Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Trên đời chỉ có một việc đáng nói là tình yêu vì nó là mầm mống của sung sướng và là nguyên nhân của đau khổ.
Ronsard
Trang 1 / 2 12 Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 20

Chủ Đề: Lối Thoát Cuối Cùng

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Lối Thoát Cuối Cùng

    Lối Thoát Cuối Cùng

    Tác giả : Constantin Virgil Gheorghiu

    Nguyên văn tiếng Pháp:La Seconde Chance

    Dịch giả: Hằng Hà Sa và Bích Ty




    MỤC LỤC [−]

    Phần Mở Đầu
    Cuốn Sách Của Những Người Do Thái
    Cuốn Sách Của Sa Mạc
    Cuốn Sách Của Sự Chiến Thắng
    Cuốn Sách Của Ô Nhục
    Cuốn Sách Của Những Cặn Bã Xã Hội
    Cuốn Sách Của Ô Nhục
    Cuốn Sách Của Sự Lùi Vào Bóng Đêm
    Cuốn Sách Kết Thúc
    Chỉ Còn Một Thế Giới



    Tiểu sử tác giả

    Virgil Gheorghiu

    Constant Virgil Gheorghiu sinh ngày 15- 9 - 1916 tại Lỗ Ma Mi, Constant Virgil Gheorghiu nghiên cứu triết học và thần học ở Gucarest và Heidelberg trước khi trở thành ký giả, rồi khâm sứ tại Bộ Ngoại giao Lỗ.

    (Gheorghiu tên thật là Constantin Virgil Gheorghiu, sinh ngày 15 tháng 9 năm 1916 tại Valea Albă, một làng trong cộng đồng Războieni, quận Neamţ, xứ Romania. Cha ông là một linh mục Chính thống giáo.)

    Chống đối chế độ cộng sản, ông sang Pháp ở vào 1948. Cuốn tiểu thuyết đã làm thế giới tự do biết danh ông là "Giờ Thứ Hai Mươi Lăm "; ông lại càng nổi danh hơn nhờ một cuốn khác viết về cuộc tái chiếm đóng xứ Bessarabie. Ông sang Mỹ sống một thời gian, sau đó trở lại Pháp. Ông đã dùng ngòi bút để chống đối mãnh liệt cái thời đại phi nhân của chúng ta hiện nay trong hầu hết các tác phẩm của ông (La Seconde chance, La Cravache, Les Mendiants de miracles ...). Ngày 23- 5 - 1963 V. Gheorghiu được tấn phong linh mục Giáo hội chính thống.



    Vài lời của nhà xuất bản
    Ngòi bút của Virgil Gheorghiu quả thật là chua chát và mỉa mai; bởi vì tác giả chống tất cả những chủ trương phi nhân. Các nhân vật của V. Gheorghiu sau những đày ải lần lượt chết đi dưới những vị kỷ khắc nghiệt được ngụy trang rất khéo léo bằng những chủ nghĩa hoa mỹ. Nhưng tất cả phải chết đi để cho ý thức nhân bản trong mỗi con người, mỗi xã hội được sống. Làm sao mà không chua chát và mỉa mai cho được khi mà hơn 20 năm sau, cuộc thế chiến hãi hùng, con người vẫn đang còn bơ vơ, lạc lõng, lo sợ trước những tranh chấp chủ nghĩa, trước những đe dọa đang đẩy họ vào những đường cùng không lối thoát. Và phải chăng V. Gheorghiu cũng đag viết về sự bế tắc của con người đau đớn trên xứ sở Việt Nam thân yêu.

    L.B



    Phần Mở Đầu
    Người ta không thể sống trần truồng. Có thể là người ta sống nghèo khổ rách rưới nhưng mày không còn một manh áo rách để mặc. Mày không còn gì nữa cả.

    Pierre Pillat nhìn bộ quân phục bằng kaki của Boris Bodnar, rồi tiếp tục:

    "Sau ba tháng, cảnh binh sẽ lột hết áo quần mày và trả lại cho nhà trường. Mày sẽ không còn gì để mặc nữa. Kể cả chiếc áo sơ mi. Kể cả một đôi giày. Không còn gì nữa. Mày sẽ trần truồng như lũ mọi lùn Papou. Mày sẽ là người trần truồng nhất thế giới . Mày muốn làm gì bây giờ?"

    Pierre Pillat nhìn thẳng vào mắt bạn, nhưng Bodnar lại nhìn xuống đất.

    " Người ta đã giao cho mày tờ giấy trục xuất chưa? " Pillat hỏi.

    Boris Bodnar tiếp tục nhìn xuống đất của sân trường. Hắn bỏ tay vào túi để rút tấm giấy trục xuất. Bộ đồng phục có bốn túi. Nhưng người ta đã cắt hết túi của những học sinh bị trục xuất để làm nhục chúng.

    Không tìm thấy túi ở vị trí thông thường, Boris Bodnar thò tay vào túi thứ hai ở ngực. Cũng đã bị cắt mất, và hai túi ở dưới cũng không còn nữa. Hắn đỏ mặt. Thì ra sáng nay, lúc 6 giờ, Boris Bodnar đã mặc bộ áo của những đứa bị trục xuất.

    Từ lúc đó, hắn sờ mấy túi áo không biết bao nhiêu lần, như một cái máy. Hai tay hắn sờ các túi áo trên, rồi mấy túi áo dưới, sau cùng buông thỏng xuống vô thức, chịu đựng. Những túi áo bị cắt đứt là một trong những nhục nhã đầu tiên của Boris Bodnar. Hắn nhìn một lần nữa vào các túi áo. Không những bộ quân phục chỉ thiếu túi. Người ta còn cắt cái viền vàng trên cổ áo, các đường viền dọc theo quần. Sáu cái nút áo cũng bị đứt mất. Không còn những chiếc nút mà hắn phải đánh bóng mỗi chiều - như tất cả mọi học sinh trường võ bị hoàng gia Kichiey - đánh cho đến lúc chúng bóng như vàng. Thay vào đó, chỉ còn những hột nút bằng sắt, nhỏ và đã hoen rỉ. Những khuy áo trở nên quá to so với mấy hột nút sắt đó. Không có những cúc áo vàng, khuy áo thật như những trũng mắt mà người ta đã móc con mắt.

    Không cần nhìn Pierre Pillat, Boris Bodnard cố tìm túi quần. Mỗi quần của bộ quân phục đều có bốn túi.

    Tất cả đều đã bị cắt mất, Boris Bodnar tức giận thêm. Hắn có cảm tưởng người ta đã mất vài mảnh thịt của thân thể hắn chứ không phải của bộ quân phục. Hắn nhớ đến bốn cái túi bên trong thường để đựng giấy tờ.

    "Mày muốn xem văn thư trục xuất của nhà trường giống cái gì hả"

    Hắn hỏi Pillat một cách mỉa mai, xong hắn đưa cho Pillat một tờ giấy màu vàng gấp làm tư. Đó là mảnh giấy mầu lá úa, thứ mầu đặc biệt dùng cho những trường hợp trục xuất, tử tức hay bị giam giữ trong bệnh viện.

    Pillat đọc:

    " Chiếu nội quy của các trường võ bị hoàng gia Lỗ Ma Ni, Boris Bodnar đã bị đuổi khỏi trường và chỉ có quyền mặc quân phục hoàng gia trong ba tháng tiếp theo lịnh trục xuất này. Các viên chức công quyền phải thi hành lệnh này và trả lãi quân phục cho trường Kichiev sau thời hạn ba tháng".

    Đọc xong, Pillat hỏi Boris:

    "Mày làm gì sau ba tháng nữa? Trần truồng ư? Mày phải về nhà với ông già bà già mày. Không còn giải pháp nào nữa"

    Pillat cầm văn thư trục xuất bằng tay trái. Tay phải đặt lên vai Boris. Áo Boris không còn cầu vai nữa. Không còn cái cầu vai có viền vàng mới dấu hiệu hoàng gia và con số của Hoàng đế Lỗ mã ni, người đỡ đầu cho trường võ bị. Không có cầu vai cái áo chỉ là một bộ đồ chết. Nói cho đúng, không phải là một bộ quân phục nữa, chỉ còn lại cái xác áo mà thôi. Chiếc áo không có cầu vai đó giống như một người đã bị chặt đầu. Vì thế trong lịch sử quân đội, cắt cầu vai cũng giống như kết án tử hình. Trước khi hành hạ, người ta cắt hết cầu vai trước mặt bạn bè. Cầu vai là cái đầu của một bộ quân phục.

    Từ 6 giờ sáng nay Boris không còn mang cầu vai nữa, Pillat có cảm tưởng tay nó đang đặt trên một cái gì đã chết. Ngay cả vải áo cũng đã chết, không phải chỉ vì thiếu cầu vai mà thôi. Những sợi vải áo cũng đã chết. Mảnh vải đó đã bị giết chết trước khi bộ quân phục được giao cho những đứa bị đuổi. Những bộ quân phục như thế sẽ bị vứt xuống dưới hầm. Nhưng trước đó, người ta đã phải hấp đi để tẩy uế. Cùng với những con vi trùng người ta sẽ giết mất đời sống của tấm vải kaki, sẽ làm nó nhầu nát. Những sợi chỉ sẽ chết trong hơi nước, dưới áp lực của ống hơi và các chất sát trùng, như những tế bào của một sinh vật phải chết dưới từng ấy áp lực. Mỗi năm một lần, các bộ quân phục đó sẽ được gởi đến các xưởng để làm dẻ vụn. Năm nay có tất cả mười bốn bộ được để lại Boris phải mặc trong mười bốn bộ đó. Pillat nói:

    "Nếu mày không về nhà bây giờ, mày sẽ lang thang ba tháng. Ông già bà già mày có giận dữ cũng vô ích. Cuối cùng rồi cũng phải nhượng bộ. Hai ông bà cũng không chém đầu mày đâu mà sợ. Họ sẽ cho mày áo quần khác. Trở về nhà đi cho rồi. Không còn giải pháp nào nữa đâu."

    Pillat rút tay khỏi vai của Boris. Bộ áo của thằng bạn có đã bắt đầu có mùi tẩy uế, mốc meo và cằn cỗi. Pillat tiếp tục:

    "Tao đã nói với bạn bè cả rồi. Chúng tao sẽ quyên tiền cho mày ra về". Boris nghiến răng. Hắn nói:

    "Tao không có bạn. Mày học đệ ngũ, mày không còn là bạn tao nữa. Tao bị ở lại, không lên đệ ngũ được. Mà cũng không học lại đệ tứ được nữa. Những đứa ở lại không thể vào trường học. Như thế tao đâu còn bạn bè nữa!

    Pillat vẫn nói: "Mày vẫn là bạn tao. Ngay cả khi mày không ở trong lớp. Tụi mình đã sống với nhau bốn năm trên cùng ghế nhà trường".

    Giọng Boris run run: "Mày đã làm bạn với tao bốn năm rồi. Nhưng bây giờ không còn như thế được nữa. Cũng thường chứ gì."

    Sân trường hình vuông, với những bức tường đầy màu xám, đã bắt đầu đông đúc. Năm trăm học sinh vừa mới ra chơi và nhìn vào mười bốn đứa thi rớt trong những bộ quân phục nhục nhã. Những đứa bị ở lại không có quyền vào lớp nữa, cũng không được vào phòng ăn hay phòng ngủ.

    Chúng phải ở ngoài sân, dựa lưng vào trường, vào các cột sân bóng tròn, sân bóng rổ hay sân quần vợt.

    Trong bộ y phục không còn cầu vai, bị cắt hết túi, không còn nút vàng, viền vàng, mười bốn đứa dựa lưng vào các cột, vào các cây dẻ của sân trường và các bức tường cao bằng đá. tất cả cúi gầm xuống đất.

    Pillat hỏi: "Mấy giờ mầy đi".

    Hỏi như thế để tan yên lặng, vì yên lặng tăng thêm khoảng cách giữa hai đứa.

    Boris nhún vai. Năm trăm học sinh dạo chơi trong sân trường - Với nút áo vàng, giầy bóng loáng - nhìn những đứa bị đuổi mà không dám lại gần. Chúng nhìn trong sợ hãi: Chúng biết những đứa bị đuổi phải bị trình diện như thể để làm gương cho mỗi đầu niên học: rồi chúng sẽ được lính dẫn ra cổng trường, đến nhà ga và vào trung tâm thành phố.

    Chúng là thứ cỏ dại người ta cần nhổ đi. Học sinh nhìn chúng bằng đuôi mắt, ở đàng xa mà không dám lại gần. Pillat đứng gần Boris. Chung quanh hai đứa là một khoảng trống. Chung quanh mỗi đứa bị trục xuất có một khoảng trống. Chung quanh mỗi đứa bị trục xuất có một vòng trống ác hại. Mấy đứa mang cầu vai hoàng gia sợ những đứa bị đuổi. Không đứa nào dám lại gần. Ngay cả những đứa trước kia rất thân nhau. Người ta đọc được trong cặp mắt chúng những cảm nghĩ tương tự như những người lái xe đến ngã tư thấy một chiếc xe bị nát bấy với một người bộ hành bị thương hay đã chết.

    Vì thế mà chúng dửng dưng. Sợ hãi còn mạnh hơn cả lòng thương hại. Nhìn mấy đứa bị đuổi, chúng tự nguyện là sẽ chăm chỉ trong năm tới; như những người lái xe tự nhủ là sẽ cẩn thận lái xe lúc họ nhìn bên đường một chiếc xe vỡ nát vì húc phải cây cối hay trụ đèn.

    Pillat hỏi: "Có gì đã xẩy đến cho mày? Tao không hiểu tại sao mày thi rớt?" Yên lặng. cặp mắt của Boris nhợt nhạt với những lông măng hiền lành cùng râu mép dưới mũi.

    Boris ngước mắt nhìn trời. Những đám mây đen trôi trôi về phương đông, thật mau thật vĩ đại, đám này cuộn theo đám kia. Về phía Đông chừng hai mươi cây số là sông Dniestr và bên kia sông là Nga sô. Boris nhìn những đám mây đang bay qua trên trường học, trên đầu hắn và nghĩ rằng trong chốc lát chúng sẽ đến Dniestr, sau đó bay qua Nga sô.

    Pillat nói: "Thật tao điên đầu, không thể nào hiểu nổi mày. Không một thằng bạn nào hiểu nổi điều đó. Mày vẫn là đứa giỏi toán nhất lớp. Mày đã giải nổi những bài toán mà không đứa nào làm được. Mày còn nhớ là tụi mình đã phải thi lại kỳ thi đó như một hình phạt cũng chỉ vì mình làm được bài toán và cho cả lớp chép. Nhưng không ngờ rằng chính mày - một thằng đứng đầu về toán, một nhà toán học - trời sinh lại không làm nổi bài thi kỳ này. Nói cho tao nghe đi, thầy giáo bảo là mày đã nộp giấy trắng. Mày đã không viết được một giòng nào cả. Có gì đã xảy ra cho mày, hả?"

    Trong giây lát Boris tiếp tục nhìn mây đen bay về phương Đông. Rồi hắn nhìn những hột nút vàng trên bộ áo của Pillat; sáu hột nút phản chiếu bộ mặt nhợt nhạt của hắn như hắn đang nhìn vào sáu tấm gương lồi.

    Boris hỏi: "Tại sao mày lại hỏi tao như thế? " Hắn trở nên nghi ngờ.

    " Dĩ nhiên như thế - Pillat trả lời - Mỗi chúng tao đều hỏi như thế. Bởi vì có một điều lạ lùng, bất thường nào trong đó chứ"

    Hết giờ chơi. Chuông reo inh ỏi. Học sinh liếc nhanh một lần chót những đứa bị trục xuất và hấp tấp vào lớp, để cho đúng giờ, để đừng bao giờ bị trể để khỏi trở thành những đứa ở lại lớp phải mang những bộ áo quần nhục nhã.

    Năm trăm học sinh cùng nghĩ như thế lúc chen lấn nhau vào lớp học. "Để chuyện đó đừng bao giờ xẩy đến cho mình ..."

    Pillat lại bảo: "Bây giờ đến giờ La Tinh. Tao bỏ học. Mày đi với tao ra sau đống gỗ, tụi mình nói chuyện yên ổn hơn".

    Sân trường vắng vẻ.

    "Không". Boris trả lời. (Hai tay bám vào bức tường đá đang dựa lưng) "Mầy thừa biết rằng học sinh trường Trung học Hoàng gia không có quyền nói chuyện với mấy đứa bị trục xuất. Ngay cả lúc đã rời trường mầy cũng không được liên lạc - dù chỉ là bằng thư từ - với chúng. Thôi, mày vào học giờ La tinh đi, nếu không người ta sẽ giam mày đấy".

    Pillat cầm tay hắn kéo về cuối sân trường và núp sau đống gỗ.

    Boris nói: " Không có nghĩa lý gì để nói nữa. Tụi mình xa cách nhau mãi rồi. Tụi mình đã là một đôi bạn tốt, thật như vậy; nhưng bây giờ thì hết rồi. mày sẽ là một sĩ quan, mặc đồng phục hoàng gia. Mày sẽ là một kẻ ưu tú của đất nước, của thành phần các sĩ quan: như người ta thường dạy như thế vào các giờ luân lý.

    "Không ai có thể chia cách con đường tụi mình cả" Pillat nói như thế và xiết chặt tay Boris. "Tụi mình đã là bạn là bạn tốt với nhau và cứ tiếp tục như thế. Cho dù có bị cấm đoán chăng nữa, tụi mình cũng cứ viết thư cho nhau. Không cần ký tên vào dưới bức thư. Tao biết mặt chữ của mày. Mày nhớ viết thư cho tao đều đặn nghe"

    Sĩ quan trực quan sát sân trường. Núp sau đống gỗ hai đứa không thể bị phát giác. Sau khi đã nhìn những đứa bị trục xuất dựa lưng vào tường, vào gốc cây, vào các cột sân thể thao, sĩ quan trực bỏ đi.

    Pillat bảo: "Cha mẹ mày giàu có. Họ sẽ gởi mày vào một trường học dân sự. Mày sẽ học nhảy hai lớp trong một năm ... "

    Boris đỏ mặt. Trên bộ râu mép, hai lỗ mũi hắn phập phồng.

    Hắn giận dữ: "Vào học giờ La Tinh đi và để cho tao yên"

    Pillat bảo: "Lấy tư cách bạn bè tao nói chuyện với mày, tại sao mày lại giận dữ cơ chứ "

    - Nếu mày tự nhận là bạn tao thì đừng nói về cha mẹ tao và cũng đừng nói chuyện tao nên trở về nhà nữa.

    Pillat đặt tay lên vai của Boris, vai áo không còn cầu vai nữa. Nhưng Boris vẫn nhìn mây đen trên trời đang bay về phía Nga Sô.

    - Tao không làm gì phiền mày. Boris ạ, tao chỉ khuyên mày nên trở về nhà. Chỉ vậy thôi. Đó là một lời khuyên hợp lý.

    - Tao không cần mày khuyên, Boris vừa trả lời vừa nhìn trời. Mày biết là tụi mình sẽ không còn bao giờ thấy nhau nữa. Con đường tụi mình đã bị chia cách rồi. Có thể đây là lần cuối cùng tụi mình cùng nhau nói chuyện. mày có biết tại sao tao không thích nghe nói về cha mẹ tao và nhà cửa tao không ? Tao sẽ nói cho mày nghe. Có thể là một sự trả thù về phần tao ... Mày biết là tao còn một đứa em ?

    - Boris run lên. Pillat hỏi :

    - Mày còn một đứa em? Sao tao không bao giờ nghe mày nói đến cả. Tụi mình cùng ngồi trên một ghế bốn năm trời ở trường. Tao cứ nghĩ là tụi mình đã không giữ gì bí mật với nhau cả. Riêng tao, ít nhất tao cũng đã nói hết cho mày nghe về mọi chuyện.

    Pillat có cảm tưởng bị phản bội. Nó tiếc đã tiếc vào học giờ La Tinh, đã ở lại với thằng bạn cũ của nó ở sân trường, thằng bạn đã nói láo với nó suốt bốn năm trời.

    Pillat nhìn sân trường. Nó thích trở vào lớp, và để Boris ở lại một mình. Nhưng không được nữa. Trễ quá rồi. Nó phải đợi giờ chơi sắp đến.

    Pillat hỏi: "Tại sao mày không bao giờ nói là mày còn một đứa em?", tiếng nói của nó có vẻ chua chat. "Tao có bao giờ giữ bí mật chuyện gì với mày đâu".

    - Thì tao nói với mày bây giờ đây: Tao có một đứa em, tên là Angelo. Chính thảm kịch xảy ra từ đó. Chính vì thế mà tao không thể trở về nhà. Mày hiểu không? Chỉ vì tao có một đứa em!

    Boris nhìn vào đôi mắt của Pillat như muốn chọc thủng chúng ra.

    "Angelo nhỏ hơn tao ba tuổi" Boris nói tiếp. Nhưng Pillat không còn quan tâm đến những lời nói của thằng bạn cũ nữa. Điều chính yếu là Boris đã dấu nó một điều gì, là Boris đã thiếu thành thật với nó.

    "Lúc tao được ba tuổi, có một chuyện xảy ra đã làm thay đổi hết đời tao. Mày muốn hiểu tại sao không?"

    Pillat nhún vai. Boris tiếp tục:

    "Câu chuyện chỉ có vài câu thôi. Nếu mày muốn nghe, mày sẽ hiểu tại sao tao đã giữ bí mật với mày. Hồi đó tao được ba tuổi. Tao đang ở sân chơi. Trước nhà tao có một cái sân với nhiều cây có hoa trắng, tao chỉ có ba tuổi nhưng tao nhớ rõ các chi tiết. tao mặc áo vải sợi màu trắng. mẹ tao bảo tao phải coi chừng đừng làm bẩn áo mới. Sau đó, bà để tao chơi trong sân dưới bóng cây. Angelo lúc đó mới được có mấy tháng. Nó ở trong xe, dưới ánh nắng. Mẹ tao bảo tao coi chừng nó. Không bao giờ tao ở một mình với Angelo. Lúc nào cũng có mẹ tao. Tao chưa hề nhìn kỹ nó bao giờ cả. Lúc bấy giờ, được ở một mình với Angelo, tao đến gần xe và tò mò nhìn nó. Một đứa bé, thật là một cái gì mới mẻ đối với tao, như một món đồ chơi.

    Tao nhìn đôi chân nó. Sờ những bàn chân hồng hào. Tao thích thú nghe nó la lên lúc tao bóp mạnh vào chân nó như thể tao ấn mạnh tay vào con búp bê. Rồi tao khám phá ra cái đầu, một cái đầu hồng hào, tròn như một trái bóng. Em tao đang nhắm mắt vì mặt trời chói. Thỉnh thoảng nó mới mở mắt ra và tao thấy rõ nó có đôi mắt thật xanh. Nhưng nó không chịu mở mắt hoàn toàn. Tao lấy tay banh mắt nó ra. Như thế tao mới hài lòng. Chúng thật đẹp, trong sáng và tao thích ngắm chúng lắm. Tất cả những gì mà Angelo có tao thích nhất là cặp mắt. tao thích mở chúng ra bởi vì Angelo cứ nhắm mắt lại thật chặt. Thấy nó không biết gì, tao bỏ nó và đi chơi đến đóng rác gần đấy. Lúc Angelo khóc, tao lại đến gần nó và banh mắt nó ra. Tao đã nhìn thấy một cái đinh trong cát. Và cũng tại tao mở mắt nó bằng ngón tay không được, tao đã dùng cái đinh để mở mắt nó ra mà nhìn. Nó khóc thét lên và vùng vẫy. Rồi thì tao ấn mạnh cái đinh vào mắt của Angelo. Mày hiểu không, tại tao muốn mở mắt mà nó cứ muốn khép lại. Tao lại thích đôi mắt quá, tao muốn ngắm chúng thử xem sao.

    "Tiếng thét của Angelo vang dội cả sân. Tao không còn biết chuyện gì xảy ra sau đó. Lúc mẹ tao đến, chiếc xe của Angelo đã đầy máu, áo trắng của tao đã đầy máu, tay tao đầy máu, má của Angelo cũng đầy máu. Với cây đinh tao đã đâm thủng mắt bên phải của Angelo, con mắt mà tao ưa thích ghê gớm. Mẹ tao la lên: Đồ sát nhân. Bây giờ tao vẫn còn nghe rõ: Đồ sát nhân.

    Mẹ tao bất tỉnh, nằm dài trên lối đi. Láng giềng chạy đến; đàn ông, đàn bà, sân nhà đầy cả người. Cha tao, vị mục sư cũng chạy đến; có cả một bác sĩ và ông chủ quán nữ .

    "Ký ức tao không còn rõ ràng nữa. Hồi đó tao dính đầy máu. Đó là tất cả gì tao còn nhớ. Đức cha và bác sĩ mang mẹ tao vào nhà. Chỉ còn lại những bộ mặt xa lạ. Một đám đông. Sau đó mẹ tao lại hiện ra. Hai người đàn bà lạ mặt cầm tay mẹ tao. Bà la to lên là phải treo cổ tao bởi tao là một kẻ phạm tội, một quân sát nhân trời sinh".

    Boris nhìn xuống đất.

    "Tất cả chỉ có thế. Từ ngày đó, nghĩa là ngày tao được ba tuổi, cuộc đời chấm dứt với tao. Tất cả mọi người, ở nhà, trong làng, tại trường học, ai cũng gọi tao là đứa sát nhân. Đối với tất cả tao là thằng phạm tội.

    "Từ ngày đó, bạn bè, thầy giáo, linh mục, hang xóm, cha tao, mẹ tao, lúc nào cũng xem chừng tao, không ngừng. Họ rình từng cử chỉ tao, từng hành động tao, từng lời nói tao, để cố khám phá ra những ý định tội lỗi.

    "Nếu vì cô ý tao đụng cùi chỏ vào một đứa bé, nếu tao bắn ná, nếu tao ném một hòn sõi, nếu cầm một con dao, một cái đinh, một vật bén nhọn, người ta sẽ kết tội tao là có ý định tội lỗi."

    Trên trời, mây đen vẫn bay về phương Đông.

    "Angelo lành bệnh, nhưng con mắt phải không còn nữa. Tao đã đâm thủng tròng mắt nó bằng cái đinh. Và con mắt xanh đã hỏng. Vòng mắt trở nên trống rổng. Mi mắt sụp hẳn xuống. Đó là một hình phạt khi tao phải luôn luôn nhìn trước mặt taotrong nhà, trước sân - vòng mắt trống rổng của Angelo. Tao nhìn con mắt trái còn lại của nó, thật xanh, thật đẹp, như một hòn đá quý, nhưng độc nhất. Bởi vì như tao đã nói, tao chưa bao giờ thấy một con mắt xinh và sang như con mắt trái của Angelo …

    "Tao không thể tự tha thứ cho mình đã dung đinh phá hủy mất ánh sáng của con mắt em tao.

    "Cũng từ đó, bắt đầu những ngược đãi đối với tao. Cha tao không còn cho tao hưởng gia tài nữa. tao không được ngồi ăn cùng bàn với Angelo và cha mẹ tao; tao phải cùng ăn với tôi tớ trong nhà. Tất cả gia tài đều mang tên Angelo. Tao đã được đối xử công minh như thế trong nhà. Angelo càng lớn lên, dân làng càng ghét tao. Mùa hè năm đó, tao đứng nói chuyện với một cô gái trước nhà. Chỉ nói được hai câu thôi. Nàng hỏi tao: "Anh có thích đôi mắt tôi không?" Tao trả lời có chứ. Tức thì, nàng lấy tay che mắt và bảo tao: "Nếu thích thì đừng chọc thủng mắt tôi". Và nàng ù té chạy.

    "Lúc tao đến trường, bọn trẻ lấy tay che mắt và la lên: "Coi chừng cặp mắt tụi bây ơi, Boris sẽ móc mắt đấy".

    - Thôi tha thứ cho tao, Pillat bối rối nói. Đừng nói nữa, tao van mày thứ lỗi cho tao.

    - Tại sao lại phải tha lỗi cho mày?

    - Tao đã hận mày vì mày đã dấu không cho tao biết là mày có một đứa em. Nhưng bây giờ tao mới biết mày không nói là phải.

    Pillat đặt tay lên vai áo không có cầu vai của Boris

    "Suốt thời kỳ tao còn trẻ, mẹ tao đã cầu trời cho tao mang bệnh, sốt tinh hồng nhiệt hay đậu lào, hay một bệnh đáng sợ nào đó để tao chết đi. Ai cũng mong tao chết đi. Người ta gửi tao đi kiếm nấm ở trong rừng bắt tao nếm thử với hy vọng tao sẽ nếm phải một chất độc và chết đi. Trong làng, trong nhà, trong xã hội, tao là đứa cần được khai trừ.

    "Từ năm ba tuổi, tao đã phả tự kiểm điểm mọi cử chỉ, vì một cử chỉ tầm thường nhất có thể bị xem như là một cử chỉ tội lỗi khiến người ta giận dữ. tao sống như thế đó, cô đơn, sợ hãi, bị khinh bĩ.

    "Mấy đứa trẻ thường vật tao xuống đất, lục túi xem thử tao có giữ đinh, dao, hay một vật bén nhọn nào không. Bởi vì tất cả cái gì tao có đều nguy hiểm. Và mỗi lần như thế chúng đánh tao. Không bao giờ tao giữ một con dao nhỏ. Tao phải cắt thịt bằng răng trong bữa ăn".

    Pillat nói: "Boris, tao thương hại mày quá, nếu tao biết như thế…

    Nhưng Boris bỗng hỏi: "Mày biết tại sao tao thi trượt không? Nếu mày muốn biết, tao sẽ nói với mày bây giờ. Bởi vì tao không thể học hành gì suốt mùa hè. Tao không có can đảm nói với cha mẹ tao là tao sắp thi toán. Để họ khỏi nghi ngờ tao phải học ban đêm. Nếu không thì đã lắm chuyện xảy ra! Họ đã xem tao như một thằng con nít ngu si. Đêm tối, thức giấc, họ thấy tao ngồi giải toán đãi số. Họ bèn cho tao một bài học như thế này: "Trời sinh ban đêm là để cho người ta ngủ, những sinh vật bình thường đều ngủ về đêm". Tức thì tao đốt hết sách vở và không thể nào học nữa. Đó là lý do tao thi rớt và bị đuổi khỏi trường là thế".

    Boris thôi kể lể. Sau một hồi im lặng, hắn nói tiếp :

    - Bây giờ mày biết hết chuyện rồi đó, mày còn khuyên tao trở về nhà nữa không ?.

    Pillat nhìn ra xa, Boris lại nói :

    - Gia đình tao chỉ chờ một cớ nhỏ để đuổi tao. Bây giờ họ có rồi đó. Trông thấy tao trong bộ y phục này, với mãnh giấy trục xuất này, họ đủ yếu tố để chứng minh tao là một đứa xuống dốc, một thằng phạm tội. Và họ sẽ hung dữ hơn nữa. Vả lại họ không cho phép tao trở về nhà nữa đâu, cho dù chỉ về trước sân nhà thôi. Trong làng cũng không ai cho tao tạm trú. Như vậy thì còn lý do gì nữa để tao trở về, mày thấy không, không còn lý do gì nữa cả.

    Một thứ yên lặng nặng nề tiếp theo ? Pillat nhấc ống quần lên một chút, rút một bao thuốc lá dấu trong giầy ra trao cho Boris, Boris vấn thuốc, tay run run.

    Pillat nói : « Chưa bao giờ tao nghe nói hay đọc được một câu chuyện đau lòng như câu chuyện của mày. Cũng chưa quen biết một ai phải chịu khổ sở như mày. Làm sao mày có đủ nghị lực để dấu kìn nổi cô đơn đó, Boris. Tao chưa hề đoán được như thế. Không đứa nào bạn bè, thầy giáo đoán được câu chuyện của mày. Một điều duy nhất mà tụi tao biết được là mày bắt đầu gầy đi và bực bội khi hè đến. Tao đã ngạc nhiên là chưa bao giờ mày có một lá thư ở nhà. Mày là đứa duy nhất không có thư; trong bốn năm, không có một lá thư. Có đúng là chưa bao giờ mày nhận thư, phải không Boris nhỉ ?

    Mắt Boris ươn ướt, hắn không trả lời Pillat. Chỉ nhìn mây bay

    Hắn thích nhìn những cuộn mây bay ngang trên đầu hắn. Về phương Đông. Duỗi chân ra hắn châm một điếu thuốc. Bỗng hắn chú ý đến đôi giầy đang mang. Đôi giầy của những «đứa bị đuổi » cũng không thành đôi nữa :chiếc bên trái to và sẩm hơn.

    Pillat hỏi : « Có bao giờ mày tìm nguồn an ủi nơi Chúa trời không ? bởi Chúa là một nguồn an ủi lớn lao cho những ai quá đau khổ ».

    Hai đứa ngồi xuống cát, hút thuốc. Boris yên lặng.

    - Mày có bao giờ cố gắng tìm về với Chúa ?

    - Tao đã cố thử. Trong hoàn cảnh tao, khi mà không thể đến gần bất cứ ai trên trần gian thì dĩ nhiên tao phải tìm đến với Chúa. Khi lần đầu tiên tao nghe có một kẻ ở bên kia thế giới - ở trên trời - biết tha thứ, tao đã nhảy vào long người với tất cả đam mê.

    - Tao tin là không một đứa trẻ nào cầu Chúa với nhiều nhiệt thành như tao. Tao không thể yêu Chúa với một tình yêu nào cao hơn nữa. Bởi tao đang cần một người biết tha thứ. Và người ta thường bảo Chúa tha thứ hết cho mọi người. Tao phải nói chuyện với Ngài luôn luôn, không ngừng, như nói với một người bạn. Tối đến tao cầu nguyện hang giờ, vừa khóc vừa cầu nguyện.

    - Nhưng Chúa có trả lời mày không? Pillat hỏi.

    - Có chứ! Nhưng mà cũng trả lời tao như mọi người thôi. Hình như Ngài cũng muốn kéo tao vào một cạm bẩy. Cho nên sau đó tao đã hết sức trốn ngài như tao đã trốn tránh loài người vậy. Chúa đã hiện hữu cạnh tao. Tao nhận được hơi thở của Ngài. Thế mà từ hồi mới sáu tuổi, tao đã chắc chắn là không nên cầu nguyện, nên tao đã tránh xa Ngài và tao phải ở vậy, cô đơn.

    - Mày không cầu nguyện nữa từ hồi sáu tuổi?

    - Không, Boris bảo hồi sáu tuổi tao đã lánh xa Chúa trời. Chỉ vì một cuộc phiên lưu tầm thường. Một buổi chiều, lúc tao đi học về không thấy cha mẹ tao ở nhà. Họ đã ra phố với Angelo. Không ai ở nhà cả. Mọi cánh cửa đều khóa kín. Tao phải ở một mình ngoài sân như mấy lần trước. Đêm đến tao vừa buồn ngủ vừa đói. Lại phải còn làm bài tập cho ngày hôm sau. Ngỡ là cha mẹ tao không trở về nhà đêm đó, tao cố tìm cách mở cửa để vào nhà. Tao cô đơn trong lạnh lẽo và sợ hãi. Cầm một sợi dây sắt, tao cố mở cửa, nhưng khó quá, tao mới có sáu tuổi thôi. Tao bèn quỳ xuống trước cửa và cầu xin Chúa giúp đỡ cho tao được vào nhà, cho tao đừng ở ngoài trời suốt đêm. Tao phải cầu xin, bởi một mình tao không thể nào mở cửa được.

    - Và Chúa đã phù hộ mày?

    - Vâng, Chúa đã phù hộ tao. Tao đã hết sức cầu nguyện, đã cầu nguyện bằng nước mắt để Ngài giúp tao mở cửa. Tao có cảm tưởng là Ngài đến bên tao, giúp tao. Trong chốc lát, tao mở được cửa vào nhà. Trời ấm quá. Sung sướng đến độ không cần không cần thấp đèn tao quỳ xuống cám ơn Ngài. Lần đầu tiên tao chắc chắn là mình không còn cô đơn trên đời. Tao đã có bạn: Chúa trời. Pillat ạ, mày không tưởng tượng nỗi sung sướng của một kẻ tìm thấy bạn trong lúc mọi người đang ghét bỏ mày. Và tao đã có bạn, một người bạn mà tao có thể gọi đến bất cứ lúc nào: tao không còn cô đơn nữa. Tao ở với Chúa, ở như thế rất lâu trước bàn thờ. Không thể xa rời, người bạn đó nữa. Bởi vì đó là báu vật duy nhất của tao khi tao đã không còn ai nữa cả - không cha, không mẹ, không bạn bè - lúc nào cũng thấy toàn kẻ thù khắp nơi, những kẻ chỉ mong tao chết đi…

    - Bây giờ đã có một kẻ không gọi tao là thằng phạm tội và sẵn sang giúp đở tao. Kẻ đó là Chúa. Đêm đó tao không có gì ăn cả, nhưng tao vẫn sung sướng, quên ăn, quên bài tập, quên mệt nhọc, quên cô đơn, quên luôn cả những niềm đau đ ớn của mình. Tao sung sướng quỳ gối trước tượng Chúa, trước người bạn duy nhất của tao, suốt đêm.

    - Nhưng lúc đó cha mẹ tao và Angelo trở về, trong những bộ y phục dạo mát. Chắc là họ đã đi ăn ở nhà hang và đã đi xem chớp bóng.

    - Mới bước vào nhà, họ đã vội nổi nóng khi thấy tao quỳ trước bàn thờ. Chưa kịp thắp đèn cha tao đã hỏi to: "Thằng phạm tội đâu rồi". Sau đó tao không còn biết gì nữa. Cha tao nhào xuống, đạp tao bằng đôi giày còn mới tinh của ông; mẹ tao cũng đến tiếp tay. Cha tao lại la lên: "Thằng phạm tội, mày tưởng là tao nuôi mày để bẻ ổ khoá, để chỉ cách cho người ở vào nhà trong lúc tao đi vắng hả?

    - Họ đánh đập tao tàn nhẫn, người tao be bét máu. Tao phải bỏ ra ngoài nhà và ngủ trên chiếc ghế dài.

    Thân thể tao đầy cả thương tích và máu me. Nghĩ đến đức Chúa trời, bạn tao, tao bảo thầm: "Lạy Chúa, Ngài biết trước tất cả những gì xẩy ra cho con như thế này, tại sao Ngài còn giúp con mở cửa làm gì? Hình như tao nghe Ngài trả lời này: "Boris. Con đã cầu xin và Ta đã giúp đỡ con hết lòng". Nhưng lạy Chúa, Ngài thừa biết những gì con cầu xin là trái phép. Ngài thấy không người con bây giờ bầm tím và đầy cả máu. Ngài thấy họ đánh đập con. Nếu Ngài đừng giúp con mở cửa sẽ không xẩy ra như thế này. Sự phù hộ của Ngài không thể là sự giúp đỡ thật lòng của một người bạn tốt được. Ở địa vị Ngài, con sẽ không giúp đở cho một ai hoàn thành một điều gì xấu xa" - Ta luôn luôn chấp nhận những gì, con người cầu xin - Chúa trả lời như thế. "Nhưng thưa Ngài, con mới có sáu tuổi, con chưa phân biệt được xấu tốt như thế nào. Tối nay xin Ngài giúp con mở được cửa con tưởng là một điều tốt: Nhưng chuyện đã xảy ra như một điều xấu. Còn với Ngài, Ngài biết rõ đâu là tốt và đâu là xấu.

    "Chúa không trả lời tao nữa hay là Ngài trả lời tiếp mà tao không nghe nữa, vì đã quá mệt. Tao đả khóc trong giấc ngủ. Tao không hận Chúa, nhưng tao sợ phải cầu xin một điều gì xấu xa. Từ đó tao không cầu xin gì nữa. Nếu tao cầu nguyện, tao sẽ nói thật giản dị - "Lạy Chúa, con xin Ngài một điều, hãy giúp con điều gì Ngài muốn."

    Ngay cả mùa hè này tao cũng không hề cầu nguyện cho kỳ thi"…

    - Mày không xin Ngài cho mày thi đỗ? Pillat hỏi.

    - Không, tao đã xin Ngài giúp tao nếu Ngài thấy thi đỗ là một điều tốt. Nhưng ngược lại, nếu tốt hơn nên để tao thi trượt …

    - Thi trượt chắc chắn không thể là một điều tốt được. Mày nói như thế thì quá đáng rồi. Trong trường hợp này, tốt với xấu khác nhau quá xa.

    - Panait Istrati đi Pháp và trở thành một văn sĩ lừng danh, cũng nhờ lúc làm bồi cho quán Braïla, ông đã bị chủ nhà đánh đập và tống cổ ra khỏi cửa. Nếu chủ quán đừng đuổi ông ta ra khỏi nhà thì ban đêm Istrati đã không mặc độc một chiếc sơ mi rời xứ sở và đã không trở thành văn sĩ như bây giờ. Ông ta sẽ tiếp tục làm bồi cho quán Braïla và biết đâu lại chẳng trở thành một chủ quán tầm thường như trăm nghìn người khác. Thế đó, trong mỗi điều xấu biết đâu lại chả có điều tốt. Chỉ vì chúng ta không biết đâu là điều tốt đâu là điều xấu mà thôi.

    - Mày muốn đi ra ngoại quốc? Pillat hỏi.

    Boris ngước mắt nhìn mây bay về phương Đông.

    - Làm sao mày biết được điều đó nhỉ! Vâng, tao muốn đi. Cũng không phải tao muốn nữa, mà tự nhiên phải vậy. Bỏ đi là một điều bắt buộc. Không còn giải pháp nào nữa. Tao muốn đi và làm lại cuộc đời. Đi đến một nơi không ai biết tao là Boris Bodnar một thằng đâm thủng mắt đứa em; một nơi không có ai nghi ngờ tao, mà các thiếu nữ mỗi lần gặp tao không còn che mắt la lên: "Anh thấy đôi mắt tôi đẹp chỉ vì anh thích đâm thủng chúng". Pillat, tao không phải là đứa hung bạo. Tao không hề muốn đâm thủng mắt ai cả. Đó chỉ là một tai nạn … Tao chỉ là một đứa bé … Tao không phải là một kẻ phạm tội.

    - Mày muốn đi đâu? Pillat hỏi.

    - Qua Nga sô, bởi vì Nga gần hơn cả. Chỉ vài giờ đi bộ tao sẽ đến sông Dniestr, sau đó tao bơi qua sông.

    Boris yên lặng trong chốc lát rồi tiếp tục: "Nội trong đêm nay, tao sẽ có mặt ở Nga sô. Vì thế tao không cần tiền. Nhưng dù sao tao cũng cám ơn mày đã cho tao tiền.

    Pillat nói: "Mày không biết sự khủng bố đang bao trùm trên đất Nga hay sao? Mỗi mùa đông mày có thấy những người tỵ nạn vượt băng giá trên song Dniestr cho dù có thể bị giết chết hay sao?

    - Tao biết chứ, nhưng sự khủng khiếp mà tao phải chịu đựng ở đây còn lớn hơn gấp bội. Vì ở đây, chỉ một mình bị khủng bố mà thôi; còn ở Nga sô, nếu thực sự có khủng bố, thì đó là một chuyện tập thể. Thực là một điều lớn lao nếu mình có được bạn đồng hành, ngay cả đồng hành trong sự đau khổ. Sự cô đơn là nỗi đau đớn lớn nhất trần gian. Người ta có thể cùng chung chịu đựng sự khủng bố lớn lao nhất, nhưng cô đơn thì chết được. Với tao, tao không nghĩ là cuộc đời tao ở Nga sô sẽ khổ hơn ở đây. Từ hồi ba tuổi đến giờ, tao chỉ biết có rình mò, nghi ngờ, kết tội nhục nhã và đố kỵ …, Với tất cả điều đó, tao tin ở Nga sô tao sẽ được tự do hơn.

    - Tại sao mày muốn bỏ quê hương mà đi. Cứ ở đây và đừng về nhà?

    Ở Lỗ Ma Ni, tao luôn luôn phải tự nhận là tao bị trục xuất khỏi trường học, tao là một đứa phạm tội đã chọc thủng mắt em. Ở xứ này, cha mẹ tao, láng giềng, bạn bè ai cũng có thể gặp tao cả. Ở xứ này, con mắt Angelo và sự kết án của mọi người theo tao suốt đời. Trái lại ở Nga sô, không ai phải lấy tay che mắt lúc gặp tao đi ngoài đường; đó là lý do chính khiến tao ra đi.

    Boris nói tiếp: "Có thể tao bị giết khi vượt qua sông Dniestr, vì biên giới được canh gác rất cẩn thận. Nhưng ý nghĩ chết chóc không làm tao sợ hãi. Tao đã quen với ý nghĩ đó hơn là ý nghĩ được sống. Nhiều lúc tao nghĩ là thà lính gác bắn tao ở biên giới đó cho khoẻ!

    - Đừng nói nhảm. Pillat bảo, và vấn thêm một điếu thuốc, vừa nhìn đồng hồ.

    "Còn 15 phút nữa mới đến giờ ra chơi" Rồi Pillat bỏi Boris thêm:

    - Nhưng tại sao mày đã dấu kín chuyện đó? Nếu mày tâm sự với tao mày sẽ thấy dễ chịu hơn nhiều. Biết đâu tao lại không giúp được gì cho mày. Mày lầm lẫn lớn khi cố tình giữ bí mật chuyện đó, đáng lý nên nói với tao là hơn.

    - Nếu tao kể cho mày nghe, biết đâu mày chẳng coi chừng tao để xem thử tao có phải là một "quân sát nhân trời sinh" hay không?

    - Dĩ nhiên là không?

    Boris nhìn mấy mảnh giấy và ít tiền trong bao thuốc của Pillat. Pillat bảo:

    "Tao muốn làm bất cứ điều gì cho mày, bất cứ điều gì mà mày thích"

    - Tao không muốn đòi hỏi gì ở mày cả. Mà thật ra tao đòi hỏi gì ở mày bây giờ chứ và hắn tiếp tục nhìn vào bao thuốc lá. Pillat lập lại:

    - Tao sẽ làm bất cứ điều gì mà mày muốn.

    - Tao thấy mày có một chiếc ảnh trong bao thuốc (Boris đỏ mặt). Chắc là ảnh của một đứa con gái. Mày có thể cho tao hay không nhỉ?

    - Tao sẵn sàng cho mày đấy, Pillat nói thế, và rút tấm ảnh ra, chiếc ảnh một nữ sinh loại nhỏ như ảnh căn cước, nhỏ bằng một con tem mà thôi.

    - Có phải bà con của mày không? Boris vừa hỏi vừa cầm tấm ảnh, nhìn cô gái trong bộ đồng phục cổ trắng.

    Đó là ảnh một thiếu nữ trạc tuổi chúng, đang còn vị thành niên. Pillat trả lời: "Đó là một nữ sinh trường âm nhạc, tên Eddy Thall. Tao cũng chỉ biết có thế mà thôi. Không phải nàng cho tao tấm ảnh, tao tìm thấy nó trong một cuốn sách ở thư viện trưởng.

    Cả hai đứa cùng ngắm vẻ đẹp ngây thơ của Eddy Thall. Pillat bảo:

    - Nàng đẹp lắm. Đang theo học khiêu vũ và nghệ thuật diễn xuất.

    - Mày yêu nàng lắm hả? Boris hỏi.

    - Tao chưa có dịp nói chuyện nhưng tao yêu nàng vô cùng. Tao chỉ thấy nàng đi với bạn bèn ngoài phố vào một dịp nghỉ hè.

    Người con gái trong ảnh mỉm cười. Pillat nói:

    - Tao cho mày đấy, mày có thể cầm lấy.

    - Không, tao không lấy đâu. Boris trả lời, và đưa trả tấm ảnh cho Pillat. Pillat hỏi: "Mày không thích hay sao?’’

    - Thích lắm chứ, với lại nàng đẹp lắm, Boris ngập ngừng chốc lát, tao thích đem ảnh này theo lắm. Có nó tao cũng bớt cô độc, ít nhất tao cũng còn một tấm ảnh bên mình.

    - Thì mày lấy đi.

    Tấm ảnh của Eddy Thall vẫn ở giữa hai đứa, trên cát.

    "Tao sẽ bơi qua sông Dniestr. Nếu tao mang theo, nó sẽ hư mất. Rút cục, tao cũng không có nó lúc qua bên kia sông ; tao cũng vẫn cô độc. tấm ảnh lại cũng mất đi. Như thế tao mang nó theo là phi lý. Tao từ chối là phải. Tuy nhiên trong thâm tâm tao vẫn thích cô nó bên mình’’

    Đến giờ ra chơi, Pillat cầm lấy tấm ảnh, bọc lại trong một mảnh giấy dầu và bỏ vào bao thuốc. Pillat nhét bao thuốc vào giày xong, bèn lẫn vào đám đông đang tràn ngập sân trường võ bị Hoàng gia Kichiev.

    Boris ở lại một mình, cúi gầm xuống đất. Hắn thầm nhủ : ‘’ Đến không còn cả một tấm ảnh bên mình. Mình không mang theo tấm ảnh của cô nữ sinh trường âm nhạc đó, nhưng mình sẽ mang tên cô ấy theo. Và với tên nàng trong lòng, mình sẽ bơi quan bên kia sông Dniestr ?’’

    Khi người ta không còn gì nữa cả. Hoàn toàn không còn gì cả, thì chỉ một tên người con gái biết được nhờ một tấm ảnh mà thôi cũng là một điều đáng kể rồi. Chỉ cái tên thôi. Tên rất đẹp. Thật đẹp. Và boris thấm gọi : ‘Eddy Thall’ Vừa thầm gọi tên nàng vừa mỉm cười ; hắn lập lại : ‘Eddy Thall’ …




  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CUỐN SÁCH CỦA NHỮNG NGƯỜI DO THÁI
    I
    Eddy Thall đặt chiếc dao rọc giấy trên mâm thức ăn sáng. Nàng đọc lại bức thư, rồi quay nhìn người đàn bà mặc áo trắng đang kéo tấm màn phòng ngủ.

    - Tinka, vú lại đây xem, vú biết cô này không?

    Người vú già cầm lấy tấm ảnh nhỏ bằng con tem. Bà ta đưa ra xa hơn một chút để nhìn cho rõ hơn, ngắm nghía bộ đồng phục đen, cổ trắng. Tinka Neva chớm khóc, bà xúc động dễ dàng và khóc ngay mỗi lúc có người nhắc đến một sự kiện hay một điều gì về quá khứ của bà hay của gia đình họ Thall.

    Tinka vừa lau nước mắt vừa bảo: "Đúng là cô Eddy chứ còn ai vào đây nữa!"

    - Tôi vừa mới nhận lại được sáng nay đấy, Eddy bảo do một người ái mộ tôi gửi trả lại. Tinka, vú tưởng tượng xem, một cậu con trai si tôi từ hồi tôi mới mười lăm tuổi.

    Kéo cái gối lên tận vai. Eddy cầm bức thư và nói với người vú già: "Vú nghe anh ấy viết cho tôi như thế này đây:

    Thưa cô,

    "Cách đây mười lăm năm, khi cô còn là một nữ sinh của trường âm nhạc, cô đã bỏ quên tấm ảnh này trong một cuốn sách ở thư viện. Tôi thấy được và giữ nó đã lâu lắm, đợi cơ hội trả lại cô tận tay. Nhưng cơ hội đó không bao giờ đến hay nói cho đúng, tôi đã không có can đảm tìm đến cô để trả lại bức ảnh dù tôi đã trông thấy cô nhiều lần ngoài đường, ở ký viện, ở hiệu bánh, ở công viên. Cô có đến Neamtz suốt cả mùa hè. Và tôi đã thấy cô mỗi ngày. Ít lâu sau cô trở thành một nghệ sĩ danh tiếng, rồi tự thành lập một hý viện? Dù đã lớn tôi vẫn thiếu can đảm. Lần này không phải sự e dè của tuổi thành niên làm tôi nhút nhát, mà chính vì danh vọng sang chói của cô. Chiều qua, tôi đã trở về nhà, tìm lại bức ảnh mà tôi mong cô nhận lại với tất cả lòng ngưỡng mộ sâu xa của tôi

    Pierre Pillat

    Thẩm phán

    Tinka đứng nghe cạnh giường. Eddy nói tiếp: Còn một giòng tái bút nữa đây:

    Bức ảnh này đã có một người xin, bạn tôi Boris Bodnar, trước khi hắn trốn sang Nga. Hắn bị đuổi khỏi trường võ bị và đã vượt sông Dniestr. Chiếc ảnh này đáng lý đã du lịch sang phương Đông. Tôi lấy làm sung sướng đã giữ lại được để bây giờ trả lại cho cô, dù không phải tôi chỉ yêu một mình nó mà thôi.

    Eddy Thall buớc xuống giường. Nàng nhìn chiếc đồng hồ treo nhỏ màu xanh da trời. Đã 8 giờ sáng. Thấy Tinka đang khóc, Eddy hỏi:

    - Có chi mà nghe bức thư đó vú lại khóc?

    - Eddy à, lời lẽ trong thư thật đẹp, đẹp đến nỗi tự nhiên nước mắt tôi trào ra.

    - Hồi nhỏ tôi có đẹp không vú nhỉ? Đẹp đến độ người ta phải si mê một bức ảnh?

    - Cô Eddy lúc nào mà chẳng đẹp.

    Tinka nói thế và đặt mâm xuống. Eddy Thall đọc nốt các bức thư khác, rồi cầm lại bức thư của ông thẩm phán Pierre Pillat. Nàng nghĩ đến cậu học trò đã trốn sang Nga và tiếc rằng Boris Bodnar đã hỏng thi và bị trục xuất khỏi trường học.

    Eddy Thall là một nghệ sĩ hữu danh. Cho nên mỗi ngày nàng nhận không biết bao nhiêu là thư từ của những kẻ hâm mộ. Nhưng không lá thư nào làm nàng thích thú bằng lá thư của Pillat.

    Bỗng Tinka bước vào phòng ngủ bảo:

    - Có hai ông cảnh sát muốn gặp cô đấy.

    Giọng Tinka có vẻ thay đổi vì sợ hãi.

    - Hãy bảo chờ tôi uống xong cà phê đã.

    - Họ gấp lắm, muốn nói chuyện ngay. Tôi đã bảo cô ngủ chưa dậy. Nhưng họ đã vào phòng khách và đang chờ cô đấy.

    Eddy cầm lược chải đầu. Nàng bực dọc bước ra phòng khách. Hai người cảnh sát trẻ mang áo mưa đang đứng đấy. Nàng mời họ ngồi xuống, xé một tờ lịch và nhìn họ như lúc nàng đang diễn xuất trên sân khấu.

    - Các ông cần điều gì ạ?

    Họ vẫn đứng. Eddy hỏi tiếp:

    - Tại sao các ông không chịu ngồi xuống?

    Nàng vò tấm lịch đề ngày 9 tháng giêng năm 1940 và vứt vào sọt rác.

    Một trong hai người cảnh sát lên tiếng:

    - Chúng tôi xin phiền bà cho lập một biên bản.

    Người thứ hai mở chiếc cặp da trong lúc người kia tiếp tục hỏi:

    - Người đàn bà ra mở cửa cho chúng tôi có phải là người giúp việc cho bà không?

    Eddy trông hai người đứng đắn như hai học sinh ở nhạc viện và nàng mỉa mai trả lời:

    - Người đàn bà ra mở cửa cho hai ông là vú già của tôi đó.

    Một người rút một cuốn sổ tay ghi chép trong lúc người kia hỏi:

    - Bà ta giúp việc đã bao lâu?

    - Khi tôi sinh ra thì bà đã giúp việc cho cha mẹ tôi rồi.

    - Cách đây mấy năm, thưa bà?

    - Tôi nghĩ chừng bốn mươi năm rồi, nếu mấy ông muốn biết rõ hơn xin cứ hỏi thẳng bà ấy ắt biết ngay.

    - Lương tiền như thế nào?

    - 5000 lei mỗi tháng bỏ vào trương mục của bà ấy, cùng tất cả mọi thứ bà ấy cần dùng. Nghĩa là bà ấy ở đây cũng như đang ở tại nhà riêng vậy.

    Eddy châm một điếu thuốc. Nàng là chủ nhân một hý viện mang chính tên nàng. Báo chí đã phê bình nàng như một diễn viên xuất sắc nhất. Ảnh nàng trên bích chương được treo khắp nơi. Đài phát thanh nhắc tên nàng nhiều lần trong ngày. Hình nàng người ta đem dán ở khắp các phòng đợi hỏa xa, xe điện ngầm, bến xe đò. Cả đến những đứa trẻ cũng biết tên Eddy Thall. Tất cả những cảnh sát viên mà nàng biết từ trước đến giờ đều muốn xin thủ bút của nàng làm kỷ niệm. Nhưng hai người cảnh sát này không thế. Họ đến đây để lập biên bản.

    - Bà làm ơn cho tên vú già?

    - Tinka Neva. Còn gì nữa xin các ông nhanh lên cho.

    Nàng đứng dậy tắt thuốc lá.

    - Chúng tôi muốn biết người vú theo tôn giáo nào?

    - Thiên chúa giáo. Eddy trả lời gọn lỏn.

    Người cảnh sát thứ hai gập sổ lại và bỏ vào cặp.

    "Luật pháp tuyệt đối cấm người có dòng máu Do Thái nuôi người ở có đạo Thiên Chúa. Bà bị buộc phải trả lương cho người vú đủ ba tháng và cho bà ấy thôi việc. Đó là tất cả những gì chúng tôi phải nói với bà."

    Hai người cảnh sát nghiêng mình chào Eddy, cũng nghiêm giọng như khi họ mới đến. Eddy đợi cho đến lúc họ đi về phía cửa lớn, nhưng một ngưòi lại nói:

    "Mọi vi phạm luật lệ này đều bị phạt sáu tháng tù ở". Và ông ta hỏi tiếp :

    - Chúng tôi có thể lấy cung bà Tinka Neva ?

    Eddy bấm chuông gọi :

    - Tinka, mấy ông này muốn nói chuyện với vú đó.

    Xong nàng trở về phòng.

    Tinka ở lại một mình với hai người cảnh sát. Bà quan sát cách ăn mặc của họ.

    Một người hỏi :

    - Bà là Tinka Neva ?

    Tinka hơi ức :

    - Cô tôi đã cho biết tên tôi rồi, hỏi làm gì nữa !

    - Bà ấy nói chưa đủ. Bà cần phải khai thêm cho chúng tôi.

    Người thứ hai lại rút sổ tay, và bắt đầu ghi chép.

    - Năm nay bà bao nhiêu tuổi. Bà giúp việc cho gia đìnhThall từ bao lâu ?

    - Lúc tôi mới bước chân vào gia đình này, tôi mới có 18 tuổi. Từ đó đến nay đã được 38 năm rồi.

    Tinka hơi run sợ. Chưa bao giờ bà chứng kiến cảnh này trong nhà.

    - Bà có bằng lòng cách đối xử của bà chủ không?

    - Nếu tôi không bằng lòng, tôi đã không ở suốt đời nơi đây.

    - Mặc, chủ bà sẽ trả bà đủ ba tháng lương và cho bà thôi việc. Luật pháp cấm người Do Thái thuê người ở có đạo Thiên chúa.

    Hai người cảnh sát gài lại nút áo choàng. Tinka hỏi:

    - Tôi không có quyền làm việc để kiếm ăn hay sao?

    - Bà có quyền làm việc, nhưng không được làm cho người có dòng máu Do Thái. Tinka cho như thế là bất công nên bà không còn sợ hãi nữa, bà phản đối:

    - Chính tôi chọn chủ để làm việc chứ. Tôi là một người giúp việc. Điều quan hệ cho tôi là có một người chủ tốt. Phần còn lại - người chủ là Do Thái hay có đạo Thiên chúa - không quan hệ cho tôi gì cả.

    Hai người cảnh sát tiến ra cửa.

    - Nếu bà chủ không trả đủ cho bà ba tháng lương trước khi cho bà nghỉ việc, bà cứ việc khiếu nại ở sở cảnh sát.

    - Tôi không đi đâu hết, tôi bằng lòng ở lại đây.

    Và bà Tinka khóc. "Chỉ có chủ tôi mới có quyền đuổi tôi ra khỏi nhà nếu cô ấy không bằng lòng tôi. Nhưng cô ấy rất mến tôi." Tinka vừa nói thế vừa khóc, trong khi hai người cảnh sát ra khỏi nhà.

    II
    Lúc hai người cảnh sát đã đi khỏi. Tinka Neva ngồi khóc. Tấm thân già yếu của bà run rẩy như một cành cây mong manh. Eddy cầm lấy đôi vai Tinka:

    - Tinka, vú yên đi nào. Ma quỷ cũng không quá hung dữ như người ta tưởng đâu. Vú cứ ở lại đây. Tôi quen biết lớn, tôi sẽ nhớ người ta can thiệp.

    Tinka không thể nói gì hơn nữa. Bà lại lau ghế, lau sạch chỗ nền nhà mà hai cảnh sát vừa đứng, như là bà muốn lau hết tất cả vết tích của họ để lại trong nhà.

    Câu chuyện vừa rồi là cả một sự nhục nhã đang xâm chiếm đến tận cùng cơ thể của bà. Bà nghĩ rằng không ai có quyền đuổi bà ra khỏi nhà trừ cô chủ. Và cũng không ai có quyền can thiệp vào việc riêng của bà. Nếu mình có làm điều gì tốt hay xấu thì cũng chỉ có cô chủ là có quyền phán xét mà thôi.

    Tinka đã đi khỏi làng từ ngày chưa thành niên. Bà không còn gia đình hay họ hang gì nữa cả. Nhà của bà chính là nhà của gia đình Thall.

    Eddy bỗng trao cho Tinka một gói thư từ:

    - Tinka, vú đừng khóc nữa. Vú lại đây và đốt hết mấy bức thư này đi.

    Tinka ngần ngại cầm mấy bức thư trong tay. Bắt bà đốt thư thật là một điều khổ sở cho bà quá. Tinka là một người nhiều cảm xúc. Đốt thư, nhất là bây giờ, sau vụ hai người cảnh sát vào nhà vửa rồi, thật là một hành động cực nhọc, vượt ngoài sức lực của bà.

    Tinka không biết đọc. Suốt đời bà chưa bao giờ nhận một lá thư. Nhưng suốt đời bà mang thư cho chủ nhà cùng với mỗi lần dọn ăn sáng. Mỗi lần như thế bà trông thấy cô chủ vội vã bóc thư. Trong óc của Tinka đã in sâu ý nghĩ thư là những người sống biết nói chuyện. Chúng có thể làm cho ta cười, thích thú hay buồn tẻ. Nếu bức thư không phải là người sống thì nó không thể có cái quyền hạn đó được. Chính vì vậy mà Tinka luôn luôn lau tay sạch sẽ trước khi lục thư trong thùng đặt cạnh cửa. Bà kính trọng những bức thư lắm, nên bây giờ bắt bà đốt thư thì chẳng khác gì ép bà đốt những sinh vật, đốt những con chim bồ câu, quay một con thỏ.

    Eddy đang lục một số các bức thư khác để đốt. Tinka có cảm tưởng mỗi phong bì trở thành một thứ tội lỗi thêm vào những tội lỗi mà bà đã phạm từ trước.

    Eddy bảo:

    - Vú đốt hộ những bức thư của Lidia Petrovici. Vú còn nhớ mình gởi cho Lidia kiện hàng cuối cùng ngày nào không? Hình như đã bốn tháng rồi mà sao tôi chưa thấy trả lời. Tôi sợ đã có gì không hay xẩy ra. Rất có thể cảnh sát đã tịch thu gói quà. Và họ sẽ trở lại đây điều tra mình. Tốt hơn hết nên đốt các bức thư này đi.

    Eddy nghĩ tới người em họ, Lidia Petrovici đang ở tại Quốc gia Nam tư, một quốc gia đang thanh trừng Do thái một cách khốc liệt. Lidia phải sống dưới một tên giả. Nàng là một trong những người Do thái còn sống sót. Gởi những gói quà cho Lidia thật là nguy hiểm quá. Vì vậy Eddy phải đốt những bức thư mà Lidia đã viết để báo tin đã nhận đều đặn thuốc men, sô cô la và quần áo do nàng gởi.

    Tinka hỏi: "Xin lỗi cô, cảnh sát đến đây là vì tôi; đáng lý tôi không nên gây cho cô điều phiền phức đó."

    Eddy trả lời: "Có can dự gì đến vú đâu mà vú nhận lỗi. Thôi, vú lo đốt mấy bức thư đó đi cho rồi."

    Chuông ngoài cửa lại reo lên hai lần, người bấm chuông có vẻ dè dặt.

    Eddy bảo ngay: "Vú đừng có ra mở cửa với cả đống thư trên tay nghe" Rồi giật lấy tập thư trên tay Tinka, Eddy dấu xuống dưới tấm khăn trải giường.

    III
    Một quân nhân trong bộ quân phục màu xanh nước biển đang tiến vào phòng khách, nơi mà một giờ trước đây hai người cảnh sát đã đến. Tinka nói ngay:

    - Chắc là tại tôi nữa đây, cô Eddy, thà tôi chết đi cho rảnh còn hơn gây cho cô bao nhiêu là lo lắng. Hồi sáng đã có hai người cảnh sát đến lập biên bản, bây giờ đến lượt một ông quan tòa quân đội nữa. Eddy, cô tha lỗi cho tôi.

    - Tinka, yên đi nào!

    Eddy vừa nói thế vừa bước ra phòng khách. Viên sĩ quan - nút áo vàng, cầu vai vàng - nghiêng mình chào Eddy một cách bối rối và e dè. Eddy biết thế vì nàng đã học được ở kịch nghệ cách xét đoán để biết một người nào đang tự chủ hay đang mất tinh thần. Người lạ mặt nói:

    - Thưa cô, tôi mạn phép đến thăm cô. Tôi là đại úy thẩm phán Pierre Pillat. Tôi chắc là cô đã nhận được thư tôi rồi ?

    Trong lúc Eddy tiếp tục nhìn khẩu súng lục và lon cấp bật, Pillat có vẻ muốn thanh minh :

    - Tôi chỉ ở trong quân đội tạm thời thôi, vì tôi bị động viên.

    - Thư ông làm tôi cảm động. Xin thành thực cảm ơn ông. Eddy nói thế.

    Nàng mời Pillat ngồi. Cả hai đều cảm thấy câu chuyện khó khăn như là đang gặp nhau cách đây 15 năm.

    - Tôi cần thú nhận với cô một điều, Pillat nói, là tôi nợ cô nhiều lắm. Bởi vì trường võ bị Hoàng gia Kichiev, chúng tôi phải chịu đựng một thứ kỷ luật sắt giống như kỷ luật quân đội ở nước Phổ. Chương trình học lại khó khăn. Không có cách nào trốn ra khỏi trường học được dù chúng tôi cố hết sức. Cho nên chúng tôi chỉ sống bằng mộng mà thôi. Bức ảnh của cô là một dịp để tôi mơ mộng. Mỗi đêm tôi mơ đến cô, như thế thật là đẹp ...

    Nói xong Pillat đỏ mặt.

    '' Nếu tôi ở ngoại trú thì điều đó có lẽ không xẩy ra. Nhưng những đứa trẻ còn vị thành niên bị nhốt trong trại lính thì không thể sống mà không mơ mộng. Bức ảnh đã bị nhàu đi, xin lỗi cô, bởi vì mỗi ngày người ta đều khám túi, khám sách vở. Tôi phải dấu nó trong bao thuốc lá để khỏi bị tịch thu. Đúng là một nguy hiểm thường xuyên nếu cô bị tịch thu khỏi tay tôi ... xin lỗi cô tôi muốn nói đến tấm ảnh của cô cơ !''

    Và chàng cười, Eddy nhìn đăm đăm vào cầu vai vàng có số hoàng gia, nhìn vào súng lục, dao găm mà Pillat đang đeo, tượng trưng cho sức mạnh và quyền uy.

    '' Cô có biết hồi tôi 15 tuổi tôi mơ gì không ? Tôi nguyện sẽ cưới cô làm vợ khi lớn lên và không yêu ai nữa cả. Tôi đã nghĩ lại điều đó đêm qua lúc ở hý viện. Tôi ngưỡng mộ cô hết lòng. Cô thật là phi thường trong vai hoàng hậu Saba. Vâng, phi thường. Xem vở kịch xong tôi bèn trở về kiếm bức ảnh và gởi hoàn lại cho cô.

    - Trong thư ông có nói đến một người khác cũng hâm mộ tôi... Anh ấy tên là gì nhỉ, hình như là Boris ...

    - Boris Bodnar. Hắn biến mất từ hồi 15 tuổi. Hắn có bảo với tôi là hắn sang Nga. Từ đó tôi không được tin hắn nữa. Tuy nhiên tôi vẫn cố tìm hiểu về hắn. Tôi có viết thư cho em hắn. Đã có một thảm kịch xẩy ra giữa hai anh em. Khi còn nhỏ, Boris đã chọc thủng mắt em hắn, nên cha mẹ hắn không cho hưởng gia tài nữa. Angelo, em hắn, sau đó đi tu và cũng không biết gì về Boris nữa. Cho đến nay, không còn ai biết tin gì về hắn nữa.

    Lúc đang nói, Pillat cố nhìn vào phòng ngủ qua cánh cửa hé mở.

    Eddy có cảm tưởng là chàng đang nhìn những bức thư dưới tấm khăn giường. Nàng lấy làm lo ngại nên nói ngay:

    - Tôi còn phải đi tập dượt bây giờ, nếu ông muốn, chúng ta có thể gặp nhau lại vào một dịp khác.

    Nàng nhìn đồng hồ. Nhưng Pillat vẫn ngồi yên, chàng đang chú ý đến căn phòng. Nỗi lo ngại của Eddy lớn dần. Nàng đâm ra nghi ngờ, sợ rằng cuộc viếng thăm của viên thẩm phán này có một lý do nghề nghiệp.

    Pillat hơi khó chịu:

    - Tôi còn vài việc phải nói với cô nữa. Như cô đã biết tôi là một viên chưởng lý cho quân đội. Ở chức vị đó tôi biết được nhiều chuyện lắm.

    - Như thế, ông đến đây để lập biên bản? À, thì ra bức thư và tấm ảnh chỉ là một cái cớ. Vậy bây giờ ông có thể bắt đầu lập biên bản đi là vừa.

    Nói xong Eddy đứng dậy, giận run người.

    Pillat bình tỉnh bảo:

    - Không hẳn là một biên bản. Tôi chỉ biết là cô có quen với một người đàn bà tên Lidia Petrovici ở Nam tư.

    Eddy tức giận đến tột độ. Nàng muốn quăng một cái gì vào đầu viên sĩ quan nọ đã khéo bịa ra một chuyện tình để vào nhà nàng lập biên bản về Lidia Petrovici.

    Pillat vẫn vô tình nói tiếp :

    - Cách đây không lâu, ban phản tình báo của chúng tôi đã bắt được một kẻ thù, một tên gián điệp làm công chức ở sở hỏa xa. Người ta đã giao cho tôi trường hợp đó. Trong nhiều thứ bắt được ở biên giới, có một gói quà gởi cho bà Lidia Petrovici, dưới tên bà Debora Paternik. Bị cáo khai là gói quà đó do cô gởi. Gói quà không có gì đáng sợ cả, chỉ gồm thuốc trị lao phổi, sinh tố, sô cô la, cà phê, và một ít áo quần. Vả lại đó là gói quà độc nhất toàn đồ không nguy hiểm tịch thu nơi tên gián điệp đó. Tôi đã không viết tên cô trong bản cáo trạng. Tôi mang kiện hàng trả lại cho cô. Tôi chỉ mong giúp cô một việc nhỏ nhặt.

    Pillat mở cặp rút kiện hàng đặt lên bàn, trong lúc Eddy thú thật :

    - Chính tôi đã gởi gói quà đó. Lidia Petrovici là em họ tôi đang bị bệnh lao. Đúng ra tôi không có quyền gởi quà choc ô ấy, nhưng tôi vẫn giữ bí mật gởi. Đó là lỗi độc nhất mà tôi phạm phải.

    - Thưa cô, đó không phải là một tội trạng. Vả lại như tôi đã nói từ lúc mới vào đây, là tôi đến đây không phải với tư cách một viên chưởng lý.

    Cả hai cùng yên lặng. Gói quà đựng thuốc ngừa lao, thuốc chống suy nhược và thiếu máu, một ít sinh tố và chiếc áo choàng đang nằm trên bàn giữa Eddy và Pillat. Eddy bảo :

    - Ở xứ những người Slaves miền Nam, tất cả người Do thái đều bị đày ải, hay là bị ám sát. Em họ tôi, một người chơi vĩ cầm nổi tiếng trên thế giới, đã thoát được, ít nhất là cho đến bây giờ, và đang sống dưới một tên giả, trong một làng hẻo lánh. Thỉnh thoảng tôi gởi một ít thuốc uống qua trung gian bà Debora Paternik, hiện là người đở đầu cho những người bị đàn áp và là vợ của quốc trưởng Nam tư. Pillat bảo :

    - Tôi cảm thấy có lỗi với cô nếu gói quà đó không đến nơi được, vì vậy tôi mới xin lỗi bằng cách giới thiệu với cô một người làm ở sở hoả xa, ông ta sẽ đem kiện hàng ấy đến cho em cô. Anh ta tên là Daniel Motok. Có lẽ ngày mai tôi sẽ bảo anh ta đến đây.

    Pillat đứng dậy chào ra về. Eddy nói vọng theo :

    - Ông nhớ trở lại chơi nghe. Chúng ta sẽ nói nhiều hơn về thời thơ ấu. Lần này thì chính tôi muốn thoát khỏi thực tế, ông hiểu không, tâm trạng tôi lúc này cũng giống như hồi ông mơ mộng bằng bức ảnh của tôi. Cho nên ông nhớ trở lại nghe. Nhưng tôi van ông đừng mang quân phục. Tôi rất sung sướng được thấy ông mặc quần áo dân sự ; đừng mang quân phục đấy nghe.

    IV
    - Thưa bà tôi là Daniel Motok, nhân viên hỏa xa, người mà ông Pillat đã giới thiệu trước với bà.

    Mang cà vạt xám, đeo găng tay, áo choàng đen, Daniel Motok đứng thẳng người trước mặt Eddy Thall.

    Nàng mời ngồi và Motok bảo ngay :

    - Ông Pillat có cho tôi hay là bà có một kiện hàng cần gởi ?

    Gói quà gồm có thuốc men và áo quần cho Lidia Petrovici đã sẵn sàng trên bàn. Motok kín đáo nhìn và kiếm địa chỉ, Eddy bảo :

    - Ông chỉ cần giao cho người bồi phòng của bà Milostiva Debora Paternik và dặn ''gói quà này của Lidia.'' Thế là đủ.

    Motok cất kiện hàng vào va li xong đứng dậy và sửa soạn ra về. Eddy dặn thêm :

    - Tôi xin ông trao tận tay người bồi phòng tên Ivo Dopplhof. Đó là một ông già tóc đã bạc. Ông có thể nhận ra ông ấy dễ dàng. Vả lại, đó là người bồi phòng độc nhất ở với bà Debora Paternik, trong bất cứ trường hợp nào, xin ông đừng đưa cho lính gác cổng, ngay cả lúc họ yêu cầu.

    Motok gật đầu, tỏ ý sẽ thi hành đúng đắn sứ mạng được giao phó. Eddy nói tiếp :

    - Tôi tin là ông Pillat đã cho ông biết mọi chi tiết. Trong gói này chỉ có thuốc men cho một người em họ tôi đang bị bệnh, ngoài ra không có gì khác nữa. Bà Debora Paternik là vợ của Quốc trưởng xứ Nam tư.

    - Vâng, thưa bà tôi đã được biết rõ.

    Motok vừa trả lời vừa cầm tay lấy va ly. Eddy hỏi :

    - Tôi phải trả ông bao nhiêu, thưa ông ?

    - Dạ thưa không có gì. Trái lại, thật là một vinh dự lớn lao cho tôi được giúp bà một việc nhỏ mọn này.

    Nói thế nhưng Motok biết rằng sẽ thất lễ với Eddy nếu mình từ chối hẳn, nên Motok bảo ngay :

    - Nhưng bà muốn trả công cho tôi thì tôi xin nhận một giấy mời dự buổi trình diễn vỡ tuồng Hoàng hậu Saba vào tối thứ sáu. Vào lúc đó tôi sẽ báo tin cho bà hay là món quà đã được trao tận tay hay chưa.

    Bỏ vào túi tấm danh thiếp có chữ ký của Eddy Thall để được vào cửa hý viện vào tối thứ sáu sắp đến, Motok bảo :

    - Tôi sẽ trở về hồi 7 giờ tối thứ sáu. Thế là còn thừa thì giờ để tôi về nhà, thay áo quần, vì xuất hát 9 giờ mới bắt đầu. Xin cảm ơn bà nhiều lắm.

    Motok bước ra cửa. Lúc nào cũng chững chạc. Cách đi đứng, ăn mặc, nói năng của Motok thật giống như một chiếc đồng hồ và thời khắc của các chuyến xe lửa. Eddy gọi điện thoại cho Pillat báo tin là Motok đã đến và để luôn thể cảm ơn Pillat :

    - Đây là lần đầu tiên tôi gởi một gói quà cho Lidia mà không hề sợ hãi bì biết chắc là nó sẽ đến đúng chỗ. Xin càm ơn ông nhiều lắm.

    - Motok là một người đáng tin cậy. Pillat trả lời qua máy điện thoại.

    Trong thời gian đó, Motok đứng lại trước cửa, gài lại găng tay. Motok lúc nào cũng đàng hoàng và không muốn có một bê bối nào trên người.

    V
    Con chắc là mọi chuyện sẽ yên ổn. Con vừa bị một vài chuyện phiền phức nhưng qua hết rồi.

    Eddy Thall đang ngồi, hai chân thu lại trong ghế bành như nàng vẫn làm thế mỗi lúc có chuyện gì vừa ý. Max Reingold đang đứng đối diện với cặp kính viền vàng, áo quần tuyệt hảo, kín đáo, đắt tiền, hệt như một ông chủ ngân hàng. Đó là viên quản đốc của hý viện Thall, ông vừa là người cộng tác vừa là bạn thân của thân phụ Eddy Thall.

    - Thưa bác, nguyên một điều bác đến thăm con mà không báo trước cũng đủ làm con sung sướng rồi. Nhiều ngày nay con khổ sở quá. Người ta thúc dục con đuổi Tinka. Người ta tịch thu một gói hàng con gởi cho Lidia, vì người đưa thư là một tên gián điệp. Đáng lý con đã bị liên lụy, cảnh sát đã đến đây. Nhưng mọi sự yên ổn hết. Mọi sự lại sắp tiến hành đều đặn như cũ. Bác lại đến đây nữa, bây giờ con sung sướng quá, thật sung sướng ...

    Max Reingold ái ngại :

    - Con ạ, bác không muốn ở đây lâu, bác còn vài việc phải làm. Bác rất tiếc đã đến đây làm hỏng niềm vui thú của con. Nhưng bác không biết làm sao hơn được ; con ạ, người ta buộc mình đóng cửa hý viện.

    Eddy đứng bật dậy. Max vẫn tiếp tục :

    - Những hý viện Do thái thường phải trả một số thuế phụ. Đó chỉ là chuyện cũ. Trước kia có thể nộp thuế trể hay nhiều khi được miễn hẳn. Nhưng bây giờ hoàn toàn khác. Bác được lệnh của bộ nội vụ phải trả thuế trong 48 tiếng đồng hồ hai triệu lei hay là phải đóng cửa. Hoặc thế này hoặc thế kia. Bác đành đóng cửa vậy. Vì chúng ta làm gì có nhiều tiền đến thế và cũng không được triển hạn nữa.

    Max Reingold đứng dậy và muốn đi :

    - Không còn chi để phải bàn cãi nữa cả, nên bác cũng không ở lại đây làm gì. Đã quá rõ ràng lắm rồi. Chiều nay con lại ăn cơm với bác. Rebecca và Esther gởi lời chào con.

    Esther là con của Max, Rebecca là vợ. Eddy thương họ lắm, nhưng bây giờ nàng không thể nghĩ đến họ được nữa.

    - Còn một giải pháp là phải tiếp tục trình diễn bằng tiếng Do thái. Nhưng khốn nỗi, dù là gốc Do thái diễn viên của mình không hề biết tiếng Do thái. Khán giả cũng thế. Cho nên phải đóng cửa.

    Eddy cố giữ Max lại. Max hôn trán nàng và vẫn gọi nàng là Liebes Kind, con thân yêu, như cha nàng từng gọi nàng như thế. Và ông ra về. Đến trước cửa ông còn ngoảnh lại bảo :

    - Eddy, có hai người khách muốn gặp con đấy.

    Max để cửa mở cho hai người khách vào nhà

    VI
    Hai ông là cảnh sát ? Eddy hỏi.

    Cả hai đều mặc áo mưa và một trong hai có mang một cái cặp da. Eddy chua chát :

    - Hai ông còn muốn gì nữa đây ? Hay các ông đến để bắt tôi cho bà vú nghỉ việc ? Thì hai người khác đã đến vì lý do đó rồi ? Để đóng cửa hý viện ư ? Hai ông còn biết tin tức gì nữa ?

    Người không mang cặp da bảo :

    - Chúng tôi thuộc ủy ban Do thái. Chúng tôi đến đây về vấn đề quần áo.

    Nhìn họ, Eddy không thể đoán họ bao nhiêu tuổi, nhưng trong đôi mắt, trên nét mặt, qua cử chỉ, qua tiếng nói, nàng biết rằng họ đang khổ tâm, nàng biết họ đang cảm thấy nhục nhã và sợ hãi. Người nọ nói tiếp:

    - Cô biết rằng mội công dân gốc Do thái phải tặng cho những công tác từ thiện của chính phủ một số áo quần tùy theo hoàn cảnh vật chất của mình.

    Eddy nhận chuông và lúc Tinka đến nàng bảo ngay:

    - Vú, mấy ông này muốn lấy áo quần cũ cho ủy ban Do thái.

    - Thưa bà, không phải cho ủy ban. Sự thu góp này để dùng vào những công tác của chính phủ. Ủy ban chỉ có phận sự đi nhận mà thôi.

    Người thứ hai rút trong cặp ra một cuốn sổ và nói:

    - Theo lợi tức khai báo ở sở thuế, bà phải cung cấp ba đôi giày, năm áo sơ mi, bốn áo dài, hai áo choàng ...

    - Thôi, lấy hết tất cả cái gì mà các ông muốn cho xong.

    Eddy bảo thế và nàng mở tủ áo cho họ, giận đến run người.

    - Nếu chính phủ đã ra lệnh cho hai ông lấy áo quần của tôi, xin hai ông cứ việc thi hành, lấy đi. Nếu chừng đó chưa đủ, các ông có thể cởi quần áo tôi đang mặc, lấy tất cả cái gì tôi đang mặc trên người, và để tôi trần truồng.

    Nói xong, Eddy vào phòng tắm khóa cửa lại và bắt đầu khóc tấm tức.

    Hai người lạ nhìn vào tủ áo, có cả chục chiếc áo dài, những thứ mà Eddy dùng để trình diễn những vai chính. Tinka lên tiếng:

    - Tôi đưa cho hai ông vài cái áo quần cũ. Nếu chưa đủ, xin mời hai ông vào đây.

    Bà dẫn họ vào nhà bếp, sắp ra dưới chân họ một đống quần áo, giày dép cũ. Hai người chọn lựa xong bỏ vào ba lô và ra về có vẻ hài lòng. Chừng đó đối với họ đã quá đủ.

    Eddy xuống nhà bếp. Trên ghế còn hai đôi giày đen giống như cánh hoa. Đó là hai đôi giày của thời nàng còn đi học ở lớp vũ.

    - Tạo sao họ để thứ này lại? Eddy hỏi:

    - Tôi muốn cho họ đấy, cũng là thứ đáng vứt đi, nhưng họ từ chối và bảo là họ không lấy vì không thể liệt chúng vào loại giày da hay giày vải.

    Eddy buồn bã nói:

    - Tinka, vú biết là chính phủ đã đóng cửa hý viện của tôi. Mai là ngày trình diễn cuối cùng. Họ lấy áo quần, bắt đuổi người giúp việc, rồi đóng luôn cửa hý viện. Tôi sắp phải làm gì nữa đây, Tinka? Vú nói cho tôi biết đi, tôi sắp phải làm gì nữa đây, Tinka? Bởi vì vú à, tôi phải làm một cái gì trước khi chính phủ lấy luôn cả cuộc đời của tôi. Chắc chắn một ngày nào đó họ sẽ lấy luôn cả cuộc đời tôi ... Nhưng từ đây đến đó, tôi sẽ phải làm gì?

    Tinka vuốt nhẹ đầu Eddy, bà không trả lời gì hơn được cho Eddy lúc này, trong lúc nàng nức nở khóc:

    - Tinka, vú nói cho tôi nghe đi, tôi sẽ trở thành như thế nào đây?

    VII
    Chuyến tàu của Daniel Motok đến thủ đô Bucarest hơi trể. Một giờ trước, đường xe lửa bị thân binh phá hoại. Motok trả giấy tờ cho hành khách toa phòng ngủ và làm biên bản thật nhanh. Đứng trước tấm kính, Motok sửa soạn lại y phục cho đứng đắn, vắt chiếc áo choàng lên vai, xong cầm va li có gói quà của Eddy và đi về hướng biệt thự của bà Debora Petarnik. Thành phố đang chìm trong bóng tối như tất cả các thành phố ở Âu châu vào thời chiến, Motok nhìn đồng hồ và bước nhanh để có thể về trước 9 giờ như đã hứa với Eddy.

    "Bà Paternik không mang vương niệm, Motok tự nghĩ, nhưng bà ấy giống một hoàng hậu, bà là đệ nhất phu nhân của quốc gia độc lập của những người Slaves miền nam". Motok cũng biết mơ mộng như trẻ con, như các thiếu nữ như các thi sĩ vậy. Khi tàu bị đứng lại, Motok, không thể chán nản như những hành khách khác. Y ngồi yên ở ghế và mơ mộng như đang xem màn ảnh hay đang lật những trang sách có hình mầu. Tàu có lẽ trễ đến bảy giờ hay phải ở lại ga cũng nên. Thế mà y không chán nản, không cảm thấy cô đơn vì y vẫn sống bằng mộng, nhưng bây giờ y đang mơ tới bà Paternik lúc đi đường, va li trên tay. Y nghĩ đến hình ảnh những hoàng hậu trong các sách sử để có thể dễ tưởng tượng nhiều hơn về Milostiva Paternik. Y hãnh diện sẽ được vào trong biệt thự của bà hoàng hậu và đưa gói hang cho người bồi phòng già, tóc bạc.

    Nhưng hàng chục tiếng còi báo động bỗng vang lên trong thành phố lôi Motok ra khỏi giấc mơ vừa rồi.

    Motok trốn vào bức tường bên đường. Bầu trời hình như đang nổi lửa, lửa bốc lên từ lòng đất cùng một lúc với những tiếng còi báo động và những tiếng gầm của động cơ? Lề đường rung động, bức tường Motok đang dựa cũng rung lên. Năm xe mô tô có đèn pha và còi hụ đang lên dốc sau lưng Motok, đèn pha như đang đốt cháy mắt y, lột trần thân thể y. Y càng bám sát vào tường đá để đỡ thấy trần truồng. Ba chiếc xe hơi theo sau cùng, đèn pha chói sang và còi hụ inh ỏi. Motok tái mặt. Hàng mô tô ở dưới đường tiến lên hình như bay hẳn lên không trung, tiếng còi loãng ra trong mây cùng vói những tia sang của ánh đền pha, Motok run lẩy bẩy.

    Motok quay đầu lại, một người đứng cạnh y nói:

    - Tướng Lilan Paternik đấy!

    Lính cưỡi mô tô mạc áo choàng bằng da, nón sắt dưới ánh sáng đèn pha trông như những người bằng kim khí, ánh thép hiện cả lên ánh mắt của họ nữa.

    Mắt của Motok nhức nhối vì ánh đèn pha. Thái dương y ù lên. Y phải quay mặt vào bóng tối.

    - Tướng Milan Paternik bao giờ cũng chỉ đi ban đêm với chừng ba xe hơi và 20 mô tô. Đèn, còi hụ với tốc lực 120 cây số giờ. Ông tướng đó không bao giờ di chuyển khác hơn. Một ngày nào đó ông ta sẽ vỡ mặt ; không thể nào đi như thế mà không vỡ mặt được.

    Người lạ đứng gần Motok cười héo hắt, và nói tiếp :

    - Ông bạn có biết tướng Paternik đi đâu không ? Có lẽ ông vừa mới biết trong một góc phố nào đó người ta vừa mới khám phá ra một người Do Thái hay một người theo Chính thống giáo. Nhưng chắc chắn là một tố cáo láo, vì từ lâu trong xứ nàykhông còn Do Thái và Chính thống giáo nào nữa. Họ bị giết hết rồi. Tuy thế mà " người hùng Paternik " vẫn xuất hiện với đoàn mô tô sát nhân của hắn mỗi hắn biết có một người Do Thái vừa bị tố cáo. Nhưng chắc chắn hắn sẽ không còn tìm được người Do Thái nào nữa. Thôi chào ông nghe ! Milan Paternik sẽ không còn tìm thấy một người Do Thái nào ở đây nữa.

    Rồi người đó đ ixa, đi sâu vào bóng đêm.

    Motok thầm nghĩ : " Eddy Thall bảo với mình là Lidia Petrovici gốc Do Thái. Người này lại bảo không còn ai Do Thái ở đây nữa, sao thế nhỉ ? " Motok hấp tấp đi về biệt thự của bà hoàng đầy lòng tốt Debora Paternik.

  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    VIII
    Cổng biệt thự của bà Debora Paternik mở rộng, 20 chiếc mô tô tiến vào sân. Tiếng còi hụ ngưng hẳn. Ánh đèn pha vẫn giữ sáng và máy tiếp tục nổ. Những người mang áo choàng da, mặt đanh như thép, vẫn ngồi trên mô tô và sẵn sàng đi.

    Milan Paternik xuống xe, bước lên bậc tầng cấp bằng cẩm thạch. Trông hắn trẻ như một tên học trò. Chỉ có huy hiệu cấp tướng, những ngôi sao trên nón và mầu vàng trên tay áo phản chiếu ánh đèn là có thể minh chứng hắn không phải là một tên học trò. Hai người cao lớn cũng mang áo choàng bằng da đã đứng sẵn ở cửa vào. Chuông reo không ngừng chẳng khác gì tiếng còi hụ. Cửa mở. Không chần chừ, Milan bước vào. Chẳng thèm để ý đến tên bồi phòng Ivo Doppelhof. Hắn tiến sâu vào tấm thảm ở phòng khách. Hai người cảnh sát đứng ở phòng ngoài. Tất cả như là đang bao vây căn biệt thự này.

    Milan Paternik nói gần như thét :

    - Gọi mẹ tôi ra ngay !

    Hắn đang đứng trong phòng khách một mình. Dừng lại trước tấm gương soi lớn, Milan dơ hai tay vuốt đôi má nhợt nhạt, gầy gò của hắn, như má của một bệnh nhân ; rồi hắn nhìn kỹ đôi mắt mệt nhọc nhưng tàn nhẫn của hắn, nhìn chiếc áo choàng có cầu vai vàng phản chiếu bộ mặt hắn - như những ánh đèn pha.

    Hắn thầm nhủ " Mình mệt quá " Nhưng hắn vẫn hãnh diện về sự mệt mỏi đó và không hề cố gắng kiếm giấc ngủ êm đềm.

    Ở phòng bên, bà Debora đã sửa soạn xong. Ivo đang đứng gần cửa. Milostiva hỏi :

    - Hắn vẫn nóng nảy như mọi lần ?

    - Dạ thưa bà, ông ấy vẫn nóng nảy như thường lệ.

    Milostiva không muốn nói chuyện với hắn nữa ; nhưng có ai trái ý Milan cho được. Hắn rất ít đến thăm mẹ hắn. Mỗi lần thăm viếng thường tẻ nhạt và gay cấn. Milostiva hỏi lại một lần nữa :

    - Hắn nóng nảy lắm sao ?

    - Vâng, rất nóng nảy, thưa bà.

    Milan Paternik mới có 26 tuổi, nhưng mọi người biết rõ công trình của hắn, ngay cả một đứa con nít. Hắn đã giết tám trăm ngàn dân Do Thái và người Chính thống giáo.

    " Hình phạt lớn lao nhất cho một người mẹ là có một đứa con sát nhân, một đứa con chỉ biết bơi trong máu ". Nghĩ như thế, bà Debora đành lau nước mắt, giọt nước mắt nhỏ như một hạt ngọc. Và bà bước vào phòng khách, người thẳng, mắt nhìn về phía trước, ngay phía Milan đang đứng.

    - Milan, tại sao con còn giữ áo choàng.

    Milan không hôn tay mẹ như thường lệ. Hắn xoa hai tay, có vẻ rất nóng nảy, và không chịu ngồi xuống.

    Milostiva nhìn kỹ bộ mặt tái nhợt, đôi mắt nhọc mệt, đôi vai gầy gò của Milan. Bà không cần biết đến cấp hiệu tướng lãnh trên vai con bà. Bà chỉ đau lòng nhìn đứa con bà đứng đó, nhọc mệt, xanh xao vì làm việc quá sức. Bà đến gần và nói:

    - Đưa tay cho mẹ cầm, Milan, con gầy quá!

    Đôi tay già yếu, khô đét của Milostiva cầm lấy hai tay của Milan.

    - Tại sao con vẫn mang găng tay?

    Hỏi thế và bà đăm đăm nhìn đứa con. Đáng lý bà đã hôn chiếc trán cao của Milan, nhưng bà không còn đủ can đảm. Bà đành xiết chặt đôi tay còn mang găng của con bà như không muốn rời ra nữa. Bà thừa biết là con bà, không còn nghe lời bà nữa, lúc nào hắn cũng ngoan cố, như thời còn trẻ. Milan bảo:

    - Mẹ, con khổ quá đi mất.

    Vừa xiết chặt tay con, Milostiva vừa bảo:

    - Có chuyện gì làm con khổ tâm, con cứ kể cho mẹ nghe. Mẹ sẽ giúp con. Nhìn thẳng vào mắt mẹ đi con, đừng quay nhìn nơi khác, vâng, nhìn mẹ như hồi con còn nhỏ ấy mà.

    Trong chốc lát. Milan nhìn thẳng những nét nhăn nheo trên làn da trắng trẻo của bà mẹ, nhưng rồi hắn lại quay nhìn nơi khác, tay vẫn cầm hai tay bà mẹ.

    - Điều con sắp nói với mẹ làm con khổ tâm quá.

    - Milan con, không ai hiểu nổi khổ của con bằng mẹ đâu. Cứ nói đi, Milan, có chuyện gì quan hệ đã xảy ra đến cho con?

    Milan bỗng nhiên hỏi mẹ với một giọng nói cứng rắn:

    - Thưa mẹ, mẹ biết con là ai không nhỉ?

    Nghe hỏi thế, Milostiva nghĩ đến hàng trăm nghìn người vô tội đã bị Milan giết chết. Bà muốn thét lên vì đau khổ, nhưng bà đã tự chủ được, và dịu dàng trả lời:

    - Milan, điều gì con đã làm mẹ không cần biết, con vẫn là con của ta và ta vẫn là mẹ của con.

    Milan đứng dậy:

    - Vâng, thảm kịch là ở chỗ đó mẹ ạ, ở chỗ mẹ là mẹ của con. Vậy con xin mẹ trả lời cho con biết và đừng ngại ngùng gì cả. Con là ai? Mẹ là mẹ của con nên con thiết tưởng mẹ biết rõ điều đó hơn ai hết.

    Milostiva không trả lời, bà vừa khóc vừa nhìn con. Milan tự trả lời cho hắn:

    - Con sẽ nói cho mẹ nghe con là ai. Con sinh ra cách đây 26 năm ở Budapest, ở một thành phố mà mẹ và cha con đang bị lưu đày. Cả mẹ và cha con đã điều khiển một tổ chức chính trị lấy tên là Zadom, do sở tình báo lập nên. Đáng lý, Zadom phải giải phóng cho dân tộc ta thoát khỏi gông cùm ngoại bang. Nhưng trên thực tế, đó là một tổ chức khủng bố hoạt động trong biển Balkans cho đế quốc Anh. Các chị con và con đều được giáo dục theo tín điều của Zadom. Câu đầu tiên mà con học nói là " Tổ quốc ở trên tất cả ". Cùng với các môn học La tinh, sử địa, mẹ đã dạy con bắn súng, phóng dao, xử dụng súng liên thanh, mẹ đã hãnh diện vì con. Chờ đợi mãi tổ quốc vẫn chưa được giải phóng và cho đến năm 20 tuổi con vẫn chưa hề đặt chân lên quê hương. Đó là niềm khao khát nhất của đời con.

    Milostiva tiếp lời :

    - Tất cả những kẻ bị lưu đày đều hy vọng một ngày nào đó sẽ trở về với quê hương, đó là một niềm khao khát thiêng liêng. Mẹ đã không hề ân hận khi nuôi con trong tin điều của tự do, của lòng yêu quê hương, của ý thức độc lập quốc gia. Và mẹ vẫn hãnh diện đã giáo dục con trong những tình cảm thiêng liêng đó.

    Milan hỏi thêm :

    - Mẹ có nhớ chuyến du lịch đầu tiên của chúng ta ở La Mã không nhỉ ? Thật con ngạc nhiên vô cùng. Trong tất cả các xứ ở Âu Châu mà gia đình ta đã buớc chân đến, chúng ta chỉ biết có nhọc nhằn và khổ sở.

    Ở các phòng trong khách sạn, mẹ vừa phải đánh máy những tiểu luận cho báo chí, những biên bản những buổi họp, vừa phải làm bếp, giặt rửa. Đời sống chúng ta ở đâu cũng thế cả, Bá Linh, Ba Lê, Hung gia lợi, Berne, Genève, Sofia, Bucarest, đâu đâu cũng chỉ là những phòng trọ cùng những cuộc họi họp bí mật. Mẹ phải giặt áo quần, đánh máy, nấu khoai tây. Thế mà bỗng nhiên, chúng ta du lịch sang La Mã. Ở một căn biệt thự lộng lẫy, tiêu pha rộng rãi, xe hơi đón rước, lính hộ vệ bên mình. Rồi báo chí, người giúp việc đầy đủ. Mẹ có nhớ những điều đó không nhỉ ? Mussolini đã mời Zadom cộng tác với phát xít. Người Anh, chủ nhân ông của mẹ, đã bảo với mẹ rằng đó là một lời mời không nên từ chối. Họ muốn Zadom hợp tác với phát xít để họ lấy tiền của Phát xít mà phụng sự cho quyền lợi của Anh quốc trong biển Balkans.

    Milostiva ngắt lời :

    - Trên chính trường những cuộc hợp tác giai đoạn như thế rất thường xảy ra. Điều mẹ đã làm không có chi mới lạ cả. Người Anh đã bảo trợ và khuyến khích mẹ trong chiều hướng đó. Tổ chức mẹ đã không làm gì mà không hỏi ý kiến của người Anh. Chúng ta đã đặt hy vọng ở Anh quốc trong cuộc dành lại tự do độc lập cho dân tộc.

    - Sau đó mẹ được mời sang Bá Linh ?

    - Vâng. Và Anh quốc đã khuyên mẹ nhận lời. Đó chỉ là một đường lối do những nhu cầu chính trị hồi đó đẻ ra. Nhưng chỉ là tạm thời mà thôi.

    - Vào năm 1940, gia đình chúng ta đang ở Bá Linh. Rồi họ đánh thức chúng ta dậy lúc nửa đêm để báo tin là mộng chúng ta đã đạt được. Giấc mơ của mẹ của cha con và của dân tộc đã thành. Tổ quốc đã được tự do và độc lập. Quốc gia đón tiếp mẹ và cha như hai vị anh hùng. Cha mẹ đã giải phóng cho dân tộc, và con được cử làm giám đốc sở cảnh sát, được phong cấp tướng. Ngay từ lúc đầu, từ lúc đầu mới mới phục hồi độc lập, con đã muốn thực hiện ngay các điểm khác của chương trình Zadom. Dĩ nhiên là mẹ đã biết rõ vì đã bao nhiêu lần mẹ đánh máy các điểm đó của chương trình, nào là độc lập, chủ nghĩa xã hội quốc gia chống chủ nghĩa Bôn sơ vít của Nga và chống Do thái nữa.

    Milostiva òa khóc, bà bảo :

    - Vài điểm khác của chương trình đã được thêm vào sau này; như là để đổi lấy viện trợ đã cho, Hitler và Mussolini đòi chúng ta phải thảo kế hoạch chống Bôn sơ vít. Người Anh yêu cầu chúng ta chấp nhận lời đòi hỏi đó. Họ nói là các điểm đó, trên thực tế, sẽ không bao giờ được áp dụng, rằng sau khi giúp ta giải phóng quê hương, người Anh sẽ cố giúp chúng ta tạo được một nền tự do dân chủ trong quốc gia chúng ta.

    - Thực ra, người Anh vẫn ở lại xứ họ và mẹ đã phục hồi tự do cho dân tộc nhờ viện trợ của Phát xít, như là Luân Đôn đã khuyên mẹ làm như thế. Và, bây giờ, mẹ đã thấy trong quốc gia nhỏ bé này có cả một chương trình Phát xít. Riêng con, con không biết chương trình nào khác hơn nữa. Con không hề biết là có vài điểm của chương trình cần áp dụng triệt để để còn vài điểm khác thì không. Con tin tưởng ở Zodom. Con không biết cuộc sống nào ngoài Zadom. Con đã quét sạch hết tất cả các thành phần thấp kém trong nước như Tziganes. Chính thống giáo, Do Thái. Ngày mà Himmler bắt tay và khen con về tổ chức chặt chẻ của quốc gia ta, ông ta bảo rằng : " Đức quốc đã không thành công bằng ông trong chiến dịch trừ Do Thái. Quốc gia ông là quốc gia độc lập nhất không còn một người Do Thái nào cả. Vâng, không còn một người Do Thái nào nữa, một quốc gia độc lập không thể dung dưỡng bất cứ người Do Thái nào ". Himmler cười, rồi bảo tiếp : Ông còn một người Do Thái trong nước, nhưng người đó, ông không thể giết chết. Mẹ có biết ông ấy ám chỉ ai không ?

    Milostiva buồn bã trả lời:

    - Chính mẹ đây con ạ. Mẹ là người Do Thái duy nhất của quốc gia độc lập này.

    - Thế thì, tại sao mẹ lại dấu diếm con điều đó. Bây giờ, sau khi đã loại trừ ra khỏi quốc gia hằng trăn nghìn người Do Thái, sau khi đã làm đổ bao nhiêu máu trong nước, con mới biết mẹ là người Do Thái.

    Milan Paternik ngồi phịch xuống ghế và nói tiếp:

    - Con không lầm lỗi gì cả. Mẹ đã nuôi con trong sự cuồng tính của đảng. Con đã áp dụng chương trình của đảng từng điểm một với tất cả nhiệt thành. Bây giờ biết điều đó, đời con xem như chấm dứt từ đây.

    Và hắn đứng dậy, đã xanh xao mệt mỏi, hắn càng xanh xao mệt mỏi hơn. Hắn đến gần Milostiva Debora:

    - Nghề nghiệp con đối với con đồng nghĩa với đời sống và lý tưởng như thế đã kết thúc. Vì thế, con đã đến thăm mẹ đêm nay.

    Hắn yên lặng giây lát, trong lúc Milostiva hỏi:

    - Tất cả điều đó đều do mẹ phải không con?

    Vâng, thưa mẹ do mẹ cả.

    Người đàn bà già nua đứng dậy vuốt tóc con, trong khi Milan vừa nói: "hết cả rồi" vừa chỉ cho mẹ hắn một ống thuốc hắn vừa rút trong túi ra.

    - Nếu mẹ cho rằng còn một giải pháp khác cho con, con van mẹ nói cho con hay. Nhưng con nghĩ là chỉ có cách tự tử mà thôi. Con không muốn có một cuộc sống nào khác ngoài Zadom, và dĩ nhiên Zadom phải loại trừ con vì con là con của mẹ, con của một người đàn bà Do Thái.

    Milostiva vẫn vuốt tóc Milan và nói:

    - Thôi, con ráng chờ đến ngày mai. Tình thương của người mẹ sẽ tìm cho con một giải pháp. Con hãy đến đây ngày mai và mẹ con mình sẽ bàn luận với nhau. Mẹ chỉ yêu cầu con một điều là hãy giữ mạng sống cho đến ngày mai. Con hứa với mẹ như thế và mẹ tin ở lời hứa danh dự của con. Bây giờ con vứt ống thuốc đi.

    Milan nghe lới vứt ống thuốc độc qua cửa sổ, trong khi Milostiva dặn dò tiếp :

    - Con không có lỗi gì cả. Con đã có một đức tin, như mọi người còn trẻ thường như thế. Cha con và mẹ cũng đã có một lòng tin mãnh liệt và đã chiến đấu cho tự do của đân tộc. Dân tộc đã yếu kém lắm, cần phải được giúp đỡ. Nên chúng ta đã xin Anh quốc viện trợ. Thế mà Anh quốc đẩy chúng ta vào bàn tay của Hitler và Mussolini. Chính Anh quốc là thủ phạm. Xin Chúa trừng phạt Anh quốc, Milan, mẹ muốn hôn con một lần cuối.

    IX
    Người bồi phòng Ivo Doppelhof nghe lóm hết câu chuyện lúc đứng đằng sau cửa. Ivo thầm nhủ :

    - Đúng rồi. Milan không hề biết mẹ hắn là Do Thái. Người ta không bao giờ nói với hắn điều đó cả. Mình theo gia đình này trên khắp bước đường lưu lạc, mình biết rõ điều đó lắm. Hắn được nuôi dưỡng trong đường lối đó. Họ đã tin cậy ở Anh quốc, ngỡ rằng một một lúc nào đó Anh quốc sẽ thay đổi chính sách và kế hoạch chống Do Thái sẽ không bao giờ thực hiện cả. Bây giờ kế hoạch đó lại được Milan áp dụng và Anh quốc không hề nói thêm gì nữa cả. Vâng, Anh quốc không bao giờ nói thêm gì cả.

    Bên ngoài, đã vang tiếng mô tô, tiếng còi hú, tiếng máy nổ rầm rầm, Milan bỏ đi rồi.

    - " Ivo "

    Milostiva gọi Ivo : ông nhón nhén đi vào phòng khách, chờ lệnh.

    - Ta muốn đi dạo mát một chút.

    Milostiva hầu như không có gì buồn bực. Ivo mang áo choàng đen khoác lên vai cho bà. Thường thường khi nào không ngủ được, Milostiva hay đi dạo mát ở vườn hoa.

    - Ivo, nhà ngươi có đứng gần khi ta đang nói chyện với Milan không?

    Xuống hết bực thềm, Milostiva bảo:

    - Lên trải phòng tươm tất cho ta. Chừng nửa giờ nữa ta sẽ vào.

    Ivo để ý thấy bà đang cầm một cây đèn bấm nhỏ, và đi thật chậm trên những lối đi trải sỏi nhỏ.

    Ivo đã sửa soạn giường xong xuôi. Có tiếng bước chân nhè nhẹ phía dưới cửa sổ. Ivo nhìn rõ bà Debora đang dừng lại trong đám hoa "Lilas" như đang tìm kiếm một vật gì. Bà cúi xuống đất, rồi nghoảnh mặt về phía cửa sổ và gọi: "Ivo"

    Biết ý, Ivo bước xuống thềm, đỡ bà chủ vào phòng:

    - Ivo cho ta một cốc nước.

    Ivo chế một cốc nước gồm cánh hường trộn lẫn với hoa tilleul và hoa cúc, xong đặt lên mâm cạnh giường. Milostiva nằm yên trên giường cho đến lúc tiếng chân người bồi phòng mất hẳn trên hành lang. Xong bà nhỏm dậy mở tủ lấy chiếc cắt móng tay. Dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn chong, bà dùng chiếc cắt móng tay cưa ống thuốc đã lượm dưới cụm hoa bên ngoài, ống thuốc độc mà Milan đã vứt qua cửa sổ. Hòa ống thuốc vào cốc nước mà Ivo vừa chế, rồi cho thêm một tí đường. Cử chỉ của bà thật chậm rải và bình tĩnh. Nếm thử một ít, Milostiva mỉm cười và tiếp tục uống hết cốc nước, có mùi hương tilleul và cúc. Trông bà thật là thản nhiên : trở lại giường nằm ngay ngắn, bà nhắm mắt lại và mỉm cười. Hương các thứ hoa trong cốc nước tỏa dần khắp cơ thể của bà, trong lúc bà thầm nhủ : " Ngày mai sẽ không còn một người Do Thái nào nữa trong xứ. Tất cả các điểm trong chương trình Zadom đã được hoàn tất. Con ta sẽ là người lãnh đạo chính trị giỏi nhất. Không còn một người Do Thái nào nữa, Milan Paternik sẽ mạnh hơn cả Himmler. Hắn sẽ hãnh diện và sung sướng, ngực hắn sẽ đầy cả huy chương. Xin Chúa trừng phạt Anh quốc ".

    Câu " xin Chúa trừng phạt Anh quốc " vang nhè nhẹ vào tai bà như tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo ở phòng bên cạnh

    X
    Từ khi chế cốc nước cho Milostiva, đã một giờ trôi qua. Ivo không thể nào chợp mắt được. Ông ra hành lang và bước nhẹ gần phòng ngủ của bà chủ. Debora Paternik có chứng thịt thừa ở mũi nên lúc nào ngủ cũng có tiếng khò khè rất nhẹ. Tại sao bây giờ không có tiếng thở giống như con mèo đang ngủ nữa nhỉ. Sinh nghi Ivo bèn đẩy cửa bước vào. Phòng tối om. Milostiva đang nằm dài trên giường, áo quần tươm tất. Ánh sáng qua tấm màn chiếu vào mặt Debora trắng nhợt như một tờ giấy. Lo sợ, Ivo bật đèn và gọi nhỏ :

    - Thưa bà, thưa bà.

    Bà vẫn nằm yên lặng. Ivo giật mình và giận dữ :

    - Quân sát nhân. Quân sát nhân đã giết mẹ nó.

    Ivo muốn kêu cứu, muốn gọi tên gác cổng, nhưng ông không có một quyết định nào cả. Ông vẫn đứng yên cạnh giường. Sau đó, ông quỳ xuống cầm tay người chết đặt một cái hôn và để bàn tay Milostiva lại trên ngực của bà. Xong ông làm dấu cầu nguyện.

    Ivo đứng dậy đi ra cửa ; đến ngưỡng cửa ông ngừng lại, nhìn một lần nữa thân thể người đàn bà già nua đang yên nghỉ trên giường hai tay khoanh trước ngực trong chiếc áo nhung đen, khăn quàng vứt trên nệm như chiếc cánh con chim bị thương. Ivo trở về phòng.

    Ivo hấp tấp sửa soạn va li, mang áo choàng, xem lại tấm thông hành đã cũ có dấu hiệu chiếu khán qua Thụy Sĩ xong bỏ vào túi. Ông nhìn quanh một lượt. Trên móc áo còn bộ áo bồi phòng có huy hiệu vàng. Từ nay ông không cần đến nó nữa. Ngoài va li và giấy thông hành ra, thực ông không cần lấy gì trong nhà nầy nữa. Không cần gì nữa.

    Ivo lại vào phòng của Milostiva lần cuối. Va li bên tay trái, mũ bên tay phải, ông cầu nguyện cho người đã chết và nói nho nhỏ :

    - Thưa bà, bây giờ bà không cần đến tôi nữa.

    Yên lặng một chốc, đầu hơi cúi thấp xuống. Ivo nói tiếp :

    - Cũng không còn lý do gì để tôi theo bà về nghĩa trang. Thôi vĩnh biệt Milostiva.

    Lau nước mắt, Ivo cầm lấy mũ, bước ra khỏi phòng bằng cửa sau, đèn nhà vẫn để sáng. Vừa đi, Ivo vừa thầm nghĩ :

    " Đã 40 năm mình làm bồi cho Milostiva. Bây giờ mình đành trở về Thụy Sĩ, đành trở về quê hương vậy"

    Và ông bước về phía trung tâm thành phố.

    XI
    - Tôi hoàn toàn không cho ai biết về cái chết của Debora Peternik. Người bồi phòng đang đứng trước mặt Ante Petrovici, vị bộ trưởng nội vụ của xứ những người Slaves miền Nam. Ông đang cố tìm chữ để diễn tả. Vali và mũ vẫn cầm trên tay, ông đứng trước bàn giấy mà không muốn ngồi xuống. Ông nói tiếp:

    - Trước khi ra ga, tôi đến để báo cho ông hay sự việc đã xẩy ra như thế nào về cái chết của bà Debora.

    Ante Petrovici vẫn yên lặng. Ivo tiếp tục :

    - Tôi nghe hết tất cả buổi nói chuyện giữa hai mẹ con họ. Còn thuốc độc thì chính Milan đã đưa cho bà ấy. Vâng, chính thế. Tôi không động chạm gì vào người đã chết, chỉ khoanh hai tay bà lại trước ngực thôi. Rồi tôi ra đi, vẫn để đèn sáng. Chỉ có thế, thưa ông.

    Trước mắt Ante như có bóng đêm đen, ông gác ống nghe vào chỗ cũ, mang áo choàng và bước đi khập khễnh không nói một lời nào. Cũng không thèm quay nhìn Ivo. Không cần nhìn ai nữa, không cần nhìn cái gì nữa. Xa lánh hẳn mọi sự. Ivo hỏi : "Ông có thấy gì trở ngại nếu tôi từ giã xứ này đêm nay không? Tôi sẽ trở về quê hương tôi. Tôi ở lại đây cũng chỉ vì Milostiva "

    Ante nhìn thẳng vào mắt Ivo. Ivo nói tiếp :

    - Tôi sẽ đáp chuyến tàu 0g30 sáng.

    - Chúc ông đi mạnh giỏi, tôi sẽ lo mọi việc cho Milostiva. Ante nói thế, như trong một giấc mơ. Ante là một nhà trí thức với bộ óc thông thái và bộ râu màu nâu như râu của thi sĩ Rainer Maria Rilke. Ông ta bắt tay Ivo và mở cửa.

    Ivo bỗng nói như van nài :

    - Thưa bác sĩ, tôi cần thú nhận điều này nữa. Xin bác sĩ tha lỗi bởi đáng lý tôi không nên xen vào... Đó là việc của bà Lidia, người vợ cũ của bác sĩ. Milostiva thường hay giúp đỡ bà ấy tiền nong, thực phẩm và thuốc men. Nay Milostiva chết đi, tôi không biết bà ấy sẽ ra sao. Đó là tất cả điều tôi muốn nói thêm với bác sĩ.

    Ante ngạc nhiên :

    - Lidia đã ra ngoại quốc lâu lắm rồi, đã hai năm rồi.

    - Không, thưa ông. Bà Lidia vẫn ở đây, hiện đang trốn ở Dalmatie trong một làng nhỏ, dưới một tên giả. Chỉ Milostiva biết địa chỉ của bà ấy thôi, và thường tìm cách giúp đỡ Lidia. Nay Milostiva không còn nữa, Lidia lại đang đau ...

    - Ông chắc chắn như thế chứ ?

    Ante Petrovici đã ly dị vợ cách đây bốn năm. Lidia là một nghệ sĩ chơi vĩ cầm nỗi tiếng. Ông ta yêu Lidia lắm nhưng không thể sống chung được, vì Lidia bị bệnh thần kinh, nên càng ngày càng trở nên gắt gỏng. Họ đành phải ly dị nhau. Lidia nổi tiếng khắp nơi, tại Mỹ cũng như tại Pháp và Anh. Ante chỉ biết mơ hồ là Lidia đã bỏ đi sau khi ly dị. Ông ta hỏi Ivo một lần nữa :

    - Ông chắc chắn là Lidia không ra ngoại quốc ?

    - Thưa bác sĩ, chắc chắn như thế.

    - Lidia là một người Do Thái, nên phải trốn tránh vì tất cả Do Thái ở quốc gia những người Slaves miền Nam đều bị giết. Ante ngạc nhiên :

    - Tại sao Milostiva không bao giờ nói với tôi điều đó. Cả ông nữa, ông cũng giữ kín nốt.

    Ivo nhún vai. Trong khi Ante nghi ngờ :

    - Không thể nào Lidia còn sống được. Vâng không thể nào, nhưng nếu nàng còn sống, tôi sẽ lo liệu. Ivo, ông có thể ra đi. Chúc ông đi may mắn. Nếu Lidia còn ở đây tôi sẽ tìm ra.

    Trước khi Ivo ra cửa, Ante còn quay lại hỏi :

    - Ông không biết địa chỉ của Lidia sao ?

    - Thưa ông, chỉ có Milostiva biết mà thôi.

    Không còn gì để hỏi nữa. Ante để cho Ivo ra ga. Ivo sẽ trở về xứ để có thể xây một căn nhà và sống bình dị, khi không còn là một tên bồi phòng nữa. Mà bây giờ thì dĩ nhiên ông ta không còn là một tên bồi phòng nữa rồi.

    Ante trở lại văn phòng một mình. Nhắc ống điện thoại lên, Ante bảo với nhân viên :

    - Anh báo cho quốc trưởng biết là Milostiva Debora Paternik đã chết. Vâng, bị giết bằng thuốc độc. Chỉ biết có thế lúc này thôi. Tôi sẽ đích thân đến biệt thự của Milostiva.

    Mặc áo choàng, đội mũ xong, Ante nhận chuông, một sĩ quan chạy đến, Ante ra lệnh :

    - Tim xem thử bà Lidia Petrovici, người vợ cũ của tôi đã ra ngoại quốc chưa ? Làm cho tôi một biên bản rõ ràng, sau khi hỏi kỹ các ban tình báo và các nơi. Nơi nào cũng phải hỏi cả đấy.

    Xong, Ante lau mồ hôi trán và vội vã ra đường

    XII
    Motok trở lại ga với gói quà của Lidia. Không ai trả lời cho hắn đến nhà Milostiva cả. Eddy Thall đã dặn hắn là không được đưa gói quà đó cho lính gác cổng. Thế mà có ai trả lời hắn đâu ngoài mấy người lính gác cổng. Hắn nhìn đóng giấy thông hành của hành khách trên xe lửa mà không thèm mở ra xem nữa, vì đã mệt mỏi với cảnh tượng xảy ra ở biệt thự Milostiva. Hắn đã nhấn chuông suốt nửa tiếng đồng hồ. Vô ích. Cuối cùng rồi cũng phải bỏ về. Người bồi phòng không hề lên tiếng.

    Bỗng có tiếng súng nổ, liên tiếp, sát toa phòng ngủ, Motok mở cửa sổ của toa xe nhìn xuống. Trên sân ga, cách toa xe có vài ba bước, một nạn nhân đã ngã gục, vali còn nằm bên cạnh. Mấy người lính mang tiểu liên chạy lại lấy cái vali và ôm người chết lên.

    Một người khác dùng mũi súng cố móc cái mũ của nạn nhân đang nằm giữa đường rầy dưới toa xe.

    Không còn ai ở trên lề đường nữa. Bốn người lính đã kéo nạn nhân ra khỏi ga.

    Motok nhìn vũng máu lớn chảy trên đường nhựa thành một vệt dài ra tận lối đi, vũng máu của người chết mà bốn binh sĩ đã kéo xếch ra khỏi ga xe lửa. Motok lau nước mắt. Hắn muốn ra khỏi toa nhưng một tốp lính khác đã đứng gác ở hành lang to axe. Một viên sĩ quan la lên :

    - Giấy tờ của hành khách đâu hết ?

    Motok chưa kịp trả lời thì viên sĩ quan nọ đã vồ lấy giấy tờ đang để trên bàn và xét thật nhanh, từng tờ một. Sau cùng ông ta cầm lấy một giấy thông hành cùng với một vé xe lửa. Motok muốn xem tên trên tấm giấy thông hành đó lắm nhưng không kịp. Viên sĩ quan bảo Motok :

    - Phòng số năm trống rồi đấy.

    Rồi ông thản nhiên bỏ giấy thông hành của Ivo Doppelhof vào túi. Motok thầm nghĩ : " Đúng là hành khách phòng số 5 vừa bị giết ".

    Hai người lính khác tiến vào toa xe xem thử Ivo còn để lại vật gì không. Motok muốn xuống tàu một lát xem thử có chuyện gì xảy ra, nhưng toa xe đã bị lính gác chận hết. Không ai được phép xuống ga cả. Hắn đành phải ở lại trên tàu và tiếp tục xem xét giấy tờ của các hành khách khác. Sau khi tàu đã khởi hành hắn đi khám một lần nữa. Các phòng đều đầy đủ cả. Có nhiều nhà ngoại giao, sĩ quan và kỹ nghệ gia Đức. Khi tàu đã rời quốc gia những người Slaves, một hành khách người Ý vừa gọi một chai bia vừa hỏi Motok :

    - Anh có nói chuyện với người Thụy Sĩ đó trước khi ông ấy bị giết không ? Motok ngạc nhiên, không hiểu ông khách muốn nói đến người Thụy Sĩ nào.

    - Cả thành phố ai cũng biết, anh chứng kiến tận mắt cảnh đó anh lại không biết sao. Mà ông ấy lại là hành khách phòng số 5 của anh nữa.

    Motok trả lời :

    - Tôi chưa kiểm soát lại giấy tờ, nên chưa biết tên nạn nhân là ai cả. vả lại, tôi không được phép xuống tàu nên có thấy mặt nạn nhân đâu. Tôi chỉ biết sơ là ông ấy bị bắn trên sân ga, sát toa xe lửa, sau khi ông ấy bị bắt, thế thôi.

    - Đúng là Ivo Doppelhof, người bồi phòng của Milostiva Debora Paternick đấy.

    Rồi vừa uống bia, người Ý lại nói tiếp :

    - Người ta chưa hề thấy ở xứ này chuyện nào khủng khiếp hơn những chuyện vừa xảy ra đêm nay, một thảm kịch thật vĩ đại. Tướng Paternick đã giết mẹ hắn vì vấn đề chủng tộc. Giết mẹ hắn vì mẹ hắn không phải là người Slaves. Thực chưa bao giờ người ta thấy cảnh đó cả. Hắn đã ám sát mẹ hắn bằng thuốc độc. Sau đó hắn cho lệnh bắn người bồi phòng muốn trốn về xứ, nhưng lính đã bắt được và bắn hạ ngay tại ga xe lửa, như anh vừa chứng kiến đó. Milan Paternik muốn giết nhân chứng duy nhất của tội ác tày trời của hắn. Hắn sợ là lúc về đến Thụy sĩ người bồi bàn sẽ kể hết những chuyện mắt thấy tai nghe, nên hắn phải giết Ivo. Nhưng để làm gì cơ chứ, cả thành phố này đều biết cả rồi, và cả Âu Châu cũng biết câu chuyện này rồi.

    Motok nhìn lại gói quà của Lidia ở dưới bàn, lẫn lộn trong mấy chai bia, trong lúc hành khách người Ý tiếp tục nói :

    - Người ta đã bố cáo trên đài thanh là Milan Paternik đã bị cách chức và bị bắt. Chính cha hắn đã loại hắn ra khỏi chính trường. Lúc nửa đêm, đài phát thanh nào cũng loan tin đó cả anh không nghe gì hết ư ? ... Ủa, mà anh đang sống ở thế giới nào đó ? Sao anh lại không biết là tướng Milan đã bị cách chứ ?

    Motok lau mồ hôi trán, hắn cảm thấy chóng mặt quá đi mất.

    - Ông có chắc người bị giết là Ivo Doppelhof, người bồi phòng của Milostiva Debora Paternck ?

    - Điều đó ai cũng biết cả. Chỉ có anh là nghi ngờ thôi, trong khi anh lại đủ điều kiện để biết hơn ai hết . Thế anh không trông thấy gì cả ư ? Anh cũng không hề nói chuyện với nạn nhân lần nào cả sao ? Thôi, mai báo chí sẽ cho anh biết. Thực là một chuyện đáng tởm.

    Motok không còn sức để suy nghĩ gì nữa cả. Hành khách người Ý gọi thêm một chai bia nữa. Trong lúc Motok cúi xuống kiếm một chai bia, người hành khách vổ vai hắn và nói :

    - Điều quan hệ hơn cả là Ivo là dân Thụy sĩ, vâng, dân của một nước trung lập. Thụy sĩ sẻ phản kháng và tai hại lắm.

    Con tàu trườn mình trong đêm tối. Họ đang ở trung tâm của Âu châu, trung tâm của những bóng đêm của những che dấu và lừa đảo.

  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    XIII
    Viên đại sứ Đức bảo :

    - Đây là một ân huệ hoàn toàn đặc biệt đấy.

    Trao cho Ante Petrovici tờ giấy phép vào trại Auschwitz, ông ta nói tiếp :

    - Cách đây bốn tuần, Lidia Petrovici bị giam ở Đức. Nhưng bà sẽ được phóng thích và có thể trở về với ông lúc nào ông đến lãnh. Tôi hy vọng là ông sẽ gặp bà khoẻ mạnh. Nhưng tôi yêu cầu ông giữ bí mật hoàn toàn. Những đặc ân này phải giữ kín đấy. Thôi chúc bác sĩ may mắn.

    Thế là Ante Petrovici sang Đức ngay ngày hôm đó. Một tuần trôi qua kể từ ngày Milostiva tự tử, Ivo bị ám sát và Milan Paternik bị cách chức - Ante Petrovici cũng không muốn làm bộ trưởng nội vụ nữa, ông đã xin từ chức nhưng không được chấp thuận. Dù thế nào, ông ta cũng theo dõi dấu vết của Lidia, biết được bà đang bị giữ ở trại Auschwitz và đã được chấp thuận trả tự do. Ông tức tốc sang Đức ngay.

    Từ hai năm nay, ông ta không hề nghĩ đến Lidia. Nhưng bây giờ thì khác. Lần cuối cùng khi hai người vừa ly dị, nàng đã nói : « Em sẽ ra ngoại quốc. » Rồi chiến tranh bùng nổ, Ante Petrovici giữ chức Bộ trưởng nội vụ và không nghe gì về Lidia nữa.

    Ante thắc mắc : « Tại sao Lidia chẳng cần gì đến mình cả?»

    « Với chức vụ bộ trưởng, đúng ra mình đã giúp đỡ nàng ít nhiều, nhưng tại nàng giữ hành tung bí mật quá. Dù sao, nàng cũng là vợ mình ». Tuy nhiên Ante không hiểu nổi tại sao nàng lại ghét bỏ mình. Có lẽ tại mình tham gia một chính phủ có chủ trương giết Do Thái chăng. Nhưng mình có hợp tác trong vụ đó đâu. Mình chỉ chuyên về hành chánh mà thôi.

    « Thực ra, Lidia vẫn có quyền hận mình, hay nàng có ghét mình chăng nữa thì cũng hợp lý. Ngay cả không hợp tác, mình cũng đã nằm trong thành phần những kẻ sáng lập một thứ xã hội mới. Để thực hiện thứ trật tự mới đó cho cả Âu châu, những « chuyên viên chính trị đó », đã loại trừ một vài chủng tộc như Tziganes và Do Thái, mình cũng đã hoạt động cho thứ trật tự mới đó, thứ trật tự đó chống lại chính con người. » Nên Lidia đã ghét mình, mình đã góp phần vào công cuộc giết người để tạo nên thứ trật tự mới của xã hội Âu Châu. Đó là một tội ác lớn lao nhất đời. Nếu còn nói chuyện với nhau, và nàng có tỏ ra khinh bỉ mình thì cũng là một điều dễ hiểu. Cũng như nàng đã từng xin ngoại quốc giúp đỡ mà không hề mở miệng yêu cầu mình một điều gì cả.

    Ante đem theo trong xe nhiều thứ, nào thức ăn, nào thuốc men, áo quần, mền mùng. Tất cả để cho Lidia. Ông ta vội vã qua Đức. Chưa bao giờ ông vội vã như thế, nên khi ông đến Auschwitz, ông ta hầu như hoàn toàn kiệt sức. Ante muốn giải thoát Lidia vài phút sớm hơn. Chậm giây nào để Lidia phải chịu khổ trong cảnh tù đày là lỗi của Ante.

    - Thưa ông, bà Lidia Petrovici vừa mới chết.

    Nghe thế, Ante đứng lặng người trước viên chỉ huy trại giam đang cầm giấy tờ phóng thích của Lidia.

    Thật tai hại, nếu ông đến đây sớm hơn chừng một tuần thì bà ấy còn sống. Tai hại quá, một lệnh phóng thích như thế này thật quá đặc biệt. Tiếc thay lệnh đó đến với một tù nhân đã chết.

    - Tôi có thể mang xác về chôn cất ở xứ sở được không ?

    - Thưa ông, tù nhân chết trong trại giam đều bị đốt, đó là một thông lệ chung.

    Ante muốn bỏ đi. Nhưng ông chỉ huy trại giam xếp lệnh phóng thích Lidia vào hồ sơ. Theo đúng luật lệ hành chánh. Ông ta phải giữ giấy tờ đó lại.

    - Bà ấy không để lại thư từ hay vật gì sau khi chết ?

    Viên trại trưởng mỉm cười mỉa mai :

    - Thưa ông, rất tiếc tù nhân ở đây không có lệ gởi thư.

    Thế là Ante đành bỏ đi. Vừa đi vừa lẩm bẩm : « Đúng là loại trừ hoàn toàn. Lidia đã bị loại trừ, bị đốt thành than, thành tro bụi, không còn một dấu tích gì nữa. Một hột nút áo cũng không còn ».

    XIV
    Daniel Motok đến nhà Pierre Pillat và muốn kể hết các chuyện đã xảy ra, bởi báo chí không hề đề cập gì rõ ràng cả. Người ta chỉ nói là tướnng Milan Peternick, giám đốc cảnh sát quốc gia đã bị thay thế. Chỉ có thế thôi. Và rải rác trên các báo chí, người ta đọc được tin Milostiva Debora Paternick vợ của quốc trưởng và là người cộng tác đắc lực nhất của quốc trưởng vừa mới từ trần. Không có tin gì về cái chết của Ivo Doppelhof.

    Cầm gói quà của Eddy gởi cho Lidia trên tay, Motok muốn gặp Pillat ngay để kể cho ông ta biết chuyện hắn đến quốc gia người Slaves như thế nào, đến biệt thự Milostiva chỉ gặp lính gác và người chết ở bên trong ra sao, kể chuyện người bồi phòng đã trốn tránh và bị giết trong trường hợp nào.

    Và Motok muốn bảo với Pillat : «Tôi không thể đến nhà Eddy Thall để trả lại gói quà này đâu, bởi vì tôi không còn lòng dạ nào kể cho bà ấy nghe câu chuyện hãi hùng vừa xảy ra. Nhờ ông đi hộ cho». Nhưng Pillat không có nhà. Nhìn đồng hồ thì đã 8 giờ tối. Sực nhớ đến tấm danh thiếp của Eddy, Motok nghĩ bụng :

    - Thôi mình cứ đến hý viện vậy. Và không cần xem diễn kịch. Mệt quá rồi, nhưng đằng nào cũng phải đến để trả lại gói quà, thế thôi.

    Motok gọi tắc xi đi về hý viện. Đến nơi đã thiếu 15 phút đầy 9 giờ. Thế mà cửa lớn còn đóng. Hý viện tối om. Bước lên tam cấp, hắn cố mở cửa chính của hý viện rộng thênh thang. Cửa vẫn đóng. Đặt gói quà xuống bậc thềm, Motok quẹt một cây diêm và tự nhủ «Nếu có trình diễn như thường lệ vào lúc 9 giờ thì vào giờ này hý viện đã mở cửa rồi chứ !»

    Ánh sáng cây diêm cho phép Motok đọc một mảnh giấy dán trước cửa có hàng chữ hoa : «Hý viện Eddy Thall ngưng trình diễn tạm thời.»

    Motok muốn hiểu lý do tại sao, nhưng chẳng ai ở đó để hỏi cả. Motok lại tự an ủi : "May mà chỉ mới tạm ngưng thôi."

    Trước khi bỏ đi, Motok muốn chắc có đúng như vậy không, hắn bèn quẹt thêm một cây diêm nữa, dòng chữ hoa hiện ra trên mảnh giấy dán ở cửa «Hý viện Eddy Thall ngưng … » chỉ đọc được như thế thì cây diêm tắt. Mảnh giấy chìm trong bóng tối, nhưng chắc chắn là Motok đã đọc đúng. Những buổi trình diễn của hý viện Eddy Thall đã ngưng.

    XV
    Eddy nói với Tinka :

    - Tinka, vú phải ráng lên. Chúng ta không có quyền để thay đổi một điều gì cả. Tôi đã thử hết cách rồi, nhưng người ta vẫn không cho phép tôi để vú làm việc ở đây. Vú phải đi, nếu không cả hai chúng ta phải vào tù. Không một người Do Thái nào có quyền nuôi người giúp việc có đạo Thiên chúa.

    Tinka đứng trước mặt Eddy Thall, trong căn phòng mà bà không có quyền quét tước, đã mấy ngày nay. Kể từ ngày bà đi vắng, sàn nhà không được đánh bóng, bụi bám đầy sách vở không ai lau chùi. Nhận xét đó đủ làm cho bà khổ tâm, bởi lẽ không làm những công việc thường nhật đó, bà cảm thấy đời sống của bà không được quân bình nữa.

    Eddy nói tiếp :

    - Vú cầm lấy gói giấy tờ nầy đi. Vú có cả một cuốn sổ ngân hàng nữa đó. Vú có thể rút tiền ra tiêu lúc nào cần. Tôi đã trả cho vú một năm lương chứ không phải chỉ 3 tháng như luật lệ bắt buộc đâu. Vú có đủ giấy tờ trong gói nầy như trích lục khai sinh, bản sao rửa tội. Vâng, đủ cả đấy.

    Eddy đưa gói giấy cho Tinka. Bà chưa bào giờ giữ giấy tờ đó trong người cả, lúc nào cũng nhét trong hộc bàn bởi có lúc nào bà cần đến chúng đâu. Cho nên, Eddy đưa cho bà, bà bỗng nức nở khóc:

    - Cô muốn tôi làm gì với những thứ nầy?

    - Thì mỗi công dân phải có giấy tờ chứ.

    Tinka nghĩ thật thô thiển. Cả khu phố nầy ai mà không biết đến bà, từ người hàng xóm đến bà bán bánh mì, bán thịt, ai cũng biết bà cả thì bà cần gì đến giấy tờ. Ừ, bà không phải là một người cần đến giấy tờ.

    Nhìn gói giấy tờ trên tay, Tinka nức nở khóc. Nước mắt chảy xuống tấm căn cước, ướt luôn cả tấm bản sao rửa tội và trích lục khai sinh.

    Đối với Tinka, cầm những mảnh giấy đó còn nhục nhã hơn là bị đuổi khỏi nhà. Bà cứ nghĩ: "thật là một điều nhục nhã khi phải trở thành một người đàn bà có giấy tờ. Chỉ có những người đàn bà xấu xa mới cần có giấy tờ mà thôi".

    Và bà vứt gói giấy xuống bàn. Từ giờ cho đến lúc chết đi, bà không thể nào chịu nổi một sự nhục nhã như thế. Bà không phạm tội gì cả để bị bắt buộc cầm giấy tờ lúc bà đã 60 tuổi. Bà cứ nghĩ: "Thực là một sự nhục nhã nếu phải trở thành một người đàn bà có giấy tờ".

    Eddy Thall giải thích:

    - Nhưng mà bây giờ ai cũng như thế cả. Vú nhìn tôi mà xem, lúc nào tôi cũng mang theo căn cước trong xách tay.

    - Nếu người ta muốn xét giấy tờ tôi, xét giấy tờ một người đàn bà già nua như một kẻ trộm cắp hay vô lại thì thà tôi chết đi còn hơn.

    Nói xong Tinka lau nước mắt, rồi chợt nhắc Eddy:

    - Mai thứ nam rồi đấy cô ạ.

    Bởi vì từ 40 năm nay, Tinka lúc nào cũng giặt áo quần vào ngày thứ năm mỗi tuần, đều đặn như thế, không trừ bữa nào cả.

    Nhưng Eddy đã vội bảo:

    - Vú đâu có quyền tiếp tục làm việc trong nhà tôi nữa, luật lệ bây giờ không cho phép như thế.

    - Tôi sẽ làm việc cho vui mà thôi, luật lệ không thể cấm tôi giặt áo quần vào mỗi thứ năm đâu, như tôi đã làm thế suốt đời.

    - Tinka, luật lệ cấm điều đó thật đấy. Nếu vú rửa chén bát hôm nay thì ngày mai chúng ta sẽ vào tù như những người phạm tội.

    - Nhưng cô tin là cảnh sát sẽ đi soát từng nhà để xem người ta có rửa chén bát hay không sao?

    - Vú à, một người có đạo không được giặt áo quần cho một người đàn bà Do Thái. Vú là người có đạo, tôi lại là người Do Thái, đấy tội lỗi do thế mà ra cả.

    Giọng Tinka bỗng trở nên chua chát:

    - Thưa cô, cảnh sát xứ này đã bắt hết trộm cướp rồi, và bây giờ vì không có việc gì làm nữa, họ bèn vào kiểm soát từng nhà để xem đàn bà có giặt áo quần hay không …

    - Nhưng điều đó còn quan trọng hơn cả người phạm tội trộm cắp nữa. Vì nếu vú giặt áo quần cho tôi, vú phạm tội chính trị, một thứ tội nặng hơn tất cả các tội khác trong xứ nầy. Qua làn nước mắt, Tinka nhìn chiếc giường còn bừa bãi ở trong phòng ngủ, và bà hỏi Eddy:

    - Thế tôi có được phép trải giường không thưa cô.

    - Không, vú à. Tôi đã nói là vú không còn được phép làm bết cứ việc gì trong nhà tôi nữa.

    - Thế việc tôi trải giường cũng thuộc về chính trị hay sao?

    - Vâng, Tonka à, tất cả đều là chính trị cả …

    Tinka nhìn tách trà trên bàn và rụt rè nói với Eddy:

    - Cô lúc nào cũng dùng trà vào giờ này. Nếu tôi đi rót trà cho cô thì có gì là chíng trị đâu. Thế giới có phải ai cũng điên hết để cho rằng như thế là chính trị!

    - tất cả việc gì do vú làm trong nhà nầy đều được xem như là xâm phạm đạo luật về chủng tộc, nghĩa là vú đã phạm tội thuộc chính trị. Ngay ở trong tách trà cũng có vấn đề chính trị.

    - Vậy có lẽ cô muốn đuổi tôi ra khỏi nhà, bởi vì tôi không thể nào hiểu nổi như thế cả. Giặt áo quần, rót trà lau bụi trên sách vở, có gì là chính trị ở trong các công việc đó? Từ khi tôi còn trẻ, tôi đã rửa chén bát, làm bếp, quét nhà, đi chợ và mặc dù thế, tôi không hề dính líu đến chính trị. Trà là trà, không thể là chính trị được. Áo quần là áo quần, không thể là chính trị được, nền nhà là nền nhà …

    Nói đến đây Tinka nức nở khóc.

    XVI
    Một tuần sau khi hý viện bị đóng cửa, có một viên sĩ quan bước vào nhà Eddy, nét mặt có vẻ vui sướng và dễ thương, trong bộ đồng phục màu xanh da trời và mang huy hiệu phi công. Hắn nói ngay với Eddy:

    - Tôi muốn đến thăm căn nhà nầy.

    Và không chờ Eddy trả lời gì, hắn nhìn ngay vào phòng khách bên cạnh và hít hà ra vẻ thích thú lắm:

    - Thật là một căn nhà tráng lệ, có bao nhiêu phòng tất cả, thưa cô?

    - Mời ông ngồi xuống đã.

    Eddy muốn ngăn cản hắn đi vào phòng khác nên nàng mời hắn ngồi, nhưng viên sĩ quan tiến về phía cửa sổ.

    - Chà cô có một khu vườn đẹp quá, thật là tráng lệ.

    Vừa nói thế, hắn vừa móc trong túi ra một mảnh giấy và trao cho Eddy:

    - Tôi là Trung úy phi công Varlaam. Bộ kiến thiết đã cho tôi căn nhà này của cô.

    Eddy cầm mảnh giấy có tiêu đề và đóng dấu hẳn hoi ; đúng là lệnh tịch thu nhà nàng. Tay nàng run lên. Nàng thừa biết thế nào nhà cửa của người Do thái cũng bị tịch thu, nhưng không ngờ nàng bị tước mất nhà sớm đến thế nầy.

    Nàng nhìn thẳng vào đôi mắt mở lớn của viên phi công và nói :

    - Thưa trung úy, làm sao ông có thể đuổi người ta ra khỏi nhà để vào ở cho đành. Đó là một điều mà tôi không thể làm nổi.

    Hắn đỏ mặt và nói :

    - Tôi mong cô tha lỗi. Như tất cả mọi Sĩ quan chính phủ đã cấp cho tôi một căn nhà. Và tôi được mời đến xem thử tôi có vừa ý căn nhà nầy hay không. Đó là những sự kiện đã xẩy ra. Nhưng tôi không có ý đuổi air a khỏi nhà nầy cả. Xin lỗi cô, tôi cứ tưởng là nhà nầy không có ai ở.

    - Vâng, người ta đã xem nhà nầy như là vô chủ bởi vì là nhà của một người Do thái. Đúng thế, một gian nhà do người Do thái ở được coi như là một gian nhà trống, dù là một gian nhà do chính cha ông tôi tạo ra.

    Varlaam nghiêng đầu chào:

    - Đó không phải là lỗi tại tôi. Một lần nữa xin cô tha lỗi. Hoàn toàn không phải do nơi tôi.

    Và hắn bỏ đi.

    XVII
    Ngày ngày Eddy Thall chờ lệng dọn nhà. Cái chết của Lidia, chuyện đóng cửa hý viện, chuyện xa rời Tinka, tất cả điều đó không làm cho nàng đau khổ bằng lệnh tịch thu nhà nàng, bởi lẽ căn nhà là nơi trú ẩn mà người ta có thể trốn vào đó để đau khổ. Thế mà nay nàng phải bỏ nó mà đi.

    Trong lúc đó Max Reingold vẫn bình tĩnh ngồi đó, trên ghế bành với cặp da, áo quần thẳng nếp, kính gọng vàng như thường lệ. Ông bàn chuyện cùng nàng với tất cả thản nhiên như khi ông đang để cập đến những điều nhỏ mọn chứ không xem như là đang nói đến chuyện quan hệ cho cả cuộc đời của hai người. Ông thản nhiên như đang tính toán một việc gì, bàn cãi như khi đang làm một phép tính cộng hay tính trừ; thản nhiên, khách quan ông ta bảo Eddy:

    - Điều may mắn duy nhất còn lại là chúng ta mở cửa lại hý viện. Vâng, mở cửa hý viện Eddy con ạ, năm lần lớn hơn, cho năm ngàn khán giả. Bác đã chuẩn bị sẵn sàng chương trình.

    Nghe thế Edy rướn người lên một chúy? Max tiếp tục:

    - Chúng ta còn điều may mắn đó, nhưng không phải ở xứ nầy. Chúng ta sẽ mở lại hý viện ở thủ đô Tel Aviv, tại Palestine. Và như thế chỉ còn một giải pháp độc nhất là chúng ta di cư.

    Mắt Eddy Thall sang lên một chút xong lại buồn bã trở lại ngay. Max vẫn nói: Ở xứ Lỗ này chúng ta không còn làm gì được nữa? Tình trạng đã như thế này: hý viện bị đóng cửa, nhà cửa bị tịch thu, người ở bị đuổi ra khỏi nhà. Chẳng bao lâu họ sẽ nhốt mình vào trại tập trung; rồi đốt cháy trong những lò hỏa thiêu như câu chuyện đó xẩy ra ở các nước khác. Với lại, đây cũng không phải là quốc gia chúng ta, chúng ta là người Do thái, tổ quốc chúng ta là xứ Palestine. Cho nên giải pháp độc nhất là hungg ta phải di cư".

    Eddy Thall vẫn chưa nói gì. Max nói tiếp:

    - Con không bằng lòng ư? Ít người Do thái hiện nay được may mắn di cư lắm. Thế mà chúng ta có thể di cư được.

    - Thưa bác, con muốn suy nghĩ thêm chút nữa bởi vì có nhiều việc mà chúng ta khổ sở lắm mới từ bỏ được.

    - Thế nhưng, chỉ phải rời khỏi nơi đây, con mới từ bỏ được khủng bố và nhục nhã.

    - Con không muốn rời bỏ Lỗ Ma Ni. Con sinh ra ở đây và đã xem xứ nầy như quê hương. Mà quê hương cũng giống như một người đàn bà bác đã cưới làm vợ. Cho đến ngày nào đó, nàng đang hoàn toàn xa lạ với bác. Nhưng lúc nào nàng đã trở thành vợ bác thì bác sẽ yêu nàng hơn tất cả mọi người, hơn cả mẹ già của bác, hơn cả chị em ruột thịt của bác. Với nàng, bác có thể từ bỏ hết. Đối với quê hương cũng như thế. Dù đó là một xứ lạ. Đó là đất đai bác đang sống và bác khó lòng bỏ mà đi nơi khác được nữa. Lỗ ma Ni là nơi con đã sinh ra. Nó còn thân thuộc hơn cả chính tổ quốc của con là xứ Palestine nữa.

    Max Reingold đứng dậy :

    - Lý luận của con có vẻ hợp lý. Nhưng con suy nghĩ kỹ đi. Bác vẫn tin di cư là lối thoát duy nhất cho chúng ta. Và chúng ta chỉ còn giải pháp đó mà thôi.

    XVIII
    Eddy nói có vẻ van nài :

    - Tôi cho vú một căn gác nhỏ, tôi van vú đừng vào nhà tôi nữa, nếu cảnh sát biết được vú ở đây, họ sẽ tưởng là vú còn phục dịch cho tôi thì phiền lắm.

    Tinka đang đứng ở gần cửa, bà lên tiếng :

    - Quan tòa Pillat không thể giúp tôi được gì sao ?

    - Vú à, không ai có thể giúp đỡ chúng ta để chống lại luật pháp cả. Luật pháp còn hung bạo hơn cả thú dữ nữa.

    - Nhưng tôi làm gì cho hết ngày đây.

    Tinka nhìn Eddy trừng trừng và hỏi như thế.

    - Thì vú cứ lên trên gác đi. Và làm việc. Nếu vú chán thì đi xem hát bóng.

    Tinka lại khóc nức nở. Đi xem hát bóng ngay trong giờ làm việc như những người đàn bà hư hỏng thật là nhục nhã.

    Tinka có thể làm bất cứ việc gì nhưng mà đi xem hát bóng vào sáng thứ ba chẳng hạn thì thực bà không tài nào làm như thế được. Nên vừa bước ra cửa bà vừa khóc ; lên nhà bà, bà uể oải nhúng áo quần bẩn vào chậu nước. Vào lúc đó, có tiếng gõ cửa. Hai người cảnh sát bước vào. Họ quan sát kỹ lưỡng các bức tường. Một trong hai người đến gần chậu áo quần, cầm cái áo cụt bằng vải thô lên xem, trong lúc Tinka nói gần như quát :

    - Các ông không biết hổ thẹn khi dí mũi vào chậu áo quần của tôi sao.

    Người cảnh sát vẫn tiếp tục nhắc tấm drap, áo quần, khăn tay, cố xem thử trong đống áo quần bằng vải thô của Tinka có lẫn lộn áo lụa hay áo vải của bà chủ hay không. Nhưng chỉ toàn là áo quần của Tinka thôi.

    Bực mình, Tinka đuổi :

    - Các ông đi đi, ra khỏi nhà tôi ngay.

    Viên cảnh sát phản đối :

    - Chúng tôi chỉ biết làm phận sự. Nhưng nếu bà tiếp tục nói như thế thì buộc lòng chúng tôi phải làm một bản cáo trạng về tội bà lăng nhục nhân viên công lực.

    Nhưng Tinka vẫn tiếp tục chửi rủa tàn tệ :

    - Ngay cả một con chó cũng không đến đây để chúi mũi vào chậu quần áo của một người đàn bà già đang giặt. Nếu đó là phận sự của ngành cảnh sát các ông thì chắc cảnh sát không phải là người.

    Hai người cảnh sát bỏ đi qua các phòng khác trong khi Tinka vẫn tiếp tục nói một mình như muốn trút hết cơn giận dữ :

    - Nếu cảnh sát chỉ có từng ấy công việc, nếu bây giờ có những luật lệ gởi cảnh sát đi xét áo quần đầy tớ, lục lạo trong những đống áo quần dơ của đầy tớ để tìm ra chính trị thì thôi, thế giới này thật đáng tởm.

    Và Tinka khạc đờm vào sau lưng họ như là muốn nhổ đờm lên trên nghành cảnh sát, lên luật lệ và lên tất cả những ai đang làm ra luật lệ hiện hành. Sau đó bà nức nở khóc như đang đưa ma. Mái nhà thấp quá bà có khóc cũng không ai nghe, nhưng khóc được bà thấy nhẹ nhõm như có ai đỡ hộ một gánh nặng trong lòng. Bà lấy lại cam đảm và quyết định sẽ đối phó với cảnh sát, để trả thù cho tất cả những nhục nhã và bất công của họ.

    Xuống cầu thang, Tinka vào nhà bếp của Eddy Thall. Vào được đó bà cảm thấy dễ thở quá. Đã một tuần rồi, bà không được vào tận bếp của nhà bà chủ mà bà sống ở đấy suốt đời. Vũ trụ của bà là ở trong căn phòng nầy, với nào là vòi nước, lò lửa, soong chảo, nào là những xó xỉnh đầy chén đĩa và ly tách. Không có công việc bếp núc, đời Tinka không còn ý nghĩa gì nữa. Với bà, đời sống có nghĩa là chợ búa, mua bán với ngày ngày những giỏ đầy nhóc ngò tây, khoai đậu ; đời sống của bà có nghĩa rửa khoai, rửa chén bát, là mùi hành đã thái thật mỏng. Với bà đời sống là cắt cà rốt thành từng khoanh tròn, là giờ ăn với mùi cháo thơm ngát, với thịt rô ti và những thức ăn tráng miệng. Tất cả điều đó đã chấm dứt với Tinka từ một tuần lễ nay, nên đời Tinka hầu như hoàn toàn trống rỗng.

    Ở trong bếp, Tinka lại khóc, ngồi xuống chiếc đòn bằng gỗ, Tinka ôm mặt, nhìn soong chảo trên tường sắp ngăn nắp theo thứ tự to nhỏ qua làn nước mắt như qua một cửa kính đọng hơi nước. Bà nhìn lò lửa mà chính tay bà đánh bóng mỗi chiều.

    Tinka nhén lửa và có cảm tưởng như được sống lại. Bà lại bắt đầu nấu nước và quét nhà.

    Bà tự nghĩ : " Ngay cả nếu mình phải bị tù, hôm nay mình cũng cứ làm việc ở đây như thường ".

    Eddy Thall không có nhà. Tinka bèn cầm giỏ đi chợ, hãnh diện được cầm giỏ xuống thang lầu, đi ngang qua các cửa hàng. Ngoài chợ, Tinka mua tất cả những gì có thể mua được, bà tiêu tiền như để sửa soạn một bữa tiệc, bà trả bằng tiền riêng của bà, bằng vốn liếng bà dành dụm bao năm trời. Rồi bà trở về nhà, thức ăn mua trong giỏ bà xem như là những chiến lợi phẩm, nên bà lấy làm kiêu hãnh đã ngang nhiên làm những điều mà luật lệ hiện cấm không cho bà được phép làm. Người cảnh sát gác đường nhìn bà khá lâu và mỉm cười, ông ta biết rõ bà Tinka lắm.

    Ngày hôm đó không có vi phạm gì để ghi vào biên bản cả, không có khách hàng nào để thùng trống ở trên lề đường, không có người đầy tớ nào rủ bụi thảm trải nhà qua cửa sổ sau chin giờ sáng, không có xe chở hàng nào dừng ở giữa đường. Tuy nhiên, ông ta phải ghi gì trong biên bản chứ. Bỗng ông ta nảy ra ý kiến: "Mình cứ ghi là Tinka Neva tiếp tục phục dịch cho người Do thái" và như thế ông đi nạp biên bản

    Tinka trở về bếp, trút thức ăn trong giỏ ra và bắt đầu rửa rau. Chính lúc đó cảnh sát vào.

    - Chủ nhà của bà đâu? Họ hỏi:

    - Cô ấy đi vắng rồi.

    Tim Tinka đập mạnh, nhưng bà không hề sợ hãi; ở trong bếp, bà bình thản tiếp tục thái cà rốt.

    Một người cảnh sát bảo:

    - Bà không biết là bà không được làm việc cho người Do Thái sao?

    Tinka nhỏ nhẹ trả lời:

    - Cô ấy không hề biết là tôi sửa soạn bữa ăn. Hôm nay là lần đầu tiên không hiểu ai xui khiến tôi như thế nầy.

    Người cảnh sát ra lệnh:

    - Bà đi theo chúng tôi ngay.

    Tinka tiếc nuối nhìn những miếng cà rốt đã thái mỏng, những miếng thịt trong chảo, những miếng thịt sắp làm rôti, nhìn son quánh, bếp núc, rồi nhỏ nhẹ nói với hai vị cảnh sát:

    - Tôi xin lỗi hai ông.

    - Không có gì đâu, bà cứ theo chúng tôi làm tờ khai xong sẽ được thả ngay.

    - Tôi đã phạm lỗi, mong hai ông thứ lỗi cho.

    Nhưng lúc một trong hai tắt ngọn lửa trên bếp, thì Tinka nổi giận ngay và bà lớn tiếng cãi vả:

    - Tại sao hai ông lại dẫn tôi về bót?

    Hai người cảnh sát cứ nắm tay bà kéo đi. Tinka cố trì lại và la to. Nhưng hai người đã nhắc bổng bà lên mang ra ngoài.

    Tinka la lên một lần nữa nhưng tiếng kêu bị tắc nghẹn. Một bàn tay cứng như sắt bóp miệng bà lại, Tinka muốn cắn vào bàn tay lông lá đó nhưng không thể nào nhếch quai hàm được. Bà chỉ thấy mùi bàn tay sắt đang bóp miệng bà làm bà nghẹt thở. Người ta kéo lê bà ra khỏi hành lang, xuống cầu thang lầu. Thiên hạ hai bên đứng nhìn bà bị kéo đi như một tên ăn trộm. Tinka không còn vùng vẫy được nữa, cánh tay bà đau nhức và bàn tay nhét vào miệng bà làm bà khó chịu vô cùng . Bàn tay sắt đó là bàn tay của cảnh sát.

    XXI
    Ngày hôm sau, Eddy Thall được người chung quanh cho biết là Tinka Neva đã bị bắt. Người gác cổng tả lại cảnh vừa qua cho Eddy :

    - Chúng khóa miệng bà ấy không cho la to, kéo xếch bà ấy và đánh đập tàn nhẫn. Cô phải đi thăm bà ấy mới được.

    Eddy mang gói đồ ăn đến bót cảnh sát và xin được gặp mặt, nhưng ông cảnh sát trưởng bảo :

    - Không thể gặp mặt được. Trường hợp của bà Tinka quá nặng. Chúng tôi sẽ đưa bà ấy ra tòa án mặt trận, vì trường hợp nầy thuộc thẩm quyền của quân đội. Chuyện vi phạm đạo luật về chủng tộc vì phục dịch cho người Do thái chỉ là chuyện phụ. Bà ấy đã phạm tội là nhục mạ Hoàng đế. Do đó, bà ấy có thể bị án khổ sai.

    Nói xong, ông cò đọc bản cáo trạng cho Eddy nghe :

    " Sau khi bị giữ, Tinka Neva đã có lời phỉ báng Hoàng đế trong đó người ta nghe thấy : Hỡi Hoàng đế, nếu mày ra lệnh cho cảnh sát đến kiểm soát áo quần tao đang giặt thì thật là mày còn ngu hơn một con sen nữa. Đó không phải là công việc của một ông Vua. Tao nhổ vào mặt mày bởi vì mày không có gì xứng đáng hơn là được nhổ nước bọt vào mặt. Tao chỉ là một người đàn bà lương thiện. "

    Đọc xong, ông cò gấp hồ sơ lại, và nói với Eddy :

    - Đó cô xem, có điều gì nặng hơn thế nữa không. tất cả nhân viên kể cả phạm nhân đều nghe bà ấy la to như thế cho đến lúc người ta khóa miệng bà lại. Vâng, cô nghe lại xem : " Hoàng đế, mày còn ngu hơn một con sen nữa và tao nhổ vào mặt mày vì mày không có gì xứng đáng hơn là được nhổ nước bọt vào mặt ". Đó, từng chữ một. Bà ấy phải sẽ bị xử trước tòa án mặt trận, cô không thể nào gặp mặt được.

    Eddy Thall đành trở về nhà. Nàng gọi điện thoại van Pillat giúp đỡ gì cho Tinka Neva. Pillat bảo:

    - Tôi sẽ xem hồ sơ của bà ấy ngay. Đúng ra, tội xúc phạm hoàng đế sẽ bị khổ sai. Tôi sẽ thu xếp ít nhiều cho trường hợp Tinka. Nhưng hiện giờ không thể nào trả tự do cho bà được. Vâng, không thể nào được. Tôi sẽ đến gặp cô chiều thứ sáu, chúng mình sẽ thăm Tinka một lượt. Bây giờ, tôi được bổ nhiệm vào làm ở văn phòng quốc trưởng, nên bận lắm. Nhưng thứ sáu tới khoảng năm giờ chiều, tôi sẽ ráng đến nhà cô.

    - Cám ơn ông nhiều lắm.

    - À, này, thế dự tính đi Palestine của cô ra sao rồi. Cô đã dứt khoát chưa?

    - Thôi để chúng ta sẽ nói chuyện sau. Cám ơn ông, nhớ thứ sáu đến nhà tôi đấy nghe.

    Và nàng gác máy điện thoại, ngồi khóc một mình.

    Trong lúc đó, nhân viên công lực cũng vừa chuồi một tấm giấy màu xanh qua cửa sổ vào nhà Eddy. Đó là lệnh gọi của sở cảnh sát về tội Eddy vi phạm luật lệ cấm người Do thái dùng người giúp việc có đạo Thiên chúa.

    Lần đầu tiên, Eddy thấy rằng lối thoát duy nhất còn lại là di cư. Và chỉ còn di cư đi Palestine nữa mà thôi. Nên nàng gọi ngay Max Reingold:

    - Thưa bác, con đã nhất định muốn đi di cư. Đi đâu cũng được, nhưng càng sớm càng hay.

    Nàng muốn kể cho max nghe về chuyện Tinka bị bắt, nàng bị Cảnh sát gọi. Nhưng Max có vẻ hấp tấp:

    - Bác đang có hẹn với một vài người để lo việc di cư. Bác cũng biết là thế nào con cũng sẽ quyết định đi. Nên ngay từ đầu bác đã để tên con trước tiên trong danh sách. Tất cả đều được chính phủ chấp thuận. Con không thể nào không dứt khoát được, vì đó là lối thoát duy nhất, không có điều nào khác nữa, vâng lối thoát duy nhất đó con ạ.

    XX
    Max Reingold đặt xấp hồ sơ trước mặt Aurel Popesco, giám đốc sở an ninh Lỗ ma ni, tập hồ sơ có tên những người Do Thái sắp xuống 2 tàu Adassa và Euxin để di cư.

    Aurel Popesco đang điều khiển tổ chức "Thiên thần của lửa", là một trong những viên sĩ quan trẻ tuổi tài ba. Hắn nhìn kỹ danh sách những người Do Thái sắp đi Palestine, vừa đọc vừa mỉm cười. Sau đó hắn xấp hồ sơ lại và nhìn Max Reingold rất lịch sự:

    - Chúng tôi không phải là những kẻ ăn thịt người Do Thái. Chúng tôi để các ông đi. Chúng tôi là một chính phủ quốc gia xã hội, chúng tôi có một chương trình chủng tộc chống Do Thái đàng hoàng. Tốt hơn, chúng tôi muốn khai trừ các ông mà không cần bạo động và đổ máu. Vì vậy, mà chúng tôi trưng dụng hai tàu Adassa và Euxin, dĩ nhiên không phải là hai chiếc tàu tốt nhất của hải quân Lỗ ma ni. Những chiếc tốt chúng tôi phải để dành cho chúng tôi chứ, dĩ nhiên là thế. Chúng tôi chỉ để cho các ông hai chiếc đó mà các ông có thể mua dễ dàng và đi nơi nào mà các ông muốn.

    Max mời điếu thuốc, Aurel từ chối. Hắn tiếp tục:

    - Các ông đi đâu, chúng tôi không cần biết, nhưng các ông đi đi. Các ông ở đây bất tiện cho chúng tôi lắm. Chúng tôi là kẻ thù của người Do Thái, chúng tôi nói thẳng điều đó, và nếu các ông không đi, chúng tôi sẽ dùng các phương thức khác để khai trừ các ông. Người Lỗ ma ni chúng tôi cũng biết độc tài như các ông. Tất cả báo chí, hý viện, quán ăn, rạp hát bóng, kỹ nghệ, thương mãi đều nằm trong tay người Do Thái, trong tay các ông. Nhưng bây giờ, hết rồi, chúng tôi lên cầm quyền, chúng tôi sẽ tịch thu hết, và chúng tôi mời các ông ra đi. Thế thôi.

    Max Reingold đáp lời Aurel Popesco:

    - Hai chiếc thuyền đó, Adassa và Euxin hết sức đắt. Chúng tôi đã tìm cách để mua lại, giá cao hơn thường lệ, nhưng chúng tôi không còn giải pháp nào hơn nữa. Tuy nhiên, chúng tôi muốn biết một điều là các ông có bảo đảm cho chúng tôi ra đi nếu chúng tôi bỏ tiền ra mua hai chiếc tàu đó không?

    Rồi vừa tránh cái nhìn mỉa mai của Aurel Popesco, Max vừa giải thích:

    - Nghĩa là chúng tôi có được bảo đảm một khi mà hai chiếc tàu đã bán cho chúng tôi, các ông không tịch thu chúng lại?

    - Tôi có thể lấy danh dự để bảo đảm với các ông điều đó. Đành rằng trong công việc làm ăn, lời hứa danh dự không đóng vai trò quan trọng nào cả, nhưng tôi không phải là một người làm ăn. Tôi là chỉ huy trưởng của tổ chức "Thiên thần của lửa" mà danh dự nằm trên tất cả. Vậy thì ông có thể tin nơi tôi.

    Max đứng dậy định về. Aurel giữ lại:

    - Tôi đặt hai điều kiện, các ông phải ra đi trong tuần nầy, và trước khi đi tất cả người Do Thái trên hai tàu Adassa và Euxin phải ký một lời khai là sẵn sàng từ bỏ mãi mãi quốc tịch Lỗ ma ni.

    Max trả lời: Chúng tôi đồng ý.

    - Chúng tôi làm thế để các ông đừng bao giờ trở lại đây nữa. Quyền lợi của đất nước buộc chúng tôi phải làm thế, mà đối với chúng tôi thì quyền lợi đất nước ở trên tất cả. Chúng tôi, những "Thiên thần của lửa", chúng tôi sẵn sàng - và nhiều lần chúng tôi đã chứng tỏ như thế - hy sinh đời sống cho tổ quốc. Trong hoàn cảnh hiện tại, thật là phi lý nếu chúng tôi không hy sinh một triệu sinh mạng Do Thái cho tổ quốc chúng tôi, nhất là nếu chúng tôi không làm thế thì chúng tôi không còn giải pháp nào nữa. Vấn đề Do Thái phải được giải quyết gấp rút. Đức quốc và đồng mình Tây âu của chúng tôi đã làm được, bây giờ đến lượt chúng tôi. Tôi chúc các ông ra đi mạnh khoẻ và hy vọng trong tâm hồn nữa, các ông sẽ từ bỏ hẳn lãnh thổ của Lỗ ma ni. Vì tổ quốc của chúng tôi, chúng tôi không cần biết sự trục xuất đó có công bình hay không, thôi, từ giã các ông.

  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    XXI
    Eddy Thall thầm nghĩ: Còn một hôm nữa, mình có thể cùng Pillat đến thăm Tinka Neva trong tù. Hôm nay là thứ năm, còn bốn hôm nữa mới xuống tàu. Tất cả thủ tục đã xong rồi. Hành lý cũng đã sẵn sàng. Nàng chỉ có quyền mang theo 100 kí lô hành lý thôi. Hai tàu nhỏ như Adassa và Euxin mà phải chở đến 1500 người Do Thái. Cho nên phải bớt hành lý lại. Max đang ở Constantza để coi sóc công việc. Eddy tự bảo:

    - Mình sẽ sung sướng lắm nếu mình cứu được Tinka Neva ra khỏi vòng tù tội trước khi mình đi. Sau đó Pillat sẽ tiếp tục giúp đỡ bà ấy. Mình sẽ để lại cho bà ấy tất cả những gì mình không mang theo được.

    Bỗng chuông reo, Esther Reingold, con của Max bước vào. Vừa ngồi xuống ghế, Esther đã bảo ngay:

    - Ba từ Constantza về rồi cô ạ. Em có mấy tin động trời và đáng mừng lắm. Mai mình sẽ ra đi lúc 5 g sáng. Ba dặn em báo tin cho cô hay. Cần phải ra ga sáng lúc 5 giờ. Gấp lắm, may mắn lắm mới đi được sớm hơn 3 hôm, ba bảo thế đó.

    Rồi Esther tiếp tục nói một cách văn vẻ:

    - Những đám mây đen đã hiện lên ở chân trời, không phải chỉ trên biển mà còn trên đất liền nữa. Trong chính trường, người ta tiên đoán bão tố sắp xảy ra. May sao, chúng ta đi được.

    Esther Reingold 18 tuổi. Cô muốn trở thành nghệ sĩ như Eddy. Hôn Eddy xong, Esther hấp tấp nói:

    - Em đi đây nghe cô. Tối nay, em phải đi từ giã mọi người, và báo tin chuyến đi cho bạn bè của em. Xin lỗi đã từ giã cô vội vàng như thế nầy. Nhưng từ nay về sau, chúng mình sẽ luôn luôn có nhau, trên biển cả cũng như trên Palestine. Em sắp đi thăm mấy đứa bạn ở lại đây, chúng nó thèm được như em lắm.

    Rồi Esther bỏ đi, cũng nhanh nhẩu như khi mới đến và tràn trề hạnh phúc.

    XXII
    Chuyến xe lửa đi Constantza sắp khởi hành. Eddy Thall cùng đi chung toa hạng nhì với Rebecca và Esther Reingold. Bây giờ khoảng cuối tháng giêng: trời chưa sáng dù đã năm giờ. Max đứng trên sân ga và dặn dò:

    - Lúc đến Constantza phải đi ngủ cả đấy. Cần phải nghĩ ngơi. Tôi đã giữ phòng trước trong một khách sạn đối diện tượng Ovide. Mấy căn phòng rất yên tĩnh. Phải cố mà ngủ đi. Chuyến đi không dễ dàng gì đâu, vì Israel còn xa lắm...

    Nhìn đồng hồ ở ga xe lửa, Max nói tiếp:

    - Tôi sẽ đi chuyến tàu ngày mai lúc 9 giờ và sẽ đến Constantza lúc nửa đêm (Max cảm động lắm). Tôi còn phải giải quyết một số vấn đề còn lại ngày hôm nay.

    Eddy sợ Max quên, nàng dặn:

    - Thưa bác, Pillat sẽ đến nhà cháu lúc 5 giờ.

    - Vâng, bác biết. 5 giờ, bác sẽ gặp quan tòa Pillat. Cả hai sẽ đi thăm Tinka Neva. Bác sẽ cho bà ấy tất cả những gì cháu để lại. Bác gởi gắm bà ấy cho ông Pillat. Và bác thay mặt cháu xin lỗi Pillat về chuyện cháu đi mà không lại từ giã ông ấy được. Bác còn quên gì nữa không cháu nhỉ?

    - Không, bác không bỏ sót gì nữa cả. Bác hôn Tinka hộ cháu nghe bác. Còi báo tin chuyến đi sắp khởi hành. Max còn dặn thêm:

    - Phải nghỉ ngơi suốt ngày đấy. Chuyến đi cực nhọc lắm. Israel còn xa, rất xa.

    - Bánh tàu đã bắt đầu lăn. Qua khung cửa sổ, Eddy Thall, Rebecca và Esther Reingold cùng vẫy khăn tay. Đứng trên ga, Max nhìn theo họ, tất cả đều vừa vẫy khăn, vừa khóc. Tiếng bánh tàu nghiến trên đường sắt như lập lại câu nói cuối cùng của Max: "Israel còn xa".

    Không nhìn thấy nhau nữa, họ mới chịu ngưng không vẫy khăn tay nữa, lúc mà bánh tàu bắt đầu lăn càng ngày càng nhanh và càng mạnh: "Israel còn xa, Israel còn xa, Israel còn xa... còn xa... xa".

    XXIII
    Pillat nhìn đồng hồ tay. Đã 5 giờ rồi. Chàng nghĩ là Eddy Thall đang đợi chàng để cùng đi vào trại giam thăm Tinka Neva, trong lúc chàng phải ở cạnh tướng Roshu, quốc trưởng Lỗ ma ni, đang ngồi ở bàn giấy để đọc lại các bản tường trình. Ông ta ngửng đầu nhìn Pillat:

    - Anh muốn xin phép tôi để đi có việc đấy ư? Không, anh không được đi đâu cả. Anh đã biết được phái qua văn phòng tôi với tư cách là một quan tòa quân đội. Anh phải ở bên cạnh tôi, chừng nào anh còn ở đây, anh không còn việc gì khác để làm cả. Tổ quốc trên hết.

    Giọng nói của Quốc trưởng có vẻ rắn rỏi, ông tiếp:

    - Anh hẹn với ai, với một người đàn bà phải không? Pillat đỏ mặt trả lời:

    - Thưa vâng với một người đàn bà. Nhưng có nhiều vấn đề quan trọng. Chúng tôi phải cùng đi...

    - Nhưng anh không được đi đâu hết. Chỉ có tổ quốc mới có chuyện quan trọng mà thôi. Gọi Aurel Popesco cho tôi.

    Aurel Popesco trẻ trung trong bộ đồng phục "Thiên thần của lửa" bước vào văn phòng nghiêm chỉnh chờ lệnh.

    Tổ chức "Thiên thần của lửa" là một phong trào quốc gia đã lên năm chính quyền. Chỉ trừ Quốc trưởng và vài vị tướng lãnh khác, còn tất cả các bộ trưởng đều có chân trong tổ chức đó.

    Tướng Roshu đứng dậy, hai tay thọc vào túi quần, hỏi Popesco:

    - Popesco, ông có thuộc mười điều răn không?

    Popesco đỏ mặt. Hắn không ngờ bị hỏi như thế, nhưng vị tướng lãnh đã ra lệnh:

    - Nào, ông đọc cho tôi nghe mười điều răn của Chúa đi?

    Viên giám đốc sở an ninh đang ngập ngừng, thì Roshu đã đọc:

    - Con không được giết hại. Nào lập lại theo tôi. Con không được giết hại. Đó là điều luật thứ nhất của Chúa dạy. Ông đã quên hết mười điều răn rồi ư? Trả lời tôi đi chứ. Có phải ông đã quên hết rồi không?

    Roshu cầm cái roi ngựa để trên bàn và quất vào đôi giày:

    - Ông là giám đốc, vậy ông nên ra lệnh cho các đảng viên "Thiên thần của lửa" không được giết bất cứ ai. Bảo với họ đó là lệnh của tôi, của riêng tôi, của tướng Roshu, và lệnh của Chúa là không được giết chóc. Nếu ông không thi hành thì Chúa sẽ trừng phạt. Nhưng trong lúc chờ đợi sự trừng phạt của Chúa đối với các ông, thì chính tôi sẽ trừng phạt các ông trước, bằng những phát roi vào mông, bắt đầu từ các vị bộ trưởng cho đến một tên lính trơn. Tôi sẽ đánh các ông tóc máu ra đấy.

    Nói xong, Roshu quất mạnh chiếc roi xuống bàn, và dõng dạc ra lệnh:

    - Nào, đánh diện cho các đảng viên của ông đi, đánh như thế này: "Các bạn không đuoc giết ai hết".

    Giấy tờ trên bàn rơi xuống đất vì phát roi của vị Quốc trưởng đập xuống. Viên chỉ huy "Thiên thần của lửa" cúi xuống nhặt. Nhưng Roshu đã ngăn lại:

    - Chỉ có những người ở mới nhặt giấy, giám đốc sở an ninh ai lại làm thế bao giờ.

    Popesco bực mình nói ngay:

    - Thưa ngài, từ bốn tháng nay lúc chúng tôi lên cầm quyền và chúng tôi cai trị xứ này, chúng tôi chỉ đòi hỏi ngài phải công bình, thế mà ngài đã từ chối nên chúng tôi phải bước qua giai đoạn hành động. Kể từ hôm nay, chúng tôi không còn cộng tác với ngài nữa. Đảng viên "Thiên thần của lửa" đã bắt đầu hành động.

    Roshu hét lên:

    - Nghĩa là các ông đã bước sang giai đoạn tội lỗi phải không?

    Ông ta giận đỏ mặt và tiến về bàn giấy.

    Aurel Popesco bình tĩnh nói tiếp:

    - Dân chúng đã trông cậy nhà cầm quyền giải quyết vấn đề Do Thái. Dân chúng đòi hỏi những hành động. Thế mà chúng ta đã không làm gì hết.

    - Vấn đề Do Thái rồi sẽ được giải quyết. Nhưng phải giải quyết bằng phương pháp hợp lý, chứ không phải bằng sát nhân và tội lỗi, không phải giải quyết bằng ăn cắp và trộm cướp. Chúng ta là một dân tộc có đạo, mà người có đạo không bao giờ sát nhân. Ông có đồng ý như vậy không? Popesco? Người có đạo không giết bất cứ ai cả.

    Nói xong, Roshu lại đập roi ngựa xuống bàn giấy, và tiếp tục:

    - Người có đạo không giết đồng loại, cho dù đó là những đồng loại vô thần. Tôi là quốc trưởng của quốc gia nầy, tôi sẽ phản đối bất cứ ai giết người. Tôi biết các ông đang sửa soạn một cuộc cách mạng để khai trừ Do Thái đêm nay. Tôi đã ra lệnh cho quân đội ngăn cản tội ác của các ông. Các nước láng giềng đang nhìn chúng ta. Ở trên trời, Chúa đang nhìn chúng ta. Ông có biết vậy không, Popesco? Hãy gởi gấp một công lệnh bằng điện tín cho tất cả đảng viên "Thiên thần của lửa" để họ tôn trọng điều răn của Chúa. Chỉ có thế trong lúc nầy, ông có thể ra về.

    Popesco không nhúc nhích. Quay về Pillat, Roshu bảo:

    - Anh ở lại đây cho đến lúc nào bọn du côn ở yên. Cần phải ngăn cản tội ác, muốn thế tôi cần một quan tòa ở cạnh tôi. Bảo họ đem giường ngủ cho anh. Anh sẽ ăn ở đây, ngay trong văn phòng tôi và ngủ đây luôn đêm nay.

    Popesco bảo:

    - Thưa ngài, tôi cần giải thích cho ngài hiểu thêm vấn đề.

    - Đánh điện cho các đảng viên của ông đi đã, rồi chúng ta mới thảo luận sau.

    - Thưa ngài, nếu tôi đi bây giờ, tôi sẽ không bao giờ trở lại nữa. Tôi đã được bộ tham mưu "Thiên thần của lửa" ủy thác việc thông báo cho ngài một vài điều, để giữa chúng ta cái gì cũng được minh bạch.

    - Vậy thì nói đi.

    Roshu tiến ra phía cửa sổ, quay lưng lại Popesco và Pillat, trong lúc Popesco giải thích:

    - Không thể nào giải quyết vấn đề Do Thái một cách hợp pháp được. Người Do Thái cũng như nước. Đuổi chỗ nầy họ tràn qua những ngõ ngách khác. Thật là hệt như nước. Chúng ta đã đuổi họ ra khỏi các ngành báo chí, thương mãi và hý viện. Họ núp dưới tên có đạo để làm việc, không có gì thay đổi cả, chỉ có sự sa đọa là mỗi ngày một tăng lên mà thôi. Chúng ta cấm họ ra đường, ho mua giấy thông hành gấp đôi và tiếp tục đi ngoài đường phố. Cấm họ phát triển hý viện, cấm họ mua vở kịch, cấm họ viết ư? Họ vẫn viết và ký tên bằng những danh hiệu có đạo. Không có gì thay đổi cả nên không có một giải pháp hợp lý cho vấn đề Do Thái. Không một luật lệ nào có thể chống nổi vấn đề Do Thái, cũng như gỗ và rơm không thể nào chống đỡ với lửa.

    - Thế tại sao các ông không để cho họ di cư?

    - Tôi vừa bán cho họ hai chiếc tàu Adassa và Euxin. Nhưng họ chỉ di cư có 1500 người. Chúng ta phải làm gì với một triệu người Do Thái còn lại?

    - Phần còn lại, gần một triệu, các ông cứ để cho họ sống. Nếu người Do Thái không theo luật pháp của chúng ta, các ông cứ cho họ vào tù nhưng phải y luật pháp xét xử đàng hoàng. Chứ không được bạo động. Phải hành động như thế, tôi không cho phép lạm dụng và cướp bóc.

    - Thưa ngài, "Thiên thần của lửa" sẽ không cộng tác với ngài nữa.

    - Tôi sẽ mang các ông ra tòa về tôi giết người, ngay cả lúc ông chỉ giết một mạng người mà thôi, dù mạng người đó là Do Thái hay Thổ Nhỉ Kỳ, hay Trung Hoa cũng thế.

    Aurel Popesco cương quyết:

    - Nếu vậy, ngài cho phép tôi kiếu lui.

    Và hắn rời văn phòng, sau khi đã đứng nghiêm chào.

    Roshu nhìn qua cửa sổ và suy nghĩ lung lắm. Bỗng nhiên ông ta quay về phía Pillat :

    - Anh hẹn với ai tối nay? Bà nào đang đợi anh đấy?

    - Một người quen. Vâng, một nữ nghệ sĩ. Chúng tôi phải can thiệp ở sở cảnh sát về trường hợp người đầy tớ của cô ấy.

    Trước mặt Roshu, khó lòng ai có thể nói láo được. Cho nên khi Roshu hỏi:

    - Do Thái ư?

    Thì Pillat đành nói thật:

    - Dạ thưa ngài, cô ấy là người Do Thái.

    Nói xong Pillat tái mặt, Roshu khuyên :

    - Thế thì nói với cô ấy trốn đi cho rồi. Đêm nay, đêm nay tụi loạn trí đó sẽ giết hết người Do Thái. Anh nói với cô ấy là anh không đến nơi đã hẹn được, nhưng cô ấy phải trốn đi, bởi vì đêm nay sẽ có một cuộc thanh trừng. Pillat, mỗi lúc anh cứu được người nào thì anh hãy cứu đi, bởi vì thế anh mới đến trước mặt Chúa, đến nơi phán xét sau cùng và nói được rằng: "Con là một con người, thưa ngài, con là một con người đích thực". Nếu không, anh không thể nào nói được như thế. Bây giờ anh bảo tài xế đến báo tin cho cô ấy đi.

    Pillat không biết phải làm thế nào, nhưng chàng cũng tuân lệnh. Một giờ sau, người tài xế trở về và cho biết:

    Eddy Thall đã rời thủ đô để đi Palestine trên chuyến tàu khởi hành lúc 5 giờ sáng: Cô ấy không để lại tin tức cho ai cả.

    Đã có tiếng súng nổ ngoài đường, tiếng chiến xa đi qua. Roshu tự nhủ: "Ngay cả những tên chạy giấy cũng được trang bị vũ khí. Chúng ta phải tránh không cho đổ máu mới được".

    XXIV
    Max Reingold đã hoàn tất chương trình. Ông đã đóng cửa nhà của Eddy Thall và trả lại chìa khóa. Ông chỉ tiếc là Pillat đã không đến để cùng đi thăm Tinka Neva, nhưng dù sao ông cũng có ý đợi Pillat, nghĩa là ông đã làm tròn phận sự. Bây giờ ông đang ở ngoài đường và tìm cách ra ga cho kịp chuyến tàu đi Constantza khởi hành vào lúc 9 giờ. Ông tìm một chiếc taxi, nhưng được người ta cho hay là cách mạng bùng nổ, Taxi không được phép chạy. Cả tàu điện cũng thế. Chúng tôi đang ở trong tình trạng báo động.

    Max đành đi bộ ra ga. Ông rất hài lòng vì hành lý ông đã gởi từ ban sáng trên chuyến tàu mà Eddy, Rebecca và Esther đã đi. Chỉ có một cái cặp nhỏ trên tay thôi, nên bây giờ Max có thể thong thả đi ra ga xe lửa.

    Chỉ trong 15 phút nữa mình sẽ đến sân ga ở miền Bắc.» Vừa đi vừa nghĩ như thế, Max không cần bước vội, dù ông thừa biết là đảng «Thiên thần của lửa» có ý định khởi xướng cuộc cách mạng đổ máu đêm nay. Cả thành phố đều biết điều đó. Nhưng ở đâu cũng có lính, quân cảnh và cảnh sát. Tướng Roshu đã biết tôn trọng luật lệ, quân đội trung thành với ông ta. Max yên lòng bước đi và hài lòng vì đã ra đi kịp đêm nay.

    «Ngày mai có thể là chậm mất. Đêm nay tướng Roshu làm chủ tình thế, điều nầy rõ ràng quá. Nhưng ngày mai biết đâu được? Ngày mai quân phản loạn có thể thắng thế. Mà ngày mai thì mình đã lênh đênh trên mặt biển rồi. Nghĩ thế mà Max mỉm cười.

    Nhưng bỗng có một giọng nói trẻ trung :

    - Do Thái?

    Rồi một thanh niên khác rọi đèn vào mặt ông làm nỗi bật hẳn cái lỗ mũi Do Thái, đầu tóc màu hung và những đốm lấm tấm màu hung trên khuôn mặt ông.

    Max muốn đưa tấm vé xe lửa ra. Ông muốn nói với họ là ông sẽ lên xe lửa, sẽ rời xứ nầy ngày mai. Ông muốn chỉ cho họ xem tấm vé lên tàu thủy, giấy phép rời Lỗ ma ni. Cái gì ông cũng có trong túi cả. Nhưng mà không có thì giờ để nói một câu nào cả.

    Một người thanh niên đã bảo với người cầm đèn bấm:

    - Nào mang nó đi, Do Thái chắc chắn rồi đó.

    Nhiều thanh niên mang súng ống hẳn hoi vây quanh Max. Bên lề đường một chiếc cam nhông đã đậu sẵn. Rồi Max có cảm tưởng bị đẩy đi. Ông phải leo lên xe. Không còn lý do nào để kháng cự hay năn nỉ. Xe cam nhông đầy nhóc; lúc đã vào bên trong Max tưởng như mình đang bị đè bẹp ra. Max vẫn thầm nhủ: Không có hoàn cảnh nào mà không có lối thoát nếu người ta bình tĩnh. Giữ được bình tĩnh mình sẽ ra khỏi đây và đi chuyến tàu 9 giờ. Nếu mình biết giữ bình tĩnh, nếu mình nhanh trí một chút, mình đã nói với họ là mình không phải Do Thái. Nhưng đã lỡ rồi phải tự lo liệu đi thì vừa. Muốn thế thì phải bình tĩnh. Nghĩ như thế, Max qui tu hết cả ý chí để tạo cơ hội, bắt đầu bằng cách thở dài hơi, ông dang hai tay ra để thở mạnh hơn nữa. Có tiếng súng nổ gần xe cam nhông, và có tiếng la «đồ sát nhân, sát nhân», tiếp theo là tiếng rơi bịch xuống đất của một xác người gần bánh xe. Max nghĩ đến chuyện khác. Ông phải quên đi tất cả những gì đang xảy ra chung quanh để không nghe tiếng rên xiết, tiếng van xin, vì tất cả thứ đó làm ông ta mất tinh thần. Rồi ông thầm nghĩ:

    - Điều chính yếu là mình phải tự xem như là kẻ ngoại cuộc với hoàn cảnh nầy.

    Max cho là điều trước tiên cần yếu để thoát khỏi sự khó khăn đó là phải có một kế hoạch. Vâng một kế hoạch kỹ lưỡng. Ông nhìn chung quanh và tìm cách tiến về phía cửa xe. Nhưng những người khác lại vừa bị vứt lên xe, ông ta lại bị thối lui. Tất cả người chung quanh ông đều lo sợ và nhốn nháo cả lên. Chỉ có Max vẫn chậm rãi tiến tới, từng ly một, về phía cửa bằng cách lách qua những thân thể chen chúc. Ngay lúc đó, xe bắt đầu chạy hết tốc lực. Ở cửa lên xuống đã có hai thanh niên ôm tiểu liên, nhưng Max biết rằng nếu đã đến gần cửa xe thì lúc nào may mắn cũng có thể đến với ông được cả. Đó là giai đoạn đầu tiên của kế hoạch.

    Khu vực xe vừa đi ngang qua nằm trong tay bọn phản loạn, súng nổ, nhà cháy. Qua ngã tư, người ta nghe tiếng rên than. Những khẩu tiểu liên khạc từng loạt điếc tai.

    «Năm 1916, mình đã đánh giặc trong các giao thông hào. Súng nổ không làm cho mình sợ hãi được. Max tự nhủ như vậy và lợi dụng khi xe chồng chềnh để tiến về phía cửa xe. Lúc không còn nghe thấy tiếng súng nữa thì xe đã ra khỏi thành phố. Max muốn định vị trí và chỉ một lúc sau ông đã biết «Mình đang bị đưa đi về phía trại quân lao Jilava. Nhưng trước khi đến đó, phải đi ngang qua một khu rừng. Chừng 500 thước rừng rậm. Ở đó mình có thể thoát thân được bằng cách nhảy ra khỏi xe. Sau đó mình sẽ lên tàu đi Constantza bằng ga Jilava và mình sẽ đến đúng giờ».

    Max đã len đến cửa. Xe đang ở ngay trong rừng. Bỗng có ánh đèn pha quẹt ngang và có người ra lệnh:

    - Dừng lại.

    Chiếc xe thắng gấp. Một đám thanh niên mặt đồng phục vây quanh, một giọng hô to:

    - Xuống hết đi.

    Rồi nhiều tiếng quát khác:

    - Xuống, xuống.

    Max xuống trước tiên. Trời tối như mực. Max tránh những ánh đèn chói mắt. Nhìn vào bức tường nhà lao ngay trước mắt. Phía sau chiếc xe là rừng rậm. Max biết rõ khu rừng này lắm. Trời đang mưa lâm râm, dưới chân đất sền sệt ướt. Max nhìn hàng cây, nhìn những thanh niên mang đuốc, và những người Do Thái còng lùng bước xuống xe.

    Max cố nhìn tất cả hình ảnh đó thật khách quan như lúc đi xem chiếu bóng. «Cần hành động đúng lúc như hồi ở Bourse - ừ, như hồi ở Bourse, bình tĩnh, kiên nhẫn.» Max cố tạo lấy can đảm cho mình.

    Bên phải, bên trái đều có những người đang bước xuống xe. Toàn là người và người. Max cầm chiếc mũ đã bị đè bẹp lúc ở trên xe, thắt lại cà vạt, gài nút áo choàng, cố để đừng làm bẩn đôi giày trong đám cỏ cao ẩm ướt. Không thể làm bẩn chúng được. Max cần giữ một bộ đồ chỉnh tề và đứng đắn bởi vì như thế rất cần cho kế hoạch trốn thoát của ông. Những người Do Thái lúc xuống xe đều lom khom vì sợ hãi. Max đứng thẳng người, ngang nhiên bỏ tay vào túi quần. Ông không muốn giống mấy người kia khom lưng lại vì sợ hãi. Ông thầm nhủ: «Max, nhìn xem, một lát nữa thôi, giờ hành động đã điểm». Chung quanh ông là bóng tôi và mưa phùn. Trong bóng tối, điều làm ông phân biệt được tù nhân và các đảng viên là tù nhân thì khom lưng, các đảng viên «Thiên thần của lửa» thì đứng thẳng người.

    Max bình tĩnh đứng thẳng người xong bước ra khỏi hàng. «Trước tiên cần đứng thẳng và mình đã làm được rồi, sau đó phải có can đảm bước từ nhóm người còng lưng sang nhóm những người đứng thẳng.»

    Nghĩ thế, Max bước một bước. Ông đã xa hẳn những người khom lưng. Nhưng ngay lúc đó một báng súng đập vào ngực ông. Ông thối lui và gấp người lại, phải trở lại hàng ngũ những người khom lưng và Max lại càng khom lưng hơn tất cả những người khác nữa. Cơn đau như xé ngực kéo đến, nhưng ông cũng đứng thẳng người lên. «Nếu mình đứng thẳng được tức là mình sẽ được cứu thoát.» Và ông ta làm được, đứng thẳng được. Nhưng cơn đau lại kéo đến, Max phải dựa vào tường, muốn nghỉ một chốc để lấy lại sức. Bức tường lành lạnh làm ông dễ chịu.

    - Nhanh lên.

    Giọng nói của viên chỉ huy vang lên từ xa. Ông ta đến gần, lũ thanh niên cầm đuốc vây quanh.

    Max nghĩ thầm: «Mình phải đứng vào hàng ngũ của họ, phải bước qua nhóm của viên chỉ huy, sau đó mình sẽ thoát thân... Mình sẽ biến vào rừng. Khi đã đứng được vào nhóm của viên chỉ huy thì dễ dàng quá rồi. Nhưng muốn như thế mình phải cố gắng đứng thẳng người như họ. Phía sau họ là khu rừng rậm, qua khu rừng mình sẽ đến đường cái, đi bộ chừng năm phút mình sẽ đến ga Jilava. Đến đó mình sẽ lên xe lửa đi Constantza, rồi từ Constantza, mình xuống tàu thủy đi Israel».

    Viên chỉ huy lại ra lệnh:

    - Nhanh lên.

    Trong hàng ngũ những người đứng thẳng mà Max muốn nhập bọn, đã có tiếng lắp đạn vào súng. Sau đó, có tiếng thử cò súng. Max biết rõ những âm thanh đó. Ông đã từng đánh giặc qua các giao thông hào. Ông vẫn đứng thẳng. Rồi bước một bước ngắn. Chỉ cần có hai thước để bước sang nhóm người đứng thẳng. Trời lại tối như mực. Vấn đề thật giản dị, không nên mất một phút nào cả. Ông ráng bước thêm một bước nữa, nhưng ngay lúc đó, những thanh niên theo lệnh trên lại đứng xa ra vài thước. Giữa những người cầm khí giới và những người khom lưng dựa vào tường còn những hơn mười thước. Trong khoảng cách mười thước đó, không có một bóng người. Họ hoàn toàn cách xa nhau. Max biết rõ là bây giờ không thể qua nhóm bên kia được nữa. Cơ hội đã qua mất rồi, ông phải thay đổi kế hoạch. Rồi như một con mèo, Max nằm nhẹ nhàng xuống đất ấm. Ông biết là tụi chúng sắp bắn, ông phải đào một hố ẩn núp, như ông đã từng làm thế nhiều lần hồi đệ nhất thế chiến 1914. Vâng, đào một hố cá nhân, nhanh lên mới được. Max bắt đầu đào thật nhanh với hai tay mang găng, và tự nhủ:

    - Cứ bình tĩnh và thản nhiên. Như thế mình sẽ thoát khỏi bất cứ đường cùng nào.

    Và ông tiếp tục dùng tay đào đất. Đạn đã bắt đầu nổ, viên nầy đến viên khác. Max đào đất thật nhanh. Tất cả tuỳ thuộc vào tốc độ nên ông đào bằng cả hai tay, đất lại rất mềm và dễ đào vô cùng. Lúc đó, Max đã ấn cái đầu xuống hố được rồi, và ông đào càng lúc càng nhanh, đào trong tuyệt vọng. Đạn réo trên đầu, nổ phía bức tường và dội ngược trở lại. Max lại thầm nhủ: Mình phải làm chủ tình thế, đêm nay mình sẽ đến Constantza, vợ và con gái đang đợi mình, sau đó, ngày mai mình sẽ xuống tàu thủy đi Israel».

    Mấy ngón tay của Max ấn tuyệt vọng vào lòng đất ẩm. Lũ quỷ vẫn tiếp tục bắn. Tiếng la, tiếng thét không dứt. Tiếng rên rỉ, tiếng khóc thảm thiết như chó tru. Max nhất định không để mình bị lôi cuốn vào cái gì đang xảy ra chung quanh, ông chỉ theo kế hoạch của mình thôi, thực hiện kế hoạch và làm chủ tình thế.

    Max giấu đầu xuống hố. Ông nghĩ đến sân ga, đến Constantza, đến cuộc hành trình đi Israel, chỉ nghĩ đến những điều làm ông phấn khởi, làm ông nắm vững tình thế, giữ ông ở ngoài sự khủng hoảng, sự giết chóc và tiếng kêu than.

    Vì thế ông nhớ đến hý viện Eddy, đến thủ đô Tel Aviv, đến mảnh đất hứa hẹn... Nhờ thế mà Max tiếp tục đào đất thật nhanh, với tất cả sức lực, với nỗi tuyệt vọng khôn cùng. Đó là những gì ông đã làm, để khỏi đầu hàng hoàn cảnh. Và ngay cả lúc ông bị đạn xuyên qua người, lúc mà đạn xuyên vào bộ óc còn nóng hổi của ông, cũng không hề có trong khói ốc đó một sự sợ hãi, một sự cuống cuồng nào mà chỉ là một nỗi ao ước duy nhất là không thể đầu hàng hoàn cảnh, niềm ao ước đến Constantza đêm đó, nơi mà những người thân nhất đời đang chờ đợi ông: Rebecca, vợ ông, mập mạp và tốt bụng; Esther, con gái ông, đa cảm và xinh xắn; Eddy Thall, nghệ sĩ tên tuổi của ông, hai chiếc tàu Adassa và Euxin, biển Đen và Mảnh đất hứa hẹn của Palestine.

    Và Max chết như thế đó. Chết mà không hề nghĩ đến sự chết. Cũng không chấp nhận nó nữa. Tay, đầu, ngực áp lên đất ẩm và nghĩ đến mảnh đất quê hương.

    Mấy tên lính tiếp tục bắn trong vài phút nữa. Sau đó chúng ngưng hẳn. Viên chỉ huy ra lệnh:

    - Vứt xác chết lên xe hết đi.

    Max bây giờ không còn nghe được tiếng ra lệnh đó nữa. Giọng của viên chỉ huy đã khàn. Trời mưa lạnh đã làm khan giọng viên chỉ huy.

    Lũ thanh niên mang súng lên vai, nòng súng còn nóng hổi. Cứ hai đứa mang một xác chết và vứt lên xe như những khúc gỗ được vứt lên những chiếc cam nhông có đèn pha sáng quắt và máy đã nổ sẵn. Có tiếng ra lệnh:

    - Chạy đi.

    Những chiếc xe tiến lên, dọc theo bờ tường, đèn pha để sáng. Một toán thanh niên cầm đuốc xem kỹ thử có xác chết nào còn sót lại hay không.

    Viên tài xế lái chiếc xe đầu tiên, chiếc xe có xác của Max Reingold hỏi :

    - Chở đi đâu bây giờ đây?

    - Đến nhà tế sinh. Các anh vứt họ vào nhà tế sinh.

    Mấy chiếc xe chạy về hướng nhà tế sinh, chầm chậm, vì đất quá trơn, bánh xe có thể trượt dễ dàng.

    Từ thành phố, nhiều chiếc xe khác tiến về Jilava, chở đầy những người còn sống, chạy ngược chiều với những chiếc xe chở đầy những xác chết.

    Cứ như thế suốt đêm. Những chiếc xe đầy người sống đi vào khu rừng rậm. Và những chiếc xe chở người chết trở về lò sát sinh.

    Người ta chất xác chết vào sân xi măng, chồng lên nhau cho đến lúc nào sân đầy xác. Vào khoảng 3 giờ sáng, một viên chỉ huy đi thị sát. Hắn nhìn xác chết của những người Do Thái chồng lên nhau trong sân nhà tế sinh. Hắn mỉm cười sung sướng, và hỏi:

    - Ai đã ra lệnh đem họ lại đây?

    Có tiếng trả lời ngắn ngủi.

    - Lệnh trên.

    - Nhưng tại sao lại đem đến đây, hợp lý ra thì phải đem lại nhà xác hay nghĩa địa chứ. «Không ai biết lệnh xuất phát từ đâu? Hắn tự hỏi như thế.» Họ ở đây thì các anh cởi hết áo quần họ đi.

    Lại thành lập từng toán. Người chết bị lột trần truồng, trần truồng trên đất lạnh. Cảnh tượng thật khủng khiếp nhưng chẳng ai buồn để ý đến. Lũ thanh niên đang lo cởi áo quần người chết, một người hỏi bâng quơ :

    - Có cần treo họ lên móc không nhỉ?

    Thế là người ta móc xác chết lên và treo vào móc. Những xác chết lại nhiều hơn số móc. Trong nhà tế sinh, người ta chỉ giết chừng hàng trăm súc vật trong một ngày, đủ thịt cho cả thành phố dùng. Mà bây giờ lại giết cả hàng ngàn người Do Thái làm sao số móc cho đủ được. Vì thế chỉ có vài trăm xác bị treo vào móc mà thôi. Trên bụng, lưng và ngực của mọi xác đều có đóng dấu như người ta có thói quen đóng dấu vào các súc vật bị giết theo tục lệ Do Thái. Và những xác chết cũng được làm như thế để chứng tỏ rằng họ là người Do Thái.

    XXV
    Sáng thứ bảy. Sau đêm cách mạng, tướng Roshu cho gọi Pillat vào để dặn dò công việc:

    - Anh qua ben sứ quán Đức cho Nam tước Killinger biết là chúng ta đã dẹp được cuộc nổi loạn. Có hàng ngàn người bị ám sát. Những tên sát nhân do Aurel Popesco cầm đầu, đã ăn mặc theo đồng phục của sĩ quan Đức, nên bây giờ chỉ có trốn qua Đức mà thôi. Tôi yêu cầu sứ quán Đức giao họ lại cho tôi bắt giam để tôi có thể xét xử, dù chúng nó có mặc hay không mặc đồng phục do tòa đại sứ Đức cung cấp.

    Pillat vừa nghe vừa ghi chép. Chàng vừa thức trắng đêm qua nên giờ quá mệt mỏi. Roshu dặn tiếp:

    - Ở tòa đại sứ ra, anh nhớ ghé qua nhà tế sinh thành phố. Có hàng ngàn xác Do Thái ở đó. Anh nhớ nhận diện và lập biên bản. Chụp hình quay phim cảnh man rợ đó để mình có bằng chứng kết án tụi sát nhân. Sau đó anh đưa người chết về với gia đình họ để chôn cất y theo luật lệ đòi hỏi.

    Pillat vâng lời, đến tòa đại sứ Đức, xong trở về nhà tế sinh. Các con đường chung quanh đó đầy người, quân cảnh không có ai đến gần cả. Pillat nhìn những xác chết trần truồng nằm chết chồng chất lên nhau trên sân xi măng, một số xác chết được treo lên móc thành bốn dãy, chàng bảo:

    - Hạ xác chết xuống đất hết, và chụp hình nhanh lên.

    Chàng bỗng để ý đến xác chết đầu tiên. Đó là xác một người đàn ông trạc 50 tuổi, trần truồng, mang ba khuôn dấu trên ngực, bụng và lưng. Một viên sĩ quan quân cảnh bảo với Pillat:

    - Chúng tôi bắt đầu nhận diện đây.

    Rồi chỉ cái xác chết mà Pillat đang khám và bảo:

    - Ví dụ người này dễ nhận diện lắm, vì chúng tôi thấy trong bóp của ông có một vé xe lửa hạng nhì đi Constantza, một vé tàu thủy trên chiếc Adassa đi Tel Aviv và giấy phép rời Lỗ ma ni. Tất cả giấy tờ đều hợp lệ cả. Đáng lẽ ông ta ra đi. Thế mà ông ta lại nằm đây. Cuộc đời thật là lạ lùng, ông tên Max Reingold.

    Pillat khiếp đảm nhìn xác chết. Trên đời, có nhiều xúc động làm người ta mù, điếc, làm cho người ta trở thành tượng đá. Pillat đang ở trong trạng thái đó, và đăm đăm nhìn xác Max bị treo trên móc thịt nhà tế sinh, trần truồng với những khuôn dấu đóng trên da thịt. Trong lúc đó, viên quân cảnh hỏi:

    - Chúng tôi có thể trả ông ấy về cho gia đình không? Vì đã nhận diện được, chúng tôi sẽ lập biên bản và trả về cho gia đình, nếu ông cho phép điều đó.

    Pillat chỉ nghe được câu: «Nếu ông cho phép điều đó», rồi vẫn đăm đăm nhìn xác Max, trong khi viên quân cảnh lập lại câu hỏi:

    - Ông có cho phép chúng tôi trả người nầy về cho gia đình không? Pillat gật đầu đồng ý và bảo:

    - Tôi sẽ yêu cầu người ta gởi một quan tòa khác thay tôi. Tôi mệt đuối sức rồi. Đêm qua, tôi không hề chợp mắt được tí nào.

    Sau đó, Pillat rời nhà tế sinh, thất thểu.

  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    XXVI
    Rebecca, Esther và Eddy Thall đến Constantza giữa trưa trời nắng và mặt biển trong xanh, Eddy bảo:

    - Chúng mình phải đến xem tàu trước tiên đã.

    Ba người đàn bà cùng đi xuống hải cảng. Chỉ toàn là tàu chiến, trong đó nổi bật hẳn hai chiếc vừa mới sơn màu xám mang tên viết bằng màu đen: Adassa và Euxin.

    Eddy hồi hộp, đúng là tàu của nàng sắp đi rồi. Sáng mai tàu sẽ nhổ neo đi Israel. Họ không có quyền vào hẳn trong hải cảng, nhưng ở đằng xa họ có thể trông thấy đoàn thủy thủ chất bao nhiêu thùng hành lý lên Adassa và Euxin. Họ biết là hành lý của họ sẽ được chất lên tàu Adassa. Rebecca dặn dò:

    - Đừng quên lời dặn của Max. Chúng ta đi ăn trưa xong phải về nằm nghỉ ngay. Chuyến đi lâu lắm vì Israel còn xa. Chúng ta phải nghỉ dưỡng sức.

    Ba người đàn bà muốn nán lại nhìn hai chiếc tàu sắp chở họ đi, nhưng phải đành trở về khách sạn, ăn trưa và ngủ. Qua khung cửa sổ, họ nhìn thấy hải cảng. Adassa và Euxin quá nhỏ. Đó là hai chiếc tàu cũ được sữa lại, để dành chở 1500 người Do Thái sắp xuống tàu ra đi. Thủy thủ đoàn cũng là người Do Thái cả, để số người đi được đông hơn. Thuyền trưởng cũng là Do Thái nốt. Tối đến, Eddy, Rebecca, Eddy, ra hải cảng ngắm mãi hai chiếc tàu mà không biết ngán, cũng như tất cả những người Do Thái khác. Sau đó họ ra ga xe lửa để đón Max, đến sớm trước cả hai tiếng đồng hồ nên đành phải đi bách bộ trong sân ga để chờ chuyến tàu từ Bucarest đến. Nhưng lúc tàu đến nhìn mặt từng hành khách, họ không tìm thấy Max ở đâu cả.

    Rebecca lo lắng:

    - Max không bao giờ trễ tàu cả. Chúng tôi lấy nhau đã 24 năm nay, bao giờ Max cũng đúng giờ. Hay có thể Max đã đến mà chúng ta không thấy.

    Họ lại trở về khách sạn, Max vẫn chưa đến. Rebecca muốn gọi điện thoại về Bucarest, nhưng điện thoại viên cho biết:

    - Đường điện thoại liên lạc với thủ đô đã bị cắt đứt, vì đang có cách mạng ở Bucarest. Hỏi về những chuyến tàu sắp đến, thì được trả lời là không có tàu nào được phép rời Bucarest đêm nay. Nhưng ngày mai giao thông lại được tái lập như thường lệ.

    Ba người đàn bà cố giữ bình tĩnh. Họ phải trở về khách sạn lúc 3 giờ sáng và kiên nhẫn chờ ngày mai. Vừa tảng sáng, Rebecca lại ra ga. Bảng thông cáo cho biết tàu từ Bucarest sẽ đến lúc 7 giờ. Họ trở ra hải cảng. Những người Do Thái đang đứng từng hàng đợi để lên cầu xuống tàu thủy. Máy tàu đã lên sức ép. Mọi người đang xôn xao về vụ thanh trừng Bucarest. Thế là lúc bắt đầu chuyến đi đã có lộn xộn, vì bốn người khách vắng mặt, trong số đó có Max Reingold, người đã tổ chức cuộc di cư. Vào giữa trưa máy phóng thanh trên tàu cho biết:

    - Adassa đã quá cũ phải đi chậm nên phải rời hải cảng đúng ngọ. Euxin đợi chuyến xe lửa 5 giờ sáng để đón những hành khách còn sót. Sau đó Euxin sẽ bắt kịp Adassa ở ngoài khơi. Rebecca mừng rỡ bảo với Eddy :

    - Thế thì tốt quá. Hành lý của chúng ta để cả trên chiếc Adassa, Bác và Esther sẽ đi trước. Còn cô ở lại để chờ Max cùng đi luôn thể trên chiếc Euxin. Nhờ cô bảo với Max là không có gì đáng ngại cho bác và Esther cả, Max đừng lo lắng gì. Bác sẽ coi sóc hành lý. Cô đừng để Max đi một mình, khoảng tối hai chiếc tàu sẽ gặp nhau ngoài khơi, chúng mình lại cùng ở chung.

    Eddy bước xuống, nàng vẫy khăn từ giã lúc Adassa từ từ rời hải cảng. Tất cả đều khóc và làm dấu tiễn biệt nhau.

    Euxin vẫn buông neo chờ chuyến xe lửa từ Bucarest đến. Eddy ra ga đợi. Nhưng Max vẫn không đến. Trong số bốn người vắng mặt, không một ai đến cả.

    Báo chí, đài phát thanh loan báo những tin tức khủng khiếp về cuộc thanh trừng ở Bucarest. Eddy sợ hãi, nàng phải trở về Euxin. Sự lo lắng đang bao trùm trên tàu. Máy tàu Euxin lại hơi yếu, loa phóng thanh lại loan báo «Euxin sẽ không nhổ neo tối nay». Eddy Thall phải ngủ ở một chiếc võng trên cầu tàu, suốt đêm hôm đó và cả ngày hôm sau, người ta cố để sửa chữa máy tàu, thế mà bốn người vắng mặt vẫn không thấy đến.

    Sáng đến, thêm một tin tức mới cho biết Adassa đã bị đắm. Euxin không đi được nữa, vì theo lệnh chính quyền, không một chiếc tàu nào chở người Do Thái được phép rời bến.

    XXVII
    Rebecca, Esther cùng nhìn ra biển, hy vọng sẽ trông thấy chiếc Euxin. Biển đang động và sóng lớn. Hành khách trốn hết vào phòng. Vợ của Max vẫn đứng trên bong. Esther thì đang say sóng như đa số hành khách khác. 800 người Do Thái đang đi trên chiếc Adassa, chồng chất lên nhau. Người đau cũng không nằm được vì phòng quá chật, mà đứng trên bong cũng không được vì sóng quá to. Adassa kêu răng rắc và tiến thật chậm. Khoảng 9 giờ tối, một ông già chịu không nổi lăn ra chết lại càng tăng sự hỗn loạn trong tàu. Hành khách kết tội thuyền trưởng thiếu kinh nghiệm và không biết duy trì trật tự trên tàu. Có rất nhiều Y sĩ trên tàu nhưng cũng chẳng làm gì được trước các con bệnh say sóng; khoảng nửa đêm lại thêm một người chết. Xác chết được đặt lên bong tàu. Cho đến viên thuyền trưởng cũng say sóng. Mọi việc đều do viên kỹ sư điện khí lo hết; đó là một người còn trẻ tuổi và đầy cương nghị. Ông ta ra lệnh vứt hai xác chết xuống bể và khuyên mọi người bình tĩnh:

    - Ngày mai chúng ta sẽ đến Istamboul. Ai đau sẽ được đưa vào bệnh viện, chúng ta sẽ tổ chức chuyến đi lại theo phương thức khác, vì bây giờ có nhiều hành khách trên tàu quá.

    Trật tự có vẻ được vãn hồi, nhưng cơn bão tăng dần lên. Khoảng hai giờ sáng, Adassa có vẻ sắp vỡ, vì sóng đánh mạnh quá. Người ta đành phải nhốt hành khách vào phòng. Vì thế một người đàn bà nổi điên, thế là tốn một căn phòng để nhốt riêng bà ấy ra. Nhiều tiếng khóc la, con nít, người lớn, làm hành khách mất tinh thần.

    Trước khi trời sáng, trong lúc bão tố không ngớt hoành hành thì máy tàu đứng hẳn. Trong cảnh chen lấn nhau, một số hành khách cầu nguyện, số khác ngồi than vãn, có kẻ thì nguyền rủa ban tổ chức chuyến đi. Viên thuyền trưởng mới của Adassa kêu cứu SOS và tuyên bố với hành khách:

    - Ai cố chịu đựng đến sáng sẽ được cứu sống. Quý vị cần giữ gìn sức lực, giữ vững tinh thần. Chúng ta sẽ được cứu thoát.

    Nước đã tràn vào tàu. Nhiều toán đặc biệt cho tát nước, nhưng chẳng thấm vào đâu, chỉ mỗi giờ một nhọc nhằn thêm mà thôi.

    Máy phóng thanh lại loan tin:

    - Ai gây ra hỗn loạn sẽ bị nhốt, cứ yên trí là chúng ta sẽ được cứu thoát, vì điện đài làm việc không ngừng. Adassa chưa bị hư hỏng gì, nhưng bão lớn quá. Quý vị cố giữ bình tĩnh.

    Vào lúc 5 giờ sáng, máy phóng thanh lại yêu cầu hành khách giữ bình tĩnh, bờ biển không còn xa bao nhiêu, Adassa đã tiếp tục chạy được dù một máy thôi. Tàu đang tiến dần vô đất liền.

    Hành khách đang đau đớn vì sợ hãi, vì sóng biển và tuyệt vọng đã ngỡ thấy đất liền trước mắt dù mắt họ đang nhắm kín. Tuy không phải là «Mảnh đất hứa hẹn» nhưng vẫn là đất liền, hy vọng sống sót bừng lên như một đám cháy. Họ bắt đầu hát các bài thánh ca, những bài hát tán dương uy quyền của đấng Toàn năng.

    Máy phóng thanh lại loan báo:

    - Hai ca nô cứu nguy đang đến gần. Quý vị ráng giữ bình tĩnh.

    Động cơ thứ hai đã nổ lại nhưng đang còn yếu, cơn bão thì vẫn chưa dịu. Nhưng niềm hy vọng đã thắng được mệt mỏi và bệnh say sóng. Hai chiếc xà lúp chở cảnh sát và nhân viên hải cảng đang tiến dần về chiếc Adassa trước khi trời sáng, và một câu hỏi trước tiên qua loa phóng thanh:

    - Tàu các ông thuộc quốc gia nào?

    Thuyền trưởng Adassa trả lời:

    - Chúng tôi đang đi Palestine. Tàu chúng tôi bị tắt máy, hành khách lại quá đông, nhiều người đã ngã bệnh, hỗn loạn hết sức.

    Từ phía chiếc xà lúp trắng, lại có câu hỏi như cũ :

    - Chúng tôi hỏi tàu các ông thuộc quốc gia nào?

    - Chúng tôi là những người Do Thái đi lánh nạn.

    - Thế thì, một tàu trục sẽ đến, quí vị cứ giữ bình tĩnh, giấy tờ của tàu đâu hết?

    Thuyền trưởng Adassa nói như hét lên:

    - Các ông hãy lấy bớt số hành khách lên ca nô, và chở hộ số bệnh nhân trong lúc chúng tôi chờ tàu trục đến. Nhẹ bớt đi, Adassa chúng tôi cũng có thể chầm chậm tiến vào bờ được.

    Một viên chức trên chiếc xà lúp lại hỏi:

    - Có bệnh dịch nào xảy ra trên tàu các ông không?

    - Tất cả chúng tôi đều đang bệnh và say sóng cả. Ông già, đàn bà và trẻ con cần được mang đi càng sớm càng tốt. Họ không thể chịu đựng thêm nữa.

    - Các ông cứ bình tĩnh. Lát nữa thôi, sẽ có tàu cấp cứu đến. Các ông bảo là tàu không tổn hại gì nhiều, vậy cứ bình tĩnh chờ xem.

    Thế rồi, hai chiếc xà lúp rẻ sóng biến mất.

    Lúc trời sáng, lại có thêm hai chiếc tàu nhỏ xuất hiện mang theo đầy đủ nhân viên y khoa. Họ lên bong tàu, vào tận các phòng, phân phát rượu «Rhum», thuốc lá, nước chanh. Họ mang theo những hộp thiếc sơn trắng với đầy đủ thuốc men, mọi hành khách đều được săn sóc chu đáo suốt cả buổi sáng.

    Adassa vẫn từ từ tiến một cách mệt nhọc. Đất liền không gần như người ta loan báo hồi đêm. Tuy nhiên tàu cũng không còn xa bờ bao nhiêu. Giữa trưa lại có một chiếc tàu nhỏ khác mang ký giả và đại diện các cường quốc lên tàu. Như thế là số phận của Adassa đã được biết đến. Người ta bàn tán về sự man rợ của Đức quốc xã đã vứt hơn tám trăm người trên một chiếc tàu quá nhỏ, vừa đủ để chở chừng 100 người thôi, thiếu thủy thủ đoàn, thiếu phương tiện cứu cấp.

    Mấy người đàn bà mặc đồng phục màu trắng đưa cho hành khách trên tàu những dây thắc lưng cấp cứu mà họ bắt hành khách phải buộc lại và xem kỹ thử dây đã được buộc chặt chưa. Mọi hành khách nhận thêm một cây đèn gắn trên ngực nhờ một sợi dây. Người ta giải thích:

    - Đó là những phương tiện tối tân để cấp cứu. Nếu tàu chìm vào ban đêm, nhờ những dây buộc có đèn nầy tàu cấp cứu có thể thấy rõ nạn nhân và đến vớt lên dễ dàng.

    Viên thuyền trưởng Adassa hỏi:

    - Độ mấy giờ thì tàu trục sẽ đến đưa chúng tôi vào bờ? Chúng tôi đang chen lấn nhau quá sá mà sóng thì...

    - Đó là một tội khả ố nhất mà tôi chứng kiến trên đời. Một người Anh bảo thế, gần như run lên vì giận. Rồi tiếp tục:

    - Để cho 800 người rời hải cảng trên một chiếc tàu nhỏ bé, cũ kỹ không máy móc, không phương tiện cấp cứu... Thế thì giết họ đi cho rồi. Đây là một cuộc sát nhân tập thể. Một chiếc tàu như thế này, thật không tôn trọng luật lệ quốc tế về hàng hải, không có thủy thủ đoàn giỏi, không có thuyền trưởng... Chính phủ Lỗ ma ni sẽ bị truy tố trước tòa án quốc tế về tội quái quỉ này đối với nhân loại.

    Thân hình cao và mảnh khảnh của người Anh run lên vì giận dữ. Một luật sư Do Thái đến gần ông ta và hỏi:

    - Từ Thổ Nhĩ Kỳ đến Palestine cần bao nhiêu ngày?

    - Nhưng ông có giấy tờ hợp lệ để đi Palestine không?

    Một ông già trả lời ngay cho người Anh vừa hỏi câu đó:

    - Chúng tôi đều là Do Thái cả. Người Do Thái không cần giấy tờ để vào chính xứ sở của họ, mà Palestine là chính xứ sở của Do Thái cơ mà.

    Người Anh nhìn vào mặt của ông già. Việc Do Thái trở về Palestine là ngược với quyền lợi của đế quốc Anh, nên điều ông già vừa nói là một thách thức lớn. Người Anh bèn thay đổi câu chuyện :

    - Dân tộc như Lỗ ma ni chưa đủ khả năng để tự trị. Một nước man rợ đến thế này cần được sống dưới chế độ bảo hộ. Sứ mạng của các nước văn minh là kiểm soát những quốc gia man rợ.

    Một người tóc vàng của sở báo chí Đức quốc phụ họa thêm:

    - Đúng đấy, đó là bổn phận của các nước có văn hóa và văn minh. Một người Do Thái có bộ râu quai hàm lớn vừa nói vừa khóc:

    - Tôi không muốn chết trước khi đụng được «Mảnh đất hứa hẹn» dù chỉ là đụng bằng đầu ngón chân của tôi thôi cũng được.

    Người Anh đang nhìn vào một người đàn bà đang ẵm một đứa bé tóc hung trong tay, người đàn bà năn nỉ:

    - Ông có thể mang cháu qua ca nô của ông được không? Tôi thấy là cháu khó có thể sống được để chờ tàu trục đến cứu. Chờ như thế sẽ chậm mất thôi.

    - Bà có thể hỏi các viên chức có thẩm quyền hơn, vì chỉ có họ mới có thẩm quyền quyết định mọi việc. Tôi chỉ là một quan sát viên vô tư có sứ mạng nhận xét các sự kiện xảy ra và báo động cho thế giới văn minh biết những hành động man rợ chưa hề có nầy.

    Nhưng người đàn bà vẫn năn nỉ thêm:

    - Ít nhất ông cũng có thể mang cháu bé nầy sang thuyền của ông, chỉ một mình cháu bé nầy thôi.

    Nói xong bà giao đứa bé đang được bọc trong mảnh vải trắng cho người Anh. Nhưng ông ta không đỡ lấy mà lại mở máy ảnh, thản nhiên chụp hình người đàn bà đang trao đứa bé cho ông bằng đôi tay cầu khẩn, vừa chụp vừa nói:

    - Thưa bà bức ảnh nầy chỉ cho thế giới Tây phương biết cái gì đã xảy ra nếu người ta đồng ý trao độc lập cho một vài dân tộc chưa qua khỏi giai đoạn man rợ. Công luận Anh và ký giả Mỹ quốc sẽ xúc động sâu xa, xúc động ghê gớm. Tôi bảo đảm với bà điều đó.

    Người đàn ông cao to, tóc hung quay đi nơi khác tiếp tục chụp hình các hành khách trên tàu, luôn cả cái bong tàu. Rồi ông giận dữ bước xuống chiếc thuyền nhỏ của ông trở về bờ biển một mình. Cho đến chiều người ta mang thức ăn, thuốc men xuống tàu Adassa. Những chiếc tàu nhỏ chở các nhà ký giả, ngoại giao và y sĩ. Tất cả đều đồng ý về những hành động dã man chưa hề có nầy.

    Viên công chức quan thuế an ủi: «Quý vì sẽ được cấp cứu ngay». Những chiếc máy bay quan sát theo dõi chiếc Adassa. Bão vẫn còn dữ dội. Bây giờ trời đã tối, ai cũng ngong ngóng chiếc tàu trục đến mang họ đi. Trên bong tàu đã có đèn sáng.

    Trong lúc đó, bỗng có một tiếng nổ long trời như tiếng bom. Hành khách giật nẩy người lên. Chỉ một vài phút hỗn độn thôi, sau đó tàu chìm ngay, chìm trong chốc lát. Không ai ngờ như thế cả, và chỉ trong vài giây đồng hồ, Adassa đã biến khỏi mặt biển.

    Đa số hành khách không thể nhảy xuống nước được, nhưng họ đều có những dây buộc cấp cứu do các cơ quan quốc tế tặng. Do đó, những hành khách Do Thái không chìm theo chiếc Adassa. Họ vẫn trôi lềnh bềnh trên mặt nước.

    Số phận đã không cho phép họ đụng chân lên «Mảnh đất hứa hẹn» của Palestine hay mảnh đất liền ở bờ biển và đồng thời cũng ngăn cản họ không cho đụng chân thấu đất ở đáy biển. Những kẻ đắm tàu nầy không được phép gặp đất đai. Bất cứ loại đất nào. Ngay cả thứ đất ở đáy biển dành cho những người chết đuối. Số phận bắt họ phải trôi bồng bềnh xa lòng đất.

    Những kẻ bị đắm tàu Adassa là những kẻ ở ngoài luật lệ chung. Họ không bị chìm xuống đáy biển vì họ đang mang những dây buộc cấp cứu, quà tặng của những đại cường quốc văn minh.

    Đàn bà trẻ con, người lớn chết bồng bềnh trên bể với những chiếc đèn sáng treo trước ngực.

    Lúc tàu cấp cứu đến thì chỉ còn thấy những xác chết trôi lềnh bềnh trên sóng của Biển Đen.

    Như đã có thói quen của công dân một nước văn minh, thủy thủ đoàn của tàu cấp cứu tìm cách vớt những xác chết và mang họ lên những chiếc thuyền con.

    Một thủy thủ đoàn Hung Gia Lợi hỏi một cách chua chát và mỉa mai:

    - Tại sao người ta cho họ đèn và dây buộc lưng nhỉ? Vào tháng giêng, ở Biển Đen mọi người đắm tàu đều bị chết ngay khi rớt xuống nước vì sự khác biệt thái quá giữa nhiệt độ thân thể và nhiệt độ nước biển. Vậy cho họ dây buộc lưng là một điều kỳ dị. Hơn thế nữa, người ta lại còn tặng họ đèn, chắc là để người chết trôi trên sóng với những ngọn đèn được thắp sáng.

    Trước khi sắp các xác chết vào thuyền, các thủy thủ tắt các ngọn đèn trên ngực của các nạn nhân. Và người ta thấy rằng không có nạn nhân nào quên bật đèn khi tàu đắm.

    XXVIII
    Những người Do Thái trên tàu Euxin không còn được phép rời Constantza nữa. Một trại lính được thành lập ngay với đầy đủ giường nằm và bếp nấu ăn. Người ta bảo họ cứ việc chờ đợi. Một số muốn trở về Bucarest, nhưng đều bị cấm.

    Các cuộc phỏng vấn bắt đầu, Eddy Thall là người được gọi tên đầu tiên. Viên sĩ quan lập biên bản, vừa đưa cho Eddy tờ cam kết cho nàng ký không trở về Lỗ ma ni vừa bảo với nàng :

    - Cô không có quyền trở về Lỗ ma ni nữa.

    - Tôi vẫn muốn rời xứ này bằng tàu Euxin.

    - Euxin là một câu chuyện đã được xếp lại rồi. Người ta không thể nào cho phép ngần ấy người đi trên một chiếc tàu quá cũ kỹ nầy, vì như thế thật quá dã man. Cô phải chọn một giải pháp khác vậy. Cùng lắm, cô có thể xin được trở lại quốc tịch Lỗ ma ni. Cũng bi đát thật, nhưng đành vậy. Cô hãy nghĩ đến một lối thoát khác hợp lý hơn đi.

    Eddy Thall yên lặng. Nàng thừa biết trong hoàn cảnh này nàng không còn được phép ra đi mà cũng không còn được phép ở lại nữa.

    Viên sĩ quan lập biên bản gợi ý cho Eddy :

    - Riêng tôi, tôi thấy cô còn hai giải pháp. Hoặc là cô xin giấy nhập nội vào một quốc gia khác, hoặc là cô xin gia nhập quốc tịch nào đó. Hai điều cô chọn một. Cô quyết định thế nào?

    Eddy bảo ngay:

    - Tôi sang Nga. Một ước lệ mới cho phép công dân Lỗ ma ni của Bessarabie được sang Nga nếu họ muốn.

    Viên sĩ quan cười mỉa mai :

    - Cô là cộng sản?

    Eddy mím môi không trả lời. Ông ta nói tiếp :

    - Đoàn xe đi Nga sẽ khởi hành ngày mai. Cô có thể đi được, vì sang Nga thì dễ lắm.

    Eddy Thall rời văn phòng. Nàng nhìn ra biển. Ngày mai nàng sẽ sang Nga với chừng vài trăm người Do Thái. Nàng cũng không còn hành lý để sửa soạn nữa, bởi vì bao nhiêu hành lý nàng đều gởi cả trên chiếc Adassa.

    Nàng ngồi xuống và ôm đầu. Lần đầu tiên nàng nghĩ đến người bạn của Pierre Pillat, người bạn tên Boris Bodnar trốn sang Nga vì đã thi hỏng. Eddy tự nhủ :

    Ngày hôm nay mình cũng làm như anh ấy, ra đi với những lý do tương tự. Hồi còn nhỏ anh ấy đã chọc thủng mắt em và bị mọi người xem như một đứa trẻ thoái hóa cần được loại trừ. Cũng như Boris, mình không biết phải đi đâu. Đành trốn sang Nga vậy. Người Do Thái sẽ như thế nào ở đất Nga nhỉ, ai mà biết được.

    Thế là Eddy Thall ngồi khóc. Phần đầu tiên của cuộc đời Do Thái của nàng đã chấm dứt. Cuốn sách đầu tiên của người Do Thái cũng chấm dứt nốt. Nàng khóc cho nàng, cho đời nàng, mắt đăm đăm nhìn mặt đại dương ngoài xa.


  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CUỐN SÁCH CỦA SA MẠC
    I
    Chúng ta sắp đến sa mạc rồi.

    Thanh niên mang áo choàng da, khăn quàng đỏ ngồi cạnh tài xế vừa nói thế vừa đăm đăm nhìn bãi cát vô tận đang trải dài trước mắt. Nhiều chiếc cam nhông theo sau chở toàn là nam và nữ sinh viên, bánh xe ấn sâu vào lòng cát nóng hổi. Tụi trẻ chăm chú nhìn bãi sa mạc mênh mông, trong lúc cát theo chiều gió vẫn tiếp tục tạt vào áo quần của họ và thành xe cam nhông.

    - Đã thấy được lều đằng kia rồi.

    Thanh niên mang áo choàng da quay đầu nhìn theo hướng tay của người con gái đang chỉ về phía 3 chiếc gồ cao màu xám tro; toán xe chạy chậm lại rồi hướng dần về phía những căn lều vừa mới được dựng lên. Lúc xe đã ngừng hẳn, lũ thanh niên lần lượt bước xuống, mở ngay cửa lều vì tất cả đều không có khóa. Lều được dựng toàn là bằng gỗ thông, bên trong hoàn toàn chưa có gì, chỉ nồng một mùi hăng hắc của thứ gỗ đã khô cằn, thứ gỗ đã bị sa mạc tàn nhẫn hút hết nhựa sống. Chung quanh những căn lều chỉ toàn là cát màu xám xịt, cát bị gió thổi tung lên như thử người ta đang nhìn xuyên qua một cái rây. Vì thế mà tài xế phải bọc bánh xe và nắp xe bằng những tấm vải dầy.

    Hai mươi người cả trai lẫn gái vừa bước xuống xe đứng nhìn quanh trong lúc thanh niên áo choàng da ra lệnh :

    - Khoan lấy dụng cụ xuống đã.

    Viên chỉ huy đó là Boris Bodnariuk. Hắn vừa nói vừa leo lên thềm của gian lều chính giữa, lũ thanh niên vây quanh hắn, lưng xoay về phía gió thổi.

    Boris Bodnariuk nhìn đoàn xe nối đuôi nhau cạnh mấy căn lều, hướng về lũ thanh niên và nói:

    - Tôi biết các đồng chí đang vừa đói, vừa khát. Tuy nhiên trước khi khởi công, tôi muốn nhắn nhủ các đồng chí vài điều :

    «Chúng ta đang sống trong một thời đại phi thường. Trước mắt chúng ta là 53 triệu mẫu tây sa mạc Kara Koun, xa hơn nữa là 20 triệu mẫu tây sa mạc Kizil Koun. Tổ quốc Sô Viết từ lâu đã nghiên cứu một kế hoạch khai khẩn đất vô dụng, những sa mạc mênh mông. Chương trình đã thảo xong. Chúng ta là toán thanh niên đầu tiên của đại học Sô Viết đang bước vào sa mạc. Chúng ta là những kẻ tiền phong trong cuộc «Đại tấn công» làm sống lại những mảnh đất đã cằn cỗi của sa mạc để thay đổi khí hậu, thay đổi chiều gió, thay đổi mạch nước. Đó là công trình xây dựng vĩ đại nhất của lịch sử. Nhớ ơn Sô Viết mà hai mươi người chúng ta đây vừa bước chân xuống xe đã có thể đặt viên đá đầu tiên trên bãi sa mạc nóng bỏng nầy. Công trình đó là một công trình mà bất cứ thanh niên nào trên trái đất nầy cũng mơ ước và ngưỡng vọng. Hãy tri ân tổ quốc Sô Viết đã ban cho chúng ta an huệ nầy.»

    Một tràng pháo tay vang lên. Không ai còn nghĩ đến uống nước dù môi đã khô. Tất cả đều đồng thanh hát «Khúc ca rừng» của Dimitri Chostalovich.

    Boris Bodnariuk ra dấu tay. Tất cả ngừng hát:

    - Các đồng chí thân mến, còn điều nầy nữa. Bây giờ đã 5 giờ chiều rồi. Cũng vào giờ nầy đúng 15 năm về trước, lần đầu tiên tôi đặt chân lên Sô Viết. Hồi đó tôi mang tên Boris Bodnar. Kỷ niệm ngày tôi đặt chân lên đây thật đáng kể và đáng cho chúng ta một bài học:

    Đưa tay chỉ về sa mạc, Boris nói tiếp:

    - Các đồng chí biết là bãi sa mạc nầy cũng như nhiều bãi sa mạc trên thế giới không phải là công trình của thiên nhiên, mà do con người tạo ra. Cái xã hội sơ khai sinh sống trên mặt đất trước kỷ nguyên cộng sản đã phá hại cỏ cây, làm tắt những giòng suối. Họ làm thế vì ngu dốt, vì khao khát chiếm đoạt. Bị tước đoạt hết cỏ cây, đất trở nên cằn cỗi và biến thành sa mạc. Cát lan tràn như một vết thương. Như vậy, sa mạc là kết quả của sự tham ăn man rợ của những kẻ chủ trương các xã hội phản cộng sản từ sự xuất hiện đầu tiên của loài người trên trái đất cho đến cuộc cách mạng vĩ đại tháng 10.

    «Cứ nhìn thật xa mà xem, các đồng chí sẽ không thấy gì trên mảnh đất đã bị con người giết chết nầy. Không một sinh vật, không một cây cỏ, không có đời sống chỉ có sự chết chóc. Toàn là cát và cát. Bầu trời cũng mang màu chết. Tia sáng mặt trời, mặt trăng, tinh tú cũng chết nốt, hay có chiếu sáng cũng không có sinh lực. Giờ lại mang đến hàng triệu tấn cát, gào thét như một con chó sói thèm thuồng. Các đồng chí thân mến, tiểu sử của bài sa mạc nầy là tiểu sử của tôi. Vâng của cuộc đời Boris Bodnariuk, hay là tiểu sử của tất cả những đứa trẻ nào vô phúc sinh trưởng trong một quốc gia tư bản.

    «Hỡi các đồng chí, tôi không được may mắn như các đồng chí được sinh ra trong quốc gia Sô Viết, tôi sinh ra trong một xã hội trưởng giả. Từ lúc ấu thời, cha mẹ, hàng xóm, linh mục, tất cả thành phần của xã hội trưởng giả nơi tôi sinh ra đã bắt đầu giết mất đời sống của tôi, chẳng khác gì những xã hội phản cộng sản tham lam, tàn bạo đã lột trần và chà đạp đất đai nầy và biến nó thành sa mạc.

    Lúc mười lăm tuổi, tôi đã là một đứa trẻ đã chết. Do đó, tôi đã vượt sông Dniestr và đặt chân lên đất Sô Viết. Lúc mới đến đây, tôi không còn một niềm tin nào nữa, không còn một ảo tưởng nào nữa, hết ham sống hết cả ước mơ. Trong tôi, tất cả đều đã chết. Tất cả cái gì tạo thành đời sống một con người đã chết, giống như tất cả cái gì tạo thành đời sống của mảnh đất đã chết trong bãi sa mạc đang bao quanh chúng ta. Xã hội trưởng giả đã cướp hết niềm tin, ảo tưởng, tình đoàn kết nơi tôi. Cho nên, cách đây 15 năm, cũng vào giờ nầy lúc tôi mới đặt chân đến đây, tôi chỉ biết có sự sợ hãi khủng bố và cô đơn. Dù là tất cả những gì xã hội trưởng giả đã mang lại cho tôi, tất cả những gì tôi mang theo hồi đó.

    Đời sống tôi chỉ bắt đầu cách đây 15 năm. Sô Viết đã cho tôi lý tưởng, cho tôi đức tin, cho tôi sự may mắn sống cho một cái gì. Và trên hết, Sô Viết đã cho tôi tình đoàn kết, tình cộng đồng, tình huynh đệ. Trong xã hội trưởng giả, tôi chỉ biết có sự cô đơn não nề, sự cô đơn còn lớn gấp bội sự phiền muộn của 60 triệu mẫu tây sa mạc nầy.

    Boris Bodnariuk cúi xuống bốc một nắm cát, bóp mạnh cát trong tay, hắn nghĩ đến người mẹ suốt ngày đánh đập hắn đến đổ máu, nghĩ đến bạn bè mỗi lần hắn đi ngang đều che mắt và la lên «Đồ sát nhân». Hắn nghĩ đến quê hương, nơi mà ai cũng mong hắn chết đi, nghĩ như thế hắn ứa nước mắt. Cầm nắm cát trong tay như vậy, hắn tiếp tục nói :

    «Với nắm cát trong tay, với sa mạc mênh mông nầy trước mắt, tôi xin thề với các đồng chí, và tôi yêu cầu các đồng chí cũng thề với tôi là chúng ta sẽ mang lại sức sống cho mảnh đất cằn cỗi nầy của tổ quốc Sô Viết. Lòng đam mê của tôi có được, không những chỉ vì tôi là kẻ ở đậu trên mảnh đất nầy, mà còn bởi vì hơn ai hết tôi đã biết thế nào là sự đớn đau của một kẻ bị chà đạp, bị giết chết bởi sự man rợ của con người, bởi vì tôi đã biết thế nào là sự sung sướng của một kẻ được người khác mang lại sức sống, nghĩa là tôi đã biết thế nào là sự chết và thế nào là sự hồi sinh.»

    Bài diễn văn của Boris Bodnariuk chấm dứt bằng những tiếng vỗ tay vang dội, bằng nhịp điệu của những bài hát ca tụng sự vinh quang của công trình thay đổi khí hậu và tái tạo sức sống của sa mạc. Boris thật sung sướng, nên khi nữ đồng chí Natacha Olt bước đến ôm hôn, nét mặt của Boris đã lấm tấm vài giọt nước mắt hân hoan.

    II
    Ngày hôm sau, nhóm của Boris Bodnariuk đã làm việc hết sức hăng hái. Các sinh viên được chia thành từng toán tùy theo khả năng chuyên môn của họ, còn nhiều toán khác chưa đến kịp. Trong ba căn lều vừa dựng, đã có những máy vô tuyến điện, những dụng cụ đo sức mạnh và hướng gió, đo độ ẩm cùng nhiệt độ và khoảng cách. Các tiểu ban khảo cổ và canh tác đã dựng được những phòng thí nghiệm sưu tầm và quan sát đất đai cây cối. Các tiểu ban thú y và trồng tỉa cũng đã bắt đầu công tác. Boris Bodnariuk làm việc ở tổ trung ương với nữ thư ký Natacha Olt và một uỷ viên chính trị gốc người Mong Cổ tên là Vladimir Kanayan. Ngoài Kanayan ra chỉ toàn là sinh viên. Boris ra khỏi cửa lều đã rung chuông hội hộp:

    «Hỡi các đồng chí, các đồng chí đang tượng trưng cho mọi ngành chuyên môn của khoa học và cũng đều qua một cuộc tập sự đặc biệt ở Hàn Lâm Viện canh tác sa mạc. Vậy không lý do gì tôi lại giảng nghĩa thêm về những khía cạnh kỹ thuật, những khía cạnh mà những nhà bác học Sô Viết đã chỉ dạy các đồng chí từ lâu rồi. Tuy nhiên tôi phải nói vài lời để hướng dẫn các đồng chí trong lúc hành động, những sinh vật đầu tiên xuất hiện trên sa mạc sẽ là những tên gián điệp, những tên phản bội và những kẻ phá hoại.»

    Giọng của Boris không còn tràn đầy đam mê, xa vắng và mơ mộng như ngày hôm qua nữa, mà đã rắn rổi và đầy uy quyền.

    «Hỡi các đồng chí của mọi ngành chuyên môn, hóa học, sinh vật học, nông học cũng như khí tượng học, thiên văn học, kỹ sư các ngành, các đồng chí đừng bao giờ quên rằng trong công trình vĩ đại của chúng ta nhằm canh tác sa mạc và thay đổi khí hậu, nên sinh vật đầu tiên xuất hiện trên sa mạc sẽ là Kẻ thù của Tổ quốc. Những nơi nào có Sô Viết, nghĩa là có sự sống, ắt có kẻ thù của đời sống, kẻ thù đó là những ký sinh trùng. Cho nên các đồng chí hãy đề phòng cẩn mật. Hãy giết ngay con vật ký sinh đó đi, vì nó là kẻ thù của tổ quốc, nếu các đồng chí không chú ý, các đồng chí sẽ có tội với tổ quốc và tất cả công trình chúng ta sẽ ra mây khói. Châm ngôn của chúng ta là khám phá và loại trừ ngay kẻ thù của tổ quốc. Rất có thể nó đã đến sa mạc trước cả chúng ta nữa.»

    Boris nhìn các đồng chí thuộc hạ đang chăm chú nghe và giảng giải tiếp:

    «Thứ ký sinh đó xuất hiện khắp nơi. Để tôi kể các đồng chí nghe trường hợp sơ xuất tai hại của một đồng chí trong tiểu ban Trồng tỉa ở Leningrad...

    «Trong tám trăm hạt giống và cành chiết do những cộng tác viên Sô Viết gởi từ những sa mạc Nam Mỹ sang để thí nghiệm ở đây, có một cây con ở Ba Tây. Đồng chí đó đã đem trồng vài cành chiết vào nhà gương của Viện Đaị Học để thí nghiệm nhưng y lại sơ hở rất tai hại. May thay, một đồng chí ở phòng thí nghiệm đã không quên rằng Kẻ thù của tổ quốc ẩn nắp khắp nơi nên đã dùng kính hiển vi nhìn kỹ rễ của cây con đó. Quả nhiên, đồng chí đã phát hiện ra con vật đê hèn đó. Một bọn phản động ở Ba Tây, bon của nhóm Trotzky dĩ nhiên, đã đặt trong rễ cây gởi về cho Nga Sô trứng của loại kiến đỏ. Thứ kiến đỏ không những đã phá hoại cây cỏ ở Ba Tây mà còn phá hoại tất cả thực vật quanh đó. Nhờ sự cẩn thận của đồng chí đó mà loại kiến đỏ đã bị giết, lũ phá hoại và đồng bọn bị bắt, tai họa đã tránh được. Tôi khuyến cáo các đồng chí là đừng nên sơ xuất xem thường. Kẻ thù của tổ quốc, lũ phá hoại, những tên gián điệp, những tên phản động cũng muốn xam nhập và ẩn núp trong rễ cây, trong hạt giống, trong mọi đồ vật.

    «Cho nên bổn phận của mỗi đảng viên cộng sản là khám phá ra loại sâu bọ đó và loại trừ tức khắc. Nào bây giờ chúng ta làm việc, nhưng hãy cẩn thận. Diệt trừ kẻ thù cũng quan trọng như mọi công trình xây dựng vậy, có thể quan trọng hơn nữa là đằng khác. Nào, bây giờ làm việc đi...»

    III
    Ngày thứ ba có buổi họp của toàn nhóm. Ai nấy đều dấu sự mệt mỏi, bệnh hoạn dù tất cả đều khó chịu vì khí hậu ở sa mạc.

    Boris Bodnariuk chủ toạ buổi họp, bên phải là Natasha Olt chuyên thảo biên bản các buổi họp; phía sau là khuôn mặt bầu bĩnh của Vladimir Kanayan. Boris Bodnariuk chưa đầy ba mươi tuổi. Hắn đã theo học tại Hàn Lâm Viện đỏ, ban khủng bố, ban nầy có mục đích huấn luyện hắn có thể đi hoạt động ở ngoại quốc. Mấy năm cuối cùng của chương trình, hắn có theo học ban «Canh tác sa mạc». Đối với hắn chiến thuật cộng sản thật rõ ràng, và hắn đã được liệt vào hạng kỹ sư đào tạo con người mới chứ không ở vào hạng theo chủ nghĩa thần bí hiếm thấy ở liên bang Sô Viết. Hắn thừa biết là tuổi trẻ luôn luôn ham thích những kế hoạch to tát, tuổi trẻ lúc nào cũng say mê những thần thoại, những niềm tin đáp ứng được nhu cầu phiêu lưu, tính phóng khoáng cùng lòng hy sinh nơi mọi người. Mỗi thanh niên mơ ước sẽ trở thành anh hùng, và phải tạo cơ hội cho mỗi người thấy rằng trong sự lao động hàng ngày đảng có thể giúp thanh niên đó đạt được ước mơ. Việc làm khô khan nhất, và chính nhờ sự khô khan đó, cũng có thể cung ứng sự khát khao của tuổi trẻ, đó là sự khát khao trở thành người hùng, làm những việc phi thường không giống một đồng bạn nào cả. Chính vì thế mà Boris Bodnariuk đã quyết định là mỗi sáng các tổ trưởng phải phúc trình sơ lược những tiến bộ thực hiện được trong khuôn khổ của kế hoạch thay đổi khí hậu nhờ bàn tay cùng sự khéo léo của mọi người hiện diện.

    Trong chừng mười câu sáng sủa, gãy gọn, ban phúc trình phải nêu được mục đích và những tiến bộ đã thực hiện được. Cứ tuần tự như thế, phúc trình công tác hệt như một điệu nhạc mỗi sáng trong đó Boris cũng hệt như một nhạc trưởng. Hắn bắt đầu chỉ định tổ trưởng toán chuyên về dẫn thủy và hàng hải. Người này nói thao thao:

    - Toán của tôi là một trong những toán chuyên đắp những con kênh cho tàu bè qua lại. Mục đích tối hậu là nối liền 6 biển: biển Caspienne, biển Azov, biển Đen, biển Trắng, biển Aral và biển Baltique. Nhờ hệ thống kênh đào đó, Mạc Tư Khoa sẽ là một hải cảng trên 6 biển (có tiếng vỗ tay). Kênh Turkmène sẽ là con kênh dài nhất thế giới dài 1100 cây số, và sẽ kết thúc trong chừng 7 năm. Kênh Panama do tụi trưởng giả đào dài chỉ 84 cây số mà mất đến 34 năm. Thứ đến là Kênh Volga Don. Hàng triệu mẫu tây đất sa mạc biến thành vườn tược nhờ hệ thống kênh đào. Để thực hiện điều đó, chúng tôi sẽ dùng chừng 5 triệu thước khối đá. Sông Amour Daria đã bắt đầu dùng được. Không bao lâu nữa, và không xa đây bao nhiêu, nơi mà hiện giờ không có lấy một giọt nước, thuyền bè sẽ tấp nập qua lại trên 6 biển, ngang qua sa mạc. Toán chúng tôi lúc đó lại sẽ phải đắp một đường bộ và một đường sắt nối liền ga cuối cùng đến công trường chúng ta. Chúng tôi sẽ đem nước đến đây trong vài tháng nữa cho các đồng chí cũng như cho các đồn điền.

    Boris hướng về một thanh niên khác, anh nầy liền lên tiếng:

    - Toán khí tượng và thủy học sẽ có chừng một phi đội để tưới những trận mưa nhân tạo lên vùng đồn điền với một diện tích trên một trăm mẫu tây. Chúng tôi đợi máy bay trong một tuần.

    Boris lại ra dấu, một thiếu nữ thuộc toán thực vật đứng dậy đọc tên các hạt giống: «Trong 6 tháng, chúng tôi sẽ trồng được trên 200 mẫu tây chừng 800 loại cây khác nhau. Thật chưa có một cuộc thí nghiệm nào vĩ đại như thế từ khi có loài người trên quả đất. Một thiếu nữ khác đứng dậy phát biểu ý kiến:

    - Cùng một lúc với sự biến đổi độ ẩm, gió cũng sẽ được dịu bớt không bao lâu nữa, chiều gió sẽ hoàn toàn thay đổi. Chúng tôi có thể buộc mây từ phía bắc đến đổ mưa xuống vùng sa mạc nầy. Nhóm chúng tôi sẽ thông báo cho ủy ban trung ương biết về áp lực và các lỗ hổng không khí khi chiều gió đã được thay đổi. Tôi xin nhường lời cho đồng chí trong nhóm thiên văn.

    Một thiếu nữ cao, tóc hung, chuyên về thiên văn tiếp tục:

    - Ngay từ bây giờ, chúng tôi có thể tuyên bố rằng, chính nhờ chúng tôi mà trong khoảng đất nầy của liên bang Sô Viết trong khoảng đất rộng bằng cả Anh quốc, màu trời sẽ được thay đổi. Theo sự nghiên cứu của chúng tôi, nhờ sự thay đổi khí hậu bầu trời sẽ xanh như ở Ukraine. Các ngôi sao sẽ sáng hơn, mặt trời cũng sẽ có màu vàng hơn, đám mây vàng ta thường nhìn thấy quanh mặt trời và mặt trăng sẽ biến mất. Ban đêm sẽ sáng hơn, độ sáng sẽ lớn hơn các vùng lân cận là 25%. Sự thay đổi màu trời, tia sáng của mặt trời, mặt trăng cũng như các ngôi sao có được là nhờ Sô Viết và vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta.

    Mọi người vỗ tay, ai nấy mắt sáng ngời nhờ các bản tường trình vừa đọc xong, Boris Bodnariuk biết là đã đến lúc cuộc hòa tấu buổi mai có thể chấm dứt. Với ngần ấy nhiệt thành, thì khí hậu và oi bức của sa mạc rồi cũng chịu đựng được. Tuy nhiên, hắn còn nhớ đến Kanayan và bảo:

    - Hiện còn vài ngàn dân bản xứ còn sống lang thang trong sa mạc. Họ phải biết đến hoạt động của chúng ta mới được, bởi vì họ là những giống dân Sô Viết chưa được hưởng ưu đãi của chế độ. Xin mời đồng chí Kanayan cho biết làm sao để tìm ra họ và kết hợp họ vào công trình xây dựng của chúng ta.

    Đôi mắt nhỏ đen của Kanayan không hề nhấp nháy hắn trả lời cho Boris thật nhỏ:

    - Hiện còn những kẻ sống lang thang trong sa mạc thật nhưng không thể nào tìm gặp và không thể đếm được lớp người đó. Họ hệt như cát trong sa mạc, họ đến rồi họ đi và không thể nào phân biệt nổi họ với cát.

    - Ủy ban chính trị sẽ để cho đồng chí xử dụng vài phi cơ trinh sát.

    Boris nói thế nhưng Kanayan không trả lời thêm. Boris hỏi:

    - Vậy theo đồng chí thì cần độ bao lâu ta có thể kiểm tra được số người vô gia cư đó?

    - Tôi là đảng viên cộng sản từ thuở bé. Cha tôi cũng vào đảng từ lâu, nhưng thật khó lòng mà đi sâu vào sa mạc. Lénine vĩ đại đã chinh phục Nga Sô toàn diện từ lâu, thế mà với Người cũng cần 7 năm để đi từ Mạc Tư Khoa đến làng tôi cách đây chừng 80 cây số. Dân tộc Sô Viết chỉ đến biên giới sa mạc vào khoảng năm 1925, nhưng nếu phải đi xa hơn, đi vào tận sa mạc thì thú thật tôi không biết phải cần bao nhiêu lâu, khổ lắm, đó là tất cả những gì tôi biết được.

    Boris mỉm cười lên tiếng:

    - Hỡi các đồng chí, tôi muốn rằng những lời nói vừa rồi của Kanayan là một bài học cho các đồng chí. Các đồng chí thấy rõ là dưới một chế độ phản cộng sản con người thật quá thấp hèn. Những kẻ lang thang đó khổ sở vì đói, vì khát, và kéo lê một cuộc sống trong địa ngục đầy cát nầy, một cuộc sống mà không một con vật nào ham muốn cả. Thế mà họ là những người, lại là những người Sô Viết, họ đã bị khủng bố, sợ hãi, thua sút đến độ họ không còn can đảm nhìn thẳng vào tương lai. Chúng ta mang lại cho họ nước uống, nhà cửa, một khí hậu dễ chịu hơn, một điều kiện hợp với con người hơn thế mà họ vẫn sợ hãi. Vâng, sợ hãi. Đó là những kết quả của một xã hội phi cộng sản. Xã hội đó đã biến con người thành một con vật sợ hãi đến độ thích bị giết hơn là thích từ bỏ nghiệp khổ để đi đến một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng mặc họ, chúng ta cứ sẽ giúp đỡ họ. Các đồng chí thương mến, ai yêu thương loài người thì phải mang lại lợi ích và không có quyền sợ những đổi thay. Nhiệm vụ của chúng ta là mang lại cho các thế hệ mai sau một khí hậu trong lành, một mảnh đất có năng suất cao và một xã hội công bằng. Vì ích lợi của nhân loại chúng ta sẽ bắt buộc hàng ngàn người lang thang đó trở thành những cộng tác viên của chúng ta. Đó là thứ tình cảm cao thượng nhất của nhân loại. Ngoài những người Sô Viết ra, không có một tôn giáo nào lại biết thương yêu con người như thế. Chúng ta sẽ biến những người vô gia cư đó thành những cộng tác viên của chúng ta, dù họ không muốn, nhưng vì ích lợi cho họ và cho con cháu họ chúng ta phải làm thế. Liên bang Sô Viết được thành lập trên căn bản của đoàn kết nhân loại. Boris Bodnariuk đứng dậy:

    - Nào bây giờ chúng ta làm việc, làm việc cho lợi ích của nhân loại. Trong lúc đó Kanayan vẫn đứng đấy, bất động.

    IV
    Boris Bodnariuk đã tổ chức các công tác tại công trường xong. Sau đó hắn trở về Mạc Tư Khoa bằng máy bay để nhận những chỉ thị mới và bây giờ hắn đang ở lại tại Kichinev vừa mới được sát nhập vào Nga Sô.

    Hắn cần tuyển mộ ở đó rồi mang đến sa mạc vài trăm ngàn người tị nạn để làm việc cho công trình thay đổi khí hậu. Boris cho là «Không phải là lần đầu tiên những người Do Thái làm quen với sa mạc vì trong lịch sử họ đã từng ở trên những đồng bằng đầy cát».

    Boris muốn thấy lại trường Trung học hoàng gia nơi mà hắn đã bị đuổi trong bộ quần áo nhục nhã mười lăm năm về trước. Đằng sau hắn là đại tá Novirok chuyên lo về vấn đề tị nạn, một người mập mạp nhưng thụ động:

    - Hàng trăm ngàn người Do Thái đó, những «desperados» đó đến xin tị nạn ở Sô Viết để khỏi phải bị đốt như những con chuột trong những lò hỏa thiêu của bọn phát xít. Họ chống phát xít vì sợ chết và sợ những trại tập trung, nhưng họ cũng chống cộng sản nữa. Sự kiện họ đã đến với Sô Viết không có một ý nghĩa nào cả. Người Do Thái sang Nga bởi vì họ không thể đi đâu được nữa. Các nước dân chủ không chấp nhận họ trừ phi lúc họ có trương mục ở ngân hàng, như Thụy Sĩ đã làm. Một vài nước khác lại xa quá. Dù sao chúng ta cũng phải giam giữ họ bởi họ chống lại chủ nghĩa cộng sản. Điện Cẩm Linh đã chấp nhận giải pháp của tôi. Vị trí của những người Do Thái là ở tại sa mạc, vì Nga Sô đang có hàng triệu mẫu tây sa mạc.

    Đại tá Novirok đã soạn sẵn danh sách và hồ sơ hàng ngàn người tị nạn mà mai sẽ được chở vào những toa tàu bọc kín để đem đến những công trường làm thay đổi khí hậu và canh tác sa mạc. Boris lại bảo:

    - Nhờ khoa vật lý, đồng chí thừa biết là một nguyên tử hýt rô vẫn là một nguyên tử hýt rô trong bất cứ phân tử nào. Cũng như thế một cá nhân là sản phẩm của một xã hội nơi mà người đó sinh ra; người đó vẫn là người đó mãi mãi, cũng như một nguyên tử, trong bất cứ xã hội nào mà đồng chí mang người đó đến, đó là một luật lệ đương nhiên. Y theo kế hoạch, tôi có thể thay đổi màu trời ở sa mạc, thay đổi chiều gió, mực nước biển nhưng tôi biết chắc là tôi không thể nào thay đổi bản tính của một cá nhân trừ phi tôi loại trừ nó. Moise biết rõ điều đó lắm, nên ông ta đã ở 40 năm trong sa mạc trước khi cố tái lập một tân đế quốc Israel. Ông ta phải ở như thế trong sa mạc để cho thế hệ mà ông không cần đến phải chết đi, và sau đó, chỉ với lớp người trẻ, ông ta mới bắt đầu xây dựng lại. Thật là làm chính trị lãng mạn mới tin rằng ta có thể thay đổi một cá nhân gốc trưởng giả thành một cá nhân cộng sản. Cũng như là phải lãng mạn chính trị lắm người ta mới tin rằng có thể biến người cộng sản thành trưởng giả. Ngu ngốc lắm mới tin như vậy được, bởi lẽ khoa học xã hội chưa khám phá ra bí quyết của sự «Biến thể» cá nhân. Chúng ta phải đợi một thế hệ nữa. Tôi lập lại là những cá nhân cũng giống như những nguyên tử. Đời sống họ cũng không phải đơn độc và người ta không thể thay đổi bản tính của họ được. Họ là sản phẩm của xã hội. Tất cả những cá nhân sinh ra trong xã hội trưởng giả đều là những kẻ trưởng giả, ngay cả lúc họ là Do Thái và chống phát xít. Cho nên họ sẽ được đem đến sa mạc, ở đó họ sẽ chết dần, nhưng ở đó họ sẽ không truyền nhiễm sang kẻ chung quanh những con vi trùng trí thức và chính trị của họ được. Họ ở sa mạc cũng như họ ở trong một lò sát trùng; chúng ta vẫn có thể giúp đỡ họ được, vì dù họ không muốn, chúng ta cứ ghép họ vào một công trình vĩ đại. Chúng ta đang đem lại lợi ích cho nhân loại và cho những thế hệ mai sau thế hệ sẽ được hưởng những công trình mà họ bị bắt buộc phải làm. Đối với họ, đó là một dịp may mà họ không mong đợi, nhưng con hơn là để họ chết trong những trại tập trung của quốc xã, chết một cách thật vô ích. Trong lúc với chúng ta, họ cũng có điều may mắn đó, may mắn chết một cách ích lợi cho nhân loại. Thế cho đến bây giờ, đồng chí đã làm gì với những người Do Thái trưởng giả đó?

    Đại tá Novirok trả lời:

    - Giáo huấn họ lại.

    - Ai chủ trương giáo dục lại sẽ mang tội lãng mạn chính trị. Chúng ta đã có kinh nghiệm trong sự giáo dục đó vào hồi đầu của cuộc cách mạng với những nông dân, những sĩ quan Nga hoàng cũng như các giáo sĩ, và chúng ta đã thất bại hoàn toàn. Một cá nhân từ tây phương đến phải cần cô lập, bắt làm việc hay loại trừ, vi cá nhân đó đã hư hỏng rồi. Vâng hư hỏng, đồng chí có biết như thế không.

    Boris đưa mắt nhìn thành phố, nhìn những nóc nhà thờ nhọn hoắt như những ngón tay chỉa lên trời, rồi hắn quay lại nói tiếp:

    - Lúc tôi đã hoàn thành xong kế hoạch thay đổi khí hậu, ta còn một giấc mơ khác cần thực hiện nữa. Đó là biến Tây phương thành một đống tro tàn, nhìn những thành quách cùng các giáo đường thời trung cổ của những thủ đô lớn lần lượt bốc lửa, và sau đó máy cày Sô Viết sẽ được đem đến Âu Châu, chúng ta tái tạo các khu rừng, thành lập những thành phố mới, những cơ xưởng mới. Nhưng trước đó, phải để Âu Châu cháy sạch hết đã, để có thể đứng từ Odessa nhìn con lửa đốt hết Luân Đôn, Bá Linh, Ba Lê, những con lửa liếm Tây Phương trọn vẹn giết sạch tất cả vi trùng và dấu vết của một xã hội đã kiềm chế nhân loại với một đời sống tăm tối trong suốt hai nghìn năm dưới dấu hiệu thánh giá, đã kiềm chế nhân loại trong áp bức, sợ hãi và những khủng bố dưới dấu hiệu thánh giá. Đồng chí có muốn chứng kiến cảnh tượng đó không nhỉ?

    Novirok đăm đăm nhìn Bodnariuk mà không nói gì. Đại tá Novirok biết rằng nếu ý nghĩ của Bodnariuk được chế độ Sô Viết chấp nhận thì ông ta có thể trả lời «vâng» mà không sợ hãi gì. Nhưng nếu một mai chính phủ Sô Viết xem những ý nghĩ đó là quá sớm hay không hợp thời thì những ai đã trả lời «Vâng» sẽ bị nguy hiểm. Cho nên tốt hơn hết là im lặng, đừng đồng ý hay không đồng ý, và nhất là không nên nói «có lẽ» vì chữ «có lẽ» sẽ bị xem như là đồng ý hay không đồng ý. Điều chính yếu là giữ im lặng và chỉ nhìn mà thôi, nhìn với đôi mắt không trung lập, cũng không lờ mờ, một nét nhìn không nói lên sự đồng ý hay không đồng ý, một nét nhìn giống như lũ trâu bò. Đó là thái đó chắc chắn nhất để giữ sinh mạng, và thái độ mà đại tá Novirok đã chấp nhận.

    Và cả dân tộc Sô Viết củng cố gắng để có thể nhìn như thế.

    V
    Kichinev, Boris đến viếng thăm trung tâm những người Do Thái tị nạn, và căn cứ theo biên bản hắn có thể tính được số người đến tị nạn mỗi ngày. Hắn yêu cầu trung tâm mỗi tuần phải chở những người tị nạn nầy đến sa mạc.

    Lúc hắn đến trước khu trường trung học Hoàng gia, Novirok chỉ cho hắn một ngôi giáo đường nhỏ và bảo:

    - Ngôi nhà thờ nầy đã đổi thành hý viện, một số người tị nạn đã trình diễn bằng tiếng Lỗ ma ni.

    Boris và Novirok vào bên trong. Một người đàn ông và vài người đàn bà đang làm việc ở đó. Cảnh tượng ở bàn thờ đã thay đổi hẳn, vải bàn thờ đem làm màn che, tượng thánh và thánh giá vất ngổn ngang trên nền nhà. Boris thọc tay vào túi quân tiến lên, khinh khỉnh nhìn các bức tượng, trong lúc đó đôi mắt của các bức tượng thánh đăm đăm nhìn đôi ủng màu đỏ của Boris. Thánh Nicholas, thần Michel và Gabriel, thánh tông đồ Pierre vẽ bằng sơn dầu trên tường cũng đăm đăm nhìn chiếc khăn choàng cổ màu đỏ của Boris. Một thiếu nữ đang ngâm thơ bằng tiếng Lỗ ma ni lúc Boris bước lên sân khấu :

    Boris chỉ cảnh trần thiết và la lên :

    - Không đúng theo nghệ thuật của Sô Viết tí nào cả.

    Nghe thế người thiếu nữ thôi ngâm, trong lúc một thanh niên của đoàn hát trả lời:

    - Dạ thưa đó là cảnh tượng trưng con sông Prut phân chia tổ quốc Sô Viết với thế giới trưởng giả; bên bờ của trưởng giả là cảnh nô lệ nghèo đói, trong lúc bên bờ Sô Viết toàn là hoa cỏ và thịnh vượng.

    - Vậy thì những cây cối mảnh khảnh ở bờ Sô Viết có ý nghĩa gì?

    - Những cây đó giúp cho khung cảnh Sô Viết thêm thơ mộng bởi vì đối với bọn nghệ sĩ tị nạn chúng tôi, bờ sông phía Sô Viết là bờ của tự do.

    Viên họa sĩ, các nghệ sĩ trên sân khấu và trong căn phòng cũng như Novirok đều sợ hãi nhìn Boris. Họ tưởng Boris là một công chức cao cấp của Sô Viết, số phận của hý viện nầy phụ thuộc vào hắn. Những thánh thần, Đức Mẹ lại bình thản nhìn Boris, vì họ biết số phận của họ đến đây đã chấm dứt. Các bức tượng sẽ được phủ lên một lớp sơn mới, một lớp vôi mới, với những câu cách ngôn mới, của đảng cộng sản vì thế mà họ chẳng sợ sệt điều gì cả.

    Viên họa sĩ nói tiếp:

    - Trong vở kịch nầy, nghệ sĩ của gánh hát Eddy Thall sẽ kể lại vì sao chúng tôi đã trốn sự khủng bố của phát xít để tị nạn sang quốc gia tự do Sô Viết.

    - Thế thì lúc đến bên bờ Sô Viết, anh không để ý thấy những cơ xưởng chế tạo nào cả ư? Tại sao anh chỉ vẽ sông Prut băng ngang qua đồng cỏ và đất đai hoang phế?

    - Dạ thưa tại tôi muốn diễn tả khung cảnh nên thơ của Sô Viết. Nhưng Boris lại hỏi:

    - Nước sông chảy ngang qua cây liễu và đồng cỏ hoang có nên thơ hơn lúc chính con nước đó làm quay những bánh xe của một nhà máy điện chiếu sáng bờ sông? Có gì trong một cây liễu và hai con bò mà lại nên thơ hơn một nhà máy cung cấp ánh sáng cho hàng chục làng mạc, cho hàng ngàn ngôi nhà của công dân Sô Viết? Một con bò có nên thơ hơn một nhà máy nước không? Một cây liễu có nên thơ hơn một máy cày không?

    Viên họa sĩ bắt đầu run rẩy:

    - Ý của chúng tôi là muốn bày tỏ sự biết ơn đối với những người Sô Viết đã cho chúng tôi đến tị nạn. Tôi đã lý tưởng hóa tất cả những gì ở bờ sông phía Sô Viết.

    - Anh bày tỏ sự biết ơn của anh bằng cách mời khách ngắm tranh quay lưng lại trước tất cả những công trình xã hội vĩ đại để chỉ nhìn một mảnh đất hoang phế với bò, cừu đang gặm cỏ?

    - Anh làm cho khách ngắm tranh quên mất những cơ xưởng tân tiến, những cải cách xã hội rồi anh bảo đó là sự biết ơn của anh đối với Sô Viết ư? Tại liên bang Sô Viết, điều đó được gọi là tội phá hoại nghệ thuật và sẽ bị trừng phạt như những tội trạng khác.

    Người họa sĩ lo sợ bảo:

    - Chúng tôi sẽ vẽ lại tất cả những khung cảnh ở đây. Thế ngài có muốn nghe một nghệ sĩ tài danh của gánh hát chúng tôi diễn lại một vở kịch không?

    Eddy Thall trong bộ quốc phục bắt đầu kể chính câu chuyện của nàng. Nàng kể rõ người ta đã đóng cửa hý viện của nàng ra sao, đã tịch thu nhà của nàng như thế nào, kể chuyện Tinka Neva bị buộc ra khỏi nhà nàng, Lidia Petrovici bị đốt trong trại giam, kể rõ trường hợp bị giết của bà Debora Paternik cùng hàng triệu người khác. Nàng cũng nói rõ ý định di cư sang Palestine của nàng cũng như của các bạn đồng hành dù biết rằng sang đó, ở đất Thánh, họ cũng sẽ bị người Anh bắt bớ giam cầm. Họ cũng muốn di cư trong tuyệt vọng nhưng tiếc thay chiếc tàu Adassa đã bị chìm tại biển Đen mang theo bao nhiêu là sinh mạng tài sản Do Thái. Những người may mắn còn sống sót đã quay sang Nga Sô, và nước Nga đã chấp nhận họ cũng như đã bao lần nước Nga tiếp đón những người bị ngược đãi.

    Thình lình, Boris Bodnariuk hỏi Eddy:

    - Nhưng tại sao cô lại mặc thứ y phục nầy?

    Người họa sĩ lại trả lời thay Eddy:

    - Đó là y phục của Cộng hòa Sô Viết Moldavie.

    - Người đàn bà Sô Viết không thể mặc y phục đó bao giờ, vì nó thuộc về xã hội thoái hóa. Quốc phục đó là quốc phục của một người đàn bà nô lệ. Vì mặc nó, người đàn bà không thể nào làm việc được, nhất là ở các nhà máy hay ở bộ môn thể thao. Nghệ sĩ Sô Viết xuất hiện trên sân khấu phải ăn mặc thế nào để có thể khuyến khích đàn bà Sô Viết biết cách chọn y phục. Cô gợi ý cho khán giả chọn thứ y phục nô lệ nầy mà cô lại cho là quốc phục ư?

    Người họa sĩ lại lo sợ bảo:

    - Thưa ngày chúng tôi sẽ thay đổi cách ăn mặc.

    Eddy Thall tiếp tục kể chuyện nhưng đã run lên vì sợ hãi. Boris lại cắt ngang hỏi:

    - Cô ấy kể gì đó?

    - Cô ấy đang kể lúc những người tị nạn phát xít khám phá ra dân tộc Sô Viết tự do mà trước họ không hề hay biết vì bị che dấu bởi thứ tuyên truyền của xã hội trưởng giả.

    - Trong những xã hội trưởng giả, đã có hàng triệu đảng viên cộng sản hy sinh mạng sống để có thể nói lên được những sự thật về Sô Viết. Không nhớ điều đó tức là phản bội cuộc đấu tranh nầy và làm sai lạc lịch sử. Nghệ sĩ mà làm sai lạc lịch sử cũng phạm tôi rất nặng.

    Boris bước ra cửa, đôi ủng bước lên trên cả những cây thánh giá, những bức tượng bằng sứ, bằng nhung vứt bừa bãi trên nền nhà, vừa đi vừa lầm bầm với Novirok:

    - Không thể nào giáo dục lại bọn trưởng giả. Đồng chí cứ gởi hết họ ra sa mạc. Mấy người khác sắp đến đồng chí cũng cứ gởi nốt họ ra, theo những chuyến công voa hàng tuần. Con người của xã hội trưởng giả không thể nào thay đổi được nữa. Nếu chúng ta tin là có thể giáo dục họ được, chúng ta sẽ phạm đến tội lãng mạn chính trị.

    VI
    Chuyến công voa đầu tiên chở những người Do Thái tị nạn đã đến Sa mạc. Họ cũng đều ở trong lều và làm việc suốt ngày để hoàn thành con đường sắt nối liền ga cuối cùng đến công trường. Vài ngày sau, vào một phiên họp buổi sáng, Bodnariuk bảo:

    - Hiện có hàng ngàn nhân công đang góp công vào việc hoàn thành hệ thống dẫn nước và đường sắt cùng các con đường nối liền công trường chúng ta đến mảnh đất phì nhiêu. Tôi cần các đồng chí liên lạc với họ. Số lượng những người đó mỗi tuần mỗi tăng lên để tạo một số nhân lực bất tận cho công tác của chúng ta.

    Sau lời nói đó, buổi hòa tấu ban sáng lại bắt đầu. Boris ra hiệu cho một thiếu nữ thuộc tiểu bản địa chất. Thiếu nữ đó lập tức đứng dậy và tuyên bố:

    - Khu đất mà chúng ta đang đứng đây, theo sự khảo sát của chúng tôi có nhiều mỏ dầu hỏa rất quan trọng. Ngoài ra chúng tôi đang kiếm thêm vài khoáng chất khác và than đá. Công tác khai thác kho tàng địa chất Sa mạc, sắp bắt đầu và chúng tôi có thể cam đoan với các đồng chí là không bao lâu nữa để thay thế cho những bãi cát, sẽ mọc lên những thành phố kỹ nghệ với những cơ xưởng, những nhà máy lọc dầu, những nhà máy sản xuất hoá chất vĩ đại. Tất cả điều đó có thể thực hiện được nhờ những cố gắng ăn khớp nhau của kế hoạch Sô Viết trong công trình khai thác Sa mạc và thay đổi khí hậu.

    Tiếng vỗ tay lại vang lên. Boris xoay qua viên tổ trưởng ban hóa học. Người nầy lại đứng dậy phúc trình:

    - Cây cối do các đồng chí ở tổ thực vật đem trồng ở đây đều được nghiên cứu kỹ lưỡng ở phòng thí nghiệm. Chúng tôi có thể đoán chắc ngay từ bây giờ là một vài hoá chất rất hiếm hoi trên thị trường sẽ do đồn điền ở sa mạc cung cấp, vì chúng ta sẽ có nhiều nhà máy sản xuất hoá chất ở đây. Đây là một vài thí dụ: Runex Humeno-bepalus là một thứ cây có nhiều chất tanin, và có thể dùng để chế tạo trụ sinh chữa bệnh lao rất công hiệu, một loại Agave đem lại rượu và một thứ cây rất đắt đỏ trên thị trường, Larrea Divaricata là một cây có lá luôn luôn xanh tươi sẽ cung cấp nguyên liệu bậc nhất cho kỹ nghệ hóa học. Nhờ sự canh tác sa mạc, nền hóa học mới có được một kho tàng nguyên liệu mà không thứ đất nào có thể cung ứng nổi. Chúng tôi đã nhận dạng được trên 500 cây rất quí cho chúng ta. Chúng ta có thể xem sa mạc sẽ là nơi của phòng thí nghiệm và của những nhà máy chế tạo hóa chất trong tương lai.

    Boris lại chỉ định tiếp đồng chí trong tổ lo về rau sống:

    - Theo kinh nghiệm của chúng tôi, sa mạc này có thể sản xuất 12 ký khoai tây trong mỗi thước vuông đất, mỗi trái xu có thể nặng 5 ký, một củ hành trồng ở đây có thể nặng 280 g. Đất cằn cỗi ở đây không ngờ lại ích lợi vô tận cho công việc làm vườn. Chúng tôi đang chờ đợi những kết quả mỹ mãn trong tương lai?

    Một người khác trong tổ vệ sinh đứng dậy:

    - Trại tù binh cách công trường chừng 50 cây số có thể là một ổ nhiễm độc cho toàn thể sa mạc. Vì gốc gác trưởng giả của họ nên có thể các công nhân rất suy yếu. Số lượng người chết sẽ rất cao. Mà sa mạc lại không phải là nơi có thể lập thành những nghĩa địa, vì gió có thể cuốn những nấm mồ đi rất dễ dàng. Vi trùng được mang đi hàng trăm cây số và sẽ rất nguy hiểm vì chúng sẽ làm không khí nhiễm độc và có thể gây ra những bệnh dịch cách xa hàng ngàn cây số. Tôi yêu cầu phải đốt các xác chết chứ đừng chôn xuống đất, vì các nấm mồ sẽ bị gió quật lên ngay.

    Boris Bodnariuk mỉm cười, nhìn về phía cô thư ký Natacha Olt. Nàng cầm mảnh giấy đứng dậy đọc:

    - Đồng chí trong tiểu tổ vệ sinh đã cho chúng ta một sự kiện rất hay. Trung ương cục về canh tác sa mạc gồm nhiều nhà bác học Sô Viết đã từ lâu giải quyết vấn đề nghĩa địa trong sa mạc. Đúng là không thể nào chôn người chết ở đây được, vì xác chết bị gió bới lên sẽ rất nguy hiểm nhưng đem đốt đi cũng là một lầm lẫn lớn lao. Vì thế uy ban trung ương đã có một quyết định phi thường. Đồng chí trong tiểu tổ «Trồng cây ăn trái» sẽ cho các đồng chí biết quyết định đó ra sao.

    Một thiếu nữ khác đứng dậy:

    - Vấn đề các xác chết ở trong sa mạc sẽ được giải quyết như sau. Những người chết sẽ được chôn xuống một hầm sâu chừng 60 phân dọc theo thủy lộ, cách nhau chừng năm thước. Trên mỗi xác sẽ được phủ lên một lớp đất mềm chừng 10 phân. Xong với sự kiểm soát của tiểu tổ trồng trọt, ta sẽ trồng lên đó một loại cây ăn trái, rồi mỗi chiều sẽ tưới lên đó chừng 5 lít nước, tưới trong một khoảng thời gian cần thiết để cây đâm rễ và xác chết vữa ra để giữ đất cứng lại. Theo kinh nghiệm của các đồng chí trong các tiểu tổ khác về sa mạc thì theo phương pháp đó, cát sẽ cứng hẳn lại và nấm mồ sẽ không bị gió quật lên nữa. Phương pháp đó có rất nhiều tiện lợi: đường thủy, đường bộ cũng như đường sắt có cây cối hai bên sẽ tránh bớt gió của sa mạc. Ta sẽ trồng thêm một ít cỏ để làm cho đất chung quanh được rắn chắc thêm, như thế đồn điền có thể được nới rộng. Hệ thống dẫn nước nhờ cây cối hai bên sẽ tránh bớt được ánh sáng gay gắt ở sa mạc. Trung ương cục đã tính là một cây trồng ở trong nghĩa địa, bón bằng xác người chết kết trái hai lần nhiều hơn các cây khác, như thế trong thời hạn năm năm, nghĩa là thời gian cần thiết cho sự phân hóa xác chết. Trái cây sinh ra cũng ngon và tốt hơn bội phần, ví dụ như trái anh đào sẽ ngọt và lớn hơn nhiều; vả lại phương pháp nầy đã được áp dụng từ lâu, chính vì vậy mà các nghĩa trang thôn quê lúc nào cũng có cây cối. Nhưng nhờ Liên Bang Sô Viết mà phương pháp đó được kế hoạch hóa và sẽ đem dùng tại công trường chúng ta.

    Boris lại mỉm cười tuyên bố:

    - Sô Viết không quên điều gì cả, nghiên cứu cả đến những xác chết ở sa mạc nữa.

    Nói thế xong, hắn lại mỉm cười và bế mạc buổi họp.

    VII
    Bất thần Boris dùng cam nhông đi thanh tra công trường làm thủy lộ và thiết lộ. Hắn bước xuống xe, theo sau là Natacha, trưởng ban đồn điền, trưởng ban chính trị, y sĩ và ba thanh niên, sau cùng mới đến Vladimir Kanayan.

    Người ta vừa lo trồng cây, vừa lo chôn cất những xác chết trong ngày. Trong lúc Boris đang xem công tác đắp đất mà cạnh đó người ta đã đào sẵn 27 hộ hình chữ nhật sâu chừng 60 phân, thì từ một căn lều có lính gác, 27 tù binh ăn mặc rách rưới bước ra mang theo 27 cây keo con.

    - Chúng ta trồng cây keo ở đây vì chúng mọc rất dễ trên đất cát, trong 14 tháng nữa chúng sẽ được ghép cành và trở thành cây ăn trái.

    Cũng từ căn lều đó, hai hàng nam tù binh cũng vừa bước ra, cứ hai người lại mang một xác chết trong ngày đem đặt cạnh hố vừa đào. Boris không thèm nhìn những người chết nằm úp mặt trần truồng, úp mặt để người ta không biết được xác nào đàn ông, xác nào đàn bà. Theo lệnh của trưởng ban, cứ hai người lại ẵm một xác chết quăng xuống hố, sau đó người ta đem đất vàng phủ lên. Viên chỉ huy xem kỹ thử tù nhân đã phủ đúng 10 phân đất mềm trên mỗi xác chết chưa. Xong người ta mang cây lại và trồng ngay trên ngực mỗi xác chết. Tất cả việc đó đều do đàn ông phụ trách, mấy người đàn bà chỉ đứng nhìn, mọi việc diễn ra trong yên lặng, bình thản, cho đến lúc xe mang lại 5 thùng nước. Tức thì mắt bọn tù nhân sáng hẳn lên, vì họ đã quá khát nước. Người ta có cảm tưởng là họ phải cố dằn lòng hết sức mới khỏi nhảy xổ đến các thùng nước. Họ đành liếm môi cho đỡ thèm, và cho dù họ bị chóa mắt trước những dòng nước đổ xuống bãi cát, họ cũng không thể làm gì hơn được trước những toán lính gác các thùng nước, đã được lệnh của tên ủy viên chính trị là: «Phải xem chừng nước bị đánh cắp, mỗi thùng nước phải được canh gác ngày đêm bởi một số lính gấp đôi».

    Bodnariuk đứng nhìn người ta tưới nước lên cát mà không nói một lời nào. Natacha đã tránh xa công trường vì nàng không thể nào dự kiến quang cảnh tạo đồn điền bằng xác chết. Đứng ở xa nàng nghe được một giọng nói quen thuộc, đúng là giọng Vladimir Kanayan đang nói chuyện với một nữ tù nhân. Natacha muốn la lên là «không ai được đến gần công nhân ở công trường» nhưng giọng Kanayan đã vọng đến tai nàng thật rõ rệt :

    - Với năm tiền vàng tôi sẽ dẫn bà sang Do Thái. Cho đến bây giờ đã có bốn trường hợp như thế rồi, và việc xảy ra thật hết sức giản dị. Ở đây qua Irak, và tới Israel chẳng bao xa, chỉ cần năm tiền vàng thôi. Có nhiều toán dân bản xứ đưa bà sang Irak dễ dàng đêm nay cũng được nếu bà muốn.

    Người đàn bà khá cao, đẹp và hơi gầy, chỉ lắng nghe Kanayan mà chưa nói gì. Trong lúc đó Natacha rón rén tiến đến gần hai người. Nàng nghe rõ người đàn bà nói bằng tiếng Nga hơi khó khăn và khó nghe :

    - Nhưng ông có bảo đảm là đưa chúng tôi khỏi biên giới an toàn khi tiền đã trao xong? Làm sao chúng tôi có thể chắc chắn là các ông không giết chúng tôi dọc đường?

    Kanayan trả lời:

    - Khi nào bà đi khám bệnh thì điều duy nhất bà có thể tự hỏi là bác sĩ đó có giỏi hay không. Thế thôi, sau đó, bà không thể nào kiểm soát xem bác sĩ đó sẽ làm gì cho bà, bởi vì một lúc đã giao tính mệnh cho ông ta, thì chỉ có vấn đề tín nhiệm mà thôi. Với bác sĩ, không có vấn đề bảo đảm. Với những người bản xứ dẫn bà qua Israel cũng thế, điều chính yếu là xem họ có biết đường hay không, thế mà họ biết sa mạc nầy rõ ràng lắm, vậy thì điều còn lại chỉ là vấn đề tín nhiệm.

    Trong lúc người đàn bà còn suy nghĩ, Kanayan đã nói tiếp:

    - Ngày mai, chừng quá nửa đêm, một số người sẽ đến đây dẫn những người Do Thái nào có đủ năm tiền vàng. Họ sẽ gặp các người ở nơi những ngôi mộ mới chôn ngày hôm nay. Họ sẽ bò đến, và các người đừng sợ, đêm mai không có ánh trăng. Nhưng các người phải có ít nhất là năm tiền vàng, không thể thiếu được. Dân bản xứ lang thang ở đây là những kẻ đáng tin cậy, không ai là người Sô Viết cả. Eddy Thall nhìn Kanayan. Hắn nhìn nàng và cười đồng lõa. Gần đó người ta nghe rõ giọng của Bodnariuk :

    - Người nào chỉ sống cho hiện tại mà thôi kẻ đó là một tên mọi hay là một tên phản bội. Con người phải sống cho tương lai và hòa mình vào một kế hoạch. Kế hoạch là điều may mắn đích thực cho con người. Tương lai sẽ rạng rỡ không phải nhờ cá nhân mà nhờ ở đoàn thể và nhờ ở đoàn thể đã đi đúng vào một kế hoạch. Ngày hôm nay con người sống trong sa mạc này với đói khát. Hiện tại như vậy đó. Nhưng họ phải chịu để các thế hệ tương lai có nước mà uống. Nhờ ở kế hoạch của chúng ta, dân chúng trong tương lai không còn biết đến đói khát nữa. Chúng ta chôn xuống đồn điền nầy hàng trăm ngàn người để cứu vớt hàng triệu người trong tương lai. Có một thứ tình nhân loại nào lớn hơn thế không?

    Xe cam nhông rồ máy. Natacha cắn chặt môi mà không dám nhìn Kanayan :

    - Tối nay mình sẽ nói hết cho Boris Bodnariuk những gì mình đã nghe được. Boris sẽ bắt quả tang cả lũ...

    Nàng còn nhớ rõ lời dặn của Boris: «Đó là sinh vật đầu tiên xuất hiện ở sa mạc». Vì thế nàng nhìn Kanayan, khinh bỉ, và nghĩ rằng vì thế Sô Viết đã có lý khi tìm kiếm kẻ thù của dân tộc trong cát, trong các rễ cây và trong những nấm mồ, vì kẻ thù ở khắp mọi nơi.

    VIII
    Một chiếc cam nhông chở đầy lính đang đứng đợi trước dãy lều. Cạnh đó, một số sĩ quan cảnh sát cao cấp đang bước vào lều, Boris vui vẻ tiếp đón họ và bắt đầu kể cho họ nghe công trình trồng trọt trên xác chết, dọc theo hệ thống dẫn nước.

    Trong lúc Boris cùng quan khách bước vào văn phòng, Natacha và Kanayan đã lo sắp xếp ghế ngồi. Natacha hơi xanh, nghiêng người nói nhỏ với Boris:

    - Tôi cần báo cáo với đồng chí một điều hết sức quan trọng. Nàng muốn lập lại từng chữ cuộc đối thoại giữa Kanayan và người nữ tù, nhưng một viên sĩ quan đã cản lại :

    - Đồng chí cứ để khi khác hãy nói, giờ chúng tôi cần nói chuyện riêng.

    Boris ra dấu cho Natacha bước ra ngoài. Viên sĩ quan vừa đuổi Natacha ra ngoài vừa tiết lộ với Boris :

    - Chuyện nầy quan hệ lắm. Cơ quan an ninh biên giới của ta đã bắt được thêm một toán tù binh trong nhóm của đồng chí.

    Sáu người sĩ quan đăm đăm nhìn Boris. Bên kia vách, Natacha lắng nghe. Cũng ở bên kia vách nhưng ở đằng sau căn lều, Vladimir Kanayan đang rình nghe.

    - Hiện có một tổ chức chuyên dẫn tù binh ra ngoại quốc, một người nói thế, trong khi một sĩ quan khác viết biên bản.

    Boris bình thản kể chuyện:

    - Những người chết ở công trường đều dùng vào công tác trồng trọt. Chúng tôi khám phá ra rằng số cây trồng, nghĩa là số nấm mồ, ít hơn là số tù nhân đã chết. Hiện thiếu mất năm nấm mồ, tôi sẽ cho các đồng chí biết giả thuyết của tôi.

    - Vâng, đồng chí cứ nói. Chúng tôi cần biết lắm.

    Boris mỉm cười thản nhiên nhìn sáu viên sĩ quan trước mặt : hắn đang vừa khát vừa mệt, mồ hôi nhễ nhại :

    - Chúng tôi chôn xác người chết dọc theo hệ thống dẫn nước và trồng cây lên trên. Không những xác người mà thôi, mà những xác súc vật cũng được dùng trong mục đích đó. Và tù nhân đã quật xác ngựa, lừa để ăn... Chúng tôi đã suy ra như thế, nhưng muốn kiểm soát lại chúng tôi phải kiểm soát chừng 400 nấm mồ, nghĩa là phải 400 cây, điều này chúng tôi không thực hiện được, vì mỗi cây trồng được cũng mất 5 lít nước mỗi ngày. Nhưng tôi vẫn chắc chắn là những xác mất đi là xác súc vật chứ không phải là xác tù nhân.

    Boris nói tiếp :

    - Bởi vì tù nhân không đi đâu được cả. Muốn trốn về phía Tây họ phải vượt qua nhiều hàng kẽm gai, như vậy trốn về phía đó chắc chắn là không được rồi. Phía Đông và phía Nam là hàng ngàn cây số sa mạc. Cả đến chim chóc cũng không dám bay qua huống nữa là người. Sa mạc là một thứ lính gác bảo đảm nhất.

    Một viên sĩ quan phản đối :

    - Trong phạm vi sở cảnh sát không có gì chắc chắn cả. Đúng ra phải kiểm soát cả ngày lẫn đêm.

    - Nghi ngờ như thế là phi lý, vì sa mạc không cho phép bất cứ ai vượt qua cả. Các đồng chí cứ thử đi về phía Đông và Nam mà xem, chỉ đi được chừng hai cây số là nhiều, rồi sẽ bị nắng thiêu cháy như gà rô ti vậy.

    - Ấy thế mà tù nhân của đồng chí đã băng qua rồi đấy. Họ đã khai với chúng tôi hết cả rồi, rõ như ban ngày. Cho nên chúng tôi phải đến đây để tìm xem ai là kẻ đã cho phép họ băng qua vùng cấm.

    Viên đại tá rút trong túi ra vài tờ thông hành, loại giấy tờ chỉ Boris mới có quyền cấp mà thôi.

    - Chúng tôi muốn biết ai ở văn phòng đồng chí đã cấp cho họ giấy tờ nầy.

    Mọi cặp mắt đổ dồn về phía Boris quan sát từng biến chuyển trên mặt hắn. Ngay lúc đó, Natacha Olt ở phòng bên đứng bật dậy. Nàng quyết phải nói thật, vì chỉ có nàng biết điều đó. Kẻ thù của dân tộc, thứ rắn độc đó cần phải bị loại trừ. Người tổ chức cho tù nhân trốn thoát chính là Vladimir Kanayan. Nên nàng tiến đến cửa và sắp sẵn những lời tố cáo.

    Qua cửa sổ căn lều, Vladimir Kanayan theo dõi từng cử chỉ của Natacha. Và lúc nàng đặt tay lên nắm cửa, Kanayan rút súng lục bắn ngay ba phát vào cổ trắng nõn nà của cô nữ thư ký, xong hắn vứt ngay khẩu súng xuống chân Natacha trước khi nàng ngã xuống, và bình tĩnh tiếp tục nghe lóm câu chuyện của các viên sĩ quan. Nhưng không ai tiếp tục nói chuyện nữa. Chỉ còn tiếng ghế rớt loãng choãng, tiếng cánh cửa răng rắc, tiếng chân chạy thình thịch. Lưng Kanayan ướt đẫm mồ hôi, nhưng nét mặt hắn vẫn lạnh lùng, thân thể vẫn bất động. Mọi người vào phòng Natacha, nàng đã chết cạnh khẩu súng lục, cổ đầy máu. Viên đại tá nói như hét:

    - Như thế là quá đủ, không có lời thú tội nào đầy đủ hơn là lời thú tội của chính thủ phạm giết người. Kanayan sững sờ nghe giọng nói của viên đại tá.

    - Đồng chí Boris, đồng chí bị bắt để điều tra.

    Kanayan đứng dậy. Qua khung cửa hắn thấy rõ vừng trán cao, thông minh của Boris, thấy rõ viên sĩ quan trẻ ôm cứng Boris, một người khác cầm chặt hai tay và người thứ ba còng đôi tay trắng trẻo của Boris.

    Hắn đứng thẳng, bất động như một pho tượng đồng.

    Một viên sĩ quân lục hết giấy tờ trong ngăn kéo, trong lúc Boris lẩm bẩm:

    - Kẻ phản bội phải chết đã đành, những ai không tìm thấy kẻ phản bội cũng đáng tội chết lắm.

    Rồi Boris hình như thầm nói với riêng mình:

    «Mình không có hân hạnh giết kẻ nào phản bội nhưng mình muốn làm tròn phận sự với Sô Viết bằng cách sẽ giết chết những ai không truy tầm được sự phản bội; dù nó đang lẩn quẩn quanh mình. Ai không trông thấy kẻ thù của Sô Viết không xứng đáng là một người Sô Viết. Một kẻ mù lòa không thể là một đảng viên cộng sản, không, Boris ơi, không...»

    Boris nắm chặt tay lại, hình như chúng trở nên to lớn lạ thường và không còn nằm trong xiềng xích nữa. Và chính trong não tủy hắn, tội ác của hắn - thứ tội ác đã không tìm ra được những kẻ phản bội đang làm việc cạnh hắn - cũng chiếm những thể tích kinh khủng, Boris biết rằng có những thứ tội ác làm cho người ta không thể nào sống sót được nữa. Thế là hắn nắm chặt tay, nghiến răng dơ tay cao, đôi tay trong xiềng xích, vận dụng tất cả thớ thịt và trí óc, quyết tâm đánh mạnh vào thái dương, mạnh đến độ hắn bất tỉnh nhân sự. Trong giây lát hắn chỉ còn trông thấy muôn ngàn ngôi sao li ti màu lục, biến dần sang màu đỏ như máu đang chảy trên trán hắn. Hắn cảm thấy hơi nóng phát ra từ miệng rồi hắn ngã xuống nền nhà. Vạn vật thành màu tím thẫm, rồi hết, không còn gì nữa.

    Viên đại tá ra lệnh thật hằn học:

    - Vất nó lên xe. Một người cộng sản, ngay cả sau khi hoàn thành một tội ác, cũng còn phải phục vụ đảng bằng cách khám phá tụi phản bội khác. Boris đã xao lãng nhiệm vụ. Cái chết nầy gọi là đào ngũ. Cũng không phải là cái chết nữa, nhưng là một tội ác, tội đào ngũ.

    IX
    Một vết máu trên ngưỡng cửa chiếc lều còn sót lại sau khi chiếc cam nhông đã chở Boris đi. Vết máu đó là tất cả những gì Boris còn để lại đó sau khi hắn đi. Từ hồi ba tuổi đến giờ, hắn đã để lại đằng sau hắn không biết bao nhiêu là vết máu, nhưng là máu của kẻ khác, bây giờ mới là máu của hắn. Bắt đầu từ ngày mai biện pháp canh phòng sẽ gắt gao hơn nhiều. Người ta chôn Natacha xuống dưới một gốc cây như bao nhiêu xác tù nhân trước đây. Mỗi đêm người ta lại tiếp tục chôn người như thế dọc theo hệ thống dẫn nước. Máy bay bắt đầu đến rải hạt giống mỗi tuần hai lần Vladimir Kanayan coi sóc lũ thanh niên trong các công tác sưu tầm. Một hôm, hắn gặp Eddy Thall, người nữ tù trẻ đẹp bảo với nó là nàng có đủ năm tiền vàng. Nhưng Kanayan nhún vai bỏ đi, sa mạc bây giờ được canh phòng cẩn mật, không ai trốn thoát được nữa.

    Vài tháng sau, một đoàn xe cam nhông đến chở hết tù nhân đi nơi khác. Kế hoạch thay đổi khí hậu và canh tác sa mạc tạm thời bị đình chỉ.

    Chiến tranh đã lan tràn. Nhân lực cần được dùng vào việc khác. Các căn lều được giở đi. Gió sa mạc lại thổi tung cát. Và cuốn theo những dấu vết Sô Viết. Mặt trời lại thiêu đốt hết thảy, thiêu luôn cả những xác chết.

    Boris đã để lại một vết máu; kế hoạch Sô Viết thì để lại những xác chết. Vladimir Kanayan lại trở về với cô đơn, với khô cằn và nắng cháy của sa mạc. Hắn tự nhủ :

    - Mình thừa biết là không thể nào biến sa mạc thành những khu vườn. Ngay cả nếu chiến tranh không xảy ra họ cũng không thể thành công được. Muốn thành công, họ cần trồng cây trên xác chết nhưng không ai có thể giết người nhiều đến thế để chôn trên sa mạc. Cho dù có dùng máy móc chăng nữa, cũng không ai có thể giết được nhiều người như thế. Họa hoằn là có trời mới làm được thôi.

    Trước khi rời sa mạc, Kanayan nổi lửa đốt hết đồn điền. Sa mạc đã có hàng ngàn cây nhưng vẫn cháy rất mau. Kanayan thầm nghĩ:

    «Nếu Sô Viết thắng trận, họ sẽ trở lại đây và sẽ lại trồng cây trên xác chết. Người chết được tự do, nghĩa là người chết phải được ở ngoài kế hoạch.»

  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CUỐN SÁCH CỦA SỰ CHIẾN THẮNG
    Phần thứ nhất

    I
    Chiến tranh tiếp diễn; quân Đức tiến dần về đất Nga. Hàng triệu người lại bị lính đưa về miền Oural để chế tạo vũ khí cho Sô Viết. Đó là một miền lạnh lẽo, đâu đâu cũng toàn là những vùng rào kẽm gai, những núi quặng, những đường rầy, những ống khói nhà máy.

    Eddy Thall cũng được chở đến đây, nhưng trong đám nữ tù binh, nàng lại được tên gác dan cho làm việc ở văn phòng, chứ không phải ở trong các hầm mỏ như các tù nhân khác.

    Eddy Thall bắt đầu quét nhà, quét thứ đất xa lạ đã bám vào giày dép của đám người nô lệ, đám người trốn Đức quốc xã, để lại rơi vào tay Sô Viết. Dấu vết tổ quốc họ chỉ còn tượng trưng bằng một ít đất bụi bám vào giày dép. Đó là loại đất toàn thể Âu Châu, nên Eddy Thall vừa quét vừa nhìn chúng qua làn nước mắt tủi thân.

    Giữa trưa tên gác dan trở về văn phòng. Hắn đặt bàn tay nặng nề, đẫm mồ hôi và mùi thuốc lá lên vai Eddy Thall; nàng thối lùi nhưng hắn mỉm cười và giao cho nàng chiếc chìa khóa:

    - Cô sang quét phòng tôi bên cạnh. May mắn lắm cô mới được làm việc ở văn phòng đó nghe.

    Nói xong, hắn bỏ đi, Eddy bước vào phòng hắn một mình, một phòng nhỏ vách ván với những bức ảnh cắt ở các tờ báo, một giường ngủ, một lò sưởi; nàng quét thật nhanh xong đóng cửa trở về văn phòng.

    Qua khung cửa sổ, nàng trông thấy rõ những nữ tù đang khiêng các khúc đường rầy trên vai.

    Người gác dan trở lui, hắn tự giới thiệu:

    - Tôi tên là Ivan.

    Hắn lại đặt tay lên vai Eddy nhưng nàng thối lùi. Hắn chán nản ngồi xuống ghế, lúc nào hắn cũng đội mũ, trong phút chốc hắn buồn bã lạ lùng; đôi mắt, vầng trán, tối hẳn xuống, nỗi buồn trĩu nặng trên đôi vai, người ta có thể nói không ngoa là niềm thất vọng não nề đó đã làm mềm xương hắn đi. Hắn lại đứng dậy, chậm chạp, mệt mỏi, đưa tay mở cửa phòng bên cạnh và ra lệnh:

    - Có bước vào đi.

    Nhưng Eddy vẫn đứng yên. Hẳn bèn nắm ngực nàng đẩy mạnh vào phòng và khóa trái cửa lại.

    - Tại sao cô không muốn vào phòng tôi?

    Eddy bị đẩy vào chính giữa phòng, mở to đôi mắt nhìn đôi tay nắm chặt của Ivan cùng nét mặt, đôi môi thèm khát của hắn. Nhưng hắn vẫn bình tĩnh rút thuốc lá hút, dựa lưng vào cửa.

    - Tại sao cô thích làm việc mười bốn giờ một ngày trong hầm mỏ với cuốc xẻng hơn là ở đây với tôi?

    Ivan cắn điếu thuốc rồi tiếp tục:

    - Tất cả người đàn bà ngoại quốc da trắng, tóc uống, mặc áo như cô ai cũng thích đi xuống hầm mỏ hơn là ở đây với tôi. Tôi muốn hiểu tại sao lại thế. Tôi muốn biết rõ sự thật. Trả lời cho tôi, tôi sẽ không làm gì cô cả.

    Eddy Thall không trả lời.

    Ivan hỏi tiếp, răng vẫn cắn chặt điếu thuốc:

    - Nếu cô không nói, tôi cũng bắt cô nói. Nào nếu em nói thật cho tôi biết, tôi sẽ để em đi, tôi hứa sẽ giúp đỡ em. Tôi chỉ muốn biết tại sao những người trưởng giả lại thích sống 14 giờ dưới hầm mỏ hơn là sống với tôi.

    Eddy Thall năn nỉ:

    - Ông làm ơn để tôi đi.

    Ivan dơ tay cao lên. Hắn muốn tỏ ra bình tĩnh nhưng bắp thịt hắn vẫn đưa tay hắn cao lên, những thớ thịt như những cây cung căng lên bởi thù hận. Hắn đánh mạnh vào ngực của Eddy. Nắm tay đó có thể vật ngã một con bò hay giết được một con ngựa, nên Eddy ngã xuống, và trước khi bất tỉnh nhân sự, nàng còn nghe Ivan giận dữ hét lên:

    - Có phải tôi xấu xí hơn cả hầm mỏ hay không? Có phải tôi còn đáng sợ hơn hầm mỏ hay không?

    Sau đó nàng không còn nghe thấy gì nữa cả. Hình như xương nàng gãy kêu răng rắc, hệt như tiếng kêu răng rắc của chiếc tàu ở hải cảng Constantza độ nào vào một đêm bão tố.

    Nàng tối tăm mặt mày và có cảm tưởng là không phải Ivan đã đánh nàng mà chính là người đàn ông mang áo choàng da, khăn quàng đỏ, người đàn ông đã la hét ở Kichinev và ở sa mạc.

    Bây giờ, Eddy không còn ở trên chiếc tàu sắp chìm ở Constantza nữa, mà là đang ở trên bãi sa mạc mênh mông. Bầu trời, cát, da thịt nàng, tất cả đang cháy thành tro bụi. Sa mạc cũng tiêu thành mây khói. Chỉ còn lại một thứ ánh sáng yếu ớt phát ra từ hai lá phổi của nàng chạy dần đến cằm nàng, một thứ ánh sáng âm ấm chạy trên môi nàng, trên vú nàng, trên thân thể nàng, như một thứ thuốc mở đang phủ lên người nàng. Thân thể Eddy im lìm, bất động, từ lúc máu ở hai buồng phổi chạy dài trên môi, trên má, trên vú, thấm ướt cả áo nàng.

    Eddy chỉ còn cảm thấy một sự mơn trớn nóng hổi, dịu dàng trên người nàng, một thứ mơn trớn trìu mến của chính những giọt máu chảy từ thân thể nàng. Chúng chạy dài trên tay nàng, nhẹ nhàng như một con mèo và êm đêm như sự vuốt ve của một bà mẹ. Nàng không còn sợ hãi nữa. Mà chính là một sự yên nghỉ và ngọt ngào đang bắt đầu. Tất cả đều tan rã, dưới sức nóng của máu nàng, và Eddy muốn đưa tay ra để cầm lấy, nhưng những giọt máu đã lánh xa nàng.

    Ivan vẫn còn nói:

    - Tôi không muốn làm em đau khổ. Tôi không phải là một người hung tợn.

    II
    Eddy Thall mở mắt. Nàng nhận ra căn phòng vách ván với những bức ảnh cắt ra từ các tờ báo. Nàng nhận ra chiếc giường nàng đang nằm và nàng đang bị băng bó trên đầu. Nàng nhớ là nàng đã bị đấm ngã nhưng không hiểu từ bao lâu. Hôm qua chăng. Qua khung cửa sổ, nàng trông được những khu rào thép gai, những đống quặng sắt và than đá, qua làn nước mắt, nàng trông rõ bồn tắm, lò sưởi, nền nhà nàng đã từng quét dọn. Bỗng cửa mở Ivan bước vào. Nàng không muốn trông thấy hắn nữa nên giả vờ nhắm mắt, nàng biết rõ hắn đang nhẹ nhàng bước đến và quỳ xuống bên giường.

    - Em hãy tha lỗi cho tôi.

    Đúng là giọng hắn, nhưng lần nầy không còn rắn rỏi nữa.

    - Tất cả những người đàn bà trưởng giả đều thích làm việc ở hầm mỏ hơn là chung sống với tôi. Với tôi chỉ toàn là những đàn bà nông dân. Tại sao như thế, chỉ vì câu hỏi đó mà tôi đã mất bình tĩnh. Tôi chỉ muốn, một lần thôi, biết được sự thật đó. Tôi chỉ muốn biết tại sao những người đàn bà trưởng giả đẹp đẻ lại cứ lánh xa tôi. Nếu em nói cho tôi điều đó thì tôi đã để cho em đi, và không đánh đập em như thế nầy.

    Eddy Thall vẫn nhắm mắt nghe hắn nói :

    - Tôi xấu lắm chăng? Tôi làm em sợ hãi ư? Tại sao em cứ muốn bỏ đi?

    Nàng vẫn yên lặng, hắn vẫn quỳ bên giường nàng:

    - Nếu em biết là em đẹp, vâng, chưa bao giờ tôi gặp được một người đàn bà đẹp như em.

    Tự nhiên Eddy ứa nước mắt. Chúng tự nhiên trào ra, chạy dọc theo cầm nàng, xuống tận cổ nàng, ra đến tai nàng. Ivan đưa tay chùi nước mắt trên cổ nàng. Đúng là bàn tay đó đánh nàng hôm qua, cũng là bàn tay to lớn, nặng nề nhưng không còn hung dữ như hôm qua.

    - Hãy tha thứ cho tôi đi em. Từ nay tôi sẽ không bao giờ đánh em nữa đâu. Hôm qua, tôi bồng em trong tay, để em lên giường. Em nhẹ như một sợi lông măng. Em thật như những thiên thần, người ta bảo thiên thần không có trọng lượng, em cũng như thế đó. Tôi đã mời y tá bệnh xá đến. Cả hai chúng tôi cùng săn sóc em, người em đầy cả máu. Chúng tôi phải cởi hết áo quần em, và nhờ đó, tôi mới biết là tôi chưa bao giờ gặp được người nào đẹp như em, đẹp như một bức tranh trong báo. Ngực em, chân em hệt như bọt nước trắng xóa. Vai em, tay em hệt như của đứa bé sơ sinh, mà người ta không dám động đến, sợ chúng gãy đi mất.

    Eddy Thall hé mắt nhìn chiếc đầu dài của Ivan. Hắn vẫn tiếp tục nói.

    - Suốt đêm tối thức trắng bên em.

    Sau đó hắn đứng dậy, pha một tách trà cho Eddy, rồi nói tiếp:

    - Cô ý ta bảo là em đang đau phổi. Tôi rất sung sướng đã không bắt em làm việc ở hầm mỏ. Đau phổi mà xuống đó thì chỉ vài tuần là chết. Bây giờ em cho phép tôi nhìn đôi chân xinh xắn của em chứ?

    Hắn nhấc chiếc mền lên một chút. Eddy Thall lo sợ thu chân vào trong nhưng Ivan đã nhìn thấy, và hắn sung sướng bỏ đi.

    Eddy Thall lại bắt đầu cô đơn. Chưa ai chiêm ngưỡng đôi chân nàng như anh chàng khổng lồ hồi nãy. Nàng cảm thấy hổ thẹn khi nghĩ rằng người đàn ông đã quỳ bên chân nàng như quỳ trước một điều linh thiêng lại là anh chàng gác dan đã đánh đập nàng hôm qua. Tuy nhiên, sự chiêm ngưỡng đó cũng làm cho nàng sung sướng. Dù sao, hắn cũng yêu nàng, và không người đàn bà nào lại có thể lãnh đạm khi được yêu và được tôn thờ, ngay cả đến người yêu là một kẻ thô kệch.

    Trong khoảnh khắc, Eddy quên khuấy đi mất là nàng bị giải tới miền Oural, nàng bị đưa vào hầm mỏ, quên khuấy đi là nàng từ một bãi sa mạc đến đây và đã bị đánh đập đến thổ huyết hôm qua. Nàng quên mất hết. Tất cả đều mờ đi, chỉ còn một điều chính yếu là có một người đàn ông đã kính cẩn quỳ dưới chân nàng. «Mảnh đất hứa hẹn» mà người đàn bà tìm kiếm không phải là một mảnh đất nhưng chính là lúc mà một người đàn ông nào đó yêu thương nàng hơn hết bất cứ gì trên đời.

    Tuy nhiên lúc Eddy nghĩ đến Ivan, nàng vẫn hổ thẹn, vẫn sợ hãi và ghê tởm.

    III
    Boris Bodnariuk đã được chở vào bệnh viện. Không những đảng không xem hắn là thủ phạm mà còn khen thưởng hắn về hoạt động canh tác sa mạc và thay đổi khí hậu. Trán hắn dần dần lành hẳn, chỉ còn lại một vết sẹo, như hình một chiếc lá. Ở nhà thương, Boris chờ trung ương chấp thuận cho hắn được ra tiền tuyến. Đa số thương binh ở đây đều là những sĩ quan không quân trẻ tuổi, những người hùng đầu tiên trong cuộc chiến chống quốc xã.

    Gặp một hạ sĩ quan không quân còn trẻ, Antola Barsov, Boris đã nói ngay :

    - Cá nhân không thể ở ngoài đoàn thể. Cá nhân ở ngoài đảng sẽ mất thăng bằng hay bị chết bất cứ lúc nào. Với một người cộng sản, không thể có cuộc sống nào ngoài đảng, vì như thế người cộng sản chới với trong khoảng không.

    Antole Barsov chăm chú nghe. Mọi người trong bệnh viện nầy lúc nào cũng chăm chú nghe Boris Bodnariuk nói, vì đó là người hùng đã thử thay đổi khí hậu sa mạc. Hắn vẫn thao thao:

    - Nỗi đau khổ lớn lao nhất của người cộng sản là bị đảng sa thải và bắt buộc sống trong một xã hội trưởng giả.

    Một người y tá gọi Boris vào văn phòng quản đốc, Antole Barsov đứng chờ hắn, nhưng hắn không trở lại nữa. Tại văn phòng quản đốc đã có hai tướng lãnh từ Moscou đến kiếm Boris, trong đêm nay. Đã có một chiếc xe mang huy hiệu tướng lãnh của hồng quân đậu sẵn trong sân bệnh viện chờ để chở Boris đi.

    IV
    Các vị tướng lãnh lần lượt bắt tay Boris Bodnariuk. Họ chăm chú nhìn vết sẹo chạy dài trên trán hắn, rồi một người lên tiếng, một ông già tên Budieny:

    - Tổ quốc Sô Viết đang trải qua những thời kỳ khó khăn. Quân phát xít hiện đang tràn vào Mạc Tư Khoa. Chúng đã chiếm Ukraine. Tổ quốc kêu gọi sự cộng tác của những kẻ có tài. Vì thế nên chúng tôi đã mời đồng chí đến đây để làm tròn sứ mệnh xứng đáng với đồng chí. Đồng chí đã quá thành công trong công cuộc canh tác các đồng cỏ. Tiếc thay chúng tôi phải ngừng kế hoạch đó để dồn sức lực chúng ta vào kỹ nghệ chiến tranh, sau khi chiến thắng, chúng ta sẽ trở lại kế hoạch biến đổi khí hậu và canh tác sa mạc.

    Boris đỏ mặt cảm động. Thế là giấc mộng ra tiền tuyến của hắn có thể thực hiện được.

    - Bộ chỉ huy hành quân đã có ý định phong cho đồng chí cấp tướng lúc nào đồng chí bình phục hẳn và giao cho đồng chí một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng.

    Boris nghe chữ «tướng» trong chốc lát, hắn nhớ lại hệt như trong một khúc phim, quãng đời trôi nổi của hắn từ lúc xảy ra tai nạn cho Angelo: Trường võ bị, bộ áo quần nhục nhã, cuộc vượt sông Dniestr, Hàn lâm viện Mạc Tư Khoa, sa mạc đồn điền trên cát, Natacha, bệnh viện, Antole Barsov... Và bây giờ trước mắt hắn, hai vị tướng đang nói với hắn: «Bộ chỉ huy hồng quân muốn phong cho đồng chí cấp Tướng.» Người tướng già tiếp tục:

    - Bộ chỉ huy muốn tiền nhanh trong công việc nầy. Quân Đức đã tiến tới như vũ bão. Chúng ta đã có dự định tổ chức lại tất cả hệ thống Hồng quân. Tôi muốn nói là tổ chức lại hệ thống Hồng quân đằng sau phòng tuyến địch. Nếu đồng chí cảm thấy đã bình phục chúng tôi sẽ giao cho đồng chí chỉ huy tất cả lực lượng Sô Viết ở hậu phương. Đến Mặc Tư Khoa, đồng chí sẽ có thêm nhiều chi tiết khác. Lúc đi đường, đồng chí phải thảo ra một kế hoạch. Cần phải sẵn sàng khi đến Mạc Tư Khoa nghĩa là đồng chí phải đi ngang phòng tuyến địch và tạo lập một đội hồng quân khác. Lúc đầu chỉ là một lực lượng nghĩa quân, sau đó sẽ là chủ lực quân. Điều chính yếu là đi tới chiến thắng càng nhanh càng tốt. Đồng chí có thể nghĩ đến, ngay từ bây giờ, địa điểm của bộ tư lệnh - Bucarest hay Varsovie, nơi nào tuỳ ý. Chúng tôi để đồng chí toàn quyền định đoạt. Nào mặc áo quần vào đi và nhớ thảo một kế hoạch.

    V
    Một tháng sau, Boris Bodnariuk đã đến ga Bucarest. Hắn là một vị tướng, nhưng là một vị tướng không quân phục. Hắn là một vị chỉ huy tối cao của lực lượng Sô Viết đằng sau phòng tuyến Đức quốc, nhưng lực lượng đó không hiện hữu, chính hắn phải lập nên. Các yết thị ở ga xe lửa báo tin là quân Đức đã gần đến Mạc Tư Khoa. Boris mỉm cười :

    - Nếu quân Đức tàn sát chủ lực quân Sô Viết, họ vẫn còn phải vất vả lắm với bộ đội bí mật do mình lập nên.

    Hắn đi về phía khách sạn. Ngày hôm sau, hắn ra đường với bộ đồng phục mang cấp bực đại úy Lỗ Ma Ni và bắt đầu thành lập kế hoạch tạo dựng một đội quân bí mật.

    Lúc đầu, hắn gặp toàn là trở ngại. Hình như nhiệm vụ của hắn không thể nào thực hiện được. Hắn đi khắp các nước, gặp hầu hết các tổ chức. Thật quá khó, trên hai chục triệu dân Lỗ Ma ni, chỉ có tám trăm đảng viên cộng sản, tám trăm người đó lại bị theo dõi chặt chẽ. Không thể nào cộng tác với họ được. Ở Hung Gia Lợi, ở Bảo Gia Lợi, và Tiệp Khắc tất cả đều như thế cả. Đảng cộng sản khá nhất lại ở tận vùng núi của Cộng Hòa Serbie. Đó là những đảng viên của thống chế những người Slaves miền Nam. Lại càng không thể cộng tác với ông ta được, ông ta là một kẻ quá kiêu ngạo. Như thế trong nhiều tháng, Boris không thể hoạt động gì hơn đuoc ngoài một vài vụ khủng bố không đáng kể.

    Boris Bodnariuk trở về phòng như mọi đêm. Đã gần khuya, hắn muốn đánh một mật điện, nhưng lúc hắn vừa mở máy thì đã có tiếng còi báo động. Vội vàng mặc áo, hắn bỏ ra đường, thường là hắn muốn chứng kiến những kết quả của cuộc oanh tạc, vì đa số bom Sô Viết thả đều không nổ. Boris bước vào quán cà phê. Vừa nghe tiếng động cơ rền, Boris vừa đoán những mục tiêu oanh tạc. Khách hàng nhìn bộ quân phục Lỗ Ma Ni trên người Boris và mỉa mai về những trái bom Sô Viết không hề nổ bao giờ. Boris quay đầu lại và trông thấy một người đàn bà say rượu đang cầm một ngọn đèn bấm. Bà muốn đi ra ngoài, nhưng đã có lệnh không ai được đi trên đường phố lúc có oanh tạc. Nhưng bà không muốn nghe theo, vừa chửi thề vừa bước ra đường phố.

    Viên chủ quán muốn phân trần với Boris, vì trong thời chiến vị sĩ quan nào cũng được xem là đủ tư cách để đại diện cho chính quyền.

    - Bà đó là một người tôi tớ, ở cách đây chừng 20 thước. Bà luôn luôn say rượu, có lẽ vì quá buồn phiền. Trước đây bà ở cho một nữ nghệ sĩ Do Thái, lúc nàng bỏ đi, bà không muốn đi làm công cho ai nữa. Bao nhiêu tiền dành dụm được, bà đem đi uống rượu suốt ngày.

    Boris lơ đãng nghe người chủ quán kể chuyện không có gì hào hứng cả, vì đó là một chuyện thường tình như trăm ngàn chuyện khác.

    Có tiếng bom nổ ở gần đây. Cửa kiến rung lên. Nhiều trái khác rơi gần hơn, một căn nhà bị thiêu hủy, rồi tiếng xe cứu hỏa. Khách hàng đã trốn xuống hầm trú ẩn. Boris sực nhớ đến máy phát thanh của hắn và vội vã bỏ đi. Nhà hắn ở trước mặt nhưng đã có lính và cảnh sát vây kín.

    Họ chưa vào lục soát trong nhà. Ngay lúc đó, một trái bom nổ ngay ở khách sạn của Boris. Những căn lầu trên sập xuống. Nhà cháy, nhiều tiếng kêu la hỗn độn mọi người ồ ạt đổ ra đường. Boris đứng bất động hắn chỉ nghĩ đến bộ máy phát thanh của hắn, bởi nếu không có đám cháy, nếu căn nhà không bị hủy, bộ máy đó sẽ rơi vào tay kẻ thù và hắn sẽ tức tốc bị lộ tung tích ngay, nhưng may mắn thay không ai để ý đến gì được cả trong bóng tối đầy chen lấn và la hét ầm ĩ.

    VI
    Trong đám đông có kẻ la lên:

    - Người ta đã bắt được một số gián điệp Sô Viết. Boris sợ toát mồ hôi, hắn đứng như dán lưng vào tường, núp sâu trong bóng tối. Hắn đặt bộ máy phát thanh trong phòng. Nếu hệ thống đó bị phát giác, thì hành tung bí mật của Boris bị bại lộ, công tác của hắn đành chấm dứt. Hắn sẽ bị bắt và bị xử tử.

    Boris trà trộn vào đám đông. Lúc còi báo động chấm dứt thì một hàng rào cảnh sát đã có trước cổng ra vào. Đội cứu hỏa mang xuống một người đàn bà già nua trên băng ca. Đám đông thấy Boris mang y phục sĩ quan bèn nhường chỗ cho hắn đi ngay. Thế là Boris đành phải đứng cạnh hàng rào cảnh sát và cạnh băng ca người đàn bà bị cháy. Viên biện lý tòa án quân sự đã lập biên bản xong:

    - Ngay sau khi báo động người ta đã cho chúng tôi biết là có một người làm hiệu bằng đèn bấm trên lầu căn nhà nầy. Chúng tôi đã đến tận nơi ngay, nhưng lúc đó, bom đã trút xuống căn nhà. Người làm hiệu đã chết trong đống gạch vụn, tay vẫn còn cầm cây đèn.

    Viên cảnh binh chỉ người đàn bà nằm trên cáng:

    - Không còn nghi ngờ gì nữa, chính là bà nầy đã ra dấu cho máy bay.

    Người gác dan rẽ đám đông đi vào, trả lời ngay :

    - Đúng là Tinka Neva, tôi biết bà ta rõ lắm. Bà thuê một căn trong nhà nầy.

    Boris nhìn kỹ người chết. Đúng bà già hắn đã thấy ở quán lúc mới có báo động, trong lúc người gác dan giải thích tiếp.

    - Đó là một người ở của một gia đình Do Thái, gia đình Thall. Sau khi bà chủ đi, Tinka ở lại trong căn nhà và luôn luôn say sưa. Đúng là Tinka Neva rồi đó.

    Trong lúc cảnh sát rọi đèn để xem rõ mặt Tinka, người gác dan quả quyết:

    - Tôi biết chắc là bà ta không phải cộng sản. Không ai nghĩ Tinka là cộng sản, ai cũng tin là bà chỉ là một người say rượu không hơn không kém.

    Boris nhìn kỹ mặt viên biện lý tòa án. Hắn nhớ đến trường võ bị Hoàng gia, và giật mình, người nầy chính là bạn cũ của hắn năm xưa, đúng là Pierre Pillat. Hắn bước đi lập tức, và trà trộn ngay trong đám đông. Mọi người đang bàn tán về Tinka Neva như là một nữ gián điệp cộng sản. Boris lắng nghe những câu chuyện đang trao đổi :

    - Nếu bà ấy không phải là gián điệp cộng sản thì tiền đâu mà bà ấy uống rượu suốt ngày như thế được?

    Một giọng nói quả quyết :

    - Cứ mỗi lần có báo động, Tinka Neva lại lên mái nhà. Tôi đã để ý đến cái đèn quá lớn đó của bà ta, đúng là đèn ấy đã làm hiệu cho máy bay Sô Viết.

    Boris cố nhớ lấy cái tên Tinka Neva, mà hắn mới nghe lần đầu. Trong hai danh sách đảng viên cộng sản ở Bucarest, không có ai có mang tên Tinka Neva, nhưng đám đông vẫn cứ bàn tán về bà ấy, làm Boris lại nhìn kỹ một lần nữa người đàn bà đó, trong lúc Pierre Pillat nói với cảnh sát:

    - Tinka có thể là một điệp viên Sô Viết, nhưng cũng có thể chỉ là trường hợp lẩm cẩm của một người đàn bà già nua và say sưa. Tôi có biết Tinka Neva, nên riêng tôi không tin bà ấy là một nhân viên Sô Viết. Chúng ta cứ cố tìm ra ánh sáng xem sao. Chúng tôi sẽ lập biên bản vụ nầy.

    Boris bước lên phòng, mọi vật còn y nguyên, chỉ trừ những căn phòng ở phía Bắc đã bị phá hủy. Nhưng trong nhà hắn, bức tường không hư hại, bộ máy phát tin vẫn còn tại chỗ, tiền bạc giấy tờ cũng không hề mất mát. Trong chốc lát, vừa cởi áo, Boris vừa nghĩ đến người bạn đồng học, Pierre Pillat, nay đã trở thành biện lý tòa án quân đội, nghĩ đến người đàn bà mang tên Tinka Neva cùng những lời bàn tán sự việc vừa xảy ra. Trước mắt hắn, xuất hiện một người đàn bà nhân công với bộ mặt đầy nét nhăn, nhợt nhạt, với đầu tóc bạc phơ mang chiếc khăn tay cột tận cổ, và Boris thầm nghĩ:

    - Đúng là bộ mặt muôn đời của một công nhân. Ngay cả nếu bà ta chỉ cầm đèn lên lầu vì vô tình hay vì say sưa, hành động của bà vẫn có một giá trị từ đó mình có thể tạo ra một huyền thoại.

    Boris nghĩ đến các hoạt động bí mật của mình, đến sự bất động của quần chúng, cùng sự hững hờ của giai cấp công nhân. Hắn cho là quần chúng Âu Châu cần có những anh hùng mới thức tỉnh được, mới dấn thân được, cũng như thuyền cần đến cánh buồm vậy.

    Cho nên hắn viết ngay một bản phúc trình bằng một giọng văn rắn rỏi. Hắn nói đến những người vô sản đang bị giai cấp trưởng giả phát xít ở Âu Châu đàn áp, nói đến Hồng quân đang chờ dịp để giải phóng công nhân. «Tinka Neva, một nữ công nhân già nua thất nghiệp đã lâu đang ở tại Bucarest, đường Apolodor, số nhà 165, vì quá đau khổ nên ban đêm đã cầm đèn lên mái nhà làm hiệu cho máy bay Sô Viết đến giải phóng tổ quốc. Bà ta đã chết ngay trên nóc nhà cao, nhưng bà đã chứng tỏ sức mạnh phi thường của giai cấp thợ thuyền đã tranh đấu chống lại xã hội trưởng giả và phát xít. Bà đã nêu gương sáng cho công nhân toàn thế giới. Tinka Neva là một nữ anh hùng, là vị thánh tử đạo, là vị đại diện cho giai cấp thợ thuyền.»

    Boris Bodnariuk viết rất dài, đó là bản phúc trình dài nhất của hắn từ khi hắn rút lui vào bóng tối để hoạt động. Cho nên, lúc trời sáng, bước xuống đường, bắt chuyện với người gác dan, với người lối xóm, Boris mừng rỡ thấy mọi người tin chắc Tinka là một nhân viên Sô Viết, nếu không thế thì tại sao bà ấy lại lên mái nhà làm hiệu cho máy bay địch. Boris gởi ngay bản phúc trình đi Ankara và từ đó đến Mạc Tư Khoa, tất cả báo chí thế giới đều dành những cột lớn để kể lại cuộc tranh đấu anh hùng của Tinka Neva, chỉ một mình bà đã dẫn đạo cuộc chiến đấu chống quốc xã, chống phát xít, chống tất cả mọi kẻ thù để dành lấy tự do.

    Nhờ thông tấn xã TASS và báo chí Hoa Kỳ, Tinka Neva trong một tuần đã trở thành cái tên quen thuộc của thính giả bốn phương. Bà đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các bài nói về tranh đấu và tự do. Tinka Neva trở thành ngọn cờ cho những quốc gia đồng minh.

    VII
    Trong lúc mà xã hội văn minh Tây phương nói về Tinka Neva như là một tượng trưng cho tự do, trong lúc mà các nhà soạn nhạc, các tác giả báo chí dùng tên bà như là một vị nữ thánh và các tập san đã dùng những số tiền khổng lồ để kiếm cho ra một bức ảnh của vị anh hùng chống phát xít đã chết trên mái nhà trung tâm thành phố, thân thể của Tinka Neva được chở đến nhà xác của thủ đô Bucarest. Ở đó người ta lột hết áo quần bà, khám da, khám tóc, khám đến những móng tay. Ở đó người ta cắt xác Tinka Neva thành từng mảnh nhỏ ở trên bàn khám nghiệm tử thi. Người ta cặm cụi xem từng miếng gan, trái tim, bộ óc, buồng phổi của bà, người ta đem từng bộ phận ra cân, cân xong lại đem nấu, pha máu, bỏ vào ống nghiệm. Chết đã ba ngày, thân thể Tinka vẫn trần truồng, vẫn còn bị cắt thành từng miếng trong phòng khám tử thi. Một người đàn bà sợ các thứ giấy tờ, sợ các cơ quan công quyền, một người đàn bà suốt 60 năm chưa hề bước chân lên cân bao giờ, bây giờ lại bị người ta cắt từng mảnh cơ thể bỏ lên cân, cân gan, não tủy, cân tim đã ngừng đập, bị người ta soi mói tất cả những gì bà đã có trong bao tử, trong ruột non, trong bọng đái, tất cả những gì bà đã ăn, đã uống. Trong lúc cơ thể bà bị lột trần như thế thì tên bà lại đuoc nhắc nhở trên khắp tất cả đài phát thanh bằng tất cả ngôn ngữ của loài người, tên bà được loan đi trên khắp các làn sóng điện, cho nên nếu bà còn sống biết được cuộc phiêu lưu bẩn thỉu đó, bà cũng sẽ chết mất vì hổ thẹn.

    May thay Tinka Neva đã chết, đã không còn biết những gì đang xảy ra trên trái đất nầy nữa. Sau khi chết đi, chắc chắn bà bước lên ngưỡng cửa thiên đàng, nơi đó, có thánh Pierre đang cầm chìa khóa nơi tay. Suốt đời, Tinka đặt hết tin tưởng vào trời đất, tin có địa ngục, tin có thánh Pierre. Cho nên sau khi chết đi, bà cũng chỉ biết có thánh Pierre thôi. Và nếu ngài hỏi bà «Tinka Neva, con có ý định gì khi con cầm đèn lên mái nhà lúc đang có còi báo động?», thì bà cũng sẽ thản nhiên trả lời: «Con không lên mái nhà, thưa ngài, con chỉ lên lầu thượng, vì muốn vào phòng con ở bên kia, con phải đi ngang qua lầu thượng. Một người đàn bà già nua như con muốn đi trong đêm tối phải cầm đèn, nhưng con không ngờ là chính lúc đó, máy bay oanh tạc trông thấy con».

    - Thế con có uống rượu không?

    Nghe câu hỏi đó, Tinka hơi cúi đầu và trả lời:

    - Nếu con không uống rượu, con đã không cầm đèn đi như thế.

    Và bà sẽ nói thêm:

    - Thưa ngài, con uống vì buồn phiền quá. Sau khi chủ con, cô Eddy Thall bỏ đi, con đã khóc bao nhiêu ngày đêm, nên con đã uống rượu để giải sầu, con không uống vì trác táng, thưa ngài con chỉ uống vì buồn phiền thôi...

    Cho nên, nếu Tinka gặp được thánh Pierre ở bên kia thế giới như bà hằng ao ước lúc còn sống, ngài sẽ đặt bàn tay thân yêu lên vai bà và sắp bà vào hạng những kẻ khốn khổ nhưng tâm hồn trong sạch, vì thật nếu có một cõi thiên đàng thì cõi đó phải được dành riêng cho họ. Tinka Neva cũng sẽ được giảm tội, cái tội đã làm cho hai người bị dập nát trong cuộc dội bom thành phố Bucarest.

    VIII
    Eddy Thall chưa lành bệnh hẳn, Ivan đành ngủ ở phòng làm việc để nhường giường cho nàng, hắn trở thành y tá riêng cho nàng và săn sóc nàng như săn sóc một người em gái, hắn đau khổ không ít khi thấy nàng ho ra máu dính cả lên gối. Nhưng hắn giấu hết mọi việc, bởi nếu hắn khai rằng Eddy bị bệnh, nàng sẽ bị chuyển sang bệnh xá, và một lúc đã vào đó, không ai có thể sống sót được, cứ mỗi ngày người ta lại khiêng ra ngoài chừng mười xác chết trần truồng và vứt vào hố công cộng. Cho nên Ivan vẫn khai với thượng cấp là Eddy lo việc quét tước cho văn phòng để đợi ngày toàn thắng. Mỗi ngày hắn mang tin chiến trận cho Eddy. Một hôm, hắn bảo :

    - Quân đội Sô Viết đã chiếm Bucarest.

    Thật là một biến cố lớn lao đối với Eddy, nên nàng khóc lên vì sung sướng. Nhưng chiến thắng vẫn chưa đến, vì còn một số các nước khác cần chinh phục. Tuy nhiên tù nhân vẫn còn nuôi hy vọng. Hàng ngàn người Do Thái hùng hục làm việc trên mảnh đất băng giá nầy, gồng gánh, đẩy những toa xe chở đầy quặng sắt. Mọi người trong hàng ngàn người đó đều có cảm tưởng mình là một người lính đang chiến đấu trong hàng ngũ của 52 quốc gia cho vinh quang và tự do. Cho nên dù cho thân thể đã già nua, đầy mụt nhọt và chí rận còn bị hành hạ bằng lạnh lẽo và đói khát, mọi người đều tự khuyến khích mình bằng niềm hy vọng đó, như là trên một cuộc hành trình tuyệt vọng, người ta vẫn vỗ về con ngựa bằng mấy tiếng : Nào, cố lên chút nữa, chút nữa, xem...».

    Một đêm nọ, Eddy Thall nằm mơ thấy Tinka Neva, rồi Lidia Petrovici và bà Debra Paternik. Đất bỗng nứt ra, và các nắp hầm mở rộng. Người Do Thái choàng hết dậy để mừng chiến thắng. Esther và Rebecca mặc lễ phục bồng bềnh trên sóng của biển Đen. Trên bệ cao, Churchill, Roosevelt và Staline đang mỉm cười tuyên dương công trạng những kẻ đã sống dậy từ lòng đất, từ biển cả, từ trong những đống tro tàn, những kẻ đã liều mình đóng góp cho vinh quang. Churchill hút xì gà và Roosevelt mang cà vạt màu vàng chói. Họ ngồi chễm chệ như những vị thánh có hào quang chói sáng để ngỏ lời cùng người Do Thái rằng: «Các bạn đã chiến đấu trong các hầm mỏ, trong ngục tù, trong sa mạc cho thắng lợi chung».

    Thực là một giấc mơ đẹp, Eddy muốn mơ mãi như thế, nhưng Ivan đã la lên đánh thức nàng dậy.

    - Chiến thắng đã đến rồi. Chúng tôi được lệnh để cho tất cả người ngoại quốc trở về tổ quốc của họ. Mọi người chỉ làm một tờ đơn và sau đó có thể tự do về nhà.

    Eddy Thall nức nở khóc :

    - Trời, chiến thắng... Tôi biết thế nào ngày đó cũng đến, tôi đã mong ước bấy lâu nay. Hàng triệu người đã mong ước bấy lâu nay, và bây giờ, ngày đó đã đến...

    Nàng muốn trở dậy. Nhưng Ivan đã yêu cầu nàng nằm yên, để hắn đi nạp đơn dùm cho nàng. Eddy Thall vừa khóc vừa bảo hắn :

    - Tôi muốn chính tay tôi viết đơn xin trở về cố hương. Ông để tôi tự mặc áo lấy một mình.

    Thế là Ivan đành bỏ ra ngoài.

    Eddy bước đến tấm kính treo trên tường, đau khổ thấy từng sợi tóc của mình đã bạc. Nàng nghĩ: «Đối với người đàn bà đau khổ, có lẽ những sợi tóc chịu ảnh hưởng nhiều nhất. Đầu tóc óng ánh nơi một người đàn bà sung sướng sẽ mất vẻ tinh anh đó ngay, lúc nào đau khổ bắt nàng phải gánh chịu». Eddy nhìn đầu tóc mình và nghĩ:

    - Biết là thế nào tóc cũng bạc nhưng mình không ngờ tóc mình bạc nhanh và nhiều đến thế.

    Rồi vừa chải đầu, nàng vừa an ủi: «Mình cứ chải đi, rồi chúng sẽ xanh lại cho mà xem».

    Nàng lại ngắm đôi mắt. Cũng như xưa nhưng bây giờ mắt nàng đã mất vẻ tinh anh. Nàng đúng là một Eddy Thall thường hay diễn kịch thời xa xưa, nhưng bây giờ ánh mắt không còn là của nàng nữa. Ánh mắt của một người đàn bà đau khổ không còn tinh anh mà chỉ rõ ràng là tính toán và khô cằn như đất cát, mắt của một người đàn bà đau khổ thật chẳng khác gì một mảnh đất hoang vu mà hoa đã tàn, cỏ đã héo, sông rạch cũng đã khô khan. Như đôi mắt của Eddy Thall bây giờ, sau bao năm đau khổ. Nàng nghĩ đến một loạt bài đăng ở tờ báo La Pravda với 6 triệu người Do Thái đã bị quốc xã đốt cháy. Nàng vẫn còn là một kẻ được ưu đãi, bởi lẽ nàng còn sống để nhìn ngày chiến thắng. Mắt nàng không còn tinh anh nhưng ít nhất cũng còn nhựa sống. Mười hai triệu con mắt đã bị đốt cháy để vĩnh viễn không thấy ngày chiến thắng. Ngoài mười hai triệu đó ra còn biết bao nhiêu cặp mắt khác nữa, cặp mắt đen Hy Lạp, cặp mắt người Pháp trong sáng, mắt xanh của người Na Uy, Đan Mạch, Hòa Lan, Ý Đại Lợi, bao nhiêu cặp mắt bị tàn phá, đốt cháy để không bao giờ trông thấy ngay chiến thắng. Eddy Thall bỗng thầm cảm ơn số mệnh, bởi vì cho dù nét nhìn đã tàn úa, đôi mắt nàng vẫn còn để nhìn ngày giải phóng.

    Nhìn quầng thâm quanh mắt, Eddy Thall bỗng so sánh vòng mắt như hai nấm mồ chôn sâu đôi mắt. Trán nàng cũng đã nhăn nheo, những nếp nhăn sâu như vết dao đâm không hy vọng bóng láng trở lại, những nếp nhăn tràn xuống quanh môi, quanh cằm, quanh cổ nàng.

    Eddy Thall ngửng đầu lên. Ngay lúc đó, một tràng ho dài làm khăn tay nàng lấm chấm máu đỏ. Nhưng nàng không còn sợ hãi nữa, bởi bệnh lao còn có thể chữa trị. Điều chính yếu là ngày chiến thắng đã đến. Nàng nghĩ đến những ngọn đồi đầy thông ở Lỗ Ma Ni. Nhưng sự thực bây giờ vẫn qua khung cửa kính, cũng chỉ là hàng rào thép gai với từng đống quặng sắt, người nữ tù vẫn kêu khóc vì bị tên cai ngục đánh đập. Eddy Thall muốn cởi áo nhìn kỹ thân thể mình. Vú nàng đã mềm xèo, xệ xuống như những trái cây đã quá chín trên cành. Xương đòn gánh lòi ra, thân thể nàng móc vào đấy như một chiếc áo treo vào một cái móc quá rộng lớn.

    Eddy mặc chiếc áo lính rộng thùng thình, bất giác buồn rầu nhớ lại những áo lụa mềm ngày xưa. Thật nàng không biết nàng bây giờ đang ở đâu.

    Ivan đã đem giấy bút vào, Eddy nằm dài lên giường. Ivan đã viết sẵn và đọc cho nàng viết. Eddy chú ý đến câu cuối: «Tôi xin ông chấp thuận cho tôi trở về Lỗ Ma Ni». Nàng đưa tay ký bên dưới : Eddy Thall. Cũng là chữ ký ngày xưa. Chữ ký làm nàng nhớ đến cây bút đã mất ở Kichinev, nhớ đến những đồ vặt vãnh của nàng ngày trước, mỗi thứ hiện ra trong trí nhớ như những thớ thịt của chính nàng. Vào những lúc nguy hiểm, nàng đã để lại hoặc đánh mất hết những đồ vật kỷ niệm, như những con nai bị săn đuổi vừa chạy trốn, vừa để lại những mảnh thịt rải rác đó đây nhưng hệt như những con nai, vì quá sợ hãi và quá lo thoát thân, nàng không hề cảm thấy khổ đau. Nên bây giờ, lúc rảnh rỗi nàng mới có dịp nhớ lại tất cả cùng với những giọt máu từ hai buồng phổi bệnh hoạn của nàng, nhớ đến cả cái kéo cắt móng tay, đến làn lược mạ bạc. Bây giờ cả đến bàn chải đánh răng nàng cũng không còn. Bao nhiêu gian khổ đã qua, nàng đã quên khuấy đi là nàng đã mất mát quá nhiều nhưng bây giờ, lần đầu tiên, nàng mới thấy rõ là nàng không còn gì trong tay nữa cả.

    Nàng phải đứng dậy, dựa vào cánh tay của Ivan lần đến bàn giấy để đưa đơn xin hồi hương càng sớm càng tốt.

    Ở ngoài lều, hàng trăm người đang sung sướng chờ đợi nạp giấy hồi hương. Phần đông là những người còn trẻ, bởi vì hầm mỏ đã nuốt hết những người già cả và bệnh tật. Eddy Thall vừa húng hắng ho vừa nghĩ thầm: «Mình cũng thế, mình còn khỏe và trẻ nên mới sống sót đến bây giờ. Nàng nắm chặt mảnh giấy trong đó có câu chính nàng viết: «Tôi xin ông chấp thuận cho tôi trở về Lỗ Ma Ni...».

    IX
    Sau bao nhiêu là chờ đợi, bỗng một hôm người ta nhận được lệnh chỉ cho hồi hương những ai gốc Ba Lan, còn tất cả những đơn xin khác đều bị hủy bỏ, những tù nhân khác phải ở lại Sô Viết.

    Lúc đầu, Eddy không muốn tin, dần dần nàng muốn chống đối. Sau cùng, nàng ngã lên giường vừa ho vừa khóc. Hỏi ai bây giờ, hỏi bức tường, hỏi chính nàng, hỏi Ivan?

    - Người ta còn giữ tôi lại đây bao lâu nữa?

    Ivan căn nhắc từng chữ lúc trả lời cho Eddy :

    - Thật may mắn cho cô nếu cô được ở lại đây. Vâng, không có gì nguy hiểm nếu cô được ở lại đây. Ngày mai tôi phải đi xa, đi đến một doanh trại ở Sibérie. Chúng tôi cũng như lính tráng, phải đi bất cứ nơi nào mà người ta thuyên chuyển.

    Eddy la to :

    - Ông đi đâu thì đi, tôi chỉ muốn biết một điều duy nhất là người ta sẽ giữ tôi lại đây bao lâu nữa.

    - Cô nên nhớ là cô đang được ở trong phòng của một người gác dan. Ngày mai sẽ có người khác đến thay tôi. Cô hiểu chưa?

    Eddy sợ hãi nhìn hắn. Hắn vẫn nói:

    - Có nhiều vấn đề còn quan hệ hơn cả chuyện hồi hương nữa. Người thế tôi sẽ dọn nhà đến đây ngày mai. Rồi cô làm gì nữa đây?

    Cầm mũ đứng dậy, Ivan giải thích thêm:

    - Nếu cô phải vào làm việc ở hầm mỏ, cô sẽ chết trong vài tuần. Chết, hoàn cảnh cô như thế đó, cô hiểu chưa? Cho nên cô có cần tôi nói với người thế tôi giữ cô ở lại đây hay không?

    Những điều hắn vừa nói làm hắn khổ tâm nhưng hắn phải nói:

    - Tôi có thể nói với anh ta điều đó, nhưng cô phải thông cảm cho tôi. Anh ấy sẽ ngủ trong phòng, chứ không ngủ ở bàn giấy để nhường chỗ cho cô như tôi đâu. Nào nói đi, cô muốn làm gì đây?

    Eddy Thall đứng dậy. Nàng hết cả chóng mặt, hết cả mệt mỏi, hết cả nóng sốt. Nàng vội vã mặc áo quần. Ivan hỏi tiếp:

    - Sao, cô quyết định thế nào?

    Nhưng Eddy không trả lời, nàng tiếp tục mặc áo quần vội vã như là nhà sắp cháy.

    - Cô muốn ở với anh ta hay vào hầm mỏ, chọn lựa đi chứ!

    Eddy đến trước mặt Ivan, mím môi, mặt đanh lại và thản nhiên trả lời:

    - Tôi muốn chết.

    Sau đó, nàng chạy trốn khỏi căn phòng, bỏ đằng sau lưng Ivan, bỏ đằng sau lưng nàng những bức tường có treo những tấm hình cắt trên báo, chiếc giường nằm, bỏ luôn câu nói sau cùng của nàng: «Tôi muốn chết».

  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    X
    Eddy Thall cắm đầu chạy giữa những cột dăng dây thép gai, trong gió lạnh như cắt. Tay ôm ngực, nàng chạy mải miết không còn suy nghĩ gì nữa cả, đề cuối cùng ngã lăn trên đống than giá lạnh trong cơn họ không dứt.

    Có người đến gọi tên nàng và mang nàng đi:

    - Tại sao cô khóc.

    Eddy tỉnh dậy, thấy mình nằm trên giường trong một căn lều xa lạ, bên cạnh là hai tù nhân, một Bác sĩ và một sỉ quan tiếp liệu.

    - Tại sao cô khóc?

    - Tại vì tôi là người Do Thái.

    - Thì chúng tôi cũng Do Thái vậy.

    - Nhưng tại sao người ta lại gởi tôi vào hầm mỏ sau ngày chiến thắng? Hàng triệu người chết để làm gì nếu kẻ nô lệ không được giải phóng sau ngày chiến thắng. Tại sao Churchill uống rượu tươi cười trước các nhà nhiếp ảnh?

    Viên y sĩ an ủi:

    - Cô hãy bình tĩnh, chúng ta sẽ được giải thoát.

    Eddy Thall vẫn hằn học:

    - Người ta không thể trả tự do cho những xác chết.

    - Tôi sẽ chích cho cô một liều thuốc, cô sẽ bình tĩnh lại ngay.

    Nghe viên y sĩ nói thế, đề nghị của Ivan để nàng sẽ trở thành người tình của tên gác dan bèn hiện về trong trí óc nàng. Trong một thoáng nàng ôm đầu chạy ra cửa, vừa hằn học vừa trả lời viên y sĩ:

    - Tôi không muốn chích vì tôi không muốn bị chà đạp, bị đánh đập, bị nhục nhã. Tại sao lại chích thuốc cho tôi mới được chứ. Tôi không muốn bị ô uế. Mà chích làm gì?

    Nhưng nàng chưa chạy đến cửa thì đã ngã xuống với một cơn ho dài, miệng đầy máu. Sự ấm áp độc nhất nàng cảm thấy lúc đó là sự ấm áp của chính những giọt máu trong cơ thể nàng.

    Viên y sĩ chích thuốc xong, nàng mở mắt đứng dậy. Lúc đó nàng mới nhận chân được rằng ngoài chính máu huyết của nàng còn có một sự ấm áp khác trong cuộc đời nô lệ của nàng, đó là máu của đồng bào nàng. Viên y sĩ lên tiếng:

    - Chúng tôi có một tổ chức chuyên lo cứu giúp đồng bào Do Thái ở các xứ khác. Chỉ có những người Do Thái gốc Ba Lan là có thể trở về cố hương bằng chuyến công voa sắp đến. Chúng tôi có thể mang các bà vợ chúng tôi đi theo. Vậy cô có muốn giả vờ kết hôn với người Do Thái Ba Lan để có thể chính thức từ giã nơi đây không?

    Eddy tròn xoe mắt ngạc nhiên, trong lúc viên y sĩ giải thích tiếp:

    - Hàng trăm người đàn bà Do Thái gốc Lỗ Ma Ni, Hung Gia Lợi, Bỉ, của mọi quốc tịch khác nhau có thể rời bỏ nơi đây bằng cách đó. Bạn tôi là Isaac Salomon đang còn độc thân. Cô có thể giả kết hôn với anh ấy để ra đi. Nào, cô có bằng lòng không?

    Eddy Thall ngạc nhiên:

    - Xin ông làm ơn lập lại câu hỏi?

    - Chỉ là một thủ tục giản dị để từ bỏ nơi đây. Mỗi người Do Thái Ba Lan có thể mang theo một người vợ đang ở trong hầm mỏ.

    Eddy lại khóc.

    - Tại sao cô còn khóc?

    - Từ lâu không ai hỏi tôi rằng tôi có bằng lòng không. Đây là lần đầu tiên, từ bao năm nay, tôi nghe được câu hỏi đó. Mọi người buộc tôi làm mà không hề hỏi ý kiến tôi bao giờ. Không bao giờ người ta hỏi xem một tên nô lệ thử nó có bằng lòng hay không. Cho nên nếu còn ai đặt cho tôi câu hỏi đó, nghĩa là tôi không còn là kẻ nô lệ nữa. Vâng, tôi bằng lòng, bằng lòng, bằng lòng.

    XI
    Eddy Thall kết hôn với Isaac Salomon và trở thành công dân Ba Lan để chờ ngày hồi hương.

    Lúc mới bị bắt sang Nga, Isaac Salomon là một sinh viên còn trẻ nhiều tình cảm, Salomon cũng như Eddy và hàng ngàn người Ba Lan khác đã được chở đi từ trại tập trung nầy sang trại tập trung khác, nhưng ngày hồi hương vẫn chưa thấy đến. Đám cưới được cử hành trong trại tập trung trong những ngày tháng chờ đợi hồi hương. Thế mà ngày hồi hương không thấy đến, mà điều cặp vợ chồng đó thấy trước tiên lại là một đứa con. Eddy Thall trở nên mẹ một đứa bé tên là Orly, tiếng Do Thái có nghĩa là «Ánh sáng của tôi». Mà thật vậy, trong những ngày tháng chờ đợi, Orly đúng là một thứ ánh sáng cho họ. Vì lúc Orly được bốn tháng, họ cũng vừa được trở về Ba Lan, sau sáu năm trời sống chui rúc trong các hầm mỏ. Cũng như mọi người công dân Ba Lan, Eddy ôm con vào lòng cùng với những giọt nước mắt sung sướng khi đặt chân lên mảnh đất quê hương.

    Tất cả tù nhân lúc trở về xứ đều quên hết những nhọc nhằn đã qua, Eddy cũng thế, nàng tự nhũ là diễm phúc lắm nàng mới được trở thành người dân Ba Lan, bởi lẽ trong lúc những người khác còn ở trong hầm mỏ, nàng lại đặt chân đến Varsovie để sống với cha mẹ chồng con.

    Từ bao nhiêu năm nay, đây là đêm đầu tiên mà đôi vợ chồng Salomon được sống trong một căn phòng tuy nhỏ và nghèo nhưng không có kẽm gai bao quanh và lính canh trước cửa. Tuy nhiên, cô của Salomon vẫn còn khuyên nhủ:

    - Hai con đừng nói với ai các con là người Do Thái. Cần phải cẩn thận lắm đấy. Bởi vì mỗi sáng, người ta vẫn còn chứng kiến cảnh người Do Thái bị ám sát chết ở ngoài đường, ở trong sân nhà, khắp nơi ở Ba Lan.

    Trong căn phòng ấm cúng xinh xắn đó, Orly đang ngủ; trên bàn có cây đèn cồn để pha trà, chiếc giường ngủ tuy nhỏ nhưng không phải là chiếc giường của tù nhân, cho nên mặc dù người cô của Salomon vừa pha trà vừa lập đi lập lại: «Các con cần phải cẩn thận lắm mới được», đôi vợ chồng Salomon vẫn cảm thấy thoải mái hơn bao giờ hết.

    Salomon thắc mắc:

    - Thế thì người ta chưa loại bỏ hết phát xít sao? Chính phủ ta đang làm gì nhỉ?

    - Ba Lan là một quốc gia khốn khổ. Quốc xã ra đi chỉ để lại đây toàn là những đổ nát. Vài bước lại có một nấm mồ. Đúng là một nghĩa địa mênh mông, mà người Nga lại còn đặt chân đến, và lấy hết những gì còn sót lại, lấy từ những đường xe lửa, những bếp lửa cho đến cả tuổi trẻ đầy nhựa sống của dân Ba Lan.

    - Nhưng tại sao chính phủ vẫn dung túng chuyện giết chóc người Do Thái?

    - Ấy, các con phải cần thận lời ăn tiếng nói chứ, nguy hiểm lắm đó.

    Isaac Salomon đứng dậy, không buồn cầm tách trà. Anh biết rằng Ba Lan nghèo nàn, rằng người Nga bóc lột tất cả những gì quốc xã còn để lại, nhưng anh không hiểu nổi tại sao người ta còn giết người Do Thái, bởi ở đây có những bộ trưởng Do Thái, những sĩ quan gốc Do Thái, những uỷ viên chính trị cao cấp cũng gốc Do Thái. Và anh được người cô giải thích ngay:

    - Người Ba Lan đói kém đã từng bị lưu đày sang Nha, đã từng trốn tránh. Bây giờ họ biết là chính quyền Ba Lan do người Nga lập nên đều là người Do Thái, họ ngỡ là dân Do Thái lạm quyền và tàn ác, nhưng đáng lý phải trả thù người Nga, thì họ lại đổ hết tội lên đầu người Do Thái, bởi vì như thế dễ dàng hơn. Cho nên các con phải cẩn thận là tại vì thế, nguy hiểm lắm.

    Isaac Salomon vẫn không tin những điều bà cô giải thích:

    - Cô đã quá sợ lũ phát xít, sợ luôn cả cái bóng chính mình nữa, cho nên cô đã nói quá đáng, ngày mai sẽ biết đâu là sự thật. Con thì tin là lũ phát xít hay lũ mật vụ quốc xã chưa bị thanh toán hết.

    Chúng ta hiện đang có một chính quyền bù nhìn thân Sô Viết, nhưng ít nhất đó cũng không phải là một chính quyền phát xít.

    Orly khóc đêm. Cả hai vợ chồng nhìn kỹ con, nhìn kỹ đôi má hồng hào, nghe tim đứa bé đập nhanh hơn thường lệ. Salomon bảo vợ:

    - Orly mới có bốn tháng, dĩ nhiên là nó phải mệt và sốt sau một chuyến đi xa. Nhưng chắc là nó không bị ốm đau. Để anh đi kiếm cái cặp thủy xem sao.

    Eddy ôm con vào lòng, nựng con bằng mấy tiếng Lỗ Ma Ni, gọi nó là «Luminitza» nguồn ánh sáng của mẹ. Nhưng Orly vẫn khóc. Isaac kiếm không có nhiệt kế, nhưng vẫn hớn hở:

    - Có bác sĩ ở trong căn nhà nầy rồi, ở từng thứ sáu. Chúng mình đem con lên khám thử xem. Rồi em sẽ thấy là con không sao đâu, nó chỉ bị mệt chút đỉnh thôi.

    Hai vợ chồng ẵm con lên từng lầu thứ sáu, một người trẻ tuổi mở cửa, mời họ vào nhà.

    - Tôi là bác sĩ đây, mời hai ông bà vào, và xin hai ông bà bỏ qua cho sự nghèo nàn của tôi.

    Căn phòng không có đến cả một chiếc giường. Mền chiếu, sách vở, thuốc men để lên sàn nhà. Viên y sĩ vẫn ái ngại:

    - Xin lỗi đã không có ghế ngồi cho hai ông bà.

    Nói xong hắn nhìn cả ba người từ Salomon, Eddy đến đứa bé để đoán xem ai là bệnh nhân. Xong hắn lại xin lỗi một lần nữa.

    - Rất tiếc là trong nhà không có ghế ngồi. Nhưng ông bà hiểu cho không phải lỗi tại tôi, chính phủ đã lấy hết nhà cửa, đồ đạc, phòng mạch, sách vở của tôi ngay từ lúc tôi ở tù về. Tôi bị tống ra đường hai giờ sau đó.

    Noi xong, hắn bắt đầu khám bệnh cho đứa bé, bắt mạch, đo nhiệt độ rất kỹ lưỡng.

    - Tôi không có thuốc cho em bé nhưng không sao, ngày mai cháu sẽ khỏi, không có gì nặng lắm đâu:

    Sau khi giao đứa bé lại cho Eddy, viên y sĩ giải thích tiếp hoàn cảnh của hắn:

    - Sau khi quân Đức trả tự do cho tôi, người ta bảo tôi: người Đức đã giết hết tất cả những ai chống lại Phát xít, chỉ có những cộng tác viên với họ mới còn sống sót.

    Tay hắn run lẩy bẩy:

    - Nghĩa là còn sống cũng là một tội trạng, và vì tôi đã trở về sau bốn năm tù tội, người ta đã lấy hết nhà cửa, phòng mạch, sách vở của tôi, lấy sạch. Chính phủ Ba Lan do người Do Thái thân Sô Viết cầm quyền cho rằng tất cả người Ba Lan không bị quốc xã giết đều là những người phát xít cần phải loại trừ. Tôi ở trong trường hợp đó. Lý luận của người Do Thái giản dị như thế. Nhưng chúng tôi sau khi đã thanh toán lũ phát xít, bây giờ chúng tôi cần đoàn kết lại để thanh toán nốt tụi Do Thái và Bôn Sô Vít.

    Viên y sĩ lau mồ hồi trán, có thể hắn đang bị bệnh tật và hận thù dày vò:

    - Tôi bị lao phổi vào thời kỳ chót, nhưng tôi không thể nào chết đi nếu chính tay tôi chưa giết được ít nhất là một trong những tên Do Thái sát nhân thân Sô Viết ở trên phần đất Ba Lan nầy. Tôi muốn chính tay tôi giết chúng...

    Orly khóc ré lên. Viên y sĩ lại muốn ẵm lấy nó:

    - Tôi cũng muốn có một đứa con, vì nó chính là nguồn sống cho bất cứ người đàn ông nào. À cháu tên là gì ông bà nhỉ?

    - Orly. Eddy trả lời.

    Trong lúc đó, viên y sĩ vừa nhìn Eddy vừa nhìn Isaac Salomon vừa khen ngợi:

    - Orly, trời cái tên đẹp quá.

    Nói xong, tay hắn không còn run rẩy nữa. Hắn đã chắc chắn rồi. Giọng nói lai Nga của Eddy, dáng điệu của Isaac Salomon, cái tên Orly, đủ để chứng minh cho hắn rằng họ là người Do Thái. Biết chắc thế, hắn ung dung rút thuốc vào ống tiêm và từ từ chích thuốc cho đứa bé. Xong, hắn bảo:

    - Từ đây cho đến mai, mọi sự yên ổn. Ông bà có thể trở lại đây ngày mai, nhưng tôi nghĩ là vô ích.

    Eddy yên lòng là Orly sẽ lành bệnh, bà không cần phải trở lại tìm bác sĩ ngày mai nữa.

    Viên y sĩ vừa nhận điếu thuốc của Salomon mời, vừa nhìn kỹ một lần nữa nét mặt của Salomon. Đúng rồi, hắn không thể nào lầm lẫn được, chắc chắn họ là người Do Thái nên hắn bảo:

    - Ngày mai ông bà trả tiền tôi cũng được, vì thế nào ngày mai ông bà cũng sẽ đến kiếm tôi lần nữa.

    Nói xong, hắn mở cửa cho họ ra về.

    XII
    Ban đêm thỉnh thoảng Eddy Thall trở dậy xem Orly ngủ. Hơi thở đứa con vẫn êm đềm và đều đặn.

    - Thì anh đã bảo với em là con không có gì nặng lắm đâu. Isaac Salomon ôm vợ vào lòng, sung sướng. Đây là lần đầu tiên từ năm 1939 mà anh được trở về quê hương và được ngủ trong chính nhà mình, trong chính thành phố mình, với cha mẹ mình.

    Ngày vinh quang đã thực sự trở về với họ. Giấc ngủ yên lành, không sợ hãi đã đến với họ.

    Nhưng lúc thức giấc, Eddy bỗng thấy Isaac đang ôm con vào lòng khóc lóc:

    - Orly đã chết rồi.

    Eddy đã ngất xỉu. Người ta phải chở nàng vào nhà thương. Trong nhà có đủ mọi người, cô của Isaac, người gác dan, hàng xóm, cảnh binh. Isaac cố lập lại lời nói của viên y sĩ và đoán chắc là con chàng đã bị giết chết.

    Viên cảnh sát trưởng gay gắt:

    - Kết án như thế thật là hồ đồ, bởi không thể nào còn có sự dã man đó ở Varsovie nầy nữa. Giả thuyết rằng tên bác sĩ nọ đã chích thuốc cho con ông chết đi không thể nào đặt ra nữa. Với lại còn phải khám nghiệm tử thi xem sao đã.

    Mấy người cảnh binh kia bảo:

    - Thôi chúng ta xuống đó thử xem thì biết.

    Họ bắt đầu ghi tên họ Eddy, Isaac và lập biên bản về cái chết của Orly, họ cũng không quên lấy lời khai của tên gác dan và hàng xóm. Họ dìu Isaac bước lên sáu tầng lầu như đêm qua, Isaac đã cùng vợ con lên khám bác sĩ. Cửa phòng không khóa và căn phòng tên bác sĩ đã trống rỗng. Hắn không còn trong nhà nữa. Qua làn nước mắt, Isaac chỉ còn trông thấy bốn bức tường và nền nhà trống trơn.

    - Đúng là căn nhà nầy hôm qua chúng tôi đã đến.

    Cảnh binh hỏi lại:

    - Cũng trống trải như hôm nay sao?

    - Không. Có vài vật dụng như sách vở, thuốc men, mền chiếu, đèn...

    Cảnh binh quay qua hỏi tên gác dan:

    - Tại sao hắn trốn đi mà anh không nghe thấy gì cả?

    - Có thể lắm chứ, có thể là ông ấy đi qua mà tôi không nghe gì cả.

    - Dù sao, chúng tôi cũng cho đăng hình hắn lên báo chí. Có thể đó là quân khủng bố hay là nhân viên của tình báo quốc xã. Hắn bỏ trốn tức là hắn không yên lòng. Đó cũng là một bằng chứng đầu tiên...

    Isaac Salomon hỏi:

    - Eddy đâu rồi. Tôi muốn biết Eddy. Ít nhất Eddy...

    - Ông nên yên tâm là chúng tôi đã lo lắng cho bà đủ cả rồi.

    - Chậm mất rồi. Orly đã chết, nó là nguồn hy vọng độc nhất của chúng tôi.

    - Nhưng bổn phận của công lý là tìm ra kẻ sát nhân và chúng tôi sẽ làm thế.

    - Eddy đâu rồi hở các ông?

    Và lần đầu tiên trong đời chàng khóc. Từ năm 1939, Isaac đã chịu đựng tất cả nhọc nhằn và nhục nhã. Nhưng giờ đây, chàng không còn sức lực nào nữa, chàng năn nỉ:

    - Tôi muốn gặp vợ tôi ngay.

    Ba ngày sau, Isaac và Eddy lại dẫn nhau đi về phương Đông, với hai bàn tay trắng và tâm hồn rách nát hơn bao giờ hết.

    Họ phải bỏ Ba Lan mà đi. Tây phương không thể nào trả Orly cho họ cùng những giọt máu mà Eddy đã mất. Tây phương không hàn gắn được vết thương của họ nhưng vẫn cứ để cho họ sống với sự hành hạ do vết thương đó gây ra, sống trong đau khổ nhọc nhằn. Không thể ở lại Ba Lan, họ đành bỏ đi. Tuy nhiên họ không hề đòi hỏi gì hơn nữa.



    Phần thứ hai

    I
    ối với Pierre Pillat, ngày chiến thắng đồng nghĩa với ngày quân đội Sô Viết chiếm đóng Bucarest, lính Nga lục sạo từng nhà một. Dân chúng trốn xuống hầm núp trong vựa thóc hay trốn hết đi chỗ khác. Đàn bà bị hiếp dâm, cửa hiệu bị cướp bóc, dân chúng bị đánh đập ngay ngoài đường phố.

    Pillat cũng cùng hôn thê lẫn trốn. Đó là một người con gái con một bác nông phu và có theo học trung học mấy năm. Nàng chạy trốn theo Pillat và họ cùng chờ những ngày sôi động của chiến thắng qua đi để có thể ló mặt ra ngoài đường. Một tuần sau, Marie và Pillat ra đường thật. Họ đói quá mà vẫn không mua bánh mì được. Trước các tiệm bánh mì, dân chúng sợ hãi nối đuôi nhau chờ mua bánh, nhưng chỉ những kẻ có thẻ kiểm tra hợp lệ mới được mua bánh mì.

    Nhiều người sắp hàng trước ủy ban an ninh. Trên tường đã có danh sách dài lòng thòng những người phải trình diện sở cảnh sát. Người ta không chịu đóng dấu trên thẻ của Pillat với lý do «Thẩm phán đoàn trưởng giả không còn hữu hiệu nữa, bây giờ công lý sẽ do các tòa án nhân dân đảm nhiệm».

    Pillat chỉ tiếc có một điều là không mua được bánh mì mà thôi. Marie hỏi :

    - Anh không làm gì nên tội, tại sao họ không chịu hợp thức hóa thẻ căn cước của anh?

    Pillat xiết chặt tay nàng và muốn rời khỏi sở cảnh sát, nhưng cửa đã đóng chặt. Người ta đẩy chàng vào một phòng bên cạnh, văn phòng chuyên kiểm nhận giấy tờ những ai không được mua thức ăn.

    Không khí nặng nề khó thở. Người ta kiếm tên Pillat trong danh sách những chánh trị phạm. Không có. Viên công chức gạch một chéo đỏ trên thẻ của Pillat và trả lại cho chàng. Pillat thì thầm bên tai Marie:

    - Ra khỏi đây mình sẽ mua được bánh. Anh sẽ bán đồng hồ. Vừa định bước ra thì người công chức hồi nãy cản lại:

    - Những ai không có nghề nghiệp không có quyền có một căn nhà trong thủ đô. Ông phải dọn nhà ngay, từ đây cho đến 6 giờ chiều và trả chìa khóa cho ủy ban trưng dụng nhà cửa.

    - Vâng, tôi hiểu.

    Chàng nói thế bởi vì chàng đang nghĩ rằng từ ngày chiến thắng ai cũng ở dưới hầm. Không ai dám ở trong nhà vì mỗi đêm quân Nga đến lục xét từng nhà.

    Chàng đã định đi ra, nhưng người ban nãy còn dặn thêm :

    - Ông không được mang đi bất cứ vật dụng gì trong nhà. Nếu không ông phạm tội xâm phạm của công.

    - Vâng, tôi hiểu.

    Chàng nói thế bởi vì chàng biết là nhà chàng đã nhiều lần bị quân Nga cướp bóc, cái gì chưa bị cướp mất thì cũng bị phá hủy. Không còn gì đáng lấy nữa. Chàng nói thế và ngỡ là xong chuyện, không ngờ lại được nghe dặn thêm :

    - Còn một điều này nữa. Những ai không có công việc gì, không có quyền trú ngụ trong một khoảng chừng 60 km chung quanh thủ đô.

    - Vâng, tôi sẽ rời khỏi thủ đô.

    Nói xong, chàng xiết tay Marie và nghĩ rằng chàng phải về quê vợ ở Piatra.

    Nhưng anh chàng nọ vẫn chưa tha:

    - Nhờ quân đội Sô Viết, Lỗ Ma Ni đã trở thành một nước xã hội, mọi công dân bị bắt buộc phải làm việc.

    - Vâng, tôi sẽ kiếm việc làm. Tôi biết rõ là trong một nước xã hội chủ nghĩa ai cũng phải làm việc.

    - Chính phủ giúp đỡ mọi công dân tránh nạn thất nghiệp. Đường chéo đó trên căn cước của ông rất lợi hại, bởi nhờ có nó mà mỗi cơ quan công quyền sẽ giúp đỡ ông tránh nạn thất nghiệp, gởi ông vào trong những trung tâm khuếch trương, trong trường hợp ông không kiếm được việc làm. Hiểu được như thế rồi, bây giờ ông có thể rời nơi đây.

    Pillat và Marie bước ra. Sợ bị bắt Pillat bảo:

    - Đi Piatra ngay. Cần phải rời thủ đô càng sớm càng hay.

    Vào lúc đó, một bàn tay đặt lên vai Pillat. Chàng tái mặt.

    - Xin ông đừng sợ. Tôi là Motok đây. Tôi cần nói với ông vài câu thôi.

    Thì ra đó là anh chàng làm ở sở hỏa xa độ nọ. Hắn kéo Marie và Pillat ra khỏi đám đông đang sắp hàng trước ủy ban với đói khát và sợ hãi. Daniel Motok mặt một bộ áo quần giản dị, không có cà vạt. Mặt hắn biến đổi hẳn đi, mắt bên phải bị thương.

    - Ngày chiến thắng, tôi bị lũ nhân viên hỏa xa cộng sản bắt giữ và hành hạ cho đến nay. Gặp ông đây để từ giả thật là may mắn. Thôi, tôi đi.

    Pillat muốn cầm tay giữ Motok lại, nhưng hắn đã rút tay lui và quay về phía Marie :

    - Nếu tôi ở lại, họ sẽ giết tôi. Với lại, tôi nói được bốn thứ tiếng thế nào tôi cũng kiếm được việc làm ở Đông Âu. Cầu trời phù hộ cho cô.

    Nói xong, Motok khóc và biến vào đám đông, áo đang còn dính máu và chân không còn mang tất. Khó mà nhận ra hắn nữa, tù tội đã làm hắn thay đổi rất nhiều.

    - Tội nghiệp cho Motok, khó mà có thể nói là chỉ mới 7 ngày sau ngày chiến thắng...

    Trong lúc đó, máy phóng thanh đang loan truyền một bài diễn văn. Pillat cố tìm lại Motok, nhưng hắn đã biến mất. Từng tiếng trên máy phóng thanh dội vào tai Pillat, khó chịu : «Tinka Neva tượng trưng cho nữ anh hùng vô sản. Cho đến năm 60 tuổi, bà vẫn còn bị chủ nhân giam trong bếp không lớn hơn xà lim bao nhiêu thiếu không khí thiếu ánh sáng. Nhưng đến năm 60 tuổi, con người vô sản trong bà sống dậy và sẵn sàng tranh đấu. Bà đã leo lên mái nhà cầm đèn ra hiệu cho máy bay Sô Viết đem lại chiến thắng ngày hôm nay. Bà đã chết ở một nơi cao nhất...»

    Pillat bực mình bảo Marie:

    - Đi em. Người Sô Viết muốn giết hết người để thế giới chỉ còn toàn là huyền thoại. Tinka Neva đúng là một người đàn bà can đảm, nhưng không phải là một bà phù thủy dạo chơi ban đêm trên các mái nhà. Đúng là chuyện bịa đặt để người Nga thay thế vào những người đã bị họ giết chết. Marie, thôi đi em.

    Vài giờ sau, Marie và Pillat đến ga xe lửa. Họ lo sợ bước lên tàu lửa đi đến vùng núi xứ Moldavie. Hình ảnh Motok theo dõi họ suốt chuyến đi. Trên bến tàu, máy phóng thanh còn tiếp tục kể câu chuyện về Tinka Neva.

    Pillat bảo Marie :

    - Tội nghiệp cho Motok thật. May là tụi mình còn một chỗ để ẩn thân. Núp kín trong một góc toa tàu, hai người cầm tay nhau và cùng nghĩ đến Piatra. Đó là một làng nhỏ với chừng một trăm nóc nhà, trong vùng núi Néamtz, quê hương của Marie.

    II
    Sau ngày chiến thắng, Boris Bodnariuk xin được trở lại thực hiện các công tác thay đổi khí hậu và canh tân sa mạc, nhưng hắn không được chấp thuận. Sô Viết đang cần hắn ở Lỗ ma ni để biến quốc gia này thành một nước cộng hòa nhân dân. Đó là một chuyện thật khó khăn, vì chưa có cán bộ, chưa có ai để thi hành mệnh lệnh.

    Boris quyết định đến tận chỗ, đi từ nơi nầy sang nơi khác để lập một nền hành chánh cộng sản. Trước khi rời văn phòng, người nữ thư ký đưa cho hắn một bức thư và bảo hắn :

    - Hình như đây là bức thư của một tu sĩ tên là Angelo, ông ta tự cho là em ruột của đồng chí. Kèm theo thư có cả bức ảnh.

    Boris nói như hét :

    - Chúng ta, những người cộng sản, không có anh em ruột. Anh em chúng ta toàn là những công nhân trên khắp thế giới.

    Hắn không thèm nhìn ảnh đứa em mà hắn đã làm mất một mắt hồi ba tuổi. Trong thư Angelo báo tin đã đi tu, ngày đêm vẫn cầu nguyện cho Boris và cảm ơn thượng đế đã để cho Boris sống sót trên trần gian.

    Boris bỏ tấm bản đồ Lỗ ma ni vào túi áo, quấn chặt tấm khăn quàng quanh cổ.

    Vài ngày sau đó, do một người địa phương hướng dẫn, Boris đã bước chân lên khu đất ẩm ướt của một làng ở về phía bắc xứ Moldavie.

    - Serghei Severin, làng nầy tên gì nhỉ?

    Boris hỏi Severin. Người nầy gốc Nga sinh ở Lỗ ma ni, to lớn khác thường. Trong lúc Boris cố tránh những vũng bùn trên đường thì Severin bước đại lên cả các vũng nước, vũng bùn mà không cần né tránh, như súc vật.

    - Đây là làng Piatra. Severin trả lời thế và để Bodnariuk đi một mình vào trong sân nhà ông lý trưởng. Dân làng đã đợi sẵn ở hai bên đường, người nào người nấy mũ cầm tay, khúm núm lúc Boris đi qua. Hắn khinh khỉnh đi vào ngồi liền trên ghế ở văn phòng viên lý trưởng. Qua khung cửa sổ, hắn nhìn lũ dân làng sắp hàng dưới mưa với cặp mắt căm hờn, bởi theo hắn, giai cấp nông dân là một trở ngại lớn lao cho công cuộc hoàn thành một quốc gia cộng sản. Nhìn lên bức vách, ngổn ngang những tấm hình cắt trên báo. Boris bực dọc nhìn bức hình của thống chế những người Slaves miền Nam, bởi vì hình như vị thống chế thương yêu con chó của ông ta hết mực, mà theo Boris, người cộng sản còn một đam mê nào đó tức là còn hèn yếu.

    Đám dân làng đã đến ngồi ở các băng ghế trước mặt Boris, e dè nhìn Boris như lũ trẻ chờ đợi trong ngày khai giảng niên học mỗi năm.

    Boris hách dịch ra lệnh:

    - Đưa tôi danh sách dân làng ở đây.

    Hắn mở cuốn sách, ở trang đầu viết: «Piatra, làng của Néamtz, 150 dân. Mấy trang sau ghi tên họ tuổi tác của từng dân làng. Boris hỏi tiếp:

    - Danh sách đã phân loại đâu?

    Viên lý trưởng, tóc ướt sũng vì đã đợi Boris dưới mưa, từ từ đứng dậy:

    - Chúng tôi ở đây không có ai ở giai cấp thứ nhất vì không có ai là điền chủ, tư bản cũng như tư sản. Giai cấp nầy thật ra không có trong làng Piatra này.

    Boris có vẻ không bằng lòng. Thông thường đi công tác hắn có thói quen hạ nhục một điền chủ hạng bự trước mặt quần chúng. Sau đó, hắn ra lệnh tịch thu tài sản và chia đều cho nông dân. Cứ theo phương pháp đó, đám dân làng lỏng lẻo tự nhiên bị khích động và cuộc đấu tranh bắt đầu.

    - Vậy thì cho tôi danh sách các người thuộc giai cấp thứ hai vậy.

    Nhưng viên lý trưởng bình tĩnh trả lời:

    - Cũng không có ai ở giai cấp đó cả, vì muốn liệt vào hạng đó ít nhất phải có hơn năm sào ruộng. Ở Piatra, không ai có nhiều ruộng đến thế.

    Đám dân làng sung sướng, nghĩ rằng không có ai giàu có, điền chủ. Họ ngờ là Boris sẽ khen ngợi làng Piatra lắm, nhưng Boris đã cố tình moi móc thêm :

    - Những chủ máy xay, chủ quán, những quân cảnh cũ, nghĩa là tất cả những ai đã bóc lột nhân dân dưới chế đó tư bản đều thuộc về hạng thứ hai cả.

    - Viên quân cảnh không còn ở trong làng nữa. Ông ta trốn đi sau ngày chiến thắng. Không có chủ máy xay ở đây vì một lẽ giản dị là làng này không có máy xay, làng chúng tôi nghèo lắm. Chúng tôi phải đi xay bắp và lúa ở làng khác. Cà phê cũng phải mua ở làng bên cạnh.

    Giọng Boris trở nên rắn rỏi, hắn muốn tìm cho ra những kẻ thù của nhân dân :

    - Cho tôi danh sách tay sai của tụi tư bản cũ và các viên lý trưởng hồi trước.

    - Chúng tôi chỉ có một lý trưởng từ hai mươi năm nay, ông ta đã chết và vừa mới chôn cất ba tuần lễ nay.

    Ở sa mạc, Boris đã phải chiến đấu không ngừng để làm sống dậy những tấc đất đã hết màu mỡ. Những công việc của một cán bộ cộng sản trong xứ Lỗ ma ni nầy thật khó hơn nhiều. Cũng như tất cả các làng ở Lỗ ma ni, Piatra là một làng bất động. Sự bất động lại là kẻ thù số một của tiến bộ. Đã từ 3000 năm nay, dân Lỗ ma ni đều như thế. Muốn khích động họ, cán bộ cộng sản phải đâm dao sâu vào tận xương tủy, bởi vì họ cũng cằn cõi như đất ở sa mạc, người ta không thể trồng trọt gì lên trên đó được nữa. Cho nên Boris căm thù nhìn đám dân làng ngồi trước mắt hắn. Hắn lại lật từng trang cuốn sổ phúc trình. Hạng thứ nhất: điền chủ, không có. Hạng thứ hai: nông dân giàu, không có. Tay sai của chế độ trưởng giả, không có. Những kẻ bóc lột nhân dân như chủ đồn điền café, chủ máy xay, quân cảnh, không có. Giáo học, không có. Nạn nhân của cấp trưởng giả, không có. Người đã từng du học sang ngoại quốc, không có. Người có gia đình ở nước ngoài, không có.

    Piatra không có một tên nào có thể khích động căm thù và nổi loạn, có thể lôi dân làng ra khỏi sự lờ phờ muôn thuở. Chỉ có một tờ giấy rời ghi: linh mục Thoma Skobai với giữa hai ngoặc đơn ghi chú: mù, 68 tuổi và những người mới đến trú ngụ trong làng, Pierre Pillat, thẩm phán, có vợ, đảng viên đảng cộng sản địa phương.

    Boris nhíu mày, thế là hắn bằng lòng. Vì hắn thừa biết chỉ cần một cây diêm là đủ để đốt cháy một căn nhà. Chỉ cần một thủ phạm là đủ đốt cháy cả một làng. Boris lúc đó thật giống như một nhà trinh thám, sau những tuần lễ tìm tòi và những đêm mất ngủ, tìm ra được một dấu tay trên tấm kiếng, trên cái ly hay trên nấm cửa, dấu tay đủ để mang ánh sáng lại cho một vụ án và bắt được kẻ sát nhân.

    Hắn nghĩ đến những phương thức hắn đã chị thị cho các vị quận trưởng phải thi hành: lập biên bản tên tuổi và nghề nghiệp mỗi công dân, phân ra từng loại khác nhau, theo dõi và kết tội những giai cấp giàu có, lập phiếu lý lịch và phiếu kết án những ai thuộc vào hai giai cấp đầu.

    Bodnariuk đã ra lệnh cho nhân viên phải tìm tòi trong quá khứ mỗi người thuộc thành phần lên án, vì ai cũng có thể phạm một vài lỗi lầm. Điền chủ nào mà cả đời không hề đánh đập một người đầy tớ, gia chủ nào lại không có lần xô ngã một tên đầu bếp, nhà giàu nào mà không có lần lái xe cán phải một con chó của một người nghèo? Tất cả sự kiện đó cần phải được tố cáo để biến chúng thành những căm thù giai cấp. Bất cứ một viên lý trưởng nào cũng có điều bất công lúc xét xử, vị điền chủ nào cũng có thể là một kẻ bóc lột công của các tá điền. Đó là những bất công xã hội. Cũng như mọi linh mục đều là kẻ lợi dụng giai cấp lao động vì họ không có những hoạt động chính trị, sống bám vào sức lực kẻ khác. Tất cả điều đó cần phải được ghi vào biên bản để kết tội những kẻ đã đàn áp bốc lột nhân dân để có thể bỏ tù hay loại trừ họ. Biên bản đó rất cần thiết để khởi động óc tranh đấu giai cấp.

    Boris vẫn còn trông thấy qua khung cửa một hàng dài nông dân im lặng chờ hắn như những bức tượng đứng dưới mưa. Bốn tháng trôi qua sau ngày chiến thắng mà hắn vẫn chưa làm được gì cả. Mỗi làng đều như mỗi gia đình. Những cái khối đông đặc đó cần phải cho nổ tung ra, bẻ gãy đi, phân loại đàng hoàng. Boris nghĩ như thế và bảo nhỏ với Serghei Severin:

    - Đồng chí cần phải học cách thức phá hoại một làng. Hãy dùng cùng một phương pháp trong các khu phố khác trong quận của đồng chí. Không khó lắm đâu.

  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    °

    Boris Bodnariuk chăm chú nhìn Pillat. Chàng đã cố tiến đến gần lúc hắn vừa bước xuống xe. Chàng chào hắn, nhưng hắn tảng lờ như không biết chàng là ai.

    Ngay cả lúc Pillat ngồi ở hàng đầu trong đám dân làng hắn cũng không thèm để ý đến. Nhưng bỗng hắn nhìn đăm đăm vào Pillat và bảo:

    - Chúng ta hỏi nhỏ cùng học ở trường Hoàng gia Kichinev. Pillat đứng dậy. Bên cạnh chàng là Marie, cha nàng, bác Ion Kostaky. Ông này cảm động và coi bộ hân hạnh ra mặt khi biết thằng rể mình lại là bạn thân của một nhân vật quan trọng.

    Pillat muốn nói với Boris rằng cuộc gặp gỡ này làm cho chàng sung sướng lắm, rằng những kỷ niệm tuổi thơ vẫn còn rõ mồn một trong ký ức chàng, nhất là lúc hai đứa vừa mới chia tay ở sân trường với những điếu thuốc chia nhau vào giờ ra chơi, với bức ảnh của người nữ sinh Eddy Thall ở trường quốc gia âm nhạc. Nhung Pillat chỉ nói được:

    - Tôi vẫn có ý kiếm cậu từ bấy lâu nay.

    Trong lúc đó Boris thản nhiên cởi áo choàng, đặt khẩu súng lúc xuống bàn. Pillat đợi cho hắn xong xuôi mới giới thiệu:

    - Tôi đã cưới vợ ở Piatra (Marie đứng dậy cúi đầu chào) và đây là ông nhạc của tôi (chàng giới thiệu Ion Kostaky) ông nhạc tôi còn có một căn nhà cho chúng tôi ở. Chúng tôi cũng làm việc đồng áng với nhau...

    Tất cả các nông dân có mặt đều vui cười như trong ngày lễ phục sinh vì đúng là một vinh dự khi được nhìn thấy Pillat thân mật nói chuyện với anh chàng Boris lúc nào mặt cũng lạnh như tiền và không ai dám đến gần. Lúc này thì họ không còn sợ hãi gì cả, bằng chứng là Pillat nói chuyện với anh chàng đó rất đàng hoàng. Họ nghĩ là nhờ ở tình bạn thân mật đó mà làng Piatra sẽ nhận được một số tiền cứu trợ cùng cây gỗ sửa lại những cây cầu đã bị hư. Nhưng họ không vui mừng lâu, Boris lên tiếng với Pillat:

    - Ông cũng không thoát khỏi luật lệ chung được vì ông đã hành động giống như tất cả lũ trưởng giả phản động. Vào ngày chiến thắng ông đã đến ẩn núp trong làng này. Tôi có bổn phận cảnh cáo ông rằng không có nơi nào dung túng kẻ phản động, trong các làng mạc lại càng không được nữa. Nghĩa là không có nơi nào dung túng kẻ thù của nhân dân nữa cả.

    Dân làng nghểnh dài cổ ra nghe, vẫn có cảm tưởng là họ đã nghe lầm.

    Boris nhìn về phía họ và nói tiếp:

    - Tôi chiến đấu cho công lý của dân tộc. Tôi không muốn phản bội giai cấp công nhân, và đây là một bằng chứng. Trước kia tôi là bạn thân của người này, ông ta trở thành một người trí thức trưởng giả và đã phục vụ trong giai cấp tư sản, cho nên bây giờ ông ta phải bị trừng phạt. Điều mà trước kia tôi đã là bạn thân của ông không có một chút gì quan trọng cả, bởi vì tôi không thể nào phản bội cả giai cấp nông dân Lỗ ma ni chỉ vì một người bạn cũ có thời đã từng là một tên bồi bếp cho lũ tư bản. Tôi hứa với các đồng chí là tôi sẽ trục xuất ông ta ra khỏi làng.

    Dân làng không ai vỗ tay cả. Họ không muốn có một thứ công lý như vậy. Họ không muốn có gì oan ức xảy đến cho Pillat. Ion Kostaky nắm chặt tay, lên tiếng trước tiên:

    - Rể tôi không phải là người phản động. Nếu ông kết án nó như vậy thì ông lầm to. Tôi biết rõ nó hơn ông.

    Đến lượt viên lý trưởng lên tiếng:

    - Tôi xin báo cáo với đồng chí, Pillat là người đầu tiên ghi tên vào đảng cộng sản, và còn khuyên bảo chúng tôi gia nhập đảng cộng sản nữa. Dĩ nhiên ông ta không phải là người phản động vì ông ta giữ giấy tờ của đảng ở Piatra. Mỗi tối chúng tôi đến họp ở đây và đồng chí Pillat là nguồn hy vọng của toàn thể chúng tôi.

    Boris yên lặng, cái yên lặng nặng nề và đe dọa, đến độ người ta có thể nghe tiếng mưa rơi và tiếng gió thổi cùng với nhịp tim đập trong lồng ngực mọi người. Boris vẫn yên lặng, vì hắn biết rằng sự yên lặng của hắn dày vò đám đông ngay ngô đó và hắn muốn kéo dài sự dày vò đó. Sau cùng hắn sang sảng nói:

    - Hỡi các đồng chí, bổn phận của các lãnh tụ đảng là phải tranh đấu để đem lại công lý cho các đồng chí. Chúng tôi biết nhiều hơn các đồng chí. Các đồng chí chỉ là những nông dân khốn khổ vừa mới thoát ách thống trị, chưa biết bảo vệ quyền lợi của mình. Bổn phận đầu tiên của chánh phủ nhân dân là bảo vệ cho các đồng chí. Lũ phản động, mật vụ bị chánh phủ theo dõi thường về ẩn núp các làng mạc như những con chó sói khoác bộ áo lông cừu. Chánh phủ không cho phép lũ vô lại đó đánh lừa nhân dân. Chúng là những con chó sói chứ không phải là những con lừa như đồng chí lầm tưởng. Chúng tôi sẽ lột da chúng ra. Tụi trưởng giả là những con chó sói sinh sống bằng xương máu của nhân dân. Pillat cũng là con chó sói và chánh phủ sẽ giúp các đồng chí chống lại chúng.

    Boris đứng dậy. Dân làng yên lặng trong lúc Marie âm thầm khóc. Boris dặn nhỏ Severin: «Hãy qui tụ đám thanh niên lại và thành lập những đội dân quân. Cung cấp vũ khí cho họ. Gieo căm hờn trong lòng họ. Rồi họ sẽ gieo căm hờn trong làng mạc. Không có căm hờn thì không thể nào khích động quần chúng được. Chừng nào đám nông dân chưa biết căm hờn thì ta chưa thể trông cậy họ trong vai trò xây dựng một xã hội cộng sản được. Làng mạc sẽ nằm ngay trong trạng thái cách đây 3000 năm và chiến thắng của Hồng quân không đem lại được gì; cho nên phải gieo căm hờn, đồng chí biết chứ, căm hờn, có phải thế không? Hở Serghei Severin?»

    III
    Sau cuộc thăm viếng và đe dọa của Boris, dân làng ở Piatra tưởng là sẽ có gì ghê gớm xảy ra sau đó. Nhưng không có gì xảy ra cả. Chỉ có Severin chạy lui tới quanh làng, rồi triệu tập chừng 12 người thanh niên trong làng, cung cấp áo quần và vũ khí, dạy họ bắn súng, diễn thuyết cho họ nghe và chỉ có thế, đời sống vẫn êm đềm trôi qua. 12 người thanh niên đó được cho ở trong một căn nhà cạnh trụ sở phường và nhờ họ mà Severin biết được ai là người thường hay gây gổ với vợ con, ai thường hay đi nhà thơ, ai thường hay ra phố... Nhưng mà đối với dân làng họ cũng chả cần giữ bí mật, Severin có thể biết được hết, với điều kiện là để cho họ yên thân. Mà thật sự là họ được yên thân. Ngay cả Pillat cũng không còn sợ hãi nữa. Chàng nói với cha vợ:

    - Ba à, nếu lũ Sô Viết để cho chúng ta yên thân chúng ta không việc gì phải chống lại họ cả. Ngay như thánh Mathieu cũng có nói «con hãy đồng ý với kẻ thù lúc mà họ đang đi cùng đường với con...».

    «Chúng ta đang bị bắt buộc phải sống với người Sô Viết vì quân Sô Viết đã chiếm Lỗ ma ni với súng ống của Hoa kỳ có khắc chữ «made in USA», với những viên đạn của Anh quốc và với sự chấp thuận của Giáo Hội La Mã. 52 quốc gia văn minh nhất hoàn cầu đã dẫn quân Nga đến tận làng Piatra, lúc mà quân Nga đã xâm lăng Lỗ ma ni thì tất cả những thánh đường đều rung chuông để ăn mừng biến cố, từ Luân Đôn cho đến Ba Lê, từ Nữu ước cho đến Lisbonne, bởi người ta cho rằng cuộc thánh chiến cho tự do đã hoàn toàn thành công».

    Kostaky khạc xuống đất, mỉa mai:

    - Tự do là thế à?

    Xong, cả gia đình cùng đến phường dự ngày giỗ của nữ anh hùng Tinka Neva. Cả làng đều phải có mặt. Trước khi an tọa, Kostaky và cả nhà không quên kính cẩn hôn tay đức cha Thomas Skobai. Đức cha tuy mù nhưng vẫn biết tên từng người một. Mặt ngài hướng về phía có treo cờ, nhưng không thấy gì cả. 40 năm về trước, vào đêm phục sinh, có người quên cây đèn cầy cháy dở trong nhà thờ, nên nhà thờ bốc cháy. Cùng với dân làng chữa cháy lúc 3 giờ sáng, cha Thomas Skobai đã bị mù mắt từ đó. Từ đêm phục sinh đó, hình ảnh duy nhất còn lại trong đôi mắt cha là hình ảnh ngôi nhà thờ bốc cháy trên đỉnh đồi. Ngày hôm sau, cha làm lễ trên đống tro tàn còn nóng. Dân làng ra công sửa sang ngôi nhà thờ. Đức Tổng Giám Mục nghe cha Thomas bị mù định tìm người thay thế, nhưng khi biết chuyện, Ngài ôm cha mà hôn và không bao giờ nghĩ đến việc thay thế nữa.

    Cha Thomas Skobai nhìn Severin lên sân khấu, nhưng cha chỉ thấy hình ảnh ngôi nhà thờ bị bốc cháy. Severin bắt đầu nói về Tinka Neva bằng giọng Lỗ ma ni mà không đúng lắm. Trong lúc đó thì dân làng vẫn nghĩ đến đồng ruộng của họ, và cha Thomas thì chỉ thấy ngôi nhà thờ đang bốc cháy mà thôi. Severin trở lại vấn đề.

    - Lũ chính trị phạm vẫn đang còn ẩn nấu ở Piatra. Chúng ta cần phải tống cổ họ đi ngay.

    Nông dân hoảng hốt không còn nghĩ đến ruộng vườn nhà cửa nữa mà bắt đầu sợ sệt nhìn về phía Pillat. Severin tiếp tục:

    - Chúng ta không cần đề cập đến lũ chính trị phạm đã lộ mặt, lũ đó chúng ta bắt lúc nào cũng được. Bây giờ, cuộc tranh đấu của giai cấp thợ thuyền đã thắng, chúng ta cần vạch mặt nạ bọn phản bội đang ẩn náu. Tôi yêu cầu những ai còn là kẻ thù của nhân dân xin đứng dậy ngay.

    Mọi người tái mặt. Không ai nhúc nhích cả. Severin ra lệnh:

    - Marie Kostaky, cô đứng dậy ngay cho nhân dân thấy mặt cô. Marie đứng phắt dậy, trong lúc Pillat xiết chặt tay nàng:

    - Tôi không phải là chính trị phạm.

    - Cô đã phạm những tội lớn lao đối với nhân dân nhưng hãy để đấy đã, bây giờ để tôi lột mặt nạ một kẻ thù khác của nhân dân: Ion Kostaky.

    Ion Kostaky đứng dậy, nhưng người ta cũng có thể nói là cả sự căm hờn và khinh bỉ của nhân dân cũng đứng dậy theo với ông ta. Kostaky cắn răng, nắm chặt tay. Ông ta muốn những lời ông sắp nói sẽ như những viên đá giáng vào đầu tên Nga sô đó, đã dám cho ông ta là kẻ thù của nhân dân, trong lúc đó, Severin kết tội:

    - Ion Kostaky, trước tòa án nhân dân, tôi tố cáo ông là một tên Phát xít. Trước khi bị treo cổ ông hãy quay đầu lại để mọi người xem thử mặt tên kẻ thù nhân dân giống cái gì.

    Kostaky mất hết cả phản ứng thường lệ. Ông ta chỉ nghiến răng tức giận, dân làng thì nắm chặt tay phẫn uất. Severin cầm một trang giấy và đọc:

    Ngày 14-8-1943 lúc 14 giờ hai sĩ quan Quốc xã đã vào nhà Ion Kostaky để cùng âm mưu hại dân làng. Hai tên Quốc xã đó đã bị tòa án Sô Viết kết tội và treo cổ tại Kiev.»

    Severin chìa bức hình cho dân làng xem, bức hình có hai người Đức bị treo cổ. Dân làng kinh hoàng chuyền tay nhau xem bức hình đó. Cha Thomas Skobai cũng cầm bức hình nhưng cha không thấy gì ngoài ngọn lửa đang thiêu rụi nhà thờ. Severin tiếp tục nói:

    «Hai tên sát nhân này đã khai trước tòa án Sô Viết là đã giết không biết bao nhiêu người, cho đến nỗi chúng không nhớ nổi con số nạn nhân của chúng nữa. Và chúng lại là bạn thân và là chủ nhân ông của Ion Kostaky. Chúng đã nói chuyện với Ion Kostaky tại nhà. Để khỏi bị ai dòm ngó, chúng đã kéo tấm màn cửa xuống, nhưng nhân dân đã thấy hết và nghe hết.»

    Bộ mặt của Kostaky và của dân làng bắt đầu tái mét. Chưa bao giờ ở làng này lại có một chuyện kinh hoàng như thế.

    Nào, nhìn lại bức hình đi, ông Kostaky, và trả lời cho nhân dân là ông có quen với hai tên Quốc xã này và có âm mưu gì với chúng không?

    Kostaky nhìn bức hình và thản nhiên trả lời:

    - Tôi không biết họ, tôi chưa nhìn thấy họ bao giờ, làm sao ông bảo tôi biết họ cho được. Nhưng tôi biết chắc tôi không phải là phát xít và tôi chưa hề nói chuyện với một ai cả... Cả đời tôi chưa hề nói chuyện với người Đức.

    Đúng lúc đó một sự kiện không quan hệ gì cả xuất hiện trong trí nhớ và Kostaky giải thích tiếp:

    - Có một lần tôi cho họ một thùng nước để rửa mặt và một bình sữa cho hai người Đức dừng xe trước cổng và muốn mua thức ăn.

    - Ông không biết hai người trong bức hình nầy? Thế mà họ là bạn của ông đấy, những người đã đốt cháy làng mạc Nga, đã hãm hiếp đàn bà Nga ở Ukraine, đã đâm chết không biết bao là nông dân vô tội. Nào, nói cho nhân dân nghe thử tại sao ông kéo bức màn khi hai tên Đức nầy vào nhà, và ông âm mưu điều gì trong thời gian ông cho chúng ăn?

    - Tôi không còn nhớ là bức màn có kéo xuống hay không. Nhưng vào tháng 8 trời nóng và nhà nào cũng đều kéo màn như nhau cả.

    - Đồ nói láo, tòa án nhân dân sẽ buộc ông nói thật. Trong lúc ông âm mưu với hai tên Quốc xã đó, dù màn vẫn kéo xuống, mắt nhân dân vẫn nhìn thấy và tai nhân dân vẫn nghe được, vì thế mà ông có tên trong sổ đen. Ngày xét xử đã đến và đúng là ngày hôm nay đây.

    Kostaky ngồi xuống, Severin nói:

    - Hỡi các đồng chí, Ion Kostaky, nhân viên phát xít, đã bị trừng phạt. Pierre Pillat, tên bồi bếp trưởng giả cũng bị như thế. Marie Kostaky chuyên khủng bố các cô gái nghèo khổ cũng không tránh khỏi tội trạng. Các đồng chí cứ tin chắc là nhà nước cộng sản không để một ai thoái khỏi công lý.

    Marie đã nghe người ta tố khổ cha và chồng mình nhưng không thể nào chịu được hai chữ «khủng bố» người ta dành cho nàng, nên nàng tức khắc đứng dậy phản đối:

    - Tôi không phải là quân khủng bố. Mà tôi đã khủng bố ai?

    - Nào đồng chí Sanda Apostol hãy đứng dậy và kể cho các đồng chí khác nghe Marie Kostaky đã bạc đãi đồng chí như thế nào? Severin ra lệnh như thế.

    Lúc Sanda Apostol đứng dậy, Severin khuyến khích:

    - Đồng chí Sanda, đừng sợ ai hết. Đồng chí là con gái của một nông dân nghèo khổ. Mà người nghèo đang cầm quyền. Nhà nước đang bảo vệ người nghèo, vậy đồng chí hãy kể lại tại sao đồng chí bị đánh đập và bị người con của tên phát xít Kostaky hành hạ đến có sẹo ở trên mặt?

    Sanda trả lời :

    - Tôi không nhớ gì cả. Hồi đó cả hai còn trẻ. Chúng tôi vui đùa rồi lỡ vô ý...

    - Và bây giờ đồng chí mang sẹo trên mặt. Đồng chí hãy cao giọng tố cáo cho mọi người hiểu, vì ngày của công lý nhân dân đã đến. Đừng sợ gì cả, bây giờ đã đến lúc nhân dân cầm quyền và các đồng chí phải mạnh dạn để tố cáo tất cả những sỉ nhục mà các đồng chí đã gánh chịu từ bao lâu nay. Hay kể lại người ta bạc đãi đồng chí như thế nào. Để kỷ niệm cái chết anh hùng của nữ đồng chí Tinka Neva, ở tất cả làng mạc của xứ Lỗ ma ni dân chúng đều mở chiến dịch tố cáo những kẻ phản bội, những kẻ thuộc đảng phát xít và những kẻ bóc lột nhân dân. Chúng ta tiếp tục tố cáo họ mỗi ngày và chúng ta sẽ treo cổ họ dọc theo lề đường.

    - Nhưng tôi đã bảo là chỉ vì thuở nhỏ vô ý lúc chơi thôi, Sanda Apostol trả lời.

    - Không, đồng chí sẽ kể lại vào một dịp khác vụ đồng chí bị hành hạ như thế nào, bây giờ tôi thấy rõ đồng chí đang sợ.

    Thế là ngày kỷ niệm cái chết của Tinka Neva chấm dứt nơi đây. Dân làng vẫn đứng yên. Sau khi Severin đi rồi, họ đồng nhìn phía cha Thomas Skobai, chờ đợi phản ứng của cha, nhưng đức cha vẫn chỉ thấy một hình ảnh duy nhất, đó là hình ảnh ngôi nhà thờ bốc cháy trên đồi. Ai nấy về nhà, sớm hơn thường lệ. Sợ hãi đã hoàn toàn xâm chiếm tâm hồn mộc mạc của họ. Bởi đây là lần đầu tiên mà dân làng Piatra bị một mẻ như thế. Họ tự bảo nếu người cộng sản biết cả chuyện trẻ con chơi với nhau 15 năm về trước và Sanda Apostol bị té và có sẹo lúc chơi với Marie Kostaky, thì thực là người cộng sản không có điều gì không biết nữa cả. Lo lắng như thế nên đêm đêm tắt đèn đi ngủ, họ vẫn còn cảm tưởng là có kẻ đang rình nghe ở cửa, dòm ngó giấc ngủ của họ qua cửa sổ, rình mò họ, nhìn họ qua cả tường nhà, trần nhà... Họ có cảm tưởng một con mắt nào đó đang theo dõi họ trong bóng tối. Trong tấm chăn đắp, người nông dân cầu nguyện trong kinh hoàng, bởi vì đã bắt đầu có cuộc khủng bố.

    IV
    Sáng hôm sau, dân làng Piatra dậy thật sớm, nhưng không ai ra khỏi nhà mà chỉ làm việc quanh quẩn trong sân để nghe ngóng tình hình.

    Họ chờ tiếng xe nổ của Severin.

    Severin xuất hiện như thường lệ và đến thẳng phường. Dân làng không hiểu họ phải có thái độ nào nhưng họ khôn ngoan chờ đợi, họ không muốn bị ngỡ ngàng, bởi họ biết chờ đợi lính đến bắt Ion Kostaky, Pillat và không biết còn ai nữa; lo sợ cứ tăng dần lên nhưng cho đến trưa, Severin vẫn thản nhiên tập dượt cho lính, dạy dỗ cho lũ thanh niên.

    Giữa trưa, Pillat hết cả kiên nhẫn, bàn với Ion Kostaky:

    - Boris Bodnariuk hiện đang ở trên phố, ở Molda. Con sẽ đến gặp hắn và nói thật với hắn.

    Không muốn để Pillat đi một mình, Kostaky nói:

    - Ba cũng cần mua một ít đinh và ván để sửa lại hàng rào, vậy để cho ba cùng đi luôn.

    Hai người lính gác chận họ ở cổng làng, hỏi họ đi đâu, như thường lệ, rồi để họ đi. Pillat nói:

    - Con không muốn hạ mình xin xỏ, nhưng con chỉ mong hắn để cho mình yên ổn. Hắn với con cùng học một trường thuở nhỏ, có lẽ hắn sẽ nghe lời con. Có được không ba nhỉ?

    Kostaky gật đầu và quất ngựa đi nhanh.

    Đến phố, Kostaky lo mua đinh, trong lúc Pillat đến thẳng nhà Boris, đề nghị:

    - Boris, tao muon xin mày một chuyện không dính gì đến quyền hạn trong đảng của mày cả, là tao muốn trở thành một đảng viên nhiệt thành. Tao thực lòng muốn gia nhập đảng. Mày chờ một thời gian để tao chứng tỏ bằng hành động. Tao muốn trở thành một thành phần hữu ích cho cộng đồng xã hội và cho đảng. Mày hãy nhìn thẳng vào mắt tao và mày sẽ thấy tao rất thành thật lúc nói thế.

    Boris trả lời:

    - Tao biết mày thành thật, nhưng mày yêu cầu một điều không thể được.

    - Nếu tao thành thật muốn thế, và nếu tao hướng tất cả cố gắng về mục đích đó, mày có tin là tao sẽ trở thành một người cộng sản tốt?

    Boris mỉm cười:

    - Không, mày không thể trở thành như thế được. Mày có nhớ bài học giáo lý ở trường Hoàng gia «con lạc đà bước qua lỗ kim còn dễ hơn một người giàu có bước vào nước Chúa». Không ai nghĩ đến việc kết tội Thiên chúa giáo vì tôn giáo này khai trừ người giàu có. Một tên trí thức trưởng giả không thể nào trở thành một người cộng sản.

    - Người giàu có thể trở thành nghèo, nếu họ từ chối của cải. Cho nên không thể mãi mãi loại họ ra ngoài, với điều kiện là họ phải từ bỏ hết. Boris, tao đã từ bỏ hết. Vậy hãy để tao cùng làm việc với các đồng chí. Mày hãy giúp tao trở thành người cộng sản.

    - Làm sao mày có thể chối bỏ nguồn gốc trưởng giả của mày được? Vô ích, mày đã là một trí thức trưởng giả. Bây giờ nhân dân cầm quyền, và nhiệm vụ đầu tiên của chính quyền đó lúc cầm quyền là tìm mọi cách để loại bỏ giai cấp trưởng giả. Đằng nào mày cũng bị tố khổ.

    - Để phạt tao mày phải có bằng cớ, vậy mày kết án tao điều gì?

    - Trong cuộc cách mạng vô sản, chúng tao không cần biết đến cá nhân. Xã hội không được cấu thành bởi cá nhân và bởi giai cấp. Cá nhân mày không có gì để lo lắng, nhưng giai cấp tư sản có tội và chúng tao trừng phạt giai cấp đó. Mày là một thành phần đã hưởng lợi cho nên mày phải bị trừng trị với giai cấp đó. Giản dị có thế thôi.

    Boris khoác áo da và khăn quàng đỏ, trong lúc Pillat cố nói những lời sau cùng:

    - Nhưng đặc biệt tao xin mày một ân huệ. Tức là hãy để cho tao gia nhập vào giai cấp vô sản, mày sẽ không thất vọng về điều này đâu.

    - Không, mày không nên xin tao một điều không thể được. Nếu tao cho phép, tao phản bội nhân dân và đảng. Tao có phận sự loại trừ các thành phần giai cấp trưởng giả ở các thành phố và làng mạc, như lũ nha sĩ phải nhổ những chiếc rằng hư. Người trưởng giả nào cũng là một ung nhọt nguy hiểm cho đảng. Xã hội cũng có những định luật về vệ sinh chính trị và nhân danh các đỉnh luật đó mà mày phải bị khai trừ. Các anh trí thức trưởng giả, lúc nào các anh cũng tự hào là biết hết những tế nhị của cuộc sống, làm sao các anh lại không biết đến những nguyên tắc giản dị đến thế?

    Cuộc hội kiến thế là chấm dứt. Boris để cho Pillat ra về mà không cần chìa tay bắt xã giao. Trước quận, Ion Kostaky đợi Pillat về. Pillat ra ngồi lên xe ngựa không nói một lời nào. Kostaky hiểu là chuyến đi thật vô ích.

    V
    Buổi chiều, Ion Kostaky bắt đầu sửa hàng rào. Ông ta cảm thấy cần một hàng rào thật kín và thật chắc. Tất cả dân làng Piatra đều sửa lại ổ khóa nhà cửa. Pillat cuốc đất ở ngoài vườn, cùng với Marie. Chính giữa vườn, Pillat lấy cỏ mịn đắp quanh thành hình trái tim. Bỗng có tiếng hỏi :

    - Pillat, bao giờ thì anh hết khiêu khích nhỉ?

    Pillat ngửng đầu lên đã thấy Severin và lính gác đứng trước cổng. Pillat có cảm tưởng là họ đến bắt chàng. Severin vào trong sân:

    - Tôi tưởng anh đứng về phía chúng tôi chứ? Severin nói thế và ra hiệu cho lũ lính gác. Chúng vứt khí giới xuống và cùng nhau dẫm nát bãi cỏ hình trái tim. Pillat không hiểu ất giáp gì cả lặng yên nhìn lũ lính gác phá tan mảnh đất có hình trái tim dưới gót giày đinh.

    -Tụi trưởng giả các anh tưởng là người cộng sản ngốc hết hay sao, nhưng chúng tôi biết cái gì chúng tôi muốn biết, và biết cái gì kẻ thù chúng tôi muốn làm. Với mục đích gì mà các anh làm một mô đất có hình trái tim lớn như một bích chương mà bên ngoài đường cũng có thể trông thấy được?

    Marie ngạc nhiên hỏi:

    - Mà có ai nói cho chúng tôi biết là chúng tôi không được phép trồng hoa theo hình trái tim đâu?

    - Trái tim tượng trưng cho quyền tư lợi. Đúng là ngày chúng tôi bắt đầu tập sản hóa đất đai, các anh đã tức khác vẽ hình trái tim trong vườn để phản đối công việc tập hóa đất đai ở Piatra.

    - Tôi thề với đồng chỉ là không bao giờ tôi có ý tưởng đó cả.

    - Chúng tôi đã ngăn cản lũ phản động tìm cách phản đối công việc tập sản hóa đất đai bằng cách cho làm mô hình trái tim ngay giữa vườn như là một dấu hiệu phản kháng. Chúng tôi theo dõi mọi phong trào, các anh đừng có đánh lạc hướng vô ích. Lũ phản cách mạng không thể thắng nổi.

    Tụi lính đã phá xong bãi cỏ, đứng nhìn Severin. Tên nầy lại ra hiệu, và sáu đứa nhào vô cướp cái rìu trên tay Ion Kostaky và trong chốc lát phá hết bức rào, ván gẫy, cột nghiêng. Nhà Kostaky và Pillat thế là không còn hàng rào che chở nữa. Ván bị vứt hết ra đường và bị dẫm nát.

    Lũ thanh niên phá hoại xong, phủi tay, vứt cuốc, cầm lại khí giới như thường, trong lúc Severin điều tra:

    - Ai đã ra lệnh cho các anh làm thêm hàng rào nầy?

    Kostaky hằn học trả lời:

    - Nó hư đi thì chúng tôi phải sửa lại. Các ông bây giờ lại cấm việc làm hàng rào nữa sao?

    Chúng tôi đã bắt được mật lệnh truyền cho lũ phản động là phải lập hàng rào thật cao và chắc chắn để núp trong đó mà chóng đối âm thầm kế hoạch tập sản hóa đất đai.

    Severin bắt đầu đọc một đoạn trong báo do Boris gởi:

    «Hàng rào là hình ảnh của một xã hội phong kiến và là sáng kiến của cá nhân chủ nghĩa. Lũ đại tư bản đã dùng tường cao hào sâu để tự cô lập mình. Chủ nghĩa cộng sản lại muốn kiến tạo một cuộc sống cộng đồng, kết hợp mọi người lại chứ không chia rẽ.

    Cho nên các rào dậu không thể tồn tại giữa các cá nhân trong một cộng đồng. Vì thế phản ứng cấp thời của lũ tư bản là ra lệnh cho cán bộ của họ ở Lỗ ma ni ra công sửa sang gấp rút rào dậu quanh nhà.»

    Phong trào sửa hàng rào, đắp mô hình trái tim giữa vườn bắt đầu đúng lúc chúng tôi nêu kế hoạch tập sản hóa đất đai.»

    Pillat bảo:

    - Thực chúng tôi không có ẩn ý gì cả. Thật mà.

    - Tôi sẽ đưa cả ba người ra hội đồng xã để khai hết cả, để nói cho chúng tôi biết mật lênh ấy ở đâu ra. Phải khai hết những cán bộ, chủ tịch, nghĩa là tất cả những kẻ âm mưu.

    VI
    Đã ba ngày trôi qua từ lúc bị phá phách, Pillat thầm cảm ơn trời đất đã không bị hỏi han điều tra lôi thôi về hoạt động «phản cach mạng» của chàng, chàng nghĩ là họ đã để cho chàng được yên ổn. Ngày ngày quanh quẩn trong sân, tối vào gian nhà tranh nho nhỏ bên cạnh Marie đối với chàng đã là một niềm vui lớn. Có ông bà nhạc gia ở cạnh là một niềm vui khác.

    Chàng tìm sự yên nghỉ trong công việc trồng trọt hằng ngày và tìm nguồn vui trong những sự kiện nhỏ nhặt nhất, từ ánh nắng mặt trời, sự trong mát của hồ nước cho đến màu xanh bầu trời và tất cả mọi sự việc khác.

    Mỗi lần nghe tiếng xe gắn máy của Severin ngoài đường, chàng trốn vào nhà cho yên thân. Nhưng khác mọi lần, Severin ngừng xe ngay trước nhà.

    - Pillat, tại sao anh trốn tôi? Không ai có thể trốn tránh người Sô Viết cả.

    Ba người lính theo Severin bước vào:

    - Tôi thấy anh có nuôi con chó trong nhà?

    - Chó hoang đấy mà, đến sân nhà tôi chừng ba tuần.

    - Đó, thấy không, chó cũng đánh hơi được nhà của bọn phản động. Chó đến nhà có chứng minh được thức ăn của nhà anh thừa thải không nhỉ?

    - Chó thì ăn cơm thừa canh cặn, cho nên người nghèo kiết xác cũng còn nuôi nỗi chó nữa, huống hồ.

    - Theo bản thống kê của đồng chí Boris thì ở Lỗ ma ni hiện nay có chừng 30 triệu mèo, chó. Mỗi chủ nhà phải chia thức ăn của mình và con cái cho một chó và một mèo. Như thế là một số lượng khổng lồ thức ăn đút vào mồm những thứ vô tích sự đó. Chỉ có một chế độ bóc lột lao động mới có thể đem cơm nước của lao động cho chó mèo. Chừng đó thôi cũng chứng minh sự man rợ của giai cấp trưởng giả; đó là chưa kể những bệnh hoạn do loại đó mang lại. Nhà nước đã quyết định loại bỏ chúng bằng cách khoá miệng 30 triệu mèo chó đó lại để phân phát thức ăn cho kẻ nghèo khổ. Vào lúc nhà nước quyết định thế thì anh lại nuôi chó, làm sao giải thích thái độ đó của anh nhỉ, chắc anh không thể cho là tình cờ chứ?

    Marie, Iléna và Kostaky và vài người hàng xóm lại phải lắng tai nghe một lời kết tội mới. Severin nói tiếp :

    - Một trong những thứ vui bỉ ổi nhất của lũ bóc lột lao động là thản nhiên nhìn lũ trẻ con nhân công chết đói, trong lúc thức ăn họ đem quăng cho mèo chó. Nên đã từ lâu Nga sô quyết định loại bỏ súc vật vô ích. Xã hội nào còn nuôi thú vật ăn bám là một xã hội thoái hoá. Chúng ta bắt chước gương sáng của Nga sô để rửa nhục cho dân tộc. Da của loài thú đó sẽ đem dùng vào kỹ nghệ. Mỡ sẽ được chế thành xà phòng cho nhân dân xài. Nga sô đã viện trợ máy móc cho chúng ta phát triển thứ kỹ nghệ đó.

    Nói xong, Severin ra hiệu, bốn thanh niên cùng nhắm bắn con chó. Tiếng nổ hòa lẫn với tiếng rên la quằn quại của con chó. Máu văng vào tường nhà và vườn tược của Pillat. Lính gác vẫn tiếp tục bắn. Marie, Iléna, Kostaky bịt tai bưng mặt chạy vào nhà để khỏi nghe tiếng rên siết.

    Pillat bỗng nhiên mặc nhận một tội lỗi sâu xa. Chàng kinh hoàng chứng kiến cảnh đó mà không phát ra một cử chỉ nào cả. Đành rằng chàng không thể nào cứu mạng sống con chó nhưng ít ra chàng phải có cử chỉ phản đối. Chàng đã không làm gì cả, và điều đó xem như là một sự phản bội.

    Chó không bao giờ phản chủ, thế mà con người lại đang tâm phản bội mèo chó.

    Severin gọi Kostaky và Pillat lại gần:

    - Nào, mang chó ra trụ sở phường, còn nhiều con nữa. Ra ngoài đó rồi người ta sẽ dạy cách lột da chó.

    Lũ thanh niên lại cầm khí giới đi hạ sát chó trong làng Piatra. Đàn bà trốn biệt trong nhà cầu nguyện Đức mẹ đồng trinh. Lúc Ion Kostaky đến gần con chó, Severin đá sau lưng hách dịch:

    - Nhanh lên, tởm hả? Chó là bạn thân của tá điền. Nó sống trong nhà ông, bây giờ ông lại tởm à?

    Kostaky muốn quay lại, nhưng một cú đá khác bắt ông cúi xuống con vật:

    - Nào, mang lên vai ngay.

    Máu chó chảy xuống cả vai Kostaky, thân thể nó còn nóng như lúc còn sống.

    Chưa tha, Severin còn gọi Marie, Iléna:

    - Hai người kia, ra đây cầm lấy cái đuôi chó. Marie và Iléna vừa khóc vừa bước ra.

    Cả ba cùng theo lệnh Severin tiến ra trụ sở phường, trong lúc dân làng nhìn cạnh đó nghiến răng kèn kẹt. Severin nói tiếp với Pillat:

    - Bước theo ba người kia, bắt đầu từ hôm nay tất cả bọn phản động phải lột da chó và mèo. Việc làm nầy mới xứng với chúng nó...

    VII
    Mỗi tối, lính gác tiếp tục giết mèo chó trong làng Piatra. Dân làng cứ phải mang đến trụ sở phường để lột da.

    Chiều hôm đó trở về nhà, Kostaky còn ngửi thấy mùi máu đong trên áo quần, da thịt và hình như đong lên cả ký ức của ông ta nữa. Cũng như Pillat, cả nhà không ai thiết đến chuyện ăn uống. Họ cùng quay quần trong bóng đêm để tìm một lối thoát.

    Cửa ngỏ mở toang cả ra để thoáng hơi, nhưng mùi thịt chó mèo nóng hổi hình như đã thấm sâu vào tường. Bỗng một chiếc bóng xuất hiện trong sân. Nicolas Vornik bước vào nhà trong dáng dấp sợ hãi, áo quần rách rưới, mình mẩy đầy máu:

    - Họ sẽ bắt tụi mình đêm nay. Đừng thắp đèn lên, cứ nói chuyện trong bóng tối thế nầy tốt hơn. Chúng gọi tôi lại phường, giam vào hầm và đánh đập tôi không ngớt cho tới bây giờ. Bác nhìn xem, chúng đập tôi đến nát xương.

    Vornik run rẩy kể tiếp :

    - Tôi có nghe lỏm thằng Nga nó đọc lệnh mới vừa nhận được. Bảy người ở làng này sẽ bị bắt đêm nay và bị đưa đi đày. Cả bác lẫn cô Marie và cậu Pillat đều nằm trong sổ đen. Có tôi và một vài người họ hàng của bác nữa vị chi là bảy người tất cả.

    Ion Kostaky cẩn thận bảo vợ ra ngoài, chỉ còn Vornik và Pillat ông ta mới bảo:

    - Bác kể lại cho nghe một lần nữa đi.

    - Chính tai tôi nghe là đêm nay khoảng 3 giờ lính sẽ đến bắt chúng mình, bởi vì lúc đó tôi đang bị giam phòng bên cạnh và tôi chỉ biết có thế thôi, nhưng phải đến đây để cùng bàn xem sao.

    Vornik ôm đầu suy nghĩ trong lúc Kostaky ra ngoài bảo Iléna làm cơm, và bảo với vợ con:

    - Đêm nay mình sẽ không ngủ ở nhà. Marie, con cùng đi với ba luôn. Kostaky đề nghị với Vornik :

    - Chúng mình trốn vào rừng, cuộc biến động rồi sẽ qua đi, sau đó vài ngày chúng mình lại về nhà chứ gì.

    Thế là, Marie và Pillat sửa soạn đồ dùng, Vornik về nhà, báo tin cho họ hàng Kostaky. Iléna lo sửa soạn thức ăn.

    Thấy quyết định của mình sắp thực hiện sẽ rất trầm trọng, Kostaky bước ra sân, ngắm cây cối, vườn tược, nhà cửa, vào chuồng vuốt ve mấy con ngựa, và tự nhủ:

    - Mình không đi đâu hết. Thà chết trong sân nhà còn hơn. Không, mình không đi đâu cả.

    Nhưng ông ta lại đổi ý kiến:

    - Đi chứ, mình đi một đêm thôi để tránh chúng nó, rồi sau đó mình trở về ngay.

    Ông ta hỏi con rể :

    - Con có tin là họ sẽ bắt chúng mình không?

    - Dù sao cũng đừng nên ngủ ở nhà đêm nay.

    - Ừ nhỉ.

    Buồn đến phát khóc, Kostaky đứng trước nhà như muốn hít hết không khí cả làng mình đang ở, như muốn đem theo hết với mình nếu có thể, không những chỉ không khí mà thôi, mà còn muốn mang hết vào trong hai buồng phổi cả nhà cửa lẫn súc vật trong chuồng.

    Kostaky vào nhà bảo vợ đi tìm cha Thomas Skobai, còn ông ta thì ở nhà để xem chừng lũ lính gác, rồi thầm nghĩ :

    - Mình chỉ ăn qua loa thôi, vì mình sẽ trở về nhà. Mà họ bắt mình làm gì mới được chứ?

    Nghĩ thế, nhưng ông ta vẫn ra chuồng, vuốt ve lại một lần nữa mấy con ngựa thân yêu. Họ hàng, đức cha, Vornik mới đến, tất cả đều âm thầm sửa soạn trong bóng tối.

    Kostaky an ủi vợ:

    - Bà đừng khóc, vì nếu đêm nay không có gì xảy ra ngày mai mình lại trở về nhà, lo gì.

    Kostaky lại hỏi:

    - Bác có chắc là chúng sắp bắt tụi mình không? Hay bác nằm mơ?

    Vornik lập lại một cách chắc chắn:

    - Đúng 3 giờ đêm nay.

    Vợ Vornik đã băng đầu lại cho ông ta và thay áo. Duy chỉ còn cái quần còn dính máu chưa kịp thay.

    - Thưa cha, cha cầu nguyện cho chúng con đi, một thứ kinh cầu ngắn ngủi cho những con chiên đang gặp nguy hiểm, cho một giai đoạn khó khăn của thời cuộc.

    Đức cha cầu kinh trong bóng tối, mọi người đều quì xuống. Nửa đêm, mưa bắt đầu đổ xuống. Thỉnh thoảng một lằn chớp lóe sáng đủ để cho mọi người nhìn rõ dáng dấp dong dỏng, vần trán cao, bộ râu tóc bạc phơ của đức cha. Và sáu người đang quỳ gối, Marie gục đầu lên vai mẹ. Tất cả bức tranh đó xuất hiện trong chốc lát, rồi mọi sự lại chìm trong bóng tối. Và người ta chỉ còn nghe tiếng mưa rơi cùng tiếng cầu kinh trầm trầm của đức cha như tiếng đại hồ cầm.

    Sau cùng, Kostaky lên tiếng:

    - Thôi, chúng ta đi.

    Cần phải ra đi đột ngột, để khỏi nghe tiếng khóc của Iléna, Kostaky dặn vợ lần nữa:

    - Hết mưa thì mình phải dẫn cha Skobai về, và mình chờ tôi, chừng ngày mai tôi sẽ trở về. Mình xem chừng nhà cửa. Nếu chúng có hỏi thì mình cứ bảo là tôi đi kiếm củi trong rừng.

    Mọi người mang xắc lên vai, hôn tay đức cha, chào Iléna và bước đi.

    Lúc người cuối cùng ra khỏi cửa, Iléna mới bắt đầu khóc. Bà khóc thảm thiết như là trong nhà có người chết.

    Cha Thomas dù tin rằng điều tốt cũng như điều xấu đều do Chúa ban bố nhưng trước khung cảnh trốn tránh của đám nông dân cha cũng không khỏi ngậm ngùi, nỗi buồn nầy đối với cha còn nặng nề hơn cả lúc chứng kiến cảnh một người chết. Cha thầm nghĩ, ý nghĩ giống như một lời kinh hay một bài thơ:

    «Lúc bác nông dân bỏ hoang ruộng vườn, lúa cỏ cũng buồn theo, bởi ai cắt cỏ ai gieo mạ?

    «Lúc bác nông dân bỏ đi, trâu bò cũng buồn theo bởi nước đâu mà uống, rồi cũng đói cả.

    «Lúc người nông dân bỏ đi, chim chóc cũng buồn theo, bởi luống cày không có, mồi đâu mà kiếm?

    Giọt mưa cũng buồn theo

    Cả vũ trụ cũng buồn theo

    Lúc người nông dân bỏ hoang ruộng vườn...»

    Và nỗi buồn như thế lan tràn khắp làng Piatra từ lúc bảy người đó trốn đi.

    VIII
    Trong lúc Kostaky và sáu người khác trốn vào rừng thì Severin và lính gác đang thử lại cách thức bắt bớ tội nhân. Severin bảo:

    - Công việc lưu đày lũ phản động bắt đầu ở Piatra. Các đồng chí phải hãnh diện về điều đó. Ngày mai đồng chí Boris sẽ đến đây để chứng kiến diễn tiến của cuộc lùng bắt nầy.

    Lính gác mang theo đầy đủ áo, mũ, súng ống, Severin đọc to một lần nữa huấn thị của thượng cấp:

    «Việc bắt bớ các người có tên trong danh sách lưu đày sẽ xảy ra từ 2 giờ đến 4 giờ sáng, và phải thực hiện rất nhanh chóng. Nhân viên vào nhà không được gây tiếng động để khỏi làm hàng xóm chú ý. Tù nhân phải được mang đi thật kín đáo. Không được dùng đến súng. Phải lừa cho phạm nhân ra khỏi nhà mà không biết mình bị bắt.»

    Xong, Severin cho lệnh khởi hành. Đèn ở phường vẫn để sáng, Họ đi trong đêm mưa, Severin đi trước, 12 người lính đi theo sau.

    Đến trước nhà Pillat họ ngừng lại. Severin ra lệnh:

    - Các đồng chí tiến lại gần nhà, mỗi người cách nhau một bước, phải bao vây căn nhà vì chúng ta phải bắt họ thình lình.

    Lính gác tuân lệnh, mọi người đều đứng trước các cửa sổ canh phòng sợ Marie và Pillat trốn đi. Severin lắng tai nghe ở cửa chính. Chỉ có tiếng đàn bà khóc ở bên trong. Hắn bước vào, soi đèn bấm khắp nhà.

    Iléna đang quỳ khóc trước bàn thờ. Cha Thomas Skobai đang ngồi chống tay lên đầu gối. Cha không nhìn thấy ánh sáng của chiếc đèn bấm trên tay Severin, vì ngọn lửa đốt cháy nhà thờ của cha độ nào còn mạnh hơn ánh sáng đèn đó gấp bội.

    Quan sát khắp nhà, Severin hỏi:

    - Mấy người khác đi đâu hết rồi?

    - Đi hết.

    Iléna trả lời cộc lốc. Severin bực tức :

    - Không có âm mưu nào mà không có mấy ông cha cố. Lũ phát xít đâu rồi? Họ trốn hồi nào và về phía nào?

    Đức cha không có tên trong danh sách lưu đày, nhưng cũng thuộc vào hạng đáng ngờ. Severin phải xiềng đôi tay ốm nhách của cha lại, rồi hỏi:

    - Họ trốn đi lúc nào và ở đâu?

    - Họ bỏ đi cách đây một giờ. Ở đâu tôi không biết. Chỉ có một người biết mà thôi.

    - Ai?

    - Trời, vâng, chỉ có trời biết mà thôi. Cha Skobai trả lời.

    Severin không thể nào tra hỏi nhân chứng này. Hắn không thể bắt hoặc bỏ tù Trời.

    Hẳn phải hành hạ cha:

    - Tôi sẽ đánh cha cho tới lúc cha nói cho tôi biết họ trốn đi đâu, bởi vì cha biết rõ điều đó.

    Vừa nói vừa đánh cha đến chảy máu. Lũ lính gác lục soát khắp nhà, xích tay Iléna, nhưng không tìm thấy ai.

    Severin nhớ lại là Boris sẽ đến đây ngày mai để xem công việc diễn tiến ra sao, cho nên việc trốn đi này làm hắn giận sôi lên. Hắn lại tiếp tục đánh đập cha Thomas, cha vẫn không nói gì, chỉ nhận những cú đấm đá mà mắt vẫn hướng về Chúa và ngôi nhà thờ bốc cháy. Tức giận, Severin bảo hai lính gác dẫn hai tù nhân về trụ sở phường, xong tiếp tục lục soát. Nhưng vô ý hắn làm đổ cây đèn dầu hỏa trên bàn. Lửa bốc cháy rất nhanh, lũ lính gác muốn tìm nước dập tắt lửa, nhưng Severin đã ra lệnh:

    - Dẫn ông cha và mụ này ra phường. Đừng có dập tắt lửa, cho cháy hết đi.

    Trong lúc họ đưa đức cha và Iléna về phường, thì lửa đã liếm rất nhanh ngôi nhà gỗ của Pillat. Severin ra lệnh tiếp:

    - Đi bắt bọn khác. Chốc nữa sẽ kiếm tụi nầy sau. Severin định ra khỏi sân nhà Pillat. Nhưng trước mặt hắn ngoài đường dân làng đã tề tựu đông đủ. Họ đã thấy đám cháy và định vào chữa lửa, nhưng Severin la to:

    - Không ai được đến gần.

    Mọi người dừng lại, hằn học nhìn Severin và lũ lính gác, lửa cháy sáng như ban ngày. Severin giải thích:

    - Trong nhà nầy hiện có một âm mưu của bọn Phát xít, tôi yêu cầu đồng bào hãy giúp sức chúng tôi bắt hết bọn đó.

    Nhưng hắn thừa biết là dân làng đang ghét hắn, một bà phản đối:

    - Còn chán thì giờ để bắt họ, bây giờ phải dập tắt lửa đã.

    - Phải để cho cháy rụi, vì đó là một ổ phát xít.

    Người đàn bà la to :

    - Cái nhà không có âm mưu gì cả, tại sao lại để cháy rụi?

    Dân làng muốn tiến lên, nhưng Severin và lũ lính gác đã dùng súng ngăn lại, họ đành thối lùi. Một người chửi to vào mặt chúng:

    - Đồ lũ cộng sản chó má, chúng mầy muốn bắn lên cả đầu cha mẹ chúng mầy nữa phải không?

    Một tiếng đàn bà la to:

    - Nếu các ông tự cho là làm việc cho nhân dân, tại sao lại đốt cháy nhà nầy mà không đem phát cho dân làng?

    Severin trả lời :

    - Căn nhà nầy và tất cả vật dụng trong nhà đều đã bị phát xít làm cho thối tha đi rồi, nên ai đến dập tắt lửa sẽ bị bắn ngay. Nhà nước sẽ cấp nhà cửa cho nhân dân nhưng tất cả những gì nhiễm độc đều phải đốt đi. Chúng ta thừa hiểu là nhân dân đang cần nhà cửa, bàn ghế nhưng ở đây tất cả đều bị nhiễm độc rồi, cần phải đốt đi mới được.

    Lửa đã liếm đến mái nhà, dân làng rút lui ra xa. Severin biết lợi dụng lửa để làm đồng minh, nhờ đó mà dân làng không dám lại gần. Đợi căn nhà thành tro, Severin tuyên truyền :

    - Đồng bào thân mến, lửa đốt cháy căn nhà nhưng đồng thời cũng đốt cháy luôn loại vi trùng của cuộc âm mưu, kỷ niệm tủi hổ của tụi sát nhân cũng cháy theo, loại vi trùng chính trị tội lỗi cũng cần phải đốt đi. Nơi đó lũ phát xít đã sinh sống, nghĩa là đã có những vết máu của nhân dân, yêu cầu đồng bào không nên lại gần.

    Nhưng không ai nghe Severin, mọi người đang mãi nhìn đám cháy và những họng súng đang chĩa vào họ. Severin tức giận ra lệnh:

    - Không ai được về nhà, mọi người phải theo tôi đi bắt lũ giặc này mới được.

    Và họ bắt đầu lục lạo khắp vườn, thấy một bóng cây đáng nghi là họ nổ súng, sau cùng họ tiến về phía đồi, dân làng theo sau không phải đi bắt bọn Pillat mà chỉ vì tò mò. Vừa đi, họ vừa đổ các thùng nước cứu hỏa ban nãy xuống đường, và tiếp tục theo gót Severin và lũ lính gác.

Trang 1 / 2 12 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-24-2019, 01:45 AM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-08-2018, 01:04 AM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-07-2016, 05:43 PM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-23-2016, 03:48 AM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-16-2016, 12:06 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •