Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Yêu là vui vì hạnh phúc của người khác, là coi hạnh phúc của người kia như hạnh phúc của chính mình.
G.W. Leibnitz
Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12
Results 11 to 20 of 20

Chủ Đề: Lối Thoát Cuối Cùng

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Lối Thoát Cuối Cùng

    Lối Thoát Cuối Cùng

    Tác giả : Constantin Virgil Gheorghiu

    Nguyên văn tiếng Pháp:La Seconde Chance

    Dịch giả: Hằng Hà Sa và Bích Ty




    MỤC LỤC [−]

    Phần Mở Đầu
    Cuốn Sách Của Những Người Do Thái
    Cuốn Sách Của Sa Mạc
    Cuốn Sách Của Sự Chiến Thắng
    Cuốn Sách Của Ô Nhục
    Cuốn Sách Của Những Cặn Bã Xã Hội
    Cuốn Sách Của Ô Nhục
    Cuốn Sách Của Sự Lùi Vào Bóng Đêm
    Cuốn Sách Kết Thúc
    Chỉ Còn Một Thế Giới



    Tiểu sử tác giả

    Virgil Gheorghiu

    Constant Virgil Gheorghiu sinh ngày 15- 9 - 1916 tại Lỗ Ma Mi, Constant Virgil Gheorghiu nghiên cứu triết học và thần học ở Gucarest và Heidelberg trước khi trở thành ký giả, rồi khâm sứ tại Bộ Ngoại giao Lỗ.

    (Gheorghiu tên thật là Constantin Virgil Gheorghiu, sinh ngày 15 tháng 9 năm 1916 tại Valea Albă, một làng trong cộng đồng Războieni, quận Neamţ, xứ Romania. Cha ông là một linh mục Chính thống giáo.)

    Chống đối chế độ cộng sản, ông sang Pháp ở vào 1948. Cuốn tiểu thuyết đã làm thế giới tự do biết danh ông là "Giờ Thứ Hai Mươi Lăm "; ông lại càng nổi danh hơn nhờ một cuốn khác viết về cuộc tái chiếm đóng xứ Bessarabie. Ông sang Mỹ sống một thời gian, sau đó trở lại Pháp. Ông đã dùng ngòi bút để chống đối mãnh liệt cái thời đại phi nhân của chúng ta hiện nay trong hầu hết các tác phẩm của ông (La Seconde chance, La Cravache, Les Mendiants de miracles ...). Ngày 23- 5 - 1963 V. Gheorghiu được tấn phong linh mục Giáo hội chính thống.



    Vài lời của nhà xuất bản
    Ngòi bút của Virgil Gheorghiu quả thật là chua chát và mỉa mai; bởi vì tác giả chống tất cả những chủ trương phi nhân. Các nhân vật của V. Gheorghiu sau những đày ải lần lượt chết đi dưới những vị kỷ khắc nghiệt được ngụy trang rất khéo léo bằng những chủ nghĩa hoa mỹ. Nhưng tất cả phải chết đi để cho ý thức nhân bản trong mỗi con người, mỗi xã hội được sống. Làm sao mà không chua chát và mỉa mai cho được khi mà hơn 20 năm sau, cuộc thế chiến hãi hùng, con người vẫn đang còn bơ vơ, lạc lõng, lo sợ trước những tranh chấp chủ nghĩa, trước những đe dọa đang đẩy họ vào những đường cùng không lối thoát. Và phải chăng V. Gheorghiu cũng đag viết về sự bế tắc của con người đau đớn trên xứ sở Việt Nam thân yêu.

    L.B



    Phần Mở Đầu
    Người ta không thể sống trần truồng. Có thể là người ta sống nghèo khổ rách rưới nhưng mày không còn một manh áo rách để mặc. Mày không còn gì nữa cả.

    Pierre Pillat nhìn bộ quân phục bằng kaki của Boris Bodnar, rồi tiếp tục:

    "Sau ba tháng, cảnh binh sẽ lột hết áo quần mày và trả lại cho nhà trường. Mày sẽ không còn gì để mặc nữa. Kể cả chiếc áo sơ mi. Kể cả một đôi giày. Không còn gì nữa. Mày sẽ trần truồng như lũ mọi lùn Papou. Mày sẽ là người trần truồng nhất thế giới . Mày muốn làm gì bây giờ?"

    Pierre Pillat nhìn thẳng vào mắt bạn, nhưng Bodnar lại nhìn xuống đất.

    " Người ta đã giao cho mày tờ giấy trục xuất chưa? " Pillat hỏi.

    Boris Bodnar tiếp tục nhìn xuống đất của sân trường. Hắn bỏ tay vào túi để rút tấm giấy trục xuất. Bộ đồng phục có bốn túi. Nhưng người ta đã cắt hết túi của những học sinh bị trục xuất để làm nhục chúng.

    Không tìm thấy túi ở vị trí thông thường, Boris Bodnar thò tay vào túi thứ hai ở ngực. Cũng đã bị cắt mất, và hai túi ở dưới cũng không còn nữa. Hắn đỏ mặt. Thì ra sáng nay, lúc 6 giờ, Boris Bodnar đã mặc bộ áo của những đứa bị trục xuất.

    Từ lúc đó, hắn sờ mấy túi áo không biết bao nhiêu lần, như một cái máy. Hai tay hắn sờ các túi áo trên, rồi mấy túi áo dưới, sau cùng buông thỏng xuống vô thức, chịu đựng. Những túi áo bị cắt đứt là một trong những nhục nhã đầu tiên của Boris Bodnar. Hắn nhìn một lần nữa vào các túi áo. Không những bộ quân phục chỉ thiếu túi. Người ta còn cắt cái viền vàng trên cổ áo, các đường viền dọc theo quần. Sáu cái nút áo cũng bị đứt mất. Không còn những chiếc nút mà hắn phải đánh bóng mỗi chiều - như tất cả mọi học sinh trường võ bị hoàng gia Kichiey - đánh cho đến lúc chúng bóng như vàng. Thay vào đó, chỉ còn những hột nút bằng sắt, nhỏ và đã hoen rỉ. Những khuy áo trở nên quá to so với mấy hột nút sắt đó. Không có những cúc áo vàng, khuy áo thật như những trũng mắt mà người ta đã móc con mắt.

    Không cần nhìn Pierre Pillat, Boris Bodnard cố tìm túi quần. Mỗi quần của bộ quân phục đều có bốn túi.

    Tất cả đều đã bị cắt mất, Boris Bodnar tức giận thêm. Hắn có cảm tưởng người ta đã mất vài mảnh thịt của thân thể hắn chứ không phải của bộ quân phục. Hắn nhớ đến bốn cái túi bên trong thường để đựng giấy tờ.

    "Mày muốn xem văn thư trục xuất của nhà trường giống cái gì hả"

    Hắn hỏi Pillat một cách mỉa mai, xong hắn đưa cho Pillat một tờ giấy màu vàng gấp làm tư. Đó là mảnh giấy mầu lá úa, thứ mầu đặc biệt dùng cho những trường hợp trục xuất, tử tức hay bị giam giữ trong bệnh viện.

    Pillat đọc:

    " Chiếu nội quy của các trường võ bị hoàng gia Lỗ Ma Ni, Boris Bodnar đã bị đuổi khỏi trường và chỉ có quyền mặc quân phục hoàng gia trong ba tháng tiếp theo lịnh trục xuất này. Các viên chức công quyền phải thi hành lệnh này và trả lãi quân phục cho trường Kichiev sau thời hạn ba tháng".

    Đọc xong, Pillat hỏi Boris:

    "Mày làm gì sau ba tháng nữa? Trần truồng ư? Mày phải về nhà với ông già bà già mày. Không còn giải pháp nào nữa"

    Pillat cầm văn thư trục xuất bằng tay trái. Tay phải đặt lên vai Boris. Áo Boris không còn cầu vai nữa. Không còn cái cầu vai có viền vàng mới dấu hiệu hoàng gia và con số của Hoàng đế Lỗ mã ni, người đỡ đầu cho trường võ bị. Không có cầu vai cái áo chỉ là một bộ đồ chết. Nói cho đúng, không phải là một bộ quân phục nữa, chỉ còn lại cái xác áo mà thôi. Chiếc áo không có cầu vai đó giống như một người đã bị chặt đầu. Vì thế trong lịch sử quân đội, cắt cầu vai cũng giống như kết án tử hình. Trước khi hành hạ, người ta cắt hết cầu vai trước mặt bạn bè. Cầu vai là cái đầu của một bộ quân phục.

    Từ 6 giờ sáng nay Boris không còn mang cầu vai nữa, Pillat có cảm tưởng tay nó đang đặt trên một cái gì đã chết. Ngay cả vải áo cũng đã chết, không phải chỉ vì thiếu cầu vai mà thôi. Những sợi vải áo cũng đã chết. Mảnh vải đó đã bị giết chết trước khi bộ quân phục được giao cho những đứa bị đuổi. Những bộ quân phục như thế sẽ bị vứt xuống dưới hầm. Nhưng trước đó, người ta đã phải hấp đi để tẩy uế. Cùng với những con vi trùng người ta sẽ giết mất đời sống của tấm vải kaki, sẽ làm nó nhầu nát. Những sợi chỉ sẽ chết trong hơi nước, dưới áp lực của ống hơi và các chất sát trùng, như những tế bào của một sinh vật phải chết dưới từng ấy áp lực. Mỗi năm một lần, các bộ quân phục đó sẽ được gởi đến các xưởng để làm dẻ vụn. Năm nay có tất cả mười bốn bộ được để lại Boris phải mặc trong mười bốn bộ đó. Pillat nói:

    "Nếu mày không về nhà bây giờ, mày sẽ lang thang ba tháng. Ông già bà già mày có giận dữ cũng vô ích. Cuối cùng rồi cũng phải nhượng bộ. Hai ông bà cũng không chém đầu mày đâu mà sợ. Họ sẽ cho mày áo quần khác. Trở về nhà đi cho rồi. Không còn giải pháp nào nữa đâu."

    Pillat rút tay khỏi vai của Boris. Bộ áo của thằng bạn có đã bắt đầu có mùi tẩy uế, mốc meo và cằn cỗi. Pillat tiếp tục:

    "Tao đã nói với bạn bè cả rồi. Chúng tao sẽ quyên tiền cho mày ra về". Boris nghiến răng. Hắn nói:

    "Tao không có bạn. Mày học đệ ngũ, mày không còn là bạn tao nữa. Tao bị ở lại, không lên đệ ngũ được. Mà cũng không học lại đệ tứ được nữa. Những đứa ở lại không thể vào trường học. Như thế tao đâu còn bạn bè nữa!

    Pillat vẫn nói: "Mày vẫn là bạn tao. Ngay cả khi mày không ở trong lớp. Tụi mình đã sống với nhau bốn năm trên cùng ghế nhà trường".

    Giọng Boris run run: "Mày đã làm bạn với tao bốn năm rồi. Nhưng bây giờ không còn như thế được nữa. Cũng thường chứ gì."

    Sân trường hình vuông, với những bức tường đầy màu xám, đã bắt đầu đông đúc. Năm trăm học sinh vừa mới ra chơi và nhìn vào mười bốn đứa thi rớt trong những bộ quân phục nhục nhã. Những đứa bị ở lại không có quyền vào lớp nữa, cũng không được vào phòng ăn hay phòng ngủ.

    Chúng phải ở ngoài sân, dựa lưng vào trường, vào các cột sân bóng tròn, sân bóng rổ hay sân quần vợt.

    Trong bộ y phục không còn cầu vai, bị cắt hết túi, không còn nút vàng, viền vàng, mười bốn đứa dựa lưng vào các cột, vào các cây dẻ của sân trường và các bức tường cao bằng đá. tất cả cúi gầm xuống đất.

    Pillat hỏi: "Mấy giờ mầy đi".

    Hỏi như thế để tan yên lặng, vì yên lặng tăng thêm khoảng cách giữa hai đứa.

    Boris nhún vai. Năm trăm học sinh dạo chơi trong sân trường - Với nút áo vàng, giầy bóng loáng - nhìn những đứa bị đuổi mà không dám lại gần. Chúng nhìn trong sợ hãi: Chúng biết những đứa bị đuổi phải bị trình diện như thể để làm gương cho mỗi đầu niên học: rồi chúng sẽ được lính dẫn ra cổng trường, đến nhà ga và vào trung tâm thành phố.

    Chúng là thứ cỏ dại người ta cần nhổ đi. Học sinh nhìn chúng bằng đuôi mắt, ở đàng xa mà không dám lại gần. Pillat đứng gần Boris. Chung quanh hai đứa là một khoảng trống. Chung quanh mỗi đứa bị trục xuất có một khoảng trống. Chung quanh mỗi đứa bị trục xuất có một vòng trống ác hại. Mấy đứa mang cầu vai hoàng gia sợ những đứa bị đuổi. Không đứa nào dám lại gần. Ngay cả những đứa trước kia rất thân nhau. Người ta đọc được trong cặp mắt chúng những cảm nghĩ tương tự như những người lái xe đến ngã tư thấy một chiếc xe bị nát bấy với một người bộ hành bị thương hay đã chết.

    Vì thế mà chúng dửng dưng. Sợ hãi còn mạnh hơn cả lòng thương hại. Nhìn mấy đứa bị đuổi, chúng tự nguyện là sẽ chăm chỉ trong năm tới; như những người lái xe tự nhủ là sẽ cẩn thận lái xe lúc họ nhìn bên đường một chiếc xe vỡ nát vì húc phải cây cối hay trụ đèn.

    Pillat hỏi: "Có gì đã xẩy đến cho mày? Tao không hiểu tại sao mày thi rớt?" Yên lặng. cặp mắt của Boris nhợt nhạt với những lông măng hiền lành cùng râu mép dưới mũi.

    Boris ngước mắt nhìn trời. Những đám mây đen trôi trôi về phương đông, thật mau thật vĩ đại, đám này cuộn theo đám kia. Về phía Đông chừng hai mươi cây số là sông Dniestr và bên kia sông là Nga sô. Boris nhìn những đám mây đang bay qua trên trường học, trên đầu hắn và nghĩ rằng trong chốc lát chúng sẽ đến Dniestr, sau đó bay qua Nga sô.

    Pillat nói: "Thật tao điên đầu, không thể nào hiểu nổi mày. Không một thằng bạn nào hiểu nổi điều đó. Mày vẫn là đứa giỏi toán nhất lớp. Mày đã giải nổi những bài toán mà không đứa nào làm được. Mày còn nhớ là tụi mình đã phải thi lại kỳ thi đó như một hình phạt cũng chỉ vì mình làm được bài toán và cho cả lớp chép. Nhưng không ngờ rằng chính mày - một thằng đứng đầu về toán, một nhà toán học - trời sinh lại không làm nổi bài thi kỳ này. Nói cho tao nghe đi, thầy giáo bảo là mày đã nộp giấy trắng. Mày đã không viết được một giòng nào cả. Có gì đã xảy ra cho mày, hả?"

    Trong giây lát Boris tiếp tục nhìn mây đen bay về phương Đông. Rồi hắn nhìn những hột nút vàng trên bộ áo của Pillat; sáu hột nút phản chiếu bộ mặt nhợt nhạt của hắn như hắn đang nhìn vào sáu tấm gương lồi.

    Boris hỏi: "Tại sao mày lại hỏi tao như thế? " Hắn trở nên nghi ngờ.

    " Dĩ nhiên như thế - Pillat trả lời - Mỗi chúng tao đều hỏi như thế. Bởi vì có một điều lạ lùng, bất thường nào trong đó chứ"

    Hết giờ chơi. Chuông reo inh ỏi. Học sinh liếc nhanh một lần chót những đứa bị trục xuất và hấp tấp vào lớp, để cho đúng giờ, để đừng bao giờ bị trể để khỏi trở thành những đứa ở lại lớp phải mang những bộ áo quần nhục nhã.

    Năm trăm học sinh cùng nghĩ như thế lúc chen lấn nhau vào lớp học. "Để chuyện đó đừng bao giờ xẩy đến cho mình ..."

    Pillat lại bảo: "Bây giờ đến giờ La Tinh. Tao bỏ học. Mày đi với tao ra sau đống gỗ, tụi mình nói chuyện yên ổn hơn".

    Sân trường vắng vẻ.

    "Không". Boris trả lời. (Hai tay bám vào bức tường đá đang dựa lưng) "Mầy thừa biết rằng học sinh trường Trung học Hoàng gia không có quyền nói chuyện với mấy đứa bị trục xuất. Ngay cả lúc đã rời trường mầy cũng không được liên lạc - dù chỉ là bằng thư từ - với chúng. Thôi, mày vào học giờ La tinh đi, nếu không người ta sẽ giam mày đấy".

    Pillat cầm tay hắn kéo về cuối sân trường và núp sau đống gỗ.

    Boris nói: " Không có nghĩa lý gì để nói nữa. Tụi mình xa cách nhau mãi rồi. Tụi mình đã là một đôi bạn tốt, thật như vậy; nhưng bây giờ thì hết rồi. mày sẽ là một sĩ quan, mặc đồng phục hoàng gia. Mày sẽ là một kẻ ưu tú của đất nước, của thành phần các sĩ quan: như người ta thường dạy như thế vào các giờ luân lý.

    "Không ai có thể chia cách con đường tụi mình cả" Pillat nói như thế và xiết chặt tay Boris. "Tụi mình đã là bạn là bạn tốt với nhau và cứ tiếp tục như thế. Cho dù có bị cấm đoán chăng nữa, tụi mình cũng cứ viết thư cho nhau. Không cần ký tên vào dưới bức thư. Tao biết mặt chữ của mày. Mày nhớ viết thư cho tao đều đặn nghe"

    Sĩ quan trực quan sát sân trường. Núp sau đống gỗ hai đứa không thể bị phát giác. Sau khi đã nhìn những đứa bị trục xuất dựa lưng vào tường, vào gốc cây, vào các cột sân thể thao, sĩ quan trực bỏ đi.

    Pillat bảo: "Cha mẹ mày giàu có. Họ sẽ gởi mày vào một trường học dân sự. Mày sẽ học nhảy hai lớp trong một năm ... "

    Boris đỏ mặt. Trên bộ râu mép, hai lỗ mũi hắn phập phồng.

    Hắn giận dữ: "Vào học giờ La Tinh đi và để cho tao yên"

    Pillat bảo: "Lấy tư cách bạn bè tao nói chuyện với mày, tại sao mày lại giận dữ cơ chứ "

    - Nếu mày tự nhận là bạn tao thì đừng nói về cha mẹ tao và cũng đừng nói chuyện tao nên trở về nhà nữa.

    Pillat đặt tay lên vai của Boris, vai áo không còn cầu vai nữa. Nhưng Boris vẫn nhìn mây đen trên trời đang bay về phía Nga Sô.

    - Tao không làm gì phiền mày. Boris ạ, tao chỉ khuyên mày nên trở về nhà. Chỉ vậy thôi. Đó là một lời khuyên hợp lý.

    - Tao không cần mày khuyên, Boris vừa trả lời vừa nhìn trời. Mày biết là tụi mình sẽ không còn bao giờ thấy nhau nữa. Con đường tụi mình đã bị chia cách rồi. Có thể đây là lần cuối cùng tụi mình cùng nhau nói chuyện. mày có biết tại sao tao không thích nghe nói về cha mẹ tao và nhà cửa tao không ? Tao sẽ nói cho mày nghe. Có thể là một sự trả thù về phần tao ... Mày biết là tao còn một đứa em ?

    - Boris run lên. Pillat hỏi :

    - Mày còn một đứa em? Sao tao không bao giờ nghe mày nói đến cả. Tụi mình cùng ngồi trên một ghế bốn năm trời ở trường. Tao cứ nghĩ là tụi mình đã không giữ gì bí mật với nhau cả. Riêng tao, ít nhất tao cũng đã nói hết cho mày nghe về mọi chuyện.

    Pillat có cảm tưởng bị phản bội. Nó tiếc đã tiếc vào học giờ La Tinh, đã ở lại với thằng bạn cũ của nó ở sân trường, thằng bạn đã nói láo với nó suốt bốn năm trời.

    Pillat nhìn sân trường. Nó thích trở vào lớp, và để Boris ở lại một mình. Nhưng không được nữa. Trễ quá rồi. Nó phải đợi giờ chơi sắp đến.

    Pillat hỏi: "Tại sao mày không bao giờ nói là mày còn một đứa em?", tiếng nói của nó có vẻ chua chat. "Tao có bao giờ giữ bí mật chuyện gì với mày đâu".

    - Thì tao nói với mày bây giờ đây: Tao có một đứa em, tên là Angelo. Chính thảm kịch xảy ra từ đó. Chính vì thế mà tao không thể trở về nhà. Mày hiểu không? Chỉ vì tao có một đứa em!

    Boris nhìn vào đôi mắt của Pillat như muốn chọc thủng chúng ra.

    "Angelo nhỏ hơn tao ba tuổi" Boris nói tiếp. Nhưng Pillat không còn quan tâm đến những lời nói của thằng bạn cũ nữa. Điều chính yếu là Boris đã dấu nó một điều gì, là Boris đã thiếu thành thật với nó.

    "Lúc tao được ba tuổi, có một chuyện xảy ra đã làm thay đổi hết đời tao. Mày muốn hiểu tại sao không?"

    Pillat nhún vai. Boris tiếp tục:

    "Câu chuyện chỉ có vài câu thôi. Nếu mày muốn nghe, mày sẽ hiểu tại sao tao đã giữ bí mật với mày. Hồi đó tao được ba tuổi. Tao đang ở sân chơi. Trước nhà tao có một cái sân với nhiều cây có hoa trắng, tao chỉ có ba tuổi nhưng tao nhớ rõ các chi tiết. tao mặc áo vải sợi màu trắng. mẹ tao bảo tao phải coi chừng đừng làm bẩn áo mới. Sau đó, bà để tao chơi trong sân dưới bóng cây. Angelo lúc đó mới được có mấy tháng. Nó ở trong xe, dưới ánh nắng. Mẹ tao bảo tao coi chừng nó. Không bao giờ tao ở một mình với Angelo. Lúc nào cũng có mẹ tao. Tao chưa hề nhìn kỹ nó bao giờ cả. Lúc bấy giờ, được ở một mình với Angelo, tao đến gần xe và tò mò nhìn nó. Một đứa bé, thật là một cái gì mới mẻ đối với tao, như một món đồ chơi.

    Tao nhìn đôi chân nó. Sờ những bàn chân hồng hào. Tao thích thú nghe nó la lên lúc tao bóp mạnh vào chân nó như thể tao ấn mạnh tay vào con búp bê. Rồi tao khám phá ra cái đầu, một cái đầu hồng hào, tròn như một trái bóng. Em tao đang nhắm mắt vì mặt trời chói. Thỉnh thoảng nó mới mở mắt ra và tao thấy rõ nó có đôi mắt thật xanh. Nhưng nó không chịu mở mắt hoàn toàn. Tao lấy tay banh mắt nó ra. Như thế tao mới hài lòng. Chúng thật đẹp, trong sáng và tao thích ngắm chúng lắm. Tất cả những gì mà Angelo có tao thích nhất là cặp mắt. tao thích mở chúng ra bởi vì Angelo cứ nhắm mắt lại thật chặt. Thấy nó không biết gì, tao bỏ nó và đi chơi đến đóng rác gần đấy. Lúc Angelo khóc, tao lại đến gần nó và banh mắt nó ra. Tao đã nhìn thấy một cái đinh trong cát. Và cũng tại tao mở mắt nó bằng ngón tay không được, tao đã dùng cái đinh để mở mắt nó ra mà nhìn. Nó khóc thét lên và vùng vẫy. Rồi thì tao ấn mạnh cái đinh vào mắt của Angelo. Mày hiểu không, tại tao muốn mở mắt mà nó cứ muốn khép lại. Tao lại thích đôi mắt quá, tao muốn ngắm chúng thử xem sao.

    "Tiếng thét của Angelo vang dội cả sân. Tao không còn biết chuyện gì xảy ra sau đó. Lúc mẹ tao đến, chiếc xe của Angelo đã đầy máu, áo trắng của tao đã đầy máu, tay tao đầy máu, má của Angelo cũng đầy máu. Với cây đinh tao đã đâm thủng mắt bên phải của Angelo, con mắt mà tao ưa thích ghê gớm. Mẹ tao la lên: Đồ sát nhân. Bây giờ tao vẫn còn nghe rõ: Đồ sát nhân.

    Mẹ tao bất tỉnh, nằm dài trên lối đi. Láng giềng chạy đến; đàn ông, đàn bà, sân nhà đầy cả người. Cha tao, vị mục sư cũng chạy đến; có cả một bác sĩ và ông chủ quán nữ .

    "Ký ức tao không còn rõ ràng nữa. Hồi đó tao dính đầy máu. Đó là tất cả gì tao còn nhớ. Đức cha và bác sĩ mang mẹ tao vào nhà. Chỉ còn lại những bộ mặt xa lạ. Một đám đông. Sau đó mẹ tao lại hiện ra. Hai người đàn bà lạ mặt cầm tay mẹ tao. Bà la to lên là phải treo cổ tao bởi tao là một kẻ phạm tội, một quân sát nhân trời sinh".

    Boris nhìn xuống đất.

    "Tất cả chỉ có thế. Từ ngày đó, nghĩa là ngày tao được ba tuổi, cuộc đời chấm dứt với tao. Tất cả mọi người, ở nhà, trong làng, tại trường học, ai cũng gọi tao là đứa sát nhân. Đối với tất cả tao là thằng phạm tội.

    "Từ ngày đó, bạn bè, thầy giáo, linh mục, hang xóm, cha tao, mẹ tao, lúc nào cũng xem chừng tao, không ngừng. Họ rình từng cử chỉ tao, từng hành động tao, từng lời nói tao, để cố khám phá ra những ý định tội lỗi.

    "Nếu vì cô ý tao đụng cùi chỏ vào một đứa bé, nếu tao bắn ná, nếu tao ném một hòn sõi, nếu cầm một con dao, một cái đinh, một vật bén nhọn, người ta sẽ kết tội tao là có ý định tội lỗi."

    Trên trời, mây đen vẫn bay về phương Đông.

    "Angelo lành bệnh, nhưng con mắt phải không còn nữa. Tao đã đâm thủng tròng mắt nó bằng cái đinh. Và con mắt xanh đã hỏng. Vòng mắt trở nên trống rổng. Mi mắt sụp hẳn xuống. Đó là một hình phạt khi tao phải luôn luôn nhìn trước mặt taotrong nhà, trước sân - vòng mắt trống rổng của Angelo. Tao nhìn con mắt trái còn lại của nó, thật xanh, thật đẹp, như một hòn đá quý, nhưng độc nhất. Bởi vì như tao đã nói, tao chưa bao giờ thấy một con mắt xinh và sang như con mắt trái của Angelo …

    "Tao không thể tự tha thứ cho mình đã dung đinh phá hủy mất ánh sáng của con mắt em tao.

    "Cũng từ đó, bắt đầu những ngược đãi đối với tao. Cha tao không còn cho tao hưởng gia tài nữa. tao không được ngồi ăn cùng bàn với Angelo và cha mẹ tao; tao phải cùng ăn với tôi tớ trong nhà. Tất cả gia tài đều mang tên Angelo. Tao đã được đối xử công minh như thế trong nhà. Angelo càng lớn lên, dân làng càng ghét tao. Mùa hè năm đó, tao đứng nói chuyện với một cô gái trước nhà. Chỉ nói được hai câu thôi. Nàng hỏi tao: "Anh có thích đôi mắt tôi không?" Tao trả lời có chứ. Tức thì, nàng lấy tay che mắt và bảo tao: "Nếu thích thì đừng chọc thủng mắt tôi". Và nàng ù té chạy.

    "Lúc tao đến trường, bọn trẻ lấy tay che mắt và la lên: "Coi chừng cặp mắt tụi bây ơi, Boris sẽ móc mắt đấy".

    - Thôi tha thứ cho tao, Pillat bối rối nói. Đừng nói nữa, tao van mày thứ lỗi cho tao.

    - Tại sao lại phải tha lỗi cho mày?

    - Tao đã hận mày vì mày đã dấu không cho tao biết là mày có một đứa em. Nhưng bây giờ tao mới biết mày không nói là phải.

    Pillat đặt tay lên vai áo không có cầu vai của Boris

    "Suốt thời kỳ tao còn trẻ, mẹ tao đã cầu trời cho tao mang bệnh, sốt tinh hồng nhiệt hay đậu lào, hay một bệnh đáng sợ nào đó để tao chết đi. Ai cũng mong tao chết đi. Người ta gửi tao đi kiếm nấm ở trong rừng bắt tao nếm thử với hy vọng tao sẽ nếm phải một chất độc và chết đi. Trong làng, trong nhà, trong xã hội, tao là đứa cần được khai trừ.

    "Từ năm ba tuổi, tao đã phả tự kiểm điểm mọi cử chỉ, vì một cử chỉ tầm thường nhất có thể bị xem như là một cử chỉ tội lỗi khiến người ta giận dữ. tao sống như thế đó, cô đơn, sợ hãi, bị khinh bĩ.

    "Mấy đứa trẻ thường vật tao xuống đất, lục túi xem thử tao có giữ đinh, dao, hay một vật bén nhọn nào không. Bởi vì tất cả cái gì tao có đều nguy hiểm. Và mỗi lần như thế chúng đánh tao. Không bao giờ tao giữ một con dao nhỏ. Tao phải cắt thịt bằng răng trong bữa ăn".

    Pillat nói: "Boris, tao thương hại mày quá, nếu tao biết như thế…

    Nhưng Boris bỗng hỏi: "Mày biết tại sao tao thi trượt không? Nếu mày muốn biết, tao sẽ nói với mày bây giờ. Bởi vì tao không thể học hành gì suốt mùa hè. Tao không có can đảm nói với cha mẹ tao là tao sắp thi toán. Để họ khỏi nghi ngờ tao phải học ban đêm. Nếu không thì đã lắm chuyện xảy ra! Họ đã xem tao như một thằng con nít ngu si. Đêm tối, thức giấc, họ thấy tao ngồi giải toán đãi số. Họ bèn cho tao một bài học như thế này: "Trời sinh ban đêm là để cho người ta ngủ, những sinh vật bình thường đều ngủ về đêm". Tức thì tao đốt hết sách vở và không thể nào học nữa. Đó là lý do tao thi rớt và bị đuổi khỏi trường là thế".

    Boris thôi kể lể. Sau một hồi im lặng, hắn nói tiếp :

    - Bây giờ mày biết hết chuyện rồi đó, mày còn khuyên tao trở về nhà nữa không ?.

    Pillat nhìn ra xa, Boris lại nói :

    - Gia đình tao chỉ chờ một cớ nhỏ để đuổi tao. Bây giờ họ có rồi đó. Trông thấy tao trong bộ y phục này, với mãnh giấy trục xuất này, họ đủ yếu tố để chứng minh tao là một đứa xuống dốc, một thằng phạm tội. Và họ sẽ hung dữ hơn nữa. Vả lại họ không cho phép tao trở về nhà nữa đâu, cho dù chỉ về trước sân nhà thôi. Trong làng cũng không ai cho tao tạm trú. Như vậy thì còn lý do gì nữa để tao trở về, mày thấy không, không còn lý do gì nữa cả.

    Một thứ yên lặng nặng nề tiếp theo ? Pillat nhấc ống quần lên một chút, rút một bao thuốc lá dấu trong giầy ra trao cho Boris, Boris vấn thuốc, tay run run.

    Pillat nói : « Chưa bao giờ tao nghe nói hay đọc được một câu chuyện đau lòng như câu chuyện của mày. Cũng chưa quen biết một ai phải chịu khổ sở như mày. Làm sao mày có đủ nghị lực để dấu kìn nổi cô đơn đó, Boris. Tao chưa hề đoán được như thế. Không đứa nào bạn bè, thầy giáo đoán được câu chuyện của mày. Một điều duy nhất mà tụi tao biết được là mày bắt đầu gầy đi và bực bội khi hè đến. Tao đã ngạc nhiên là chưa bao giờ mày có một lá thư ở nhà. Mày là đứa duy nhất không có thư; trong bốn năm, không có một lá thư. Có đúng là chưa bao giờ mày nhận thư, phải không Boris nhỉ ?

    Mắt Boris ươn ướt, hắn không trả lời Pillat. Chỉ nhìn mây bay

    Hắn thích nhìn những cuộn mây bay ngang trên đầu hắn. Về phương Đông. Duỗi chân ra hắn châm một điếu thuốc. Bỗng hắn chú ý đến đôi giầy đang mang. Đôi giầy của những «đứa bị đuổi » cũng không thành đôi nữa :chiếc bên trái to và sẩm hơn.

    Pillat hỏi : « Có bao giờ mày tìm nguồn an ủi nơi Chúa trời không ? bởi Chúa là một nguồn an ủi lớn lao cho những ai quá đau khổ ».

    Hai đứa ngồi xuống cát, hút thuốc. Boris yên lặng.

    - Mày có bao giờ cố gắng tìm về với Chúa ?

    - Tao đã cố thử. Trong hoàn cảnh tao, khi mà không thể đến gần bất cứ ai trên trần gian thì dĩ nhiên tao phải tìm đến với Chúa. Khi lần đầu tiên tao nghe có một kẻ ở bên kia thế giới - ở trên trời - biết tha thứ, tao đã nhảy vào long người với tất cả đam mê.

    - Tao tin là không một đứa trẻ nào cầu Chúa với nhiều nhiệt thành như tao. Tao không thể yêu Chúa với một tình yêu nào cao hơn nữa. Bởi tao đang cần một người biết tha thứ. Và người ta thường bảo Chúa tha thứ hết cho mọi người. Tao phải nói chuyện với Ngài luôn luôn, không ngừng, như nói với một người bạn. Tối đến tao cầu nguyện hang giờ, vừa khóc vừa cầu nguyện.

    - Nhưng Chúa có trả lời mày không? Pillat hỏi.

    - Có chứ! Nhưng mà cũng trả lời tao như mọi người thôi. Hình như Ngài cũng muốn kéo tao vào một cạm bẩy. Cho nên sau đó tao đã hết sức trốn ngài như tao đã trốn tránh loài người vậy. Chúa đã hiện hữu cạnh tao. Tao nhận được hơi thở của Ngài. Thế mà từ hồi mới sáu tuổi, tao đã chắc chắn là không nên cầu nguyện, nên tao đã tránh xa Ngài và tao phải ở vậy, cô đơn.

    - Mày không cầu nguyện nữa từ hồi sáu tuổi?

    - Không, Boris bảo hồi sáu tuổi tao đã lánh xa Chúa trời. Chỉ vì một cuộc phiên lưu tầm thường. Một buổi chiều, lúc tao đi học về không thấy cha mẹ tao ở nhà. Họ đã ra phố với Angelo. Không ai ở nhà cả. Mọi cánh cửa đều khóa kín. Tao phải ở một mình ngoài sân như mấy lần trước. Đêm đến tao vừa buồn ngủ vừa đói. Lại phải còn làm bài tập cho ngày hôm sau. Ngỡ là cha mẹ tao không trở về nhà đêm đó, tao cố tìm cách mở cửa để vào nhà. Tao cô đơn trong lạnh lẽo và sợ hãi. Cầm một sợi dây sắt, tao cố mở cửa, nhưng khó quá, tao mới có sáu tuổi thôi. Tao bèn quỳ xuống trước cửa và cầu xin Chúa giúp đỡ cho tao được vào nhà, cho tao đừng ở ngoài trời suốt đêm. Tao phải cầu xin, bởi một mình tao không thể nào mở cửa được.

    - Và Chúa đã phù hộ mày?

    - Vâng, Chúa đã phù hộ tao. Tao đã hết sức cầu nguyện, đã cầu nguyện bằng nước mắt để Ngài giúp tao mở cửa. Tao có cảm tưởng là Ngài đến bên tao, giúp tao. Trong chốc lát, tao mở được cửa vào nhà. Trời ấm quá. Sung sướng đến độ không cần không cần thấp đèn tao quỳ xuống cám ơn Ngài. Lần đầu tiên tao chắc chắn là mình không còn cô đơn trên đời. Tao đã có bạn: Chúa trời. Pillat ạ, mày không tưởng tượng nỗi sung sướng của một kẻ tìm thấy bạn trong lúc mọi người đang ghét bỏ mày. Và tao đã có bạn, một người bạn mà tao có thể gọi đến bất cứ lúc nào: tao không còn cô đơn nữa. Tao ở với Chúa, ở như thế rất lâu trước bàn thờ. Không thể xa rời, người bạn đó nữa. Bởi vì đó là báu vật duy nhất của tao khi tao đã không còn ai nữa cả - không cha, không mẹ, không bạn bè - lúc nào cũng thấy toàn kẻ thù khắp nơi, những kẻ chỉ mong tao chết đi…

    - Bây giờ đã có một kẻ không gọi tao là thằng phạm tội và sẵn sang giúp đở tao. Kẻ đó là Chúa. Đêm đó tao không có gì ăn cả, nhưng tao vẫn sung sướng, quên ăn, quên bài tập, quên mệt nhọc, quên cô đơn, quên luôn cả những niềm đau đ ớn của mình. Tao sung sướng quỳ gối trước tượng Chúa, trước người bạn duy nhất của tao, suốt đêm.

    - Nhưng lúc đó cha mẹ tao và Angelo trở về, trong những bộ y phục dạo mát. Chắc là họ đã đi ăn ở nhà hang và đã đi xem chớp bóng.

    - Mới bước vào nhà, họ đã vội nổi nóng khi thấy tao quỳ trước bàn thờ. Chưa kịp thắp đèn cha tao đã hỏi to: "Thằng phạm tội đâu rồi". Sau đó tao không còn biết gì nữa. Cha tao nhào xuống, đạp tao bằng đôi giày còn mới tinh của ông; mẹ tao cũng đến tiếp tay. Cha tao lại la lên: "Thằng phạm tội, mày tưởng là tao nuôi mày để bẻ ổ khoá, để chỉ cách cho người ở vào nhà trong lúc tao đi vắng hả?

    - Họ đánh đập tao tàn nhẫn, người tao be bét máu. Tao phải bỏ ra ngoài nhà và ngủ trên chiếc ghế dài.

    Thân thể tao đầy cả thương tích và máu me. Nghĩ đến đức Chúa trời, bạn tao, tao bảo thầm: "Lạy Chúa, Ngài biết trước tất cả những gì xẩy ra cho con như thế này, tại sao Ngài còn giúp con mở cửa làm gì? Hình như tao nghe Ngài trả lời này: "Boris. Con đã cầu xin và Ta đã giúp đỡ con hết lòng". Nhưng lạy Chúa, Ngài thừa biết những gì con cầu xin là trái phép. Ngài thấy không người con bây giờ bầm tím và đầy cả máu. Ngài thấy họ đánh đập con. Nếu Ngài đừng giúp con mở cửa sẽ không xẩy ra như thế này. Sự phù hộ của Ngài không thể là sự giúp đỡ thật lòng của một người bạn tốt được. Ở địa vị Ngài, con sẽ không giúp đở cho một ai hoàn thành một điều gì xấu xa" - Ta luôn luôn chấp nhận những gì, con người cầu xin - Chúa trả lời như thế. "Nhưng thưa Ngài, con mới có sáu tuổi, con chưa phân biệt được xấu tốt như thế nào. Tối nay xin Ngài giúp con mở được cửa con tưởng là một điều tốt: Nhưng chuyện đã xảy ra như một điều xấu. Còn với Ngài, Ngài biết rõ đâu là tốt và đâu là xấu.

    "Chúa không trả lời tao nữa hay là Ngài trả lời tiếp mà tao không nghe nữa, vì đã quá mệt. Tao đả khóc trong giấc ngủ. Tao không hận Chúa, nhưng tao sợ phải cầu xin một điều gì xấu xa. Từ đó tao không cầu xin gì nữa. Nếu tao cầu nguyện, tao sẽ nói thật giản dị - "Lạy Chúa, con xin Ngài một điều, hãy giúp con điều gì Ngài muốn."

    Ngay cả mùa hè này tao cũng không hề cầu nguyện cho kỳ thi"…

    - Mày không xin Ngài cho mày thi đỗ? Pillat hỏi.

    - Không, tao đã xin Ngài giúp tao nếu Ngài thấy thi đỗ là một điều tốt. Nhưng ngược lại, nếu tốt hơn nên để tao thi trượt …

    - Thi trượt chắc chắn không thể là một điều tốt được. Mày nói như thế thì quá đáng rồi. Trong trường hợp này, tốt với xấu khác nhau quá xa.

    - Panait Istrati đi Pháp và trở thành một văn sĩ lừng danh, cũng nhờ lúc làm bồi cho quán Braïla, ông đã bị chủ nhà đánh đập và tống cổ ra khỏi cửa. Nếu chủ quán đừng đuổi ông ta ra khỏi nhà thì ban đêm Istrati đã không mặc độc một chiếc sơ mi rời xứ sở và đã không trở thành văn sĩ như bây giờ. Ông ta sẽ tiếp tục làm bồi cho quán Braïla và biết đâu lại chẳng trở thành một chủ quán tầm thường như trăm nghìn người khác. Thế đó, trong mỗi điều xấu biết đâu lại chả có điều tốt. Chỉ vì chúng ta không biết đâu là điều tốt đâu là điều xấu mà thôi.

    - Mày muốn đi ra ngoại quốc? Pillat hỏi.

    Boris ngước mắt nhìn mây bay về phương Đông.

    - Làm sao mày biết được điều đó nhỉ! Vâng, tao muốn đi. Cũng không phải tao muốn nữa, mà tự nhiên phải vậy. Bỏ đi là một điều bắt buộc. Không còn giải pháp nào nữa. Tao muốn đi và làm lại cuộc đời. Đi đến một nơi không ai biết tao là Boris Bodnar một thằng đâm thủng mắt đứa em; một nơi không có ai nghi ngờ tao, mà các thiếu nữ mỗi lần gặp tao không còn che mắt la lên: "Anh thấy đôi mắt tôi đẹp chỉ vì anh thích đâm thủng chúng". Pillat, tao không phải là đứa hung bạo. Tao không hề muốn đâm thủng mắt ai cả. Đó chỉ là một tai nạn … Tao chỉ là một đứa bé … Tao không phải là một kẻ phạm tội.

    - Mày muốn đi đâu? Pillat hỏi.

    - Qua Nga sô, bởi vì Nga gần hơn cả. Chỉ vài giờ đi bộ tao sẽ đến sông Dniestr, sau đó tao bơi qua sông.

    Boris yên lặng trong chốc lát rồi tiếp tục: "Nội trong đêm nay, tao sẽ có mặt ở Nga sô. Vì thế tao không cần tiền. Nhưng dù sao tao cũng cám ơn mày đã cho tao tiền.

    Pillat nói: "Mày không biết sự khủng bố đang bao trùm trên đất Nga hay sao? Mỗi mùa đông mày có thấy những người tỵ nạn vượt băng giá trên song Dniestr cho dù có thể bị giết chết hay sao?

    - Tao biết chứ, nhưng sự khủng khiếp mà tao phải chịu đựng ở đây còn lớn hơn gấp bội. Vì ở đây, chỉ một mình bị khủng bố mà thôi; còn ở Nga sô, nếu thực sự có khủng bố, thì đó là một chuyện tập thể. Thực là một điều lớn lao nếu mình có được bạn đồng hành, ngay cả đồng hành trong sự đau khổ. Sự cô đơn là nỗi đau đớn lớn nhất trần gian. Người ta có thể cùng chung chịu đựng sự khủng bố lớn lao nhất, nhưng cô đơn thì chết được. Với tao, tao không nghĩ là cuộc đời tao ở Nga sô sẽ khổ hơn ở đây. Từ hồi ba tuổi đến giờ, tao chỉ biết có rình mò, nghi ngờ, kết tội nhục nhã và đố kỵ …, Với tất cả điều đó, tao tin ở Nga sô tao sẽ được tự do hơn.

    - Tại sao mày muốn bỏ quê hương mà đi. Cứ ở đây và đừng về nhà?

    Ở Lỗ Ma Ni, tao luôn luôn phải tự nhận là tao bị trục xuất khỏi trường học, tao là một đứa phạm tội đã chọc thủng mắt em. Ở xứ này, cha mẹ tao, láng giềng, bạn bè ai cũng có thể gặp tao cả. Ở xứ này, con mắt Angelo và sự kết án của mọi người theo tao suốt đời. Trái lại ở Nga sô, không ai phải lấy tay che mắt lúc gặp tao đi ngoài đường; đó là lý do chính khiến tao ra đi.

    Boris nói tiếp: "Có thể tao bị giết khi vượt qua sông Dniestr, vì biên giới được canh gác rất cẩn thận. Nhưng ý nghĩ chết chóc không làm tao sợ hãi. Tao đã quen với ý nghĩ đó hơn là ý nghĩ được sống. Nhiều lúc tao nghĩ là thà lính gác bắn tao ở biên giới đó cho khoẻ!

    - Đừng nói nhảm. Pillat bảo, và vấn thêm một điếu thuốc, vừa nhìn đồng hồ.

    "Còn 15 phút nữa mới đến giờ ra chơi" Rồi Pillat bỏi Boris thêm:

    - Nhưng tại sao mày đã dấu kín chuyện đó? Nếu mày tâm sự với tao mày sẽ thấy dễ chịu hơn nhiều. Biết đâu tao lại không giúp được gì cho mày. Mày lầm lẫn lớn khi cố tình giữ bí mật chuyện đó, đáng lý nên nói với tao là hơn.

    - Nếu tao kể cho mày nghe, biết đâu mày chẳng coi chừng tao để xem thử tao có phải là một "quân sát nhân trời sinh" hay không?

    - Dĩ nhiên là không?

    Boris nhìn mấy mảnh giấy và ít tiền trong bao thuốc của Pillat. Pillat bảo:

    "Tao muốn làm bất cứ điều gì cho mày, bất cứ điều gì mà mày thích"

    - Tao không muốn đòi hỏi gì ở mày cả. Mà thật ra tao đòi hỏi gì ở mày bây giờ chứ và hắn tiếp tục nhìn vào bao thuốc lá. Pillat lập lại:

    - Tao sẽ làm bất cứ điều gì mà mày muốn.

    - Tao thấy mày có một chiếc ảnh trong bao thuốc (Boris đỏ mặt). Chắc là ảnh của một đứa con gái. Mày có thể cho tao hay không nhỉ?

    - Tao sẵn sàng cho mày đấy, Pillat nói thế, và rút tấm ảnh ra, chiếc ảnh một nữ sinh loại nhỏ như ảnh căn cước, nhỏ bằng một con tem mà thôi.

    - Có phải bà con của mày không? Boris vừa hỏi vừa cầm tấm ảnh, nhìn cô gái trong bộ đồng phục cổ trắng.

    Đó là ảnh một thiếu nữ trạc tuổi chúng, đang còn vị thành niên. Pillat trả lời: "Đó là một nữ sinh trường âm nhạc, tên Eddy Thall. Tao cũng chỉ biết có thế mà thôi. Không phải nàng cho tao tấm ảnh, tao tìm thấy nó trong một cuốn sách ở thư viện trưởng.

    Cả hai đứa cùng ngắm vẻ đẹp ngây thơ của Eddy Thall. Pillat bảo:

    - Nàng đẹp lắm. Đang theo học khiêu vũ và nghệ thuật diễn xuất.

    - Mày yêu nàng lắm hả? Boris hỏi.

    - Tao chưa có dịp nói chuyện nhưng tao yêu nàng vô cùng. Tao chỉ thấy nàng đi với bạn bèn ngoài phố vào một dịp nghỉ hè.

    Người con gái trong ảnh mỉm cười. Pillat nói:

    - Tao cho mày đấy, mày có thể cầm lấy.

    - Không, tao không lấy đâu. Boris trả lời, và đưa trả tấm ảnh cho Pillat. Pillat hỏi: "Mày không thích hay sao?’’

    - Thích lắm chứ, với lại nàng đẹp lắm, Boris ngập ngừng chốc lát, tao thích đem ảnh này theo lắm. Có nó tao cũng bớt cô độc, ít nhất tao cũng còn một tấm ảnh bên mình.

    - Thì mày lấy đi.

    Tấm ảnh của Eddy Thall vẫn ở giữa hai đứa, trên cát.

    "Tao sẽ bơi qua sông Dniestr. Nếu tao mang theo, nó sẽ hư mất. Rút cục, tao cũng không có nó lúc qua bên kia sông ; tao cũng vẫn cô độc. tấm ảnh lại cũng mất đi. Như thế tao mang nó theo là phi lý. Tao từ chối là phải. Tuy nhiên trong thâm tâm tao vẫn thích cô nó bên mình’’

    Đến giờ ra chơi, Pillat cầm lấy tấm ảnh, bọc lại trong một mảnh giấy dầu và bỏ vào bao thuốc. Pillat nhét bao thuốc vào giày xong, bèn lẫn vào đám đông đang tràn ngập sân trường võ bị Hoàng gia Kichiev.

    Boris ở lại một mình, cúi gầm xuống đất. Hắn thầm nhủ : ‘’ Đến không còn cả một tấm ảnh bên mình. Mình không mang theo tấm ảnh của cô nữ sinh trường âm nhạc đó, nhưng mình sẽ mang tên cô ấy theo. Và với tên nàng trong lòng, mình sẽ bơi quan bên kia sông Dniestr ?’’

    Khi người ta không còn gì nữa cả. Hoàn toàn không còn gì cả, thì chỉ một tên người con gái biết được nhờ một tấm ảnh mà thôi cũng là một điều đáng kể rồi. Chỉ cái tên thôi. Tên rất đẹp. Thật đẹp. Và boris thấm gọi : ‘Eddy Thall’ Vừa thầm gọi tên nàng vừa mỉm cười ; hắn lập lại : ‘Eddy Thall’ …




  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    IX
    Bảy người đã trốn lên đến đỉnh đồi. Họ dừng chân lại để ngắm cảnh làng thân yêu, không ngờ đúng lúc đó một ngôi nhà bốc cháy. Ai cũng tưởng là ngôi nhà mình đang cháy, và cố để đoán xem thực sự nhà ai đang cháy, nhưng Kostaky quả quyết :

    - Đúng là nhà tôi.

    Và ông toát mồ hồi lo sợ. Trao bị rết cho Marie, ông cắm đầu cắm cổ chạy về nhà. Mấy người kia muốn cản lại nhưng vô ích. Kostaky vẫn chạy về hướng đám cháy. Marie chạy theo bị vấp ngã. Pillat phải dừng lại để đỡ nàng dậy, và Kostaky đã mất hút vào bóng đêm, băng qua vườn tược, trông thấy rõ căn nhà Pillat đang cháy. Lúc đến gần, ông ta thấy rõ lửa đã đến mái nhà và mọi người đang đứng nhìn, không ai nghĩ đến chuyện chữa cháy.

    Kostaky hét to:

    - Vô lý, không thể như thế được. Cả làng nhìn nhà ta cháy mà không ai lại gần dập tắt cả.

    Kostaky dụi mắt, cố để không tin những điều nhìn thấy:

    - Ngay cả nhà kẻ thù bốc cháy người ta còn đến cứu thay huống hồ mình không là kẻ thù của ai hết.

    Kostaky nhảy qua hàng rào để chạy đến nhà cho nhanh, nhưng lúc đó ông nghe đạn nổ khắp nơi. Ông ta nghe rõ tiếng la của những thanh niên quanh đó:

    - Tên sát nhân trước mặt chúng ta đó, bắt nó ngay đi. Và mọi người nhắm hướng Kostaky chạy đến.

    Kostaky lạ lùng tự hỏi:

    - Tên sát nhân là mình ư? Dân làng Piatra bảo mình là sát nhân? Một viên đạn reo lên trong lùm cây. Kostaky đau nhói ở ngực, rồi ngã chúi xuống đám cỏ ẩm ướt. Hai tai trước đó còn nghe rõ «đúng nó, tên sát nhân đó», bây giờ không còn nghe gì nữa cả, chỉ còn tiếng vù vù như tiếng chong chóng phát ra từ đầu rồi loãng dần khắp châu thân.

    Kostaky thầm hỏi:

    - Mình là sát nhân ư? cả làng lùng bắt mình hay sao? và họ muốn bắn mình ư?

    Thân thể dẫy dụa trong đống bùn, Ion Kostaky vẫn muốn biết có phải là chính ông mà dân làng xem như sát nhân và muốn lùng bắt hay không? Kostaky vẫn muốn biết tại sao dân làng Piatra lại đứng khoanh tay nhìn nhà ông cháy, tại sao cả làng cùng tìm bắt ông ta. Đó là ý nghĩ độc nhất lúc thân thể đã buông xuôi, sức lực theo với máu chảy ra bên ngoài, lúc thân thể ông đang nằm dài trong đống bùn, mà phải áp xuống đất ẩm ướt. Mặt đất mát dượi như tấm băng êm trên má, trên vai, trên ngực. Thân thể ông cố chống cự như để lún sâu vào lòng đất, đúng là đất làng Piatra có mùi thơm mát. Mảnh đất in dấu mặt và má Kostaky như không bao giờ muốn quên ông, giữ mãi nét mặt bờ vai của ông. Dấu vết đó còn lẫn chút máu, mảnh đất đó không bao giờ quên ông ta cả. Thế là Kostaky bất tỉnh, trong lúc giòng tư tưởng còn nghĩ về căn nhà đang cháy và không ai màng đến chuyện cứu chữa, nghĩ về cảnh dân làng chạy về phía ông ta, mồm la to: «tên sát nhân đó». Và chỉ có thế thôi.

    X
    Lúc tỉnh dậy, Kostaky nhớ lại lời cầu nguyện của cha Thomas Skobai, nhớ lại cuộc trốn đi của bảy người bạn, lúc dừng chân trên đồi, tưởng đến căn nhà bị cháy rụi lúc ông vội vã trở về. Tất cả đều là sự thật. Ông lại nhớ đến lúc lính gác nhắm bắn vào người ông, đến dân làng Piatra vừa đuổi theo ông vừa la to : «tên sát nhân kia», và ông thầm nghĩ :

    Không thể như thế được, chắc mình nằm mộng đó thôi.

    Ông kéo lê thân thể trên bãi cỏ, trong bóng tối, Kostaky trông rõ rằng nhà ông còn đó, nhưng nhà Marie chỉ còn một đống tro tàn. Kostaky buồn rầu lý luận: «Vết thương mình có thật, đám cháy có thật. Tất cả đều là sự thật, vậy thì chuyện dân làng cho mình là kẻ sát nhân cũng là chuyện có thật».

    Suy nghĩ một lát, Kostaky buồn rầu quay mặt bò về phía khu rừng. Bởi lẽ dân làng Piatra đã đốt nhà Marie, đã cho ông ta là kẻ sát nhân và cố tính muốn giết, thì còn lý do gì cho ông ở lại nữa. Tất cả vết thương đều bỏ hở và đang chảy máu, nhưng có lẽ vết thương lòng của ông ta là đang chảy máu nhiều hơn hết.

    Một ý nghĩ thoáng hiện trong đầu óc :

    - Marie, Pierre, Vornik bây giờ đang ở đâu? Và họ hàng bà con mình nữa? Iléna rồi sẽ ra sao?...

    Trời hừng sáng, Kostaky vẫn cố lết về phía khu rừng, bởi ông không còn muốn trở lại làng nơi mà mọi người đã đốt nhà ông và cố tình tìm giết ông.

    °

    Ở Piatra, lúc về sáng dân làng đã thấy xe hơi của Boris Bodnariuk. Với bộ y phục muôn đời của hắn, hắn lạnh lùng bước vào trụ sở phường, không cần nhìn dân làng, không cần chào trả mọi người.

    Hắn bình tĩnh lắng nghe bản báo cáo của Severin và không tỏ vẻ gì bất bình về vụ phạm nhân bỏ trốn. Hắn nói:

    - Tụi đó sẽ trở về và chúng ta sẽ bắt họ lại. Dân quê lúc nào cũng trở về làng mạc của họ, họ là thứ súc vật ngu nhất vũ trụ, luôn luôn làm nô lê cho mảnh đất của họ, và không bao giờ muốn rời bỏ nó cả.

    - Đồng chỉ có cần điều tra cha Thomas? Severin hỏi.

    - Không.

    - Thế Iléna Kostaky?

    - Giải về Molda. Chúng sẽ bị kết án là giúp đỡ cho kẻ thù, và sẽ chết trong tù.

    Thế là lính gác giải cha Thomas và Iléna về phố. Đức cha đi thẳng người, vì cha không còn thấy gì nữa. Cạnh đó, Iléna luôn miệng khóc, bởi vì nếu cha Thomas lúc nào cũng mang hình ảnh ngôi nhà thờ thì Iléna lúc nào cũng trông bóng chồng bà, con gái và Pillat. Cũng như bao nhiêu người đàn bà khác trên thế giới, Iléna Kostaky chỉ biết có nhà cửa và chồng con, vị linh mục đi bên cạnh chỉ biết có nước Chúa thì bà ta cũng chỉ biết có nhà cửa của mình. Vị linh mục mù lòa đó có thể mang vào tù ngôi nhà của Đấng tối cao và không ai có thể giành giựt được. Nhưng với Iléna lại khác, cứ mỗi bước đi, bà ta lại xa nhà thêm một chút. Cho nên, bị áp giải đi xa thật chẳng khác nào có những lát dao đâm vào thân thể bà.

    Qua các khung cửa, dân làng sợ hãi nhìn cảnh tượng đó. Chỉ qua một đêm, 3 người dân làng đã biến mất, mấy người khác trốn vào rừng, chẳng ai hay.

    Thế là hết, Ion Kostaky. Thế là hết, Iléna và đức cha Thomas, và Marie, Pierre Pillat bây giờ ở đâu? Boris bảo Severin :

    - Đồng chí bỏ chiếc xe gắn máy lại cho người đến sau, vì đồng chí không còn cần nó nữa. Người ta sẽ nhờ đồng chí vài việc ít rắc rối hơn, vì đồng chí không làm nổi việc bắt người đi đày.

    Và người ta thấy Severin cũng ra đi.

    Đêm đó, con nít trong làng cũng khóc trong giấc ngủ. Và một con mèo không hiểu từ đâu chạy đến đống tro tàn của căn nhà Marie và Pillat, dừng lại trong chốc lát. Nhưng tro còn nóng quá, con mèo lại biến nhanh vào bóng đêm.



    Phần thứ BA

    I
    Pillat và Marie tìm Kostaky suốt đêm không thấy, đến đêm sau cả hai người phải bò rừng lần mò về làng Piatra. Marie đến một căn nhà đầu làng dò hỏi một người em họ, trong lúc Pillat chờ ở trong một vườn cây. Lúc trở ra, Marie khóc nức nở báo hung tin :

    - Họ bắt mẹ em đi rồi. Nhà thì bị đốt. Và cha em ra sao thì không ai được biết cả.

    Nỗi lo sợ tràn ngập khắp làng, và ai cũng muốn trốn đi. Marie và Pillat đành quay lui vào rừng, tạm ở vào khu vực gần làng để tìm cách trở về một lần nữa. Nhưng đâu đâu cũng có lính Nga gác. Kostaky vẫn bặt tin. Mỗi ngày số người trốn đi càng tăng thêm. Lính Nga bắt đầu lục soát khu rừng buộc lòng Marie và Pillat phải trốn sâu hơn vào rừng. Và trong vài tuần, họ bắt đầu gặp một số người Hung gia lợi, Ba lan và Đức, cùng nhiều người thuộc nhiều quốc tịch khác nhau, nhưng tất cả trốn đi vì một lý do duy nhất là họ sợ người Nga. Đêm đêm, họ về làng kiếm thức ăn, xong lại phải trốn sâu vào rừng. Một đêm nọ, họ gặp một số người Mỹ lái xe Jeeps rồi họ được người Mỹ dẫn về một ngôi trường.

    Marie muốn kể lại cho họ nghe mẹ nàng bị bắt ra sao, cha nàng trốn mất như thế nào, vì sao nhà nàng bị cháy, hàng rào bị phá mất... Những người Mỹ đã quá hiểu những điều đó. Mỗi ngày, hàng trăm người từ các khu rừng trở về đều kể lại tại sao cha mẹ họ bị giết, nhà bị cháy, hàng xóm bị bắn. Ai cũng kể từng ấy chuyện cho đến nỗi chúng trở thành chuyện tầm thường của mỗi ngày...

    Marie nằm dài trên ghế trong khi Pillat bắt chuyện với một người Nam Tư. Ông này cho biết:

    - Chúng ta sẽ ở đây một đêm thôi. Ngày mai người Mỹ sẽ phân loại chúng ta.

    Anh chàng Năm Tư ăn mặc cũng giống các người khác, bộ đồng phục quân đội hầu như biến thành đồ dân sự vì dính đầy bùn, nhưng ông ta có dáng dấp của kẻ trí thức. Đôi mắt mệt mỏi vì đọc nhiều sách, vì lo âu giống như những chiếc ống điếu đã bị cháy mòn. Ông cho biết tên ông là Ante Petrovici, vừa là tiến sĩ luật khoa vừa là thạc sĩ toán. Pillat cũng kể cho ông ta nghe về lộ trình trốn tránh của hai vợ chồng từ Hung gia lợi qua Tiệp khắc đến Áo quốc. Pillat bảo :

    - Chúng tôi không ngờ là đang ở trong vùng kiểm soát của người Mỹ. Chúng tôi đi kiếm thức ăn, tình cờ gặp xe Jeeps của người Mỹ mới biết, và đây là đêm đầu tiên chúng tôi ngủ mà không sợ người Nga bắt giữ. Thật sung sướng.

    Bác sĩ Ante Petrovici bước đến cửa sổ nhìn những dãy nhà gạch năm từng có kẽm gai bao quanh, có đèn pha chiếu sáng như những lâu đài thời cổ vào các dịp quốc lễ.

    Ante Petrovici cho biết:

    - Đó là trại tập trung của phạm nhân chiến tranh.

    Marie nghe câu đó buồn rầu nghĩ đến cha nàng ở Piatra; người Nga cũng gọi cha nàng là phạm nhân chiến tranh. Pillat cũng là một thứ phạm nhân chiến tranh. Tất cả những người nàng thương yêu đều là phạm nhân chiến tranh cả sao? Cho nên đối với Marie danh từ đó đồng nghĩa với lương thiện, với nạn nhân, với những danh từ «cha mẹ chồng con»... Bởi vì nàng cũng bị Severin coi như là phạm nhân chiến tranh.

    Pillat nhìn dáng đi nghiêng nghiêng của Petrovici có ý ngạc nhiên. Ông ta trả lời ngay :

    - Tôi có phải đánh giặc mà bị què chân đâu. Tôi bị tật từ hồi mới sinh. Mọi người đều có một khoảng trống ở lòng bàn chân, nơi tôi không có như thế, mỗi lần đi tôi chạm bàn chân sát mặt đất nên hình như một chân ngắn hơn chân kia, vì thế tôi phải đi cà nhắc. Tôi vẫn thường tự hỏi là tôi có phải là một kẻ tàn phế hay không.

    Qua cửa kính, mọi người trông rõ nào xe tăng nào xe Jeeps có đầy đủ lính tráng mang súng ống sẵn sàng, bên trong Petrovici vẫn nói với Pillat:

    - Vài mi li mét đó thì hẳn là lúc nào cũng thiếu rồi, nhưng tôi không phải khi nào cũng đi cà nhắc đâu. Khi nào tôi có gì phiền nào tôi mới đi cà nhắc, lúc nào tâm hồn thanh thản tôi lại đi như người thường. Như vậy thì tình trạng tâm linh tạo ra nhiều hậu quả hơn là thiếu thốn một vài mi li mét ở lòng bàn chân.

    Bên ngoài lại có tiếng súng bắn, tiếng máy phóng thanh truyền lệnh. Ante Petrovici tiến về phía cửa sổ, lúc đó ông đi cà nhắc có vẻ nặng hơn lên và nói :

    - Lều chính giữa tập trung tù binh Sô Viết. Người Mỹ muốn trả họ về Nga sô nhưng họ từ chối và đòi tự tử. Người Mỹ đành phải dùng vũ lực để gởi họ trở lại Nga sô.

    Marie đứng dậy nhìn căn lều tù nhân Nga, nghe Petrovici kể chuyện về lối 200 người Nga vừa mới bị tập trung cách đây chừng vài giờ.

    Một toán lính Mỹ đến gần cửa sổ có vẻ dọa nạt. Cả ba người biết là họ không được phép dòm ngó như thế nên đành nằm dài xuống ghế. Nằm để nghe tiếng xe tăng gầm thét bên ngoài và nghĩ đến những tù nhân thà tự tử chết còn hơn là bị đưa về Nga sô. Ante Petrovici lại nói :

    - Chết bằng cách lưu đày thì dễ, nếu họ có tự tử hay bị lính Mỹ giết đi thì họ cũng không khổ sở bằng cái chết đầu tiên của họ. Anh còn nhớ câu thơ của Ovide không?

    Cum patriam amisi tum me periisse putato

    et prior, et gravior mors fuit, illa mihi.

    nghĩa là cái chết đầu tiên và cũng là cái chết đau đớn nhất là lúc phải rời bỏ tổ quốc.

    Căn lều chính giữa đã bắt đầu bốc cháy, khói lên nghi ngút. Marie che mắt. Ngay cả đêm nay, đêm đầu tiên thoát khỏi tay người Nga, nàng cũng không hề ngủ được. Có một số người bị đốt cháy ở ngoài kia.

    II
    - Chúng tôi thà chết còn hơn là trở về Sô Viết. Bởi vì Sô Viết sẽ treo cổ chúng tôi lên cây ở bên vệ đường. Tôi, tướng Grisha Costak và tất cả anh em ở đây chúng tôi đã chiến đấu trong bốn năm cho Vinh quang và cho tổ quốc Sô Viết. Nếu chúng tôi có điều gì lầm lỗi, người Mỹ các anh hãy treo cố chúng tôi đi.

    Lính Nga đã chiến đấu bên cạnh các anh trong suốt thời kỳ chiến tranh. Trong bốn năm, báo chí các anh đã nói đến sự can trường của tướng Grisha Costak, tại sao bây giờ các anh muốn tôi bị treo cổ vào ngày chiến thắng.

    - Nếu ông là anh hùng tại sao lại sợ phải trở về Sô Viết?

    Viên chỉ huy trưởng trại giam vừa hỏi vừa nhìn đồng hồ tay. Ông ta được giao phó phận sự chở những công dân Sô Viết về nước, và họ nhất quyết không chịu, y theo lời tướng Costak. Ông ta nói khích Costak:

    - Một người Mỹ bị bắt không bao giờ sợ phải trở về nước. Nếu hắn sợ thì có nghĩa là hắn đã phản bội hay là trong thâm tâm đã có điều gì mờ ám rồi.

    - Người Mỹ các anh không hiểu cái khỉ khô gì về Nga sô cả. Tôi đã nói với các anh bao nhiêu lần rằng Mỹ quốc không phải là Nga sô và Nga sô không thể nào giống Mỹ quốc. Luật lệ các anh không có điều gì giống luật lệ Sô Viết cả. Một viên đại úy như anh thì đầu óc để đâu cả mà không hiểu nổi một điều giản dị như thế. Tôi phải kể lại từ đầu cho anh nghe một lần nữa : Tôi, tướng Grisha Costak và toàn thể anh em nơi đây, chúng tôi đã chiến đấu anh dũng cho đến lúc bị tụi Đức bắt cầm tù. Chúng tôi bị thương gần như đã chết trong một loạt trọng pháo địch, vì vậy tụi chúng mới bắt sống chúng tôi.

    Costak chỉ vết sẹo trên đầu, trên cổ, trên ngực ông ta, xong nói tiếp:

    - Lúc lính Đức tiến đến, chúng tôi đều bất tỉnh hết cả. Mà anh biết là lính Nga không được bị bắt làm tù binh. Chỉ có thắng hoặc chết chứ không được làm tù binh. Nhưng lúc đó chúng tôi bất tỉnh nên không thể tự vận được. Chương 193 của bộ hình luật Sô Viết và điều 270 của năm 1942 quy định rành rành là quân nhân nào bị bắt sống trong tay địch là một kẻ phản bội. Mà ai phản bội đều bị treo cổ. Đó là điều được ghi vào chương 14 của bộ luật nói về các tội phạm quân sự, ghi trong bách khoa từ điển Sô Viết số 289. Theo luật lệ và phong tục Sô Viết chúng tôi phải bị treo cổ. Nhưng chúng tôi đã chiến đấu trong bốn năm để quét sạch lũ phát xít Đức không phải là để bị treo cổ vào ngày chiến thắng quân Đức. Không phải chúng tôi giải phóng tổ quốc xong để bị treo cổ.

    Viện đại úy Hoa Kỳ đã bắt đầu nản chí. Ông ta lại nhìn đồng hồ, châm một điếu thuốc Lucky Strike :

    - Không phải tôi đến đây vì điều đó. Tôi có bốn phận trả các anh về cho Sô Viết. Và chỉ có thế thôi.

    - Anh không thể làm như thế. Anh có thể trả xác chết chúng tôi về cho Sô Viết thì được, nhưng phải giết chúng tôi trước đã. Tôi không nghĩ là người Mỹ muốn giết lính Nga đã chiến đấu bên cạnh trong suốt thời chiến?

    - Tôi không làm chính trị. Tôi phải dẫn các ông đến biên giới để giao cho Sô Viết như tôi đã nhận được lệnh như thế. Phần còn lại không liên quan gì đến tôi cả. Nếu các ông chống cự, buộc lòng chúng tôi phải dùng đến vũ lực.

    Một người lính Mỹ, mang nón M.P., găng tay trắng, giây lưng trắng, đùi cui trắng, đẩy nhẹ Costak và ra lệnh:

    - Đi thôi.

    - Hoa Kỳ không thể giết bạn đồng minh, hay là trời sẽ hại họ...

    - Đi thôi.

    Và Costak bị đẩy ra ngoài về phía căn lều của tù binh Nga sô.

    III
    Tướng Grisha Costak bị lính dẫn trở về lều. Lần điều đình sau cùng với vị chỉ huy người Mỹ thế là thất bại. Ông ta phanh ngực cởi áo. Ngực to như vị hộ pháp, hít đầy hơi vào như để thách thức với lưỡi lê. Bây giờ không còn là chuyện lưỡi lê nữa, mà là hàng trăm con mắt đang nhìn Costak hiên ngang giữa những quân cảnh Mỹ.

    Costak cười nói :

    - Hoa kỳ đã quyết định trả chúng ta về tay Sô Viết, tôi có ý bảo với họ rằng nếu tôi còn sống họ không thể làm điều đó được. Tôi sẽ kháng cự, và ai có muốn ở lại với tôi thì cứ việc. Chúng ta sẽ đóng chặt cửa lại. Và chúng ta sẽ kháng cự ở đây cũng như lúc chúng ta tranh đấu trong rừng của tổ quốc Nga sô chúng ta. Lần kháng cự này sẽ không mang lại ngày chiến thắng cho chúng ta mà là cái chết, nhưng trong chúng ta nào có ai sợ chết?

    Sân trại giam đã đầy lính Mỹ mặc quần dài bò sát người, áo mão súng ống đầy đủ. Costak chỉ vào họ:

    - Nếu ra trận, không bao giờ lũ con nít đó thắng ta nổi. Costak thở dài, ông ta hỏi thử có ai muốn đi không, nhưng không ai thèm trở về Sô Viết. Và đồng thanh quyết định chống cự đến cùng. Costak lấy làm hãnh diện và ra lệnh đóng chặt cửa.

    Xe tăng đã tiến vào sân. Máy phóng thanh gọi:

    - Xin các tù binh hãy ra sân điểm danh và bắt đầu đi.

    Costak giận dữ :

    - Tụi Mỹ vẫn còn chưa hiểu là chúng ta không chịu để họ mang đi. Tôi mới nói với họ cách đây vài phút là chúng ta không muốn rơi vào tay Sô Viết, nhưng tụi nó chẳng chịu hiểu gì ráo.

    Máy phóng thanh tiếp tục truyền lệnh. Một đại đội quân cảnh đã bao vây căn lều. Chưa bao giờ lính Mỹ tiến vào trại tù mà có mang khí giới, nhưng bây giờ họ muốn mang đầy đủ khí giới trước khi vào.

    Costak lên tận tầng lầu thứ năm, đứng ở cửa sổ. Viên sĩ quan phụ tá báo cáo tình hình ở trong sân như là ông ta vẫn có thói quen ở chiến trường:

    - Lính Mỹ gồm chừng hai đại đội. Vũ khí nhẹ, tự động, lựu đạn cầm tay, có súng sáu đàng hoàng.

    Hai trăm tù binh lắng nghe lính Mỹ phá cửa chính.

    Viên sĩ quan phụ tá tiếp tục báo cáo :

    - Lựu đạn cay ở từng dưới nhất. Không còn ai ở đó nữa.

    Rồi ông ta thò đầu ra cửa, có cảm tưởng như đang ở chiến trường nhìn lính Mỹ thận trọng tiến lên, Costak ra lệnh:

    - Tất cả lên hết từng chót. Nằm xuống nền nhà và đừng đến cửa sổ.

    Súng ống xe tăng của Mỹ hướng về căn lều, chờ lệnh phát hoả. Máy phát thanh vẫn yêu cầu tù binh bước xuống, nếu không lính Mỹ sẽ nổ súng.

    Costak hỏi lại một lần nữa ai muốn ra hàng, lệnh truyền miệng, nhưng chẳng ai nhúc nhích.

    Lính Mỹ tiến lên từng thứ nhất. Costak được thông báo chi tiết đầy đủ. Ông ta muốn châm một điếu thuốc, nhưng không ai còn lấy một điếu. Lính Mỹ đã bắt đầu dùng chất nổ phá từng dưới. Costak áp má xuống sàn nhà. Trên chiến trường Nga mỗi khi mất liên lạc với bộ chỉ huy Hồng quân, và mỗi khi phải tự mình quyết định một điều gì quan trọng, Costak thường áp tai xuống đất và nghe lòng đất ra lệnh.

    - Tôi rất sung sướng là không ai trong chúng ta muốn trở về, thà chết còn hơn. Nhưng tai hại là chúng ta không bị quân Đức giết mà lại bị bạn đồng minh giết chết sau ngày chiến thắng...

    Costak lại áp tai xuống sàn nhà, lính dưới quyền đã quen thuộc với thái độ của ông tướng vào những lúc chiến trường gặp hiểm nghèo, vì Costak vẫn thường nói:

    - Chúng ta tranh đấu dưới sự chỉ huy tối cao của đất mẹ, chúng ta phải biết nghe mệnh lệnh truyền đi từ lòng đất quê hương và phải thi hành đúng đắn mệnh lệnh đó.

    Vầng trán Costak nhăn lại buồn rầu:

    - Tai tôi không còn nghe gì nữa. Tiếng nói từ lòng đất Nga, từ vị chỉ huy tối cao của tổ quốc không thể truyền mệnh lệnh được nữa.

    Thay vào đó, người ta nghe tiếng súng nổ ở các từng dưới, tiếng nói ở máy phóng thanh và tiếng gầm thét của các chiếc xe tăng ở sân trại giam. Costak bảo:

    - Đất Nga xa quá, chúng ta không nhận được mệnh lệnh nữa rồi.

    Chỉ còn lại một mảnh đất xa lạ không bao giờ nhắc nhở đến những nông dân Nga sô cùng cuộc đấu tranh bảo vệ ruộng vườn của họ. Chỉ còn lại một mảnh đất không nói cùng một thứ tiếng với họ mà thôi.

    Và khi một người lính báo cáo là quân Mỹ đã lên từng thứ tư thì Costak bắt đầu đứng dậy, hỗn loạn cũng bắt đầu. Cửa hành lang từng thứ năm bị phá vỡ, vài người đã bị bắt. Viên sĩ quan phụ tá Costak báo cáo:

    - Chừng hai mươi bạn đã bị trùm mền dẫn xuống sân.

    Costak ra lệnh:

    - Tất cả đứng dậy.

    Họ chứng kiến bạn đồng hành bị trùm mền đi giữa hàng lưỡi lê và chất lên cam nhông, mặc dù bọn họ đã vùng vẫy để cố thoát ra.

    Costak bảo:

    - Việc đó không thể xảy ra cho chúng ta được.

    Nói thế xong, ông ta đứng thẳng trên bờ thành cửa sổ, nhìn lính Mỹ ở bên dưới và la to:

    - Bắn đi.

    Ông ta xé áo phanh ngực, chỉ chỗ cho lính Mỹ bắn vào. Thân hình to lớn chật cả khung cửa sổ đang làm bia cho khẩu súng ở bên dưới.

    - Nào, bắn đi, bắn vào tướng Costak đây. Tôi đã cùng quân nhân Nga sô giải phóng cho đất Nga khỏi tay quân thù, để cho nông dân kiếm ăn trên mảnh đất quê hương. Chứ chúng tôi không đánh giặc để thấy nông dân bị treo cổ vào ngày chiến thắng. Hỡi các bạn đồng minh Hoa Kỳ, hãy bắn chết tôi đi.

    Costak đấm vào ngực thình thịch. Quả đấm, có thể làm thủng một bức tường, không đủ sức để đâm thủng bộ ngực hộ pháp đó. Nhìn khí giới đang nhắm về phía mình, Costak hỏi:

    - Các anh muốn bắt sống tôi chăng? Tại sao không bắn đi? Không thể nào các anh bắt sống tôi được đâu.

    Costak nhìn xuống đất đầy cả dấu chân tù binh. Ông ta muốn nhảy qua cửa sổ xuống đất, nhưng chết như thế dễ quá, bao nhiêu cặp mắt thuộc hạ đang lo lắng nhìn ông.

    - Xé bỏ hết áo quần đi.

    Vừa ra lệnh Costak vừa xé bỏ áo quần, dùng răng cắn ra từng mảnh. Lính tráng cũng làm theo, giận dữ như muốn cắn nát kẻ thù.

    Trong khoảnh khắc, lính của tướng Costak đều trần truồng, để lộ những thân hình lông lá, như những chiếc xe tăng có đầy đủ khí giới, họ nắm tay, nghiến răng kèn kẹt. Costak giải thích:

    - Để cho họ giao trả chúng ta về Sô Viết hoàn toàn trần trụi. Để cho sự ô nhục của người Hoa Kỳ được trọn vẹn.

    Đã đến gần sát, lính Mỹ chỉ việc ném lựu đạn cay mà không bắn vào người nào. Họ muốn bắt sống tốt hơn. Nhưng nhóm người trần truồng đó vẫn cố tạo những chướng ngại vật. Và theo lệnh của Costak, họ leo hết lên mái nhà. Đèn pha chiếu sáng lên đó, trông họ như những tượng đồng ngày đại lễ.

    - Đốt. Costak ra lệnh.

    Mảnh áo, mảnh vải thi nhau cháy. Ngọn lửa lan nhanh từ mái nhà. Lính Mỹ nghẹt thở vì khói phải rút lui. Nhưng sau khi mang mặt nạ vào họ lại leo lên.

    - Ai không bị cháy phải cắt mạch máu để đừng bị bắt sống, trong tay bạn đồng minh. Hỡi các bạn anh hùng, tướng Costak, vị chỉ huy của những khu rừng Nga sô đang cắt mạch máu để vĩnh biệt các bạn.

    Costak cầm chặt lưỡi dao cạo có để chữ «Made in USA» và cắt mạnh vào mạch máu ở tay trái. Máu chảy như suối, chảy giữa lửa và khói. Nhiều người khác làm theo, máu hòa lẫn trong đám cháy, thân thể bắt đầu bị thiêu sống, tường sập, thịt bị nướng chín, máu, lửa, thịt chan hòa.

    Niềm luyến tiếc lớn lao của tướng Costak là phải chết trước khi nhìn thấy bạn đồng đội cùng mảnh đất Ukraine. Dù đã ở cạnh nhau nhưng trong cơn hấp hối họ không thể nhìn ra nhau giữa đám khói mịt mù. Ánh mắt họ giao nhau qua máu lửa, qua bóng đêm, như những lưỡi gươm chéo nhau vì một lời thề.

    Thân thể bị thiêu sống, trần truồng, họ không còn nhận ra nhau. Chỉ có Chúa mới thấy họ nổi.

    Viên sĩ quan chỉ huy trại giam đứng nhìn căn lều bốc cháy vừa suýt soa :

    - Những người lính du kích đó thật kỳ dị. Họ không thể nào hiểu là có một hiệp ước về điều nầy. Và tôi chỉ thi hành phận sự. Tôi đã giải thích cho họ nghe là chính phủ Hoa Kỳ đã ký hiệp ước với Sô Viết sau ngày chiến thắng. Vậy thì phản kháng lại chỉ là điều ngu xuẩn khi đã có sự ký kết giữa hai chính phủ.

    IV
    Marie thức dậy muộn ngày hôm sau, vì đêm trước nàng chỉ ngủ đôi chút sau khi đám cháy đã được dập tắt và xe tăng có gắn máy phóng thanh bỏ đi nơi khác.

    Lính Mỹ làm việc suốt đêm, nên hôm sau mọi việc đều yên ổn, dù mùi thịt cháy vẫn còn phảng phất trong không khí và dính vào tóc, vào áo những kẻ tị nạn. Ante Petrovici hỏi :

    - Có phải đây là đêm đầu tiên bà ngủ ở phương Tây không?

    Nếu vậy bà đã thấy một cảnh thật ngoạn mục.

    - Thế người ta có cứu các tù nhân đó không?

    - Có thể có một vài người được cứu sống. Lúc nửa khuya, lính Mỹ đem các máy cứu hỏa khổng lồ. Mỹ thì lúc nào cũng có máy móc vĩ đại. Tù nhân nào chưa bị chết cháy sẽ bị làm... tù nhân lần thứ hai. Họ sẽ được gởi đến bịnh viện để săn sóc các vết bỏng. Sau khi đã lành lặn họ lại bị trả về Sô Viết để bị treo cổ. Người Hoa Kỳ văn minh lắm, họ không để cho Sô Viết treo cổ những người bị thương. Trước đó, họ phải trị các vết thương bằng Pénicilline, cái gì người Mỹ cũng trị bằng Pénicilline hết thảy. Sau đó họ trả tù nhân cho Sô Viết để người Nga treo cổ. Đó là cảnh tượng xảy ra hằng ngày. Hàng ngàn công nhân Nga bị giao cho Sô Viết như thế để bị treo cổ. Một vài người trốn thoát, chạy qua Tây phương. Người Mỹ bắt họ lại lần thứ hai, lần thứ ba, cho đến lúc nào họ không còn trở lại được nữa.

    Marie nghĩ đến những người bị thiêu sống, nàng bật khóc. Ante Petrovici kể thêm :

    - Thiêu người sống không phải là chuyện mới mẻ gì cả. Trước khi bị suy tàn, xã hội nào cũng bắt đầu bằng cách đốt người, vào thời kỳ Trung cổ, Đại học đường ở Coimbre cũng thỉnh thoảng thiêu sống một người để tránh nạn động đất. Sau khi chấp nhận thủ tục đó, xã hội Trung cổ sụp đổ. Đức quốc xã cũng thiêu sống Do Thái trong các lò sát sinh để tạo lập một trật tự mới trên thế giới. Vợ tôi cũng bị thiêu sống trong các lò đó. Tức khắc chế độ quốc xã sụp đổ. Lúc mà một xã hội đốt cháy người sống để duy trì trật tự, thì sự suy tàn bắt đầu, bởi đó là dấu hiệu sau cùng, tiếng hát báo hiệu. Đêm nay, những kẻ dân chủ quá khích đã đốt tù binh ở căn lều trước mặt để duy trì liên hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Sô Viết.

    Một công chức bước vào phòng đưa cà phê và bánh mì cho những kẻ tị nạn, sau đó bắt đầu ghi tên từng người. Họ được chia làm hai loại, loại được Hoa Kỳ che chở và loại không, tùy theo quốc tịch của họ. Loại thứ nhất được cho lên xe cam nhông. Marie, Pillat thuộc loại thứ hai phải đi bộ.

    Marie sưng chân vì đi nhiều quá. Ante Petrovici bước lên xe còn quay lại nói :

    - Tôi sẽ ở Stuttgart, trong trại những kẻ tị nạn. Nhớ đến thăm tôi nghe.

    Ông ta muốn nhường chỗ cho Marie, nhưng không được, vì nàng thuộc về loại người phải đi bộ.

    Họ từ giã nhau lúc xe chạy xa, bàn tay của họ như là đang hướng về căn lều mà tù nhân bị đốt cháy ngày hôm qua để bảo đảm cho sự liên hệ bền chặt giữa Sô Viết và Hoa Kỳ.

    Pillat lên tiếng :

    - Đây là ngày tự do thứ nhất của chúng ta. Đối với hàng triệu người sống dưới chế độ Sô Viết, Tây phương tưởng trưng cho cơ hội thóat ly thứ hai, vì đó là mảnh đất tị nạn. Hảy cảm ơn trời đất đã cho chúng ta vận hội nầy, vạn hội ở đất Tây phương này.


  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CUỐN SÁCH CỦA Ô NHỤC
    Phần thứ nhất

    I
    Chiếc xe chở Ante Petrovici và những kẻ tị nạn của các quốc gia đồng minh đi xa dần. Pillat và Marie mới thực sự cô đơn giữa một quốc gia xa lạ chưa bao giờ đặt chân đến và chưa hề quen biết ai cả. Không nhà cửa, không một đồng dính túi. Pillat nói :

    - Chúng ta có thể đi đâu và làm gì đây? Chúng mình đã lầm lẫn khi bỏ khu rừng để về đây.

    Nhưng tình cờ bỏ tay vào túi quần, Pillat tìm thấy 200 đồng Marks. Chắc là bác sĩ Petrovici trước khi đi đã kín đáo bỏ tiền vào túi chàng. Chàng thấy bạo dạn hơn lên khi cầm tiền trong tay, họ tiến về nhà ga và nhìn bản đồ. Thành phố gần nhất là Heidelberg; Pillat bảo:

    - Heidelberg là một trung tâm sinh hoạt trí thức, anh sẽ kiếm việc làm ở Đại học đường, có thể là trong một thư viện nào đó cũng được.

    Bước chân xuống Heidelberg; họ dừng chân trên bờ sông Neckar với một lô dự định tương lai. Người ta đang xây cầu trên sông. Pillat vội vã nói:

    - Anh sẽ kiếm việc ở đây, làm thợ vậy. Ngay hôm nay, vì chúng ta không thể để mất giây phút nào. Điều còn lại, chúng ta sẽ xét sau.

    Chiều hôm đó, để mặc Marie ngồi chờ, Pillat xuống công trường xin việc. Viên đốc công sốt sắng :

    - Chúng tôi cần thợ làm và trả tiền công rất hậu. Ngoài số lương, thợ còn được ăn và hút thuốc; ông có thể trở lại đây ngay sáng hôm sau. Chỉ cần mang cho chúng tôi một giấy phép trú ngụ ở Heidelberg, thế là đủ.

    Pillat cho là mình gặp hên, cám ơn rối rít và chạy nhanh về báo tin mừng cho Marie:

    - Nào chúng mình đi xin giấy cư ngu. Sở cấp giấy gần đây lắm. Marie lại khệ nệ vác xác lên vai. Trong lúc chờ đợi, viên trưởng phòng nhân viên mời Pillat và Marie rất lễ phép. Họ cho biết :

    - Ông bà sẽ có giấy phép cư ngụ ngay, nhưng phải có bằng chứng là ông bà đã có công ăn việc làm rồi mới được.

    - Tôi đã nói với viên đốc công làm cầu rồi, ông ta bảo rằng sẽ mướn tôi nếu tôi có giấy phép cư ngụ.

    - Nhưng trước tiên, ông phải có bằng chứng là ông đã làm việc.

    - Thì tôi đã kiếm ra công việc rồi đó, người ta sẽ cấp chứng chỉ cho tôi, mười phút nữa tôi sẽ mang lại cho ông ngay mà.

    - Nhưng tôi không thể cấp giấy phép cư ngụ nếu không có chứng chỉ làm việc.

    Viên trưởng phòng là một người tị nạn từ vùng Đức bị Nga sô chiếm đóng, ông ta hiểu nổi thất vọng của Pillat và Marie :

    - Ông không thể nào kiếm việc nếu không có giấy phép cư trú nhưng không có giấy chứng nhận đã có công ăn việc làm người ta lại không cấp giấy cư ngụ cho ông, không cấp phiếu thực phẩm, không được phép thuê phòng.

    - Như vậy thì rõ là họ không cho phép chúng tôi ở Heidelberg chứ gì.

    - Trên nguyên tắc thì người ta không cấm. Nhưng trên thực tế thì như vậy đó. Tại sao ông bà không cố sang tỉnh khác xem. Heidelberg bị nhân mãn rồi. Người ta chỉ thuê những người thực sự cư ngụ ở đây mà thôi. Nhưng dù sao, nếu ông đem lại đây bằng chứng là ông đã kiếm được việc, tôi cấp giấy cư ngụ ngay.

    - Vậy thì tôi cố trở lại công trường một lần nữa xem sao. Và họ lại trở ra bờ sông Neckar. Viên đốc công không còn ở đấy nữa, Pillat đành vào lều ngồi chờ. Marie mệt lả ngồi chờ ở một cái ghế dài. Nàng dựa đầu lên ghế, tay nắm chặt gói hành lý sợ bị đánh cắp. Bỗng nàng thấy như có ai đặt tay lên vai. Nàng định đứng dậy, nhưng bàn tay đã nắm chặt, bàn tay mang găng của một người cảnh sát Đức. Một người khác cầm xắc hành lý vứt lên xe cam nhông, và cả hai đẩy Marie lên xe luôn thể. Marie muốn gọi Pillat nhưng xe đã nổ máy. Nàng định la lên thì một bàn tay đã bóp miệng nàng lại, bàn tay cũng như sắt, nàng có muốn cắn cũng không ăn thua gì. Có một số người đàn bà khác trên xe, toàn là trẻ đẹp cả. Họ tò mò nhìn Marie, nàng có cảm tưởng bàn tay không phải chỉ ở miệng nàng mà còn đè nặng lên cả cơ thể nàng, nhất là trên vú nàng.

    Xe cam nhông đã dừng hẳn. Marie được dẫn vào một căn nhà trống, nàng khóc nức nở. Một người đàn bà ái ngại:

    - Lần đầu tiên em đến nhà thương sao?

    Marie chùi nước mắt ngạc nhiên:

    - Đúng là nhà thương sao? Tại sao họ lại đưa tôi vào nhà thương?

    - Thì nếu em không có gì họ sẽ thả ra lo gì.

    Marie đứng dựa vào hai xắc hành lý, hai cái xắc chứa hết cả gia tài của nàng và Pillat, chứa luôn cả hương vị cơ thể hai vợ chồng, vì họ vẫn thường dùng làm gối trong hàng tháng. Nghĩ đến chồng, Marie òa lên khóc. Chàng sẽ ra sao nếu lúc trở lại không thấy nàng trên ghế. Nàng muốn van xin người ta để cho nàng đi, nhưng đã hết giờ làm việc, không còn ai ở đó nữa. Suốt đêm hôm đó, nàng khóc liên miên.

    Sáng hôm sau, tất cả đều được đi tắm và sắp hàng hai. Một người đàn bà bên cạnh la to :

    - Đừng có khóc nữa, tao có hai đứa con ở nhà không ai chăm nom tao còn không khóc đây.

    - Nhưng sao họ bắt chúng ta chứ?

    - Họ không bắt chúng ta đâu. Chỉ là một cuộc bố ráp thôi. Mày chưa hề bị bố ráp sao?

    - Không. Nhưng tại sao lại bị bố ráp?

    - Người đàn bà nào cũng bị bố ráp cả. Để họ đừng truyền bệnh cho lính Mỹ. Người đàn bà nào ở ngoài đường cũng có thể truyền bệnh cho lính. Tao đã bị bốn lần, còn mày chưa hả, sao thế?

    Marie trả lời:

    - Tôi không sống ở thành phố này.

    Họ được đưa lên lầu một. Người đàn bà cạnh Marie giải thích:

    - Nếu mày ở lại phố thì mày sẽ đến đây mãi. Lần sau mày sẽ quen đi, không khóc nữa.

    Sau khi tắm xong, tất cả được dẫn vào một hành lang, và được đưa từng người một vào thăm bệnh. Nghe gọi tên, Marie bước vào. Đã có hai người mặc áo blouse trắng đang khám một người đàn bà trần truồng trên bàn, tay họ đều mang găng. Một người giận dữ la :

    - Sao chưa cởi áo quần ra? Cô cởi mau đi.

    Marie muốn bị đánh đập hơn là nghe mệnh lệnh đó. Nhưng hai người nữ y tá đã la mắng và cởi áo quần nàng ngay. Marie cố chống cự, nhưng họ đã nhấc bổng nàng lên bàn. Nàng bắt đầu la hét, vùng vẫy, kẹp chân chặt lại. Nhiều người chạy đến giữ kỹ nàng. Sau cùng nàng thấy một đám mây lạnh trên mặt và không biết gì nữa cả. Thân thể nàng đành phải tuân theo ý muốn của những bàn tay xa lạ. Lúc nàng tỉnh dậy, nàng hoảng hốt cố che kín thân thể để đừng trần truồng trước mặt những người lạ. Và trong khi cố che đậy sự trần truồng đó, bàn tay nàng đã bị những mũi nhọn chích nhè nhẹ, thì ra đám lông mềm mại không còn nữa, người ta đã cạo sạch mất rồi. Thất vọng, Marie mặc vội quần áo lại.

    Người nữ y tá bảo:

    - Cô có thể ra về.

    Và Marie cúi đầu mang xắc ra về. Mỗi bước chân nàng cảm thấy những mũi kim châm nho nhỏ. Nàng nghẹn ngào khóc, nàng có cảm tưởng người ta sẽ nhìn qua lớp áo là nàng đã bị cạo lông rồi và cho mình là người đàn bà nhục nhã nhất trần gian.

    Muốn kêu cứu cũng chả biết kêu cứu ai, Marie không còn can đảm nghĩ đến Pillat. Như một kẻ không hồn, nàng bước về phía sông Neckar, muốn trầm mình xuống sông tự vận.

    Một giọng nói êm dịu vang lên:

    - Em đi đâu suốt đêm, để anh kiếm mãi thế.

    - Anh Pillat, em không thể nào nói cho anh nghe được, thà chết còn hơn nói rõ điều này cho anh nghe. (Nàng lại khóc nức nở và cảm thấy những đầu mũi kim đang châm chích.)

    Lúc Pillat cầm tay, Marie uất ức bảo:

    - Em trở về Piatra, em không muốn ở lại đây nữa.

    II
    Pillat và Marie đành rời bỏ Heidelberg, vì họ không có quyền ở đó nữa. Đến Stuttgart, họ được Petrovici ân cần tiếp đón như bạn bè chí thân. Họ đã chung sống có một đêm thôi, nhưng có những cuộc gặp gỡ đáng giá hơn cả một đời bên nhau.

    Petrovici cung cấp thức ăn uống đầy đủ. Tổ chức quốc tế tị nạn đã giúp đỡ họ nơi ăn chốn ở đàng hoàng. Tuy vậy bác sĩ Petrovici vẫn đi cà nhắc nhiều hơn lên, điều đó chứng tỏ ông ta đang khổ tâm.

    - Trên bất cứ thành phố nào ở Đức, anh không thể nào trú ngụ mà không có chứng chỉ làm việc, và anh không thể có chứng chỉ làm việc nếu không có giấy phép cư ngụ, đúng là một vòng lẩn quẩn. Trên thực tế, ông bà bị cấm cư ngụ nơi đây nhưng xin phép ra đi cũng không được. Một thước đất biên thùy Đức quốc đều có xe tăng canh gác. Biên giới đã được đóng kín bằng dây kẽm gai. Chỉ còn cách là sống chơi vơi trong không khí. Thật tai hại là con người không thể sống bằng và ở trong không khí.

    Marie cắn mẫu bánh mì Ante vừa cho, ông này nói tiếp :

    - Để dành quyền sống, Tây phương đã bán cho Sô Viết một nửa Âu Châu. Dân cư ở các quốc gia bị bán đứng cho Sô Viết phải trốn qua Tây phương để tránh nạn khủng bố và chết chóc.

    Tây phương là cơ hội thứ hai cho công dân các nước bị Nga Sô chiếm đóng. Những kẻ đào tẩu đó phải băng ngang qua Đức quốc và ở đây họ bị bắt vào các trại tập trung, không thể nào thoát khỏi được nữa.

    Marie hỏi:

    - Ông nghĩ là không còn lối thoát nào nữa ư? Chúng tôi không đòi hỏi gì nhiều ngoài công ăn việc làm. Tôi thừa biết là chúng tôi không thể có nhà cửa như lúc trước, nhưng tôi chỉ xin họ để chúng tôi sống ra sao thì sống.

    - Tôi không phải là nhà tiên tri, nhưng tôi nghĩ là không còn lối thoát nào nữa cả. Âu châu không còn nữa. Chỉ còn lại có Hoa Kỳ và Nga Sô đang chia nhau Âu châu. Cả hai đều gán lối sống của họ cho toàn thế giới. Muốn thế, họ hủy diệt cá nhân. Nga Sô đã loại bỏ hàng triệu người, hủy bỏ nhiều giai cấp trong xã hội. Hoa Kỳ không thế. Nhưng Hoa Kỳ bán đứng con người cho Sô Viết để Sô Viết loại bỏ họ. Giống như những giáo sư ở Đại học Coimbre, Hoa Kỳ tưởng là có thể tránh thiên tai bằng cách nướng người vào lửa, dần dần, Hoa Kỳ đã thiêu sống những tù binh Nga trước mắt chúng ta để tránh mọi trở ngại trong việc bang giao với Sô Viết. Hoa Kỳ đã dâng cho Sô Viết xứ Lithuanie, Lettonie, Esthonie để tránh một bất động chính trị với chính phủ Sô Viết. Hoa Kỳ đã hy sinh Ba Lan để tránh sự rạn nứt ngoại giao với Nga Sô. Sau đó, họ đã hy sinh luôn Lỗ ma ni, Tiệp khắc, Hung gia lợi, dần dần.

    Nghe đến đây, Marie òa khóc. Petrovici giải thích tiếp:

    - Sự nguy hiểm to tát cho mỗi cá nhân, mỗi giai cấp, mỗi dân tộc đến độ phải đau đớn tự đánh lừa mình, nhưng thời gian vẫn trôi không ngừng, không còn khúc quanh nào của lịch sử có thể có được nữa. Chỉ có những kẻ mơ mộng mới tin vào các khúc quanh đó.

    Chủ nghĩa tin tưởng lạc quan đó là một sự hèn nhát. Chúng ta sinh vào thời đại này và chúng ta có bổn phận can đảm đi trên đường đã vạch sẵn, vì không còn con đường nào khác nữa.

    Bổn phận đó đòi hỏi phải tồn tại ngay cả trong một hoàn cảnh bi đát và tuyệt vọng. Phải biết kiên nhẫn như người lính La Mã ngày xưa đã phơi xương trước cửa thành Pompei và bị chôn vùi bởi ngọn núi lửa Vésuve.

    Pillat cãi :

    - Những cơ quan chính của thân xác con người, như tim phổi đều sinh hoạt tự động, lòng tham sống và hy vọng con người cũng thế. Chấp nhận cái chết chỉ là một sự láo khoét của văn chương. Câu chuyện người lính La Mã của Spengler chờ dung nham núi lửa đến cuốn đi chỉ là một điều tưởng tượng, không đúng sự thật. Khi quân Nga bắt đầu xâm chiếm đất nước chúng tôi như những luồng dung nham, và khi chúng tôi hiểu là họ muốn loại bỏ chúng tôi thì chúng tôi phải trốn đi. Chúng tôi được may mắn thoát khỏi họng núi lửa, thoát khỏi bàn tay Sô Viết và bây giờ chúng tôi sẽ tìm cách để thoát khỏi cái nồi súp de Đức quốc này. Trên bình diện con người, bác sĩ hãy nói thật cho chúng tôi biết là bác sĩ có tìm cách để cứu lấy mạng sống của mình và thoát khỏi nơi này không?

    - Có chứ.

    Petrovici trả lời thế và chỉ những lọ mực, cục tẩy, khuôn dấu để la liệt trên bàn, rồi nói tiếp :

    - Tôi cố để thoát hiểm bằng một lối duy nhất, đó là di cư. Các quốc gia bên kia Đại tây dương thường gởi đến nước Đức những phái đoàn thương mại để tìm nhân công giữa hàng ngàn người tị nạn. Họ chọn người như chọn súc vật và chỉ giữ lại những món hàng hảo hạng. Nghĩa là họ thích những thanh niên trẻ trung, tôi thì vượt quá giới hạn của tuổi trẻ rồi, vì thế cho nên tôi phải sửa lại giấy khai sinh. Và đó là điều tôi đang làm. Tôi lại tàn tật nữa, thiếu mất vài mi li mét dưới bàn chân phải, tôi thấp hơn người hảo hạng mà họ muốn, vài mi li mét nữa mới đủ 1m60. Tôi lại theo đạo Hồi giáo. Người hảo hạng mà họ muốn phải có đạo Thiên Chúa mới được. Tôi sắp cạo sửa tất cả điều đó, phải làm giấy tờ giả mạo mới mong thoát khỏi mạo hiểm được. Nhưng sự khó khăn thực sự là ở điểm khác, là làm sao để tách rời được khỏi nấm mồ Âu châu. Âu châu đã chết rồi. Và cũng như tất cả giai cấp trí thức trưởng giả tôi cũng biết phụng thờ các ngôi mộ. Thú thật khi phải rời bỏ Âu châu là một điều khổ tâm cho tôi. Âu châu đã bắt đầu chết lúc mà các trại tập trung quốc xã được dựng lên.

    «Âu châu đã chết với mỗi tù nhân bị quốc xã thiêu sống, Âu châu chết một phần cùng với cái chết cháy của vợ tôi, nhưng sự thật Âu châu đã thở hơi thở cuối cùng ở Torgau, ở đó có ngôi mộ chôn Âu châu, ở đó có một thành phố nhỏ trên bờ sông Elbe đánh dấu nơi quân đội Nga Mỹ gặp nhau vào năm 1945. Ở đó, trước thi hài Âu châu, lính Nga và lính Mỹ đã ôm nhau hôn và uống Whisky cùng Vodka. Tang lễ của Âu châu đã được tưới bằng rượu ngoại quốc, Vodka, Whisky. Cũng như anh và vợ anh không cho nơi nào êm ái hơn là ở Piatra của xứ Lỗ ma ni, tôi cũng chỉ mến Âu châu thôi. Chính vì thế, mà tôi xem cơ hội này, cơ hội mà tôi đã tranh đấu và tìm cách sửa đổi giấy khai sinh là cơ hội thứ hai. Sự lưu đày ra khỏi quê hương chỉ là một khúc giáo đầu cho sự lưu đày ra khỏi Âu châu...»

    Vừa lúc đó, một người lịch sự bước vào, bắt tay Petrovici, lạnh lùng chào Marie và Pillat.

    - Tôi vừa mới được cử giữ chức cố vấn chính trị và các vấn đề eo biển Balkan bên cạnh Bộ chỉ huy Hoa Kỳ ở Âu châu.

    - Thành thật mừng ông.

    Trả lời thế và Petrovici quay qua giới thiệu Marie và Pillat :

    - Đây là một trong những đồng bào của ông bà, ông Aurel Popesco.

    - Hân hạnh được biết ông bà.

    Và ông ta vội vã bước đi, đến ngưỡng cửa ông ta còn quay lại :

    - Phái bộ Gia nã đại đến đây ngày mai để tuyển lựa những người được di cư lúc 8 giờ sáng, vậy bác sĩ muốn trình diện thì phải dậy sớm nghe.

    Petrovici nói cho Pillat biết :

    - Aurel Popesco thuộc thành phần được ưu đãi vì hắn có một giấy chứng nhận là «nạn nhân của phát xít» và chính nhờ đó mà hắn được làm việc cạnh bộ chỉ huy Hoa Kỳ. Trước đây hắn là một trong những tên chỉ huy của phong trào phát xít ở Lỗ ma ni, chắc là anh biết rồi chứ. Hắn ta đã gây nhiều tội ác man rợ. Hắn đã trốn qua Đức. Người Đức nhốt hắn ở Buchenwald với những tên phát xít khác từ Lỗ ma ni trốn sang. Rồi người Mỹ giải thoát tất cả tù binh ở trại Buchenwald cấp cho họ chứng chỉ «nạn nhân của phát xít» và trong thành phần đó có lũ phát xít quá khích đó là trường hợp của Aurel Popesco.

    Ngừng ở đó, Petrovici quay qua Pillat :

    - Anh cứ trình diện với phái bộ Gia nã đại ngày mai, tôi không thể đến đó vì giấy tờ cạo sửa chưa xong. Tôi rất tiếc vì không hiểu bao giờ mới có phái bộ thứ hai tiếp theo. Nhưng anh thì cứ trình diện. Anh ngủ đây đi và mai tôi dẫn đi.

    III
    Sáng hôm sau khoảng 7 giờ Marie và Pillat sắp hàng trong đám người chờ phái bộ Gia nã đại, đám người khốn nạn thuộc nhiều hạng tuổi và nhiều quốc tịch khác nhau. Nhưng họ cùng chung một ước mơ là được trở thành người tiều phu ở Gia nã đại.

    Toàn là những người trước đó có nhà cửa, gia đình, nghề nghiệp đàng hoàng, nhưng vào ngày chiến thắng, tổ quốc của họ đã rơi vào tay Sô Viết, họ buộc lòng phải trốn đi, từ bỏ nhà cửa, gia súc, gia đình tất cả. Giờ đây họ trở thành những kẻ vô sản chính hiệu. Trên thế giới có đến hơn trăm triệu người như thế rải rác trên các đường phố.

    Mặt luôn luôn cúi gầm xuống đất, họ chờ đợi cơ hội được đi Gia nã đại, nhưng khó khăn lắm. Trong hàng triệu người vô sản đó, Gia nã đại chỉ chọn một số giỏi dang mà thôi.

    Chín giờ xe của phái bộ Gia nã đại mới đến, còi vang inh ỏi. Họ gọi tên thí sinh ngay tức khắc. Cứ gọi đến hàng chục người một lần. Lúc đến trước bàn giấy, Pillat ngửi thấy mùi nước hoa Cologne, mùi thuốc lá và xà phòng, dấu hiệu của tình trạng toàn hảo của các thương gia. Ba người Gia nã đại nhìn chăm chăm từng thí sinh, từ đầu đến chân như là lúc đi mua ngựa, vì họ phải trả tiền di chuyển cho ai được di cư.

    - Anh ở quốc gia nào?

    - Lỗ ma ni. Pillat trả lời.

    Phái bộ Gia nã đại chỉ thích người Bắc âu vì họ cao lớn và cần cù hơn, với lại họ ít ngoan cố và sống lâu.

    - Anh làm nghề gì?

    - Cựu thẩm phán.

    Trả lời như thế Pillat thấy hình như họ không bằng lòng, vì ai cũng nhìn chàng một cách khó chịu. Một người hô ngay:

    - Gọi người tiếp theo.

    Rồi bảo Pillat ra ngoài. Chàng hỏi lại:

    - Các ông không nhận tôi sao?

    - Trường hợp anh thế là xong rồi.

    - Tôi muốn biết là tôi được nhận hay không?

    - Không. Chúng tôi không nhận anh.

    - Các ông thấy tôi có gì không vừa ý?

    - Chúng tôi không dùng những người trí thức. Anh có thể ra ngoài. Hai chữ trí thức được phát ngôn một cách hằn học và dữ dằn. Pillat hỏi ráng :

    - Các ông nghĩ là một người trí thức không đốn ngã một cây ở Gia nã đại sao?

    Và giọng nói của chàng có vẻ van nài :

    - Xin các ông rộng lòng nhận tôi đi.

    - Không.

    - Các ông chê giới trí thức ở chỗ nào? Chúng tôi có thể làm công việc như những người khác vậy chứ.

    - Không, anh không làm được như họ. Người trí thức không làm được việc lao động, vì không có bắp thịt. Anh có thể ra ngoài đi, anh bị từ chối rồi.

    Pillat bỏ đi, không còn gì để hỏi nữa, lý do đã quá rõ ràng cho chàng hiểu rồi. Chàng bỏ đi, rời khỏi văn phòng mà không hiểu phải đi đến nơi nào. Marie đợi chàng ở ngoài đường. Nàng nhảy chồm đến Pillat, hót lấy cổ chàng và khóc.

    - Em được họ chấp nhận rồi. Có 100 người mà chỉ một mình em được nhận mà thôi.

    Marie ôm cứng lấy Pillat, nàng chưa bao giờ sung sướng như thế từ ngày bỏ Piatra mà trốn đi. Nhưng trong cơn hạnh phúc đó nàng có cảm tưởng là vai, mặt, cổ của chồng lạnh ngắt như người chết. Nàng hoảng hốt.

    - Họ không nhận anh sao?

    - Không, họ không thích người trí thức. Người trí thức không có bắp thịt.

    IV
    Lúc Pillat và Marie bỏ đi, thì trong một toán mười người khác bước vào văn phòng phái đoàn Gia nã đại, có một người đàn ông vạm vỡ đứng tuổi bước vào trước ba người Gia nã đại. Ông ta hơi cảm động nhưng bước đi vững chắc, đến trước bàn giấy ông nghiêng mình chào như đã có thói quen nghiêng mình trước vị linh mục trong làng.

    - Ông thuộc quốc gia nào?

    Người nông dân rụt rè một chút rồi trả lời:

    - Tôi tên là Ion Kostaky, người Lỗ ma ni, 40 tuổi, tôi là dân cày ruộng và ngoài ra tôi không biết một tiếng Đức nào nữa cả.

    Kostaky đọc thuộc lòng câu trên bằng tiếng Đức, không sai tí nào như ông đọc một câu thơ. Đọc xong, ông nhìn kỹ ba người lạ để xem họ quyết định tối hậu như thế nào.

    Cả ba người rũ ra cười. Người ngồi giữa hỏi:

    - Ông học câu đó ở đâu thế?

    Ion Kostaky muốn đoán câu hỏi đó có nghĩa gì, nhưng không thể được. Tuy nhiên, ông thấy ba người đó nhìn mình kỹ càng và không tỏ ý chê bai. Buộc lòng ông ta lập lại:

    - Tôi tên là Ion Kostaky, người Lỗ ma ni, 40 tuổi. Tôi là dân cày ruộng, và ngoài ra tôi không biết một tiếng Đức nào nữa cả.

    - Hoan hô, tuyệt hảo (họ cười ngất), đúng là một công dân tương lai tài ba của Gia nã đại, ông được nhận.

    Ion Kostaky nhìn họ, trông thấy họ cười đùa nhưng không hiểu họ nói gì. Ông trưởng phái đoàn nói:

    - Du Kanadian, verstanden? (ông là người Gia nã đại, hiểu chưa?) Kostaky thấy ngón tay ông ta chỉ về phía mình và nghe tiếng «Gia nã đại» ông Kostaky biết là mình được chấp nhận; ông thầm cám ơn trời, rồi nghiêng mình trước phái đoàn như đã nghiêng mình trước cha Thomas Skobay ở Piatra.

    Viên thư ký cầm tay ông và giải thích:

    - Ông dễ thương lắm. Ông cứ ăn và ngủ ở đây. Sau đó ông sẽ đi Gia nã đại với mấy ông này. Trong lúc chờ đợi, ông được chấp nhận vào phái đoạn rồi đó.

    Sau đó, Kostaky được đưa xuống ăn uống và hút thuốc, bao nhiêu khó khăn trở ngại đều không còn nữa. Nhưng đang lý biểu lộ niềm hạnh phúc đó, Kostaky lại bật khóc. Iliéna, nhà cửa ở Piatra, Marie và Pillat, tất cả chỉ còn là hình bóng trong ký ức ông mà thôi. Không nhà cửa, làng mạc, gia đình, ông không thể nào vui được, và không ăn uống gì được nữa. Qua cửa sổ, qua làn nước mắt, ông muốn thấy lại làng mạc, nhà cửa, gia súc, tất cả những người thân yêu; nhưng sự thực chỉ là những người xa lạ đang qua lại trước cửa sổ.

    Dù xuất phát từ đâu, tất cả những người tị nạn đều gặp nhau ở Đức Quốc. Pillat gặp lại Motok, ăn mặc rất lịch sự, tay đeo đồng hồ vàng, xách cặp da và hút thuốc Mỹ. Cùng với Aurel Popesco, Salomon, Motok buôn chợ đen rồi giàu to. Nhưng hắn vẫn muốn bỏ đi.

    Ở Đức, người ta có thể chết đói hay là buôn lậu rồi bị bắt giam vì thế mà Motok đến trình diện cùng một lượt với Marie, Varlaam, Pillat và Petrovici trước phái đoàn Úc Châu vừa mới đến Stuttgart.

    Bác sĩ Petrovici, như thường lệ, lên tiếng tố cáo hiện đại.

    - Âu Châu là lục địa biến đổi nhiều nhất. Âu Châu bán công dân theo kích thước và sức nặng cho các lục địa khác. Tất cả phái đoàn đó đến đây chỉ nhìn chúng ta theo kích thước và sức nặng. Không có gì nữa trong con người liên quan với họ trừ trọng lượng và bề cao.

    Mọi người được yêu cầu điền vào tờ giấy kể lại cuộc đời mình từ trước đến nay, xong họ được đưa vào một căn phòng rộng đầy đủ dụng cụ y khoa để căn đo, khám nghiệm. Đàn ông đàn bà ở hai phòng khác nhau. Phần thí nghiệm kỹ càng như ở trong một bệnh viện. Cô ý ta người Anh lễ phép nói :

    - Các ông đừng để giấy tờ xuống đất, vi trùng nhiều lắm đó.

    Ante Petrovici cắn giấy vào miệng và cởi áo quần. Tất cả thí sinh đều trần truồng trước ba người nữ y tá tóc vàng cùng với những dụng cụ y khoa trắng tinh. Ở đằng trên những dụng cụ đó, những người tị nạn có thể trông thấy xứ Úc đại lợi như là một mảnh đất hứa hẹn.

    - Nắm hết sức đi.

    Người nữ y tá bảo Petrovici nắm chặt một dụng cụ như nắm gươm.

    - Trời, ông chưa bao giờ đo sức mạnh bắp thịt sao?

    Sau đó, cô ta đưa dụng cụ đó cho Pillat. Con đường đi Úc đại lợi phải đi qua quả nắm đó.

    Sau khi đo sức mạnh bắp thịt, mười người trần truồng đó được trích máu đầu ngón tay nhỏ lên từng tấm kiếng nhỏ. Không thể qua Úc châu nếu không cho một giọt máu.

    Petrovici run sợ. Pillat bình thản nhìn những mảnh kiếng đựng máu chàng và đồng bạn.

    Rồi sau đó lại bị lấy máu ở mạch máu bỏ vào các ống nghiệm. Chưa hết, mỗi thí sinh phải thổi mạnh vào một ống cao su để đo dung tích buồng phổi.

    Và đến phần quyết định cho Petrovici. Mặt ông ta tái nhợt khi bước chân đến cái thước đo bề cao. Pillat thấy ông ta thóp bụng nhón chân cao lên một chút. Người y tá ra lệnh:

    - Ông đứng thẳng như thường đi.

    Petrovici đành phải đứng yên, nhưng vẫn cố nhón lên chừng 2cm. Nên khi người nữ y tá hô to độ cao của mình, Petrovici sung sướng thấy mình đã thắng cuộc, ông ta nói nhỏ với Pillat:

    - Tôi chỉ cần 2cm thôi, và thế là được rồi đó.

    Sau khi cân đo, tất cả lại được đưa vào rọi kiếng. Pillat, Motok, Petrovici sắp hàng chờ. Bàn tay mang găng của bác sĩ sờ soạng từng người trong bóng tối. Mọi người chừng 10 phút. Đến lượt trung úy Varlaam, người tráng kiện nhất trong bọn. Bác sĩ hỏi:

    - Ông nằm nhà thương bao lâu?

    - Tôi chưa bao giờ nằm nhà thương cả. Varlaam quả quyết trả lời như thế.

    Vị bác sĩ chỉ vết sẹo trên ngực Varlaam rồi bảo:

    - Ông đã bị thương ở đây, vì sao ông nói là không bao giờ nằm nhà thương cả?

    - Tôi chưa bao giờ nằm nhà thương, chỗ bác sĩ chỉ đó là một vết trầy da. Tôi là phi công, một hôm tôi bị một mảnh đạn nhưng không hề bị thương nặng. Áo tôi bị cháy và da tôi bị trầy đôi chút. Hồi đó họ băng sơ cho tôi và ngày hôm sau tôi lại nhận công tác như thường. Tại sao bác sĩ cứ đinh ninh là tôi bị thương?

    - Ông có một vật lạ trong phổi ngay nơi chỗ có vết sẹo, rất có thể là một mảnh đạn.

    Varlaam mỉa mai trả lời:

    - Nếu tôi có mảnh đạn trong ngực thì tôi đã có cảm tưởng là nó ghim vào phổi chứ?

    - Tôi sẽ chụp hình và ông sẽ thấy nó tận mắt.

    Varlaam lại được đưa vào phòng tối. Mấy người khác lo mặc áo quần.

    Bác sĩ bảo Varlaam mặc áo quần lại, trong lúc đợi rửa phim, Varlaam lại biện minh cho lý lẽ của mình :

    - Nếu tôi có mảnh trong phổi, tôi đã không hoàn thành hàng ngàn phi vụ trên đất địch, ở Nga Sô và tôi đã không nhận hàng nửa tá huy chương.

    - Thì ông nhìn đây.

    Vị bác sĩ cầm phim đưa ra trước cửa sổ, Varlaam nhìn mà không quan tâm đến những bóng mờ trên phim. Bác sĩ giải thích:

    - Ông thấy rõ chấm đen nầy chứ, đúng là một vật lạ trong phổi ông rồi đó.

    - Nếu thật sự có mảnh đạn, điều đó đối với tôi không quan hệ gì. Nó không có gì làm tôi khó chịu cả. Vật lạ đó không cản trở tôi trong hai năm trời, ngày cũng như đêm, bay trên nền trời của xứ địch. Vật lạ đó không cấm tôi ăn, ngủ, nhẩy đầm, tôi hoàn toàn khỏe khoắn, cho nên nó không phiền hà gì tôi và tôi đã từng bay cao hàng ngàn thước qua các giàn trọng pháo mà tôi cũng không thấy khó chịu gì cả. Với mẫu kim khi đó trong ngực, tôi đã trở thành anh hùng của không quân, thi cùng với nó tôi sẽ trở thành người chăn cừu, người làm ruộng hay phu quét đường phố ở Úc châu, vì tôi cho là các ông không có công việc gì khác cho các người tị nạn.

    - Chúng tôi chỉ nhận những người di cư có những buồng phổi tốt, lành lặn.

    - Tôi cũng mong là tất cả những dân Úc châu đều có bộ phổi như tôi là cùng.

    Nói xong, Varlaam hằn học gài nút áo và rời phòng khám không cần ngoái cổ lại chào ai cả.

    Vị bác sĩ còn tiếc rẻ :

    - Chúng tôi có thể cho hắn cái may mắn là sẽ mổ cho hắn mảnh dạn nầy. Nếu hắn muốn nghe lời tôi khuyên nhủ, hắn sẽ trình diện lần khác nhưng với thái độ đó...

    Mấy người tị nạn lại được vào phòng tối khác để nha sĩ khám răng bằng quang tuyến. Vị nha sĩ nói với Petrovici :

    - Ông cần chụp phim hàm răng. Có lẽ điều nầy không làm ông ngạc nhiên. Ở Úc châu, chúng tôi có mức sống mà các ông không thể tưởng tượng nổi ở Âu châu. Cô thể là Âu châu có trình độ văn hóa cao hơn nhưng về mức sinh sống thì chúng tôi cao hơn nhiều. Cũng thường tình vì chúng tôi ở trên một lục địa còn mới mẻ.

    Rồi vừa chụp hình hàm răng Petrovici, vị nha sĩ nói thêm:

    - Khoa xã hội học chúng tôi không giống các ông ở Âu châu. Ví dụ Khoa vệ sinh xã hội chúng tôi tân tiến hơn. Chúng tôi đã giải quyết vấn đề chủng tộc rất khoa học, vì ở Úc châu ai cũng có tinh thần khoa học cả. Nhờ tinh thần đó mà trong vài năm nay ở Úc châu chúng tôi có một dân tộc rất khá; sở dĩ thế là nhờ chúng tôi biết săn sóc kỹ lưỡng các cuộc hôn nhân, các cuộc pha giống, các vấn đề di cư, nghĩa là bằng các phương pháp rất ôn hòa và khoa học. Chúng tôi không giải quyết vấn đề chủng tộc như các ông ở Âu châu, bằng cách thức man rợ như Hitler như việc đốt cháy người Do thái và các nòi giống thấp kém khác. Chúng tôi cư xử với các nòi giống thấp kém đó bằng các phương pháp khoa học chứ không đốt họ đi. Vấn đề chủng tộc cũng có dưới nhãn quang khoa học, nhưng chúng tôi không giải quyết trong các trại tập trung. Chúng tôi nghiên cứu vấn đề đó trong các phòng thí nghiệm và các văn phòng để đưa đến một giải pháp nhân đạo.

    Petrovici muốn bịt tai lại. Từ khi bà vợ Lidia của ông bị đốt cháy, Petrovici không chịu nổi những bàn cãi về chủng tộc cao sang và thấp hèn. Từ lúc mà Milan Paternik đã nhân danh các nguyên lý của hắn để giết chết chính mẹ hắn cũng như 800 người Serbes và Do Thái, ông không muốn nghe ai nói đến vấn để chủng tộc nữa, ngay cả một giải pháp ôn hòa.

    Petrovici thấy ngã bệnh chỉ vì nghe nói đến chữ chủng tộc, bởi vì nhân danh chữ đó, Lidia đã bị đốt. Thân thể Lidia đã từng ngủ bên cạnh ông, những ngón tay Lidia đã từng uyển chuyển trên phím đàn vĩ cầm cũng đã bị đốt nhân danh chủng tộc. Petrovici thấy tim mình khắc khoải vì chữ chủng tộc đồng nghĩa với lò sát sinh, sát nhân. Ở cửa miệng ông nha sĩ người Úc đó, sự pha giống y hệt như ở súc vật, Petrovici muốn trốn khỏi căn phòng. Vị nha sĩ đã đưa phim về phía cửa sổ và mỉa mai :

    - Nào, ông nhìn xem, bộ răng của ông đấy.

    Petrovici lại gần nhìn hình bộ xương đầu của mình. Một cái gì đăng đắng đầy miệng ông ta. Không ai muốn người ta chỉ cho mình xem một bộ xương và bảo rằng đó là cái đầu của chính mình. Chỉ còn cái xương đầu y hệt như bộ xương của người chết.

    - Ông có thấy bộ răng của ông chưa?

    Petrovici tái mặt, trong lúc vị nha sĩ nói tiếp :

    - Ông thấy rồi phải không? Vậy thì ông không thể nào đến Úc châu với bộ răng như thế được.

    Petrovici định không trả lời nhưng ông ta nhẫn nại:

    - Tôi sẽ chữa răng, ông xem bao nhiêu là biến cố vừa mới đổ lên đầu dân Âu châu.

    - Nhưng trong lúc này, ông không thể di cư sang Úc châu. Không thể nào được cả. Trên nguyên tắc, chúng tôi không chấp nhận những người mang hàm răng giả, nhưng ông cứ ráng xem sao. Chúng tôi không chấp nhận hàm răng giả, Úc châu như thế đó. Mà ông nhìn xem, ông thì chắc chắn phải cần một hàm răng giả rồi đó.

    - Nhưng các phần khám nghiệm khác tôi đã qua được cả rồi.

    Nói thế và Petrovici xiết chặt cái cà vạt như muốn tự xiết cổ cho chết vì cái ô nhục này to tát quá.

    - Phần hàm răng là chính yếu, hoàn toàn chính yếu. Tôi không hiểu là điều này đối với Âu châu thế nào, chứ với Úc châu, bộ răng có phận sự đặc biệt, ưu tiên, trong nghĩa chính xác của nó.

    Petrovici điếng người vì những tư tưởng đó. Ông ráng cãi :

    - Nếu giả thử tôi là một người tài ba, như Michel Ange hay Goethe chẳng hạn, liệu ông có từ chối quốc tịch Úc đại lợi chỉ vì tôi thiếu vài cái răng không? Tôi đặt câu hỏi này hoàn toàn vì tò mò mà thôi. Bởi vì nếu như thế thì chúng tôi cho là kỳ dị quá. Tôi muốn nói là những giá trị nơi con người như luân lý, trí thức, nghề nghiệp, có những thiên tài về tình thần có giá trị hơn vài cái răng chứ.

    - Không có gì bằng và thay thế được một bộ răng tốt cả. Những khám phá khoa học mới đây rất chính xác, và khi chúng tôi được giao trọng trách về vấn đề di cư, chúng tôi cứ y theo những nguyên tắc khoa học. Ông nói đến những giá trị luân lý ư? Tất cả đều phải đi qua cửa miệng. Tất cả nền luân lý đều phải thế, ông chấp nhận như thế không nhỉ? Và từ của miệng hôi thối, chỉ phát xuất những điều xấu xa. Răng xấu thì vấn đề tiêu hoá cũng xấu. Tiêu hóa xấu thì năng lực làm việc kém đi và hay bị cáu kỉnh, điều này gây ra bất mãn và từ bất mãn sẽ đi đến xung đột, đi đến việc không tôn trọng hợp đồng làm việc chẳng hạn. Hợp đồng đó mà không tôn trọng thì sẽ gây ra nạn thất nghiệp; có nghĩa là nạn nghèo đói và phản động, con đường dẫn đến tội ác hỗn loạn và những âm mưu chính trị và nếu ông hỏi tại sao thì câu trả lời đã sẵn sàng. Chỉ vì ông thiếu mấy cái răng. Một quốc gia mà công dân toàn mang bộ răng yếu ớt là một quốc gia suy yếu về tất cả khía cạnh tinh thần và kinh tế. Tôi nói với ông giản dị có thế thôi, chứ vấn đề thật ra đã được nghiên cứu kỹ càng hơn nhiều.

    Tất cả yên lặng. Vị nha sĩ vẫn cầm cái phim đầu của Petrovici nơi tay. Motok, Pillat, Petrovici không nói nửa lời.

    - Tạm thời ông không thể nào di cư được, Chúng tôi buộc lòng từ chối ông. Pillat cầm tay Petrovici kéo ra đường. Marie chờ trước cửa có vẻ hài lòng, nàng chỉ sợ Pillat bị từ chối nên hỏi ngay.

    - Anh được nhận không?

    Pillat gật đầu. Nàng phóng lại ôm chầm lấy chồng nhưng Pillat không hôn trả, chàng đứng yên như bức tượng. Petrovici nói:

    - Hy vọng là việc tôi bị từ chối không làm phiền lòng ông bà. Đương nhiên là ông bà đang vui sướng rồi đó nghe.

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    V
    Trước khi đi Úc đại lợi, Pillat đến hội Hồng Thập Tự ở Francfort :

    - Chúng tôi sẽ di cư sang Úc châu, và sẽ khởi hành trong vài tuần nữa. Nhưng trước khi đi, chúng tôi muốn biết là ở Đức hiện có một người Lỗ tên là Ion Kostaky xin tị nạn đến không? Ông ta là cha vợ tôi. Tôi tin là Hồng Thập Tự có đầy đủ danh sách những người tị nạn. Nếu ông ta không đến Đức thì chắc là chết hay bị người Nga bắt rồi.

    Viên thư ký trả lời :

    - Ông bà không còn hy vọng gì gặp lại Ion Kostaky nữa, tại sao ông bà lại không đến tìm sớm hơn, ông ta đã di cư qua Gia nã đại cách đây 15 hôm rồi. Chưa chắc chắn, viên thư ký còn đọc rõ tên họ, sinh quán, nghề nghiệp của Kostaky cho Pillat nghe. Marie khóc ròng:

    - Đúng là ba rồi chứ còn ai nữa.

    Và họ buồn rầu đi bộ đến ga xe lửa. Tàu đi Stuttgart vừa mới chạy, chuyến sau cũng phải đến ngày mai mới có, họ đành ở lại phòng đợi nhà ga cho qua đêm, cả hai đều ân hận là không kiếm Kostaky sớm hơn. Trên đầu họ một bản thông cáo dán sẵn : "Nhà ga đóng cửa lúc 10 giờ. Không được ở lại trong phòng đợi hay trên sân ga". Bên cạnh đó một bản thông cáo khác: "Ai đi ngoài đường sau mười một giờ sẽ bị bắn".

    Họ đành lại phải đứng dậy đi. Khách sạn không còn nữa, nhà cửa bị dội bom nát hết cả rồi. Một người qua đường cho biết là có một nhà trú ẩn ở trước nhà ga. Họ bước vào trong một căn hầm đổ nát có giường cho thuê. Mệt mỏi, cả hai nằm xuống giường, lấy xách kê đầu. Marie vẫn khóc tỉ tê vì không còn hy vọng gặp lại cha, rồi lại nghĩ đến đứa con còn trong bụng. Pillat bảo :

    - Em biết không, anh đã tìm ra tên đặt cho con rồi. Nếu là con gái, chúng ta cứ gọi là Doina Australia. Doina có nghĩa là tên một bài hát Lỗ ma ni nói về sự lưu đày não nề. Còn Australia thì để kỷ niệm tổ quốc mới của chúng ta.

    Marie sung sướng nghĩ rằng họ sẽ đến Úc châu và con nàng sẽ sinh ra trong một quốc gia chứ không ở trên bước đường lưu lạc như bây giờ. Như thế họ thiếp đi trong giấc ngủ có tên Doina Australia ám ảnh.

    Lúc họ tỉnh dậy, ánh sáng đã chiếu vào căn hầm. Cái áo Marie để trên đầu và đôi giày biến đâu mất. Không còn ai trong hầm nữa, nên họ chẳng biết phàn nàn cùng ai cả. Pillat xổ xách tay ra chỉ còn kiếm được một đôi giày lính. Marie mang vào, rộng thênh thang, nàng nức nở khóc. Xổ xách tay Marie ra, Pillat tìm thấy một gối mềm. Thì ra đó là một cái áo trắng bằng Voile.

    - Áo cưới của mẹ đó. Em mang theo lúc đi. Em nghĩ là...

    Trong nước hồi đó không còn tục đám cưới theo nghi lễ tôn giáo nữa. Marie mang theo với hy vọng một ngày nào họ sẽ lại làm đám cưới ở nhà thờ. Pillat bảo :

    - Thôi em cứ mặc đỡ áo này đi. Thắt chặt dây lưng một tí sẽ ngắn bớt lại ngay.

    Marie đành phải mặc áo cưới vì không còn cách nào khác. Giày rộng thênh, áo cưới, và xách mang trên vai, Marie vừa đi vừa khóc, nhưng không ai nhìn nàng cả. Không còn ai ở đây ngạc nhiên về điều gì nữa cả.

    Họ đến sở cảnh sát. Viên cảnh sát trưởng lắng nghe rồi bảo:

    - Tôi có thể cấp cho ông bà một giấy chứng nhận là ông bà đã khiếu nại bị mất cắp. Với giấy chứng nhận đó, ông bà đến trình ở sở cấp phát quần áo và xin phiếu mua áo. May là ông bà chỉ mất quần áo thôi đó, lần sau đừng có vào trong nhà trú ẩn đó nữa. Mỗi đêm người ta thường thấy người bị ám sát chết trong hầm đó là thường.

    Sở cấp quần áo ở ngay bên cạnh. Người ta mời ngồi và cùng lắng nghe câu chuyện sau đó, viên công chức hỏi giấy cư ngụ. Pillat trả lời:

    - Chúng tôi có giấy tờ, chứng nhận di cư và, một giấy khác chứng nhận bị mất cắp.

    - Chúng tôi không thể cấp phiếu mua áo quần nếu không có giấy cư ngụ.

    - Nhưng đây là trường hợp đặc biệt. Ông nhìn xem, vợ tôi không thể lên đường bằng bộ áo cưới và giày lính thế này được. Ông nghĩ lại xem. Tôi van ông cấp cho, trong trường hợp đặc biệt này, vì ngoài cái áo cưới này, vợ tôi không còn cái nào khác.

    - Đối với luật lệ, vợ ông trần truồng. Áo cưới không được xem như là áo quần mặc thường ngày. Trước mặt tôi và trước mặt pháp luật, bà đang ở trần, hoàn toàn trần truồng, nhưng dù thế nào đi nữa, chúng tôi không thể cấp phiếu mua áo được, cần phải có chứng chỉ cư ngụ.

    Pillat nhớ lại là muốn có giấy cư ngụ phải có giấy làm việc và muốn có giấy làm việc phải có chứng chỉ cư ngụ và bây giờ...

    Biết van nài vô ích, họ lên tàu đi Stuttgart, Marie mang áo cưới và giày lính với đôi mắt đỏ hoe. Niềm an ủi duy nhất cho nàng là chẳng ai trên tàu thèm để ý đến nàng cả. Không ai chú tâm đến cái áo cưới kỳ dị đó, bởi con người không còn để ý đến nhau nữa.

    Không còn gì phi thường, lạ lùng đối với họ nữa. Và đó chính là điều phi thường nhất: phi thường ở chỗ không còn gì đáng cho là phi thường nữa.

    VI
    Lúc Pillat đi rồi, một phái đoàn Argentine đến Stuttgart. Tất cả ai bị các phái đoàn trước từ chối đều đến trình diện.

    Có cả Motok, Varlaam và bác sĩ Petrovici lúc nào cũng mang theo giấy tờ giả mạo.

    Lúc họ được đưa vào phòng, ai cũng ngạc nhiên. Phái đoàn Argentine không có dụng cụ máy móc gì cả, không máy đo bắp thịt, máy quang tuyến. Chỉ có hai người đàn ông và một người đàn bà mặc đồ đen có mang thánh giá bằng vàng trước cổ - người đàn bà là trưởng phái đoàn và hình như gốc Tây Ban Nha, và có vẻ cương quyết lắm. Bà hỏi Motok:

    - Ông làm nghề gì?

    - Công chức hỏa xa.

    - Công chức gì?

    - Kiểm soát viên. Tôi biết bốn thứ tiếng, có mười hai năm thực hành.

    - Trong lúc này, chúng tôi chỉ chọn những người có nghề tay chân thôi, thợ may, thợ mộc, thợ luyện kim, sau này, chúng tôi sẽ chọn người có nghề khác. Nhưng ông đừng thất vọng. Hãy tin ở Chúa. Chúa phán xét con người và giúp người thành công và chỉ có Chúa mới mang lại vinh quang.

    Motok nhìn đôi mắt lạnh lùng của người đàn bà. Hắn ngửng đầu nhìn và bắt gặp đôi mắt Chúa từ trên thánh giá. Chúa Giê su muốn giữ Motok lại, muốn để cho hắn nói, nhưng người đàn bà đã dõng dạc ra lệnh:

    - Người tiếp theo.

    Đến lượt Varlaam.

    - Tôi là phi công.

    - Chúng tôi có đủ phi công rồi. Tất cả phi công của các nước thất trận đều tị nạn ở Argentine. Trong lúc này chúng tôi chỉ cần thợ máy bay thôi. Tiếc thay ông không phải là thợ máy.

    Rồi đến lượt Petrovici.

    - Tôi là giáo sư trường sửa đồng hồ Iéna.

    Vừa nói Petrovici vừa để lên bàn chứng chỉ có chữ ký của vị chủ tịch hiệp hội các nhà sửa đồng hồ ở Thuringe và mười hai người giáo sư khác. Có ghi bằng chữ vàng là hiệp hội thợ sửa đồng hồ chấp nhận bác sĩ luật khoa và toán học Ante Petrovici là giáo sư sửa đồng hồ của hội.

    Thế là người đàn bà mỉm cười, thiện cảm, Petrovici tự giới thiệu thêm :

    - Lúc tôi còn là sinh viên, tôi đã học sửa đồng hồ ba năm tại một tiệm ở Iéna. Hồi đó, sinh viên vẫn thường tự học thêm thủ công nghiệp. Năm tôi đổ tiến sĩ luật và toán, tôi lấy luôn chứng chỉ sửa đồng hồ. Tôi có thể tháo ráp một đồng hồ tay trong ba mươi phút. Lấy được chứng chỉ đó khó lắm.

    - Và đó mới là điều quan trọng. Argentine hiện đang cần giáo sư sửa đồng hồ. Bây giờ ông hãy qua khám nghiệm y khoa đi. Tôi tin chắc là ông hoàn toàn có sức khỏe; người nào có nghề thủ công cũng là người khỏe mạnh cả.

    Ante Petrovici thầm nghĩ : Không ngờ vận hội của mình lại là cái mảnh bằng học một cách tài tử hồi còn trẻ. Argentine không muốn mảnh bằng tiến sĩ luật hay thạc sĩ toán, cũng không thích khả năng hành chánh dồi dào của một cuộc đời công chức dài đăng đẳng của mình. Argentine chỉ thích mình ở chức vụ giáo sư sửa đồng hồ, thế mà từ lâu mình bỏ quên hình dạng đó nơi con người mình, người thợ sửa đồng hồ trong ông thạc sĩ toán và tiến sĩ luật Ante Petrovici. Mảnh bằng duy nhất còn giá trị : sửa đồng hồ.

    Trong lúc người đàn bà đang viết phiếu khám nghiệm y khoa, Petrovici tiếp tục nghĩ về mình.

    - Đó là điều còn lại sau cùng của mình, một người sắp làm nghề sửa đồng hồ ở Tân thế giới, một thợ thay lò xo đồng hồ, thay mặt kiếng vỡ, sửa con lắc và chuông báo trong các đồng hồ đánh thức của xứ Argentine, cho những người ở Tân thế giới. Và đó là điều mà Tân thế giới tìm được nơi mình. Hoan hô bác sĩ Petrovici. Tân thế giới chỉ đòi hỏi một điều thôi : nghề sửa đồng hồ. May mà mầy còn có cái nghề sửa đồng hồ nếu không thì mầy chết rồi. Vì chính Tân thế giới điều khiển vũ trụ và Tân thế giới không cần người trí thức mà chỉ cần thợ sửa đồng hồ. Điều duy nhất mà Âu châu mang lại cho con cháu là đem bán chúng ta theo thước tấc và sức nặng, bán từng lá phổi, từng phân mét cho Tân thế giới. Và Tân thế giới chỉ chọn những gì họ thích, nơi mình, họ chỉ chọn có nghề sửa đồng hồ.

    Người đàn bà hỏi:

    - Ông có đạo Thiên chúa?

    - Vâng, đương nhiên là có đạo Thiên chúa rồi.

    Petrovici nuốt nước bọt, choáng váng rồi cố rướn cổ lên để tìm một ít không khí để thở. Ở đàng sau phái đoàn, tượng Chúa trên Thánh giá hình như xoắn lại, không vì đau đớn mà vì thương hại cho Petrovici bị bắt buộc phải nói dối. Petrovici sinh ở Bosnie dưới thời lệ thuộc Thổ nhi kỳ, dân Bosnie bị bắt buộc theo đạo Hồi giáo. Ông nội Petrovici tuyên thệ bỏ đạo Thiên Chúa vì sợ bị chặt đầu và đành theo Hồi giáo. Đó là lý do tại sao Petrovici theo Hồi giáo như đa số dân Bosnie.

    Bà trưởng phái đoàn hài lòng nhìn chứng chỉ rửa tội mà Petrovici tự tạo ra để được phép sửa đồng hồ tại Argentine :

    - Chúng tôi chỉ nhận người có đạo Thiên chúa thôi. Ông đi khám nghiệm y khoa xong trở lại đây. Tuổi giới hạn là 40, ông hình như chưa quá 40. Với là chắc ông không bị tàn tật?

    Người đàn bà nhìn giấy tờ. Toàn là đồ giả mạo hết, nhưng bà không hề biết. Petrovici nghĩ đến vài phân mét còn thiếu, nhưng ông ta thừa biết phải thóp bụng, nhón chân làm sao rồi. Ông ta nghĩ đến cái răng sâu, đến bàn chân phải không có lòng bàn chân và lo sợ hết sức. Nhưng người đàn bà nói:

    - Những người thợ giỏi. Những người sùng đạo và khỏe mạnh. Đó là tiêu chuẩn của xứ Argentine. Ông hội đủ tất cả các điều kiện.

    Petrovici lại khó thở, cố tìm không khí nào cho dễ thở. Ở trên cao có lẽ không khí trong sạch hơn. Ông ta ngẩng đầu lên. Trên thánh giá, Chúa Jésus đang nhìn vào đôi mắt Petrovici và hình như bảo : Chúa sẽ giúp đỡ cho những ai không có lòng bàn chân ở chân phải. Và giúp đỡ những ai cao không đầy 1m60. Ante Petrovici, con đừng sợ gì cả, bởi vì dù con theo Hồi giáo, Chúa cũng giúp đỡ người Hồi giáo như thường. Chúa ở bên cạnh con, ngay cả khi giáo hội của ta không thừa nhận con.

    Petrovici bước ra ngoài mà không hề đi cà nhắc, đi như là ông ta không có một chân thấp hơn chân kia. Chúa đã nâng Petrovici lên một chút để cho người đàn bà đó không thấy Petrovici đi cà nhắc.

    VII
    Về đến nhà, Petrovici đã thấy Pillat trong phòng, Marie mặc áo cưới từ Francfort trở về một cách ô nhục. Họ kể cho Petrovici nghe về Kostaky và vụ mất cắp áo quần. Cầm một miếng biscuit nhai, Petrovici hứa hẹn :

    - Chờ đây, tôi sẽ đi kiếm cho bà một cái áo và một đôi giày. Petrovici đi cà nhắc đến ngọn đồi trên cao của Stuttgart. Khu phố trên đồi là khu phố duy nhất không bị dội bom. Những biệt thự ở đó đã bị người Mỹ tịch thu và nhường lại cho người Do Thái còn sống sót ở trại tập trung. Đó là một xóm Do Thái bị quản thúc theo lối mới. Ở đó, hằng ngày tiêu thụ hàng triệu tiền marks. Mỗi đồ hộp vừa mới ở nhà hàng bán ra đều đã tung vào khu Do Thái đó, trước khi qua hàng chợ đen. Tất cả những tác phẩm nghệ thuật, vàng bạc, tất cả vật dụng có giá của Đức quốc phải đi qua khu phố đó trước khi đến Hoa Kỳ. Mỗi điếu thuốc của lính Mỹ phải qua khu phố đó trước khi đến tay người dân. Ở đây không thiếu gì cả. Một số người trở thành triệu phú trong vài ngày. Ở đây có cả áo lông, tranh ảnh nghệ thuật, thức ăn, trái cây ngoại quốc, thuốc lá. Điều duy nhất mà người Do Thái ở đây không được phép giữ đó là tiền đô la. Quân cảnh lùng bắt rất thường để tịch thu đô la. Nhiều triệu phú trong vài phút trở lại nghèo nàn như lúc vừa mới bước chân từ trại tập trung ra.

    Petrovici bước vào nhà bà Salomon. Ông không biết bà Salomon nguyên là cô Eddy Thall, bạn thân của Lidia, vừa ở miền núi Oural đến, đã làm trong chương trình thay đổi khí hậu ở Sô Viết. Ông cũng không biết là đứa con của Salomon vừa mới bị giết ở Varsovie.

    Không ai biết gì về hành tung của ông bà Isaac Salomon cả trừ chuyện họ là nạn nhân của chủ nghĩa phát xít và bà Salomon là một trong những người đàn bà giàu nhất khu Do Thái ở Stuttgart. Petrovici ngỏ ý :

    - Tôi đến xin bà một cái áo cho vợ một người bạn vừa bị mất cắp và không còn gì để mặc nữa.

    Bà Salomon mở va ly và trao cho Petrovici hai cái áo đã cũ. Trong phòng, chỉ có một giường nằm, hai ghế, một bàn gỗ với nhiều va ly chồng chất lên nhau.

    - Tôi đã được di cư sang Argentine.

    Bà Salomon chỉ bức ảnh một trang trại đặt trên đầu giường bảo :

    - Tôi cũng sắp di cư. Đó là một trang trại tôi mua được ở Gia nã đại. Chúng tôi hy vọng sẽ khởi hành trong vài tuần nữa.

    Trang trại có ngôi nhà hai tầng và nhiều phòng rộng.

    - Isaac đang lo chạy áp phe. Chiều mai anh ấy mới về với số tiền cần đủ cho chúng tôi đi Gia nã đại. Chắc là lần áp phe chót của anh ấy đó. Sau đó chúng tôi sẽ đi xa và yên ổn sinh sống.

    Petrovici biết là Motok cùng đi với Isaac Salomon để lén lút bán mấy chiếc cam nhông hàng hoá trong vùng Sô Viết, nếu họ không bị bắt họ sẽ giàu to. Petrovici muốn về, nhưng bà Salomon cản lại :

    - Aurel Popesco sẽ đến đây. Ở lại đây chơi chút đã.

    Salomon bắt đầu nói về trang trại của bà ở Gia nã đại qua bức ảnh. Nàng ăn mặc thật sang với toàn đồ trang sức đắt tiền, giày dép đều đắt giá và theo kiểu Mỹ.

    - Tôi nóng lòng rời bỏ người Mỹ cũng như hồi xưa tôi muốn trốn thoát trại tập trung. Thật ra người Mỹ đã chiến đấu để giải phóng người Do Thái ra khỏi các trại tập trung và hủy bỏ chủ nghĩa chống Do Thái. Ngày chiến thắng đã đến rồi. Và chúng tôi lại được quản thúc trong khu phố này, được ăn ở miễn phí, được tự do làm gì thì làm. Chúng tôi có thể trở nên triệu phú nhưng vừa lúc chúng tôi kiếm được tiền là người Mỹ đến đây để tịch thu ngay. Isaac đã nhiều lần giàu có. Nhưng đều bị quân cảnh lấy không còn một xu dính túi. Chưa đủ, lúc mà một đô la đến tay người Do Thái thì nó không còn giá trị gì nữa cả. Người Do Thái chúng tôi không trả tiền để du lịch được, không thể mua nhà được vì họ cấm chúng tôi trả tiền bằng đô la; chỉ còn một cách là mỗi khi kiếm được tiền chúng tôi đem chôn đi.

    Nhưng chúng tôi cũng kiếm cách để giải quyết nỗi lo ngại đó, bằng cách là chúng tôi chia đôi tiền có được với một người Mỹ nào đó để họ chuyển cho chúng tôi sang Gia nã đại. Vài tuần nữa chúng tôi sẽ bỏ khu phố này mà đi.

    Vừa lúc đó thì Aurel Popesco và Varlaam đi vào. Bà Salomon dấu vội tấm hình trang trại, nhìn hai người vừa đi vào và nhận ra Varlaam ngay. Đúng là viên sĩ quan đã đến Bucarest đòi cư ngụ trong ngôi nhà của bà bị chánh phủ tịch thu, nhân danh những luật lệ về chủng tộc. Nhưng Varlaam không nhận ra bà Eddy. Bà cố nhắc :

    - Hình như chúng ta đã gặp nhau rồi thì phải.

    Varlaam nhìn thật kỹ và không thể nhận ra nổi. Bà Salomon chắc chắn:

    - Tôi chắc là chúng ta đã gặp nhau một lần.

    Nhưng sau đó, bà không nhắc câu nói đó nữa mà chỉ nghĩ "Mình già đến độ người ta không nhận ra nữa ư?" cũng với ý tưởng đó, nỗi buồn to tát xâm chiếm tâm hồn bà. Varlaam quả quyết:

    - Tôi không nghĩ là chúng ta đã gặp nhau. Với lại trí nhớ tôi khá lắm.

    - Thôi chả quan hệ gì. Nói về công việc thì hơn. Ông bạn Aurel Popesco có nói với tôi là ông muốn di cư, nhưng ông bị tất cả các phái đoàn từ chối. Tôi có thể cho ông một cơ hội để trở về làm phi công như cũ. Muốn thế ông phải ký hợp đồng với Israel. Ông sẽ gia nhập không quân Do Thái với cấp bậc cũ mà ông đã có, nghĩa là trung úy phi công. Với tiền lương đầy đủ cộng với phụ cấp công vụ. Hợp đồng có giá trị trong suốt thời gian có chiến tranh giữa Do Thái và Ai Cập.

    Bà Salomon giải thích thêm:

    - Thay vì phải ở lại Đức lén lút bán bơ và thuốc lá với viễn tượng mỗi ngày là sẽ vào tù với những tên du đãng, ông nên làm chiến sĩ thì hơn. Về phương diện tinh thần thì thật là một vinh dự khi chiến đấu để bảo vệ cho Thánh địa Palestine.

    Nghĩ đến các nước bên kia Đại dương không thèm chấp nhận mình làm thợ đốn củi, hay là quét nhà, Varlaam đáp ngay:

    - Tôi nhận lời.

    - Nhận lời thôi chưa đủ. Ông phải ra đi ngày mai tức khắc.

    - Chả có gì giữ tôi lại nơi đây cả.

    Bà Salomon chỉ thêm vài thủ tục cần làm, phải đi đến văn phòng quân sự trước mặt để ký hợp đồng, hay chụp hình và may quân phục.

    - Ông sẽ ra đi trong bộ đồng phục sĩ quan của Do Thái, nhưng đừng mang tên cũ nữa.

    - Nhưng có cần đổi tên lắm không?

    - Ông cần có một tên Do Thái, lúc mà ông mang quân phục Do Thái.

    Để tôi kiếm cho. Ông thích tên David không, tên có vẻ chiến sĩ lắm đó. Tiếp theo là Ozias, tên hay đó, phi công David Ozias của không lực Do Thái.

    Bà Salomon đưa cho Varlaam 500 đô la, như là tiền đặt trước. Trước khi đi, Varlaam sẽ nhận lương một tháng bằng đô la. Bà Salomon hỏi:

    - Ông biết giá tiền trên thị trường chứ nhỉ? Nói vậy chứ về tiền tệ đổi chác chắc với ông là một việc lạ lùng. Hiện nay giá trị con người ở ngân hàng Mạc tư khoa là một con số không. Ở Nữu Ước cũng không hơn không kém. Các phái đoàn bên Đại Tây Dương đến Đức mua người với một giá rẻ mạt, rẻ hơn cả một vé tàu hạng ba trên tàu thủy. Vì thế mà họ mua theo kích thước và sức nặng rồi chở lên tàu như súc vật. Trước khi đi ông sẽ nhận hơn hai ngàn đô la. Như vậy là tại ngân hàng Tel Aviv nhân vị cao hơn hết. Tôi nghĩ là hiện tượng đó có được là vì Israel là một quốc gia có tín ngưỡng. Trong một quốc gia như thế thì con người còn một chút giá trị. Tiếc thay Israel là quốc gia sùng đạo duy nhất trên thế giới.

    Varlaam đã muốn đi. Nhưng bà Salomon gạn hỏi:

    - Nhìn kỹ tôi một lần nữa xem có nhận ra tôi không?

    Varlaam nhìn mái tóc đã bạc, đôi mắt đã nhăn chung quanh và trả lời :

    - Thưa bà, tôi chưa bao giờ gặp bà.

    Bà Salomon ứa lệ, nhưng ráng vui :

    - Đừng quên tên ông đó nghe, David Ozias.

    Cùng lúc, nàng nghĩ "Mình đã già lắm rồi".

    °

    Aurel Popesco bắt đầu nói chính trị như thói quen của ông ta.

    - Trong vài ngày nữa sẽ có hội nghị của những quốc gia Âu châu bị Nga Sô chiếm đóng. Tôi đã cho người Hoa Kỳ biết rằng hội nghị đó là một biến cố chính trị hết sức quan trọng của thời đại này. Những lãnh tụ đảng Cộng sản Đông Âu muốn tách rời Nga Sô để thành lập một liên minh các nước Cộng sản quanh sông Danube. Chủ tịch liên bang sẽ là vị thống chế những người Slaves miền Nam. Mạc tư khoa đã biết rõ kế hoạch đó, và đã dùng Boris Bodnariuk trong công tác ám sát vị thống chế đó, trong lúc đó Hồng quân sẽ đổ bộ lên bờ Địa Trung Hải, có thể Hồng quân sẽ tiến đến Ý Đại Lợi. Tôi đã báo động cho Hoa Kỳ, và như thế không những tôi đã cứu Ý Đại Lợi và Vatican mà cứu cả nền văn hóa Tây phương; nhờ tôi mà quân đội Mỹ biết được đà tiến của Nga Sô. Chính tôi và ông bạn Milan Paternik đã có công cứu vớt Tây phương khỏi sự xâm lăng của Nga Sô.

    Ante Petrovici chua chát:

    - Ông bỏ thì giờ để cứu vớt một nền văn hóa và để giết người luôn thể. Ông giết người đã cứu nền văn minh, cứu văn hóa, cứu giáo hội ư? Hãy cứu người đi đã, và điều đó đáng hơn là cứu nhân loại. Bởi vì không có nhân loại, chỉ có người và con người mà thôi, ông bạn Aurel Popesco!

    Nói xong, Petrovici cám ơn Salomon về hai cái áo, và ra về, ông ta đi cà nhắc hơn bao giờ hết.

    VIII
    Aurel Popesco thì cố giải thích cho bà Salomon vì sao các vị lãnh tụ cộng sản các quốc gia bị Nga chiếm đóng muốn chống đối Mạc Tư Khoa, vì sao Sô Viết sẽ giết thống chế những người Slaves miền Nam và lợi dụng cơ hội đó để tiến vào Đông Âu.

    Trong lúc đó bà Salomon chỉ nghĩ đến trang trại của bà ở Gia nã đại. Bà lơ đãng nhìn ra cửa sổ thấy Varlaam ở văn phòng quân sự đi ra.

    - Chính trị không liên quan gì đến tôi cả.

    Nói xong, bà mời Aurel Popesco xuống lầu. Trời xẩm tối. Tất cả người Do Thái đều ra đường trước nhà. Trong tất cả khu phố của người Do Thái, đâu đâu cũng có hiện tượng đó. Lúc hoàng hôn xuống, người Do Thái nào cũng bỏ nhà, xuống phố để nghe ngóng tình hình. Sợ hãi đã thấm tận xương tủy. Cho nên trước khi vô nhà, gài cửa đi ngủ, họ phải ra đường để lấy tin tức về giá cả tiền tệ, về chính trị, về các phong trào chống Do Thái. Họ hỏi hết tất cả vấn đề để xem thử nên ngủ hay cần phải thức trắng đêm, để tính toán xem thử có gì đến với họ trong đêm, và họ có thể ngủ yên hay không. Aurel Popesco nhìn những người Do Thái đang tụm năm tụm ba trên đường phố. Bỗng nhiên xe cam nhông và xe quân cảnh Mỹ xuất hiện, bao vây khu phố. Bà Salomon giải thích:

    - Họ lại đi kiếm đô la đó. Cứ mỗi tuần hai, ba lần, quân cảnh Mỹ xuất hiện nơi đây khi người ta báo cáo là có một vụ làm ăn mang lại khá nhiều đô la. Họ đến tịch thu hết đô la xong rồi lẹ làng chuồn đi. Ngoài đô la ra, họ không thèm để ý đến điều gì khác nữa.

    Lính Mỹ đã bao vây một vài căn nhà. Bà Salomon nói tiếp:

    - May mà Isaac không có nhà. Các vụ vơ vét đó đã làm chúng tôi điên đầu.

    Cho nên ông thấy là tôi khoái bỏ đi lắm, chỉ khi nào đi khỏi đây chúng tôi mới sống tự do được. Isaac cũng thế, anh ấy không thể chịu đựng nổi. Đã nhiều lần họ lấy hết tiền của chúng tôi, lấy sạch sành sanh chẳng còn đô la nào cả. Bây giờ, họ có lên phòng tôi thì cũng chỉ tìm thấy áo quần dơ thôi.

    Bà Salomon và Popesco đành đứng lại nhìn, không bước lên được, đường xá bị ngăn chặn hết.

    - Chúng tôi sẽ được yên ổn ở Gia nã đại, ở đó chúng tôi có thể sống như bao nhiêu người khác.

    Vào lúc đó có tiếng một vật gì lớn rơi xuống, đám đông la hét om sòm. Lính Mỹ tăng cường hàng rào ngăn chặn. Aurel Popesco nhón chân lên nhìn và bảo:

    - Hình như có ai nhảy qua cửa sổ tự tử.

    Đám đông vây quanh căn nhà có người tự tử, nhưng không ai đến gần được. Bà Salomon tái mặt, phải vịn vai Aurel Popesco.

    - Tôi không còn chịu đựng nổi cảnh tượng này nữa. Giá mà tôi được rời khỏi nơi này càng sớm càng hay.

    Xe hồng thập tự chạy đến, vài y tá đem xác chết lên xe. Mọi việc chỉ xảy ra trong vài phút.

    Eddy Thall nhờ Aurel Popesco dẫn về phòng:

    - Tôi kiệt sức rồi, không lên lầu một mình được nữa.

    Họ rẽ đám đông đang bàn tán về vụ tự tử để trở về phòng.

    Bà Salomon cảm thấy cái gì trơn ướt dưới chân. Thì ra bà đang đi trên vũng máu, đúng chỗ mà người chết vừa lao xuống. Eddy Thall muốn hỏi thử ai vừa mới tự tử, nhưng cặp mắt bà cứ trơ tráo nhìn vũng máu trên đường nhựa, vũng máu mà bà vừa bước chân lên, đôi giày hoa mỹ kiểu Hoa Kỳ đã dính máu. Vừa bước lên lầu, bà vừa thấy trước mặt hình ảnh vũng máu, chiếc xe hồng thập tự và đám đông đang vây quanh bà.

    Một người Do Thái vừa nhảy qua cửa sổ tự tử, và điều đó xảy ra sau ngày chiến thắng. Vào lúc mà người Do Thái đã là sở hữu chủ những trái bom nguyên tử và viên giám đốc kỹ nghệ nguyên tử, Lilienthal, lại là một người Do Thái cùng quê hương với Lidia. Bà Salomon vẫn nói :

    - May mắn là chúng tôi sẽ đi Gia nã đại.

    Bà ta đã chóng mặt phải tựa lên tay Aurel Popesco mà đi. Bà muốn rửa đôi giày trước khi vào nhà để máu đỡ dính nền nhà.

    - Ai tự tử đấy nhỉ?

    - Tôi không biết. Người Mỹ chở ông ta vào nhà thương nhưng hắn chết rồi.

    Vào phòng, bà Salomon nằm dài xuống giường.

    - Làm ơn cho tôi thức gì uống, lạnh càng tốt. May là chúng tôi rời bỏ nơi nầy, từ giã cái xứ bạc bẽo nầy. Sung sướng mà đi được. Nếu Isaac có thể về sớm hơn được nhỉ? Nhưng mà Isaac chỉ trở về vào ngày mai khoảng 6 giờ và từ đây cho đến 6 giờ chiều mai, tôi phải ở đây một mình, cô đơn quá.

    Bà khóc nho nhỏ. Qua làn nước mắt, bỗng bà thấy cái mũ của Isaac trên ghế. Bà mở to mắt ngạc nhiên. Rồi trên giường có cả áo choàng của Isaac đó nữa. Bà vùng dậy tưởng mình mê ngủ:

    - Isaac về rồi hả? Anh ấy đâu rồi?

    Cửa phòng xịch mở, và hai cảnh sát Do Thái bước vào. Bà Salomon hỏi:

    - Isaac về rồi sao?

    Hai người cảnh sát vẫn yên lặng. Bà Salomon nhảy chồm về phía họ với bộ áo vết trên tay, liên hồi hỏi Isaac ở đâu, nhưng hai người cảnh sát vẫn không trả lời. Họ bất động cho đến lúc bà Salomon ngả dài trên sân nhà với bộ áo của chồng bà còn trên tay. Hai người cảnh sát ẩm bà lên giường và giải thích:

    - Tụi Mỹ ở lầu một, Isaac vội vã bước lên lầu. Rồi tụi Mỹ thấy ông ta bước vào phòng. Vài giây sau, ông ta lao mình qua cửa sổ.

    Aurel Popesco hỏi:

    - Nhưng mà đúng là Isaac hả?

    Hai người cảnh sát cẩn thận nhìn lại bà Salomon đang bất tỉnh.

    - Vâng, đúng là Isaac tự tử. Ông ấy là bạn ông? Hình như ông ấy có nhiều đô la và sợ bị tịch thu.

    Hai người y tá vào phòng và bắt đầu đánh gió cho bà Salomon đang nằm sấp trên giường.

    - Hình như Isaac Salomon bị mệt mỏi quá sức. Điều đó ông là bạn chắc ông hiểu rõ. Vâng, ông ta bị giao động quá mức, nên không thể trách ai về vụ này được. Đúng ra tụi Mỹ không có ý định khám xét nhà ông ấy. Họ rất ngạc nhiên về vụ tự tử này, và đã ngừng ngay cuộc bố ráp.

    Trên giường, dưới người bà Salomon có cái cặp của Isaac Salomon đầy ắp cả đô la.

    Hai người y tá lật bà nằm ngửa ra cho dễ chịu. Trước khi rời phòng, hai người cảnh sát nói với Aurel Popesco :

    - Chào ông. Không phải lỗi của ai cả. Lỗi của người Mỹ lại càng không đúng mấy. Chúng tôi có chứng kiến vụ này. Ngay lúc mà Isaac nhảy qua cửa sổ, người Mỹ đã ngừng cuộc bố ráp.

    IX
    Nguồn tin của Aurel Popesco đúng ngắt. Vào buổi chiều Isaac tự tử, Boris Bodnariuk đã nhận được lệnh ám sát vị thống chế những người Slaves miền Nam.

    Sau khi đã loại bỏ hẳn giai cấp trưởng giả, Boris Bodnariuk được thăng chức bộ trưởng bộ chiến tranh.

    Hắn đến Niamtz vài ngày bằng phi cơ riêng do ông bạn phi công Anatole Barsov mà hắn đã làm quen trong bệnh viện lái. Phi cơ hạ cánh ở phi trường Piatra được thành lập trên khu đất của nhà Pillat và vườn rau của Ion Kostaky. Nhà Kostaky dùng làm văn phòng. Làng Piatra đã thay đổi rất nhiều. Bodnariuk lên xe hơi. Trước khi tạm biệt, hắn bắt tay Anatole Barsov và viên phi công phụ Igor Poltarev, cầu chúc cả hai vui vẻ.

    Đường sá Piatra nay đã rộng rãi và lát gạch. Trong làng đã có một xưởng kỹ nghệ. Giữa thành phố Molda và làng Piatra có một nhà gạch lớn dùng làm nhà tù. Người ta cũng đã quốc hữu hóa đất đai. Đa số nông dân làm việc trong xưởng kỹ nghệ, ăn ở quán, chỉ về nhà ngủ thôi. Nhà của Piatra gần như bỏ hoang. Không còn khói thổi cơm mỗi chiều, vì nông dân từ xưởng về muộn vội vã đi ngủ rồi lại ra đi vào tảng sáng. Không còn ống khói trên nhà, không còn rào dậu quanh nhà. Chó mèo cũng vắng bóng, hoa cỏ hiếm hoi. Người cũng ít khi xuất hiện trong làng, trừ ngày chủ nhật. Ngay cả vào ngày nghỉ, họ cũng phải đến phường hội họp, nên nhà nào cũng vắng vẻ cả.

    Xe Boris đã lên đến khu rừng thông. Boris hài lòng:

    - Lần đầu tiên, nhờ Sô Viết mà con người không phấn đấu riêng rẻ cho đời sống. Cá nhân không còn lo âu cho ngày mai nữa. Bởi tất cả đều chung lưng làm việc. Thật là một công trình vĩ đại hữu ích cho con người. Thế mà họ lại chống đối. Cho nên lũ đó phải bị loại bỏ để cho cuộc cách mạng đầu tiên vĩ đại trong lịch sử có thể hoàn thành được.

    Trong một biệt thự ở khu rừng thông, Boris phải soạn một bài diễn văn cho hội nghị các quốc gia Đông Âu. Và hắn được nghỉ ngơi ba ngày, trong cái yên tĩnh của khu rừng. Boris quấn chặt khăn cổ, gài nút áo, chui vào mền đắp kín chăn. Chưa bao giờ hắn được nghĩ ngơi. Đây là lần đầu tiên dưỡng sức trong đời. Trong ba ngày, hắn được ở một mình trong núi rừng yên tĩnh.

    Trong lúc đó thì Anatole Barsov và Igor Poltarev nghỉ ở trong làng Piatra, thong thả uống rượu Vodka.

    Barsov được xa vợ ít hôm là một điều hạnh phúc, bởi vợ hắn cãi vả suốt ngày làm hắn đâm ra chán nản. Hắn không trách gì Olga, chỉ nghiệt là bà ta cứ kiếm chuyện rầy la hắn mãi. Vợ hắn như là chong chóng, quay mãi không bao giờ ngừng. Igor mở chuyện:

    - Tối nay mầy sẽ không cãi cọ với Olga nữa đâu. Không tối nay và không tối nào nữa cả. Bà ta chỉ còn cãi vả với mấy bức tường, vì chúng mình sẽ đi tối nay.

    - Đi đâu mầy?

    - Như là tụi mình đã định. Đã có đủ xăng. Bay từ sân bay Piatra này thì cũng dễ như ở Bucarest. Xăng có đó, tao sẽ chỉ cho mầy xem.

    Barsov nhớ rõ từng câu nói của họ mấy tháng trước. Một hôm, cả hai cùng đi công tác chung. Poltarev đã từng đi công tác ngoại quốc. Hắn biết rõ Luân Đôn, Ba Lê, Nice, Bá Linh... kể chuyện xong, Poltarev hỏi thẳng Barsov:

    - Mầy muốn trốn với tao sang Mỹ không?

    Barsov giận dữ:

    - Tao không muốn làm một kẻ phản bội.

    - Tao cũng thế, tao không phải là kẻ phản bội. Tao đặt vấn đề cho mầy xem trước đã. Mầy không đồng ý với vợ mầy và với cấp chỉ huy mầy ở không đoàn. Mầy là bạn của ông bộ trưởng Bodnariuk, đúng đấy, nhưng hắn ta bận việc hoài không bao giờ nói chuyện với mầy cả. Tao hỏi mầy thử mầy có muốn lấy máy bay trốn đi, xa Olga, xa không đoàn, xa nợ nần, xa luôn cả chương trình hằng ngày không? Xa tất cả. Bay sang một xứ xa lạ nào đó, tự do làm giàu, không còn ràng buộc vợ con, cấp chỉ huy.

    Barsov nhớ rõ mồn một câu chuyện đó: «Tao thì nghĩ mãi vấn đề này, Poltarev nói tiếp, tưởng tượng là tao lên máy bay với người bạn thân đi đến một nơi nào xa lạ. Nghĩ thế và tao thấy được một viễn ảnh đẹp nhất đời tao như là lúc uống rượu, tắm nắng».

    - Mầy không hiểu đó là những giấc mơ phản động sao? Tao sẽ tố cáo mầy lên cấp chỉ huy.

    - Mầy là bạn thân của tao, mầy không tố cáo tao đâu.

    - Nhưng trước tiên tao là một người lính và một công dân Sô Viết, bạn mầy chỉ là điều thứ yếu.

    - Mầy sẽ không tổ cáo tao, không có gì xấu xa trong câu chuyện tao nói với mầy cả. Tao biết mầy cũng ước mơ được ra đi trên một chuyến bay đến tận cùng thế giới. Phi công nào cũng mơ ước như thế.

    - Tao có mơ ước chứ, cũng mơ ước bay thật xa, nhưng cùng lúc đó, tao cũng mơ ước trở về, đáp trên mảnh đất Sô Viết mà tao yêu mến và nguyện trung thành.

    Poltarev bình thản nói thêm:

    - Tao cũng thế, tao thích trở về trên mảnh đất Sô Viết, bởi vì tao cũng trung thành và yêu mến tổ quốc nhưng mầy phải công nhận là sau những giờ bay trên nền trời xanh thẩm, lúc mà tất cả đều ở dưới chân mầy, thì thật là khổ tâm nếu phải trở lại trái đất, chịu đựng những cặp mắt xoi bói của tên chỉ huy trưởng vì mầy không gài nút áo đàng hoàng.

    Poltarev khéo nói lắm:

    - Mầy thấy chưa, trở lại trái đất là một điều khổ tâm cho một người phi công. Trái đất xấu xa, chật hẹp và dơ bẩn. Trái đất không giống bầu trời tí nào cả. Sau mỗi lần bay, tâm hồn mầy sẽ bực bội với ý nghĩ là sẽ trở về trái đất trong một căn hầm, trả nợ, làm tiền, thi hành những mệnh lệnh ngu xuẩn, cãi vả với chỉ huy trưởng, với bà mẹ vợ và vợ mầy, chịu đựng những mỉa mai của bạn bè. Trở lại với tất cả những điều đó thì chán lắm, nhất là sau khi đang bay bổng trên trời mà mầy làm chủ hết mọi việc, mà các ngôi sao nở trên vai mầy như là huy hiệu thống chế. Thành ra mầy không thể không có cùng những ý nghĩ như vậy. Tất cả phi công nào cũng mơ ước như thế cả.

    Bây giờ ngồi trước Poltarev, Anatole Barsov nhớ rõ mồn một buổi nói chuyện hôm đó, sở dĩ thế là vì từ sáu tháng nay hắn cũng nghĩ nhiều về điều đó, nghĩ về từng câu nói trao đổi giữa hai bên. Hắn đã trả lời Poltarev như thế này: «Trên quan điểm của mầy thì mầy có lý lắm, nhưng chúng mình trước tiên là những công dân Sô Viết, thứ đến mới là phi công chứ».

    Cuội nói chuyện chấm dứt ngang đó, sau này lại chính Barsov đã khơi mào trở lại câu chuyện :

    - Mầy biết là tao cũng muốn lái máy bay trốn đi, với một người bạn và không bao giờ trở lại không đoàn nữa.

    Poltarev hỏi lại cho chắc ăn :

    - Mầy nghĩ là nên làm thế hả?

    - Vâng, tao nghĩ đến điều đó mỗi tối, và tao phải công nhân đó là những giờ phút đẹp nhất trong ngày.

    - Đúng là mầy đã tìm thấy một thứ hạnh phúc trên đời. Dạo này mầy it uống rượu và mập ra, ít cáu kỉnh. Người ta bảo một giấc mơ cũng làm cho cuộc đời êm đềm hơn.

    - Nếu ai nghe chúng mình nói thế, cả hai đều bị bắt mất. Chúng mình sẽ bị khổ sai chung thân, vì điều nầy quan hệ lắm.

    - Mơ mộng mà cũng bị tội nặng sao?

    - Tất cả tội ác và phản bội đều bắt nguồn từ giấc mơ. Vì thế mà đồng chí Boris Bodnariuk đã bảo là giấc mơ cũng bị trừng phạt nặng như hành động. Từ giấc mơ qua sự thật chỉ có một bước ngắn ngủi, nên công lý phải trừng phạt giấc mơ cũng như hành động, phải trừng phạt tội ác trong giấc mơ và tội ác đã phạm ngang nhau. Vả lại, tao nhận thấy là công lý Sô Viết đã bắt đầu làm như thế rồi. Cho nên, trong lúc mơ mộng tao có cảm tưởng là đã phạm trọng tội.

    Poltarev thúc giục:

    - Nếu vậy thì mầy có đủ can đảm thực hiện điều đã mơ ước không nghĩa là leo lên máy bay và lái đi xa?

    - Không, không bao giờ tao phản bội.

    - Nhưng nếu mầy đã mơ ước thì có ngày mầy sẽ hành động, đã phản bội trong giấc mơ thì có ngày sẽ phản bội trong hành động.

    Cuộc cãi cọ đã đến hồi gay gắt. Barsov dọa sẽ trình lại với Boris. Poltarev khéo léo nói :

    - Nhưng, mầy cũng phải khai trước tòa án là mầy đã mơ ước trốn đi mỗi tối, phải khai là mầy mơ ước làm sao đánh cắp một chiếc máy bay để đào ngũ. Và khai như thế có nghĩa là thế nào mầy biết không? Đào ngũ bằng tưởng tượng nhưng chưa thực hiện vì thiếu phương tiện. Quan toà thừa biết là nếu mầy đã đủ xăng nhớt, mầy sẽ thực hiện giấc mơ ngay. Và họ sẽ kết án mầy như tao.

    - Không, tao không phải là kẻ phản bội. Mầy là một thành phần nguy hiểm. Tao không tố cáo mầy, nhưng tao tránh không nói chuyện với mầy nữa kể từ chiều nay. Tao không muốn phản bội.

    Poltarev lại bào chữa:

    - Không phải là một điều phản bội. Đó là chuyện thường tình của một phi công. Phi công thường mơ ước bay thật xa. Cho nên không thể cho điều đó là phản bội đất nước Sô Viết. Ông bạn Barsov ơi, đó là lòng trung thành của phi công với trời cao. Phi công chúng ta gần với trời cao hơn. Nếu bảo chúng ta phản bội thì tất cả phi công đều phản bội cả vì phi công nào cũng mơ ước như thế. Vài phi công mơ ước bay xa, họ phản bội không riêng gì quê hương mà phản bội tất cả trái đất. Và dĩ nhiên, trời xanh thì đẹp đẽ, còn đất thì dơ bẩn và xấu xí. Vì vậy nên tại sao mầy là một phi công thực thụ, mầy sẽ bay xa với tao. Hơn nữa, mầy cũng thích xa hoa, tiền bạc, âm nhạc, đàn bà, tất cả những gì đẹp đẽ, mầy sẽ bay với tao để thực hiện giấc mơ mỗi tối của mầy.

    Barsov giận dữ:

    - Để thực hiện giấc mơ phản quốc?

    - Tao cũng yêu tổ quốc chứ, đi đâu thì tao cũng yêu nhớ về tổ quốc. Nhưng tao sẽ đi với mầy như tao đã từng mơ ước. Tao sẽ tổ chức đời sống của tao tùy theo sở thích. Tao muốn biết các nước khác như thế nào, tao muốn có tiền, muốn nhảy đầm, nghe nhạc, có người yêu trẻ đẹp, lịch sự. Và chuyện đó có phải là chuyện phản bội đâu.

    - Mầy không phải là công dân Sô Viết, mầy là một tên phản quốc.

    - Tao đã trữ 100 lít xăng. Lúc nào tao có đủ, tao sẽ cho mầy biết. Tao sẽ gọi mầy, mầy nhớ đến ngay.

    Tối đó, Barsov không tố cáo Poltarev, ngày sau cũng thế. Nếu gặp lại Boris thì hắn đã kể hết, nhưng Boris đã đi xa. Barsov không thể thổ lộ với ai cả. Vài ngày sau, Poltarev bảo:

    - Chúng ta sắp đi rồi. Tao rất mừng là mầy đã nhận lời. Bay với người bạn thân thì thích lắm. Với lại tao cũng không thể bay một mình được.

    - Ô hay, tao đã nhận lời gì đâu.

    - Mầy không tố cáo tao dù mầy đã thấy tao trữ nhiều xăng có nghĩa là mầy nhận lời trốn đi với tao. Bây giờ, tố cáo tao thì cũng trễ rồi. Nếu mầy tố cáo tao, mầy cũng sẽ bị bắn.

    Poltarev cười to, và khuyên Barsov lấy xăng thêm nữa. Barsov vẫn từ chối. Hắn vẫn vừa suy nghĩ vừa nhìn những ngôi nhà vắng vẻ ở Piatra, rồi uống thêm một ly rượu. Poltarev vội thu chai rượu đi.

    - Đừng uống nữa. Vài giờ nữa phải đi rồi. Tất cả đều sẵn sàng. Tao đã có đủ xăng.

    - Nhưng tao không muốn đi, tao muốn chết hơn là phản bội.

    Poltarev chỉ máy bay đậu trên sân và nói:

    - Từ chối bây giờ thì quá chậm. Ở bên kia, hạnh phúc đang chờ chúng mình. Mầy biết là phi công lương tháng bao nhiêu ở Mỹ không? Hơn cả tiền mình kiếm được ở đây một năm. Và nếu mầy biết là cuộc đời ở đó đẹp lắm, chắc mầy sẽ cám ơn tao nhiều.

    - Nhưng tao không nhận lời phản bội.

    Barsov vừa nói vừa nhìn chiếc phi cơ và lập lại:

    - Tao không thể phản bội được.

    - Tao đã giấu xăng trong mấy hộp thức ăn ở hầm máy bay. Có đủ để bay xa rồi.

    - Nhưng nếu tụi Mỹ bắt hai đứa mình và trả lại cho Sô Viết?

    - Thôi đừng sợ nữa. Tao bảo đảm với mầy là tám ngày nữa tụi mình đã ở trung tâm Nữu Ước với thuốc lá trên môi và túi đầy ắp tiền.

    - Mầy bảo đảm thế à? Làm sao mầy chắc chuyện đó được?

    - Bởi vì tao đã ở ngoại quốc và tao biết chuyện rõ lắm rồi.

    Cả hai cùng yên lặng ngắm chiếc máy bay. Barsov nghĩ đến Olga và nói:

    - Tao đi với mầy.

    - Nếu có chuyện gì xảy ra tao tự tử. Và thế là đúng lắm. Một kẻ phản quốc phải chết. Tao đã là một kẻ phản quốc, phản quốc từ ngày đầu tiên tao bằng lòng nói chuyện với mầy cách đây sáu tháng.

    Và hai giờ sau họ bước lên máy bay thì Barsov mới cảm thấy sung sướng. Hắn ta nói với Poltarev:

    - Tao sung sướng đã trốn đi thế này, như chưa bao giờ sung sướng thế.

    - Hạnh phúc sẽ có trong tương lai. Cuộc đời chỉ mới bắt đầu thôi. Mầy không hiểu là đời đẹp lắm đấy. Mọi người mơ ước được bỏ đi. Mầy có may mắn lớn lao đã được đi như mầy đã từng mơ ước.

    Thế là chiếc máy bay của ông bộ trưởng chiến tranh Boris Bodnariuk của Lỗ ma ni hướng về phương Tây, phía Áo quốc. Barsov bảo: «Đây là giờ trọng đại nhất của đời tao». Bởi vì lần đầu tiên trong đời phi công, hắn mới cảm thấy hắn bay thật sự bay trong tự do, như những con chim bay theo ý muốn - Một chuyến bay thực sự.

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    X
    Bốn giờ sau cuộc đào ngũ của hai phi công đó, Boris vẫn không hay biết gì cả, bởi vì Boris vẫn còn nằm trong biệt thự trên đồi thông. Cho dù có giường nệm êm ái, hắn vẫn không thể ngủ được. Hắn còn phải thảo bài diễn văn phải đọc trước hội nghị Bucarest nhân lễ kỷ niệm nữ anh hùng Tinka Neva và sự thành lập liên ban các nước cộng hòa nhân dân Sô Viết quanh sông Danube. Không chịu nổi tiếng tích tắc của đồng hồ, hắn đứng lên cho đồng hồ dừng lại. Nửa đêm, bỗng có xe đậu lại trước biệt thự, hai vị đại tá Sô Viết đi vào, Boris đoán là có việc hệ trọng xảy ra. Một người bảo ngay:

    - Sô Viết lại bị phản bội một lần nữa. Thống chế những người Slaves miền Nam từ chối không đến Bucarest để dự hội nghị các nước cộng hòa nhân dân quanh sông Danube, hắn vẫn ở yên trong dinh có hai trung đoàn canh gác. Trong vài ngày hắn sẽ hủy bỏ hòa ước với Sô Viết.

    Boris giận run lên. Hắn đã thông báo cho Mạc tư khoa bao nhiêu lần về việc thống chế những người Slaves có liên lạc với Tây phương, về việc ông ta bỏ hội nghị liên bang để xa rời hẳn Sô Viết và liên hiệp với các nước tư bản. Boris thừa biết là việc phản bội này không phải vì tiền cũng như vì dị biệt ý thức hệ, mà chỉ vì vị thống chế đó là một kẻ kiêu ngạo, hắn muốn trở thành quan thầy, một kẻ độc tài. Trong khuôn khổ các nước cộng hòa của liên bang Sô Viết, điều đó không thể nào có được, nên ông ta phải đánh ván bài Hoa Kỳ vậy.

    Người Mỹ đã hứa với ông ta (với điều kiện là ông ta đoạn giao với Sô Viết) là sẽ để cho ông ta làm chủ tịch liên bang các nước Lỗ, Bảo Gia Lợi, Hung Gia Lợi, Nam Tư, Albanie, Áo Quốc. Và lúc ông ta đã được bảo đảm trở thành quan thầy nhờ người Mỹ, ông ta đã phản bội. Boris vừa mời nước vừa cáu kỉnh nói:

    - Tôi đã chắc là tên thống chế đó sẽ phản bội. Hắn với tôi là bạn thân, nhưng ngày mà tôi thấy hắn nuôi con chó trong nhà một cách đam mê, tôi biết chắc hắn sẽ phản bội trong tương lai. Người nào có đam mê một điều gì đương nhiên sẽ là một kẻ phản bội. Người nào đam mê một con chó không thể là một người cộng sản. Với lại, hắn ta còn có một đời sống quá xa hoa. Hắn mặc y phục còn sang hơn cả Goering. Khăn choàng viền vàng, áo quần bảnh chọe, biệt thự huy hoàng. Cho nên đương nhiên là có ngày hắn sẽ phản bội. Hắn đã phản bội giai cấp công nhân. Chỉ cần nhìn bộ áo và con chó là biết ngay hắn sẽ phản bội. Mỗi lần tôi trông thấy con chó của viên thống chế đó, tôi muốn rút súng ra bắn chết con vật trước mắt hắn. Tên đảng viên cộng sản gan dạ đó chỉ vì con chó mà phản bội, bởi vì các đam mê khác sẽ tiếp theo cái đam mê đầu tiên là lòng yêu thích con chó.

    - Mạc tư khoa muốn đồng chí đến xứ Slaves miền Nam. Tên thống chế đó phải bị bắt hay bị giết trước khi hắn công bố kế hoạch phản bội.

    Ông đại tá kia nói tiếp:

    - Chúng ta hiện có năm sư đoàn trong nước, ngày mai nhiều sư đoàn khác từ Lỗ ma ni, Áo Quốc và Hung Gia Lợi sẽ vượt sông Danube. Đồng chí có quyền sử dụng một phi đội đã sẵn sàng. Tùy theo nhu cầu, chúng tôi có thể điều động số máy bay mà đồng chí yêu cầu. Mạc tư khoa muốn đồng chí có mặt ở biệt thự tên thống chế đó. Ngay trong biệt thự đồng chí có sẵn một tiểu đội cảnh sát, một tiểu đoàn nhảy dù và một phân đội nghĩa quân Albanie mà đồng chí có thể tin cậy được. Tất cả đều đã được huấn luyện kỹ càng và sẽ đột nhập vào biệt thự. Tôi sẽ cung cấp đầy đủ chi tiết của kế hoạch lúc đi trên máy bay. Mạc tư khoa rất tin tưởng khi trao nhiệm vụ này cho đồng chí. Tên thống chế đó là bạn thân của đồng chí, hắn chưa hề nghi ngờ gì đồng chí cả. Dù sao hắn ta phải bị bắt hay bị ám sát trong 48 giờ tới đây, nghĩa là trước khi âm mưu phản bội của hắn được công khai hóa.

    - Tên thống chế đó biết là đồng chí sẽ đến thăm hắn ngày mai, và hắn đã xác nhận trên đài phát thanh là hắn đang chờ đồng chí. Đồng chí là con người duy nhất có thể vào được cái ổ đó để giết con rắn độc. Bây giờ phải hành động gấp.

    Boris vội vã mặc áo, vừa nghĩ thầm: «Một người cộng sản thực sự không được có một đam mê nào cả, phải vươn lên khỏi đời sống nô lệ, nhất là không còn bản năng bảo thủ. Phải hy sinh đời sống của chính mình cũng dễ dàng như hy sinh một chiếc áo, một ống điếu, vì tất cả đều thuộc về Sô Viết, kể cả mạng sống.

    Boris suy tính về chương trình loại bỏ tên thống chế. Trong gian nhà bên cạnh, hai đại tá đang đùa giỡn với con ở, Boris bực mình. Hắn ghét đàn bà, vì đàn bà có thể là một đối tượng đam mê của người cộng sản, đàn bà vốn là kẻ thù của hắn, của đảng và của Sô Viết. Bỗng một người dừng trước cửa, đưa cho Boris một điện tín:

    «Phi cơ của đồng chí đã vượt biên giới và đáp xuống khu vực người Mỹ ở Đức. Đào ngũ có tính toán trước của hai viên phi công Igor Poltarev và Anatole Barsov. Xem lại các tài liệu có bị mất hay không.»

    Boris xé bức điện tín và đốt đi. Hắn muốn bình tĩnh nhưng không thể được. Vốn đã căm thù kẻ phản bội nhưng chưa bao giờ hắn ghét kẻ phản bội bằng đêm nay. Hắn mơ ước có một điều là bóp cổ viên thống chế có con chó nuôi trong nhà để trả thù cho tất cả những vụ phản bội từ trước và sắp xảy ra, từ Natacha đến Barsov, Poltarev và mọi người.

    Và chính với bầu máu nóng đó mà hắn bước lên máy bay cùng hai tên đại tá Nga Sô. Họ cùng bay về biệt thự tên thống chế phản bội, bay đến ổ rắn độc. Lúc máy bay cất cánh từ phi trường Piatra, Boris nói:

    - Tôi muốn là chỉ một viên đạn sẽ giết một lúc tên thống chế và con chó của hắn.

    XI
    Vài ngày sau hôm Isaac Salomon tự tử, bác sĩ Ante Petrovici đến nhà Daniel Motok. Ông này bảo :

    - Tôi mới bác sĩ đến đây để nhờ một việc. Tôi buôn lậu với Isaac Salomon, bây giờ cảnh sát đang truy tầm, thế nào tôi cũng phải đi. Nếu Gia nã đại, Úc, Argentine nhận tôi thì tôi đã không đi buôn lậu. Bây giờ nếu tôi bị bắt, tôi bị năm năm tù. Hôm nay tôi phải trốn qua Hoa Kỳ trong hai giờ đồng hồ nữa và mong bác sĩ giúp cho tôi.

    Phòng Motok đã sắp đặt có thứ tự. Một va ly để trên giường và chiếc tủ gỗ lớn ở đằng sau cửa. Motok nhìn đồng hồ và bảo :

    - Họ đã mời tôi trình diện nhiều lần rồi, nên họ có thể đến đây bất cứ lúc nào. Tôi có biết là lính Mỹ có quyền gởi về nhà những chiến lợi phẩm lấy được ở Âu châu. Họ có toàn quyền gởi bất cứ thứ gì để ghi lại chiến công của họ trong cuộc thánh chiến giải phóng Âu châu, để trang hoàng nhà cửa. Và tôi đã tạo được một kiện hàng này.

    Motok chỉ một cái két mới nguyên có đề tên : Bà Blanche Schmith New York City N.Y.

    - Tôi sẽ chui vào két này. Người lính Mỹ John Schmith khoảng sáu giờ sẽ đến đây nhận kiện hàng và gởi ra phi trường. Tôi nằm ở trong, nhưng bên ngoài sẽ có chữ chiến lợi phẩm. Nếu tôi không bị chết ngột lúc đi đường thì tôi sẽ đến Hoa Kỳ an toàn. Lúc tôi đã chui vào trong, xin nhờ ông đậy nắp kỹ càng và giao gối hàng này cho John Schmith. Khi hắn đã mang lên xe Jeep xong, ông giao cho hắn ta năm trăm đô la. Tôi chỉ nhờ ông từng ấy việc.

    Búa, đinh và đô la đã để sẵn trên bàn. Motok chờ bác sĩ Petrovici trả lời. Ông này hỏi lại :

    - Người lính Mỹ có biết là ông nằm trong két không?

    - Không, hắn ta nhận các điều kiện sau đây: Tôi cho hắn năm trăm đô la để trả tiền cước chuyên chở, kiện hàng không được nặng quá 500 kg và không được chứa đồ quốc cấm, một người nào đó phải mang kiện hàng từ nhà ra đến xe Jeep. Tôi đã hứa với hắn là tôn trọng tất cả điều kiện trên. Sáu giờ hắn sẽ đến đây. Bà Blanche Schmith là mẹ hắn, nhưng kiện hàng này sẽ đến phi trường Nữu Ước và có người đến nhận ngay.

    - Như vậy anh tự xem như là chiến lợi phẩm mà lính Mỹ có quyền gởi về nhà trong trận thánh chiến ở Âu châu?

    - Những két chiến lợi phẩm không bị mở ra kiểm soát ở phi trường. Sự kiểm soát hoàn toàn bằng quang tuyến X, tụi Mỹ biết ngay thứ gì ở trong.

    - Nếu vậy thì vô lý và nguy hiểm cho anh lắm. Anh quên rằng thân thể con người có chất kim khí và chất mà quang tuyến X có thể thấy được sao? Thân người có bộ xương. Cảnh sát sẽ trông thấy bộ xương anh, dù họ không nhìn được tim, máu cùng nổi tuyệt vọng của anh, mà họ chỉ cần nhìn bộ xương thôi, tất cả những gì còn lại nghĩa là thịt, máu, bộ óc, da con người không quan trọng gì đối với họ cả. Cảnh sát không đánh giá con người ở các thứ đó. Chỉ có bộ xương là quí thôi. Họ sẽ khám phá ra bộ xương sống, xương hàm, xương đầu của anh. Chính quyền sẽ không nhìn thấy trái tim anh, tôi đồng ý, nhưng cảnh sát nhờ dụng cụ tối tân để nhìn được bộ xương anh trong kiện hàng, và không bao giờ họ cho anh lên máy bay. Một bộ xương người không thể nào vượt qua biên giới được.

    Motok mở nắp két ra, ở bên trong được lót một lớp giấy thiết lấy từ các gói thuốc lá và chocolat:

    - Bộ xương của tôi sẽ được thứ giấy nầy che chở ông khỏi lo. Ante Petrovici đành yên lặng. Motok nói tiếp :

    - Két nầy do tôi làm lấy. Tôi có trữ đủ cà phê, sinh tố và rượu Cognac, nghĩa là có đủ cho một cuộc hành trình. Kiên nhẫn thì tôi có thừa, chỉ cần một ít may mắn nữa mà thôi. Tôi nghiên cứu kỹ kế hoạch nầy từ nhiều tuần nay rồi. Ý nghĩ nầy xuất hiện khi tôi đọc báo thấy một thiếu nữ đi Hoa Kỹ bằng cách trốn trong một kiện hàng. Nhưng trước khi máy bay cất cánh, cô ta ngột thở và phải kêu cứu.

    Petrovici chán nản:

    - Tôi không nhận giúp anh. Tôi không thể làm điều anh yêu cầu được. Giả tỉ anh đến Hoa Kỳ mà anh còn sống và không bị phát giác dù là điều nầy khó xảy ra được, thì anh sẽ làm gì ở Nữu Ước? Chỉ vài giờ sau anh sẽ bị bắt và cho hồi hương ngay. Hoa Kỳ đã cho hồi hương hàng triệu người di cư một cách bí mật. Ngày nào cũng có tàu chở loài người đó rời bến tàu Mỹ đi về phía Âu châu. Sau bao nhiêu cố gắng, anh sẽ bị đưa xuống tàu có kẽm gai bao quanh và trở về nhà lại. Bao nhiêu tàu như thế đang đi trên đại dương, đang chở tù nhân bồng bềnh trên nước để đi về phía Âu châu. Từ ngày chiến thắng, tù nhân không những ở trên đất mà còn ở trên mặt biển, trên đại dương nữa. Anh có muốn trốn một nhà tù trên đất liền để bị nhốt trong hầm giam nổi trên nước?

    - Ông từ chối thì thật tôi khó xử quá. Ngoài ông ra tôi không còn nhờ ai đóng đinh trên nắp két nầy được nữa. Bạn bè tôi biến mất hết rồi. Isaac Salomon thì đã tự tử. Varlaam đã đi Palestine rồi. Aurel Popesco đã trở thành một công chức cao cấp không thể nào gặp được. Pillat thì quá đa cảm, không nhờ việc nầy được. Tại sao bác sĩ nỡ lòng từ chối?

    - Bởi vì, đối với tôi việc nầy đồng nghĩa với tự tử. Tôi không thể hoàn thành việc làm như thế được. Motok, anh tha thứ cho tôi. Tôi cảm thấy thương hại cho con người, không những chỉ riêng anh, riêng tôi, mà xót thương cho tất cả con người đã bị đẩy đến những giải pháp tuyệt vọng như thế. Không những riêng chúng ta, trên hoàn cầu, có hàng trăm triệu người phải nghĩ đến lối thoát tuyệt vọng cuối cùng như anh. Anh nghĩ lại xem, hàng trăm triệu người như thế. Nghĩa là một nửa dân số Hoa Kỳ, hai lần dân số nước Pháp, toàn là những người lang thang, tuyệt vọng, mất hết quyền sống. Chưa bao giờ có một giai cấp vô sản như thế hiện hữu trên thế giới. Chúng mình là những kẻ vô sản đau đớn nhất trên trái đất. Chỉ vì những hiệp ước, hội nghị giữa Tây phương với Quốc xã, với Sô Viết sau đó, mà hiện giờ có hàng trăm triệu người cù bơ cù bất trên khắp nẻo đường đang đi kiếm một lối thoát cuối cùng trong tuyệt vọng. Cho nên tôi không có can đảm để giúp anh một việc như thế.

    Trước khi bỏ ra về Ante Petrovici nói tiếp:

    - Cũng có thể chính quyền sẽ cho phép gởi kiện hàng nầy đi cho dù họ khám phá ra bộ xương ở trong đó. Bởi vì những người lính can đảm có thể gởi về nhà những chiến lợi phẩm như là một chiếc gươm, một bộ áo, những hạt nút của địch quân bị ngã gục để trang hoàng nhà cửa thì tại sao họ không có thể gởi về một chiếc sọ hay một bộ xương người như là một chiến lợi phẩm? Gởi như thế lại càng chứng tỏ lòng can đảm tột độ của họ đối với cha mẹ hay người yêu của họ chứ sao. Chiến lợi phẩm thường hay được gởi về tổ quốc nhất là những sợi dây người lính dùng để treo cổ các tướng lãnh của quân thù. Đã thế tại sao họ lại không gởi những bộ xương cho tiện việc. Vì thế anh có thể không bị ho phiền hà gì trong chiếc hòm bay đó vì họ xem anh như một chiến lợi phẩm. Rất có thể tôi đã bị lòng căm hờn chi phối nhiều quá. Motok, anh tha lỗi cho, tâm hồn tôi đã quá nhiều lần nổi loạn.

    Motok nhìn đồng hồ bảo :

    - Nếu ông không giúp tôi, tôi đành kiếm người khác vậy. Tôi phải vào trong hòm nầy trước 6 giờ. John Schmith sẽ đến đây đúng 6 giờ.

    XII
    Ante Petrovici từ chối không đóng đinh vào chiếc thùng đựng Motok. Nhưng anh chàng nầy đã nhờ được một người bạn khác làm công việc đó. Đúng 7 giờ sáng chiếc thùng có Motok ở trong đến phi trường, được đặt cạnh chiếc máy bay đi Nữu Ước, cùng với các kiện hàng chiến lợi phẩm khác. Không ai khám phá được Motok đang ở trong, hắn lắng tai nghe được tiếng chong chóng quay, tiếng hành khách nói chuyện với nhau.

    Hai người đàn ông đến gần thùng đựng Motok, họ nói với nhau bằng tiếng Nga. Motok đoán họ cũng là những hành khách bắt buộc như mình, nên hắn lắng nghe xem họ nói những gì. Một người tên là Igor và một người tên là Anatole Barsov. Hai người nầy đang cãi cọ với nhau. Theo dõi câu chuyện, Motok mới biết họ là hai phi công Sô Viết đã đào ngũ và những người Mỹ đang chở họ về Hoa Kỳ. Igor bảo:

    - Mầy thật ngu độn. Nếu mầy cứ tiếp tục nói với tụi Mỹ là mầy trốn đi không vì những lý do chính trị thì tụi hắn sẽ trả mầy về nhà mầy ngay.

    - Nhưng tao không thể nói dối được.

    - Nhưng ít nhất mầy cũng phải nói những gì mà tụi Mỹ thích chứ. Bởi vì người Mỹ không cần những sĩ quan Sô Viết trốn qua xứ họ vì đã cãi nhau với vợ hay vì không thể trả hết nợ được. Người Mỹ nhận chúng mình và hậu đãi như những ông hoàng bởi họ cho là chúng mình trốn đi vì thù ghét chế độ. Cho nên thay vì nói với báo chí về những tàn bạo của Staline, của Boris, của cả chế độ cộng sản, mầy cứ lập lại như một thằng ngu là suốt ngày mầy cãi với vợ con, với cấp chỉ huy không đoàn và mầy đã bị thương ở chiến trường như thế nào. Mấy chuyện đó không liên hệ gì với tụi Mỹ cả, họ muốn mầy nói về Staline hơn.

    - Tao không biết gì về Staline cả. Tao cũng chưa bao giờ thấy ông ta nữa, làm sao mầy bảo tao kể chuyện ông ta được.

    - Thì mầy cứ bảo với họ là mầy có thấy Staline trong một cuộc duyệt binh, thấy ở đằng xa, rằng không ai có thể lại gần ông ta vì chung quanh toàn là lính gác người Caucase cao đến hai thước và trang bị vũ khí đầy đủ. Như là tao đã bảo với họ như thế. Mầy không để ý là tụi Mỹ thích những câu chuyện như thế lắm sao.

    - Tao không thể làm như thế được.

    - Thì cứ nói với họ là mầy trốn đi vì những lý do chính trị, rằng sự khủng bố đang ngự trị trên đất Sô Viết, rằng không ai muốn sống ở Nga Sô cả. Ít nhất là mầy cũng nói với họ là sĩ quan Sô Viết hút toàn thuốc lá dở ẹt, và chúng mình ăn uống không đầy đủ.

    - Ừ, tao có thể nói với họ là ăn uống, thuốc men không đầy đủ, vì điều đó có thật.

    - Bảo với tụi Mỹ là mầy đã chóa mắt vì xe cộ của họ, vì áo quần, sự ăn uống của họ, mầy thích thú đến cả với miếng sô cô la thơm ngon của họ, nói với họ là những thứ đó không có ở Nga Sô. Tụi Mỹ là những kẻ buôn bán, nên họ thích ai ca tụng họ là những quân nhân và nhà ngoại giao giỏi. Nếu mầy nói với họ như thế thì kể như sự nghiệp mầy đã tạo dựng xong xuôi rồi đó.

    Barsov trả lời:

    - Tao có lương tâm, tao không phải là một thằng nói dối. Mầy thì có thể như thế được.

    - Mầy ngu lắm. Nếu mầy không nghe tao, tai họa sẽ đến với mầy, rồi mầy xem.

    Nhân viên máy bay đã mang kiện hàng có Motok ở trong nhẹ nhàng đặt lên phi cơ. Họ đã trông thấy trên kiện hàng chữ «chiến lợi phẩm» và họ thừa biết là họ phải cẩn thận đối với các kiện hàng đó.

    XIII
    Boris Bodnariuk bay đến nước những người Slaves miền Nam. Hai vị đại tá Sô Viết yên lặng không nói, cả Boris cũng thế. Gần như cả ba đang buồn ngủ, nhưng thật sự cả ba đang nghĩ đến kế hoạch ám sát viên thống chế xứ đó.

    Viên đại tá to lớn đang ngậm kẹo ho. Đến gần Boris, ông ta mời một viên kẹo và bảo nhỏ:

    - Trưa nay sẽ có một bữa ăn khoản đãi đồng chí ở biệt thự tên thống chế đó. Chúng ta phải để súng lục tại phòng thay áo. Nhưng người của chúng ta sẽ trao lại súng khác vào túi chúng ta. Như thế là khi ngồi vào bàn ăn, chúng ta sẽ gồm có năm người được trang bị vũ khí rồi đó.

    Yên lặng. Máy bay đang bay vào mây mù. Boris nhổ viên kẹo ho vào khăn tay. Viên đại tá bảo:

    - Giờ nầy quân ta đang tiến vào xứ tụi Slaves miền Nam. Đến tối viên thống chế đó sẽ bị giết. Quân ta sẽ chiếm trọn xứ đó, chỉ cách Vatican vài trăm cây số. Công cuộc loại bỏ viên thống chế đó mở đường cho Hồng quân tiến vào Ý Đại Lợi, Ba Lê, Luân Đôn. Cho nên hành động chúng ta hôm nay là một hành động rất quan trọng cho diễn biến của lịch sử. Tất cả tùy thuộc vào sự khéo léo của chúng ta.

    Nhìn đồng hồ, viên đại tá cười nói tiếp :

    - Từ đây cho đến một giờ trưa, con chó của viên thống chế sẽ bị mồ côi. Một con chó không có thống chế nữa.

    Viên đại tá lại ngậm thêm một viên kẹo ho. Máy bay đang bay thật cao, hình như đang nghiêng về bên phải. Boris quá mệt mỏi. Một người trong phi hành đoàn quay lại, la to:

    - Cháy.

    Boris soát lại dù nhảy, và nhìn qua cửa sổ. Máy bay vẫn tiếp tục bay, nhưng đã hơi nghiêng. Hắn nắm chặt tay định đập vỡ cửa kính. Đáng lý phải hỏi phi hành đoàn xem thử phải làm những gì, hắn ta lại nắm chặt tay như hồi 15 tuổi hắn quyết định bơi qua sông Dniestr, hệt như thế.

    Bên ngoài chỉ toàn là mây trắng. Boris không thấy sợ hãi gì cả. Hắn nhét cặp da vào trong áo và quàng áo choàng lên ngực. Hắn đoán là hắn đang ở trên không phận nước Đức. Nếu phi cơ không đáp được, hẳn phải nhảy bằng dù. Chỉ có một điều làm hắn khó chịu là vì kẹo ho trong cổ. Hắn ho đến muốn ói thứ đó ra. Phi cơ đã đầy khói rồi.

    Boris đập vỡ cửa kính, nhưng không khí tràn vào lại càng ngột thở hơn nữa. Khói tràn cả phi cơ, hắn đứng dậy tìm cánh cửa lớn, vì cửa sổ nhỏ quá, không nhảy ra ngoài được. Gài chặt áo lại, Boris tức là đã không kiếm của lớn được trước khi khói tràn vào ngập phi cơ. Giờ nầy không thể kiếm được nữa, cái bụng lại bắt đầu khó chịu. Mùi kẹo ho làm hắn buồn nôn. Hắn nghiêng cả người, tưởng như sắp ngạt đến nơi. Có ai la to bên tai, nhưng hắn không trả lời được. Hắn gập người lại, và tưởng như đang ở trong đêm tối mù mịt và trong một cơn buồn nôn vô tận vì chất kẹo ho. Hắn rủa thầm: «Đồ thứ kẹo khốn nạn!».

    Cơn buồn nôn đã thu nhỏ cơ thể hắn vào hư vô. Cơ thể hắn đã phản bội hắn. Đâu đâu cũng toàn là chuyện phản bội. Anatole Barsov phản bội. Viên thống chế nuôi con chó đẹp cũng phản bội. Và bây giờ chính cơ thể hắn cũng không tuân lệnh hắn nữa.

    Chán nản, hắn nhắm mắt lại. Chỉ còn có mùi kẹo ho trong cổ. Hắn ghét cay cái mùi kẹo nầy cũng như hắn ghét cay lũ phản bội. Ghét hết các thứ phản bội, nhưng nhất là sự phản bội của cơ thể hắn.

    Bây giờ chỉ còn lại một cơn buồn nôn, một sự rơi xuống vực thẳm và hư vô.

    Lúc hắn mở mắt ra, chung quanh toàn màu trắng. Ánh sáng đó làm hắn chảy nước mắt. Nhắm mắt lại, thì hắn lại có cảm tưởng rơi vào một màn tối dày đặc. Hắn thầm nghĩ «Lại là một thứ phản bội khác nữa đây». Hắn cố nhấc chân lên, nhưng không được. Muốn đưa tay lên, cũng không được nữa. Tay chân hắn đã chết hết cả rồi. Boris nghĩ «Kẻ thù Sô Viết đã biết nhiệm vụ của mình và chúng nó đã gây ra tai nạn».

    Boris lại mở mắt ra. Thì ra hắn rơi trên núi tuyết. Hắn muốn nhúc nhích, nhưng thân thể không vâng theo ý muốn hắn nữa. Chỉ còn lý trí và một mắt còn nghe theo hắn, nhưng mắt hắn chỉ còn trông thấy màu trắng, nhắm mắt lại thì toàn màu đen bao phủ.

    Chỉ còn một mắt mở được, con kia rất có thể đã rơi mất. Hắn nhắm mắt lại. Đen tối. Lại mở mắt ra, toàn màu trắng. Nhưng không phải toàn là màu trắng của tuyết mà là những người đàn bà mặc quần áo trắng, những người đàn ông trắng, bức tường trắng, nệm trắng... Hắn thầm nghĩ :

    - Mình chỉ còn một mắt. Y hệt như Angelo. Với một mắt thì chỉ thấy hoặc đen hoặc trắng. Chỉ thấy có hai màu mà thôi; mà đen, trắng có phải là màu sắc đâu.

    Boris cố tìm trong trí nhớ một màu khác, nhưng ngay cả trong trí nhớ cũng chỉ có hai màu đen và trắng. Tất cả dỉ vãng của hắn chỉ là đen hoặc trắng mà thôi.

    Vào lúc đó, Boris không biết là hắn đã đạt đến lý tưởng của Đảng và các đồng chí hắn. Tức là chia vũ trụ làm hai màu : đen và trắng. Cũng như hắn nhắm mắt thì thấy đen và mở mắt thấy trắng, nhân loại cũng thấy sự vật trắng hay đen tùy theo nhu cầu của lịch sử. Điều đó đã là lý tưởng rồi. Một vũ trụ trong sáng, chính xác không màu sắc. Màu sắc vừa vô ích vừa rắc rối. Trắng và đen là đủ rồi. Hoặc có hoặc không là đủ rồi. Vũ trụ không cần giải đáp nào khác ngoài hai chữ có hay không. Những câu trả lời khác đều là phản động, hay chỉ là những dị biệt nho nhỏ.

    Boris cảm thấy một vật lạ bên tai, sau đó hắn nghe được. Hắn quên là hắn đang có thính giác. Độ sau nầy, hắn không còn nghe gì nữa cả. Hắn đã sống trong câm điếc. Hắn không còn cảm nhận đau đớn, thế mà bây giờ đây mi mắt của hắn cho hắn biết lại thế nào là đau đớn. Bỗng một giọng nói rắn rỏi, bằng tiếng Anh:

    - Chúng tôi muốn nói chuyện riêng với bệnh nhân.

    Cái máy nghe để bên tai Boris thật lạnh, hình như lần đầu tiên cảm giác lạnh lẽo đó xâm chiếm con người hắn, hắn có nhớ ra rằng đôi lúc cũng có ấm áp, nhưng lúc nầy hắn chỉ thấy toàn là lạnh lẽo.

    Mở mắt, Boris trông thấy hai sĩ quan Sô Viết. Những người áo trắng đi hết rồi, hai sĩ quan nọ hình như đang bận áo toàn đen. Một viên sĩ quan nói bằng tiếng Nga:

    - Nhờ mũi thuốc, đồng chí sẽ tỉnh táo chừng một giờ. Hãy cho chúng tôi biết là đồng chí có nghe hiểu chúng tôi nói gì không, nếu không, chúng tôi sẽ chích thêm một mũi thuốc nữa. Chúng tôi cần hỏi đồng chí vài điều. Chúng tôi được bộ chỉ huy Sô Viết ở Vienne gởi đến đây.

    Họ đưa cho Boris tấm căn cước để xem thử Boris có đọc và hiểu được không. Boris thấy rõ khuôn dấu sở mật vụ Sô Viết và cảm thấy yên tâm hơn. Một người lại bảo:

    - Đồng chí đang nằm trong một bệnh viện của người Mỹ. Đồng chí có nhớ những gì đã xảy ra không?

    Người kia giải thích tiếp:

    - Đồng chí đi từ Piatra bằng phi cơ và rơi trên núi, đồng chí là người sống sót duy nhất sau tai nạn đó, mấy người kia đều chết hết. Người Mỹ mang đồng chí lại đây, và báo tin cho chúng tôi. Suốt hai tuần nay chúng tôi có nói chuyện với đồng chí nhưng vô ích. Người ta bảo là trong cơn mê sảng, đồng chí đã khai đồng chí tên là Boris Neva, và chính người ta đã ghi tên đó vào sổ bệnh viện. Tốt lắm, đồng chí cần giữ nguyên lời khai đó. Cần nhất là đừng để cho tụi Mỹ biết lý lịch của đồng chí. Thế nhưng, đồng chí có nhớ rõ tên của đồng chí không nhỉ?

    - Boris Bodnariuk.

    - Chúng tôi sẽ cho đồng chí hồi hương trong chừng 10 hôm nữa. Trong lúc chờ đợi, nhớ giữ cái tên Boris Neva. Bây giờ, đồng chí cố lập lại những gì chúng tôi vừa nói.

    - Tôi bị tai nạn phi cơ, được chở đến bệnh viện Mỹ với cái tên là Boris Neva. Tôi sẽ được hồi hương trong 10 ngày. Tôi không được để lộ lý lịch của tôi.

    Vị đại tá thân mật vỗ vai Boris. Lần đầu tiên, Boris mới nhận biết được vai của mình. Vị đại tá bảo :

    - Tôi rất tiếc là không thể mang đồng chí đi ngay được. Người Mỹ bảo là chưa thể di chuyển được, chúng tôi sẽ lại thăm đồng chí đều đều.

    Boris hỏi thêm:

    - Đây là một vụ phá hoại hay phản bội?

    - Thủ phạm sẽ bị trừng phạt và thủ tiêu.

    - Nếu chúng bị thủ tiêu thi tốt lắm.

    Boris nói thế và nhắm mắt lại. Hắn lại rơi vào một màn đêm đen tối.

    XIV
    Vài ngày sau, hai viên sĩ quan Sô Viết lại đến thăm Boris. Cả ba nói chuyện rất lâu. Viên đại tá bảo :

    - Tai nạn phi cơ vừa rồi thật là một tai họa. Viên thống chế xứ người Slaves miền Nam không bị thủ tiêu thì sự phản bội của hắn ta đã công khai hoá. Sô Viết đã bị mất Địa Trung Hải, cánh cửa mở để đi về phương Tây và vịnh Adriatique. Tai hại quá nhưng chúng ta phải cố hàn gắn những gì có thể hàn gắn được. Bây giờ tên thống chế đó trở thành tên bồi phòng cho lũ Tây Phương. Những rủi ro đó thật cũng tại vì đồng chí không thể giết hắn đúng lúc được. Đồng chí đã làm chủ tình thế nhưng chỉ vì phi cơ bị rớt. Nói cho hợp lý thì việc thay đổi tình thế tuỳ thuộc vào đồng chí. Bây giờ đồng chí đã bị què quặt, nhưng khối óc, trái tim vẫn còn thì đồng chí vẫn có thể tiếp tục phục vụ.

    Họ cũng kể cho Boris nghe là Sô Viết không từ bỏ kế hoạch ám sát viên thống chế đó, nhưng bây giờ khó khăn hơn nhiều:

    - Công việc thủ tiêu đòi hỏi thời gian. Chúng ta đã thành lập một hệ thống toàn hảo, vì chúng ta sẽ thanh toán tên thống chế đó, chắc chắn như thế, nhưng còn lâu lắm. Lúc này, chúng ta chỉ nuôi ý tưởng thủ tiêu hắn ta mà thôi.

    Boris bổ túc thêm:

    - Trotzky cũng bị ám sát về phương diện chính trị trước khi hắn bị giết. Trong các trường hợp phản bội, khi kẻ bị ám sát đào tẩu được thì việc kết án tinh thần và chính trị cũng làm cho thủ phạm khổ sở lo âu...

    - Muốn kết án Trotzky, chúng ta cần bản cáo trạng năm 1938.

    - Thì điều đó cũng có thể tái diễn vậy, rất cần thiết nữa là đàng khác. Các nước tân cộng hòa, như Lỗ ma ni, Hung gia lợi, Bảo gia lợi hoặc kín đáo hoặc lộ liễu đều muốn tạo phản. Bản cáo trạng về viên thống chế mang tinh thần trưởng giả nọ sẽ quét sạch tất cả ám muội chính trị ở các quốc gia đó. Lúc rời khỏi bệnh viện này, tôi sẽ đề nghị một bản cáo trạng kết án lũ âm mưu kia ngay.

    Viên đại tá trả lời:

    - Bản cáo trạng đó đã xong xuôi. Tháng tới chúng ta sẽ mở ở Bucarest một tòa án kết tội tên thống chế đó. Chúng ta sẽ chứng minh rằng hắn ta đã bị lũ tư bản Tây Phương mua chuộc, rằng hắn đã tìm cách nô lệ hoá những dân tộc đã được Sô Viết giải phóng khỏi ách thống trị của lũ tư bản Anh - Mỹ. Hàng ngàn tội trạng đã được phơi bày. Chúng nó đã thu nhận tất cả. Chỉ còn thiếu một nhân vật chính, một người cộng sản ưu tú đóng vai tội nhân để trình bày những giai đoạn và mặt trái của sự phản bội. Thiếu một người như đồng chí, nguyên phó chủ tịch liên bang Danubienne. Chúng ta còn thiếu một người đóng vai y hệt tên thống chế, để tự thú tội, một người nào đó để bị kết án như là đại diện cho tên thống chế đó. Chúng ta thiếu có bấy nhiêu, còn ngoài ra sẵn sàng hết cả rồi.

    Boris bảo :

    - Tôi đã không chết trong tai nạn máy bay, bây giờ tôi xin để tùy quyền đồng chí định đoạt.

    - Đồng chí muốn đến Bucarest để đóng vai tên thống chế có tư cách trưởng giả đó ư?

    - Hắn ta phải bị đào thải về phương diện chính trị. Chúng ta sẽ mang tội nếu để chậm trễ bản án đó. Còn ai hơn tôi trong công việc đâm một nhát dao chí tử vào tên phản bội đó?

    Boris nghĩ đến cái may mắn tột cùng của một người công sản so với các người khác. Hắn chỉ là một tên tàn phế, thế mà vẫn còn phục vụ đảng thật phi thường.

    Viên đại tá có vẻ nhắc nhở :

    - Nạn nhân chính sẽ bị kết án tử hình đấy.

    - Dĩ nhiên đó là hình phạt xứng đáng nhất cho sự phản bội.

    Nói xong, Boris nhắm mắt lại, và lại rơi vào bóng tối. Hắn nghĩ là một đời người sống toàn với tiểu tiết chỉ là một đời người thấp kém.

    Đời sống cao thượng chỉ cấu tạo bằng «có» hoặc «không», bằng «đen» hoặc «trắng», thì mới là một đời hoàn hảo.

    - Như thế chúng tôi có thể thông báo là đồng chí tình nguyện đến Bucarest để tự thú tội trên cương vị tên thống chế?

    - Nhu cầu của lịch sử đòi hỏi điều đó.

    Boris thản nhiên trả lời như thế. Vị đại tá dặn thêm :

    - Trong lúc nầy phải cẩn thận đấy, đừng để lộ tông tích.

    Ông ta để xuống gối Boris một khẩu súng lục, vổ vai Boris và từ giã. Lúc cánh cửa đã đóng lại, Boris thầm nghĩ :

    Sợ hãi cái chết là một thành kiến của tụi trưởng giả. Bây giờ mình đã quyết định chết, mình không còn sợ hãi gì cả, trái lại, mình còn cảm thấy khoan khoái, tỉnh táo, vì mình đang sống trong lịch sử, lần đầu tiên, mình gắn liền với lịch sử, mạnh dạn sống với lịch sử. Sợ chết chỉ là một thành kiến mà thôi.»

    XV
    Buổi chiều, Boris đứng tựa ở cửa sổ. Tuy chưa bình phục hẳn, hắn cũng đã có thể đi lại được. Hắn sẽ được hồi hương vào trưa mai. Mấy vị sĩ quan trong bộ chỉ huy Sô Viết ở Vienne đã hứa với hắn như thế.

    Boris suy nghĩ nhiều về thứ kinh nghiệm sắp đến trong đời hắn lúc hắn trở về thú tội, một thứ tội phản bội mà hắn không hề phạm. Nhờ hành động đó, một số lớn thành phần vô ích, nguy hiểm sẽ bị thủ tiêu và địa vị của đảng sẽ được cũng cố hơn bao giờ hết. Đó là mặt phải của sự thử thách, trong khi mặt trái của nó là sự hủy thể của cá nhân. Boris tự phân tích rất chu đáo và thành thật, bởi hắn muốn tìm hiểu xem mình có sợ chết hay không. Hắn đã từng nói về sự khinh thị của một người công sản đối với cái chết của một cá nhân để cho đảng sống mãi.

    Trên nguyên tắc thì Boris đang chấp nhận lý thuyết đó và không ngần ngại xin được xử tử hình. Về phương diện lý trí, cái chết vô nghĩa hơn những gì lịch sử, tôn giáo và văn chương đã đề cập đến. Cho nên lúc hắn muốn tự tử, hắn không sợ hãi gì cả. Động tác vô nghĩa đó không có gì khó khăn đối với hắn cả.

    Bây giờ bỗng nhiên hắn khám phá ra một điều gì không ưng ý với hắn, hình như một giọng nói âm thầm đang trổi dậy. «Sau khi giả vờ tự thú, mầy sẽ bị kết án, nhưng mầy sẽ không bị xử tử». Boris lấy làm xấu hổ về ý nghĩ đó, nhưng hắn không thể không nghĩ được, bởi hắn vẫn hy vọng là nếu hắn tự thú, đảng sẽ không xử tử hắn nhưng con đề cao hắn nữa. Hắn tự hỏi: «Hay là vì sợ chết mà mình có cái ảo tưởng đó». Hắn muốn xóa bỏ ý nghĩ đó đi, nên lại bảo thầm: «Mình sẽ được xử tử, mình sẽ bị xử tử, xử tử». Nhưng giọng nói âm thầm lại vang lên : «Đảng sẽ tán dương công lao của mầy và không bao giờ để mầy chết. Hành động tự kết án đó sẽ được khao thưởng, kỷ niệm và tôn thờ».

    Boris không muốn có ảo tưởng đó, hắn muốn chắc là hắn sẽ chết, chết thực sự theo chính lời yêu cầu của hắn. Lý trí nói với hắn rằng: «sự việc sẽ xảy ra như thế, nhưng hắn không thể nào làm câm ngay cái giọng nói âm thầm bên trong rằng hắn sẽ sống mãi.

    Một chiếc xe ngừng trước cửa bệnh viện. Một người thanh niên vận âu phục, dáng điệu bỡ ngỡ bước xuống xe. Vị y sĩ trưởng đang đứng giữa sân với một bác sĩ khác ngay dưới cửa sổ của Boris. Thanh niên nọ lại gần, Boris lắng nghe câu chuyện. Thanh niên tự giới thiệu :

    - Tôi là Milan Paternik, cố vấn chính trị cho bộ chỉ huy các lực lượng Âu châu (hắn đưa căn cước và thư giới thiệu). Tôi mang theo một người đàn bà đã đến kỳ sinh nở.

    - Không thể được, ở đây, chúng tôi không có trại sản phụ khoa. Vị y sĩ trưởng trả lời. Nhưng Milan nài nỉ :

    - Đây là một trường hợp ngoại lệ. Vị chỉ huy trưởng yêu cầu ông nhận bà ta và săn sóc kỹ lưỡng.

    Bác sĩ đọc bức thư. Marie sắp đẻ, đang nằm trong xe. Aurel Popesco đã tìm cách để nàng được nhận vào quân y viện vì không còn bệnh viện nào ở đây nữa. Milan Paternik đích thân đem nàng đến.

    - Bác sĩ chúng tôi ở đây không chuyên về sản khoa, đáng lý chúng tôi không nhận, nhưng vì có lệnh trên, chúng tôi sẽ làm theo.

    Milan lập lại:

    - Xin bác sĩ vui lòng, đây là trường hợp bất khả kháng.

    Boris chú ý đến chữ «trường hợp bất khả kháng, ngoại lệ» mà Milan cứ lập đi lập lại mãi. Bác sĩ cáu kỉnh :

    - Tôi không hiểu nổi, thật là quá đáng, ai đời lại gởi vào quân y viện người đàn bà sắp sinh, đúng là họ muốn đùa với chúng tôi rồi.

    Boris giật mình lẩm bẩm : «Mình hiểu, vâng, mình hiểu tại sao người ta gởi người đàn bà nầy đến đây».

    Hắn trông rõ Pillat và Milan Paternik đỡ Marie xuống xe. Trong óc Boris, giả thuyết người Mỹ đã biết lai lịch hắn càng ngày càng rõ rệt. Nép sau tường, hắn nhìn kỹ Marie, nhưng không nhận ra nàng. Boris thầm nghĩ:

    « Họ đưa Pillat và người đàn bà nầy đến đây để có thể nhận diện mình. Muốn biết chắc mình có phải là Boris không, tụi Mỹ đã đưa đến đây một người bạn học cũ của mình, cách tốt nhất để nhận diện mình là Boris Bodnariuk, bộ trưởng bộ chiến tranh Lỗ ma ni chứ không phải là công dân Số Việt Boris Neva». Boris nhớ lại lời khuyên của các sĩ quan Sô Viết «Đứng để lộ tông tích». Rồi nhớ lại câu nói của viên bác sĩ «Thật là quá đáng, ai đời lại gởi đến đây một người đàn bà sắp sinh. Tại sao lại đúng vào quân y viện chúng tôi», và câu nói của Milan Paternik «Đây là một trường hợp bất khả kháng, ngoại lệ...».

    Thế là Boris chắc rằng Pillat đã được gởi đến đây để nhận diện hắn. Nhẩm tính, còn 16 giờ nữa thì đến lúc hồi hương, nhưng nếu người Mỹ nhờ Pillat nhận diện được hắn thì hắn khó trở về nước được nữa. Bản cáo trạng ở Bucarest kết tội tên thống chế trưởng giả đó sẽ bị hủy bỏ. Boris thầm bảo: «Mình đừng để họ biết tông tích chứ».

    Phòng bên có tiếng nói chuyện, lúc đầu bằng tiếng Anh, sau đó bằng tiếng Lỗ ma ni. Milan Paternik đang nói chuyện với y tá, Pillat nói với người đàn bà có thai. Milan nói :

    - Chồng bà sẽ ở đây, ông ta ngủ ở ghế nầy.

    Boris lắng nghe: «Sao lại ngủ đúng phòng bên cạnh phòng mình? Không còn nghi ngờ gì nữa. Họ gọi Pillat đến đây để nhận diện mình. Chốc nữa hắn sẽ đến phòng mình với một lý do nào đó để nhìn mặt mình đúng theo chỉ thị đã nhận được». Boris bỗng để ý là cửa phòng hắn không khoá: «Lại thêm một lý do nữa, sao họ lại lấy mất chìa khóa phòng mình?».

    Boris lại cửa sổ và thấy Milan Paternik lên xe về một mình. Ở phòng bên, Pillat và Marie đang chuyện trò với nhau bằng tiếng Lỗ. Marie đang than phiền. Boris lại thầm nhận xét : «Nghe rõ như họ đang đứng nói chuyện trong phòng mình». Mọi sự xảy ra thật đáng ngạc nhiên nhưng hắn vẫn bình tĩnh, hắn vẫn cố không để bị nhận diện - Pillat thì đang ở phòng bên và hắn còn đến 16 giờ nữa mới hồi hương được. Boris vừa nhìn cửa lớn vừa thầm nghĩ: «Hắn có thể ám sát mình, và bảo rằng đó chỉ là một cuộc trả thù riêng. Đối với công chúng giải thích âm mưu đó như thế thì tạm ổn. Người Mỹ muốn ám sát mình để không cho mình trở về nước thi hành bản án tên thống chế phản bội đó. Chắc thế rồi».

    Boris nhìn qua cửa sổ, không có gì đáng ngại, vườn bệnh viện chỉ có tuyết phủ, đường phố cách xa chừng hai trăm thước. Boris quyết định. Tay hắn xiết chặt khẩu súng trong túi áo ngủ. Hắn mở tủ và thấy áo quần hắn họ vẫn để nguyên, áo choàng, quần dài bị cháy. Hắn không tiền, không giấy tờ và không thuộc đường vùng nầy, nhưng không sao, điều chính là hắn phải bỏ đi đêm nay, sau đó sẽ tự liệu lấy, chân lạnh cóng chưa đi được, nhưng hắn vẫn cố nghĩ là hắn sẽ bí mật lên tàu lửa trong đêm.

    Nhìn vào tấm kiếng, Boris thấy mình hơi tái. Mặc vội áo quần, giấu khẩu súng dưới gối, Boris lên giường nằm. Lúc bác sĩ và y tá đến khám bệnh, Boris than nhức đầu, và thích ngủ hơn ăn. Boris nghĩ đến kế hoạch trốn khỏi bệnh viện.

    Hắn có thể nhảy qua cửa sổ là ra khỏi bệnh viện dễ dàng, nhưng nếu hắn có tiền để mua vé xe lửa thì mọi sự sẽ giản dị, đằng nầy hắn không có lấy một xu, đó là một điều thiếu khôn ngoan, đáng lẽ là hắn phải xin hai viên sĩ quan Sô Viết kia trước mới phải.

    Lúc nầy, nữ y tá trực đi ngang, hắn giả vờ ngủ, phòng bên cạnh vẫn còn tiếng nói của Pillat và tiếng rên siết của Marie.

    Boris mặc áo trong bóng tối, phải gỡ băng chân ra mới đi được, dù chân còn đau. Xong xuôi hắn nhảy qua cửa sổ xuống vườn bệnh viện còn đầy cả tuyết.

    Thế là lúc y tá trực đêm đi kiểm soát bệnh viện lúc hai giờ sáng thấy giường Boris Neva trống rỗng, mặt khác lại có dấu chân trên tuyết dưới cửa sổ, họ bèn báo động tức khắc với cảnh sát và quân cảnh. Điện thoại reo suốt đêm. Người ta lục soát các chuyến xe lửa. Tám giờ sáng, hai viên sĩ quan đến bệnh viện, thì viên y sĩ trưởng giải thích :

    - Boris Neva biết là ông ta sẽ hồi hương lúc 12 giờ nên ông ta đã chọn tự do. Ông ta không muốn trở về Nga Sô. Hàng ngàn người đã làm như thế, có gì đáng ngạc nhiên đâu. Ông ta sợ không dám trở về với Sô Viết nữa.

    Nhưng hai viên sĩ quan Sô Viết không chấp nhận lời giải thích đó.

    - Boris Neva là công dân đã được tẩy não, giả thuyết đào ngũ không thể chấp nhận được. Chúng tôi yêu cầu lập biên bản đàng hoàng.

    - Các ông có thể lập biên bản ngay.

    Y tá, gác dan được mời đến. Tất cả đều khai là không hề hay biết gì cả. Bệnh nhân người Nga Sô đó có vẻ cau có vào buổi tối. Ông ta từ chối không chịu ăn uống và không chịu để bác sĩ khám bệnh, rồi đòi đi ngủ sớm. Hai giờ sáng thì người ta đoán là ông ta nhảy qua cửa sổ xuống vườn, trèo tường đi ra đường.

    Đành phải đợi cảnh sát bắt giữ bệnh nhân mới hỏi được. Nhưng hai viên sĩ quan Sô Viết giận dữ hứa sẽ phản kháng chính thức vụ nầy và đòi một biên bản đặc biệt. Trong lúc đó, máy phóng thanh bệnh viện thông báo: «Trân trọng thông báo với chính quyền và đồng bào là có một công dân Sô Viết đã trốn khỏi bệnh viện quân đội đồng minh sau khi đã được săn sóc các thương tích chu đáo do tai nạn máy bay. Ai biết bệnh nhân trốn ở đâu phải thông báo ngay cho chính quyền. Các điểm đặc biệt của bệnh nhân như sau: một vết sẹo lớn trên trán, vết thương ngực và tai chưa lành. Chân cong chưa đi được nhiều. Áo choàng da màu nâu, ủng đen, khăn choàng đỏ».

    Nhưng hai viên sĩ quan Sô Viết bỏ đi không thèm nghe thông cáo. Lúc đó đã 9 giờ sáng. Cửa phòng mổ mở ra đúng lúc họ bước ngang. Người nữ y tá nói với Pillat đang đứng ở hành lang:

    - Con gái. Mẹ tròn con vuông rồi đó. Ông có thể đến thăm trong chốc lát.

    Pillat đặt tên ngay:

    - Doina Australie.

    Chỉ có mình chàng là không biết gì về vụ bệnh nhân Sô Viết trốn khỏi bệnh viện. Vì từ lúc đến đây, chàng chỉ có một điều phải lo lắng, đó là Marie, và bây giờ thì phải lo đến hai người. Marie và đứa con đầu lòng Doina Australie. Chàng vui đến rớt nước mắt, muốn ôm choàng cả hai người. Trong lúc chàng lẩm bẩm, «Doina Australie, con và mẹ đều mạnh khỏe cả» thì máy phóng thanh vẫn lập đi lập lại: «Chúng tôi lập lại các điểm đặc biệt: áo choàng da màu nâu, ủng đen, khăn choàng đỏ».

    Pillat thì vẫn cứ lẩm bẩm: «Doina Australie. Con và mẹ đều mạnh khỏe cả».

    Phần thứ hai

    I
    Thế là Boris Bodnariuk trốn biệt tăm. Cả người Nga lẫn người Mỹ đều không tìm ra hắn ở đâu cả. Trong lúc đó Pillat và Marie vẫn còn ở lại quân y viện Mỹ. Hai tuần sau họ nhận được giấy mời của phái đoàn Úc Đại Lợi, vì những ai được di cư đều phải trình diện gấp để đi Hambourg.

    Marie, Pillat và đứa con rời ngay nhà thương trong ngày hôm đó với không biết bao nhiêu là quà bánh do các bác sĩ và y tá ở bệnh viện gởi tặng. Doina Australie là đứa bé duy nhất sinh ra trong nhà thương đó, dưới lá cờ nhiều ngôi sao của nền dân chủ Hoa Kỳ. Lúc mới đến nhà thương trên chiếc xe của Milan Paternik, hai vợ chồng Pillat chỉ có một cái xách nhỏ, thế mà bây giờ hành trang họ đã khá bộn, lại còn được xe đưa ra ga, được cung cấp thực phẩm tiền bạc đầy đủ. Họ đến Hambourg như là những kẻ được số phận ưu đãi nhất.

    Báo chí vẫn tiếp tục bàn về việc Boris Neva bị mất tích, nhưng không ai biết thêm điều gì về hẳn cả. Pillat và Marie lại càng không cần quan tâm đến vấn đề đó, vì đang bận con, bận di chuyển, bận lo nghĩ về tổ quốc mới của họ. Pillat an ủi vợ:

    - Đừng bao giờ cho là muộn màng cả. Cách đây vài tháng, lúc mọi phái bộ di cư đều từ khước chúng ta thì hầu như chỉ còn có nước tự tử mà thôi, thế mà hôm nay mộng ước chúng ta sắp thành. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ tìm thấy ba cho mà xem.

    Đến Hambourg, tâm hồn thơ thới, họ thầm cám ơn trời đất đã cứu sống họ. Đã sẵn tiền nên đến ga họ thuê ngay taxi đến trình diện phái đoàn Úc. Một nhân viên phái đoàn bảo:

    - Tàu sẽ nhổ neo trong ba hôm nữa. Ông bà đến trình diện gấp ủy ban kiểm soát để xuống tàu mà đi.

    Sau khi trình thẻ được phép di cư cho ủy ban họ ngồi ở ghế và cứ ngỡ là cả ba sẽ được xuống tàu trong vòng chừng một giờ. Một viên chức mời họ vào văn phòng. Marie bế con với một con búp bê trên tay. Ủy ban kiểm soát gồm ba người. Có tiếng hô tên:

    - Pillat Marie.

    Marie cười kiêu hãnh trả lời:

    - Có tôi đây.

    Gọi tên Pillat xong, cả ba yên lặng nhìn về phía con búp bê trên tay Marie. Con búp bê to gần bằng đứa bé. Marie giải thích:

    - Dạ con búp bê này do vị Y sĩ trưởng bệnh viện tặng đấy.

    - Không, chúng tôi muốn nói đến đứa bé cơ chứ.

    Ba người nhìn kỹ Doina. Pillat lên tiếng:

    - Con bé tên là Doina Australie. Chúng tôi gọi là Doina vì đó là tên một khúc hát có ý nghĩa một sự lưu đày của xứ sở chúng tôi, còn Australie là để kỷ niệm tổ quốc mới mà chúng tôi sắp có.

    Người ngồi giữa bảo :

    - Trong danh sách chính thức những người được di cư sang Úc chỉ có tên Pierre Pillat là ông đây, và Marie Pillat là bà. Ngoài ra không còn ai khác nữa.

    - Nhưng mà Doina Australie là con đẻ của chúng tôi mà!

    - Rất tiếc là cô bé không có tên trong danh sách.

    - Nhưng mà con tôi vừa mới sinh ra chừng hai tuần, trong lúc chúng tôi chờ có tàu cơ mà.

    - Dù sao thì tên đứa bé cũng không có trong danh sách này.

    Sau một chốc yên lặng đến nghẹt thở, một người hỏi:

    - Bây giờ ông bà định thế nào?

    Pillat nhìn sững anh chàng vừa hỏi, rồi lại nhìn vợ con. Chàng không có gì để trả lời câu hỏi đó cả, nên đành phải hỏi lại:

    - Ông hỏi như thế nghĩa là chúng tôi phải quyết định ra sao? Và chàng được trả lời :

    - Nghĩa là ông bà chỉ có thể di cư hai người có tên trong danh sách này thôi.

    Marie hỏi lại:

    - Thế thì chúng tôi không thể ghi tên thêm đứa con sao?

    - Không thể nào được cả. Trẻ con dưới mười tuổi không thể di cư. Giọng nói anh chàng đó thật lành lùng rắn rỏi. Marie chỉ còn nước nhìn Ủy ban kiểm soát và òa khóc, khóc mà không thể chùi nước mắt được vì tay nàng đang bận con và búp bê, nước mắt nàng chảy cả xuống đôi má hồng hào của con búp bê. Pillat gạn hỏi:

    - Thế chúng tôi phải làm sao bây giờ?

    - Thì ông tự quyết định đi chứ còn sao nữa?

    - Có thể nào có một quyết định trong trường hợp tương tự?

    - Hoặc là ông bỏ đứa con hoặc ông từ chối không di cư nữa.

    Pillat có nghe câu trả lời nhưng chàng không thể ngờ như thế, nên chàng vẫn hỏi lại:

    - Chúng tôi phải làm sao bây giờ?

    - Ông cứ để đứa con ở lại đây tức khắc ông được di cư. Lúc nào đứa bé lên mười, ông có thể đưa nó sang Úc. Giản dị có thế thôi.

    Pillat nắm chặt tay tức tối:

    - Hừ, giản dị? Ông cho thế là giản dị ư?

    Marie thì chỉ biết đứng khóc. Người nọ bực bội :

    - Không có lôi thôi gì hết. Chúng tôi không rảnh để mà nghe than thở. Chúng tôi còn gọi tên người khác nữa. Nào, ông bà quyết định đi cho.

    Pillat nổi nóng:

    - Có thể nào ông đòi hỏi một điều như thế đối với bậc làm cha mẹ? Ông có phải là người không? Ông có phải là người có đạo Thiên Chúa không? Ông có phải là người văn minh không?

    - Chính vì chúng tôi là những người văn minh mà chúng tôi mới yêu cầu điều đó. Chính vì những lý do của những người có nền văn hóa cao mà chúng tôi không thể nào hành hạ những đứa bé dưới mười tuổi bằng một cuộc hành trình từ đây đến Úc châu. Vả lại, luật lệ của hội Hồng thập tự Liên hiệp quốc, và lương trị của một con người văn minh, nếu có, buộc chúng tôi phải làm thế. Chúng tôi sẽ trở nên dã man nếu chúng tôi làm khác hơn.

    - Nghĩa là các ông buộc một người mẹ phải bỏ rơi một đứa con?

    Pillat là một người rất điềm tỉnh, nhưng trước trường hợp này chàng muốn đập phá hết thảy. Nhưng người nọ vẫn thản nhiên :

    - Hãy gác tình cảm sang một bên rồi quyết định đi. Không phải là chuyện phi thường gì đâu, ông gởi con lại cho một viện mồ côi nào đó, rồi chừng mười năm sau lấy lại. Chỉ tạm thời xa nhau thôi.

    Pillat vỗ vai vợ:

    - Chúng ta đi thôi.

    Người nọ còn ráng hỏi:

    - Ông bà định sao?

    Pillat quay lại nhìn bộ mặt của anh chàng vừa hỏi, nhìn cách ăn mặt sạch sẽ của hắn mà phát tởm đến buồn nôn. Lúc chàng nghe lại câu hỏi: "Ông bà quyết định sao", chàng muốn khạc vào nền văn minh, vào cách thức giữ vệ sinh, vào nền văn hóa, vâng, chàng muốn dùng hết sức bình sinh để khạc vào nền văn minh này, và nền văn hóa này, vào cách thức giữ gìn vệ sinh này.

    Thế là chàng bỏ ra đường, ôm con trong tay. Đứa bé khóc liên hồi từ khi chàng và Marie bỏ Ủy ban kiểm soát để ra phố. Marie đặt con xuống đất, cởi áo cho con nhưng vẫn không làm đứa bé thôi khóc được. Người qua đường ái ngại, một người đàn bà khuyên:

    - Đi kiếm bác sĩ đi chứ. Khóc như thế ắt là có bịnh gì rồi đó, tại sao không đem nó đi bác sĩ.

    Cả hai nghe lời đem con đến bệnh viện. Người ta khám bệnh cho đứa bé ở phòng ngoại chẩn. Bác sĩ chích một mũi thuốc, đứa bé vẫn không nín. Tiếng khóc mỗi lúc một khàn và yếu dần đi. Pillat thương con nên cũng khóc theo, chàng lo ngại hỏi bác sĩ :

    - Con tôi đau gì đấy thưa bác sĩ?

    Sau một hồi yên lặng, bác sĩ bảo :

    - Nó chết rồi.

    Thật sự là tiếng khóc không còn nữa, Doina đã tự làm vỡ hai lá phổi của mình vì những tiếng khóc thất thanh đó, hai lá phổi nhỏ nhoi của một kiếp sống lưu đày.

    Pillat và Marie nghẹn ngào trước cái xác nhỏ nhắn xanh xao, trần truồng của bé Doina Australie. Họ biết là ủy ban Úc còn ở lại ba hôm nữa. Doina chết rồi, họ có thể ra đi được, nhưng họ không còn can đảm nghĩ đến những người Úc Đại Lợi nữa. Úc châu là nơi mà trẻ con không được thâu nhận, là nơi mà người ta bắt người mẹ phải bỏ rơi đứa con vì những lý do của một nền văn minh tiến bộ.

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    II
    Trong lúc các lực lượng đồng minh đang kiếm tìm Boris khắp nơi thì hắn đã đến Ba Lê, tìm ra sứ quán Sô Viết và xin hội kiến với viên đại sứ. Nhân viên tòa đại sứ trả lời :

    - Đồng chí đại sứ không cho ai yết kiến cả.

    Vừa trả lời, ông ta vừa quan sát bộ mặt chưa cạo râu của Boris.

    Vết sẹo trên trán, áo choàng đỏ đã bị cháy xém, cũng rách nát, khăn choàng loang lổ. Trong trạm gác, người cảnh sát Pháp theo dõi mọi cử chỉ của Boris nhưng vẫn giả bộ đang nhìn nơi khác. Boris nóng nảy:

    - Tôi muốn thông báo một tin hết sức quan trọng, tôi cần gặp một người nhân viên nào cũng được trong văn phòng ông đại sứ.

    - Ông là công dân Sô Viết?

    Nhân viên nọ hỏi Boris một cách lạnh nhạt, tay vẫn sắp lại một chồng báo. Boris vội vã trả lời, ngỡ rằng câu trả lời của mình sẽ mở được mọi cánh cửa :

    - Vâng, tôi là công dân Sô Viết, và tôi cần được hồi hương ngay tức khắc, chính vì vậy mà tôi đến đây.

    Cùng với những động tác lạnh nhạt, máy móc, nhân viên nọ đưa cho Boris một tờ giấy và bảo:

    - Điền vào tấm giấy này các thủ tục hồi hương, ông sẽ nhận tin trả lời tại nhà.

    Boris biết là hắn sẽ phải chờ hàng tháng nếu hắn dùng đến lối hồi hương này. Tuy vậy, hắn vẫn cố làm đúng theo thủ tục, kèm theo một bức thư. Viết xong, hắn cẩn thận đọc lại:

    "Thưa đồng chí đại sứ,

    Tôi tên là Boris Neva, công dân Sô Viết, bị tai nạn phi cơ trong dãy núi Alpes, đã trốn khỏi một bệnh viện Hoa Kỳ tại Đức với ý định là sẽ trình diện với bộ chỉ huy Sô Viết. Nhưng vì cuộc lùng bắt của cảnh sát tôi phải nhảy qua một chuyến tàu khác đang đi về hướng nước Pháp, tôi bắt buộc phải làm như thế để khỏi bị giữ. Đến Pháp, tôi đến trình diện tức khắc tại sứ quán để xin hồi hương. Đồng chí Đại sứ có thể tìm biết lai lịch của tôi nơi bộ chỉ huy Sô Viết tại Vienne."

    Boris biết là viết thư như vậy chưa đủ, nhưng dù sao cũng đã gợi được óc tò mò của tòa đại sứ. Nhân viên nọ vẫn thản nhiên:

    - Chúng tôi không nhận thư.

    Ông ta chỉ nhận tấm phiếu khai hồi hương của Boris, còn trả thư lại cho Boris mà không cần xem trong thư nói gì. Boris van nài:

    - Tôi là công dân Sô Viết, tôi đến đây sau một tai nạn, và bây giờ cần thông báo một tin hết sức quan trọng.

    Nhân viên tòa đại sứ thầm nghĩ: "Sau khi đã phản bội, mọi con rắn độc đều có những tin tức quan trọng cần thông báo. Và nhìn Boris ra chiều khinh bỉ, nếu có thể thì hắn ta đã giết tên này, bởi như mọi công dân Sô Viết, hắn ta ghét cay ghét đắng lũ gián điệp và phản bội, đâu đâu hắn ta hình như cũng có gặp tụi do thám và phản bội cả.

    - Ông không ghi chỗ ở.

    - Tôi không có chỗ ở tại Pháp, vì tôi chỉ mới đến đây có mấy tiếng đồng hồ.

    Thế là nhân viên nọ trả lại tờ khai:

    - Ông không thể xin hồi hương nếu chưa có chỗ trú ngụ cố định. Chúng tôi không được phép nhận tờ khai thiếu sót.

    - Thế tôi không thể nào nói chuyện với một ai ở tòa đại sứ này?

    - Tôi là nhân viên của tòa đại sứ đây. Tôi đã cho ông mọi chi tiết đầy đủ. Bây giờ ông có thể đi, không được đứng ở đây lâu.

    Nói xong, nhân viên nọ mở cửa, đến gần Boris, nắm lấy tay hắn đuổi:

    - Đi, đi.

    Vừa đuổi vừa yêu cầu người cảnh binh Pháp đến can thiệp. Lúc đó Boris muốn nói rõ với nhân viên nọ rằng hắn ta là Boris Bodnariuk, tướng lãnh Sô Viết đang giữ chức bộ trưởng chiến tranh Lỗ ma ni, nhưng hắn đã tự chủ được, vì nhớ ra là không được để lộ tông tích.

    Lúc đó người cảnh sát đã ra lệnh:

    - Cút đi ngay.

    Boris đành nhục nhã bỏ đi. Viên cảnh sát mỉm cười nhìn hắn, còn nhân viên nọ lại càng không thèm nhìn Boris nữa. Dưới mắt hắn Boris chỉ là một trong vô số tên phản bội đang vây quanh các tòa đại sứ trên thế giới để làm mật thám cho đế quốc, hay là hối hận muốn hồi hương. Cả hai loại đó đều nguy hiểm. Nên lệnh ban ra rất nghiêm nhặt, không được lắng nghe hay cho phép lũ đó vào tòa đại sứ, hoặc là chúng giăng bẫy để báo chí tư bản có dịp làm rùm beng mọi chuyện, hoặc chúng là những thành phần cằn cỗi rải rắc khắp nơi mà Sô Viết không biết nữa. Vì thế mà nhân viên nọ đã không nhìn đến Boris. Vả lại hắn không được phép nói chuyện với Boris, vì mọi công dân Sô Viết sống trong một nước tư bản đều được báo động rằng người lạ mặt nào muốn khơi chuyện đều có thể là kẻ thù của Sô Viết, một tên mật thám đáng sợ.

    Lang thang ngoài đường, Boris tự vấn lương tâm của một đảng viên xem thử mình đã hành động đúng cách và sáng suốt hay không. Theo lệnh trên, hắn không được tiết lộ hành tung của mình. Lúc mà hắn tưởng Pillat đến nhận diện hắn, hắn đã trốn khỏi nhà thương. Hành động đó chắc chắn là không sai lầm rồi. Hắn lên tàu trốn qua Vienne, và lúc cảnh sát khám tàu, hắn lại nhảy qua tàu bên cạnh để chờ cho hết cuộc bố ráp. Hại thay tàu lại chạy qua Pháp, hắn phải đến trình diện với sứ quán. Sứ quán Sô Viết ở Pháp lại từ chối không cho hắn gặp được vị đại diện. Nên hắn phải lang thang trên đường phố Ba Lê vừa đói vừa rét. Hắn không còn lê nổi đôi chân nữa. Cái tiện nghi duy nhất của hắn bây giờ là không ai thèm dòm ngó đếm xỉa đến hắn nữa. Ở Sô Viết, bất cứ một người nào lê gót lang thang trên hè phố như hắn bây giờ tức thời bị bắt và tra hỏi giấy tờ đủ loại ngay, nào là giấy phép, nào là chứng chỉ việc làm. Hắn ở đây được tự do hoàn toàn nhưng vẫn thầm nghĩ: "Tòa đại sứ Sô Viết đã hành động thật khôn khéo. Bởi vì một tòa đại sứ Sô Viết ở trên đất một quốc gia tư bản luôn luôn sẵn sàng bị mọi cạm bẫy, mọi khiêu khích. Tuy nhiên, nếu không có tòa đại sứ giúp đỡ, mình không thể đi đâu được cả. Giấy tờ, tiền nong không có, sức lực cũng hao mòn cả rồi. Mà mình lại phải đến Bucarest gấp. Vụ án khởi tố tên thống chế trưởng giá đó phải bắt đầu càng sớm càng hay".

    Boris đi giữa những cửa hàng bóng nhoáng, những người đàn bà lộng lẫy mà không thấy gì cả. Mắt hắn bây giờ chỉ muốn tìm được một lối thoát tức khắc; vì hắn tự cho là: Nếu mình không có cách gì thông tin tên tuổi cho tòa đại sứ, điều đó có nghĩa rằng mình đã đào ngũ và phản bội, dù mọi sự xảy ra ngoài ý muốn của mình. Một nỗi đau xót đâm vào lòng ngực Boris cơ hồ như hắn không thể nào đứng vững được nữa. Rồi mọi sự quay cuồng chung quanh hắn, hắn lả đi bên lề đường. Mọi người đi qua vẫn không thèm nhìn hắn. Hắn bỗng sống lại cảnh cô đơn sâu xa như hồi còn ở sân trường hoàng gia Kichinev lúc hắn phải mặt bộ đồ nhục nhã và bạn bè chung quanh thản nhiên không thèm nhìn hắn nữa. Hai người lính đi qua nhìn hắn một lát rồi lạnh lùng bỏ đi, làm cho nỗi cô đơn buồn tủi của hắn càng thêm sâu đậm. Ngước mắt nhìn cửa hàng trước mặt, hắn đoán là một cửa hàng bán áo quần. Hắn cố đứng dậy bước vào bên trong, muốn giải thích cho họ biết là hắn muốn bán chiếc áo nhưng không nói được tiếng Pháp. Người bán hàng gốc Bắc Phi hiểu ngay. Hắn cởi bộ áo cho Boris và hỏi:

    - Người Nga?

    Boris gật đầu. Điều đó không quan hệ gì với người bán hàng nầy cả, cũng như những vết sẹo đầy trên ngực Boris. Hắn thản nhiên cầm lấy chiếc áo kaki, áo sơ mi và hai áo nỉ mỏng mà Boris giao cho. Hắn nhìn luôn chiếc áo choàng da nhưng Boris đã mặc vội vào người cùng với chiếc khăn quàng đỏ muôn thuở của Boris. Người bán hàng nhìn ngần ấy thứ trên tay và trao cho Boris 150 quan. Boris cầm tiền mà không biết là mình bán đắt hay rẻ, vì hắn không biết giá tiền đồng quan Pháp. Ra đường, hắn lại chóng mặt, và cảm thấy chất da nham nhám của tấm áo choàng cọ vào lưng, vào ngực, vào vai rất khó chịu. Hắn muốn uống ly rượu, ăn chút bánh, hút điếu thuốc cho ấm lòng, nhưng hắn đã tự chủ được ngay, và tìm một quán điện thoại. Hắn ra hiệu muốn gọi điện thoại. Hắn định không cho ai biết gọi điện thoại cho ai, nhưng khốn nỗi hắn không biết xử dụng cuốn niên giám, nên đành phải hỏi ông chủ quán. Lúc đã gọi được sứ quán Sô Viết, hắn nói bằng tiếng Nga. Một giọng đàn bà trả lời:

    - Ông tổng lãnh sự hiện không có đây.

    - Tôi là phi công Sô Viết Boris Neva đang ở đầu giây. Tôi muốn hồi hương ngay.

    Boris muốn giải thích thêm, nhưng đã có tiếng trả lời.

    - Vấn đề hồi hương, ông cần hỏi ở văn phòng sứ quán, ở đó người ta sẽ cho ông giấy tờ để điền vào, sau đó ông cứ chờ ở nhà người ta sẽ trả lời.

    Boris nghe tiếng gác máy ở đầu giây, như tiếng xé lòng.

    Hắn ngẩn ngơ giữ ống nghe một chốc rồi cũng đành gác máy xuống.

    Viên chủ quán hỏi:

    - Ông cần gọi lại số đó nữa không?

    Ông ta cầm số tiền gọi điện thoại trong tay Boris, số tiền bằng nửa số tiền bán áo trong người hắn, rồi quay lại một lần nữa số điện thoại của tòa đại sứ Sô Viết. Boris van nài:

    - Tôi xin bà nghe tôi, vì đây là một trường hợp khẩn cấp. Tôi là phi công Boris Neva đang gọi điện thoại đây.

    - Ông mới gọi cách đây ít phút thôi. Ông đã được chỉ dẫn đầy đủ rồi, tại sao ông gọi lại làm gì?

    Nói xong điện thoại viên lai gác máy ngay. Boris như treo lưng chừng giữa khoảng không. Sô Viết và đảng còn xa quá, hắn chưa thể đến gần được. Đành phải ra đường, giữ kỷ số tiền còn lại trong tay.

    Hắn chỉ nghĩ đến một điều duy nhất: hắn đã đến trễ về việc bản án ở Bucarest, mỗi giờ mất đi là xem như một giờ phản bội, nhưng trí óc hắn không thể tìm ra một giải pháp nào nữa.

    Boris phải nghĩ đến những đồng chí cộng sản mà hắn đã từng gặp ở Nga, hy vọng đến gặp họ để bắt liên lạc với tòa đại sứ Sô Viết, có lẽ thế là giải pháp đẹp nhất. Hắn có nhiều bạn Pháp ở Mạc Tư Khoa nhưng bây giờ không còn nhớ đến ai nữa. Hắn ráng nhớ lại xem thử còn đảng viên cộng sản nào quen đang ngụ tại Ba Lê hay không, thứ quen thân mà hắn có thể thố lộ tông tích rằng hắn là Bodnariuk và đang cần trở lại Nga gấp.

    Cộng sản là một đại gia đình có đảng viên trên tất cả thành phố. Đảng viên cộng sản đi đâu cũng không thể cô đơn được, thế mà hắn không nhớ nổi một đảng viên cộng sản Pháp nào cả. Hắn bóp trán suy nghĩ, vụt chốc một cái tên hiện ra trong trí: giáo sư Voivod, một nhà điêu khắc gốc Lỗ ma ni hiện đang ở Ba Lê.

    Đó là một người cộng sản mà báo chí nhắc nhở đến luôn. Boris thầm tính là: mình sẽ đến ông ta để bắt liên lạc với sứ quán Sô Viết".

    Hắn chưa bao giờ thấy mặt giáo sư Voivod, nhưng chỉ cần ông ta là đảng viên cộng sản mà hắn lại là người cùng làng nữa. Tìm địa chỉ ông ta trong niên giám điện thoại Boris đi bộ đến nhà. Giáo sư Voivod ngụ trong một xưởng lớn ở Montparnasse. Ông ta có bộ râu thật đẹp như trong tranh:

    - Tôi không muốn tiếp ai cả.

    Nói thế xong ông ta muốn đóng cửa, không thèm nhìn Boris nữa, ông ta hằn học nói lại:

    - Tôi không có gì để phải nói chuyện với ai cả. Tại sao các anh cứ muốn gặp tôi?

    Boris tự giới thiệu:

    - Tôi là người Lỗ ma ni, người đồng hương với giáo sư.

    - Tôi không có liên lạc gì với người Lỗ ma ni cả, cũng không liên hệ gì với xứ Lỗ ma ni và toàn thể dân Âu châu. Tôi không quen ai ở xứ nào trên vũ trụ này nữa. Đi đi và để tôi yên.

    - Tôi vừa đến Ba Lê sáng nay sau khi rời khỏi bệnh viện.

    - Thế ra anh là người tị nạn? Tại sao lại tị nạn? Anh sợ cộng sản phải không? Các anh ai cũng sợ cộng sản cả, sợ họ bắt làm việc. Và các anh tưởng tại Tây Phương các anh không bị bó buộc làm việc ư? Lầm, Tây Phương đang đầy người tị nạn, đầy, đầy nhóc.

    Voivod giận đến tím mặt không nói nữa. Boris khoái trá. Giáo sư này hình như là một người cộng sản quá khích, thế là hắn gặp may rồi đấy. Giáo sư nhìn thẳng vào người Boris, vào những giọt mồ hôi đang chảy dài trên trán, trên vết sẹo, trên đôi má tái nhợt lởm chởm toàn râu chưa cạo. Voivod bảo:

    - Xin lỗi anh tôi biết anh muốn ở lại Lỗ ma ni. Ai cũng muốn ở lại trong làng mạc của mình. Tôi biết là lũ cộng sản tàn bạo đó không cho người ta vui thú gia đình nữa. Họ đuổi các anh ra khỏi nhà, tôi biết. Các anh năn nỉ muốn làm việc, nhưng người Nga không cho phép. Tôi biết, hạng người như anh tôi đã gặp hàng ngàn. Nhưng tại sao các anh đều qui tụ nơi nhà tôi, tôi chỉ là một tên điêu khắc già. Thôi cầm lấy chừng này và đi đi.

    Giáo sư Voivod đưa cho Boris 1000 francs, và muốn đóng cửa, nhưng Boris vẫn còn đứng đây. Qua cánh cửa người ta trông rõ những bức tượng trong xưởng, vô số. Chưa bao giờ Boris thấy cảnh tượng này. Không có bóng dáng con người, súc vật, cây cỏ, hoa lá, chỉ là hàng trăm bức tượng, cái cao cái thắp ngổn ngang. Boris thầm nghĩ: "Thì ra ông nầy chống Cộng. Ông ta đã phản bội tất cả". Boris đăm đăm nhìn các bức tượng, chỉ toàn là những nét linh hoạt, như là những hình lửa khói đang bốc thẳng lên trời. Giáo sư Voivod hỏi thêm:

    - Bức tượng tôi có còn ở làng không nhỉ?

    Lần đầu tiên giọng nói của Voivod có vẻ thân mật, nhờ lúc nghĩ đến số phận của các tác phẩm quá khứ của ông ta. Voivod nghi ngờ:

    - Tôi chắc là lũ cộng sản lang sói đã đập vỡ bức tượng đó rồi.

    - Không, họ chưa đập vỡ đâu.

    Nghe trả lời thế, mặt ông ta sáng lên, bảo Boris:

    - Nào, vào đây ăn uống gì đã. Nhưng ăn xong, anh đi ngay nghe chưa. Tôi không muốn mất thì giờ.

    Boris cầm bánh mì và miếng dâm bông ông ta đưa cho. Ông ta hỏi lại Boris :

    - Lần chót anh thấy bức tượng đó ở Roman từ bao giờ?

    Boris nhớ lại là lúc 14 tuổi mình có thấy một lần ở trong nghĩa địa Roman. Rồi từ đó hắn không trở về làng nữa. Tuy thế, hắn nhớ rõ ràng lắm, vì dân làng Roman ai cũng biết bức tượng của Voivod trong nghĩa địa, bằng cẩm thạch trắng, bức tượng chiếu sáng như một tấm gương soi, Boris trả lời bừa là hắn ta vừa thấy lại lần sau cùng chừng sáu tháng. Voivod sung sướng ra mặt hỏi:

    - Cách đây sáu tháng, bức tượng còn ở đó ư? Bức tượng trinh nữ đó là tác phẩm đầu tay của tôi. Sau đó, tôi có cả hàng ngàn bức tượng khác, để ở khắp viện bảo tàng trên thế giới. Năm mươi năm nay, lúc nào tôi cũng đẽo gọt các bức tượng nhưng chưa có bức tượng nào tôi thích hơn bức trinh nữ ở nghĩa địa làng Roman. Lúc mà các phê bình gia hỏi tôi tại sao có thể đạt đến thứ nghệ thuật gãy gọn hoàn toàn trừu tượng thì tôi đều nói về bức tượng trinh nữ ở Roman. Người bạn hàng trong làng mình có một người con gái chết lúc 16 tuổi. Ông ta có nhờ tôi làm một bức tượng để trên mộ. Qua bức ảnh và trí nhớ của riêng tôi, tôi cố hoàn thành bức tượng người con gái đó. Nhưng tôi không thể khắc một trinh nữ bằng cách để cả vú, đùi và háng được. Những thứ đó đều bằng chất thịt, thế mà một trinh nữ đã chết không còn chất thịt tục lụy đó được, mà chỉ còn cái gì tinh khiết, thanh cao. Thịt không thể nào thanh cao, và chỉ là chất liệu có tính cách giai đoạn nơi một trinh nữ đã chết, anh có nhận thấy thế không? Cho nên lúc nắn tượng, tôi bắt đầu lột hết da thịt của nàng để chỉ tạo đúng nàng như tôi đã thấy và đúng với thực chất của nàng là tinh khiết, thanh cao. Cho nên tôi chỉ giữ lại nơi nàng những đường nét lóng lánh cao ngất như một ngọn lửa, đúng là một ngọn lửa được điêu khắc. Đó là bức tượng trinh nữ ở làng Roman và cũng là tất cả hệ thống nghệ thuật của cả đời tôi, nghĩa là dừng lại nơi thực chất và loại trừ hết những gì tục lụy và vô ích. Ví như nơi con chim đang bay, tôi chỉ chọn khả năng bay được, vì đó là cái gì quan trọng nhất của con chim. Phần còn lại tôi gạt bỏ hết : đầu, cánh, chân, vì những thứ nầy không chính yếu, chỉ có khả năng bay được là đáng ghi lại mà thôi. Tất cả những bộ phận chim dùng để làm việc khác ngoài việc bay như ăn uống, sinh đẻ, chống đỡ với thời tiết đều phụ thuộc. Với tôi, chim không đẻ, chim chỉ bay mà thôi, anh hiểu chưa?

    Boris đã thấy giáo sư này là kẻ thù của đảng cộng sản. Đáng ra thì hắn chả hiểu gì về các bức tượng của ông này cả, nhưng hình như hắn cảm nhận rằng Voivod là một đồng chí của hắn trên lý thuyết, vì nhà điêu khắc Voivod làm việc theo một chiều hướng với đảng cộng sản, nghĩa là với hắn. Hắn hy sinh mọi điều cho thực chất. Ai cũng nhìn thấy ở con chim các bộ phận như cánh, lông, mỏ, trứng. Bay là một điều trừu tượng. Chỉ có cộng sản mới có thể thực hiện trên bình diện xã hội điều mà Voivod đã thực hiện trên bình diện nghệ thuật. Cộng sản chủ nghĩa giáo dục con người để dành cho kế hoạch và nếu cần hy sinh người cho kế hoạch, như Voivod đã hy sinh chim cho khả năng bay lượn.

    Voivod hỏi thêm :

    - Anh bị gì đấy? Sao lại không có đến chiếc sơ mi? Chắc lại trốn khỏi một nhà tù cộng sản rồi phải không? Họ có hành hạ anh? Boris muốn trả lời như thế này : "Không, thưa ông. Trái lại là đằng khác bởi vì tôi là người cộng sản. Tôi đang thực hiện cho lịch sử trên bình diện xã hội những gì mà ông thực hiện trên bình diện nghệ thuật. Tôi gạt bỏ hết vú, đùi, háng, tất cả những gì không trong sạch để đào tạo một xã hội hoàn toàn trong sạch. Ông nắn tượng thì tôi nắn người. Tôi phá bỏ thành kiến, cổ hủ, bản năng, để giáo dục con người theo một cuộc sống tập thể cao hơn y theo kế hoạch. Sự độc ác của ông lúc ông cắt thân thể người trinh nữ để lóc thịt hay lúc ông nhổ lông, cắt thân còn chim để chỉ nắn đương bay mà thôi nghĩa là chỉ thực hiện những gì toàn chân và toàn mỹ cũng giống như chúng tôi, bởi vì chúng tôi là những nhà kỹ sư tân kỳ đi kiến tạo một thứ người mới, loại bỏ những giai cấp phản động, lười biếng, chống đối, để mở đường đi đến một đời sống cao đẹp hơn. Cuộc đời cộng sản không giống đời người từ trước đến nay, như trinh nữ của ông không giống những trinh nữ khác mà chúng tôi đã thấy. Chúng tôi là kẻ sát nhân hay là những người thuộc thành phần ưu đẳng? Thưa ông, ông là đàn anh của tôi trên lý thuyết, bởi vì chúng tôi cũng lóc thịt người để đem lại một đời sống cao đẹp hơn. Xã hội cộng sản ngày mai sẽ trong sạch và đẹp đẽ như trinh nữ ở nghĩa địa Roman hay như con chim đang bay của ông. Người Sô Viết chúng tôi kiến tạo một xã hội trong đó con người không đơn độc tranh đấu cho miếng cơm manh áo như súc vật. Đây là lần đầu tiên con người vượt khỏi thân phận loài vật để cùng nhau tranh đấu chung cho đời sống, y theo kế hoạch".

    Duong nhu doan duoc y nghi cua Boris, nen Voivod duoi han :

    "Đi đi, lũ Á Châu súc sinh đã phạm những tội ác tày trời. Sô Viết là những kẻ sát nhân hung bạo nhất chưa bao giờ thấy trên đời. Thành Cát Tư Hãn là một thiên thần bên cạnh chúng. Những người cộng sản đã áp dụng vào đời sống con người những nguyên tắc mà tôi đã áp dụng trong nghệ thuật. Chúng tưởng là chúng được phép ứng dụng vào thịt sống của con người công việc mà tôi đang thực hiện trên đá. Con người nào có dễ dàng uốn nắn như đất đá, gỗ cây. Con người tự nó đã hoàn toàn rồi. Nếu anh lấy bớt bất cứ một cái gì trên con người tức là anh đã hủy hoại, đã làm hỏng nó đi mất. Người cộng sản muốn tước bỏ nơi con người những tình cảm, ích kỷ, bản năng, thành kiến, ảo tưởng. Kết quả là nơi nào họ đi qua, Sô Viết chỉ để lại đằng sau họ những xác chết. Không bao giờ một xã hội cộng sản có thể tạo dựng được. Đời sống cần có những lầm lỗi, những bí ẩn. Khi loại bỏ lầm lỗi, anh loại bỏ luôn cả con người. Như một thi sĩ Đức đã viết : "Đời sống chỉ có trong lầm lỗi. Khôn ngoan đồng nghĩa với sự chết". Chiều hướng đẹp nhất của con người là chiều hướng mà người Sô Viết và chủ nghĩa cộng sản không biết đến : đó là chiều hướng của bí ẩn, đẹp nhất của đời sống. Thôi anh đi đi, đi mua áo mà mặc và đừng bao giờ trở lại nhà tôi. Tôi van anh để cho tôi yên, tôi chỉ còn là một ông già cô đơn..."

    Boris cầm những tấm giấy bạc mới của Voivod trao cho. Ông ta còn nói thêm:

    - Hãy đi theo con đường định mệnh của anh.

    Rồi ông bước vào xưởng điêu khắc rộng như một nhà kho. Boris đi xa dần, vừa đi vừa đếm tiền, sau cùng hướng về nhà ga.

    Boris lên tàu đi Strasbourg theo như kế hoạch vừa mới nghĩ ra, hắn sẽ bí mật qua Đức và từ đó sang vùng Sô Viết. Hắn đã có tiền, thế nào hắn cũng đến được Bucarest đúng lúc.

    Trước khi từ giã Ba Lê, hắn ngạc nhiên nhìn người ta qua lại trên bến tàu. Ba Lê cho hắn cái cảm giác rã rời cùng cực, mỗi người là một con thú phải đơn độc lo cho thân mình. Mỗi cá nhân chiến đấu đơn độc cho miếng cơm, manh áo, cho cuộc đời riêng rẻ của mình. Đúng như loài vật.

    Xã hội trưởng giả không có trật tự, không che chở cho ai cả. Đó là một xã hội chỉ có danh từ mà không có ý nghĩa nào cả. Mỗi người là một thế giới cô đơn. Vì thế mà Tây phương không thể nào hiểu nổi tại sao một người cộng sản có thể chết đi để cho xã hội này được sống, vì đối với cộng sản hai chữ xã hội có nghĩa là che chở, cơm áo, giải trí, an ninh. Xã hội là tất cả, và cá nhân không là gì cả. Ở đây, xã hội vô nghĩa, chỉ có cá nhân là tất cả. Trong xã hội Tây phương, cá nhân hoàn toàn tự do và không được bao bọc che chở như con thú trong rừng, ý nghĩ đó thật đã làm cho Boris rã rời nhọc mệt.

    Tàu đã ra khỏi ga, hắn phải suy tính đoạn đường hắn sẽ đi qua. Hắn phải vượt hai biên giới, và rồi hắn sẽ được trở về với vũ trụ cộng đồng của những người Sô Viết.

    III
    Sau khi Doina Australie chết, Pillat và Marie bí mật trốn qua Pháp. Người Pháp không bắt bớ những người tị nạn, nên cảnh sát Pháp đã cho họ giấy phép tạm cư một tháng. Họ nghĩ là từ Pháp họ sẽ dễ dàng di cư sang đất khác; hơn nữa tất cả sứ quán và đại diện các quốc gia bên kia bờ Đại Tây Dương đều có ở Pháp. Ở đây không có ủy ban buôn bán người như ở Đức. Marie hy vọng là sẽ di cư sang Gia Nã Đại để tìm gặp Kostaky.

    Hai vợ chồng thuê một căn buồng gần đại học Sorbonne, trong khách sạn của ông Dupont, khách sạn này dành cho sinh viên, vợ ông chủ cũng giúp đỡ trong việc quét dọn phòng ngủ; ông bà có hai đứa con gái.

    Pillat và Marie trả tiền phòng và tiền ăn nhờ các cơ quan từ thiện tương trợ. Ở Ba Lê có đến hàng ngàn người tị nạn, các cơ quan từ thiện thường giúp đỡ họ bằng cách biếu phiếu thực phẩm, vài trăm francs hay là cho quần áo. Lúc nào không đi đến các cơ quan từ thiện thì Pillat lại đến các sứ quán để lo về chuyện di cư, vì hai vợ chồng đã xin tất cả các quốc gia nào còn nhận người di cư chấp nhận họ, và đang chờ trả lời. Trong lúc chờ đợi, họ viết thư cho các bạn bè đã di cư được ra xứ ngoài để hỏi han về cuộc sống ở đó. Varlaam trả lời là anh đã được bốn huy chương ở Israel. Ante Petrovici đã trở thành nhà đại sản xuất đồng hồ ở Argentine. Daniel Motok viết một bức thư thật dài :

    "Tôi biết là ông bà đang muốn di cư sang Venezuela, ở đây tôi đang ở trong một thiên đàng của rắn độc. Nếu ông bà chính thức sang đây thì có lẽ sẽ được may mắn hơn. Tôi thì phải trốn qua đây thôi. Như ông bà biết chuyến đi của tôi ở Đức bằng cách tự nằm nhốt trong một kiện hàng. Mới đầu, tôi đã bị nghẹt thở vì chính hơi nóng của thân thể mình. Chóng mặt đến muốn chết được. Thật là phải cầu trời xin đừng bao giờ cho con người đau khổ đến như thế. Tôi đã đau khổ quá nhiều. Trên cùng chuyến phi cơ có hai người khách danh dự, chắc ông bà có nghe báo chí nói đến: đó là hai phi công Nga Anatole Barsov và Igor Poltarev. Người Mỹ cho họ ăn uống đầy đủ trong suốt cuộc hành trình, phỏng vấn, chụp hình. Người Mỹ muốn biến họ thành những người khổ nhục vì Sô Viết, nhưng những người chịu khổ nhục thực sự thì người Mỹ lại không hề biết đến. Ở trong kiện hàng tôi tưởng mình sẽ ngủ luôn một đời. Nhưng lúc tôi tỉnh dậy và đẩy nắp kiện hàng lên thì thấy mình đang ở trong một nhà kho hàng của một phi cảng Hoa Kỳ còn xa thành phố.

    Vừa choáng váng, vừa đói, vừa khát, tôi như kiệt lực đi nhưng cũng cố lê chân về phía nam. Đang đêm, tôi biết là tôi, Motok, đang ở trên đất Hoa Kỳ một cách bất hợp pháp nhưng tôi không hề sợ hãi.

    Tôi chỉ biết có một điều: tôi là một con người và lúc tôi là một con người thì không có gì là bất hợp pháp khi tôi đặt chân lên một con đường, ngắm sao trên trời và thở không khí của trời đất.

    Tôi, Daniel Motok, đêm đó, đã tự thấy mình vẫn hợp pháp. Tôi đi kiếm việc làm nuôi thân như là một điều đương nhiên. Đêm đó nếu ai có bảo là tôi đang đi một cách bất hợp pháp trên mảnh đất nầy chắc là tôi chết được. Tôi cảm thấy là ai cũng có quyền tranh đấu cho sự sống còn của đời mình. Điều đó hợp pháp. Chỉ cấm không cho con người sống nữa, điều đó mới là bất hợp pháp.

    Cứ như thế, tôi đi về phía Nam. Ban ngày ngủ giữa đồng. Ban đêm tôi đi bằng cách quá giang, đi bộ, đi tàu lửa, lúc nào cũng trốn tránh bí mật. Tôi vượt qua hai biên giới mà không bị bắt giữ. Khi bị bắt thì đã biết mình đang ở trên đất Venezuela. Người ta chỉ hỏi là tôi có cần làm việc không, chứ không hỏi giấy tờ.

    Venezuela đang kiến thiết một con đường cắt ngang dãy núi của một khu rừng đầy rắn của vùng nhiệt đới. Thợ thuyền đều là người da đen vượt ngục. Tôi là người da trắng duy nhất. Họ tưởng tôi cũng là một tên tội phạm. Nên họ không cần hỏi giấy tờ tôi, cũng không cần hỏi tôi ở đâu đến. Thế là tôi được ra làm ở công trường.

    Thật chưa sách vở nào viết về một vùng như thế lại có được trên quả đất. Mặt trời làm thân thể chảy nước ra được và cứ mỗi bước lại gặp một con rắn. Tôi sống sót, nên được làm trưởng toán. Tôi thay thế một kỹ sư, rồi hai, rồi dần dần tôi thay luôn nhiều kỹ sư vì họ không muốn ngày ngày bước chân đến vùng đó. Tôi lãnh một nửa lương của họ để thay họ sống với cái địa ngục nhiệt đới toàn là rắn và rắn. Tôi làm giàu nhanh chóng, có cả một va li toàn ngân phiếu, nhưng tôi cũng bị nhiều khổ tâm vì nóng và rắn. Sợ hãi đến tột cùng. Nhưng còn bị dày vò vì một nỗi khổ khác nữa đó là sự khao khát đàn bà. Từ lúc đến đây, tôi chưa hề thấy người đàn bà nào cả, dù là thấy ảnh mà thôi. Sau là tôi sợ người da đen. Người da đen căm thù người da trắng đến độ có thể giết chết được. Họ không dám bắn người da trắng trừ trường hợp người nầy say rượu. Mỗi đêm, hàng trăm người mọi da đen dưới quyền điều khiển của tôi lảng vảng quanh lều tôi để xem thử tôi có uống whisky hay không. Chỉ cần tôi nhắp một chén rượu là tôi sẽ bị giết ngay, lũ mọi sẽ vồ lên thân xác tôi xé tôi ra thành từng mảnh. Cho nên tôi không hề đụng đến rượu, nhưng càng kiêng cử tôi càng thèm khát. Trong một năm, hợp đồng sẽ mãn hạn. Nếu trong năm nay tôi không chết khát, chết nắng, chết vì rắn rết, vì mọi da đen thì tôi sẽ trở về thế giới loài người. Tôi sẽ trở thành giàu có trên đời, và sẽ kiếm ông bà nếu ông bà còn sống sót trên lục địa nầy. Nhưng một năm dài quá, gần như là bất tận đối với tôi nhất là tôi sống với toàn là kẻ thù với ánh nắng mặt trời luôn thiêu đốt tôi, với lũ rắn độc và lũ mọi hung dữ. Nên ông bà hãy nghĩ đến tôi vào giờ cầu nguyện vì không có sự giúp đỡ của trời không ai có thể chống cứ để sống sót ở một nơi đầy hiểm nghèo như thế nầy. Hoàn cảnh tôi như thế đó. Tuy nhiên, tôi có thể nói là cho đến bây giờ, tôi hoàn toàn may mắn đã đến đây. Như tất cả sự may mắn dành cho một kẻ bị lưu đày, sự may mắn của tôi chỉ là một vận hội thứ hai, thứ vận hội giống như chiếc áo mưa rẻ gặp dịp, thứ vận hội vay mượn tạm bợ."

    Pillat đọc thư Motok hết sức cảm động. Chàng bảo vợ:

    - Chắc vợ chồng mình không đến nổi nào, chúng mình sẽ di cư đàng hoàng, chính thức. Di cư như thế đỡ hơn nhiều chứ.

    Thế là Pillat được phép di cư sang Venezuela, chỉ còn đợi tàu nữa thôi. Việc kiếm ăn hàng ngày thật khó khăn và chật vật, nhưng hy vọng sẽ được có việc làm nay mai làm cho hai vợ chồng thêm can đảm. Họ chờ đợi ở khách sạn Dupont.

    Một buổi sáng, có tiếng gõ cửa thật gấp trước phòng họ. Có cảnh sát đến. Hai vợ chồng có phép cư ngụ đến một tháng và họ chỉ ở Ba Lê mới có ba tuần và chưa làm điều gì bậy bạ. Tuy thế Pillat vẫn run sợ. Hai người cảnh sát bận đồng phục bước vào hỏi giấy tờ vợ chồng Pillat. Pillat tìm giấy tờ cư ngụ, một tờ giấy mỏng tanh như giấy hút thuốc, đưa cho cảnh sát.

    - Ông bà không còn giấy tờ gì khác sao?

    - Không, chúng tôi chỉ có giấy tờ bằng tiếng Lỗ thôi.

    Marie còn đang bận mặc áo lại dưới tấm mền. Cửa mở toang hoang, bốn người cảnh sát quan sát mọi cử chỉ của hai vợ chồng.

    - Ông bà có giấy tờ gì khác bằng tiếng Pháp?

    - Thưa không.

    Pillat trả lời thế và mặc vội chiếc áo, Marie ôm đầu thầm cầu nguyện "Lạy trời đừng để họ bắt chúng con, hãy tha cho chúng còn chuyện bắt bớ".

    Cảnh sát ra lệnh:

    - Mặc áo quần và đi xuống.

    Pillat thắt cà vạt, hỏi:

    - Chúng tôi bị bắt giữ sao?

    - Vâng, ông bà mặc áo quần nhanh lên.

    - Các ông có giữ chúng tôi lâu chăng? Chúng tôi có cần mang gì theo chăng? Mà tại sao lại bắt chúng tôi?

    Viên cảnh sát thản nhiên châm điếu thuốc lá, dựa lưng vào tường. Pillat hỏi lại :

    - Chúng tôi đã làm điều gì đến nỗi bị bắt? Giấy phép cư ngụ chúng tôi không hợp lệ chăng?

    - Xuống đi.

    Ra lệnh xong, viên cảnh sát khóa cửa phòng trả chìa khóa cho ông Dupont.

    Con gái bà Dupont đã thức giấc, nhìn Marie và Pillat bị còng tay đi giữa hai người cảnh sát. Ông Dupont không nói gì, chỉ cầm chiếc chìa khóa và nhìn Marie, Pillat ra chiều khinh bỉ. Đó là sự khinh bỉ của người đang có tự do đối với người bị bắt. Ông ta cho rằng mình không bao giờ bị bắt, và con cái ông ta cũng thế. Điều đó chỉ xảy ra cho những người ngoại quốc mà thôi. Pillat hỏi lại một lần nữa :

    - Chúng tôi đã làm gì? Tại sao bắt giữ chúng tôi?

    Cảnh sát vẫn không trả lời. Họ dẫn Marie và Pillat đến tòa thị chính leo lên tầng thứ năm. Lúc đó đã sáu giờ sáng. Họ nhốt hai người trong một căn phòng. Pillat vẫn tự vấn xem mình đã phạm tội gì. Giấy cư ngụ thế là đã bị thu hồi. Lúc 11 giờ, họ được mời vào văn phòng một viên thanh tra khá dễ thương. Ông nầy cho biết :

    - Nếu ông bà tái phạm, sẽ bị đuổi ra khỏi xứ nầy ngay.

    Marie khóc. Pillat thanh minh :

    - Chúng tôi đã được chấp thuận di cư sang Venezuela. Chúng tôi sẽ đi trong vòng vài ngày nữa bao giờ có tàu đến. Chúng tôi không có tội gì, tại sao các ông bắt giữ chúng tôi?

    Marie chăm chú nhìn các ngón tay dính đầy mực đen sau khi được sở cảnh sát lấy dấu tay. Đúng là những vết đen ô nhục. Nàng chùi các ngón tay và bật khóc. Những dấu mực đã thấm vào da, đã bám vào thịt, nàng có chùi cũng vô ích, đen vẫn hoàn đen.

    Viên thanh tra nói:

    - Đáng lý tôi đưa ông bà xuống trại tạm giam.

    Marie trố mắt nhìn.

    - Bà không biết trại giam là gì à? Đó là một nhà tù, vâng đáng lý tôi đưa ông bà vào tù, nhưng vì đây là lần đầu, tôi tha cho. Ông bà chỉ bị phạt vạ mà thôi.

    Marie hỏi :

    - Nhưng chúng tôi phạm tội gì mới được chứ?

    Trong lúc Pillat cứ nghĩ là nếu mình không có tiền để đóng phạt thì tội phạt vạ sẽ biến thành tội tù ở.

    - Ông bà không khai báo chỗ ở cho sở cảnh sát.

    Chúng tôi chỉ ở có một ngày hồi mới đến Ba Lê ở khách sạn "Con mèo câu cá", sau đó chúng tôi dời đến khách sạn của ông Dupont trên cùng con đường, chỉ cách đó hai nhà mà thôi, vì rẻ hơn. Và ở đây cho đến bây giờ.

    - Như thế ông đã vi phạm nghị định 31-12-1947 về chuyện khai báo chỗ ở của ngọai kiều. Ông là người ngoại quốc trên đất Pháp, mọi sự thay đổi chỗ ở dù chỉ là từ nhà này sang nhà bên cạnh đều phải khai báo cho sở cảnh sát. Cảnh sát Pháp để cho các ông tự do và không hề kiếm chuyện như cảnh sát các nước khác, nhưng họ vẫn phải theo dõi các ông chứ. Dĩ nhiên như thế. Ông thuộc thành phần mà cảnh sát theo dõi ngày đêm. Mọi người ngoại quốc ở Paris đều phải bị như thế cả. Làm sao mà theo dõi ông được, nếu ông đổi nhà mà không khai báo.

    Marie vẫn cố chùi sạch các ngón tay. Pillat vẫn nhìn viên thanh tra. Ông này ra lịnh:

    - Ông bà có thể ra về. Nhưng đừng quên là mỗi lần thay đổi địa chỉ phải khai báo đấy.

    Pillat cảm ơn ông ta đã không tống giám hai vợ chồng, rồi vội vã dẫn vợ về khách sạn tắm rửa. Mùi của hành lang quận cảnh sát đã dính vào áo quần họ. Ông Dupont hỏi:

    - Thế là ông bà may mắn đấy. Chỉ có ở Pháp, cảnh sát mới tử tế với người ngoại quốc như thế thôi.

    Marie dấu các ngón tay đi nhưng hình như con ông Dupont đang tò mò nhìn. Con gái ông ta thì không bao giờ bị bắt nên dỉ nhiên ngón tay lúc nào cũng trắng trẻo và sạch sẽ vì không bao giờ ngón tay họ bị nhúng vào mực tàu. Trong tận đáy lòng, Marie tủi hổ về các ngón tay dơ bẩn của mình. Nàng thèm khát các ngón tay sạch sẽ của các con gái con của ông Dupont mà từ nay nàng không bao giờ có được nữa, nàng vừa từ sở cảnh sát về, nàng vừa bị bắt, nghĩ thế mà nàng bật khóc.

    Bỗng ông Dupont cằn nhằn:

    - Tôi đã cấm bà bao nhiêu lần là không được nấu ăn trong phòng, bà làm dơ hết tường và nền nhà.

    Và Pillat không còn thấy chìa khóa phòng ở chỗ hộc cũ nữa.

    Đồ đạc đổ la liệt ở văn phòng khách sạn, cái trên bàn, cái trên đất kể cả quần áo dơ bẩn, nồi nấu bằng cồn, và vài củ khoai tây. Ông Dupont đã dọn hết đồ đạc trong phòng họ ra ngoài, và để các đồ vật tang chứng lên trên cùng: khoai tây, bánh mì, lạng mỡ, rồi bảo:

    - Tôi thấy cả khoai tây, cả nồi cồn, cả son chảo, nghĩa là bà đã làm bếp trong phòng mặc dầu tôi đã triệt để ngăn cấm. Tôi không thể chấp chứa ông bà trong khách sạn tôi nữa. Tìm chỗ khác mà ở.

    - Ông Dupont, Pillat năn nỉ, ông Dupont...

    - Lần cảnh cáo chót, ông bà lên tầng sáu mà ở và hứa với tôi là không được nấu ăn trong phòng nữa.

    Pillat, Marie thu dọn đồ đạc và bước lên từng thứ sáu. Để chứng tỏ là họ không làm bếp nữa, Pillat để lại mấy củ khoai dưới đất. Ông Dupont lượm vứt vào thùng rác ra vẻ khinh bỉ.

    Con gái ông Dupont nhìn Pillat bước lên các bực cầu thang như thể là chàng đang bước lên đoạn đầu đài. Marie vẫn còn khóc.

    Vào phòng nàng rửa tay ngay, cố chùi các ngón tay thật mạnh nhưng những vết mực đèn vẫn còn, không thể nào nàng chùi sạch được.

    Một tuần nữa đã đến lễ Phục sinh. Pillat bảo :

    - Hôm nay là ngày đầu của tuần Thánh lễ.

    Hai vợ chồng đều nghĩ về xứ Lỗ ma ni thân yêu của mình.

    IV
    Một tuần lễ trước ngày lễ Phục sinh, các hội từ thiện làm việc gắt gao hơn thường lệ. Pillat nhận được tiền giúp đỡ của hội Tin Lành Hoa Kỳ. Chàng trả tiền phòng cho ông Dupont. Hai vợ chồng muốn thực hiện giấc mơ của mình. Sửa soạn một bữa tiệc cho ngày lễ Phục sinh. Suốt thời gian lang thang lưu đày, họ chưa bao giờ nghĩ rằng có ngày họ sẽ ăn được một bữa thịt ngỗng rô ti. Bây giờ, trả tiền phòng xong, họ vẫn còn thừa tiền để thực hiện cái mơ ước của những ngày đói khổ, của những đêm dài nằm mơ mấy củ khoai tây, một khúc bánh mì bơ mà thực tế họ chỉ uống nước để cho dịu cơn đói mà thôi.

    Ngày thứ sáu thánh họ mua nửa con ngỗng và khoai tây, như thế là họ có cảm tưởng tiêu phí hết cả gia tài, nhưng biết là sắp đi Venezuela nên họ tự cho phép một lần tiêu sang. Vào ngày lễ đó, Pillat nhịn đói hoàn toàn, không ăn bánh, không uống nước. Chàng thành tâm cầu nguyện Chúa Trời giúp đỡ cho vợ chồng mình được di cư sang Venezuela để có thể tái tạo một cuộc đời mới. Họ cầu nguyện cho linh hồn đứa con Doina Australie được yên ổn mà nắm mồ đang ở trên mảnh đất buồn tẻ của Đức Quốc. Họ cầu nguyện cho Ion Kostaky đang ở bên kia bờ Thái Bình Dương, cho Ileana có lẽ bây giờ đang ở trong ngục tối, và sau cùng cho hàng triệu người bạc phước đang lang thang sau ngày chiến thắng không nhà không cửa trên trái đất hãy còn khốn đốn trong cảnh tù đày. Họ còn nghĩ đến Eddy Thall, đến Motok đang sống trong địa ngục của rắn rết, họ cầu nguyện cho Ante Petrovici mà dù giàu có trên xứ Argentine vẫn chưa biết có thể bị bắt giữ lúc nào vì còn thiếu vài ly mét ở chân phải, họ cũng không quên Varlaam đang chiến đấu cho xứ Do Thái.

    Đêm về thật yên tĩnh. Hình như thời gian trôi qua không đúng như chiếc đồng hồ treo trên tháp trước khách sạn, hay như những chiếc đồng hồ các cô gái con ông Dupont đang đeo trên tay, cũng không đúng như đồng hồ của Cảnh Sát và Quân Đội. Đó là một thứ thời gian của vũ trụ vĩnh cửu, chiếc đồng hồ không hề đo thời gian bằng giây, bằng phút.

    Ở đâu đây, lùi xa vào dĩ vãng, thi hài đấng Jésus Christ đang được đặt vào trong mộ. Người ta cảm thấy được nỗi rã rời của hàng trăm triệu người đang bị đóng mình vào thập tự giá trên khắp hoàn cầu, lìa đời vì những quyết định trên các hiệp ước nghị hòa như là chiếc đinh đóng sâu vào da thịt họ và đang chờ ngày bước xuống khỏi thập tự giá của cảnh lưu đầy để được chôn vùi trên mảnh đất quê hương.

    Đêm về Pillat nhen bếp cồn và bắt đầu nấu ăn. Món thịt ngỗng đang ở trên soong, họ lại đang đói nhưng họ vẫn muốn nhịn ăn cho đến ngày lễ Phục sinh. Marie nằm gối đầu lên vai Pillat. Cả hai không nói năng gì. Trong nhà không còn thứ ánh sáng nào ngoài ngọn lửa xanh leo lét của cây đèn cồn.

    Cửa sổ mở. Hai vợ chồng mơ ước trong yên lặng. Marie ngủ yên, Pillat tắt đèn, nằm xuống ôm vợ trong tay. Họ ngủ bên nhau như thế trong ý hướng về xứ Venezuela, về Jésus và về sự phục sinh của Ngài. Đó là một đêm tinh khiết nhất của đời họ, nên Pillat tuy ngủ mà nụ cười vẫn có trên môi. Nhưng khi thức giấc, đầu chưa rời khỏi gối, họ đã nghe thấy tiếng đập cửa lúc trời hừng sáng. Đã có tiếng gọi :

    - Mở cửa mau, có cảnh sát đến.

    Lệnh gọi được lập đi lập lại nhiều lần. Pillat nghĩ bụng:

    Giấy cư ngụ của mình còn hợp lệ, sao cảnh sát còn trở lại. Mình làm điều gì phi pháp đến nỗi họ trở lui chăng?

    Marie nhảy xuống giường, muốn mặc lại áo trong bóng tối nhưng không tìm thấy áo ở đâu cả.

    - Mở cửa mau, có cảnh sát đến.

    Nhiều bước chân dồn dập trên hành lang. Marie muốn dấu cái soong và bếp cồn. Pillat thắp đèn. Marie bảo:

    - Khoan mở cửa, chờ em một chút đã.

    Nàng tìm áo, nhưng không thấy. Chưa bao giờ nàng tuyệt vọng và kinh hoàng đến thế, ngay cả lúc người Nga đến, ngay cả lúc trốn vào rừng hay băng qua biên giới, chưa bao giờ nàng sợ hãi đến thế.

    - Cảnh sát đây mở cửa mau.

    Marie lo sợ:

    - Họ đến bắt chúng mình đấy. Em không muốn bị bắt, không.

    Nàng bám vào cánh tay Pillat. Chàng nói:

    - Anh phải mở cửa. Em cứ mặc áo đi, bình tĩnh, thế nào anh cũng mở cửa cho họ vào.

    - Mở cửa mau. Cảnh sát An ninh đến xét đây.

    Marie tiến đến cửa sổ, hai tay che mắt. Thân nàng run lên như cánh cửa lớn bị cảnh sát gõ mạnh. Nàng có cảm tưởng cái nắm tay đập cửa đó đang đập lên chính thân thể mình, lên trán, lên ngực, lên đầu. Tất cả xảy ra nhanh đến chóng mặt. Marie không còn chịu đựng được nữa. Rồi thân thể nàng vắt qua cửa sổ, như là một cây bạch lạp cong lại trong ngày lễ Phuc sinh lúc trời quá nóng trong nhà thờ.

    Nàng phóng người ra thật giản dị, run lên, tan vào khoảng không. Marie chưa bao giờ làm việc gì rắc rối trong đời.

    Nàng không còn chống cự được nữa. Nàng để cho thân thể nàng mềm ra như là một cây bạch lạp đang tan dần, thân nàng rơi xuống mềm nhũn từ cửa sổ từng thứ sáu xuống đường. Mọi sự xảy ra giản dị, chỉ có thế thôi.

    Lúc Pillat quay đầu lại, thì Marie không còn trong phòng nữa. Chàng chạy đến cửa sổ. Chàng chỉ quay lưng lại Marie có một chốc, một chốc thật ngắn để mở cửa cho cảnh sát vào, rồi chàng nghe một tiếng động, mơ hồ, xa xôi ở dưới đường, rồi chàng nhìn xuống. Trước khách sạn, đã có ngọn đèn hơi cháy sáng, chàng thấy vệ đường và thân thể Marie nát nhàu, bất động như một vết mực trên nhựa đường. Người qua đường bu quanh.

    Hai người cảnh sát và một người mặc thường phục bước vào phòng. Pillat vẫn còn nhoài mình ra cửa sổ. Một người lên tiếng nghi ngờ:

    - Có gì xảy ra ở đây?

    Cảnh sát tiến đến cửa sổ, nhìn xuống đường và cùng hỏi: "Có gì đang xảy ra?".

    Trước thân thể sóng soải của Marie dưới đường và đám đông đang bu quanh, một người cảnh sát nắm lấy Pillat lôi ra ngoài phòng, chàng nghiến răng và không còn suy nghĩ gì nữa cả. Chàng chỉ muốn nghiến răng đến nát mà thôi. Cảnh sát hỏi:

    - Ai đó? Có phải từ đây bà ta nhảy xuống lầu phải không? Trả lời mau.

    Cửa phòng vẫn mở. Người trong khách sạn đã đứng đầy hành lang, bước chân người dồn dập. Pillat muốn ra khỏi phòng xuống lầu.

    - Đứng yên. Đi đâu đấy?

    Pillat muốn vùng vẫy nhưng bị giữ lại. Chàng biết mọi cố gắng bây giờ đều vô ích. Không còn gì phụ thuộc vào ý chí của chàng nữa, như là từ ngày chàng bị lưu đày, không có gì tùy thuộc vào ý chí của chàng cả. Chàng đã bị cầm tù một lần nữa.

    - Tên ông là gì?

    - Pillat.

    Trước mặt chàng là thân thể nát nhàu của Marie đang nằm sóng soải trên vệ đường. Ngoài ra chàng không còn thấy gì nữa cả.

    - Căn cước đâu?

    Như trong mơ, chàng lục túi tìm giấy tờ. Cảnh sát vẫn theo dõi từng cử chỉ chàng. Người kia đóng cửa sổ và cầm giấy tờ, giấy mỏng như một tấm giấy hút thuốc. Đó là giấy phép cư ngụ ở Pháp nhưng không phải của Pillat mà là của Marie. Giấy của chàng ở phía sau. Ngạc nhiên cảnh sát hỏi:

    - Bà ở dưới kia là Marie Pillat?

    - Đúng là vợ tôi đấy.

    Chàng cắn môi đến chảy máu. Cố nhịn khóc nhưng sự đau đớn cực độ đã làm chàng bật khóc.

    Mấy người cảnh sát đọc giấy phép cư ngụ và cùng nhìn nhau thất vọng; người mặc thường phục quay về phía Pillat:

    - Không phải hắn. Anh ở phòng số mấy?

    - 604.

    Dưới đường, vẫn có tiếng la hét, tiếng máy xe nổ. Hành lang trước phòng vẫn đầy người và cánh cửa lớn vẫn để mở. Cảnh sát nói:

    - Tên Hy lạp mà chúng mình kiếm ở phòng 504. Chúng mình bị nhầm từng lầu.

    - Vâng bị nhầm lầu.

    Pillat muốn ra ngoài, nhưng bị giữ lại. Chắc lại bị cầm tù rồi đấy. Cảnh sát hỏi:

    - Vợ ông?

    - Vâng, vợ tôi.

    - Tại sao bà tự tử?

    Pillat không trả lời. "Tại sao bà làm thế?" Cảnh sát hỏi có vẻ với giọng nghiêm khắc, kết tội. Hắn muốn xử tội và lập lại câu hỏi:

    - Tại sao bà tự tử? Ông bà cãi cọ nhau?

    - Không, chúng tôi không hề cãi nhau.

    - Thế tại sao bà nhảy xuống lầu tự tử? Trả lời ngay.

    Pillat nắm tay, nghiến răng. Thịt trên thân chàng co rút lại. Tim chàng co rút lại.

    - Có gì đã xảy ra?

    - Chỉ vì sự nhầm lẫn của các ông đó.

    Pillat trả lời như thế và cắn môi đến chảy máu. Chàng lẩm bẩm, nhầm lầu, nhầm lầu.

    Chàng đá chiếc soong. Mở văng trên nền nhà thành một vũng và không bao giờ chùi sạch được, không bao giờ cả.

    - Chúng tôi phải giữ ông để lập biên bản.

    Chàng bị đẩy ra khỏi phòng. Trước khách sạn đã có xe hồng thập tự. Thân thể Marie nằm trên vệ đường. Pillat nhảy bổ đến bên vợ.

    Nhưng chung quanh Marie đã có hàng rào cảnh sát với những áo quàng đen như những cánh quạ. Cảnh sát đến thật đông, bên xác Marie, người nào cũng mang áo choàng đen, như những cánh quạ mở rộng, như những loài chim báo hiệu tử thần.

    Xác Marie được mang lên xe, xa dần. Sau xe là hàng xe cảnh sát nối đuôi, với áo choàng đen như một bầy quạ vừa ngửi thấy máu người. Họ đi theo xe và biến mất lúc đến góc đường. Ai cũng buồn vì chuyện vừa xảy ra, ai cũng cảm động. Người Pháp thường cảm động như thế khi một việc bất hạnh xảy ra cho một người đàn bà con trẻ.

    Trước cửa khách sạn Dupont, còn một vết máu lớn. Hai con mèo đến lảng vảng bên vũng máu muốn liếm. Các cô con gái ông Dupont hoảng sợ gọi mèo vào nhà, và đổ sửa cho mèo khỏi phải đi liếm máu người đàn bà đã chết. Bà Dupont mang một thau nước đến lau sạch vết máu để cho mèo đừng ngửi thấy mùi nữa. Ông Dupont bảo:

    - Bà lau sách là phải lắm.

    Và ông ta nghĩ : "Người ngoại quốc chỉ làm mình thêm rắc rối. Vâng, nếu mình bị bực bội cũng chỉ tại họ, chỉ tại lầm lỗi của họ mà thôi".


  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CUỐN SÁCH CỦA NHỮNG CẶN BÃ XÃ HỘI
    I
    Sau khi Marie chết, Pillat không còn lui tới các sứ quán để lo về vấn đề di cư nữa, cũng không lui tới các cơ quan từ thiện; chàng không còn dự định gì cho tương lai nữa cả. Suốt ngày ngồi trong phòng khách sạn Dupont, cửa luôn luôn đóng kín. Thỉnh thoảng, xuống phố mua bánh, nhưng không cần nhìn ai và nói chuyện với ai cả.

    Một hôm Aurel Popesco đến khách sạn, trên xe Cadillac đen lộng lẫy bước xuống, Popesco đã được ông Dupont kính cẩn tiếp đón, Popesco hỏi ông ta về Pillat, Dupont trả lời:

    - Ông đến đúng lúc lắm. Sau biến cố đó, Pillat chỉ nghĩ đến nỗi tuyệt vọng của mình, ông đến đây là phải lắm. Cả ngày ông ta chỉ ở trong phòng một mình, không nói với ai, không ăn uống gì cả, ông muốn lên gặp ông ấy không?

    Aurel Popesco biết rõ chuyện tự tử của Marie. Ông ta bảo :

    - Tôi sẽ đem ông Pillat theo tôi. Pillat đã được mời vào một chức vụ cao bên cạnh bộ chỉ huy lực lượng Đại Tây Dương. Ông ta là người tài giỏi. Tôi được phái đến đây để tìm ông ấy đây.

    Aurel Popesco trả tiền phòng cho Pillat, xong bước lên lầu. Các cô gái con ông Dupont nhìn chiếc Cadillac đen có vẻ thèm thuồng. Aurel Popesco vào phòng la lớn:

    - Dậy đi anh. Tôi đem tin mừng đến cho anh đây. Anh sắp trở thành một nhân vật tên tuổi rồi đây, tin do bộ chỉ huy lực lượng Đại Tây Dương cho biết đó. And đi với tôi. Chúng ta phải đến Đức đêm nay. Anh có biết anh sẽ là người quan trọng như thế nào không?

    - Nói với tôi điều gì cũng được nhưng anh đừng nói tôi là nhân vật quan trọng. Tôi biết giá trị của tôi. Từ ngày bị lưu đày, thiên hạ đánh giá tôi bằng phân mét và kí lô, bằng sức mạnh của bắp thịt, bằng dấu tay...

    Aurel Popesco bảo :

    - Nhưng bây giờ tình thế đã thay đổi rồi. Đời có lúc nầy lúc nọ chứ. Nào dậy đi, và sửa soạn lên đường.

    Popesco giải thích cho Pillat rằng các quốc gia Tây phương đã chuẩn bị một cuộc chiến với Sô Viết:

    «Người ta đã gọi tất cả những người tài ba ở bên nầy bức màn sắt cộng tác trong công việc đó. Anh là một trong những người đó. Anh vừa được nhận làm cố vấn cho bộ chỉ huy các lực lượng Đại Tây Dương. Người ta sắp trông cậy vào anh một công tác đầu tiên hết sức quan trọng. Anh có lương rất hậu. Anh không cần phải di cư đi đâu hết, bây giờ anh đã là nhân vật quan trọng rồi!»

    Aurel Popesco bắt Pillat ngồi dậy, sửa soạn hành lý để ra đi. Ông Dupont đưa họ đến tận xe, bắt tay vồn vã và chào từ biệt rất là nhã nhặn. Lúc xe rồ máy, Popesco hỏi :

    - Anh có vẻ không hài lòng? Đây là một biến cố phi thường chứ?

    Pillat nhìn xuống đường. Chàng không nghĩ gì hết, chàng để Popesco đưa đi đâu thì đi, chàng không hành động gì nữa và hoàn toàn thụ động với tất cả những gì xảy ra cho chàng, thụ động như một tên tù nhân. Popesco lại giải thích:

    - Đêm nay, chúng ta sẽ gặp các vị chỉ huy. Ba ông tướng đang chờ anh ở Heidelberg, anh biết không? Anh phải giải quyết một vấn đề hệ trọng. Anh có một bạn đồng học tên Boris Bodnariuk, bây giờ gặp hắn, anh có nhận ra không?

    Pillat gật đầu, Popesco nói tiếp:

    - Boris là nhân vật quan trọng nhất của Lỗ ma ni. Hắn ta đang cùng tên thống chế những người Slaves miền Nam tổ chức Liên minh các quốc gia quanh sông Danube và đang là bộ trưởng Bộ chiến tranh. Gần đây, người ta không biết gì về hắn nữa. Bỗng cách đây vài hôm, người Mỹ bắt được ở Đức một người giống như Boris. Nhận diện thật đúng rồi nhưng người Mỹ muốn có chứng cớ chắc chắn rằng đó là Boris. Nếu đúng hắn là Boris, thì thật có một tầm quan trọng về chính trị kinh khủng. Nhưng giả thuyết quá đáng có thể dùng. Hoặc là Boris bị bắt buộc trốn đi vì đã có sự bất động quan điểm trong các quốc gia Sô Viết. Trong trường hợp đó, Hoa Kỳ có thể lợi dụng sự bất động chính kiến đó. Hay là Boris đi công tác. Nếu thế thì công tác cực kỳ quan trọng, vì một bộ trưởng Bộ chiến tranh lại được đưa qua Tây Phương như là một nhân viên tầm thường. Người Hoa Kỳ đang xôn xao về vụ nầy. Nếu đúng là Boris, thì cục diện chính trị thế giới sẽ thay đổi. Anh là người có thể biết chắc người bị tình nghi là Boris hay không. Tất cả phụ thuộc vào anh. Anh chỉ cần nhìn kỹ hắn, nói chuyện với hắn và nói rằng: «đúng hắn» hay «không phải hắn», và thái độ của Hoa Kỳ đối với Sô Viết tùy vào sự nhận diện đó, sự nhận diện mà không có anh sẽ không ai làm được. Vì thế mà tại sao tôi phải đi kiếm anh ở Ba Lê. Anh sẽ ở lại Đức Quốc. Anh sẽ làm Cố vấn vĩnh viễn về các vấn đề chính trị bên cạnh bộ chỉ huy. Đó là một nhiệm sở phi thường, giống như của tôi đó. Lần chót anh trông thấy Boris hồi nào?

    - Vài ngày trước khi tôi rời khỏi Lỗ ma ni.

    Popesco cầm lấy vai chàng bảo :

    - Anh là người cần cho chúng tôi, người của thời cuộc.

    Popesco nói huyên thuyên. Pillat thỉnh thoảng mới nghe vài câu, nhưng chàng không hề chú ý.

    - Nếu người Mỹ có dấu tay Boris, họ sẽ nhận ra ngay lập tức, nhưng nghiệt là họ không có và người bị bắt lại không chịu khai. Nếu chúng ta nhận diện được, hắn sẽ được đem về Hoa Kỳ và ở đó sẽ phải khai. Bởi có loại Sérum bắt con người phải nói thật. Anh tưởng tượng xem những điều kinh khủng mà Boris sẽ khai như thế nào? Sự hiện diện của hắn ở vùng đất Đồng minh là một điều hết sức quan trọng mà bây giờ người ta hy vọng hết cả vào anh. Chỉ có anh mới có thể nói chắc rằng đúng nó hay không.

    Đền Đức, Pillat nghĩ đến Marie. Đức quốc là quốc gia mà hai vợ chồng chàng đã lê chân cùng khấp, xách trên vai, đói khát, tuyệt vọng.

    Thành phố, làng mạc bị phá hủy. Pillat nhìn phong cảnh như trong giấc mơ. Khi chàng trông thấy lại sông Neckar và cây cầu Heidelberg, Pillat bảo Popesco:

    - Dừng lại một chút đi.

    - Anh sao vậy, mệt hả?

    Họ dừng xe trên cầu, đứng xem. Pillat bước xuống xe, đến gần bao lơn cầu, nhìn xuống dòng nước, nhìn con đường dọc theo sông Neckar và chiếc ghế ngồi ở cuối đường. Chàng bảo:

    - Chính ở đây trước kia tôi đến xin việc làm. Bây giờ cầu xong rồi. Nếu hồi đó, họ cho tôi làm việc thì bây giờ mọi sự có lẽ đã đổi khác. Doina, con gái tôi, có lẽ đã không chết. Có lẽ mọi sự sẽ đổi khác nếu họ để tôi làm việc trong công trường nầy, nhưng tôi không được phép cư ngụ và họ không muốn nhận tôi làm việc.

    Pillat nhìn chiếc ghế chàng đã để vợ ngồi chờ và cảnh sát đã đến bắt nàng đi. Chàng thầm nghĩ chính ở đây lần đầu tiên Marie bị nhục nhã. Popesco dục :

    - Ba ông tướng đang đợi chúng ta. Anh nhanh lên chứ. Pillat leo lên xe còn nhắc lại:

    - Hồi mới đến Đức, tôi đã xin làm việc ở cây cầu nầy.

    - Cầu vừa mới làm xong đấy, đẹp chứ!

    Popesco nhìn đồng hồ : «Chúng mình phải nhanh lên mới được».

    Pillat buồn bã: Cầu đẹp, thật đẹp.

    Cả hai đến một biệt thự mới tinh, căn cứ của bộ tư lệnh Lực Lượng Đại Tây Dương phân bộ tình báo. Các sĩ quan Hoa Kỳ đang chờ họ. Pillat là người họ đang cần và được triệu đến từ cách xa hàng ngàn cây số.

    Họ nhìn Pillat với vẻ khâm phục.

    II
    Aurel Popesco hãnh diện nói:

    - Đây là biệt thự của riêng tôi. Vì tầm quan trọng của nhiệm sở tôi, văn phòng tôi phải đặt ngay trong nhà, như thế kín hơn.

    Vài sĩ quan đang đợi trong phòng khách, họ mời Pillat uống whisky. Ghế bàn đều sang trọng, đắt giá. Mọi người chăm chú nhìn Pillat. Người ta đã truyền lệnh đem Boris đến và đang ngồi chờ. Popesco đã thay áo khác và đến ngồi cạnh Pillat, nói :

    - Anh rồi cũng có một lối sống như tôi, một cố vấn chính trị bên cạnh bộ tư lệnh Hoa Kỳ đáng được có chỗ ở xứng đáng nghĩa là một biệt thự sang trọng với tất cả các tiện nghi của nó: xe hơi, lương trả bằng dollars mà không phải đóng thuế đoan. Vì là một nhiệm sở hết sức quan trọng. Tôi rất hài lòng thấy anh được cử giữ chức vụ đó. Nếu anh muốn, có thể sang ở bên Hoa Kỳ bất kỳ lúc nào. Không có trở ngại gì khi một viên chức bộ tư lệnh sang bên đó cả. Anh sẽ trở thành công dân Hoa Kỳ ngày nào mà anh muốn.

    Aurel Popesco được gọi sang phòng bên cạnh. Và ông ta trở lui có vẻ sợ hãi, nói vài câu với các sĩ quan đang chờ. Tất cả có vẻ thất vọng, cầm mũ ra đi để Pillat ở lại một mình. Popesco cho chàng biết :

    - Boris vừa mới trốn thoát cách đây nửa giờ. Popesco run lẩy bẩy nét mặt thay đổi, hắn như một kẻ nào xa lạ không phải là Popesco ngày thường.

    - Nhưng dù sao anh cứ ở lại nhà tôi. Trong lúc chờ đợi họ cấp nhà cửa, anh là thượng khách của tôi. Tôi không tin là tên đó lại có thể tẩu thoát. Không có tù binh nào thoát khỏi tay người Mỹ, thế mà tên này làm được như vậy, chứng tỏ chính hẳn là Boris, chỉ có Boris mới có khả năng làm điều táo bạo đó mà thôi. Chắc chắn là hắn đang âm mưu gì đây, nhưng không chóng thi chầy hắn sẽ bị bắt lại. Trong mới nửa giờ, hắn chưa thể đi xa đâu được, người Mỹ có thể bắt hắn lại, và mang lại đây cho anh nhận diện.

    Aurel Popesco mặc chiếc áo choàng màu xám xong, bảo Pillat:

    - Anh nằm nghỉ đi. Tôi phải đến Trung ương. Nếu chúng tôi bắt lại hắn được, chúng tôi sẽ phiền anh sau! Cần phải nhận diện hắn ngay tức khắc.

    Đêm đó, Pillat không hề bị làm phiền, vì người Mỹ không bắt lại Boris được nữa. Mấy ngày sau, Pillat vẫn ở trong biệt thự Popesco và chờ. Boris đã trốn hẳn.

    Suốt một tuần, Aurel Popesco it khi về nhà. Gặp lại Pillat, ông ta chán nản:

    - Boris thế là trốn hẳn rồi.

    Từ ngày Boris trốn đi, Popesco ngủ một đêm có vài giờ :

    - Người ta báo cáo là hắn vừa vượt sang vùng Sô Viết ở Đức. Chúng ta không còn hy vọng gì bắt lại hắn được nữa, bây giờ chúng ta chỉ còn nhận diện hắn bằng các bức ảnh thôi. Người Mỹ muốn là anh viết một bản tường trình đầy đủ chi tiết với các dấu hiệu đặc biệt về Boris.

    Pillat viết bản tường trình về bề ngoài cũng như tính tình của người bạn học cũ. Popesco hỏi thêm:

    - Anh không biết Boris nặng bao nhiêu ký sao? Người Mỹ cần điều nầy lắm vì họ cho rằng không thể nhận diện được nếu không có trọng lượng người đó, dù chỉ là đại khái.

    - Nhưng tôi không bao giờ hỏi người quen là họ nặng bao nhiêu ký cả?

    - Tôi thì trái lại, từ ngày làm việc với người Mỹ, hễ cứ gặp ai là tôi ước lượng sức nặng của họ ngay. Quan trọng lắm, hơn cả màu mắt nữa. Anh có biết Boris cao bao nhiêu không? Anh ráng nhớ lại xem từ lúc còn đi học hắn nặng và cao bao nhiêu? Ta có thể suy ra chiều cao và sức nặng bây giờ của hắn. Ví dụ như theo ảnh của hắn, chúng ta có thể biết độ nhọn của cổ áo và cổ giầy của hắn ra sao, điều này rất quan trọng lúc nhận diện một người nào.

    Sự mô tả của Pillat về Boris làm cho người Mỹ thất vọng vì thiếu các sự kiện cụ thể, những thiếu sót không thể chấp nhận được trong sự nhận xét của một người đã từng quen biết Boris. Pillat không cung cấp điều gì xác thực về Boris cả, kể cả sức nặng, chiều cao, vòng đầu, vòng cổ, gót giày, vòng thân. Sự mô tả có vẻ văn chương suông, không khoa học tí nào cả. Người Mỹ bắt đầu nghi ngờ rằng Pillat chẳng hề biết Boris, và trách Aurel Popesco điều đó. Thái độ Aurel Popesco đối với Boris thay đổi hẳn, ông ta trở nên lạnh nhạt với Pillat.

    Một ngày kia, lúc Pillat từ ngôi mộ Doina Australie ở Heidelberg trở về, chàng vẫn thường đến đó mang theo hoa cắm lên mộ đứa con gái mỗi ngày. Aurel Popesco bảo chàng:

    - Tôi phải đi ngay. Bộ chỉ huy bắt tôi đi săn tin ở Israel, tôi phải gặp những người Do thái Lỗ ma ni, rất có thể tôi sẽ thành lập ở đó một trung tâm chống Sô Viết. Hơn nữa tôi phải viết một biên bản đầy đủ chi tiết về tân quốc gia đó. Người Mỹ chọn tôi làm việc đó vì họ muốn có một biên bản khách quan. Tôi không thân người Do Thái, cho nên tôi quan sát và tường trình mọi việc theo sự thật của nó, và người Mỹ chỉ muốn có thế. Họ đã tốn bao nhiêu tiền của cho công cuộc tạo dựng quốc gia Do Thái, thì họ có quyền biết những gì đang xảy ra ở đó chứ. Cho nên đây là công tác hết sức quan trọng. Tôi sẽ gặp bà Salomon và trung úy Varlaam. Cả hai người muốn rời Palestine, vì ở đó họ không thích. Nếu có thể, tôi sẽ giúp đỡ họ, nhất là Varlaam. Lúc tôi đi vắng, anh cứ ở đây, tôi đã lo giấy tờ cho anh, người ta sẽ bổ nhiệm anh, giấy tờ đang ở Hoa Thịnh Đốn. Zaig Burian sẽ thế tôi ở đây.

    Pillat biết rõ Zaig Burian, hắn là một đại thuong gia ở Lỗ trốn sang Đức. Popesco giải thích thêm:

    - Burian sẽ làm trung gian giữa anh và Bộ chỉ huy, anh cần liên lạc với ông ta nếu anh cần gì. Khi nào lệnh bổ nhiệm của anh đến đây, ông ấy sẽ thông báo cho anh biết. Trong lúc chờ đợi, anh cứ làm việc với ông ta. Tôi đi chừng hai hay ba tháng, sẽ viết thư cho anh. Anh cứ tĩnh dưỡng và vui vẻ lên. Anh cần giải trí nữa, sau bao nhiêu đau khổ, anh cần được nghỉ dưỡng sức thật sự, tôi hy vọng là anh sẽ bình phục.

    III
    Sau khi Popesco đi rồi, Pillat lại trở về tình trạng khủng hoảng tinh thần như hồi còn ở Paris, chỉ khác một điều là bây giờ chàng ở yên trong biệt thự sang trọng trên bờ sông Neckar thay vì ở trong căn phòng khách sạn chật hẹp của ông Dupont. Người duy nhất chàng gặp mỗi ngày là Zaig Burian, hắn ta mang báo chí Lỗ ma ni yêu cầu chàng dịch các tin quan trọng cho hắn. Một vài lần khác, hắn hỏi chàng lai lịch một vài chính khách mà người Mỹ lưu ý đến. Burian là một ông già dễ mến và lịch sự. Mỗi lần đến thăm, ông ta đều gọi điện thoại trước báo tin cho Pillat. Nên hôm nay nghe tiếng điện thoại, chàng biết ngay là Burian gọi:

    - Chúng tôi vừa bắt được một người hết sức nguy hiểm, gốc Lỗ ma ni. Hắn ta có một quá trình rất đáng ngại. Tôi sẽ dẫn đến cho anh xem để anh nói chuyện với hắn thử xem, rồi cho chúng tôi biết cảm tưởng, nửa giờ nữa tôi sẽ đến nhà anh.

    Pillat ngồi chờ ở phòng khách sang trọng nơi mà trước đây chàng đã từng gặp các tướng lãnh Hoa Kỳ. Nửa giờ sau, Burian đến bảo chàng:

    - Người Nga gởi vào phần đất bên kia Đại Tây Dương đủ loại gián điệp. Gần đây họ dùng cả thợ thuyền và nông dân giả ngơ giả điếc làm như là không hiểu được gì, không biết nói một thứ tiếng nào, nghĩa là giả như những kẻ đần độn. Nhưng thật ra đó là những thành phần nguy hiểm. Người Mỹ lưu ý chúng ta và chúng ta phải kiểm soát mỗi cá nhân thuộc vào hạng gián điệp nầy. Người mà tôi sắp đem đến đây cho anh đúng là thuộc hạng nầy, hắn bảo là chỉ biết có tiếng Lỗ và không hề biết việc chính trị vì hắn chỉ là một nông dân tầm thường. Toàn là mánh lới cổ điển, anh sẽ thấy cho mà xem.

    Burian mở cửa mời tù nhân vào, lính gác ở ngoài cửa. Tù nhân là một kẻ ăn mặc theo kiểu Gia Nã Đại, nhưng áo quần rách rưới, giày theo lối Đức, áo của Mỹ, một chiếc khăn vắt ngang vai, hình dáng nhỏ thó, ốm yếu và già nua. Đúng là một người đang hồi sa sút, chỉ cặp mắt là còn mang vẻ tinh anh. Đó là ông Ion Kostaky, nên khi ông ta đang còn sợ sệt bước vào phòng, Pillat đã nhảy xổ đến định ôm ông, vừa la lên:

    - Cha!

    Chàng muốn nói thêm ít câu nữa nhưng chàng không biết nói gì ngoài tiếng gọi: «Cha! Cha!». Pillat muốn xiết chặc Kostaky trong tay vì nỗi vui mừng lớn lao nầy, muốn kể cho người bố vợ nghe ngay tức khắc cuộc trốn khỏi làng Piatra, đám cháy ngôi nhà của họ, việc đuổi bắt nông dân do Severin cầm đầu, tất cả nỗi nhục nhã của họ. Chàng muốn kể những lần viễn du ở phương Tây. Nhưng đôi mắt của Kostaky không cho phép chàng lại gần, đôi mắt đó nóng bỏng, tinh anh, nhưng không mời mọc chàng đến gần, đôi mắt đó giữ lấy một khoảng cách, như hai dấu hiệu báo động, giống như đôi mắt của loài chim rừng, của loài nai tơ nhìn mình để sẵn sàng trốn chạy, đôi mắt đó giống như đôi mắt của một con chó đã bị đánh đập lâu ngày nên thấy người là sẵn sàng đào tẩu. Cho nên Pillat chỉ nắm lấy tay Kostaky mà không ôm lấy ông ta được...

    Kostaky vẫn đứng sững gần cửa, ông ta nhìn Pillat như trong một giấc mơ mờ ảo. Nhưng quanh ông đúng là bàn ghế, thảm trải nhà. Ông ta gọi nhỏ:

    - Pierre.

    - Cha.

    Hai bàn tay họ trao cho nhau, Kostaky hỏi thêm:

    - Marie? Marie đâu rồi?

    Đôi mắt đó nhìn quanh có vẻ tìm kiếm nhưng không dấu nỗi vẻ sợ sệt của một con thú bị săn đuổi. Rồi bàn tay ông ta rời khỏi bàn tay Pillat, đôi mắt không còn tìm kiếm Marie nữa. Ông ta đã hiểu, chỉ còn có Pillat thôi. Và mắt họ tuyệt vọng nhìn nhau. Bàn tay đầy cả chai sạn lại nắm chặt bàn tay Pillat. Có một cái gì tuyệt vọng não nề trong lúc gần nhau mà họ không thể thấy lại Marie. Và càng biết là tìm kiếm Marie vô ích, Kostaky càng tiến lại gần Pillat. Burian rút lui : «Thôi tôi đi đây. Mừng cho cuộc gặp gỡ của hai người. Tôi để cho hai người được tự do, tôi sẽ gọi điện thoại sau».

    Burian bỏ đi, để lại sau lưng một khoảng trống. Kostaky hỏi:

    - Chuyện xảy ra đã lâu chưa?

    Ông ta chậm rãi đưa tay lên dụi mắt. Nước mắt đã khô cằn lâu rồi chỉ còn có một nỗi niềm đau khổ còn bao la hơn cả những giòng nước mắt. Ông ta hỏi Pillat mà hầu như không cần câu trả lời. Ông ta nói thêm :

    - Có lẽ Iléana còn sống. Ít nhất bà ta... Rồi ông ta làm dấu thánh giá và nói tiếp: Chúa đã muốn thế, đó là ý muốn của Chúa biết làm sao được.

    Kostaky không nhắc đến Marie, dù Marie đang hiện diện trong tâm tư của cả hai người nhưng ai cũng chỉ giữ yên lặng. Kostaky kể chuyện của mình trước :

    - Cha từ Gia Nã Đại sang đây. Cha làm việc ở đó gần hai năm.

    Nét mặt Kostaky đã trở nên lạnh lùng. Đôi giày đã rách nát, đôi giày mà ông ta có từ lúc ở Đức, mang nó sang tận Gia Nã Đại rồi mang trở về lại đây. Chiếc quần vải kaki cũng đã rách tươm. Trông ông ta thật thiểu não, quần lính theo kiểu Anh, áo ngoài theo kiểu Gia Nã Đại và sơ mi theo lối Mỹ - Chỉ còn đôi mắt vẫn như cũ, đượm chút hãi hùng và lo âu.

    - Không thể nào ở lại Gia Nã Đại. Nên cha đã trở về đây. Không phải vì cha sợ phải chết ở đó, chết trong tuyết hay trong bãi sa mạc xa lạ đó, thật ra không có một nguyên nhân nào cả, nhưng cha phải trở về.

    - Cha ngồi xuống đây đã.

    Kostaky ngồi xuống ghế. Đúng là một người đàn ông hết thời mà người ta đã tước mất sự sống như chanh đã vắt hết nước. Chỉ còn lại một nấm xương, xanh xao, với triệu chứng lao phổi hay đau dạ dày. Mấy cái răng phía trước rụng hết. Pillat rót rượu mời, nhưng Kostaky từ chối:

    - Cho cha một ly nước lạnh thì hơn.

    Sau đó, cả hai yên lặng nhìn nhau rồi yên lặng nhìn qua cửa sổ.

    Phía trước là cây cầu trên sông Neckar và chiếc ghế dài mà có lúc Marie đã ngồi trên đó. Pillat cắn răng để khỏi phải kể những gì đã xảy ra cho hai người. Chàng không muốn cho Kostaky biết những khổ sở mà chàng và Marie đã chịu đựng bao năm. Kostaky bảo :

    - Thôi để khi khác hãy nói chuyện; nên nói chuyện vào lúc khác hơn là bây giờ.

    IV
    Ion Kostaky không còn bị tình nghi nữa nên được phép ở chung với Pillat trong biệt thự của Aurel Popesco. Một hôm Pillat bảo:

    - Con sẽ nhận chức ở bộ chỉ huy lực lượng Đại Tây Dương, chúng ta sẽ có một căn nhà để tạm trú và để cha bồi dưỡng sức khỏe, rồi chúng ta sẽ tính sau. Điều chính yếu là chúng ta sẽ có được một chỗ ở tiện nghi và có thể tạm nghỉ chân.

    Kostaky nghe mà không nói gì, Pillat biết là ông ta đang nghĩ đến Marie.

    Lúc Burian bước vào phòng thì hai người đang đối diện với nhau ở phòng khách, Kostaky liền bỏ vào phòng. Burian tỏ về bất bình:

    - Hoa Thịnh Đốn đã trả giấy tờ của anh cho chúng tôi, và là lần thứ hai rồi đó. Anh không được bổ nhiệm trong bộ chỉ huy nầy dù Aurel Popesco đã cố nài nỉ cho anh.

    - Người ta đã từ chối tôi hay sao?

    - Tại vì anh không có một quá trình chính trị rõ ràng.

    Người Mỹ đã dò hỏi tin tức về anh nhiều lần. Và tôi đã gởi cho rồi. Bây giờ thì họ đã trả lời rõ ràng, họ từ chối không bổ nhiệm anh vì quá khứ chính trị của anh đáng nghi ngờ.

    - Nhưng tôi chưa hề làm chính trị.

    - Cho đến ngày người Nga chiếm đóng Lỗ ma ni, nghĩa là cho đến ngày chiến thắng, như người Anh vẫn thường nói thế, anh vẫn là thẩm phán?

    - Đúng vây. Và khi người Nga đến, họ đã loại tôi ra khỏi thẩm phán đoàn.

    - Và anh bỏ về làng vợ anh ở Piatra?

    - Đúng như thế. Ở Piatra, tôi làm ruộng với bố vợ tôi để sinh sống, vì tôi không còn phương tiện nào khác hơn để sinh sống.

    - Ở Piatra, anh cố để được gia nhập đảng cộng sản?

    - Đúng vậy, tôi cố để được nhận vào đảng để tìm kế sinh nhai, nhưng tôi đã không được toại ý.

    - Trong các ý định của anh, như anh đã khai trong biên bản người ta chú ý đến lời yêu cầu của anh xin gia nhập đảng cộng sản Lỗ ma ni.

    - Đúng vây, tôi có yêu cầu như thế.

    - Và chính vì lý do đó mà người Mỹ từ chối không bổ nhiệm anh vào chức vụ ở bộ chỉ huy. Luật lệ Hoa Kỳ trong phạm vi này thật rõ ràng. Bất cứ ai đã vào đảng cộng sản dù chỉ là một giờ cũng không được bổ nhiệm vào một chức vụ trong chính phủ, mà nếu là người ngoại quốc thì họ cấm không cho nhập nội xứ Hoa Kỳ.

    Pillat ngẫm nghĩ một lát. Nếu đó là luật lệ của Hoa Kỳ thi dĩ nhiên họ phải từ chối bổ nhiệm chàng. Chàng không còn gì để đòi hỏi hay thắc mắc. Chàng đành phải một mình lo liệu lấy, chàng chỉ tiếc là đã nhận lời rời bỏ nước Pháp, Burian nói thêm:

    - Điều hệ trọng hơn là trường hợp của ông bố vợ anh. Kostaky vừa bị liệt vào hạng tình nghi, y theo luật định.

    - Cha tôi lại bị tình nghi? Vô lý và khôi hài quá!

    - Kostaky đã rời bỏ Gia Nã Đại, mà Gia Nã Đại là một nước dân chủ. Tại sao ông bố vợ anh lại không thể sinh sống, hòa mình trong một thể chế dân chủ. Đó là câu hỏi mà người Mỹ đã chú trọng. Tôi đã đọc biên bản của Kostaky... Công việc ở Gia Nã Đại thật là vô nhân đạo : người ta kiến thiết những đường rầy xe lửa ở các vùng băng giá, lương cao nhưng đời sống quá đắt đỏ, rút cục rồi chẳng có gì cả. Nếu công nhân muốn có ăn hàng ngày thì thế nào cũng mắc nợ... Cứ công nhận là công nhân bị bóc lột đi. Nhưng người Mỹ lại không hiểu cho rằng một người làm công từ bỏ một thể chế dân chủ chỉ vì người đó vấp phải một chủ nhân bóc lột; họ đặt ra nhiều giả thuyết nữa cơ. Với họ, ai rời bỏ một quốc gia dân chủ là một người đáng nghi ngờ, đó là một cá nhân không chịu đựng nổi thể chế dân chủ.

    - Chúng tôi sẽ cố di cư lần nữa, rất có thể là sang Venezuela.

    - Anh di cư càng sớm càng tốt cho xong. Mâu thuẫn đã trầm trọng ở Viễn Đông, bây giờ đang có chiến tranh Triều Tiên. Rồi sẽ đến chiến tranh ở Trung Hoa. Một tuần sau cuộc chiến tranh ở Trung Hoa, mâu thuẫn sẽ xảy ra trong các quốc gia Âu Châu. Pillat bảo:

    - Từ khi có Hòa bình đến giờ, nghĩa là từ năm 1945, chiến tranh thật chưa hề ngưng, anh nhỉ?

    Burian giải thích thêm:

    - Nếu chiến tranh xảy ra ở Âu châu, anh sẽ bị cầm tù ngay tức khắc. Anh thì vì là đảng viên đảng cộng sản Lỗ ma ni, còn ông bố vợ anh thì đã từ bỏ một quốc gia dân chủ không có lý do. Đó tôi nói thật với anh như thế và tôi cũng đã viết thư cho Aurel Popesco bảo rằng anh đang bị nguy hiểm. Danh sách của những người phải bắt giam lúc có biến cố đã có và tôi không thể nào chừa anh ra được. Cả anh lẫn ông bố vợ đều có tên trong danh sách những người sẽ phải bắt giữ.

    Sau một chốc yên lặng, Burian lại khuyên Pillat:

    - Với tư cách là bạn thân, tôi sẽ giúp anh di cư. Tôi quen biết nhiều, bây giờ người trí thức cũng có thể di cư. Anh thì không bao giờ sang Hoa Kỳ được, nhưng còn các xứ khác trên trái đất nữa chứ, tôi còn có thể giúp anh được. Nhưng với Kostaky, thì đành chịu không ai giúp đỡ cho ông ta được. Các cánh cửa di cư đều đóng kín nên ông ta phải ở đây để chờ các biến cố xảy ra. Ông ta đã bị liệt vào hạng phế thải.

    - Hạng nào?

    - Hạng phế thải, nghĩa là hạng của cặn bã vô dụng. Anh không thấy là ông ta không còn lấy một cái răng nào cả hay sao?

    - Và chính vì đó mà cha tôi là một thành phần cặn bã sao? Ông ta đã đau khổ nhiều rồi mà.

    - Nhưng không phải tôi nói như thế. Đó là cách chỉ định chính thức của người Mỹ. Chúng ta hiện có chừng một triệu người mang bệnh bất trị, những người tàn tật và già nua. Đó là những kẻ xơ xác hèn mạt. Họ không thể ghi tên vào bất cứ danh sách di cư nào, ở bất cứ một quốc gia nào. Họ là những thành phần lắng xuống đáy một cốc rượu, là những phần cặn bã, phế thải, «hardcore». Và đó là chữ người ta đã dùng chính thức. Anh đã xem căn cước của Kostaky?

    Đúng là tấm căn cước của những người bị phế thải, và được viết lên rõ ràng như thế. Tôi biết là để lên trán hai chữ phế thải thì cũng đáng buồn lắm, nhưng người Mỹ không phải là những linh mục, người ta không thể đòi hỏi họ cư xử như những vị linh mục. Những cá nhân đó là những phần cặn bã của xã hội loài người, người ta không thể rút tỉa những gì ích lợi ở nơi họ cả. Anh thấy Kostaky rồi chứ, cha vợ anh đó, tôi biết, nhưng anh phải thành thật công nhận rằng ông ta không thể xài được nữa!

    Pillat nghẹn ngào :

    - Cám ơn anh. Tôi chỉ tiếc là phải đi mất bao nhiêu đoạn đường để đến nơi đó, để nhận được cái khuôn dấu phế thải lên trên trán, như những con vật mà thịt thối không thể ăn được nữa. Cám ơn anh.

    - Anh cẩn thận đó. Mỗi đêm đều có thể có chuyện xảy ra và anh sẽ bị bắt giữ. Tôi không nói đùa đâu. Ai mà quá khứ chính trị không trắng 100% sẽ bị bắt giữ. Anh và ông bố vợ đều có tên. Vậy phải quyết định ra đi gấp lúc đang còn thì giờ. Nếu ở đây thì chỉ có một đường là bị bắt. Nhanh lên cho rồi.

    Pillat uể oải:

    - Vâng, tôi sẽ đi gấp.

    V
    Ion Kostaky cầm bó hoa đứng đợi Pillat ở trước cửa. Họ phải đi thăm ngôi mộ của Doina Australie, nên Kostaky đã mua sẵn hoa và đèn bạch lạp. Dạo này, Kostaky đã ăn mặc tươm tất, nên lúc nhìn ông ta, Pillat muốn khóc khi nghĩ rằng: «Làm sao người ta có thể nói rằng con người này lại là một thứ cặn bã được. Không ai có thể là một thứ cặn bã được đâu».

    Lên tàu điện với Kostaky, Pillat lại nghĩ: «Kostaky là một thứ cặn bã thừa thãi mà không xã hội nào chấp nhận, không một quốc gia văn minh nào thâu nhận. Phải ở đó và tàn lụn đi tại chỗ», nên chàng gợi ý:

    - Ba, đêm nay chúng ta sẽ trở về Lỗ ma ni, ba hiểu ý con chứ?

    - Lần đầu tiên, ba thấy trong người khỏe khoắn và có cảm tưởng là mọi việc sẽ êm đẹp và con sẽ tìm ra chỗ làm.

    Trong lúc Kostaky mân mê bó hoa dành cho ngôi mộ của Doina Australie, Pillat giải nghĩa :

    - Họ không muốn dành cho con chức vụ đó nữa. Và cả ba lẫn con, chúng mình lại còn sắp bị bắt.

    - Họ bắt chúng ta? Nhưng nào chúng ta có làm gì đâu?

    - Vâng, không làm gì cả. Nhưng đêm nay chúng ta phải trốn đi. Rất có thể chúng ta sẽ bị lính gác bắn guc. Nhưng nếu thoát, chúng ta sẽ trở về sinh sống trong núi rừng xứ Piatra thân yêu, trên dãy núi ở Néamtz.

    Pillat đặt tay lên vai Kostaky. Tàu điện dừng ngay trước nghĩa trang, Kostaky càng nắm chặt bó hoa hơn lên, còn Pillat thì giải thích dần dần lý do tại sao họ phải trốn đi:

    - Ba, ba là người thuộc thành phần cặn bã của xã hội. Ba không thể đến ở trên bất cứ quốc gia nào trên thế giới này. Ba phải ở lại đây và đi ăn mày chờ bị bắt vì họ đã lập xong danh sách những người tình nghi. Cái tên Kostaky của ba nằm ở trang đầu.

    - Họ bắt ba à? Ba có bao giờ bị bắt đâu.

    - Rồi ba sẽ bị bắt bây giờ. Ba ở trong danh sách người Hoa Kỳ sẽ bắt vì ba đã từ bỏ một quốc gia dân chủ như là Gia Nã Đại. Làm như thế là đáng nghi ngờ và đáng bị bắt giữ.

    - Nhưng ba đã giải thích cho con cả rồi mà, ba không thể nào sinh sống ở đó được.

    - Và như thế là phản lại dân chủ. Ai không sinh sống được trong một quốc gia dân chủ là một người bị tình nghi.

    Kostaky khong thể nào hiểu nổi điều đó. Phải nói rõ hơn nữa mới được.

    - Phải ở lại Gia Nã Đại ư? Ba sẽ chết ở đó mất thôi.

    Họ tiến dần về phía nghĩa trang. Vẫn cầm bó hoa trên tay, Kostaky hỏi:

    - Và con, tại sao họ cũng muốn bắt giữ con?

    - Tại con cũng là một người đáng nghi ngờ, bởi vì con đã cố để được ở lại Lỗ ma ni, vì con đã không trốn ngay mà còn sống chung với người cộng sản, như thế là mờ ám, đáng để bắt giữ.

    Họ ngồi lại ở trước ngôi mộ có chữ thập bằng gỗ, trên chữ thập, có đề tên «Doina Australie Pillat».

    Cả hai cùng quỳ xuống. Kostaky đặt hai bó hoa xuống đất, một bó cho Marie và một bó dành cho Doina. Kostaky thắp hai cây nến, cắm từng cây xuống mồ. Ông ta lâm râm: «Cây nến nầy dành cho Marie, xin Chúa rước linh hồn con tôi». Rồi với cây nến thứ hai: «Cây nến nầy dành cho Doina, xin Chúa rước linh hồn cháu tôi». Pillat và Kostaky đăm chiêu nhìn hai bó hoa và hai cây nến cắm giữa đất ẩm ướt. Kostaky hỏi:

    - Con tin là Iléana còn sống không?

    Pillat không trả lời. Cả hai cùng nghĩ đến Piatra, Iléana, Marie và Doina. Kostaky lại hỏi:

    - Tại sao họ nói ba là một con người phế thải?

    - Vì ba không còn răng nữa, bà đã già, lại bệnh hoạn và khốn khổ.

    - Xin Chúa tha tội cho họ.

    Quay sang Pillat, Kostaky bảo:

    - Chúng ta sẽ đi đêm nay. Vào rừng, không ai còn bảo chúng ta là đồ phế thải, cặn bã nữa.

    - Thưa ba, ba không phải là cặn bã. Không con người nào là cặn bã của xã hội cả.

    Lần đầu tiên, Kostaky khóc như một người đàn bà. Họ nhìn mặt trời để xem thử bao lâu nữa mới tối. Mặt trời còn ở trên ngôi mộ. Bóng họ đổ dài trên mộ, dọc theo lối đi, trùng với bóng của thập tự giá.


  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CUỐN SÁCH CỦA Ô NHỤC
    I
    Trước khi đi du lịch, Aurel Popesco ghé lại bộ chỉ huy các lực lượng Đại Tây Dương ký vài bản tường trình cuối cùng, nói vài câu chuyện với Zaig Burian sắp thay thế hắn. Milan Paternik đang chờ hắn ở ngoài xe. Tuy cùng đi chung, họ không hề nói chuyện với nhau trong suốt đoạn đường xuyên qua thành thị, làng mạc bị tàn phá ồ Wurtemberg. Sau cái chết của bà mẹ, Milan Paternik bị ông bố đày đi xa, rồi bị người Đức bắt giữ, ở tù với Aurel Popesco, cho đến cuối cuộc chiến thì được trả tự do vào ngày Chiến thắng. Hắn ta lại là người đứng đầu trong số những nạn nhân của chế độ phát xít, cũng như trường hợp của Aurel Popesco. Rồi cũng như Popesco, hắn được bổ làm cố vấn chính trị cho bộ chỉ huy Hoa Kỳ.

    Bây giờ, Milan được nghỉ hè một tháng và muốn đi cùng với Popesco đến Ý Đại Lợi để tỉnh dưỡng. Popesco hỏi:

    - Tại sao anh lại nhất định đi ngang qua Trieste? Trieste là thành phố buồn nhất của Âu Châu, buồn hơn cả Bá Linh, hay Vienne. Vienne và Bá Linh là hai nơi được bốn cường quốc trấn giữ. Trong lúc Trieste, chưa kể lực lượng chiếm đóng, còn có thêm cả quyền hành của chính phủ Ý Đại Lợi và những người Slaves. Đúng là một thành phố nghẹt thở vì có đến sáu lực lượng cảnh sát kiểm soát, chúng mình nên tránh Trieste là hơn. Đến La Mã có phải là anh vui vẻ hơn không?

    - Không, nhất định tôi phải ở vài ngày tại Trieste. Anh cho tôi xuống đó, rồi anh tiếp tục đi.

    Popesco làm quen với Paternik ở Buchenwald. Hắn thừa biết là Paternik đã loại trừ tám trăm ngàn người Do Thái ở xứ người Slaves miền Nam, đúng là con người không biết đến tình cảm là gì. Nhưng Paternik đã lên tiếng:

    - Tổ quốc là một cái gì người ta không thể nguôi thương nhớ được. Tôi muốn đến Trieste để đặt chân lên đất của quê hương, dù chỉ là chấm bằng đầu ngón chân, để thưởng thức không khí, gió mát, mùi hương của quê cha. Không có thứ văn hóa nào có thể làm anh quên được tổ quốc, cũng như người ta không thể nào tách rời khỏi cơ thể của chính mình. Tổ quốc như là một phần nối dài của cơ thể mỗi người. Tiếng gọi của quê hương tha thiết đối với kẻ bị lưu đày như là sự khao khát tình yêu của những ẩn sĩ mỗi đêm hè. Đó là thứ tình cảm ở trong tận cùng máu huyết và thỉnh thoảng lại xuất đầu lộ diện. Lòng yêu quê hương cũng thế. Tất cả lục địa của thế giới không thể nào làm tôi quên được tiếng hát của Loreley ở mảnh đất quê hương, tiếng mời gọi vào một lúc nào đó anh không ngờ được. Anh có bao giờ cảm thấy như thế không nhỉ?

    Nhưng anh muốn làm gì ở Trieste? Nhìn qua các hàng rào kẽm gai tốp lính gác của xứ anh thôi sao?

    - Thế thôi. Tôi sẽ sung sướng nhìn lại đất nhà, thế là đủ. Tôi đang nhớ nhà, nhớ quê hương. Có ngày anh cũng như thế. Điều đó sẽ đến với tất cả mọi người không trừ một ai cả.

    Suốt đoạn đường còn lại, họ chỉ bàn đến hai chữ tổ quốc. Đến Trieste, trong lúc Popesco ở nhà hàng, Paternik một mình thơ thẩn đến khu phía Đông thành phố, về phía biên giới của quốc gia hắn. Hắn phải trình giấy chứng nhận công chức Lực lượng Đại Tây Dương cho các toán tuần tiểu Anh, Mỹ, Ý và Slaves.

    Hắn dừng lại ở hàng rào kẽm gai chia đôi mảnh đất quốc tế Trieste và quê hương của hắn, xứ Slaves miền Nam, rồi buồn rầu nhìn qua bên kia. Paternik sinh ra trong cảnh lưu đày, chỉ ở trong nước mình có vài năm thôi. Nhưng mảnh đất quê hương thu hút hắn như một thỏi nam châm vĩ đại. Hắn không hiểu nổi những tình cảm trong hắn lúc bấy giờ, cũng như không ai giải nghĩa được tình yêu. Chỉ hình như là Milan đang thích nghe nói bằng tiếng mẹ đẻ, nhìn những ngôi nhà trắng ở bên kia hàng rào kẽm gai. Chỉ nhìn thế thôi, mà máu đã ran lên trong người, mắt đã mở rộng, tim đã đập nhanh như khi người ta tiến đến gần người yêu.

    Hắn cởi găng tay cho vào túi. Và hắn đã bị lộ. Lính gác người Anh cũng như lính gác người Slaves đã dùng ống nhòm theo dõi hắn dù Paternik chưa vượt quá mức đất cấm, hắn chỉ là một du khách như bao người khác.

    Có tiếng chuông reo ở phía trạm gác bên kia. Tiếng chuông đi ngang qua thân thể Paternik như một luồng điện. Rồi người ta nghe tiếng lính gác trả lời ở máy điện thoại. Không hiểu họ nói với nhau những gì nhưng đúng là cách phát âm của tiếng mẹ đẻ. Chỉ có một tiếng nghe được : «Uredu», có nghĩa là xong rồi.

    Trong tâm hồn của Paternik, tất cả đang là Uredu, xong rồi. Hắn nhìn khung cảnh quê nhà bằng đôi mắt mở lớn, đôi môi, lỗ mũi mở rộng để đón nhận mùi thơm của khu đất vùng biên giới không người qua lại, tai để yên cho tiếng mẹ đẻ vang lên bên trong. Và hắn muốn đứng đấy mãi mãi.

    Người lính Slaves ở trước mặt nhìn hắn chăm chăm, súng tiểu liên cầm tay. Người lính đó thừa biết là khách lạ chưa dẫm chân lên mảnh đất mà hắn đang canh gác bằng súng tự động. Trong lúc Paternik thì đang muốn nuốt chửng mảnh đất bên kia hàng rào kẽm gai. Người lính đoán được điều đó, nhìn lại vào ống nhòm, người lính không hiểu tại sao khách lạ lại khoái nhìn mảnh đất nầy thế. Chỉ có hai người đang đối diện. Bên nầy là người lính với ống nhòm, súng trên tay chăm chú, nghi ngờ, bên kia là Paternik đang chiêm ngưỡng vùng đất cấm bằng tất cả thớ thịt của thân thể mình nhưng trò chơi đó nào có kéo dài được lâu. Người lính gác có cảm tưởng là người lạ đang bị thu hút bởi một cái gì đó trên đất mình đang canh gác. Bổn phận hắn là bảo vệ tổ quốc. Nên hắn nhắm súng vào người Milan Paternik để anh chàng nầy đừng có chăm chú nhìn vào đất của người Slaves. Paternik nở nụ cười thân thiện. Người lính lại xem nụ cười đó là một sự thách thức. Nên không ngần ngại hắn bấm cò. Một tràng mưa đạn xuyên qua thân thể Milan. Hắn ngả người xuống, thân thể vẫn còn đang ở bên nầy lằn ranh giới.

    Đáng lý cơ thể Milan ngã gục ra phía trước, và thân thể hắn đã có thể gục xuống bên kia lằn ranh, đầu và ngực đã có thể chạm vào mảnh đất quê hương và hắn đã có thể chết trên quê cha. Nhưng Milan đã ngã bằng lưng và tưới máu lên khoảng đất xa lạ của vùng do quốc tế kiểm soát trên thành phố Trieste. Và thế là hơi thở nóng bỏng, thứ hơi thở nóng bỏng nhất của cái nấc nơi một người sắp chết, đã bị đất lạ hút mất. Đôi môi khô cằn còn cố tìm đất thân yêu, nhưng chỉ gặp được một thứ đất xa lạ không phải là đất quê hương.

    Lệnh báo động ban hành. Ở Trieste, ngày nào cũng có đôi ba vụ va chạm biên giới như thế. Lần nầy, cảnh sát đồng minh phản đối quyết liệt, vì Paternik bị người lính Slaves bắn chết không có lý do xác đáng.

    - Tại hắn muốn qua bên nầy.

    - Ai lại dại gì trốn qua biên giới vào 11 giờ trưa. Người ta muốn lập biên bản, nhưng không rõ ràng được. Hôm qua, lính Anh đã giết một người Slaves. Lần nầy người Slaves lại giết một công dân ở vùng quốc tế kiểm soát. Nên người lính bên kia tuyên bố :

    - Thế là huề đấy nhé. Mạng đổi mạng, Uredu?

    - All right, xong rồi, nội vụ xếp lại. OK?

    °

    Một chiếc xe jeep chở Milan Paternik về nhà xác ở thành phố.

    Xem xét giấy tờ xong, người ta báo tin cho Popesco hay. Bộ chỉ huy Hoa Kỳ làm lễ mai táng cho Paternik vì hắn vẫn là công chức trong bộ chỉ huy. Aurel Popesco thì phải đi ngay, hắn tiếc là không thể ở lại dự lễ mai táng được, công việc hắn lúc nào cũng tính từng giờ một. Vé máy bay và các nơi hẹn đã định trước mất rồi, không thể vì một đám táng mà trễ nải được. Nhưng hắn cũng đứng tưởng niệm một lúc bên thi hài của Paternik. Đằng sau hắn, hình như đang có ai đứng đấy. Người lạ mặt chặn Popesco lại lúc hắn sắp bỏ đi và tự giới thiệu là người đại diện cho cộng đồng Do Thái ở Trieste. Người lạ mặt nói với Popesco :

    - Chúng tôi đã tiếp xúc với bộ chỉ huy Hoa Kỳ. Người quá cố sẽ được ăn táng theo nghi lễ trọng đại của người Do Thái chúng tôi.

    Hai người Do Thái nữa bước đến. Thế là có ba người đại diện muốn đưa xác chết về nghĩa trang của những người Do Thái. Aurel Popesco tái mặt lúc nghĩ đến tám trăm ngàn người Do Thái bị Paternik giết chết lúc hắn còn là giám đốc cảnh sát. Popesco muốn tránh chuyện trái cựa nầy.

    - Mẹ của ông bạn Paternik tôi là một người Do Thái, nhưng chính Paternik không có đạo Do Thái, tôi nghĩ thật là quá đáng nếu...

    - Nếu mẹ của ông ta là người Do Thái y theo giấy tờ chứng minh của ông ta, thì ông ta cũng là người Do Thái rồi. Chuyện ông ta không theo đạo Do Thái không có gì quan trọng. Biết bao nhiêu người Do Thái đã quên hết gốc Do Thái của chính mình. Bổn phận đồng đạo của chúng tôi là đưa linh hồn người chết về với danh dự đó dù họ không làm gì xứng đáng để được hưởng điều đó. Bổn phận của cộng đồng chúng tôi là thế, chúng tôi sẽ lo mọi việc cho Paternik.

    Aurel Popesco biệt là có nài nỉ cũng vô ích. Hắn không thể nào ngăn cản người Do Thái ở Trieste chôn Milan Paternik trong nghĩa trang của họ. Vì họ đã đọc trong giấy tờ của Paternik rằng mẹ của hắn ta là người Do Thái mất rồi, Aurel Popesco đành chấp nhận:

    - Vâng, các ông cứ mai táng bạn tôi theo nghi lễ Do Thái, trong nghĩa trang của các ông.

    Nói xong, Popesco bỏ đi mà không dám quay đầu nhìn lại. Sự kiện một kẻ giết Do Thái như Paternik bây giờ lại được người Do Thái theo sau hòm khóc lóc cho đến nghĩa trang làm cho Popesco kinh hãi. Hắn muốn trở lui và nói hết sự thật cho họ nghe. Bởi vì đa số người Do Thái ở Trieste là những người tị nạn từ xứ những người Slaves sang, là bà con của những người Do Thái bị Paternik giết chết. Bây giờ Paternik sẽ được chôn bên cạnh các nạn nhân hay bà con của nạn nhân của hắn, hắn sẽ vĩnh viễn là bạn đồng hành của chính những người hắn đã giết chết. Aurel Popesco nhớ lại trường hợp một văn sĩ người Pháp chống Do Thái sống ở nước Áo bằng một tên giả Do Thái để tránh tử hình, cũng được chôn ở nghĩa trang Do Thái như Milan Paternik. Vài tuần sau, biết được đích danh người chết không phải là Do Thái, người ta quẳng quan tài văn sĩ đó ra khỏi nghĩa trang. Có thể một đêm nào đó, quan tài Milan Paternik cũng bị quẳng ra khỏi nghĩa trang xứ Trieste.

    II
    Đến Palestine rồi mà Popesco vẫn còn bị ám ảnh bởi cái chết của Paternik. Hắn không thể nào tưởng tượng nổi là hiệp hội Do Thái ở Trieste lại mai táng cho Paternik đàng hoàng và người Do Thái lại theo sau quan tài mà khóc lóc.

    Popesco quan sát kỹ những kiến trúc theo kiểu Mỹ ở Palestine. Hắn muốn nhìn và ghi lại thật kỹ tất cả những gì có ở Palestine vì cuộc hành trình nầy là cuộc hành trình thu lượm tin tức. Hơn nữa, hẳn phải tiếp xúc với người Do Thái gốc Lỗ ma ni để còn bắt mạch thời đại xem sao. Lúc máy bay sắp hạ cánh xuống «Mảnh đất hứa hẹn», hắn thầm nghĩ: «Dân tộc Israel vẫn thường bị rủi ro». Từ ngàn xưa, dân Do Thái đã mơ ước làm bá chủ hoàn cầu. Họ đã hết sức cố gắng để thực hiện giấc mơ đó. Nhưng cứ đến lúc sắp thực hiện được đúng như lời tiên tri thì họ lại bị thất bại vì rủi ro, thế thôi. Họ đã bày ra chủ thuyết cộng sản để cùng chế ngự hoàn cầu. Họ đã làm cách mạng ở Nga và đã thành công, chỉ còn việc lan tràn để thực hiện mộng bá chủ mà thôi, nhưng đúng vào lúc họ thành lập được quốc gia cộng sản đầu tiên, họ liền bị đuổi khỏi xứ đó, mà trước hết là Trotzky. Rồi họ lại cố gắng dìu thế giới đến chỗ liên hiệp các quốc gia ở Genève, do Do Thái cầm đầu. Họ lại thất bại lần nữa. Cho đến thế chiến thứ hai, có đến sáu triệu người Do Thái bị thủ tiêu, nhưng họ vẫn thắng trận. Vì sau thế chiến, họ tạo được khu kỹ nghệ lớn nhất hoàn cầu để có thể chế ngự hoàn cầu, đó là kỹ nghệ nguyên tử ở Hiệp Chủng Quốc.

    Giám đốc khu kỹ nghệ đó là một người Do Thái gốc Trung Âu: David Lilienthal. Khi đã giết được nửa triệu người Nhật với một quả bom nguyên tử duy nhất, người Anh bèn nhốt họ vào những trại có kẽm gai bao quanh bên bờ Địa Trung Hải và Hồng Hải. Không thể nào giải thích nổi các vụ đó được nếu không nói là vì rủi ro. Sau cùng, người Do Thái lập quốc, nhưng muốn thế họ phải trở về quốc gia họ bằng các phương tiện bí mật, và người Anh đã biết được và tìm hết mọi cách để ngăn cản. Lúc người Anh rời Palestine để trả lại độc lập cho Do Thái, việc đầu tiên mà người Do Thái thực hiện trong quốc gia của họ là lập thành các trại tập trung, nghĩa là hễ có một người Do Thái nào đến Israel, lập tức người đó được đưa vào trong trại tập trung «Shaar Aiyyah» ngay. Tất cả biên thùy của họ đều có kẽm gai bao quanh. Bây giờ thì không còn người Thiên Chúa Giáo ở đó để mà hành hạ họ vì những lý do tôn giáo nữa, lại đến lúc họ hạnh hạ lẫn nhau vì một lý do tôn giáo».

    Vừa rời khỏi phi trường, Aurel Popesco gặp ngay Varlaam. Varlaam mừng rỡ:

    - Trời đưa anh đến đây để đưa tôi ra khỏi nơi nầy rồi đó.

    - Dạo này anh mập quá nhỉ? Kiếm taxi ở đâu đây anh?

    - Hôm nay thứ bảy, không có taxi. Thế nào tôi cũng ra khỏi đây. Nếu anh không đưa tôi rời khỏi Palestine, tôi sẽ không cho anh đi đâu hết. Vì nếu anh không làm được điều đó, không ai có thể giúp tôi được cả.

    Ngày hôm sau, Popesco dẫn Varlaam đến bộ nghi lễ, đó là một bộ có quyền hành nhất ở Do Thái; tất cả vấn đề trọng đại của quốc gia đều tùy thuộc quyết định của bộ nầy; nhờ tiếp xúc với bộ nầy, Popesco có dịp tìm hiểu phong tục và đời sống của tân quốc gia nầy. Tại đó, Popesco được tùy viên của bộ trưởng đón tiếp trong một căn phòng khá rộng. Varlaam tự giới thiệu:

    - Tôi là trung úy phi công David Ozias.

    Xong chàng đưa giấy tờ lên bàn, từ các nhật lệnh, huy chương đến các báo chí tuyên dương các chiến công oanh liệt của chàng trong trận đánh chống Ả Rập.

    Vị tùy viên lên tiếng:

    - Tôi rất hân hạnh được biết đến một vị anh hùng. Người anh hùng nào đã bảo vệ tổ quốc cũng được quyền hưởng mọi danh dự dành riêng cho họ. Tôi có thể giúp gì anh được?

    - Tôi xin Ông cấp cho một giấy xuất ngoại.

    - Ra khỏi đất Do Thái? Tại sao thế?

    - Tôi không hợp với Israel, ở đây có nhiều khác biệt quá. Ở quốc gia nầy, mọi sự đều được tổ chức trên căn bản tôn giáo. Tôi lại theo đạo khác, nên tôi cảm thấy mình đang sống bên lề xã hội.

    - Nhưng ai đã di cư sang Palestine phải ở lại đây trọn đời.

    - Mà tôi có di cư đâu. Tôi cũng không phải là người Do Thái nữa.

    - Anh là công dân của quốc gia Israel, lại là một công dân có tài nữa, giấy tờ chứng minh như thế rất đầy đủ.

    - Nhưng giấy tờ thực sự của tôi đã bị hủy. Vì điều kiện đầu tiên mà tôi tình nguyện nhập ngũ vào quân đội Do Thái là hủy các giấy tờ và khai một tên khác để đánh giặc.

    - Tôi rất tiếc, nhưng mà hình như tên của anh không chỉ có ý nghĩa một tên giả để đánh giặc mà thôi.

    - Chính vậy. Nào, nhìn kỹ tôi đi rồi hãy tin là tôi nói thật. Chúng mình đang ngồi ở bộ Nghi lễ, ngoài những luật lệ và nghi lễ của quốc gia, viên chức của bộ còn phải biết đến một thứ luật lệ to tát hơn, đó là luật lệ của Chúa, luật muôn đời. Tôi xin ông y theo luật đó mà cư xử công bình với tôi. Tôi chỉ là một người khốn khổ cần được ông giúp đỡ. Tôi không thể nào sống ở đất nầy được, thế nào tôi cũng phải đi. Tôi là một người và là một người khốn khổ. Trong kinh thánh của các ông, kinh Thora có nói: «Con người được tạo ra như một cá thể riêng biệt độc nhất, để người ta biết rằng ai đang tâm giết hại một đời sống thì sẽ bị trời phạt như là đã giết hại toàn thể thế giới loài người và ai cứu sống một đời sống, trời cũng sẽ xem như là đã cứu sống cả nhân loại».

    - Nhưng anh có phải là người Do Thái hay không?

    - Tôi không phải là người Do Thái, cha ông tôi không ai là người Do Thái cả.

    - Như vậy thì anh không thể nào xin xử y theo một thứ luật lệ mà anh đã trắng trợn xâm phạm. Điều thứ nhất của luật Thora bảo rằng: «Giết chết một linh hồn Do Thái, trời sẽ phạt... ai cứu rỗi một linh hồn Do Thái, trời sẽ thưởng». Anh đã thay thế chữ linh hồn Do Thái bằng «một đời sống». Đúng là anh đã vi phạm trắng trợn.

    III
    Aurel Popesco gặp Eddy Thall đang ở trong một căn nhà nghèo nàn bằng gạch chưa tô vôi, không điện, không nước. Trong phòng chỉ có một cái giường chất đầy Valises, cái nọ chồng lên cái kia, nghĩa là người ta thừa biết nàng không bao giờ dùng đến áo quần ở bên trong nữa. Ở mảnh đất hứa hẹn nầy, nàng không cần đến những thứ xa hoa đó nữa, chỉ một bộ quần áo là đủ. Eddy Thall nói:

    - Tôi đang làm việc trong trang trại tập thể nầy, bởi vì xứ tôi không cần đến những nghệ sĩ già. Hiện có biết bao nhiêu là nghệ sĩ trẻ đẹp tài ba. Israel cần gì đến những người già cả chứ! Lúc đầu, tôi cũng muốn làm giáo sư trình diễn. Nhưng người ta đã bắt tôi làm việc trong trại nầy, tôi chỉ muốn tự tử. Tuy nhiên hiện nay, tôi hoàn toàn sung sướng hơn cả lúc tôi hoạt động cho kịch nghệ nữa.

    Aurel Popesco biết là có thời Eddy Thall đã xin trở về Lỗ ma ni. Hắn muốn hỏi xem lại sự thật thế nào thì được Eddy Thall trả lời là: «Chỉ mấy tuần đầu lúc mới đặt chân lên Israel tôi hoàn toàn thất vọng nên mới có ý nghĩa như thế. Lúc đó, mọi sự hoàn toàn xa lạ, nghèo nàn và kham khổ đối với tôi quá, đến độ thần kinh tôi căng thẳng nên tôi đã xin tòa lãnh sự Lỗ ma ni ở Tel Aviv cấp cho giấy tờ trở về Lỗ ma ni. Người ta trả lời là tôi không thể trở về đó được nữa vì tôi đã bạc đãi vị nữ anh hùng Tinka Neva khi bà ta còn là kẻ giúp việc trong nhà tôi. Vả lại, họ có lý do để từ chối bởi vì tôi không bao giờ theo họ cả. Chuyện xin trở về đó chỉ là vào một lúc tuyệt vọng nhất thời mà thôi».

    Eddy Thall cười to. Nàng mập ra, chân hơi phù, nàng nói thêm trong lúc Popesco tò mò nhìn đôi chân sưng húp của nàng:

    - Hiện giờ tôi không còn ý nghĩ trở về Lỗ ma ni nữa. Mà tại sao lại phải từ giả xứ Do Thái nầy. À, chân tôi vì khí hậu nầy mà sưng lên đó. Khí hậu hơi khó chịu đối với tôi nhất là từ khi tôi bị đau ở Oural, nhưng tôi đã quen dần rồi. Nếu không có chuyện phù chân nầy thì tôi hoàn toàn hài lòng ở trên mảnh đất nầy.

    Eddy Thall ngồi ở trên Valises và đang nói đó là một Eddy Thall xa lạ, hoàn toàn không phải Eddy Thall của sa mạc, của miền núi Oural, của Varsovie hay của Stuttgart.

    Aurel Popesco gợi ý:

    - Tôi có cảm tưởng là các luật lệ tôn giáo làm cho đời sống ở đây nghẹt thở. Một quốc gia văn minh không thể nào bị các giáo sĩ điều khiển được. Một quốc gia đang có một hệ thống thủy lộ, một trung tâm điện lực, vô số thiết lộ và tàu bè không thể nào cho phép mọi công dân chắp tay trước ngực đọc kinh mỗi ngày thứ bảy như là luật lệ tôn giáo đòi hỏi được. Chỉ được như thế nếu dân tộc Do Thái hoàn toàn là một dân tộc giáo sĩ. Lúc mà họ đã trở thành công dân của một quốc gia văn minh, họ phải từ bỏ những tục lệ tôn giáo cũ kỹ không thể nào thích hợp với đời sống hiện đại được nữa.

    Eddy Thall phản đối ngay:

    - Không, hành đạo theo đúng từng câu kinh vô lý thật đó, nhưng mà đáng kính; lúc đầu, tôi cũng nghĩ là vô lý nếu người ta bảo rằng không được vắt sữa bò vào ngày thứ bảy vì tôn giáo cấm điều đó. Nhưng bây giờ tôi đã thấy điều đó hợp lý. Tai hại là tôn giáo không đủ sức để buộc người ta theo đúng mọi điểm khác.

    Vì tôn giáo đã cứu rỗi dân tộc Do Thái từ ngàn năm nay. Luật lệ của tôn giáo đó khó khăn thật, đó là luật lệ đầy đọa, nhưng lại rất ích lợi.

    - Nhưng bây giờ đã hết cảnh đày đọa đó rồi, tại sao lại áp đúng luật lệ lưu đày cho những kẻ đã có một tổ quốc.

    - Dân tộc Do Thái luôn luôn bị lưu đày dù đã có một tổ quốc. Chỉ chừng hai triệu người Do Thái trở về Palestine, nhưng con chừng mười triệu người còn lang thang. Làm sao ông có thể bảo là đã hết cảnh lưu đày? Chúng tôi sẽ thay đổi luật lệ quốc gia nầy lúc mà mười triệu người Do Thái đó không còn bị lưu đày đây đó nữa. Nhưng chưa phải là bây giờ, ông là kẻ ở ngoài, ông dễ dàng chỉ trích quá. Nhưng tôi là công dân ở đây tôi bảo là đời sống ở tổ quốc của tôi rất đẹp. Hoàn toàn đẹp và tôi đang sung sướng.

    Aurel Popesco muốn biết thử Eddy Thall có nói dối hay không, nhưng không có cách nào được cả. Eddy nói tiếp:

    - Như tất cả các nghệ sĩ khác, tôi phải ngâm thơ cho ông nghe, nhưng lần nầy không là thơ mà là một đoạn văn: «Không phải là một quốc gia phì nhiêu ngọt bùi mà Ngài đã mang chúng tôi đến, không phải là những cánh đồng bát ngát nho tươi mà Ngài ban cho chúng tôi...» Vâng, tôi biết rằng mảnh đất hứa hẹn nầy không phải là đất mà là đá sỏi. Người ta đã hứa với chúng tôi là sẽ có đất đai phì nhiêu, nhưng người ta chỉ đem lại cho tôi toàn là đá, tuy nhiên ở đây tôi đã sung sướng.

    - Như vậy cô đã hài lòng trong tổ quốc của cô?

    Eddy Thall chua chát:

    - Ông có biết tổ quốc của người đàn bà ở đâu không, thưa ông? Tổ quốc của người đàn bà là thời son trẻ, bởi vì chỉ vào thời đó người đàn bà mới thực sung sướng. Tôi đã mất tổ quốc nghĩa là mất thời vàng son từ lâu rồi và tôi sẽ không bao giờ tìm thấy lại được nữa. Người đàn ông hay cả một dân tộc có thể quay về với tổ quốc bởi vì đó là một cái gì cụ thể. Trong khi tổ quốc của người đàn bà là một lứa tuổi. Tôi vĩnh viễn mất thời son trẻ rồi, tôi đã là một người vô tổ quốc, một «heimatlos» rồi. Ích gì đi kiếm lại một vật không bao giờ thấy lại. Tôi sẽ ở lại đây và chết trong sự lưu đày, bởi vì tuổi già là một sự lưu đày đối với người đàn bà. Ông hiểu chứ? Mọi người đàn bà đều phải bị đày đọa lúc tuổi già đến. Lúc mà tuổi trẻ đã qua đi, thì chỉ còn vui với tuổi già đầy đọa, dù cho tôi ở đâu cũng được, Lỗ ma ni, Hoa Kỳ hay Sô Viết, nào có quan hệ gì bởi vì bây giờ quốc gia không có tên nữa mà chỉ là những cộng đồng nên dù ở đâu chăng nữa tôi cũng là một kẻ lưu đày, chỉ còn lại một ít niềm vui đọa đày, thứ niềm vui lúc đắng lúc chua, chưa bao giờ dịu ngọt nhưng dù sao cũng là niềm vui. Tôi bắt đầu thích súc vật, công việc đồng áng làm tôi dễ chịu. Tôi tự an ủi với lũ súc vật chung quanh. Ông biết bài thơ của Walt Wittman chứ:

    «Tôi nghĩ là tôi có thể thay đổi cuộc sống để trở về sống với súc vật.

    Chúng vừa hòa nhã vừa cương quyết

    Tôi đứng đó và nhìn chúng thật lâu

    Thân phận chúng không làm chúng than thở

    Chúng không trở dậy trong đêm khuya để ân hận về tội ác

    Hay chúng không mất công cãi vả về bổn phận với Chúa trời

    Không con nào bất mãn, không con nào điên rồ tìm quyền tư hữu

    Không con nào phản đối con nào, hay phản đối đồng loại sống trước chúng hàng ngàn năm

    Không con nào đáng kính mà cũng không con nào đau khổ trên thế gian nầy.»

    Aurel Popesco từ giã:

    - Tôi hy vọng là cô sẽ viết thư cho tôi. Nếu một ngày nào đó, cô nghĩ là tôi có thể giúp đỡ gì cô được thì cô hãy biên thư cho tôi.

    - Không, Eddy Thall trả lời, tại sao phải viết thư cho ông nhỉ? Tôi không viết thư cho ai nữa cả. Không bao giờ nữa cả.

    IV
    Cũng giống như Sô Viết đã tạo ra huyền thoại người hùng Tinka Neva, người Mỹ cũng muốn biến Anatole Barsov thành một người hùng vì không chịu sự hành hạ của chế độ Sô Viết nên đã lái máy bay sang tị nạn ở Hoa Kỳ. Chỉ khác là Anatole Barsov không muốn thành anh hùng, hay là có muốn chăng nữa anh ta cũng không thể làm được.

    Barsov ở Mỹ được một năm, và mỗi ngày một thấy khó chịu. Hắn đến tìm Igor Poltarev. Tuy là bạn, cả hai không ở chung và ít khi đi chơi chung. Công việc của Poltarev phát đạt nên Poltarev đã giàu có, nhờ hắn viết lách cho báo chí nhiều. Barsov làm công cho một hãng đồ hộp nhưng sau đó bị đuổi. Lại thất nghiệp, lại ốm o thiểu não. Gặp Poltarev, Barsov bảo:

    - Tao muốn trở về nước, tao gặp mầy để tỏ ý định đó.

    Poltarev phải dằn lòng lắm mới không nắm vai Barsov tống ra ngoài đường. Barsov năn nỉ:

    - Tao xin mầy cho mượn thêm một ít tiền nữa, tao không có nhà ở đã hai ngày rồi bây giờ nhọc quá sức.

    - Mày bảo là mầy muốn về Nga Sô. Staline sẽ cho mầy tiền, tại sao mầy lại kiếm tao làm gì?

    Poltarev nắm vai Barsov đuổi ra ngoài:

    - Nếu mầy không về với Staline của mầy thì tao báo trước là tao sẽ nhờ người Mỹ tống mầy về, đồ thứ phản bội hai mặt.

    Barsov đành trở ra đường, đến lại hãng làm việc cũ, vì ở đó hắn có quen một người Mỹ cộng sản đã nhiều lần khuyên hắn nên trở về với Nga Sô. Người Mỹ tên là Ballin, Barsov hỏi:

    - Tôi muốn trở về nước, làm sao đây?

    - Anh yên tâm, lát nữa hết giờ làm việc tôi sẽ dẫn anh đến tòa lãnh sự Sô Viết. Họ sẽ cấp giấy tờ cho anh đi là xong chứ gì.

    Chiều lại Barsov theo Ballin đến tòa lãnh sự nạp đơn xin hồi hương, xong xuôi, Ballin bảo:

    - Mai anh đợi tôi trước hãng, chúng ta đến tòa lại một lần nữa sẽ có giấy tờ ngay.

    Barsov than hết tiền và không có chỗ ngủ, Ballin cho tiền ngay dù không nhiều lắm. Barsov lại vào quán nước. Hắn hơi mệt và muốn uống một ít bia. Hai người còn trẻ đến ngồi bên cạnh hắn. Hắn có cảm tưởng là đang bị theo dõi, nên uống thật nhanh và ra ngoài.

    Hắn không có tiền để thuê khách sạn nhưng hắn biết một chỗ người ta cho thuê ghế ngủ từng giờ một. Barsov thuê hai giờ liền. Theo thói quen, hắn trả tiền trước và đứa bé con sửa soạn ghế ngủ cho hắn. Nhiều người thuê ghế ngủ như thế nhưng hơi đắt. Barsov ngủ ngay và ngủ rất mê đến nỗi không biết giờ đã hết nên bị thằng bé cho thuê ghế đá một đá nên thân.

    Barsov lại đi vào một quán rượu vì hắn nghĩ là chỉ cần qua đêm nay thôi, ngày mai hắn đến tòa lãnh sự và có thể chấm dứt cuộc sống lang thang nầy.

    Trong quán rượu, Barsov lại gặp hai thanh niên hồi nãy. Chẳng nói chẳng rằng một trong hai người đấm một cú vào sườn Barsov làm Barsov thối lui và hắn tiếp tục đấm Barsov cho đến khi Barsov ngã quỵ. Hỗn loạn trong quán rượu, ly tách bể loảng xoảng. Barsov không muốn lôi thôi, hắn định đứng dậy chạy đi nơi khác nhưng lại bị đánh thêm. Barsov ngạc nhiên:

    - Các ông muốn gì tôi? Nào tôi có làm gì đâu?

    Nhưng hắn vẫn tiếp tục bị đá cho đến lúc cảnh sát đến. Mọi người trong quán rượu đều bị bắt. Barsov không hiểu tại sao lại xảy ra chuyện như thế, mình mẩy hắn đầy máu, áo quần rách tơi tả. Người ta giam hắn trong một xà lim riêng biệt. Mệt quá, hắn ngủ thiếp đi. Trong thâm tâm, hắn không sợ bị bắt, nhưng sợ lỗi hẹn với Ballin ngày mai.

    Ngày hôm sau, Barsov được gọi lên thẩm vấn. Bốn cảnh sát hỏi han đủ thứ và hắn trả lời rất thành thật.

    - Anh làm gì suốt ngày hôm qua?

    - Tôi đến nhà người bạn đã cùng tôi trốn khỏi Nga Sô, người bạn tên là Poltarev.

    Cảnh binh nhìn nhau cười đắc thắng, biết là Anatole Barsov đã không nói dối tí nào.

    - Anh đã nói gì với người bạn anh?

    - Tôi nói với hắn là tôi muốn trở về Nga Sô (Barsov nói ngô nghê như con nít). Igor đã đánh và đuổi tôi ra đường.

    - Và sau đó anh làm gì?

    - Giận quá tôi trở về hãng làm việc. Tôi xin việc làm nhưng bị từ chối. Tôi cầu cứu người bạn cùng phòng với tôi hồi trước tên là Ballin, nói thật với anh ta là tôi muốn trở về nước, bởi vì anh ta đã nhiều lần khuyên tôi nên làm thế. Ngoài ra tôi không nói thêm gì khác nữa. Chúng tôi cùng đến tòa lãnh sự Sô Viết, tôi đã đệ đơn xin hồi hương; mượn tiền Ballin, ngủ hai giờ trong quán cà phê, vì không đủ tiền để thuê phòng ngủ, nên tôi chỉ thuê một ghế hai tiếng đồng hồ thôi.

    Một cảnh sát viên hỏi:

    - Anh thuê một chỗ ngủ hả?

    Đồng bạn anh ta giải thích cho anh ta biết là ở Nữu Ước có những chỗ mà người nghèo không đủ tiền thuê phòng, chỉ thuê ghế ngủ từng giờ trong quán cà phê.

    Barsov khai tiếp:

    - Sau hai giờ ngủ, tôi lại lang thang ngoài đường phố và sau đó vào một quán rượu. Hai người lạ lấn tôi và đánh tôi cho đến lúc cảnh sát đến. Người ta mang tôi lại đây, câu chuyện chỉ có thế thôi.

    Cảnh sát bực quá. Tất cả những gì Barsov kể lại đều thật cả, đều phù hợp với bản tường trình của nhân viên đã theo dõi Barsov ở sứ quán Nga ra về, phù hợp với lời khai cả Poltarev và của nhân viên có phận sự ngụy tạo sự hỗn loạn ở quán rượu để bắt Barsov. Nghĩa là Barsov không hề dấu giếm một điều gì cả.

    Một cảnh binh hỏi:

    - Ông muốn trở về Nga thật không?

    - Vâng, tôi muốn trở về Nga lắm.

    Một viên chức mang đến một tờ giấy và một cuốn sổ tay. Anatole Barsov nhận ra cuốn sổ tay của hắn ghi các công việc hàng ngày, cuốn sổ tay đó cũng như tất cả đồ đạc của hắn đã phải để lại khách sạn vì không đủ tiền trả tiền phòng. Trên mảnh giấy đã có một bản dịch ra tiếng Anh tất cả những gì Barsov viết trong cuốn sách đó.

    Cảnh sát đọc và có vẻ bất bình:

    - Từ hồi nào anh có ý định trở về nước?

    - Lâu lắm rồi, ngay từ những ngày đầu tiên tôi bước chân lên đất Hoa Kỳ. Nhưng tôi không có can đảm để thực hiện đó thôi. Bây giờ tôi không chịu được nữa, tôi phải về.

    - Anh có biết là nếu anh trở về nước, Staline sẽ giết anh ngay không?

    - Vâng, tôi biết, giết vì phản bội. Tại nước tôi, phản bội sẽ bị án tử hình.

    - Và anh muốn trở về để bị xử tử?

    - Tôi hy vọng là tội của tôi chỉ bị kết án khổ sai mà thôi, mười hay hai mươi năm. Điều tôi đã làm có tội nặng lắm, nhưng khi đã đền tội như thế rồi, tôi sẽ trở về hàng ngũ của những người công dân lương thiện.

    - Tại sao anh trốn khỏi Nga Sô trong khi anh chấp nhận chế độ đó?

    Barsov ngần ngừ, kỷ niệm ra đi làm hắn bực bội:

    - Trả lời đi chứ. Tại sao anh bỏ Nga Sô ra đi?

    - Đó là câu hỏi mà tôi tự đặt ra cho mình từ lúc tôi đặt chân đến đây. Tôi đã điên đầu vì tôi không hiểu rõ tại sao như thế.

    Cảnh sát đọc lại nhật ký của Barsov. «Mỗi đêm mình điên đầu lên để tìm hiểu những nguyên nhân chính đáng của cuộc trốn thoát. Càng nghĩ mình càng thấy những lý do ra đi như sau: 1) Không hài lòng bà vợ. 2) Bất bình với cấp chỉ huy không đoàn. 3) Nhiều nợ nần quá không trả được. 4) Ảnh hưởng của Igor Poltarev. Và mình tưởng là mình có óc phiêu lưu. Hình như đó là những lý do đã làm cho mình phản bội tổ quốc.»

    - Về phương diện chính trị, anh có đồng ý với chế độ Sô Viết không?

    - Tôi chưa bao giờ tự hỏi là chế độ Sô Viết tốt hay xấu. Thế mà lúc tôi đến đây mọi người đều hỏi tôi câu đó. Tôi nghĩ là chế độ Sô Viết cũng như bao nhiêu chế độ khác vừa tốt vừa xấu.

    Thế anh không bao giờ bị khủng bố hay là cảm thấy khó chịu vì ách độc tài?

    - Tôi không thấy khó chịu về sự độc tài nào cả trong xứ sở của tôi.

    Barsov nhìn đôi mắt viên thông ngôn, hắn cố hiểu và không bỏ qua một chữ nào, vì hắn muốn trả lời thành thật và thẳng thắn. Hắn không cần dấu điều gì cả.

    - Chế độ dân chủ của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ không làm anh hài lòng?

    Barsov ngần ngừ:

    - Trả lời đi chứ. Anh không thấy dễ thở dưới một chế độ tự do dân chủ hay sao?

    Hoa Kỳ là một quốc gia dân chủ nhất thế giới, thứ dân chủ hoàn thiện nhất. Thế mà anh không thấy dễ chịu với chế độ hay sao?

    Barsov nắm chặt tay, cảnh sát dục:

    - Trả lời đi. Anh có hài lòng hay không đối với chế độ tự do?

    - Không. Tôi không cảm thấy dễ chịu dưới chế độ dân chủ.

    - Thế anh thích chế độ Sô Viết hơn.

    - Vâng. Tôi thích hơn.

    Bốn người cảnh sát nhìn nhau, cùng có chung một ý nghĩ: Anatole Barsov đang bị thất vọng và cần phải vào bệnh viện thần kinh để điều trị trong trường hợp Barsov nói thật. Vì nếu đã bị khủng bố dưới chế độ Sô Viết, thế nào Barsov cũng bị khủng hoảng thần kinh.

    Họ hỏi tiếp:

    - Anh đã nghĩ kỹ trước khi trả lời chưa hay đó chỉ là một quyết định chốc lát vì khổ sở, đói khát và mệt mỏi?

    - Không, tôi suy nghĩ kỹ lắm rồi. Ngay từ đầu, tôi biết là tôi phạm một lỗi lầm. Đúng là tôi đã bị mệt mỏi, đói khát, tuyệt vọng nhưng những gì tôi đã nói đều đã được suy nghĩ chín chắn. Tôi thích chế độ của tổ quốc tôi, và tôi không thể sống ở Hoa Kỳ.

    Cảnh sát cười. Barsov tưởng là họ chế nhạo hắn vì cho là hắn nói dối.

    - Anh không thích Hoa Kỳ là vì ở đây không có trại tập trung? Vì thế mà anh chán chúng tôi ư? Vì ở Sô Viết có trại tập trung mà anh thích trở về?

    - Không, không phải vì thế. Ngay cả nếu tôi có hàng triệu bạc, tôi cũng không thể nào sống ở Hoa Kỳ được.

    - Anh là người độc nhất trên vũ trụ nầy nói thế.

    - Không, tất cả bạn bè tôi đều nghĩ và hành động như tôi nếu họ ở vào hoàn cảnh của tôi.

    - Anh muốn tuyên truyền cho cộng sản.

    - Không, tôi mong các ông tha cho.

    - Chúng tôi sẽ tha cho anh nếu anh thú nhận tại sao anh không thích sống ở Hoa Kỳ và tại sao anh thích Sô Viết hơn Hoa Kỳ, vì thế nào anh cũng có một lý thuyết hay ho chứ.

    - Tôi không có lý thuyết gì cả. Tôi không biết làm chính trị hay làm lý thuyết gia. Tôi biết và thấy rõ là ở Hoa Kỳ con người ăn sung mặc sướng, lương tiền cao hơn, xe cộ đẹp hơn, nhưng tôi không thích, tôi khoái Sô Viết hơn.

    - Nhưng anh vẫn chưa nói tại sao anh thích Sô Viết, trong lúc mà ở bên đó người ta sống chật vật hơn, làm việc nhiều mà kiếm tiền ít.

    - Ở nước chúng tôi, con người không cô đơn. Ở đây, tôi cô đơn như ở giữa một bầy chó sói. Ở Nga, mọi người đều có việc làm. Ở đây, không ai giúp đỡ ai cả. Ở Nga Sô, có trật tự xã hội và tình đồng đội. Tôi sẽ đem ví dụ cha tôi cho các ông nghe. Cha tôi làm nghề đánh cá. Một hôm sau một trận bão ở biển Đen, ghe cha tôi chìm và dụng cụ mất hết. Ba ngày sau cha tôi được chính phủ cấp cho một chiếc ghe khác với đầy đủ dụng cụ cần thiết. Thế là cha tôi tiếp tục làm ăn. Ở Hoa Kỳ, nếu ghe cha tôi bị chìm, cha tôi sẽ chết đói. Ví như tôi đây, nếu ở Nga Sô, tôi đã có việc làm từ lâu. Chính Phủ sẽ cấp cho tôi việc làm ngay. Ở đây, tôi lang thang như một con chó và chẳng ai thèm đếm xỉa đến tôi cả.

    - Nhưng mà anh được tự do đi lang thang.

    - Không, tôi không muốn tự do lang thang. Các ông muốn tôi làm gì với thứ tự do đó cơ chứ?

    - Chế độ dân chủ đem lại tự do cho mỗi người. Thứ tự do lợi hay hại là tùy ở chính cá nhân mỗi người xử dụng nó. Bởi vì với tự do đó, người nầy trở thành tổng thống, người kia trở thành kẻ sát nhân. Với thứ tự do đó ông bạn Poltarev của anh đã viết sách viết báo, cũng với thứ tự do đó anh muốn trở về Nga Sô để bị đày đi Sibérie hay trong một hầm mỏ trọn đời. Nhờ tự do, mỗi người làm những gì mình thích. Đó là thứ công bình xã hội to tát nhất trên trái đất: Nghĩa là mỗi người được tự do để chọn điều gì hợp ý, điều gì mà họ cho là đáng yêu nhất. Và chính vì lý do đó mà chúng tôi tôn trọng quan điểm của anh: Bỏ đi để bị tù chung thân hay bị tử hình. Anh có thể dùng tự do đó để làm việc gì khác hơn là tự ý vào tù. Anh có thể trở thành phi công hay kỹ sư, giám đốc ngân hàng hay là quân nhân. Anh đã được tự do và anh đã chọn lựa sự tù tội. Chúng tôi để cho anh đi. Nhưng bổn phận của chúng tôi trước hết là gởi anh đến một nhà phân tâm học để xem anh có bình thường không. Nếu anh bị bệnh, chúng tôi sẽ săn sóc anh. Chúng tôi sẽ để anh quyết định sau khi đã điều trị bệnh tình cho anh xong.

    Barsov hơi xiêu lòng. Điều mà người ta vừa nói có vẻ hợp lý đối với hắn. Người cảnh sát hỏi thêm :

    - Bây giờ anh có cần thêm gì vào lời khai ban đầu không?

    - Tôi không thêm gì nữa cả. Tôi lập lại là tôi trốn khỏi Nga Sô không phải vì những lý do chính trị, mà toàn là vì những lý do cá nhân. Nhất là vì tôi không đồng ý với vợ tôi. Cho nên nếu tôi trở về Nga Sô lại thì cũng chỉ vì những lý do cá nhân chứ không phải vì những lý do chính trị. Tôi phải về vì tôi nhớ quê hương. Tha thiết muốn thấy lại tổ quốc của tôi. Đó là lý do thật sự. Với lại, tôi không thể sống chung với những người xa lạ, tôi muốn ở tù nhưng ở tù chung với đồng bào tôi, các ông hiểu chưa?

    - Dù sao lúc nầy anh cũng phải ở lại đây đã, để chúng tôi bổ túc biên bản.

  9. #18
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CUỐN SÁCH CỦA SỰ LÙI VÀO BÓNG ĐÊM
    Bác sĩ Ante Petrovici là người sung sướng nhất trong số những kẻ phải di cư khỏi Âu Châu. Trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, ông ta đã trở thành một nhân vật nổi danh của xứ Á Căn Đình nhờ làm giám đốc hãng chế tạo đồng hồ khổng lồ ở Châu Mỹ La Tinh.

    Trong mọi nhà ở Á Căn Đình đều có đồng hồ báo thức, đồng hồ treo, đồng hồ đeo tay do hãng ông ta chế tạo, nên Ante Petrovici rất giàu và đương nhiên trở thành một công dân Á Căn Đình từ lâu. Bạn bè ông ta thúc đẩy ông ta vào chính trị.

    Một hôm, như thường lệ ông ta đến thăm khu kỹ nghệ đồng hồ khổng lồ và tối tân chỉ vừa mới hoàn thành trong mấy tháng nay. Ông ta đi khắp các văn phòng, các cơ xưởng, các cơ sở báo chí. Petrovici ăn mặc rất chỉnh tề, thợ thuyền vui vẻ thăm hỏi ông ta. Sự thành công trong đời ông ta thật là hiếm hoi, ông ta bắt đầu làm việc với hai bàn tay trắng và chỉ trong vài năm ông ta đã trở thành chủ nhân của một xí nghiệp vĩ đại. Vào phòng, ông ta đọc cho thư ký viết những bức thư cấp tốc, xong bước ra đường. Tài xế lái xe đến khu biệt thự của thành phố Buenos Aires và đứng trước cổng nhà có để giòng chữ: Bệnh viện tư chuyên trị các bệnh thần kinh của bác sĩ Brünn. Tài xế lái xe trở về hãng, Bác sĩ Petrovici cảm động bước vào bệnh viện một mình.

    Bác sĩ Rudolf Brünn giám đốc bệnh viện là một người Thụy Sĩ và là bạn thân của Ante Petrovici, Brünn cùng trạc tuổi với Petrovici nhưng dáng dấp to lớn, thuộc dòng Thụy Sĩ ham công việc, theo đạo Tin Lành biết tiết kiệm, thích thơ văn và rất ngoan đạo. Petrovici ngồi một mình trong phòng khách với bác sĩ Brünn. Petrovici lo ngại :

    - Tôi đã tìm cách để hành lý của tôi đi được vào chuyến sáng nay. Sự việc đã hết sức rõ ràng, hôm qua tôi đã nói chuyện với ông giám đốc sở cảnh sát và được biết là kể từ hôm nay, không biết lúc nào sẽ có trát đòi tôi. Những lý đó buộc tội là : Khai man trước ủy ban di cư và nhập tịch, khai man trước bộ thương mãi và kỹ nghệ, khai man trước bộ nội vụ. Biên bản đã lập xong, người ta đang chờ để bắt tôi, bỏ tù và tống khứ tôi ra khỏi xứ nầy.

    - Đừng nói quá ra chứ, người ta không thể kết tội anh vì các lời khai man đó được, dù anh thật sự có giả mạo các ngày tháng để có thể di cư. Đó chỉ là một sự giả mạo trong lúc quá tuyệt vọng chứ không có ý xấu nào cả. Từ khi mới đến đây, anh đã có thể hòa mình vào xã hội này và đã trở thành một nhân vật tăm tiếng. Quốc gia nào cũng cần người như anh. Trường hợp anh sẽ được đưa ra trước Nghị viện. Hôm qua, tổng thống cũng đã có bảo đảm là việc này thế nào cũng được xếp lại, giấy tờ của anh sẽ được điều chỉnh và anh lại giữ vững địa vị của mình trong xã hội này, lo gì.

    - Nhưng trong lúc chờ đợi, tôi sẽ bị bắt, tôi không thể chịu đựng nổi cảnh tù tội nữa, điên lên mất thôi.

    - Không, anh không bị bắt đâu. Trong lúc này anh cứ ở lại đây trong nhà thương của tôi cho đến lúc chính phủ tha cho anh. Không ai được bắt anh trong nhà thương. Trong kinh cựu ước có ghi rằng Moise đã đòi hỏi con người phải lập nên những thành phố tị nạn trong quốc gia họ để cho những người bị theo dõi một cách bất công đến trú ẩn. Trái với thời đại kinh thánh, xã hội hiện đại không còn nghĩ gì đến con người nữa. Ngày nay những người vô tội bị luật lệ hành hạ như là lũ chó sói chuyên ăn thịt người. Những nơi con người có thể được che chở chống lại luật lệ là những cơ sở như bệnh viện của tôi đây. Anh sẽ được tiếp đãi tử tế ở đây, yên chí đi nghe ông bạn...

    Ante Petrovici nhìn chiếc đồng hồ treo trên tường, đúng là đồng hồ do ông ta chế tạo. Nhìn vào gương, trông thấy mình đã già, đôi mắt đã mờ. Ông ta buồn bã nói:

    - Nào tôi có ngờ là một ngày nào đó tôi phải ẩn thân trong một nhà thương điên. Công việc anh làm đối với tôi thật là quái gở, anh là chủ nhân một nhà đầy nhóc lũ điên. Bệnh viện anh là một ngôi mộ của những bóng ma trên dương thế. Thế mà tôi không đến ở đây thì người ta sẽ bắt tôi. Người ta bắt tôi ở bất cứ nơi nào, ở nhà, ở xưởng, ở ngoài đường phố, và tôi phải đến đây. Sung sướng thay, trong vũ trụ còn có những nơi như thế nầy mà cảnh sát không xâm nhập được. Tôi đồng ý với anh là chỉ có một nơi có thể chống lại luật pháp ngày nay, là nhà thương điên. Ở đây luật lệ bất lực, người điên là người tự do, là một người không bị luật lệ đay nghiến hành hạ. Đó là lối thoát sau cùng cho con người muốn thoát khỏi luật pháp.

    Rudolf Brünn thấy bạn có vẻ bị sốt và yêu cầu Petrovici đi nằm nghỉ. Nhưng Ante Petrovici không chịu:

    - Anh nghĩ với bao nhiêu là thử thách phiêu lưu trong đời, đương nhiên là tôi phải run sợ chứ, cần gì phải đau ốm mới run. Cũng không cần bị cao nhiệt mắt mới đỏ ngầu. Để trốn thoát khỏi Âu châu mà tôi đã bị chết dần chết mòn ở đó, tôi phải làm giả mạo giấy tờ, phải giấu kỹ là chân phải tôi ngắn hơn vài ly mét, là tôi nhiều tuổi hơn lời khai, là tôi cao 1m57 thay vì 1m60, là tôi không có đạo Thiên Chúa, và các điều đó có làm hại ai đâu, nhất là không làm hại cho tổ quốc mới của tôi.

    Những thiếu sót mà vì đó tôi không được di cư chăng nữa nào có cấm tôi tạo nên xưởng kỹ nghệ đồng hồ nầy, đem lại việc làm cho hàng ngàn người ở đây, tạo nên một thứ kỹ nghệ mới, kiếm được tiền và vinh quang.

    Những sự kiện trên đã chứng tỏ là tôi có thể là một thành phần có ích cho xã hội ngay cả với lòng bàn chân bất thường của tôi. Nhưng luật lệ lại muốn đi ngược lại với sự thật đó, xua đuổi tôi cho dù luật lệ đó đã hoàn toàn trái với thực tế. Tại sao lại không cho phép tôi di cư chỉ vì tôi thiếu cái lõm nơi lòng bàn chân? Bằng cớ là một người thiếu lòng bàn chân như tôi vẫn tạo dựng nên một cái gì cho xã hội rồi đó. Một người hư răng cũng có thể có ích cho xã hội chứ, và tôi đã làm việc có ích, tại sao luật lệ lại theo đuổi tôi như thế. Chỉ vì nó là luật lệ ư? Không thể được. Lý do đó chưa đủ.

    Hai người bước ra vườn. Petrovici lại nói thêm:

    - Nếu anh hiểu được là tôi đã khổ sở đến mức nào từ lúc tôi đặt chân đến Á Căn Đình. Nếu gặp cảnh sát ngoài phố, tôi phải dừng lại để hắn ta đừng thấy tôi đi cà nhắc. Nếu tôi vào văn phòng hay đến nơi công cộng tôi phải ngồi xuống ngay, vì sợ đứng lâu người ta sẽ thấy tôi thấp hơn là chiều cao trong giấy tờ đến ba phân mét. Với những người đàn bà tôi yêu thích, tôi đều nghi ngờ là họ có thể tố cáo tôi là một người có đạo Hồi giáo, cho nên tôi phải xa lánh tất cả đàn bà. Tôi muốn đến trước Tổng thống và thú nhận tất cả để xin ông ta tha cho tất cả những tội giả mạo của tôi trước khi di cư. Tôi đã không đủ can đảm, bây giờ thì muộn quá mất rồi. Tôi đành phải ẩn thân chung với người điên hay là bị tù và bị xua đuổi. Hoặc thế nầy hoặc thế kia, tôi mệt quá rồi, tôi không còn phấn đấu được nữa.

    Bác sĩ Rudolf cầm cánh tay Petrovici:

    - Thế nào chúng ta cũng có lối thoát. Á Căn Đình là một quốc gia trong đó con người còn có lòng nhân đạo. Anh lại quen biết nhiều và được trọng vọng, mọi việc rồi sẽ ổn thỏa, chỉ là vấn đề thời gian, vài ngày hay vài tuần là cùng chứ gì.

    Một người đàn bà lịch sự với dáng điệu e dè đến gần hai người :

    - Thưa bác sĩ tôi cần báo tin gấp cho bác sĩ biết (móng tay bà ta ấn mạnh vào lòng bàn tay). Bác sĩ có chịu khó nghe tôi nói một lát không, gấp lắm, vâng, rất gấp.

    Rudolf muốn lánh xa, ông ta giải thích cho Petrovici:

    - Đó là một thân chủ của tôi, tên là O’hara, vợ của một đại kỹ nghệ gia người Anh.

    Bà ta nói với Petrovici :

    - Tôi xin lỗi được nói chuyện với ông dù chưa được hân hạnh quen ông. Nhưng có nhiều việc vô lý và trầm trọng đến độ tôi phải nói.

    Ông có biết họ muốn làm gì không? Ồ, không tưởng được. Chiều nay họ muốn đốt tôi. Đêm nay họ sẽ thiêu sống tôi.

    Các móng tay nhọn đỏ của bà O’hara lại như đang ấn sâu vào lòng bàn tay:

    - Tôi không biết làm gì hơn nữa trước cái ý định thiêu sống một người đàn bà trong thế kỷ nầy, giữa thời đại văn minh Thiên Chúa giáo. Không tưởng được, kết án đề thiêu sống một người đàn bà. Và tôi không hiểu được tại sao, vì lý do nào họ lại kết án tôi, tôi cũng không biết ai đã kết án tôi. Tôi không biết nhân danh luật lệ gì và do đâu mà người ta kết án tôi. Đêm nay họ sẽ đốt tôi.

    Rudolf bực dọc :

    - Thưa bà có thật thế đâu.

    - Không, bác sĩ nói thế để an ủi tôi thôi. Tôi biết là chuyện rất vô lý, nhưng là chuyện có thật, người ta sắp thiêu sống tôi.

    Rudolf giới thiệu :

    - Đây là bác sĩ Petrovici, bạn thân của tôi và đang bị bệnh. Tôi sẽ để ông ta nằm cạnh phòng bà.

    O’Hara nói ngay :

    - Ông nằm cạnh phòng tôi hả? Nếu thế ông sẽ là một chứng nhân. Ông sẽ thấy là chiều nay họ đến đây đốt tôi. Đó là một hành vi dễ sợ quỉ quái và không tưởng được trong thế kỷ văn minh của chúng ta. Họ sẽ đốt tôi dù tôi không làm gì nên tội cả, hoàn toàn tôi không có tội gì cả. Và ức nhất là tôi không biết ai đã kết án tôi. Nếu ông ở cạnh tôi, càng hay, ông sẽ là chứng nhân.

    Nói xong O’Hara bỏ đi. Rudolf giải thích :

    - Bà ta bị bom ở Luân Đôn. Trong thời chiến, bà ta đã chịu đựng giỏi lắm. Nhưng khi đến Á Căn Đình bà ta ngã bệnh trong lúc chồng bà đang làm chủ một hãng xe hơi lớn. Người ta mang bà lại đây và bà cứ đinh ninh là sắp bị thiêu sống. Ngày ngày bà ta thức dậy lúc năm giờ sáng vì bị dày vò bởi ý nghĩ rùng rợn đó.

    Cuộc gặp gỡ nầy làm cho Petrovici xúc động sâu xa. Ông ta quên là mình đến đây để trốn chính phủ, quên mất chuyện riêng để nghĩ đến câu nói của bà O’Hara : «Tại sao họ lại bắt tôi để thiêu sống?».

    Lidia vợ của Petrovici cũng bị kết án và thiêu sống. Nhưng Lidia thị thực sự bị thiêu sống rồi: «Tại sao họ lại kết án Lidia như thế. Ai kết án và nhân danh ai? Ai thiêu sống Lidia? Dù sao thì Lidia cũng đã bị đốt cháy giữa thế kỷ được gọi là văn minh nầy. Sáu triệu người Do Thái cũng bị đốt cháy. Vài triệu người Đức cũng bị cháy thành than trong các đô thị bị Hoa Kỳ dội bom, cũng như vài triệu người Ba Lan, Nhật Bản. Nhưng tại sao họ lại bị chết cháy?

    Ai đã kết án họ, với mục đích gì? Hiện giờ, cũng đang có vài trăm triệu người đang tị nạn trên khắp thế giới, đang bị đốt chết dần dần như Pierre Pillat, Marie, Eddy Thall, Varlaam, Kostaky... »

    Ante Petrovici tiếp tục nói:

    - Bác sĩ có nhớ đến chuyện Candide không? Xã hội Coïmbre thời xưa đã quyết định thỉnh thoảng thiêu sống một người để tránh nạn động đất. Ngày nay hàng triệu người bị đốt cháy để cho các chính phủ giữ được liên hệ tốt đẹp với nhau. Vài trăm thân binh Nga bị Mỹ đốt cháy để giữ hòa khí giữa Tổng thống Hiệp Chủng Quốc và Staline, điều này tôi đã tận mắt chứng kiến. Một nửa Âu Châu với thị thành, làng mạc, nhân mạng, súc vật đã bị bán đứng cho Nga Sô thiêu hủy để người Anh có được mức sống cao hơn và người Mỹ có thể bán Côca Côla ở Nga Sô. Nhưng một nửa Âu Châu đã bị hy sinh vô ích. Người Mỹ đã không thể bán Côca Côla cho Nga Sô và người Anh cũng chả được ăn ngon hơn dù họ đã bán cho Nga Sô người Ba Lan, Hung Gia Lợi, Lỗ Ma Ni, Bulgarie, Esthonie, Lettonie, Lithuanie, Phổ, Đức, Albanie. Và với quyền gì Tây phương đã bán hàng triệu người của các quốc gia đó cho Sô Viết? Với quyền gì người Anh đã bán người Lithuanie cho Nga Sô? Tất cả chỉ vì những lý do chính trị. Chính trị là tiếng hát của con thiên nga biểu tượng một nền văn minh.

    - Anh bình tĩnh một chút chứ. Những lời nói của bà O’Hara đã làm anh quá xúc động. Trường hợp đó cũng đáng chú ý thật đấy, nhưng anh phải dung hòa một tí chứ. Đừng xem mọi việc quá đen tối, vô ích.

    - Bà O’Hara có lý khi bà ta biết là mối nguy hiểm lớn lao đang đe dọa nhân loại hiện nay là việc con người bị thiêu sống. Bà O’Hara sẽ không bị thiêu sống nhưng bà ta biết mối nguy hiểm đang lơ lửng trong không khí của các quốc gia trên toàn cầu. Tướng Grisha Costak không biết trước ông ta sắp bị người Mỹ thiêu sống, thế mà ông vẫn bị đốt. Cho nên cái sợ của bà O’Hara hợp lý lắm chứ.

    Bác sĩ Rudolf, kéo tay Petrovici: «Chúng ta đi thôi».

    Cả hai bước lên thượng tầng căn nhà. Petrovici vẫn nói:

    - Đã từ lâu tôi biết tôi sẽ bị đốt cháy, dần dần, vì chân phải tôi ngắn hơn vài phân mét. Bây giờ dám cháy đã xảy ra rồi đấy, người ta đòi bắt tôi vì tôi thiếu vài ly mét ở chân phải, và để trốn thoát, tôi phải ẩn trong nhà chứa người điên. Tất cả điều đó chỉ vì chân phải tôi không có lòng bàn chân.

    Petrovici ngồi một mình. Cầm tờ báo, ông ta đọc bài nói về chiến tranh người Mỹ ở Triều Tiên. Tướng Arthur đã thắng cộng sản nhiều trận mới. Trong cột bên cạnh, có tên chủ tịch Hội Đồng An Ninh Liên Hiệp Quốc, nghĩa là người chủ mưu trong cuộc chiến tranh chống Cộng, lại là người cộng sản tên là Malik.

    Vậy thì, Liên Hiệp Quốc, dưới sự bảo trợ của Staline, mà đại diện là Malik, chống lại Staline. Malik chống lại Malik. Mac Arthur nhận lệnh của Malik để chống lại Malik...

    Ante Petrovici dụi mắt, thấy O’Hara, ông ta đề nghị :

    - Bà có muốn chúng ta đàm đạo một chốc không?

    - Không, tôi muốn ông hiểu tôi mà thôi. Ngày xưa, tôi đọc nhiều sách báo lắm. Tôi yêu nghệ thuật, sắc đẹp, nhưng ngày nay tôi không muốn nói đến nữa. Trường hợp tôi thật là phi thường, tôi biết là tôi sắp bị thiêu đêm nay, làm sao ông bảo tôi nói chuyện với ông được, và điều kinh khủng là tôi không biết tại sao tôi bị kết tội, ai kết tội tôi? Tại sao một điều như thế lại có thể xảy ra giữa một thế kỷ được gọi là văn minh nầy nhỉ? Không ai giúp đỡ gì tôi được cả sao, bi đát quá. Không ai, vâng, không ai có thể giúp đỡ gì tôi. Không chính phủ nào, nhân vật nào cứu lấy tôi, dù tôi quen biết nhiều, nhưng cũng chẳng ai có thể giúp gì tôi được.

    Ante trở về phòng suy nghĩ lung lắm. Ông ta cũng quen biết nhiều ở Á Căn Đình, quen hầu hết nhân viên trong chính quyền. Và không ai có thể ngăn cản chuyện người ta sắp bắt giữ ông. Khi người ta đốt Lidia thì ông ta đang làm bộ trưởng bộ nội vụ và ông ta không giúp đỡ gì Lidia được. Chồng bà Milostiva Debora Paternik là quốc trưởng mà cũng không giúp gì bà ta được. Không ai có thể giúp đỡ người khác được nữa. Niềm đau đã quá to tát mất rồi.

    Con người đã bị thiêu đốt dần dần. Tướng Costak là bạn của các nước đồng minh, và các nước đồng minh đã không ngăn cản việc đốt cháy ông ta. Nghĩ đến đây, Ante Petrovici thấy mắt mình hơi mờ đi, hơi chóng mặt, ông ta nằm dài trên đi văng và nhắm mắt lại. Vừa nhắm mắt thì trí khôn của ông cũng không còn nữa. Một thứ bóng đêm bao trùm quanh ông và ông cảm thấy một sự thoải mái vô biên. Lý trí đã tàn. Và sự tàn lụn đó của lý trí đối với Ante Petrovici là một thứ bước xuống cây thập tự giá, một bước lùi dần vào bóng đêm. Nhưng trong bóng đêm có thanh bình và yên nghỉ. Công cuộc đóng đinh lên trên thập tự giá đã xong. Trong bóng đêm ông ta thấy thoải mái, ông ta không bị đóng đinh. Lý trí đã lùi chân nhường bước cho đêm đến. Ông ta đoán thấy một cánh tay trên người ông. Ông ta thoáng nghe một giọng nói xa lạ: «Tất cả sẽ được chính quyền dàn xếp ổn thỏa. Anh sẽ không bị giữ, Phu nhân Tổng Thống đã đích thân can thiệp cho anh. Anh được tha rồi đó. Anh muốn ra đi lúc nào tùy ý».

    Bác sĩ Rudolf sung sướng cầm tay Petrovici:

    - Chúng ta sẽ uống sam banh để ăn mừng chuyện nầy mới được vì đây là một cuộc chiến thắng vẻ vang. Á Căn Đình là một quốc gia không ở đâu giống cả, vì vậy mà tôi tin tưởng ở tương lai của xứ nầy. Anh là một nhân vật quí báu. Anh không thể bị kết tội được. Bắt đầu hôm nay anh sẽ hoàn toàn sung sướng, ông bạn có biết thế không nhỉ?

    Nét mặt Petrovici có vẻ rất bình thản. Rudolf nói tiếp:

    - Trông anh có vẻ tươi lắm, nằm nghỉ đi. Tôi hài lòng vì anh là một nhân vật lỗi lạc trong tất cả phạm vi, anh là nhà toán học, luật học, bách khoa, và kỹ nghệ gia.

    Petrovici hỏi:

    - Có thật là tôi đang ở Nam Mỹ không?

    - Thật chứ, anh quên rồi sao?

    Mắt Petrovici mở thật lớn, nhìn ra xa. Hình như ông ta đang mỉm cười. Trước khi nghe câu trả lời, ông ta đã không còn nghe được nữa. Rudolf cầm tay ông ta nói : «Du bist doch in America». Mắt Petrovici vẫn mở lớn. Nhưng ông ta không nghe gì nữa. Ông ta bình thản nằm trong bóng đêm, người ta đã mang ông ta xuống từ thập tự giá. Cuộc đóng đinh Petrovici đã chấm dứt. Lý trí đã lùi vào đêm, trong nấm mồ, trong bóng đêm.

    Rudolf vẫn nói: «Tu es en Amérique du Sud». Anh nghe chứ? «You are now in America».

    Nhưng Ante Petrovici không hiểu một thứ ngôn ngữ nào nữa cả. Cuộc vật lộn với đời của ông ta đã kết thúc. Ông ta nhìn trong đêm, lý trí của ông ta đã lùi vào bóng tối.

    Rudolf gọi «Ante, mein Freund... my Friend, mon ami... amigo mio».

    Nhưng Ante Petrovici không nghe nữa. Không bao giờ ông ta còn nghe thấy gì nữa cả.


  10. #19
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CUỐN SÁCH KẾT THÚC
    I
    Boris Bodnariuk trốn khỏi Ba Lê nhờ số tiền của giáo sư Voivod. Hắn định báo tin cho Bucarest biết nhưng sau hắn đổi ý, nên bí mật trở về không cho ai hay để còn đóng bản án viên thống chế đã cưng con chó như một nhà đại tư bản.

    Hắn băng qua nước Pháp, nước Đức. Trước khi đến vùng Sô Viết, hắn bị lính Mỹ bắt, bị đem đến cho Aurel Popesco nhận diện, tra hỏi, đánh đập và trước khi kiệt sức hắn ta thu hết tận lực vượt ngục như thế đồng nghĩa với tự tử, nhưng hắn đã thành công.

    Bám dưới một toa xe lửa chở hàng, hắn đã đến được đất Lỗ ma ni, băng qua Hung gia lợi, Ba lan. Hắn chỉ muốn đến Bucarest nhưng tàu lửa lại đứng ở phía Bắc đất Lỗ. Hắn đến trình diện viên cảnh sát trưởng Molda, đó là mảnh đất Lỗ đầu tiên do hắn cộng sản hóa. Nông dân đang cầm quyền ở mỗi làng. Đất hoang đã biến thành những nông trường tập thể. Đã có những con đường mới, khu kỹ nghệ. Nông dân đã biến thành thợ thuyền.

    Boris Bodnariuk trông thấy tất cả quang cảnh đó lúc đi ngang qua làng Molda, hắn rất hài lòng. Ở Molda, đã có một xưởng đóng đồ hộp, nhiều máy cày, một nhà tù bằng gạch và một phi trường. Boris hỏi:

    - Nói với chỉ huy trưởng của các anh là Boris Bodnariuk đã đến đây và cần được đưa đi Bucarest gấp. Tôi giao lại biên bản này cho các anh và tôi ngồi chờ ở đây. Tôi không thể đi một mình đến Bucarest được nữa.

    Boris ăn mặc rách rưới. Áo choàng đã rách nát. Không có áo sơ mi. Nhưng hắn rất sung sướng được thấy lại các đồng chí cộng sản của hắn.

    Nghĩa là được về nhà. Chung quanh không còn kẻ thù nữa. Nhưng thiếu ăn lâu quá, hắn gần kiệt lực.

    Viên cảnh sát trưởng thông báo cho cấp trên, nhường phòng mình cho Boris ở, cung phụng đầy đủ thức ăn thức mặc cho Boris, gọi bác sĩ săn sóc sức khỏe. Nhưng Boris chỉ cần ăn uống và ngủ mà thôi. Hắn hơi sốt và cảm thấy kiệt lực.

    Cảnh sát trưởng ở Molda là một người Nga còn trẻ. Anh ta rất sung sướng là Boris đến đây, vì khó mà làm thân với một người quan trọng như Boris. Anh ta thừa biết là nhờ Boris, địa vị anh ta có thể thay đổi, nên anh ta lại càng săn sóc cho Boris hơn. Ngày hôm sau, lúc Boris chưa ngủ dậy, anh ta đã lên tỉnh nhận lệnh cấp trên. Viên giám đốc cảnh sát địa phương đã cho Bucarest biết tin về Boris. Kết quả vài giờ sau là Bucarest không cho máy bay hay xe hồng thập tự để mang Boris đi. Và có lệnh: "Bộ chỉ huy đã ra lệnh lập thủ tục thường lệ để nhận diện người tự cho là Boris Bodnariuk. Anh cứ dùng biện pháp thông thường, lệnh cấp trên đấy".

    Viên cảnh sát ở Molda hỏi lại:

    - Đồng chí cho là hắn không phải Boris Bodnariuk?

    - Anh được lệnh là phải truy ra tên thật của hắn và làm bản tường trình hằng tháng. Thế thôi. Tôi không muốn bình luận gì thêm nữa, nhưng nếu đã là lệnh trên thì có nghĩa là thằng đó không có liên quan gì đến cái tên Boris Bodnariuk cả, hắn là một tên lừa bịp.

    Viên cảnh sát trưởng trở về sở, mặt hầm hầm giận dữ. Dù Boris còn ngủ, anh ta cũng gọi lên hỏi cung.

    Boris bây giờ đã mặc áo mới, cạo râu, tắm rửa sạch sẽ, mặt mày tươi tỉnh sau một giấc ngủ ngon lành. Từ khi trốn khỏi bệnh viện người Mỹ, chưa bao giờ Boris ngủ một đêm yên ổn như thế, nên hắn lấy lại sức khỏe rất nhanh. Hắn mỉm cười định ngồi xuống ghế. Nhưng đã bị quát :

    - Ai cho phép anh ngồi xuống ghế?

    Boris mới được đối xử rất tử tế ngày hôm qua nên nghe thế lại tưởng là một câu nói đùa, hắn mỉm cười. Tức thì bị viên cảnh sát bạt tai. Boris tức giận cắn môi. Một giòng máu chảy xuống cằm. Hắn cảm thấy trong miệng cái hương vị kẹo ho như lúc hắn đang rơi từ trên máy bay xuống. Viên cảnh sát trưởng nói:

    - Đừng có trêu tôi, tôi chỉ muốn anh khai thật.

    Anh ta bấm chuông, một người lính bước vào chào Boris trước tiên, nhưng khi thấy hắn đứng yên mặt đầy máu, người lính biết là mình lầm nên hổ thẹn rút tay về và quay nhìn cảnh sát trưởng. Anh này ra lệnh:

    - Cởi hết áo quần cà vạt của hắn ra. Cởi hết. Và cho hắn mặc lại áo quần rách rưới của hắn. Rồi dẫn hắn về nhà giam. Với mục đích gì mầy tự khai mầy là nguyên bộ trưởng tên là Bodnariuk?

    - Tôi không nói láo. Tôi chính là Boris Bodnariuk.

    Viên cảnh sát trưởng đứng bật dậy và muốn đánh hắn thêm nữa. Người lính đã lấy áo quần rách cho Boris và trở vô ra lệnh:

    - Cởi hết áo quần và giày dép ra mầy.

    Boris tuân lệnh, xong hắn mang đôi ủng rách nát cố hữu của hắn, quàng chiếc áo choàng da vào, quấn cái khăn đỏ quanh cổ, mặc chiếc quần đen đã thủng nhiều chỗ.

    - Nào khai đi chứ.

    Máu chảy xuống cằm hắn cũng đỏ như chiếc khăn choàng cổ xưa kia của hắn, bây giờ chiếc khăn đó không còn có màu gì nữa vì đã quá bẩn. Trong bộ áo quần rách rưới, lần đầu tiên trong đời, Boris cảm thấy nhục nhã hết chỗ nói. Cố bình tĩnh hắn nói :

    - Tôi chỉ là nạn nhân của sự hiểu lầm. Tôi chính là Boris Bodnariuk và tôi chỉ nói sự thật mà thôi.

    Viên cảnh sát trưởng nhìn vào bức ảnh Boris trên một tờ báo cũ và so sánh với nét mặt kẻ đối diện. Có nhiều nét giống nhau, nhưng chưa đủ để chứng tỏ người nầy là Boris.

    - Tao muốn mày nói thật, tao không muốn các ông chỉ huy của tao chê cười. Hôm qua nói chuyện tao thấy mày không đến nổi chó má lắm. Mày lại thông minh hơn nhiều đứa khác nữa. Mày hãy nói thật là tại sao mày tự nhận là nguyên bộ trưởng bộ chiến tranh Boris Bodnariuk. Với mục đích gì mày bày đặt ra chuyện giả danh này?

    - Tôi khai thật mà.

    - Nếu mày là Boris, Bucarest đã gởi máy bay đến đây kiếm mày, nhưng Bucarest đã không gởi máy bay, xe hơi đến đây mà lại còn yêu cầu nhận diện mày, mày hiểu chưa? Mày là ai? Một ông bộ trưởng dù là có tội cũng vẫn được dẫn đến Bucarest hay Mạc tư khoa để lập biên bản. Nếu có tội thật người ta sẽ treo cổ. Còn mày, người ta ra lệnh giữ mày lại đây để nhận diện mày. Lệnh này không áp dụng cho một ông nguyên bộ trưởng được. Tao chỉ muốn mày nói thật thôi.

    Viên cảnh sát trưởng tiến đến gần Boris:

    - Người ta cũng không cho tao áp đúng biện pháp gì đặc biệt với mày cả, chỉ cho áp dụng biện pháp thông thường thôi.

    - Nhưng các ông đã lầm, lầm to mà.

    - Không có lầm lẫn gì cả, sự lầm lẫn duy nhất là do tao, tao đã lầm mà tin mày nói thật ngày hôm qua. Một sự lầm lẫn lớn lao trong nghề của tao.

    Boris lại lảo đảo vì hai cái tát tai nảy lửa. Xong viên cảnh sát trưởng tiếp tục đấm vào đầu Boris, hắn ngã xuống và tiếp tục nhận thêm những cái đá vào đầu, vào ngực. Hắn cảm thấy đầu nhọn đôi ủng đá hắn như có hơi nóng của bàn chân ở bên trong.

    - Tao muốn mày nói thật.

    Nhưng Boris chỉ còn cảm thấy lờ mờ là người ta đang nâng hắn lên để mang hắn ra ngoài, đặt một tấm ván lên ngực hắn cho xương sườn khỏi gãy và một người lính bước lên trên tấm ván như muốn nghiền nát hắn ra.

    Boris không hiểu hình phạt đó kéo dài bao lâu. Lúc tỉnh dậy thì thấy mình ngồi trên ghế và tiếp tục bị đánh đá. Những cú đá làm hắn đau đớn như là những thỏi sắt nung đỏ dí vào người hắn, đau đến tận não tủy. Chỉ lúc hắn ngã xuống đất thì sức nóng đó mới dần dần biến mất.

    Viên cảnh sát trưởng lập lại:

    - Tao muốn mày khai thật.

    Câu nói đó hành hạ Boris cũng như những cú đá trên thân thể hắn.

    - Nếu mày không nói thật tao sẽ giết mày, giết ngay tại đây. Và không ai biết tao đã giết mày cả, muốn sống nói ngay đi.

    Boris muốn nói lại rằng đây là một sự lầm lẫn, nhưng hắn kiệt lực rồi. Vả lại, hắn cũng không hiểu có phải là một sự lầm lẫn hay không. Hắn chỉ còn biết một điều là hắn không thể chịu đựng được nữa và chỉ muốn chết mà thôi.

    Lúc mở mắt, hắn đã thấy mình đang nằm trong xà lim, trên nền xi măng. Xà lim không có giường hay cái gì khác nữa. Chỉ là bốn bức tường và nền xi măng lạnh lẽo, mà hắn đang nằm trên đó. Hắn đưa mắt nhìn quanh. Đã từ lâu, hắn không hề nhìn gì cả, không nhìn lại hai tay hay nét mặt của chính hắn. Hắn đưa tay lên sờ mặt, sờ môi hắn. Hắn thấy đúng là mặt hắn, môi hắn nhưng sao chúng xa lạ đến thế. Trán, mắt, môi, má, ngực đều sưng vù lên và nhức nhối không tưởng được. Sờ mắt trái, Boris thấy đã mù rồi. Thì ra hắn thấy ánh sáng bên ngoài chỉ với một mắt phải thôi.

    Trên tường xà lim, ai đã vẽ vào đấy mấy dấu thập tự và cái tên Iléana Kostaky. Boris không thèm nhìn nữa. Hắn biết là nông dân vùng này bị tù thường vẽ dấu thập tự lên tường.

    Cửa xà lim mở, Boris cảm thấy bị nâng cao và đưa vào văn phòng cảnh sát trưởng. Ông này đã lấy lại bình tĩnh, nhìn cách ăn mặc cũ kỹ của Boris. Khăn choàng bẩn thỉu, ngón chân thò ra khỏi mũi giày đã há mồm. Râu tóc không cạo, mình mẩy đầy máu, mắt trái đã hư, vết sẹo trên trán hình như lớn và đỏ hơn.

    - Nào nói lại đi, đồng chí... Boris Bodnariuk. Đúng là cái tên mà mày đã chọn cho mày phải không?

    - Vâng, đúng là tên tôi.

    - Hừ, một cái tên lừng lẫy trong lịch sử đảng cộng sản. Đó là cái tên của một vị nguyên bộ trưởng bộ chiến tranh, cái tên của một anh hùng đấu tranh giai cấp, của một vị tướng lãnh Hồng quân. Một cái tên có trên khắp báo chí. Có khó gì mà không tìm ra được một cái tên như thế. Chúng ta nên trở về lại với sự việc thực tế hơn và giải quyết dần từng việc một thì hơn.

    Boris thu hết tàn lực của mình. Hắn không nghĩ đến cá nhân hắn, hắn chỉ cần làm sáng tỏ vụ nầy. Nên hắn chăm chú nghe.

    - Lúc vừa mới đến đây, mày đã có khai nhiều điều, lập lại đi coi thử.

    - Sau khi trốn khỏi trại tù người Mỹ ở Heidelberg, tôi đã bám vào xe lửa bí mật trở về đây. Trong biên bản mà tôi đưa cho ông để ông gởi về trung ương, tôi đã kể hết các công việc tôi làm suốt thời gian từ khi tôi bị tai nạn máy bay cho đến bây giờ. Vả lại, câu chuyện cũng dễ, anh có thể nhận diện tôi qua các cộng sự viên của tôi, so sánh tôi với các tấm hình từ trước của tôi, mọi người đều biết mặt tôi mà. Người ta cũng còn có thể nhận ra tôi bằng giọng nói qua điện thoại. Mặt tôi hơi đổi khác từ khi tôi bị tai nạn nhưng đó không phải là một trở ngại lớn lao trong việc nhận diện. Tôi yêu cầu điều tra và gởi tôi về Bucarest để tôi hoàn thành sứ mạng của tôi.

    - Tao đọc trong tờ khai của mầy như thế này: "Sứ mạng của tôi (loại trừ viên thống chế những người Slaves miền Nam) đã bị thất bại vì tai nạn máy bay bất ngờ. Tôi là người sống sót duy nhất. Ở quân y viện mà người ta mang tôi lại đó, tôi bỗng thấy một bạn học cũ của tôi tên Pierre Pillat cũng đến đó. Tôi ngờ là người ta đem hắn đến nhận diện tôi nên tôi đã trốn khỏi nhà thương vì các sĩ quan Sô Viết ở Vienne có đến thăm tối hôm trước và ra lệnh không được để cho họ nhận diện. Tôi trốn qua Pháp. Lúc đó tôi đổi tên là Boris Neva như là các sĩ quan Sô Viết yêu cầu. Tôi tuân lệnh và chỉ tiết lộ tên thật của tôi một khi đã đến được vùng Sô Viết ở Molda. Tôi phải tức tốc từ Paris trở về đây để hoàn tất nhiệm vụ tôi trong bản cáo trạng giả của tên thống chế trưởng giả".

    Viên cảnh sát hỏi:

    - Nhiệm vụ đó như thế nào?

    - Đó là nhiệm vụ của đảng giao phó và tôi đã được các sĩ quan Sô Viết đến thăm tôi cho hay ở nhà thương. Tôi đóng vai bị cáo trong bản án đó. Tôi phải tự thú để đưa ra ánh sáng tất cả sự phản bội của viên thống chế trưởng giả đó. Tôi đã cố hy sinh mọi sự để đừng đến trễ. Tôi biết là vì ích lợi cho đảng nên phải tổ chức gấp bản án đó. Và tôi hy vọng là sẽ đến Bucarest đúng lúc. Tôi hy sinh tất cả cho đảng.

    Viên cảnh sát trưởng mỉa mai:

    - Chúng tao biết hết câu chuyện đó. Mày phải đóng vai chính trong vở kịch tội ác của viên thống chế đó ư? Mày tin là Sô Viết cần ngụy tạo những tên phản bội và những bản án giả mạo? Làm sao mày có thể khai như thế được nhỉ? Mày tin là Sô Viết dùng những kẻ vô tội để đóng vai bị cáo trong những tấm hài kịch đó sao? Như thế là mày đã lập lại những lời tuyên truyền chống cộng sản, đó là một cử chỉ thách đố và phỉ báng.

    - Một vài tên phản bội đã trốn thoát được như Trotzky và tên thống chế đó chẳng hạn. Dù vậy, chúng phải được phán xét và kết án, nhu cầu chính trị đòi hỏi như thế. Và vì chúng không thể hiện diện trước tòa án Sô Viết, người ta phải kêu gọi những kẻ tình nguyện tự kết án dù cho có bị xử tử chăng nữa để nhân dân có thể theo dõi tiến trình của việc phản bội như thế nào. Đó là một hệ thống rất có hiệu quả. Đó không phải là một sự hèn hạ mà là một bằng chứng của sức mạnh Sô Viết. Người ta luôn luôn kiếm được những thành phần ưu tú dám hy sinh đời mình để tự kết án, hầu làm sáng tỏ cho dư luận quần chúng những đoạn chính của tội phản bội.

    - Đúng là giọng điệu tuyên truyền phản động. Sô Viết không bao giờ ngụy tạo những bản án như vậy. Sô Viết luôn luôn bắt giữ và phán xét những thủ phạm thật sự. Ai nói ngược lại là một kẻ thù phản động. Từ lâu Sô Viết đã bắt hết lũ phản bội theo phe viên thống chế trưởng giả. Đã bắt được kẻ phản động thật sự thì còn ngụy tạo bản án để kết tội kẻ khác làm gì?

    - Những kẻ tòng phạm với viên thống chế đó đã trốn qua biên giới mất rồi.

    - Từ năm 1942, cảnh sát Sô Viết đã theo dõi tất cả những tòng phạm cũ của viên thống chế đó. Chúng bị kiểm soát rất gắt gao, cho đến các cuộc điện đàm cũng bị thu băng. Cho nên không đứa nào trốn thoát, tất cả đều bị bắt. Và thủ phạm chính là tên Rajk người Hung gia lợi. Báo chí nào cũng có đăng lời khai của nó cả. Đọc đi.

    Boris đọc những tít lớn trên báo chí để trên bàn viên cảnh sát. Ông này đàn áp tiếp:

    - Rajk đã hoàn toàn thú tội. Tại sao mày bảo là Sô Viết muốn ngụy tạo một bản án sau khi Rajk đã bị bắt và đã thú nhận tất cả tội lỗi, làm sao mày biện hộ cho lời khai của mày?

    Ở trang đầu, Boris thấy ảnh của Rajk đứng trước các quan toà. Thì ra chẳng ai khác hơn là một bạn đồng học của hắn ở Budapest. Rajk khai :

    "Tôi là thủ phạm đã âm mưu với tên thống chế những người Slaves miền Nam để thành lập một Liên minh Đông nam Âu châu đặt dưới sự cai trị của Anh Mỹ."

    - Mày thấy là sự phản bội của tên thống chế đó đã xảy ra ngay tại trung tâm Budapest chưa? Sô Viết đã biết hắn từ bao năm nay rồi. Sô Viết khôn ngoan lắm, đúng lúc đã chín mùi, Sô Viết bắt hết lũ âm mưu. Rajk thú nhận tất cả rồi.

    Boris là bạn thân của Rajk. Cả hai cùng theo học ở Hàn lâm viện đỏ Mạc tư khoa. Sau đó cả hai vẫn thường gặp nhau ở các hội nghị. Rajk là một người công sản chính tông, Boris không bao giờ nghi ngờ hắn điều gì, Rajk cũng trung thành với chủ nghĩa cộng sản như hắn. Boris thầm nghĩ: "Trong lúc mình trốn khỏi bệnh viện mà không ai biết đến nữa, Sô Viết đã tưởng là mình chết rồi. Thế mà phải thực hiện cho bằng được bản cáo trạng đó, Điện Cẩm Linh đã chỉ định một người anh hùng khác. Rajk đã nhận sứ mạng đóng tuồng thay mình, tự nhận bị cáo đồng lõa với viên thống chế trưởng giả. Bản cáo trạng được gởi từ Bucarest sang Budapest, chỉ vì mình không còn ở đó được nữa. Rajk chỉ là một kẻ nhị trùng với mình. Và người ta tổ chức ở Budapest thay vì làm ở Bucarest như lúc đầu".

    Boris không suy nghĩ lâu thêm nữa, hắn sung sướng là vai trò của hắn đã có người thay thế cũng không kém khéo léo, vì Rajk là một thành phần tài ba. Rajk không phải là một kẻ phản bội, anh ta là một người hùng. Viên cảnh sát nhắc lại :

    - Tên Rajk đã từ lâu là một điệp viên của tụi tư bản, bây giờ hắn đã thú nhận rồi.

    Boris vẫn suy nghĩ: "Đáng lý là người ta nói về mình như thế đó. Ai cũng tưởng mình là thủ phạm chính. Quần chúng tin như thế. Bản cáo trạng thật là hiệu quả. Quần chúng tin như thế, chỉ có Rajk và mình mới biết đâu là sự thật.

    - Nào, bây giờ mày có nhận là mày nói dối chưa, rằng câu chuyện bản cáo trạng là do mày bịa ra chưa?

    - Tôi công nhận là tôi nói dối.

    Boris biết là mục đích của hắn đã đạt được.

    - Sau một lần nói dối như thế, người ta còn tin gì được ở các lời khai của mày nhỉ?

    - Người ta không thế nào tin ở các lời khai của tôi nữa.

    - Vâng, thế thì mày ký vào một tờ khai khác là mày công nhân đã bịa câu chuyện bản án. Tao cần hỏi mày một câu nữa: Tên thật của mày là gì?

    Đây là lúc khổ sở nhất trong đời của Boris. Hy sinh đời hắn còn dễ dàng hơn là nói rằng mình là một người khác, nên hắn miễn cưỡng trả lời:

    - Tôi tên là Boris Neva.

    Hắn nói không suy nghĩ. Ở Phương Tây, hắn được gọi là Boris Neva, nên hắn lập lại: "Tên thật của tôi là Boris Neva".

    - Đồ ngu, Neva là tên của vị nữ anh hùng. Đó là tên bà tổ trong cuộc cách mạng của chúng ta. Neva không thể là tên của một kẻ du thủ du thực như mày được.

    Boris cắn môi suy nghĩ, cho đến bây giờ hắn không...

    thiếu trang 496

    ... người Slaves miền Nam mà cũng từ đó Anatole Barsov đã đào ngũ. Boris nhìn tất cả thứ đó bằng một mắt, mắt trái đã bị hư hẳn. Hắn nghĩ đến Ba Lê, đến Tòa đại sứ Sô Viết mà hắn không thể nào vào tận nơi để tìm cách trở về Bucarest đúng lúc cho bản cáo trạng. Nên hắn đã bị Rajk thay thế. Bản án diễn ra ở Budapest thay vì ở Bucarest. Nhưng có điều hắn không hiểu nổi là tại sao Bucarest nỡ bỏ hắn lại nơi này, trong một làng nhỏ, cho một quân cảnh canh giữ.

    Boris thầm nghĩ: "Chắc là có sự lầm lẫn. Nếu bị nghi ngờ, mình sẽ được dẫn về Bucarest để điều tra rồi sẽ bị xét xử và kết án. Đúng là một sự làm lẫn không còn nghi ngờ gì nữa".

    Boris nhìn ra phi trường Piatra. Hắn muốn tìm ra lỗi của hắn vì hắn có mặc cảm phạm tội nhưng hắn không có cách nào chứng mình là mình có lỗi. Hắn nghĩ là bây giờ mình đã ghi tên thật vào danh sách của trại tù là Boris Bodnar, có nghĩa là người ta đã tước hết chức vị và công trạng của hắn rồi. Cấp bậc cũng không còn nữa. Người ta đã lấy luôn cái tên Bodnariuk. Hắn có tên là Boris Bodnar như lúc mới lọt lòng mẹ, cái tên hắn mang lúc mới trốn qua Nga Sô. Bây giờ cũng như hồi đó, hắn cũng rách rưới như khi vừa mới bị đuổi khỏi trường hoàng gia Kichinev. Y hệt như cũ.

    Tất cả những công trình thay đổi khí hậu, thành lập binh chủng nghĩa quân, cộng sản hóa xứ Lỗ ma ni, tổ chức lại hệ thống quân đội đều do Bodnariuk hoàn thành. Hình như Bodnariuk là một ai xa lạ với hắn. Hắn bây giờ là Boris Bodnar, như lúc mới sinh ra, cũng nghèo nàn rách rưới, cũng cô đơn như khi chưa trở thành Bodnariuk. Hắn lấy lại tên cũ như khi chưa có một huyền thoại nào. Thật ra, Boris Bodnariuk là một tên bịa đặt. Chính hắn là Boris Bodnar. Trong xà lim, cô đơn và rách rưới, đau ốm và bị đánh đập, hắn không còn là một con người nữa. Trước đó, hắn là một người, bây giờ hắn đã già nua; thân thể, tâm hồn hắn đang làm cho hắn khổ sở. Hắn tự an ủi: "Chỉ có Boris Bodnar mới là thực sự, và khi mình chết đi, chính Boris Bodnar mới được chôn cất vì Boris Bodnariuk không bao giờ chết cả, vì Boris Bodnariuk chỉ là một huyền thoại không sinh ra nên cũng không chết đi".

    Hắn đã phấn đấu vì vinh quang của Boris Bodnariuk, mà đã không làm gì cho Boris Bodnar cả.

    Bỗng có tiếng la trong xà lim bên cạnh. Hai người đàn bà cãi nhau, một trẻ, một già. Người trẻ có vẻ cương quyết. Họ đang đập lộn nhau. Boris lắng nghe lính gác mở cửa. Người trẻ nói:

    - Bà ta muốn mở cửa sổ xà lim, từ khi tôi đến đây, bà ta không chịu đóng cửa bao giờ.

    Người già nói :

    - Nếu các ông đóng cửa tôi sẽ tự tử. Từ bao nhiêu năm bị giam cầm ở đây, tôi chưa bao giờ đóng cửa sổ cả, ngay cả vào mùa đông giá buốt nhất. Thế mà tôi có bị chết cóng đâu. Cô ta còn trẻ, và chỉ mới đến đây vài giờ thì lại càng không thể bị chết cóng cho dù cửa có mở chăng nữa.

    Nói xong bà già khóc.

    Boris nghe mấy người lính gác muốn đóng cửa sổ. Người đàn bà già nhảy xổ lại lính gác và đánh họ. Bà ta bị ngã xuống nhưng lại đứng dậy muốn mở cửa sổ. Lính gác đánh bà ta liên tiếp, đấm đá, tát tai. Sau đó họ lôi bà ta ra khỏi xà lim.

    Người đàn bà già đó là Iléana Kostaky. Trước đó, bà ta ở trong xà lim có một mình, và không bao giờ cãi vả với lính gác. Bà hay cầu nguyện, chờ đợi một cách nhẫn nhục. Đêm trước, người ta lại đi bắt người, và đem một người đàn bà khác đến giam chung xà lim với Iléana Kostaky vì thiếu chỗ.

    Boris lắng nghe người đàn bà trẻ nói với lính gác:

    - Bà nầy bảo là chồng bà trốn vào rừng. Bà không hy vọng gì thấy lại chồng bà vì bà bị kết án đến 15 năm, bà biết là thế nào bà cũng chết ở trong tù. Nhưng từ ngày đầu, bà ta đã để cửa sổ mở luôn với hy vọng là nếu chồng bà có chết rồi, linh hồn ông ta sẽ đến đây từ giã bà. Bà ta để cửa sổ là cốt để cho linh hồn chồng bà có thể vào bên trong xà lim được.

    Người ta đã đem bà già trở về sau khi đánh đập tàn nhẫn, họ xích tay chân bà lại để bà khỏi bước đến mở cửa sổ. Nhưng bà ta vẫn la lên:

    - Thế nào tôi cũng mở cửa sổ. Nếu chồng tôi chết, linh hồn ông ta không thể đến từ giã tôi được. Tôi sẽ không biết là ông ta chết nếu linh hồn ông ta phải ở bên ngoài.

    Iléana lại van cô gái mở cửa, cô ta từ chối.

    Lính gác cột bà ta vào giường nằm, bà ta vẫn lải nhải:

    - Tôi để cửa sổ bao năm nay mà có chết chóc gì đâu, ngay cả lúc lạnh buốt xương. Tôi không muốn người ta đóng cửa, tôi không muốn bị xa lìa chồng tôi. Ít nhất, vào lúc ông ta chết, tôi muốn linh hồn ông ta về đây bên tôi. Tôi cứ chờ ông ta, nếu đóng cửa, làm thế nào ông ta vào đây được. Có việc gì xảy đến cho ông ta, tôi phải biết chứ. Các ông không có quyền ngăn cách vợ chồng tôi như thế nầy.

    Lũ lính gác và cô gái cười ngặt. Người đàn bà vẫn nói :

    - Tôi phải để cửa sổ chờ chồng tôi. Nếu các ông đóng lại, chồng tôi không đến đây được.

    Boris nằm dài lên giường. Hắn không muốn nghe tiếng rên la của bà già nữa, nhưng hắn nghe tiếng đấm cửa thình thịch bên cạnh. Đã hai giờ trôi qua từ khi bà già bị trói tay vào giường và cửa sổ bị đóng kín. Tiếng cô gái gọi lính gác :

    - Bà già chết rồi; tôi không muốn ở chung với người chết trong xà lim, tôi sợ lắm.

    Iléana đã chết khi lính gác nhất quyết đóng cửa sổ. Bà ta là một bà vợ có bổn phận chờ chồng về. Và vì bà ta không hy vọng thấy ông ta sống sót trở về, nên bà ta chỉ mở cửa để chờ linh hồn người chết. Và khi cửa sổ bị đóng kín, Iléana Kostaky phải chết vì bà ta không còn gì để làm trên trái đất nầy nữa, đời sống bà đã trở thành vô ích, vì không thể chờ chồng đến giờ phút chót. Phận sự làm vợ đã chấm dứt.

    Lính gác đem xác Iléana ra chôn ở khoảng đất băng giá bên cạnh nhà tù. Linh hồn bà, nếu sự thật giống như mơ ước của bà, đã từ giã trái tim bà để đi tìm Ion Kostaky qua bao nhiêu là núi rừng, biển cả, để vĩnh biệt người chồng trên dương thế, nhưng không ai biết được sự thật của những điều đó cả, không người nào, không tu sĩ nào biết được điều đó.

    Tất cả nhân chứng và lính gác biết rất ít về cái chết của Iléana Kostaky. Họ chỉ biết rằng tấm thân xác già nua đó được cởi hết xiềng xích và chôn xuống đất lạnh, và trên thân xác không có hòm chôn đó, người ta quăng từng mẫu đất lẫn với những cục tuyết cứng ngắt, rằng mấy sợi xích đã cột tay chân bà bây giờ được chùi rửa sạch sẽ treo kỹ trong nhà gác để dùng cho tù nhân khác. Tất cả chỉ có thế, nhưng rất là ít ỏi, quá ít ỏi để được gọi là tất cả.

    III
    Boris đã đạt đến yên tĩnh tâm hồn và sự thanh thản của những kẻ đã từ bỏ đời sống trần gian cho một lý tưởng. Boris đã biết là tất cả vật sở hữu của người cộng sản đều thuộc về đảng. Của cái, vốn liếng văn hóa, áo quần, đời sống và cho đến cái tên của hắn cũng thuộc về đảng. Điều họ bắt lầm hắn hay cố ý bắt hắn cũng chẳng quan hệ gì: đảng có quyền trưng dụng tất cả và hắn không có quyền phàn nàn. Người ta đã rút bớt nơi hắn những điều gì không thuộc về hắn.

    Lúc đầu, hắn đã tiếc không còn được gọi là Boris Bodnariuk nữa. Nhưng bây giờ hắn đã hãnh diện về điều đó. Đã có bao nhiêu cuộc trưng dụng tên tuổi mà hắn chứng kiến? Thật ra chỉ có cái tên của các anh hùng mới có cái danh dự đó. Khi những anh hùng cộng sản các nước Tây Ban Nha, Đức, Pháp, đến Nga Sô, người ta bắt đầu bằng cách trưng dụng tên của họ. Họ sẽ nhận những tên khác. Những tên do những chiến trận và những chiến công không thuộc về cá nhân mà thuộc về lịch sử và cộng đồng xã hội.

    Những người mới đến là những người bằng xương bằng thịt có thể điên rồ, làm bậy như bao nhiêu người khác. Thật là bất công nếu để họ giữ những tên anh hùng mà phạm lỗi lầm với những tên đó. Cho nên phải lột cái tên đi đem vào lịch sử. Người mang cái tên anh hùng đó có thể già nua có thể làm bất cứ điều gì nhưng phải có một cái tên khác chứ không được giữ cái tên đã làm vẻ vang cho lịch sử.

    Boris sung sướng với ý nghĩ là tên của hắn sẽ tồn tại trong lịch sử và hắn sẽ tiếp tục sống với một cái tên khác tầm thường không có một huyền thoại nào cả.

    °

    Có ai thì thầm trước cửa hắn:

    - Người ta mới bắt giữ cha Angelo.

    Bước chân xa dần và giọng nói tiếp tục thì thầm ở các cửa xà lim khác.

    - Cha Angelo đã bị bắt.

    Tiếng thì thầm xa dần và mất hẳn ở cuối hành lang. Boris biết là tất cả những người bị giam ở ngục thất Molda đều là kẻ thù của Sô Viết. Hắn không muốn tham dự vào đời sống của họ. Vì họ cũng là kẻ thù của hắn nên hắn lánh xa. Hắn thầm nghĩ: Đó là một mật lệnh của những tên phản động trong tù. Giọng nói tiếp tục thì thầm ở trước cửa đi ngang qua lỗ khóa là cha Angelo đã bị bắt.

    Boris áp tai vào tường lắng nghe: Có nhiều tù nhân ở xà lim bên trái nhưng hắn chỉ nghe có một giọng nói:

    - Thưa cha, cha có tin là linh hồn Ion Kostaky sau khi chết sẽ hiện thành bóng ma để từ giã vợ hắn trong tù? Giáo hội có dạy bà ta như vậy không?

    Cha Thomas Skobai trả lời:

    - Chính bà tin thế.

    - Nhưng lòng tin đó có đúng hay chỉ là một sự lầm lẫn? Boris muốn biết vị tu sĩ đó sẽ trả lời như sao.

    - Lòng tin sắt đá của Iléana cho rằng linh hồn người chồng sẽ đến kiếm bà trước khi rời bỏ trần gian, ý chí quyết chờ chồng bên cửa sổ mỗi ngày, đông cũng như hè, đã bắt đầu trong tình yêu thương người chồng, trong sự chung thủy và bổn phận làm vợ của Iléana. Bổn phận đó là chờ đợi, là khổ đau nhưng không bao giờ nản chí trong quên lãng. Đó là những đức tính đẹp nhất của người đàn bà. Nếu những lòng tin tưởng phát xuất từ những đức tính đó mà sai lầm, thì Chúa, đấng toàn năng cũng sẽ tha thứ cho bà, vì bà đã đặt đức tin vào một cái gì sai lầm chỉ vì quá yêu chồng, quá thủy chung và quá kiên nhẫn với chồng.

    Vị tu sĩ nói tiếp: "Lạy Chúa, ban ơn cho Iléana Kostaky và rước linh hồn bà về với thiên đàng nước Chúa, ở đó sẽ không có nước mắt, bóng đêm mà là một cuộc sống vĩnh cửu. Amen".

    Trong xà lim, Boris quyết định nhẫn nhục chịu đựng và chấp nhận cái tên mới của mình mà không hề phản kháng. Trong trường hợp người ta khám phá rằng những gì xảy đến cho hắn từ lúc hắn trở về Lỗ ma ni là kết quả của một sự lầm lẫn thì Sô Viết sẽ gọi hắn lại và sửa sai lầm lẫn. Trong trường hợp mà đó là ý muốn của đảng, là nhu cầu ích lợi cho lịch sử thì hắn sẽ tiếp tục phục vụ dưới một tên mới trong một quốc gia mới cũng với từng đó trung thành và rồi cũng sẽ chiến thắng như trong quá khứ.

    Nhưng giọng nói truyền miệng là cha Angelo đã bị bắt không còn là những tiếng thì thầm nữa mà người ta đã la lớn. Đám đông vây quanh. Người ta la ở trong hành lang.

    - Nông dân đến giải thoát cho cha Angelo.

    Và cả trăm ngàn tiếng nói của những nông dân nổi giận, của những người đàn bà chạy lui tới, của người và người đang chen lấn. Cửa nhà giam mở rộng, tường sập, quần chúng đã đến giải thoát cho thánh Angelo. Boris không hề biết đến ông thánh đó. Hắn chỉ nghe tiếng mở khóa cho phòng giam hắn rồi nhiều người vào phòng bảo là hắn đã được tự do.

    Hắn phải chật vật lắm mới ra ngoài được. Vì hành lang nhà tù đã tràn ngập nông dân. Không có bóng một tên lính gác hay một tên cảnh sát nào cả. Chỉ là đám đông tiến lên như sóng, bẻ cửa, dùng rìu phá tường. Đám đông đã chiếm nhà tù và đang phá nát các bức tường. Mọi người trở ra với một viên gạch trên tay và bỏ lên xe.

    Boris theo một lỗ hổng bức tường thoát ra ngoài và cố kiếm đường thoát thân. Đã quen với đám đông trong các cuộc hội hộp, hắn ước lượng 10 ngàn người nông dân đã đến phá nhà tù ở Molda. Tất cả đều cầm gạch đá và các tấm ván của nhà giam mang đi. Có một giọng la to:

    - Thánh Angelo đã được giải thoát.

    Xong, tất cả đám đông quỳ xuống, người nào đứng đâu quỳ xuống đó, tay cầm gạch đá lấy được ở nhà tù.

    Đám đông đã giải thoát cho một tu sĩ còn trẻ. Nông dân khiêng đức cha lên vai về phía xe hơi. Đám đông đã nổi dậy phá ngục giải thoát cho cha Angelo. Boris muốn trông thấy ông ta nhưng vì ông ta ngồi xây lưng về phía Boris nên hắn không nhận ra mặt. Một người đàn bà cạnh Boris lên tiếng:

    - Chúng ta không còn ai để săn sóc những người đau yếu nữa. Thánh Angelo đã an ủi tâm hồn chúng ta, trị bệnh cho chúng ta và cầu nguyện cho chúng ta. Từ bao nhiêu năm nay thánh Angelo là niềm an ủi cho nông dân, thế mà người Sô Viết vào rừng bắt ông ta, thật là quá quắt, Chúa không thể nào cho phép điều đó được, nên bây giờ thánh Angelo lại được tự do.

    Sau khi thánh Angelo đi qua, đám đông lại đứng dậy đi theo sau xe ông ta, xe có đôi ngựa trắng kéo đi chậm chậm trên một con đường rừng hẹp.

    Boris bị chèn lấn khắp nơi. Chỉ có hắn là hai tay không cầm gì. Tất cả người khác đều cầm gạch đá lấy được ở nhà tù. Một người đàn bà bảo hắn:

    - Cầm lấy một viên chứ.

    Bà ta đưa một viên gạch cho Boris và giải thích:

    - Những viên gạch trên tường nhà giam Thánh Angelo đã bị giữ trong đó sẽ đem lại vận may. Ông giữ lấy và để trước nhà hay trên tường.

    Boris cầm lấy viên gạch. Chiều cao bức tường thấp xuống thấy rõ. Và nếu mọi nông dân lấy một viên gạch thì trong vài giờ nhà tù ở Molda chỉ còn là một khoảng đất trống.

    Boris đi theo đám đông, đi theo biển người ở sau xe Angelo, để yên cho đám đông vừa xô đẩy vừa ca hát.

    Đoàn xe đi về phía khu rừng. Không có người lính gác nào cả dọc đường. Không có ai ngăn cản sự nổi dậy của nông dân. Đoàn người vẫn tiếp tục vào rừng.

    Boris được mời lên xe đi sâu vào rừng. Trên đường đi, hắn được biết là các giáo đường trong làng lần lượt bị đóng cửa. Những nơi nào còn mở cửa được đều là do các linh mục cộng sản đảm nhiệm. Nông dân đi vào rừng vì có một vị tu sĩ trẻ tên Angelo có thể làm phép lạ, đó là một hình thức tôn giáo mới, mà quần chúng muốn tin như thế. Cho nên khi Sô Viết bắt giữ Thánh Angelo, nông dân các làng đã nổi dậy phá nhà tù để giải thoát cho ông ta.

    Người đàn bà dẫn con ngựa bảo:

    - Phép lạ là người ta đã không thấy lính Nga trên đường đi. Đúng là phép lạ của Chúa. Không có lính gác ở nhà tù. Ở Molda, chúng ta không gặp lính hay cảnh sát. Chúa đã làm họ tránh xa để chúng ta giải thoát cho cha Angelo.

    Đoàn xe dừng lại trước một cổng rừng. Boris không biết chuyện gì xảy ra nhưng chỉ nghe mọi người đang hát những bài ca tán tụng Đức Chúa.

    - Ông quỳ xuống đi. Thánh Angelo đang cầu nguyện để cảm tạ Chúa đã cứu ngài khỏi nhà giam cộng sản.

    Boris vâng lời, bước xuống xe và quỳ chung với hàng ngàn người nông dân trong khung cảnh bụi bặm của con đường rừng eo hẹp. Boris thầm nghĩ:

    "Không thể nào một cuộc nổi dậy như thế mà Sô Việt không có biện pháp an ninh. Đúng là một cuộc cách mạng chứ còn gì nữa."

    Có người nói bên tai hắn:

    - Ông giữ viên gạch nầy đi, nếu ông làm mất, ông không bao giờ tìm thấy lại nữa. Người ta đã lấy đến tận nền nhà tù. Không còn lại gì hết. Giữ lấy viên gạch đó nghe. Mất đi uổng lắm đó.

    Boris cầm viên gạch. Chưa bao giờ hắn chứng kiến một cuộc nổi dậy của quần chúng như thế. Muôn người như một.

    IV
    Ion Kostaky và Pierre Pillat trốn từ Đức sang Lỗ ma ni bằng cách đi ban đêm trong rừng để khỏi bị Nga Sô bắt giữ. Cuối cùng họ cũng đến được cánh rừng trong làng Piatra, vào lúc trời sắp sáng. Kostaky muốn tiếp tục theo đường mòn xuống làng nhưng Pillat cản lại. Kostaky năn nỉ:

    - Con không hiểu ba tí nào nếu con yêu cầu ba ở đây mà đừng về làng. Con tin là ba có thể đứng nơi đây nhìn làng mạc ở phía bên dưới sau khi đã vượt Thái Bình Dương để trở về Piatra sao? Con tin là ba chỉ cần nhìn làng mình ở đàng xa sao?

    Nhưng ba ráng đợi đến tối đã, lúc nầy đi nguy hiểm lắm. Ba biết chứ, từ Heidelberg đến đây chúng ta chỉ có đi vào ban đêm thôi. Ba kiên nhẫn một chút, còn chừng hai giờ là trời sáng hẳn rồi.

    Ion Kostaky nhìn sao trên trời, biết là ngày sắp đến rồi. Trời đang mùa xuân. Trong ánh sáng xanh dịu của ban đêm, xuyên qua từng hàng thông cao, người ta thấy trong thung lũng cảnh làng Piatra mà sương mờ bao phủ trắng và trong như tấm khăn choàng của cô dâu. Kostaky lại nói :

    - Con nghĩ là ba có thể ở lại đây suốt ngày nhìn làng mạc đằng xa? Con muốn là ba chỉ nhìn nhà cửa và đồng ruộng thân yêu của mình ở xa xa thôi sao? Con tin là chỉ vì từng đó mà ba đã vượt qua bao nhiêu quốc gia, bao nhiêu rừng núi như một con chó hay một kẻ ăn trộm? Chỉ để nhìn ngôi nhà ở đằng xa?

    Đất làng trải dài ở dưới chân họ, nhưng ở Piatra lúc nào cũng có người Nga, lính gác, quân cảnh cho nên họ đành đợi ban đêm mới dám mò xuống làng, nhưng bây giờ đứng trên cao trông rõ phong cảnh trong làng, Kostaky không thể nào kiên nhẫn được, ông ta xiết chặt cây gậy trong tay. Pillat lại can:

    - Không nên xuống làng lúc ban ngày. Con biết khó nén lòng mà đợi đến tối lắm, nhưng nếu chúng ta xuống bây giờ, chúng ta sẽ bị bắt ngay, ba biết thế không? Con hiểu cái ước ao gặp lại làng mạc của ba lắm vì con cũng mong như thế. Đất đai nơi sinh trưởng, nhà cửa như là những người thân yêu mà sự dè dặt trở thành vô nghĩa và không cần thiết. Con hiểu như thế. Chúng ta có thể khôn ngoan không bước vào làng xa lạ vào ban ngày. Nhưng đằng nầy lại là làng mạc, nhà cửa của mình, khó lòng mà ở đây nhìn xa xa lắm. Nên nếu ba muốn con sẽ đi theo ba, nhưng con nói trước, như thế không thận trọng tí nào cả.

    - Ba sẽ đi một mình. Ba để xách lại đây, ba chống gậy xuống đó một mình, chỉ để nhìn sơ qua nhà cửa, làng mạc và ba trở lại ngay khi trời sáng. Con đợi ở đây.

    - Cả mấy tháng nay, cha con mình có bao giờ rời nhau nửa bước đâu. Cho nên con sẽ cùng đi với ba.

    - Không, để ba đi một mình. Ba chỉ nhìn sơ thôi rồi trở lui. Đêm sau Ba con mình sẽ cùng đi. Con có lý, nên đi về ban đêm thì hơn. Bây giờ con chờ ba ở đây. Ba muốn xuống đồng ruộng một lát thôi để đạp chân lên đất nhà, nhìn khung cảnh quen thuộc thuở xa xưa, thở khí trời của vùng đất thân yêu. Ba muốn thế, con hiểu chứ. Ba không hy vọng được đi một ngày trên các con đường của làng mình. Chúa sẽ vĩ đại lắm nếu Ngài ban cho ba một niềm vui cuối cùng của đời ba là được dẫm chân lên những con đường nhỏ ở làng Piatra.

    Lúc đi đường Kostaky mau mệt lắm và hay cần nghỉ chân. Nhưng lúc nầy như là ông ta vừa uống rượu xong, ông ta không muốn dừng lại nữa. Không muốn ngồi lại một giây lát nào nữa.

    - Ba biết đường, nếu gặp lính tuần Ba sẽ không vào làng. Ba sẽ trở lui tìm con ở đây. Chừng một giờ thôi, Ba sẽ trở lui.

    Ion Kostaky bỏ đi. «Ba sẽ mang theo một ít thức ăn. Biết đâu... Nhưng thôi Ba sẽ không nói chuyện với ai cả. Chào con nghe, Ba xuống nhìn một tí thôi.»

    Ion Kostaky đi nhanh về phía làng, đi nhanh gần như chạy, tay cầm gậy, người thẳng như một cây thông. Bước đi lúc đó như là bước đi của một người còn trẻ. Đất đai xứ Lỗ ma ni đem lại sức sống tráng kiện cho ông ta. Pillat đứng nhìn theo.

    Bóng Kostaky mất dạn trên con đường mòn giữa hai hàng cây, thỉnh thoảng lại hiện ra, hấp tấp, trẻ trung, khát khao. Đó không còn là Kostaky ở Đức hay ở Gia Nã Đại, Hung Gia Lợi, không phải là một Kostaky bị người Mỹ liệt vào danh sách những người phế thải, cặn bã của xã hội. Đó là Kostaky chững chạc như một vị vua chúa trên đời. Bước chân chạm đất quen thuộc như một người chơi vĩ cầm đang sờ những dây đàn.

    Kostaky mất dạng sau lùm cây. Đường làng Piatra ngắn lắm. Pillat nằm dài xuống bãi cỏ. Chàng tiếc là đã không cùng đi với Kostaky, mà cũng tại Kostaky nhất quyết đòi đi một mình, lúc nầy thì chắc ông ta đã đến làng rồi.

    Pillat vuốt ve bãi cỏ thấm ướt sương mai. Chàng bứt một nạm cỏ và úp mặt vào đó. Chàng mệt quá mà không chợp mắt được, chỉ nghĩ ngợi bằng cách ngửi mùi đất. Tai áp sát đất để nghe thử có ai bắn trong thung lũng hay không, bởi vì tụi cộng sản đi tuần luôn luôn trong làng và gác đường rất kỹ. Đâu đâu cũng có cảnh sát. Pillat lắng nghe xem bước chân của Ion Kostaky có vang trên đường làng Piatra hay không.

    «Đáng lý mình phải đi theo, đang lý không nên để cha đi một mình như thế.»

    V
    Kostaky tiến vào các con đường làng Piatra, chân dính đầy bụi. Ông ta muốn biết thử người ta có thay đổi gì chưa, nhưng đúng là vẫn các con đường và khu đất cũ, ông ta tiếp tục đi, sung sướng nhìn lại cảnh cũ như là ông ta không phải đi trên con đường bằng đôi chân mà bằng chính trái tim của ông ta. Ông muốn cởi giày đi chân không: nhưng không cần thiết lắm, ngay cả xuyên qua một lớp giày kiểu Đức có đóng đinh, ông ta vẫn cảm thấy dưới lòng bàn chân con đường đất quen thuộc của làng Piatra, thứ đất đai quen thuộc của ông ta ngày xưa. Kostaky tiến thêm, nhìn thấy ngôi nhà đầu làng. Cũng như xưa không có gì thay đổi, cũng cái sân cũ, dù chung quanh không có rào dậu. Cũng cái giếng ở giữa làng. Kostaky bỗng thấy khát nước dữ dội và muốn nếm lại thứ nước ngon ngọt của cái giếng nầy. Ông ta đưa tay mân mê thành giếng say sưa như lúc vuốt ve da thịt của một người đàn bà. Kostaky sực nhớ có một cây liễu cạnh giếng bây giờ không còn nữa. Ông ta nổi cáu: «Tại sao lại đốn cây liễu đi? Hay là tại nó đã chết khô?»

    Ông ta tiếp tục đi, mặt rầu rầu và lẩn thẩn: «Nếu họ đốn cây nầy đi thì phải trồng cây khác chứ? Ở Piatra, giếng nào cũng có cây liễu bên cạnh cả».

    Kostaky cầm chặt chiếc gậy trên tay, nhìn một lượt các ngôi nhà đang chìm trong bóng tối. Ông ngửi thấy mùi cỏ thơm. Trong một thoáng, ông định gõ cửa nhưng nghĩ lại ông thấy không nên để bị lộ diện, «Mình đã hứa với Pillat là chỉ nhìn thôi. Để đêm sau cùng đi và xem kỹ hơn vậy».

    Bước chân ông đi càng lúc càng nhanh. Bỗng ông dừng lại, ông vừa thoáng thấy bức tường trắng nhà ông mà ông ao ước thấy lại bao lâu nay. Ông dáo dác nhìn quanh. Đằng sau nhà ông là một khoảng đất trống. Ngày xưa ở đó là nhà Pillat và Marie, căn nhà đã bị đốt cháy mất rồi. Kostaky thầm nghĩ: «Chúng ta sẽ xây lại căn nhà khác, nhưng ông ta sực nhớ là Marie không còn nữa».

    Giữa hàng cây hạt dẻ, Kostaky phân biệt được bức tường trắng, mái nhà xám và các cửa sổ nho nhỏ của căn nhà ông hồi xưa, căn nhà ở đó như một người thân yêu đang còn sống. Tim Kostaky đập mạnh, ông ta quên mất căn nhà cháy, quên người Nga đã ngự trị ở đó, Kostaky tiến vào nhà thầm nghĩ: «Có lẽ Iléana còn ngủ». Rồi, ông ta nghĩ là Iléana chắc không còn ở nhà, bà có lẽ còn bị tù, hay chỉ có trời biết bà đang ở đâu. Chắc là người ta lấy mất nhà rồi còn gì.

    Kostaky buồn rầu bước vào sân. Ngày xưa, bên cạnh nhà, ông ta có làm một căn nhà nhỏ để chứa đựng dụng cụ cày bừa, nay không còn thấy đâu nữa. Kostaky ức trong lòng: «Ai đã phá căn nhà kho của mình? Không ai có quyền thay đổi bất cứ điều gì trong nhà nầy». Bởi vì ông ta mới là chủ nhà. Ông ta nghĩ có lẽ là chính phủ đã trưng dụng nhà của ông ta và thay đổi tùy theo ý muốn của họ. Kostaky tức giận nghiến răng. Các bức tường cũng vừa được quét vôi trắng. Ngày xưa, ông ta cũng hay cùng vợ quét vôi nhà cửa mỗi mùa xuân trước lễ Phục sinh, vào một tuần trước đó để ăn mừng ngày đại lễ. Kostaky vừa đưa tay sờ bức tường vừa thầm nghĩ : «Có lẽ Iléana đang ở trong nhà, và chính bà đã quét vôi cũng nên. Ông ta đến gần cửa sổ. Chúa vẫn hay ban phép lạ, có thể Iléana còn ở nhà và chưa bị đuổi, có lẽ bà ta đang ngủ...».

    Tay Kostaky vẫn tiếp tục vuốt ve bức tường như đang vuốt ve chính thân thể người thân, một con bò hay một con ngựa nuôi trong nhà. Đồng thời ông cố tìm cái chuồng trâu bò, nhưng cũng không còn nữa. Mình không còn con gia súc nào nữa cả nhỉ! Nghĩ thế mà Kostaky tự nhủ là bây giờ có giận dữ cũng vô ích, lúc nào về đây mình sẽ gầy dựng lại tất cả, lo gì.

    Nhưng càng nghĩ đến con bò cái gốc Thụy sĩ, hai con ngựa tốt ngày xưa, ông lại giận «Họ phải trả lại cho mình, không ai có quyền cướp của mình những thứ gia súc chính tự tay mình nuôi lấy, bằng mồ hôi nước mắt của mình. Ích gì mà tức giận nhỉ? Tại sao đến bây giờ mình mới tức giận, từ trước đến giờ sao chưa hề nghĩ đến điều nầy? Mình cứ tưởng là họ đã lấy nhà cửa của mình rồi mà sao mình không hề đau khổ. Nhưng có thể họ không lấy nhà mình thì sao...?».

    Kostaky nhón chân nhìn vào bên trong qua cửa kính. Tay vẫn mân mê vuốt ve bức tường và mắt ướt đẫm. Gần cửa sổ ngày xưa có một cây dẻ, bây giờ không còn nữa. Bên trong nhà tối ôm. Ông ta muốn gọi Iléana, nhưng ông ta biết là làm như vậy không khôn ngoan tí nào. Iléana có thể không còn ở đây nữa. «Tụi cộng sản trung dựng nhà cửa của tất cả kẻ vắng mặt.»

    Ông ta men theo đường đi quanh nhà. Ba sào đất quanh nhà không ai trồng tỉa gì cả. Mà chỉ dùng những căn lều cao ngất nghểu như nhà thờ. Chung quanh có kẽm gai bao bọc. Thôi đúng là phi trường rồi. Họ đã để hoang đất của mình. Đất của mình không thể dùng cho máy bay Nga hạ cánh được. Vì đó là một thứ đất đen tốt nhất Piatra. Bắp trồng lên đó mộc cao đến hai thước.»

    Kostaky không nhìn phi trường nữa, quay mặt vào cửa sổ như không muốn rời xa nữa. Một mảnh vôi trên thành rơi xuống. Kostaky lại giận thầm: «Họ không thể săn sóc nhà cửa. Vôi nhà mình ngày xưa có bao giờ sứt mẻ như thế nầy đâu».

    Ông ta nghiền mảnh vôi trong tay, rồi cố đưa tay mở cửa. Cũng là tay nấm đó, nhưng cánh cửa đã bị khóa, ông ta đành nhìn qua cửa sổ, vuốt ve những tấm cửa kính. «Nếu mình ở lại chừng nửa giờ, trời sáng mình có thể nhìn vào bên trong nhà được.» Nhưng nghĩ lại ông ta lại sợ trời sáng bị lính bắt gặp, nên đành thầm nhủ: «Thôi để ngày mai mình trở lại».

    Nhìn khắp làng tất cả đều yên lặng, không một con chó, con mèo, gà vịt, không một bóng người. Kostaky trở lại ý nghĩ: «Có lẽ căn nhà đang trống, mình cố vào thử xem». Hơi cảm động vì ý nghĩ đó, ông ta mạnh dạn gõ cửa. Có tiếng đàn bà nói:

    - Có ai ở ngoài cửa sổ.

    Giọng nói xa lạ quá. Kostaky dựa sát vào tường. Rồi có tiếng người đàn ông trả lời. Có nhiều người lạ trong nhà quá, Kostaky cảm thấy đau lòng và bắt buộc đứng trước cửa mà không vào trong được.

    Người đàn ông hỏi:

    - Ai đó?

    Qua cửa sổ, Kostaky thấy người đàn bà trở dậy thắp đèn. Bàn ghế bên trong đều đổi khác hẳn. Người đàn bà đó cũng xa lạ đối với Kostaky, dù trông không rõ mặt. Người đàn ông nằm trên giường sắt trông cũng lạ quá; cả đến giường, cây đèn cũng không có một dáng dấp gì quen thuộc đối với Kostaky cả.

    - Ai đó?

    Hỏi xong người đàn ông đứng dậy cầm một cái rìu tiến đến cửa sổ. Người vợ nói: «Cẩn thận đấy!»

    Người chồng cầm chặt rìu, nhìn qua cửa sổ. Trong một chốc Kostaky có ý nghĩ muốn đánh mấy người bên trong, đuổi họ ra khỏi nhà ông ta. Nhưng vô lý quá, nếu mình có đuổi họ ra, mình cũng không ở đó được vì lính gác sẽ bắt mình ngay, Kostaky đành nhịn nhục và tránh xa. Nhưng ông ta trở lại vì ánh đèn bên trong vẫn còn sáng. Ông ta lên tiếng:

    - Xin ông nghe đây.

    Người đàn ông cầm rìu có vẻ sẵn sàng đối phó. Kostaky trấn an ông ta:

    - Xin ông đừng sợ. Không ai muốn giết ông hay đến cướp nhà ông đâu, tại sao ông lại sợ?

    - Nhưng ông là ai?

    - Tôi là Ion Kostaky, người đã có công tạo dựng căn nhà nầy. Tôi là chủ nhân căn nhà nầy, ông hiểu chưa, người sở hữu chủ tên Ion Kostaky.

    Người vợ lên tiếng :

    - Tôi không biết, căn nhà nầy là của chúng tôi.

    - Ông bà ở đây thật đó, tôi biết thế, nhưng đây chính là nhà tôi xưa kia. Tôi là Ion Kostaky.

    - Ông điên à, người vợ hét to.

    - Bà im đi chứ!

    Người chồng ra lệnh xong hỏi Iớn:

    - Ông nói rằng ông là...

    - Vâng, tôi là Ion Kostaky. Ông không bao giờ nghe nói đến tên tôi sao?

    - Chưa bao giờ, ông muốn gì bây giờ?

    - Nhưng ông ở đâu đến mà lại không biết tôi nhỉ? Tôi là chủ nhân căn nhà nầy cơ mà.

    Người chồng nói với người vợ :

    - Có lẽ là một nông dân ở đây trước tụi mình.

    Người vợ nói :

    - Nói với ông ta đi đi. Mình đừng có rước họa vào thân. Nếu ông ta là một nông dân thì đúng là ông ta đã trốn thoát từ trước. Ngày mai quân cảnh sẽ đến đây và nếu họ biết là có ông nầy ở đây, họ sẽ bắt hai vợ chồng mình ngay. Thôi mình nói với ông ta đi ngay đi.

    Người đàn ông nghe lời vợ bảo:

    - Ông muốn gì, nói đi, xong cút ngay.

    - Ông có thể cho tôi biết vợ tôi hiện giờ ở đâu? Ông có biết Iléana Kostaky hiện giờ ở đâu không?

    - Đó, em đã nói với mình đúng là một tên vượt ngục. Thôi mình tắt đèn đi và đi ngủ. Nếu ai thấy chúng ta nói chuyện với hắn, mình sẽ bị rắc rối lắm chứ chẳng chơi.

    Người chồng nói với Kostaky :

    - Ông đến sở quân cảnh mà hỏi. Tôi không biết ai tên Iléana Kostaky cả. Cả ông nữa, tôi có biết ông là ai đâu? Ông đi đi.

    - Xin ông nghe tôi, tôi xin nói một lời thôi.

    - Tôi không có gì để nghe ông nữa và cũng không biết gì để nói với ông. Ông đến hỏi quân cảnh đi, ông hiểu chưa? Tôi không biết gì về bà ấy cả, cũng như tôi không hề quen biết ông.

    Người vợ dọa:

    - Nếu ông không đi, tôi sẽ gọi lính cho xem. Tôi sẽ gọi lính bây giờ đây.

    - Thưa hai ông bà, nào tôi có làm thiệt hại gì hai ông bà đâu?

    - Thế thì ông từ đâu đến?

    - Từ thế giới bên kia, từ bên kia đại dương và núi rừng. Nhưng ở đây chính là nhà của tôi.

    Người đàn bà lại hét:

    - Đây là nhà chúng tôi. Nếu ông muốn gì, hãy đến ban ngày chứ không thể đến trong đêm tối như thế nầy. Tại sao ông lại đến đây vào ban đêm?

    - Ông bà không biết gì về vợ tôi sao? Tôi chỉ muốn biết tin bà ấy thôi?

    - Không, tôi không biết ai là Iléana Kostaky cả. Chưa bao giờ tôi nghe nói đến cái tên đó. Tôi không phải là người làng Piatra.

    - Thế ông bà không nghe nói bà ta còn sống à?

    - Không có ai tên Iléana Kostaky ở đây cả.

    Người đàn bà tắt đèn. Bóng tối bao trùm căn phòng. Ion Kostaky lại vuốt ve bờ cửa sổ. Vôi trên tường lại nứt ra rơi xuống, Kostaky thấy thế mà đau lòng. Ông ta cầm lấy một nấm vôi trong tay trái, trong lúc tay mặt ông ta vẫn vuốt ve cửa sổ.

    Trong nhà người vợ vẫn còn cãi vả với người chồng. Người đàn ông nói:

    - Đúng là Ion Kostaky, người đã bị kết án khổ sai và trước đây ông ta ở căn nhà nầy.

    - Nhưng nhà nầy là nhà của chúng mình. Em không nghe nói đến ai là chủ cũ cả, mà em cũng không muốn nghe thêm nữa.

    - Nhưng tại sao em bảo là em chưa bao giờ nghe nói đến tên Kostaky. Em thường nghe là Ion Kostaky đã ở đây từ trước và đã bị bắt chứ!

    - Nông dân bị loại trừ hết rồi. Nhà cửa bị sung công và chính phủ đã cấp cho vợ chồng mình căn nhà nầy rồi.

    - Nhưng trước khi bị sung công, căn nhà nầy là của Ion Kostaky.

    Người vợ hằn học:

    - Điều đó không liên quan gì đến vợ chồng mình cả.

    - Nhưng ít ra mình cũng nên nói là vợ ông ta đã chết. Ông Kostaky khốn khổ đó sẽ bỏ đi ngay. Em là một người đàn bà, tại sao em sắt đá như thế. Tất cả điều ông ta hỏi chỉ vỏn vẹn có một câu là vợ ông ta còn sống hay không. Ông ta không còn ai thân yêu trên đời nữa. Nếu chúng mình nói thật, ông ta sẽ bỏ đi ngay. Người đàn ông đó có đòi hỏi điều gì khác hơn đâu. Ông ta có thể từ Sibérie trở về đây. Có thể là ông ta đã đi hàng ngàn cây số đề về đây xem thử vợ ông ta còn sống hay chết. Tại sao lòng dạ em lại như sắt như đá? Anh sẽ đi kiếm ông ta và bảo rằng vợ ông ta đã chết trong tù. Anh sẽ nói với ông ta bất cứ điều gì anh biết. Anh đem cho ông ta thức ăn nữa là đằng khác... Một ngày nào đó, sự khổ sở đó cũng có thể xảy đến cho mình. Giả tỉ anh ở vào trường hợp ông ấy và anh lo ngại cho em thì em nghĩ sao?

    - Nhưng nếu anh đi, anh sẽ bị bắt chung với ông ta.

    Người đàn ông vẫn mặc áo:

    - Anh sẽ ra kiếm ông ấy. Tại sao lại không nói thật cho một người chỉ muốn biết là vợ còn sống hay đã chết.

    Người vợ hét:

    - Anh đừng đi.

    Kostaky nghe tiếng người đàn bà giựt chiếc áo ông chồng đang cầm.

    Kostaky đành bỏ đi. Mồ hôi chảy nhễ nhại trên trán. Tai ông ta vẫn còn nghe tiếng người vợ cãi vả với chồng trong nhà. Người vợ nói:

    - Em sẽ tố cáo anh với quân cảnh nếu anh đi bây giờ.

    Kostaky để ý thấy hai cây táo trồng trước nhà đã bị đốn mất. Ông ta buồn rầu không hiểu sao người cộng sản lại hay đốn cây như thế.

    Người đàn bà vẫn to tiếng:

    - Nếu anh đi em sẽ tố cáo anh.

    Kostaky bỏ đi xa. Ông ta bắt đầu khóc. Cố quay đầu lại nhìn một lần nữa. Nhà ông còn nằm yên trong bóng tối. Kostaky thầm nói: Lạy Chúa, rước linh hồn Iléana về nước Thiên đàng, ông ta cất mũ làm dấu. «Lạy Chúa tha tôi cho bà.» Kostaky đội mũ lại và đi về phía rừng. Làng mạc hoang vắng. Đường sá vắng bóng người. Không có Iléana, trái đất đối với ông chỉ là một bãi sa mạc hoang vắng.

    °

    Kostaky thấy ba bóng người đuổi theo ông trên đường làng. Ông ta muốn vào trong một khu vườn, nhưng lính gác đã trông thấy và cố đến gần ông ta. Kostaky bỏ đi thật nhanh. Ông ta cảm thấy mùi đất thấm vào thân thể và hai buồng phổi. Đằng sau, lính gác đã nổ súng. Đã có lệnh báo động trên sân bay. Lính gác tràn đầy đường. Các lối ra khỏi làng bị gác hết. Kostaky chửi:

    - Đồ lũ chó cộng sản.

    Ông ta không trốn về nơi Pillat đang chờ, vì lính gác từ đó đến, ông ta đành bò về phía ngược lại. Đó là con đường dẫn đến nghĩa địa, ông ta núp vào trong các bụi rậm và nghĩ đến Iléana mà không hề nghĩ đến lũ lính gác đang đuổi bắt mình và làm náo động cả làng.

    «Lạy Chúa đem Iléana về đất thánh. Bà đã đau khổ nhiều lắm rồi. Càng khổ nhiều hơn nữa nếu bà bị chết trong tù.

    Iléana khốn khổ ơi!»


  11. #20
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHỈ CÒN MỘT THẾ GIỚI
    I
    Nhiều tháng trôi qua từ ngày Ion Kostaky bỏ đi, bỏ đi để có thể thăm lại đất nhà, làng mạc và tìm lại tin tức người vợ thân yêu; nhưng bỏ đi để không trở về được nữa. Pillat đợi ngày một, ngày hai, tháng nầy qua tháng nọ mà vẫn chẳng thấy tăm hơi. Thế mà đã gần một năm trời từ ngày Pierre Pillat bị bắt buộc phải trốn vào rừng. Quân đội và cảnh sát càng ngày càng lùng soát gắt gao những người bỏ trốn vào rừng. Mà rừng núi thì đầy ắp cả người bỏ trốn; con người từ ngàn năm đã cùng những súc vật, cây đất tạo dựng, mang trên hai vai, trên hai tay, sỏi đá và tất cả thứ cần thiết để kiến thiết làng mạc phố phường, bây giờ bị bắt buộc phải từ bỏ hết mà đi; từ bỏ ruộng vườn, đường sá, cây cối đã mất bao năm gầy dựng, để trốn vào rừng sống như súc vật không nơi nương tựa, sống trong lùm cây hốc đá.

    Như là cuộc di cư trong lời sấm Jérémie : «Hãy rời xa thành phố đến sống trong các hốc đá, như chim bồ câu làm tổ trên hố sâu vực thẩm». Pillat nhớ đến lần di cư của Ante Petrovici, cuộc trốn tránh của Daniel Motok; chàng nhớ đến Eddy Thall, đến Varlaam, Marie; chàng quay đầu nhìn lại, ngỡ rằng nước mắt chảy vì ánh nắng mặt trời, nhưng nào có phải tại mặt trời chút nào đâu.

    °

    Một tiếng súng vang trong thung lũng. Máy bay gầm trên trời. Pillat nép người dưới bóng cây; và nghĩ đến Ion Kostaky trốn vào rừng với cây gậy cụt ngủn, cây gậy có vẻ huyền thoại như của Tannhauser hay của Aaron trong kinh Cựu Ước.

    Cầm dao găm, Pillat bắt đầu khắc lên thân cây tên Marie vợ chàng rồi lần lượt đến tên chàng, tên Ion Kostaky, Ante Petrovici, Eddy Thall, Daniel Motok, Varlaam, Isaac Salomon, Milan Paternik... nghĩa là tên tất cả những người chàng đã gặp trong cuộc di cư khổng lồ nầy; khắc tên như thế chỉ vì chàng đang quá cô đơn và chàng muốn có bất cứ ai bên cạnh; vâng, chàng đang cô đơn trong khu rừng nầy; cô đơn trong vũ trụ, cô đơn trong trời đất.

    Mà con người thì không thể nào sống cô đơn. Rồi vừa nhìn cả lô tên khắc trên thân cây, Pillat vừa thầm gọi:

    «Lạy Chúa, tim Ngài sẽ nát tan vì đau đớn khi loài người đến trước Ngài để được phán xét. Con tin là Ngài sẽ không phán xét người mà chỉ rủ lòng thương hại; vâng, chỉ rủ lòng thương hại đối với con người khốn khổ của thời đại nầy. Ngay cả lý trí nơi con người được phát triển nhiều nhất cũng không thể thấu hiểu những gì ngoài tầm tay, ngoài tầm mắt, hay ngoài điều tai con người có thể nghe thấy được. Lý trí của loài người thật là hèn mọn.»

    Có giọng nói đàn bà bên tai:

    - Ông là tu sĩ.

    Đó là giọng một cô gái chừng 17 tuổi, đầu tóc bím quê mùa, nét nhìn e lệ. Pillat hỏi:

    - Sao cô hỏi thế? Tại đầu tôi giống tu sĩ lắm sao?

    - Không, tôi tưởng thế vì ông đang viết gì trên thân cây và lại không mang súng. Ai biết viết đều không phải là kẻ cướp. Khu rừng nầy đầy cả kẻ cướp, nhưng họ không biết viết. Mà chỉ có tu sĩ mới không mang vũ khí.

    Pillat bỏ dao vào túi. Thiếu nữ sau một hồi yên lặng, nói tiếp:

    - Tôi không biết đọc, nhưng tôi thích ai viết chữ được. Tôi tên là Magdalena.

    Pillat đứng dậy chìa tay bắt. Nàng lại hỏi:

    - Tại sao ông không mặc áo nhà dòng. Ông sợ hả? Tu sĩ trong rừng nầy ai cũng sợ mặc áo dòng cả.

    Magdalena bỗng im tiếng, nàng thấy mình nói nhiều quá và bỗng sợ những gì mình vừa nói. Pillat hỏi:

    - Cô ở đâu đến?

    - Chúng tôi sống ở đây từ ngày Sô Viết xâm nhập. Người ta lùa chúng tôi từ bờ Hắc Hải; rồi cho nhà cửa đất đai ở nông trường, trong thung lũng, nhưng cha tôi đã đem súc vật đi trốn vào rừng. Chúng tôi đến sống trong khu rừng nầy còn sướng hơn ở nông trường tập thể.

    - Thế cô có biết làng Piatra không?

    Chàng muốn trở về đó để dọ tông tích Ion Kostaky; chàng đã xuống đó bao nhiêu lần nhưng không biết gì hơn về số phận của ông nhạc cả. Người thiếu nữ trả lời không biết, rồi hái một cánh hoa màu đỏ đưa lên môi, rồi vừa cắn cánh hoa bằng những chiếc răng trắng của nàng, vừa hỏi:

    - Tại sao ông ở đây mà không lên trên hốc đá? Trên đó có nhiều tu sĩ lắm. Và đứng trên đó mới thấy quân đội và cảnh sát đến được chứ. Nếu là ban đêm ba tôi sẽ đốt lửa trên mõm đá báo động, ban ngày ba tôi thổi tù và, nghe thấy thế là các vị tu sĩ đi ẩn núp ngay. Ông có biết là trên đó dễ kiếm ăn lắm? Ba và dân làng bỏ trốn đều có mang theo bầy ong và súc vật vào rừng để sinh sống. Các vị tu sĩ cũng làm lụng để kiếm ăn, các vị đó luc trốn đi không đem theo gì cả nhưng được cái là họ rất lương thiện. Tôi không thể nói chuyện gì với họ được vì không biết lấy một tiếng Lỗ nào. Nhưng tại sao ông lại biết tiếng Lỗ nhỉ, ông không phải là tu si ngoại quốc sao?

    Pillat trả lời :

    - Tôi ở làng Piatra, cô không quen ai ở làng Piatra thật sao?

    Nàng vẫn tiếp tục cắn cánh hoa hồng :

    - Đây là lần tấn công lớn nhất và kéo dài vài ngày nay rồi. Quân cảnh bắn vào chúng tôi, máy bay thì dội bom trên rừng.

    Tiếng nổ trên thung lũng vang lên đinh tai nhức óc. Trong rừng tiếng gì cũng nghe như là đang nổ bên cạnh, nhưng thật ra còn xa lắm.

    Magdalena hỏi tiếp:

    - Ông mặc áo dòng loại nào đó? Có vài tu sĩ mặc áo dòng màu trắng thật đẹp, tôi thích các vị đó nhất. Các vị khác lại mang dây lưng bằng thừng và kết bạn với chim chóc. Họ tốt đến độ chim đến bên họ mà cũng không sợ. Các vị khác lại mặc áo dòng thật chật như là loại áo các sĩ quan, mặt lúc nào cũng nghiêm nghị, họ không bao giờ ăn thịt và sống cộng đồng với nhau, họ không hề nói chuyện với dân làng và cầy cấy riêng rẽ.

    Magdalena không biết họ thuộc dòng Tên. Pillat hỏi nàng:

    - Cô có chắc mấy người đó là tu sĩ không chứ?

    - Họ đều là tu sĩ cả, bởi vì họ biết đọc, biết viết, thường hay cầu nguyện và không mang vũ khí. Đúng là tu sĩ chứ còn ai vào đó nữa.

    Súng nổ càng ngày càng nhiều, máy bay tiếp tục dội bom.

    Magdalena vẫn nói:

    - Nếu ông lên trên đó, ông sẽ có sữa uống. Tôi sẽ nói với ba tôi. Ông mặc áo dòng loại nào thế? Và tại sao ông lại có râu, mấy ông kia không để râu.

    Nói xong nàng bỏ đi không cần chờ trả lời. Pillat gọi theo nhưng nàng đã đi xuống đồi thật nhanh.

    Pillat đã nhìn thấy những toán lính tràn lên thung lũng sắp theo đội hình tấn công và chàng không thấy Magdalena đâu nữa.

    Vài ngày sau, lính tràn cả khu rừng. Pillat phải lang thang như một con chó đói. Chàng muốn gặp lại Magdalena, muốn lên nơi các vị tu sĩ ở, nhưng quân đội đã chiếm cứ dãy núi mất rồi.

    Pillat trông thấy một xác chết, thấy có thuốc lá, tiền Nga và hộp quẹt. Trong bị rết còn cả đồ hộp và nhiều gói thuốc lá khác. Pillat lấy bị rết và cởi áo quần nạn nhân. Đó là một anh chàng dân quân tự vệ. Không phải dân sự mà cũng không phải là lính nhà nghề. Anh ta mang theo súng tự động và một hộp đạn. Pillat dùng lưỡi lê của cây súng đào một hố nhỏ chôn xác chết rồi đắp một nấm mồ nhỏ. Cắt một nhánh cây làm chữ thập trên mộ, chàng cầu nguyện nho nhỏ:

    «Lạy Cha chúng tôi...»

    Bỗng có giọng nói:

    - Tôi đã nói ông là tu sĩ, đúng quá mà.

    Thì ra Magdalena đã đến sau lưng chàng, nàng nói:

    - Rõ ràng tôi thấy ông là tu sĩ, chỉ có tu sĩ mới chôn người chết.

    Magdalena suy nghĩ một chốc, không hiểu có nên nói tiếp hay không, sau cùng nàng quyết định nói:

    - Hôm qua, lính lên trên đó bắt tu sĩ. Ba tôi trốn được, nhưng nhiều vị tu sĩ đã bị bắt.

    - Sao lại có nhiều tu sĩ thế? Quanh đây có tu viện nào không? Họ ở đâu đến đây?

    - Họ là tu sĩ ở Vatican, ông đã đến Vatican lần nào chưa?

    Từ trên đỉnh núi, có tiếng tù và vọng xuống, Magdalena nói :

    - Ba tôi báo động đó.

    Và nàng mất dạng trong rừng cây.

    Pillat lại cô đơn. Chàng lắng nghe đạn trung liên réo liên hồi cùng với nhiều tiếng nổ. Chàng châm một điếu thuốc vừa lấy được trong túi xác chết. Trên đầu chàng trực thăng bay lượn; lần đầu chàng trông thấy cảnh nầy, chưa bao giờ rừng núi lại có nhiều âm vang như thế. Pillat sợ hãi, sợ hãi hơn bao giờ hết. Cái chết đã gần kề.

    II
    Boris theo đám đông đã phá tù để vào rừng. Phá sập tường để cứu cha Angelo, nông dân cứu thoát luôn cả Boris. Họ còn cho hắn ẩn náu ở các chỗ núp trong khu rừng. Boris đang đau nhưng mỗi ngày hắn vẫn muốn trở về với một cuộc sống hợp pháp. Đối với hắn, tất cả những ai vào rừng đều là kẻ thù của Sô Viết, đều là tụi phản động, kẻ thù của nhân dân? Hắn thầm nghĩ: «Địa vị của mình không phải trong đám dân đen nầy. Hắn đợi cho sức lực bình phục hẳn để tìm cách xuống thung lũng. Ở gần hắn ít nói chuyện với dân làng, dù họ đã tìm cách cứu hắn khỏi cảnh tù đày. Bệnh hoạn đã bắt buộc hắn phải sống nhiều tuần trong rừng. Trong cảnh cô đơn, Boris suy nghĩ về cuộc nổi dậy của đám nông dân đó. Đó là một cuộc nổi dậy thực sự, một cuộc nổi dậy mà hắn chưa bao giờ thành công ở Lỗ ma ni lúc hắn được phái đến để tổ chức một cuộc phá hoại và một đội quân bí mật.

    Đó là một cuộc vùng dậy của dân chúng, những kẻ đã phá từng viên gạch của nhà tù ở Molda, điều hắn thích làm mà chưa bao giờ thành công. Hắn chỉ thành công trong các cuộc phá hoại không đáng kể. Số người hắn gặp thường bất động trong tay hắn và trong tay các đồng chí hắn. Hắn chống lại lũ dân làng đã cứu thoát hắn chỉ vì cuộc nổi loạn của họ nhằm phản đối Sô Viết. Hắn hiểu rõ sức mạnh của kẻ thù Sô Viết, nhưng hắn không hiểu sức mạnh đó do đâu mà có.

    Trí óc hắn đã tạo ra thần tượng Tinka Neva, nhưng sự tạo dựng đó cũng như những lâu đài bằng giấy, đẹp thật đấy nhưng toàn là tiền chế cả. Nông dân thì đúng là cả một lực lượng rồi đó. Hắn đã trông thấy họ nhắc từng viên gạch để phá bỏ nhà tù. Hắn hiểu rõ bây giờ kẻ thù của hắn là ai rồi. Lực lượng đã phá bỏ nhà tù ở Molda thật là bất tận. Hắn muốn dùng lực lượng đó để phục vụ cho Sô Viết. Nhưng lực lượng phản động đó do đâu mà có được?

    Boris nghĩ về tất cả những gì có thể làm thành lực lượng, một đảng phải, một tổ chức, nghĩ đến một tổ chức hành chánh hoàn hảo, một cơ quan cảnh sát đàng hoàng, nghĩ đến sự trung thành của các đảng viên, đến những tòa án, những biện pháp trừng trị kẻ lừng khừng. Sô Viết có tất cả những đặc tính đó, hơn nữa Sô Viết lại có đủ cán bộ, cả cán bộ siêu việt nữa. Hắn muốn ở lại với các cán bộ cộng sản ở trên hẳn cả thân phận làm người, trên hẳn loại cán bộ Thiên Chúa giáo cao cấp, vì người cộng sản có thể chế ngự được cái chết. Chỉ có một kẻ trong Thiên Chúa giáo có thể chế ngự được cái chết, kẻ đó là Chúa Jésus. Nhưng trong chế độ cộng sản, có cả hàng trăm triệu người không còn ý thức về mạng sống riêng rẻ của mình nữa mà có thể chết cho đảng không cần do dự, như chính hắn, như Rajk, như những kẻ muốn sẵn sàng hy sinh thân mạng cho ích lợi chung? Trái với người Thiên Chúa giáo, người Sô Viết hy sinh mà không cần đền bù.

    Thế thì tại sao với cán bộ như thế mà Boris không thể xúi dục dân làng ở Lỗ ma ni nổi loạn như trong cuộc phá vỡ nhà tù ở Molda? Với sự trợ giúp nào, với lực lượng nào mà lũ dân đói khát đó, không súng ống, không tổ chức, không có một tí gì cả mà vẫn vùng dậy được?

    Boris bỗng giật mình. Đâu đây trong rừng có tiếng tiêu réo rắc một khúc nhạc lưu đày Doina. Doina là một khúc nhạc như một kiếp người, buồn tẻ. Boris cài lại khuy áo. Hắn không còn mang áo choàng bằng da nữa. Lần đầu tiên trong cuộc đời cộng sản của hắn, hắn không mặc áo choàng da, quàng khăn đỏ, đi ủng đen. Bây giờ hắn đi chân trần. Hắn phải ẩn núp để người thổi tiêu không trông thấy hắn. Hắn nhìn những viên gạch vỡ mà dân làng đã mang từ nhà tù Molda đến chất quanh lều nầy. Một mối thù khủng khiếp dâng lên trong lòng hắn đối với lũ nông dân phản động. Hắn muốn phá bỏ căn lều nầy. Hắn nghe một cuộc đối thoại đằng xa. Tiếng người đàn bà:

    - Tôi chưa bao giờ thấy người thổi sáo, nhưng biết ông ta là đảng trưởng đảng cướp.

    Thiếu nữ có vẻ sợ hãi. Magdalena kể cho Pillat nghe những gì nàng biết về đảng cướp ở cạnh đây. Boris lắng nghe câu chuyện. Giọng Magdalena:

    - Đừng có lại gần. Đó là một tên sát nhân chưa bao giờ có. Hắn khủng bố tất cả vùng nầy và lại điên nữa. Hắn vừa sát nhân vừa điên, ông hiểu chưa?

    Pillat nghe tiếng nói của Magdalena hòa lẫn với điệu buồn của khúc hát Doina. Chàng biết lời của khúc nhạc đó. Con chàng cũng mang tên Doina. Tâm hồn chàng cũng chẳng khác gì một khúc nhạc lưu đày Doina. Marie cũng có thể được gọi tên là Doina. Đó là bài hát của người đứng nhìn trời cao mà nghĩ về cái chết, về tình yêu, về Chúa và về cuộc đời. Đó là chủ đề của Doina: con người nghĩ về những điều thiết yếu. Và tướng cướp làm cho Magdalena sợ hãi lại đang thổi khúc nhạc Doina. Magdalena nói :

    - Chờ cho hắn đi đã, tôi sợ lắm. Nếu hắn thấy chúng ta, hắn sẽ giết chúng ta mất thôi.

    Pillat vẫn thầm nghĩ tiếp: «Ion Kostaky cũng có một cuộc đời, một tâm hồn, một đôi mắt nhìn buồn như Doina. Tâm hồn Kostaky mở rộng để đón nhận tất cả những sự kiện lớn lao của nhân loại: sự vĩnh cửu, cái chết, tình yêu, trời đất và tất cả những gì chung quanh đời sống».

    Magdalena lập lại:

    - Nếu chúng ta đến gần, hắn sẽ giết chúng ta ngay. Nhiều đội quân cảnh vẫn truy tầm hắn trong rừng. Người ta gọi hắn là «Thằng Nông Dân». Không bao giờ người ta thấy hắn cầm vũ khí mà chỉ đấu súng ống ở các gốc cây vì thế hắn còn có tên là «tướng cướp tay không». Tuy vậy hắn dấu vũ khí ở khắp nơi, ông hiểu không, dưới mọi gốc cây đều có vũ khí hắn cất đấy.

    Pillat hỏi:

    - Thế nhưng có bao giờ cô thấy hắn chưa?

    - Có một lần tôi trông thấy hắn lúc tôi đi lấy nước uống. Nhưng tôi không dám nhìn, tôi run lên rồi bỏ trốn, hay nói cho đúng tôi nhìn trộm hắn một chút thôi và thấy hắn đang nằm dài trên bãi cỏ để thổi tiêu và ngắm trời xanh. Quân cảnh thường nghe tiếng tiêu để kiếm hắn, nhưng hắn thính lắm, có thể nghe tiếng chân người cách xa hàng cây số và bỏ trốn ngay.

    Cứ thế Magdalena thao thao kể về giai thoại của tướng cướp tay không cùng những kinh hoàng hắn gieo rắc khắp vùng. Pillat chặn hỏi:

    - Hắn có nhiều đồng minh không nhỉ?

    Magdalena chỉ nhún vai không trả lời.

    Boris vẫn lắng nghe. Hắn muốn biết đồng minh của tướng cướp tay không đó là ai. Hắn đoán chắc là những kẻ nổi loạn đã phá ngục ở Molda, vì không còn ai khác hơn nữa; lúc nào trở về hắn sẽ khai báo cho Sô Viết hay lũ đó. Tiếng Pillat hỏi:

    - Cô có bao giờ trông thấy đồng bọn của hắn chưa?

    - Chưa bao giờ, nếu tôi thấy, chắc tôi sợ đến chết mất.

    Boris lắng nghe, bây giờ chỉ có khúc nhạc Doina vang lên giữa cảnh yên tĩnh của núi rừng, khúc nhạc như reo lên tình yêu vĩnh cứu và nổi lòng quạnh hiu của con người trên trái đất, khúc nhạc muôn thuở của tướng cướp tay không. Magdalena lại lên tiếng:

    - Chưa ai thấy đồng minh của tướng cướp đó, nhưng ở đâu cũng có họ cả.

    Boris tưởng tượng trong khu rừng, trong các ấp ở thung lũng, đâu đâu cũng có đồng minh của tướng cướp, mà dù thế, vẫn không ai biết họ ở đâu. Họ đã xúi dục dân làng, đã phá ngục, trả tự do lại cho Đức Cha và cho những kẻ khác. Boris thích có loại đồng minh như thế để tổ chức các cuộc phá hoại, loại đồng minh ở đâu cũng có cả mà cảnh sát không thể dùng trực thăng xe tăng để bắt họ được. Thứ cộng sự viên mà không ai thấy đó, Boris không thể bắt giao cho cảnh sát để thủ tiêu, không thể giam trong xà lim, không thể chụp hình hay lấy dấu tay, không thể hành hạ. Đúng là một loại cộng sự viên đắc lực nhất cho một cuộc đấu tranh bí mật, cho những giai đoạn khó khăn.

    «Đó là một loại đồng minh Sô Viết cần có ở Tây phương để có thể chinh phục thế giới. Có như thế mới có thể thay đổi khí hậu, thiết lập một chính quyền cộng sản khắp nơi, kiến tạo một nền hòa bình theo kiểu cộng sản đồng nhất. Với loại đồng minh như thế, ta có thể nâng cao đời sống con người và giải phóng con người khỏi những thành kiến.» Boris thầm nghĩ như thế, nhưng không bao giờ hắn có được những cộng sự viên như vậy cả. Hắn chỉ thấy và gặp toàn là lũ phản bội mà hắn phải mất công dò xét ngày đêm. Boris không tin là có loại đồng minh như thế trên quả đất nầy, và nếu chỉ có một thôi, hắn cũng hoàn thành được những kỳ công trên đời.

    «Tụi đó phải mang tên mật, phải đặt tên là gì nhỉ?» Boris suy nghĩ mãi và không tìm ra nổi một cái tên để đặt cho thứ đồng minh đó đang sống ở trong rừng, ngoài vòng pháp luật, dù tên đó ở trên cửa miệng người đời. Bởi vì Boris sẽ không ngờ tên đó là Trời, cái tên gần như xa lạ với một kẻ biết quá nhiều điều như hắn, đó là một đồng minh hoàn hảo, nhưng xa lạ với Boris, hoàn toàn xa lạ với người Sô Viết, cái tên chống Sô Viết hữu hiệu đó lại không có trong danh sách mật vụ Nga Sô.

    Không có người chỉ huy như thế, không thể nào phá nhà tù trong vài giờ. Chỉ có ông ta mới có tài làm thế. Không có những cộng sự viên như thế, người ta chỉ thực hiện được vài cuộc phá hoại nho nhỏ, kiểu huyền thoại Tinka Neva là cùng. Thế mà Boris vẫn thầm nghĩ: «Tai hại là mình chưa biết đến cộng sự viên đó. Với hắn, mình đã có thể thay đổi hoàn toàn khí hậu của Nga Sô, thay đổi tất cả các giòng nước trên đất. Với tất cả kẻ khác thì mình chỉ có cảm tưởng là đang làm việc trong hư vô mà thôi».

    Buồn bã, Boris bước xuống thung lũng. Lại một cuộc tấn công khác đang bắt đầu. Trực thăng, lính nhảy dù, xe tăng, liên thanh đang được huy động để đổ bộ lên khu rừng. Nhưng Boris không còn sợ súng đạn nữa, không còn sợ chết nữa. Với hắn người ta chỉ chết khi người ta tưởng là phản đảng có lý. Boris đang sống và biết rõ cần phải làm gì, lúc nào hắn cũng trung thành với đảng. Dù đảng cũng rất có thể đang dùng hắn như một kẻ phục vụ vô danh. Boris nhớ lại một tướng Tây Ban Nha mà tên tuổi được đăng trên khắp báo chí, ngay cả trên các hộp quẹt Sô Viết. Trên đỉnh danh vọng, đảng đã quyết định rút tên đó lui để mình đừng làm phương hại đến chính tên tuổi mình hay đừng phạm vào những lỗi lầm lúc ông mang tên tuổi lừng danh đó... Người ta đã đặt cho ông ta một tên khác. Với Boris rất có thể đảng cũng sẽ hành động như thế. Trong một nước xã hội chủ nghĩa nếu biết tôn trọng khoa học thì thật là một điều dĩ nhiên khi không để tên giá trị cho một kẻ hèn mạt. Có thể là Boris không còn giá trị nào nữa chăng? «Nhưng cần gì, Boris thầm nghĩ, bổn phận mình là trình diện với Sô Viết và nói với họ rằng mình chấp nhận mọi sứ mệnh họ giao phó và tin cậy. Nếu họ muốn đưa mình đến nông trường, mình sẽ làm tròn bổn phận tại nông trường đó. Mình là cộng sản, thế là đủ, mình phải làm việc đến tận cùng của một đời người, và phải chết hoàn toàn theo cách của một đảng viên cộng sản.»

    Thế là hắn bước về phía làng mạc trong lúc lính đổ bộ lên rừng. Boris muốn bước đến gần đội quân đầu tiên hắn gặp trên đường. Khu rừng đã bị phong tỏa kỹ càng, một con chim nhỏ cũng không thể thoát ra được, Boris nhìn mà bỗng sung sướng: «Muốn có một tổ chức quân đội hoàn hảo như thế, dù phải hy sinh hàng triệu người cũng được; mình kiêu hãnh về việc nầy của Sô Viết. Chưa bao giờ mình thấy một đội quân nào hoàn hảo như đội quân đang bủa vây để quét sạch khu rừng nầy».

    Boris say sưa ngắm và khâm phục đội quân đang hùng hổ tiến lên mà quên cả đôi chân không giày đau đến rướm máu. Sung sướng hơn bao giờ hết, hắn bèn hát lại bản «Khúc nhạc rừng» mà hắn đã hát lúc làm việc để thay đổi khí hậu Nga Sô dạo nào. Cứ thế hắn bước dần đến phân đội cảnh sát đang tiến lên, sung sướng ngỡ rằng đó là quân đội Sô Viết.

    Hắn cũng hiểu rằng cá nhân hắn chẳng còn gì nữa cả, nhưng đối với Sô Viết, cuộc đời mới chỉ vừa hé mở. Sô Viết sẽ hùng cường, dần dần hùng cường thêm lên nhờ những đóng góp, hy sinh của từng cá nhân trong đó có cả hắn nữa. Boris hát ngày càng to, hát khúc nhạc «Canh tác sa mạc và thay đổi khí hậu». Nhìn xe tăng và trực thăng, hắn biết mình đã dính liền dù chỉ là vô danh, dù không có một ấn thưởng nào với cuộc cách mạng vĩ đại Sô Viết. Và đó là điều chính yếu đối với hắn: Được dính liền với biến cố lịch sử duy nhất do Sô Viết lãnh đạo. Nghĩ như thế, hắn bước nhanh ra khỏi rừng.

    °

    Một người lính mắt chếch da vàng thò đầu ra khỏi xe tăng nhin Boris, để yên cho hắn lại gần. Boris thì chân trần, áo rách tương, trong lúc người lính mang nón sắt, áo da. Áo giáp sắt làm hắn to hệt như một tượng sắt. Đúng là phong độ một người lính, hàm luôn luôn siết chặt nghiêm nghị. Đúng là một quân đội hùng mạnh với những chiếc xe tăng cao ngất nghểu, cao hơn cả nóc nhà thờ trong làng. Boris sung sướng với ý tưởng đó là quân đội Sô Viết, sung sướng thấy mình đang ra khỏi khu rừng để hòa mình vào guồng máy vĩ đại của lực lượng đang mang sứ mệnh chinh phục thế giới, và sự hòa mình đó là công việc quan trọng nhất trong đời Boris.

    Nhìn bộ mặt da vàng của người lính trên xe tăng, Boris nghĩ rằng người da vàng như Nhật Bản, Trung Hoa cũng góp phần vào lực lượng Sô Viết chứ không phải chỉ có người da trắng mà thôi, bởi đằng sau gốc xe tăng còn có cả người lính da đen nữa, thế có nghĩa là người da đen cũng được sung vào lực lượng Sô Viết như người Bắc Âu. Boris có cảm tưởng là tất cả giống người đều chiến đấu trong tình huynh đệ dưới ngọn cờ Sô Viết. Ở trên cùng một chiến xa, dưới cùng một ngọn cờ, đều có cả lính da vàng, da trắng lẫn da đen. Thế là Boris dong tay lên cao và đi về phía các họng súng trên chiến xa, đi về phía các người lính đủ màu da như là đi về với các đồng chí.

    Bỗng có lệnh : «Đứng lại» do một người lính da trắng hô to, bằng tiếng Đức. Hắn dừng lại và nghĩ rằng hàng triệu lính đủ màu da đủ ngôn ngữ đang chiến đấu trong quân đội Sô Viết. Người da vàng, dáng nhỏ con, bước xuống xe và đi về phía Boris. Boris hô to :

    - Hoan hô Sô Viết.

    Hô to như thế không phải là để làm hài lòng mấy người lính mà là hắn muốn tự làm mình vui lòng, vì đã ngưỡng mộ và trung thành với Sô Viết. Hắn muốn tìm ngôi sao đỏ trên nón sắt của người lính đang khám xét thử hắn có mang vũ khí trong người không, trong lúc các người lính khác cầm vũ khí sẵn sàng nhã đạn về phía hắn nếu cần. Ở cuối khu rừng vẫn vang rền tiếng nổ. Boris nói với người lính bằng tiếng Nga :

    - Tôi rất sung sướng được trở về với quân đôi Sô Viết.

    Đôi mắt Boris sáng ngời khâm phục khi nhìn bộ quân phục dã chiến cùng vũ khí mà các người lính đang mang trên người. Người lính da vàng dùng lưỡi lê ra hiệu cho Boris dang xa ra, nhưng Boris vẫn la to:

    - Hoan hô quân đội Sô Viết.

    Dù những người lính trên xe không hiểu tí gì, nhưng hắn vẫn cảm thấy cần nói với họ đôi lời, và hắn khổ tâm khi thấy họ nhìn đi nơi khác mà không thèm nghe hắn.

    - Hỡi các đồng chí, nếu các đồng chí biết là tôi đã chờ giây phút nầy từ bao lâu rồi, giây phút được trở về trong hàng ngũ Sô Viết...

    Một người lính chăm chú nhìn Boris rồi bật cười và nói với hắn bằng tiếng Anh:

    - Anh chờ cái gì mới được chứ?

    - Đồng chí không nói tiếng Nga ư?

    Boris hỏi thế vì cứ tưởng rằng Sô Viết cũng có nhiều quân đội Lê dương ở ngoại quốc.

    Người lính vẫn cười to và ra hiệu cho Boris dang ra xa. Boris cứ nói :

    - Tôi rất hãnh diện khi nhìn thấy quân đội Sô Viết như thế nầy. Người lính trên xe chỉ hiểu được có một tiếng Sô Viết thôi, và ông ta trả lời cho Boris bằng tiếng Đức:

    - Không còn Sô Viết nào nữa, hết rồi, hết rồi. Không còn Sô Viết ở đây nữa.

    Một người lính da ngâm đen hình như là góc Ý chỉ cho Boris cái huy hiệu trên ngực y có đề: «Liên minh thứ 9 của Lực lượng Đông Âu». Boris ngạc nhiên hỏi:

    - Thế ra ông không phải là lính của quân đôi Sô Viết?

    Một người lính lại trả lời bằng tiếng Anh :

    - Không còn Sô Viết nữa, không còn Nga Sô ở đây nữa. Bây giờ chỉ còn một thế giới thôi hiểu chưa?

    Boris ngơ ngác nhìn các chiến xa, các bộ quân phục; nhìn các bộ mặt đang đối diện với hắn, bỗng mắt hắn nhìn đúng vào bức hình tên thống chế trưởng giả mà hắn định tâm ám sát độ nọ khắc trên bảng súng lục của một người lính. Dưới bức hình có đề «Chỉ huy trưởng».

    Boris không muốn tin vào điều đã trông thấy. Vậy thì đây không phải là quân đội của Sô Viết? Vị chỉ huy trưởng lại là viên thống chế có nuôi con chó dạo nào ư? Boris đang ngơ ngác thì bị một mũi súng đẩy mạnh. Các người lính cả da vàng lẫn đen trắng đều nhìn hắn cười to và bảo hắn đi xa đi. Họ mang cùng một thứ huy hiệu nhưng không phải là huy hiệu Sô Viết, không phải là ngôi sao đỏ. Boris òa khóc và qua làn nước mắt, hắn trông thấy trên các chiến xa đều có giòng chữ «Made in U.S.A.» viết thật to.

    Mũi súng vẫn đẩy hắn ra đằng sau và bây giờ qua làn nước mắt, Boris thấy mình đang đứng trong một trại giam bao quanh bằng một hàng rào kẽm gai.



    KẾT
    Trong khu rừng, những người bỏ trốn đang kinh hoàng vì cuộc tấn công kéo dài gần một tuần lễ. Chưa bao giờ người ta giết nhiều người như thế. Chưa bao giờ người ta dội bom nhiều như thế. Chưa bao giờ người ta tấn công khu rừng nầy bằng ngần ấy lính tráng, vũ khí, thiết giáp và phi cơ.

    Có tin đồn từ lâu là Sô Viết đã lùi chân và mọi người có thể bình yên trở về thị thành, làng mạc. Hồng quân đã lùi binh và người ta không còn trông thấy bóng dáng người Nga nữa. Nông dân đã dám phá ngục ở Molda vì người Nga đã rút quân. Nhưng đúng vào lúc mọi người tràn trề hy vọng là nếu không còn người Nga nữa, họ có thể trở về sinh sống trong căn nhà mà người Nga đã đuổi họ ra từ lâu, đúng vào lúc đó thì cuộc tấn công tàn nhẫn bắt đầu. Những kẻ tị nạn lại cứ tiếp tục chui rúc trong các rừng rậm, số phận của họ cũng chẳng cải thiện được chút nào.

    Magdalena là người đẹp duy nhất trong rừng này, khu rừng mà từ một tuần nay con người bị cảnh sát săn đuổi như những con thú. Pillat say sưa nhìn đôi chân Magdalena. Người đàn bà bao giờ cũng là của đẹp trời cho, như bầu trời, như mặt trời. Người đàn bà soi sáng đời sống người đàn ông cho dù là trong bóng tối thâm cung nhất. Người đàn bà cũng giống như ánh trăng, đi đến đâu, bóng tối biến mất đến đó, người đàn bà làm cho mặt đất rạng rỡ thêm lên. Đôi chân Magdalena đang cử động nhanh, nàng đi mà như đang khiêu vũ, cả thân hình nàng như đang khiêu vũ với cây trong rừng. Nàng biến đi một hồi, rồi trở về òa khóc bên cạnh Pillat :

    - Họ giết tướng cướp tay không rồi, rõ ràng tôi thấy tận mắt hắn chết, chết hẳn rồi.

    Và nàng nức nở khóc, vì sợ hãi.

    - Ai chết?

    - Người nông dân có tên là tướng cướp tay không đó. Tôi dẫm phải xác hắn. Đi với tôi đi, tôi sợ phải đến gần hắn một mình. Rất có thể hắn giả vờ chết cũng nên. Đi đi. Hắn dễ sợ ngay cả khi đã chết, đúng là đồ quỷ.

    Magdalena làm dấu thánh giá. Pillat cầm tay nàng đi đến nơi tướng cướp đã chết. Trong thung lũng, trên mõm đá, người nông đàn nằm ngửa mặt lên trời, ống tiêu vẫn để trên ngực, chết trong đám cỏ hoa. Magdalena che mặt để đừng trông thấy cảnh tên cướp nằm sóng sượt trên mõm đá. Cảnh sát Sô Viết đã không thể nào hạ nổi hắn ta dù họ đã từng gởi nhiều đội quân cảnh để đuổi bắt hắn, thế mà bây giờ hắn phải chết bởi cuộc săn đuổi của cảnh sát của khối Liên Quốc Gia. Magdalena che mắt chỉ:

    - Đúng hắn đó.

    Pillat bỗng đau đớn:

    - Trời ơi hắn đây ư?

    Và chàng quỳ xuống bên cạnh xác chết:

    - Đúng là Ion Kostaky, cha của Marie đây rồi.

    Ion Kostaky vẫn mặc bộ áo Gia Nã Đại. Pillat cầm lấy bàn tay lạnh lẽo đang nắm chặt ống tiêu để trên ngực. Chàng sững sờ nhìn chiếc nón theo lối Mỹ, quần dài theo kiểu Anh và đôi ủng nặng nề của Đức. Chàng sững sờ nhìn ống tiêu muôn đời gốc Lỗ ma ni. Chàng sững sờ nhìn miệng Ion dính đầy máu, lấy tay chùi hết máu nơi miệng. Chàng không quên vuốt đôi mắt đang mở rộng nhìn về phía đại đồng minh của người Nông dân: Trời. Kostaky vẫn hình như đang mỉm cười thỏa mãn vì đã chết bên cạnh Trời. Chàng sững sờ nhìn dây lưng gốc Sô Viết, nhìn bộ quần áo đủ mọi quốc gia, ở khắp nơi mà Kostaky đã từng đổ máu lên đó, đã từng chết dần chết mòn, mọi quốc gia đều có giết Ion một phần, và Ion tượng trưng cho xứ Lỗ ma ni bất hạnh này. Chàng bảo:

    - Thôi chôn cất ông ta đi.

    Cả hai đào đất và đặt Kostaky nằm dài xuống hố. Ở trên đầu, họ cắm ống tiêu mà ông ta vẫn dùng để dạo khúc nhạc Doina.

    Và cả hai đồng quỳ xuống bên mộ đọc kinh: «Lạy Cha chúng tôi ở trên trời...»

    Và họ bỏ đi. Magdalena thúc dục:

    - Chúng ta lên trên cao kia đi. Trên đó không ai có thể đến được. Pillat bây giờ mới nói cho Magdalena hiểu:

    - Ông ta không phải là một tướng cướp, dù luôn luôn bị các chính quyền săn đuổi, kể cả chính phủ Liên Minh.

    Một chiếc trực thăng vừa khám phá ra Pillat và Magdalena. Ho trốn vào trong bụi rậm. Pillat bảo:

    - Nên để tôi chết ở đây. Tại sao các tổ chức đó vẫn cố giết người. Cô nói cho tôi biết đi, Ion Kostaky cũng chỉ là một con Người. Tại sao họ lại bắn chết con Người?

    Lính nhảy dù đang từ đỉnh núi tràn xuống. Pillat và Magdalena lại phải trốn vào một hố sâu. Bất ngờ họ vấp phải một xác chết đang chôn dở. Chắc là đồng bọn chưa kịp lấp đất. Xác chết mang áo dòng màu trắng. Magdalena cầu nguyện, trong lúc Pillat hỏi:

    - Tại sao tu sĩ mà cũng bị giết?

    - Vì tu sĩ trốn khỏi tu viện. Tu sĩ không có quyền ra khỏi tu viện nếu không sẽ bị xem như là đồ phản loạn. Mấy người mặc áo dòng trắng lưng đeo dây đai làm ruộng ở trên kia đều trốn khỏi Vatican.

    Magdalena rút trong áo một mảnh giấy: đó là lệnh của Liên minh Đông Âu thứ 9, gởi cho các tu sĩ Thiên Chúa giáo bỏ trốn, yêu cầu họ trở về tu viện. Lệnh do một tướng Mỹ, chỉ huy trưởng tối cao của Lực lượng An ninh thế giới và viên thống chế các người Slaves miền Nam, lãnh tụ khối Liên minh Đông Âu thứ chín đồng ký tên. Pillat hỏi :

    - Các tu sĩ đó bị tội gì đối với chính phủ Liên hiệp thế giới? Tại sao bắn họ, họ chỉ là những người rao truyền tình huynh đệ, tại sao lại giết họ? Họ có tội gì đối với Lực lượng «Một Thế giới»?

    - Các tu sĩ này bị kết án là đã không nhìn nhận vị lãnh đạo của họ. Họ có kể cho tôi nghe là tại các quốc gia họ đã có kỹ luật tôn giáo sẵn. Khi hòa bình đã tái lập, Đức Thánh Cha được phong làm Bộ trưởng trong chính phủ Liên hiệp thế giới, nhưng ngài không chịu nhận và chết vì buồn phiền lo âu. Nên người ta đã đem đến từ bên kia đại dương một Đức Thánh Cha khác không biết tiếng La tinh để thay thế. Các tu sĩ ở Vatican thì chỉ biết tiếng La tinh thôi nên họ không hiểu nhau. Các vị đó không chống đối gì, nhưng họ bỏ đi vào khu rừng này, và cảnh sát cứ theo đuổi mãi, dù họ chỉ biết cầu kinh suốt ngày.

    Một đợt máy bay xuất hiện trên trời, lính nhảy dù lại được thả xuống trên đỉnh núi. Magdalena lo sợ :

    - Đúng là sắp tận thế rồi!

    Nhìn đôi mắt đầy kinh hoàng của người thiếu nữ, bất giác Pillat nhớ đến một câu văn của Martin Luther nói về tận thế nhưng vẫn thanh thản như lời nói của Magdalena. Pillat nói bằng tiếng Đức «Und wenn morgen Weltuntergang ware, ich werde am heutigen Tage doch Apfelbaume pflanzen».

    Magdalena lo lắng:

    - Họ bắn đó, làm sao bây giờ?

    - Cứ làm như con người vẫn thường làm... «und wenn morgen Weltuntergang ware...».

    Đạn réo trong các bụi cây trên đầu họ, Magdalena áp má xuống đất, thầm hỏi:

    - Ông nói gì thế?

    Pillat dịch ra:

    - Ngày tận thế có đến trong ngày mai chăng nữa, hôm nay tôi vẫn trồng táo như thường...

    Một tràng súng làm Pillat im tiếng và Magdalena cũng hết nghe. Trong lúc máy phóng thanh trên một chiếc phi cơ vẫn loan tin khí tượng cho binh lính của chính phủ Liên hiệp thế giới, âm thanh vang lên trong thung lũng:

    «Trời vẫn đẹp, trời vẫn đẹp»




    Hết

Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-24-2019, 01:45 AM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-08-2018, 01:04 AM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-07-2016, 05:43 PM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-23-2016, 03:48 AM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-16-2016, 12:06 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •