Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Muốn được hạnh phúc đến mức độ nào, ta phải có đau khổ đến mức độ đó.
Edgar Poe
Trang 4 / 10 ĐầuĐầu ... 23456 ... Cuối Cuối
Results 31 to 40 of 100

Chủ Đề: Biên Hoang Truyền Thuyết

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Biên Hoang Truyền Thuyết

    Biên Hoang Truyền Thuyết

    Tác giả: Huỳnh Dị



    TÓM TẮT TRUYỆN

    Biên hoang truyền thuyết, một câu chuyện tình cảm đầy xúc động, hào hùng, đau thương, bi đát, lãng mạn...nơi anh hùng xưng bá thiên hạ, tranh hùng võ lâm.
    Ở giữa vùng Hoài Thủy và Tứ Thủy, có một dải đất lớn hoang phế, trải dài hàng trăm dặm, toàn thành tan làng nát, quang cảnh như địa vực, người Hán ở phương Nam gọi nó là Biên Hoang, còn người Hồ ở phương Bắc gọi là Âu Thoát.
    Tên gọi tuy kỳ dị, nhưng nhất định là một vùng độc nhất vô nhị thời bấy giờ. Nó vừa là nơi phơi xác lương dân, vừa là nơi những kẻ lưỡi đao nhuốm máu chen nhau cướp lấy; nguy hiểm tuy đầy rẫy, nhưng cơ hội cũng trùng trùng; là nơi anh hùng hào kiệt chết không có đất chôn, cũng là võ đài cho những kẻ bạt mạng liều lĩnh thành danh lập nghiệp; càng là một vùng đất lý tưởng để chính quyền các nơi tiến hành những vụ ngoại giao bí mật. Lúc này nó có thể là Đào Nguyên thời loạn, lúc khác lại biến thành địa ngục Tu La giữa trần gian. Không có nơi nào đáng sợ hơn Biên Hoang, nhưng cũng không có nơi nào khác đáng yêu như nó. Biên Hoang là nơi ông trời tạo ra cho những người có bản lĩnh, triết lý và pháp quy để sinh tồn ở đó không giống bất kỳ vùng đất nào trên cõi đời này.

    Tập 1



    MỤC LỤC [−]

    1. Vung roi quất xuống nước
    2. Ngàn cân treo sợi tóc
    3. Thoát nạn trong gang tấc
    4. Hùng tài đại lược
    5. Các pháp các sư
    6. Hoang thiên đại pháp
    7. Trại đêm nấu rượu
    8. Xà huyết mỹ nhân
    9. Thái bình ngọc bội
    10. Hoạn nạn chân tình
    11. Hung hoài đại chí
    12. Tần Hoài chi nguyệt
    13. Thiếu mất một chút
    14. Hiểm tử hoàn sinh
    15. Tỵ nạn chi sở
    16. Di Lặc dị đoan
    17. Vì họa được phúc
    18. Dị đoan tà thuyết
    19. Liễu ám hoa minh
    20. Ngư mục hỗn châu
    21. Hoàn thành nhiệm vụ
    22. Phá vây thoát thân
    23. Chia đường chạy
    24. Ơn tri ngộ
    25. Tiêu Dao yêu giáo
    26. Tiêu Dao Đại Đế
    27. Ngự long chi quân
    28. Ánh mắt động lòng người
    29. Biệt vô thoái lộ
    30. Đồng hồ Đan kiếp
    31. Đệ kế huynh vị
    32. Đại chiến tiền tịch
    33. Phì Thủy chi chiến
    34. Phì Thủy lưu tuyệt
    35. Phe tề mạc cập
    36. Tham tao yếu hại
    37. Đan kiếp chi nạn
    38. Hỏa băng dị tượng
    39. Nam Bắc song hùng
    40. Tống quân thiên lý
    41. Kiếp hậu dư sinh
    42. Tránh trát cầu tồn
    43. Di Lặc nam lai
    44. Minh tranh ám đấu
    45. Sĩ thứ chi biệt
    46. Phi lai hoanh họa
    47. Thiết xỉ thống hận
    48. Thời bất ngã dữ
    49. Lộ chuyển phong hồi
    50. Tam thiên chi ước
    51. Thiên hạ cô bổn
    52. Bất hoài hảo ý
    53. Huyền công sơ thành
    54. Ý trời khó lường
    55. Tự nhiên chi đạo
    56. Dĩ nhãn hoàn nhãn
    57. Nữu chuyển càn khôn
    58. Đại nhậm lâm thân
    59. Giai nhân hữu ước
    60. Tần Hoài chi mộng
    61. Danh kỹ bản sắc
    62. Vô địch tổ hợp
    63. Âm thần Dương thần
    64. Thống nhất chi mộng
    65. Biên Hoang kinh biến
    66. Sơ thí đề thanh
    67. Dã hỏa vãn yến
    68. Phong hổ long vân
    69. Tối giai vũ khí
    70. Biên Hoang chi dạ
    71. Dạ Oa phong tình
    72. Biến hóa hoành sinh
    73. Thiên kim tán tận
    74. Giai nhân hữu ước
    75. Động thiên phúc địa
    76. Công khai khiêu chiến
    77. Đại địa phi ưng
    78. Linh thủ khước địch
    79. Giang hồ thủ đoạn
    80. Ngoan cường đối thủ
    81. Đại địch đương đầu
    82. Biên Hoang tầm mộng
    83. Truy Hung đại kế
    84. Hữu nguy hữu cơ
    85. Thản thành hợp tác
    86. Người tình như mộng
    87. Kỳ nhân chi đạo
    88. Quyền lực du hí
    89. Vĩnh viễn khai thủy
    90. Hội nghị lầu chuông
    91. Thủ danh cố khách
    92. Siêu cấp thần bộ
    93. Nhất lộ thuận phong
    94. Đại kế trừ yêu
    95. Thiên sư Tôn Ân
    96. Chiến vân mật bố
    97. Sát thân họa nguyên
    98. Hoa Yêu thật giả
    99. Ái tình du hí
    100. Dạ Oa chiến sĩ
    101. Trừ yêu hành động


    Hồi 1

    Vung roi quất xuống nước
    Ở giữa vùng Hoài Thủy và Tứ Thủy, có một dải đất lớn hoang phế, trải dài hàng trăm dặm, toàn thành tan làng nát, quang cảnh như địa vực, người Hán ở phương Nam gọi nó là Biên Hoang, còn người Hồ ở phương Bắc gọi là Âu Thoát.

    Tên gọi tuy kỳ dị, nhưng nhất định là một vùng độc nhất vô nhị thời bấy giờ. Nó vừa là nơi phơi xác lương dân, vừa là nơi những kẻ lưỡi đao nhuốm máu chen nhau cướp lấy; nguy hiểm tuy đầy rẫy, nhưng cơ hội cũng trùng trùng; là nơi anh hùng hào kiệt chết không có đất chôn, cũng là võ đài cho những kẻ bạt mạng liều lĩnh thành danh lập nghiệp; càng là một vùng đất lý tưởng để chính quyền các nơi tiến hành những vụ ngoại giao bí mật. Lúc này nó có thể là Đào Nguyên thời loạn, lúc khác lại biến thành địa ngục Tu La giữa trần gian. Không có nơi nào đáng sợ hơn Biên Hoang, nhưng cũng không có nơi nào khác đáng yêu như nó. Biên Hoang là nơi ông trời tạo ra cho những người có bản lĩnh, triết lý và pháp quy để sinh tồn ở đó không giống bất kỳ vùng đất nào trên cõi đời này.

    Sự tồn tại kỳ lạ của Biên Hoang có một lịch sử lâu đời và nhiều nhân tố khách quan, mỗi đoạn sử chương đều được viết bằng máu của những chiến binh và nỗi lầm than của dân chúng.

    Từ khi tôn thất nhà Hán sụp đổ, hào kiệt các nơi nổi dậy, chiến sự kéo dài lan rộng triền miên, sản xuất đình trệ dẫn đến nạn đói, cái ác hoành hành khiến miền trung thổ vốn dĩ đã phát triển được nghìn năm bỗng chìm vào cảnh xương trắng phơi ngoài nội, ngàn dặm không có một ánh lửa thổi nấu.

    Thời Tam Quốc, nước Ngô của họ Tôn và nước Ngụy của họ Tào, mỗi lần chiến sự hầu hết đều bạo phát ở vùng Hoài Tứ, khiến cho thành quách nơi đây bị phá hủy, đồng ruộng hoang hóa, nhân dân lưu lạc bốn phương, nhà cửa bỏ trống không ai ở, hàng trăm dặm lạnh ngắt không một bóng người.

    Đến khi họ Tư Mã nhà Tây Tấn thống nhất thiên hạ, dân cư vùng này lẽ ra đã được sống vui vẻ, đáng tiếc loạn Bát Vương, họa Vĩnh Gia theo nhau bùng phát, ngũ đại Hồ tộc là Hung Nô, Tiên Ti, Khương, Đê, Hạt hợp nhau nổi dậy chống Tấn, tạo một cơn phong bạo lớn trong lịch sử, lại làm cho trung thổ thêm tàn tạ. Đến khi Hoài Mẫn nhị đế của nhà Tấn phải đào vong, tôn thất nhà Tấn bị bức dời qua Nam, hình thành cục diện

    Nam Bắc đối lập, vùng Hoài Tứ vẫn là một hung địa chiến tranh, chịu nhiều thiệt hại nặng nề nhất. Hoài Thủy và Tứ Thủy trở thành biên giới bất thành văn của chính quyền Nam Bắc triều, Biên Hoang chính là "vùng đất không có người" nằm ở biên giới đó.

    Tình trạng đặc biệt của Biên Hoang được tạo nên trong một hoàn cảnh như vậy.

    Đối với những người Hồ xuất thân từ dân du mục phương Bắc, theo tập tục tất phải chừa một khoảng cách gọi là Âu Thoát ở nơi giáp ranh giữa hai tộc, coi như vùng tạm hoãn xung đột, những lúc nhàn sự hai bên Hồ và Hán đều không được xâm nhập, cấm chỉ với cả khách vãng lai, ngược lại sẽ coi như khơi bờ gây chuyện. Còn đối với chính quyền phương Nam, mảnh đất địa đầu này cũng không thích hợp để dân cư trú, chỉ hữu ích khi thực thi chiến lược "thành không nhà trống", ngăn cản vó ngựa Hồ tràn xuống phía Nam. Những lý do ấy khiến cho vùng đất rộng lớn, trải dài hàng trăm dặm dần dần hoang liêu tàn tạ.

    Biên Hoang đã hình thành trong tình hình kỳ quái đặc biệt, được các thế lực Nam Bắc mặc nhiên thừa nhận như vậy.

    Ở trung thổ, Biên Hoang là nơi hoang vu nhất, nhưng điều mâu thuẫn là Biên Hoang Tập - nằm giữa vùng Hoài Thủy và Tứ Thủy, thuộc trung tâm của Biên Hoang, bên bờ tây Dĩnh Thủy - lại chính là vùng hưng vượng nhất của trung thổ. Nó là đầu mối chuyển vận duy nhất giữa Nam và Bắc, là cây cầu thông thương của hai miền, là nơi các thế lực hào cường trong thiên hạ tranh quyền đoạt lợi, là địa bàn hành sự cho những bang hội buôn lậu và làm ăn phi pháp. Chỉ cần bảo đảm được tính mệnh để rời khỏi đây, bất luận là thương nhân, kỹ nữ, thợ thầy, hay bất kỳ ai đều có thể kiếm được số tiền tài nhiều gấp mười lần nơi khác. Điều này khiến Biên Hoang trở thành một địa phương đầy sức thu hút ma quỷ, là vùng mà trời đất tạo nên để dành riêng cho những kẻ có bản lĩnh và tốt số.

    Ở đây, vương pháp không tồn tại. Những kẻ xâm nhập vùng này được gọi là "Hoang nhân", không thuộc nhà Tấn ở phương Nam, cũng không thuộc chính quyền Hồ tộc ở phương Bắc.

    Hạng Thành, tiền thân của Biên Hoang Tập, vốn là một thành đô lớn bị khói lửa chiến tranh làm cho tan phế. Nhiều năm gần đây, Biên Hoang Tập không bị bạo loạn càn quét, sự hưng vượng của nó đạt tới đỉnh cao chưa từng thấy từ trước tới giờ, đáng tiếc một trường chiến tranh hung tàn mờ mịt lại đang manh nha ở phương Bắc, đe dọa tràn qua để xuống phương Nam, trước mắt Hoang nhân đại họa gần bức đến.

    ° ° °

    Phù Kiên, thủ lĩnh Đê Tần, gò ngựa lại trên một mỏm cao, lướt nhìn xuống đội tiên phong khí thế đỉnh thịnh, tinh kỳ phần phật. Đại cử tiến công chỉ còn lại địch thủ cuối cùng - nhà Tấn ở phía Nam, mà mục tiêu của đợt ra quân đầu tiên là Thọ Dương, một trấn có tầm quan trọng chiến lược vùng nam ngạn Hoài Thủy. Cảm xúc phấn chấn đắc ý trong lòng ông ta lúc này, quả thực khó mà diễn tả thành lời.

    Bảy năm về trước, Phù Kiên điều binh khiển tướng phá diệt kình địch là Đại quốc của Tiên Ti, thống nhất phương Bắc dưới vó ngựa sắt của mình. Năm tộc lớn là Hung Nô, Tiên Ti, Khương, Yết, Hán đều cúi đầu xưng thần với Phù Kiên, kết thúc bảy mươi hai năm (tính từ "họa Vĩnh Gia" của Tấn triều khiến tôn thất nhà Tấn phải dời xuống Nam) các bộ tộc tranh giành trục lộc ở tái nội và tái ngoại, ổn định được cục diện hỗn loạn như quần long mất đầu, công nghiệp cái thế chấn động cổ kim. Hiện tại tất cả mọi điều kiện để nam chinh đã hội đủ, hai châu Lương, Ích của nhà Tấn và một trấn quan trọng là Tương Dương đều đã lọt vào tầm kiểm soát của Phù Kiên, khả năng thống nhất thiên hạ sắp đến lúc có thể thò tay là nắm được, còn ai đủ lực đứng ra tranh cường với ông ta đây?

    Chuyến này tiến quân xuống phương Nam, Phù Kiên cho thân đệ là Phù Dung làm soái, đại tướng Mộ Dung Thùy và Diêu Trường làm phó, xuất động sáu mươi vạn bộ binh, hai mươi bảy vạn kỵ binh, ngoài ra còn có tám vạn thủy sư từ Ba Thục xuôi dòng Trường Giang và Hán Thủy xuống phía đông, phối hợp tác chiến, thực lực đủ để nghiến nát bất kỳ sự kháng cự nào của quân Tấn vốn tướng ít binh thưa.

    Phù Kiên năm nay bốn mươi lăm tuổi, thân thể khang kiện của người vốn quen dãi dầu nắng mưa nơi tái ngoại, sinh lực sung mãn, khuôn mặt vuông vức, râu ria lởm chởm xồm xoàm quanh miệng, kết hợp với sống mũi cao và cặp mắt sâu, diện mạo thật nổi bật, ngồi trên lưng ngựa tràn đầy khí độ quân chủ. Lúc này ông đang ngưng thần vọng về nơi xa, mắt lấp lánh sáng, tựa như đã nhìn thấy trước cái suy sụp thất thế của nhà Tấn, thê thảm bại vong dưới bước tiến của đạo quân hùng sư liên hợp các bộ tộc Hán, Đê, Khương, Tiên Ti và Yết của ông.

    Mười mấy viên tướng lãnh quây quanh bên trái bên phải, sau lưng Phù Kiên như chúng tinh ủng nguyệt, đại diện cho những nhân vật lãnh tụ kiệt xuất nhất của các bộ tộc Bắc phương, một lòng theo ông thực thi chính sách "hợp nhất tứ hải", là thành quả kiêu hãnh mà ông luôn lấy làm tự hào, khiến cho sự hưng khởi cường thịnh trước mắt đây trở thành sự thực. Trước kia, người thất bại trong chiến tranh luôn khó thoát khỏi cảnh thê thảm vong quốc diệt tộc, nhưng đến lượt mình, Phù Kiên khéo léo đối đãi với những kẻ đã rơi vũ khí, mỗi lần diệt một nước, ông đều ban quan hàm cho quân thần ở đó, lại ra lệnh cho những bộ thuộc thống lĩnh cũ duy trì "vương đạo". Đối với Phù Kiên, đó là phương pháp đối nhân xử thế tất yếu trong việc thống nhất thiên hạ.

    Trong số tướng lãnh ấy, người có thanh danh nhất là viên đại tướng đang đứng hàng đầu bên trái ông, Mộ Dung Thùy tộc Tiên Ti. Người này võ công cái thế, tay cầm cây thương Bắc Bá quán thế vô địch, là một thống soái tung hoành bất bại trên chốn sa trường. Y tập hợp dưới tay nhiều chiến binh Tiên Ti kiêu dũng thiện chiến, đã lập được vô số công lao hãn mã, uy chấn cả vùng tái nội và tái ngoại. Thu dụng được y là phúc khí lớn nhất của Phù Kiên, nếu không đó sẽ là một đối thủ vô cùng đáng sợ.

    Mộ Dung Thùy kém Phù Kiên mười tuổi, thân hình hùng vĩ như núi, cao hơn Phù Kiên ít nhất nửa cái đầu, diện mạo tuấn vĩ, mái tóc dài đen nhánh phủ xuống vai, một vòng sắt bọc quanh trán, cặp mắt có thần, sâu thẳm không đoán được, lưng thẳng, thân hình toát ra khí thế bức nhân uy nhiếp chúng sinh, như một ma thần từ âm phủ hiện lên giữa chốn trần gian.

    Bên phải Phù Kiên là Diêu Trường, mãnh tướng của Khương tộc, thanh danh chỉ xếp sau Mộ Dung Thùy, tuy tướng ngũ đoản, thấp hơn người thường đến một khúc, nhưng cổ to lưng dày, mặt như sắt đúc, cái đầu báo đặc biệt lớn, cặp mắt lấp lánh như chuông đồng, lại thêm đôi huyền thiết đoản mâu nặng cỡ năm mươi cân, chẳng ai còn dám xem thường y. Hiếm người nào có thể chịu đựng được hậu quả của việc đó.

    Những tướng lĩnh khác thì mỗi người một dạng, nhưng đều dẻo dai dũng mãnh, đã trải qua bao sóng to gió lớn của chiến trường.

    Phù Kiên thu ánh mắt, nhìn lướt hai bên trái phải, khóe môi phớt một nụ cười, nhận xét với đôi chút trào lộng: "Người ta nói An Thạch bất xuất, tương như thương sinh hà? Hiện tại An Thạch đã ra mặt, lo việc quân chính cho Tư Mã Diệu, để xem lão có thể biến hóa đến mức nào trong bàn tay trẫm?".

    Đại tướng Lữ Quang của Đê tộc đang đứng bên kia Mộ Dung Thùy cười khẩy: "Tạ An đáng gì? Thần xem bất quá cũng thuộc hạng như Ân Hạo, tự xưng phong lưu danh sĩ, những chuyện đạo giáo thì không ai nói lại, nhưng đối với chiến trận sa trường cùng lắm chỉ biết vuốt ve thanh kiếm". Lữ Quang có ngoại hiệu "Long Vương", kể về công phu dưới nước thì được xưng tụng là quán quân Hoàng Hà, binh khí sử một đôi Hồn Thủy Thích.

    An Thạch là tên gọi khác của Tạ An, tể tướng nhà Tấn ở phương Nam, được tôn xưng đệ nhất danh sĩ Trung Nguyên, nhưng ẩn cư ở Đông Sơn mười sáu năm, từ chối con đường hoạn lộ, nên mới có câu "An Thạch bất xuất, tương như thương sinh hà", hàm ý bộc lộ sự kỳ vọng và ngưỡng mộ của người Tấn đối với ông ta. Ân Hạo cũng là một danh sĩ đức cao vọng trọng của Đông Tấn, tuy học đủ năm xe sách, nhưng không hiểu quân sự, không tự lượng sức cũng mon men nối bước những danh tướng nhà Tấn như Tổ Địch,

    Dữu Lượng, Dữu Dực dẫn quân bắc phạt, sau thảm bại quay về, vừa phụ tiếng thơm danh sĩ, vừa chuốc lấy sự đả kích của người trong thiên hạ. Lữ Quang coi Tạ An như Ân Hạo, đó cũng là thái độ chung của các tướng lĩnh Hồ tộc, khinh khi và xem thường loại danh sĩ tự nhận thanh cao như Tạ An.

    Chư tướng nhao nhao phụ họa, phấn hứng vô cùng, duy chỉ có Mộ Dung Thùy và Diêu Trường thì im lặng không nói gì hết.

    Phù Kiên thấy lạ, chau màu hỏi với vẻ không vui: "Hai vị khanh gia phải chăng có suy nghĩ khác? Mau nói thật với trẫm!".

    Diêu Trường nghiêm túc bẩm lên: "Tôn thất Tấn tuy yếu, nhưng chỗ dựa là Trường Giang hiểm trở, Giang Nam trù mật. Ngày nay chúng ta dẫn quân xuống, người phương Nam nhất định sẽ đoàn kết một lòng, nên thần chưa dám khinh địch".

    Phù Kiên lạnh lùng, ngạo mạn nói: "Người phương Nam xưa nay ăn trắng mặc trơn, chìm đắm trong hoan lạc, không chuyên cần võ bị; lại thêm sự khuynh loát lẫn nhau giữa thế gia đại tộc thiên di về Nam và các thế tộc lâu đời ở bản địa, cho dù thấy quân đến dưới thành nên đoàn kết, cũng đã quá muộn rồi. Còn cái gọi là thế hiểm của Trường Giang, với bách vạn hùng sư của chúng ta, chỉ cần quật roi xuống nước là đủ ngăn dòng chảy. Mấy tên oắt con phương Nam đó, có đáng nhắc đến không?".

    Bọn họ đều nói tiếng Hán, thời ấy là ngôn ngữ thông dụng thịnh hành nhất, không một thổ ngữ Hồ tộc nào sánh bằng, là ngôn ngữ chính thức để chứng minh cho thân phận cao quý trong các dân tộc. Đê Tần là quốc gia bị Hán hóa sâu sắc nhất trong các tộc người Hồ, Phù Kiên luôn cho mình là hiểu biết tôn chỉ "vương đạo" của Nho gia còn hơn người Hán, thường cảm khái "đã ổn định bốn phương, duy có vùng đông nam chưa nhiễm vương hóa", hiện tại cuối cùng cũng đã đến thời khắc lịch sử để trừ bỏ mối di hận ấy.

    Khi Phù Kiên đưa mắt nhìn Mộ Dung Thùy, viên đại tướng võ công và binh pháp kiêm toàn đệ nhất phương Bắc ấy bình thản thưa: "Binh lực của người phương Nam đúng là kém xa chúng ta, nhưng do Tạ An một tay ráo riết thành lập. Bắc Phủ binh, do cháu ông ta là Tạ Huyền đôn đốc huấn luyện, tuy không quá mười vạn quân, nhưng không thể xem thường, mong chúa thượng minh xét".

    Phù Kiên gật đầu tán thưởng: "Nói hay lắm, Tôn Tử có viết: biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng. Bắc Phủ binh sớm đã nằm trong dự tính của trẫm, chuyến này chúng ta xua quân xuống thẳng đô thành Kiến Khang của người phương Nam, họ chỉ có hai chọn lựa, một là phải lao ra dốc hết sức quyết chiến, một là đóng cửa thành tử thủ. Mà bất luận lựa chọn thế nào, cũng đều không còn hy vọng. Trẫm nén lòng chờ đợi nhiều năm

    nay, đến lúc này thần phục Bắc cương, lại lo lắng bị tập hậu, mới dốc hết lực lượng, dùng binh uy áp đảo, quyết một trận nghiến nát giấc mộng dẹp yên của bọn Tư Mã Diệu, Tạ An. Còn Tạ Huyền tuy được xưng tụng là đệ nhất kiếm thuật đại gia của phương Nam, thượng thượng phẩm cao thủ trong hàng ngũ cửu phẩm, đáng tiếc kinh nghiệm hành quân tác chiến còn non kém, có thể chiến thắng nhiều trận đều là do chưa gặp qua cường địch. Trong hàng ngũ tướng lĩnh của Nam Triều, chỉ có Hoàn Xung còn tạm coi là một nhân vật, thừa hưởng được mấy phần bản lĩnh của người cha là Hoàn Ôn, đáng tiếc lại bị trẫm kềm chế ở Kinh Châu, đành tử thủ Giang Lăng, không cựa quậy gì được nữa".

    Rồi ông gọi lớn: "Chu khanh gia, trẫm nói vậy khanh thấy thế nào?".

    Một Hán tướng đứng ở hàng cuối cùng, tên là Chu Tự nghe gọi giật mình, vội vàng ứng tiếng: "Chúa thượng thông hiểu tình hình phương Nam, mọi việc đều nắm rõ trong lòng bàn tay, vi thần bội phục sát đất".

    Chu Tự vốn là đại tướng của nhà Tấn, bốn năm trước trấn thủ Tương Dương, thất bại đầu hàng, được Phù Kiên trọng dụng, Phù Kiên cũng thông qua y tìm hiểu cặn kẽ phân bố, điểm mạnh điểm yếu của binh lực Nam Triều. Nhưng đó là chuyện bốn năm về trước.

    Phù Kiên ngửa mặt lên trời cười dài, thần tình đắc ý vô cùng, một luồng tráng chí trào thấu tâm can: "Chu khanh gia yên tâm, trẫm xưa nay tiến hành chuyên chính theo vương đạo, lấy đức thu phục lòng người, coi bốn bể là một nhà, tuyệt không lạm sát dân tình vô tội. Bình định được phương Nam rồi, người của Nam Triều sẽ được cân nhắc sử dụng, Tư Mã Diệu có thể làm Thượng thư Tả bộc xạ, Hoàn Xung làm Thị trung, Tạ An thì có thể giữ chức Lại bộ Thượng thư, dựa theo cách chia xếp cửu phẩm của họ, trẫm sẽ chọn được chỗ sử dụng người hiền".

    "Xoẹt!".

    Phù Kiên tuốt bội kiếm, trỏ thẳng vào vầng triêu dương vừa nhô lên từ đường chân trời ở phương đông, sau đó nhích dần kiếm sang hướng nam, chỉa về phía đô thành của nhà Tấn, thét lớn: "Quân ta tất thắng!".

    Chúng tướng nhao nhao tuốt binh khí, Diêu Trường gõ chéo cặp đoản mâu, tiếng kim loại giao nhau vang lên chát chúa nhất tề rầm rầm hưởng ứng.

    "Đại Tần tất thắng! Đại Tần Thiên Vương vạn tuế!", tiếng tung hô thoạt tiên vang lên từ đám thân binh đứng xung quanh hộ vệ, tiếp theo lan ra cả bình nguyên Tứ Thủy, dập dồn như tiếng triều lên với sự hô ứng của đoàn quân hàng vạn chiến binh.

    Trải dài bất tuyệt, đằng trước không thấy hàng đầu, đằng sau nhìn không hết đội ngũ, đại quân Đê Tần được tập hợp từ các binh chủng, rầm rập tỏa về hướng Hoài Thủy, đợi đến lúc họ công hãm Kiến Khang Thành, Hán tộc ở Trung nguyên sẽ mất đi căn cứ địa cuối cùng, toàn bộ sẽ chìm vào vòng nô lệ mất nước, biến thành thần dân bị ngoại tộc xâm lấn thống trị.

    ° ° °

    Đô thành Kiến Khang của nhà Tấn, tọa lạc ở nam ngạn vùng hạ du Trường Giang, chẹn cứng lấy cửa khẩu dẫn ra biển, là trung tâm quân sự, chính trị và kinh tế quan trọng nhất của khu vực này. Ngoài ra, nó còn là yếu địa giao thông then chốt của cả đường sông, đường bộ và đường biển, là thành thị chuyển vận đường thủy và đường bộ giữa hai miền nam bắc.

    Kiến Khang nằm trên rẻo đất cao của Kê Lung Sơn và Phúc Chu Sơn, phía đông nam nối sang bình nguyên Thái Hồ và lưu vực sông Tiền Đường bằng phẳng rộng lớn, đất đai phì nhiêu trải dài ngàn dặm. Trường Giang bắt nguồn từ hướng tây nam lượn qua thành quách chảy về phía đông bắc, Tần Hoài quanh co uốn khúc từ phía nam đổ vào Trường Giang, địa hình hiểm hóc, ưu việt, có thế rồng cuộn hổ ngồi. Diêu Trường nhận xét "Trường Giang hiểm yếu, Giang Nam trù phú", thực không phải lời nói giả.

    Khi Tây Tấn bị Hung Nô tiêu diệt, Lạc Dương biến thành vùng đất cháy xạm tro tàn, thì Tư Mã Duệ, tằng tôn của Tư Mỹ Ý hoàng đế khai quốc nhà Tấn, đang trấn thủ đô thành Kiến Nghiệp - đô thành được xây dựng bởi Tôn Quyền thời Tam Quốc, nắm đại quyền quân chính ở Dương Châu, Giang Nam. Phương bắc chìm trong tang tóc, Tư Mã Duệ dưới sự phò trợ của bọn Vương Đạo, Vương Quách lưu vong sang phía nam, tự lập làm Tấn Vương ở Kiến Nghiệp, năm sau đó xưng đế. Đến thời Tấn Mẫn Đế, chính thức đổi tên Kiến Nghiệp thành Kiến Khang.

    Kiến Khang Thành chu vi hai mươi dặm mười chín bộ, ngoại vi có một loạt các thành thị như Đông Phủ Thành, Thạch Đầu Thành và Chu Dương Quận Thành, hình thế to lớn, như đám sao vây quanh mặt trăng, tạo nên một quần thể thành thị với Kiến Khang là trung tâm. Đặc biệt Thạch Đầu Thành, nằm ở thượng du phía tây Kiến Khang, là một ấp lũy quân sự kiên cố, vai trò như thần hộ vệ, nếu không công hãm được Thạch Đầu Thành, đừng nghĩ đến chuyện làm tổn hại một mảy may của Kiến Khang.

    Khi đoàn quân Đại Tần của Phù Kiên tiến nhập khu vực Biên Hoang ở Hoài Tứ, tướng quân Hồ Bân của nhà Tấn, đang đóng chốt ở trọng trấn Thọ Dương vùng nam ngạn Hoài Thủy, liền nhận được phi cáp truyền thư của thám tử tiền tuyến đã cài sẵn trà trộn trong Biên Hoang Tập, biết được bách vạn đại quân của Đại Tần, đang vượt qua Hoài Thủy tiến thẳng tới đây.

    Biên Hoang Tập là vùng mà tin tức nhanh chóng nhất, hai miền nam bắc dù có chút gió lùa cỏ động, bất luận là sự thực hay đồn đãi, đều được truyền ra đầu tiên ở đó. Lâu dần hình thành một tổ chức gọi là "Phong Mai" chuyên môn buôn bán tin tức, người làm "Phong Mai" phải tinh thông ngôn ngữ các dân tộc, tư chất nhạy bén, biết phân tích độ khả tín của nguồn tin, không phải là hình thức làm ăn mà ai cũng nhào vào được.

    Hồ Bân nhận được tin thất kinh, sau khi kiểm chứng kỹ càng, lập tức phi báo về Kiến Khang, nhấn mạnh điều này có liên quan đến sự sinh tử tồn vong của tôn thất nhà Tấn. Tấn Đế Tư Mã Diệu kinh hoảng đến mức hồn bất phụ thể, lại sợ tin tức truyền ra khiến lòng người hoang mang, quần thần đào vong, vội vàng mật triệu ba vị trọng thần là Tạ An, Vương Thản Chi, Tư Mã Đạo Tử, vào Thân Chính Thất trong nội đình Kiến Khang để thương nghị đại kế giữ nước.

    Tạ An làm Trung Lang Lệnh cho nhà Tấn, là nhân vật ngồi ghế thứ hai dưới Tư Mã Diệu, tổng quản triều chính, năm nay sáu mươi tư tuổi, thời trẻ có ra làm quan một dạo ngắn, sau lui về ở ẩn tại Đông Sơn, mãi đến năm bốn mươi tuổi dưới sự thiên hô vạn hoán bắt đầu xuống núi, kế thừa chính sách an dân "Trấn chi dĩ tĩnh" của Thừa tướng khai quốc là Vương Đạo, khiến cho đất nước yên ổn. Tạ An cùng với đại tướng Hoàn Xung, một văn một võ, là hai cột trụ lớn của triều đình, được gọi là "Giang Tả Vĩ Nhân".

    Lúc này nhà Tấn chỉ còn nắm quyền kiểm soát ở vùng hạ du Trường Giang và lưu vực Dân Giang, Châu Giang, trong đó hai châu Kinh, Dương, cả về hai mặt quân sự và chính trị đều có tầm ảnh hưởng rất lớn.

    Dương Châu là tiền trạm ở mặt bắc kinh đô Kiến Khang, tầm quan trọng của nó không nói cũng biết. Kinh Châu nằm trên trung du Trường Giang, hình thế hiểm yếu, cũng là một trọng trấn chiến lược ở mặt tây của nước Tấn. Thứ sử Kinh Châu lại kiêm quản luôn việc quân sự của các châu phụ cận, để ứng phó với rợ Hồ hung mãnh ở phương Bắc, do vậy dưới tay y là đất rộng binh cường. Phàm những người nhậm chức thứ sử Kinh Châu, thường có thực lực phân quyền mạnh mẽ nhất. Vì vậy dưới thời nhà Tấn, thế lực trung ương và địa phương đấu tranh ngang ngửa, phần lớn là có liên quan đến việc tranh chấp Kinh Châu và Dương Châu. Kinh Châu đời trước do Hoàn Ôn chủ sự, quyền nghiêng triều dã. Cũng may Hoàn Xung hiện nay, tuy là con trai của Hoàn Ôn, nhưng không có dã tâm như cha, Kinh, Dương dần dần đi vào ổn định. Trong ba người

    mà Phù Kiên xem trọng, ngoài Tấn Đế và Tạ An, còn tính thêm cả Hoàn Xung, qua đó có thể thấy được phần nào vai trò của y.

    Tể tướng Tạ An, người được xưng tụng là đệ nhất danh sĩ đương thời, tuy đã hơn sáu mươi, nhưng tướng mạo tinh anh, thâm trầm, linh hoạt và tuấn lãng, tay cầm quạt lông vũ, dáng vẻ như Gia Cát Võ Hầu tái thế, râu dài năm nhánh, thân hình cao lớn, phong tư tiêu sái ung dung, cô ngạo bất quần.

    Vương Thản Chi là con trai Thừa tướng Vương Đạo, giữ chức Tả tướng, là đại thần có vai trò quan trọng nhất, ngoài Tạ An, ở triều đình Kiến Khang. Năm nay năm mươi hai tuổi, luận về tướng mạo thì kém xa Tạ An, lại thêm nỗi thấp lùn, tóc đã điểm bạc, cũng may khuôn mặt thường tươi cười, giọng nói điềm đạm rõ ràng, cằm dày và đầy đặn, béo nhưng không phệ phạc, vẫn có tư thái tự tin và cởi mở của thế gia vọng tộc, không gợn chút hiềm khích.

    Hai họ Vương, Tạ là thế gia đại tộc nổi danh nhất vùng Giang Tả. Từ khi tôn thất nhà Tấn thiên di về Nam, họ càng hết lòng phò tá, thay nhau nắm giữ các vị trí cốt cán trong triều đình. Nhà Tấn chủ trương ‘tìm người hiền không ngoài thế tộc, dụng tài năng không đâu bằng quyền quý’, khiến hai họ Vương, Tạ càng như cá gặp nước, càng được trọng vọng tôn sùng. Trúc môn đi lại với trúc môn, hai gia tộc xưa nay quan hệ vốn thân thiết, lại dựa vào nhân duyên để thắt chặt thêm tình cảm, cùng nhau phụ giúp việc triều chính.

    Tư Mã Đạo Tử là thân đệ của Tấn Đế Tư Mã Diệu, được công nhận là đệ nhất nhân tài của vương tộc, đứng trong danh sách "cửu phẩm cao thủ", hiện đang giữ chức Lục Thượng thư lục điều sự, tổng quản các bộ phận lo việc triều chính, quyền chức lớn đủ để kềm chế Tạ An, là một quân cờ do hoàng tộc đặt ra để giám sát Tạ An, vì vậy từ xưa đến nay quan hệ giữa y và ông ta không được tốt.

    Tư Mã Đạo Tử năm nay ba mươi tám tuổi, thân hình dài mà gầy, sống mũi thẳng đứng như cái quản bút, trên mép để ria, mái tóc dày rậm, mình mặc võ phục, tướng mạo cân đối, tràn đầy khí độ cao quý của hoàng tộc. Chỉ có đôi mắt thỉnh thoảng híp lại như hai rãnh hẹp, để lộ bản chất lãnh khốc vô tình trong tim. Bên hông y đeo thanh trường kiếm Vong Ngôn, là vũ khí sắc bén nhất và đáng sợ nhất của vương tộc, trong thành Kiến Khang, ngoài Tạ Huyền và con trai của Vương Thản Chi là Vương Quốc Bảo ra, không có ai xứng mặt địch thủ.

    Thân Chính Sảnh là nơi xử lý sự vụ của Tư Mã Diệu trong nội đình, hội nghị quân sự quan trọng nhất kể từ khi ông ta tự mình khai quốc đã trải qua hai canh giờ. Bên ngoài cung, thân đệ của Tạ An là Tạ Thạch bồn chồn chờ đợi, từ chính ngọ đến lúc

    hoàng hôn, mới thấy Tạ An ung dung đi ra, nét mặt vẫn một vẻ tự nhiên nhàn nhã, nhưng Tạ Thạch xưa nay hiểu rõ con người Tạ An, đã nhanh chóng nắm bắt thần tình bối rối trong ánh mắt huynh trưởng. Y chưa từng thấy Tạ An như thế bao giờ, có thể ức đoán buổi thương nghị đã diễn ra trong không khí nặng nề và gay gắt.

    Tạ Thạch tiến lên đón. Tạ An thoắt đứng sững lại, trầm giọng nói: "Tìm Tạ Huyền về đây cho ta!".

  2. #31
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 31

    Đệ kế huynh vị
    Yến Phi dán mình vào thân thuyền không một tiếng động trườn xuống nước, không lặn đi mà lại vận công vào song thủ hút chặt vào thân thuyền, chỉ để khuôn mặt ló lên khỏi mặt nước. Đó chính là biện pháp khôn ngoan của chàng, nếu là Lư Tuần quay trở lại, quyết truy tìm Vinh Trí, chắc chắn sẽ không bỏ qua đáy sông mà không kiểm tra kỹ càng, dưới ánh sáng tịch dương chưa tắt hẳn, lại thêm nước sông không sâu, chàng tuyệt không thể tránh khỏi cặp mắt của hạng cao thủ tuyệt đỉnh như Lư Tuần.

    Vừa mới ẩn kín thân hình, tiếng động đầu mũi chân điểm lên đầu thuyền đã truyền đến. Yến Phi nghĩ thầm sao đến nhanh thế, vội trườn xuống dưới đáy thuyền.

    Quả nhiên người nọ trước tiên đi một vòng quanh mép thuyền, sau đó mới tiến vào trong khoang.

    Yến Phi thầm khen Lư Tuần quả nhiên là lão giang hồ, tuy nhìn thấy thi thể Vinh Trí, vẫn không vội tiến vào khoang mà trước tiên xem xét tình huống xung quanh thuyền, sau khi vào trong quan sát Vinh Trí, lại quay lại vận công vào song nhĩ, chăm chú nghe ngóng, đồng thời vận tụ công lực đề phòng có kẻ hốt nhiên tập kích.

    Đối phương chợt từ trong khoang lao vụt ra, nhảy về phía đuôi thuyền. Yến Phi thầm tiếc rẻ, Lư Tuần chuyển chỗ như thế khiến chàng mất cơ hội tốt để đột kích. "Đại sư huynh!".

    Yến Phi lấy làm ngạc nhiên, người bên trên hóa ra không phải Lư Tuần, tuy nhiên công phu khinh thân của hắn chắc chắn không kém gì Lư Tuần, chỉ không biết là cao thủ tuyệt đỉnh phương nào. Nên biết cao thủ cỡ như Lư Tuần, thiên hạ chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Bỗng dưng ở đâu xuất hiện một kẻ như thế, đương nhiên khiến chàng hết sức kinh dị.

    Tiếng gió cuộn tới, một người từ bờ sông vọt lên đầu thuyền, ngạc nhiên nói: "Sao lại là Đạo Phúc ngươi?".

    Người vừa nói mới đúng là Lư Tuần, Yến Phi đã nghe hắn đối đáp với kẻ đến trước, vì thế mới biết là ai với ai.

    Thiên Sư đạo, nhân vật danh tiếng cao nhất đương nhiên là Thiên Sư Tôn Ân, tiếp đến là hai đệ tử chân truyền của lão - "Yêu Soái" Lư Tuần và "Yêu Hầu" Từ Đạo Phúc, mà người sau chính thị vang danh Giang Đông mỹ nam tử, không biết bao nhiêu mỹ nữ rơi vào tay hắn, bị lừa mất cả trái tim lẫn thân thể.

    Chẳng ngờ lưỡng đại cao thủ Thiên Sư đạo tập trung cả ở đây, do đó có thể nói giang hồ đại biến đến nơi rồi.

    Từ Đạo Phúc đáp: "Lại còn chẳng phải vì cái người coi rẻ nam nhân thiên hạ đó sao, thật là một mỹ nhân kiêu sa. Ta đã cùng nàng tiếp xúc sơ sơ, hết sức mong mỏi được thỏa tình như nguyện, đáng tiếc khi theo đến Biên Hoang, bỗng nhiên tung tích nàng biến mất, tìm đến chốn này, phát hiện đại sư huynh đang xuất thủ thâu tập kẻ địch, bèn tới đây".

    Lư Tuần cười nói: "Người ta nói mỹ nhân kế đến đâu cũng thuận lợi, ta nói mỹ nam kế của Đạo Phúc ngươi mới là vĩnh viễn không thất thủ. Ài! Vinh Trí đạo huynh của chúng ta vì sao phải sớm về Tây thiên, có phải do ngươi hạ thủ không?".

    Yến Phi nghe thấy Từ Đạo Phúc không chút ngượng ngùng tự mình khoe khoang đi lừa gạt tâm ý con gái nhà người ta, thầm mắng bẩn thỉu, nhưng không thể không thừa nhận hắn có chất giọng êm ái dễ nghe, có thể dụ cho kiến trong hang phải bò ra, phối hợp khéo dùng từ cao nhã, lời lẽ nói ra ngọt ngào, đúng là hại khổ mỹ nữ thiên hạ, cũng khiến chàng càng cảm giác Từ Đạo Phúc thâm độc hiểm ác.

    Từ Đạo Phúc nói: "Lúc ta tới gã đã ra thế này rồi, ta đã coi qua kinh mạch gã, thiên hạ chỉ có chân khí Tiêu Dao Quyết chí âm chí hàn của Nhậm Dao mới có thể làm tâm mạch gã đóng băng lại như thế, bị rồi là không cách nào cứu được".

    Yến Phi trong lòng kinh sợ, người này quả nhiên có bản lãnh, chỉ qua tình trạng kinh mạch đã có thể suy ra nguyên nhân cái chết của Vinh Trí.

    Lư Tuần nói: "Hóa ra Nhậm Dao thân hành hạ thủ, chẳng trách Vinh Trí không tránh khỏi kiếp số! Tiêu Dao Quyết tà độc âm hiểm, có thể trường kỳ tiềm phục trong thân thể người thụ thương, chờ dịp hoành hành, nếu không triệt để bài trừ độc hại, có thể phát tác bất cứ lúc nào".

    Yến Phi thầm kêu hỏng bét, cứ lấy làm lạ sao thương thế chưa lành, thì ra chân khí của Nhậm Dao đáng sợ như vậy.

    Từ Đạo Phúc nói: "Chuyện này thật ra là sao đây? Vinh Trí sao lại gặp phải Nhậm Dao, đại sư huynh ngươi vì cái gì mà tới đây vậy? Thiên Địa bội đã lấy được chưa?". Lư Tuần hừ lạnh một tiếng nói: "Đừng có nói nữa! Thiên Địa bội được rồi lại mất, do yêu nữ Thanh Thị và hai tên tiểu tử làm vỡ, ta chính là đang tìm hai tiểu tử đó tính sổ đây".

    Tiếp đó đem sự tình lược thuật lại, lại nói: "Trong số hai tiểu tử có một là người của Bắc Phủ binh, oan có đầu nợ có chủ, để coi xem bọn chúng có bay được đến đấy không?". Yến Phi nghe đến đấy âm thầm cười khổ, Lưu Dụ trêu vào kẻ cùng hung cực ác như thế, nếu mình không tìm gã cảnh cáo một câu thì không ổn.

    Từ Đạo Phúc hung hãn nói: "Đại sư huynh cần nhanh lên một chút, bằng không nếu để Phù Kiên công hãm Kiến Khang, nhà tan người tán, muốn tìm người sẽ mất một phen công phu đấy!".

    Trong lúc hắn nói đến chuyện Phù Kiên công hãm Kiến Khang, ngữ khí tràn đầy hứng thú về chuyện tai họa rớt xuống đầu kẻ khác, lộ rõ cừu hận sâu sắc đối với chính quyền Nam Tấn. Yến Phi không lạ gì thái độ của hắn, trong lúc cùng Lưu Dụ bôn tẩu tới Biên Hoang Tập, chàng đã đại khái nắm được những điều liên quan đến Thiên Sư đạo.

    Thiên Sư đạo xuất hiện không phải ngẫu nhiên, mà sinh ra từ bất mãn của Giang Đông thế tộc cùng những di dân thất thế.

    Lấy Tôn Ân làm ví dụ, vốn xuất thân từ thế tộc Giang Đông, bị thế tộc nam lai áp bức bóc lột, trải qua nhiều lần cắt đất đã biến thành hạng nghèo đói mạt rệp, đối với chính quyền hận thù sâu sắc, mới lập chí làm phản.

    Còn đối với Lư Tuần và Từ Đạo Phúc, gia tộc được coi là vọng tộc phương bắc, nhưng lại qua sông hơi muộn, không thể cùng chính quyền Giang Đông chia chung bát canh, cũng hóa ra hàn môn, bất luận là vọng tộc hay không, nhất luật trở nên nghèo đói.

    Hai thế lực bất mãn chính quyền kết hợp, cộng thêm đạo giáo dị đoan, mới thành ra tín ngưỡng của dân chúng vùng tam Ngô - Thiên Sư đạo.

    Oán khí sâu dày tích lũy lâu ngày của nhân sĩ bổn địa cùng sĩ tộc nam lai thất thế nhân công cuộc nam chinh của Phù Kiên cuối cùng cũng đến thời khắc bộc phát thành đại loạn.

    Căn cứ vào tiếng động do hai người tiến vào khoang thuyền, và tiếng y phục bị xé rách, chắc hẳn hai người đang tìm kiếm gì đó trên thi thể Vinh Trí.

    Từ Đạo Phúc nói: "Vừa rồi ta dò theo kinh mạch hắn, phát hiện trong nội thể hắn còn có một luồng ngoại khí không phải của Nhậm Dao, thoắt ẩn thoắt hiện, do vậy nhiều khả năng có người đi trước chúng ta một bước, muốn kéo dài sinh mệnh hắn lúc lâm tử".

    Yến Phi lập tức cảm giác xương sống lạnh toát, bên cạnh nước sông càng lạnh lẽo thấu xương, Từ Đạo Phúc thật cao minh, chỉ qua lời này của hắn, càng thấy dự liệu khi nãy của mình không sai, thời gian Từ Đạo Phúc vào khoang thuyền chỉ chừng vài lần hít thở, mà có thể đoán trúng ngần ấy chuyện như chính mắt chứng kiến, người này quả thực trí kế võ công đều không thể coi thường.

    Nữ tử mà hắn định dùng mỹ nam kế đối phó cuối cùng là ai? Từ Đạo Phúc phí tâm phí lực như thế, chỉ vì muốn đoạt được tình cảm của một nữ tử sao? Trong đầu bất giác hiện lên cặp mắt to thần bí mà mỹ lệ.

    Lư Tuần thở dài nói: "Nhiều khả năng quá! Hiện giờ Biên Hoang Tập cao thủ như mây, Nhậm Dao cũng đã có mặt, chúng ta hành sự nên thận trọng".

    Từ Đạo Phúc nói: "Hai sư huynh đệ ta tình cờ may mắn gặp nhau ở đây, chi bằng cùng tiến cùng thoái, cùng hành động, nếu có thể tìm thấy Nhậm Dao, dựa vào sức hai ta liên thủ, không chừng có thể qua được đại nạn này".

    Lư Tuần cự tuyệt: "Đừng gây thêm rắc rối, Nhậm Dao tung hoành thiên hạ, chưa có địch thủ, lại giảo hoạt như cáo, hung tàn độc ác, bằng không đã chẳng giết thầy đăng vị, đối phó với y, có lẽ cần Thiên Sư thân hành ra tay mới được. Sư đệ ngươi có nhiệm vụ trọng đại, không thể thất bại, biết được Đan kiếp ở đâu, mới là chuyện quan trọng".

    Yến Phi nghe đến đây ngớ hết cả người, Đan kiếp há chẳng phải là nằm trong cái bình nhỏ trong người chàng sao? Lư Tuần trọng thị như vậy, hẳn vật này không phải tầm thường, vì sao lại rơi vào tay Vinh Trí? Theo đạo lý Vinh Trí cần phải mang nó hiến lên cho Giang Lăng Hư, mà không phải trước khi chết giao phó cho mình mang tới cho một người khác.

    Đủ thứ nghi vấn cuồn cuộn trong lòng.

    Từ Đạo Phúc nói: "Sư huynh dạy rất đúng, ta đi đây".

    Yến Phi từ từ chìm sâu xuống đáy sông, lúc này trời đã tối đen, không lo bị hai đại hung nhân phát giác chàng ngầm tiến qua bờ bên kia.

    Chưa có lúc nào, tâm tình của chàng lại trầm trọng bất an như lúc này.

    ° ° °

    Tạ An ngồi một mình trong một góc Vong Quan hiên, chỉ có cây đèn cô độc làm bạn, tâm tư dâng trào.

    Từ lúc cái tin Hoàn Xung vì vết thương cũ tái phát, đột nhiên chết đi truyền về Kiến Khang, ông ngồi nguyên tại đó, từ chối cả bữa ăn tối.

    Hiện tại quân chính đại quyền của Hoàn Xung tại Kinh Châu đã rơi vào tay đệ đệ của ông ta là Hoàn Huyền, chỉ thiếu sự thừa nhận chính thức của Tư Mã hoàng thất.

    Tin tức về cái chết của Hoàn Xung hiện chỉ lan truyền trong giới vương công đại thần, nhưng mà giấy làm sao mà bao được lửa, nếu Tạ An không ứng phó cho tốt, sẽ gây nên một cuộc đại khủng hoảng trong dân chúng Kiến Khang thành.

    Tư Mã Diệu đã hai lần phái người giục ông vào cung gặp mặt, đều bị ông cự tuyệt lần khần, bất quá đấy không phải là một biện pháp tốt, nhân vì sự tình đã đến mức không thể chần chừ hơn được nữa.

    Từ trước tới nay, Hoàn Xung và ông là hai cột trụ của triều đình phương nam, với Hoàn Xung tọa trấn ở Kinh Châu, vùng Kinh Tương vững như Thái Sơn, khiến cho Dương Châu không lo gì về mặt tây.

    Hoàn Huyền bất luận võ công hay binh pháp đều kém xa người anh, nam phương chỉ có một "Huyền" khác, Tạ Huyền, là có thể sánh ngang và có thể kế thừa địa vị đó. Hoàn Huyền bản tính kiêu ngạo ngang ngược, bụng chứa dã tâm, để hắn ở ngôi vị Đại tư mã tuyệt không phải là điều phúc cho đại Tấn, mà còn là đại họa trong gan ruột. Tống Bi Phong tiến vào Vong Quan hiên, thẳng tới bên Tạ An, quỳ xuống bẩm: "Giang Hải Lưu cầu kiến An gia".

    Tạ An điềm đạm nói: "Còn ai đi cùng với hắn?".

    Tống Bi Phong đáp: "Hắn tới một mình, không mang theo tùy tòng".

    Tạ An nói: "Mời hắn vào".

    Tống Bi Phong lãnh mệnh đi ra, lúc sắp đi muốn nói gì lại thôi. Tạ An đương nhiên biết hắn muốn giục mình nhập cung gặp Tư Mã Diệu, bởi Tư Mã Đạo Tử, Vương Thản Chi đã sớm phụng mệnh nhập cung thương nghị, chỉ thiếu một mình ông.

    Đưa Giang Hải Lưu vào ngồi xuống bên Tạ An rồi, Tống Bi Phong thoái lui ra ngoài hiên.

    Tạ An trầm giọng nói: "Hải Lưu thấy chuyện này thế nào?".

    Vốn luôn thâm trầm mà khi nghe hỏi như vậy, thân hình to lớn Giang Hải Lưu bất giác chấn động, trầm ngâm một lát rồi cười khổ đáp: "Đúng lý thì không có điều gì nghi vấn cả, Đại tư mã thân thể mấy năm gần đây vì độc thương cũ thỉnh thoảng lại tái phát, hiện nay đại quân Phù Kiên nam lai, tinh thần và thân thể đều phải chịu áp lực nặng nề, chịu không nổi bệnh cũ phát tác, ai!".

    Tạ An bình tĩnh nói: "Hải Lưu biết chuyện này từ khi nào?".

    Giang Hải Lưu thoáng do dự, cuối cùng mới thành thực nói: "Hải Lưu sớm nhận được tin tức, bất quá vì chưa hiểu rõ tình hình Kinh Châu lúc này nên không dám tới gặp An công".

    Tạ An ngầm thở dài, Giang Hải Lưu và Hoàn Huyền trước nay quan hệ mật thiết hơn nhiều so với quan hệ cùng Hoàn Xung. Bản thân ông đến tận hoàng hôn mới có tin tức, nhưng Giang Hải Lưu thì đã sớm được Hoàn Huyền báo tin trước đến mấy canh giờ, vì Hoàn Huyền muốn nhờ thế lực và ảnh hưởng của Giang Hải Lưu ở Kiến Khang giúp hắn thuận lợi kế thừa quyền vị của Hoàn Xung.

    Hiện tại Tư Mã Diệu đồng ý hay không, hoàn toàn ở một câu nói của ông. Tư Mã hoàng thất đương nhiên không muốn để Hoàn Huyền tập trung quân chính đại quyền Kinh Châu vào tay hắn, lại còn hy vọng nhân cơ hội này cắt giảm quyền lực của Hoàn gia, bất quá phải có sự đồng ý của người đứng đầu Bắc Phủ binh Tạ An mới được.

    Tạ An nói được hay không chỉ cần một câu, nhưng bất kỳ phương diện nào cũng đều mang tới hậu quả vô cùng nghiêm trọng.

    Để Hoàn Huyền ngồi lên chiếc ghế Đại tư mã, trong thời gian ngắn đương nhiên tất cả bình an vô sự. Nếu không đồng ý, mâu thuẫn Kinh, Dương lập tức trở nên căng thẳng, nội chiến sẽ nổ ra lúc nào không biết. Tại thời điểm quyết chiến với Phù Kiên hiện giờ, giống như đổ dầu vào lửa, tuyệt không phải là đem phúc tới cho thần dân nam triều.

    Mâu thuẫn trong lòng Tạ An như thế nào, có thể thấy rõ.

    Nhạt giọng nói: "Tin tức có phải do Hoàn Huyền đưa lại không?".

    Giang Hải Lưu rất muốn không phải trực tiếp trả lời câu hỏi không chút e dè như núi lở trước sân này, nhưng không có cách nào khác, đành ủ rũ gật đầu: "Chính là như thế!". Tạ An khẽ cười: "Hải Lưu hiểu rõ tình thế rồi chứ?".

    Giang Hải Lưu lại ngầm hít một khẩu khí, hơi cúi đầu, hạ giọng nói: "Trong tay Hải Lưu có một bản tấu chương do đại tộc môn võ tướng ở Kinh Châu cùng nhau thảo ra, khẩn khoản xin Hoàng thượng chuẩn y để Nam quận công kế thừa trọng vị Đại tư mã, làm yên lòng quân dân, cùng đoàn kết nhất trí, ứng phó Phù Kiên. Ài! Hải Lưu cũng đã ký vào bản tấu chương, chuẩn bị sau khi báo lên An công, lập tức tâu với Hoàng thượng".

    Tạ An càng thêm buồn cười, mắt không chớp nhìn chằm chằm vào Giang Hải Lưu. Giang Hải Lưu cười khổ: "An công có thể cho Hải Lưu nói mấy lời riêng tư không?". Tạ An thung dung nói: "Đó chính là điều ta đang muốn nghe đây!".

    Giang Hải Lưu nhích lại gần hơn, hạ giọng chỉ để Tạ An nghe thấy, nói: "Huyền soái xuất quân thắng trận, đại phá quân Lương Thành, lại gây áp lực khiến đại quân tiên phong của Phù Kiên phải kéo về tây Phì Thủy, thắng lợi có thể hy vọng. Bất quá không biết An công có từng nghĩ qua nhược bằng trận chiến này chúng ta kết thúc đại thắng, tình thế phát triển sau này đối với Huyền soái và An công chẳng phải sẽ vô cùng bất lợi sao?".

    Tạ An nhíu mày: "Câu chuyện đùa này phải chăng là do Nam quận công sai ngươi nói với ta?".

    Giang Hải Lưu ngồi thẳng người lên, chậm rãi lắc đầu nói: "Chính là suy nghĩ chân chính trong lòng Hải Lưu, nếu có một chữ không đúng, xin cho Hải Lưu chết không yên lành. An công tại thời khắc quan trọng này chịu giúp đỡ Nam quận công, Nam quận công tất nhiên sẽ mãi mãi cảm kích. Đương nhiên rõ ràng An công không cần Nam quận công đối với lão nhân gia người cảm ân đồ báo, mà đó là vì Huyền soái và thần dân đại Tấn ta mà nghĩ. Chỉ cần một ngày Nam quận công khống chế Kinh Châu, họ Tư Mã không thể không trọng dụng Huyền soái, để mà cân bằng tình thế. Giang Hải Lưu tôi xin bằng tính mệnh bảo đảm tuyệt không thiên vị bên nào, cũng lấy đó để báo đáp ân tình trước đây của họ Tư Mã đối với Hải Lưu này. Đây chính là lời từ phế phủ của Hải Lưu".

    Tạ An một lần nữa thầm than, Giang Hải Lưu xác thực nhãn quan rộng lớn, quan sát tình thế rất chính xác. Hiện tại ông chỉ có thể chọn lựa hoặc giúp Hoàn Huyền hoặc để hắn tách rời khỏi triều đình phương nam.

    Người mà Hoàn Huyền cố kỵ nhất là Tạ An và Tạ Huyền, còn lại bất kỳ ai hắn đều không coi vào đâu. Xét cho kỹ hơn thì người mà Giang Hải Lưu sợ nhất cũng là bản thân ông và Tạ Huyền, chỉ cần một trong hai người còn sống, cho là có một ngày Giang Hải Lưu táo gan làm lớn, cũng không dám giúp Hoàn Huyền khởi binh làm loạn. Nếu không có Giang Hải Lưu trợ giúp, Hoàn Huyền cũng vô phương khống chế thượng du Trường Giang, vì vậy mà lời này của Giang Hải Lưu chắc chắn không phải là nói ngoa. Nhưng nếu ông trợ giúp Hoàn Huyền, mà không thiết pháp để lần lữa hoặc thừa cơ tước đoạt binh quyền của Hoàn gia, chắc chắn sẽ làm cho Tư Mã Diệu và Tư Mã Đạo Tử thêm nghi ngờ Tạ gia.

    Trong tình hình như vậy, ông thật quả tiến thoái lưỡng nan.

    Tạ An bình tĩnh nói: "Hải Lưu phải hiểu thật rõ tâm ý Nam quận công mới được".

    Giang Hải Lưu thở dài: "Hiểu rõ rồi thì làm sao? Cho là Nam quận công chịu khuất phục hoàn cảnh, cuộc chiến này nếu thắng, nam phương còn ai dám cùng Huyền soái tranh phong? Nhưng nếu chiến sự tiếp tục, triều đình hẳn không thể không nhờ đến Nam quận công và binh lực Kinh Châu. Trước mắt cần thiết nhất là đoàn kết, bất luận thắng hay thua, hợp tác Kinh - Dương là bắt buộc. Đó là ngu kiến của Hải Lưu, xin An công định đoạt". Tạ An gật đầu nói: "Hải Lưu lập tức mang tấu chương đưa vào hoàng cung xin Hoàng thượng xem xét, ta sẽ vào sau".

    Giang Hải Lưu mừng rỡ nói: "Vậy là An công chịu hết sức giúp Nam quận công rồi". Tạ An mỉm cười: "Đó chẳng phải tâm nguyện của ngươi sao?

    Giang Hải Lưu đỏ bừng mặt, ấp úng nói: "Hải Lưu chỉ là hy vọng đại Tấn ta thứ nhất không mất vào tay Phù Kiên, thứ hai không để mất cơ hội tốt thừa thắng bắc phạt, cả hai phương diện đều phải do An công giúp đỡ Nam quận công mới được".

    Tạ An chẳng nói chẳng rằng, chỉ nói: "Đi đi!".

    Giang Hải Lưu đứng lên thi lễ, vội vã đi ra.

    Tạ An tâm tư trong lòng dâng lên như sóng cả ngập trời, hiện tại Hoàn Huyền có thể kế nghiệp huynh trưởng hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ông.

    Giang Hải Lưu tuy là thay Hoàn Huyền làm thuyết khách, nhưng lời hắn nói ra lại không phải không có lý, dư luận từ bên ngoài ám thị muốn thu hồi quyền lực của Hoàn Huyền, nhất thời cũng không cần gấp gáp.

    Sự thực chỉ cần một ngày Tạ Huyền còn đó, Hoàn Huyền cũng không khác gì bị áp chế chặt chẽ, trong hoàn cảnh này, Tư Mã hoàng triều cũng không thể không dựa vào Tạ Huyền, Tạ gia thời vững như Thái Sơn.

    Nếu tương lai Hoàn Huyền có hành động sai trái, Tạ Huyền cũng thừa đủ năng lực thu thập hắn.

    Nhưng nếu hiện tại Hoàn Huyền không có sai lầm đáng kể gì cần phải ứng phó, làm sao khiến thế lực sở tại và quân dân Kinh Châu tâm phục đối với Hoàn Huyền. Đối với chuyện phân chia quyền hành, Tạ An cuối cùng đã có một quyết định gian nan, với Hoàn Huyền quyết ý tiện thể tạo dựng cho hắn, để hắn ngồi lên chiếc ghế Đại tư mã.


  3. #32
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 32

    Đại chiến tiền tịch
    Tạ Huyền tiễn Chu Tự đi rồi, lập tức cho gọi Lưu Dụ.

    Lưu Dụ bước vào nội đường soái phủ, nhìn thấy chỉ có một mình Tạ Huyền ngồi trầm tư, không cầm được cảm giác vì được ưu ái mà lo sợ.

    Chu Tự và Tạ Huyền đàm luận, tất có liên quan đến những tin tức tình báo về Phù Kiên hết sức trân quý, lẽ ra Tạ Huyền phải cùng Tạ Thạch và Tạ Diễm thương nghị, nếu cần tìm người bàn mưu tính kế, cũng phải là Lưu Lao Chi và Hà Khiêm, đâu đến tên phó tướng tép riu như mình.

    Tạ Huyền ngước nhìn Lưu Dụ, thấy gã hoảng hoảng hốt hốt thi lễ trước mặt, mỉm cười nói: "Tiểu Dụ ngồi xuống".

    Lưu Dụ ngượng ngùng nói: "Mạt tướng muốn đứng thế này cho dễ chịu một chút". Tạ Huyền tức cười nói: "Ta bảo ngồi xuống thì cứ ngồi xuống, thoải mái một chút đầu óc mới linh hoạt".

    Lưu Dụ ngồi xuống mé bên, thầm nghĩ Chu Tự vừa rồi cũng ngồi đúng ở chỗ này. Tạ Huyền trầm ngâm một lát, điềm đạm nói: "Chuyện ta phân phó, ngươi tiến hành được đến đâu rồi?".

    Lưu Dụ lập tức mặt mày hớn hở, hưng phấn nói: "Hiện tại ước tính đã làm được chừng hơn vạn bao đá vụn, mỗi bao nặng ba đến bốn chục cân, có thể buộc túm ở trên, nhìn từ bên kia sông rất khó phát giác. Tiểu tướng đã sai người bố trận nhiều phen diễn luyện, chỉ cần một tay giữ khiên mây, để chắn tên đạn của địch, tay kia thò ra phía sau mở dây buộc, bao đá sẽ dễ dàng tuột từ trên lưng xuống sông, bảo đảm thần không hay quỷ không biết".

    Tạ Huyền nhíu mày: "Mang thêm bao đá ba bốn chục cân, hành động thế nào cũng bị ảnh hưởng, bên Phù Kiên cao nhân không thiếu, dưới ánh sáng ban ngày, có thể qua tư thế di động của chúng ta mà coi ra manh mối".

    Lưu Dụ ngớ người nói: "Huyền soái phải chăng nghĩ đến việc tập kích vào ban đêm?". Tạ Huyền hớn hở: "Trẻ con thật dễ dạy! Chu Tự quay về Thọ Dương gặp Phù Kiên, sẽ mạt sát ta mục hạ vô nhân, vì thắng mà sinh ra kiêu ngạo, không coi Phù Kiên vào đâu. Tạ

    Huyền ta đã là loại người này, đương nhiên đêm nay không thể không động tĩnh gì, kiểu gì cũng phải có hành động để khoa trương khiêu khích một chút mới đúng. Nói đi, ngươi cần bao nhiêu người?".

    Lưu Dụ phấn khởi hùng tâm, cố nén hưng phấn, lúng búng nói: "Chuyện này quan hệ trọng đại, cần phải do Lưu tham quân hoặc Hà đại tướng chủ trì, hắc! Tiểu tướng...".

    Tạ Huyền mỉm cười: "Chính vì chuyện quan trọng, cho nên chúng ta tuyệt không thể để đối phương phát giác là chuyện quan trọng, do ngươi cầm quân là thỏa đáng nhất, để cho địch nhân cho đó chỉ là một hành động mang tính quấy rối".

    Lưu Dụ lại phấn khởi hùng tâm, biết Tạ Huyền muốn giành cho mình cơ hội lập công, từ lúc tiếp nhận nhiệm vụ trước đó do Tạ Huyền giao cho, gã đã vắt óc tìm cách thực hiện đến mức tận thiện tận mỹ, tự nghĩ bất kỳ người nào cũng không thể làm tốt hơn. Bèn không do dự, nói: "Mạt tướng chỉ cần ba nghìn bộ binh, chia ba đường vượt sông, mỗi tổ một ngàn người, lén lút mang ba cái thứ có thể lấp đầy lòng sông thêm mấy thước, để kỵ binh bên ta có thể tăng tốc vượt sông. Người của ta sẽ quỵ gối cúi người chỉ vừa đúng đến mặt nước. Trong đêm tối sẽ không lo bị đối phương phát giác. Sau khi làm xong, sẽ trải lên trên các bao đá một lớp bùn cát cùng cành lá khô, nếu từ trên bờ nhìn xuống sông, sẽ không phát hiện được có điểm khác thường".

    Tạ Huyền nói: "Ngươi nghĩ thật chu đáo, không phụ ta đã tin cậy ngươi, hoàn thành nhiệm vụ rồi, người của ngươi có thể về thành nghỉ ngơi, không cần tham dự đại chiến ngày mai, ta sẽ phái một cánh quân khác men theo bờ sông bố trận, ngăn đối phương vượt sông, có thể phát giác điều lạ".

    Lưu Dụ vội nói: "Xin cho thuộc hạ ngày mai theo sau ngựa Huyền soái". Tạ Huyền cười ha hả: "Sao có thể thiếu phần ngươi được. Đi đi!".

    Lưu Dụ đi ra đầy bụng hoan hỉ, thầm nghĩ cái gọi là đàm tiếu dụng binh, chính là giống như sự điềm đạm ung dung của Tạ Huyền vậy, càng minh bạch khi sớm Tạ Huyền chúc chúng nhân đêm nay ngon giấc, vì chỉ có mình là một tiểu tốt qua sông đảm trách hành động vất vả đêm nay.

    ° ° °

    "Phanh!".

    Phù Kiên vỗ một chưởng vào lưng ghế, đột ngột giận dữ nói: "Tạ Huyền tiểu tử! Lại dám coi thường Phù Kiên ta, hay là đã chán sống rồi?".

    Chu Tự tay buông thõng, cung thân đứng trước mặt y, nét mặt phẫn uất nói: "Hắn đã thay đổi nhiều quá, bị tiêm nhiễm nặng nề thói hư tật xấu của nam phương thế gia đại tộc, mới thắng một trận nhỏ đã biến thành tự cao tự đại, mục hạ vô nhân, lại còn nói... ài!".

    Phù Kiên trao đổi ánh mắt với Phù Dung ngồi bên, dằn nộ hỏa, trầm giọng nói: "Chu khanh hãy thuật lại không sót một lời cho trẫm".

    Chu Tự nói: "Tạ Huyền lời lẽ điên rồ, nói sẽ tuyệt không để Thiên Vương còn sống trở về phương bắc, chỉ cần hắn cắt đứt đường tiếp tế giữa Biên Hoang Tập và Thọ Dương trấn, quân ta sẽ không quá ba ngày là hết lương thảo, lại muốn vi thần quy hàng hắn, vi thần đã dùng lời lẽ đàng hoàng từ chối".

    Phù Dung lạnh lùng nói: "Đó không hoàn toàn có thể coi là cuồng ngôn, chúng ta cần bố trí lại, bằng không không chừng lời hắn có thể thành sự thực".

    Chu Tự thầm nghĩ Phù Dung rõ ràng nắm chắc tình huống hiện thời hơn huynh trưởng của y nhiều, kế hoạch nguyên là một mặt vây khốn Thọ Dương, mặt khác dùng quân của Lương Thành phong tỏa đường sông, tiến lên áp chế Hạp Thạch thành. Hiện tại Thọ Dương không đánh mà được, nhưng lại là một tòa thành không, ngược lại còn phải tốn vào đấy rất nhiều quân tướng, tệ hơn nữa là quân Lương Thành bị thất bại, bình phong chướng ngại phía đông mất đi, đối phương có thể dùng thuyền mau lẹ vận chuyển binh lính, chặn đánh đường vận chuyển lương thảo thủy lục lưỡng lộ, cắt đứt liên lạc giữa Thọ Dương và Biên Hoang Tập. Hơn hai chục vạn người sẽ thiếu lương trầm trọng. Hiện tại lương thảo dự trữ ở Thọ Dương chỉ đủ chi dụng trong vài ngày, vì vậy Tạ Huyền dùng hư ngôn dọa dẫm mới có hiệu quả cao.

    Sắc mặt Phù Kiên biến thành rất khó coi.

    Chu Tự nói: "Đấy chỉ là một phần lời hắn nói, hắn còn nói ngày mai sẽ đưa quân vượt sông, đánh cho quân ta không còn một manh giáp".

    Phù Kiên không những không giận mà lại cười nói: "Đồ thỏ đế! Thực có đảm lượng đó sao".

    Phù Dung nhíu mày nói: "Tạ Huyền mà là người nóng nảy hấp tấp sao? Bên trong nhất định có điều giả trá".

    Chu Tự nói: "Theo vi thần thấy, Tạ Huyền đích thị dùng kế dương đông kích tây, tuy nhiên nếu để hắn tại bắc Hoài Thủy kiến lập cứ điểm, đúng là có thể cắt đứt liên hệ giữa

    quân ta với Biên Hoang Tập, lại có thể cản trở quân ta lần nữa theo hạ du Hoài Thủy qua sông".

    Phù Dung gật đầu nói: "Chu tướng quân nói rất có lý, bất quá luận thực lực bên ta hơn bọn chúng nhiều, làm sao để chúng muốn làm gì thì làm".

    Chu Tự nói: "Nếu Tạ Huyền ngày mai dám vượt sông tấn công, chúng ta nên ứng phó thế nào?".

    Phù Kiên tàn nhẫn nói: "Vậy thì ta sẽ phải khiến cho hắn thây chìm đáy sông, không để một người nào sống sót trở về Hạp Thạch".

    Phù Dung thầm biết Phù Kiên hết sức căm giận Tạ Huyền, bất quá không dám khuyên Phù Kiên co cụm không ra, bằng không với hơn hai mươi vạn đại quân tung hoành phương bắc lần này nam chinh, mà lại không dám chính diện hoàn kích Bắc Phủ binh không đến mười vạn, chẳng những để cho thiên hạ chê cười, mà còn rất ảnh hưởng đến đại quân Đê Tần đã từng thất bại trận đầu.

    Chu Tự còn đang muốn nói, bỗng nhiên một hồi trống trận ầm ầm từ mé bờ sông truyền lại.

    Phù Kiên nổi giận bật dậy hét to: "Quả thực khinh ta không có người sao, Tạ Huyền tiểu tử! Phù Kiên ta nguyện khiến ngươi phải hối hận về từng câu nói".

    Phù Dung hoang mang đứng lên nói: "Thiên Vương xin chớ vì thứ người không biết trời cao đất dày ấy mà nổi giận, đệ coi đây chỉ là hành động hư trương thanh thế để gây nhiễu loạn thôi, để đệ ứng phó là được".

    Chu Tự vội cúi đầu xuống, không để hai người thấy thần sắc vui mừng ánh lên trong đáy mắt.

    ° ° °

    Yến Phi ngã ngồi xuống khoảnh đất trong rừng, thở hổn hển mấy hơi, toàn thân lạnh lẽo, rất đỗi khó nói có chỗ nào không ổn, chẳng biết cảm giác khó chịu gốc gác từ đâu.

    Chàng nhớ lại hồi nãy Từ Đạo Phúc và Lư Tuần đối đáp với nhau, thầm kêu bất hảo. Chàng vì chuyện phải vội tới Hạp Thạch thành cảnh cáo Lưu Dụ, toàn lực phi thân, âm hàn chân khí của Nhậm Dao nhân cơ hội khuếch tán đến toàn thân kinh mạch, như vậy lại càng khó khu trừ, khiến hiện giờ chàng có cảm giác ghê ghê đáng sợ.

    Trên đầu bầu trời đêm tinh đẩu giăng đầy, tráng lệ mê người.

    Yến Phi lặng lẽ vận Nhật Nguyệt Lệ Thiên đại pháp, bên trong thân thể nhật nguyệt tương giao, một lát sau cảm giác giá lạnh từ từ thuyên giảm, tựa như đã phục nguyên, nhưng Yến Phi biết rõ đó chỉ là miễn cưỡng ép giảm nội thương, khoảng cách tới trạng thái chân chính hồi phục vẫn xa tít tắp.

    Chàng là người thoải mái, không hề để tâm đến thương thế, thầm nghĩ nếu vận mệnh phải như thế, thì cũng vui vẻ nhận mệnh.

    Trong thời khắc đêm đen tĩnh mịch này, tâm linh hết sức êm đềm. Từ lúc mới bắt đầu cuộc sống lưu lãng tới giờ, chàng chỉ toàn hưởng thụ cuộc sống cô đơn tịch mịch. Chỉ những có lúc một mình, chàng mới thể nghiệm rõ sự tồn tại của bản thân, cảm thấy tự bản thân cùng trời đất có những quan hệ vi diệu bí ẩn không cách gì hiểu thấu, có thể từ những góc độ mênh mông vô hạn mà trải nghiệm cuộc đời kỳ dị này.

    Trong khi đại đa số mọi người trầm mê trong buồn vui tủi hận, tranh quyền đoạt lợi của thế gian, chàng lại vượt hẳn ra ngoài tất cả những cảm giác đó.

    Sau khi giết chết Mộ Dung Văn, chàng trải qua một đoạn hồi ức bi ai sanh ra do luyến ái nam nữ, đau thương cùng cực, trốn khỏi Trường An, cuộc sống đang tràn ngập ánh dương quang đã lặng lẽ khuất dần trong bóng tối, đến tận khi Phù Kiên nam lai, tất cả mới thay đổi.

    Nàng hiện tại có được sống khoái lạc hay không? Ở chốn sâu thẳm trong tâm hồn nàng, còn có hình bóng mình hay không?

    Trước đây mỗi lúc tưởng nhớ tới nàng, trong tim lại dâng lên cuồn cuộn nỗi buồn thương mất mát không tên, nhưng trong thời khắc này, chàng chỉ là một cá thể cô độc bơ vơ, mơ về một thế giới thân thương bên ngoài trời đất, để gã trao trọn nỗi cô tịch của mình.

    Cho dù thương nhớ khổ sở thì làm sao?

    Tất cả đã không thể vãn hồi được hiện thực rắn như sắt thép.

    Yến Phi rất muốn như thế không gì thay đổi: không gì dính dáng đến mình, vĩnh viễn không cần ly khai, cùng với thiên địa vạn vật hòa thành một khối. Nhưng lại biết bản thân mình đã bị cuốn sâu vào dòng xoáy của thời đại, hoàn toàn không thể duy trì tác phong hành sự coi mọi chuyện không liên quan gì đến mình xưa nay nữa.

    Bèn thở dài, chậm rãi đứng lên, tiếp tục hành trình về phía nam.

    ° ° °

    Tạ Huyền đứng sừng sững trên đầu tường Hạp Thạch thành, chăm chú quan sát tình hình bên đối ngạn, cuộc vượt sông dạ tập chỉ vừa mới bắt đầu sôi động, địch nhân xuất động gần vạn bộ binh, dùng cung tên bắn chặn quân lính đang vượt qua sông.

    Trước khi bỏ Thọ Dương, Tạ Huyền đã lệnh cho Hồ Bân dọc theo Phì Thủy xây dựng các công sự phòng ngự, lũy đá, đường hào tránh tên, vọng gác, khi bên địch mới lấy được Thọ Dương, mọi việc còn chưa ổn định, Tạ Huyền đã đem nhiều tiễn thủ và máy bắn đá bố trí tại những vị trí trọng yếu bên đông ngạn, vì vậy đến lúc này Phì Thủy vẫn hoàn toàn bị khống chế bởi Bắc Phủ binh, chỉ có họ mới có thể vượt sông công kích, bên Phù Kiên chỉ có thể bị động chống trả.

    Đương nhiên sau khi Tần binh đã ổn định thế trận, có thể bằng binh lực áp đảo tranh chấp quyền thao túng Phì Thủy, tuy nhiên tuyệt không phải là đêm nay, cũng không phải chuyện ngày mai.

    Khoảng cách hai ba mươi trượng mặt nước biến thành yếu tố quan trọng quyết định thắng phụ.

    Lưu Dụ tiểu tử này quả thực tiền đồ vô hạn lượng, chỉ coi gã chỉ huy dạ tập, tuy biết rõ chỉ là hư trương thanh thế mà vẫn không chút tùy tiện, tiến hành công phu, tiến công thoái thủ đều rất có pháp độ.

    Ba hàng quân đầu đều mang khiên mây, dưới sự yểm hộ của máy bắn đá và xạ tiễn từ phía đông ngạn, xông lên quá giữa sông, từng hàng từng hàng nhất tề từ phía sau khiên mây nhằm lên cao xạ tiễn, tuy xen lẫn có thương vong, vẫn khiến địch nhân tổn thất khá nặng.

    Binh lính lưng mang bao đá theo mệnh lệnh vượt sông, dưới sự che chắn của tấm thuẫn bài tiến hành nhiệm vụ, những người quen thủy tính lặn xuống đáy, di chuyển bao đá đến những vị trí thích hợp, nhất thiết lặng lẽ mà làm.

    Một cánh quân khác từ chỗ khác vượt sông tiến công, khiến địch nhân không phát hiện được quân mình đang âm thầm tiến hành công việc.

    Nhưng những suy tưởng trong đầu Tạ Huyền lại không liên quan gì đến trận chiến trước mắt.

    Ông vừa nhận được bồ câu đưa thư từ Kiến Khang, biết tin về cái chết của Hoàn Xung, lại ngủ không được, bèn lên tường thành quan chiến.

    Từng cơn gió lạnh từ tây bắc ào ào thổi tới, tay áo bay tung, càng thể nghiệm hơn gian khổ của chiến sĩ đang vượt sông.

    Hoàn Xung là người ông tôn kính nhất ngoài Tạ An, nếu không có ông ta giúp Tạ An, Nam Tấn không thể có cục diện hưng thịnh nhất kể từ khi nam độ tới nay.

    Con người chí công vô tư ấy, cuối cùng lại nhằm đúng thời khắc không thích hợp nhất nhắm mắt ra đi mãi, đối với đại Tấn mà nói, là một tổn thất không gì bù đắp nổi. Thực tại quả thật cũng hơi quá trùng hợp.

    Em trai Hoàn Xung là Hoàn Huyền, lại đặc biệt là người mà ông và Tạ An cố kỵ nhất, người này chẳng những kiếm pháp cái thế, mà còn là thống soái tung hoành vô địch, tài dụng binh của hắn, chỉ sợ còn hơn Hoàn Xung.

    Bốn năm trước, khi Chu Tự binh bại đầu hàng, Tương Dương thất thủ, Hoàn Xung đã dùng Hoàn Huyền làm phó soái, phát động phản kích, mang mười vạn quân Kinh Châu, chia ra nhiều đường. Hoàn Huyền công Tương Dương, Lưu Ba công các thành mạn bắc, Dương Lượng công Thục, Quách Thuyên công Võ Đương. Quân Kinh Châu hạ nhiều thành trì, chấn động phương bắc, hoàn toàn nhờ Mộ Dung Thùy, Diêu Trường cố chết giữ được Tương Dương.

    Chuyện này trực tiếp thúc đẩy cuộc chiến nam chinh của Phù Kiên, nếu để Tương Dương trở lại vào tay quân Kinh Châu, Phù Kiên sẽ không có cách nào kềm chế quân Kinh Châu anh dũng thiện chiến, lại có Hoàn Huyền và Hoàn Xung tài năng siêu trác lãnh đạo.

    Trong chiến dịch này, Hoàn Huyền đã biểu hiện đầy đủ tài năng thống soái của y, trở thành một viên đại tướng trẻ duy nhất có thể cùng Tạ Huyền ông đàm luận các vấn đề.

    Hoàn Huyền trường kỳ tương trợ thân huynh xử lý quân chính Kinh Châu, lại có ý chiêu nạp thế tộc hào môn bản địa, với thế lực ở Kinh Châu thâm căn cố đế, đối với triều đình ở Kiến Khang Dương Châu có tâm ý muốn bài xích, nếu không có Hoàn Xung ra sức giúp đỡ triều đình, Kinh, Dương đã sớm có nội loạn.

    Hiện tại Hoàn Xung đã mất, cây đại thụ đã ngã xuống, nhất định khó mà duy trì tương quan cũ. Kinh, Dương phân hay hợp, hoàn toàn do nhất niệm của Hoàn Huyền, Hoàn Huyền đã trở thành nguyên nhân của họa hoạn trong tương lai.

    Quan hệ Kinh Dương tan vỡ, tạo điều kiện cho Tôn Ân với căn cứ địa ở Hải Nam có cơ hội thừa nước đục thả câu, chỉ cần coi Lư Tuần dám cả gan hành thích Hồ Bân, có thể thấy Thiên Sư đạo với thế lực hùng mạnh không để Nam triều trong mắt.

    Cho dù trận này thắng lợi, đánh lui Phù Kiên, tương lai vẫn là thù trong giặc ngoài, không thể lạc quan được.

    Tâm trí Tạ Huyền lại quay về địch quân cách sông đối kháng.

    Trận chiến này thành hay bại, cũng ở đại chiến ngày mai quyết định. Nếu Phù Kiên án binh bất động, tử thủ ở Thọ Dương, ông coi như thua trận này, cũng như thua mất luôn giang sơn Nam Tấn.

    Bất quá ông cảm thấy rõ Phù Kiên tuyệt không chịu co đầu rụt cổ, chưa nói chuyện ông mượn tay Chu Tự thi hành kế khích tướng, mà chủ yếu do tâm tính người Hồ hiếu võ và coi trọng sĩ diện.

    Phù Kiên mang đại quân nam lai, thực lực gấp bội Bắc Phủ binh, trận đầu đã thất lợi, đại tổn uy phong, nếu lại ở cái vùng Phì Thủy nhỏ bé để cho Bắc Phủ binh dọa khiếp không dám nghênh chiến thì uy danh để đâu? Phù Kiên không thể không ứng chiến, vì y so với mình lòng cầu thắng còn mạnh hơn nhiều, huống chi chỉ cần Phù Kiên tranh được bình thủ, y cũng đã có thể vãn hồi sĩ khí Đê Tần quân.

    Lưu Lao Chi lúc này cũng trèo lên thành lâu, tiến đến bên, vui mừng nói: "Tiểu tử Lưu Dụ này xác thực là một nhân tài khó gặp".

    Tạ Huyền không đáp lời hắn trực tiếp, vừa nói vừa cười: "Lao Chi ngủ không được sao?".

    Lưu Lao Chi cười khổ: "Kiểu nào cũng không nhắm mắt được".

    Trong Bắc Phủ quân, Tạ Huyền là người duy nhất hắn có thể dốc bầu tâm sự, nói năng thoải mái, hắn đối với ông tuyệt đối tín nhiệm, tuyệt đối sùng kính.

    Tạ Huyền bỗng nhiên thay đổi đề tài, nói: "Chu Tự chỉ có một yêu cầu sau khi thành sự, ngươi bảo là chuyện gì nào?".

    Lưu Lao Chi ngạc nhiên, gượng suy nghĩ một lúc, lắc đầu nói: "Thứ cho Lao Chi ngu xuẩn".

    Tạ Huyền để lộ thần tình cay đắng, chậm rãi nói: "Yêu cầu của ông ta là được giải trừ quân tịch, cho làm thứ dân".

    Từ thời Tam Quốc trở lại, chiến sự liên miên, gia đình binh lính thảy đều vì kẻ thống trị đổ máu hy sinh, gánh vác lao dịch đủ thứ, người nhà cũng không ngoại lệ. Nếu một khi đã bị ghi vào quân tịch, muốn được trở lại làm thường dân cũng khó như lên trời. Binh lính ở tầng lớp dưới lại càng "làm lính sống thời khốn khổ, không được ấm no, chết đi thời hài cốt bị vứt bỏ không ai đưa về", thậm chí có người còn bị thượng cấp vì tiền tài hại mệnh, "kẻ lại binh 1 nhà giàu, cũng là kẻ giết người vì tài vật", hay là "thâu thì đủ, cấp thì dối, sức thì bị vắt kiệt, y phục thì thiếu thốn, dùng thì đến nơi đến chốn, ăn thì tiết kiệm, liên miên đông qua hè tới, bệnh tật khổ đau càng nhiều, chết nơi ngòi rãnh mười phần có đến bảy tám, vì thế lính thú khổ cực, lòng không quên loạn".

    Như Chu Tự thuộc hàng danh môn đại tướng, đương nhiên không lo bị bóc lột, mà chính là sợ triều đình khắc bạc vô ơn, điểu tận cung tàng. Chính vì vậy Lưu Lao Chi nghe yêu cầu của Chu Tự, cũng bất giác sinh cảm khái như vật thương đồng loại.

    Chu Tự lần này lập đại công, bèn thừa cơ yêu cầu miễn trừ quân tịch, đúng là một hành động không kém sáng suốt.

    Tạ Huyền trầm giọng nói: "Lao Chi tiến cử Tiểu Dụ, ta rất đồng ý, tiểu tử này thực sự là trời sinh để làm quân nhân, chỉ có ở trong quân mới giống như cá gặp nước, đấy chính là bất đồng giữa gã với ta, nếu không giống như chọn lựa của ta, ta sẽ trở về hẻm Ô Y sống một cuộc đời phong lưu với thơ và rượu. Câu chuyện này chỉ hạn chế giữa ta và ngươi biết. Ta không tiện trực tiếp dìu dắt Lưu Dụ, mọi việc giao ngươi phụ trách, tương lai gã nhất định sẽ giúp được ngươi rất nhiều. Ta không muốn gã vì ta mà bị trong quân hoặc triều đình bài xích đố kỵ".

    Lưu Lao Chi hiểu rõ, gật đầu đáp ứng.

    Tạ Huyền nhìn sang bờ đối diện, điềm đạm nói: "Ngày mai là cơ hội duy nhất để chúng ta chiến thắng Phù Kiên, vì vậy chỉ có thẳng tiến không lui, đặt sinh tử ra ngoài".

    Lưu Lao Chi gật đầu khẳng định: "Hiện tại địch nhân thế trận chưa ổn, lương thảo thiếu thốn, lại thêm trận đầu thất bại, sĩ khí suy giảm, đường xa mỏi mệt, xa rời quê hương, người ngựa kiệt sức, sức chiến đấu giảm sút cùng kiệt, nếu ngày mai không nắm được thời cơ ngàn năm này, từ sau trở đi tình thế sẽ khác hẳn".

    Tạ Huyền lộ ra một nét cười đầy tự tin nói: "Bất chấp Phù Kiên có tài nhảy nhót ra sao, cũng không thể qua khỏi bàn tay ta được. Ngày mai sẽ là ngày tàn của Đê Tần bọn hắn, chúng ta phải sẵn sàng đối phó những phản ứng sau khi binh bại của bọn chúng, ngàn vạn không được để lỡ mất cơ hội tốt".

    Từ Phì Thủy những tiếng hô sát vẫn vang lên đây đó, trống trận ầm ầm, dấy động những âm hưởng trong khúc dạo đầu của một trường đại quyết chiến.

    --------------------------------
    1 Chức quan nhỏ trong quân.

  4. #33
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 33

    Phì Thủy chi chiến
    Thùng! Thùng! Thùng!

    Trống trận từng hồi từng hồi vang dội, chậm rãi mà trầm ổn hữu lực. Trước khi trời sáng đội ngũ đã tề chỉnh chờ xuất phát, trời vừa sáng lệnh truyền Bắc Phủ đại quân kéo ra khỏi Hạp Thạch thành, đội hình nghiêm cẩn tiến đến bãi đất bằng bên bờ đông Phì Thủy bố trí thành trận thế.

    Bắc Phủ binh nhân số bảy vạn năm ngàn khí thế hừng hực, gồm tám ngàn kỵ binh, còn lại là bộ binh, xếp thành thế trận hình chữ nhật kéo dài theo bờ sông. Tám ngàn đột kỵ chia thành ba tổ, hai tổ hai bên tả hữu gồm hai ngàn người, bốn ngàn tinh kỵ chủ lực bố trí ở giữa, ngoài ra bộ binh chia thành hai đội, mỗi đội chừng ba vạn sắp xếp ở giữa các đội kỵ binh, mỗi đội lại chia thành ba tổ tiền, trung, hậu. Tiền tổ dùng lính tiễn thủ mang khiên làm chủ, hai tổ còn lại trang bị khí giới đao kiếm chuyên để cận chiến, phối hợp với khí giới dài, có thể chiến đấu ở cả tầm xa và gần. Bất luận kỵ sĩ hay đao thủ đều mang giáp nhẹ thuận tiện cho việc vượt sông huyết chiến.

    Mười hai lá đại kỳ bố trí dọc theo bờ sông, theo gió tung bay, uy phong lẫm liệt, các binh sĩ Bắc Phủ binh hiểu rõ trong số sáu lá đại kỳ thêu chữ "Bắc Phủ", lá đại kỳ màu hồng bạch chính thị tiêu kỳ mệnh lệnh mau chóng vượt sông mang tên "Khoái tiệp phương thức".

    Bên bờ đối diện Hồ quân âm thanh đây đó vang lên, Đê Tần đại quân đã bắt đầu điều động, từ Thọ Dương và doanh trại bốn phía kéo ra, tập kết tại cánh đồng hoang rộng lớn bên tây ngạn Phì Thủy.

    Phù Kiên đã xuất tận nhân lực, kỵ binh mười tám vạn, bộ binh sáu vạn, tổng binh lực gấp ba lần Bắc Phủ binh, thanh thế hùng hổ, cung cách oai phong, tuyến đầu sử dụng ba vạn kỵ binh bố trận cách Phì Thủy trăm bộ, hai bên đều có năm ngàn kỵ binh hỗ trợ, thuẫn bài che kín, thêm vào cung cứng tên mạnh, kích dài câu khỏe, thực lực đủ để đập nát bất cứ hành động nào của Bắc Phủ binh toàn lực vượt sông qua đây.

    Vì quân số đông, ngoại trừ bộ binh bố trí ngang phía trước theo thế trận phòng ngự, mười sáu đội kỵ binh phía sau sắp thành trận thức hình vành trăng, mỗi đội chừng vạn người, hình thành đội hình ken dày trong một hình bán nguyệt hướng cung tròn sang phía đối ngạn,

    thu hẹp tuyến phòng ngự thành một thể chặt chẽ, khi phản kích có thể bộc phát lực lượng hết sức quyết liệt.

    Còn lại ba vạn bộ binh lưu lại giữ Thọ Dương, đương nhiên tùy thời có thể y lệnh xuất thành trợ chiến.

    Lưu Dụ theo Tạ Huyền cùng Tạ Thạch, Tạ Diễm, từ sơn thành phóng ngựa xuống, hai bên vẫn còn đương bài binh bố trận.

    Lưu Lao Chi và Hà Khiêm đã sớm đưa các tướng lãnh ra tuyến đầu chỉ huy đại quân tiến thoái.

    Lưu Dụ kềm ngựa đứng lẫn trong đám thân binh của Tạ Huyền, tâm tình hưng phấn, thực khó mà so sánh. Sống đến ngày hôm nay, gã lại lần đầu tiên tham dự một trận chiến đại quy mô như thế này, trong lòng không chút lo sợ hay bất an, chẳng phải vì gã không sợ chết, mà căn bản không nghĩ đến trường chính diện quyết chiến này có thể thất bại.

    Trong số tướng sĩ Bắc Phủ binh, trừ Tạ Huyền ra, sợ chỉ có duy nhất gã hiểu rõ để đạt được cục diện như trước mắt này thực không dễ chút nào, mà nhờ Tạ Huyền tận tâm tận lực khéo thi hành kỳ mưu diệu kế, một tay ra sức mới nên.

    Mắt thấy phía trước Tạ Huyền như hạc giữa đàn gà, một thân trang phục bạch y nho sĩ không mang giáp trụ, gã có cảm giác tình cảm dâng trào, nghẹn ngào muốn khóc.

    Ngoảnh nhìn về phía nam, duy chỉ có đôi vai rộng rãi của Tạ Huyền, mới đủ sức gánh vác trách nhiệm nặng nề quyết định an nguy tồn vong của đại Tấn, cũng chỉ có ông mới có thể khiến tướng sĩ đồng lòng, khẳng khái hy sinh.

    Lưu Dụ tin tưởng hiện thời trên chiến trường, mỗi cá nhân Bắc Phủ binh đều mang niềm tin như gã rằng Tạ Huyền sẽ lãnh đạo bọn họ đi trên con đường thênh thang chiến thắng. Tạ Huyền chính là hình ảnh hóa thân của Tạ An trên chiến trường, cho dù Phù Kiên dốc tận nhân lực tới đây, cũng không cách gì đánh bại Tạ Huyền.

    Từ lúc đầu, Tạ Huyền đã phát hiện Phù Kiên điều quân hết sức thất cách, tiền quân hậu quân cách nhau ngàn dặm, tinh kỳ xa tít tắp, chiến tuyến kéo ra quá dài, mà lại có ý khinh địch, cho rằng có thể như thu phong tảo lạc diệp dễ dàng đánh bại nam Tấn, đâu biết đã để cho Tạ Huyền nắm thế hoàn toàn chủ động, trăm vạn đại quân chỉ có chừng gấp ba quân số Bắc Phủ binh cùng nhau tranh phong.

    Trong thời khắc này, Lưu Dụ cảm giác hoàn toàn nắm chắc bí quyết trở nên một vị thống soái của Tạ Huyền, có thể thực hiện được hay không là một chuyện khác, ít ra cũng nắm vững pháp môn bên trong.

    Bờ bên kia một đám tinh kỳ đang từ từ di động trong đại dương mênh mông kỵ binh, rõ ràng là Phù Kiên cùng các thân binh thân tướng của y, đang tiến lên phía trước, coi rõ cục thế bên sông.

    Tạ Huyền cuối cùng đã kềm ngựa bên bờ đông, Bắc Phủ binh ở trận địa men theo bờ sông lập tức bùng lên những tiếng reo hò hoan hô, người người đều hô to Tạ Huyền đại soái, sĩ khí lập tức dâng lên đến cực điểm. Đối với họ mà nói, Tạ Huyền đã không chỉ là một vị lãnh tụ, mà còn là một vị thiên thần nhất định sẽ mang thắng lợi đến cho họ.

    Tạ Huyền vẫn thần thái tự nhiên, ung dung đại độ, hốt nhiên vung quyền kích thẳng lên trời, mỗi lúc ông bất ngờ có động tác như vậy, lại càng làm dấy lên những tiếng reo hò kích động hơn, người người như say như dại, quên đi bao hung hiểm trên chiến trường.

    Đứng giữa Tạ Huyền và Tạ Diễm là chủ soái Tạ Thạch thần sắc không hề khó chịu, ngược lại thấy điệt nhi được hoan nghênh như vậy trong lòng ông rất hoan hỉ.

    Lưu Dụ bất giác càng bội phục Tạ An, ông không lo bị hiềm nghi chỉ sử dụng thân tộc, chính vì muốn để cho Tạ Huyền phóng tay mà làm, cho ông cơ hội tự do và toàn quyền chỉ huy. Nếu đổi Tạ Thạch và Tạ Diễm là người khác, Tạ Huyền cũng không thể không cố kỵ, đến mức vướng víu chân tay, không thể phát huy tinh thần và sức chiến đấu của Bắc Phủ binh đến tận cùng.

    Kỵ đội trung tâm phân khai sang hai bên, nhường cho đội ngũ của Tạ Huyền xếp hàng ba như một con trường xà tự nhập vào đội hình kỵ binh, soái kỳ giương cao, hướng về Phì Thủy tiến tới, hai bên kỵ binh bạt đao hò hét vang trời, Lưu Dụ tuy biết đối tượng được hoan nghênh là Tạ Huyền ở đằng trước, cũng cảm giác được chung niềm vinh dự, toàn thân nhiệt huyết trào dâng.

    Đối với mỗi chiến sĩ Bắc Phủ đang có mặt bên bờ sông mà nói, trận này không nghi ngờ gì nữa, là để bảo vệ gia đình giữ yên tổ quốc, ra trận vì chánh nghĩa, mục tiêu chính đáng, từ đó sinh ra quyết tâm và dũng khí chỉ tiến không lui.

    Ngược lại ở bên đối ngạn, tuy binh lực hơn hẳn, nhưng sức lao lực kiệt, đặc biệt ngoài Đê tộc ra, chiến sĩ các tộc khác căn bổn không biết bản thân vì sao lại có mặt ở đây? Vì cái gì mà chiến đấu?

    Mặt sông Phì Thủy ba mươi trượng, dưới ánh sáng vầng thái dương mới mọc chiếu xuống lấp lánh, cách ly song phương đối địch rõ ràng, nước sông êm đềm trôi, đối với trận đại chiến sắp nổ ra điềm nhiên không cần biết.

    Bỗng nhiên một hồi trống trận dồn dập và mãnh liệt vang lên thấu tận trời xanh, nguyên lai Tạ Huyền đã cùng chúng tướng đi tới bên sông, xa xa quan sát địch trận.

    Phù Kiên ngồi thẳng trên lưng ngựa, xung quanh là Phù Dung, Khất Phục Quốc Nhân, Lữ Quang cùng chư tướng đi tới phía sau trận địa bộ binh trang bị cung tiễn và khiên, hướng về đối ngạn nhìn sang, mục quang dừng lại ở tấm bạch y trắng như tuyết trên thân Tạ Huyền, không giống bất kỳ ai khác, song mục sát cơ đại thịnh, trầm giọng nói: "Kẻ mặc bạch y kia phải chăng là tiểu tử không biết trời cao đất dày đó?".

    Phù Dung gật đầu: "Chính là Tạ Huyền".

    Một cơn gió mạnh tràn qua, phía sau Phù Kiên mấy lá đại kỳ bay phần phật.

    Trong tâm Phù Kiên nổi lên hào tình vạn trượng, quên luôn chuyện quân Lương Thành bại trận, cười lạnh: "Ta lại cứ nghĩ y ba đầu sáu tay gì, té ra chỉ là một tiểu tử miệng còn hôi sữa ra đến chiến trường mà vẫn làm bộ ăn mặc theo kiểu phong lưu danh sĩ, với Bắc Phủ binh bé mọn trong tay dám to tiếng không ngượng mồm, ta phải khiến y phải táng thây Phì Thủy mới nghe".

    Phù Dung nhìn sang đối ngạn thấy Tạ Huyền uy phong như thiên tướng, Bắc Phủ binh sĩ khí như triều dâng, rất muốn đề tỉnh Phù Kiên không nên khinh địch, bất quá lại không phải lúc thích hợp, đành uyển chuyển nói: "Tạ Huyền thực chất không đủ thực lực vượt sông tiến công, ta chỉ cần lấy tĩnh chế động, trận này chắc chắn sẽ thắng".

    Đám Khất Phục Quốc Nhân nghe lời biết có ngụ ý, nhao nhao gật đầu đồng ý, địch càng không thể công ta, ta càng không nên công địch.

    Lữ Quang nhớ đến độ sâu của lòng sông, cười gằn: "Nếu Tạ Huyền dám xua quân độ hà, chúng ta sẽ chờ chúng vượt sông đến giữa chừng liền tiến công để chúng trở tay không kịp, rồi tiếp tục đuổi theo bọn chúng công sang đối ngạn, đánh chúng tan tành không còn mảnh giáp".

    Khất Phục Quốc Nhân nhíu mày: "Tạ Huyền nếu lại ngu xuẩn đến thế, chẳng ai có thể giúp y qua được kiếp nạn này".

    Chúng tướng đồng thanh cười lớn.

    Ở bờ bên kia, Tạ Huyền đang hết sức lưu ý đến thần thái biểu hiện của Phù Kiên cùng chư tướng, thấy vậy hướng về Tạ Thạch và Tạ Diễm bật cười nói: "Phù Kiên trúng kế rồi! Y cho rằng có thể chiếm tiện nghi, không chủ động tiến công, đợi quân ta vượt sông giữa chừng mới phát động công kích, thật hết sức đáng cười".

    Tạ Thạch nhíu mày nói: "Phù Kiên nếu cứ án binh bất động, dù nhân mã bên ta có thể mau lẹ vượt sông, nhưng cũng chẳng thể nào phá nổi thế trận kiên cố của chúng, một khi đối phương dùng binh lực áp đảo bức bách quân ta lui về bờ nam, binh bại như núi lở, chúng ta không chừng sẽ thất bại trận này".

    Tạ Diễm ở bên cùng các tướng phía sau Lưu Dụ đều đồng ý, riêng Lưu Dụ biết Tạ Huyền tất có đối sách khác, chắc chắn sẽ không vượt sông đi tìm chết.

    Tạ Huyền ung dung đáp: "Vậy phải coi Phù Kiên có hận ta đến mức lý trí bị lú lẫn hay không? Có thiết tha cầu thắng hay không?".

    Hốt nhiên hét to: "Gõ ba hồi trống!".

    Các tay trống bên bờ sông nghe lệnh, lập tức tiếng trống vang lên như sấm sét, sau ba hồi lại mau chóng trở lại yên tĩnh.

    Hai bên bờ lặng lẽ như tờ, chỉ có tiếng nước chảy cùng tiếng ngựa hí đây đó.

    Lưu Dụ động tâm, đoán Tạ Huyền có dụng ý khích động Phù Kiên ham lập đại công, hành động độc đoán, không cam chịu nhục, lại chủ quan khinh địch, đến cả nhân vật quan trọng như Chu Tự đang chỉ huy bộ quân ở tuyến đầu, lúc này cũng không biết trong bụng Tạ Huyền đang tính toán điều gì.

    Tiếng trống vừa dứt, Tạ Huyền đã hét lớn: "Phù Kiên ngươi có dám cùng ta quyết một trận tử chiến hay không?".

    Phối hợp với âm hưởng trống trận vừa tắt, lời này của ông chẳng những uy phong bát diện, mà còn tràn ngập bá khí.

    Quả nhiên bên này Phù Kiên đột nhiên nổi lôi đình, nhưng không giận mà cười nói: "Trẻ con ở nam phương, không thẹn quá lớn lối sao? nếu Đại Tần Thiên Vương ta thiếu đảm lượng, ngày hôm nay ắt không để ngươi ở đó đối trận, nếu tri cơ thì hãy lập tức hạ gối đầu hàng, ta chẳng những để ngươi toàn mạng, mà còn cho ngươi một chức quan, bằng không hối sẽ không kịp đâu".

    Bên Bắc Phủ quân lập tức phát ra một trận cười vang dội, chế nhạo Phù Kiên đạo quân tiên phong đã thảm bại mà vẫn còn dám nói những lời như vậy, chính Phù Kiên mới là kẻ to mồm không biết ngượng.

    Tạ Huyền lắc đầu bật cười, hét to: "Chớ nói lời thừa, Phù Kiên ngươi vẫn chưa đáp ứng câu hỏi vừa rồi của ta, đó là ngươi có dám cùng ta quyết một trận tử chiến hay không?". Phù Kiên giận đến mức hung quang như lửa tóe trong mắt, Tạ Huyền trước mặt tất cả mọi người trước một câu, sau một câu Phù Kiên, không hề tôn trọng y, giọng điệu không coi y ra gì, chuyện này người nhẫn nhục đến mấy cũng không thể chịu nổi, cười giận dữ nói: "Ai đang nói lời thừa? Có gan thì phóng ngựa qua đây, ta muốn ngươi thây phơi Phì Thủy".

    Tạ Huyền đã đạt được mục tiêu, nói: "Các ngươi hiện tại lập trận sát bờ nước, hẳn là muốn dùng kế lần khần, nếu có ý quyết tử một trận, sao không cho toàn quân lui ra trăm bộ, chờ quân ta qua sông quyết một trận thắng phụ. nếu không có gan, tốt nhất là ngươi hãy quay về Trường An, về đó tha hồ mà chơi bời!".

    Bắc Phủ binh nghe ông nói chuyện hứng thú, lần thứ hai cười rống lên, tiếng cười truyền vào tai Phù Kiên, biến thành nỗi sỉ nhục, Phù Kiên quay nhìn tả hữu, người nào người nấy mặt đầy sắc giận.

    Thanh âm Tạ Huyền lại vọng đến: "Nếu chịu lui quân như thế, lệnh cho tướng sĩ xong xuôi, kẻ hèn này sẽ cùng ngài ôm cương mà xem xét, chẳng vui lắm sao?".

    Câu cuối cùng tràn đầy thi ý, ngữ điệu khách khí, mang bổn sắc thế gia đại tộc, không biết sao lại như đâm vào tai Phù Kiên và chúng tướng.

    Phù Kiên dán mắt vào Tạ Huyền, trầm giọng nói: "Tên này chả lẽ không biết sống chết là gì?".

    Khất Phục Quốc Nhân ngạc nhiên: "Đúng lý thì Tạ Huyền không thể là cái loại hữu dũng vô mưu như thế mới phải".

    Phù Dung cũng nói: "Bên trong có thể có điều trá ngụy, xin Thiên vương thận trọng".

    Thư Cừ Mông Tốn hừ lạnh: "Có Phì Thủy cách trở, y phải cho toàn quân lội sông mà qua, ít nhất cũng cần nửa canh giờ, khi đó không cần chúng ta động thủ, chỉ cần nước ngấm vào người cùng với gió tây bắc lạnh thấu xương, chưa đến lượt chúng ta ra tay khó nhọc thì chúng đã bị lạnh cóng gần chết rồi".

    Ngốc Phát Ô Cô cũng phát biểu: "Liệu có thể nào chúng ta lui lại nhường khoảng trống, Tạ Huyền vẫn án binh bất động, rồi mới cười nhạo chúng ta không?".

    Lữ Quang gầm gừ: "Khi đó kẻ mất mặt là bọn chúng, vi thần cho rằng Tạ Huyền thực sự có ý muốn vượt sông quyết một trận tử chiến, muốn nhân lúc này quân ta hành quân đường dài, nguyên khí chưa phục hồi, lại sợ quân ta tiếp tục kéo tới đông đảo, mới nghĩ hiện tại là cơ hội tốt nhất để tiến công".

    Phù Kiên thở sâu một hơi, ngầm hạ quyết tâm, nói: "Tạ Huyền có thể múa may gì trong tay trẫm được, hiện tại song phương đối địch, mọi thứ rõ ràng, đang khi chúng vượt sông nửa chừng, ta tung quân toàn lực tiến công, trước tiên cho tiễn thủ tới bên bờ phóng

    tên từ xa, chờ đến khi chúng thoái lui, mới cho thiết kỵ đuổi theo truy sát, trận này chắc sẽ toàn thắng".

    Khất Phục Quốc Nhân nói: "Lữ Quang đại tướng quân nói rất có lý, chỉ cần chúng ta tránh giao phong, khiến cho Tạ Huyền mất đi cơ hội đánh canh bạc cuối cùng, thắng lợi tối hậu tất sẽ thuộc về chúng ta".

    Phù Dung cũng nói: "Lời Quốc Nhân đáng để Thiên Vương xem xét, đại quân thực nên tiến không nên thoái".

    Phù Kiên thở ra một hơi dài, ngắt lời: "Nếu lần này bên ta không dám ứng chiến, kẻ dưới sẽ cho rằng trẫm sợ y, nếu để y thoái lui giữ Hạp Thạch, tiến công cũng không dễ, nếu theo kế hoạch của trẫm, chờ đến lúc địch vượt sông mới công kích mãnh liệt, giang sơn nam Tấn có khác gì đổ trong túi trẫm?".

    Nói xong hét to: "Trẻ con nam phương nghe đây, chúng ta sẽ lui về trăm bộ, các ngươi hãy lập tức qua sông, quyết một trận tử chiến, chớ có nói mà không làm".

    Liền đó hạ lệnh triệt thoái trăm bộ.

    Bên đối ngạn Tạ Huyền thở nhẹ một hơi, quay sang tả hữu nói: "Phù Kiên quả không phụ lòng mong đợi của ta".

    Phía sau Lưu Dụ nhìn thấy lính truyền tin của địch phóng ngựa thông tri cho các đầu mục tướng sĩ, hưng phấn đến mức sởn gai ốc khắp người. Gã rốt cuộc cũng nắm được mưu lược mang lại thắng lợi của Tạ Huyền.

    Thắng cũng do Phì Thủy, bại cũng do Phì Thủy.

    Tạ Huyền dám chơi con bài cuối cùng, dốc toàn lực để đánh một trận là thành công, là vì đã bí mật bố trí để khoái kỵ có khả năng mau lẹ phóng qua sông; Phù Kiên sở dĩ chịu lui quân một trăm bước vì muốn thừa cơ bên mình không thể mau chóng vượt sông, hồi quân phản kích. Với quân đội của Phù Kiên nhân số lên đến hơn hai mươi vạn, tựa như một con quái vật cồng kềnh, cái đầu rất khó chỉ huy tứ chi, không cần nói đến chuyện lui lại trăm bộ, mà chỉ cần thoái lui một bước cũng đụng chạm đến hai chục vạn con người, có muốn yên một chút cũng không được, loạn cục thế nào có thể dễ dàng tưởng tượng được.

    Hơn nữa, trận địa bố trí theo hình vành trăng người ngựa xen kẽ dày đặc, lúc phòng thủ không một kẽ hở, khi tiến công cũng rất có thứ tự, nhưng nếu quay đầu lùi lại, chẳng những phối hợp khó khăn, mà còn làm hỏng thế trận chu mật trước đó.

    Phía Phù Kiên đương nhiên không nghĩ đến chuyện đó, cho rằng Tạ Huyền đợi đến khi bọn họ bố trí ngon lành trận thế mới, mới vượt sông quyết chiến.

    Hiện tại thế chủ động tuyệt đối đã rơi vào tay Tạ Huyền, Lưu Dụ tin rằng tại thời điểm phù hợp nhất sẽ hạ mệnh lệnh qua sông tiến công.

    Tạ Huyền chăm chú nhìn sang địch trận, hiệu kỳ của quân Hồ giương cao, đội kỵ binh ở phía sau bắt đầu triệt thoái, vì quân số rất đông, nên ba cánh quân xa nhất cách tuyến đầu tới nửa dặm, vượt quá Thọ Dương thành bắc. Vì khoảng cách quá lớn nên nghe không rõ lời đối đáp của Phù Kiên, không tiếp được mệnh lệnh triệt thoái trăm bộ, chắc chắn từ trên xuống dưới chẳng hiểu đầu cua tai nheo thế nào, trong dạ nghi nghi hoặc hoặc.

    Phù Dung lúc này đã rời khỏi chỗ Phù Kiên, dẫn hơn chục thân binh phi lên tuyến đầu tiên, to tiếng ra lệnh cho ba vạn cung tiễn thủ do Chu Tự chỉ huy cố thủ tại chỗ, cho đến khi nào chính hắn ra lệnh mới được lui về.

    Chu Tự thần sắc nghiêm trang kính cẩn, im lặng không nói gì, có thể thấy tâm tình hắn đang khẩn trương thế nào.

    Tạ Huyền nhớ lại ngày nọ đã thua một ván cờ với Tạ An như thế nào, gắng giữ bình tĩnh, khẽ cười: "Phù Dung quả nhiên là người biết dùng binh, biết rõ cần phải nắm chặt tuyến đầu tối quan trọng".

    Lúc này cả đại hậu phương địch quân đều quay đầu ngựa triệt thoái về phía sau, trận thế từ ngoài vào trong vốn vững như thành đồng đã tan như mây khói.

    Tạ Thạch đã khẩn trương đến mức không chịu đựng nổi, hít vội mấy hơi thở nói: "Lúc nào tiến công?".

    Tạ Huyền chợt nói: "Khi soái kỳ của Phù Kiên chuyển động, là thời khắc chúng ta đưa quân vượt sông, khắc địch chế thắng".

    Tạ Diễm theo dõi Phù Dung từ mé bên tiền tuyến phi ngựa quay lại, cùng các thân binh kềm ngựa trên tuyến đầu, chỉ cách chỗ Chu Tự hơn mười bước, cặp mắt hổ đăm đăm nhìn về phía bên mình, lo lắng nói: "Nếu quân cung thủ của địch vẫn cố thủ ở tuyến đầu, quân ta sợ không có cách nào đột phá phòng tuyến của bọn chúng, cho dù vượt sông thành công, cũng phải ngậm hờn với khoảng cách trăm bộ giữa địch trận và dòng Phì Thủy".

    Tạ Huyền nhạt giọng nói: "Bên địch trước khi sắp xếp được toàn bộ thế trận, lòng quân đã loạn, quân ta ngựa khỏe, một trăm bộ chớp mắt là vọt qua, quân cung thủ đã mất hậu phương chi viện, một quệt là tan, bại thế một khi đã thành, đối phương muốn lật ngược thế cờ cũng không có cách nào. Phù Dung tuy suy nghĩ chu đáo, muốn chờ đến khi kỵ binh ổn định thế trận, mới triệt thoái bộ binh ở tiền tuyến, đáng tiếc lại không điều Chu Tự đi, sai lầm này sẽ khiến cho Phù Kiên đánh mất giang san của y".

    Tạ Thạch nói: "Phù Kiên di chuyển rồi".

    Tạ Huyền cũng nhìn thấy hoàng kỳ của Phù Kiên di động, hai bên hai toán kỵ binh hộ vệ quay đầu thoái lui.

    Toàn thể tiền tuyến đã bắt đầu di động, kể cả kỵ binh ở hai cánh, vì ngựa không thể đi giật lùi, tất nhiên phải quay đầu ngựa, vì thế mà biến thành một cánh đồng đầy cẳng chân ngựa, không ngừng lan mãi xa, cảnh tượng thật là kỳ lạ. Cảnh tượng như thế dám nói tự xưa đến nay trong các trận chiến chưa bao giờ có.

    Ba vạn lính cung thủ cùng Phù Dung và Chu Tự vẫn ở lại tuyến đầu, đợi đến khi bố trí đâu ra đấy mới lui về sau. Trong hoàn cảnh này, bộ binh đương nhiên linh hoạt hơn kỵ binh. Tạ Huyền hét lớn: "Khua trống!".

    Lính cầm cờ nghe lệnh, lập tức phất cờ hiệu, mười hai lực sĩ cầm dùi trống đồng thời quật xuống mười hai cỗ đại cổ đặt ở tiền phương, theo cùng một tiết tấu, tiếng trống lập tức phát ra như sấm động chín từng trời, truyền khắp mọi góc mọi nơi trên chiến trường.

    Địch quân bao gồm cả Phù Kiên đại bộ phận bị tiếng trống làm cho giật bắn mình, xôn xao quay đầu nhìn lại, hàng trăm chiến mã kinh hãi nhảy dựng lên, tình hình bắt đầu hỗn loạn.

    "Rẻng!".

    Tạ Huyền bạt xuất Cửu Thiều Định Âm kiếm danh chấn thiên hạ, chỉ thấy dọc theo một bên thân kiếm có chín lỗ nhỏ, dưới ánh dương quang chiếu sáng lấp lánh, kêu to: "Các binh sĩ! Theo ta giết địch giành chiến thắng".

    Một mình một ngựa xông lên trước tiên, lao xuống dòng Phì Thủy, đạp lên con đường ngầm lấp đầy những bao đá vụn, hướng đối ngạn phi nhanh tới.

    Tạ Thạch, Tạ Diễm, Lưu Dụ cùng chúng tướng đồng thanh hô lớn, theo sau lao xuống sông.

    Lưu Lao Chi và Hà Khiêm dẫn tả hữu hai đạo kỵ binh cũng không chậm trễ vọt xuống sông giống như hai con rồng giận dữ rẽ nước vọt đi.

    Bên địch những kỵ binh rút lui sau cùng nhất thời mất phương hướng, không biết nên quay đầu nghênh chiến hay tiếp tục thoái lui, Phù Kiên cũng đột ngột đánh mất quyền chỉ huy, vì thính giác của quân Hồ đều bị tiếng trống trận che lấp.

    Trong phút chốc tiếng vó ngựa vang lên điếc tai, nước sông bắn lên tung tóe, Phù Dung tuy to tiếng hô tiễn thủ giương cung xạ tiễn nghênh địch, nhưng những tiếng kêu gào của hắn chỉ biến thành những tiếng kêu yếu ớt trong tiếng trống ầm ầm.

    Đại Tần binh lòng quân rối loạn.

  5. #34
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 34

    Phì Thủy lưu tuyệt
    Yến Phi đi trên đường không nhanh cũng không chậm, không phải chàng không muốn tranh thủ thời gian, mà vì sợ nội thương phát tác, đêm qua đã ba lần có triệu chứng không hay, bắt buộc chàng phải dừng lại vận khí hành

    huyết. Tà công của Nhậm Dao đích thực âm hiểm lợi hại, nếu không phải Nhật Nguyệt Lệ Thiên đại pháp của chàng đã sơ nhập cảnh giới Tiên Thiên chân khí, hòa hợp với lẽ tự nhiên, sợ rằng đã giống như Vinh Trí, tính mệnh ô hô ai tai rồi. Do đây có thể đoán được đích xác mục tiêu giết người của Nhậm Dao là Lưu Dụ, nhân vì hắn cho rằng mình cũng giống như Vinh Trí chẳng sống được bao lâu nữa.

    Người biết bí mật của Thiên Địa bội ngoại trừ Quỷ diện nhân chỉ còn Lưu Dụ, xử lý chàng coi như Nhậm Dao phí sức một lần rồi yên chí mãi mãi, không còn lo chàng mang bí mật đã từng có Thiên Địa bội trong tay tiết lộ cho cha con An Thế Thanh. Còn về Quỷ diện nhân chỉ cần không phải là An Thế Thanh là được, không có Thiên Địa bội, có vật trong tay cũng không làm gì được.

    Hiện tại kể cả Yến Phi cũng đã sinh ra hiếu kỳ với Động Cấp Kinh cái gì đó, thật ra trong đó chứa đựng thứ bí mật kinh thiên động địa gì mà khiến cho các cao thủ nhất thế hùng bá một phương như Nhậm Dao cũng bất chấp thủ đoạn để tranh giành, cuộc đấu chẳng vui lắm sao? Mà hiện thời kẻ chiếm hết thượng phong, chắc chắn là Nhậm Dao.

    Con đường dịch đạo chàng đi kề bên Tuy Thủy, hẳn sẽ dẫn tới thành Hu Dị trên bờ nam Hoài Thủy. Hu Dị là một thành lớn phía bắc Kiến Khang.

    Có thể tưởng tượng con đường dịch đạo này trước đây nhiệt náo phi thường, hiện tại thì cỏ dại mọc um tùm, lâu ngày không có người tu sửa, chỗ lồi chỗ lõm, nhưng cách đây không lâu vẫn có xe ngựa đi qua, dấu vết còn khá mới, rất nhiều khả năng là đội xa mã của Mạn Diệu phu nhân. Chẳng lẽ bà ta muốn tới Kiến Khang?

    Yến Phi trong lòng còn đang tính toán đã thấy đặt chân tới Hoài Thủy, nếu bơi qua bên kia, theo bờ nam tiến về phía tây, tối đa mất hai ngày công phu có thể đến được Hạp Thạch thành, có thể nghỉ ngơi chữa thương cho khỏe khoắn, lại không lo gặp phải mấy kẻ xúi quẩy Nhậm Dao hay Thanh Thị đang đi tìm Lưu Dụ.

    Cho dù hai người nọ có tới Hạp Thạch thành sớm hơn chàng một ngày hay nửa buổi, cũng không dám ngang nhiên mò vào thành nội tìm Lưu Dụ khắp nơi, vì đấy là trọng địa của Bắc Phủ binh, đụng đến Tạ Huyền, dù rằng cao minh như Nhậm Dao, cũng khó có thể chịu nổi.

    Như vậy hai người bọn họ chỉ có thể ẩn phục ngoài thành kiếm cơ hội. Vượt qua đầu đường, Yến Phi giật mình dừng bước.

    Không xa ở phía trước, chợt thấy một xác người nằm phục trên mặt đất, bội kiếm gãy rời thành hai đoạn, nằm bên xác chết. Coi phục sức rõ ràng là một võ sĩ trẻ tuổi của Tiêu Dao giáo hộ tống Mạn Diệu phu nhân, thân xác vẫn còn hơi ấm.

    Yến Phi chợt có cảm giác cổ quái lịch sử trùng diễn, trong đầu thoáng hiện cảnh tượng Thái Ất giáo đồ bị Lư Tuần giết chết thây nằm ngổn ngang trên đường. Vội tiến đến kiểm tra kỹ càng cái xác, bên ngoài không thấy có vết thương nào, rõ ràng đã bị chấn đứt kinh mạch mà chết.

    Thực lực đám giáo đồ Thái Ất giáo không thể so với xa đội của Mạn Diệu phu nhân được, bản thân bà ta cũng là một cao thủ, lại còn có Nhậm Dao loanh quanh trong vùng phụ cận.

    Vậy thì ai dám nhè đầu thái tuế động thổ? Hỏi ai có thể chịu đựng được?

    Yến Phi tiếp tục men theo con đường tiến nhanh, không lâu lại nhìn thấy hai thi thể, trong đó có một tiểu tỳ của Mạn Diệu phu nhân, kẻ hành hung chẳng những tâm ngoan thủ lạt, mà còn chắc chắn không phải là nhân vật chánh phái thế thiên hành đạo.

    Chàng tuy không có hảo cảm với bất kỳ người nào của Tiêu Dao giáo, nhưng mà bất giác cũng nảy sinh lòng thương xót.

    Ba người cùng chết một kiểu, đều bị hung thủ dùng tuyệt thế huyền công với thủ pháp dương cương chấn đứt tâm mạch, toàn thân không thấy thương thế nào khác, thủ pháp âm nhu đoạn mạch phá tim, chàng chưa bao giờ chứng kiến thủ đoạn tà ác đáng sợ đến như thế.

    Lại vượt qua một khúc quanh, quả nhiên không ngoài sở liệu, chiếc xe ngựa hoa lệ đổ nghiêng bên đường, xung quanh xác chết rải rác, cảnh tượng thật không nỡ nhìn.

    Yến Phi bỗng có cảm giác không rét mà run, kẻ truy theo Mạn Diệu phu nhân võ công còn trên cả Lư Tuần, nhân vật như vậy trong thiên hạ tìm được một người cũng chẳng dễ, vậy mà mấy ngày nay bọn họ lại hết người này đến người khác cứ như từ địa phủ hiện lên tác ác nhân gian ở Biên Hoang, nguyên nhân là chuyện gì vậy?

    ° ° °

    Trong khi quân khinh kỵ Bắc Phủ binh chia làm ba đường vượt sông, vì lòng sông hạ thấp, cung tiễn thủ bố trí ở tuyến đầu tiên của Đê Tần lại ở cách bờ trăm bộ, vì vậy về góc độ chỉ có thể nhìn thấy chỏm đầu địch nhân, đích ngắm khó khăn, lại thêm tiếng trống chấn động màng tai, nhất thời tâm trí hoang mang, chỉ có một số nhắm mắt xạ tiễn, đều bị địch nhân giơ cao thuẫn bài chắn hết.

    Phù Dung ngồi trên mình ngựa nhìn thấy rõ ràng địch nhân phi ngựa vượt sông với tốc độ gần như trên đường bằng, mà nước sông tối đa chỉ tới gót chân ngựa, biết rằng trúng kế, thầm kêu bất diệu, liền bạt đao hô quân tiến lên, chỉ tiếc tiếng thét của hắn bị tiếng trống trận đinh tai nhức óc nhấn chìm.

    Liền chuyển sang hô quân phóng tiễn, thì đã thấy hàng trăm mũi tên như mưa bấc từ dưới sông xạ tới trận địa bên mình, lập tức bắn ngã hơn chục người.

    Tiền trận kiên cố lập tức rối loạn.

    Tạ Huyền một mình một ngựa dẫn đầu vọt lên bờ sông, hét to: "Phù Kiên bại rồi!".

    Cần biết tuyến đầu của Tần binh chỉ cách bờ sông trăm bộ, với tốc độ kỵ binh chỉ trong chớp mắt công phu là đủ để xông vào trong trận, mỗi một tên Tần binh chỉ có thể tối đa bắn ra hai mũi tên.

    Tạ Huyền xuất hiện khiến tứ phía đều nhằm vào ông xạ tiễn, ngờ đâu Tạ Huyền tả thuẫn hữu kiếm, thuẫn hộ mã kiếm hộ thân, bao nhiêu tên bắn tới đều bị đánh văng ra tứ phía, cực kỳ uy phong.

    Ba lộ kỵ binh đồng thời vọt lên tây ngạn Phì Thủy, như lang như hổ xông vào địch trận.

    Tần binh đang triệt thoái thế trận liền rối loạn, đám thì quay đầu nghênh chiến, đám thì tiếp tục thoái hậu, ngươi đụng ta, ta cản ngươi, hình thế hỗn loạn không chịu được.

    Phù Kiên cùng đám tướng lãnh thấy địch nhân tới nhanh như vậy biết trúng kế, hoang mang kềm ngựa quay đầu, hét to lệnh cho thủ hạ xung quanh hồi đầu phản kích, tiếc rằng trận đã không còn thành trận, đội cũng không ra đội, hình thế càng thêm hỗn loạn.

    Uổng cho hơn hai chục vạn đại quân lại vô pháp phát huy uy lực vốn có lấy nhiều hiếp ít.

    Trên tuyến đầu tiên Phù Dung thấy tình thế không hay, liền hét to: "Bạt xuất binh khí, tác chiến tầm gần".

    Bộ binh vốn chủ yếu là Hán nhân thấy địch nhân xông đến khí thế hùng hổ, ngập ngừng không biết nên nỗ lực chiến đấu hay rút lui về phía sau, Chu Tự biết thời cơ đã đến, bèn thét to: "Tần quân bại rồi!" Liền đem thân binh thân tướng quay đầu bỏ chạy, Tần binh xung quanh nào biết phát sinh chuyện gì, lập tức chạy theo, tiền trận lộ ra một khoảng trống lớn, theo phản ứng rút dây động rừng, loạn càng thêm loạn.

    Phù Dung thấy vậy biết ngay Chu Tự là phản đồ gian tế, liền vung đao thúc ngựa đuổi theo Chu Tự, hét to: "Kẻ nào lui là chém!".

    "Sưu" một tiếng, một mũi kình tiễn từ phía địch phương xạ tới, thấu qua ngực trái xuyên vào tâm tạng Phù Dung.

    Trường đao trong tay Phù Dung rơi xuống, trước lúc chết hắn miễn cưỡng ngoái đầu nhìn lại, thấy Tạ Huyền đang xông tới chỗ mình, trường cung đã treo trở lại bên mình ngựa, ý niệm cuối cùng của hắn là hiểu rõ chẳng những thua trận này, mà Đê Tần cũng hoàn toàn tan vỡ.

    Binh lính trên tiền tuyến thấy chủ tướng ngã ngựa, liền hè nhau quay đầu chạy, Chu Tự thì không ngừng hét lớn "Phù Kiên bại rồi!", địch nhân lại đang xông đến ngay trước mặt, lập tức vứt cung bỏ giáo, bỏ chạy tứ tán về phía tây, làm cho quân kỵ đang muốn quay đầu hoàn kích bị chia năm xẻ bảy, không còn ra đội hình gì hết.

    Chỉ thấy người ngựa giẫm lên nhau, ngựa đổ người ngã, hò hét vang trời, ba đội kỵ binh bên Tạ Huyền đã phá trận xông vào, chiến tranh không còn là chiến tranh, mà biến thành một bên thả sức chém giết một bên.

    Bộ quân Bắc Phủ binh do Tôn Vô Chung cùng chư tướng chỉ huy, theo sau kỵ binh vượt sông, khi bọn họ leo lên đến bờ sông thì đại cục đã định, toàn thể cánh đồng hoang dọc theo tây ngạn Phì Thủy đầy nhóc Tần binh cả bộ lẫn kỵ đang tháo chạy tứ tung.

    Phù Kiên hồi đầu muốn nghênh địch, mắt muốn đứng tròng, bất kể tả hữu cản trở, cố chết xông lên, ngặt một nỗi thân binh đoàn bị hàng đàn hàng lũ bộ binh chạy ngược trở lại đâm sầm vào, đành chịu chết không sao tiến lên được.

    Khất Phục Quốc Nhân thấy kỵ đội của Tạ Huyền đang nhằm hướng có lá cờ tiết màu vàng nghiêng ngả của bọn hắn phi tới, biết bại thế đã thành, dù có Tôn Tử hạ phàm cũng không làm gì được, liền cố chết kéo cương ngựa Phù Kiên, kêu lớn: "Thỉnh Thiên Vương lui về Biên Hoang Tập".

    Phù Kiên vẫn muốn kháng cự, chợt một mũi tên bay đến như tia chớp, cắm ngập vào vai, đau đến nỗi y rú thảm một tiếng, nằm gục trên lưng ngựa.

    Khất Phục Quốc Nhân không rảnh kiểm tra thương thế của y, kéo theo ngựa Phù Kiên phi về phía Hoài Thủy, Lữ Quang và chúng tướng dẫn theo một bọn thân binh vội vã bảo vệ hai bên cùng phóng đi.

    Đê Tần quân kết quả bại trận hoàn toàn.

    ° ° °

    Đại hán trọc đầu phụ trách đoàn xe nằm chết bên cỗ xe, chỗ huyệt bối tâm y phục bị phá nát, lờ mờ nhìn thấy một dấu chưởng ấn tím đen, hai tay thò ra không tự nhiên, ngón tay giữa gập lại, tựa như muốn móc cái gì đó dưới mặt đất lên.

    Yến Phi tới bên xác hắn quỳ xuống xem kỹ, quả nhiên đại hán này trước lúc lâm tử cố sức viết lên mặt đất một chữ "Giang", ngón tay giữa còn dính lại ở nét chữ cuối cùng, sau đấy không chịu nổi mà chết đi, xung quanh không thấy người nào khác bị hại.

    Có cao thủ như thế họ Giang?

    Bỗng nhiên trong lòng chấn động, nghĩ đến một người.

    Kẻ sát nhân nhất định là Thái Ất giáo chủ Giang Lăng Hư, sự thực lão đã vì Thiên Địa bội lén đến Biên Hoang Tập, chỉ vì đạo môn vướng phải lời thề nào đấy mà không ra mặt ở Nhữ Âm thành, đến khi phát hiện Vinh Trí mấy người bị hại, biết là do Nhậm Dao xuất thủ, mới nổi giận truy theo dấu bánh xe, đại khai sát giới. Nhậm Dao thì không theo đám Tiêu Dao giáo đồ nam hành, đương nhiên bọn họ gặp phải tai ương.

    Coi vậy thì Thiên sư Tôn Ân mà mọi người nam phương đều sợ hãi cũng có khả năng ở đâu đó tại Biên Hoang.

    Đại hán đầu trọc này là kẻ duy nhất thấy có vết thương trí mệnh, Yến Phi suy đoán võ công của hắn cao hơn đồng bọn nhiều, một mình độc lực chặn đánh Giang Lăng Hư, để cho đám Mạn Diệu phu nhân đào tẩu.

    Nghĩ tới đó, Yến Phi quét mắt tìm trong đám rừng rậm bên đường, không bao lâu đã có phát hiện, phía bên tả có dấu vết cành lá rơi rụng do có người xông qua. Yến Phi nhảy vọt lên, lướt vào trong rừng, trong không khí còn vương vất mùi vị lưu lại từ yên vụ đạn Thanh Thị thường phóng ra.

    Cũng có thể là do Tiêu Dao giáo đồ, hoặc là Mạn Diệu phu nhân thi xuất.

    Đối với yêu nữ Thanh Thị, chàng là bạn hay là thù thật khó phân biệt, bất quá không hề có ác cảm. Ả ta tuy hành vi khó lường, phản phản phúc phúc, nhưng nhớ tới khuôn mặt xinh đẹp ngây thơ, thần tình khả ái tại Trữ gia thôn khi giục chàng đào tẩu, cảm thấy ả ta hoàn toàn không phải hạng cùng hung cực ác như Nhậm Dao.

    Chàng bất giác tiến sâu vào bên trong hơn mười trượng, một thi thể phụ nữ bị treo cao trên cây, tóc tai rũ rượi, lại là một tỳ nữ khác của Mạn Diệu phu nhân.

    Yến Phi bình thường chuyện khó nhẫn nhịn nhất chính là nam nhân mạnh khỏe ngược đãi nữ lưu, Tiêu Dao giáo nữ đồ tuy không phải hạng nữ nhân yếu đuối, càng không phải là thiện nam tín nữ, nhưng mà thủ đoạn độc ác tàn nhẫn của Giang Lăng Hư vẫn khiến chàng hết sức phẫn nộ.

    Vốn định hãy cứ xem đã, chẳng nên nhúng chân đụng tay vào chuyện tà giáo tàn sát lẫn nhau, cuối cùng quên luôn, xuyên vào rừng sâu toàn tốc truy theo vết tích còn lưu lại, cũng quên luôn thân mình đang mang nội thương nghiêm trọng.

    ° ° °

    Tạ Huyền dừng ngựa trên bờ nam Hoài Thủy, ngưng thần nhìn sang rừng núi hoang vu bên đối ngạn, ba đạo phù kiều do Phù Dung kiến lập nằm vắt ngang sông phía trước mặt, thủy sư của đại Tấn đang ngược dòng Hoài Thủy tiến đến, chuyển qua hướng bắc tiến nhập Dĩnh Thủy, cờ xí tung bay triển khai hướng về Biên Hoang Tập, tiến công vào cứ điểm đại hậu phương của địch, cần nhất là phải trước một bước phá hủy chỗ dựa duy nhất để Phù Kiên lật ngược tình thế.

    Lưu Dụ cùng một bọn thân binh thúc ngựa theo sau Tạ Huyền, trong lòng đầy hưng phấn vì thắng lợi, cũng pha lẫn nỗi đau thấy mạng người trong chiến tranh không khác gì cỏ rác.

    Trận chiến Phì Thủy đã cáo chung với mấy chữ "Tần binh đại bại".

    Chỉ là địch nhân "tự giày xéo lẫn nhau mà chết, ngổn ngang khắp đồng hoang".

    Hiện tại Lưu Lao Chi và Hà Khiêm mỗi người dẫn một cánh quân phân biệt ở hai bờ Hoài Thủy truy sát địch nhân đào vong, Tạ Thạch và Tạ Diễm thì phụ trách thu thập tàn cục,

    tiếp thu Thọ Dương, xử lý địch nhân thương vong và thu gom chiến mã, binh khí, cung tên, lương thảo, vật tư địch nhân bỏ lại.

    Tạ Huyền suất lĩnh hai ngàn tinh kỵ, vừa tới đây liền dừng ngựa đứng suy tư, kể cả Lưu Dụ, không ai biết ông nghĩ đến chuyện gì.

    Tạ Huyền chợt nói: "Tiểu Dụ tới đây".

    Lưu Dụ vỗ ngựa tiến lên, tới gần ngang với Tạ Huyền, hết sức cung kính nói: "Xin Huyên soái phân phó!".

    Tạ Huyền song mục xạ xuất thần sắc mê man, nhẹ thở dài nói: "Ngươi có cảm giác gì?".

    Lưu Dụ hết sức ngạc nhiên, thật thà đáp: "Đương nhiên là tâm tình hưng phấn, lại như trút được gánh nặng. Phù Kiên bại trận này, sẽ khiến bắc phương chia năm xẻ bảy, chúng ta chẳng những có thể yên ổn một giai đoạn, mà còn có thể thừa thế bắc phạt, thống nhất thiên hạ, Lưu Dụ chỉ mong được đi theo Huyền soái đánh dẹp bắc phương".

    Tạ Huyền không quay đầu nhìn gã, quan sát ba cỗ đại thuyền từ từ tách ra cập vào bến đỗ tạm thời do người Tần thiết kế, thần sắc thản nhiên nói: "Nếu mọi chuyện đơn giản như Tiểu Dụ nói, thì trên đời này sẽ bớt đi rất nhiều chuyện phiền não, tiếc là mong muốn và sự thực thường trái ngược nhau, Tiểu Dụ phải ghi nhớ bốn chữ nhân tâm nan trắc" 1.

    Lưu Dụ bây giờ đã coi ông hơn hẳn thần tượng anh hùng Tổ Địch xưa nay của mình, nghe lời này trong lòng chấn động nói: "Tiểu Dụ không hiểu rõ ý Huyền soái".

    Tạ Huyền nói: "Rồi có một ngày ngươi sẽ hiểu rõ. Chiến tranh là thứ vô tình, hiện giờ chúng ta cần phải thừa thế đuổi đánh đến cùng, tiêu diệt bằng hết, ra sức thu hồi đất đai bị mất nhiều năm rồi. Ài! Trước đây ta rất mừng vui vì sự tồn tại của Biên Hoang, để cho chúng ta có thể bảo trì cục diện hòa bình phồn vinh, nhưng lúc này, Biên Hoang lại thành ra chướng ngại to lớn nhất".

    Lưu Dụ ngấm ngầm tán thành.

    Biên Hoang vì là vùng đất đệm hoang vu không người, đường đi không có thành thị thôn làng, cả hai phía bắc nam bên nào muốn tấn công đối phương đều phải tốn công tốn sức, trên đường hành quân và vận chuyển lương thảo càng phải phí tâm tư, còn để đối phương có thừa thời gian chuẩn bị nghênh chiến, hiện đã biến thành chướng ngại thiên nhiên đối với Nam Tấn.

    Nhưng hiện giờ Phù Kiên đại bại, lại do Nam Tấn không có chuẩn bị cho công cuộc bắc phạt, tối đa cũng chỉ thu hồi được đại thành Tương Dương là Biên Hoang đã rơi vào tay Để Tần, không dễ thừa thế truy kích, nhất cử thu phục bắc phương.

    Nếu đợi đến khi các tộc bắc phương thế đứng ổn định rồi, tình hình sẽ đảo ngược, bắc phạt càng bất lợi, vì vậy Tạ Huyền mới lộ vẻ cảm thán.

    Còn nếu bắc phạt có thể thành hay không, phải coi lại tâm ý triều đình, Tạ Huyền nói "nhân tâm nan trắc", ít nhất cũng có một phần có xuất xứ từ đó.

    Chiến mã từ ba cỗ đại thuyền ào ào tuôn xuống bờ sông, nhìn thấy vậy Lưu Dụ hết sức nghi hoặc, không biết từ đâu ra đám ngựa này, mà lại tập trung toàn chiến mã hảo hạng đã được tinh tuyển.

    Lưu Dụ không kềm được hỏi: "Đám ngựa này...".

    Tạ Huyền mỉm cười: "Tiểu Dụ chẳng lẽ quên mất trận Lạc Giản rồi sao?".

    Lưu Dụ chợt hiểu rõ, đám chiến mã thượng hạng này là chiến lợi phẩm thu được trong trận đánh bại quân Lương Thành, lòng đã minh bạch nói: "Huyền soái phải chăng chuẩn bị tự thân truy kích Phù Kiên?".

    Tạ Huyền sau cùng liếc nhìn gã, gật đầu nói: "Đầu óc tiểu Dụ thật linh hoạt, đó chính là truy bách tới cùng, đuổi tận sát tuyệt, nếu không ta biết ăn nói thế nào với triều đình?".

    Lưu Dụ thầm khen tuyệt, lại càng thêm bội phục, Tạ Huyền đích thực tính toán không sót điều gì, nếu đổi lại là mình, chắc chắn sẽ mang chiến mã ra sử dụng trong trận chiến vừa rồi, như thế có thể khiến địch nhân sinh lòng cảnh giác, không dễ trúng kế, nếu mang những chiến mã mạnh khỏe này thay đổi cho những con mỏi mệt vì chiến trận để truy sát đám người ngựa kiệt sức của Phù Kiên, đúng là thượng thượng sách, chẳng trách Tạ Huyền không chút lo lắng về chuyện Phù Kiên càng lúc càng chạy xa, bởi vì đàn ngựa chiến tinh nhuệ được ăn uống đầy đủ này đem ra truy đuổi địch nhân không được nghỉ ngơi lại sức, tất sẽ nhẹ nhàng thu thập đối phương.

    Từ lúc thắng phụ chưa rõ, Tạ Huyền đã quyết định xong toàn bộ kế hoạch truy sát Phù Kiên, thật đáng gọi là minh soái, sau chiến thắng liền tận lực tranh thủ đoạt lấy chiến quả lớn nhất.

    Tạ Huyền điềm đạm nói: "Ngươi đoán Phù Kiên sẽ chọn lộ tuyến nào để chạy trốn?". Lưu Dụ không chút do dự đáp: "Biên HoangTập!".

    Tạ Huyền cười ha hả: "Trả lời tốt lắm! Phù Kiên bại trận này là hết sức ngoài ý liệu, lại đau lòng vì cái chết của Phù Dung, tất sẽ toàn lực chạy về Biên Hoang Tập, hy vọng lấy hơn

    mười vạn quân của Biên Hoang Tập, cộng với chấn chỉnh bại quân, mưu đồ phản công. Ta muốn lợi dụng tâm lý này của y, đánh cho y vĩnh viễn không thể trở về phương bắc nữa".

    Lưu Dụ phấn khởi nói: "Dù Phù Kiên tinh minh đến đâu cũng không nghĩ Mộ Dung Thùy và Diêu Trường lại bán đứng y, cho là dựa vào binh lính chưa hề tổn hại gì của hai người này, có thể giúp y vãn hồi cục diện. Như hiện giờ có thể chắc chắn rằng Mộ Dung Thùy cố nhiên án binh bất động, Diêu Trường nghe tin Phù Kiên thua trận cũng sẽ lập tức suất lĩnh thủ hạ triệt thoái về phương bắc. Tại Biên Hoang Tập không có đại tướng xuất sắc nào chủ trì, lại thêm nhân tâm bàng hoàng, thủy sư của chúng ta công đến, binh tướng thủ giữ Biên Hoang Tập nghe tiếng mà chạy, không đánh mà tan. Kế hoạch này của Huyền soái quả thực cao minh".

    Tạ Huyền im lặng một lát, chợt trầm giọng nói: "Chúng ta phải thận trọng với Mộ Dung Thùy, hiện tại tâm nguyện của hắn đã thành, Đê binh của Phù Kiên đã tan nát, quan hệ của hắn với chúng ta đã thay đổi rồi, không còn lợi dụng lẫn nhau được nữa".

    Lưu Dụ gật đầu tiếp thụ, trong lòng thêm cảm kích, Tạ Huyền đích thực đặc biệt coi trọng gã, chẳng những chịu cùng trao đổi tâm sự mà còn ân cần dạy bảo gã, kỳ vọng hắn thành tài.

    Tạ Huyền nói: "Chúng ta đi thôi!".

    Rồi dẫn đầu thúc ngựa phi xuống phù kiều.

    Lưu Dụ cùng chúng kỵ binh phi theo sau, vó ngựa đạp lên cầu phao, phát ra âm thanh giòn giã, phảng phất như khua lên những tiếng chuông nguyện hồn Phù Kiên. Đế quốc Đê Tần hùng mạnh đã tới hồi kết liễu.

    --------------------------------
    1 Lòng người khó lường.

  6. #35
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 35

    Phe tề mạc cập 1
    Yến Phi rảo bước đi gần năm dặm đường, vẫn quanh quẩn trên đồng cỏ mênh mông ở bờ bắc Hoài Thủy, vừa kịp đến một ngả đường trong rừng bên cạnh một khe suối nhỏ, bỗng phì cười, ngồi xuống bờ suối, vục đầu xuống nước, khoái trá uống hai ngụm lớn. Ánh nắng chiều tà dịu dàng trải trên các ngọn cây. Chàng cười chính mình.

    Một mạch tìm tới đây, lộ tuyến truy tung theo những vết tích khi mờ khi tỏ không khi nào mất hút. Điều này chứng tỏ có người cố ý dẫn dụ Giang Lăng Hư truy theo, để cho Mạn Diệu phu nhân có thể theo hướng khác đào tẩu. Chỉ coi chính mình cũng bị lừa đến nơi này, đến lúc mất dấu tích mới tỉnh ngộ ra, có thể thấy người này cơ trí cao minh, khinh thân đề tung thuật càng giỏi. Trong số người thuộc xa đội, ngoài Nhậm Dao ra chỉ có Thanh Thị yêu nữ là có khả năng này.

    Đương nhiên không phải là Nhậm Dao, y chỉ có cùng Giang Lăng Hư quyết một trận thư hùng, chứ không vội vã làm con chó nhà có tang chạy trốn vườn hoang. Như vậy có đến bảy tám thành là Thanh Thị yêu nữ, mà ả ta có đủ lực lượng tự bảo hộ trước bất kỳ nguy nan nào.

    Ả ở Biên Hoang Tập tránh khỏi đám cao thủ như mây cùng vô số Đê binh triệt để tìm kiếm, tất nhiên là một cao thủ trong nghề ẩn giấu tung tích. Giang Lăng Hư chỉ có một mình, trong rừng cây rậm rạp như thế này mà tìm được ả mới thật là lạ.

    "Úy!".

    Yến Phi nhảy dựng lên, kinh hãi nhìn lên tàng cây cao cao phía trước, nơi có thanh âm truyền lại, chỉ thấy ánh dương quang buổi sơ đông lấp lánh chiếu qua đám lá cành rậm rạp, không có gì khác lạ.

    Bỗng nhiên một trong những tàng cây phát sinh biến hóa, xuất hiện khuôn mặt ngây thơ diễm lệ của yêu nữ Thanh Thị trong y phục hoa lệ và thân hình gợi cảm vươn cao. Nét mặt tươi như hoa, từ chỗ đứng trên thân cây nhảy xuống, trong tay vẫn nâng một tấm vải hoa lớn vẽ đầy cành lá, màu sắc kỳ quái, hạ xuống bên kia bờ suối, sau đó chuyển

    thân, tà áo bay bay như một con chim nhỏ màu sắc đẹp đẽ hướng về phía chàng phô diễn toàn bộ thân hình kiều diễm, đến lúc đối diện chàng tấm đại hoa bố đã biến đi đâu mất. Yến Phi lần đầu trông thấy thứ pháp bửu dùng để ẩn thân trong tàng cây này, lắc đầu cười nói: "Chẳng trách cô dám bán rẻ bọn ta, nguyên lai có cái trò ẩn thân này".

    Nhậm Thanh Thị thu liễm nét mặt vốn lúc nào cũng hoan hỉ, trề cặp môi xinh, tới ngồi lên một tảng đá bên kia bờ dòng suối nhỏ rộng chừng nửa trượng, âu sầu nói: "Đừng có tính lại nợ cũ với người ta có được không? Lần đó coi như ta không đúng đi, bất quá nô gia đã lập tức sau đấy hối hận đến muốn chết, cho nên mới không bồi thêm một đòn, hai cái trứng thối các ngươi chẳng đã nhờ phúc ấm tổ tông mà tránh khỏi đại nạn rồi sao? Ngươi biết nô gia vì sao mà ân hận không?".

    Yến Phi thầm nghĩ yêu nữ ngươi toan bài dụ dỗ muốn mê hoặc lão tử, dù ngươi chân tình hay giả ý thì lão tử tóm lại đều không hứng thú. Nghĩ thì là nghĩ thế, trong đầu bất giác lại hiện lên cảnh tượng hôm nào ả từ dưới thủy trì xuất hiện, toàn bộ đường nét lồi lõm uốn khúc lồ lộ trên thân hình đẹp đẽ. Cũng bất giác hết sức ngạc nhiên, bản thân từ sau chuyện thương tâm ở Tràng An đến giờ, gặp mỹ nữ tâm hồn luôn luôn như nước giếng không hề xao động, vì sao yêu nữ trước mặt lại có thể làm khơi lên những ý niệm quanh quéo? Nghĩ đến đấy, đôi mắt sâu thẳm thần bí và mỹ lệ lại bập bềnh trong tâm trí.

    Thanh Thị không ngừng hối thúc: "Mau đáp ứng người ta một vấn đề, ngươi là người tốt mà! Hê! Vừa rồi ngươi cười rất dễ coi, động tác lúc uống nước lại càng tiêu sái".

    Yến Phi khẽ lắc đầu, cố xua đi khỏi đầu những ý nghĩ khổ sở và không vui, nhíu mày nói: "Tiêu Dao giáo các người bị Giang Lăng Hư hạ độc thủ giết hại toàn đội nhân mã, ngươi vẫn còn nhởn nhơ ở đó mà nói mấy chuyện đó sao?".

    Thanh Thị trợn đôi mắt to đẹp nhìn chàng, ngạc nhiên nói: "Ngươi làm sao biết là chính tay Giang lão yêu hạ thủ?".

    Yến Phi thầm nghĩ nếu Giang Lăng Hư là lão yêu, vậy ả phải là tiểu nữ yêu, không hề tức khí nói: "Ta đang có chuyện cần làm, ngươi đã có cách tự bảo mệnh, ta phải lập tức lên đường".

    Khóe miệng Thanh Thị chợt lộ một nét cười giảo hoạt, nói: "Gặp nhau đâu dễ, người ta còn muốn nói chuyện rất quan trọng liên quan trực tiếp tới gã bằng hữu ngốc nghếch của ngươi mà".

    Yến Phi lấy làm lạ: "Ngươi không sợ lệnh huynh sao? Dám bán đứng y sao?".

    Thanh Thị mặt hoa thất sắc, không thể tin được nói: "Ngươi làm sao biết được lắm chuyện thế?".

    Yến Phi thở dài: "Nhân vì khi đó ta chưa rời đi, nghe thấy các ngươi đối thoại, về sau để cho lệnh huynh phát hiện, mọi người còn hùng hổ đánh nhau một trận".

    Thanh Thị càng mở to đôi mỹ mục, thất thanh nói: "Ngươi rốt cuộc có thể toàn thân rút lui?".

    Yến Phi cười nhẹ: "Ta chả phải đang sống khỏe đây sao?".

    Nói xong liền đứng dậy.

    Thanh Thị cũng nhảy lên, nói: "Không thể thế được, ngươi được bao nhiêu cân lượng nô gia biết rõ mà".

    "Phanh!".

    Hai người cùng ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy xa xa trên cao phía tây nam bùng lên một quầng sáng màu lục rất đẹp.

    Thanh Thị biến sắc nói: "Không hay rồi! Giang lão yêu cuối cùng đã đuổi kịp tiện nhân Mạn Diệu, nô gia phải đi đây! Ài! Còn có nhiều chuyện phải nói với ngươi mà!".

    Yến Phi nghe một câu "tiện nhân" của ả, hiểu rằng trong quan hệ của ả với Mạn Diệu phu nhân có gì đấy không rõ ràng, đang muốn tìm hướng khác ly khai, không biết sao tự đáy lòng có cảm giác không ổn, mà sự thực chàng đối với Thanh Thị không có tí trách nhiệm nào.

    Lại trầm ngâm một chút, cuối cùng ngầm thở dài một hơi, đuổi theo hướng Thanh Thị vừa đi khuất. Trong lòng thầm nghĩ lần này nếu lại gặp phải Nhậm Dao thì đúng là mình tự tác nghiệt.

    ° ° °

    Phù Kiên ngồi trên một tảng đá, mặc cho tả hữu cởi bỏ chiến giáp thấm máu, rút tên trị thương, hối hận và đau đớn tựa như độc xà gặm nhấm trái tim, khiến y có cảm giác tê tái, nỗi đau khổ toàn thân tựa như cách xa ngàn trùng.

    Ngựa phì ra khói, người thở hổn hển.

    Toàn lực bôn đào, bọn họ tới được khu rừng thưa phía bắc Nhữ Âm thành, chiến mã chạy liên tục từng con từng con đổ gục, nguyên bổn hơn năm ngàn kỵ binh chỉ còn lại hơn

    ngàn, một số theo không kịp, hoặc là trên đường thất tán, một số cố tình bỏ đi, nhân vì không còn coi trọng Phù Kiên nữa.

    Vẫn theo bên cạnh ngoài Khất Phục Quốc Nhân, chỉ có đại tướng bổn tộc là Lữ Quang, Quyền Dực, Thạch Việt, Trương Mông, Mao Đáng mấy người. Người nào người nấy hiểu rằng dù trở về đến Biên Hoang Tập, bọn họ vẫn thân tại hiểm cảnh.

    Quyết định nam chinh được ấp ủ từ năm trước, do Phù Kiên lần đầu tiên đề xuất trong một buổi nghị triều, trong những người phản đối thì Quyền Dực và Thạch Việt càng cố chết can gián, người y tín nhiệm nhất là Phù Dung cũng kiên trì ý kiến phản đối. Hiện tại Phù Dung đã chết thảm bên bờ Phì Thủy, mối hận đã thành định cục, hiện tại còn lại một mình với Biên Hoang Tập, liệu y có thể ngóc đầu trở dậy hay không?

    Vị phu nhân được y sủng ái nhất là Trương phu nhân cố hết sức ngăn cản hắn nam chinh, lời nói vẫn còn văng vẳng bên tai: "Thiếp nghe thiên địa nuôi dưỡng vạn vật, thánh vương trị vì thiên hạ, không khi nào không thuận theo tự nhiên, như vậy mới có thể thành công. Hoàng đế thuần phục ngựa trâu thì phải thuận theo bổn tính của ngựa trâu, Đại Vũ trị thủy phải thuận theo địa thế, Hậu Tắc gieo cấy trồng trọt trăm loài cây phải theo thời vụ, Thang, Vũ diệt Kiệt, Trụ phải thuận lòng dân. Từ đó mà coi, làm bất kỳ chuyện gì đều phải thuận với tự nhiên. Hiện tại đại thần mọi người đều nói không thể phạt Tấn, bệ hạ lại một mình nhất quyết cứ làm, không biết bệ hạ thuận theo cái gì? Dân gian nói: Gà gáy về đêm bất lợi xuất sư, chó cùng sủa cung thất hoang vắng, động binh xuất mã, đều thua bại mà không có đường về. Kể từ thu đông năm nay đến giờ, gà thường thấy gáy về đêm, chó suốt đêm kêu gào thê thảm, chiến mã trong chuồng rất hay kinh hãi, vũ khí trong kho thường tự động phát ra âm thanh, đấy đều là những triệu chứng không tốt cho việc xuất binh".

    Khi đó y chỉ đáp lại một câu: "Chuyện đánh trận hành quân, không phải là việc nữ nhân các khanh nên tham dự!" để ngăn nàng ta nói.

    Lúc này mới biết thuốc hay đắng miệng, Trương phu nhân câu nào câu nấy đều là ngôn từ vàng đá, mình còn mặt nào về trông thấy nàng ta?

    Nếu có Vương Mãnh khi ấy thì thật là hay, hắn chắc chắn có thể ngăn cản việc nam chinh.

    Lại nhớ đến Vương Mãnh trước lúc lâm chung, từng nói với mình: "Nam Tấn ở miền Giang Nam, vua tôi đoàn kết nhất trí, không thể coi thường mà xuất binh. Sau khi thần chết, hy vọng Thiên vương ngàn vạn lần chớ chủ trương công phạt Nam Tấn. Tiên Ti, Tây Khương là cừu địch của chúng ta, cuối cùng sẽ phát sinh phản loạn, Thiên vương cần từng bước tiêu diệt bọn họ".

    Ngày trước khi quyết định nam chinh, y mang di ngôn của Vương Mãnh bỏ ra ngoài trí não, hiện tại lại hối mà không kịp.

    Giọng nói của Khất Phục Quốc Nhân vang lên bên tai: "Chúng ta cần phải tiếp tục hành trình, trở về Biên Hoang Tập trong thời gian nhanh chóng nhất, mời Thiên Vương khởi giá".

    Phù Kiên miễn cưỡng nén cơn đau xé thịt, đứng dậy lên ngựa đi.

    ° ° °

    Hai kỵ sĩ Bắc Phủ binh lao như tên bắn qua Chu Tước kiều, vó ngựa dồn dập đạp trên đường ngự đạo, một người phi nhanh về phía cổng thành, người kia quẹo vào hẻm Ô Y. Chỉ coi hình dạng phong trần là biết bọn họ vừa từ tiền tuyến phóng về, giữa đường đã nhiều lần thay ngựa, vệ sĩ coi cửa quan biết có việc khẩn yếu, đâu dám cản trở.

    Tiếng vó ngựa phá tan không gian trữ tình của sông Tần Hoài và cư dân hai bên đường ngự đạo vừa vào đêm, người qua đường cố nhiên dừng bước nhìn xem, dân trong nhà thì chạy ra cửa để coi thực hư.

    Hai kỵ sĩ không kềm nổi niềm phấn khích trong lòng, đồng thanh hô lớn: "Thắng trận rồi! Thắng trận rồi!".

    Tiếng hô của chúng lập tức kéo theo một trận gào thét kích động, những người nghe tiếng đều hoan hỉ chạy như điên cuồng ra đường, vẫn còn chút không thể tin được, tranh nhau hỏi han, tình cảnh thật là vừa hỗn loạn vừa hưng phấn.

    Kỵ sĩ phi về hướng cửa thành ngồi trên lưng ngựa ra sức gân cổ hét to: "Chiến dịch Phì Thủy thu được toàn thắng, Phù Kiên chạy trốn rồi!".

    Binh sĩ trông coi cổng thành hò la vang trời, ai nấy đều như thể điên cuồng. Từ một chuyện không thể có cuối cùng biến thành hiện thực, thiên hạ đều mến phục kỳ công vĩ đại mà Tạ An sáng tạo nên.

    Lúc này Tạ An đang cùng Chi Độn chơi cờ vây ở Vong Quan hiên, nghe thấy tiếng ồn ào của quần chúng trên đường ngự đạo, nhưng không rõ làm sao, nhíu mày nói: "Đã phát sinh chuyện gì?".

    Chi Độn trong lòng cũng phân vân, nói: "Hay là chiến sự đã có kết quả?".

    Tạ An mỉm cười: "Thì ra đại sư trong lòng khi nào cũng đeo nặng việc này, cho nên mới lập tức nghĩ đến phương diện đó. Nếu chiến sự có kết quả, bọn họ đương nhiên sẽ dùng phi cáp truyền thư chuyển tin nhanh về, trừ phi...".

    Hai người đồng thời trố mắt nhìn nhau.

    Chi Độn tiếp tục nói: "Trừ phi là đại thắng toàn diện, Phù Kiên phải chạy về phương bắc, khi đó theo lệ trong quân, tiểu Huyền phải phái người về báo cáo".

    Nói chưa xong, Tống Bi Phong đã đưa gã lính truyền tin chạy xộc vào, phía sau còn thấy cả đám hơn trăm người phủ vệ tỳ bộc, không ai còn tôn kính quy củ sâm nghiêm của Tạ phủ.

    Người lính truyền tin chạy tới quỳ xuống bên Tạ An, hưng phấn đến mức nhiệt lệ trào ra, run giọng nói: "Bẩm cáo An công, quân ta sớm hôm nay cùng hai mươi lăm vạn quân Phù Kiên cách sông đối trận, Huyền soái thân suất tinh kỵ, nhờ những bao đá vụn giấu dưới lòng sông, chia ba đường vượt sông tấn công, bắn chết Phù Dung tại trận, quân Tần đại bại, chạy trốn tứ tung, tự giày xéo lên nhau hoặc rơi xuống nước mà chết không thể đếm được. Hiện giờ Huyền soái dẫn kỵ binh đuổi theo Phù Kiên, thẳng tới Biên Hoang Tập".

    Tạ An thần thái ung dung đứng nghe, sắc mặt vẫn tĩnh như mặt nước lặng, toàn thể Vong Quan hiên yên lặng đến mức cây kim rơi xuống vẫn nghe được, chúng thị vệ tỳ bộc chen chúc nhau gần cửa ai nấy đều không dám thở mạnh, chờ đợi phản ứng đầu tiên của người mà trong lòng họ sùng kính nhất.

    Tạ An cầm quân cờ đen đặt xuống bàn cờ, nhẹ nhàng nói: "Ván này ta thắng rồi". Chi Độn không thèm liếc nhìn bàn cờ lấy nửa cái, chỉ dán mắt vào ông.

    Sự thực mỗi cặp mắt đều dán mắt vào ông không hề chớp, đại chiến tuy phát sinh ở Phì Thủy, chính Tạ An mới là nhân tố quan trọng trong trướng vận trù, quyết thắng ngoài ngàn dặm.

    Tạ An vuốt râu cười, ung dung thoải mái nói: "Bọn trẻ thế là đã phá được giặc rồi!". Chúng nhân đồng thanh hoan hô, hò hét giải tán, tranh nhau đi báo cho những người trong phủ còn chưa biết tin.

    Chi Độn thì yên lặng mỉm cười, liếc nhìn Tạ An đầy thâm ý, như muốn nói tới tận thời khắc này ông vẫn còn thi hành thủ đoạn "trấn để mà tĩnh".

    Sự thực có thể khẳng định trong tâm khảm ông tất vẫn ngầm đau đáu một nỗi niềm, đến giờ mới kêu lên may mắn.

    Tống Bi Phong nói: "Thỉnh An công lập tức khởi giá, vào cung chúc mừng Hoàng thượng!".

    Tạ An cười cười đáp trả cặp nhãn thần đầy ám muội của Chi Độn, nói: "Giúp ta khoản đãi vị tiểu ca này, chuẩn bị ngựa!".

    Tống Bi Phong vội đưa người báo hỉ tín đi ra.

    Chi Độn đứng lên nói: "Tạ huynh không phải lo cho ta, muốn chơi cờ cứ việc gọi ta, ván cờ vừa xong ta tuyệt không tâm phục".

    Tạ An cười ha hả, sau khi cáo lỗi vội vã đi ra, qua ngưỡng cửa, Chi Độn từ đằng sau kêu: "Tạ huynh coi chừng dưới chân".

    Tạ An ngạc nhiên nhìn xuống, vốn lúc vượt qua ngưỡng cửa, ông đã để chiếc guốc gỗ dưới chân va sứt mất một miếng mà không biết, mà chính Chi Độn trông thấy. Tạ An lắc đầu gượng cười đi luôn.

    Chính là "Đông sơn cao ngọa thời khởi lai, dục tế thương sinh ưng vị vãn, đãn dụng Đông sơn Tạ An Thạch, vi quân đàm tiếu tĩnh hồ sa".

    (Tạm dịch: Đông sơn nằm khểnh thời trở lại, muốn cứu dân đen còn chưa muộn, chỉ cần có Tạ An Thạch, làm vua cười nói yên xứ Hồ").

    ° ° °

    Tạ Huyền phóng ngựa lên đồi cao, nhìn ra xa xa vầng trăng sáng treo cao trên bầu trời Nhữ Âm thành, phía sau là Lưu Dụ và hai ngàn tinh kỵ theo sát đến nơi mới kềm ngựa dừng lại.

    Cùng là ánh trăng sáng tỏ, nhưng trong con mắt Tạ Huyền, lại có ý nghĩa khác hẳn, nhân vì vầng trăng chiếu xuống mặt đất đối với Phù Kiên vừa thảm bại làm liên tưởng đến những biến hóa rung trời chuyển đất, lại không thể nào hồi phục tình thế trước kia.

    Lòng người thay đổi, ảnh hưởng trực tiếp cách nhìn của người ta đến vầng trăng muôn đời bất biến.

    Tám năm sau khi Phù Kiên thống nhất bắc phương, một lần nữa bắc phương lại ngập trong chiến loạn. Lần này tình thế hỗn chiến của các tộc Hồ lại còn ác liệt thê thảm hơn trước thời Phù Tần.

    Tạ Huyền nếu trận chiến này thu được thắng lợi, có ý muốn thuận lợi dốc toàn lực thu phục bắc phương, nhưng mà Hoàn Xung mất đi, thay vào đó là Hoàn Huyền, khiến y đối với mong muốn này không nắm vững chút nào.

    Thiếu chi viện về binh mã và lương thảo của Kinh Châu, hành động của y sẽ gặp khó khăn, huống chi bên trên còn có triều đình ngáng trở.

    Sự thực sau khi Hoàn Huyền được thăng làm Đại tư mã, vì quân quyền Kinh Châu độc lập, so với y hắn càng có điều kiện bắc phạt. trong tình huống này, một ngày Hoàn Huyền không dụng binh đối phó bắc phương, y thật vô phương tiến quân lên phía bắc, bởi vì y cần phải lưu giữ Bắc Phủ, để khống chế Hoàn Huyền. Tình thế đột nhiên phát triển đến bước này, đúng là không sao kịp chuẩn bị, bỏ lỡ cơ hội tốt.

    Đối với dã tâm của Hoàn Huyền, y biết rõ hơn ai hết, hắn ta luôn không cam lòng chịu đứng dưới y trong bảng "Cửu Phẩm cao thủ", từng hai lần ước hẹn giao đấu, danh thì là vì xin học hỏi, kỳ thực dụng tâm ai cũng biết, đều bị bản thân dùng lý do "Đều là trọng thần triều đình" mềm mỏng từ chối.

    Có thể thấy khi Mộ Dung Thùy triệt thoái khỏi Vân thành, Hoàn Huyền mang quân đuổi đánh kỳ cùng, một mặt thu hồi vùng Biên Hoang, mặt khác xua quân tiến công Xuyên, Thục, để mở rộng địa bàn, cũng có khả năng danh chính ngôn thuận chiêu mộ thổ hào các nơi, khiến triều đình không còn dám có ý tước đoạt quân quyền của hắn nữa.

    Tạ Huyền với uy thế đánh bại Phù Kiên, các lực lượng phản động địa phương tạm thời co đầu rụt cổ, không dám vọng động.

    Nhưng một khi cùng Hoàn Huyền ra mặt xung đột quyền lợi, lại thêm vào Tư Mã Đạo Tử mượn gió giương buồm, phá hoại cục diện đoàn kết mà nhị thúc và Hoàn Xung mất bao công sức tạo nên, đại loạn sẽ như sóng thần phá đê tràn đến, tình hình nam phương cũng sẽ chẳng hay hơn bắc phương bao nhiêu.

    Tạ Huyền bất giác thở dài, những chuyện trong đầu làm cho niềm vui thắng lợi trở nên u ám hẳn.

    Lưu Dụ ở đằng sau nhỏ giọng: "Huyền soái vì đâu mà than thở?".

    Tạ Huyền hít thở một hơi thật dài, rũ bỏ tạp niệm trong lòng, nói: "Chúng ta từ đây phi ngựa hết tốc lực, dù không thể đuổi kịp Phù Kiên trên đường, tính ra cũng có thể vào Biên Hoang Tập trước một bước để cung hầu đại giá Phù Kiên. Đi thôi!".

    Nói xong dẫn đầu phi xuống sườn núi, hai ngàn tinh kỵ binh như một cơn gió lốc cuốn thẳng về Nhữ Âm thành.

    --------------------------------
    1 Hối cũng không kịp.

  7. #36
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 36

    Tham tao yếu hại
    Yến Phi xuyên qua rừng cây vọt lên sườn núi, lặng lẽ đi trong đêm đen, chàng đã bỏ ý định giúp Thanh Thị một tay, quay sang xem xét nội thương của bản thân.

    Chân khí của Nhậm Dao tựa như lệ quỷ đeo bám bên mình, lúc thường thì vô ảnh vô tung, nhưng một khi chàng hành công đến giai đoạn nhất định, luồng chân khí đáng sợ này lại như từ trên trời dưới đất xuất hiện, từ khắp cơ thể chậm rãi khuếch tán tứ tung, gặm nhấm kinh mạch chàng. Cảm giác đau nhói toàn thân giống như có người nào đó bên trong tra tấn. Nếu chàng không vận công trục khí lạnh ra, sợ rằng huyết dịch đã đông kết lại rồi.

    Vinh Trí muốn cầm cái bình nhỏ mà không được, hẳn là vì hắn bị rơi vào tình trạng hãi hùng này. Có thể hình dung Vinh Trí trốn khỏi Trữ gia trấn rồi tình hình cũng tương tự như chàng hiện thời, chỉ bất quá là thương thế nghiêm trọng hơn, đến khi phát giác tình thế không ổn thì đã không có cách nào nữa.

    Thứ chân khí đáng sợ này của Nhậm Dao, có thể dùng từ "kịch độc" để hình dung, là một thứ "độc khí" giống như dòi bọ trong xương tủy.

    Bản thân đã ba lần bị độc khí xâm nhập, vì vậy mới để lại di chứng nghiêm trọng như thế này, cũng không hiểu có thể khu trừ triệt để hay không, may mà Nhật Nguyệt Lệ Thiên đại pháp của chàng ám hợp với đạo lý của thiên địa âm dương, đối với "độc khí" có khả năng khắc chế thần kỳ, bằng không chắc cũng giống như Vinh Trí nhất mệnh ô hô rồi.

    Hiện tại chàng chỉ có thể phát huy tối đa bảy tám thành công phu so với thường ngày, vì còn phải phân thần áp chế "độc khí", nếu cùng cao thủ động võ mà phóng tay thi triển võ công thì hậu quả sợ không dám nghĩ đến.

    Dù nghĩ là có thể xảy ra khả năng này, đối với việc viện trợ Thanh Thị chàng vẫn không nhụt chí, chàng chỉ cần trong tâm yên ổn, còn lại nhất thiết không tính toán, kể cả cái mạng nho nhỏ của bản thân cũng thế.

    Ánh trăng soi sáng, ngoài bìa rừng xuất hiện một ngôi chùa cổ, coi quy mô có thể tưởng tượng vẻ huy hoàng ngày nào, lúc này lại vắng teo không người, hiển nhiên đã bị bỏ hoang. Đáng thương cho Linh Sơn thánh tự, vốn là nơi thánh địa của các bậc chân tu, lại rơi vào cảnh hương tàn khói lạnh, phảng phất như nơi quỷ vực.

    Từ sau một đống đá núi cây leo, bỗng xuất hiện yêu nữ xinh đẹp Thanh Thị, lại còn đưa tay vẫy gọi chàng.

    Yến Phi không lấy làm lạ, lướt đến bên ả bắt chước ngồi xuống, xuyên qua đám cành lá lòa xòa nhìn khắp đại quảng trường phía trước cổ tự.

    Một pho tượng Phật nằm ngang giữa sân, hai bên có hai pho tượng Phật thủ vệ cao lớn đường bệ, thể hiện lòng trung thành hết mực. Ba lớp điện đường của ngôi chùa vẫn còn tương đối hoàn chỉnh, phần nào còn khí thế, bất quá cỏ dại um tùm đã dần theo bốn bức tường leo lên đến tận nóc, cảnh tượng thật hoang vu.

    Tuy nhiên hấp dẫn Yến Phi lại là một vị nữ lang thiên kiều bách mị đang nằm thẳng cẳng bên pho tượng giữa sân, một thân y phục hoa lệ, mắt nhắm nghiền, ánh trăng làm nổi bật lên những đường nét quyến rũ, có một thứ dụ hoặc phi thường, tựa hồ thị không cần làm dáng, cũng đã có thể mê hoặc thiên hạ nam nhân, khiến người trông thấy huyết mạch căng phồng.

    Yến Phi hết sức ngạc nhiên, bản thân không phải là chưa từng gặp nữ nhân đẹp, yêu nữ bên cạnh cũng tuyệt không dưới nữ lang đó, nhưng nữ lang nọ là người duy nhất có thể trực tiếp kích thích và dụ hoặc chàng như thế. Nếu như đôi mắt đó mở ra, lại thêm vào phong tư lãng mạn trăm bề, bản thân liệu có tự kềm chế được chăng?

    Càng kỳ quái là hiện tại thị nằm đó như đóa hải đường trong giấc mộng xuân, làm sao mình cứ tưởng tượng đến khi tỉnh lại sẽ gây xúc động lòng người đến như thế nào. Thanh Thị bên tai chàng khẽ nói: "Đó chính là Mạn Diệu tiện nhân ấy".

    Yến Phi chợt trong lòng e ngại, vừa rồi sức chú ý của chàng bị hấp dẫn bởi Mạn Diệu phu nhân, lại thêm thân bị độc khí, nếu Thanh Thị lại lần nữa đánh lén chàng, rất nhiều khả năng đưa chàng tới đường cùng.

    Bất giác cảnh giác nhìn ả.

    Thanh Thị cũng đang nhìn chàng, thấy ánh mắt chàng như vậy gượng cười nói: "Lần trước người ta có hảo tâm, sợ ngươi sính làm anh hùng hiện thân, cho nên định chế trụ ngươi trước, ngàn vạn lần chính xác là không có chút ác ý nào".

    Lại hớn hở nói: "Ngươi là hảo nhân bình sanh ta mới gặp đó. Có phải sợ người ta gặp hung hiểm nên chạy đến tương trợ không?".

    Yến Phi tin đến quá nửa những điều ả nói, vì như thế mới khớp với việc ả để cho mình đi thoát, ánh mắt quay sang phía Mạn Diệu phu nhân, thu nhiếp tâm thần, trầm giọng nói: "Là chuyện gì vậy?".

    Cặp lông mày đẹp như vẽ của Thanh Thị hơi nhíu lại: "Người ta làm sao biết đây? Khả năng là Giang lão yêu bắt được thị, lấy yên hoa tín hiệu của thị phát xạ, muốn dụ đại huynh tới quyết một trận tử chiến, cũng có khả năng tiện nhân ấy tự mình phát xạ yên hoa, rồi nằm xuống giả chết, nhiều khả năng lắm!".

    Yến Phi không kềm được hỏi: "Thị chẳng phải là người của lệnh huynh hay sao, vì sao cứ mở miệng là kêu tiện nhân như thế?".

    Thanh Thị khinh miệt thấp giọng nói: "Chỉ thích câu dẫn nam nhân thì chẳng phải dâm tiện thì là gì? Để ta nói ngươi rõ, thị chính là trời sinh dâm tiện, từ bé đã tu tập mị thuật, chuyên để câu dẫn nam nhân, ngươi bảo chẳng phải dâm tiện thì là gì? Bản lĩnh thị tự phụ nhất là khiến nam nhân hiếu sắc quyết một lòng yêu thương, một lòng trung thành với mình, có khi chết đi rồi cũng không biết là chuyện gì xảy ra!".

    Ả dùng nội công thu gọn thanh âm, lần lượt dồn đến rót nhẹ vào tai, lời nói tuy lúc nhanh lúc chậm, nhưng từng chữ từng chữ rõ ràng, âm vận du dương phong phú, tràn đầy cảm giác âm nhạc êm tai, nhè nhẹ đưa hương, như lan như xạ, theo hơi thở thanh xuân phập phù. Hơn nữa là Yến Phi mắt thấy thân hình mỹ nữ sống động như hương như hoa nằm ngay ngoài sân. Bất giác cảm thấy trong lòng rạo rực.

    Yến Phi giật mình, thầm kêu yêu nữ lợi hại. Lập tức cố gắng đè nén tạp niệm, chợt Thanh Thị lại nhích lại gần hơn một chút, vai thơm tựa vào vai chàng, tiếp tục: "Cho ngươi biết thêm một bí mật, đại huynh chịu thu thị làm phi tần, là vì vừa ý mị thuật câu hoặc nam nhân của thị, đôi lúc mị thuật của người đẹp vận dụng đúng cách còn lợi hại hơn thiên quân vạn mã. Đại huynh là người thông minh, đương nhiên hiểu thấu đạo lý này".

    Yến Phi lại bất giác rung động trong lòng, nghĩ thầm việc gì phải nói chuyện người khác, ngươi chẳng phải đang dụ hoặc ta sao? Nghĩ thì nghĩ thế, nhưng mà hương thơm ngào ngạt như hữu ý lại như vô tình đang được hưởng thụ khiến chàng không nỡ rời xa.

    Trầm giọng hỏi: "Ngươi tính làm gì bây giờ?".

    Thanh Thị khẽ nhún bờ vai xinh, cất giọng êm ái: "Bất luận thế nào đi nữa, Giang lão yêu chắc chắn đang ở đâu đây rình mò, ta đâu ngu đến mức vì thị mà chịu nguy hiểm".

    Yến Phi không hiểu nói: "Đã là như thế, làm sao ngươi khi thấy tín hiệu yên hoa, lập tức không kể gì lao tới đây. Vừa rồi lại cố ý dẫn dụ lão yêu đuổi theo ngươi, để cho Mạn Diệu thoát thân?".

    Cái miệng nho nhỏ của Thanh Thị thiếu chút nữa thì đụng vào vành tai chàng, nói: "Vì rằng hiện tại thị rất hữu dụng đối với đại huynh! Người ta mới phải giả làm như vậy chớ bộ!

    Ài! không biết Giang lão yêu khi nào mới chịu hiện thân đây.Hi! người ta đâu sợ Giang lão yêu giết chết thị, vì rằng làm gì có nam nhân nào không thương hương tiếc ngọc mà đi giết thị! Khi Giang lão yêu nổi lòng hiếu sắc, chính là lúc tai ương giáng lên đầu thị đó! Dù sao chẳng có việc gì cũng chán, chúng ta chơi một trò vui được không?".

    Yến Phi ngơ ngác nhìn ả, đang muốn hỏi là trò gì, Thanh Thị đã ngả mình vào vòng tay chàng, để toàn bộ thân hình thơm nức ngã vào lòng, nhẹ vươn đôi tay ngọc quấn chặt lấy cổ chàng, đối mắt đẹp khép hờ, gò ngực xinh xắn không ngừng nhô lên hụp xuống, cặp môi hồng nhẹ phả hương thơm hổn hển nói nhỏ: "Hôn muội đi!".

    Yến Phi nhìn thấy trước mắt một khuôn mặt không còn vẻ ngây thơ thuần khiết lâu nay, cặp mắt nhu mì đắm đuối, xuân tình lãng đãng. Mức độ dụ hoặc tuyệt không dưới Mạn Diệu phu nhân, chết nỗi Giang Lăng Hư đại ma đầu đáng sợ đâu đó quanh đây, càng làm tăng thêm cảm giác kích thích về mối tình vụng trộm mà đẹp đẽ, nhất thời quên hẳn ả không những giảo hoạt như hồ ly, mà còn từng bán rẻ mình, quả là nghĩ tới trước đó một ít, liền có thể tùy tiện hưởng thụ đôi môi mọng ướt và đẹp đẽ của ả.

    Đúng lúc sắp buông thả hành động, một luồng chân khí hết sức lạnh lẽo bỗng nhiên từ những ngón tay đang đeo bám trên cổ xuyên nhập vào trong kinh mạch chàng, kinh mạch toàn thân lập tức như bị đóng băng, chẳng nói chi vận khí phản kích, đến đụng đậy một đầu ngón tay kêu khẽ một tiếng cũng không nổi.

    Khuôn mặt đẹp tươi của Thanh Thị bỗng biến dạng, hai mắt mở to, nhưng đâu còn chút nào nhu tình mật ý, nhãn thần lạnh lẽo vô tình, khiến chàng nhớ lại ánh mắt của Nhậm Dao.

    Yêu nữ phản phúc vô thường này từ từ ngồi dậy, quỳ gối trước mặt chàng, hốt nhiên thu hồi song thủ, tiếp đó ngọc thủ nhanh như chớp điểm vào hơn mười huyệt đạo lớn nhỏ trước ngực chàng.

    Mỗi chỉ đều chú nhập một đạo chân khí lạnh lẽo thấu xương, bao vây tâm phế khiến chàng có cảm giác toàn bộ lục phủ ngũ tạng tê liệt, đặc biệt là có kêu to cũng không thành tiếng, giống như trong một cơn ác mộng, biết rõ mãnh thú độc xà cắn xé, lại không có cách gì cử động. Bất quá yêu nữ này so với mãnh thú độc xà còn độc ác hơn trăm ngàn lần.

    Chân khí còn sót lại của Yến Phi tiêu tan toàn bộ, cho dù hiện giờ có người có thể trị bệnh cho chàng, chàng chẳng những mất hết võ công, mà so với thường nhân không bằng người thân thể đa bệnh.

    Nữ nhân độc như rắn rết này đương nhiên không phải giản đơn muốn phế hết vũ công chàng, mà là muốn chàng mất đi năng lực phản kháng, mặc cho chân khí của ả xâm nhập vào hành hạ chàng đến chết.

    Cho dù thâm cừu đại hận, cũng không cần phải thi hành thủ đoạn tàn nhẫn như thế, hà huống chàng đối với ả tính ra còn có ân.

    Chàng hiện tại hối hận nhất là, không phải là không để Lưu Dụ và Thác Bạt Khuê thu thập ả, mà là vừa rồi thực sự đã động tâm vì ả, càng khiến chàng kinh hãi khôn cùng là chân khí xâm nhập nội thể chàng chính là Tiêu Dao chân khí, bất quá đường lối Nhậm Dao đi theo là âm nhu, còn đường lối ả luyện lại là dương cương. Còn về trình độ thâm hậu so với Nhậm Dao thực không kém bao nhiêu, do đây có thể biết ả thường che dấu thực lực chân chính.

    Yêu nữ này thực khéo co đầu rút cổ.

    Những ý nghĩ này bừng lên như điện chớp trong đầu chàng, trong cơn đau như vỡ tim dập cốt, chàng ngã ngửa ra phía sau.

    Thanh Thị nhẹ đưa tay ngà, thọc vào dưới nách ôm chặt lấy chàng, cái miệng nhỏ nói bên tai chàng: "Ngoan ngoãn đừng sợ, đau đớn lúc đầu qua đi, cảm giác của ngươi sẽ mau chóng biến mất, sau đó dần dần mê man, có thể yên lặng sảng khoái chứng kiến cái chết của mình như thế chính là lạc thú tử vong dễ chịu nhất. Chết đi rồi ngươi sẽ đi về đâu? Ví phỏng được về Tây thiên chẳng phải là hứng thú phi thường sao?".

    Tiếp đó lại cười nhẹ: "Nô gia rất vui vì cho được kẻ tự mệnh chính nghĩa ngu ngốc như ngươi vào tròng, đổi lại hai tên hỗn xược kia hẳn sẽ không chịu như thế, chỉ có tên ngốc ngươi hai lần bị ta lừa mà vẫn không tỉnh ngộ. Ài! cũng khó trách ngươi, cha con An Thế Thanh đã lừa lấy Thiên Tâm bội trên tay ta, Yến Phi ngươi còn được việc gì đây? Con người ngươi tuy không đến nỗi nào, chỉ tiếc trong thân thể ngươi không phải là dòng máu hoàng tộc. Ngươi muốn hận thì hận bản thân lại biết bí mật của Thiên Tâm bội. Lần sau đến lượt Lưu Dụ, gã sẽ chết thê thảm gấp bội ngươi. Chờ người ta sẽ tới an táng ngươi, vui vẻ hưởng thụ cái chết của ngươi đi!".

    Nói xong hất chàng ngã xuống đất.

    ° ° °

    Đợi đến khi đám phủ vệ mở lối xong, Tạ An và Vương Thản Chi ngồi cùng xe phóng ra khỏi hẻm Ô Y, chuyển sang đường lớn, tiến về hoàng cung.

    Trên đường chen chúc đầy người dân đang vui như phát cuồng, nhà nhà chăng đèn kết hoa, tiếng pháo nổ đinh tai, cảnh tượng hoan lạc khiến lòng Tạ An sinh cảm xúc, lúc này sự rạo rực vì chiến thắng đã dần lắng xuống, nỗi lo âu đối với tương lai đã nổi lên.

    Trước trận thắng Phì Thủy, vì sự uy hiếp của Đê Tần cường bạo và tặc khấu nơi biên cương không ngừng quấy nhiễu, dưới trùng trùng áp lực, quân dân Nam Tấn đoàn kết hơn bao giờ hết.

    Nhưng hiện tại uy hiếp đã qua, đầu tiên là xuất hiện vấn đề có tiến hành bắc phạt hay không.

    Tuy nhiên đây lại không phải là vấn đề quan trọng nhất, bối cảnh chính trị thay đổi, Tư Mã Diệu từ chỗ tín nhiệm và dựa dẫm vào Tạ An, chuyển thành nghi kỵ và xa lánh, lại tìm thiên phương bách kế tước đoạt quyền lực của ông.

    Nếu Tạ An là người dã tâm, ông sẽ thiết pháp thừa cơ giành thêm nhiều quyền lực hơn, chỉ hận ông lại không phải loại người như vậy. Ông thích nhất là sống cuộc đời nhàn vân dã hạc, trong hoàn cảnh hiện nay, chỉ có một con đường: công thành thân thoái.

    Từ nay về sau gia tộc chỉ còn dựa vào uy vọng của Tạ Huyền và Bắc Phủ binh trong tay y, ông chịu để Hoàn Huyền ngồi lên ngôi vị Đại tư mã, chính là để bảo đảm cho Tạ Huyền, khiến Tư Mã Diệu và Tư Mã Đạo Tử không dám khinh cử vọng động, để còn ngăn cản Hoàn Huyền. Điều này vị tất đã là phúc cho thần dân Nam Tấn, nhưng ông đâu còn chọn lựa khác.

    Vương Thản Chi vừa tiếp thụ xong hoan nghênh của quần chúng trên đường, hạ rèm xuống, quay đầu lại thấy thần tình của Tạ An ngạc nhiên nói: "Ông có tâm sự gì?". Tạ An điềm đạm nói: "Quốc Bảo phải chăng đi lại rất thân mật với Tư Mã Đạo Tử?".

    Khuôn mặt to tròn của Vương Thản Chi lộ vẻ bối rối: "Bọn họ chỉ là có cùng ý thích, nên rất hay qua lại. Ài! Quốc Bảo gần đây tâm tình không tốt, bất cứ lúc nào cũng có thể nổi nóng, ta đã nhiều bận giáo huấn, hai ngày sau hắn sẽ thân tới chỗ ông thỉnh tội".

    Tạ An nghĩ đến con gái, ngầm thở dài nói: "Nếu Sính Đình chịu theo hắn trở về, ta tuyệt sẽ không can thiệp".

    Vương Thản Chi nhẹ thở ra nói: "Quốc Bảo vẫn là một đứa trẻ, vốn u uất bất đắc chí, đầy hoài bão không thực hiện được".

    Tạ An nghĩ ông lại còn quay ra trách ta, mà không tưởng được con ông bại hoại đến mức nào. Bất quá nghĩ cho kỹ hơn cũng chẳng nên lấy làm lạ làm sao ông ta bất mãn như thế. Sau chiến dịch Phì Thủy, Tạ gia chắc chắn có thể lưu danh sử sách, huống chi còn có Tạ Huyền. Như Vương gia lại không người kế nghiệp, từ sau Vương Đạo, Vương Đôn chỉ có ông ta là Vương Thản Chi còn có chút danh tiếng, tuy nhiên hào quang của nhà họ Vương hiện thời hoàn toàn bị Tạ gia che lấp. Vương Thản Chi nói lời oán thán là hợp lẽ thường thôi.

    Các loại vấn đề và mâu thuẫn này trước trận Phì Thủy tuyệt đối chưa xuất hiện, như vậy thắng lợi Phì Thủy đã làm thay đổi hoàn toàn tâm lý người người Nam Tấn từ trên xuống dưới.

    Tạ An hạ thấp giọng nói: "Ta sắp rời khỏi Kiến Khang".

    Vương Thản Chi kinh hãi: "Chuyện gì?".

    Mục quang Tạ An thấu qua rèm trúc nhìn dân chúng hớn hở chúc mừng lẫn nhau, yên lặng không nói.

    Xe ngựa tiến vào hoàng thành, nhiệt náo vẫn không giảm.

    Vương Thản Chi nói: "Hoàng thượng tất không chuẩn y, rốt cuộc là ông có chuyện gì vậy? Sao không nói ra để ta cùng chung lo lắng, ông phải biết ta luôn ủng hộ ông chứ". Tạ An gượng cười: "Ông cũng cần như ta minh bạch tâm ý Hoàng thượng, Tạ An này đã không còn giá trị để lợi dụng nữa rồi".

    Vương Thản Chi phẫn nộ: "Ông ngàn vạn lần chớ tự làm tình hình rối lên, hiện tại Phù Kiên đại bại, phương bắc tất sẽ trở lại tình trạng chia năm bè bảy mối hỗn loạn, Hoàng thượng xưa nay luôn muốn thu phục bắc phương, thống nhất thiên hạ, hiện tại chính là thời điểm thích hợp nhất, Thản Chi nguyện sẽ đi theo ông".

    Tạ An nghĩ thầm Tư Mã Diệu biết rõ không phải lúc mới đem việc đó ra nói chơi ngoài miệng, để tỏ ra oai phong một chút, nếu bảo ông ta ủng hộ việc bắc phạt, đối với ông ta mà nói, chẳng khác gì muốn ông ta mang nửa mảnh giang sơn đem đi đổi lấy một mái chèo của phường tuồng.

    Tuy nhiên Vương Thản Chi hy vọng ông ở lại đích xác là chân tâm, bởi vì Vương Thản Chi không phải là người mang chí lớn, chỉ hy vọng mọi thứ như cũ, Vương, Tạ lưỡng gia có thể tiếp tục duy trì địa vị hiển hách nhất.

    Nhìn sâu vào mắt y, ông nói: "Thắng lợi Phì Thủy đến quá đột ngột, chúng ta căn bản không chuẩn bị bắc phạt. Mà bất luận là thế lực hủ bại cầu an hay kẻ sĩ người Hán có nhận thức và chí khí, đều hiểu rằng bắc phạt khó khăn trùng trùng. Hồ nhân phương bắc chỉ cần cắt đứt vận chuyển đường thủy của ta, lập tức đánh vào nhược điểm trí mệnh của quân ta, lương thảo không tiếp tế được nữa. Mà người Hán ở phương bắc khi trước không kịp nam độ, chịu thống trị lâu dài của người Hồ, ý thức dân tộc và quan hệ với Hồ tộc dần dần mờ nhạt, cũng không mấy hứng thú với việc chúng ta chinh phạt miền bắc. Nói cho cùng, sự tồn tại

    của Biên Hoang đã khiến Phù Kiên đại bại trận này, cũng sẽ khiến công cuộc bắc phạt của ta khó mà thành sự. Tự cổ đến nay, chưa bao giờ xuất hiện tình huống kỳ quái như vậy". Vương Thản Chi vội nói: "Chuyện bắc phạt có thể tính kế lâu dài, ông đâu cần phải vội vã từ quan quy ẩn như vậy".

    Tạ An ung dung nói: "Ông lo là ta vào cung lập tức xin từ chức sao?". Vương Thản Chi gật gật đầu: "Hoàng thượng sẽ cho rằng ông cậy công làm phách, lấy thoái để tiến, như vậy không hay".

    Tạ An cười nụ: "Yên tâm đi! Ta sẽ đợi đến khi mọi sự đâu ra đấy, tình hình Phù Kiên thật rõ ràng, mới rời khỏi chức vụ, khi đó hoặc ta chưa cần rời Kiến Khang, Hoàng thượng đã có an bài rồi".

    "Phanh! Phanh! Phanh!".

    Một tràng pháo dồn dập nổ vang bên ngoài cổng Đại tư mã phủ, trong không khí hoan hỉ nồng nhiệt, xe ngựa tiến vào hoàng cung.

    ° ° °

    Phù Kiên kinh hãi dừng ngựa, ngây người nhìn phía xa xa, một vầng khói đậm đặc vừa bùng lên đang cuồn cuộn bốc cao, ẩn hiện ánh hỏa quang.

    Khất Phục Quốc Nhân, Lữ Quang cùng kìm ngựa, ai nấy đều mặt tái như gà cắt tiết. Chiến mã hí vang, lại thêm mấy con chịu đựng không nổi, kiệt sức ngã lăn ra. Lữ Quang nói: "Biên Hoang Tập bốc cháy!".

    Khất Phục Quốc Nhân hít một hơi chân khí, nói: "Không thể có khả năng ấy! Thủy sư của nam phương không thể nhanh đến thế được, thuyền đi ngược nước, nhanh nhất sáng mai mới có thể đến được Biên Hoang Tập".

    Lữ Quang nói: "Cho rằng đến được Biên Hoang Tập, với kinh nghiệm phong phú của Diêu đại tướng quân, sao để quân nam dễ dàng đắc thủ?".

    Phù Kiên giống như chợt già đi hàng chục tuổi, mặt không còn chút huyết sắc nào, lẩm bẩm: "Phản rồi! Phản rồi!".

    Đám Khất Phục Quốc Nhân nhìn nhau, không ai lên tiếng. Trước mắt khả năng duy nhất là Diêu Trường phản bội Đê Tần, tự động phóng hỏa đốt doanh trại, rút lui về phương bắc.

    Bỗng nhiên từ phía tây nam truyền lại tiếng vó câu dồn dập, ước tính có tới hàng ngàn người.

    Mọi người lại một lần nữa biến đổi sắc mặt, lần này đúng là trước mặt không có đường đi, phía sau truy binh đuổi tới, chẳng lẽ Đê Tần sụp đổ như thế sao?".


  8. #37
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 37

    Đan kiếp chi nạn
    Những biến hóa trong người Yến Phi không như yêu nữ Thanh Thị dự liệu là bị lạnh cứng tới mức mất hết cảm giác. Chỉ là thần trí đã mấp mé bên bờ tử vong.

    Trong lúc chàng ngã ngửa ra đằng sau, luồng chân khí của Tiêu Dao đế quân từ trước đến giờ bị ức chế lập tức như ngựa hoang tuột cương từ chỗ ẩn phục phóng vọt ra, hai luồng chân khí cũ và mới tương xung gặp nhau, lập tức biến kinh mạch toàn thân chàng thành bãi chiến trường, không ngừng công kích tranh đoạt, thống khổ đến mức một hán tử kiên cường như Yến Phi cũng chịu đựng không nổi, tựa như băng tuyết đã biến thành ngàn vạn mũi đao sắc nhọn bé tí cắt sâu vào kinh mạch và lục phủ ngũ tạng, nếu như không phải miệng không nói được, hẳn đã gào rú điên cuồng rồi, nhưng phải chịu "băng hình" đau đớn đến mức toàn thân run lên bần bật.

    Toàn bộ giác quan đều mất tác dụng, mắt không nhìn được, tai không nghe được, giống như đâm đầu vào một chỗ hư vô không có bất cứ thứ gì, không biết thân đang ở nơi đâu? Cuối cùng là đã phát sinh chuyện gì? Bầu bạn với chàng là từng cơn từng cơn đau đớn và thống khổ mỗi lúc lại càng thêm mãnh liệt.

    Chính tại nơi sâu thẳm của nỗi đau, hốt nhiên xuất hiện một điểm ấm nóng, tuy vẫn đau đến muốn chết, sẵn sàng chết đi để được thoát ly bể khổ, nhưng thần trí đã dần dần trở nên sáng sủa hơn, ngấm ngầm cảm thấy tia ấm áp xuất phát từ vị trí chính giữa tâm tạng, từ từ đổ vào tâm mạch.

    Tình huống này giống như từ thế giới gió tuyết lạnh lẽo sắp sửa làm đông cứng người lại, hốt nhiên có một đám tàn lửa, khói lửa không ngừng tăng cường sinh nhiệt. Yến Phi tuyệt xứ phùng sinh, không hơi đâu tìm hiểu vì đâu xuất hiện tình thế đặc dị này, chỉ tận lực quên đi nỗi đau cắt da xẻ thịt, cố sống cố chết bám lấy cái điểm ấm áp đó. Cảm giác nóng ấm dần dần tăng lên, đi qua tâm mạch hướng về Nhậm Đốc nhị mạch, cứ thế mà đi, đau đớn phảng phất như đang dần rời bỏ chàng.

    Điều ấy không nói lên rằng chàng từ lạnh chuyển sang nóng, mà là chàng không còn hoàn toàn không thể dụng lực nữa, Nhậm Đốc hai mạch vẫn bị hàn độc chiếm cứ, nhưng chàng đã có thể khống chế một phần nào. Các giác quan dần hồi phục, bắt đầu cảm giác

    thấy sự tồn tại của thân thể và tứ chi, nhưng nếu muốn bò dậy chạy trốn, còn xa mới làm được.

    Chợt động tâm, nghĩ đến bản thân đang âm dương sai lệch, trái lại lại tạm nhờ vào luồng chân khí hàn độc Nhậm Dao trút vào trước mà bảo trì tính mệnh, cái gọi là âm cấp dương sinh, dương cấp âm sinh. Hai luồng chân khí chí âm chí hàn giao kích, vật cấp tất phản, sinh ra khí dương nóng ấm. Thêm vào Nhật Nguyệt Lệ Thiên đại pháp luôn ưa chuộng đường lối âm dương tương hỗ, bản thân đã bị lạnh đến cực điểm sinh ra nóng ấm coi như điều kiện tiên quyết, cơ duyên xảo hợp mới không bị chết.

    Nhưng trong lòng Yến Phi không hề có chút mừng vui, chàng là đại hành gia trên phương diện này, từ tình hình bên trong thân thể đã sớm dự kiến được kết quả.

    Nguồn năng lượng nhiệt hỏa ấy chỉ có thể bảo mệnh chàng trong một đoạn thời gian, kinh mạch chàng đã bị tổn thương quá nặng, chàng chẳng những mất đi hoàn toàn võ công, mà còn biến thành một phế nhân bại liệt, vĩnh viễn không thể bằng lực đạo của bản thân đứng dậy nổi. Mà luồng chân khí mỏng manh âm cực dương sinh này chỉ khiến chàng chịu tội sống nhiều hơn, nếu Thanh Thị yêu nữ quay trở lại coi thi thể, thấy chàng vẫn chưa chết, không biết sẽ còn có những biện pháp gì để hành hạ chàng nữa.

    Xưa nay chàng chưa bao giờ thống hận một người nào như vậy, hễ có cách nào làm hại được ả, chàng khẳng định sẽ không do dự thi hành ngay.

    Tại thời điểm giao hội giữa cừu hận, oán giận, đau thương, mệt nhọc và suy sụp, trong đầu chợt lóe lên một ý định, nghĩ ra một biện pháp hay.

    Ấy là chiếc bình đồng bí ẩn đang nằm trong bọc.

    ° ° °

    Tạ Huyền cho ngựa phi chậm lại, toàn đội kỵ binh cũng giảm tốc độ, phóng lên một gò đất cao, ai nấy đều trông thấy đám khói dày đặc vừa bừng lên ở Biên Hoang Tập. Hiện tại họ cách Biên Hoang Tập chừng vài canh giờ phi ngựa.

    Tạ Huyền vui mừng nói: "Ta đã sớm đoán Diêu Trường có kế hoạch này". Lưu Dụ ở phía sau ông ta nói: "Hy vọng chỉ cháy mất mộc trại vừa dựng lên, nếu không Biên Hoang Tập sẽ thành chốn hoang vu mất".

    Tạ Huyền hết sức ung dung nói: "Ngươi có nhiều tình cảm với Biên Hoang Tập, vì thế có cảm giác tiếc nuối phải không?".

    Lưu Dụ biết rõ bọn họ phải truy nhanh theo Phù Kiên, cố tranh thủ cho ngựa được nghỉ ngơi hồi sức. Dùng sức ngựa được chăm sóc đầy đủ truy đuổi chiến mã kiệt sức của Phù Kiên, tự nhiên sẽ chiếm hết ưu thế, Phù Kiên đừng hòng nghĩ đến chuyện thoát thân. Liền gật đầu nói: "Biên Hoang Tập là một nơi đầy kích thích, bất kỳ chuyện hoang đường gì cũng có thể phát sinh, kẻ nào đến đây cũng vứt bỏ hết mọi quy định ước thúc, muốn làm gì thì làm".

    Tạ Huyền khẽ cười: "Không tính lần gần đây nhất, trước đó ngươi từng mấy lần tới Biên Hoang Tập mà buông thả mọi ước thúc?".

    Lưu Dụ đỏ bừng mặt, hơi do dự, sau cùng thản nhiên nói: "Tiểu nhân từ trước đến nay ở Bắc Phủ chưa từng qua chơi thanh lâu, nhưng sau khi tới Biên Hoang Tập, mỗi đêm đều cùng Cao Ngạn đi nếm thử của ngon vật lạ, chỉ thiếu còn chưa vào đổ trường thử thời vận".

    Tạ Huyền cười ha hả: "Đó là chuyện thường tình của mọi người, rượu ngon gái đẹp, ngẫu nhiên buông thả một lần, đương nhiên hết sức thống khoái. Nghe đâu Biên Hoang Tập cũng là nơi tiêu pha tốn kém phải không?".

    Lưu Dụ giật mình kinh hãi vội nói: "Cao Ngạn vung tay hào phóng, lần nào cũng là hắn mời khách, xin Huyền soái minh xét".

    Tạ Huyền bật cười nói: "Ta chỉ thuận mồm hỏi chơi mà thôi, ngươi không cần phải lo lắng ngại ngùng như thế, ngươi là loại người như thế nào, ta là người biết rõ nhất". Ngừng một chút lại nói: "Đám Phù Kiên hẳn đang đâu đó cách đây không quá mười dặm, chúng ta nên chia ra ba đường hành quân, coi chừng mai phục".

    Lính cầm cờ vội phất cờ hiệu, bộ đội trùng chỉnh lại đội ngũ, lại dụi bỏ đại bộ phận đuốc, theo Tạ Huyền tiếp tục truy đuổi địch nhân.

    ° ° °

    Bên Phù Kiên tuy bố trí trận thế nghênh địch nhưng mọi người đều biết rõ trong lòng rằng trong hoàn cảnh vừa đói rét vừa kiệt sức như thế này, tất cả binh tướng không những không còn sức chiến đấu, mà đấu chí cũng mất.

    Ánh trăng chiếu xuống hơn trăm kỵ mã phóng ngựa lên ngọn đồi cao phía tây nam, kềm ngựa đứng lại, phía sau đông đảo quân sĩ từ mật lâm phía nam phóng ra, dừng ngựa tại

    chỗ đó, sắp thành trận thế, đội hình nghiêm chỉnh, rõ ràng đối phương là một đơn vị tinh nhuệ.

    Khất Phục Quốc Nhân nhãn lực lợi hại nhất, thở phào một hơi nói: "Là người của Mộ Dung thượng tướng quân".

    Phù Kiên không biết làm sao tim bỗng đập thình thịch, đối với Mộ Dung Thùy, tuy là thủ hạ bề tôi của mình, y nói chung vẫn có lòng e sợ, Mộ Dung Thùy là người duy nhất hồi sinh tiền Vương Mãnh cố kỵ, trước lúc chết đã đinh ninh dặn dò mình cần phải cẩn thận đề phòng. Nhưng vì thực lực của Mộ Dung Thùy lúc đó kém xa y, vì vậy Phù Kiên không để ý, mà còn dựa vào sức chiến đấu siêu phàm của Mộ Dung Thùy để giúp y bình định bắc phương. Chỉ hận là hiện giờ tình thế đã đảo ngược, tinh hoa Đê binh của y sau hai chiến dịch Lạc Giản và Phì Thủy đã tan nát hết, lại còn mất cả Phù Dung.

    Diêu Trường đã phản bội hắn bỏ đi, Mộ Dung Thùy còn đáng sợ hơn Diêu Trường sẽ có thái độ thế nào?

    Đối phương đã triển khai xong trận thế, ba kỵ mã từ từ phóng đến, đi đầu chính là Mộ Dung Thùy trạng mạo tựa như ma thần, đầu bịt vòng thép, tóc xõa hai vai, hai bên tả hữu là thân đệ Mộ Dung Đức và con trai Mộ Dung Bửu, thẳng tới trước mặt Phù Kiên.

    Ba người không chút dị dạng, theo lệ thường hướng về y thi lễ vua tôi. Phù Kiên lòng kích động, run giọng nói: "Thượng tướng quân...".

    Đám Khất Phục Quốc Nhân, Lữ Quang, Quyền Dực đều im lặng không nói, đợi Mộ Dung Thùy phản ứng.

    Trong chiến dịch nam chinh lần này, duy chỉ có quân bản bộ của Diêu Trường và Mộ Dung Thùy hoàn toàn không tổn hại, Mộ Dung Thùy chịu hay không chịu tiếp tục trung thành với Phù Kiên, sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến việc chúng tướng Hồ tộc tiếp tục ủng hộ y.

    Mộ Dung Thùy nét mặt bình tĩnh, mắt nhìn về phía khói đen ngày một dày đặc trên bầu trời Biên Hoang Tập, chậm rãi nói: "Thỉnh Thiên Vương trước hết tha tội cho thần chậm trễ hộ giá, Biên Hoang Tập sợ đã thành tro tàn, không nên đi tới. Vì kế an toàn, xin Thiên Vương từ đây đi theo đường Tứ Thủy, trở về bắc tái hồi kinh sư, thần xin toàn lực chặn đường truy binh của Tạ Huyền, xem ra y không dám vượt quá Biên Hoang Tập".

    Chúng nhân đều có cảm giác kỳ quái, nếu Mộ Dung Thùy thân ở Vân thành, cho dù đêm qua nghe được tin lập tức chạy tới, sớm nhất thì hoàng hôn ngày mai mới tới được nơi này, trừ phi hắn giấu quân đâu đó gần đây từ trước.

    Hiện tại binh lực của Mộ Dung Thùy trước mắt ước chừng hai ngàn đến ba ngàn người, còn lại hơn hai vạn quân bản bộ của hắn đang ở đâu? Lúc này tình thế hung hiểm vi diệu, dù là Phù Kiên cũng không dám chất vấn hắn.

    Mộ Dung Đức và Mộ Dung Bửu mặt mũi lạnh tanh, khiến người ta không biết đâu mà lường.

    Phù Kiên hít sâu một hơi, nén kích động, trầm giọng nói: "Hiện đã có thượng tướng quân tới trợ giúp, chúng ta có thể thu thập tàn binh, trùng chỉnh đội ngũ, thừa lúc Tạ Huyền đắc thắng kiêu ngạo, quay lại phản kích, không chừng có thể phản bại thành thắng".

    Nét mặt Mộ Dung Thùy lộ vẻ hơi cười, nhạt giọng nói: "Hiện tại bại cục đã thành, đường vận lương bị cắt, cho dù nhân mã trong tay thần nhiều gấp bội, giết được Tạ Huyền, vẫn khó qua được cửa quan Hạp Thạch, Phì Thủy. Nếu Hoàn Xung lại nghe tin xua quân tiến công, chúng ta khi đó đến cả cơ hội phản hồi bắc phương cũng mất. Thỉnh Thiên Vương lập tức khởi giá, chậm trễ e không kịp".

    Phù Kiên thiếu chút nữa thì khóc gào lên trước mặt chúng nhân, cố nén bi phẫn trong lòng, lần này vốn phát động nam chinh để dương oai thiên hạ, nào ngờ thành ra đại bại chịu co đầu rút cổ, Mộ Dung Thùy lời nào cũng là sự thực, đành đáp ứng: "Việc ở đây về sau giao cho thượng tướng quân phụ trách, trẫm đợi thượng tướng quân ở Lạc Dương".

    Mộ Dung Thùy chậm rãi nói nốt: "Thần còn một thỉnh cầu, vạn mong được Thiên Vương chuẩn cho".

    Phù Kiên ngạc nhiên: "Thượng tướng quân có yêu cầu gì?".

    Khất Phục Quốc Nhân mấy người liền cảm thấy hết sức không ổn, hiểu Mộ Dung Thùy sẽ không nói điều gì tốt đẹp. Bề ngoài Mộ Dung Thùy vẫn cung kính đối với Phù Kiên, nhưng những người tinh mắt đều thấy hắn đã hết hẳn sự tôn kính trước đây, nhất là Mộ Dung Đức và Mộ Dung Bửu lại càng thậm tệ, lộ rõ vẻ không còn coi Phù Kiên ra gì.

    Mộ Dung Thùy bình tĩnh nói: "Quân ta nam chinh thất lợi, chư tộc ở biên cương phía bắc tất sẽ rục rịch làm loạn, thần nguyện mang quân bản bộ đi trước trấn an Nhung, Địch, thuận đường bái tế lăng mộ tổ tông".

    Phù Kiên cảm thấy trái tim như tụt hẳn xuống, như thế khác nào thả hổ về núi, nếu để Mộ Dung Thùy dẫn quân mã bản bộ phản hồi căn cứ địa ở bắc cương, hắn còn chịu để mình điều khiển sao? Chỉ là trong tình thế trước mắt, y có thể nói "không" sao?

    ° ° °

    Yến Phi nghĩ đến Vinh Trí trước khi chết đã rất trân trọng mang Đan kiếp giao cho mình, khẳng định vật này không phải đồ bỏ, rất nhiều khả năng là vật yêu nữ Thanh Thị mong chiếm bằng được, nếu chàng mang ra nuốt đi, lại để ả nhìn thấy cái bình rỗng, chắc sẽ khiến ả tức đến chết.

    Ngoài cái được vừa rồi, cái ý vị đầy thần bí khủng bố của Đan kiếp, thêm vào đề từ "Cát Hồng khấp chế" khiến Vinh Trí đến tận lúc lâm chung cũng vẫn không dám phục dụng, đương nhiên phải là thứ đan dược bá đạo cực độc, nếu không đã không có chữ "kiếp" trong danh tự.

    Yến Phi chàng đối với chuyện sống chết không màng, như hiện nay lại đã không thể nào sau khi phục dụng còn có thêm tổn thất gì, quá lắm là có thể kết liễu kiếp sống tàn, tới địa phủ cùng mẫu thân tương hội.

    Nghĩ đến đây, Yến Phi phấn khởi ý chí, dùng ý dẫn khí, cố gắng dẫn đạo luồng chân khí ấm nóng cực kỳ yếu ớt nhập vào kinh mạch của hữu thủ, hữu thủ lập tức khẽ rung động, đồng thời cả cánh tay đau đớn kịch liệt như thể bị dao đâm.

    Chẳng biết có phải do đã có mục tiêu phấn đấu rõ ràng hay không, mà nhãn lực và tri giác đã dần dần tăng lên, có thể mơ hồ nhìn thấy cảnh vật.

    Chính vào lúc này, từ phía ngôi chùa cổ ẩn ước có thanh âm truyền tới, tuy vẫn như từ phương trời xa thẳm truyền đến, nhưng từng chữ từng chữ đã có thể nghe thấy. Một giọng nam hùng tráng cười lớn: "Nguyên là Tiêu Dao đế hậu giá lâm, chẳng trách nhân mã bên ta khó tránh được kiếp số".

    Thanh âm của yêu nữ Thanh Thị lập tức hưởng ứng: "Khó khăn lắm mới được Giang giáo chủ ngàn dặm tới đây, nô gia tất phải tận tâm thị hầu".

    Yến Phi rất ngạc nhiên, yêu nữ này lại không phải muội tử của Nhậm Dao, mà lại là "ngụy hậu" của hắn, thật là nằm ngoài ý tưởng của người ta.

    Người của Tiêu Dao giáo hành sự quỷ tà quái dị, khó lấy thường lý mà suy, tự mình thân bị hại, cũng là biết thì đã muộn.

    Lúc này chàng đã đụng đậy được đầu ngón tay, chứng minh kinh mạch vẫn chưa bị phá hoại triệt để, bất quá hàn độc vẫn đang tha hồ tăng trưởng hoành hành, đành chỉ biết dùng chút sức lực còn lại hoàn thành tâm nguyện duy nhất trước khi chết.

    Tính cách chàng cực kỳ cô độc cứng rắn, không thèm nghe yêu đạo yêu nữ nói gì nữa, chuyên tâm nhất trí vào việc di động hữu thủ, thò tay vào trong bọc, động tác đơn giản này trong tình cảnh như vậy lại giống như trải qua trăm đời kiếp nạn mới làm xong.

    Tuy chàng lập tâm không nghe, nhưng vẫn không ngăn được thanh âm của Giang Lăng Hư truyền vào tai: "Nghe nói gần đây đế hậu xảo thi diệu kế lấy được Thiên Tâm ngọc bội từ trong tay cha con An Thế Thanh, không biết có phải đế hậu vẫn mang theo bên mình hay không?".

    Yến Phi mò thấy bình đồng mừng như bắt được vàng, nghe lời này liền minh bạch, chẳng trách Thái Ất giáo và Thiên Sư đạo lưỡng phương nhân mã đều muốn kiếm An Thế Thanh, đều vì Thiên Tâm bội nguyên lai nằm trong tay lão ta, hiện tại phu phụ Nhậm Dao đã biết hết bí mật của Thiên, Địa, Nhân tam bội, nếu có thể giết chết Yến Phi và Lưu Dụ, coi như một mình nắm giữ bí mật.

    Cha con An Thế Thanh cũng vì chuyện này mà tìm tới Biên Hoang Tập. Trong đầu bất giác lại xuất hiện cặp mắt đẹp đẽ sâu thẳm, thống khổ trong thân thể đã giảm đi đôi chút. Cái bình nhỏ từ trong lòng bắt đầu thò ra ngoài.

    Thanh âm của Thanh Thị duyên dáng cười: "Tin tức của Giang giáo chủ linh thông, có Thiên Tâm bội trên người người ta hay không, chỉ cần ngươi bắt được nô gia, lục soát kỹ càng chẳng phải là biết rõ ràng hay sao?".

    Ngôn ngữ lời nói của ả mang theo liên tưởng, đầy ý vị dâm tà, biểu thị lấy làm sung sướng bị đối phương mò mẫm trên thân thể, tràn trề dụ hoặc. Yến Phi biết ả đang muốn khêu gợi lòng hiếu sắc của Giang Lăng Hư để dễ dàng có thể thừa cơ lợi dụng.

    Nào ngờ Giang Lăng Hư không trúng kế, cười nói: "Bớt nói lời thừa đi, ngươi nghĩ Giang Lăng Hư ta là đứa trẻ lên ba hay sao? Cứ tìm trên xác ngươi chẳng phải cũng thế hay sao?". Thanh Thị cười yểu điệu: "Đã thế thì sao Giang giáo chủ lại còn hoa ngôn xảo ngữ, đừng nói nữa mà động thủ đi có hơn không?".

    Câu này khiến Yến Phi trong lòng nghi hoặc, coi trước đó Giang Lăng Hư khí thế dời non lấp bể, công kích xa đội, đại khai sát giới, trước mắt không có lý do gì không tốc chiến tốc quyết, một đòn đánh chết địch nhân.

    Bàn tay chàng từ từ đưa đồng bình lên miệng, một cảm giác tê dại rã rời không chịu nổi bò lan khắp bàn tay phải, suýt nữa làm chàng bỏ cuộc, rồi cứ thế nhắm mắt chết đi.

    Đương nhiên chàng không thể làm thế, bằng không chẳng hóa để cho nữ nhân lòng lang dạ sói kia chiếm đoạt bửu bối sao, bèn vận dụng ý chí vô thượng, cực nhọc kháng cự lại hàn độc đang gặm mòn tâm linh, quyết không nhượng bộ, thu gom chút tàn lực cương quyết đưa hữu thủ hướng vào miệng.

    Giang Lăng Hư hừ lạnh nói: "Lại còn muốn vờ vĩnh hay sao, Mạn Diệu ngươi sao còn chưa đứng dậy cho ta nhờ".

    Lão nói như vậy Yến Phi lập tức hiểu rõ đúng là Mạn Diệu phu nhân sau khi phóng ra yên hoa tín hiệu bèn giả vờ hôn mê dẫn dụ Giang Lăng Hư, nhưng vẫn còn một nghi hoặc lớn, nếu hai người họ liên thủ ứng địch không sợ Giang Lăng Hư, vì sao lại để yên cho Giang Lăng Hư giết sạch giáo chúng bên mình?

    Cách giải thích duy nhất là bọn họ không đủ tự tin, mà Nhậm Dao lại ở gần bên.

    Một tràng cười êm ái có thể khiến bất kỳ nam nhân nào tiêu hồn thực cốt vang lên, chính là thanh âm líu lo ngọt ngào của Mạn Diệu phu nhân, vì đã thấy tư thế nằm quyến rũ của thị, Yến Phi có thể hình dung trong đầu những cử chỉ hành động yêu mị của thị. Không kềm được lại kỳ quái làm sao mình đang trong tuyệt cảnh lửa thiêu nước ngập mà vẫn nghĩ đến những chuyện ấy, chính trong thời điểm này, chàng cảm giác hữu thủ bắt đầu hữu lực.

    Yến Phi hết sức phấn chấn, lấy ngón cái cạy đi lớp xi bọc ngoài, dùng tận lực bật nắp đồng gắn trên miệng bình.

    Lòng nghĩ thành công hay thất bại chính là lúc này.

    Chàng tự mình biết mình, trong tình huống này muốn bật nắp bình chỉ có được hai ba phần thành công.

    Kỳ tích phát sinh.

    Đúng lúc chàng phá đi lớp xi niêm phong nắp bình, bình đồng đang lạnh lẽo hốt nhiên hóa thành nóng rực, đối với chàng lúc này mà nói, giống như trao cho người trong đống băng tuyết một nắm than hồng, dễ chịu không biết đến đâu mà kể.

    Nhiệt lực tựa hồ không ngừng kịch liệt gia tăng, bên trong bình tựa hồ có một thứ lực lượng phát ra muốn làm bật tung nắp đậy, cực kỳ quái dị.

    Ba người trong chùa tuy vẫn đang đối thoại, nhưng không có tới nửa câu lọt vào tai chàng, toàn tâm dùng hai ngón tay giúp Đan kiếp trong bình cố sức tháo bỏ nắp bình. "Bốc" một tiếng, nắp bình vọt lên cao, ngay sát cánh mũi chàng, tiếp đó một luồng nhiệt khí cường liệt đến mức nghẹt thở ập vào mặt.

    Sự thực Yến Phi đã như ngọn đèn khô dầu, đâu dám do dự, chẳng quản gì nữa dùng hết sức tàn đem Đan kiếp trong bình đổ ộc vào miệng.

    "Keng!".

    Bình đồng trước tiên rơi xuống ngực chàng, rồi văng xuống đất, đồng và đá va vào nhau phát ra âm thanh.

    Âm thanh của Giang Lăng Hư quát lên: "Thì ra Nhậm giáo chủ giá lâm, chẳng trách hai người này có chỗ dựa không sợ hãi gì, thứ cho Giang mỗ không rảnh bồi tiếp".

    Yến Phi thầm kêu lầm, tuy nhiên chẳng thể có phản ứng gì, chàng không cảm thấy có đan hoàn nào, chỉ có một luồng hỏa nhiệt trôi tuột vào miệng, rồi như có hàng trăm hàng ngàn cột lửa khuếch tán ra toàn thân, khắp người hàn nhiệt giao kích, cái cảm giác khó chịu này mà đem những thống khổ vừa rồi ra so sánh thực không đáng kể gì.

    "Oanh!".

    Nóng lạnh bốc cao cực điểm, thân thể tựa như núi lửa phụt lên đồng thời với băng tuyết đổ sụp, lập tức mắt nổ đom đóm, chẳng biết sao lại không hôn mê, những luồng khí nóng lạnh lấy chàng làm trung tâm tống ra ngoài như gió bão, cây cối xung quanh bật rễ, cái bình đồng nhỏ và nắp bình cũng bị cuốn ra xa.

    Bỗng nhiên toàn thân khi hàn khi nhiệt, bất luận lửa thiêu hay giá buốt đều như muốn ngay lập tức đẩy chàng vào tình trạng tê liệt.

    Một khắc sau, Yến Phi mới phát giác đã từ dưới đất bắn vọt lên, thân thể chàng không chịu để ý chí kiểm soát, rú lên một tiếng, ngay tức khắc vọt chạy cuồng dại, giống như đã phát điên.

    Phút chốc đã chạy xa tít tắp, so với ngựa phi còn nhanh hơn.


  9. #38
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 38

    Hỏa băng dị tượng
    Kinh Châu, Giang Lăng, phủ thứ sử.

    Hoàn Huyền lưng đeo Đoạn Ngọc Hàn, vận y phục võ sĩ, đang tiếp đãi Giang Hải Lưu vừa chạy trối chết từ Kiến Khang về, hai người trải chiếu ngồi trên mặt đất, Giang Hải Lưu tường thuật tỉ mỉ tình hình Kiến Khang.

    Tin chiến thắng Phì Thủy truyền tới Giang Lăng cách đây một canh giờ, khiến toàn thành rung động, Hoàn Huyền lập tức hạ lệnh cho thủ hạ chư tướng tập kết binh lực, chuẩn bị hôm sau xuất quân, một phen khôi phục đất đai bị mất ở phía bắc.

    Nghe đến đoạn Tạ An gật đầu đồng ý để mình kế thừa ngôi vị Đại tư mã, Hoàn Huyền ngầm thở phào, mỉm cười nói: "Ông ta là người hiểu biết mà".

    Lại quay qua Giang Hải Lưu nói: "Hải Lưu ngươi vì chuyện này mà bôn tẩu vất vả, Hoàn Huyền ta hết sức cảm kích, tuyệt sẽ không quên".

    Giang Hải Lưu khẽ cười nói: "Nam quận công... úi, phải là Đại tư mã, đối với Giang Hải Lưu ta luôn ủng hộ, hiện giờ có cơ hội vì Đại tư mã tận tâm, ta sao có thể không tận tâm tận lực".

    Hoàn Huyền vui mừng nói: "Hoàn gia chúng ta xưa nay không hề coi Hải Lưu ngươi như người ngoài, chỉ cần ta ngày nào còn nắm quyền, có thể bảo đảm Đại Giang bang tiếp tục phát triển, chúng ta họa phúc cùng hưởng. Được! Tạ An bức ngươi cắt đứt giao dịch với Tôn Ân, ngươi nghĩ sao? Không cần cố kỵ gì, cái gì cũng có thể nói ra".

    Giang Hải Lưu ủ rũ nói: "Nói thực thì chỉ thị của An công khiến ta vô cùng khó xử. Đối với Tôn Ân ta không có chút hảo cảm nào, bất quá hắn khống chế phần lớn việc mua bán muối ở vùng duyên hải, trước nay không phải nạp thuế muối nên hết sức tiện lợi, đối với tài lực của bổn bang là rất quan trọng. Đây lại không phải là nguyên nhân tối trọng yếu, mà nếu để Tôn Ân câu kết với Nhiếp Thiên Hoàn, thì đối với Đại Giang bang tổn hại mới thực là không thể kể hết".

    Hoàn Huyền hừ lạnh một tiếng, lầm bầm: "Nhiếp Thiên Hoàn!", rồi nhìn xoáy vào Giang Hải Lưu nói: "Ngươi định làm thế nào với lời cảnh cáo của ông ta?".

    Giang Hải Lưu trầm ngâm một lúc, thở dài: "An công nói rằng nếu đánh lui Phù Kiên, sẽ thừa thế thu thập Tôn Ân, nói thực ra ta vô cùng tôn trọng An công, lão nhân gia đã nói ra lời, ta rất khó có thể làm ngược với tâm ý của người. Hơn nữa trong bổn bang trên dưới đều coi người như thần minh, chúng ta không thể nào công khai đối địch với ông ta, chỉ có thể tìm biện pháp khác".

    Tiếp đó nói giọng thăm dò: "Đương nhiên phải coi ý định của Đại tư mã".

    Hoàn Huyền trầm giọng nói: "Đối với Tạ An ta cũng phần nào tôn kính, Hải Lưu làm vậy cũng hợp tình hợp lý, ta vừa mới đăng vị Đại tư mã, còn cần một thời gian củng cố lòng tin của quân dân Kinh Châu, may sao cơ hội đang có trước mắt, chờ đến khi ta thu lại Tương Dương và hơn mười tòa thành, lập tức huy động quân mã vào Ba Thục, đoạt lấy Mạc Trung, bắc hiếp Quan Trung, xóa bỏ họa căn phía tây từ Lị Châu".

    Giang Hải Lưu ngầm thở phào, hắn hiện tại sợ nhất là Hoàn Huyền bắt hắn công nhiên đối kháng với Tạ An, để Tạ An phẫn nộ, Đại Giang bang của hắn chắc chắn gặp phải tai ương. Tạ Huyền với uy thế đánh bại trăm vạn quân Phù Kiên, bây giờ ai dám cùng ông ta tranh phong? Cho dù mạnh như Hoàn Huyền, cũng không dám phô trương tài năng, phải chĩa mũi dùi về phía Xuyên Thục.

    Gật đầu nói: "Có chỉ thị này của Đại tư mã, Hải Lưu minh bạch rồi!".

    Hoàn Huyền trong bụng đã có tính toán nói: "Chú cháu Tạ An càng thêm phong quang, huynh đệ Tư Mã Diệu đối với ông ta càng thêm đố kỵ, những ngày huy hoàng của bọn họ không còn được mấy nữa, chúng ta trước hãy củng cố Kinh Châu vững mạnh, sau đó yên tâm chờ thời".

    Giang Hải Lưu nói: "Bất quá nếu để quá lâu, để Nhiếp Thiên Hoàn lớn mạnh, trở thành uy hiếp Kinh Châu ở mặt sau, đối với chúng ta sẽ hết sức bất lợi".

    Hoàn Huyền cười nhẹ: "Xưa kia chúng ta vì ứng phó bắc phương uy hiếp, lo lắng ngược xuôi, mới không rảnh tay nhìn đến phương nam một dải lưỡng hồ, để cho Nhiếp Thiên Hoàn xưng vương xưng bá, đến mức không thèm để Hoàn gia chúng ta trong mắt". Tiếp đó song mục lóe lên dữ dội, lạnh lùng nói: "Kẻ nào dám đối đầu với Hoàn gia ta, ta sẽ khiến cho hắn phải hối hận đã sinh ra trên đời. Đối với Lưỡng Hồ bang, ta đã có kế hoạch chu toàn, dẫu có để Nhiếp Thiên Hoàn đắc ý nhất thời cũng có sao?".

    Giang Hải Lưu chợt nghe lòng lạnh buốt, hắn rất quen thuộc với tác phong và thủ đoạn hành sự của Hoàn Huyền, trước kia mọi sự đều phải nghe lời Hoàn Xung, cố nhiên không thể không kềm nén bản thân. Hiện tại Hoàn Xung đã mất rồi, quân chính đại quyền Kinh Châu đã rơi vào tay y, tính cách nghịch ngã giả vong liền bộc lộ không còn cố kỵ gì. Lời này tuy là nhằm vào Nhiếp Thiên Hoàn, nhưng mà cũng là để cảnh cáo bản thân mình không được có dị tâm.

    Hoàn Huyền lại quay sang nhìn hắn, nét mặt đã trở lại bình thường, nhạt giọng nói: "Tạ An lần đó gọi ngươi tới Tần Hoài lâu, chỉ để thuận tiện cảnh cáo ngươi một câu, mục đích chân chính là Di Lặc giáo có đúng không?".

    Giang Hải Lưu chỉ biết gật đầu.

    Hoàn Huyền ung dung nói: "Để ta khuyên ngươi một câu, các ngươi mua bán làm ăn, tốt nhất đừng tùy tiện đắc tội với ai, làm sao mà mọi phía chu toàn, mới có thể mở mang bốn phía. Nói cho cùng Kiến Khang vẫn là thiên hạ của huynh đệ Tư Mã Diệu, ngày nào ta còn chưa gật đầu, Tạ Huyền dù có Bắc Phủ binh trong tay cũng không dám tạo phản".

    Giang Hải Lưu nhíu mày: "Ý của Đại tư mã...".

    Hoàn Huyền cắt lời hắn: "Ta hy vọng ngươi hiểu rõ cái đạo minh triết bảo thân, đừng để bị lôi cuốn vào cuộc đấu giữa Tạ An và huynh đệ Hoàng thượng. Nếu không một khi Tạ An thất thế sẽ đến lượt ngươi thất thế, ta với Tạ Huyền đều là nước xa không cứu được lửa gần, rất khó bảo vệ nghề nghiệp của ngươi ở Kiến Khang. Tư Mã Đạo Tử gian tặc chỉ cần chỉ thị cho Vương Quốc Bảo làm khó ngươi, đủ để ngươi ăn không ngon ngủ không yên, điều ta muốn nói chỉ là thế thôi, còn lại do ngươi tùy tiện châm chước mà làm".

    Trái tim Giang Hải Lưu chìm hẳn xuống, hiểu rõ bây giờ không còn là thời gian cùng Tạ An và Hoàn Xung giao hảo mọi người cùng vui nữa, mà đã đến lúc phải xác định rõ lập trường.

    Hoàn Huyền tuy chỉ nói sơ sơ, nhưng đằng sau lại chứa đựng một lời cảnh cáo nghiêm trọng.

    Gượng cười nói: "Hải Lưu minh bạch rồi!".

    ° ° °

    Nhậm Dao, Thanh Thị và Mạn Diệu ba người đứng ở chỗ vừa nãy Yến Phi còn nằm đó, không dám tin vào cảnh tượng kỳ dị đáng kinh ngạc trước mắt.

    Mặt đất một vùng cháy đen, giống như bị một trận hỏa thiêu ghê gớm, hoặc như bị sấm sét từ trên trời giáng xuống, cả một khuôn viên chừng một trượng, một ngọn cỏ không còn, đất đá ám khói, mà còn ghê người hơn là phía ngoài vùng đất bị thiêu rụi này bất luận là cây cỏ bùn đất gì đều đóng băng trắng xóa, giống như một giải băng bán kính nửa trượng vây xung quanh một vùng đất cháy xém.

    Ba người chẳng những chưa bao giờ thấy qua cảnh tượng kỳ dị đáng sợ như thế, cũng chưa từng liên tưởng đến, đương nhiên không cách nào suy đoán được thật ra đã phát sinh chuyện gì.

    Thanh Thị hoa dung ảm đạm ngón tay chỉ vào trung tâm miếng đất cháy xém nói: "Yến Phi vừa nãy là nằm ở chỗ đó".

    Nhậm Dao nhìn về phía tây nam, có một mảnh rừng tùng um tùm rậm rạp, hiện tại lại xuất hiện một khoảng hở đủ một người chui lọt, cành rơi lá rụng, hiển nhiên bị người dùng khí công cực kỳ lợi hại đánh vào, kỳ lạ là trên mặt đất không thấy có dấu chân nào.

    Mạn Diệu hít một hơi chân khí nói: "Chẳng lẽ Yến Phi vì chết quá thảm hóa thành lệ quỷ?".

    Thanh Thị run giọng nói: "Đừng dọa ta!" Thầm nghĩ nếu Yến Phi biến thành quỷ đòi mạng, chắc chắn người đầu tiên hắn không chịu bỏ qua chính là bản thân mình. Trong ba người, Nhậm Dao bình tĩnh nhất, nhìn Thanh Thị nói: "Ngươi khẳng định hắn đã trúng phải Tiêu Dao khí của ngươi chứ?".

    Thanh Thị vẫn còn kinh hồn bất định nói: "Muội lại không dám khẳng định". Nhậm Dao thở dài: "Tên này đúng là thần bí khôn lường, nếu không phải vì hắn gây tiếng động, Giang lão yêu lần này khó tránh được kiếp số".

    Nguyên y trúng thương chuồn khỏi Trữ gia trấn, tìm nơi yên tĩnh trị thương, sau khi hồi phục lại toàn tốc đuổi theo xa đội, lại còn tới trước Yến Phi, đến lúc phát giác xa đội bị tập kích, theo ám ký Mạn Diệu lưu lại tìm được thị, sai thị phóng hỏa tiễn tín hiệu dụ Giang Lăng Hư đến, muốn bằng lực lượng ba người đột kích Giang Lăng Hư, lại bị Yến Phi thần xui quỷ khiến phá hoại kế hoạch, dọa Giang Lăng Hư chạy mất. Ba người bèn tìm Yến Phi trút hận, nào ngờ tìm tới lại thấy cảnh tượng này.

    Nhậm Dao coi tình thế quyết định: "Thanh Thị ngươi phụ trách hộ tống Mạn Diệu đi Kiến Khang, ta phụ trách việc truy sát Yến Phi, dù hắn có hóa thành lệ quỷ ta cũng có biện pháp khiến cho hắn vĩnh viễn không thể siêu sinh".

    ° ° °

    Tư Mã Đạo Tử nổi giận đùng đùng trở về vương phủ, đi theo y từ nội cung về còn có hai kẻ tâm phúc Vương Quốc Bảo và Cô Thiên Thu.

    Ba người vào thẳng nội đường, chia chủ khách ngồi xuống.

    Tư Mã Đạo Tử vỗ một chưởng vào chiếc ghế nhỏ bên cạnh, giận dữ nói: "Chiến tranh còn chưa có kết quả tối hậu, hoàng huynh việc gì mà phải vội vã không chờ được đã phong cho Tạ An cái gì đấy Lư Lăng quận công, Tạ Huyền làm Khang Lạc huyện công, Tạ Thạch làm Nam Khang huyện công, Tạ Diễm làm Vọng Tế huyện công, một nhà tứ công, đương thế không ai bằng. Nếu như Phù Kiên dùng đại quân Biên Hoang Tập phản kích, lại vượt Hoài Thủy, Tạ An cũng không giữ nổi nửa mảnh giang san cho hoàng huynh, chẳng lẽ hoàng huynh lại phải vội vàng đoạt lại những thứ phong thưởng này sao. Ài! Tác phong làm việc của hoàng huynh thật khiến người ta khó hiểu".

    Vương Quốc Bảo nhíu mày nói: "Theo đạo lý thì Hoàng thượng phải hiểu Tạ An được sủng ái sinh kiêu ngạo chứ, rõ ràng vừa mới sai thủ hạ khinh rẻ ăn hiếp Nguyên Hiển công tử, nên có sự đề phòng mới đúng".

    Tư Mã Đạo Tử không tức giận mà nói: "Chuyện này không cần phải nói, ông ấy trước đó gặp Tạ An tự đã chuyển lời cảnh cáo ta, nói ta cần quản giáo nhi tử cho tốt, khiến ông ấy bực mình gần chết".

    Cô Thiên Thu nói giọng the thé: "Vương gia xin chớ giận, Hoàng thượng vì chiến thắng Phì Thủy tới quá đột ngột, đạt được lại không dễ chút nào, cho nên tâm tình hưng phấn, mừng vui lộ ra ngoài, cho nên mới sinh lòng cảm kích đối với Tạ An. Một khi nhiệt tình đối với chiến thắng giảm đi, không thể không trở lại với đủ loại vấn đề hiện thực, đến khi đó lời vương gia nói ra nhất định Hoàng thượng sẽ nghe hết".

    Tư Mã Đạo Tử hồi phục vẻ lạnh lùng, trầm ngâm nói: "Thánh dụ phê văn của Hoàn Huyền để cho Hoàn Huyền kế thừa Đại tư mã đã gửi đi rồi, Tạ Huyền và Hoàn Huyền lâu nay bất hòa, làm sao Tạ An trong chuyện này lại làm ngược lại ủng hộ Hoàn Huyền, khiến mọi người nghĩ đến nát óc cũng không hiểu. Cho dù sợ Hoàn Huyền khởi binh làm loạn, hoàn toàn có thể kéo dài sự việc, đợi đến khi với Phù Kiên thắng phụ phân minh mới nghĩ biện pháp, các ngươi nghĩ thế nào về chuyện này?".

    Vương Quốc Bảo song mục lóe thần sắc đố kỵ, lưỡng Huyền bất hòa là chuyện ở Giang Nam ai nấy đều biết, còn quan hệ giữa Tạ An và Hoàn Huyền càng thêm căng thẳng, hai người từng lời qua tiếng lại trong một trường yến hội, khơi lên một trận nhiệt náo không hay ho gì.

    Gật đầu nói: "Tạ An với tác phong xưa nay luôn bênh vực điều sai trái của mình, lý ra phải đợi đánh lui Phù Kiên xong, đưa Tạ Huyền lên ngôi vị Đại tư mã, đến lúc ấy Tạ gia càng có thể muốn làm mưa làm gió gì thì làm".

    Cô Thiên Thu cười gian xảo: "Theo ta thấy Tạ An muốn tỏ rõ lập trường với Hoàng thượng, ngầm báo rằng ông ta không hề tham tâm đối với quyền lực, Tạ gia của ông ta không thèm gì cái chức Đại tư mã".

    Tư Mã Đạo Tử hừ lạnh: "Như vậy cũng có thể ông ta dùng kế sách lấy thoái để tiến".

    Cô Thiên Thu cười âm u: "Tạ An thâm mưu viễn lự, có ý tưởng này tuyệt không có gì lạ, tuy nhiên ông ta lại có một khuyết điểm lớn, nếu chúng ta biết cách lợi dụng, có thể dễ dàng lật đổ ông ta".

    Cô Thiên Thu trong đám thủ hạ tâm phúc của Tư Mã Đạo Tử là người túc trí đa mưu nhất, đầy bụng gian xảo. Tư Mã Đạo Tử nghe nói, mừng rỡ nói: "Sao còn chưa nói cho ta nghe!".

    Cô Thiên Thu cố ý ngập ngừng: "Khuyết điểm của Tạ An là ông ta có thói xấu của đám danh sĩ Giang Tả, muốn truy cầu tinh thần tiêu dao tự tại, tự do phóng túng, không ngừng hoài niệm phương thức sinh hoạt cái thời thoái ẩn Đông Sơn ngày xưa. Chỉ cần chúng ta có cách đả kích ông ta một cú nặng nề, là dễ dàng khơi lên ý niệm thoái ẩn ở ông ta, lúc đó chỉ cần Hoàng thượng không mời ông ta ở lại nữa, chắc chắn ông ta chán nản mọi chuyện. Đến khi đó Kiến Khang coi như là thiên hạ của vương gia, người muốn đối phó ai thì đối phó, kẻ nào dám phản đối?".

    Tư Mã Đạo Tử nhăn mặt nói: "Trong không khí hiện giờ, chúng ta nếu khinh cử vọng động, sẽ khiến hoàng huynh không vui, đến lúc đó kẻ mang tội không phải là ta sao?".

    Cô Thiên Thu đã tính toán sẵn: "Chỉ cần ta lập mưu xong mới hành động, khiến Tạ An không tìm ra cái gì có liên quan với chúng ta, tuy ông ta biết rõ có dính dáng đến chúng ta, nhưng vô phương chứng minh, kỳ diệu nhất là chuyện này đối với Hoàng thượng mà nói chẳng đi đến đâu cả, khiến cho Tạ An tiến đã không được, chỉ còn cách buồn đau xin rút thôi".

    Vương Quốc Bảo nói: "Cô đại nhân đừng có úp mở nữa có được không? Có gì cứ nói phăng ra đi, coi xem có thể làm được hay không".

    Cô Thiên Thu nhạt giọng nói: "Giết Tống Bi Phong!".

    Tư Mã Đạo Tử và Vương Quốc Bảo hai người trợn mắt nhìn nhau, Tống Bi Phong là tùy bộc thân cận của Tạ An, giết hắn coi như trực tiếp vuốt râu hùm, hậu quả khó lường.

    Vương Quốc Bảo lắc đầu nói: "Hoàng thượng vừa trách mắng vương gia, bắt vương gia quản giáo Nguyên Hiển công tử, ngoảnh đi ngoảnh lại chúng ta đã đi giết Tống Bi Phong, vương gia biết nói năng với Hoàng thượng ra sao đây?".

    Cô Thiên Thu nói: "Điểm tế nhị chính là ở đấy, bản thân Tống Bi Phong là nhân vật chẳng ra đâu vào đâu cả, nhưng đối với Tạ An lại có ý nghĩa trọng đại. Người của chúng ta hoàn toàn nằm ngoài chuyện này, an bài cho kẻ khác xuất thủ, lại bố trí thành cục diện giang hồ quyết đấu công bình, như vậy Hoàng thượng làm sao trách tội vương gia được, Tạ An thì giống như người câm nuốt hoàng liên, có đắng cũng chỉ mình biết thôi".

    Tư Mã Đạo Tử thở dài một hơi, nói: "Tống Bi Phong tuy thân phận thấp kém, nhưng kiếm pháp thuộc hạng nhất, ngoảnh đầu nhìn lại Kiến Khang, ngoài ta và Quốc Bảo ra, chỉ e không ai là địch thủ của hắn. Nếu muốn giết hắn, tất phải dùng biện pháp vây công phục kích".

    Vương Quốc Bảo cũng gật đầu: "Cho dù có người như thế, nếu dám giết chết Tống Bi Phong, không cần nói đến Tạ An, Hoàng thượng chắc chắn sẽ không tha cho hắn". Cô Thiên Thu vui vẻ nói: "Vậy thì để ta thỉnh xuất một người mà Hoàng thượng cũng không dám giáng tội, mà võ công lại cao hơn Tống Bi Phong thì sao?".

    Tư Mã Đạo Tử giật mình: "Tiểu Hoạt Di Lặc!".

    Cô Thiên Thu chầm chậm gật đầu nói: "Ngày mai Trúc Lôi Âm sẽ lên đường nghênh đón Trúc Bất Quy đại sư của chúng ta, người này võ công chỉ xếp sau Đại Hoạt Di Lặc , so với ni Huệ Huy cũng xấp xỉ, với công phu của lão nhân gia người, chỉ cần đáp ứng xuất thủ, Tống Bi Phong tất chết".

    Vương Quốc Bảo phấn khởi nói: "Chính xác là một kế hoạch toàn vẹn, chỉ cần chúng ta sắp xếp cục diện khéo léo, giả trang thành Tống Bi Phong kể tội Tiểu Hoạt Di Lặc, Tạ An cũng không thể có lời nào mà nói".

    Tư Mã Đạo Tử vẫn còn do dự.

    Cô Thiên Thu khua lưỡi động viên: "Kế này vạn vô nhất thất, cộng thêm chúng ta lập tức xui mỹ nhân tuyệt sắc bên mình Hoàng thượng kể lể Tạ An đúng là công cao lấn chủ, tất có thể làm vương gia toại nguyện".

    Vương Quốc Bảo không hiểu rõ: "Cái gì tuyệt sắc mỹ nhân?".

    Hai người kia không lý gì đến hắn, Tư Mã Đạo Tử nhìn Cô Thiên Thu nói: "Thiên Thu suy nghĩ chu toàn, kế này xác thực có thể tiến hành. Bất quá nếu Tống Bi Phong bị giết, sẽ kinh động toàn thể Tạ gia, Tạ Huyền nắm chặt binh quyền Bắc Phủ quân, nếu đem chuyện này làm lớn ra, đại kế của chúng ta dẫn tiến tân giáo có khả năng giữa đường đứt gánh, mà Bất Quy đại sư có thể không còn đường quy hồi bắc phương, chúng ta sẽ ăn nói làm sao với Đại Hoạt Di Lặc?".

    Cô Thiên Thu ung dung giải thích: "Tạ An đưa Hoàn Huyền lên vị trí Đại tư mã, thực là xe dây tự trói, có Hoàn Huyền kềm chế Tạ Huyền, y dù có Bắc Phủ binh trong tay, cũng không dám vọng động. Quan trọng hơn là tâm trạng chán nản của Tạ An, nếu phát sinh chuyện này, Hoàng thượng lại dung túng Bất Quy đại sư, tôi dám khẳng định là Tạ An chỉ còn một đường cáo thoái, tuyệt không có khả năng thứ hai".

    "Phanh!" Tư Mã Đạo Tử vỗ một chưởng lên mặt ghế, lạnh lùng nói to: "Cứ thế mà làm!".

    ° ° °

    Tạ An giữa buổi yến tiệc trong cung cáo lui, Tư Mã Diệu mừng vì không có ông bên cạnh giám thị càng có thể phóng lãng hình hài, lập tức ưng chuẩn.

    Tạ An trước tiên tiễn Vương Thản Chi về Vương phủ, lúc này toàn bộ con đường hẻm Ô Y đã bị không khí hoan lạc bao trùm, các hộ hào môn giăng đèn kết hoa, mọi nhà đều mở toang cửa lớn, chẳng những để cho khách nhân vào ra thoải mái, mà còn lo cả danh tửu mỹ thực, dù đã quá canh hai, nhưng không ai chịu ngoan ngoãn về nhà đi ngủ, đặc biệt là đám người trẻ tuổi, nam thì mũ áo kỳ dị, nữ thì trang điểm lộng lẫy, tụ thành đàn thành lũ đi lại như thoi đưa giữa các phủ, vui đùa thoải mái trên đường phố, thật hết sức náo nhiệt.

    Lại thêm tiếng trống tiếng nhạc vang lừng từ những ngôi nhà lớn, ca vũ bất tuyệt, so với trước đó người người lo lắng, nhà nhà cửa đóng then cài, đến cuối ngày tình trạng ngược lại thật sự cuồng nhiệt, cho dù có ai trải qua hai cảnh này cũng khó lòng tưởng tượng được.

    Xe ngựa của Tạ An đến đâu, người người hò hét vỗ tay, một lũ tiểu hài đuổi theo đằng sau xe, không có nơi nào không được hoan nghênh nhiệt liệt.

    Bất quá ra vào hẻm Ô Y vẫn do vệ binh canh giữ, chỉ để cho cao môn tử đệ ra vào, nhân sĩ hàn môn nhất luật nghiêm cấm tiến vào, phân biệt rõ ràng.

    Nhiệt náo trong Tạ phủ tưng bừng chưa từng thấy, gồm có con cháu Tạ An các đời hơn trăm người, tất cả tụ tập ở đại quảng trường trước phủ xem pháo hoa, trước cổng treo hàng trăm đèn hoa, cộng thêm hàng trăm người tiến vào trong phủ để chúc mừng Tạ An biểu lộ cảm kích, chen chúc nhau trong quảng trường đến nước chảy không lọt.

    Vừa tiến vào cổng phủ, lập tức bùng lên tiếng hò hét, không ngừng hô to "An công", người nào người nấy tranh nhau nhìn ngắm phong thái của vị đại công thần vừa thắng trận này.

    Tâm tình Tạ An lại rất nặng nề, Tư Mã Đạo Tử giữa đường phất tay áo bỏ đi, là triệu chứng hết sức không hay.

    Tại thời khắc này, Tạ gia uy phong đã lên đến cực điểm, có thể bao quát toàn bộ kết cục của tất cả quyền thần trong chính quyền Giang Tả, không lập công lại tốt hơn lập công, lập công nhỏ tốt hơn lập công to, nhưng khi Phù Kiên nam lai, ông không có chọn lựa nào, lập nên đại công, lại là đại công hiển hách từ cổ chí kim chưa từng có.

    Hậu quả đúng là không dám tưởng tượng.

    Tạ An sau khi rời Đông Sơn ra làm quan, những gì phong lưu tiêu sái, thẳng thắn lỗi lạc của một thời quá khứ sống ẩn dật đã không thể trở lại, bề ngoài phóng đạt tiêu dao, bên trong trái tim sâu thẳm lại chứa đầy tình cảm đau buồn về thời thế, lại phải chịu đựng trọng trách tinh thần chèo chống trong cả một thời kỳ lâu dài nội loạn ngoại hoạn, chém giết chết chóc. Tại thời khắc này, niềm vui chiến thắng cuồng nhiệt cùng nỗi lo lắng không cùng cho tương lai Đại Tấn cùng ập đến khiến ông không thể cùng ai chia sẻ nỗi lòng phức tạp.

    Nếu được lựa chọn, hẳn ông sẽ xa rời chốn náo nhiệt trước mắt, tránh đến chỗ Thiên Thiên trên Vũ Bình đài, yên lặng nghe nàng gảy đàn ca hát, cạn vài ly mỹ tửu. Đương nhiên ông không thể thoát thân ly khai, trong khi quần chúng chờ đợi, ông phải cùng vui với họ.

    Tống Bi Phong dẫn một đám tùy tùng, căn bản không có cách nào nâng đỡ thị hầu ông xuống xe.

    Chiếm vị trí có lợi là một đám con cháu Tạ gia, hùa nhau từng đoàn từng đoàn vây quanh xe ngựa, do Tạ gia đệ nhất mỹ nữ, tuổi tròn mười tám, con gái yêu của Tạ Huyền, Tạ Chung Tú, cùng một thiếu nữ cực kỳ xinh đẹp cũng cùng trang lứa đang giúp nàng mở cửa xe.

    Tạ An vừa đặt chân xuống đất, đám thiếu niên nam nữ hơn trăm người đồng thanh thi lễ kêu lớn: "Kính chào An công!" Tiếp đó hoàn toàn không gò bó nói nói cười cười, mọi người khắp tứ phía nhao nhao chào hỏi, làm bầu không khí vốn đã huyên náo lại càng huyên náo đến cực điểm.

    Một tiểu hài tử nhảy bổ vào Tạ An, lăn vào lòng ông, hét to: "Gia gia là đại anh hùng!". Tạ An ôm gã bế bổng lên, hài tử này tên là Tạ Hỗn, là con thứ ba của Tạ Diễm, đứa cháu yêu quý nhất của Tạ An, từ nhỏ nghi dung đẹp đẽ, phong thái bất phàm, đối với người giỏi thuật xem tướng như Tạ An mà nói, Tạ Hỗn là người Tạ gia hy vọng nhất kế thừa được Tạ Huyền.

    Tạ Chung Tú không chịu kém, chiếm hẳn một bên, túm chặt lấy tay ông.

    Tạ An hốt nhiên nhớ đến việc gả chồng sai lầm cho con gái, thầm nghĩ nhất định phải đề tỉnh Tạ Huyền, vì Tạ Chung Tú tuyển phu tế cần thận trọng, không thể theo vết xe đổ của ông rồi không kịp hối.

    Trong lúc này, ông đã quên hết những phiền não, trong lòng tràn trề cảm giác ấm áp thân tình, càng cảm kích quần chúng một lòng ủng hộ.

    Mục quang của ông chợt bắt gặp một đôi mắt đang sùng mộ tôn kính, nhìn ông không hề chớp của thiếu nữ xinh đẹp đã cùng Chung Tú giúp ông kéo cửa xe.

    Thầm nghĩ nữ tử này còn xinh đẹp hơn cả Tạ Chung Tú, cũng tuyệt không dưới Kỷ Thiên Thiên, vì sao mình hoàn toàn không có ấn tượng đã gặp nàng ta, coi nàng cùng con em trong phủ quen biết thân mật, đương nhiên là xuất thân khuê các.

    Tạ Chung Tú nói bên tai ông: "Thúc gia a, nàng là Vương Đạm Chân, Vương Cung chi nữ, nàng...".

    Quần chúng nhìn thấy Tạ An, hò hét vang trời, làm chìm lấp câu nói sau cùng của Tạ Chung Tú.


  10. #39
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 39

    Nam Bắc song hùng
    Yến Phi xông ra khỏi rừng cây rậm rạp, chạy như điên về đồng cỏ phía Biên Hoang, chẳng những chàng không có mục tiêu phương hướng, mà căn bản còn không biết mình đang làm cái gì, cũng không biết là mình đang chạy trên đường nữa.

    Linh giác tựa hồ rời bỏ thân thể đã trở thành chốn chiến trường để cho hỏa nhiệt và băng hàn tranh chấp kịch liệt, tâm thần chàng hoàn toàn bị tầng tầng lớp lớp những chuyện đâu đâu ùn ùn kéo tới chiếm cứ, không hiểu được những chuyện dính dáng với thân thể, linh hồn và nhục thể chẳng còn liên hệ gì với nhau.

    Tất cả đều biến thành tản mạn vô mục đích.

    Lúc bắt đầu, chàng phải chịu đựng hết nóng tới lạnh giày vò hành hạ.

    Đến lúc hỏa nhiệt từ Đan kiếp chiếm thượng phong, hàn khí do Nhậm Dao và Thanh Thị trút vào hoàn toàn nhượng bộ, do bị nhiệt khí thiêu đốt, miệng mũi phì ra toàn hơi nóng khét lẹt, toàn thân như phải bỏng, mọi thứ xung quanh biến đổi như chớp nhoáng, hít vào trong phổi không phải là không khí mát mẻ buổi sơ đông nữa mà là từng ngụm khói lửa, mồ hôi rịn ra từ những lỗ chân lông mau chóng bốc hơi bay đi hết. Chàng cảm thấy rõ uy lực vô biên của Đan kiếp đang làm cho sức sống của chàng dần tàn lụi, sắp sửa tiêu vong, ước muốn duy nhất là đến với dòng nước sông mát lạnh, vì vậy mới không ngừng chạy đôn chạy đáo, chỉ mong sao được trầm mình xuống nước.

    Tuy nhiên trong phút chốc hàn khí lại không biết từ chỗ nào tràn ra, nếu như liệt hỏa bị băng tuyết thay thế, mạch đập chậm lại, huyết dịch sợ lại bị lạnh cứng lại. Khi đó chàng chỉ nghĩ đến việc tiếp tục chạy đi, để tránh khỏi bị huyết dịch đóng băng, đợi đến lúc hỏa nhiệt quay trở lại.

    Sau không biết bao nhiêu lượt hết nóng lại đến lạnh, thân thể biến thành tê cứng, không còn chút cảm giác nào.

    Một câu chuyện cũ thời thơ ấu bỗng hiện lên trong đầu.

    Năm ấy chàng và Thác Bạt Khuê mới chừng mười một mười hai tuổi, Thác Bạt Khuê không biết từ đâu kiếm được một hũ rượu mạnh "Thiêu Đao Tử" của người Hán đưa về.

    Hai người trốn vào một nơi vắng vẻ vụng trộm thưởng thức, mấy ngụm đầu tiên như đốt cháy cổ họng, rồi tiếp tục uống thì thấy cảm giác càng nóng càng phấn khích, cuối cùng đã uống đến say mèm, nằm lăn trên đỉnh núi, ngủ qua một đêm. Trưa hôm sau mẫu thân với mọi người trong tộc mới tìm đến được.

    Yến Phi theo mẫu thân trở về lều, nghĩ rằng sẽ bị đánh đòn, không ngờ mẫu thân chỉ khư khư ôm chặt chàng trong lòng, yên lặng chảy nước mắt, không trách mắng chàng nửa câu.

    Câu chuyện này hiện tại lại hiện lên trong đầu, khiến Yến Phi chỉ muốn khóc to lên. Bỗng dưng linh hồn tựa như từ bầu trời đêm chợt trở về thân thể, không còn thấy nóng lạnh gì nữa, toàn thân bồng bồng bềnh bềnh.

    Lúc này chàng mới biết mình đang chạy như gió cuốn trên đồng hoang, còn nhanh hơn so với trước kia chạy hết tốc lực, mặt đất như bay vùn vụt về phía sau, tinh tú trên trời tựa như ùn ùn kéo tới trên đỉnh đầu.

    Một cơn mệt mỏi đến cùng cực xâm chiếm toàn thân, đầu óc có tiếng vang dội như sét đánh, rồi ngã sập xuống phía trước, lăn lộn liên tiếp tới hàng chục lần. Cuối cùng nằm ngửa, hôn mê trên mặt đất.

    ° ° °

    Trên trời, một bóng đen lướt qua dưới ánh trăng đêm.

    Lưu Dụ hưng phấn nói: "Chính là Thiên Nhãn của Khất Phục Quốc Nhân, Phù Kiên chắc cũng ở không xa".

    Tạ Huyền dẫn thủ hạ phóng lên một gò đất cao, sau đó hạ lệnh bố trận.

    Lưu Dụ hết sức nghi ngờ, thầm nghĩ mục đích chuyến đi này là truy sát Phù Kiên, cớ sao lại dừng ở đây bày trận chờ đợi, vậy là cả ngày trời đuổi theo hết tốc lực thành ra công cốc.

    Phía trước là một khu rừng cây thưa thớt, yên lặng như tờ, không có một tiếng động, xem ra ít khả năng có phục binh bên trong.

    Tạ Huyền điềm đạm nói: "Tiểu Dụ tới chỗ ta".

    Lưu Dụ y lời thúc ngựa đến đằng sau ông.

    Tạ Huyền ngước nhìn bầu trời trong veo sau khi Thiên Nhãn bay mất về phía bắc, nói: "Ánh trăng đêm nay thật đẹp!".

    Lưu Dụ lấy làm ngạc nhiên, gã vốn cho rằng Tạ Huyền sắp giải thích vì sao dừng lại, nào ngờ ông lại hân hoan thưởng thức vẻ đẹp ban đêm, thầm nghĩ bản sắc danh tướng, cuối cùng vẫn là danh sĩ.

    Tạ Huyền chợt nhẹ thở dài, nói: "Đêm nay hành động truy sát Phù Kiên của chúng ta kết thúc ở đây".

    Lưu Dụ càng ngạc nhiên, ngước mắt nhìn khoảnh trời Biên Hoang Tập khói đen cuồn cuộn, sau đó quan sát kỹ phương hướng Thiên Nhãn bay đi, ngơ ngác hỏi: "Phù Kiên bỏ Biên Hoang Tập, trốn về phương bắc".

    Tạ Huyền khen: "Ngươi rốt cuộc cũng phát giác có biến hóa, nói nghe, Phù Kiên vì sao bỗng nhiên thay đổi hướng đi? Trước đó y thẳng tới Biên Hoang Tập, một lòng một dạ biểu hiện rõ tâm ý muốn chuyển bại thành thắng".

    Lưu Dụ trầm ngâm một lát để tìm lời giải thích, nói: "Hoặc giả gặp tướng sĩ chạy trốn khỏi Biên Hoang Tập, biết Diêu Trường phản bội, biết việc không ổn, liền bỏ rơi Biên Hoang Tập chạy về phương bắc".

    Tạ Huyền mỉm cười phân tích: "Diêu Trường là người chủ sự Biên Hoang Tập, hắn đương nhiên không ngốc đến mức nói mình phản lại Phù Kiên, mà sẽ giả truyền thánh chỉ của Phù Kiên trước khi triệt thoái đốt cháy Biên Hoang Tập, lại thêm tin bại trận nhận được qua tín hiệu lửa khói cùng bại quân truyền về, lòng người hoang mang, người người vội vã trốn qua bờ bắc Tứ Thủy, còn ai hứng chí quay lại tìm Phù Kiên sống chết không rõ, lại còn làm sao biết được Phù Kiên chọn lộ tuyến nào đào tẩu?".

    Rốt cuộc Lưu Dụ cũng minh bạch, giật mình: "Là Mộ Dung Thùy?".

    Tạ Huyền lộ vẻ hài lòng trẻ con dễ dạy, gật đầu nói: "Chỉ có Mộ Dung Thùy mới có khả năng làm cho Phù Kiên chuyển bại thành thắng, hiện tại hy vọng hão huyền xoay chuyển tình thế đã tan như bọt nước, hai đại tướng xuất sắc nhất đã bỏ y mà đi, hai nhánh bộ đội kỵ binh còn lại duy nhất không bị tổn hại trong chiến dịch này làm một cú bỏ đi choáng váng, Phù Kiên không cách nào ngóc đầu trở lại nữa, chỉ còn cách vội vàng chạy trốn".

    Ngừng một chút lại nói: "Từ lúc lên đường đến giờ, ta luôn để ý đến bộ đội của Mộ Dung Thùy. Người này hùng tài đại lược, túc trí đa mưu, sớm đoán chúng ta sẽ thừa cơ Phù Kiên tình thế chưa ổn, làm một cú quyết định tốc chiến tốc quyết, vì vậy tất ẩn phục xung quanh, coi tình hình biến hóa mà có hành động thích hợp, nếu hắn có thể thừa cơ phục kích giết được ta, danh vọng của hắn sẽ được bổ sung rất nhiều, lại còn có thể làm tê liệt công cuộc bắc phạt của đại Tấn ta. Theo tính cách của hắn, chắc chắn không đời nào bỏ qua cơ hội tốt nhất cử lưỡng tiện này".

    Lưu Dụ quét mắt nhìn khu rừng trước mặt, cách nhìn đã thay đổi hẳn, liền có ngay cảm giác thảo mộc giai binh, không kềm được lén chùi mồ hôi.

    Quá cầu thắng thực sự là đại kỵ của binh gia, nếu đổi mình là Tạ Huyền, chắc hẳn vì lo Phù Kiên chạy mất, càng tăng tốc đuổi theo, hóa ra chuyển thắng thành bại, toàn quân tiêu diệt.

    Tạ Huyền ghìm cương trước bờ vực thẳm, cho dù tương lai chứng minh ông sai, cùng lắm là để tẩu thoát mất một kẻ không còn khả năng làm chuyện gì lớn là Phù Kiên. Chàng ngấm ngầm ghi nhớ chuyện này, để tránh tương lai không phạm phải sai lầm giống thế.

    Thắng bại chỉ cách nhau một ly.

    Tạ Huyền thần thái nhàn nhã, tựa hồ chờ đợi nói: "Phù Kiên chạy về phương bắc, tự nhiên phát giác lực bất tòng tâm, vấn đề chỉ còn là có thể còn thoi thóp đến khi nào. Người mà y e ngại nhất không phải là Diêu Trường mà là Mộ Dung Thùy. Nếu Mộ Dung Thùy phản hồi căn cứ địa, y tất phải chia binh phòng thủ Lạc Dương và các thành trấn quanh đó để bảo đảm an toàn cho Quan Trung, quân lực Đê binh còn lại chẳng được mấy, tiến thêm một bước cũng khó".

    Lưu Dụ không hiểu: "Theo ý Huyền soái, Mộ Dung Thùy không giết Phù Kiên, còn thả hổ về rừng, đối với hắn có lợi gì?".

    Tạ Huyền mỉm cười nói: "Thế mới đúng với bản chất hùng tài đại lược của Mộ Dung Thùy, nhân vì hắn chí tại thiên hạ, chứ không vì được mất nhất thời. Nếu hắn thừa lúc người ta nguy khốn mà giết hại Phù Kiên, sẽ mang tiếng xấu bất trung bất nghĩa, lại còn bị Diêu Trường mượn danh vì Phù Kiên phục cừu, phất cờ chiêu binh thảo phạt. Nhưng hắn chịu trở về căn cứ địa, trước hết hẳn ổn định cơ sở, đẩy vấn đề khó khăn vào tay huynh đệ Mộ Dung Xung, Mộ Dung Vĩnh vì Phù Kiên trấn giữ Trường An, hoặc với Diêu Trường, bọn họ ai nấy đều muốn thay thế vị trí của Phù Kiên, nhưng ai là người xuất thủ trước đây? Trong tình thế này, Mộ Dung Thùy có thể ngồi yên nắm giữ trọng binh, chơi trò cách sông xem hỏa hoạn, đợi đến sau khi Phù Kiên bại vong, mới hiệu triệu bắc phương vì Phù Kiên phục cừu, đó mới là thượng thượng sách!".

    Lưu Dụ hoàn toàn bái phục, ngầm kinh sợ Mộ Dung Thùy đại trí đại dũng, nhìn xa trông rộng, bất giác thấy lo lắng cho Thác Bạt Khuê, có điều mâu thuẫn là hiện tại, đối với gã, Thác Bạt Khuê là địch chứ không phải là bạn.

    Tạ Huyền tiếp tục nói: "Bốn đạo quân Đê Tần tinh nhuệ là kêu là Tứ soái tử đệ đều đã huy động vào chiến dịch Phì Thủy, rồi lại chia đi Lạc Dương, Sơn Đông. Phù Kiên về Trường An chỉ có thể trông cậy vào binh mã của huynh đệ Tiên Ti Mộ Dung Xung, nếu hai người này sinh biến bên cạnh, lúc ấy chỉ có quân Khương của Diêu Trường còn có thể dùng được, đương nhiên Diêu Trường chẳng phải là thiện nam tín nữ gì. Do vậy có thể thấy bại vong của Phù Kiên là vì trong chiến dịch nam phạt đã phạm sai lầm lớn khi phân phối điều động lực lượng, Tiên Ti, Khương nhân hoàn toàn không tổn hại, binh mã bản bộ của mình thì tiêu tán thất lạc. Hơn mười năm huy hoàng của người Đê, đã một đi không trở lại".

    Tiếng vó ngựa dồn dập, từ trong rừng cây tối đen vô số kỵ binh đối phương lao ra, mau lẹ bày trận bên bìa rừng, trong chốc lát nhân mã đôi bên thành thế đối địch, khoảng cách chỉ chừng ngàn bước.

    Không khí lập tức trở nên khẩn trương.

    Bỗng nhiên một người vỗ ngựa xông ra, uy vũ tựa ma thần, hình tướng phi phàm, không phải bắc phương đệ nhất nhân Mộ Dung Thùy thì còn là ai.

    Người có tên, cây có bóng.

    Mộ Dung Thùy chẳng những là bắc phương chư Hồ đệ nhất nhân, mà Bắc Bá Thương trong tay xưa nay không địch thủ, võ công trấn nhiếp nam bắc võ lâm Hán nhân, đó là đánh giá của Hán nhân Đại Hoạt Di Lặc Trúc Pháp Khánh, Đan vương An thế Thanh, Tiêu Dao đế quân Nhậm Dao, Thái Ất giáo giáo chủ Giang Lăng Hư, đều là bá chủ nhất phương. Tại bắc phương, đơn đả độc đấu, không ai dám đụng vào mũi giáo của hắn.

    Tạ Huyền phân phó tả hữu: "Không có lệnh ta, không được động thủ". Tiếp đó hạ giọng nói với Lưu Dụ: "Nếu ta bại trận mà chết, ngươi phải lập tức dẫn mọi người chạy xa, không cần lo cho thi thể của ta".

    Vỗ ngựa xông ra, nghênh đón Mộ Dung Thùy.

    Lưu Dụ nghe lời dặn dò giật mình kinh hãi, toàn thân sởn gai ốc, không ngờ cục diện lại diễn biến như thế.

    Nhìn theo hình dáng hùng vĩ sau lưng Tạ Huyền, lưng đeo Cửu Thiều Định Âm kiếm, trong lòng dâng lên sự sùng kính ngưỡng mộ vô hạn đối với Tạ Huyền.

    Đó mới thực sự là anh hùng chân chính, chợt lại nhớ tới Yến Phi, hắn cũng là hảo hán chân chính.

    Mộ Dung Thùy gò cương ngựa dừng lại, khóe mắt lộ nét cười lạnh lẽo, bình tĩnh nhìn đối thủ từ từ đi tới gần, ngửa nhìn trời cười nói: "Hay cho một Tạ Huyền, quả nhiên không để bổn nhân thất vọng, tuy nhiên giao tình của chúng ta đến đây là hết, Mộ Dung Thùy nguyện lĩnh giáo Cửu Thiều Định Âm kiếm tuyệt thế kiếm pháp của Cửu phẩm cao thủ hạng nhất".

    Tạ Huyền dừng ngựa cách đối phương ba trượng, tiếp đó nghiêng người xuống ngựa, cùng lúc đó Mộ Dung Thùy cũng từ trên lưng ngựa bắn vọt lên, Bắc Bá Thương danh chấn thiên hạ không biết từ lúc nào đã nắm trong tay, lộn một vòng rất đẹp trên không rồi hạ xuống cách Tạ Huyền chừng hai trượng.

    "Rẻng".

    Tạ Huyền rút Cửu Thiều Định Âm kiếm chĩa vào địch thủ.

    Kiếm dài bốn thước hai tấc, trên sống kiếm ở một bên men theo mũi kiếm có chín cái lỗ nhỏ bằng cỡ đầu ngón tay út, ánh xanh lấp lánh xuyên qua hai bên, sắc bén đến mực khó tin.

    Tạ Huyền mỉm cười nói: "Được lĩnh giáo tuyệt nghệ của đệ nhất đại gia phương bắc là vinh hạnh của Tạ Huyền này. Mộ Dung đại gia, xin mời!".

    Mộ Dung Thùy rung Bắc Bá Thương trên tay, một luồng sát khí lạnh lẽo như băng tuyết lập tức trùm lấy Tạ Huyền, lại còn lan tỏa xung quanh, dù đứng xa như Lưu Dụ cũng cảm giác rợn người vì cái lạnh thấu tim gan.

    Võ công đáng sợ như thế so với cao thủ mang mặt nạ quỷ từng đột kích gã và Yến Phi e rằng còn cao hơn một hai phần.


  11. #40
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 40

    Tống quân thiên lý 1
    Nếu muốn tìm trong Nam Bắc võ lâm mỗi vùng một nhân vật đại biểu, hay là tìm những cao thủ đỉnh cao đại biểu cho Hồ Hán lưỡng tộc, không nghi ngờ gì những người trúng tuyển tất phải là Mộ Dung Thùy và Tạ Huyền.

    Mộ Dung Thùy ngoại hiệu Bắc Bá, chẳng những là đệ nhất nhân của bộ tộc hùng mạnh nhất trong chư Hồ là Tiên Ti tộc, mà còn được toàn thể các tộc Hồ công nhận là thủ tịch cao thủ hoàn toàn không phải bàn cãi gì. Bất luận võ công binh pháp đều không kẻ nào dám cự lại.

    Tạ Huyền được xếp vào hàng Cửu phẩm cao thủ, năm hai mươi ba tuổi đánh chết bang chủ đương nhiệm của Lưỡng Hồ bang là Đao Ma Hướng Tại Sơn, nhảy vọt lên bửu tọa Cửu phẩm thượng thượng phẩm cao thủ, mười năm nay không có địch thủ.

    Loạn thế xuất anh hùng, nam bắc võ lâm cao thủ người Hán thời nay tuy không ngừng xuất hiện, nhưng cao thủ nổi bật của võ lâm phương bắc tầm cỡ như An Thế Thanh, Nhậm Dao, Giang Lăng Hư võ công lại lai tạp với tâm pháp võ kỹ của người Hồ, còn ở phương nam Tôn Ân bị coi là tà môn ngoại đạo, vì vậy có thể kế thừa phát triển võ công bác đại tinh thâm của Hán tộc, ngoài Tạ Huyền ra còn ai có tư cách ấy nữa.

    Hai người niên kỷ tương đương, đều là anh hùng cái thế, tung hoành bất bại trên chiến trường và võ lâm, bọn họ bỗng nhiên tương phùng, trước khi hành sự không ai dự liệu được sẽ phải có một trận quyết chiến trực tiếp ảnh hưởng đến thịnh suy nam bắc.

    Cho dù chính quyền Giang Tả thu được toàn thắng trong chiến dịch Phì Thủy, nhưng nếu trận này Tạ Huyền thua bại vong thân, nam Tấn vẫn là được không bù mất, những người nắm giữ quân chính đại quyền nam Tấn là Tạ gia cũng bị suy thoái, Mộ Dung Thùy sẽ là người gặt hái nhiều nhất, một bước trở nên ứng viên hứa hẹn nhất cho vị trí bá chủ chư Hồ phương bắc.

    Lưu Dụ khắp người nổi gai ốc nhìn hai đại cao thủ đỉnh cao, vô phương giúp đỡ, chỉ có thể khổ sở chờ đợi xuất hiện kết quả.

    Mộ Dung Thùy không thẹn mang danh bắc phương đệ nhất minh soái, theo hắn đi chặn đường Tạ Huyền chỉ có binh mã bổn tộc tương đương với binh lực của ông, điều này khiến cho Tạ Huyền muốn lui cũng không được. Giá như Mộ Dung Thùy dốc hết ba vạn tinh kỵ chặn đường công kích Tạ Huyền, Tạ Huyền có thể lập tức quay đầu thoái lui, cũng không ai dám cười ông thiếu đảm lượng. Đằng này Mộ Dung Thùy bố trí quân lực đủ tạo ra hình thế quyết chiến công bình, khiến Tạ Huyền không thể không xả thân ứng chiến, chỉ từ điểm này có thể thấy Mộ Dung Thùy tính toán cao minh đến đâu.

    Tạ Huyền nếu thất bại trận này, chiến dịch Phì Thủy coi như tiền công tận phế. Nam Tấn tuy vẫn có thể bảo trì cục diện bình yên, nhưng sau đó chỉ có thể chống mắt mà coi Mộ Dung Thùy thay chân Phù Kiên, thống nhất bắc phương, rồi lại phát động một cuộc xâm lăng khác xuống phía nam.

    Một âm thanh như rồng ngâm vang lên.

    Cửu Thiều Định Âm kiếm trong tay Tạ Huyền rung động, lúc đầu thanh âm vút lên từ thân kiếm tựa như có như không, chớp mắt đã như rồng cuốn trên chín tầng trời, nhào sâu đáy biển, bồng bềnh mơ hồ đến cùng cực.

    Cửu Thiều Định Âm kiếm chủ động công kích, do kiếm thanh và kiếm thế không tương hợp, mà lại tương phản, đường lối không biết đâu mà lần, sự đối nghịch này không những khiến người ta hết sức khó chịu, mà còn khiến người khó lòng tin được.

    Âm thanh êm dịu từ chín lỗ nhỏ trên thân kiếm thoắt biến thành trùng trùng điệp điệp như rồng gầm hổ thét, tràn ngập cả khuôn viên bãi chiến trường hơn mười trượng, đang phảng phất như giăng ra một lưới nhạc tươi vui, chợt biến thành sóng to gió cả, không ngừng bao vây trói buộc khiến người ta muốn đi khó bước, tựa như vĩnh viễn không ra khỏi được mê cung tạo nên bởi những bức tường âm thanh.

    Cửu Thiều Định Âm kiếm hóa thành một luồng sáng xanh chói mắt, từ bên ngoài bức tường khí của Mộ Dung Thùy kiên cường rạch toang một đường rộng, kiếm thế kinh nhân với tốc độ mắt thường khó thấy chấn động bổ tới, đâm thẳng vào ngực Mộ Dung Thùy.

    Động tác của Tạ Huyền tiêu sái phiêu dật, dù đang ở vào thời khắc đầu thương mũi kiếm giao phong quyết định sinh tử, vẫn ung dung nhàn nhã, những yếu tố mâu thuẫn song hành với nhau, hợp thành phong độ đại gia độc nhất vô nhị của ông.

    Với bản lĩnh và lòng tự tin như Mộ Dung Thùy, cũng không thể không bị phân tâm ứng phó với kỳ công tuyệt nghệ của Tạ Huyền.

    Cần biết cao thủ khi đối địch, mọi cảm quan đều phải phát huy tối đa, thính giác lại càng trọng yếu, thường thường không dùng mắt nhìn, chỉ dựa vào tiếng binh khí xé gió hoặc âm thanh từ tay áo là đủ để phán đoán được cả chiêu thức, tốc độ và những biến hóa vi diệu của đối phương.

    Nhưng mà trong trường hợp đối với Tạ Huyền, thính giác lại hoàn toàn trở thành vô dụng, thậm chí còn không được áp dụng tâm pháp này, nếu không sẽ không tránh khỏi thất bại. Thứ kiếm pháp vừa đáng sợ vừa tràn đầy mỹ cảm âm nhạc như thế này, Mộ Dung Thùy lần đầu tiên mới gặp.

    Mộ Dung Thùy quát lên một tiếng, át đi thanh âm của Cửu Thiều Định Âm kiếm, tựa như ánh dương quang xuyên tầng mây chiếu xuống mặt đất. Bắc Bá Thương trong tay hóa thành cuồn cuộn những làn sóng thương, từng đợt từng đợt trầm ổn nghênh đón địch kiếm. Tựa như là thực, nhưng trong thực ẩn hư, tựa hồ thiên biến vạn hóa, lại giống như chỉ có một chiêu thế chân thực duy nhất. Biến hóa tinh vi ảo diệu bên trong thể hiện rõ bản lĩnh của đệ nhất tông sư đại gia phương bắc.

    Lưu Dụ xem đến mê mệt, hai người tại trường quyết chiến, gã hiểu rõ tất sẽ có một phen long tranh hổ đấu, đã biết hai người kiếm thuật và thương pháp cao minh thần kỳ, nhưng hoàn toàn vượt ra ngoài tưởng tượng của gã, may sao mình có mặt ở đây được mở rộng tầm mắt.

    "Keng!".

    Kiếm thương đụng nhau, âm thanh chát chúa vang dội ra tứ phía, tựa như một khối cự thạch vạn cân đâm sầm xuống mặt hồ mênh mông yên tĩnh, gây nên tiếng động ầm ầm, làm màng tai đau nhói.

    Tạ Huyền tà áo phất phơ bay, mượn thế ngự kiếm bay ngược trở lại, chân không chạm đất, khuôn mặt anh tuấn vô song vẫn phác qua một nét cười hài lòng, Định Âm kiếm chỉ về phía đối phương, lui về nguyên vị, ngửa lên trời cười lớn: "Quả nhiên là bắc phương đệ nhất thương, Tạ Huyền lãnh giáo rồi!".

    Lưu Dụ chợt chấn động trong lòng, phân phó tả hữu: "Phái người thám thính bốn phía, sau đó báo cáo tình hình cho ta".

    Tả hữu tuy không muốn lỡ dịp mở mắt, nhưng quân lệnh như sơn, không thể không lĩnh mệnh mà đi.

    Mộ Dung Thùy chăm chú nhìn Tạ Huyền không chớp mắt, bỗng nhiên bật cười, lắc đầu khen ngợi: "Trong thiên hạ lại có kiếm pháp dùng mê âm để khắc địch như thế sao? Tạ huynh bằng cách nào sáng tạo ra vậy? Mộ Dung Thùy xin bội phục, coi thương đây!".

    Nói tới câu sau cùng, Bắc Bá Thương trên tay vọt lên không, vạch mấy cái lên trời, giống như thư pháp đại gia múa bút trên giấy như rồng bay phượng múa để giải tỏa uất kết trong ngực, chính là hắn mượn thương để miêu tả tâm ý, người người thấy vậy đều hết sức mơ hồ, đều cảm thấy hư chiêu Mộ Dung Thùy xuất ra, bổn thân đã là một thứ bá khí cực kỳ huyền diệu, vẫn ẩn chứa ở đằng sau những biến hóa rất sâu sắc.

    Tạ Huyền vẫn ung dung nhàn nhã, nhưng bất luận người trong kẻ ngoài có mặt lúc bấy giờ, chỉ riêng ông nhìn thấu đáo tâm ý của Mộ Dung Thùy.

    Đương nhiên nào dám chậm trễ, kiếm thanh lại vút lên.

    Mộ Dung Thùy vạch hờ mấy thương chính là khởi thủ thức của thế công, chẳng những tốc độ đề thăng đến cực điểm, mà còn đặt toàn thân công lực vào một kích này, tinh, khí, thần toàn thân dâng lên đến cảnh giới tối cao của thương đạo, sát khí dồn cả vào mũi thương, tràn đầy khí thế lạnh căm căm bức người, toàn bộ uy lực tập trung vào một thương này, cùng địch nhân quyết phân thắng phụ.

    Công pháp như vậy, số người có thể giống như Mộ Dung Thùy tùy tiện thi triển ra trong thiên hạ chỉ đếm trên đầu ngón tay.

    "Xoẹt!".

    Bắc Bá Thương vạch một đường ngang trời, từ trên không tạo thành một đường cong uốn lượn kích đến Tạ Huyền, chẳng biết trên đời võ thuật thiên hình vạn trạng thế nào, nhưng một thương này của hắn biểu lộ đã đạt tới cảnh giới tối cao, đồng thời cũng ngầm chứa nguyên bản tinh túy nhất, uy lực không gì kháng cự nổi.

    Kiếm thanh lúc này đồng thời cũng vang động toàn trường, lập tức làm bầu không khí thay đổi, mê hoặc lòng người, thời khắc này thanh âm tiêu dật siêu thoát, kết hợp với kiếm hình gợi nên cảm giác như thơ như họa, vừa tràn ngập uất khí lại vừa chứa đựng sự giải thoát, phong độ và ý vị cao, thấp sắp xếp trong không gian hết sức rõ ràng tinh chuẩn, bản thân cũng đã vốn mang đặc tính phòng ngự cùng ma lực.

    Cửu Thiều Định Âm kiếm ở phía trước Tạ Huyền mấy thước không ngừng di chuyển vị trí, bỗng nhiên Tạ Huyền lướt qua một bên, Định Âm kiếm chém xả vào ngọn thương. "Keng!".

    Hai người cùng chấn động kịch liệt, toàn thân vọt lên, hoán đổi vị trí cho nhau.

    Mộ Dung Thùy giắt thương ra sau lưng, đứng thẳng người dậy, một tay đặt trước ngực, cười ha hả nói: "Thống khoái! Thống khoái! Gần mười năm nay, Tạ huynh là người duy nhất chịu đựng được chiêu vừa rồi của Mộ Dung Thùy, Tạ huynh có biết chiêu này có cái tên rất êm tai và rất buồn không?".

    Tạ Huyền giữa đám địch quân vẫn tiêu sái nhàn nhã, xoay người đứng yên, Cửu Thiều Định Âm kiếm buông bên sườn, vui mừng nói: "Thỉnh Mộ Dung huynh chỉ dạy!". Mộ Dung Thùy lấp lánh nét cười bên khóe mắt, điềm đạm nói: "Tống Quân Thiên Lý!". Tạ Huyền không ngạc nhiên, tra kiếm vào vỏ, tiếp đó nói: "Cuối cùng thì cũng phải nói lời giã biệt! Mộ Dung huynh chặng dừng chân đầu tiên sẽ là Lạc Dương hay Trường An?".

    Vừa mới xong, hai đại tông sư còn quyết chiến sinh tử, lúc này hai người lại bịn rịn chia tay, khiến người ta mơ hồ không sao hiểu nổi. Nhưng bất luận thế nào, chúng nhân đôi bên đều thở phào nhẹ nhõm.

    Tạ Huyền cất bước về phía Mộ Dung Thùy, hoàn toàn không giới bị chút gì, từ trong bọc lấy ra túi da dê đựng ngọc tỷ Yên quốc, Mộ Dung Thùy di chuyển ngọn thương qua bên cạnh, khẽ dụng lực, cán thương cắm ngập xuống đất, hai tay cung kính tiếp lấy bửu bối được Tạ Huyền cũng bằng hai tay trao trả.

    Mộ Dung Thùy không còn chút địch ý nào, mỉm cười nói: "Hiểu nhau bằng tấm lòng, đâu cần đến lời nói".

    Tiếp đó ha hả cười, thu hồi trường thương, tay kia cầm ngọc tỷ, cùng Tạ Huyền mỗi người đi về trận địa bên mình.

    Lưu Dụ giật mình, nghĩ thời khắc ngọc tỷ trở về tay Mộ Dung Thùy, cũng chính là thời khắc sống lại của nước Đại Yên đã diệt vong trong tay Phù Kiên. Bất luận phương bắc bị tan rã thành mấy nước, Đại Yên quốc của Mộ Dung Thùy chắc chắn là quốc gia quan trọng nhất, có đủ tư cách nhất để hỏi đến bá quyền bắc phương.

    Đại quốc của Thác Bạt Khuê, trong trường thịnh hội này vẫn còn chưa có chỗ ngồi ở chiếu trên.

    Thủ hạ hồi báo, trừ địch nhân trước mặt, còn thì không thấy tung tích kẻ nào. Lưu Dụ rốt cuộc cũng yên tâm, nỗi lo lắng Mộ Dung Thùy bỏ chuyện đơn đả độc đấu để biến thành phục kích bao vây đã không còn là vấn đề.

    Trong lúc Tạ Huyền nhẹ nhàng tiến lên sườn đồi, Mộ Dung Thùy phi thân lên ngựa, hô hoán thủ hạ bỏ đi, một trận cuồng phong cuốn tới khu rừng thưa phía bắc, thổi bạt đi tiếng vó ngựa.

    Lưu Dụ hoang mang ra đón Tạ Huyền, binh sĩ nhất tề hoan hô, hoan nghênh chủ soái an nhiên trở về không nhục uy danh.

    Bắc Bá Thương của Mộ Dung Thùy, thiên hạ có ai không sợ, Tạ Huyền có thể giữ bình phân, đủ để ai nấy đều phấn chấn vô cùng.

    Lưu Dụ tới bên Tạ Huyền nói: "Không có phục binh, chúng ta có nên mau chóng tới Biên Hoang Tập bây giờ không?".

    Tạ Huyền hạ thấp giọng nói: "Chúng ta lập tức trở về Thọ Dương, nếu không phải là thời điểm đặc biệt, Mộ Dung Thùy tất không chịu trả cái giá đau đớn, hẳn ta sẽ phải táng mệnh Biên Hoang.

    Lưu Dụ giật mình, hiểu ra Tạ Huyền đã thụ nội thương, may mà Mộ Dung Thùy phải vội vàng trở về phương bắc tranh đấu, không biết rằng mình đủ sức giết chết Tạ Huyền, nhưng biết đâu cũng đã cùng bị thương, cho nên mới dừng cương bên bờ vực, bỏ đi ý niệm này. "Không cần nói ra lời", chính muốn ám chỉ điều này.

    Tạ Huyền tiếp đó mỉm cười: "Hay cho một ngọn Bắc Bá Thương!".

    Tung người lên mình chiến mã thủ hạ vừa dắt đến, dẫn đầu phóng về phía nam.

    Lưu Dụ phóng ngựa theo sau, tai còn nghe thấy tiếng vó ngựa không dứt của bộ đội Mộ Dung Thùy đi xa dần, lại nghĩ chung quy sẽ có ngày vó ngựa Hồ một lần nữa đạp trên con đường nam tiến, nhưng bất luận có chuyện gì xảy đến với Tạ Huyền, chỉ cần Lưu Dụ còn đấy, nhất định sẽ tận lực tranh phong tới cùng.

    Vĩnh viễn không bàn lui.

    ° ° °

    Âm hàn biến mất hoàn toàn, hỏa nhiệt lại tựa như âm hồn bất tán ngóc đầu dậy, đầu tiên chực sẵn ở Khí hải huyệt, sau đó dần dần khuếch tán đến kinh mạch và các huyệt lớn nhỏ toàn thân, Yến Phi tuy vô phương cử động, nhưng thần trí so với trước sáng suốt hơn nhiều, bèn chậm rãi ước đoán thật chính xác tình trạng của bản thân lúc này.

    Mục tiêu hiện giờ của chàng là hướng đến cái chết, nhưng những người luyện võ tu đạo lo sợ nhất là phương thức tử vong.

    Những tình huống tẩu hỏa nhập ma cách này cách nọ có hàng trăm ngàn kiểu, nặng nhẹ khác nhau, nhưng đại khái có thể chia ra hai loại âm, dương. Tẩu hỏa nhập ma thuộc dương cương đáng sợ nhất vẫn là phần kinh .

    Dương hỏa sẽ thiêu đốt từng đường kinh mạch, khiến cho kẻ bị nạn trụy tim vỡ mạch khổ sở cùng cực đã đành, mà vì mọi kinh mạch trong đầu não cũng không thể tránh tai họa này, sẽ dần dần phải chịu đựng cảm giác phát điên phát cuồng, tình trạng tâm linh và nhục thể bị đày đọa như vậy thực không biết nói với người ngoài thế nào cho đủ.

    Cái họa phần kinh , thường thì phát sinh đối với cao nhân tu thiên đạo đan pháp, mà rất hãn hữu mới xảy ra, hàng trăm năm chưa chắc đã gặp một lần. Yến Phi tuy đã từng coi qua đạo gia bửu điển ghi chép chuyện này, nhưng không hề để ý, cũng chưa hề nghĩ đến, vậy mà lại phát sinh chính tại thân mình. Cuối cùng chàng cũng đã minh bạch hàm ý của hai chữ Đan kiếp.

    Vốn dĩ chỉ cần chàng uống vào Đan kiếp, lập tức gặp ngay tai vạ này, may thay vì chàng từng dung hợp khí âm hàn của Nhậm Dao và Thanh Thị thi triển trên thân thể mình, âm dương loại trừ lẫn nhau, đấu đá loạn xạ, thúc đẩy chàng chạy đi như điên hàng trăm dặm đường.

    Đến lúc này, dương kiếp thu được toàn thắng, âm kiếp tiêu thoái, cũng mất đi yếu tố âm dương tương kích sản sinh động lực kinh người, chỉ có thể chờ đợi kết cục thê thảm của phần kinh .

    Đột ngột có một tràng cười lớn, giọng nói của Nhậm Dao rót vào tai chàng: "Tiểu Yến Phi của ta, xem ra so với súc vật ngươi còn ngu ngốc hơn".

    Một luồng kình lực bốc thân hình gã lên, giống như tùy tiện tròng dây vào cổ giật lên, dựng chàng thẳng dậy trên mặt đất, liền đó vang dội âm thanh kình khí phá không truyền lại, song chưởng Nhậm Dao vận khởi toàn lực nặng như núi áp vào bối tâm chàng.

    Dương hỏa đang thiêu đốt kinh mạch nghênh đón luồng kình khí tựa như sóng thần hung dữ tràn qua khuyết khẩu từ song thủ của Nhậm Dao ập tới, mà lại là luồng lãnh khí vượt trăm sông ngàn suối đổ về, dồn vào kinh mạch lớn nhỏ nóng như lửa thiêu của chàng, cảm giác kinh người này không có cách gì miêu tả nổi.

    Nhậm Dao rú lên một tiếng hãi hùng, ngã lăn ra đằng sau, Yến Phi cũng ứng chưởng bay vọt lên phía trước.

    "Sầm" một tiếng, ngã lăn xuống bãi cỏ, hai mắt tối sầm, hôn mê đi. Trước khi mất tri giác, mặt đất giống như rung lên tiếng trống trận, mà là hàng ngàn chiếc dùi lấy mặt đất làm trống ra sức mà gõ.

    ° ° °

    Tạ Huyền và Lưu Dụ dẫn đầu quất ngựa phi lên đỉnh một ngọn đồi nhỏ, cảnh tượng trước mặt khiến hai người hết sức kinh ngạc.

    Trên bãi cỏ có hai người, dưới ánh trăng, một người sống chết không rõ, người kia ngồi phía sau cách chừng năm trượng, trang phục trên người theo kiểu vương hầu. Lưu Dụ định thần nhìn kỹ, kêu lên thất thanh: "Là Yến Phi!".

    Tạ Huyền nghe tiếng lập tức vọt lên không, từ khoảng cách hàng trăm bộ lăng không bay tới chỗ hai người.

    Ngồi xếp bằng trên mặt đất chính là Nhậm Dao, cũng hốt nhiên chấn động, quay nhìn lại, nhìn thấy Bắc Phủ kỵ binh tập trung ở đầu núi, kêu to một tiếng, từ dưới đất bắn vọt lên, rút Ngự Long kiếm lướt về phía trước, có ý muốn tới trước Tạ Huyền, tặng cho Yến Phi một kiếm trí mệnh.

    Lần này y khôn ngoan hơn, chỉ dám nhờ vào bửu kiếm sắc bén, đưa Yến Phi vô tử địa. "Rẻng!".

    Tạ Huyền bạt xuất Cửu Thiều Định Âm kiếm, bay tới nửa đường bỗng tốc độ tăng gia kỳ dị, kiếm thanh vút lên, chớp mắt đã biến thành tiếng rú gào đầy trời đầy đất. Mảnh đất hoang vu yên tĩnh bỗng dưng cuồng phong đột khởi, uy thế kinh thiên động địa, nhắm thẳng vào Nhậm Dao đang xông lại chỗ Yến Phi.

    Nhậm Dao tự tin có thể tới trước Tạ Huyền, lấy cái mạng nhỏ của Yến Phi, nhưng mà cục diện tiếp theo sợ không đủ khả năng ứng phó.

    Lúc này kiếm khí của Tạ Huyền đã từ xa xa bao trùm khống chế y, một khi bị Tạ Huyền đeo bám, bị hãm vào trùng vây thiên quân vạn mã, có thêm mấy tên Nhậm Dao nữa e cũng vô pháp thoát thân.

    Liền quyết định tùy cơ ứng biến, nhả ra một khẩu chân khí, thi triển Thiên Cân Trụy, hạ mình xuống đất cách chỗ Yến Phi nửa trượng, Ngự Long kiếm hóa thành những đốm sáng đầy trời, bắn vào Tạ Huyền đang lao tới.

    Lưu Dụ cũng lướt khỏi lưng ngựa, chạy tới chỗ Yến Phi đang nằm, nhưng vẫn chậm sau Tạ Huyền hai trượng, mắt mở to nhìn Cửu Thiều Định Âm kiếm của Tạ Huyền giống như một con thanh long nhập vào lưới kiếm Nhậm Dao, phát xuất một tiếng nổ lớn như sét đánh.

    Nhậm Dao bay ngược lại phía sau, cười lớn: "Không hổ thượng thượng phẩm cao thủ, Nhậm Dao lĩnh giáo rồi".

    Chớp mắt đã biến mất sau sườn đồi phía nam.

    Tạ Huyền hạ mình xuống bên Yến Phi, đứng yên bất động, khuôn mặt anh tuấn chợt hồng lên một thoáng, mới tra kiếm vào vỏ.

    Lưu Dụ không nhìn thấy sắc mặt bất thường của Tạ Huyền, xông đến chỗ Yến Phi đang nằm phủ phục, thò tay đặt lên uyển mạch của chàng, một lát sau, trên mặt hiện lên thần tình hết sức cổ quái.

    Tạ Huyền quay lại nhìn gã, ngạc nhiên nói: "Hắn ta cuối cùng là sống hay chết?". Chúng thủ hạ nhao nhao chạy lại, không cần dặn bảo, mỗi người canh phòng mỗi phía.

    Lưu Dụ cẩn thận đỡ cho Yến Phi nằm ngửa lên, thấy chàng sắc mặt bình thường, chỉ giống như đang ngủ say. Lưu Dụ nói: "Thật cổ quái, tiểu nhân chưa bao giờ gặp tình huống như thế này".

    Tạ Huyền quỳ gối xuống, nắm lấy uyển mạch Yến Phi, nhắm mắt ngưng thần, sự chờ đợi của Lưu Dụ và chư tướng, thân hình to lớn chấn động, đáp: "Đúng là phi thường cổ quái".

    Lưu Dụ nói: "Kinh mạch của hắn hoàn toàn không có dấu vết gì của chân khí di chuyển, miệng mũi không có hơi thở, nếu không phải là tâm mạch vẫn còn chút động tĩnh lúc có lúc không, tiểu nhân đã cho rằng hắn ta đã tuyệt sinh cơ rồi".

    Tạ Huyền mở to hai mắt, để lộ oai phong, trầm giọng nói: "Có một quái sự nằm ngoài tưởng tượng của chúng ta đã phát sinh nơi bằng hữu của ngươi, hiện giờ hắn đang trong trạng thái thai tức rất hiếm thấy, ngoại trừ ở các bậc chân tu của đạo gia. Vì vậy tốt nhất chớ tìm cách đánh thức hắn dậy, cũng e rằng không ai có khả năng làm việc này nữa, việc chúng ta có thể làm trước mắt là mang hắn về Thọ Dương, để rồi hắn tự nhiên tỉnh lại".

    Lưu Dụ trong lòng buồn phiền, xuôi tay hỏi: "Còn nội công kình khí của hắn thì sao?".

    Tạ Huyền hơi sững người đáp: "Hắn có thể không biến thành phế nhân là hết sức may mắn rồi. Chúng ta đành chờ đến khi hắn tỉnh lại rồi mới nghĩ biện pháp cho hắn!". Lưu Dụ ứa nước mắt, bỗng nhiên gã tha thiết hy vọng Yến Phi vĩnh viễn không tỉnh lại, vĩnh viễn không cần phải đối diện với sự thực tàn khốc mất hẳn nội công tu vi.

    --------------------------------
    1 Đưa người ngàn dặm.


Trang 4 / 10 ĐầuĐầu ... 23456 ... Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Truyền Thuyết Lão Tử
    By giahamdzui in forum Phim Trung Quốc Online
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 05-27-2019, 05:17 PM
  2. Truyền Thuyết Lão Tử
    By giavui in forum Phim Trung Quốc Online
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-07-2019, 09:58 PM
  3. Cánh Đồng Truyền Thuyết
    By giahamdzui in forum Truyện Ngắn Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-06-2016, 06:55 PM
  4. Truyền Thuyết Chiến Lang - Legend of the Red Dragon 1994
    By giahamdzui in forum Phim Lẻ Online
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-17-2014, 04:45 PM
  5. Sư Sĩ Truyền Thuyết
    By giavui in forum Audio Kiếm Hiệp
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-18-2013, 06:49 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •