười: "Giang Lăng Hư nào phải dạng dễ buông tay thế, nhất định sẽ có một ngày ta sẽ khiến y sống không được, chết cũng chẳng xong. Vinh Trí thực cũng có chút bản lĩnh, trúng một kiếm của ta mà vẫn có thể dùng Thái Ất chân khí kích phát tiềm lực bỏ chạy, nhưng y chạy đến hơn mười dặm là đã khá lắm rồi".

    Người đàn ông đó, chẳng cần phải nói cũng biết là Nhậm Dao, nghe y nhắc đến chuyện sống chết của người khác bằng cái giọng nhẹ hẫng coi thường như thế, đủ biết người này bẩm tính tàn khốc, tà ác cùng cực.

    Tiếng móng ngựa dừng lại sau cỗ xe, tiếp đó là tiếng đám giáo chúng xuống ngựa quỳ lạy, đồng thanh hô to: "Đế Quân vạn tuế".

    Tiếng lướt bay từ một nơi khác áp tới gần.

    Nhậm Dao thong thả hỏi: "Thanh Đề! Vừa rồi có chuyện gì vậy?".

    Giọng của "An Ngọc Tình" vang lên nũng nịu: "Đại ca! Chuyện vừa rồi đừng nhắc đến nữa! Chẳng hiểu sao, cái tên Yến Phi đó đột nhiên xông vào đây, muội đành giấu hắn vào trong nhà, tránh làm ba tên tặc đạo đó giật mình bỏ chạy, nào ngờ, khi muội lấy tỏa tiền ám toán hắn, chẳng biết sau lưng hắn mọc cái gì mà không thể đả thương hắn được, sau đó hắn dùng kiếm khí khắc chế, chỉ có thể trợn mắt nhìn hắn thoát, tức chết được!".

    Yến Phi đương nhiên hiểu, lời ả nửa giả nửa thật, tuy không nghĩ ra vì sao thoạt tiên ả ám toán mình mà về sau lại thả mình đi, nhưng nghe giọng điệu đầy vẻ ngây thơ ấy, chàng hoàn toàn không cảm thấy có chút nào gian trá ẩn bên trong, Nhậm Dao thì càng khỏi phải nói.

    Nhậm Dao hừ mũi: "Lại Yến Phi. Trước khi ta lấy được ‘Thái Bình Động Cực Kinh’, quyết không thể dung cho Yến Phi và Lưu Dụ sống, bằng không để chúng tiết lộ bí mật

    về Thiên Bội cho cha con An Thế Thanh, mà cha con nhà này đã nghe phong phanh ẩn tình về Thiên Tâm, nếu chúng tham phá được các bài kệ của Thiên Tâm, thì sẽ nhanh chân hơn chúng ta".

    Yến Phi giật mình sực hiểu, chả trách Thái Bình ngọc bội ghép lại hoàn toàn không chỉ ra địa điểm cất giấu chân kinh, vì còn thiếu một tấm Thiên Tâm Bội với mặt khắc các bài kệ. Ba tấm hợp lại mới thành tấm Thiên Bội hoàn chỉnh. Mật kệ nhất định là rất ảo diệu khó hiểu, vì vậy tuy không biết làm thế nào đang từ tay An Thế Thanh lại rơi sang tay Nhậm Dao, Nhậm Dao vẫn chưa phá giải được, cũng khiến chàng và Lưu Dụ nguy hiểm đến tính mệnh.

    Nhất định phải nghĩ cách báo cho Lưu Dụ, để gã chuẩn bị đề phòng.

    Hôm đó, chàng đã nói với "An Ngọc Tình" – mà chính ra phải là Nhậm Thanh Đề

    - rằng ngọc bội không hề chỉ ra địa điểm cất giấu chân kinh, khiến Nhậm Thanh Đề tin tưởng chàng, cũng bởi sự thật đúng là như vậy.

    "Thái Bình Động Cực Kinh" rốt cục chứa đựng những bí mật kinh thiên động địa gì mà khiến phường tà giáo hùng bá một phương này phải dấy lên tranh đoạt?

    Nhậm Thanh Đề nói: "Đại ca đừng phải phí sức vì hai kẻ đó. Thanh Đề đã ép chúng phải thề độc, chắc chúng không dám vi phạm lời thề đâu, chúng không phải hạng người đó".

    Nhậm Dao cười ha hả: "Thanh Đề động tâm trước bọn chúng rồi phải không? Người muốn làm đại sự há được để trái tim mềm yếu, càng không được phép chùn tay. Nhậm Dao ta ngày nay được đứng đây nói năng với ngôi vị giáo chủ, đều vì ta đã kiên trì nguyên tắc ‘theo ta thì sống, chống ta thì chết’. Chỉ có người chết mới thật sự giữ được bí mật. Lưu Dụ thì giao cho Thanh Đề phụ trách, Yến Phi cứ để đấy, ta sẽ ép hắn đến chỗ chết. Mạn Diệu cô tiếp tục hành trình, chuyến đi này can hệ đến sự phát triển của tương lai giáo phái chúng ta, nhất định phải phối hợp chặt chẽ với Tả Thị thần, bởi vì chỉ có y mới hiểu rõ tình hình thực sự của vương thất nhà Đông Tấn".

    Yến Phi đang núp nghe trộm thầm kêu xui rủi, lần này quả thực là bới bèo ra bọ, gây nên những phiền phức không cần thiết tí nào.

    Nhậm Thanh Đề có lẽ muốn bảo vệ chàng và Lưu Dụ, nhưng chàng không để tâm đến ý tốt của ả, loại yêu nữ ma giáo như thế, hành sự đa đoan khó lường, nếu tin ả không hại mình, thực không biết khi nào sẽ bị hố. Cũng may mình lo cho sự an nguy của Bàng Nghĩa, không bỏ đi ngay, mới nghe được cuộc đối thoại này.

    Tiếng bánh xe lăn vang lên, tiếng xe tiếng ngựa đi xa dần.

    ° ° °

    Thác Bạt Khuê vào vùng sông băng của Tứ Thủy, bơi sang bờ bên kia, giống như từ một thế giới này đi sang một thế giới khác.

    Bộ binh, lương thảo và vật tư của Đê Tần vẫn ào ạt đổ vào Biên Hoang Tập bằng hai đường thủy bộ, trước khi đến Tứ Thủy, hắn đã gặp rất nhiều.

    Binh cốt tinh không cốt nhiều, Phù Kiên huy động tất cả binh lực có thể huy động được ở phương bắc cho chuyến Nam chinh, chỉ cho thấy y tuy có tài trị quốc, nhưng về mặt quân sự thì còn thiếu sự cao minh. Trăm vạn đại quân thì ô hợp, chẳng khác nào một con quái vật nhưng phù nề, đi bước nào chật vật bước ấy. Là bậc trí giả, Thác Bạt Khuê chẳng bao giờ phạm những lỗi lầm chí mạng như vậy.

    Lúc này, hơn bất kỳ lúc nào khác, hắn khẳng định Phù Kiên nhất định thua trận, vì đối thủ của y là Tạ Huyền, chỉ cần nhìn Tạ Huyền phái Lưu Dụ đi xách động Chu Tự làm phản, đủ biết Tạ Huyền đã nắm chắc nhược điểm của Phù Kiên.

    Việc hắn làm được đã hoàn thành, Phù Kiên dẫn quân xuống nam là cơ hội tốt ngàn năm có một để điều khiển binh lực phương bắc quay trở lại thảo nguyên, liên kết với các bộ tộc để phục hưng Đại quốc.

    Con đường phục quốc dài dằng dặc mà gian khổ. Trong các bộ tộc cũ của Đại quốc, bộ tộc ủng hộ hắn mạnh mẽ nhất là Hạ Lan – bộ tộc của họ Hạ nhà mẹ hắn – do cữu cữu Hạ Nạp lãnh đạo. So cho dù Hạ Nạp dốc sức giúp hắn, thì vẫn còn các láng giềng hùng mạnh, các đối thủ đáng gờm vây quanh.

    Căn cứ địa Ngưu Xuyên của hắn nằm gần sông Tích La Lâm Mộc, hiện do mẹ hắn thay hắn quán xuyến việc trong gia tộc.

    Mặt nam Ngưu Xuyên có bộ lạc Độc Hồ, tù trưởng Lưu Hiển là con trai Lưu Khố Nhân, năm xưa Lưu Khố Nhân đã từng trượng nghĩa thu lưu hắn, về sau bị Mộ Dung Văn giết, Lưu Hiển tự lập làm tù trưởng, lập tức mật mưu giết hại hắn, cũng may hắn kịp thời dẫn người trong tộc chạy đến Ngưu Xuyên dựa vào Hạ Nạp. Hiềm khích giữa hắn và Lưu Hiển càng ngày càng sâu, không có cách nào hòa giải.

    Một trở ngại khác cho việc phục quốc là thúc phụ Quật Đốt. Tuy Thác Bạt Khuê giành được ngôi vị chính thống, song Quật Đốt dã tâm trùng trùng luôn tìm cách soán đoạt vị trí của hắn, nung nấu mong muốn trở về ngồi lên bảo tọa quân chủ của Đại quốc, nên tìm mọi cách cản trở ngáng đường cháu trai. Ngoài ra, trong bộ tộc Hạ Lan của Hạ

    Nạp còn một cánh quân khác do Hạ Nhiễm chỉ huy vẫn luôn tỏ thái độ phản đối hắn. Cái đáng nói là bất kể thực lực của bên nào trong mấy bên ấy, hiện tại đều mạnh hơn Thác Bạt Khuê nhiều, đủ thấy con đường phục quốc gian nan biết chừng nào.

    Chưa hết, còn các bộ lạc khác, nếu hắn phục quốc thành công ở Ngưu Xuyên, thì phương nam sẽ có bộ lạc Độc Hồ, phương bắc có bộ tộc Hạ Lan, phía đông có Khố Xa Khê, phía tây một dải Hoàng Hà có Thiết Phất bang của tộc Hung Nô, ở Âm Sơn lại có bộ tộc Nhu Nhiên và Cao Xa. Trong đó, tù trưởng bộ lạc Thiết Phất của Hung Nô là Hách Liên Bột Bột là bá chủ thảo nguyên mới quật khởi lên gần đây, tâm địa tàn nhẫn thủ đoạn tàn độc, võ công cao cường, đúng là một kình địch của hắn.

    Tuy hắn đã nghe chính miệng Mộ Dung Thùy hứa, nếu Phù Kiên bại ở phương bắc, sẽ dốc toàn lực để phò tá hắn phục quốc, nhưng hắn hiểu rõ hơn ai hết Mộ Dung Thùy chỉ coi hắn như một quân cờ ở phương bắc. Yến Phi nói đúng, được chim quên ná, được cá quên nơm, một ngày nào đó Mộ Dung Thùy thành công, thao túng đại cục miền bắc, người đầu tiên y giết hẳn sẽ chính là Thác Bạt Khuê.

    Thác Bạt Khuê rời bờ sông, guồng chân đi thật nhanh, liên tục vượt qua mấy quả núi con, đến bên một khu rừng rậm, hú lên lanh lảnh.

    Lâu lắm, tiếng vó ngựa từ trong rừng đưa ra. Các chiến binh của tộc Thác Bạt trăm mưu nghìn kế phi ra khỏi rừng, xếp thành hàng trước mặt Thác Bạt Khuê, lại có thủ hạ dắt ngựa tới, đỡ hắn trèo lên.

    Ngồi trên lưng ngựa, Thác Bạt Khuê bỗng có cảm giác thỏa mãn vì đã không uổng một chuyến đi.

    Các chàng trai trước mặt, từng trải qua nhiều năm tổ chức và rèn luyện, đã trở thành cơ sở cho việc phục quốc của hắn, họ sẵn lòng sát cánh bên hắn, cùng tiến cùng lui, đồng sinh đồng tử, lòng trung thành không thể nghi ngờ.

    Khiển ngựa dừng ở dãy phía trước là ba anh em Trưởng Tôn Tung, Trưởng Tôn Phổ Lạc và Trưởng Tôn Đạo Sinh, là các ái tướng đi theo hắn từ thuở thiếu thời, đều dũng mãnh thiện chiến, dày dạn trận mạc. Ngoài ra còn có Trương Cổn và Hứa Khiêm người Hán, là các trí sĩ hắn quen và kết bạn ở phương bắc, hy vọng họ sẽ như Vương Mãnh phò Phù Kiên, làm quân sư cho hắn, bổ khuyết cho hắn những chỗ thiếu sót.

    Thác Bạt Khuê giục ngựa đi lên trước trận thế của các chiến binh Thác Bạt Tiên Ti, quay mặt nhìn lại, thấy ai nấy sĩ khí dào dạt, mắt sáng long lanh, hùng tâm tràn dâng, hắn cao giọng nói: "Các chàng trai! Trận chiến này Phù Kiên sẽ thất bại, ngày phục quốc của chúng ta cuối cùng đã tới. Ta sẽ lập tức trở về Ngưu Xuyên".

    Mọi người nhất tề rầm rầm dạ ran.

    Thác Bạt Khuê kéo cương, dẫn quân tiến về phía bắc. Hai ngàn tướng sĩ khí thế hừng hực, như gió lốc cuốn qua hoang nguyên, rầm rập tiến theo hắn, trong nháy mắt đã biến vào bóng đêm vô tận của mặt đất bao la.

    ° ° °

    Yến Phi bước lên đường cái, ngoài hai cái xác của Vinh Định và Vinh Hội, cảnh tượng đã trở lại tịch mịch như lúc trước, như thể chưa từng xảy ra chuyện gì.

    Làm thế nào để tìm được Bàng Nghĩa bây giờ?

    Đúng lúc chàng đang đau đầu suy nghĩ, bỗng có một tràng cười vang lên sau lưng.

    Yến Phi nhận ra giọng, từ tốn quay lại, đối mặt với vị giáo chủ hoa lệ anh tuấn, ăn vận như vương hầu, cũng chính là vị cao thủ đáng sợ tự hiệu Tiêu Dao Đế Quân.


  8. #27
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 27

    Ngự long chi quân
    Yến Phi rốt cuộc cũng không thể tránh được tai mắt của người lãnh đạo giáo phái được coi là thần bí nhất Trung thổ, Tiêu Dao Giáo, Tiêu Dao đế quân Nhậm Dao.

    Từ khi dấn bước giang hồ, Yến Phi chưa từng gặp qua người nào có thể nói cho chàng biết Tiêu Dao đế quân bình sanh là hạng người gì, thậm chí y cao thấp gầy béo, niên kỷ bao nhiêu cũng còn không rõ. Hiện tại y đã khơi khơi xuất hiện trước mặt, lại còn bày trò mèo vờn chuột với mình chứ.

    Một thân phục sức của Nhậm Dao, nếu để Tư Mã Diệu nhìn thấy là đủ để khép vào tội chết. Thời Tam quốc, Ngụy Văn đế Tào Phi từng nói: "Trưởng giả đời thứ ba biết dùng y phục, trưởng giả đời thứ năm thì biết ẩm thực". Trung Nguyên luôn luôn được coi là xứ sở của lễ nghi, mũ áo phục sức là những thứ trọng yếu. Hoàng đế và hoàng hậu, phi tần có phẩm phục riêng, màn gấm, vàng ròng bạc tinh là cấm vật đến vương công đại thần cũng không được sử dụng nếu chẳng muốn mắc tội khi quân, ngoài ra các chất liệu như lụa là, trừu đoạn, trang sức trân châu phỉ thúy ngọc bội đeo cài tất cả đều bị hạn chế theo phẩm cấp.

    Đằng này Nhậm Dao mang lễ phục mũ miện mà đến vua chúa cũng chỉ mặc trong những dịp khánh điển hay trong những trường hợp quan trọng, đầu đội Thông Thiên quan, trước sau đều có mười hai tua làm bằng san hô, hình dạng thước tấc to nhỏ đều rất tinh xảo. Mình mặc long bào, quần thêu áo họa, lấy nhật nguyệt, sao Tinh, long, sơn, hoa trùng, rong rêu, lửa, bột phấn, áo lễ làm hình tượng, gồm mười hai chương, làm nổi bật khí thế hoàng gia của y, rạng rỡ vô cùng, hiện giờ lại một mình xuất hiện ở chốn hoang lương này, rõ ràng không ăn nhập chút nào. Y toàn thân trang sức cực kỳ hoa mỹ, nhất là thanh kiếm đeo bên sườn, chế luyện bằng hoàng kim, vỏ kiếm nạm mười hai viên dạ minh bảo châu ẩn hiện thanh quang lấp lóa, bất cứ viên nào bán đi cũng đủ để một gia đình bình thường sống vài năm.

    Nhậm Dao coi bề ngoài không quá tuổi ba mươi, tuổi tác ấy khiến người ta không sao tin nổi vào địa vị giáo chủ của y. Lẽ ra y cũng rất anh tuấn khí phách, tiếc là ngũ quan trên mặt nằm cách nhau hơi quá xa, thêm vào đấy da dẻ trắng trong ẩn hiện màu xanh, cặp mắt nhỏ dài, nhãn thần sắc bén bất cứ lúc nào cũng như muốn soi thấu bí mật nội tâm kẻ khác, để lộ ra bản chất tà ác bên trong, nhưng cũng lại có sức hấp dẫn riêng khó tả.

    Y từ đầu đường lớn tiến về phía Yến Phi, trông như chậm rãi mà thực ra rất mau lẹ, không hề thấy làm động tác vận công, nhưng một luồng kình khí nóng hừng hực nhanh chóng tràn ngập không gian ập đến trùm kín Yến Phi.

    Yến Phi một mặt vận công kháng cự, tâm thần tiến nhập cảnh giới chỉ thủy bất ba 1 của kiếm đạo. Chàng lúc bình thường tuy có vẻ nhàn tản, nhưng mỗi khi gặp tình huống khẩn cấp thì thân thể cùng sự mẫn nhuệ của đầu óc lại tự nhiên cùng thăng lên tới mức chí cao.

    Nhậm Dao tiến tới đứng cách chàng hai trượng, trên mặt xuất hiện nét cười, chợt vòng tay làm lễ, cất giọng nhẹ nhàng: "Đa tạ Yến huynh nể mặt, bổn nhân tuyệt không nỡ một kiếm giết chết ngươi, một đối thủ cao minh như ngươi, há dễ gặp sao?" Thanh âm nhu hòa dễ nghe, tựa hồ ngầm chứa tình ý vô hạn, Yến Phi nghe đến khắp mình nổi da gà, tay cầm chuôi kiếm, mặc nhiên không nói, song mục mở to không chớp nhìn thẳng vào mắt cao thủ được coi là thiên hạ đệ nhất hung nhân.

    Nhậm Dao có vẻ không hề vội vã động thủ, phất tay áo phủi bụi trên người, xong đâu đấy mới đột ngột nói: "Yến huynh đương nhiên là người tâm cao khí ngạo, không thèm để ý đến Nhậm Dao này, vì thế mới đi rồi lại còn quay về tập, đáng tiếc là lúc bổn nhân sai Thanh Vĩ đi xử trí Lưu Dụ, tâm tạng của ngươi đã phiêu động kịch liệt, bổn quân phát hiện là vì vậy. Ta cũng không thể không thừa nhận Yến huynh là một cao thủ trong nghề tiềm tung ẩn tích, chỉ chút nữa là ta mất dấu huynh, tiếc là bây giờ khó tránh tử kiếp. Do đó mà biết Yến huynh là người trọng tình trọng nghĩa, ha... thật đáng cười, cũng thật đáng tiếc!".

    Ngữ khí đầy ý vị trào lộng, giống như mèo vờn chuột, tất cả chỉ vì một trò đùa giỡn thống khoái, xong rồi mới giết chết.

    Yến Phi thì trong lòng lo lắng, nếu quả thực y muốn đề cập đến Lưu Dụ để qua chàng kiểm tra xem phải chăng Lưu Dụ đang có mặt gần đây, vậy thì người này quả thật tâm thuật đáng sợ, lại còn ở khoảng cách như thế có thể cảm giác được nhịp tim đập của mình, càng khiến người ta phải kinh hãi.

    Bất quá chàng chết cũng không sợ, chẳng phải vì chàng nắm phần tất thắng, mà là nhờ tu dưỡng cơ bản của một cao thủ đã tiến tới ngưỡng cửa của kiếm đạo, cho dù bị đối phương giết chết vẫn giữ tâm không động, bảo trì cảnh giới không sợ sệt mà cũng không vui mừng của kiếm đạo, cười nhẹ nói: "Nhậm huynh tựa hồ có quá nhiều thời gian?".

    Nhậm Dao lộ vẻ bất ngờ, ngạc nhiên nói: "Yến huynh không kỳ quái vì sao bổn nhân thấy chuyện đó đáng cười sao?".

    Hốt nhiên bước chéo chân sang ngang, nghiêng người chống tay, ngước nhìn bầu trời đêm, chợt nói: "Nhân tính bổn ác, tình nghĩa chỉ có thể dùng làm thủ đoạn, chẳng qua thiên hạ có không ít kẻ ngu dốt không sửa được, đắm chìm vào đó mà không tự biết, đến lúc cuối cùng mới phải chịu khổ. Cho dù nhìn lại quá khứ, những kẻ có thể thành đại nghiệp, có ai không vô tình vô nghĩa, hành sự độc ác? Với thông minh tài trí của Yến huynh, sao lại không nhìn ra điểm này, chẳng phải đáng cười lắm sao? Yến huynh đêm nay kiếp số nan đào, cũng chính là bị hại bởi tình nghĩa, càng chứng minh cho điều đó".

    Đương khi y xoay người dịch ngang, nhiệt kình đang áp bức Yến Phi bỗng biến mất, thay vào đó là một đạo kình khí âm hàn lạnh thấu xương trói chặt toàn thân Yến Phi, không để lọt một kẽ hở nào, gặm mòn và làm tan chảy hết chân khí và ý chí của chàng, giống như đang phơi mình dưới ánh nắng hừng hực của sa mạc, thoắt đã chuyển sang cái lạnh căm căm của trời băng đất tuyết, cái thứ hoán chuyển nóng lạnh này trong sát na bồng bềnh hư vô khiến cho Yến Phi khó chịu cực kỳ, cũng vì vậy không có cách nào rút kiếm thừa cơ đột kích. Cách tiến công như vậy, Yến Phi chẳng những chưa từng gặp qua, cũng chưa từng nghĩ đến, qua đây có thể thấy Nhậm Dao tuy so với chàng niên kỷ hơn không bao nhiêu, nhưng tà công đã luyện tới mức chí cao, khiến công lực đạt đến cảnh giới kinh nhân, có thể xoay chuyển cả càn khôn. Chỉ cần qua điểm này, Yến Phi đã biết rõ đêm nay lành ít dữ nhiều rồi.

    Nhưng lời lẽ ngông cuồng của Nhậm Dao lại không thể không đáp, nếu không đáp lời, coi như mặc nhiên thừa nhận lý luận của y, về khí thế sẽ bị thua kém một bước. Huống chi chàng cảm giác Nhậm Dao như còn muốn chơi trò mèo bắt chuột, muốn đùa giỡn với mình để thỏa mãn niềm thống khoái.

    Yến Phi vừa ngầm vận huyền công chống lại tà công kỳ dị đáng sợ của Nhậm Dao, vừa ung dung mỉm cười nói: "Quan điểm của Nhậm huynh tuy không phải không có đạo lý, nhưng lại sai lầm ở chỗ thiên lệch, nếu như nói nhân tính bổn thiện cũng không hoàn toàn đúng. Theo ngu ý thì nhân tính có thiện có ác, còn là thiện hay là ác còn phải coi phát triển về sau. Nhậm huynh có cho rằng đúng như thế hay không?".

    Nhậm Dao dù tài trí tới đâu cũng phải nhăn tít cặp lông mày, lộ vẻ suy nghĩ về lời Yến Phi.

    Yến Phi lập tức cảm giác được tà khí lạnh lẽo của y giảm sút rất nhiều, cơ hội tốt như thế há lại bỏ qua, lập tức lùi lại, Điệp Luyến Hoa rời khỏi vỏ.

    Nhậm Dao cười một tràng dài nói: "Yến huynh trúng kế rồi!".

    "Tranh!".

    Thanh bảo kiếm chế luyện bằng hoàng kim rời khỏi chiếc vỏ nạm dạ quang châu, hóa thành những đóm sáng mênh mang đầy trời, như bão táp mưa sa ập tới Yến Phi, cực kỳ đẹp mắt, nhưng cũng cực kỳ đáng sợ. Yến Phi lùi lại chưa đến nửa trượng, đã cảm thấy không ổn. Vốn chàng đã tính toán đâu ra đấy, định nhân khi Nhậm Dao tâm thần bị nhiễu loạn, khí thế sút giảm, lui lại dẫn dụ Nhậm Dao truy kích mới tụ tập toàn thân công lực vào một kiếm quyết đẩy lui đối phương, khi đó lui có thể thủ, tiến có thể công, không như lúc trước lâm vào cảnh bị kình khí của y khống chế.

    Nào ngờ vừa mới thối lui, kình khí của Nhậm Dao từ yếu hóa thành mạnh, khí âm hàn tự hóa thành mềm dẻo như tơ nhện quấn quít, đưa chàng vào tình huống như thú săn nằm trong một tấm lưới bền chắc, chàng đã tận lực co kéo nhưng vẫn bị hãm thân trong lưới nhện. Chàng liên tưởng tới một điều đáng sợ, bản thân đã rơi vào cái bẫy do Nhậm Dao bố trí thật tinh vi.

    Yến Phi không còn lựa chọn nào khác, đành không lùi mà tiến, mượn thế tăng gia tốc độ, như một vì sao xẹt lao vào lưới kiếm đang che mờ đất trời của Nhậm Dao, Điệp Luyến Hoa biến thành một luồng sáng xanh, phát ra thanh âm "xuy, xuy", đâm thẳng vào trung tâm lưới kiếm của địch thủ, cuồng phong lạnh lẽo xuất ra, đủ để xông qua trùng trùng chướng ngại, phá ra một khuyết khẩu, từ đó tuôn ra dòng kình khí như thác lũ cuồn cuộn, đẩy dạt chân khí âm hàn của Nhậm Dao sang hai bên. Một kiếm này không chỉ là đỉnh điểm kiếm thuật của Yến Phi, mà còn đại biểu cho dũng khí và quyết tâm với khí thế "tráng sĩ nhất khứ hề bất phục phản" 2, tâm và thể hòa làm một xông lên, sống chết dẹp sang một bên. Khi đánh ra một kiếm này, chàng hoàn toàn không để ý vấn đề ai mạnh ai yếu, không vui không buồn, không sợ cũng không kinh.

    Nhậm Dao cười to nói: "Tới hay lắm!".

    Một trời kiếm hoa chợt tắt ngấm, trở lại thành thanh kiếm nắm trong tay ánh vàng rực rỡ, dài bốn thước rưỡi.

    Nhậm Dao chân bước theo bộ pháp kỳ dị, bỗng tạt ngang, trường kiếm bổ xuống nhanh như điện, không chệch một phân chém vào thanh Điệp Luyến Hoa trong tay Yến Phi, cách mũi kiếm chỉ một tấc, chuẩn xác đến mức khó tin.

    "Đinh!".

    Toàn thân Yến Phi chấn động kịch liệt, rất lạ là Điệp Luyến Hoa chỉ giống như bị gõ nhẹ một cái, không hề có áp lực xung kích, nhưng trước ngực lại như bị một chùy ngàn cân đập vào, toàn thể kinh mạch muốn tê liệt, khí huyết đảo lộn, mắt nổ đom đóm, khó chịu đến độ thà chết ngay đi còn hơn, nếu không nhờ có tâm trí cương nghị thì lúc này đã buông tay chịu trận hoặc là toàn lực chạy trốn. Yến Phi biết cả hai cách này đều không ổn tí nào, đối với chàng cách nào cũng sẽ dẫn đến kết cục thảm hại, đều bị Nhậm Dao xỏ mũi mà dắt. Dựa vào giao cảm của các luồng chân khí, dự đoán chuẩn xác thế kiếm của y, chàng hừ lạnh một tiếng, toàn lực triển khai Nhật Nguyệt Lệ Thiên kiếm pháp, xua tan khí âm hàn xâm nhập thân thể, kiếm kình chưa có cơ hội phát xuất quay trở về nội thể, lại vận động toàn lực, ngưng lại một khắc mới xuất ra một luồng kình khí chiếu thẳng tới chân khí thoát ra từ toàn thân Nhậm Dao, mau chóng huy kiếm chém thẳng vào mặt Nhậm Dao, khí thế tráng liệt cùng địch nhân quyết tử.

    "Đang!".

    Nhậm Dao dựng kiếm chống cự, kiếm chiêu giản dị không hoa mỹ, đạt tới cảnh giới cực khéo mà như vụng về. Điệp Luyến Hoa chém trúng thân kiếm của Nhậm Dao, tựa như chuồn chuồn lay cột đá, không lay chuyển chút nào, mà toàn thể về sau cũng tuyệt không có chút tác dụng gì. Yến Phi "ọe" một tiếng, phun ra một búng máu, mau chóng lùi lại, vẫn dùng phép cũ từng đối phó với Khất Phục Quốc Nhân, bủa ra một lưới kiếm kình trùng trùng, ngăn chặn địch nhân thừa thế truy kích.

    Khi đó mới thấy Nhậm Dao vẫn ngang nhiên đứng bất động, mũi kiếm trỏ vào chàng, lộ thần thái coi thường. Đến khi cự ly giữa hai người cách nhau chừng hai trượng, Yến Phi bỗng dừng lại, mũi kiếm trỏ ngược lại Nhậm Dao.

    Chàng không phải không nghĩ đến việc thừa thế đào tẩu, chỉ vì kiếm khí của Nhậm Dao từ xa khóa chặt, nếu chàng lui thêm một bước, kiếm kình ngăn chặn đối phương lập tức sẽ tiêu tán, để cho đối phương toàn lực đẩy lùi, trong tình thế bị động địch tiến ta thoái chỉ sợ trong vài chiêu đã rơi vào cục diện thập tử nhất sinh, đành cố sức gượng lại quyết một trận tử chiến.

    Nhậm Dao lặng yên không nói một lời, bỗng cười: "Yến huynh quả thật cao minh ngoài tưởng tượng của ta, từ khi xuất đạo đến nay, Nhậm Dao ta chưa từng gặp kẻ nào chịu nổi mười hiệp, vậy mà coi ra muốn giết chết Yến huynh lại không dễ chút nào, khiến bổn nhân cảm thấy hứng thú tràn trề, vui mừng khôn xiết!".

    Yến Phi thầm nghĩ Nhậm Dao chẳng những tàn nhẫn hiếu sát, mà còn lấy giết người làm vui, đêm nay nếu mình không chết, nhất định về sau phải kiên trì luyện kiếm để trừ khử ác ma hại người này.

    Nghĩ đến điều này, càng kích khởi ý chí cầu sinh của chàng, liền khẽ cười đáp lời: "Tiểu đệ có một vấn đề muốn thỉnh giáo Nhậm huynh".

    Nhậm Dao hớn hở nói: "Nếu Yến huynh muốn kéo dài thời gian, bổn nhân chẳng những vui vẻ bồi tiếp, mà còn mong được thế, chỉ cần quan sát Yến huynh cũng đã là một chuyện tốt đẹp khiến người ta trong lòng vui sướng rồi. Lẽ nào ta lại nhìn không ra vì sao muội tử vốn coi rẻ nam nhân mà đối với ngươi lại thấy vừa mắt".

    Tuy biết rõ ý chế nhạo đằng sau lời nói đầy ác độc lãnh khốc của y, Yến Phi cũng không thể không thừa nhận y đàm luận cao nhã, lại thêm mỗi lần y nhấc chân giơ tay, khi động khi tĩnh đều thoải mái đẹp mắt, linh hoạt như ác ma đội lốt người lành.

    Hai người vẫn dùng kiếm phong đối kháng từ xa, dùng chân khí hỗ trợ, có lẽ nếu chỉ nghe bọn họ đối đáp người ngoài sẽ tưởng rằng đó là một đôi hảo bằng hữu đang nói chuyện trên trời dưới bể với nhau.

    Yến Phi cảm giác tinh, khí, thần dần dần tập trung vào Điệp Luyến Hoa trên tay, ung dung nói: "Nhậm huynh phục sức kiểu hoàng đế, hiển nhiên không phải là hạng hào sĩ có ý tranh bá thiên hạ, mà là nghĩ đến thân phận bản thân đáng phải ở ngôi cửu ngũ, điều đó khiến tiểu đệ nghĩ Nhậm huynh có nhiều khả năng là hậu duệ hoàng tộc tiền triều nào đó, vậy thì Nhậm huynh chắc không phải ở họ Nhậm, xin hỏi tiểu đệ có nói sai không?".

    Nghe tới đây, hốt nhiên song mục Nhậm Dao hơi nheo lại, mắt lóe sáng như tia chớp, kiếm khí trên tay cực thịnh, hạ giọng quát: "Lớn mật! Dám dò xét lai lịch xuất thân của bổn nhân!".

    Yến Phi vốn chỉ muốn ném một viên đá dò đường, nay thấy Nhậm Dao có biến hóa như vậy, không ngờ đã đoán ra, chạm trúng điều đại kỵ trong lòng Nhậm Dao, lập tức truy bức đến cùng, cười một tràng dài nói: "Nguyên lai là dư nghiệt của kẻ mất nước, không biết Nhậm huynh vốn họ Tào, họ Lưu hay họ Tôn?".

    Nhậm Dao đánh mất hoàn toàn thần thái ung dung nhẹ nhàng trước đấy, cặp mắt chớp ngời hung quang, nhưng y còn chưa kịp công kích, Điệp Luyến Hoa trong tay Yến Phi đã hóa thành một đạo thanh mang, điểm tới như chớp.

    Nhậm Dao coi một kiếm không có điểm gì lạ của Yến Phi, mà thực ngầm chứa vô cùng tận biến hóa tràn ngập vũ trụ, đâu dám chậm trễ, xuất ra một chùm kiếm hoa, như một vườn hoa tươi nở rộ nghênh đón Điệp Luyến Hoa.

    Hai đại cao thủ lần thứ hai giao phong.

    Chỉ thấy hai nhân ảnh dưới ánh trăng chớp nhoáng di chuyển, chiến đấu kịch liệt không ngừng, hai bên cùng lấy nhanh chọi nhanh, gặp chiêu dùng chiêu, kiếm kiếm giao kích

    âm thanh bất tuyệt như sợi tơ không dứt, bỗng dưng Yến Phi kêu lên một tiếng đau đớn, bay ngược ra đằng sau, làm cho khoảng cách hai người xa tới hai trượng.

    Nhậm Dao không hề thừa thế truy kích, mà lại nâng kiếm ngang ngực, ánh mắt thâm tình nhìn kỹ vết máu Yến Phi nhuộm đỏ mũi kiếm, cất giọng êm ái nói: "Yến huynh có biết bảo kiếm đêm nay uống máu Yến huynh có cái tên rất dễ nghe không?".

    Điệp Luyến Hoa trong tay Yến Phi vẫn hướng về phía Nhậm Dao, máu tươi từ vết thương bên sườn chảy ròng ròng, nhuộm đỏ một bên tay áo, kiếm của Nhậm Dao tuy chỉ ăn vào một tấc, nhưng kiếm khí có lẽ đã đả thương kinh mạch ở bên cạnh, khiến cho nửa thân bên trái đau đớn kịch liệt.

    Thế nhưng chàng không sợ mà lại vui mừng, nhược điểm duy nhất của Nhậm Dao là quá tự phụ, bằng không chỉ cần y thừa thế truy kích, bảo đảm chàng chịu không quá ba chiêu. Chính vì Nhậm Dao cho rằng nhất định ăn tươi nuốt sống được chàng rồi, cho nên mới có sơ sót này. Không ngờ Nhật Nguyệt Lệ Thiên đại pháp của chàng có hiệu quả liệu thương mau chóng kỳ dị, có thể làm tinh thần thể lực rất nhanh hồi phục, làm cho y dự đoán sai khả năng phản kích của chàng.

    Hiện tại Nhậm Dao đang hứng chí tán nhăng tán cuội, chàng đương nhiên vui vẻ phụng bồi, cười nhạt nói: "Nhậm huynh đã tự cho là hoàng đế, bội kiếm sử dụng đương nhiên có tên tuổi cao quý rồi".

    Mục quang của Nhậm Dao hướng về phía chàng, lắc đầu nói: "Hảo hán tử! Ha! Một hán tử không hối hận không sợ sệt. Đến lúc biết rõ tất chết, mà vẫn ung dung như không. Có thể thành toàn cho một nhân tài Yến huynh quả thật rất có ý nghĩa. Bản nhân bảo chứng muốn chờ cho Yến huynh chảy đến giọt máu cuối cùng, xem ngươi còn cười được nữa hay không?".

    Yến Phi đã quen với tâm tính hành động lấy giết người làm niềm vui của y, nhún vai nói: "Nhậm huynh còn chưa nói ra danh tự của bảo kiếm".

    Nhậm Dao cười nói: "Vẫn nhớ a! Bổn nhân có biệt nhãn với Yến huynh, cho nên cũng không muốn ngươi thành ra một con quỷ hồ đồ. Kiếm này tên là Ngự Long, lấy tích từ thiên "Tiêu Dao Du" của Trang Chu, "thừa vân khí, ngự phi long, du hồ tứ hải chi ngoại" 3 (đạp mây, cưỡi rồng, chu du ngoài bốn bể). Coi kiếm!".

    Vết thương tuy vẫn còn đau đớn nhưng máu đã ngừng chảy, kinh mạch lưu chuyển thuận lợi, Yến Phi tâm thần lại tiến nhập cảnh giới siêu nhiên "chỉ thủy bất ba".

    Thấy Nhậm Dao chủ động công kích, Ngự Long kiếm vạch một cung tròn tuyệt đẹp, từ ngoài xa hai trượng bay vòng vèo kích đến, kiếm còn chưa tới, kiếm khí kinh nhân đã bao trùm và trói chặt chàng, khiến chàng ngoài cách cứng rắn đối kiếm không còn cách nào khác. Dĩ khí ngự kiếm như vậy, hoàn toàn đều do Ngự Long dẫn dắt, có thể thấy Nhậm Dao đã đạt tới cảnh giới của một đại tôn sư.

    Khi kiếm phong của Nhậm Dao cách không tới nửa trượng, Yến Phi rốt cuộc đã có phản ứng, hoàn toàn ngoài dự liệu của Nhậm Dao, Điệp Luyến Hoa hướng sang phía bên phải kéo về phía sau.

    Phải biết ngự kiếm của Nhậm Dao đánh tới tựa như công kích vào vị trí trước ngực Yến Phi, kỳ thực chính là nhằm vào Điệp Luyến Hoa, đại khái cao thủ công kích trong lúc tranh phong phải dựa vào cảm ứng vi diệu về luồng chân khí biến hóa, mà Điệp Luyến Hoa là nơi vốn tập trung toàn bộ tinh, khí, thần của Yến Phi, phản kích cách nào cũng đều bị Nhậm Dao bằng giao cảm biết rõ khí thế biến hóa, không cách nào che giấu được. Hiện tại Điệp Luyến Hoa không công về phía trước mà lại di chuyển về phía sau, toàn thân phá vỡ phòng tuyến, hoàn toàn bộc lộ dưới thế công của Nhậm Dao, nếu thay vào người khác chưa đạt đến trình độ dĩ khí ngự kiếm như Nhậm Dao, thì cũng bằng với việc Yến Phi mang thân thể dâng lên, để cho kiếm của địch nhân từ bất kỳ bộ vị nào cũng có thể xuyên vào cơ thể, khác biệt ở đây là Nhậm Dao dẫn dắt chân khí từ xa, Ngự Long kiếm cảm ứng với sự thay đổi, tự nhiên cứ thế dõi theo Điệp Luyến Hoa di chuyển về mé hữu Yến Phi, như sóng lớn ập vào đê cao, bỗng dưng gặp đường thoát, đương nhiên tràn vào cửa mở, lúc này khuyết khẩu chính là mũi kiếm của Yến Phi.

    Nhậm Dao không phải là không có cách biến chiêu, mà chỉ vì bất kỳ cách biến chiêu nào cũng đều phá hoại luồng chân khí đã tụ thành khí thế như cuồng phong bạo vũ, mà còn khinh thường Yến Phi sườn bên trái đã thụ thương, hơn nữa Yến Phi chuyển Điệp Luyến Hoa ra phía sau nhưng vẫn bảo trì kiếm khí cường đại, có thể tại bất kỳ thời điểm nào chuyển yếu thành mạnh, phát động phản kích, vì vậy vẫn cứ thế tiến hành, lấy Điệp Luyến Hoa làm mục tiêu theo đuổi.

    Yến Phi cười lớn nói: "Đế Quân trúng kế rồi!".

    Điệp Luyến Hoa tiếp tục rê về phía sau, tả chưởng vỗ ra nhanh như điện, lấy Điệp Luyến Hoa làm "nhật", tả chưởng chụm lại thành đao làm "nguyệt", nhật minh nguyệt ám, cùng lúc vận dụng âm dương lưỡng quyết, một chưởng vỗ mạnh vào Ngự Long kiếm.

    Nhậm Dao toàn thân chấn động, bị hất văng sang phía bên phải Yến Phi, thế công hoàn toàn tiêu tán.

    Yến Phi vừa thấy nhẹ mình, lại cảm giác áp lực từ kình khí của Nhậm Dao, biết rõ hảo cảnh đã mau chóng trôi đi, vụt xoay người, nguyệt đổi thành nhật, Điệp Luyến Hoa như bóng theo hình, kích thẳng vào nơi yếu hại bên yết hầu của Nhậm Dao.

    Lần này đúng là Yến Phi đã tận nguồn nhân lực, nhưng vẫn không làm gì được Nhậm Dao, cũng chỉ như góp mặt cùng vui.

    "Đinh!".

    Nhậm Dao chỉ lui hai bước, Ngự Long kiếm mau lẹ biến thành một luồng sáng, nghênh đón Điệp Luyến hoa, lạnh lùng hừ lên một tiếng: "Muốn chết!".

    Yến Phi trong lòng biết không ổn, Điệp Luyến Hoa chính diện đụng thẳng với đối phương, run lên bần bật.

    Nhậm Dao do lúc trước thiệt thòi, đã động chân nộ, lần này chẳng nói đến chuyện bắt Yến Phi chảy đến giọt máu cuối cùng nữa, từ mặt đất nhảy vọt lên, song cước gập lại, dùng một tư thế đẹp mắt và tà dị, vươn kiếm chém thẳng vào trước mặt Yến Phi, khiến Yến Phi khó lòng đương cự.

    Yến Phi lại cười dài một hồi, thân hình chuyển động xoay tròn bay vọt lên, Điệp Luyến Hoa quay một vòng quét thẳng vào địch nhân, dùng một chiêu quyết cùng đối phương đồng quy ư tận.

    Do lúc chàng xoay người bay lên cao hơn Nhậm Dao hai thước, Ngự Long kiếm của Nhậm Dao thành ra vạch thẳng vào vị trí eo lưng của gã, Nhậm Dao kêu thầm một tiếng: "Ngu xuẩn!" Lúc này trường kiếm của Yến Phi chỉ cách trước mặt chừng năm tấc, Ngự Long kiếm mau lẹ gia tốc, nhanh hơn một bước quét trúng eo lưng hắn.

    "Đinh!".

    Lạ là Ngự long kiếm không có cảm giác cắt vào đối phương da thịt chảy máu, ngược lại như chém phải một thứ đồ kim loại cứng rắn, Nhậm Dao bỗng tỉnh ngộ, nhớ lại muội tử từng nói không biết sau lưng Yến Phi có gắn thứ gì, bất quá hối thì đã không kịp.

    May mà y vừa rồi dùng dương kình, do vậy một kiếm chấn Yến Phi bay ra xa, mới tránh khỏi cái chết do bị phản kích, bằng không tất bị một kiếm của Yến Phi chém trúng vào mặt.

    Yến Phi quả nhiên ứng kiếm bay ngang, quay lại cười nói: "Đa tạ Nhậm huynh đưa tiễn!" Rồi cứ thế đằng không, vượt qua dãy phòng ốc tan nát, hướng về khu rừng rậm rạp phía tây làng mà đi.

    Nhậm Dao cũng nhảy vọt lên, trước tiên hạ xuống mái một tòa nhà hoang, đặt mũi chân xuống, cười to hướng về phía Yến Phi nói: "Yến huynh hoan hỉ quá sớm đấy!".

    --------------------------------
    1 Chỉ thủy bất ba: lặng yên như mặt nước không một gợn sóng.
    2 Nhất khứ hề bất phục phản: một đi không trở lại.
    3 Thừa vân khí, ngự phi long, du hồ tứ hải chi ngoại: đạp mây, cưỡi rồng, chu du ngoài bốn bể.

  9. #28
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 28

    Ánh mắt động lòng người
    Ở cao năm trượng cách mặt đất, Yến Phi lại phun ra một ngụm máu nhỏ, đêm nay chàng thọ thương đến lần thứ ba, mỗi lần đều dùng công pháp đặc dị miễn cưỡng đè nén xuống, nếu có thể may mắn thoát thân, hẳn phải cần một thời gian tương đối dài mới đủ phục nguyên.

    Nhưng chàng cũng chẳng có chọn lựa nào khác, ma công của Nhậm Dao bá đạo phi thường, hiện giờ tiếng lất phất xé gió từ tay áo của y lại từ phía sau truyền đến, mỗi lúc một gần.

    Yến Phi hít mạnh một hơi chân khí, vận hành kinh mạch toàn thân, xông vào đám cành lá rậm rạp của một thân cây cao ngất trời, đặt chân lên một cành ngang lớn gần ngọn cây, Điệp Luyến Hoa trỏ vào Nhậm Dao trong trang phục đế vương, giống như Diêm vương từ địa phủ hiện lên tìm chàng đòi mạng, đang vượt qua khoảng không lao tới.

    Đổi lại nếu là người khác, dù biết rằng cơ hội chạy trốn nhỏ bé đến đâu đi chăng nữa, cũng vẫn sẽ cố gắng đến cùng, hy vọng nhờ có ưu thế chạy trước, chuồn sâu vào rừng rậm trốn thoát.

    Nhưng Yến Phi lại không phải kẻ tầm thường, chẳng những đang chiếm thế thượng phong, lại đã lập chí quyết tử, liều chết kháng cự.

    Theo ý chàng, cao thủ tranh phong thắng bại không phải chỉ do kiếm pháp hay công lực cao thấp quyết định, mà chiến lược và ý chí cũng quan trọng không kém. Gác chuyện sinh tử qua một bên thì Nhậm Dao thực sự là đối thủ luyện kiếm tốt nhất.

    Kiếm khí theo thân hình Nhậm Dao đang phi gần lại ập tới trước mặt, trước mắt giăng đầy những đóm sáng huyền ảo, chỉ cần công lực của chàng kém hơn, căn bản không thể nhận ra Ngự Long kiếm chính thực đang từ góc độ phương hướng nào công tới, đã không biết công vào đâu, đương nhiên không biết thủ chỗ nào, Yến Phi lại thầm kêu lợi hại.

    Nhậm Dao không thể không áp dụng chiến lược dụ hoặc đối thủ, vì Yến Phi lưng tựa vào thân cây vững chắc, còn Nhậm Dao lăng không công tới, nếu đụng nhau chính diện, vì Nhậm Dao không có điểm tựa lực, kẻ thiệt thòi nhất định sẽ là y, vì vậy Nhậm Dao ắt phải thi thố hết tài nghệ mong vượt qua tình huống nan giải này, cốt sao khiến cho Yến Phi phải ứng tiếp không ngừng, đến cuối cùng không chịu nổi nữa sẽ chuyển thành bị động, không thể áp dụng những chiêu thức tiến công, mà phải cật lực quay sang thủ thế.

    Trước mắt Yến Phi ánh kiếm trùng trùng, từ đám cành lá rậm rạp đột ngột ập đến, kiếm ảnh che khuất cả thân hình Nhậm Dao, hiển lộ công phu chân chính của Nhậm Dao.

    Yến Phi nhắm chặt hai mắt, Nhật Nguyệt Lệ Thiên đại pháp toàn lực thi triển, tâm thần yên tĩnh như mặt nước hồ, các giác quan huy động đến cực độ, chỉ bằng tiếng cọ sát áo quần với cành lá, chàng hầu như có thể dùng thính giác hình dung trong đầu vị trí và thân hình của Nhậm Dao.

    Quan trọng hơn là chàng nắm chắc Nhậm Dao tuy tỏ ra khí thế hung hãn, nhưng sự thực chỉ muốn tranh thủ cướp lấy chỗ đặt chân, nếu để y thành công thời ưu thế của chàng không còn gì nữa.

    Yến Phi chém ra một kiếm.

    Ngự long kiếm của Nhậm Dao cách chàng chỉ không đến năm thước, nhưng chàng không phải muốn đối địch hay phản kích đối phương, mà quán trú kình lực vào mũi kiếm, kình khí bắn vọt ra từ thân kiếm, một cành cây to cỡ cánh tay ứng kiếm lập tức gãy làm hai đoạn, kéo theo toàn bộ cành lá rậm rạp rơi xuống dưới.

    Nhậm Dao kinh hãi kêu lên một tiếng, theo cành cây gãy rơi xuống, kỳ chiêu tuyệt kỹ gì đi nữa cũng vô tác dụng.

    Đáng hận nhất là thời điểm Yến Phi chém gãy cành cây hết sức chuẩn xác, đúng vào sát na mũi chân y vừa chạm vào lớp vỏ xù xì của cành cây, khiến y không có cách nào tá lực biến hóa.

    Yến Phi mở bừng hai mắt, hét to một tiếng, hai tay ôm kiếm giương cao quá đầu, vọt ra khỏi cành cây, từ trên cao nhảy xổ vào Nhậm Dao vừa rơi xuống, Điệp Luyến Hoa như điện chớp nhằm vào đỉnh đầu mang vương miện của Nhậm Dao chém tới.

    Một bên chuẩn bị kỹ càng, một bên tay chân cuống quít, ai hơn ai kém không cần nói cũng biết. Luận về kiếm pháp và công lực, Yến Phi rõ ràng kém hơn Nhậm Dao, nhưng lại hơn là đã có dự mưu, Yến Phi vận dụng mưu trí cộng với Nhật Nguyệt Lệ Thiên đại pháp độc đáo, lần này rốt cuộc đã chiếm được thượng phong.

    Nhậm Dao cũng quá xuất sắc, lâm nguy bất loạn, Ngự Long kiếm vung lên gạt mạnh. Yến Phi cũng không thể không ngầm bội phục, vì nếu Nhậm Dao chỉ đơn giản hoành kiếm hướng lên đối địch, chàng tin là có thể nhân khi Nhậm Dao không thể quán trú toàn lực trong lúc thảng thốt, toàn lực chém gãy Ngự Long kiếm, chém nát cả vương miện lẫn đỉnh đầu y.

    "Keng!".

    Nhậm Dao giận dữ gầm lên, tuy gạt được một kiếm của Yến Phi, nhưng cũng bị chấn rơi thẳng xuống.

    Dù rằng ở trong tình thế có lợi như vậy, Yến Phi vẫn có chút cảm giác nản chí vì khó lòng đả thương kẻ địch, có thể biết Nhậm Dao cao minh lợi hại tới mức nào. Bất quá lúc này nếu chàng chọn cách chạy trốn, cơ hội thành công sẽ tăng gấp mấy lần. Nhưng chàng hoàn toàn không định làm như thế, hừ lạnh một tiếng, lộn một vòng, kiếm hóa thành một luồng sáng xanh, đầu dưới chân trên lao thẳng theo hướng rơi của Nhậm Dao.

    Nhậm Dao cũng vung kiếm tạo thành một luồng kiếm khí lạnh buốt giăng trên đầu, toàn lực đánh trả.

    Hai người một trước một sau, trên dưới phân biệt cùng rơi xuống đất, hiện giờ thấy hai kiếm giao nhau, lúc này hai chân Nhậm Dao còn cách mặt đất chưa đến một trượng.

    Bỗng nhiên dị biến xuất hiện.

    Một đạo kiếm quang từ phía thân cây gần nhất xạ ra, nhằm vào Nhậm Dao phi tới.

    Cho dù Nhậm Dao có lì lợm đến mấy cũng phải kinh hãi đến hồn phi phách tán. Kiếm khí của người tập kích so với Yến Phi từ phía trên quyết tâm truy sát còn lợi hại hơn, chiêu số tinh diệu kỳ ảo, góc độ thời gian chuẩn xác không chê vào đâu được.

    Từ phía trên Yến Phi trông thấy một người toàn thân trùm kín trong chiếc áo choàng xám căng phồng, chỉ để lộ đôi mắt, từ phía thân cây nhảy xổ đến, mãnh liệt công kích vào Nhậm Dao đang trên đà rơi xuống, biết rằng cơ hội đã đến, liền gia tốc vung kiếm chém xuống.

    "Keng!".

    Nhậm Dao toàn thân chấn động kịch liệt, Ngự Long kiếm vội vã hất lên, trong tình huống lưỡng đầu thọ địch, vẫn có thể kháng cự kịch liệt, không để cho địch thủ tiếp tục cường công, đồng thời tả thủ mau lẹ vỗ ra một chưởng trúng vào mũi kiếm của người áo xám, mượn thế lao về phía hoang thôn đi mất.

    "Ọe!" Nhậm Dao há miệng phun ra một bụm máu, chắc chắn đã bị trọng thương, nhưng vẫn có thể đề khí thốt ra lời, âm thanh vọng đến từ gần ra xa: "Đan Vương tự thân giá lâm, bổn nhân tạm thời xin cáo lui, ngày khác sẽ có hồi báo!".

    Trong khi Nhậm Dao biến mất tại hoang thôn, Yến Phi và người được gọi là Đan Vương đã trước sau hạ xuống mặt đất, người nọ quay lưng về phía Yến Phi, ngưng thần nhìn về hướng Nhậm Dao đi mất, bình tĩnh nói: "Tên Nhậm Dao này chỉ có chút hiềm khích cũng tất báo thù, ngươi tốt nhất chuồn đi càng xa càng tốt, bằng không để y sau sự việc này phát giác không phải là cha ta đích thân xuất hiện, tất sẽ quay lại tìm ngươi tính sổ".

    Bỗng dưng lại là thanh âm của nữ nhân ngọt ngào ân cần, thanh âm êm ái dễ nghe này đủ khiến bất kỳ người nào cũng phát sinh cảm giác thân thiết và niềm khát khao được trộm nhìn dung mạo.

    Nữ nhân này đương nhiên đúng là nhi nữ của Đan Vương An Thế Thanh, hóa trang y hệt An Thế Thanh, khiến Nhậm Dao cũng phải nhầm lẫn.

    Chẳng cần nói cũng biết ả vì muốn thu hồi phiến ngọc bội thứ ba mà tới, từ xa trông thấy hoa khói tín hiệu của Tiêu Dao Giáo, trùng hợp cơ hội mà gặp chuyện này.

    Yến Phi rất muốn đa tạ ơn viện thủ của ả, nhưng thấy ả tựa như cao ngạo lạnh lùng không thèm quay lại, lại thêm ngữ khí lạnh lẽo, khiến cho chàng có lời đến miệng rồi mà nói không ra.

    Nữ tử này rốt cuộc cũng chậm rãi xoay thân hình yêu kiều, nhìn về phía chàng. Dù Yến Phi xưa nay luôn với thế gian nhân tình sự vật rất ít quan tâm, cũng không thể được cảm thấy tâm tình chấn động, bị cặp mắt đẹp đẽ sâu thăm thẳm kia thu hút tâm hồn mãnh liệt.

    Áo choàng trùm kín xuống tận chân mày, lại thêm một tấm vải bố bịt kín, che đi toàn bộ khuôn mặt bên dưới, chỉ còn lại đôi mắt tuyệt đẹp chớp chớp đang chăm chú nhìn chàng. Nữ tử này thân hình rất cao, chỉ kém Yến Phi đôi chút, dù khoác chiếc áo choàng to và rộng, vẫn thấp thoáng những đường nét hấp dẫn, phong vận tha thướt, cặp nhãn thần lộ vẻ kiêu kỳ rất khó tả.

    Yến Phi chưa bao giờ thấy qua cặp mắt nào đẹp lạ kỳ như thế, phảng phất như chứa đựng tình cảm đắm đuối, lại như lạnh lẽo vô tình cự tuyệt người ngoài nghìn dặm. Xác thực là đôi mắt khiến trên đời không một nam nhân nào không cảm thấy trái tim run lên.

    Ả đối với cái nhìn chăm chú của Yến Phi cứ như không thấy gì, nhãn thần không có chút thay đổi kinh dị hay giận dữ nào cả, vẫn với ngữ khí bình thường lãnh đạm nói: "Kiếm pháp của ngươi đúng là không tệ, nhưng còn lâu mới là đối thủ của Nhậm Dao, vì thế chớ nên bỏ ngoài tai lời dặn dò của ta. Ta đi đây!".

    Nói rồi nhảy vọt lên, theo đám cây cối rậm rạp phía trên đầu Yến Phi mà đi, chớp mắt đã không thấy đâu.

    Yến Phi có cảm giác bị khuất nhục, chỉ biết im lặng cười trừ, thầm nghĩ người ta đã không thèm giao du với mình, biết trách ai đây, nói thế nhưng cũng khó đè nén nỗi day dứt trong lòng.

    Chính trong lúc đang suy tư, bỗng nhiên thấy lạnh run lên, toàn thân mềm nhũn, mệt mỏi đến mức chỉ muốn lăn ra ngủ.

    Yến Phi ngầm kinh hãi, biết đó là triệu chứng nội thương sắp phát tác, chẳng còn lòng dạ nào nghĩ đến chuyện con gái An Thế Thanh nữa, vội vàng chui vào rừng rậm, tìm cách liệu thương.

    ° ° °

    Buổi chiều.

    Hạp Thạch thành cầu treo buông xuống, Tạ Huyền bận nho phục trắng thúc ngựa xông ra, theo sau là Lưu Dụ và hơn chục thân tùy, lính gác từ thành môn và chiến lũy bằng đá đổ xô ra hoan nghênh, khí thế ngang trời, tỏ rõ khí khái không chút sợ hãi địch quân binh lực hùng hậu, cũng là biểu thị lòng trung thành với Tạ Huyền.

    Tạ Huyền nét mặt ung dung, mỉm cười giơ tay vẫy chào thủ hạ hai bên không bỏ sót người nào, khích lệ sĩ khí.

    Đằng sau ông, Lưu Dụ cũng cảm giác nhiệt huyết bay bổng, nếu lúc này Tạ Huyền sai chàng một mình một ngựa xông qua bờ bên kia, chắc hẳn gã không chút do dự y lệnh thi hành.

    Sáng nay gã ngủ đến lúc mặt trời lên tới ba con sào mới miễn cưỡng bò ra khỏi giường, nội thương đã không thuốc mà thuyên giảm, vừa rửa ráy qua loa đã được đưa tới gặp Tạ Huyền, lập tức theo ông ta ra ngoài.

    Coi Tạ Huyền thể hình hùng vĩ cao lớn trên lưng ngựa, gã so với bất kỳ người nào khác càng hiểu rõ hơn cách điều hành quân đội của ông. Một thân nho phục, vốn không có chút nào hòa hợp với hoàn cảnh hiện tại quân đội hai bên chống đối nhau, nhưng lại khiến người ta càng thấy rõ bối cảnh xuất thân phong lưu danh sĩ của ông, càng thể hiện rõ ông không phải hạng người cậy sức, mà là vị chủ soái đầy mưu trí. Thế nhưng thanh Cửu Thiều Định Âm

    kiếm danh chấn thiên hạ ông mang sau lưng lại nhắc nhở mỗi người rằng ông không những thao lược hơn người, mà còn có kiếm pháp cái thế. Lưu Dụ tuy giống như đại đa số mọi người chưa được tận mắt chứng kiến kiếm pháp của ông, nhưng từ khi xuất đạo đến nay, Tạ Huyền chưa từng gặp ai chịu được quá mười hiệp, lại là sự thực mọi người đều biết. Trên chiến trường, Cửu Thiều Định Âm kiếm của ông đánh tan mọi trở lực, lấy đầu kẻ địch dễ như lấy đồ trong túi.

    Tạ Huyền không chỉ là chủ soái, mà còn là tượng trưng tinh thần của Bắc Phủ binh. Tất cả kể cả Lưu Dụ, niềm tin đối với ông đã trở nên gần như mù quáng, không ai không tin tưởng sâu sắc rằng ông có khả năng dắt dẫn toàn quân bước trên con đường chiến thắng.

    Tạ Huyền bỗng giảm bớt tốc độ, cho ngựa đi song song với Lưu Dụ, khẽ cười hỏi: "Tiểu Dụ đêm qua ngủ ngon chứ?".

    Lưu Dụ có cảm giác sợ hãi vì được ưu ái, hơi lúng túng đáp: "Ngủ say như một con heo".

    Tạ Huyền nhìn gã hoang mang kềm ngựa, cất giọng ôn hòa: "Trên chiến trường không cần gò ép lễ nghi trên dưới, dẫu rằng cùng ăn cùng ngủ thì cũng có làm sao?".

    Lưu Dụ bối rối gật đầu, chợt nhớ ra một chuyện nói: "Có một chuyện thuộc hạ chút nữa thì quên không chuyển lời của Chu đại tướng quân, Chu đại tướng quân nhờ thuộc hạ nói với Huyền soái, y vô cùng cảm kích đối với việc An công đã vì y mà làm".

    Trong Bắc phủ quân, An công là danh xưng có ý tôn sùng của Tạ An. Tạ Huyền gật đầu nói: "Y có nói đó là chuyện gì không?".

    Lưu Dụ lắc đầu nói: "Chu đại tướng quân không nói rõ, tiểu nhân cũng không dám hỏi".

    Tạ Huyền nhìn sâu vào mắt gã, điềm đạm nói: "Năm đó y bị bắt, dẫn tới đầu hàng, Tư Mã Đạo Tử tìm mọi cách khép cả nhà y vào tội chết, may nhờ An công ra sức bênh vực, lại phái người đưa gia quyến của y tới Quảng Lăng, do ta bảo hộ, sau đó nhiều lần cầu xin Hoàng thượng, khiến Hoàng thượng thu hồi mệnh lệnh, hiện tại cuối cùng cũng đến lúc có sự báo đáp. Tiểu Dụ từ sự kiện này có rút ra được bài học gì không vậy?".

    Lưu Dụ đổi sắc mặt nói: "Làm người phải biết nhìn xa trông rộng một chút". Tạ Huyền im lặng một lát, cười nói: "Ta lại tưởng ngươi sẽ nói làm người cần phải giữ vững nguyên tắc, đã cho là đúng thì phải kiên trì theo đuổi".

    Lưu Dụ vụt đỏ bừng mặt, ngượng ngùng không nói.

    Tạ Huyền quét mắt nhìn bãi đất ven sông và đám doanh trại địch quân san sát bên kia sông, một đội quân tuần tiễu vừa phóng đến bên bờ tây quan sát bọn họ, dịu giọng nói: "Tiểu Dụ chẳng cần vì chuyện ấy mà xấu hổ, làm chuyện tốt mà được báo đáp không phải chuyện thường gặp, vụ lợi và thực tiễn cũng không có gì sai, chỉ cần tạo phúc cho vạn dân, dùng chút thủ đoạn cũng không ai dám chê trách. Nói ta hay, ta muốn biết những suy nghĩ chân chính của ngươi, một vị thống soái thành công thì điều kiện quan trọng nhất là cái gì?".

    Bọn họ lúc này đang phi ngựa chậm rãi về phía nam trên con đường dưới núi, bỗng nhiên hành tung của họ hoàn toàn phơi lộ dưới ánh mắt của địch nhân ở bờ bên kia, cảm giác vừa kích thích lại vừa cổ quái.

    Bờ bên kia có tiếng vó ngựa dồn dập, rõ ràng đã có người phi báo cho Phù Dung biết Tạ Huyền đích thân đi tuần sông, Lưu Dụ biết Tạ Huyền đang dạy bảo mình, người nóng bừng lên, vấn đề này đêm qua Tạ Huyền đã từng hỏi qua, liền đáp: "Phải giống như Huyền soái mới được".

    Tạ Huyền ngẩng lên trời cười ha hả, bỗng nhiên thúc ngựa tăng tốc, dẫn mọi người phi thẳng lên một gò đất cao bên bờ sông, kềm ngựa chăm chú nhìn sang bờ bên kia. Lưu Dụ cùng đám cao thủ tùy thân đuổi theo, tới tấp kềm ngựa, tản ra thành một hình rẻ quạt đằng sau ông ta.

    Tạ Huyền vẫy tay gọi Lưu Dụ thúc ngựa tới bên mình, điềm đạm nói: "Nói lại cho rõ hơn một chút".

    Lưu Dụ thấy Tạ Huyền xem trọng mình như thế, hận không thể móc trái tim mình ra cho ông coi, thành tâm thành ý nói: "Chỉ có giống như Huyền soái mới có thể khiến cho trên dưới đồng lòng hy sinh, quân đội mới có thể dễ dàng sử dụng, bằng không dù có binh pháp cái thế, cũng không thể thi triển, ài!".

    Tạ Huyền chầm chậm quét mắt nhìn doanh trại địch ở bờ bên kia và tình hình Thọ Dương trấn, ngạc nhiên hỏi: "Vì sao bỗng nhiên ngươi thở dài?".

    Lưu Dụ thành thực nói: "Huyền soái quan tâm thuộc hạ như vậy, khiến thuộc hạ thật xấu hổ, thuộc hạ thực không đáng để Huyền soái hoài phí tâm lực như vậy".

    Tạ Huyền không trả lời thẳng gã, đột nhiên nói: "Sự phong lưu của An công, ta thật học không nổi, nhưng có một phương diện, ta lại tự nghĩ thực sự đã được chân truyền của người, ấy là thuật xem người. Lưu Lao Chi và Hà Khiêm đều do một tay ta đề bạt, bọn họ cũng không làm ta thất vọng. Tiểu Dụ ngươi hiện giờ tuy chức vụ thấp kém, lại chưa có chiến công, nhưng Tạ Huyền ta tuyệt không nhìn lầm người. Ngươi có một thứ khí chất của lãnh tụ,

    trầm ổn và đại độ, thành công không kiêu ngạo, thất bại không nản lòng. Nhưng như thế cũng không phải đã đúng là phẩm chất chân chính của ngươi, vì nếu như vậy thì tối đa cũng chỉ là một Lưu Lao Chi hay Hà Khiêm khác mà thôi, ngươi muốn biết phẩm chất ấy là gì không?".

    Từ phía Thọ Dương một kỵ đội hơn trăm người phi tới, đi đầu là một viên Hồ tướng, toàn thân phục sức chủ soái, không cần nói cũng biết là Phù Dung, hướng thẳng tới bờ sông đối diện với chỗ bọn họ đang đứng.

    Tạ Huyền nét mặt vẫn ung dung, không tỏ vẻ lưu tâm đặc biệt gì.

    Lưu Dụ vội vàng gật đầu biểu thị mong được rửa tai lắng nghe.

    Tạ Huyền nói: "Muốn trở nên vị chủ soái thành công, ngươi trước tiên phải trở thành nhân vật anh hùng được toàn quân ngưỡng mộ, mà ngươi chính là người có khí chất và điều kiện thích hợp. Lưu tướng quân tiến cử ngươi phụ trách nhiệm vụ tới Biên Hoang Tập, chính vì ngươi là người được trong quân công nhận là thám tử xuất sắc nhất, bất luận đảm lượng, trí kế, võ công đều ở hạng nhất. Hơn nữa khi nghe những chuyện trải qua trong khi ngươi hoàn thành nhiệm vụ, ta lại phát giác ngươi có vận may, sau này sẽ có ngày tiểu Dụ minh bạch những lời này của ta".

    Lúc này Phù Dung dẫn theo đám thủ hạ đã phi tới đối ngạn, chỉ cách hơn ba mươi trượng mặt sông Phì Thủy, đang chỉ trỏ gì đó.

    Lưu Dụ gật đầu thụ giáo, nhưng không biết nói gì mới là đúng.

    Tạ Huyền đưa mắt nhìn dòng sông, nói: "Nếu mà cách sông lập trận đối địch, tiểu Dụ có cách gì thủ thắng hay không?".

    Lưu Dụ vốn từ lâu bội phục sát đất Tạ Huyền, nghe hỏi mà toát mồ hôi nói: "Nếu địch nhân ở bờ tây Lạc Giản bị đánh quỵ, thuộc hạ tin rằng với sông lớn cách trở có thể cầm cự được mấy ngày, nếu để đến khi địch nhân ùn ùn kéo đến, tập trung đủ binh lực, ta sẽ bị hãm vào liệt thế khốn khó chiến đấu".

    Tạ Huyền mỉm cười bí hiểm, điềm đạm nói: "Chúng ta tới đây, không phải để bại trận, mà mong một trận thắng, không những thế còn là một trận đại thắng tuyệt đẹp nữa. Tiểu Dụ ngươi đã có suy nghĩ như vậy, bên kia Phù Dung chắc hẳn cũng nghĩ như thế. Hãy vì ta mà làm chuyện này".

    Lưu Dụ tập trung tinh thần nói: "Xin Huyền soái chỉ dạy".

    Tạ Huyền nói: "Ngươi đi chuẩn bị cho ta hai vạn bao đá vụn, kích cỡ có thể cho một người ẩn thân đằng sau được, chuyện này cần phải bí mật, tuyệt không thể để địch nhân phát giác".

    Lưu Dụ toàn thân chấn động, lộ ra thần sắc chợt tỉnh ngộ.

    Tạ Huyền nhìn lên trời cười nói: "Trẻ con thật dễ dạy".

    Tiếng vó câu từ phía sau truyền đến, ngoảnh đầu nhìn lại, Hồ Bân một mình một ngựa, mặt mũi hớn hở phi nhanh đến.

    Tạ Huyền điềm đạm nói: "Có tin tốt lành rồi!".


  10. #29
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 29

    Biệt vô thoái lộ
    Yến Phi đang chìm sâu trong trạng thái tọa công điều tức tỉnh lại, xung quanh là rừng rậm tĩnh mịch, ánh nắng chiều đông xuyên qua cây lá rọi xuống, nhẹ nhàng ve vuốt tâm hồn đã bị tổn thương của chàng.

    Ma công của Nhậm Dao ngấm ngầm hoành hành, chàng tuy tạm thời dùng Nhật Nguyệt Lệ Thiên đại pháp chậm rãi đả thông kinh mạch tổn thương, nhưng vẫn phải tiếp tục hành công trị thương vào những lúc cần thiết, khi đó mới có thể hoàn toàn phục nguyên, nếu trong giai đoạn này lại bị thương lần nữa, Nhật Nguyệt Lệ Thiên đại pháp cũng không giúp nổi, hậu quả thật không dám nghĩ đến.

    Trong tâm chàng lại hiện lên đôi mắt trong sáng đẹp đẽ sâu thẳm rung động lòng người, chàng chưa từng thấy qua cặp mắt hút hồn người, vừa kiên cường vừa có cá tính như thế. Mà người ta rõ ràng đối với bản thân mình không có ý gì. Cảm giác bị coi thường khiến chàng cảm thấy bị tổn thương, lại có chút mùi vị ngọt bùi và cay đắng của cuộc đời.

    Tiếp tục nghĩ đến Bàng Nghĩa, rốt cuộc thì đã có chuyện gì xảy ra với lão? Vì sao lão lại phải đem thanh Khảm Thái đao 1 hộ thân mà quăng đi? Hiện giờ thì thanh đao đó vẫn đang còn giắt ở eo lưng chàng.

    Sau nữa lại còn Lưu Dụ, biết là nơi đó đã trở thành một cái bẫy mà vẫn không thể không dấn thân vào.

    Nhậm Dao đã biết rõ chàng là người trọng tình trọng nghĩa, đương nhiên đoán được chàng sẽ tìm đến để cảnh cáo Lưu Dụ, vì thế nên Nhậm Dao chỉ cần đi trước một bước giết chết Lưu Dụ, tiện thể bố trí chờ chàng chui đầu vào lưới, chẳng cần đi khắp Biên Hoang Tập tìm tung tích chàng. Chuyện phức tạp duy nhất hiện giờ là sự hiện diện của con gái An Thế Thanh, theo như lời cô ta, khi Nhậm Dao phát giác không phải chính là An Thế Thanh, lại sợ mình không giữ lời mang bí mật của ngọc đồ nói với cô ta, khi đó y sẽ có hành động thế nào? Với tâm địa của Nhậm Dao như thế, tất phải giết chết bọn họ hai người mới vui lòng, chuyện Lưu Dụ sẽ giao cho Nhậm Thanh Thị phụ trách.

    Nghĩ tới đây, bất giác cảm thấy đau đầu.

    Đúng vào lúc này, từ xa xa phía tây nam ẩn ước truyền lại âm thanh của một trận giao đấu, nếu không phải vẫn đang trong trạng thái lặng lẽ bán thiền định, chắc sẽ không nghe thấy gì.

    Yến Phi bất giác thấy hoảng hốt, chẳng lẽ lại là Nhậm Dao chặn đường An Ngọc Tình, nhưng nghĩ lại thì rất ít khả năng, với thân thủ của cô ta, hiện tại tối thiểu cũng phải ở ngoài xa hàng chục dặm. Hay là có liên quan đến Bàng Nghĩa? bất luận là lý do nào chàng cũng không thể điềm nhiên tọa thị.

    Yến Phi bật dậy, hướng về phía có âm thanh truyền lại mở hết tốc lực chạy tới.

    ° ° °

    Năm vạn quân tinh nhuệ của viên tướng người Đê tộc Lương Thành chờ đêm tối bắt đầu dùng dây chão to giăng ngang kéo bè gỗ vượt sông, tập hợp bên bờ nam Hoài Thủy, phía tây Lạc Giản, liền đêm xây dựng mộc trại.

    Đương lúc người ngựa mệt mỏi, Lưu Lao Chi và Hà Khiêm theo hai đường thủy lục đồng thời tiến đến, trước lúc trời sáng bí mật xông vào, trước tiên cắt đứt giao thông trên sông, lúc ấy còn gần một vạn quân lính chưa kịp qua sông Hoài.

    Thủy quân trên thuyền của Bắc Phủ binh trước tiên bắn hỏa tiễn đốt cháy doanh lũy, Đê binh đang quá mỏi mệt lập tức vỡ trận tán loạn, Lưu Lao Chi thân suất năm ngàn tinh kỵ chia thành bốn mũi tập kích đại quân Lương Thành đã qua sông, đám này lập tức tan vỡ, tranh nhau bỏ chạy về phía Hoài Thủy, trận chiến hai bên giao tranh biến thành một bên mặc sức chém giết. Lưu Lao Chi chém Lương Thành và Vương Hiển, Vương Vịnh cùng hàng chục viên tướng, Đê binh trận này chết hơn một vạn năm ngàn, đám còn lại tán loạn chạy trốn vào Biên Hoang.

    Lưu Lao Chi thu quân khải hoàn kéo thẳng về Hạp Thạch thành.

    Tin thắng trận truyền về tới Hạp Thạch thành, toàn thành tướng sĩ hoan hỉ phấn chấn, càng thêm tràn đầy tin tưởng đối với Tạ Huyền, người người thề trung thành, sĩ khí dâng lên đến cùng cực.

    Lúc này hai vạn khinh kỵ của Phù Kiên vừa vượt qua Nhữ Âm thành, bất quá tâm tình của y so với khi bắt đầu xuất phát đã khác nhau một trời một vực.

    Chu Tự ở phía sau y niềm tin đối với Tạ Huyền đã tăng lên nhiều, càng cương quyết bội phản Phù Kiên. Vào lúc chính ngọ, bọn họ đã nhìn thấy tín hiệu khói trên đỉnh núi báo tin thất trận của Lương Thành, nhưng mãi đến khi gặp tàn binh chạy về mới biết Lương Thành thất bại thảm hại, tâm tình hoảng hốt mất sức chiến đấu, có người chứng kiến Lương Thành bị Lưu Lao Chi tự tay chém chết.

    Đối với Phù Kiên, sự thực tàn khốc tựa như sấm động giữa trời quang, đả kích nặng nề đối với tín tâm và thực lực của y. Phải biết năm vạn kỵ binh của Lương Thành là đội kỵ binh tinh nhuệ nhất thuộc Đê binh, nếu có thể cùng với hai mươi lăm vạn bộ binh và kỵ binh chiếm lĩnh Thọ Dương của Phù Dung tương hỗ chi viện lẫn nhau thì Phù Kiên sẽ dễ dàng lập thế đứng vững chắc, hiện giờ thì toàn thể những bố trí đó đều bị kỳ binh của Tạ Huyền làm cho rối tung, biến thành cục diện Thọ Dương với Hạp Thạch đối kháng cách sông Phì Thủy, khác xa trù tính ban đầu.

    Mà Phù Kiên lúc này lại không có đường lui, cũng không có thời gian để điều động và bố trí lại.

    Hiện tại lực lượng lưu giữ Biên Hoang Tập đang lục tục kéo tới đây đều chủ yếu là bộ binh, sức mạnh chiến đấu không cao, tính cơ động cũng thấp, trong lúc quân tình khẩn cấp thế này sợ cũng chẳng giúp gì được mấy. Tốt nhất là giả như năm vạn kỵ binh của Lương Thành nếu có thể đứng chân ở Lạc Khẩu, có thể bố trí chướng ngại trên sông Hoài, ngăn thủy sư của Tạ Huyền kéo lên phía tây, bảo đảm đường vận lương trên sông an toàn, hiện tại những trù tính đâu vào đấy lại thành ra công cốc.

    Phù Kiên cho ngựa đi chậm lại, cùng với Khất Phục Quốc Nhân phóng ngựa ra khỏi Nhữ Âm thành, trầm giọng hỏi: "Quốc Nhân cho rằng trong tình thế hiện tại, trẫm nên làm gì trước tiên?".

    Khất Phục Quốc Nhân âm thầm thở dài, ngày hôm nay từ lúc nghe tin Lương Thành bại binh, Phù Kiên lúc nào cũng im lặng không nói, đến lúc này mới lại chịu hỏi han hắn, có thể thấy là Phù Kiên đối với việc này tâm phiền ý loạn, không có chủ ý gì nữa. Đối với Phù Kiên hắn cũng có một phần trung thành, do cảm kích cái ân không giết khi Phù Kiên diệt nước Yên, lại để hắn cùng gia tộc tận hưởng vinh hoa phú quý, nhưng vẫn còn xa mới so được với loại như Lữ Quang mấy người là đại tướng cùng bổn tộc của Phù Kiên, liền phân tích: "Chúng ta tuy trận đầu bất lợi, nhưng cũng vẫn là có được có mất, hiện tại Thiên vương cần minh bạch lý do người của Tạ Huyền rời bỏ Thọ Dương, cũng vì tự biết không thể ứng phó với tình hình lưỡng đầu thọ địch, mới tập trung binh lực, dốc toàn lực đột kích tiên phong quân của Lương tướng quân tại Lạc Giản".

    Phù Kiên gật đầu: "Thứ mà chúng ta được chính là Thọ Dương".

    Khất Phục Quốc Nhân tiếp tục nói: "Binh lực của ta vẫn chiếm ưu thế áp đảo, mà trong chiến dịch Lạc Giản, địch nhân tất cũng có tổn thương, chúng ta hiện giờ biện pháp ổn thỏa nhất là tăng cường toàn diện lực lượng phòng ngự tây ngạn Phì Thủy và Thọ Dương trấn, chờ đại quân tới rồi mới qua sông tiến công Hạp Thạch, Tạ Huyền đúng lý sẽ không dám lấy trứng chọi đá, vượt Phì Thủy tiến công ta. Bất quá điều này cũng rất khó nói, nếu tôi là Tạ Huyền, sinh lộ duy nhất là thừa cơ quân ta binh lực tập kết chưa xong, sắp đặt bố trí chưa ổn, xua quân quyết một trận tử chiến. Nếu chuyện này xảy ra, chúng ta sẽ có cơ hội tốt để rửa sạch mối nhục bại trận trước đấy. Tiến công, thoái thủ đều do ở một tay Thiên Vương nắm giữ".

    Phù Kiên hai mắt chớp ngời, cháy rực nỗi thống hận đối với việc toàn bộ đội quân của Lương Thành bị hủy diệt, hung dữ nói: "Nếu Tạ Huyền dám vượt qua Phì Thủy, trẫm sẽ khiến hắn có đi không về".

    Khất Phục Quốc Nhân lộ thần sắc tàn nhẫn trong mắt, trầm giọng nói: "Hiện tại tình thế rõ ràng, nếu có thể đánh gục Bắc Phủ binh của Tạ Huyền, Kiến Khang thành giống như vật trong túi chúng ta, Hoàn Xung thì giống như nước xa không cứu được lửa gần, chỉ cần chúng ta chặn đứng giao thông thủy vận trên đại giang, rồi chia binh giữ chắc Thọ Dương và Hạp Thạch hai thành, Hoàn Xung chỉ còn nước ngồi yên chờ chết. Quốc Nhân cho rằng nên lập tức điều ba vạn tinh kỵ của Mộ Dung thượng tướng tới, khi binh đội này tới rồi thì ngày tàn của Tạ Huyền cũng đến!".

    Phù Kiên mắt sáng lên, gật đầu đồng ý: "Tốt! Nhất nhất theo đề nghị của Quốc Nhân mà làm, trước khi thượng tướng quân tới, chúng ta sẽ làm công tác chuẩn bị để vượt sông, hãy để cho Tạ Huyền đắc ý một trận này".

    Khất Phục Quốc Nhân lại một lần nữa ngầm thở dài, bọn họ lần này không còn đường lui, nếu triệt thoái về bắc, Tạ Huyền và Hoàn Xung tất sẽ mượn ưu thế của thủy sư, triển khai đột kích, cắt đường vận lương, khi đó thì sĩ khí cùng ý chí phấn đấu của bộ đội nam chinh sẽ mất hết, không còn muốn đánh nhau nữa.

    Hắn cũng đã nghĩ đến việc thỉnh Phù Kiên lui về tọa trấn Biên Hoang Tập, khống chế đại cục từ xa, bất quá như vậy càng khiến cho sĩ khí của bộ đội nam tiến vừa mới bị sứt mẻ chịu thêm sự đả kích nghiêm trọng, bèn thủ tiêu ý định này.

    Tạ Huyền sử dụng kỳ binh đánh tan bộ đội của Lương Thành, đã khiến Phù Kiên sinh ra cảm giác sợ hãi đối với ông. Dưới tình thế phát triển như vậy, bọn họ chỉ còn một con

    đường có thể theo, cho là cùng với Tạ Huyền quyết chiến ở Phì Thủy, đại quân nam chinh từ chủ động hóa thành bị động, trước đây nào có nghĩ đến bị hãm vào tình huống như thế này.

    ° ° °

    Yến Phi chui ra khỏi đám rừng rậm rạp, tới một con đường dịch đạo 2 xuyên qua rừng, một cảnh tượng thê thảm đập vào mắt khiến chàng không dám nhìn.

    Trên con đường rừng từ phía đông nam chạy vòng vèo tới, xác người nằm rải rác, có tới hơn một chục cái xác. Ở khúc quanh đầu đường phía bắc, một cỗ xe la đổ sập bên đường, hai con la kéo xe cũng không tránh khỏi tai họa, nằm trong vũng máu.

    Bất kể là người hay la, đều bị trảo nát thiên linh cái mà chết, người xuất thủ không cần nói cũng biết là Thái Bình Thiên Sư yêu nhân Lư Tuần, đây chính là thủ pháp giết người ưa thích nhất của hắn.

    Có thể tưởng tượng đám người này đương khi ngồi trên xe la, từ nam đi lên bắc, Lư Tuần từ mặt nam đuổi tới, xuất thủ đột kích, những kẻ bị tiến công chống cự quyết liệt, vừa đánh vừa chạy, kết quả toàn đội bị diệt, xe hủy người chết.

    Nằm chết rải rác trên đường toàn bộ đều mặc đạo bào, có thêu tiêu chí của Thái Ất Giáo, nhưng không có Vinh Trí trong số đó.

    Thái Ất Giáo và Thiên Sư Đạo là tử địch, bị Lư Tuần bắt gặp, tự nhiên ra tay không thương xót, nhưng mấy con la vô tội liên lụy cũng không chịu bỏ qua, thực khiến Yến Phi phẫn nộ không biết đến chừng nào.

    Yến Phi sợ Lư Tuần vẫn còn đâu đó gần đấy, đề cao cảnh giới, tuy biết nội thương chưa lành, không nên động thủ, nhưng vẫn hận Lư Tuần đã chuồn mất, không để chàng có cơ hội liều mạng trừ ác.

    Tới bên cỗ xe, bỗng nhiên phát giác bên bụi cây ven đường một chiếc hòm gỗ dài dài bị phá nát, kích thước có thể chứa được một thân người. Trong lòng chấn động, nghĩ tới chuyện đám giáo đồ Thái Ất giáo có lẽ tới để tiếp ứng cho bọn Vinh Trí ba người, cái hòm gỗ này là theo kế hoạch dùng để che giấu Mạn Diệu phu nhân bắt cóc được, nào ngờ hảo mộng thành không, bị Nhậm Dao bố trí cạm bẫy, khiến bọn Vinh Trí ba người thì hai chết một bị thương, mà Vinh Trí còn mệnh cũng chẳng bao lâu.

    Yến Phi bước qua cỗ xe la, con đường ngoằn ngoèo hướng về phía tây bắc, nghe loáng thoáng có tiếng nước chảy truyền đến.

    Chàng đang nghĩ đến Vinh Trí sau khi trốn khỏi Trữ gia trấn, chạy đến nơi nào đó hội hợp cùng đám giáo đồ này, mới chọn con đường trước mặt chuồn lên phía bắc.

    Nhậm Dao đã nói Vinh Trí nếu chạy được ra ngoài mười dặm thì đã là quá giỏi. Do đó mà suy ra đám giáo đồ Thái Ất Giáo chờ đợi Vinh Trí ở một địa điểm không thể quá xa chỗ này, bằng không đám người này vẫn còn đang phải chực chờ Vinh Trí. Bất quá vì muốn tránh khỏi sự truy sát của Tiêu Dao Giáo, cho nên chờ đến lúc này mới khởi hành, nhưng lại cũng không tránh khỏi kiếp số.

    Yến Phi tiếp tục vừa đi về phía trước, vừa suy nghĩ, "Vinh Trí giờ này ở đâu? Kết quả là sống hay là chết?".

    Lần này giống như tai bay vạ gió, Lư Tuần chỉ nhân lúc truy tung Yến Phi, khéo sao gặp phải đám Thái Ất giáo đồ, lẽ nào có thể để bọn họ an nhiên phản hồi phương bắc. Ra khỏi đường rừng, không gian rộng mở, cuối đường là một dòng sông lớn chảy từ phía tây bắc xuống đông nam, ở tận cùng con đường còn có một bến sông nhỏ.

    Dòng sông lớn này hẳn phải là Tuy Thủy, chảy theo hướng đông nam sẽ hợp với Tù Thủy, lại tiếp tục xuôi về nam sẽ tới trọng trấn gần bờ biển của Nam Tấn là Hoài Âm, theo dòng Tứ Thủy lên phía bắc là Bành Thành và Nam Duyện châu.

    Yến Phi lần lượt dõi ánh mắt quan sát xa gần, trên sông không thấy có thuyền bè, tĩnh mịch không người, nghĩ thầm theo lý thì giáo đồ Thái Ất Giáo đã chọn lộ tuyến này, tự nhiên phải có thuyền tiếp ứng.

    Chẳng lẽ là do Lư Tuần thuận tay dắt dê, giương buồm đi mất sao? Nghĩ đến đó lại phát giác có điều không đúng, Lư Tuần chính là đi tìm bọn họ, sao lại có chuyện bỏ đường bộ đổi qua đường thủy?

    Nghĩ đến đây, nhìn thấy thấp thoáng ở phía bắc có một nhánh sông chảy về phía đông, liền vội vã đi theo hướng đó.

    ° ° °

    Lưu Dụ theo chỉ thị của Tạ Huyền, cùng viên đầu lãnh công binh là Trương Bất Bình nghiên cứu cách chế tạo các bao đá vụn, rồi sai quân sĩ diễn luyện, chứng minh quả nhiên là dùng được, liền huy động toàn thể lính công binh tìm trong rừng rậm ở Bát Công Sơn một vùng đất hoang vu, khởi công chế tạo.

    Trương Bất Bình vốn là một thợ thủ công nổi danh ở Kiến Khang, đa tài đa nghệ, mấy hôm nay vừa lật đật chế xong hơn vạn bộ binh phục giả, hiện tại lại vì việc chế tạo bao đá mà ra sức.

    Không biết vì sao Lưu Dụ chợt nhớ tới An Ngọc Tình, thật kỳ quái là gã đối với ả ta chẳng những không hề có chút địch ý nào, ngược lại còn cảm thấy tính tình độc ác của ả ta khiến ả ta có ý vị nữ nhân cùng sức lôi cuốn đặc biệt, có bản sắc tuy là bản sắc yêu tà.

    Cuối cùng là bằng cách nào mà tránh được Khất Phục Quốc Nhân lùng sục tìm kiếm ả ta khắp Biên Hoang Tập. Nhất định không phải là trốn tránh nơi nhà vắng vườn hoang, do đó mà biết nữ tử này hẳn phải có pháp bảo khác.

    Nữ tử này hành vi ngụy dị, không có vẻ giống như con gái Đan Vương An Thế Thanh. Cho đến lúc này, gã rốt cuộc đối với thân phận của An Ngọc Tình lại có sự hoài nghi.

    Đúng lúc đó, Tôn Vô Chung tới tìm gã. Vị thượng ty cũ này vừa tới cách đấy không lâu, hai người gặp mặt tất nhiên cao hứng phi thường.

    Tôn Vô Chung thân thiết kéo gã qua một bên nói: "Tiểu Dụ, ngươi lần này hoàn thành nhiệm vụ Huyền soái giao phó, lại trinh sát biết trước một bước hướng di chuyển của đại quân Lương Thành, liên tiếp lập hai đại kỳ công, tham quân đại nhân và ta cao hứng phi thường. Hiện tại lập tức cử hành hội nghị tác chiến, Huyền soái sẽ cho ngươi được dự thính, tham quân đại nhân và ta đều cảm thấy rất có thể diện, ngươi cần tham dự cho tốt".

    Tôn Vô Chung kéo gã theo đường rừng đi về phía Hạp Thạch thành.

    Lưu Dụ nói: "Hoàn toàn là nhờ đại nhân nhiều năm vun đắp đề bạt".

    Tôn Vô Chung cười khẽ: "Nếu ngươi chẳng phải lương tài mỹ ngọc, bất kể mài dũa cách nào cũng chỉ lãng phí thời gian, Huyền soái lần này thăng liền hai cấp cho ngươi, ngươi nhất định phải nắm chắc cơ hội này, tương lai tất sẽ có thể trở thành người đứng đầu tại Bắc Phủ binh".

    Lưu Dụ vội gật đầu đồng ý.

    Lại nhớ tới thứ gọi là "đan độc" của An Ngọc Tình, nếu đúng là độc do Đan Vương An Thế Thanh luyện thành, mình làm sao dễ dàng bài xuất ra ngoài thân thể như thế? Không kềm được càng thêm hoài nghi thân phận của người đẹp này, chợt lại ngầm kêu không hay. Chính mình đã cùng Yến Phi vẽ lại đồ hình trên ngọc bội giao cho ả ta, có hơn một nửa nguyên nhân là vì ả ta là con gái của An Thế Thanh, nếu ả ta mà là kẻ mạo xưng, há chẳng phải là rất rất không hay hay sao?".

    Tôn Vô Chung nào biết trong lòng gã đang nghĩ tới những thứ chẳng liên quan gì đến lời ông ta, tiếp tục nói: "Cư xử trong nghị sự đường, nếu không ai hỏi gì ngươi, kiểu gì cũng đừng chủ động phát ngôn, rõ chưa?".

    Lưu Dụ lập tức hiểu rõ, gã tuy được thăng phó tướng, thành phó thủ của Tôn Vô Chung, sự thực vẫn chưa đủ tư cách tham gia hội nghị quân sự bậc cao của Bắc Phủ binh.

    Trong tình huống này, sự việc của gã chỉ có thể do Tôn Vô Chung đại diện tường thuật, Tạ Huyền điểm tên muốn gã dự thính, chính là không làm đúng quy định, bất giác càng sinh lòng cảm kích Tạ Huyền.

    Tôn Vô Chung đặc biệt cảnh cáo gã: "Ngươi đối với lời lẽ của đại tướng Hà Khiêm cần đặc biệt cẩn thận, lần này công lao đánh thắng quân Lương Thành bị tham quân đại nhân giành hơn một nửa, nghe nói ông ta vì chuyện này từng trước mặt Cát Khản và Lưu Quỹ hai vị đại tướng kêu ca phàn nàn. Ngươi là người của Tham quân đại nhân, không chừng ông ta đối với ngươi ngôn ngữ sẽ không khách khí đâu".

    Lưu Dụ ngớ ra một lúc, đến giờ mới biết bên trong Bắc Phủ binh cũng có tranh chấp bè phái, trước đây vị nhỏ chức bé, Tôn Vô Chung không muốn nói đến phương diện này với gã. Hiện thời gã tuy đã là phó tướng, nhưng trong Bắc Phủ binh ít ra cũng có hàng chục phó tướng, vẫn chỉ là hạng quân quan cấp thấp, muốn thăng lên hàng tướng quân, chẳng những cần phải lập được đại công, lại còn cần có người đề bạt mới được.

    Bất giác quay nhìn về phía Tôn Vô Chung.

    Vị này đã từ lâu luôn khiến gã có cảm giác cao vời vợi của một vị Bắc Phủ binh đại tướng, tuy không như trước đây xa không với tới nữa, nhưng lấy chức vị mà luận thì vẫn còn khoảng cách về cấp chức không dễ vượt qua.

    Cho dù là tướng quân cũng được phân ra rất nhiều đẳng cấp, tướng quân nói chung, đại tướng và thượng tướng đã có khác biệt về cấp chức, lại còn thêm lãnh chức hàm nào, quyền lực và địa vị càng thêm phân biệt. Như Lưu Lao Chi có thân phận đại tướng kiêm nhiệm tham quân, liền thành ra nhân vật quyền lực nhất, chỉ dưới Tạ Huyền trong Bắc Phủ binh. Bất quá bản thân gã đã quá may mắn, được Tạ Huyền và Lưu Lao Chi hai người xem trọng, với Tôn Vô Chung thì gã là em út trong nhà, với Hồ Bân quan hệ cũng tốt đẹp, nếu có thể lại lập quân công, thì đúng như Tôn Vô Chung đã nói, tương lai tất sẽ trở nên hạng nhất.

    Tôn Vô Chung năm nay ba mươi lăm, ba mươi sáu tuổi, thấp hơn Lưu Dụ một chút, thân hình vững chắc, có phong độ của một kiếm thủ xuất sắc, khí độ hòa nhã vui vẻ, ngũ quan đoan chính. Trong số chư tướng Bắc Phủ binh, duy nhất ông ta xuất thân từ thế gia vọng tộc phương nam. Tạ Huyền chịu trọng dụng ông ta, chứng tỏ Tạ Huyền không phân biệt và đối lập nam bắc vọng tộc. Vì vậy Tôn Vô Chung đối với Tạ Huyền hết lòng trung thành, mặt khác còn vì Tạ Huyền là vị thống soái đầy mị lực khiến người ta tâm phục và cảm kích.

    Bọn họ là hai người sau cùng tới nghị sự đường, Lưu Dụ khi đó mới phát giác lần này giới lãnh đạo tác chiến tập trung đầy trong sảnh đường, không khí nghiêm trang. Tạ Thạch và Tạ Diễm đều đang ngồi, ngoài ra Lưu Lao Chi, Hà Khiêm, Cát Khản, Lưu Quỹ, Điền Tế và Hồ Bân các tướng đều tham gia hội nghị.

    Tạ Huyền thân giới thiệu Lưu Dụ với các tướng lĩnh chưa quen biết gã, quả nhiên Hà Khiêm cùng Cát Khản, Lưu Quỹ mấy người cùng phe với hắn tỏ thái độ lãnh đạm, Tạ Diễm thì thần tình kiêu ngạo, có thái độ của thế gia đại tộc không coi hàn môn đệ tử ra gì, Tạ Thạch thì ngược lại, ra sức đề cao gã đến tận mây xanh.

    Cuối cùng theo đúng chức vị, ai vào chỗ nấy.

    Tạ Thạch với thân phận chủ soái ngồi ở vị trí tôn quý nhất chính giữa phía bắc nghị sự đường, Tạ Huyền và Tạ Diễm phân biệt ngồi hai bên tả hữu, còn lại chư tướng theo chức tước cao thấp mà bố trí.

    Lưu Dụ đương nhiên là xin mời xuống chiếu dưới, ngồi dưới Tôn Vô Chung, lại còn phải lui về sau một chút. Bất quá đối với gã, có thể được ngồi xuống đó cũng đã cám ơn tổ tông, thỏa mãn lắm rồi.

    Tạ Thạch nói qua mấy câu khích lệ, lại đặc biệt chỉ rõ công lao đại phá quân Lương Thành của Lưu Lao Chi và Hà Khiêm, sau đó hướng về phía Tạ Huyền hỏi: "Tình hình hiện thời ra sao?".

    Tạ Huyền ung dung cười, điềm đạm nói: "Phù Kiên rốt cuộc đã trúng kế nam lai, thân suất khinh kỵ chạy về Thọ Dương, đêm nay có thể tới nơi".

    Chúng tướng không ai không động dung, tuy nhiên đa số không hiểu rõ vì sao Tạ Huyền nói Phù Kiên trúng kế.

    Lưu Dụ thì trong lòng chấn động, hiểu rằng Chu Tự cuối cùng đã phát sinh hiệu dụng. Hiện giờ do Tạ Thạch dẫn tới, Bắc Phủ binh đã tập trung toàn bộ đến đó, cùng chủ lực của Phù Kiên đối kháng chính diện. Trận này thắng hay bại, cũng tương ứng với thành bại của nam bắc chính quyền, trực tiếp quyết định vận mệnh của thiên hạ sau này.

    --------------------------------
    1 Dao thái rau.
    2 Đường dùng để vận chuyển công văn thư tín.

  11. #30
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 30

    Đồng hồ 1 Đan kiếp
    Yến Phi men theo nhánh sông Tùy Thủy chảy về đông đề khí chạy nhanh, chợt dừng bước, ngay bên chân chàng, trong bụi cây ven đường, một đoạn kiếm gãy lóe lên phản chiếu ánh sáng từ vừng dương sắp lặn xuống non đoài. Trường kiếm gãy ở đoạn giữa, trong đám cỏ dại còn thấy đoạn chuôi kiếm gãy, chỗ tay cầm có vết máu đã khô.

    Yến Phi tuy còn trẻ, nhưng lại là lão giang hồ, suy đoán đoạn kiếm này rất nhiều khả năng thuộc về Vinh Trí, đêm trước lúc giao thủ cùng Nhậm Dao, kiếm này bị cường lực chấn gãy, còn làm cho hổ khẩu rách nát, khiến chuôi kiếm dính máu. Nếu như là chuyện này xảy ra với Lư Tuần, máu tươi thấm trên chuôi kiếm tất còn chưa kịp khô đi như thế.

    Xung quanh không có dấu vết của cuộc đấu, điều này cho thấy Vinh Trí để tránh Lư Tuần, liền nhân lúc thủ hạ đang kịch chiến với Lư Tuần, chạy đến nơi này. Như vậy thì Vinh Trí phải ở đâu đó cách đây không xa.

    Yến Phi quét mắt quan sát xa gần, nhất thiết không bỏ sót điều gì. Vết chân Vinh Trí trên bờ cỏ ven sông lập tức lộ ra, men theo bờ sông tới một khoảnh rừng rậm rạp không xa, có nhiều cây cối lúp xúp cành lá um tùm chìa ra tận mặt sông. Từ bên trong bụi cây này ẩn ước truyền lại âm hưởng gỗ đá va chạm tùy theo dòng nước nhẹ nhàng chảy qua.

    Yến Phi cất bước đi xuống bờ cỏ, thẳng tới mép sông, vạch cành lá nhìn vào, thấy một chiếc thuyền cá dài chừng ba trượng, được buộc chặt bằng dây thừng vào một gốc cây trên bờ, hết sức kín đáo, nếu men theo bờ sông đi thẳng không đặc biệt lưu ý, chắc hẳn sẽ bỏ qua. Theo sóng nước dập dềnh trên sông, thân thuyền không ngừng va vào một khối đá lớn nằm ở bờ nước, phát ra những thanh âm chàng vừa nghe thấy.

    Yến Phi tung người nhảy xuống đuôi thuyền, qua khoang thuyền mở rộng nhìn vào, bỗng nhìn thấy Vinh Trí trong một góc khoang thuyền, nửa nằm nửa ngồi tựa vào vách, sắc mặt tái nhợt như người chết, hai mắt nhắm nghiền, tay trái chống xuống sàn đỡ lấy thân thể, tay kia giữ chặt một vật gì đó đặt trên đùi, như muốn cầm tay giơ lên, tiếc là không thể, lồng ngực nhô lên thụt xuống rất nhanh, hô hấp khó khăn, rõ ràng sắp chết đến nơi.

    Yến Phi tuy không có chút hảo cảm nào với hạng yêu nhân này, nhưng thấy y tính mệnh nguy cấp, liền sinh lòng trắc ẩn, đi vào khoang thuyền.

    Vinh Trí chung quy vẫn là cao thủ, vẫn có thể duy trì cảm giác, cặp mắt gắng gượng mở ra, hiện lên thần sắc cảnh giác, sau khi thấy không phải Lư Tuần hay Nhậm Dao, liền nhẹ nhõm đi đôi chút, đau đớn hỏi: "Ngươi là ai?".

    Yến Phi ngồi xuống trước mặt y, nhìn kỹ sắc mặt, biết y sinh cơ đã tuyệt, dù Đại La Kim Tiên cũng không thể cứu được. Nếu không suy nghĩ mà truyền chân khí vào, chỉ làm y chóng chết hơn. Hít một hơi thở nói: "Ta chỉ là người qua đường, đạo trưởng có di ngôn gì không?".

    Vinh Trí xòe bàn tay phải. Một tiếng "đinh" vang lên, một chiếc bình nhỏ bằng đồng từ lòng bàn tay rơi xuống sàn thuyền, lăn tới bên chân Yến Phi.

    Yến Phi đưa mắt nhìn, thấy miệng bình có nút bằng đồng dùng lửa hàn kín mít, xem màu sắc chất liệu, bình này ít nhất cũng bị hàn kín từ nhiều năm. Bụng nghĩ bên trong bình nhiều khả năng là một loại thánh dược trị thương gì đấy, kỳ lạ là sao Vinh Trí đến trước lúc chết mới đem ra phục dụng, mà không dùng vào lúc trốn khỏi.

    Yến Phi ngạc nhiên nhìn về phía Vinh Trí nói: "Đạo trưởng phải chăng muốn phục dụng dược vật trong bình đồng này?".

    Vinh Trí bất lực ngã đầu tựa vào vách thuyền, khổ sở hít thở luồng chân khí cuối cùng.

    Yến Phi biết y hơi thở đứt đoạn, không chút do dự, hữu thủ chụm lại điểm vào mỗi đại yếu huyệt trên lồng ngực, tống xuất chân khí, đúng lúc chân khí tiêu tán, tính mệnh sắp sửa kết liễu, lập tức sắc mặt Vinh Trí trở lại hồng nhuận, có thể miễn cưỡng ngồi vững hơn một chút, mục quang kinh dị dò xét Yến Phi, giọng run rẩy nói: "Ngươi là một người tốt, ài!".

    Yến Phi thầm nghĩ đây hoặc giả con người sắp chết thường nói điều tốt, nói: "Đạo trưởng có di ngôn gì, xin lập tức nói ra".

    Vinh Trí run giọng nói: "Ngàn vạn lần xin chớ mở nút cái bình này, lập tức đem nó ném xuống sông".

    Yến Phi ngạc nhiên, nhưng sau đó nghĩ Vinh Trí chắc là sợ Lư Tuần quay trở lại cướp được vật trong bình, làm như thế yên tâm hơn. Gật đầu: "Được!" Rồi thò tay nắm lấy đồng bình trên sàn, nghiêng nghiêng thân bình, nghe bên trong có vật gì đó tựa như đồ kim thuộc lăn qua lăn lại, trên tay có cảm giác lạ lạ.

    Yến Phi chẳng buồn nhìn, giơ tay định ném ra ngoài song cửa, để nó vĩnh viễn chìm dưới đáy sông.

    Vinh Trí chợt đúng lúc kêu ngừng, nói: "Đừng!".

    Yến Phi quay lai nhìn y, người này tuy hít thở đã khó khăn lắm rồi, vậy mà song mục vẫn chiếu ra tia vui mừng khó giấu.

    Yến Phi tài trí hơn người, lòng chấn động, hiểu ngay vì sao y hoan hỉ, bất giác sinh lòng khinh bỉ, yêu nhân vẫn là yêu nhân, Vinh Trí vốn không thực lòng muốn mình mang đồng bình quăng xuống sông, mà là mượn chuyện đó để coi thử mình có phải hạng người thấy của báu mà tối mắt hay không, hiện giờ đã hiểu mình là loại người gì rồi, đương nhiên sẽ lợi dụng mình để giúp y hoàn thành một chuyện gì đó.

    Bất quá nếu y muốn mình mang vật nọ đi giao cho giáo chủ Giang Lăng Hư, Yến Phi sẽ tuyệt không ưng chịu, chỉ việc mang nó quẳng xuống sông là xong chuyện. Đối với đồ vật của yêu nhân, chàng vốn không có chút hứng thú.

    Quả nhiên Vinh Trí liệu mình cũng không còn được mấy sức lực, tiếp tục nói: "Kiến Khang thành, Bình An lý, Dương Xuân hạng có một người kêu là Độc Tẩu, nhà lão phía nam trông ra sông Tần Hoài, ngươi mang cái bình đó cho lão, tất nhiên lão sẽ hậu tạ ngươi cực kỳ hậu hĩnh, nhớ không được mở nút ra, ta...". Đầu ngoẹo sang bên, cố hít một hơi cuối cùng, song mục vẫn mở trừng trừng.

    Yến Phi vuốt mắt cho y, mệt mỏi ngồi xuống.

    Chẳng biết vì sao, chàng bỗng cảm thấy tâm tình nguội lạnh, sinh mệnh con người mới mỏng manh làm sao, đêm qua Vinh Trí cản đường chặn xe uy phong bát diện là thế, hiện tại đã biến thành một thi thể không còn sinh mệnh. Cái chết thực không thể nghịch chuyển cũng như tránh né, giống như mẫu thân, đã mất đi không còn chút vết tích.

    Chầm chậm giơ tay, xòe bàn tay.

    Tiểu đồng hồ hiện ra trước mắt, dưới ánh tịch dương còn sót lại, lấp lánh chiếu sáng, chẳng biết có phải vì đó là đồ vật của Vinh Trí hay không mà như có chút cảm giác yêu tà, Yến Phi xoay thân hồ sang một bên, hai hàng chữ nhỏ như đầu ruồi bỗng nhiên đập vào mắt: "Đan kiếp. Cát Hồng khấp chế" 2.

    Sáu chữ này được người dùng một thứ công cụ như mũi dùi chạm vào thân bình thành chữ, nếu không nhìn tận mắt thật kỹ, sẽ vì thân hồ phản quang mà lướt qua mất.

    Yến Phi giật mình, suýt nữa tuột tay đánh rơi tiểu hồ, Cát Hồng hoàn toàn không phải là nhân vật tầm thường, mà là vị Đan đạo đại tông sư ngang dọc lưỡng Tấn, là người trước tác tác phẩm danh trấn thiên hạ "Bão phác tử" được coi là Đan học kinh điển. Nội thiên gồm hai mươi quyển, luận bàn đủ thần tiên phương dược, quỷ quái biến dị, kim đan huỳnh bạch, thuật dưỡng sinh kéo dài tuổi thọ, thuật cầu tà tránh họa, ngoại thiên năm mươi quyển, bàn luận kỹ càng về nhân gian đắc thất, thế sự khen chê, kết hợp cả Nho, Đạo nhị giáo.

    Nếu cái bình này có quan hệ với ông ta, vậy thì vật bên trong hẳn là thứ có thể khiến đất trời khủng khiếp, quỷ thần than van. Có lẽ vì Đan kiếp quá ư đáng sợ nên cái con người bí ẩn khiến người khác không rét mà run cũng phải nói "khấp chế"! Còn quá nhiều chuyện nghĩ không thông, bình này vì sao lại rơi vào tay Vinh Trí? Y thụ thương vì sao không lập tức phục dụng? Đến lúc sống không nổi nữa mới lại nghĩ đến việc sử dụng, tuy nhiên cũng có thể không phải muốn phục dụng mà là muốn mang ném xuống sông hay có dụng ý khác.

    Mình có nên bật nắp ra coi xem thực ra là cái gì không?

    Mục quang chuyển qua khuôn mặt Vinh Trí chết nằm đó, ngấm ngầm thở dài. Yến Phi tuy rất hiếu kỳ, nhưng tóm lại vẫn không thể nhân khi đối phương thi thể chưa nguội mà làm chuyện đó, thêm vào đấy hai chữ Đan kiếp quả là khiến người ta kinh hãi. Nếu đúng là chân bửu bối, người chế ra nó đã sớm nuốt gọn, việc gì phải mang giấu kín trong bình.

    Cẩn thận đem tiểu hồ cất kỹ vào người, đang muốn an táng tử tế cho Vinh Trí, bên bờ có tiếng xé gió truyền lại.

    Yến Phi lúc này không có ý tranh thắng, bản thân e rằng dù chưa thụ thương, vẫn không phải là đối thủ của Lư Tuần, huống chi hiện giờ đã bị nội thương? Lại còn sợ nếu để tiểu đồng hồ lọt vào tay Lư Tuần, không biết sẽ có hậu quả đáng sợ gì đây? Nghĩ đến đó liền lặng lẽ rời khỏi khoang thuyền, chuồn xuống dòng sông lạnh lẽo.

    ° ° °

    Do chính Tạ Thạch khởi xướng, chúng nhân gồm cả Lưu Dụ mặc quân phục giáp trụ, Tạ Huyền thì bạch y nho cân, khí độ tiêu sái bất quần, người người nói nói cười cười bàn luận, trào dâng khí thế mong mỏi đến giờ phút được mang quân thắng địch. Lưu Dụ so với bất kỳ ai có mặt lại càng được thụ hưởng nhiều hơn từ Tạ Huyền, người khác chỉ hy vọng vào tài lãnh đạo của ông, vào kỳ mưu diệu kế để giành thắng lợi trong trận đại chiến quyết định sự tồn vong của Nam Tấn, nhưng gã Lưu Dụ thì lại từ bản thân ông học được bí quyết trở nên một vị thống soái. Tạ Huyền ra mặt thuyết giáo, Lưu Dụ hưởng lợi vô cùng. Tạ Huyền để gã tham gia trường thịnh hội này, chính là muốn gã tận mắt chứng kiến cái cách làm sao khiến người người tâm phục khẩu phục, hành sự đúng theo kế hoạch đã định của mình.

    Tạ Huyền không một câu nói thừa, lời lời hàm ý sâu sắc, dẫn dụ mọi người, phối hợp với hình tướng phong độ xuất sắc của ông, có ai không vui lòng tuân phục?

    Tạ Huyền khẽ mỉm cười, ung dung nói: "Trận này điều kiện quan trọng để chúng ta giành được thắng lợi là có thể tốc chiến tốc thắng hay không. Nếu như Phù Kiên lưu lại giữ hậu phương, chúng ta tuy có ý tốc chiến, cũng đành bất lực. Do vậy ta đã trao mật thư cho Chu Tự, nhờ ông ta xúi giục Phù Kiên nam lai chủ trì trận chiến này, nếu có thể một trận đánh bại Phù Kiên, lập tức phân định được thắng bại".

    Ngoài Lưu Dụ ra, chúng nhân đến tận lúc này mới hiểu rõ vì sao Tạ Huyền đối với việc Phù Kiên thân chinh tới chiến trường lần này không lo mà ngược lại còn mừng, còn Tạ Thạch đến bây giờ cũng mới minh bạch nguyên nhân khiến Tạ Huyền nhất quyết dụ dỗ Chu Tự phản lại Phù Kiên.

    Phải biết Phù Kiên sau khi thống nhất phương bắc, uy vọng đã cao, chính sách "hỗn nhất tứ hải" còn khiến không ít Hồ nhân trong lòng cảm kích và quy phục, ngày nào y còn chưa nếm mùi thất bại, vẫn có thể uy trấn các tộc Hồ ở phương bắc, đại quân nam chinh của y tuyệt sẽ không vì một hai trận chiến bại mà tan vỡ, tối đa là song phương sẽ rơi vào cục diện khổ chiến giằng co, trong tình huống này, vì binh lực nam bắc hai bên mạnh yếu khác nhau nhiều lần, cuối cùng bên bại trận hẳn là Nam Tấn chứ không phải Đê Tần.

    Nhưng nếu có thể một lần đánh bại đại quân do đích thân Phù Kiên chỉ huy, uy danh của Phù Kiên sẽ sụp đổ, các tộc tất nhiên sẽ tứ phân ngũ liệt, Đê Tần đế quốc cũng đi đời. Do vậy mà nói, thủ đoạn này của Tạ Huyền quả thực lợi hại phi thường. Mọi người nhao nhao khen hay, nhờ mưu kế kỳ diệu của Tạ Huyền, khiến sĩ khí rung động, lại càng hiểu rõ hơn tính chất quyết định của thắng lợi đánh tan quân Lương Thành.

    Tạ Thạch vuốt râu cười nói: "Nghe nói Phù Kiên chưa khi nào thân ra tiền tuyến chỉ huy một trận quyết chiến đại quy mô, lần này là lần đầu dấn thân vào nơi nguy hiểm, đại khái cũng là lần cuối cùng y dấn thân hiểm địa".

    Chúng nhân cười hét vang rền, không khí gò ép trước đó hoàn toàn được gỡ bỏ.

    Lưu Dụ thầm nghĩ mưu chước này của Tạ Huyền có thể kêu là một mũi tên trúng hai con chim, nhân vì Phù Kiên tính cách chủ quan, mọi sự cứ ý mình mình làm, ngược lại đệ đệ y Phù Dung lại rất tinh minh lợi hại, lại còn từng trải chiến trận đã nhiều. Hiện tại quyền chỉ huy của Phù Dung đã rơi vào tay Phù Kiên, đối với bên mình thật là trăm lợi không một hại.

    Tạ Diễm từ đầu đến giờ mới phát biểu: "Quân tiên phong của địch vượt sông Hoài ước chừng ba mươi vạn người, hiện năm vạn quân Lương Thành thương vong quá nửa, toàn quân

    tan rã, không cần nói đến. Ba vạn kỵ binh Tiên Ti của Mộ Dung Thùy đã tiến vào trú quân ở Vân Thành, vì vậy địch quân ở Thọ Dương có chừng hai mươi vạn, thêm vào thân binh của Phù Kiên, nhân số không quá hai mươi lăm vạn, tuy nhiên so với Bắc Phủ binh tám vạn người của ta nhân số cũng gấp ba lần. Phía công thành phải có quân số gấp hai lần bên giữ thành trở lên, cho nên nếu chúng ta giữ chắc Hạp Thạch, dựa vào hình thế hiểm trở của Bát Công Sơn tiêu hao binh lực địch nhân, lấy sức bền mà thắng lực mỏi, có thể một trận thắng địch, đấy mới là kế vạn toàn".

    Có tới nửa số người gật đầu đồng ý, trong đó có cả Tạ Thạch, chỉ có Lưu Lao Chi, Hà Khiêm mấy người biết tâm ý Tạ Huyền, không biểu hiện gì.

    Kẻ luôn chủ trương cố thủ là Hồ Bân cũng không biểu thị đồng ý, không phải hắn không đồng ý chiến lược của Tạ Diễm, mà là giống như mấy người Lưu Lao Chi hiểu rõ sách lược của Tạ Huyền hoàn toàn bất đồng. Hắn lần này thật khôn ngoan!

    Lưu Dụ thầm cười lạnh, gã rất không thuận mắt với những kẻ tự cho là cao nhân nhất đẳng có nguồn gốc cao môn đại tộc, mà Tạ Diễm chính là loại người này. Lời này của y chính là biểu thị y chỉ là hạng mọt sách chỉ biết gặm nhấm binh thư mà không hiểu cái đạo lý trên chiến trường phải theo việc mà tính, tùy cơ ứng biến. Tuy nhiên chưa đến lượt gã nói xen vào, chắc chắn Tạ Huyền sẽ thẳng tay bác bỏ lời y.

    Trong khi ánh mắt mọi người đang tập trung cả vào mình, người được kêu là nhân vật siêu trác đệ nhất kiếm thuật và binh pháp đại gia phương nam Tạ Huyền lại im lặng lắc đầu rồi chợt cười nói: "Thế thì Mộ Dung Thùy sẽ hết sức thất vọng mất thôi!".

    Chúng nhân nghe vậy lại ngạc nhiên lần nữa, chỉ có Lưu Lao Chi và Hồ Bân gật đầu ra ý minh bạch.

    Lưu Dụ lại không dám có biểu hiện gì, đồng thời hơi xấu hổ. Trong lòng gã đã hy vọng Tạ Huyền sẽ cho người em họ một bài học, cũng chỉ vì mong một chút khoái ý, nhưng như thế chỉ khiến cho đoàn kết nội bộ tổn hại vô ích.

    Tạ Huyền đột nhiên nói ra câu đó, lập tức lái suy nghĩ của tất thảy mọi người qua một hướng khác, dù đề nghị của Tạ Diễm bị từ chối, Tạ Diễm cũng sẽ không cảm thấy khó chịu.

    Đổi lại nếu Lưu Dụ là Tạ Huyền, sẽ nói thẳng là suy nghĩ của Tạ Diễm quá ngây thơ, chỉ nghĩ đến ưu thế bên mình, mà bỏ qua sách lược ứng đối của địch nhân. Đã muốn tốc chiến tốc quyết trận này, đương nhiên không được để đối phương có cơ hội hồi sức, ví dụ như binh lực tập kết mạnh hơn, hay là phái một đội quân khác xuống hạ du vượt sông Hoài hoặc tiến hành những động tác gì đó đại loại như thế.

    Tạ Huyền giải thích tóm tắt xong quan hệ vi diệu với Mộ Dung Thùy, điềm đạm nói: "Nếu quân ta án binh bất động, coi như bỏ đi trận chiến này, Mộ Dung Thùy và Diêu Trành là hai đại tướng người ngoại tộc quan trọng nhất dưới tay Phù Kiên, trong tình thế ấy đâu dám công nhiên phản bội Phù Kiên, cũng không thể duy trì sách lược chần chừ án binh bất động, đến khi bọn họ đem quân trợ chiến, chúng ta sẽ mất đi lương cơ, bỏ lỡ mất cơ hội duy nhất để thắng trận này".

    Tạ Thạch thay đổi một hơi chân khí, nói: "Binh lực địch nhân gấp ba chúng ta, nếu chính diện đối địch, lại có thể nói may mắn là sao?".

    Tạ Huyền mỉm cười nói: "Tam thúc xin đừng quên Lương Thành trận đó làm sao thất bại, thành bại trong chiến tranh là do vận dụng chiến lược, mưu kế, sĩ khí quyết định". Tiếp đó hướng về phía Hồ Bân nói: "Giả binh bố trí hoàn tất chưa?".

    Hồ Bân cung kính đáp: "Tất cả như Huyền soái phân phó, đã tiến hành ổn thỏa".

    Tạ Huyền song mục như lóe sáng rồi vụt tắt nói: "Ta muốn khiến Phù Kiên phải sinh lòng khiếp sợ thảo mộc giai binh, đêm nay mọi người nghỉ ngơi cho tốt. Ngày mai! Là ngày mai! Ta muốn Phù Kiên nếm thử thất bại đau đớn nhất của y, một trường chiến bại khiến cho y vĩnh viễn không thể ngóc đầu dậy. Đêm nay ta còn phải tiếp đãi một vị quý khách từ Thọ Dương tới".

    Chúng nhân lại ngơ ngác một lúc, kể cả Lưu Dụ, người nào người nấy đều không hiểu gì.

    Tạ Thạch ngạc nhiên nhìn điệt nhi.

    Tạ Huyền chợt đứng phắt dậy, cứ như lẽ đương nhiên nói: "Nếu không phải là Chu Tự thì còn là ai?".

    Lưu Dụ vỗ bàn kêu tuyệt, thời gian từ khi bắt đầu đến lúc kết thúc, Tạ Huyền hoàn toàn khống chế hội nghị, gã cảm giác đến hồi kết thúc hội nghị này, gã giống như được Tạ Huyền trao cho bí quyết thành công, chưa có khi nào gã nắm chắc bí quyết trở thành thống soái như thời khắc này.

    Vầng thái dương chìm xuống Bát Công Sơn, trời dần dần tối, thay vào đó là ánh đèn lửa mờ mờ của Hạp Thạch thành, đối nghịch với ánh lửa đèn sáng rực từ phía bên thành Thọ Dương có các doanh trại, bờ sông đối diện Phì Thủy giống như ở một thế giới khác.

    ° ° °

    Phù Kiên sắc mặt âm trầm đứng trên đầu thành Thọ Dương, từ xa quan sát tình thế bờ bên kia sông. Bồi tiếp y là thân đệ Phù Dung, Khất Phục Quốc Nhân, Mộ Dung Vĩnh, Lữ Quang, Thư Cừ Mông Tốn, Ngốc Phát Ô Cô, Chu Tự cùng một đám tướng lĩnh.

    Bát Công Sơn khắp nơi khắp chốn nhân ảnh trùng trùng, hình thế cực thịnh, khí thế nghiêm trang sẵn sàng.

    Phù Kiên trầm giọng nói: "Phải chăng chúng ta đã đánh giá sai binh lực địch nhân?".

    Phù Dung đáp: "Như vậy chỉ biểu thị Tạ Huyền trong lòng hoảng hốt, sợ chúng ta vượt sông tập kích ban đêm. Theo tình báo của ta, Bắc Phủ binh có thể huy động binh lực tới đây chỉ có tám vạn, mà lấy bộ binh làm chủ, kỵ binh chắc chắn không quá một vạn, nếu tác chiến đồng bằng, vài lần đụng độ chúng ta khẳng định có thể đánh tan bọn chúng".

    Phù Kiên nét mặt bớt trầm trọng, mục quang hướng về dòng Phì Thủy bên dưới từ phía bắc chảy về uốn lượn quanh co phía trước mặt.

    Lữ Quang thừa cơ nói: "Vi thần mới thám sát đáy sông, nơi sâu nhất đến bụng ngựa, không thuận lợi để vượt sông, nên phải đợi thiết lập cầu phao xong mới có thể đại cử tiến công".

    Khất Phục Quốc Nhân gật đầu đồng ý: "Dòng sông này phân chia đông tây, đối với địch nhân cũng bất lợi như thế, chúng ta chỉ nên cách sông cố thủ, chờ đại quân tập kết mới lại phân nhiều đường tiến công, tất có thể lấy được Hạp Thạch thành".

    Thư Cừ Mông Tốn cười gằn: "Coi ra Tạ Huyền tiểu tử không dám chủ động khiêu khích đâu".

    Phù Dung nói: "Bên ta tuy mất quân của Lương Thành, nhưng với chúng ta tổn thất thực lực không lớn, hiện tại đại quân của địch bị chúng ta lôi kéo về đây, tình thế ngược lại thành ra có lợi cho ta. Giả thiết chúng ta lấy ba vạn tinh kỵ của Mộ Dung thượng tướng thay thế Lương Thành, lại theo hạ du vượt sông, Vân Thành thì giao cho Diêu thượng tướng giữ, ngày nào hoàn thành việc điều động thì cũng là lúc Tạ Huyền táng mạng".

    Phù Kiên gật đầu: "Nhất thiết cứ như thế mà làm".

    Chu Tự nói: "Chúng ta có thể ngay trong đêm bố trí chướng ngại bằng gỗ ngăn sông ở đoạn Dĩnh Khẩu hạ du Hoài Thủy, ngăn không cho thủy quân Nam Tấn phong tỏa đường sông hay tập kích lương thuyền để bảo đảm vận chuyển lương thực đồ dùng từ Biên Hoang Tập đến Thọ Dương không bị gián đoạn. Đồng thời tu bổ Thọ Dương thành, khơi sâu mương nước hộ thành, như thế chúng ta càng có khả năng đứng vững tại căn cứ an toàn".

    Mọi người kể cả Phù Kiên ai cũng gật đầu khen hay.

    Chu Tự cười thầm, đó chính là Tạ Huyền mật thư cho hắn dùng kế làm hao sức địch, nói ra lại khiến Phù Kiên càng thêm tin tưởng mình vì y mà ra sức. Hắn lại nói: "Hạ thần còn có một đề nghị, nếu chúa thượng ưng chuẩn, hạ thần có thể qua sông du thuyết Tạ Huyền, như vậy hoặc giả không phí một binh một tốt chiếm được Hạp Thạch thành, Tư Mã Diệu cũng lập tức tiêu đời".

    Phù Kiên ngạc nhiên: "Chu khanh tin là có thể thuyết phục Tạ Huyền sao?".

    Chu Tự nói: "Vi thần rất minh bạch tâm ý các đại tộc vùng Giang Tả, đối tượng tận trung của họ là gia tộc chứ không phải Tư Mã hoàng thất. Tạ An và Tạ Huyền càng hiểu rõ xu thế điểu tận cung tàng, chỉ cần chúa thượng hứa cho bọn họ quan cao tước hậu, gia tộc vẫn phong quang như xưa, lại biết rõ lấy mấy vạn Bắc Phủ binh bé nhỏ chống lại đại quân ta, không khác chi trứng chọi đá, vi thần không chừng có thể tranh thủ được hắn, dù hắn cự tuyệt, cũng chẳng ngại ngần gì mà không thử một phen".

    Phù Dung nhíu mày: "Nếu hắn chẳng những cự tuyệt, mà còn bắt giữ ngươi, chúng ta chẳng phải là được chẳng bằng mất sao?".

    Do bộ binh chủ yếu là Hán nhân, đều do Chu Tự chỉ huy, mà hắn cũng là viên tướng bộ chiến giỏi nhất của Phù Kiên, tướng sĩ bộ binh lại không thiếu thủ hạ khi trước của Chu Tự, theo hắn cùng quy hàng. Do vậy nếu mất đi Chu Tự, đối với Phù Kiên là một tổn thất nặng nề trên phương diện này.

    Chu Tự đáp: "Về mặt này có thể yên tâm, nếu Tạ Huyền dám làm như thế, danh dự cao môn danh sĩ của hắn sẽ bị đả kích nghiêm trọng. Chiến tranh có quy củ của chiến tranh, chúng ta tiên lễ hậu binh, Tạ Huyền sẽ không thể không nhận tình này".

    Phù Kiên hạ quyết định: "Vậy cứ thế mà làm đi! Tạ Huyền phải biết trẫm luôn luôn coi trọng danh dự của hàng tướng".

    Chu Tự trong lòng hết sức phấn chấn, vâng dạ liên hồi.

    --------------------------------
    1 Bình nhỏ bằng đồng, không phải để xem giờ.
    2 Khóc mà chế thành.

Trang 3 / 10 ĐầuĐầu 12345 ... Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Truyền Thuyết Lão Tử
    By giahamdzui in forum Phim Trung Quốc Online
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 05-27-2019, 05:17 PM
  2. Truyền Thuyết Lão Tử
    By giavui in forum Phim Trung Quốc Online
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-07-2019, 09:58 PM
  3. Cánh Đồng Truyền Thuyết
    By giahamdzui in forum Truyện Ngắn Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-06-2016, 06:55 PM
  4. Truyền Thuyết Chiến Lang - Legend of the Red Dragon 1994
    By giahamdzui in forum Phim Lẻ Online
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-17-2014, 04:45 PM
  5. Sư Sĩ Truyền Thuyết
    By giavui in forum Audio Kiếm Hiệp
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-18-2013, 06:49 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •