Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tình yêu chỉ sống được nhờ đau khổ. Sống trong hạnh phúc, tình yêu sẽ chết dần chết mòn.
Bà De Giradin
Trang 2 / 3 ĐầuĐầu 123 Cuối Cuối
Results 11 to 20 of 26

Chủ Đề: Nếu Như Được Làm Lại

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,732
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Nếu Như Được Làm Lại

    Nếu Như Được Làm Lại

    Tác giả :Marc Levy

    Người dịch: Thu Phương



    Andrew Stilman, nhà báo nổi tiếng của tờ The New York Times, vừa kết hôn.

    Sáng ngày 9 tháng Bảy 2012, anh đột ngột bị tấn công khi đang chạy bộ dọc sông Hudson. Anh gục ngã trong vũng máu...

    Andrew tỉnh lại vào ngày 9 tháng Năm 2012, hai tháng trước lễ cưới.

    Kể từ giờ phút đó, anh có 60 ngày để tìm ra kẻ giết mình, 60 ngày giằng co với số phận.

    Từ New York đến Buenos Aires, Stilman lao vào cuộc chạy đua hối hả với các sự kiện, tình tiết đan cài, một cuộc chạy đua với thời gian, phập phồng lo sợ xen lẫn háo hức thách thức định mệnh, cho đến khi nút thắt cuối cùng được gỡ. Một kết thúc bất ngờ đến nghẹt thở.

    Với Nếu như được làm lại, Marc Levy khiến người đọc ngây ngất với sức viết dồi dào của ông, và sự chuyển mình quá đỗi hoàn hảo từ chất lãng mạn thường thấy sang phong cách trinh thám ly kỳ, cuốn hút.



    Nhận định
    "Nên đọc ngay, đừng chần chừ!"

    - La Dépêche du Midi

    "Một cách suy nghĩ thú vị về số mệnh."

    - Metro

    "Nhiều nút thắt mở, một cốt truyện được đan cài khéo léo."

    - Paris Match

    "Đủ mọi sắc thái cảm xúc... say mê, hồi hộp, hài hước."

    - Le Figaro Litteraire



    Tác giả
    Marc Levy sinh ngày 16 tháng Mười năm 1961, tại Pháp và có thời gian dài sinh sống tại Mỹ. Sau những thất bại thuở lập nghiệp với nghề đồ họa và kiến trúc, ông chuyển sang viết văn và đã giành được thành công vang dội ngay từ tác phẩm đầu tay Nếu em không phải một giấc mơ.

    Marc Levy hiện là tác giả hàng đầu của dòng văn học lãng mạn đương đại Pháp. Sách của ông đã được dịch sang 45 thứ tiếng và bán được hơn 24 triệu bản trên toàn thế giới.

    Marc Levy (sinh ngày 16 tháng 10 năm 1961, tại Boulogne-Billancourt, nước Pháp) là nhà văn người Pháp gốc Do Thái.

    Marc Levy viết quyển tiểu thuyết đầu tiên của mình với tên Et si c'était vrai... (Và nếu như chuyện này là có thật hay còn gọi là "Nếu em không phải một giấc mơ") vào năm 1998. Ông viết cuốn sách này cho con trai mình, khi đã là một thương gia thành công. Năm 1999, sau khi bán bản quyền film Et si c'était vrai... cho hãng Dreamworks, ông kết thúc công việc ở hãng kiến trúc để theo đuổi sự nghiệp viết văn của mình. Năm 2001, ông cho xuất bản quyển sách thứ hai, Où es-tu? (Em ở đâu?), tiếp theo là quyển Sept jours pour une éternité... (Bảy ngày cho mãi mãi) vào năm 2003, La prochaine fois (Kiếp sau) vào năm 2004 và quyển Vous revoir (Gặp lại em) vào năm 2005. Năm 2005 cũng là năm trình chiếu bộ phim Just like Heaven (Như một giấc mơ) của hãng Dreamworks - phỏng theo tiểu thuyết Et si c'était vrai... bởi các diễn viên chính: Reese Witherspoon và Mark Ruffal.



    Chương 1
    Hòa mình vào giữa đám đông, gây ra tấn thảm kịch kỳ lạ này mà không ai nhận thấy bất cứ điều gì, nhớ về bất cứ thứ gì.

    Chạy bộ, trang phục hợp cảnh để không ai chú ý. Dọc công viên River Park, vào lúc 7 giờ sáng, tất cả mọi người đều chạy bộ. Trong một thành phố nơi thời gian được quý trọng đến từng phút, nơi thần kinh mỗi con người đều phải trải qua những thử thách cam go, họ chạy; họ chạy để giữ gìn vóc dáng, xóa tan những điều thái quá của ngày hôm qua và chuẩn bị đón nhận những căng thẳng của ngày sắp tới.

    Một băng ghế dài; bàn chân đặt lên mặt ghế, buộc lại dây giày trong lúc đợi mục tiêu lại gần. Mũ liền áo sùm sụp trên trán che bớt tầm nhìn, nhưng cũng góp phần che khuất khuôn mặt. Tranh thủ lấy lại hơi, tránh để bàn tay run lên. Mồ hôi thì có hề chi, nó chẳng khiến ai chú ý cả, cũng chẳng biểu lộ điều gì, ở đây, tất thảy mọi người đều toát mồ hôi.

    Khi anh xuất hiện, để anh chạy vượt qua, đợi vài giây trước khi lại tiếp tục chạy thong thả. Giữ khoảng cách lý tưởng cho đến thời điểm thích hợp.

    Cảnh tượng như vậy lặp đi lặp lại đến bảy lần. Tất cả các buổi sáng trong tuần, vào cùng một giờ nhất định. Mỗi lần ham muốn hành động lại trỗi dậy mạnh mẽ hơn. Nhưng thành công phụ thuộc vào việc chuẩn bị kỹ càng. Không được phép phạm sai lầm.

    Giờ thì anh đang xuôi xuống phố Charles, trung thành với thói quen của mình. Anh đợi đèn giao thông chuyển sang đỏ để băng qua bốn làn đường đầu tiên của xa lộ West Side. Đám ô tô di chuyển về mạn Bắc thành phố, người dân đang đổ dồn tiến về nơi làm việc của mình.

    Anh đã đến dải phân cách. Hình người nhỏ bé sáng trưng trên cột đèn tín hiệu giao thông đã nhấp nháy. Ở đoạn TriBeCa và Financial District, đám ô tô nhích từng tí từng tí một, thanh chống sốc xe này chạm vào thanh chống sốc xe kia, dẫu vậy anh vẫn cứ tiến lên. Như mọi khi, anh đáp trả tiếng còi xe bằng cách giơ nắm tay lên, ngón giữa chĩa thẳng lên trời, rồi rẽ sang trái đi vào con đường dành cho khách bộ hành dọc theo sông Hudson.

    Anh chạy qua hai mươi khối nhà, giữa những người chạy bộ khác, thích thú bỏ lại sau lưng mình những ai không khỏe khoắn và nguyền rủa những ai vượt lên trước mình. Họ chẳng có chút công trạng gì, họ kém anh những mười hay hai mươi tuổi. Hồi anh mười tám tuổi, phần này của thành phố chẳng mấy ai lui tới, nhưng anh là một trong những người đầu tiên hổn hển chạy tới đây. Các kho cảng ngày xưa đua ra phía trên các cột trụ giờ chỉ còn sót lại chút dấu tích, ngày ấy chúng sặc mùi cá chết và han gỉ. Sặc mùi máu. Trong vòng hai mươi năm, thành phố của anh đã đổi thay biết mấy, nó trẻ lại và đẹp lên; còn anh, năm tháng đã bắt đầu hằn dấu trên khuôn mặt.

    Phía bên kia sông, ánh đèn từ khu Hoboken, ngay tiếp sau là ánh đèn khu Jersey City, vụt tắt trong cảnh ngày đang lên.

    Không để khuất tầm mắt; khi đến đoạn giao cắt phố Greenwich, anh liền rời khỏi đường dành cho người đi bộ. Cần phải hành động trước. Buổi sáng đó, anh sẽ không đến được Starbucks Coffee nơi anh vẫn thường gọi món mocaccino cho mình.

    Tới đoạn đi qua Cầu tàu số 4, cái bóng vẫn luôn đi theo anh, mà anh không hề hay biết, sẽ bắt kịp được anh.

    Thêm một khối nhà nữa. Tăng tốc chạy, hòa mình vào nhóm người luôn tụ lại ở chỗ này, do lối đi thu hẹp lại và do những kẻ chậm chạp nhất cản trở những kẻ nhanh nhất. Chiếc kim dài luồn dưới ống tay áo, bàn tay đầy quyết tâm giữ chặt lấy nó.

    Đâm vào khoảng giữa chóp xương cùng và xương sườn cuối cùng. Một cú đâm nhanh và mạnh, một cú “đâm đi-giật lại” sâu vào trong cơ thể để xuyên thủng thận rồi móc ngược lên tận động mạch bụng. Khi rút ra, chiếc kim kéo theo vết rách vô phương cứu chữa, chẳng kịp để ai đó hiểu chuyện gì đã xảy ra, để cứu hộ đến và để anh được chuyển tới bệnh viện và đưa đến phòng phẫu thuật. Ngay cả khi tất cả còi cứu thương đều rú lên inh ỏi thì đến được bệnh viện cũng chẳng phải là chuyện dễ dàng vào giờ này buổi sáng, khi mật độ giao thông dày đặc đến nỗi tài xế xe cứu thương chỉ có thể lấy làm tiếc về sự bất lực của mình.

    Nếu là hai năm trước, anh hẳn có thể có chút may mắn thoát chết. Kể từ khi người ta đóng cửa bệnh viện St Vincent để tạo điều kiện thuận lợi cho mấy tay kinh doanh bất động sản, trung tâm cấp cứu gần nhất cũng ở tận mạn Đông, đối diện với công viên River Park. Chảy máu quá nhiều, anh sẽ sớm cạn sạch máu.

    Anh sẽ không phải chịu đau đớn, không đến mức đó đâu. Anh sẽ chỉ thấy lạnh, càng lúc càng lạnh hơn. Anh sẽ run lập cập vì rét, mất dần cảm giác với các bộ phận cơ thể mình, hai hàm răng gõ vào nhau để rồi không thể thốt lên lời được nữa, mà để nói gì cơ chứ? Rằng anh đã bị thương rất nặng ở lưng ư? Để được gì nào? Cảnh sát có thể rút ra được kết luận nào từ đó cơ chứ?

    Tội ác hoàn hảo có thể tồn tại và những cảnh sát giỏi nhất sẽ thổ lộ với bạn vào lúc kết thúc sự nghiệp rằng họ kéo lê đằng sau, như một gánh nặng đè lên tâm trí họ, hàng lô những vụ án không phá được.

    Thế là đã đúng vị trí. Hành động này đã được thực hiện trên bao cát nhiều lần, nhưng khi chiếc kim đâm vào da thịt con người thì ấn tượng vô cùng khác. Điều quan trọng là không để đâm trúng xương. Đâm phải đốt sống thắt lưng coi như thất bại hoàn toàn. Chiếc kim phải đâm sâu vào rồi được rút ra ngay lập tức giấu vào trong ống tay áo.

    Sau đó, tiếp tục chạy với tốc độ như cũ, cưỡng lại mong muốn quay lại nhìn và giữ mình vô danh, vô hình giữa đám người đang chạy bộ kia.

    Bấy nhiêu giờ chuẩn bị chỉ để cho vài giây hành động.

    Anh thì cần nhiều thời gian hơn thế để đến với cái chết, có lẽ là mười lăm phút, nhưng sáng đó, khoảng 7h30, anh sẽ chết.

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,732
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 11
    Andrew không thể đợi được đến khi tới văn phòng để đọc tờ The New York Times. Anh liền mua một tờ tại ki ốt bán báo ở góc phố nhà mình và chú ý đến bài báo trên trang nhất mà Freddy Olson đã tốc ký ngay sau thông báo của Lầu Năm Góc diễn ra nửa tiếng trước giờ lên trang. Một tàu tuần tra của Hải quân Hoa Kỳ đã bắn một phát cảnh cáo nhằm thẳng hướng con tàu hộ tống Iran vốn đang lại quá gần hạm đội số sáu đóng tại cửa eo biển Ormuz. Phát đạn không gây bất cứ thiệt hại nào cho con tàu hộ tống và khiến nó ngay lập tức phải quay ngược trở lại, nhưng lại làm căng thẳng giữa hai quốc gia ngày một leo thang.

    Andrew hy vọng rằng viên thanh tra cũng sẽ đọc được bài báo này. Vào đầu giờ chiều, sau khi xem dải tin nhanh chạy trên các màn hình trong phòng biên tập, anh gọi cho Valérie để báo cho cô, trước khi cô biết được, rằng một vòi rồng lục địa cấp F5 đã tàn phá một thành phố nhỏ không xa nhà bố mẹ cô là mấy. Cô không có lý gì mà phải lo lắng cho họ khi biết tin này, anh có lý do chính đáng để nói dối vì anh đã ngay lập tức tìm hỏi về tình hình ở Arcadia, tại đó chẳng có chuyện gì xảy ra cả.

    Và, để chuẩn bị cho điều anh vẫn chưa thể tiết lộ với cô, anh đã gọi cho một người bán hoa đặt một bó hoa mẫu đơn rồi viết vài lời yêu thương trên tấm bưu thiếp được anh gài vào giữa những bông hoa. Tối nay, anh sẽ chăm chút cô thật kỹ.

    Anh dành cả buổi chiều để tìm kiếm. Lời nhận xét nhỏ mà viên thanh tra đã nói với anh vào tối qua khiến anh suy nghĩ rất lung. Tại sao không thử thay đổi tiến trình sự việc?

    Trong khi muốn tránh cãi vã với Olson thì anh lại chỉ lùi vụ cãi cọ của họ lại vài giờ, và vụ cãi nhau này còn ác liệt hơn so với lúc ban đầu.

    Khi đi mua nhẫn trước màn cầu hôn của mình, và mặc dù đã tới một cửa hàng trang sức khác, nhưng kỳ lạ thay anh vẫn chọn cùng một kiểu nhẫn đó.

    Tuy nhiên, phải chăng anh cần tự ngăn mình tận dụng những trải nghiệm đã kinh qua? Có thể trong chuyến công tác tới đây tại Buenos Aires anh sẽ thành công trong việc khơi dậy lòng trắc ẩn ở người đàn ông mà anh từng không tài nào khiến ông ta đứng ra làm chứng. Nếu như anh thành công trong việc khiến thiếu tá Ortiz lên tiếng, tổng biên tập sẽ cho đăng lên trang nhất ngay sau lần đầu tiên đọc bài báo của anh và anh có thể dẫn vợ đi nghỉ tuần trăng mật ngay sau lễ thành hôn.

    Nếu như được làm lại? Andrew vội nguệch ngoạc lên trên trang lót của cuốn sổ tay… Ai mà chẳng mong có được cơ may này chứ? Sửa chữa sai lầm, thành công ở nơi mà họ đã thất bại. Cuộc đời đang trao cho anh cơ hội thứ hai…

    Vậy thì mày không lang thang đến quán bar Novecento sao? Một giọng nói từ bên trong khẽ thì thầm với anh.

    Andrew vội xua ý nghĩ này ra khỏi tâm trí. Anh thu dọn đồ đạc và định về nhà trước khi Valérie về. Điện thoại kêu vang, nhân viên trực tổng đài chuyển máy cho anh, một viên thanh tra cảnh sát muốn nói chuyện với anh.

    - Anh đúng là đoán giỏi như thần, Pilguez vào ngay chủ đề mà không cần rào đón lịch sự; gần như là không chệch chút nào.

    - Gần như ư?

    - Đồng nghiệp của tôi không bị gãy xương đòn, mà gãy xương đùi, như thế còn rầy rà hơn ấy chứ. Tôi sẽ không dối anh làm gì, khi đọc báo sáng nay, tôi đã nghi anh là tên lừa đảo hạng siêu. Sau khi vòi rồng quét qua, những hình ảnh trên truyền hình thật khủng khiếp, tôi vẫn còn băn khoăn không biết có nên xem xét lại nhận định của mình. Tôi vừa gác máy sau cú điện thoại trao đổi cách đây gần một tiếng đồng hồ với người đồng nghiệp đang công tác tại đội cảnh sát quận 6. Ông ấy vừa tiến hành tìm kiếm vài thông tin cho tôi và đã xác nhận với tôi rằng vụ tai nạn xảy ra vào chiều nay giữa một chiếc xe cứu thương và một đồng nghiệp của chúng tôi thuộc đội cảnh sát cưỡi ngựa. Anh không thể đoán được tất thảy những chuyện đó.

    - Quả thật là không.

    - Chúng ta cần phải gặp lại nhau, anh Stilman.

    - Ngày mai được không?

    - Đi xuống hai tầng gác bằng thang máy chẳng mất nhiều thời gian của anh đến vậy đâu, tôi đang ở sảnh tòa soạn của anh đây, tôi đợi anh xuống.

    °

    Andrew dẫn Pilguez đến quán bar Marriott. Viên thanh tra gọi một ly scotch, Andrew chẳng mảy may nghĩ ngợi liền gọi ngay một ly Fernet-Coca.

    - Ai muốn giết anh nào? Pilguez lên tiếng hỏi. Và sao câu hỏi này lại khiến anh cười?

    - Tôi đã bắt đầu thảo ra một danh sách, tôi không ngờ là nó dài thế.

    - Chúng ta có thể soạn theo thứ tự bảng chữ cái, nếu điều này có thể giúp ích cho anh, vừa đáp Pilguez vừa lôi một cuốn sổ nhỏ ra.

    - Tôi nghĩ đến Freddy Olson trước tiên, một đồng nghiệp cùng phòng với tôi. Chúng tôi chẳng ưa gì nhau. Ngay cả khi ngày hôm qua tôi đã giảng hòa với hắn, vốn chỉ là biện pháp phòng ngừa mà thôi.

    - Mối thâm thù dai dẳng. Anh có biết tại sao hắn lại hằn thù anh không?

    - Thói đố kỵ trong nghề ấy mà. Tôi đã giành kha khá đề tài của hắn trong những tháng vừa qua.

    - Nếu ai cũng sát hại đồng nghiệp mỗi khi họ giẫm lên chân ta thì hẳn đã phải có một cuộc tàn sát tại phố Wall rồi. Nhưng rốt cuộc thì chẳng gì là không thể. Thế còn gì nữa?

    - Tôi đã nhận được ba lá thư đe dọa tính mạng.

    - Anh quả là một gã kỳ cục, Stilman ạ, anh nói với tôi chuyện đó mà cứ như thể đó là mấy tờ rơi quảng cáo không bằng…

    - Chuyện này thi thoảng vẫn xảy đến mà.

    Andrew tóm tắt ngắn gọn những kết luận của cuộc điều tra anh từng thực hiện tại Trung Quốc.

    - Anh còn giữ mấy lá thư đó chứ?

    - Tôi đã chuyển cho bên an ninh hết rồi.

    - Hãy lấy lại đi, tôi muốn đọc những lá thư đó vào ngày mai.

    - Toàn là thư nặc danh.

    - Chẳng có gì hoàn toàn nặc danh ở thời đại chúng ta cả. Chúng ta có thể tìm ra vài dấu vân tay.

    - Chắc chắn là vân tay của tôi, và của các nhân viên an ninh.

    - Bên khoa học hình sự biết cách tách lọc tốt xấu mà. Anh còn giữ phong bì thư chứ?

    - Tôi nghĩ là có, sao thế?

    - Dấu bưu điện có thể cho ta nhiều thông tin đó. Thư kiểu này thường được viết trong lúc tức giận, và tức giận thì khiến ta khinh suất. Người viết thư có thể bằng lòng với việc gửi những lời đe dọa của mình đi ở bưu điện không xa nhà lắm. Việc này cũng có thể mất nhiều thời gian, nhưng cũng nên tìm những bậc cha mẹ đã nhận con nuôi từ trại trẻ mồ côi đó và xác minh địa chỉ của họ.

    - Tôi chưa từng nghĩ đến chuyện đó.

    - Theo như tôi biết thì anh chẳng phải là cớm. Một đồng nghiệp cùng phòng, ba lá thư đe dọa, anh nói danh sách đó dài dằng dặc, còn ai nữa không?

    - Vào lúc này tôi đang theo đuổi một vụ điều tra cũng vô cùng tế nhị về những thủ đoạn của một số quân nhân thuộc chế độ độc tài ở Argentina.

    - Anh có đặc biệt nhắm đến ai đó không?

    - Trọng tâm bài báo của tôi là về một cựu thiếu tá không quân. Ông ta bị nghi ngờ đã tham gia vào những chuyến bay chết chóc. Tòa đã tuyên ông ta trắng án, tôi sử dụng hành trình của ông ta làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài báo của mình.

    - Thế anh đã gặp ông ta chưa?

    - Rồi, nhưng tôi không tài nào khiến ông ta mở miệng được, tôi hy vọng sẽ có được lời thú tội của ông ta trong chuyến đi tới đây của mình.

    - Nếu tôi tin vào những lời khẳng định vô lý của anh thì có thể nói rằng anh từng đi một chuyến tương tự trong quá khứ, đúng thế chứ?

    - Quả thật đúng là như thế.

    - Tôi những tưởng là anh không thể thay đổi tiến trình sự việc cơ mà?

    - Chính tôi vẫn còn tự nhủ như vậy vào tối hôm qua, nhưng việc ông đang ở đây cộng với cuộc nói chuyện giữa hai ta vốn chưa từng xảy ra, những thứ đó dường như đang chứng minh cho tôi thấy điều ngược lại.

    Pilguez khuấy những viên đá trong cốc của mình.

    - Chúng ta phải rõ ràng với nhau, anh Stilman ạ. Anh đã chứng tỏ mình rất có tài đoán định tương lai, từ đó tới chuyện hoàn toàn tin vào câu chuyện của anh vẫn còn một bước tôi chưa thể vượt qua. Chúng ta hãy thống nhất một phiên bản gây ít vấn đề cho tôi nhất.

    - Phiên bản gì?

    - Anh cho rằng có kẻ định sát hại anh, và rõ ràng là anh được trời phú cho một trực giác nhạy bén khiến người khác phải ngưỡng mộ, tôi chấp nhận giúp anh một tay. Kiểu trợ giúp cho người có khả năng gặp nguy hiểm.

    - Nếu điều đó khiến mọi chuyện dễ dàng hơn với ông… Quay lại với vụ việc của chúng ta, tôi không nghĩ rằng tay cựu thiếu tá không quân Argentina đó có thể theo tôi tới tận đây.

    - Ông ta có thể cho người theo dõi anh. Sao anh lại đặc biệt chọn ông ta làm tâm điểm cho bài báo của mình?

    - Ông ta là nhân vật trung tâm trong đống tài liệu mà tổng biên tập đã đưa cho tôi. “Lịch sử các dân tộc chỉ khiến độc giả xúc động khi nó đề cập đến những con người bằng xương bằng thịt mà ta có thể định hình. Nếu không những câu chuyện dù là chi tiết nhất, thậm chí là kinh khủng nhất, cũng chỉ là một loạt liên tiếp các sự kiện cùng ngày tháng.” Tôi trích dẫn lời cô ấy từng nói đó! Cô ấy đã có lý khi tin rằng hành trình của người đàn ông này sẽ là cách hay để kể lại cách thức mà những con người bình thường có thể biến thành những kẻ đểu giả thật sự dưới ảnh hưởng của các chính quyền hoặc do nhiệt tâm chủ nghĩa dân túy. Trong bối cảnh hiện nay, đây hẳn sẽ là một chủ đề thú vị, ông không thấy thế sao?

    - Thế tổng biên tập của anh không nằm trong diện bị nghi ngờ à?

    - Olivia á? Đương nhiên rồi, cô ấy không có bất cứ lý do gì phải oán giận tôi cả, chúng tôi rất tâm đầu ý hợp.

    - Hợp nhau à, đến mức nào?

    - Ông định bóng gió ám chỉ điều gì vậy?

    - Chẳng phải là anh sắp kết hôn sao? Theo tôi biết thì không phải chỉ có các đồng nghiệp nam của anh mới biết ghen.

    - Ông đang đi sai đường rồi, không hề có bất cứ điều gì nhập nhằng giữa chúng tôi cả.

    - Nhưng với cô ấy, có thể cô ấy lại nhìn nhận mọi việc theo một hướng khác thì sao?

    Andrew suy nghĩ về câu hỏi của viên thanh tra.

    - Không, chân thành mà nói thì tôi không nghĩ thế.

    - Vì anh đã nói thế thì ta gạt Olivia của anh sang một bên vậy…

    - Stern, Olivia Stern.

    - Có hay không có “e” ở cuối từ?

    - Không có.

    - Cảm ơn, vừa đáp thanh tra Pilguez vừa ghi cái tên đó vào sổ tay. Thế vợ chưa cưới của anh thì sao?

    - Cái gì, vợ chưa cưới của tôi á?

    - Thưa anh nhà báo, khi đã đến đoạn cuối của một sự nghiệp dài đằng đẵng, tôi có thể khẳng định với anh rằng, một khi đã loại bỏ những hành vi do những kẻ loạn trí gây ra thì chỉ còn hai dạng giết người, rượu chè trụy lạc và vì tình. Tôi có ba câu hỏi cho anh: anh có nợ nần gì không hoặc có từng là nhân chứng trong một tội ác nào không?

    - Không hề, thế câu hỏi thứ ba của ông là gì?

    - Anh đã từng lừa dối vợ mình chưa?

    °

    Viên thanh tra gọi ly scotch thứ hai, rồi sau đó Andrew kể cho ông nghe một sự việc có thể có liên quan đến vụ mưu sát mình…

    Bị công việc cuốn đi, đã nhiều tháng rồi Andrew chưa có dịp lái chiếc Datsun cổ. Nó hẳn đã sụt cả xuống dưới lớp bụi dày ở tầng hầm thứ ba của bãi đỗ xe nơi nó đang đậu, cách quán Mariott tầm hai bước chân. Bình ắc quy của nó có thể đã hết sạch điện và Andrew nghi rằng lốp xe cũng chẳng còn ngon lành gì.

    Anh có hẹn với một thợ chữa máy vào giờ ăn trưa để cho kéo chiếc xe đến tận xưởng cơ khí của Simon.

    Như mỗi lần anh mang xe trở lại chỗ bạn, Andrew biết rằng Simon sẽ không quên xạc cho anh một trận vì đã bỏ bê nó đến vậy. Bạn anh sẽ nhắc đi nhắc lại chuyện các thợ máy đã tốn bao nhiêu thời gian và công sức để tân trang chiếc xe và rằng phải khó khăn lắm thì bạn anh mới có thể chữa xong để làm anh vừa lòng, đồng thời bạn anh cũng kết luận rằng một món đồ cổ như thế này không xứng thuộc về đồ con lợn. Bạn anh có thể sẽ giữ chiếc xe lâu gấp đôi thời gian cần thiết để sửa chữa như giáo viên tịch thu một món đồ chơi để phạt cậu học sinh, nhưng rồi sẽ trả lại cho anh chiếc Datsun bóng lộn như những ngày đầu.

    Andrew rời tòa báo rồi băng qua đại lộ. Ở lối vào bãi đỗ xe, anh chào người gác cổng vốn đang mê mải đọc báo nên chẳng hề chú ý tới anh. Trong lúc xuống dốc, Andrew nhận thấy phía sau lưng có tiếng động dường như trùng với nhịp bước chân anh, có khả năng là tiếng bước chân anh vọng lại.

    Chỉ có duy một ánh đèn nê ông yếu ớt chiếu sáng tầng ngầm cuối cùng này. Andrew tiến vào lối đi trung tâm, về phía ô đỗ xe số 37, ô bé nhất, nằm kẹt cứng giữa hai chiếc cột. Thao tác mở cửa xe rồi chui vào trong chiếc xe đòi hỏi phải có kỹ năng rèn luyện nhất định nhưng bù lại anh đã được bớt một phần tiền thuê cho vị trí này, nơi mà chẳng có mấy tay lái có thể đỗ nổi xe của mình.

    Anh quệt tay lên capo và nhận thấy chiếc Datsun còn bẩn hơn anh nghĩ. Anh thấy yên lòng khi ấn chân vào lốp trước, chúng dường như đủ căng để có thể được kéo đi mà không bị thiệt hại gì. Tay thợ sửa xe hẳn sẽ sớm đến, Andrew lục tìm chìa khóa trong túi. Anh đi vòng qua chiếc cột rồi trong lúc cúi xuống ổ khóa cửa xe, anh cảm thấy có ai đó ở sau lưng mình. Andrew chưa kịp quay lại nhìn thì một cú đánh bằng gậy bóng chày vào vùng hông đã khiến anh gập người làm đôi. Phản xạ của anh là xoay người để đối diện với kẻ đã tấn công mình, một cú thứ hai, ngay vị trí hạ sườn khiến anh ngừng thở rồi ngã nhào xuống đất.

    Nằm co rúm dưới đất, Andrew khó khăn lắm mới phân biệt được hình dáng của kẻ giờ đang ấn chiếc gậy bóng chày lên lồng ngực anh để buộc anh nằm ngửa ra đất.

    Nếu kẻ đó quan tâm đến chiếc xe thì hắn cứ việc lấy vì dù sao chăng nữa nó cũng chẳng khởi động nổi. Andrew phe phẩy chùm chìa khóa, anh nhận ngay một cú đá vào tay khiến chùm chìa khóa văng ra xa.

    - Hãy cầm lấy tiền của tôi rồi để tôi yên, vừa van xin Andrew vừa rút ví ra khỏi túi áo vest.

    Với đà đánh chính xác khủng khiếp, chiếc gậy bóng chày đã đánh bật chiếc ví đến tận cuối gian hầm.

    - Đồ ngu! Kẻ tấn công thét lên.

    Andrew tự nhủ gã đàn ông tấn công mình là một kẻ thần kinh không bình thường hoặc có thể hắn đã nhầm mục tiêu và nhầm anh với một người khác, trong trường hợp này, tốt nhất là nên nói cho hắn biết càng sớm càng tốt.

    Rốt cuộc anh cũng dựa được lưng vào cửa xe.

    Chiếc gậy bóng chày đập tan cửa kính xe, một cú khác rít lên phía trên đầu Andrew vài phân, đánh bật chiếc gương chiếu hậu.

    - Khoan, dừng lại đã, Andrew kêu lên, mẹ khỉ, tôi đã làm gì anh nào?

    - Giờ mày còn dám lên tiếng hỏi cơ à? Thế tao đã làm gì mày nào?

    Đúng là một kẻ thần kinh không bình thường, Andrew sững sờ rút ra kết luận.

    - Giờ là lúc mày phải trả giá, vừa nói gã đàn ông vừa vung gậy lên.

    - Tôi xin anh, Andrew rên rỉ, tôi chẳng hiểu anh nói cái gì cả, tôi không quen biết anh, tôi cam đoan với anh là anh nhầm rồi.

    - Tao biết đích xác kẻ mà tao cần giải quyết. Một kẻ thối nát chỉ nghĩ đến cái sự nghiệp cỏn con của mình, một tên đểu cáng không hề quan tâm đến đồng loại, một kẻ rác rưởi, gã đàn ông hét lên càng lúc càng đầy đe dọa.

    Andrew kín đáo luồn tay vào túi áo vest và tìm thấy điện thoại di động. Bằng mấy đầu ngón tay, anh cố gắng rà tìm xác định các phím số cho phép anh thực hiện cuộc gọi khẩn cấp, nhưng anh cũng hiểu rằng ở cái tầng ngầm thứ ba này thì chẳng có bất cứ cơ may nào để chiếc điện thoại của anh bắt được sóng.

    - Tao sẽ đánh gãy tay và vai của mày, tao sẽ khiến mày chẳng thể làm hại ai được nữa.

    Andrew cảm thấy tim mình đập thình thịch, cái thằng điên này rốt cuộc định đánh anh đến chết. Anh phải thử làm gì đó, nhưng lượng adrenalin lan tràn khắp các mạch máu đã khiến nhịp đập trái tim anh trở nên dữ dội. Toàn thân anh run bắn, và chắc hẳn anh không tài nào đứng vững trên đôi chân mình.

    - Chuyện này chẳng đáng tự hào lắm nhỉ?

    - Cứ đặt mình vào vị trí của tôi mà xem, Andrew vặc lại.

    - Mày dám cả gan nói những điều như thế thì quả là lạ thật đấy! Chính xác là tao những muốn mày ở vào vị trí của tao đấy. Nếu mày làm thế thì chúng ta cũng chẳng phải đi đến mức này đâu, gã đàn ông vừa thở dài vừa ấn đầu gậy bóng chày vào trán Andrew.

    Andrew thấy chiếc gậy được vung lên cao quá đầu mình rồi đập xuống nóc chiếc Datsun, phần nóc xe bẹp rúm dưới sức nặng của cú đập.

    - Thế cái đó giúp mày kiếm được thêm bao nhiêu? Hai nghìn, năm nghìn hay mười nghìn đô la?

    - Nhưng anh đang nói đến cái gì mới được chứ?

    - Ra vẻ ngây thơ hả! Mày định nói với tao rằng đó không phải là vấn đề tiền nong, rằng mày cày việc như trâu chỉ để giành vinh quang đúng không? Rằng đúng là mày đang làm cái nghề hay ho nhất quả đất, có phải không? Gã đàn ông nói thêm với giọng vẻ kinh tởm.

    Bỗng nhiên có tiếng động cơ, tiếng răng rắc của bộ ly hợp rồi hai chùm đèn sáng trưng chiếu vào bóng tối.

    Kẻ tấn công do dự giây lát; trong cơn tuyệt vọng, Andrew lấy hết sức bình sinh đứng dậy rồi lao vào để tóm lấy cổ hắn. Gã đàn ông thoát ra không chút khó khăn, tung một cú đấm móc vào hàm Andrew rồi lao về phía đoạn dốc chạy trốn, sượt qua người thợ máy đang chiếu đèn pha về phía Andrew.

    Người thợ máy xuống xe rồi lại gần Andrew.

    - Có chuyện gì xảy ra thế?

    - Tôi vừa bị đánh, vừa nói Andrew vừa xoa xoa mặt.

    - Vậy là tôi đến vừa kịp lúc!

    - Nếu sớm hơn mười phút thì còn tốt hơn nữa, nhưng cũng phải cảm ơn anh nhiều, tôi nghĩ là anh vừa giúp tôi thoát khỏi điều tồi tệ nhất.

    - Tôi những muốn có thể nói như vậy về chiếc xe của anh, hắn ta hành hạ chiếc xe kinh quá. Rốt cuộc thì dù sao vẫn còn tốt hơn là anh bị như thế.

    - Đúng thế, ngay cả khi tôi biết có một kẻ sẽ chẳng đồng tình với anh đâu, Andrew vừa nhìn chiếc Datsun vừa thở dài.

    - Này, chính thế đó, tôi sẽ không đến để rồi lại chẳng làm gì đâu. Anh có chìa khóa chứ? Người thợ máy lên tiếng hỏi.

    - Chúng nằm ở đâu đó dưới đất ấy, vừa đáp Andrew vừa bắt đầu sờ soạng tìm kiếm.

    - Anh có chắc là không muốn tôi đưa anh đi cấp cứu chứ? Người thợ máy lại hỏi.

    - Cảm ơn anh, trừ lòng tự ái ra thì tôi chẳng bị sao cả.

    Dưới ánh đèn pha từ xe của người thợ máy, Andrew đã tìm thấy chùm chìa khóa gần một cây cột và chiếc ví của anh nằm không xa một chiếc Cadillac hai chỗ là mấy. Anh giao lại chìa khóa cho người thợ máy rồi bảo với anh ta rằng giờ thì anh không thể đi cùng anh ta đến tận ga ra được. Anh ngoáy vội địa chỉ xưởng sửa xe của Simon trên tờ biên lai chi phí rồi đưa cho anh ta.

    - Vậy tôi sẽ phải nói gì với chủ xưởng đây?

    - Anh cứ nói là tôi ổn và tôi sẽ gọi cho anh ta vào tối nay.

    - Lên đây đi, tôi sẽ đưa anh ra khỏi bãi đỗ xe này, ta chẳng bao giờ biết được gã loạn trí kia có còn lảng vảng sau mấy hàng xe kia không nữa; anh nên đến báo cảnh sát đi.

    - Tôi chẳng thể miêu tả nổi chân dung kẻ tấn công mình, điều duy nhất tôi có thể nói là hắn thấp hơn tôi cả cái đầu, và tôi thật sự không muốn huênh hoang về điều này.

    Andrew chia tay người thợ máy ở phố 40 rồi quay trở lại văn phòng. Cơn đau ở hông dịu đi phần nào nhưng anh cảm giác có một lớp xi măng gắn chặt hàm mình lại. Anh không có chút ý niệm gì về danh tính kẻ đã tấn công mình, nhưng anh nghi ngờ chuyện kẻ đó tấn công nhầm người, và suy nghĩ này khiến anh thực sự lo lắng.

    °

    - Vụ tấn công xảy ra khi nào? Pilguez hỏi.

    - Trong dịp nghỉ lễ cuối năm, giữa Giáng sinh và năm mới, khi đó tôi ở lại New York một mình.

    - Hắn có vẻ dùng gậy rất hoạt đúng không? Một ông bố trong gia đình, Chủ nhật nào cũng chơi bóng chày với cậu con trai. Tôi sẽ chẳng bất ngờ khi tác giả của một trong những lá thư nặc danh mà anh đã nhận được không chỉ dừng lại ở việc dùng ngòi bút để thể hiện thái độ bất mãn của mình. Và anh không thể miêu tả thêm chút gì cho tôi à?

    - Ở bãi đỗ xe đó rất tối, vừa đáp Andrew vừa cụp mắt xuống.

    Pilguez đặt tay lên vai anh.

    - Tôi đã nói với anh là mình công tác bao nhiêu năm trong ngành cảnh sát trước khi về hưu chưa nhỉ? Ba mươi lăm năm, và còn hơn thế một chút, một quãng thời gian dài kinh khủng phải không?

    - Vâng, tôi cũng có thể hình dung ra.

    - Thế theo anh, suốt ba mươi lăm năm trong nghề ấy, tôi đã hỏi cung bao nhiêu kẻ bị tình nghi rồi?

    - Việc tôi biết hay không thì có quan trọng lắm không?

    - Lật bài ngửa với nhau nhé, chính bản thân tôi cũng chẳng thể đếm nổi số ấy, nhưng bù lại, điều tôi có thể nói với anh, đó là ngay cả khi đã về hưu, tôi vẫn có thể nhận ra người ta đang giấu tôi điều gì. Khi ai đó phỉnh phờ mình thì luôn có thứ gì đó khập khiễng không khớp nhau.

    - Kiểu thế nào?

    - Ngôn ngữ cơ thể không thể nói dối. Một cái chau mày, hai má ửng đỏ, đây này, hơi ửng lên như má anh vào lúc này đây, đôi môi mím lại, hay như ánh mắt lảng tránh. Giày của anh đã được đánh xi kỹ chưa đây?

    Andrew ngẩng đầu nhìn lên.

    - Cái ví mà tôi nhặt được trong bãi đỗ xe không phải của tôi mà là của kẻ tấn công tôi. Hắn ta hẳn đã đánh rơi nó khi chạy trốn.

    - Sao anh lại giấu chuyện này?

    - Tôi lấy làm xấu hổ vì bị đánh bởi một gã thấp hơn mình một cái đầu. Và rồi khi lục lọi đám giấy tờ, Andrew nói tiếp, tôi phát hiện ra hắn ta là giáo viên.

    - Vậy điều đó thay đổi được gì?

    - Đó không thực sự là chân dung của một kẻ thô lậu. Người đàn ông đó không phải vô cớ mà tấn công tôi, một trong những bài báo của tôi hẳn đã gây hại cho anh ta.

    - Anh vẫn giữ chỗ giấy tờ tùy thân đó chứ?

    - Chúng nằm trong ngăn kéo bàn làm việc của tôi.

    - Được rồi, vậy chúng ta sẽ làm một chuyến đến văn phòng của anh nhé, chỉ cần sang đường là đến thôi.


  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,732
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 12
    Pilguez đến tìm Andrew vào lúc 6h30. Nếu họ muốn tóm gọn người có tên là Frank Capetta, giáo sư thần học tại Đại học New York, thì tốt nhất là nên đợi anh ta ở dưới nhà trước khi anh ta đi làm.

    Chiếc taxi thả cả hai xuống góc giao giữa phố 101 và đại lộ Amsterdam. Những tòa chung cư có giá cho thuê được kiểm soát này do thành phố quản lý. Sừng sững kiêu ngạo với hai mươi tầng lầu, tòa nhà số 826 vươn cao trên một sân bóng rổ cùng một công viên nhỏ có hàng rào sắt bao quanh nơi nhiều trẻ em đang chơi đùa.

    Pilguez và Andrew ngồi xuống một băng ghế đối diện với sảnh vào tòa nhà.

    Anh ta mặc áo khoác bằng vải gabađin, cánh tay ôm chặt cứng chiếc túi đeo và còng lưng bước đi, như thể sức nặng của toàn nhân loại đang đè lên vai anh ta. Andrew ngay lập tức nhận ra Capetta, anh đã nhìn bức ảnh trên giấy phép lái xe của anh ta hàng nghìn lần, đồng thời tự nhủ mình đã làm gì mà khiến anh ta nổi nóng đến vậy.

    Pilguez quay sang nhìn Andrew và anh liền gật đầu xác nhận rằng đó chính là người đàn ông này.

    Họ cùng đứng dậy rồi rảo bước thật nhanh và bắt kịp anh ta trước khi anh ta đi đến điểm dừng xe buýt. Vị giáo sư tái mặt khi Andrew đến đứng đối diện với mình.

    - Anh không từ chối một tách cà phê nhỏ trước khi đi làm chứ? Pilguez hỏi với giọng dường như không thể tranh cãi.

    - Tôi sẽ muộn tiết giảng của mình mất, Capetta xẵng giọng đáp, và tôi chẳng hề muốn dùng cà phê với tên này, anh ta nói thêm. Hãy để tôi đi hoặc tôi sẽ kêu toáng lên đấy, sở cảnh sát nằm cách đây chưa đầy trăm mét đâu.

    - Và rồi anh sẽ nói gì với cảnh sát đây? Pilguez đáp trả. Rằng cách đây vài tháng, anh đã đánh nhừ tử người đàn ông này bằng gậy bóng chày và phá tanh bành chiếc xe cổ của anh ta, trò tiêu khiển trong dịp nghỉ lễ của anh ư?

    - Còn trên cả hèn hạ! Capetta vừa thở hắt ra vừa nhìn Andrew vẻ khinh bỉ. Mày còn đến đây với con khỉ đột này để trả thù ư?

    - Cảm ơn lời khen nhé, Pilguez đập lại. Ít nhất thì anh cũng chẳng phủ nhận sự việc. Tôi chẳng phải là vệ sĩ của anh ta mà chỉ là một người bạn không hơn không kém. Xét cái cách mà anh đã cư xử trong cuộc gặp gần đây giữa hai người, anh sẽ chẳng thể trách anh ta dẫn theo người đến đây đâu.

    - Tôi không đến đây để ăn miếng trả miếng với anh, Capetta, Andrew chen vào.

    - Sao các người lại tìm ra tôi?

    Andrew đưa chiếc ví cho vị giáo sư.

    - Sao lại phải đợi lâu đến vậy? Vừa nhận lại giấy tờ Capetta vừa hỏi.

    - Thôi nào, chúng ta đi dùng chút cà phê được chưa? Pilguez vừa giậm giậm chân trên vỉa hè vừa nài nỉ.

    Họ cùng vào quán cà phê Roma và chọn một bàn ở tận cuối phòng.

    - Các người muốn gì? Capetta lên tiếng hỏi.

    - Một bữa cà phê lai rai, Pilguez đáp.

    - Muốn hiểu vì sao anh lại tấn công tôi, Andrew đi thẳng vào vấn đề.

    Pilguez rút bút cùng tập giấy ghi chép ra khỏi túi rồi đẩy nó trượt trên bàn đến trước mặt Capetta.

    - Trong khi tôi đi gọi đồ, tôi rất lấy làm biết ơn nếu anh viết cho tôi vài dòng như sau: một miếng thịt dê quay, hai cân khoai tây, kinh giới ô, hai củ hành tím, một lọ kem tươi năm mươi phần trăm, một gói mù tạt bột, hai gói pho mát gruye nạo nhỏ, một bó măng tây và đúng rồi, một bánh pho mát.

    - Sao tôi lại phải viết những thứ đó? Capetta vặn hỏi.

    - Bởi vì tôi đã lịch sự yêu cầu anh viết thế, vừa trả lời Pilguez vừa đứng dậy.

    - Thế nếu tôi không muốn viết thì sao?

    - Tôi đặc biệt càng không muốn đến kể cho trưởng phòng nhân sự trường Đại học New York về chuyện một giáo sư của trường đã làm gì vào dịp lễ Giáng sinh, nếu anh hiểu những gì tôi muốn nói! Nào, bắt tay vào việc đi! Lát nữa tôi sẽ quay lại, anh muốn uống gì, một tách trà chẳng hạn?

    Andrew và Capetta ngạc nhiên nhìn nhau. Capetta bắt tay vào viết và trong lúc anh ta chép lại những từ Pilguez vừa đọc, Andrew bèn hỏi anh ta câu hỏi chỉ chực buột khỏi miệng anh.

    - Vậy rốt cuộc là tôi đã làm gì anh hả Capetta?

    - Anh giả đò không biết hay anh là một tên ngốc?

    - Có thể là mỗi loại một chút.

    - Lão chó ngao của anh vừa nói là một gói hay một lọ mù tạt ấy nhỉ? Tôi chẳng còn nhớ nữa.

    - Tôi nghĩ là một gói.

    - Anh đã phá hỏng toàn bộ cuộc sống của tôi, Capetta vừa thở dài vừa tiếp tục bài chép chính tả của mình, thế đã đủ cho anh chưa hay anh còn muốn chi tiết hơn?

    Capetta ngước lên nhìn Andrew.

    - Dĩ nhiên là anh muốn tường tận chi tiết rồi! Tôi có hai con, thưa anh Stilman, một cậu con trai bảy tuổi và một cô con gái bốn tuổi rưỡi. Sam và Léa. Lần sinh Sam đã gây ra nhiều biến chứng cho sức khỏe vợ tôi. Bác sĩ đã nói rằng chúng tôi không thể có con được nữa. Chúng tôi luôn ao ước Sam có thêm một em trai hay một em gái nữa. Paolina, vợ tôi, là người gốc Uruguay. Lũ trẻ là tất cả cuộc đời cô ấy. Cô ấy cũng là giáo viên, môn lịch sử, và học sinh của cô ấy thì nhỏ tuổi hơn sinh viên của tôi nhiều. Đến khi chúng tôi rốt cuộc cũng chấp nhận rằng chẳng thể còn hy vọng nào nữa thì chúng tôi quyết định nhận con nuôi. Tôi chẳng cần phải nói anh cũng biết cái việc này tốn thời gian và tẻ ngắt đến mức nào. Một số gia đình phải kiên nhẫn đợi vài năm trời mới có thể đạt được giấc mơ này. Chúng tôi được biết là Trung Quốc đang không còn biết làm gì với hàng nghìn đứa trẻ bị bỏ rơi. Luật kiểm soát sinh sản của họ cho phép mỗi gia đình chỉ có một con. Chính quyền Trung Quốc rất nghiêm khắc. Rất nhiều cặp vợ chồng không có điều kiện sử dụng các biện pháp tránh thai. Khi nhỡ có đứa thứ hai, họ không đủ tiền nộp phạt theo quy định, nên đôi khi họ buộc phải bỏ con.

    Với nhiều đứa trẻ thuộc diện này, cuộc đời chúng bị gói gọn trong bốn bức tường của trại trẻ mồ côi, hưởng một nền giáo dục qua loa đại khái và một cuộc sống chẳng có hy vọng lớn lao gì. Tôi là một người mộ đạo, và tôi những muốn tin rằng bi kịch mà chúng tôi phải gánh chịu là do đức Chúa trời giáng xuống để chúng tôi mở mắt nhìn thấy nỗi thống khổ của kẻ khác, để chúng tôi trở thành cha mẹ của một đứa trẻ mà bố mẹ chúng không hề muốn có chúng. Khi đến một cơ sở của Trung Quốc, cơ sở hợp pháp nhất thế giới, tôi xin khẳng định với anh là chúng tôi có nhiều cơ hội đạt được mục đích của mình trong khoảng thời gian rất hợp lý. Và chuyện đã diễn ra đúng như thế. Chúng tôi đã tuân thủ các cuộc điều tra của chính quyền Hoa Kỳ và chúng tôi được chấp thuận nhận con nuôi. Với điều kiện trả năm nghìn đô la chi phí hồ sơ cho trại trẻ mồ côi, tôi có thể khẳng định với anh rằng đây cũng là một khoản kha khá đối với chúng tôi, chúng tôi đã có được hạnh phúc lớn lao vô cùng tận, dĩ nhiên là sau sự ra đời của Sam. Chúng tôi đã đến đón Léa tại Trung Quốc vào ngày mùng 2 tháng Năm năm 2010. Theo những giấy tờ mà họ trao cho chúng tôi thì khi ấy con bé vừa tròn hai tuổi. Hẳn là anh nên chứng kiến niềm hạnh phúc của Sam khi chúng tôi trở về với em gái của nó trong vòng tay. Thằng bé sướng phát điên lên. Trong vòng một năm, chúng tôi từng là gia đình hạnh phúc nhất trần đời. Dĩ nhiên là ban đầu Léa cũng gặp nhiều khó khăn trong chuyện thích nghi. Con bé khóc rất nhiều, nó sợ hãi tất thảy mọi thứ, nhưng chúng tôi đã trao cho nó tất cả tình yêu thương trìu mến dịu dàng để rồi vài tháng sau, con bé đã trao cho chúng tôi một món quà tuyệt vời khi bập bẹ gọi chúng tôi là bố là mẹ. Mời ông ngồi, Capetta nói với Pilguez, cái cảm giác bị ông đứng mãi sau lưng mình chẳng thoải mái gì cho cam.

    - Tôi không muốn cắt ngang lời anh kể.

    - Dù sao thì ông cũng đã thành công rồi đó thôi, Capetta đáp lại.

    - Cứ tiếp tục đi anh Capetta, Andrew nài tiếp.

    - Vào cuối thu năm ngoái, tôi bắt xe buýt về nhà như vẫn làm mỗi tối. Tôi ngồi ở băng ghế cuối cùng và, như mọi khi, tôi bắt đầu đọc tờ báo buổi sáng.

    Tối hôm đó, tôi chẳng cần nhắc lại ngày tháng phải không anh Stilman, tôi đặc biệt chú ý đến bài báo viết về một trại trẻ mồ côi ở tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Câu chữ của anh vô cùng xót xa, anh Stilman à, khi anh miêu tả những người mẹ bị người ta lấy mất cả cuộc sống khi cướp đi sinh linh quý giá nhất trên đời, đứa con của họ. “Họ chờ đợi thần chết như người ta chờ đợi một người bạn”. Đó chính xác là những từ anh đã viết ra. Tôi chẳng phải là người mau nước mắt, nhưng tôi đã khóc khi gập báo lại và tôi tiếp tục khóc lúc thiếp ngủ vào buổi tối sau khi đã hôn con gái mình.

    Ngay lập tức tôi cho rằng con gái mình nằm trong số những đứa trẻ bị đánh cắp kia. Mọi thứ đều trùng khớp với nhau, thời gian, địa điểm, khoản tiền trả cho trại trẻ mồ côi. Từ trong thâm tâm, tôi biết điều đó, nhưng suốt hàng tuần trời, tôi đã nhắm mắt làm ngơ. Đức tin, một khi đã chân thành, buộc chúng ta phải tôn trọng đồng loại của mình. Ta phải chịu trách nhiệm trước Đấng Tối cao về một phần con người mà Người đã tin tưởng trao ta khi ban tặng cuộc sống cho ta. Chỉ cần một giây sống buông lỏng, hèn nhát, tàn ác là sẽ đánh mất phẩm cách của mình mãi mãi. Nhiều người mộ đạo rất sợ bóng tối của Địa ngục, tôi thì giảng dạy về thần học, chuyện này luôn khiến tôi thấy buồn cười. Địa ngục ở ngay sát ta thôi, nó mở cánh cửa đón ta xuống ngay khi ta mất đi lẽ làm người của mình. Những suy nghĩ này ám ảnh tôi cả ngày lẫn đêm. Làm sao lại để mình trở thành tòng phạm, dù là bị động, của hành động đáng ghê tởm đó cơ chứ? Làm sao có thể tiếp tục nghe Léa gọi chúng tôi là bố, là mẹ trong khi tôi vẫn biết rằng ở đâu đó, trong một ngôi nhà khác, bố mẹ đẻ của con bé đang kêu thầm tên của nó trong nỗi tuyệt vọng vì thiếu vắng con bé. Chúng tôi những muốn trao toàn bộ tình yêu thương của mình cho một đứa trẻ bị cha mẹ từ chối yêu thương, chứ không phải trở thành những kẻ chứa chấp một đứa trẻ bị đánh cắp.

    Bị cảm giác tội lỗi gặm nhấm, rốt cuộc tôi cũng nói tất cả cho vợ mình. Paolina chẳng muốn nghe bất cứ điều gì nữa. Léa là con của cô ấy, cũng như việc con bé đã trở thành con gái tôi, Léa là con của chúng tôi. Ở đây, con bé sẽ có được một cuộc sống tốt đẹp hơn, một nền giáo dục cùng một tương lai tươi sáng. Ở đó, bố mẹ con bé không thể đáp ứng được những nhu cầu của nó cũng như việc chăm sóc sức khỏe cho nó. Tôi vẫn nhớ một trận cãi vã kinh khủng giữa Paolina và tôi. Tôi chê trách logic của cô ấy. Theo cô ấy thì phải giành lấy tất cả con của những người nghèo mới là chính đáng! Tôi đã nói với cô ấy rằng chủ định của cô ấy là xấu xa, và rằng cô ấy không có quyền nghĩ như vậy. Tôi đã khiến cô ấy bị tổn thương sâu sắc và cuộc tranh luận về Léa đã khép lại mãi mãi.

    Trong khi Paolina gắng sức duy trì cuộc sống bình thường, hằng ngày tôi tiến hành tìm kiếm thông tin. Vài đồng nghiệp cùng khoa người Trung Quốc cảm phục công việc tôi làm đã giúp sức cho tôi rất nhiều. Thư đi thư lại, hết mối quen này đến mối quen khác, các thông tin dần dần đến với tôi. Tôi sớm phải chấp nhận sự thật rõ ràng. Léa đã bị cướp khỏi vòng tay bố mẹ đẻ khi con bé mới được mười lăm tháng tuổi. Anh cũng biết rõ sự việc như tôi rồi đấy, vào tháng Tám năm 2009, một nhóm cảnh sát biến chất đã tới nhiều ngôi làng hẻo lánh ở tỉnh này rồi bắt cóc những đứa trẻ nhỏ tuổi. Léa đang chơi trước cửa nhà khi chúng đến. Đám cảnh sát đã bắt con bé ngay trước mắt bà mẹ, người đã bị chúng đánh cho một trận nhừ tử khi cố chống lại chúng để bảo vệ con mình.

    Tôi chịu ơn một đồng nghiệp thân thiết vốn là trưởng khoa ngôn ngữ phương Đông tại trường, William Hoàng, anh ấy đã tận dụng nhiều mối quan hệ quý báu tại quê hương, nơi mà anh ấy thường xuyên lui về. Tôi đã đưa một tấm ảnh của Léa cho anh ấy. Chỉ cần một chuyến đi là đủ để anh ấy mang về cho tôi cái tin khủng khiếp đó. Lực lượng thanh tra cảnh sát được Bắc Kinh triển khai vây bắt những kẻ khốn nạn thực hiện hành vi bất chính này đã tìm thấy bố mẹ hợp pháp của Léa. Họ sống trong một thôn nhỏ, cách trại trẻ mồ côi tầm một trăm năm mươi ki lô mét.

    Đầu tháng Mười hai năm ngoái, Sam cùng mẹ về Uruguay một tuần để thăm ông bà ngoại thằng bé. Chúng tôi đã thống nhất là mình tôi sẽ ở lại với Léa. Tôi đã có quyết định của mình kể từ khi anh bạn đồng nghiệp của tôi trở về Mỹ, kể từ khi sự thật hiển hiện rõ ràng đến như vậy. Khi đó tôi đã bắt đầu chuẩn bị điều kinh khủng nhất mà tôi từng làm trong đời.

    Ngay sau ngày khởi hành của vợ và con trai tôi, Léa cùng tôi đã lên máy bay. Do gốc gác của con gái tôi cùng những ý định của tôi nữa, tôi đã nhận được thị thực không chút khó khăn. Một hướng dẫn viên đợi chúng tôi ở sân bay Bắc Kinh, anh ta đã cùng chúng tôi đáp máy bay đến Trường Sa rồi đưa chúng tôi đến tận thôn nhỏ kia.

    Anh không thể tưởng tượng nổi điều tôi đã trải qua trong vòng hai mươi lăm tiếng đồng hồ của cuộc hành trình đâu, anh Stilman. Tôi những muốn quay gót trở lại hàng trăm lần. Khi Léa mỉm cười với tôi, kinh ngạc thán phục khi xem những đoạn phim hoạt hình chiếu trên màn hình nhỏ gắn vào hàng ghế trước mặt, khi con bé gọi tôi là bố rồi hỏi tôi là đang đi đâu. Khi máy bay hạ cánh, tôi đã nói với con bé sự thật, gần như toàn bộ sự thật. Tôi đã nói là hai bố con sẽ đi thăm đất nước nơi con bé được sinh ra, và tôi nhận thấy trong ánh mắt thơ trẻ đó xen lẫn giữa ngạc nhiên và niềm vui thích.

    Thế rồi chúng tôi đến ngôi làng quê hương con bé. Chúng tôi đang ở rất xa New York, đường đi đắp bằng đất nện, điện thì chỉ rải rác thấy trong những ngôi nhà được xây bằng đá tảng. Léa thấy ngạc nhiên trước tất thảy, con bé nắm chặt lấy tay tôi và thốt lên sung sướng. Ở độ tuổi lên bốn, khám phá thế giới là một điều tuyệt vời, phải không nào?

    Chúng tôi gõ cửa một ngôi nhà nhỏ, có một người đàn ông ra mở cửa cho chúng tôi. Khi nhìn thấy Léa, anh ta không thể thốt lên lời nào, ánh mắt chúng tôi giao nhau, anh ta đã hiểu ra tại sao chúng tôi lại ở đây. Mắt anh ta ngân ngấn nước, mắt tôi cũng y hệt. Léa vừa nhìn người đàn ông vừa tự hỏi người đàn ông này là ai mà con bé lại khiến ông khóc. Anh ta quay người lại gọi vợ mình. Ngay khi nhìn thấy người vợ, hy vọng cuối cùng mà tôi hằng nuôi dưỡng bấy lâu bỗng dưng bốc hơi trong giây lát. Hai mẹ con họ giống nhau đến nao lòng. Léa như chân dung của người mẹ thật của con bé. Anh đã từng chiêm ngưỡng thiên nhiên khi nó hồi sinh vào mùa xuân chưa anh Stilman? Khi đó ta ngờ rằng mùa đông chưa bao giờ tồn tại. Gương mặt người phụ nữ đó là hình ảnh gây xáo trộn nhất trong đời tôi. Chị ta quỳ xuống trước mặt Léa, toàn thân run lẩy bẩy, chìa tay cho con bé rồi những sức mạnh bền chặt nhất trong cuộc sống đã trỗi dậy. Về phần Léa, con bé không hề sợ sệt, không chút do dự, đã tiến bước về phía người phụ nữ ấy. Con bé đặt tay lên mặt mẹ, vuốt ve má chị ta như thể nó đang tìm cách nhận ra đường nét của người đã sinh thành ra mình, và rồi con bé vòng tay ôm lấy cổ chị ta.

    Người phụ nữ ấy, vô cùng gầy guộc, đã nhấc bổng con gái nhỏ của tôi khỏi mặt đất rồi ôm siết con bé thật chặt. Chị ta khóc rồi hôn khắp người con bé. Chồng chị ta lại gần rồi đến lượt mình, anh ta ôm siết cả hai mẹ con trong vòng tay.

    Tôi ở lại bên họ trong vòng bảy ngày, bảy ngày đó Léa có những hai người bố bên mình. Trong quãng thời gian một tuần vô cùng ngắn ngủi đó, tôi từ từ dạy con bé rằng nó đã trở về nhà, rằng cuộc sống của nó là ở đây. Tôi đã hứa với nó rằng chúng tôi sẽ quay lại đây thăm nó, rằng một ngày nào đó nó sẽ vượt đại dương đến thăm chúng tôi… đó là lời nói dối trắng trợn, nhưng tôi không đủ sức làm khác đi, tôi chẳng còn chút sức lực nào nữa.

    Người hướng dẫn viên kiêm phiên dịch cho chúng tôi cũng hiểu được những gì tôi đang trải qua, cả hai chúng tôi nói chuyện với nhau rất nhiều. Buổi tối ngày thứ sáu, trong lúc tôi đang khóc trong bóng tối, bố của Léa đã lại giường tôi rồi mời tôi đi theo anh ta. Chúng tôi cùng ra ngoài, trời lạnh buốt, anh ta khoác một cái chăn lên vai tôi rồi chúng tôi tới ngồi ở thềm nhà và anh ta đưa cho tôi một điếu thuốc lá. Tôi không hút thuốc, nhưng vào tối đó, tôi đã nhận điếu thuốc. Tôi những hy vọng vệt thuốc cháy sẽ khiến tôi quên được nỗi đau đang bóp nghẹt lấy mình. Ngày hôm sau, chúng tôi thống nhất với người hướng dẫn viên là sẽ khởi hành vào đầu giờ chiều, trong lúc Léa ngủ trưa. Nói lời tạm biệt con bé là điều bất khả với tôi.

    Sau bữa ăn trưa, tôi cho con bé đi ngủ, lần cuối cùng, tôi nói với nó những lời yêu thương, rằng tôi sẽ đi du lịch, rằng nó sẽ rất hạnh phúc và rằng một ngày nào đó hai bố con sẽ gặp lại nhau. Con bé thiếp ngủ trong vòng tay tôi, tôi hôn lên trán con bé, hít ngửi lần cuối mùi hương của con bé để nó thấm vào tôi cho đến tận cuối đời mình. Và rồi tôi ra đi.

    John Capetta rút khăn mùi soa ra khỏi túi áo lau nước mắt, gập khăn lại rồi hít thật sâu trước khi tiếp tục câu chuyện.

    - Khi rời New York, tôi đã để lại một lá thư rất dài cho Paolina, trong đó tôi giải thích cho cô ấy công việc tôi tiến hành, điều mà tôi phải tự mình làm vì chúng tôi sẽ không đủ sức làm cùng nhau. Tôi cũng viết cho cô ấy rằng qua thời gian, chúng tôi sẽ vượt qua được thử thách khủng khiếp này. Tôi xin cô ấy tha thứ, van xin cô ấy nghĩ đến tương lai sẽ đợi chúng tôi nếu tôi không làm như vậy. Liệu chúng tôi có thể nhìn con gái mình lớn lên trong nỗi e sợ rằng một lúc nào đó nó sẽ biết sự thật? Một đứa trẻ được nhận nuôi rốt cuộc luôn có nhu cầu phải làm sáng tỏ nguồn gốc của mình. Những ai không thể làm được điều đó sẽ phải chịu đau khổ suốt cả cuộc đời. Ta chẳng thể làm gì khác được, điều đó thuộc về bản chất con người rồi. Nhưng khi đó ta sẽ nói gì với con bé? Rằng đã từ lâu chúng tôi biết bố mẹ đẻ của con bé ở đâu ư? Rằng chúng tôi vô tình là đồng phạm trong vụ bắt cóc con bé ư? Rằng lý do duy nhất của chúng tôi là đã quá yêu nó ư? Khi ấy hẳn chúng tôi đáng bị nó từ bỏ và hẳn sẽ là quá muộn để con bé có thể nối lại liên lạc với gia đình thật sự của mình.

    Tôi đã viết cho vợ mình rằng chúng tôi không nhận nuôi một đứa trẻ để rồi đến khi trưởng thành, nó lại trở thành trẻ mồ côi.

    Vợ tôi yêu con bé như con đẻ của mình. Tình yêu không bắt nguồn từ sự đồng nhất của hệ gien. Hai mẹ con mới chỉ rời xa nhau một lần duy nhất là khi Paolina về Uruguay với Sam.

    Anh hẳn phải nghĩ tôi là một con quỷ thì mới chia lìa hai mẹ con như vậy. Chỉ có một chuyện là thế này, anh Stilman à, khi Léa về nhà chúng tôi, con bé không ngừng nhắc đi nhắc lại một từ mà chúng tôi cứ nghĩ là từ mà bọn trẻ con hay nói linh tinh. Đó là từ ‘Niang’, cả ngày con bé vừa kêu niang, niang, niang vừa nhìn ra cửa. Sau này, khi hỏi anh bạn đồng nghiệp nghĩa của từ đó, anh ấy đã buồn bã trả lời rằng trong tiếng Hoa, niang nghĩa là mẹ. Léa đã gọi mẹ trong suốt hàng tuần trời mà chúng tôi không hề hiểu.

    Chúng tôi đã sống với con bé hai năm, khi con bé lên bảy hoặc tám, có thể còn chưa tới, hẳn nó sẽ xóa chúng tôi khỏi bộ nhớ. Còn tôi, nếu tôi phải sống đến trăm tuổi, tôi vẫn sẽ luôn nhìn thấy khuôn mặt con bé. Cho đến tận giây phút cuối cùng, tôi vẫn sẽ nghe thấy tiếng cười của con bé, tiếng hét trẻ thơ của con bé, tôi sẽ vẫn ngửi thấy mùi thơm từ đôi má tròn xoe của con bé. Ta sẽ không bao giờ quên con mình dù rằng đó không hoàn toàn là con đẻ của ta.

    Khi trở về nhà, tôi thấy căn hộ trống trơn. Paolina chỉ để lại chiếc giường của chúng tôi, cái bàn bếp cùng một chiếc ghế. Không còn bất cứ món đồ chơi nào trong phòng Sam. Và trên chiếc bàn bếp, nơi tôi đã đặt bức thư van xin cô ấy một ngày nào đó hãy tha thứ cho tôi, cô ấy đơn giản chỉ viết bằng mực đỏ ‘Không bao giờ’.

    Tôi không biết hai mẹ con đi đâu, không biết cô ấy đã rời Mỹ chưa, không biết liệu cô ấy có đưa con trai tôi về Uruguay không, hoặc đơn giản là chỉ chuyển đến thành phố khác.

    Ba người đàn ông trở nên câm lặng trong giây lát.

    - Anh không báo cảnh sát à? Pilguez lên tiếng hỏi.

    - Để làm gì với họ đây? Rằng tôi đã bắt cóc con gái của chúng tôi và rằng vợ tôi cũng đã hành động tương tự khi bỏ trốn cùng con trai chúng tôi ư? Để họ vây bắt cô ấy ư? Để họ bắt cô ấy và các tổ chức xã hội sẽ giao Sam cho một gia đình nhận nuôi trong thời gian tòa án làm sáng tỏ câu chuyện của chúng tôi rồi định đoạt số phận của thằng bé ư? Không, tôi không làm thế, chúng tôi đã chịu quá nhiều khổ đau rồi. Anh thấy đó, anh Stilman, nỗi tuyệt vọng đôi khi biến thành cơn giận dữ. Tôi đã phá hỏng xe của anh, bản thân anh, gia đình tôi và cuộc đời tôi.

    - Tôi thực lòng vô cùng lấy làm tiếc, anh Capetta à.

    - Giờ thì anh đang như vậy, bởi vì anh đồng cảm với nỗi đau của tôi, nhưng chỉ sáng mai thôi, anh sẽ tự nhủ rằng đó không phải lỗi của anh, rằng anh chỉ làm nghề của mình mà thôi, và rằng anh tự hào khi làm việc đó. Anh đã đem sự thật ra ánh sáng, tôi đồng tình với anh về chuyện đó, nhưng tôi muốn hỏi anh một câu, anh Stilman à.

    - Bao nhiêu câu cũng được.

    - Trong bài báo của mình, anh đã viết rằng năm trăm gia đình Mỹ, thậm chí có thể là một nghìn, đã vô tình dính líu vào vụ buôn bán trẻ em này. Đã có giây phút nào anh nghĩ đến bi kịch mà anh sẽ kéo những gia đình đó vào trước khi cho in bài báo của mình không?

    Andrew cụp mắt nhìn xuống.

    - Đó cũng đúng là điều tôi đã từng nghĩ, Capetta thở dài.

    Rồi anh ta đưa cho Pilguez tờ giấy ghi những chữ mà ông đã bảo anh ta viết.

    - Bài chính tả ngớ ngẩn của ông đây.

    Pilguez cầm lấy tờ giấy, lôi từ trong túi ra bản sao ba lá thư mà Andrew đã nhận từ phòng bảo vệ của tòa soạn rồi đặt tất cả lên bàn.

    - Chẳng dính dáng gì đến nhau hết, Pilguez nói, không cùng nét chữ.

    - Ông nói về cái gì vậy? Capetta hỏi.

    - Anh Stilman đây đã nhận được nhiều lá thư đe dọa tính mạng, tôi muốn chắc chắn rằng anh không phải là tác giả của một trong những lá thư đó.

    - Vì thế mà các ông đến tận đây ư?

    - Cùng nhiều nguyên do khác nữa, đúng vậy.

    - Khi ở bãi đỗ xe đó, tôi chỉ muốn trả thù, nhưng tôi đã không có khả năng làm điều đó.

    Capetta cầm mấy lá thư rồi đọc lướt lá đầu tiên.

    - Tôi sẽ không bao giờ có thể giết được ai đó, vừa nói anh ta vừa đặt lá thư đầu tiên xuống.

    Mặt anh ta tái nhợt đi khi cầm đến lá thư thứ hai.

    - Anh còn giữ phong bao của lá thư này không? Anh ta hỏi giọng run run.

    - Còn, sao thế? Andrew hỏi.

    - Tôi có thể xem được không?

    - Trước tiên hãy trả lời câu hỏi mà Andrew đã đặt ra cho anh đã, Pilguez chen vào.

    - Tôi biết rất rõ nét chữ này, Capetta thì thầm. Đó là chữ vợ tôi. Anh nhớ xem lá thư đó có dán tem nước ngoài không? Một con tem Uruguay thì cũng dễ nhận ra, tôi đoán thế?

    - Mai tôi sẽ kiểm tra lại, Andrew đáp.

    - Cảm ơn anh, anh Stilman, chuyện này rất quan trọng với tôi.

    Pilguez và Andrew đứng dậy rồi chào vị giáo sư thần học. Khi cả ba tiến ra đến cửa, Capetta gọi Andrew lại.

    - Anh Stilman, vừa nãy tôi có nói với anh là tôi không đủ khả năng giết người.

    - Anh đổi ý rồi chăng? Pilguez hỏi lại.

    - Không, nhưng sau chuyện đã xảy ra, tôi không chắc Paolina có vậy không. Nếu là anh, tôi sẽ không coi thường lời đe dọa của cô ấy đâu.

    °

    Pilguez và Andrew cùng bước lên toa tàu điện ngầm. Vào giờ này, đây là phương tiện giao thông nhanh nhất để đến tòa soạn.

    - Tôi phải công nhận là anh rất có khiếu trong việc tạo thiện cảm với mọi người, anh bạn thân mến à.

    - Sao ông không nói với anh ta rằng ông là cảnh sát.

    - Đối diện với một cảnh sát, anh ta có quyền giữ im lặng và đòi luật sư của mình có mặt. Tin tôi đi, tốt nhất anh ta cứ coi tôi là con khỉ gorila của anh còn hơn, dù rằng như thế thì cũng chẳng thích thú gì cho cam.

    - Nhưng ông về hưu rồi mà, phải không?

    - Đúng, chính xác là thế. Thế anh muốn gì nào, tôi không có vẻ giống thế sao?

    - Bài chính tả để so sánh nét chữ ấy, quả tình tôi không thể nghĩ ra.

    - Thế anh nghĩ gì hả anh Stilman, rằng cái nghề cảnh sát là để ngồi xó bàn ư?

    - Nhưng mà phần câu chữ phải chép thật vô cùng ngớ ngẩn.

    - Tôi đã hứa với mấy người bạn cho tôi ở nhờ rằng tôi sẽ nấu bữa tối nay. Mấy câu chữ ngớ ngẩn, theo như lời anh nói, là danh sách đồ mà tôi cần mua đó. Tôi cứ sợ là sẽ quên thứ gì đó. Không hẳn là ngớ ngẩn như thế chứ, đúng không hả anh nhà báo. Tay Capetta kia khiến người ta phải suy nghĩ quá. Có khi nào anh nghĩ về những hậu quả do bài báo của mình gây ra với cuộc sống của những người khác không?

    - Ông chưa từng mắc sai lầm nào trong suốt sự nghiệp thanh tra dài dằng dặc của mình ư? Ông chưa bao giờ phá hỏng cuộc sống của một người vô tội để đi đến cùng những đoán chắc của mình, để bằng mọi giá kết thúc được một cuộc điều tra ư?

    - Anh cứ nghĩ là có đi. Mở hay nhắm mắt, trong cái nghề mà tôi từng làm, là việc phải lựa chọn giữa hai con đường xảy ra hằng ngày. Đưa một tên tội phạm vị thành niên ra vành móng ngựa, với tất cả những hệ lụy sau đó, hay lờ đi, thảo một báo cáo buộc tội hay làm ngược lại tùy vào từng tình huống. Mỗi một vụ phạm pháp lại là một trường hợp cá biệt. Mỗi một tên tội phạm lại có một câu chuyện của riêng hắn. Đối với một số tên thì ta chỉ muốn cho hắn một phát đạn vào đầu, còn với kẻ khác ta những muốn cho họ một cơ hội thứ hai; nhưng tôi chỉ là một cảnh sát chứ không phải quan tòa.

    - Vậy ông có thường xuyên nhắm mắt không?

    - Anh đến nơi rồi, anh Stilman, cẩn thận không anh nhỡ bến của mình đó.

    Chiếc tàu chạy chậm lại rồi dừng hẳn. Andrew siết chặt tay viên thanh tra rồi bước xuống ke tàu.


  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,732
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 13
    Ở tuổi hai mươi tư, Isabel là mẹ của một bé gái lên hai. Chồng cô, Rafaël Santos, lớn tuổi hơn cô một chút, là nhà báo. Hai vợ chồng sống trong một căn hộ khiêm tốn tại khu phố Barracas. Isabel và Rafaël gặp nhau ở trường đại học. Cũng giống như chồng, Isabel theo học ngành báo chí; anh luôn nói với cô rằng ngòi bút của cô chín chắn và rõ ràng hơn của anh, và cô thực sự có biệt tài miêu tả chân dung một ai đó. Tuy nhiên, khi cô con gái đầu lòng chào đời, Isabel đã chấp nhận từ bỏ sự nghiệp cho đến khi María Luz đi học. Nghề báo là niềm đam mê chung của cả hai vợ chồng và Rafaël không bao giờ cho đăng bài viết của mình mà chưa đưa cho vợ đọc. Mỗi khi cô con gái say ngủ, Isabel lại ngồi vào bàn bếp, cây viết chì trong tay, để nhận xét bài viết của chồng. Rafaël, Isabel và María Luz sống một cuộc sống hạnh phúc căng đầy và tương lai hứa hẹn nhiều điều vô cùng tốt đẹp.

    Thế rồi cuộc đảo chính đã làm xáo trộn đất nước dưới ách độc tài quân sự khiến những dự định của họ tan tành mây khói.

    Rafaël bị mất việc làm. Nhật báo trung lập La Opinión nơi anh làm việc, dù đã đi theo đường lối xuất bản “thận trọng” đối với chính quyền mới, bị đóng cửa. Sự kiện đó đã khiến cặp vợ chồng rơi vào tình cảnh khó khăn tài chính tồi tệ nhất, nhưng đối với Isabel, chuyện này lại gần như một sự giải thoát. Chỉ duy những nhà báo thể hiện lòng trung thành với tướng Videla là vẫn được tiếp tục hành nghề. Isabel và Rafaël, vốn theo chủ nghĩa Peron cánh tả, không bao giờ chịu chấp nhận viết dù chỉ một dòng cho những tờ báo như Cabildo hay thậm chí cho nhiều nhật báo khác sẽ còn xuất hiện sau này.

    Với đôi bàn tay khéo léo, Rafaël chuyển sang làm cho một xưởng mộc trong khu phố, Isabel cùng cô bạn thân hàng ngày thay phiên nhau trông mấy đứa con của cả hai và làm công việc giám thị ở trường trung học khoa học.

    Những ngày cuối tháng chẳng hề dễ dàng gì, nhưng hai khoản lương còm cộng lại cũng cho phép họ vượt qua khó khăn và đáp ứng được những nhu cầu của cô con gái nhỏ.

    Khi Rafaël trở về từ xưởng mộc, sau bữa tối, cả hai lại ngồi vào bàn ăn. Isabel nhận thêm việc khâu vá cũng cho cô có thêm chút thu nhập, trong lúc đó Rafaël ngồi viết để phơi bày những bất công, các cuộc trấn áp do chế độ độc tài tiến hành, nạn tham nhũng của chính quyền, sự tiếp tay của Nhà thờ và để cho thấy cảnh u buồn mà nhân dân Argentina đang ngập chìm trong đó.

    Cứ 11h sáng, Rafaël lại rời xưởng với cái cớ là đi hút thuốc. Một người đi xe đạp dừng lại chỗ anh rồi hỏi xin một điếu thuốc. Và trong khi Rafaël châm lửa cho anh ta, anh kín đáo đưa cho anh ta tờ giấy đã viết tối qua. Tay sứ giả mang bài viết bị cấm kia đến tận một nhà kho đã cải dụng thành một nhà in bất hợp pháp. Cứ như thế Rafaël tham gia viết bài cho một tờ nhật báo kháng chiến được bí mật phát hành.

    Rafaël và Isabel mơ một ngày nào đó có thể rời Argentina để đến định cư tại một quốc gia nơi rốt cuộc họ cũng được tự do.

    Vào những tối khi tinh thần Isabel xuống rõ, Rafaël lại lôi cuốn sổ nhỏ bọc bìa đỏ ra khỏi tủ côm mốt. Anh tính đếm khoản tiền tiết kiệm và đếm ngược đến ngày khởi hành. Khi đã lên giường, anh thì thầm với cô tên những thành phố như kể về một giấc mơ và cứ thế cho đến khi họ thiếp ngủ say, Rafaël thường là người ngủ trước tiên.

    Vào đầu mùa hè, sau bữa tối, cô con gái nhỏ María Luz đã say giấc nồng từ lâu, Rafaël không viết bài như mọi khi và Isabel cũng không khâu vá như mọi ngày mà lui về phòng sớm hơn thường lệ. Isabel khỏa thân chui vào chăn. Cô có làn da mịn màng và xanh xao. Kể từ khi làm nghề mộc, Rafaël sợ rằng bàn tay chai sần của mình khiến cô khó chịu mỗi khi anh vuốt ve cô nên anh gắng tìm cách âu yếm cô nhẹ nhàng nhất.

    - Em yêu đôi bàn tay lao động của anh, vừa cười Isabel vừa thì thầm vào tai anh, hãy bảo nó ôm em chặt hơn nữa đi.

    Đúng lúc Rafaël đang ái ân cùng vợ thì có tiếng gõ cửa căn hộ nhỏ của họ.

    - Đừng nhúc nhích, anh chàng thợ mộc học việc vừa nhặt chiếc áo sơ mi vứt ở chân giường vừa bảo vợ.

    Tiếng gõ cửa càng mạnh hơn nữa và Rafaël sợ rằng tiếng ồn ào này sẽ đánh thức con gái họ.

    Khi anh ra mở cửa, bốn gã đàn ông bịt kín mặt ấn anh xuống, đánh anh một trận nhừ tử để buộc anh phải nằm sấp xuống đất.

    Trong khi một trong mấy gã kia giữ chặt anh nằm dưới đất bằng cách ấn đầu gối xuống lưng anh thì tên thứ hai túm lấy tóc Isabel khi cô hốt hoảng chạy ra khỏi phòng ngủ. Hắn đẩy cô lùi sát tường phòng bếp, lấy chiếc khăn lau quấn quanh cổ cô rồi siết chặt cho đến khi cô ngừng kêu la. Tiếng kêu của Isabel nghẹn lại, chiếc khăn siết lại chỉ đủ để cho cô hít thở. Tên thứ ba tiến hành lục soát nhanh căn hộ rồi trở lại phòng khách ngay sau đó với María Luz trong tay, một con dao gí sát cổ họng cô bé.

    Không nói một lời, mấy gã đàn ông ra hiệu cho Rafaël và Isabel mặc quần áo vào rồi đi theo bọn chúng.

    Chúng đưa họ ra ngoài rồi bắt họ trèo lên khoang sau chiếc xe tải nhỏ. Còn María Luz thì ngồi ở đằng trước.

    Chiếc xe băng qua thành phố với tốc độ chóng mặt. Dù có vách ngăn chia cách họ với buồng lái và tiếng động cơ ồn ào xâm chiếm khắp không gian, Rafaël và Isabel vẫn nghe thấy tiếng cô con gái không ngừng gọi bố mẹ. Mỗi khi cô con gái María Luz hét lên “Mẹ ơi” là Isabel lại thổn thức không ngừng. Rafaël nắm lấy tay vợ và tìm cách làm vợ dịu đi, nhưng làm cách nào để xoa dịu một người mẹ đang nghe thấy tiếng con mình kêu gào đây? Ba mươi phút sau, chiếc xe tải nhỏ dừng lại. Cửa xe đột ngột mở ra một khoảng sân vuông vắn. Chúng bắt họ xuống xe không chút nể nang, Rafaël lại nhận một cú đánh nữa vào đầu khi anh muốn quay lại xe, nơi con gái anh vẫn ở đó, và khi Isabel thử lùi lại, một trong mấy gã kia nắm lấy tóc cô rồi buộc cô phải đi thẳng về phía trước. Phía trước đó dẫn tới một cánh cửa của tòa nhà bao quanh khoảnh sân lát đá kia.

    Isabel hét gọi tên con gái liền bị nhận một cú đấm vào hàm khiến cô khuỵu xuống cầu thang trước mặt. Rafaël chạy theo cô và cũng nhận một cú đá vào vùng thắt lưng.

    Cả hai sụp xuống chân cầu thang, trên nền đất nện sặc mùi nước tiểu. Rồi chúng nhốt Isabel vào một buồng giam, còn Rafaël thì bị nhốt trong buồng khác…

    - Em đang làm gì thế? Andrew lên tiếng hỏi ngay khi bước vào phòng khách.

    Valérie đặt vội mấy tờ giấy cô vừa đọc xuống chiếc bàn thấp.

    - Có phải vì họ cũng là nhà báo mà cuộc điều tra này luôn ám ảnh anh đến vậy không?

    - Mẹ kiếp, Valérie, đây là tài liệu mật! Dù sao anh cũng sẽ không phải khóa chặt ghi chép của mình trong chính nhà mình đấy chứ! Hãy hiểu cho anh, đây là công việc của anh, anh chỉ yêu cầu em tôn trọng điều đó thôi, Andrew vừa kết lại với giọng bình tĩnh vừa thu dọn đống giấy tờ.

    - Isabel có quyền đọc những thứ mà chồng cô ấy viết… và thậm chí còn đưa ra nhiều đề xuất cho anh ta.

    - Anh rất lấy làm tiếc, nhưng anh chẳng muốn vậy, anh ghê tởm việc người khác đọc những ghi chép của mình.

    - “Người khác” ở đây chính là vợ chưa cưới của anh đó. “Người khác” chấp nhận cảnh cô đơn khi anh đi công tác hàng tuần dài đằng đẵng, và khi anh ở đây “người khác” cũng hiểu rằng anh đang ở tận đẩu đâu, trong đầu toàn bận tâm đến công việc, vì yêu nên “người khác” tôn trọng tất thảy những điều đó. Nhưng đừng đòi hỏi em sống cùng anh nếu em không thể sẻ chia một chút niềm đam mê này với anh.

    - Em thích những thứ em vừa đọc à? Andrew hỏi.

    - Em đã sợ xanh mặt khi biết điều sẽ xảy đến với gia đình kia, với María Luz, nhưng đồng thời em cũng ghen tị với cảnh chung sức đồng lòng của Rafaël và Isabel khi cùng nhau làm việc bên bàn bếp.

    - Đó chỉ là bản phác thảo thôi, Andrew lầm bầm.

    - Còn hơn thế nữa.

    - Anh sẽ không bao giờ có thể xuất bản câu chuyện của họ nếu như không quay lại Argentina. Đó không phải là tiểu thuyết hư cấu, em hiểu không? Những con người đó thực sự đã tồn tại, và anh không thể bằng lòng với một hoặc hai nhân chứng như vậy.

    - Em biết là anh sẽ phải quay lại nơi đó. Niềm đam mê khích lệ anh chính là một trong những lý do khiến em yêu anh. Em chỉ mong anh đừng để em đứng ngoài.

    Andrew ngồi xuống cạnh Valérie, anh nắm lấy tay cô rồi hôn cô.

    - Chính em mới là người có lý, anh là thằng ngốc bỗng trở nên cuồng ám khi có gì liên quan đến nghề của mình. Anh bị ám ảnh về việc giữ bí mật, anh sợ làm méo mó sự thật, sợ mình thiên vị, bị ảnh hưởng và bị thao túng. Chỉ bởi vì lẽ đó mà anh muốn em khám phá điều anh đang chiến đấu khi bài báo được in ra. Nhưng anh đã nhầm, vừa nói anh vừa lắc đầu, nhưng kể từ giờ phút này, anh sẽ cho em đọc dần dần những thứ anh viết.

    - Và? Valérie thêm vào.

    - Và cái gì?

    - Và anh sẽ quan tâm thêm một chút đến công việc của em chứ?

    - Mọi thứ liên quan đến em đều khiến anh quan tâm, em muốn anh đọc những bản báo cáo phẫu thuật của em ư?

    - Không, Valérie vừa cười vừa đáp, em muốn anh đến thăm văn phòng làm việc của em, dù chỉ một lần, để em có thể chỉ cho anh thấy ngày làm việc của em ra sao thôi.

    - Em muốn anh đến thăm chuồng ngựa của đoàn cảnh sát cưỡi ngựa ư?

    - Còn nhiều thứ khác nữa, và cả văn phòng của em, phòng phẫu thuật, phòng xét nghiệm phân tích…

    - Anh nghĩ là anh thích em chăm sóc lũ chó bông hơn… Lý do duy nhất mà anh không bao giờ đến thăm em chính là vì anh cực kỳ sợ lũ ngựa.

    Valérie nhìn Andrew rồi mỉm cười với anh.

    - Anh chẳng việc gì phải sợ chúng cả. Những câu chữ mà em vừa đọc còn hãi hùng hơn bội phần con ngựa đực hăng tiết nhất ấy chứ.

    - Hăng tiết đến mức nào? Andrew vặn lại.

    Rồi anh đứng dậy.

    - Anh đi đâu thế? Valérie hỏi.

    - Chúng ta đi hít thở chút không khí đi, anh muốn chúng ta cùng nhau đi dạo trong khu Village và anh sẽ giúp em khám phá một nơi mà chúng ta sẽ ăn tối thật tình tứ với nhau.

    Khi Andrew khoác áo măng tô lên vai Valéria, cô quay về phía anh rồi hỏi:

    - Chuyện gì đã xảy đến với Rafaël và Isabel, lại còn cả María Luz nữa.

    - Để sau đi, Andrew vừa đáp vừa khóa cửa lại, sau này anh sẽ kể tất cả cho em nghe.

    °

    Anh Capetta,

    Vợ anh đã gửi lá thư đó từ Chicago, con tem được đóng dấu tại một bưu điện đối diện với công viên Warren.

    Tôi thực lòng lấy làm tiếc về tất cả những chuyện đã xảy đến với anh.

    Chào thân ái,

    Andrew Stilman

    T/b: Hãy tự mình kiểm tra, nhưng trên những hình ảnh về công viên mà tôi có thể tra trên mạng, tôi thấy hình như có một sân chơi dành cho trẻ con…

    Andrew cho tờ giấy vào một phong bì, ghi lại địa chỉ của người nhận rồi đặt vào giỏ nhận thư chuyển đi.

    Quay trở lại chỗ ngồi, anh không thể ngăn mình thôi nghĩ đến những lời cuối cùng Capetta nói với anh về vợ anh ta.

    “Nếu là anh, tôi sẽ không coi thường lời đe dọa của cô ấy đâu.”

    Và Chicago chỉ cách New York có hai giờ bay…

    Điện thoại của anh reo vang, nhân viên lễ tân báo với anh là có một vị khách đang đợi anh ở tầng trệt.

    Andrew đi vội về phía thang máy. Trong buồng thang máy, anh bỗng thấy rét run người và cảm thấy đau cuối sống lưng kinh khủng.

    °

    - Trông anh có vẻ không được khỏe, thanh tra Pilguez đưa ra lời nhận xét.

    - Chắc là do mệt thôi, tôi không biết mình bị sao nữa, tôi đang lạnh cóng cả người đây.

    - Lạ nhỉ, anh đang toát mồ hôi đầm đìa kìa.

    Andrew lấy tay quệt trán.

    - Anh muốn ngồi xuống nghỉ một lát không? Pilguez đề nghị.

    - Đi ra ngoài thôi, tôi cần hít thở chút không khí, Andrew đáp.

    Nhưng đột nhiên cơn đau trở nên dữ dội đến mức anh không thể tiến thêm bước nào nữa. Pilguez đỡ anh khỏi ngã khuỵu xuống trong lúc chân Andrew nhũn ra.

    Khi Andrew tỉnh lại thì anh thấy mình đang nằm trên băng ghế ở tiền sảnh. Pilguez đang ở bên cạnh anh.

    - Anh đã lấy lại thần sắc rồi. Anh làm tôi sợ chết khiếp, tôi thấy anh bỗng dưng ngất xỉu. Anh có thường xuyên bị vậy không?

    - Không, à mà trước đây tôi chưa bao giờ bị vậy.

    - Đó là do căng thẳng quá thôi, anh bạn thân mến, Pilguez thở dài. Tôi biết mình đang nói gì với anh, ta sẽ mất hết mọi khả năng khi ta sợ hãi. Trống ngực đánh liên hồi, tai ù đi, ta chìm đắm vào một cơn mơ mộng, tiếng ù dần tan đi và cốp một cái, mông ta đập xuống nền đất. Anh đang khiến chúng ta rơi vào một cơn khủng hoảng khiếp hãi nho nhỏ.

    - Có lẽ là thế.

    - Anh đã kể chuyện của mình cho ai khác ngoài tôi ra chưa?

    - Ông muốn tôi kể chuyện xảy đến với mình cho ai cơ chứ, ai tin tôi chứ?

    - Anh không có bạn à?

    - Dĩ nhiên là có chứ!

    - Có bao nhiêu người bạn mà anh có thể tin tưởng trong tất thảy mọi tình huống? Pilguez hỏi giọng hơi giễu cợt.

    Andrew thở dài.

    - Được rồi, tôi hơi cô độc, nhưng Simon được xem như người anh em của tôi, một tình bạn chân thành còn tốt hơn tình đồng chí hữu nghị giả tạo cả nghìn lần.

    - Cái này chẳng hề ngăn cản cái kia đâu. Anh nên nói chuyện với anh chàng Simon kia và chia sẻ câu chuyện của mình với anh ta. Anh chỉ còn tám tuần để tìm ra kẻ sát hại mình thôi.

    - Cảm ơn ông đã nhắc tôi. Từ sáng đến tối cũng như từ tối đến sáng tôi đều nghĩ đến điều đó. Và ngay cả khi tôi trót quên trong giây lát thì cơn đau này cũng quay trở lại nhắc tôi nhớ rằng thời hạn đó đang đến gần.

    - Thời gian càng trôi đi thì anh càng cần tin tưởng vào ai đó.

    - Đó là cách ông nói với tôi rằng ông sẽ bỏ rơi tôi ư?

    - Đừng tỏ ý dằn dỗi kiểu thế, Stilman, đó chỉ là một lời khuyên mà thôi. Tôi không hề có ý bỏ rơi anh đâu, nhưng tôi cũng phải trở về nhà. Tôi có một cuộc sống, một người vợ đang đợi tôi và tôi chỉ là một cảnh sát đã về hưu. Tôi sẽ tiếp tục tiến hành điều tra tại New York cho tới khi anh khởi hành đến Argentina. Sau đó, còn có điện thoại, và vừa rồi tôi cũng mới lắp Internet. Với bao năm kinh nghiệm gõ báo cáo trên máy đánh chữ, tôi sớm mổ cò tốt thôi. Và trong khi chờ đợi, tôi muốn anh kể mọi chuyện cho bạn mình, và đó là mệnh lệnh đấy.

    - Sao sáng nay ông lại tới tìm tôi, ông có gì mới à?

    - Danh sách những kẻ tình nghi muốn sát hại anh tối qua đã dài thêm, và điều này thì chẳng tiện cho việc của chúng ta lắm. Tôi sẽ theo dấu người vợ cũ của Capetta. Về phần mình, anh hãy quan tâm chú ý hơn nữa đến trạng thái tinh thần của anh bạn đồng nghiệp Freddy Olson. Và tôi cũng muốn biết thêm về bà sếp của anh nữa.

    - Tôi đã nói với ông rồi, với Olivia thì ông đã nhầm hướng.

    - Nếu mạng sống của tôi đang bị đe dọa, tôi có thể đảm bảo với anh rằng tôi sẽ không bỏ qua bất cứ ai. Vả lại, tôi lấy làm tiếc là phải xem xét lại việc này, nhưng còn có một người khác trong danh sách của tôi.

    - Ai thế?

    - Vợ anh, người mà anh đã bỏ rơi ngay sau đám cưới của mình.

    - Valérie không có khả năng làm đau một con ruồi.

    - Bình thường thôi, cô ấy là bác sĩ thú y mà. Nhưng cô ấy hẳn có thể mưu toan làm đau gã đàn ông đã khiến mình đau khổ rất nhiều. Anh không thể hình dung nổi nỗi nhục nhã cùng trí tưởng tượng tương hợp với nhau như thế nào khi con người ta muốn trả thù đâu. Hơn nữa, cô ấy còn ở kề bên cảnh sát suốt cả ngày trời.

    - Thế thì sao?

    - Nếu như vợ tôi có ý định sát hại tôi thì cô ấy sẽ sáng tạo hơn cả tay biên kịch phim trinh thám đấy.

    - Ông đúng là thất bại cũng không nản, thanh tra à, hay giờ ông có thực sự tin tôi không?

    - Đừng có chơi chữ, anh Stilman, anh lúc nào mà chẳng giỏi hơn tôi trong lĩnh vực này. Đi theo tôi nào.

    - Chúng ta đi đâu?

    - Đến nơi tội ác vẫn còn chưa diễn ra.

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,732
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 14
    - Ông đã thuê xe này à? Andrew lên tiếng hỏi khi Pilguez ra hiệu cho anh trèo lên chiếc Ford 4x4 đen sì đậu trước cửa tòa soạn.

    - Mượn thôi.

    - Với cả bộ đàm cảnh sát ư, Andrew thốt lên. Ông tìm đâu ra cái xe này vậy?

    - Thắt dây an toàn rồi đóng hộp để găng lại đi. Cứ coi như là chúng ta đang ở trong một thế giới nơi mà ta không phải tuân theo phép tắc gì hết. Nếu tôi từng là thầy thuốc thì tôi sẽ mượn được xe cứu thương ngay, thế đã được coi là câu trả lời cho câu hỏi của anh chưa?

    - Tôi còn chưa đặt chân lên xe của cảnh sát bao giờ.

    Pilguez nhìn Andrew rồi mỉm cười.

    - Đồng ý, tôi hiểu rồi, vừa nói ông vừa cúi xuống hộp để găng.

    Ông lôi chiếc đèn hiệu đặt lên bảng điều khiển rồi bật còi inh ỏi.

    - Như thế này anh đã thấy hài lòng chưa?

    - Vô cùng, Andrew vừa đáp vừa bám chặt vào ghế trong lúc Pilguez tăng tốc.

    Mười phút sau, viên thanh tra đỗ chiếc Ford tại góc giao giữa phố Charles với xa lộ West End.

    Andrew dẫn ông đi về phía con đường mà anh thường chạy bộ mỗi sáng. Họ dừng lại ngang tầm Cầu tàu số 4.

    - Đây chính là nơi chuyện đã xảy ra, chỉ cần đến đây thôi tôi đã lại thấy đau rồi.

    - Do hiệu ứng tâm lý thôi! Hít thật sâu vào sẽ khiến anh thấy dễ chịu hơn nhiều. Khi anh nghĩ lại giấc mơ báo mộng đó, anh có nhận ra vũ khí được sử dụng không? Vừa hỏi Pilguez vừa đảo mắt nhìn khắp lượt chung quanh.

    - Đó không phải là giấc mơ báo mộng!

    - Được rồi, chuyện đã xảy ra và nó sẽ còn xảy ra tiếp nếu chúng ta cứ mất thời giờ mà cãi vã nhau như thế này.

    - Tôi bị tấn công từ phía sau. Khi hiểu được chuyện xảy ra với mình thì tôi đã tắm trong biển máu của chính tôi rồi.

    - Máu đó từ đâu ra?

    - Tôi khạc từ mồm và mũi ra.

    - Anh cố nhớ lại xem, không có máu từ bụng à?

    - Không, nhưng sao thế?

    - Bởi một viên đạn nếu bắn gần sẽ gây thiệt hại ở điểm đạn đi ra nhiều hơn điểm chạm đích. Nếu anh bị bắn từ phía trên thì ruột gan anh sẽ bị xổ xuống đường, anh hiểu không?

    - Thế nếu như tôi bị ngắm bắn từ phía xa hơn, chẳng hạn với một khẩu súng có ống ngắm thì sao?

    - Đó chính là điều tôi đang cố để ý đây. Không mái nhà nào ở bên kia xa lộ có tầm ngắm vừa đủ chúc xuống để ngắm bắn chính xác một người chạy bộ giữa cả đống những người khác từ khoảng cách xa đến vậy. Và hơn nữa, anh nói rằng mình chết vào ngày mùng 10 tháng Bảy phải không nhỉ?

    - Ngày mùng 9, sao thế?

    - Anh ngẩng đầu nhìn đi: cây cối đâm chồi nảy lộc chẳng mấy chốc sẽ che khuất toàn bộ đoạn đường này. Phát đạn đã được ai đó đi theo anh bắn theo phương nằm ngang.

    - Tôi không hề cảm thấy đau ở bụng.

    - Thế thì anh đã bị đâm chết bằng gươm dao gì đó, giờ chỉ cần xác định xem đó là loại nào thôi. Hít thở sâu vào, tôi thấy anh lại xanh xao rồi kìa.

    - Cuộc nói chuyện này chẳng hề dễ chịu chút nào.

    - Ta có thể tìm anh chàng Simon đó ở đâu?

    - Vào giờ này thì cậu ấy đang ở văn phòng. Cậu ấy có một xưởng ô tô cổ ở phố Perry.

    - Tuyệt vời, chỗ đó cách đây có mấy bước chân thôi và tôi thì mê ô tô cũ vô cùng.

    °

    Pilguez há hốc mồm khi đặt chân vào ga ra. Một chiếc Chrysler Mewport, một con De Soto rồi cả một chiếc Plymouth tháo mui được màu be, một chiếc Thunderbird sản xuất năm 1956, một chiếc Ford Crestline mẫu năm 1954 cùng vô số mẫu khác xếp ngay ngắn trên nền nhà sạch bong. Viên thanh tra tiến về phía một chiếc Packard Mayfair.

    - Thật không thể tin nổi, ông thì thầm, bố tôi cũng từng có cái y hệt, tôi chưa hề nhìn thấy cái nào khác từ lâu lắm rồi.

    - Đây là mẫu được sản xuất cực ít, Simon vừa tiến lại gần vừa giải thích. Vả lại, tôi cũng chẳng giữ nó ở đây lâu nữa đâu, mẫu này vô cùng hiếm và đến thứ Sáu này tôi sẽ không cho mướn nó nữa, trước khi tìm ra người chủ mới cho nó.

    - Thôi mấy lời tán phỉnh của cậu đi, chúng tớ đến đây không phải để mua xe đâu, Andrew vừa tiến lại gần vừa nói. Ông ấy đi cùng tớ.

    - Cậu ở đây à! Dù sao cậu cũng nên báo trước cho tớ mới phải.

    - Sao vậy, chẳng nhẽ tớ phải gửi giấy báo cho cậu trước khi ghé qua ư? Nếu cậu muốn, tớ có thể đi luôn.

    - Ôi không, chỉ là vì…

    - Cậu ta ghét bị tôi bắt quả tang khi đang phỉnh phờ tăng giá, Andrew nói với Pilguez. Ông có công nhận là cậu ta đóng vai này rất hoàn hảo không? Một chiếc ô tô vô cùng hiếm, và đến thứ Sáu này tôi sẽ không cho mướn nó nữa, trước khi tìm ra người chủ mới cho nó. Đừng có mà nghe mấy lời đường mật đó! Cậu ta đã sở hữu nó trong tay hai năm nay rồi, và chúng tôi đã lái nó đi nghỉ cuối tuần mùa hè vừa qua và chưa hết, nó còn hỏng ngay giữa chừng cơ, đó chính là điều cần nói với ông đấy!

    - Thôi được rồi, tớ nghĩ là ông đây đã hiểu. Cậu muốn gì nào, bởi tớ còn việc phải làm.

    - Tình bạn của các cậu dễ thương thật, Pilguez thốt lên.

    - Chúng ta có thể vào phòng làm việc của cậu được không? Andrew lên tiếng hỏi.

    - Mặt cậu trông lạ lắm, cậu gặp vấn đề gì à?

    Andrew một mực im lặng.

    - Có chuyện gì thế? Simon cố nài.

    - Tốt hơn hết là vào phòng cậu nói chuyện, Pilguez tiếp lời.

    Simon ra hiệu cho Andrew dùng thang bộ dẫn lên căn gác lửng.

    - Xin hỏi khí không phải, Simon đang đi sau cùng quay sang hỏi Pilguez, ông là ai?

    - Một người bạn của Andrew, nhưng đừng có ghen tị, giữa chúng ta không có bất cứ cạnh tranh gì đâu.

    Simon mời cả hai vị khách ngồi vào hai chiếc ghế bành bằng da đối diện với anh rồi Andrew kể lại chuyện của mình cho bạn nghe.

    Simon lắng nghe bạn kể mà không cắt ngang lần nào và một giờ đồng hồ sau đó, khi Andrew nói rằng mình đã kể lại tất cả, Simon nhìn bạn hồi lâu rồi nhấc điện thoại lên.

    - Tớ gọi cho anh bạn bác sĩ mà tớ thường trượt tuyết cùng hằng năm, đó là một bác sĩ đa khoa đầu bảng đó. Hẳn là cậu đã mắc chứng đái tháo đường rồi. Tớ nghe nói rằng nếu lượng đường quá nhiều thì có thể gây rối loạn trí óc. Cậu đừng quá lo, dù có thế nào thì chúng ta cũng sẽ tìm ra…

    - Đừng nhọc công tốn sức anh bạn, Pilguez vừa nói vừa đặt tay lên điện thoại, tôi từng đề nghị với cậu ấy đến khám chỗ bà bạn chuyên khoa thần kinh của tôi rồi nhưng bạn cậu vẫn chắc như đinh đóng cột với điều cậu ấy nói.

    - Thế ông đứng ra đảm bảo cho chuyện của cậu ấy ư? Vừa nói Simon vừa quay về phía Pilguez, ảnh hưởng tốt đó, hoan hô.

    - Anh chàng chủ ga ra ơi, tôi không biết liệu bạn cậu có gàn dở hay không, nhưng tôi biết đó là người thành thực. Ba mươi lăm năm trong ngành cảnh sát, tôi đã phải đối mặt với vô số vụ hoàn toàn vượt khỏi chuẩn thông thường. Nhưng không vì thế mà tôi từ bỏ đâu.

    - Ông là cảnh sát à?

    - Đã từng thôi.

    - Về phần mình, tôi không phải là anh chàng chủ ga ra mà là dân kinh doanh nghệ thuật. Thôi bỏ qua đi. Những vụ kiểu gì thế?

    - Một trong những vụ mới gần đây của tôi, một gã đã bắt cóc một phụ nữ bị hôn mê sâu ngay trên giường bệnh.

    - Quả đúng là không bình thường, Simon rít lên.

    - Kẻ bị tình nghi là một kiến trúc sư, một gã kỳ lạ. Tôi nhanh chóng chắc chắn về tội trạng của hắn, nhưng có gì đó không hợp lý lắm, tôi không hiểu rõ động cơ của hắn ta. Phá được một vụ án mà không xác định được động cơ của kẻ phạm tội thì mới chỉ hoàn thành được nửa việc mà thôi. Với gã đàn ông mà mọi thứ đều hoàn toàn bình thường ấy, chẳng hề có bất cứ lý do gì giải thích cho hành vi này của hắn.

    - Thế ông đã làm gì?

    - Tôi theo dõi hắn và đã tìm ra người thiếu phụ vài ngày sau đó. Hắn đã giấu cô trong một ngôi nhà cũ bị bỏ hoang ở sườn núi Carmel.

    - Ông đã bắt hắn chứ? Simon hỏi.

    - Không, hắn đã bắt cóc người phụ nữ này để giúp cô thoát khỏi tay bác sĩ và gia đình của cô ấy. Cả cái thế giới nhỏ bé quanh cô ấy đã quyết định ngắt sự sống của cô ấy. Hắn khẳng định là cô ấy đã tìm tới hắn, rằng cô ấy đã xuất hiện trong nhà hắn để cầu xin hắn giúp đỡ. Câu chuyện quá ư vô lý, đúng không? Nhưng hắn vô cùng thành thực và rồi rốt cuộc hắn cũng làm khá tốt, cô gái kia đã thoát khỏi trạng thái hôn mê chỉ ít lâu sau khi tôi đưa cô ấy trở lại bệnh viện. Thế nên, tôi đã cố tình đánh mất hồ sơ điều tra, nếu anh hiểu điều tôi muốn nói, coi như người đàn ông này đã cứu giúp một người đang gặp nguy hiểm theo một cách nhất định nào đó.

    - Hơi giống cách ông đã làm với tôi phải không? Andrew ngắt lời ông.

    - Tôi đã kể với anh tất thảy những điều đó vào cái tối chúng ta dùng bữa cùng nhau ngay sau vụ va chạm xe hơi nho nhỏ của chúng ta rồi, đúng không? Có phải vì thế mà anh đã cầu viện tôi giúp đỡ không? Anh tự nhủ rằng một gã đủ hâm để tin vào một câu chuyện như vậy hẳn sẽ tin vào câu chuyện của anh đúng không?

    - Và tôi đã nhầm ư? Andrew mỉm cười hỏi, không phải thế sao?

    - Chỉ là một bài kiểm tra nho nhỏ để trấn an tinh thần thôi mà, Simon van vỉ. Tớ không yêu cầu cậu nhiều, trái ngược với cậu đấy.

    - Theo tớ biết thì tớ còn chưa yêu cầu gì cậu nhỉ?

    - Cậu bảo tớ phải tin rằng cậu sẽ bị sát hại trong vài tuần nữa, và rằng cậu tin chắc mình đã chết… ngoại trừ điều đó ra thì cậu chẳng bảo tớ làm gì nhiều nhặn cả. Tốt thôi, chúng ta sẽ tìm hiểu điều tra, bởi vì khi nghe cậu nói, tớ chẳng tin là nó gấp gáp lắm.

    - Phải thú thực với cậu là thoạt đầu tôi cũng có chút phản ứng giống cậu, Pilguez thổ lộ, nhưng đồng thời tôi cũng phải thú nhận rằng bạn cậu có một biệt tài.

    - Tài gì thế? Simon tiếp lời.

    - Tài dự báo một số tin tức trước khi nó xảy ra.

    - Chỉ còn thiếu mỗi nước đó thôi. Hẳn là chính tôi cũng nên kiểm chứng mới được, bởi rõ ràng là ở đây chỉ có mình tôi thấy câu chuyện này rất khó tin…

    - Thôi đi Simon, tớ chẳng hề muốn quấy quả cậu bằng mấy cái thứ này đâu, chính ông thanh tra đây đã nài nỉ tớ làm thế thôi. Chúng ta đi thôi, vừa nói Andrew vừa đứng dậy.

    - Hai người đi đâu thế? Simon lao ra chặn đường bạn hỏi.

    - Cậu ấy à, cậu cứ ở lại đây đi, bởi cậu đang ngập việc, còn chúng tôi, chúng tôi sẽ tiếp tục điều tra và tìm ra kẻ muốn giết bạn cậu trước khi quá muộn.

    - Đợi chút đã! Tớ chẳng thích chuyện này tẹo nào, nhưng không hẳn là hoàn toàn không, Simon vừa bước từng bước dài trong phòng vừa lẩm bẩm. Sao tớ lại phải ở đây một mình trong khi cả hai người đi…?

    - Mẹ kiếp, Simon! Đây không phải là chuyện đùa, mạng sống của tớ đang bị đe dọa.

    - Được rồi, Simon thở dài đánh thượt rồi vớ lấy áo vest vắt trên lưng ghế. Thế tớ có thể biết hai người định đi đâu không?

    - Tôi cần đảo nhanh một chuyến sang phía bên kia Chicago, vừa nói Pilguez vừa rời khỏi phòng. Tôi sẽ trở lại ngay khi có thể. Không làm phiền hai cậu nữa, tôi sẽ tự tìm đường đi.

    Simon tiến lại ô cửa kính nhô cao phía trên xưởng xe nhìn viên thanh tra rời khỏi ga ra.

    - Cậu thực sự có thể tiên đoán chuyện sắp xảy ra trong vài tuần tới ư?

    - Chỉ những thứ mà tớ còn nhớ thôi, Andrew đáp.

    - Tớ sẽ bán được một con xe chứ?

    - Con Pontiac, vào đầu tháng Bảy.

    - Sao cậu có thể nhớ chuyện như vậy?

    - Vì cậu đã mời tớ ăn tối để ăn mừng chuyện này… và còn rao giảng đạo đức với tớ nữa chứ.

    Andrew do dự rồi thở dài nhìn bạn.

    - Chỉ mỗi con Pontiac thôi sao? Thời buổi đúng là khó khăn, nhớ lại năm ngoái tớ toàn bán hai chiếc mỗi tháng cơ. Cậu có tin tốt lành nào khác báo với tớ không?

    - Cậu sẽ sống thọ hơn tớ, chẳng hề tồi phải không nào?

    - Andrew, nếu cậu định sai khiến tớ thì giờ hãy làm đi, và tớ sẽ trao cho cậu giải Oscar dành cho diễn viên chính xuất sắc nhất, tớ chỉ hơi hơi tin cậu thôi.

    Andrew không trả lời.

    - Hơn nữa cũng chẳng hề chi! Điều duy nhất quan trọng chính là chuyện này là thực với cậu. Tớ hiếm khi thấy cậu nhớn nhác như lúc này. Thế ta bắt đầu từ đâu?

    - Cậu nghĩ Valérie có khả năng giết tớ không?

    - Nếu cậu thực sự rời bỏ cô ấy vào ngay đêm tân hôn của hai người thì tớ có thể hiểu là cô ấy sẽ căm hờn cậu. Hoặc có thể bố cô ấy sẽ muốn trả thù cho con gái.

    - Tớ chưa cho ông ấy vào danh sách của mình. Thế là lại thêm một người nữa!

    - Cậu biết không, tớ có ý tưởng đơn giản như thế này để tránh cho cậu điều tồi tệ nhất. Lần tới mà cậu cưới ấy, thử nâng cao cảnh giác trong vài tháng đã, điều này sẽ giúp cậu tránh được hai kẻ tình nghi cùng lúc.

    - Tất cả đều là lỗi của cậu.

    - Sao lại là lỗi của tớ?

    - Nếu cậu không dẫn tớ tới quán bar Novecento, tớ sẽ không bao giờ…

    - Nói xem nào, cậu quá lời rồi đấy, trong câu chuyện cậu vừa kể, chính cậu đã nài nỉ tớ quay lại chỗ đó.

    - Tớ không thể tin là cô ấy có khả năng giết mình, dù có tức giận đến cỡ nào.

    - Cậu đã nói là cậu bị sát hại bằng gươm dao gì đó, cô ấy hẳn có thể đâm cậu bằng một dụng cụ phẫu thuật, món đó không hề thiếu trong nghề của cô ấy và rồi hành động thì chính xác vô cùng, phải không nào? Phải có chút khéo léo nhất định thì mới có thể làm thế được.

    - Thôi đi Simon!

    - Tớ chẳng thôi cái gì sất, chính cậu đến tìm tớ đấy chứ! Cậu có thể nói với lão thanh tra về hưu của cậu là kể từ giây phút này, tớ và ông ta là đối thủ của nhau, chính tớ sẽ tìm ra kẻ sát hại cậu! Vả lại, cái lão thanh tra đó định làm gì ở Chicago vậy?

    - Tớ sẽ giải thích cho cậu trên đường đi.

    Simon mở ngăn kéo rồi vớ lấy chùm chìa khóa. Anh dẫn Andrew xuống tận xưởng rồi chỉ vào chiếc Packard.

    - Tớ phải lái nó đến cho một khách hàng xem, tớ hẹn ở dưới nhà ông ta ở gần phố 66, tớ thả cậu xuống giữa đường được không? Dù tớ tự hỏi mình sao lại đến cuộc hẹn này bởi cậu vừa nói với tớ rằng từ giờ cho đến tháng Bảy, tớ chẳng bán được chiếc nào…

    - Bởi cậu vẫn chưa tin tớ hoàn toàn.

    Andrew tranh thủ chuyến đi để trả lời hết câu hỏi này cho đến câu hỏi khác của Simon. Đến trước tòa soạn The New York Times thì họ chia tay nhau.

    Khi ngồi vào bàn làm việc, Andrew thấy có một lời nhắn trên máy tính của mình. Olivia Stern yêu cầu anh đến gặp cô càng sớm càng tốt. Ở phía sau tấm vách ngăn, Freddy Olson đang rì rầm nói chuyện điện thoại. Cứ khi nào Freddy nói nhỏ là y như rằng đang có sự vụ mà hắn muốn giữ riêng để mình là người biết đầu tiên. Andrew ngồi lùi sâu vào ghế rồi dán chặt tai vào tấm ngăn.

    - Vụ giết người đó xảy ra khi nào? Olson hỏi người bên kia đầu dây. Và đó là vụ tấn công thứ ba theo kiểu này rồi phải không? Tôi biết, tôi biết, hắn tiếp tục. Cùng lúc đó là một nhát dao vào sống lưng, ở giữa New York này thì như thế cũng chẳng phải độc đáo gì lắm nhỉ, từ đó có thể kết luận là một tên giết người hàng loạt, khả năng anh hơi đốt cháy giai đoạn đấy. Tôi sẽ chú ý chuyện này sát sao hơn. Cảm ơn anh, tôi sẽ gọi lại nếu có tin gì mới. Một lần nữa xin cảm ơn nhiều.

    Olson gác máy rồi đứng dậy, có lẽ là để đi toa lét. Đã từ lâu Andrew nghi ngờ hắn không chỉ đến đó để xả bọng đái, hoặc là bọng đái của hắn thực sự yếu lắm. Xét đến tình trạng thường xuyên bồn chồn của tay đồng nghiệp, Andrew ngờ rằng hắn đi hút xì ke.

    Ngay khi Freddy khuất dạng, Andrew vội đến ngồi vào bàn của Olson rồi lướt nhanh phần ghi chép của hắn.

    Một người đàn ông bị đâm bằng dao găm ngày hôm qua tại Công viên Trung tâm, gần ao rùa. Kẻ tấn công đã đâm nạn nhân ba nhát liên tiếp trước khi bỏ trốn để mặc nạn nhân chết. Tuy vậy, nạn nhân vẫn còn sống và đã được cấp cứu tại bệnh viện Lenox. Tin này đã được tường thuật chi tiết trên tờ New York Post, tờ nhật báo khổ nhỏ chuộng những thể loại tin giật gân tương tự. Ở phía cuối trang, Olson còn nguệch ngoạc hai dòng ngày tháng kèm hai địa chỉ, ngày 13 tháng Giêng, phố 141 và ngày 15 tháng Ba, phố 111.

    - Tôi có thể biết anh đang làm gì ở đây không?

    Giọng nói khiến Andrew giật nảy mình.

    - Tôi làm việc như anh có thể thấy đấy, hình như ở đây không phải ai cũng thế?

    - Anh làm việc ở bàn tôi à?

    - Thảo nào tôi cứ tự hỏi sao lại không thấy đồ đạc của mình nhỉ! Andrew thốt lên. Hóa ra là tôi bị lộn chuồng, Andrew vừa đứng dậy vừa nói thêm.

    - Anh coi tôi là thằng ngốc đấy chắc?

    - Tôi cũng hay bị thế này ấy mà. Tôi xin lỗi, tổng biên tập gọi tôi đến gặp. Chùi mũi đi, có chút gì trăng trắng phía trên môi anh kìa. Anh đã ăn bánh kẹp à?

    Freddy liền xoa xoa lỗ mũi.

    - Thế ẩn ý ở đây là gì?

    - Tôi chẳng có ẩn ý gì hết… Giờ anh làm ở mục tin vặt à?

    - Anh nói cái gì vậy?

    - Trong tập giấy nhớ của anh, có ngày tháng cùng địa chỉ kìa, đó là lũ cẩu bị xe buýt cán chết đúng không? Anh biết bạn gái tôi là bác sĩ thú y mà, nếu anh cần giúp một tay để điều tra thì…

    - Một độc giả đã liên kết ba vụ án giết người bằng dao găm ở New York, anh ta khẳng định đó là một tay giết người hàng loạt.

    - Và anh đồng tình với ý kiến đó?

    - Ba nhát dao trong vòng năm tháng tại một thành phố hai triệu dân, số liệu này không có sức thuyết phục lắm, nhưng Olivia đã giao cho tôi phụ trách tiến hành điều tra.

    - Thôi, không phải tôi không muốn ở lại nói chuyện với anh, nhưng tôi có hẹn mất rồi.

    Andrew quay gót rồi thẳng tiến phòng làm việc của Olivia Stern. Cô ra hiệu cho anh vào.

    - Việc tìm kiếm của anh tiến hành đến đâu rồi? Olivia lên tiếng hỏi trong lúc vẫn đang tiếp tục mổ cò trên bàn phím máy tính.

    - Các nguồn tin tại chỗ đã gửi cho tôi nhiều tin mới, Andrew nói dối. Tôi có nhiều cuộc hẹn đang đợi và một hướng đi thú vị có thể buộc tôi đi xa hơn Buenos Aires một chút.

    - Hướng nào thế?

    Andrew gắng huy động bộ nhớ. Kể từ lúc quay ngược về quá khứ, anh chỉ dành rất ít thời gian cho cuộc điều tra vì quá bận tâm đến số phận bản thân. Để thỏa mãn trí tò mò của tổng biên tập, anh đã lục tung các kỷ niệm, những kỷ niệm về chuyến đi mà anh xem như là chưa diễn ra.

    - Ortiz có lẽ sẽ đến sống trong một ngôi làng nhỏ ở chân núi không xa Cordoba là mấy.

    - Có lẽ ư?

    - Tôi sẽ biết rõ ràng chính xác một khi đã có mặt tại thực địa. Chưa đến hai tuần nữa tôi sẽ khởi hành.

    - Tôi đã nói với anh rồi, tôi cần các bằng chứng cụ thể cùng tài liệu, một bức ảnh mới đây nhất. Tôi không thể bằng lòng chỉ với vài lời chứng hoặc trong trường hợp ấy, chúng phải xuất phát từ những nhân vật đáng tin.

    - Khi nói với tôi như vậy, thật sự tôi có cảm giác cô chỉ coi tôi là một tay gà mờ, như thế khiến tôi hơi mếch lòng đấy.

    - Anh quá là dễ tự ái, Andrew ạ, và cuồng á…

    - Tin tôi đi, tôi có cái lý của mình, vừa đáp anh vừa đứng dậy.

    - Tôi đã hao tâm tổn lực rất nhiều vì bài báo của anh rồi, đừng để tôi bị thất bại, cả anh lẫn tôi, chúng ta không có quyền mắc sai lầm.

    - Thật điên rồ khi thời gian gần đây lời cảnh báo này trở nên quen thuộc với tôi quá. Nhân tiện, cô đã bảo Olson điều tra về vụ giết người hàng loạt à?

    - Không, sao thế?

    - Không vấn đề gì đâu, vừa đáp Andrew vừa rời khỏi phòng Olivia Stern.

    Andrew quay trở lại ngồi trước máy tính của mình. Anh mở bản đồ Manhattan ở chế độ toàn màn hình rồi xác định hai địa chỉ ghi trong tập giấy nhớ của Olson. Hai vụ giết người đầu tiên được thực hiện ở ven một công viên, ngày 13 tháng Giêng trên phố 141 rồi đến ngày 15 tháng Ba tại phố 111, vụ mới đây nhất thì ở đầu dốc phố 79. Nếu là cùng một tên sát nhân, thì tên này dường như hành động từ mạn Bắc xuống mạn Nam của đảo. Andrew ngay lập tức nghĩ rằng vụ tấn công mà mình là nạn nhân sẽ kéo dài cái trục đường dẫn xuống địa ngục này. Anh tìm vài thông tin về người vừa bị tấn công rồi vớ lấy áo vest vội vã rời văn phòng.

    Ra đến lối thông giữa các phòng, anh liếc mắt nhìn xuống phố qua vách kính thì chợt một chi tiết khiến anh chú ý. Anh nhấc điện thoại rồi bấm số.

    - Tớ có thể biết cậu làm cái quái gì mà cắm rễ chình ình phía sau cái cây ngay cửa tòa soạn chỗ tớ không?

    - Sao cậu biết? Simon hỏi.

    - Bởi tớ nhìn thấy cậu, ngốc ạ.

    - Cậu nhận ra tớ ư?

    - Thế cái áo gió cùng cái mũ kia là gì thế?

    - Phục trang để che giấu nhân thân.

    - Hiệu quả thật! Cậu đang chơi trò gì thế?

    - Tớ chẳng chơi bời gì sất, tớ theo dõi những nơi đi và đến của tay đồng nghiệp Olson của cậu. Ngay khi hắn rời đi, tớ sẽ theo sát hắn.

    - Cậu điên mất rồi!

    - Thế cậu muốn tớ làm gì nữa đây? Giờ khi đã biết rằng mình sẽ không bán nổi một chiếc xe nào trong vòng hai tháng tới thì tớ sẽ chẳng mất thời gian ở ga ra làm gì trong khi có kẻ muốn sát hại cậu! Và cậu nói nhỏ chút đi, cậu sẽ làm tớ bị phát hiện mất.

    - Cậu chẳng cần đến tớ mới bị phát hiện đâu. Đợi tớ ở đó, tớ sẽ xuống gặp cậu và cậu ra khỏi chỗ cái cây đó đi!

    Andrew gặp lại Simon trên vỉa hè rồi nắm lấy tay bạn kéo đi xa khỏi cửa vào tòa soạn The New York Times.

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,732
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    - Cứ như Philip Marlowe[1] ấy, trông cậu thật nực cười.

    [1] Nhân vật thám tử tư trong loạt truyện trinh thám của tác giả Raymond Chandler.

    - Cái áo khoác này đắt lòi mắt ra, hàng Burberry xịn đấy.

    - Simon, trời đang nắng chang chang kia kìa.

    - Cậu tự coi mình là Chúa Jesus hiện sinh và cậu định lên lớp tớ vì tớ đã đóng vai thám tử tư ư?

    Andrew vẫy một chiếc taxi rồi van nài Simon lên xe và bảo tài xế chở cả hai đến góc giao giữa Đại lộ Công viên và phố 77.

    Mười phút sau, chiếc taxi đỗ trước lối vào cho xe cấp cứu của bệnh viện Lenox.

    Simon bước ra trước tiên rồi tiến về phía quầy lễ tân.

    - Xin chào, anh nói với cô y tá, chúng tôi đến vì bạn tôi…

    Andrew lại tóm lấy cánh tay bạn rồi thô bạo kéo Simon ra xa.

    - Tớ lại làm cái gì à? Cậu không đến khám bác sĩ tâm thần sao?

    - Simon, hoặc là cậu cư xử cho bình thường, hoặc là cậu quay về ngay tức khắc, rõ chưa?

    - Tớ cứ tưởng lần này cậu đã quyết định đúng đắn. Nếu không vì cậu, sao chúng ta lại ở trong bệnh viện này?

    - Có một gã đã bị đâm bằng dao găm từ phía sau. Tớ muốn hỏi gã đó một chút. Cậu sẽ giúp tớ vào phòng gã đó càng kín đáo càng tốt.

    Khuôn mặt Simon để lộ niềm vui sướng được tham gia vào một vụ như thế này.

    - Thế tớ phải làm gì?

    - Quay lại gặp cô y tá ở quầy lễ tân rồi khẳng định cậu là anh trai của một gã Jerry McKenzie nào đó và cậu đến thăm hắn.

    - Cứ như thể là sự đã rồi ấy.

    - Và cởi cái áo khoác này ra nữa!

    - Chẳng cần cậu phải dạy tớ làm thế nào đâu! Vừa đi khỏi Simon vừa đáp.

    Năm phút sau, Simon trở lại chỗ Andrew đang ngồi đợi mình trên chiếc ghế băng nhỏ ở phòng đợi.

    - Thế nào rồi?

    - Phòng 720, nhưng sau 13 giờ mới được thăm nom và chúng ta không vào được đâu, có cảnh sát canh trước cửa.

    - Thế thì toi rồi, Andrew làu bàu.

    - Trừ phi là có một cái phù hiệu, Simon vừa nói thêm vừa dính một mẩu giấy dính lên áo khoác, như cái này này.

    - Cậu có nó bằng cách nào thế?

    - Tớ đã trình giấy tờ của mình cho cô nàng y tá xem, tớ nói với cô nàng rằng tay Jerry tội nghiệp kia là em trai tớ, chúng tớ không chung bố nhưng cùng mẹ nên tên họ khác nhau, rằng tớ từ Seattle đến và tớ là người thân duy nhất trong gia đình.

    - Thế cô nàng tin cậu à?

    - Có vẻ như tớ trông đáng tin và rồi với chiếc áo gió này, Seattle quả đúng là nơi không thể thiếu nó, trời mưa ba trăm sáu mươi lăm ngày trong năm. Tớ cũng đã hỏi xin cô nàng số điện thoại để mời cô nàng ăn tối bởi tớ chỉ có một thân một mình ở thành phố này.

    - Thế cô nàng có cho cậu không?

    - Không, nhưng nàng cảm thấy được ve vãn và nhờ đó, nàng đã cho tớ cái phù hiệu thứ hai… cho tay tài xế của tớ, vừa nói Simon vừa dán một miếng sticker vào áo vest của Andrew. Chúng ta đi chứ, James?

    Trong lúc thang máy đang lên tầng tám, Simon đặt tay lên vai Andrew.

    - Nào, nói đi, cậu sẽ thấy điều đó không hại gì cậu đâu.

    - Nói gì?

    - Cảm ơn, Simon.

    °

    Andrew và Simon bị lục soát theo đúng nguyên tắc trước khi viên cảnh sát canh gác để cho cả hai vào phòng.

    Andrew lại gần người đàn ông đang ngủ gà ngủ gật. Anh ta choàng mở mắt.

    - Các anh không phải bác sĩ đúng không? Các anh làm gì ở đây?

    - Tôi là nhà báo, tôi không muốn hại anh đâu.

    - Đi mà nói thế với một tay chính trị gia ấy…, người đàn ông vừa nhăn nhó vừa ngồi thẳng dậy trên giường. Tôi chẳng có gì để nói với anh cả.

    - Tôi không ở đây vì công việc, vừa nói Andrew vừa tiến lại gần giường bệnh.

    - Cút đi nếu không tôi sẽ gọi cảnh sát!

    - Tôi cũng bị đâm giống như anh, và có hai người khác cũng chịu chung số phận trong hoàn cảnh tương tự. Tôi tự hỏi liệu đó có phải là do cùng một kẻ gây ra hay không. Tôi chỉ muốn biết liệu anh có nhớ được gì không? Khuôn mặt của hắn ta? Vũ khí hắn dùng tấn công anh?

    - Tôi bị tấn công từ sau lưng, anh có bị ngớ ngẩn hay không!

    - Thế anh không nhìn thấy gì xảy đến à?

    - Tôi nghe thấy tiếng bước chân phía đằng sau. Lúc đó có rất đông người đang rời khỏi công viên, tôi chỉ cảm thấy có ai đó đang tiến lại gần. Tôi đã gặp may, chỉ cần nhích lên một xăng ti mét nữa là tên khốn đó đã đâm trúng động mạch rồi. Có lẽ tôi sẽ bị cạn sạch máu trước khi đến được đây. Hơn nữa các bác sĩ cũng bảo với tôi rằng nếu bệnh viện không ở gần như thế này thì tôi chắc sẽ không thể qua khỏi.

    - Tôi thì chẳng có được cái may mắn đó, Andrew thở dài.

    - Anh có vẻ rất khỏe đấy chứ.

    Andrew đỏ bừng mặt rồi nhìn Simon, cậu bạn đang ngước mắt nhìn lên trời.

    - Anh có bị mất ý thức ngay tức khắc không?

    - Gần như thế, McKenzie đáp, tôi nghĩ là đã nhìn thấy kẻ sát nhân chạy vượt qua mình, nhưng mắt tôi mờ đi, chắc tôi không thể miêu tả hắn cho anh được. Khi ấy tôi định đi gặp một nữ khách hàng, tôi đã bị cướp mười nghìn đô la tiền hàng. Đây là vụ tấn công thứ ba trong vòng năm năm qua, và lần này tôi đang nộp đơn xin giấy phép mang vũ khí theo người và không chỉ giới hạn trong vòng hai mươi mét vuông quanh cửa hiệu kim hoàn của tôi. Thế còn anh, anh nhà báo, anh bị đâm bằng gì?

    Và trong lúc Andrew cùng Simon có mặt ở bệnh viện Lenox, Freddy Olson lục tung ngăn kéo của đồng nghiệp, tìm mật khẩu truy cập máy tính của đồng nghiệp.

    °

    - Chúng ta làm gì bây giờ? Simon lên tiếng hỏi khi đã ở trên vỉa hè sau khi rời bệnh viện.

    - Tớ sẽ đi gặp Valérie.

    - Tớ có thể đi cùng cậu không?

    Andrew im lặng.

    - Tớ hiểu. Tớ sẽ gọi cho cậu sau vậy.

    - Simon, hứa với tớ là không quay lại tòa soạn.

    - Tớ làm điều tớ muốn thôi.

    Simon chạy băng qua phố rồi nhảy lên một chiếc taxi.

    °

    Andrew trình thẻ căn cước tại khu vực tiếp đón. Sau khi thực hiện một cuộc gọi, viên lính gác chỉ cho Andrew đường đi.

    Nơi Valérie làm việc chẳng hề giống với những gì Andrew hình dung.

    Anh bước vào một khoảnh sân trong vuông vắn. Một tòa nhà dài ngoằng mà vẻ hiện đại khiến Andrew phải ngạc nhiên sừng sững vươn mình ở phía cuối sân. Chuồng ngựa án ngữ ở tầng trệt. Một cánh cửa ở giữa mở vào một hành lang dài dẫn đến các phòng thú y.

    Valérie đang ở khu vực phẫu thuật. Một trợ lý của cô đề nghị Andrew đợi trong phòng nghỉ. Khi Andrew bước vào phòng, một nhân viên cảnh sát đứng bật dậy.

    - Anh có tin gì mới không, ca mổ suôn sẻ chứ?

    Andrew đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Người đàn ông này, với tầm vóc lừng lững và khi đối diện với anh ta, anh hẳn sẽ thú nhận mọi thứ và bất cứ thứ gì để không làm anh ta nổi giận, dường như đang vô cùng bối rối.

    - Không, không có gì cả, vừa nói Andrew vừa ngồi xuống. Nhưng anh đừng lo, Valérie là bác sĩ thú y giỏi nhất New York. Chó của anh chẳng gặp được bác sĩ nào mát tay hơn đâu.

    - Anh biết đấy, đó không hẳn là một con chó, người đàn ông thở dài, đó vừa là đồng nghiệp vừa là người bạn thân thiết nhất của tôi.

    - Giống gì thế? Andrew hỏi.

    - Giống Retriever.

    - Thế thì người bạn thân của tôi cũng gần giống vậy.

    - Anh cũng có một con Retriever ư?

    - Không, con của tôi thuộc giống chó lai, nhưng rất khôn.

    Valérie bước vào phòng và rất ngạc nhiên khi thấy Andrew ở đây. Cô đến chỗ viên cảnh sát báo cho anh ta hay rằng anh ta có thể tới thăm chú chó của mình trong phòng hồi sức, ca phẫu thuật đã thành công mỹ mãn. Trong vài tuần nữa, và sau một đợt phục hồi chức năng, nó sẽ lại sẵn sang làm nhiệm vụ. Viên cảnh sát rời đi ngay tức thì.

    - Đây đúng là một điều ngạc nhiên thú vị.

    - Con chó bị sao thế? Andrew hỏi.

    - Nó bị trúng đạn vào phần bụng dưới.

    - Nó sẽ được trao huân chương chứ?

    - Anh đừng giễu cợt thế chứ, con chó này đã nhảy vào giữa kẻ tấn công và nạn nhân, em không thấy có mấy người làm được như vậy đâu.

    - Anh không giễu cợt, Andrew nói vẻ suy tư. Em dẫn anh đi tham quan chứ?

    Căn phòng giản dị và sáng sủa. Các bức tường cao nổi bật xây kiên cố, hai khung cửa sổ lớn mở ra khoảnh sân giữa, một chiếc bàn kính đặt trên hai cái mễ kiểu dáng cổ lỗ sĩ được dùng làm bàn làm việc của Valérie, một màn hình máy tính, hai hộp đựng bút chì, một chiếc ghế Windsor mà cô hẳn đã tìm thấy ở một tiệm buôn đồ cũ. Hàng chồng tài liệu chất đống trên chiếc bàn chân quỳ phía sau cô. Andrew nhìn mấy tấm ảnh đặt trên chiếc bàn nhỏ bằng kim loại.

    - Đây là tấm hình Colette và em lúc học đại học.

    - Cô ấy cũng là bác sĩ thú y à?

    - Không, bác sĩ gây mê.

    - Đây là bố mẹ em nhỉ, vừa nói Andrew vừa cúi xuống một khung ảnh khác. Bố em chẳng thay đổi gì cả, rốt cuộc cũng bao nhiêu năm rồi còn gì.

    - Chao ôi, chẳng thay đổi gì, cả thể chất lẫn tinh thần. Vẫn luôn thiển cận và nghĩ rằng mình biết tuốt hơn tất cả mọi người.

    - Hồi chúng ta còn nhỏ, ông chẳng thích anh.

    - Ông ghét tất cả bạn em.

    - Em có nhiều bạn đến thế cơ à?

    - Vài người thôi…

    Valérie chỉ tay vào một khung ảnh khác.

    - Nhìn cái này này, vừa nói Valérie vừa cười.

    - Ơ, lạ chưa, là anh phải không?

    - Hồi đấy mọi người gọi anh là Ben.

    - Em tìm thấy bức ảnh này ở đâu vậy?

    - Em vẫn luôn mang theo bên mình. Nó là một phần trong đống hành lý ít ỏi mà em mang theo lúc rời Poughkeepsie.

    - Em đã giữ một bức ảnh của anh ư?

    - Anh là một phần thời niên thiếu của em, Ben Stilman à.

    - Anh rất xúc động, chưa có giây phút nào anh từng nghĩ rằng em muốn dẫn anh đi cùng em, ngay cả khi đó chỉ là một tấm ảnh.

    - Nếu em đề nghị anh đi theo em, hẳn anh sẽ không làm thế, đúng không?

    - Anh không biết nữa.

    - Anh mơ ước trở thành nhà báo. Anh đã tự thân lập ra tờ báo trường và anh ghi chép rất có phương pháp tất cả những gì xảy ra vào một cuốn sổ nhỏ. Em nhớ là anh từng muốn phỏng vấn bố em về nghề của ông và ông đã tống cổ anh ra khỏi nhà.

    - Anh đã quên hết sạch rồi.

    - Em sẽ thổ lộ với anh một bí mật nhé, vừa nói Valérie vừa tiến lại gần. Khi anh vẫn còn là Ben, anh yêu em hơn rất nhiều so với em yêu anh. Nhưng khi nhìn anh ngủ lúc đêm, em lại có cảm tưởng ngược lại. Đôi khi em tự nhủ rằng như thế thật là không ổn, rằng em không phải là người phụ nữ anh mơ ước, rằng đám cưới đó sẽ không thể diễn ra và rồi cuối cùng anh sẽ rời xa em. Và em không tài nào hiểu nổi vì sao những suy nghĩ ấy lại khiến em đau khổ như vậy.

    Andrew tiến thêm một bước về phía Valérie rồi vòng tay ôm lấy cô.

    - Em nhầm rồi, em chính là người phụ nữ anh không bao giờ ngừng mơ ước có được, còn thiết tha hơn cả ý nghĩ trở thành nhà báo. Em nghĩ rằng anh đã đợi em suốt cả quãng thời gian đó để rồi rời bỏ em sao…

    - Andrew, anh có giữ bức ảnh nào của em không?

    - Không, khi đó anh quá giận em vì đã trốn khỏi Poughkeepsie mà không để lại địa chỉ. Nhưng khuôn mặt em đã khắc sâu ở đây rồi, Andrew vừa nói thêm vừa chỉ vào trán mình, và nó chẳng bao giờ rời bỏ anh. Em không thể hình dung anh yêu em đến nhường nào đâu.

    Valérie dẫn anh vào khu phẫu thuật. Andrew lợm giọng nhìn mấy miếng gạc đẫm máu vương trên tấm vải nhựa lót sàn. Anh lại gần một bàn dao rồi quan sát các dụng cụ phẫu thuật. Có đủ mọi loại kích cỡ.

    - Những thứ này sắc kinh khủng đúng không em?

    - Sắc như dao mổ, Valérie đáp.

    Andrew cúi xuống chỗ con dao dài nhất rồi nhón tay cầm lên. Anh cầm cán dao ước đoán trọng lượng.

    - Chú ý đừng để bị thương đấy, vừa nói Valérie vừa nhẹ nhàng tước con dao ra khỏi tay anh.

    Andrew nhận thấy cô vô cùng khéo léo khi thao tác con dao đó. Cô xoay con dao giữa ngón trỏ và ngón giữa rồi đặt xuống bàn dao.

    - Đi theo em nào, những dụng cụ này còn chưa được khử trùng đâu.

    Valérie dẫn Andrew về phía vòi nước gắn trên bức tường lát gạch vuông. Cô dùng khuỷu tay mở vòi nước, nhấn vòi xà phòng rồi dùng tay rửa tay cho Andrew.

    - Ngành phẫu thuật thật là hấp dẫn, Andrew thì thầm.

    - Tất cả còn tùy vào người phụ tá anh, Valérie đáp.

    Cô vòng tay ôm rồi hôn anh.

    °

    Ngồi vào bàn tại quán cà phê giữa đám cảnh sát ở đây, Andrew chợt nhớ tới thanh tra Pilguez, người mà anh đang mong tin.

    - Anh đang lo lắng à? Valérie hỏi.

    - Không, chỉ là do bầu không khí nơi đây thôi, anh không quen ngồi ăn giữa chừng này người mặc quân phục như vậy.

    - Chúng ta sẽ quen thôi, với lại anh cứ yên tâm, không ở nơi nào trên khắp New York này anh được an toàn hơn ở đây đâu.

    - Chừng nào mà chúng ta còn chưa đi thăm lũ ngựa của em…

    - Em định dẫn anh đi thăm chuồng ngựa ngay sau khi anh dùng cà phê xong…

    - Không được rồi, anh còn phải quay lại chỗ làm.

    - Anh đúng là nhát như cáy!

    - Nếu em thích thì để lần khác nhé.

    Valérie quan sát Andrew.

    - Sao anh lại đến tận đây, Andrew?

    - Để uống cà phê với em, để thăm nơi em làm việc, em từng đề nghị anh thế còn gì và anh muốn làm như vậy.

    - Anh đã băng qua cả thành phố chỉ để làm em vui thôi sao?

    - Và cũng để em hôn anh ngay phía trên một cái bàn đựng toàn dụng cụ phẫu thuật… đó là khía cạnh lãng mạn của anh.

    Valérie tiễn Andrew ra tận taxi; trước khi đóng cửa xe lại, anh quay về phía cô.

    - Thực ra thì bố em từng làm nghề gì?

    - Bố em là nhà thiết kế công nghiệp ở nhà máy.

    - Thế nhà máy đó sản xuất gì vậy?

    - Phụ liệu may mặc, máy tiện, kéo cắt may, kim các loại, que móc, anh từng nói rằng ông làm nghề của phụ nữ và anh chế nhạo ông. Sao anh lại hỏi em vậy?

    - Chẳng có gì đâu.

    Anh hôn Valérie, hứa với cô là không về muộn rồi đóng cửa taxi lại.


  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,732
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 15
    … Hai gã đàn ông đưa Rafaël ra khỏi xà lim. Trong khi một tên túm tóc anh lôi đi thì tên kia dùng roi gân bò đánh tới tấp vào bắp chân Rafaël để không cho anh đứng thẳng dậy. Cơn đau ở đầu dữ dội đến mức anh tưởng như da đầu bật ra đến nơi; mỗi mét bước đi, Rafaël đều gắng gượng đứng dậy, nhưng hai đầu gối anh lại sụm xuống dưới đòn roi. Trò chơi tra tấn nho nhỏ này chỉ tạm thời dừng lại khi cả bọn đến trước một cánh cửa sắt.

    Cánh cửa đó mở vào một căn phòng lớn hình vuông, không hề có cửa sổ.

    Mấy bức tường lốm đốm những vệt dài màu đo đỏ, nền nhà đất nện sặc mùi máu khô cùng phân người, thứ mùi hắc không thể chịu nổi. Hai bóng điện treo lơ lửng trên trần.

    Ánh sáng chói lóa cả mắt nếu không muốn nói là tương phản hoàn toàn với cảnh tranh tối tranh sáng trong xà lim mà anh đã ở suốt hai ngày qua, không được ai cho bất cứ đồ ăn thức uống nào.

    Chúng lột áo sơ mi, quần dài và cả quần lót rồi buộc anh ngồi vào một chiếc ghế sắt, được gắn chắc bằng xi măng xuống nền nhà. Hai sợi dây trói bằng da ghì vào thành ghế, hai sợi khác ở phía chân ghế. Khi Rafaël bị trói chặt vào ghế, sợi dây da cứa đứt da thịt anh.

    Một viên đại úy bước vào. Hắn mặc bộ đồng phục được là ủi thẳng thớm không chê vào đâu được. Tên đó ngồi xuống góc một chiếc bàn, lấy tay xoa xoa mặt gỗ để phủi bụi và đặt chiếc mũ cát két xuống. Rồi hắn lặng lẽ đứng dậy, tiến đến gần Rafaël, tung một cú đấm móc vào hàm anh. Rafaël cảm thấy máu chảy rần rật trong miệng. Anh không thể kêu hét, lưỡi anh đã bị dính chặt vào vòm miệng vì khô khốc.

    - Antonio… (một cú đấm khiến mũi anh gãy vụn), Alfonso… (một cú khác vào cằm), Roberto… (cú thứ ba làm rách toạc vành xương lông mày)… Sánchez. Mày đã nhớ ra tên tao chưa hay là muốn tao nhắc lại?

    Rafaël đã bất tỉnh nhân sự. Chúng tạt một xô nước thối inh vào mặt anh.

    - Nhắc lại tên tao đi, đồ vô lại! Tên đại úy ra lệnh.

    - Antonio, Alfonso, Roberto, con hoang gái điếm, Rafaël thì thào.

    Tên đại úy giơ tay lên nhưng rồi lại rụt tay về; hắn vừa cười vừa ra hiệu cho hai tên bộ hạ chuẩn bị cho gã vô chính phủ mất dạy kia nếm mùi máy phát điện.

    Chúng đặt nhiều tấm đúc bằng đồng lên ngực và đùi anh để dẫn điện, chúng nối dây điện trần vào mắt cá chân, cổ tay rồi cả hai bên tinh hoàn của anh.

    Lần phóng điện đầu tiên đẩy cơ thể anh về phía trước, và anh đã hiểu vì sao chiếc ghế lại được gắn chặt xuống nền nhà. Hàng nghìn mũi kim châm chạy rần rật trong mạch máu anh, dưới da anh.

    - Antonio Alfonso Roberto Sánchez! Tên đại úy thản nhiên nhắc lại.

    Cứ khi nào Rafaël bất tỉnh thì một xô nước hôi thối lại buộc anh trở lại với màn tra tấn mà chúng đang bắt anh phải chịu.

    - Ant… Alfonso… Rob… ánchez, anh thì thầm trong lần phóng điện thứ sáu.

    - Thế mà cứ khoe mình là trí thức, đến phát âm đúng một cái tên cũng chẳng xong, tên đại úy cười khẩy.

    Hắn dùng đầu cây gậy mảnh nâng cằm Rafaël lên rồi cứa nhanh, mạnh một nhát vào má anh.

    Rafaël chỉ nghĩ đến Isabel, đến María Luz, và nhất quyết không chịu nhục xin tha.

    - Cái nhà in chết tiệt của chúng mày ở đâu? Tên đại úy hỏi.

    Khi nơi ấy được nhắc đến, Rafaël, mặt sưng vù, thân thể bầm giập, thả hồn đến với căn phòng có bức tường xanh tróc lở vữa. Anh cảm nhận được mùi giấy, mùi mực và mùi rượu metila mà các bạn anh thường sử dụng để làm máy in rônêô hoạt động. Ký ức thuộc về khứu giác này khiến anh trở nên minh mẫn hơn chút.

    Một luồng điện phóng tiếp theo khiến người anh rung lên bần bật, anh bắt đầu co giật và không kiểm soát được các cơ thắt. Nước tiểu lẫn máu trong người anh chảy ra dọc hai cẳng chân. Đôi mắt, chiếc lưỡi cùng bộ phận sinh dục mất hết sức sống. Anh bất tỉnh nhân sự.

    Tay bác sĩ phụ tá cho đại úy chạy đến nghe tim phổi, kiểm tra đồng tử rồi thông báo hôm nay thế là đủ rồi nếu chúng muốn giữ mạng sống của anh. Và tay đại úy Antonio Alfonso Roberto Sánchez dĩ nhiên là muốn giữ cho tù nhân của mình còn sống. Nếu muốn anh chết, hắn chỉ cần bắn một phát vào đầu là xong, nhưng còn hơn cả chết, hắn muốn anh phải chịu đau đớn bội phần để trả giá cho hành động phản bội.

    Trong khi bị bọn tay chân lôi về xà lim, Rafaël bất tỉnh và chịu đòn tra tấn kinh khủng nhất khi nghe thấy, từ đầu kia hành lang, tên đại úy Sánchez hét lên: “Dẫn vợ hắn ta lại đây.”

    Isabel và Rafaël trải qua hai tháng ròng ở trung tâm ESMA. Chúng đã dùng băng dính dán chặt mí mắt hai người để ngăn họ ngủ và khi họ dần chìm vào trạng thái mất ý thức, chúng lại đánh thức họ bằng những cú đá hay dùi cui.

    Suốt hai tháng ròng, vốn chẳng bao giờ được gặp nhau trong hành lang dẫn tới phòng tra tấn, Isabel và Rafaël cứ dần dần rời xa cái thế giới mà họ từng biết loài người. Trong quãng thời gian lẫn lộn giữa ngày lẫn đêm mà họ chẳng tài nào phân biệt nổi đó, họ chìm đắm trong vực thẳm tăm tối mà những tín đồ sùng đạo nhất cũng chẳng thể hình dung nổi.

    Tuy vậy, khi tên đại úy Sánchez dẫn họ đến căn phòng nơi họ bị tra tấn, hắn viện dẫn đến những hành động phản bội của họ, khi là phản bội Tổ quốc, khi là phản bội đức Chúa trời. Và khi nhắc đến Chúa trời, hắn lại càng đánh mạnh tay hơn.

    Tên đại úy ra lệnh chọc mù mắt Isabel nhưng một tia sáng trong cô không hề lụi tắt, đó chính là ánh mắt của María Luz. Thi thoảng, cô những muốn các đường nét của khuôn mặt con gái bị xóa nhòa đi để cô được buông xuôi mà chết. Chỉ có cái chết mới có thể giải phóng cho cô, chỉ có cái chết mới đưa cô về với đồng loại của mình mà thôi.

    Một tối, tên đại úy buồn chán, hắn ta ra lệnh cắt đứt bộ phận sinh dục của Rafaël. Một trong những tay chân của hắn dùng kéo cắt. Tay bác sĩ phụ trách việc khâu lại, không có chuyện để mặc Rafaël mất sạch máu.

    Vào đầu tháng cầm tù thứ hai, chúng tháo băng dính để giật mí mắt họ. Mỗi lần tên đại úy cho gọi nạn nhân của mình đi là họ lại mất một phần dáng vẻ con người. Không còn có thể nhận ra Isabel được nữa. Khuôn mặt cùng bầu vú của cô bị bỏng vô số chỗ do đầu mẩu thuốc lá của tên đại úy dúi vào da cô. (Và hắn ta hút hai bao mỗi ngày.) Ruột gan cô, vốn cũng bị bỏng nặng do tác động của các luồng điện chạy qua người, khó khăn lắm mới chịu đựng được những ngụm nước nóng mà chúng bắt cô uống bằng thìa. Đã từ lâu lắm rồi, lỗ mũi cô chẳng còn ngửi thấy mùi phân của chính mình mà cô đang ngập ngụa trong đó. Bị đưa trở về trạng thái súc vật, Isabel mang vào trong cảnh tối tăm này hình ảnh khuôn mặt của cô con gái María Luz mà cô không lúc nào ngơi thầm gọi tên.

    Một sáng, tên đại úy không còn cảm thấy hứng thú với việc mình làm nữa. Cả Rafaël lẫn Isabel đều không chịu khai ra địa chỉ của xưởng in. Hắn ta cóc quan tâm, ngay từ đầu hắn đã cóc quan tâm. Một viên đại úy tầm cỡ như hắn còn có những nhiệm vụ khác chứ không chỉ chăm chăm truy lùng cái máy in sao tầm thường đó. Khi nhìn những nạn nhân của mình vẻ kinh tởm, hắn vui mừng vì đã đạt được mục đích. Hắn đã hoàn thành nhiệm vụ, làm cho hai kẻ vô đạo đức dám chối bỏ Tổ quốc, dám từ chối phục tùng một mệnh lệnh duy nhất có khả năng mang lại vinh quang cho đất nước Argentina sự vĩ đại mà nó đáng được hưởng, phải sức cùng lực kiệt. Tên đại úy Sánchez là một kẻ yêu nước tận tâm và có Chúa công nhận tấm lòng đó của hắn.

    Vào lúc xế chiều, tay bác sĩ bước vào xà lim giam Isabel. Thật mỉa mai thay, khi phải tiêm mũi penthotan, hắn còn khử trùng vùng lõm khuỷu tay bằng một miếng bông thấm cồn. Thứ thuốc độc đó khiến cô ngủ sâu nhưng không giết chết cô. Mục đích chính là thế. Rồi đến lượt Rafaël cũng chịu chung số phận trong buồng giam anh nằm ở tận cuối hành lang.

    Đêm đến, chúng chuyển cả hai lên một chiếc xe tải nhỏ cho đến tận một sân bay bí mật nằm ở vùng ngoại ô rộng lớn của Buenos Aires. Một chiếc máy bay hai động cơ của không quân đang đợi trong nhà để máy bay. Isabel và Rafaël được đặt nằm dài trong khoang sau cùng khoảng hai chục tù nhân khác, dưới sự canh gác của bốn tên lính có nhiệm vụ áp giải những con người bất tỉnh nhân sự. Chiếc máy bay chở đầy hàng này cất cánh mà không hề bật đèn hiệu. Tay thiếu tá đã nhận được chỉ dẫn lái thẳng đến dòng sông rồi đổi hướng về phía Đông Nam, ở độ cao thấp lè tè. Đường bay không bao giờ được xáp lại gần bờ biển Uruguay. Đến cửa sông đổ ra đại dương, hắn quay ngược lại rồi quay trở về điểm xuất phát. Một nhiệm vụ quen thuộc.

    Và thiếu tá Ortiz theo những chỉ dẫn này từng li từng tí một. Chiếc máy bay lao lên bầu trời Argentina, bay lượn phía trên bồn địa Rio de La Plata và hoàn thành nhiệm vụ một giờ sau đó.

    Lúc bấy giờ, đám lính canh mở cửa hậu và chúng chỉ mất vài phút để ném mười người đàn ông cùng mười người phụ nữ bất tỉnh nhân sự, nhưng vẫn còn sống, xuống biển. Tiếng ồn inh tai của động cơ giúp chúng không phải nghe thấy âm thanh trầm đục của các cơ thể khi đập vào sóng biển trước khi bị cuốn đi. Từng đàn cá mập đã hình thành thói quen lảng vảng ở vùng nước đục này để rình đợi khẩu phần ăn hằng ngày từ trên trời rơi xuống vào cùng một giờ mỗi tối

    Isabel và Rafaël đã trải qua những giờ phút cuối cùng trong đời bên nhau mà không hề hay biết. Khi chiếc máy bay quay ngược trở lại nhà để máy bay, họ mãi mãi thuộc về hàng ngũ gồm ba mươi nghìn người bị chế độ độc tài Argentina tính là mất tích…

    Valérie đặt mấy tờ giấy xuống rồi đi ra phía cửa sổ, cô cảm thấy một nhu cầu cấp thiết là phải hít thở không khí trong lành, cô không thể thốt lên lời nào.

    Andrew ôm cô từ sau lưng rồi ghì thật chặt.

    - Chính em đã nài nỉ anh đấy nhé, anh đã bảo em đừng đọc rồi còn gì.

    - Thế còn María Luz thì sao? Valérie hỏi.

    - Chúng không giết trẻ con. Chúng giao bọn trẻ cho các gia đình thân chính quyền, hoặc bạn bè của những kẻ thân chính quyền. Chính quyền tạo cho chúng nhân thân mới với tên cha mẹ nhận nuôi chúng. María Luz được hai tuổi khi Rafaël và Isabel bị bắt cóc, nhưng có hàng trăm phụ nữ đang mang thai vào thời điểm bị bắt.

    - Thế những kẻ đểu cáng đó tra tấn cả những phụ nữ có mang ư?

    - Đúng vậy, bằng cách canh chừng giữ cho họ sống đến lúc sinh nở, rồi chúng bắt luôn những đứa trẻ sơ sinh. Quân đội khoe khoang rằng đã cứu rỗi những linh hồn vô tội khỏi sự đồi bại bằng cách trao chúng cho những bậc cha mẹ có đủ tư cách đảm bảo cho chúng một nền giáo dục xứng đáng với những giá trị của nền độc tài. Họ cho rằng đó là việc tốt theo đúng tinh thần đạo Cơ Đốc và các giới chức Nhà thờ, vốn biết rõ những gì đang diễn ra, cũng một mực đảm bảo cho điều đó. Vào những tháng cuối thai kỳ, các bà mẹ tương lai được trú trong những nhà hộ sinh tạm bợ được dựng trong trại giam. Ngay khi lọt lòng, con của họ bị lấy đi ngay lập tức… em biết số phận đang chờ những người phụ nữ này là gì rồi đó. Phần lớn những đứa trẻ đó, giờ đã khôn lớn, không hề hay biết rằng cha mẹ đẻ của chúng đã bị tra tấn dã man trước khi bị ném sống xuống đại dương. Có thể trường hợp của María Luz cũng như vậy.

    Valérie quay lại nhìn Andrew. Anh chưa bao giờ từng thấy cô xáo động và giận dữ cùng lúc như vậy, và những gì anh nhận thấy trong đôi mắt cô gần như khiến anh thấy sợ.

    - Hãy nói với em là cho đến giờ, những kẻ chưa chết thì vẫn trong nhà lao và chúng sẽ ở đó cho đến hết đời.

    - Anh cũng muốn có thể nói với em như vậy lắm. Những kẻ phạm tội ác tàn bạo đó đã hưởng lợi từ một đạo luật ân xá, được thông qua nhân danh sự hòa giải dân tộc, và khi luật đó bị bãi bỏ, phần lớn chúng đã biết cách để bị lãng quên hoặc thay đổi nhân thân. Chúng không hề thiếu kinh nghiệm trong việc này và cũng chẳng thiếu sự trợ giúp về chính trị để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đó.

    - Anh sẽ quay lại đó rồi kết thúc cuộc điều tra của mình. Anh sẽ tìm lại được tên Ortiz và tất cả những kẻ khốn nạn đó. Hứa với em như vậy đi!

    - Đó chính là mong muốn của anh kể từ khi tiến hành cuộc điều tra này. Em đã hiểu tại sao anh lại phải lao tâm khổ tứ đến vậy rồi chứ? Em đã trách anh là không quan tâm nhiều đến em phải không? Andrew hỏi.

    - Em muốn moi gan móc mật bè lũ kia.

    - Anh hiểu, anh cũng thế mà, nhưng giờ thì em hãy bình tâm lại.

    - Đối diện với kẻ rác rưởi đó, anh không thể hình dung những điều em có thể làm đâu. Em sẽ chẳng thấy chút cắn rứt nào nếu phải loại bỏ lũ quái vật đang tâm tra tấn cả phụ nữ có thai như sát hại một đàn chó dại ấy.

    - Để em ngồi bóc lịch trong tù đến tận cuối đời à… quả là rất thông minh.

    - Tin em đi, em biết cách làm thế nào mà không để lại dấu vết, Valérie tiếp lời mà vẫn chưa nguôi giận.

    Andrew quan sát cô rồi ghì cô chặt hơn nữa trong vòng tay.

    - Anh không nghĩ là những trang viết kia lại khiến em rơi vào trạng thái như lúc này. Lẽ ra anh không nên đưa em đọc mới phải.

    - Em chưa bao giờ đọc cái gì gây phẫn nộ đến vậy, em rất muốn được cùng anh đến đấy lùng tìm lũ quái vật đó.

    - Anh không chắc đó là ý hay đâu.

    - Sao vậy? Valérie nổi khùng.

    - Bởi lũ quái vật đó, như em vẫn gọi, phần lớn đang còn sống, và dĩ nhiên năm tháng qua đi không chắc đã khiến chúng trở nên vô hại đâu.

    - Thế mà anh còn sợ lũ ngựa cơ đấy…

    °

    Sáng hôm sau, lúc rời nhà, Andrew ngạc nhiên khi gặp Simon ở dưới tòa nhà mình sống.

    - Cậu có thời gian đi uống cà phê không? Cậu bạn lên tiếng hỏi anh.

    - Dù sao cũng chào cậu…

    - Đi theo tớ, Simon nói, vẻ lo lắng hơn bao giờ hết.

    Cả hai đi ngược lên phố Charles, Simon vẫn lặng thinh không nói một lời.

    - Có chuyện gì thế? Andrew lo lắng hỏi khi bước vào quán Starbucks.

    - Cậu đi lấy hai cốc cà phê đi, tớ sẽ giữ bàn này, Simon vừa ngồi xuống chiếc ghế bành gần cửa kính vừa nói.

    - Tuân lệnh!

    Andrew xếp hàng đợi đến lượt, mắt vẫn không rời khỏi Simon, thái độ của cậu bạn khiến anh tò mò.

    - Một mocaccino cho tôi, còn cappuccino cho quý ngài Hoàng thân, Andrew nói khi ra chỗ bạn vài phút sau đó.

    - Tớ có tin xấu đây, Simon thông báo.

    - Tớ nghe đây.

    - Liên quan đến tay Freddy Olson đó.

    - Cậu đã theo dõi hắn và cậu thấy hắn chẳng đi đâu cả… Tớ biết điều này từ lâu rồi.

    - Nực cười quá đấy. Tớ đã dành cả tối mùa đông lạnh giá ngồi trước máy tính lần mò trong website của tờ báo nhà cậu để tìm kiếm các bài báo cậu đã viết.

    - Lẽ ra cậu nên gọi cho tớ nếu cậu buồn chán đến vậy, Simon của tớ à.

    - Cậu sẽ bớt huênh hoang đi trong ít phút nữa thôi. Không phải tớ quan tâm đến văn vẻ của cậu mà là những bình luận của độc giả cơ. Tớ muốn kiểm tra xem liệu có tên gàn dở nào viết bậy bạ linh tinh về bài báo cậu viết không.

    - Tớ nghĩ là cũng phải có vài tên…

    - Tớ không nói đến những kẻ nghĩ cậu là tay nhà báo kém cỏi.

    - Có những độc giả đăng những bình luận như thế trên website tờ báo ư?

    - Đúng là có một số, nhưng…

    - Cậu chỉ tớ biết đi, Andrew cắt ngang.

    - Cậu để tớ nói hết chứ?

    - Đó không phải là tin xấu của cậu à?

    - Tớ nhận thấy có một loạt bình luận mang thái độ thù nghịch chẳng hề liên quan đến việc đánh giá phẩm cách nghề nghiệp của cậu. Lời lẽ thô bạo đến sững sờ.

    - Như thế nào?

    - Đại loại như chẳng ai thèm đọc bài của hắn đâu. Trong số những bình luận hung hăng nhất, tớ chú ý đến bình luận của một tay Spookie-Kid nào đó do số lượng lời bình nhiều kinh lên được. Tớ không rõ cậu đã làm gì hắn, nhưng hắn chẳng hề yêu thích cậu tẹo nào. Tớ đã mở rộng phạm vi tìm kiếm để tìm hiểu xem liệu cái gã giấu mình sau biệt danh kia có tham gia vào các forum hay hắn có blog hay không.

    - Thế rồi sao?

    - Hắn quả thật đã đưa cậu vào ống ngắm. Mỗi lần cậu có bài đăng, hắn liền nhiếc móc cậu ngay, và thậm chí ngay cả khi cậu không có bài. Nếu cậu đọc tất cả những gì tớ có thể tìm thấy trên mạng do nickname này viết ra thì cậu sẽ là người đầu tiên phải kinh ngạc ấy, à mà không, là người thứ hai, sau tớ.

    - Nếu tớ hiểu đúng thì đang có một tay bút quèn hẳn ngất ngây trước mấy tấm poster của Marilyn Manson căm ghét công việc của tớ, đó có đúng là tin xấu của cậu không?

    - Sao lại là Marilyn Manson?

    - Tớ không biết, tự dưng tớ nghĩ thế thôi, tiếp đi.

    - Nghiêm túc nào, sao cậu lại nghĩ thế?

    - Spookie Kids là tên thời kỳ đầu của nhóm rock Marilyn Manson.

    - Sao cậu lại biết?

    - Bởi tớ là một tay nhà báo kém cỏi mà, tiếp nào!

    - Trong các mối quen biết của tớ, có một tay thiên tài tin học trẻ tuổi, nếu cậu hiểu điều tớ muốn nói…

    - Không hề.

    - Một trong những tay tin tặc ấy, cứ mỗi Chủ nhật lại thử xâm nhập vào hệ thống máy chủ của Lầu Năm Góc hay CIA để giải trí. Tớ ấy à, thời đôi mươi, tớ thích đám con gái hơn, nhưng thôi, cậu còn muốn gì chứ, thời thế đã thay đổi rồi…

    - Duyên chưa! Sao cậu lại quen được một tay hacker nhỉ?

    - Cách đây vài năm, khi mới mở xưởng, tớ hay cho đám choai choai con nhà giàu thuê xe vào cuối tuần để kiếm cơm. Một trong số chúng, khi đem trả chiếc Corvette, đã để quên thứ gì đó dưới hộp tì tay ở giữa.

    - Hàng nóng à?

    - Có, nhưng với số lượng đủ cho cả một đàn bò gặm. Hút hít chưa bao giờ là món của tớ cả. Nếu tớ báo vụ này với cảnh sát thì hẳn thằng nhóc đó sẽ có đủ thời gian để chữa trị đám mụn trứng cá trước khi có thể làm lại từ đầu với máy tính vào một ngày nào đó. Nhưng vì chẳng phải là cán cân công lý nên tớ đã trả lại nó thứ thuộc về nó. Thằng nhóc thấy tớ “thật thà quá” và nó đã hứa với tớ rằng nếu một ngày nào đó tớ cần bất cứ thứ gì thì tớ có thể trông cậy vào nó. Thế là đêm qua, đúng lúc 11 giờ, tớ tự nhủ mình đúng là đang cần làm một việc trong tầm tay nó. Đừng hỏi tớ là nó đã làm như thế nào nhé, tớ hoàn toàn mù tịt về tin học, nhưng sáng nay nó đã gọi cho tớ sau khi xác định được địa chỉ IP của Spookie. Một dạng đăng ký địa chỉ máy tính của cậu khi cậu kết nối Internet ấy mà.

    - Gã tin tặc của cậu đã xác định được danh tính tên Spookie, kẻ đã buông những lời cay độc với tớ ư?

    - Không phải danh tính hắn mà là nơi hắn tung những lời cay độc đó. Và cậu sẽ ngạc nhiên khi biết rằng Spookie đã đăng những bình luận của hắn từ mạng của The New York Times.

    Andrew sững sờ nhìn Simon.

    - Cậu có thể nhắc lại điều đó được không?

    - Cậu vừa nghe tớ nói rất rõ rồi còn gì. Tớ đã in cho cậu xem vài ví dụ rồi đó, đó không hẳn là những lời đe dọa tính mạng nhưng ở mức độ hằn thù như vậy thì cũng là cận kề nguy hiểm. Trong tòa soạn, ai có thể viết những điều bậy bạ như vậy về cậu cơ chứ? Ví dụ như bình luận gần đây nhất nhé, vừa nói Simon vừa chìa một tờ giấy cho Andrew, “Nếu một chiếc xe buýt có cán bẹp được cái bọc tội lỗi đó của Andrew Stilman thì mấy cái lốp xe hẳn sẽ bết cứt bẩn và nền báo chí nước nhà sẽ thoát khỏi thảm họa”.

    - Có lẽ là tớ có ý tưởng về câu trả lời, Andrew, choáng váng vì những lời lẽ anh vừa đọc được, đáp lời. Tớ sẽ để ý Olson nếu cậu muốn.

    - Cậu sẽ chẳng làm gì hết, bạn thân mến à. Trước tiên, tớ chẳng có bất cứ bằng chứng chính thức nào chống lại hắn, hắn cũng không phải là kẻ duy nhất cày như trâu tại The New York Times. Và nếu cậu xen vào thì hắn sẽ dè chừng. Cậu cứ để tớ làm và đừng có động cựa gì hết trước khi tớ bật đèn xanh. Chúng ta thống nhất thế chứ?

    - Nhất trí, Andrew tán đồng.

    - Cứ tiếp tục hành xử như thể chẳng có gì xảy ra ở tòa soạn. Cậu sẽ biết kẻ hận thù mình đến vậy có khả năng làm được những gì và điều quan trọng là chắc chắn nhận dạng được hắn ta. Còn về phần liên quan đến tớ, dù có phải là Freddy Olson hay không, tên Spookie-Kid kia cũng đứng đầu danh sách những kẻ muốn lấy mạng cậu và hắn sẽ không chịu nhịn để bộc lộ ra cho biết đâu.

    Andrew chào bạn rồi đứng dậy. Vừa rời bàn, Simon vừa mỉm cười hỏi bạn:

    - Tớ tiếp tục vụ theo dõi hay cậu vẫn luôn thấy tớ nực cười vậy?

    °

    Andrew dành hết thời gian còn lại trong ngày vào tập hồ sơ về Argentina, gọi điện thoại hết cuộc này đến cuộc khác để chuẩn bị sắp xếp cho chuyến đi tới. Và, vào lúc xế chiều, trong khi anh vẫn đang nghiên cứu hồ sơ đó, hình bóng một bé gái chợt hiện ra trong giấc mộng của anh. Cô bé đứng bất động, đơn độc ở cuối một lối đi dài rợp bóng cây bách dẫn lên một ngọn đồi. Andrew gác chân lên bàn rồi ngả người ra sau tựa vào phô tơi.

    Cô bé dẫn anh đến tận ngôi làng chênh vênh trên núi. Mỗi khi anh tưởng như bắt kịp cô bé thì cô bé lại rảo bước và cách xa anh hơn. Tiếng cười lanh lảnh của cô bé dẫn lối anh trong cuộc rượt đuổi điên rồ này. Làn gió đêm nổi lên cùng bóng tối. Andrew rùng mình, anh thấy lạnh, lạnh đến mức anh bắt đầu run lập cập. Một kho thóc bỏ hoang hiện ra trước mắt anh, anh bước vào trong, cô bé đang ngồi đợi anh trên khung cửa sổ dưới mái nhà, hai chân đung đưa trong không trung. Andrew lại gần chân tường, nhưng không tài nào phân định nổi đường nét của đứa bé. Anh chỉ nhìn thấy nụ cười của cô bé, một nụ cười kỳ lạ, gần như của người trưởng thành. Cô bé thì thầm mấy lời được gió đưa tới bên anh.

    - Hãy đi tìm cháu, hãy tìm ra cháu, chú Andrew, đừng bỏ cuộc, cháu tin vào chú, chúng ta không có quyền mắc sai lầm, cháu cần chú.

    Cô bé buông mình ngã vào khoảng không hư vô. Andrew vội vàng chạy đến giữ cô bé lại nhưng cô bé đã biến mất trước khi chạm đất.

    Một mình trong kho thóc, Andrew quỳ phục xuống, toàn thân run bắn. Lưng anh đau nhói, cơn đau quặn thắt khiến anh ngất lịm. Khi hồi tỉnh lại, anh thấy mình đang bị trói chặt vào một chiếc ghế kim loại. Anh không thở nổi, hai lá phổi của anh bỏng cháy, anh thấy nghẹt thở. Một luồng điện chạy dọc cơ thể anh, tất cả các cơ co quắp lại và anh cảm thấy bị một lực rất mạnh ném văng ra phía trước. Anh vẳng nghe thấy từ xa xa tiếng hét “tiếp”, một cú sốc với sức mạnh không thể chịu nổi đẩy anh đi, động mạch anh đập dữ dội còn tim thì bỏng cháy. Mùi da thịt cháy xộc lên mũi, đám dây nhợ buộc chặt tứ chi khiến anh đau, đầu óc anh quay cuồng rồi anh van xin người ta ngừng màn tra tấn này lại. Nhịp đập tim anh dịu lại. Lượng không khí lúc trước còn thiếu giờ tràn vào phổi anh, anh hít lấy hít để như vừa thoát khỏi lần nín thở dài dằng dặc.

    Một bàn tay đặt lên vai anh, lay người anh không chút nể nang.

    - Stilman! Stilman!

    Andrew choàng mở mắt thì nhận thấy khuôn mặt của Olson đang gần như gí sát vào mặt mình.

    - Anh có thể ngủ ở văn phòng tùy ý nhưng ít ra cũng nên mơ trong trật tự chứ, vẫn còn có người làm việc ở đây đấy!

    Andrew giật nảy người bật dậy.

    - Khỉ thật, anh làm gì ở đây đấy, Freddy?

    - Tôi đã phải nghe anh rên rỉ đến mười phút rồi, anh khiến tôi không tài nào tập trung nổi. Tôi cứ tưởng anh bị khó ở và tôi đến để xem thế nào, nhưng nếu anh đuổi tôi như vậy thì có lẽ tôi nên tránh đi thì hơn.

    Mồ hôi rịn thành giọt trên trán nhưng Andrew lại thấy lạnh buốt.

    - Anh nên về nhà nghỉ ngơi đi, anh hẳn đang ủ bệnh gì đó. Tôi rất buồn lòng khi thấy anh trong tình trạng này, Freddy thở dài. Tôi cũng sắp sửa về đây, anh có muốn tôi đưa ra taxi không?

    Trong đời mình thi thoảng anh cũng gặp vài cơn ác mộng, nhưng anh chưa thấy có cơn ác mộng nào chân thực đến như vậy. Anh nhìn Freddy rồi đứng dậy khỏi ghế.

    - Cảm ơn, mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi. Buổi trưa hẳn tôi đã ăn thứ gì đó không ổn cho lắm.

    - Giờ đang là tám giờ tối…

    Andrew tự hỏi mình đã bị cắt đứt với hiện tại kể từ khi nào. Cố nhớ lại giờ chính xác lúc anh liếc mắt nhìn lên đồng hồ trên màn hình máy tính là bao nhiêu, anh tự hỏi liệu trong đời mình còn gì là thực nữa.

    Anh về đến nhà, kiệt sức, trên đường về anh đã gọi cho Valérie để nhắn cô rằng anh sẽ đi ngủ sớm mà không đợi cô, nhưng Sam đã báo tin rằng cô vừa mới vào phòng phẫu thuật và có thể cô sẽ về rất khuya.

  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,732
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 16
    Cả đêm hôm đó là một chuỗi những cơn ác mộng liên tiếp với hình ảnh cô bé có khuôn mặt lờ mờ không rõ ràng xuất hiện trong đó. Mỗi khi tỉnh giấc, người run lập cập đồng thời nhễ nhại mồ hôi, anh lại đi tìm cô bé.

    Trong một cơn ác mộng kinh khủng hơn tất thảy, cô bé dừng lại đối diện với anh, và bằng một cái khoát tay, cô bé bảo anh im lặng.

    Một chiếc ô tô đen dừng lại giữa hai người, bốn gã đàn ông xuống xe mà không hề để ý đến họ. Chúng lao vào một tòa nhà nhỏ. Từ con phố vắng vẻ nơi Andrew đang đứng, anh nghe thấy tiếng kêu thét, tiếng phụ nữ gào, tiếng trẻ con khóc.

    Cô bé đứng bên vỉa hè đối diện, cánh tay đung đưa, miệng hát một câu hát ru vẻ vô tư lự. Andrew muốn bảo vệ cô bé, nhưng khi anh tiến bước về phía cô bé thì bắt gặp ánh mắt cô bé, ánh mắt tươi vui nhưng đồng thời cũng đầy đe dọa.

    - María Luz à? Anh thì thầm.

    - Không, cô bé đáp với giọng chững chạc, María Luz không còn tồn tại nữa.

    Và ngay tức thì lại có một giọng nói trẻ con cất lên từ chính cơ thể đó:

    - Hãy tìm ra cháu, nếu không có chú, cháu sẽ biến mất mãi mãi. Chú đã đi sai đường, chú Andrew à, chú không tìm ở nơi cần tìm, chú đã nhầm lẫn và tất cả đã đánh lừa chú, chú sẽ phải trả giá đắt nếu lầm đường. Đến cứu cháu với, cháu cần chú cũng như chú cần cháu. Kể từ nay chúng ta gắn kết với nhau. Nhanh lên chú Andrew, nhanh lên, chú không có quyền mắc sai lầm.

    Lần thứ ba Andrew tỉnh giấc trong tiếng hét váng nhà. Valérie vẫn chưa về. Anh bật đèn đầu giường rồi tìm cách trấn tĩnh lại, nhưng anh vẫn thổn thức mà không tài nào dừng lại được.

    Trong cơn ác mộng vừa rồi, ánh mắt của María Luz dường như rất thoáng qua. Anh tin chắc mình đã từng thấy cặp mắt đen này nhìn mình chằm chằm, lạc lõng trong một quá khứ không phải của mình.

    Andrew rời khỏi giường rồi đi ra phòng khách. Anh đến ngồi trước máy tính với mong muốn dành cả phần đêm còn lại để làm việc, nhưng các ý nghĩ ngăn anh tập trung và anh không thể viết nổi dù chỉ một dòng. Anh nhìn đồng hồ, lưỡng lự, đi về phía điện thoại rồi gọi cho Simon.

    - Tớ có làm phiền cậu không?

    - Dĩ nhiên là không, tớ đang đọc lại Khi tôi nằm chết[1] trong lúc đợi cậu đánh thức tớ vào lúc hai giờ sáng đây.

    [1] Tiểu thuyết Tandis que j’agonise (As I lay dying) của nhà văn Mỹ William Faulkner xuất bản năm 1930.

    - Thế mà chuẩn đấy.

    - Tớ hiểu rồi, tớ đi mặc quần áo đây, mười lăm phút nữa tớ sẽ có mặt ở nhà cậu.

    Simon đến nhanh hơn dự kiến, anh đã khoác chiếc áo gió Burberry ra ngoài bộ pyjama và xỏ một đôi giày basket.

    - Tớ biết, vừa bước vào căn hộ của Andrew anh vừa nói, cậu sắp nói vài câu khó nghe về phục trang của tớ, nhưng tớ vừa gặp hai gã hàng xóm của cậu dắt chó đi dạo mà mặc áo khoác đấy… dĩ nhiên là gã hàng xóm mặc áo choàng chứ không phải con chó.

    - Tớ rất tiếc vì đã làm phiền cậu vào đêm hôm khu khoắt thế này.

    - Không, cậu làm gì có tiếc, nếu không thì cậu chẳng gọi cho tớ. Cậu có thôi rào trước đón sau và nói cho tớ biết sao mình lại ở đây không?

    - Tớ thấy sợ, Simon à, từ trước đến giờ tớ chưa bao giờ sợ như vậy cả. Đêm đến thật khủng khiếp, và mỗi sáng tớ đều thức giấc mà lòng quặn thắt, khi nhận ra rằng mình lại mất đi một ngày để sống.

    - Không phải là muốn phũ phàng nhẹ nhàng hóa tình trạng của cậu lúc này đâu, nhưng có tám tỷ người đang cùng chung tình cảnh đó mà.

    - Ngoại trừ tớ, tớ chỉ còn năm mươi ba ngày nữa thôi!

    - Andrew à, câu chuyện kỳ quặc đó trở nên ám ảnh rồi đấy. Tớ là bạn cậu và tớ không muốn bị hiểm họa nào rình rập hết, nhưng cậu có bao nhiêu nguy cơ sẽ chết bẹp dưới gầm xe buýt vào ngày mùng 9 tháng Bảy ấy thì tớ cũng có bấy nhiêu nguy cơ tương tự khi rời khỏi nơi đây. Dù với bộ pyjama kẻ ca rô màu đỏ này, tay tài xế thật sự vẫn khó mà nhìn ra tớ trước đèn pha. Tớ đã mua bộ này ở Luân Đôn, bằng vải bông, quả là quá nóng đối với mùa này, nhưng tớ ưng cái này nhất. Cậu không có pyjama à?

    - Có, nhưng tớ không mặc bao giờ, tớ thấy mặc vậy già lắm.

    - Tớ có vẻ già ư? Simon dang hai tay hỏi. Cậu khoác áo choàng ngủ vào đi rồi ta đi dạo một vòng. Cậu lôi tớ ra khỏi giường để tớ khiến cậu đổi ý, phải không nào?

    Khi cả hai đi qua sở cảnh sát trên phố Charles, Simon chào tay lính gác rồi hỏi xem liệu anh ta có thấy một con chó teckel lông ngắn không. Tay cảnh sát lấy làm tiếc là chẳng thấy con chó nào cả. Và Simon, sau khi đã cảm ơn anh ta, vừa đi vừa không ngừng gọi “Freddy”.

    - Tớ muốn tránh đi dạo dọc bờ sông thì hơn, Andrew nói khi đến góc giao nhau với xa lộ West End.

    - Cậu có tin gì từ ông thanh tra của cậu chưa?

    - Cho đến giờ thì chẳng có gì cả.

    - Nếu là tay đồng nghiệp kia muốn giết cậu thì chúng ta sẽ sớm vô hiệu hóa được hắn thôi, còn nếu không phải hắn và từ giờ cho đến đầu tháng Bảy, chúng ta vẫn chẳng nắm được gì cụ thể thì tớ sẽ đưa cậu đi du lịch thật xa New York trước ngày mùng 9.

    - Tớ cũng muốn mọi chuyện đơn giản như vậy. Và giả dụ chúng ta có đi thì tớ cũng chẳng thể bỏ nghề và trốn chui trốn lủi được suốt đời.

    - Khi nào cậu đi Argentina?

    - Chỉ vài ngày nữa thôi, và tớ cũng không giấu cậu là ý nghĩ lánh xa đến đâu đó ít lâu không hẳn khiến tớ phật lòng.

    - Valérie sẽ thích nghe câu này. Dù sao cũng phải thật cẩn thận khi ở đó. Chúng ta tới nơi rồi, cậu cảm thấy mình đủ sức về nhà một mình trong bộ dạng này chứ?

    - Tớ không hề một mình, vì tớ đi dạo cùng Freddy, Andrew vừa đáp vừa chào Simon.

    Rồi anh đi tiếp, ra vẻ như mình đang dắt một con chó đi dạo.

    °

    Andrew bị tiếng chuông điện thoại đánh thức khỏi giấc ngủ ngắn ngủi. Anh hoảng hốt nhấc máy, và nhận ra giọng của viên thanh tra thông báo là đang đợi anh ở quán cà phê góc phố.

    Khi Andrew bước vào quán Starbucks, Pilguez đang ngồi ở chỗ Simon ngồi ngày hôm qua.

    - Ông có tin xấu muốn báo cho tôi à? Vừa ngồi vào bàn anh vừa hỏi.

    - Tôi đã tìm thấy vợ Capetta rồi, thanh tra trả lời.

    - Ông đã làm như thế nào vậy?

    - Tôi không nghĩ chuyện này thay đổi được gì cái điều đang khiến chúng ta hết sức bận lòng và tôi chỉ có một tiếng đồng hồ dành cho anh nếu như không muốn lỡ chuyến bay.

    - Ông lại đi ư?

    - Tôi không thể ở lì New York mãi được, và chính anh cũng lại sắp đi cơ mà. San Francisco không pha tạp nhiều như Aires nhưng đó là thành phố quê tôi. Vợ tôi đang đợi tôi, bà ấy nhớ những điều lải nhải lẩm cẩm của tôi.

    - Ông đã biết được gì ở Chicago?

    - Vợ Capetta là một phụ nữ rất đẹp, đôi mắt đen láy, một ánh mắt khiến anh phải rung động. Anh chàng Capetta hẳn chẳng mất nhiều công sức để tìm ra vợ đâu, chị ta thậm chí chẳng hề thay đổi nhân thân. Chị ta sống ở đó một mình cùng con trai, cách nơi bức thư hay ho được gửi đến cho anh có hai con phố.

    - Ông đã nói chuyện với chị ta ư?

    - Không, à mà cũng có, nhưng không phải về vụ của chúng ta.

    - Tôi không hiểu.

    - Tôi đã đóng vai người đàn ông đáng mến đi hít thở không khí trong lành trên một băng ghế công viên và tôi đã kể với chị ta rằng cháu trai của tôi cũng tầm tuổi con chị ấy.

    - Ông được làm ông rồi cơ à?

    - Chưa, Natalia và tôi gặp nhau quá muộn để có thể có con. Nhưng chúng tôi có một đứa cháu yêu. Đó là con trai của người bạn làm ở khoa phẫu thuật thần kinh mà tôi đã từng nói với anh cùng người chồng kiến trúc sư. Chúng tôi rất thân nhau. Cu cậu lên năm và hai vợ chồng tôi cưng nó lắm. Giờ đừng bắt tôi kể chuyện đời mình cho anh nữa nếu không tôi sẽ nhỡ chuyến bay thật đó.

    - Sao lại phải dàn cảnh như thế, nếu ông không thẩm vấn chị ta?

    - Bởi vì có nhiều cách để thẩm vấn một ai đó. Cậu muốn tôi nói gì với chị ta đây? Chị thân mến, trong lúc cậu con trai của chị đang chơi trong chậu cát, liệu chị có thể nói cho tôi biết chị đang có ý định dùng dao đâm chết một phóng viên của tờ The New York Times vào tháng tới phải không? Tôi thích chiếm trọn niềm tin của chị ta bằng cách dành ra hai buổi chiều tới công viên đó để đàm luận về thứ này hay thứ khác. Liệu chị ta có khả năng phạm một tội ác như vậy không? Thẳng thắn mà nói, tôi hoàn toàn không biết. Bởi đó chắc chắn là một phụ nữ có cá tính, trong ánh mắt chị ta có gì đó có thể khiến máu anh đông cứng lại và tôi thấy chị ta thông minh đến đáng sợ. Nhưng tôi khó mà tin rằng chị ta dám đánh liều với nguy cơ bị tách khỏi cậu con trai nhỏ của mình. Thậm chí, khi ta tin chắc rằng mình đã dựng nên một tội ác hoàn hảo thì ta cũng không bao giờ có thể loại trừ được khả năng bị tóm. Điều khiến tôi thấy bối rối nhất chính là vẻ tin chắc khi chị ta nói dối lúc tôi hỏi chị ta kết hôn chưa. Chị ta đã trả lời không chút đắn đo là chồng và con gái đã chết trong một chuyến du lịch nước ngoài. Nếu tôi chưa từng gặp anh Capetta thì tôi cũng sẽ tin lời chị ta không chút đắn đo. Trở về San Francisco, tôi sẽ tận dụng các mối quan hệ ở New York để tiếp tục điều tra về những người có mặt trong danh sách của tôi. Trong đó có cả vợ anh và có tổng biên tập, ngay cả khi điều này khiến anh thấy khó chịu. Tôi sẽ gọi cho anh ngay khi tôi biết thêm gì khác và nếu cần thiết, tôi sẽ quay lại đây khi anh trở về từ Buenos Aires, nhưng lần này thì tôi để anh thanh toán hóa đơn.

    Pilguez chìa một mẩu giấy cho Andrew rồi đứng dậy.

    - Đây là địa chỉ của vợ Capetta, anh là người quyết định có nên báo cho chồng chị ta biết hay không. Nhưng hãy cẩn trọng, Stilman, chuyện của anh là một trong những chuyện điên rồ nhất mà tôi từng được nghe trong suốt sự nghiệp của mình, và tôi cảm thấy sắp sửa có chuyện chẳng lành, tôi thấy lo.

    °

    Về đến tòa soạn, Andrew ngồi vào trước máy tính. Tín hiệu đèn đỏ trên điện thoại thông báo có một tin nhắn ở hộp thư thoại. Marisa, cô phục vụ ở quầy bar khách sạn mà anh từng lưu lại ở Buenos Aires có tin muốn báo cho anh và muốn anh gọi lại cho cô càng sớm càng tốt. Andrew nghĩ là anh nhớ được cuộc nói chuyện này, thời gian và các sự kiện dần lẫn lộn với nhau. Nhớ lại các sự việc trong ngày khi ta lặp lại cùng những thứ đó hai lần trong đời quả thật chẳng hề dễ dàng. Để tìm những ghi chép của mình, Andrew cúi xuống ngăn kéo bàn. Lần trước khi khóa lại, anh đã vui vẻ quay đến ba chữ số bắt đầu ngày sinh của mình. Nhưng giờ thì không còn như vậy nữa, có ai đó đã tìm cách lục lọi đồ đạc của anh. Andrew ngó đầu qua tấm vách ngăn, bàn của Olson không có ai ngồi. Anh lật giở cuốn sổ ghi chép cá nhân đến trang anh đã ghi chép lại cuộc trò chuyện với Marisa rồi thở dài khi thấy chẳng có gì được ghi lại hết. Ngay lập tức anh bấm số máy mà cô đã để lại.

    Một bà bạn của dì cô khẳng định chắc chắn là đã nhận ra một cựu phi công không quân, người có đặc điểm nhận dạng giống hệt như kẻ mang tên Ortiz thời chế độ độc tài. Hắn đã trở thành chủ một xưởng thuộc da, một hãng kinh doanh nho nhỏ cung cấp da thuộc cho nhiều cơ sở chế tạo túi xách, giày dép, yên cương và thắt lưng trên toàn quốc.

    Bà bạn của dì cô đã nhận ra hắn khi hắn đi giao hàng cho một khách hàng tại ngoại ô Buenos Aires. Người phụ nữ đó cũng là một trong những Bà mẹ trên quảng trường tháng Năm và trong phòng khách nhà bà dán một tấm áp phích có ảnh của tất cả những quân nhân đã bị xét xử vì những tội ác phạm phải thời chế độ độc tài nhưng sau đó lại được ân xá. Những bức ảnh đó sống với bà từ sáng đến tối, kể từ khi con trai cùng cháu trai của bà mất tích vào tháng Sáu năm 1977. Khi đó cả hai mới chỉ mười bảy tuổi, người mẹ ấy không bao giờ chấp nhận ký vào giấy tờ xác nhận cái chết của con trai mình và vẫn không chịu làm thế chừng nào còn chưa nhìn di hài của con, dẫu biết rằng điều này chẳng bao giờ có thể xảy ra, với bà cũng như bố mẹ của ba mươi nghìn người “mất tích”. Và suốt nhiều năm ròng, bà đã đi khắp quảng trường tháng Năm cùng nhiều phụ nữ khác, cũng giống như bà, giương cao những panô có ảnh con cái họ, thách thức chính quyền. Khi bà chạm mặt gã đàn ông này lúc hắn bước vào cửa hàng bán yên cương trên phố 12-tháng Mười, máu bà đông cứng lại. Bà đã siết chặt cái bị, dồn hết sức bình sinh túm chặt lấy nó để không bộc lộ cảm xúc đang xâm chiếm bà, rồi bà ngồi xuống thành tường để chờ hắn ra. Bà đã đi theo hắn dọc phố 12-tháng Mười. Ai lại dè chừng một bà lão mang bị cơ chứ? Khi hắn lên ô tô, bà đã kịp nhớ màu xe và biển số. Hết cuộc gọi này đến cuộc gọi khác, mạng lưới các Bà mẹ trên quảng trường tháng Năm rốt cuộc đã tìm ra địa chỉ của kẻ mà bà tin chắc trước kia là Ortiz và giờ tên là Ortega. Hắn sống gần xưởng thuộc da của mình, ở Dumesnil, một làng nhỏ nằm ở ngoại ô Córdoba. Chiếc xe được phát hiện ở Buenos Aires trên phố 12-tháng Mười là xe thuê mà hắn đã trả lại ở sân bay trước khi bắt chuyến bay.

    Andrew đề nghị sẽ chuyển tiền cho Marisa để cô đáp máy bay đến Córdoba, mua một chiếc máy ảnh kỹ thuật số rồi theo dõi kẻ mang tên Ortega đó. Andrew cần phải hoàn toàn chắc chắn Ortega và Ortiz là cùng một người.

    Nhiệm vụ thế này đòi hỏi Marisa phải vắng mặt ít nhất là ba ngày và chủ của cô sẽ từ chối ngay. Andrew năn nỉ cô tìm một ai đó đáng tin có thể tới đó thay cô, anh sẽ hậu tạ cô, có lẽ anh sẽ phải bỏ tiền túi. Marisa chỉ hứa một điều duy nhất, sẽ gọi lại cho anh nếu cô tìm thấy một giải pháp.

    °

    Olson đến tòa soạn vào giữa trưa, hắn đi qua Andrew mà không thèm chào rồi ngồi vào bàn của mình.

    Điện thoại của Andrew đổ chuông. Simon bảo Andrew xuống gặp anh tại góc giao giữa đại lộ 8 và phố 40, càng kín đáo càng tốt.

    - Có chuyện gì thế? Vừa gặp Andrew đã lên tiếng hỏi.

    - Đừng đứng ở đây, nhỡ đâu đấy, vừa đáp Simon vừa kéo bạn vào một hàng cắt tóc.

    - Cậu bảo tớ bỏ việc xuống đây để dẫn tớ đi cắt tóc ư?

    - Cậu thích làm gì thì làm, nhưng tớ cần một quả đầu ngon và cũng cần nói chuyện với cậu ở một nơi yên tĩnh.

    Cả hai vào trong rồi ngồi cạnh nhau ở hai chiếc ghế phô tơi giả da màu đỏ đối diện với tấm gương lớn.

    Hai thợ cạo người Nga, hẳn phải là hai anh em vì họ giống nhau như lột, ngay lập tức đon đả chào khách.

    Và Simon, trong lúc họ gội đầu, kể rằng anh đã theo dõi Olson từ lúc hắn rời nhà.

    - Sao cậu lại có địa chỉ nhà hắn, đến tớ thậm chí cũng chẳng biết.

    - Là tay thần đồng tin học xấu xa của tớ! Tớ đã có số thẻ An sinh xã hội của tay đồng nghiệp của cậu, số điện thoại di động, số thẻ câu lạc bộ thể dục, số thẻ tín dụng và số thẻ tất cả những chương trình khách hàng thân thiết mà hắn đã đăng ký.

    - Cậu có ý thức được rằng truy cập những dữ liệu này là hành vi vi phạm những quyền cơ bản nhất của con người và thuộc khung tội hình sự không?

    - Hoặc là chúng ta sẽ bỏ qua chuyện này ngay lập tức hoặc là tớ sẽ kể cho cậu điều tớ vừa khám phá ra sáng nay?

    Tay thợ cắt tóc xoa bọt cạo râu khắp mặt Andrew, ngăn anh trả lời câu hỏi của Simon.

    - Trước tiên tớ biết được rằng tay đồng nghiệp của cậu nghiện lòi kèn ra. Hắn đã đổi một xấp đô la lấy một gói nhỏ bọc nhựa ở khu phố Tàu vào sáng nay, thậm chí còn trước cả khi dùng bữa sáng. Tớ đã chụp hai, ba tấm ảnh về vụ giao dịch này, để nhỡ đâu đấy.

    - Cậu điên mất rồi, Simon.

    - Đợi tiếp phần sau đi, cậu sẽ đổi ý đó. Hắn đến sở cảnh sát trung tâm vào quãng 10 giờ. Túi quần hắn hơi phồng lên vì cái gói trong đó; vẻ tự tin càng khiến hắn được tôn trọng hoặc là khi đó hắn hoàn toàn vô thức. Tớ không rõ hắn đến đó làm gì, nhưng hắn ở đó khoảng tầm nửa tiếng. Rồi hắn vào một cửa hàng bán vũ khí. Tớ đã thấy hắn trao đổi với người bán hàng đang giới thiệu cho hắn cả đống dao săn, chính xác thì không phải là những loại dao thông thường. Tuy đã đứng lùi vào nhưng tớ tin chắc là đã trông thấy mấy món đồ rất kỳ cục. Nếu là cậu, tớ sẽ không khoa chân múa may như vậy đâu, rốt cuộc cậu sẽ bị dao cạo cứa cho lìa họng đấy.

    Tay thợ cạo xác nhận lời khuyên của Simon là đúng đắn.

    - Tớ không thể nói với cậu là hắn có mua gì không, tớ muốn chuồn đi trước khi hắn nhận ra tớ. Hắn rời đi ngay sau đó một lát, vẻ hoan hỉ hơn bao giờ hết. Mà này, có lẽ hắn đã ghé qua toa lét để hút hít. Tay đồng nghiệp của cậu sau đó còn đi mua một chiếc bánh sừng bò, vừa ăn hắn vừa đi bộ ngược lên đại lộ 8. Rồi hắn vào một tiệm bán đồng hồ trang sức nói chuyện với ông chủ tiệm một lúc lâu trước khi đi tiếp. Ngay khi hắn đặt chân đến tòa soạn là tớ liền gọi cho cậu đấy. Tớ không muốn tỏ ra lạc quan thái quá, nhưng mọi thứ đều quay quanh tay Olson này.

    Người thợ cắt tóc hỏi Andrew xem anh có muốn cắt tỉa móng chân móng tay hay không.

    Simon trả lời thay bạn và bảo người thợ cắt ngắn mỗi bên tầm một xăng ti mét.

    - Có thể tớ sẽ đề nghị cậu đi cùng tớ đến Buenos Aires, Andrew vừa cười vừa nói.

    - Đừng có đùa với chuyện đó, tớ mê gái Argentina lắm đấy và tớ có thể đi sắp xếp hành lý ngay tức thì.

    - Chúng ta vẫn còn chưa đến bước đó, Andrew chỉnh lại. Trong khi chờ đợi, giờ có lẽ đúng là lúc tớ hỏi Olson rồi.

    - Cho tớ thêm vài ngày. Cứ với nhịp độ như thế này thì đến cuối tuần tớ sẽ biết về hắn còn nhiều hơn cả mẹ đẻ của hắn.

    - Tớ không còn nhiều thời gian, Simon.

    - Tùy cậu muốn làm gì thì làm, tớ chỉ là kẻ nô bộc khiêm nhường của cậu mà thôi. Và cậu cứ suy nghĩ đến chuyện Buenos Aires nhé, hai chúng ta ở đó sẽ thật tuyệt.

    - Thế còn xưởng xe của cậu?

    - Buôn bán xe cộ ấy à! Tớ tưởng là mình chẳng bán được chiếc nào trước đầu tháng Bảy?

    - Cậu sẽ còn chẳng bán nổi cái nào vào tháng Bảy nếu không làm việc ấy chứ.

    - Vừa rồi tớ có nhắc đến mẹ của Olson, chứ không phải mẹ tớ nhé! Tớ sẽ để cậu trả tiền, Simon vừa soi gương vừa nói thêm. Tóc ngắn hợp với tớ phết, cậu không thấy thế à?

    - Chúng ta đi ăn trưa nhé? Andrew hỏi.

    - Trước tiên phải đến tiệm bán vũ khí kia đã. Cậu muốn xét hỏi ai đó thì cứ chìa tấm thẻ nhà báo đẹp đẽ ra là sẽ biết được Olson đã làm gì ở đó.

    - Đôi khi tớ tự hỏi cậu bao nhiêu tuổi rồi…

    - Cậu có dám cá là tay chủ tiệm sẽ mắc lừa không?

    - Cá gì nào?

    - Bữa trưa mà cậu vừa nhắc đến.

    Andrew bước vào cửa hàng vũ khí trước tiên, Simon vào ngay sau rồi đứng sau anh vài mét. Trong lúc Andrew nói, tay chủ tiệm quan sát anh qua khóe mắt, không phải là không có chút lo lắng.

    - Vào cuối buổi sáng hôm nay, Andrew nói, một nhà báo của tờ The New York Times đã đến đây, liệu ông có thể nói cho chúng tôi biết anh ta đã mua gì không?

    - Thế chuyện này thì liên quan gì đến anh? Tay chủ tiệm vặn lại.

    Trong lúc Andrew lục túi tìm thẻ phóng viên, Simon sáp lại gần quầy, vẻ đe dọa:

    - Chuyện này có liên quan đến chúng tôi vì tay đó là một kẻ lừa đảo chuyên sử dụng thẻ nhà báo giả, chúng tôi đang lần tìm tung tích hắn. Ông cũng hiểu việc cần thiết phải ngăn chặn hắn làm điều gì đó ngu ngốc, nhất là bằng một vũ khí có nguồn gốc từ cửa hàng của ông, đúng không?

    Tay chủ tiệm liếc nhìn đánh giá Simon, do dự trong giây lát rồi thở dài:

    - Hắn quan tâm đến những dụng cụ rất đặc biệt mà chỉ những tay thợ săn thực thụ mới tìm kiếm, mà ở New York những tay như thế không hề nhiều.

    - Những dụng cụ kiểu nào? Andrew hỏi.

    - Các loại dao chặt, dùi, móc và lóc cốt mạc.

    - Lóc cốt mạc ư? Andrew hỏi lại.

    - Tôi sẽ chỉ cho các anh xem, chủ tiệm vừa đáp vừa đi ra phía sau quầy.

    Anh ta quay trở lại, tay cầm cán gỗ của một dụng cụ có lưỡi mảnh dẹt dài ngoằng.

    - Đây vốn là một dụng cụ phẫu thuật đã được các thợ đánh bẫy ở Bắc Mỹ cải tiến cách sử dụng. Họ dùng nó lột da thú để ít bị dính thịt. Anh chàng kia muốn biết liệu những người mua loại dụng cụ này có bị ghi danh như người mua súng hay dao săn không. Tôi đã nói sự thật với anh ta, rằng mua lóc cốt mạc không cần phải có giấy phép, ta có thể tìm thấy đầy thứ còn nguy hiểm hơn nhiều ở bất cứ cửa hàng kim khí nào. Anh ta hỏi tôi gần đây có bán cái nào không, tôi bảo tôi không bán, nhưng tôi có hứa với anh ta là sẽ hỏi nhân viên của mình, hôm nay nhân viên của tôi nghỉ.

    - Thế hắn có mua của ông cái nào không?

    - Mua mỗi cỡ một cái, tất thảy là sáu cái. Giờ thì nếu các anh cho phép, tôi sẽ quay lại làm việc, tôi còn phải tính toán sổ sách.

    Andrew cảm ơn ông chủ cửa hàng bán vũ khí, Simon thì chỉ khẽ gật đầu chào.

    - Thế ai đã thua cuộc đây? Vừa xuôi xuống phố Simon vừa hỏi.

    - Tay chủ cửa hàng đã coi cậu như một kẻ thần kinh không bình thường và tớ chẳng thấy gã sai chỗ nào. Gã đã trả lời chúng ta để tống khứ chúng ta đi càng nhanh càng tốt.

    - Cậu thật ác ý.

    - Được thôi, tớ mời cậu.


  9. #18
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,732
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Chương 17
    Ngày hôm sau, khi đến tòa soạn Andrew nhận được tin nhắn mới của Marisa. Anh liền gọi lại ngay cho cô.

    - Có lẽ là tôi có một giải pháp, cô thông báo. Bạn trai tôi đồng ý theo dõi Ortega. Anh ấy đang thất nghiệp và kiếm được chút tiền mọn cũng chẳng khiến anh ấy thấy khó chịu.

    - Bao nhiêu? Andrew hỏi.

    - Năm trăm đô la cho cả tuần, dĩ nhiên là cộng thêm các chi phí.

    - Một khoản đáng kể đấy, Andrew thở dài, tôi không chắc lãnh đạo tòa soạn có chấp nhận không.

    - Mười tiếng mỗi ngày trong năm ngày liền, tính ra một giờ chưa đến mười đô la, bằng đúng số tiền anh phải trả cho một người giúp việc để lau dọn các ngân hàng ở New York. Không phải vì chúng tôi không là người Mỹ mà phải đối xử với chúng tôi thiếu công bằng như vậy.

    - Tôi không bao giờ nghĩ như thế, Marisa. Báo chí giờ khó khăn lắm, ngân sách bị siết chặt lại và trong mắt các lãnh đạo của tôi, cuộc điều tra này đã quá tốn kém rồi.

    - Antonio có thể khởi hành ngay ngày mai, nếu anh ấy đi bằng ô tô đến Córdoba thì sẽ tiết kiệm được tiền vé máy bay. Về phần chỗ ở thì anh ấy sẽ tự xoay xở, gia đình anh ấy sống ven hồ San Roque, cũng trong vùng đó thôi. Anh chỉ phải thanh toán tiền công, xăng xe và tiền ăn. Tùy anh quyết định. Nếu bây giờ anh ấy mà tìm được việc thì sẽ không thể làm được đâu…

    Andrew ngẫm nghĩ về lời đe dọa nho nhỏ của Marisa, anh mỉm cười rồi quyết định đồng ý với phương án của cô. Anh ghi thông tin mà cô đọc cho anh lên một tờ giấy rồi hứa sẽ chuyển khoản luôn trong ngày.

    - Ngay khi tôi nhận được tiền, Antonio sẽ lên đường. Chúng tôi sẽ gọi lại cho anh mỗi tối để báo tình hình.

    - Cô đi cùng anh ấy à?

    - Đi bằng ô tô nên cũng không quá tốn kém, Marisa đáp, và đi hai người sẽ ít gây chú ý hơn, chúng tôi sẽ có vẻ là một cặp đôi đang đi nghỉ, hồ San Roque rất đẹp.

    - Tôi cứ tưởng ông chủ của cô không đồng ý cho cô nghỉ liền vài ngày.

    - Anh còn chưa biết nụ cười của tôi có thể làm được những gì đâu, anh Stilman à.

    - Tôi không có ý định tặng hai người kỳ nghỉ gần một tuần với chi phí vương giả như vậy đâu.

    - Ai dám nói là đi nghỉ khi đang theo dấu một tên cựu tội phạm chiến tranh cơ chứ?

    - Lần tới nếu đòi tăng lương, có lẽ tôi phải gọi cô mới được, Marisa à. Tôi nóng lòng đợi tin tức của cô.

    - Sẽ sớm thôi, anh Stilman, cô đáp trước khi gác máy.

    Andrew xắn tay áo lên, chuẩn bị tinh thần đối phó với Olivia Stern về khoản chi phụ thêm này. Trên đường đi anh chợt đổi ý. Vụ dàn xếp với Marisa không hề diễn ra ở cuộc đời trước của anh, kết quả vẫn còn chưa chắc chắn. Anh quyết định móc hầu bao cá nhân để ứng trước chi phí chuyến đi. Nếu có được thông tin thú vị, anh sẽ dễ dàng xin được thêm tiền, còn trong trường hợp ngược lại, anh sẽ tránh được việc bị coi là một nhân viên phung phí.

    Anh rời tòa soạn đến quầy giao dịch của Western Union để chuyển khoản bảy trăm đô la. Năm trăm đô tiền công của Antonio và hai trăm ứng trước cho phần chi phí. Rồi anh gọi cho Valérie để báo rằng anh sẽ về nhà sớm.

    Vào quãng giữa chiều, anh cảm thấy một cơn khó ở nữa đang chực ập đến, người anh vã mồ hôi như tắm, anh run lập cập, cảm giác kim châm lan khắp tứ chi và một cơn đau nhói ở cuối đốt sống lưng, đau hơn hẳn lần trước. Một tiếng rít inh tai xẻ thủng màng nhĩ anh.

    Andrew vào nhà vệ sinh để vốc nước lên mặt, anh gặp Olson đang chúi đầu xuống bồn rửa mặt, mũi dính đầy bột trắng.

    Olson giật nảy mình.

    - Tôi chắc mình đã chốt cửa rồi mà.

    - Khóa trượt rồi anh bạn, nếu điều này có thể làm anh an tâm, tôi chẳng hề ngạc nhiên khi thấy vậy đâu.

    - Mẹ kiếp, Stilman, nếu anh nói bất cứ điều gì, tôi sẽ không để yên cho anh đâu. Tôi không thể mất việc, tôi xin anh đấy, đừng làm điều ngu ngốc.

    Làm điều ngu ngốc là thứ cuối cùng Andrew muốn trong lúc anh cảm thấy hai chân mình đang nhũn như con chi chi.

    - Tôi cảm thấy không được khỏe cho lắm, anh vừa rên rỉ vừa dựa vào bồn rửa.

    Freddy Olson giúp anh ngồi xuống đất.

    - Anh không khỏe à?

    - Như anh thấy đấy, tôi khỏe như vâm đây. Chốt cửa lại đi, ai đó mà vào đây thì cũng chẳng hay ho gì đâu.

    Freddy vội vàng đi ra khóa cửa lại.

    - Anh bị sao vậy, Stilman? Đây đâu phải lần đầu anh bị như thế này, có lẽ anh phải đi khám bác sĩ thôi.

    - Mũi anh dính bột còn nhiều hơn là thợ bánh mì kia kìa, chính anh mới nên đi điều trị ấy chứ. Freddy, anh nghiện nặng quá rồi. Rốt cuộc, anh sẽ đốt trụi nơ ron thần kinh bằng cái thứ chết tiệt đó thôi. Chuyện này diễn ra bao lâu rồi?

    - Sức khỏe của tôi thì liên quan gì đến anh? Nói thật cho tôi biết đi, Stilman, anh có ý định hạ bệ tôi à? Tôi xin anh đừng làm thế. Đúng là chúng ta cũng có một vài bí mật, cả tôi và anh, nhưng anh biết rõ hơn ai hết rằng tôi không phải là mối đe dọa cho sự nghiệp của anh. Anh sẽ được lợi lộc gì khi tôi bị đuổi việc đây?

    Andrew cảm thấy cơn khó ở đã qua; chân tay anh đã lại bắt đầu có cảm giác, thị lực anh đã rõ hơn và cảm giác ấm áp dịu nhẹ xâm chiếm toàn bộ cơ thể anh.

    Đột nhiên một câu nói của thanh tra Pliguez chợt hiện ra trong tâm trí anh: “Phá một vụ án mà không xác định được động cơ của kẻ phạm tội thì mới chỉ hoàn thành nửa công việc mà thôi.” Anh cố gắng tập trung tinh thần cao độ nhất có thể. Vừa rồi anh đã bắt quả tang Olson đang hút cocain? Hắn cảm thấy bị anh đe dọa? Có thể có ai đó sẽ tố giác vụ này và Olson, vốn tin chắc rằng người đó chỉ có thể là anh, sẽ tìm cách trả thù. Andrew nghĩ cách lật tẩy Freddy đồng thời tìm hiểu điều gì đã khiến hắn mua cả đống panh ở cửa hàng vũ khí và hắn mua để làm gì.

    - Anh giúp tôi đứng dậy được không? Andrew nói với Olson.

    Olson nhìn Andrew chằm chằm, vẻ đe dọa. Hắn luồn tay vào túi. Andrew nghĩ là mình đã nhìn thấy mũi nhọn của một cái tuốc nơ vít hay một cái dùi.

    - Trước tiên hãy hứa với tôi là anh sẽ ngậm miệng.

    - Đừng làm điều ngu ngốc, Olson. Chính anh đã nói rồi đấy, tôi sẽ được lợi lộc gì ngoài cảm giác áy náy đây. Anh làm gì trong đời thì cũng chỉ liên quan đến mình anh mà thôi.

    Olson chìa tay ra cho Andrew.

    - Tôi đã đánh giá nhầm anh, Stilman, có lẽ anh cũng là một tay tử tế.

    - Được rồi, Freddy, miễn cho tôi những lời có cánh đi, tôi sẽ không nói bất cứ điều gì, tôi hứa đó.

    Andrew vốc nước lên mặt. Hộp khăn giấy lúc nào cũng bị kẹt. Anh ra khỏi nhà vệ sinh, Olson cũng theo bén gót, rồi cả hai chạm mặt nữ tổng biên tập đang đứng đợi họ bên ngoài hành lang.

    - Các anh đang âm mưu tạo phản hay làm gì sau lưng tôi à? Olivia Stern vừa hỏi vừa lần lượt dò xét từng người.

    - Cô đang tưởng tượng ra chuyện gì vậy? Andrew đáp lại.

    - Hai anh khóa trái cửa trong nhà vệ sinh rộng chín mét vuông được mười lăm phút rồi đấy, anh muốn tôi nghĩ gì đây?

    - Andrew hơi bị khó ở. Tôi đến xem anh ấy có ổn không và tôi thấy anh ấy nằm sõng xoài trên nền gạch. Tôi đã ở bên anh ấy đợi anh ấy tỉnh lại. Nhưng giờ thì mọi chuyện đều ổn rồi, phải không Stilman?

    - Anh vẫn còn khó ở sao? Olivia lo lắng.

    - Không có gì nghiêm trọng đâu, cô cứ yên tâm, thi thoảng mấy cơn đau thấu lưng lại dữ dội đến mức quật ngã tôi thôi.

    - Đi khám bác sĩ đi, Andrew, đây là lần thứ hai chuyện này xảy ra ở tòa soạn rồi và tôi nghĩ hẳn phải có những lần khác nữa. Đây là lệnh, tôi không muốn thấy anh phải rời khỏi Argentina vì cái chứng đau lưng ngớ ngẩn không được chăm sóc tử tế này đâu, anh rõ chứ?

    - Vâng thưa sếp, Andrew trả lời với giọng có ý xấc xược.

    Về đến chỗ ngồi, Andrew quay sang chỗ Olson.

    - Anh bạo gan nhỉ, dám để tôi gánh chuyện đó một mình.

    - Thế anh muốn tôi nói gì đây, nói rằng chúng ta đang hôn hít nhau trong toa lét ư? Freddy đáp.

    - Đi theo tôi trước khi tôi tặng cho anh một cái hôn, tôi cần nói chuyện với anh, nhưng không phải ở đây.

    Andrew dẫn Freddy đến quán cà phê.

    - Anh làm gì ở tiệm bán vũ khí thế?

    - Tôi đi mua sườn cốt lết… Thế anh đã vừa lòng chưa? Giờ anh còn theo dõi tôi nữa à?

    Andrew tìm cách trả lời đồng nghiệp sao cho gã khỏi giật mình.

    - Anh hít ma túy suốt cả ngày rồi còn đến tiệm bán vũ khí… Nếu anh vướng nợ nần thì tôi muốn biết chuyện đó rõ hơn trước khi mấy tay bán ma túy cho anh tìm đến tòa soạn gây chuyện ầm ĩ.

    - Bình tĩnh nào Stilman, việc tôi đến tiệm bán vũ khí chẳng hề liên quan đến chuyện đó. Tôi đến chỉ vì công việc thôi.

    - Anh nên nói rõ hơn một chút đi!

    Olson do dự trong giây lát rồi đành phải thổ lộ với Andrew.

    - Được rồi, tôi đã nói với anh là tôi đang điều tra vụ ba người bị sát hại bằng dao rồi đó thôi. Bản thân tôi cũng có mạng lưới riêng. Tôi đã đến gặp một anh bạn cảnh sát, anh ta đã cung cấp cho tôi báo cáo của bác sĩ pháp y. Cả ba nạn nhân đều bị đâm bằng một loại dao, chính xác hơn là một vật nhọn như kim, khi đâm thường để lại những vết rạch bất thường.

    - Như cái dũi đá?

    - Không, đúng ra thì khi rút ra, vũ khí đó gây những tổn thương nghiêm trọng hơn một mũi dùi đâm thông thường, dù chiếc dùi đó có dài đến đâu chăng nữa. Bên pháp y cho là một dạng móc câu. Vấn đề nằm ở chỗ nếu dùng móc câu, để những nội thương gây tổn thương ngược lên tận dạ dày thì phải đâm từ phía mạn sườn. Hồi còn bé, tôi thường theo bố đi săn. Ông ấy thường làm theo kiểu cổ, giống mấy tay đánh bẫy ở Bắc Mỹ. Tôi không định kể cho anh nghe về tuổi thơ mình đâu, nhưng tôi đã nghĩ đến một thứ mà bố tôi dùng để lột da hươu. Tôi tự hỏi liệu thứ dụng cụ đó giờ còn được bán nữa không và tôi đến tiệm bán vũ khí để kiểm tra. Trí tò mò của anh đã được thỏa mãn chưa hả Stilman?

    - Anh thực sự nghĩ rằng đang có một kẻ giết người hàng loạt hoành hành trên đường phố New York ư?

    - Chắc như đinh đóng cột.

    - Và tòa soạn đã giao cho anh phụ trách vụ này?

    - Olivia muốn chúng ta là những người đầu tiên đăng độc quyền tin này.

    - Nếu chúng ta là kẻ thứ hai thì đó sẽ không phải là tin độc quyền nữa phải không? Sao lại phịa ra mấy thứ này hả Olson. Olivia không hề giao cho anh bất cứ vụ điều tra nào về một kẻ giết người hàng loạt cả.

    Freddy nhìn Stilman đầy đen tối rồi hất đổ tách cà phê.

    - Anh làm tôi thấy buồn nôn với vẻ đường hoàng đĩnh đạc của mình rồi đấy. Anh là cảnh sát hay phóng viên đấy? Tôi biết anh muốn lột da tôi lắm, nhưng tôi có thể đảm bảo với anh rằng tôi sẽ không để mình bị thế đâu, tôi sẽ tự vệ bằng mọi cách.

    - Có lẽ anh nên đi xả hơi cho mấy cái lỗ mũi của mình ấy Olson. Với một kẻ không muốn gây chú ý thì việc hất văng chén tách giữa quán cà phê thật chẳng khôn ngoan chút nào; mọi người đang nhìn anh kìa.

    - Tôi cóc thèm quan tâm đến họ, tôi chỉ tự vệ, thế thôi.

    - Nhưng anh đang nói đến cái gì thế?

    - Anh đang ở thế giới nào thế, Stilman? Anh không thấy chuyện gì sắp xảy tới ở tòa soạn ư? Họ sẽ sa thải khoảng một nửa nhân sự, anh là kẻ duy nhất không hề biết chuyện hay là gì đây? Dĩ nhiên là anh không hề cảm thấy bị đe dọa. Khi người ta là cục cưng được tổng biên tập che chở, thì còn gì phải lo lắng cho cái ghế của mình nữa chứ, nhưng tôi thì không được cô ta chiếu cố nên tôi phải tự chiến đấu trong khả năng của mình thôi.

    - Freddy, đến đây thì anh lạc đề rồi đấy.

    - Anh làm ra vẻ ngốc hơn anh vốn thế rồi đó. Bài báo về cô nhi viện Trung Quốc đã thành công vang dội, ngay lập tức họ lại giao cho anh vụ điều tra ở Argentina. Cấp trên ưu ái anh. Nhưng tôi, từ nhiều tháng nay tôi chẳng đăng được bài nào ra hồn. Tôi buộc phải tự trấn an mình bằng cách đêm đêm cầu trời cho có gì đó bất thường xảy ra. Anh nghĩ là tôi thích ngủ lại văn phòng hay phí hoài các kỳ nghỉ cuối tuần ở đây để cố gắng cứu vãn công việc của mình ư? Nếu tôi mất việc, tôi sẽ mất tất cả, tôi chỉ có mỗi công việc trong cuộc đời này mà thôi. Chuyện đó đêm đêm có khiến anh gặp ác mộng không? Dĩ nhiên là không rồi, sao anh lại gặp ác mộng cơ chứ? Tôi thì sao, thức dậy với mồ hôi nhễ nhại, trong một văn phòng tồi tàn ở vùng hẻo lánh một tỉnh lẻ. Tôi thấy mình làm việc cho một tờ báo lá cải ở một xó nào đó, và trên bức tường văn phòng bẩn thỉu của mình, tôi mơ về quãng thời gian huy hoàng của mình khi nhìn lên trang nhất tờ The New York Times đã ngả vàng. Thế rồi điện thoại reo vang, họ báo tôi phải gấp rút đến tiệm thực phẩm khô vì có một con chó vừa bị cán chết. Đêm nào tôi cũng mơ những cơn ác mộng chết tiệt đó. Đúng thế đó, Stilman, Olivia không hề giao cho tôi điều tra bất cứ thứ gì, cô ta không còn giao việc cho tôi nữa kể từ khi anh trở thành cục cưng của cô ta. Tôi phải tự thân vận động. Nếu tôi có cơ may là kẻ duy nhất tìm ra kẻ giết người hàng loạt, một cơ may rất nhỏ để được đăng thành tin đặc biệt, tôi sẽ tìm đến tất cả các tiệm bán vũ khí ở New York, New Jersey và cả Connecticut để không bỏ lỡ cơ may đó, như thế anh đã hài lòng chưa?

    Andrew quan sát thật kỹ tay đồng nghiệp, bàn tay anh ta đang run run và hơi thở gấp gáp.

    - Tôi rất lấy làm tiếc. Nếu có thể giúp gì trong cuộc điều tra của anh, tôi rất sẵn lòng.

    - Dĩ nhiên rồi, với vẻ cao thượng ngạo nghễ, Ngài Stilman lại động lòng trắc ẩn. Khó ngờ thật!

    Olson đứng dậy, rời khỏi quán cà phê mà không thèm ngoảnh lại.

    °

    Cuộc nói chuyện với Olson khiến Andrew bận lòng suốt quãng thời gian còn lại trong ngày. Biết được tình cảnh hiện tại của đồng nghiệp khiến anh cảm thấy mình bớt đơn độc hơn. Tối đến, trong lúc ăn tối cùng Valérie, anh nói cho cô biết nỗi tuyệt vọng của Freddy.

    - Anh nên giúp anh ấy, Valérie nói, hãy kề vai sát cánh thay vì quay lưng lại với anh ấy.

    - Đó là do cách sắp xếp chỗ ngồi ở văn phòng.

    - Đừng tỏ ra ngốc thế, anh hiểu rõ em muốn nói gì rồi mà.

    - Cuộc sống của anh đã bị cuộc điều tra gây xáo trộn đủ rồi, nếu anh phải lần theo một tay giết người tưởng tượng nữa thì anh sẽ chẳng bao giờ thoát ra nổi.

    - Em không nói về chuyện đó, mà là việc anh ta đang rơi xuống địa ngục cùng cocain kia kìa.

    - Tay đó còn đi mua cả đống lóc cốt mạc để đóng vai bác sĩ pháp y. Hắn nghĩ đó là vũ khí mà tay giết người hàng loạt sử dụng.

    - Khá là sâu sắc đó, em phải thú thực như thế.

    - Em biết gì về nó?

    - Đó là một dụng cụ phẫu thuật, tối mai em có thể mang một chiếc từ phòng phẫu thuật về nếu anh muốn, Valérie đáp, nụ cười nở trên khóe môi.

    Nhận xét nho nhỏ đó khiến Andrew suy tư và anh vẫn còn nghĩ đến nó một lúc lâu trước khi thiếp ngủ.

    °

    Andrew thức giấc khi ngày đã lên. Anh thấy nhớ những chuyến chạy bộ dọc sông Hudson. Anh có cả đống lý do chính đáng để không đến đó kể từ khi được sống lại, nhưng ngẫm kỹ ra, anh tự nhủ rằng cái ngày mùng 9 tháng Bảy đó còn rất xa. Valérie đang say giấc nồng. Anh lặng lẽ rời khỏi giường, mặc bộ đồ thể thao chạy bộ rồi rời căn hộ. Khu West Village chìm trong cảnh tĩnh lặng hoàn toàn. Andrew chạy bước nhỏ xuôi xuống phố Charles. Đến cuối phố, anh tăng tốc và lần đầu tiên trong đời anh băng qua luôn cả tám làn đường của xa lộ West End trước khi cột đèn tín hiệu giao thông thứ hai chuyển sang màu xanh.

    Vui sướng trước thành tích này, anh chạy vào lối đi của công viên River Park, lòng hân hoan vui sướng được bắt đầu công cuộc tập luyện mỗi sáng.

    Anh ngừng chạy trong giây lát để ngắm nhìn ánh đèn của khu Hoboken vụt tắt. Anh vô cùng thích cảnh tượng gợi nhắc lại thời thơ ấu này. Hồi còn sống ở Poughkeepsie, cứ sáng thứ Bảy, bố anh lại vào phòng gọi anh dậy sớm. Cả hai cùng ăn sáng trong bếp rồi bố để anh ngồi vào trước vô lăng, đẩy chiếc Datsun ra đường để không làm mẹ thức giấc. Chúa ơi, anh thấy nhớ bố mẹ quá chừng, anh thầm nghĩ. Khi đã ra đến ngoài phố, Andrew, vốn đã biết cách vận hành, liền vào số hai, thả lòng bàn đạp nối bộ ly hợp đồng thời rình chờ tiếng động cơ ro ro rồi khẽ đạp nhẹ vào chân ga. Bố anh, người đã dạy anh lái xe, chỉ anh băng qua cầu Hudson rồi họ rẽ sang đường Oaks sau đó đỗ xe dọc bờ sông. Từ nơi đứng quan sát, họ rình chờ thời điểm những ánh đèn ở Poughkeepsie vụt tắt. Và mỗi lần như thế, bố Andrew lại vỗ tay hoan hô thời khắc này như mỗi khi màn pháo hoa kết thúc.

    Và trong khi ánh đèn của Jersey City vụt tắt, Andrew bỏ lại những kỷ niệm để tiếp tục chuyến chạy bộ.

    Đột nhiên, anh quay đầu lại và nhận ra một hình dáng quen thuộc ở phía xa xa. Anh nheo mắt, Freddy Olson, tay phải giấu trong túi giữa của chiếc sweatshirt, đang tiến lại gần anh. Ngay lập tức Andrew cảm thấy nguy hiểm đang rình rập. Hẳn anh có thể tính đến chuyện đối mặt với Freddy, hoặc cãi lý với hắn, nhưng anh biết rằng hắn sẽ đâm mình một nhát trí mạng trước khi anh có thể kịp tránh né. Andrew bắt đầu chạy hết tốc lực. Bị nỗi sợ xâm chiếm, anh quay người nhìn lại một lần nữa để ước lượng khoảng cách giữa anh với Olson, hắn càng lúc càng rút ngắn khoảng cách, và Andrew có huy động hết sinh lực cũng chẳng có ích chi, anh chẳng thể nào cắt đuôi được hắn. Olson hẳn đã hít cả đống ma túy; làm sao có thể chống nổi một kẻ hút hít tối ngày cơ chứ? Andrew nhận thấy có một nhóm người đang chạy bộ trước mình. Nếu bắt kịp họ, anh sẽ thoát. Freddy sẽ không tấn công được anh nữa. Chỉ còn cách họ chừng năm chục mét, việc bắt kịp họ giờ là có thể, anh cũng đang mệt đứt hơi. Anh cầu xin Chúa ban cho mình sức lực cần thiết. Chưa đến cái ngày mùng 9 tháng Bảy đó và anh còn có một nhiệm vụ phải hoàn thành ở Argentina cùng rất nhiều điều để nói với Valérie, anh chưa muốn chết vào ngày hôm nay, vẫn chưa, và không hề muốn chết một lần nữa. Đám người chạy bộ chỉ còn cách chừng hai chục mét, nhưng anh cảm thấy Freddy đang hiện diện ngay bên cạnh.

    “Cố lên chút nữa, xin mi đấy, anh tự nói với bản thân, chạy nhanh lên, nhanh nữa lên, mẹ kiếp.”

    Anh những muốn kêu cứu nhưng anh thấy không còn hơi để thốt lên thành tiếng.

    Rồi, đột nhiên, anh cảm thấy một vết đâm kinh khủng khiến anh đau nhói phần cuối đốt sống lưng. Andrew thét lên đau đớn. Trong số những người chạy bộ phía trước anh có một phụ nữ nghe thấy tiếng kêu, cô ta quay đầu lại nhìn anh. Trái tim Andrew ngừng đập khi phát hiện ra gương mặt Valérie đang mỉm cười, vẻ bình thản, nhìn anh chết. Anh đổ sụp xuống lòng đường rồi ánh sáng vụt tắt.

    °

    Khi Andrew mở mắt, anh thấy mình đang nằm trên một chiếc xe đẩy, người run lẩy bẩy và cảm giác mát lạnh do vật liệu nhựa anh đang nằm lên mang lại chẳng thể khiến anh thoải mái. Có ai đó đang nói với anh qua một cái loa: họ sẽ đẩy anh vào máy chụp, việc này sẽ không mất nhiều thời gian. Anh không nên cử động.

    Làm sao anh có thể cử động nổi khi mà có cả đống dây đai thắt chặt cổ tay lẫn mắt cá chân anh như thế này. Andrew thử kiểm soát nhịp đập con tim vốn đang vang rộn trong căn phòng trắng toát này. Anh chẳng kịp đảo mắt nhìn quanh phòng, chiếc xe đẩy bắt đầu tiến vào trong một lòng ống lớn, anh có cảm giác đang bị nhốt sống trong một loại quan tài thời hiện đại. Anh nghe thấy một âm thanh trầm đục kèm sau đó là hàng loạt tiếng nện đáng sợ. Giọng nói trên loa như muốn xoa dịu anh: mọi thứ sẽ ổn thôi, anh không có gì phải sợ, việc kiểm tra không gây đau đớn và sẽ sớm kết thúc.

    Tiếng động ngừng hẳn, chiếc xe bắt đầu chuyển động trở lại và Andrew từ từ thấy lại ánh sáng. Một người khiêng cáng ngay lập tức đỡ lấy anh rồi chuyển anh sang chiếc giường đẩy. Anh nhận ra khuôn mặt này, anh đã từng gặp ở đâu đó rồi. Andrew tập trung tinh thần và gần như chắc chắn là đã nhận ra Sam, trợ lý của Valérie ở văn phòng thú y. Anh hẳn đã nói lung tung do tác động của lượng moóc phin mà họ cho anh dùng.

    Dù sao anh vẫn muốn đặt một câu hỏi cho anh ta, nhưng người đàn ông đó cười với anh rồi bỏ anh lại trong phòng mà anh ta vừa đưa anh tới.

    “Mình đang ở bệnh viện nào thế?” anh tự nhủ. Sau rốt, chuyện này có quan trọng chi, anh đã sống sót sau vụ tấn công và có thể lật mặt kẻ thủ ác. Khi các vết thương được chữa lành, anh có thể tiếp tục cuộc sống bình thường. Tên khốn Freddy Olson sẽ mất chừng mười năm sau song sắt nhà tù, đó hẳn là cái giá tối thiểu cho hành vi mưu sát có chủ đích.

    Andrew không khỏi giận khi anh đã ngây thơ để hắn giễu cợt bằng chính câu chuyện của hắn. Olson hẳn đã phỏng đoán rằng anh đang nghi ngờ điều gì đó nên đã quyết định ra tay hành động sớm. Andrew đã nghĩ có lẽ phải hoãn chuyến công tác Argentina, nhưng giờ anh đã có bằng chứng xác thực rằng trình tự mọi chuyện có thể thay đổi bởi anh đã bảo toàn được mạng sống của mình.

    Có tiếng gõ cửa phòng, thanh tra Pilguez bước vào cùng một phụ nữ xinh đẹp mặc áo blouse trắng.

    - Tôi rất lấy làm tiếc, Stilman, tôi đã thất bại, tay đó đã thành công. Tôi đã đặt cược vào con ngựa tồi, tôi già mất rồi và trực giác của tôi không còn như trước nữa.

    Andrew những muốn an ủi viên thanh tra nhưng anh không đủ sức nói lên lời.

    - Khi biết chuyện xảy đến với anh, tôi đã đáp chuyến bay đầu tiên và dẫn người bạn là bác sĩ phẫu thuật thần kinh mà tôi đã nhiều lần nói với anh tới đây. Tôi xin giới thiệu với anh bác sĩ Kline.

    - Lauren, vừa nói nữ bác sĩ vừa chìa tay ra với anh.

    Andrew cố nhớ lại tên bà bác sĩ, Pilguez đã từng nhắc đến trong một lần họ ăn tối, anh chỉ mất thời giờ vô ích vì mỗi lần anh do dự kiểm chứng điều gì đó thì anh lại càng không thể nhớ nổi.

    Bà bác sĩ bắt mạch, kiểm tra đồng tử rồi rút một cây bút từ trong túi áo ra, một cây bút kỳ cục mà ngòi bút đã được thay bằng một bóng đèn nhỏ.

    - Hãy dõi mắt nhìn theo ánh đèn này, anh Stilman, vừa nói bà bác sĩ vừa đưa bút từ trái qua phải rồi lại từ phải qua trái.

    Bà cho bút vào túi áo blouse rồi lùi lại vài bước.

    - Olson, Andrew khó nhọc cất tiếng.

    - Tôi biết, Pilguez thở dài, chúng tôi đã chất vấn hắn ở tòa soạn. Hắn muốn phủ nhận nhưng việc anh bạn Simon của anh đứng ra làm chứng vụ ở tiệm bán vũ khí đã lật tẩy hắn. Rốt cuộc hắn đã phải nhận tội. Than ôi, tôi không hề nhầm hướng, vợ anh là đồng phạm của hắn. Tôi rất lấy làm tiếc, về chuyện này thì tôi muốn mình mắc sai lầm hơn.

    - Valérie ư, nhưng sao lại thế? Andrew ấp úng.

    - Chẳng phải tôi đã nói với anh rằng chỉ có hai dạng tội phạm lớn ư… Trong chín mươi phần trăm các trường hợp, kẻ sát nhân là người thân cận. Đồng nghiệp của anh tiết lộ với cô ấy rằng anh yêu một phụ nữ khác và đang chuẩn bị hủy đám cưới. Cô ấy không thể chịu nổi sự sỉ nhục đó. Chúng tôi đã bắt cô ấy ở văn phòng cô ấy. Xét thấy số lượng cảnh sát đang bao vây mình, cô ấy không có bất cứ hành động phản kháng nào.

    Andrew cảm thấy lòng ngập tràn đau khổ, một nỗi buồn đột nhiên xóa sạch ham muốn sống trong anh.

    Nữ bác sĩ tiến lại gần anh.

    - Kết quả chụp chiếu của anh hoàn toàn bình thường, não của anh không bị tổn thương hay có khối u nào hết. Đó là tin tốt đấy.

    - Nhưng tôi thấy vô cùng lạnh và đau nhói ở sống lưng, Andrew lắp bắp.

    - Tôi biết, thân nhiệt anh thấp đến nỗi tôi và các đồng nghiệp đều đi đến một kết luận. Anh đã chết, anh Stilman à, thực sự đã chết rồi. Cảm giác lạnh không kéo dài lâu đâu, chỉ đến khi ý thức của anh lịm tắt.

    - Tôi rất lấy làm tiếc, Stilman, thật sự lấy làm tiếc vì đã thất bại, thanh tra Pilguez lên tiếng. Giờ tôi phải đưa bạn mình đi ăn trưa và chúng tôi sẽ quay lại để đưa anh đến nhà xác. Chúng tôi sẽ không để anh lại một mình trong thời khắc như vậy. Và dù sao chăng nữa, tuy rằng quãng thời gian ngắn ngủi nhưng tôi rất vui được quen anh.

    Bà bác sĩ lịch sự chào anh, Pilguez thân mật vỗ vỗ vào vai anh, họ tắt đèn rồi cả hai rời khỏi phòng.

    Một mình trong bóng tối, Andrew bắt đầu tru lên.

    °

    Anh cảm thấy toàn thân mình rung lên, cơ thể anh lắc lư như biển ngày dông bão. Một tia sáng cực mạnh chiếu vào mí mắt anh, anh choàng mở mắt và nhận thấy gương mặt của Valérie đang cúi xuống nhìn mình.

    - Andrew, tỉnh lại đi anh yêu, anh đang gặp ác mộng. Tỉnh lại đi, Andrew!

    Anh hít một hơi thật sâu rồi đột ngột bật dậy, người vã mồ hôi đầm đìa, trên chiếc giường trong phòng ngủ tại căn hộ của anh ở West Village. Valérie cũng sợ hãi như anh. Cô choàng tay ôm lấy anh rồi ghì chặt vào lòng mình.

    - Đêm nào anh cũng gặp ác mộng, anh phải đi gặp ai đó thôi, chuyện này không thể kéo dài lâu được.

    Andrew định thần lại. Valérie đưa cho anh cốc nước.

    - Đây, anh uống đi, nó sẽ làm anh dịu lại, anh đang mồ hôi mồ kê nhễ nhại kìa.

    Andrew liếc mắt nhìn đồng hồ đặt trên chiếc bàn đầu giường. Đồng hồ đang chỉ 6 giờ sáng và ngày hôm nay là thứ Bảy 26 tháng Năm.

    Anh chỉ còn sáu tuần để tìm ra kẻ đã sát hại mình, trừ phi những đêm dài đầy ác mộng này thắng được anh trước thời hạn đó.


  10. #19
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,732
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Chương 18
    Valérie gắng hết sức giúp Andrew dịu đi, tình trạng kiệt sức của anh khiến cô lo lắng. Đến trưa cô đưa anh đi dạo ở Brooklyn. Họ đến các tiệm bán đồ cổ tại Williamsburg. Andrew ngây ngất trước một đầu máy hơi nước nhỏ, món đồ mỹ nghệ tinh xảo đó được chế tác từ những năm năm mươi và giá của nó vượt xa khoản tiền mà Andrew có thể chi. Valérie bảo anh vào khám phá phần cuối cửa hàng và ngay khi anh quay gót, cô liền mua món đồ đáng thèm muốn đó rồi bỏ vào túi xách.

    Simon dành cả ngày thứ Bảy để theo dõi Olson. Anh đã đến đợi dưới chân tòa nhà hắn ở ngay khi ánh bình minh đầu tiên lóe rạng. Ngồi sau tay lái chiếc Oldsmobile 88 vốn thu hút nhiều ánh mắt tò mò của khách qua đường mỗi khi dừng ở đèn đỏ, Simon rốt cuộc cũng tự nhủ hẳn sẽ tốt hơn nếu anh chọn chiếc xe khác, nhưng đây là chiếc kín đáo nhất trong bộ sưu tập của anh rồi.

    Olson tiêu tốn giờ ăn trưa trong một tiệm mát xa đáng ngờ ở khu phố Tàu. Hắn rời đó vào tầm 14 giờ, tóc chuốt keo bóng lộn. Tại điểm dừng tiếp theo, Simon đỗ xe trước một nhà hàng Mexico nơi Freddy đang vừa ngốn ngấu bánh tacos[1] vừa liếm ngón tay để không làm rớt những giọt nước sốt đang nhỏ tong tong.

    [1] Loại bánh sandwich nổi tiếng của Mexico.

    Simon đã mua một chiếc máy ảnh kèm ống kính chụp xa xứng danh thợ săn ảnh, những phụ kiện mà anh cho rằng không thể thiếu nếu như muốn thành công trong nhiệm vụ mà anh đang dấn thân.

    Vào giữa buổi chiều, Olson đi dạo tại Công viên Trung tâm và Simon trông thấy hắn đang cố bắt chuyện với một phụ nữ ngồi đọc sách trên băng ghế.

    - Với chiếc áo đỏ như tương ớt Tabasco kia, nếu mi đạt được mục đích của mình, anh chàng vui tính kia ơi, ta sẽ đi tu liền.

    Simon thở dài khi thấy người phụ nữ gập sách lại và giữ khoảng cách với Olson.

    Trong khi Simon đang theo dõi Freddy, tay hacker mà anh đã nhờ vả đang thực hiện sao chép dữ liệu từ máy tính của Olson mà anh chàng đã bẻ khóa trong vòng chưa tới bốn phút. Giải mã được các tệp tin được đặt chế độ bảo vệ xong là anh có thể biết được có phải Olson ẩn mình đằng sau biệt danh Spookie Kid hay không.

    Tay tin tặc của Simon không phải là người duy nhất đang mổ cò trên bàn phím. Ở đầu kia đất nước, một thanh tra cảnh sát về hưu đang trao đổi thư điện tử với một đồng nghiệp cũ ở đồn 6, người từng được ông dắt tay chỉ việc và hiện là chỉ huy phòng hình sự của sở cảnh sát Chicago.

    Pilguez đã nhờ bạn châm chước cho một chút, bởi nếu không có lệnh của thẩm phán thì không được phép, nhưng giữa đồng nghiệp với nhau và để phục vụ nhu cầu chính đáng, thủ tục trình tự giấy tờ lằng nhằng có thể bỏ qua.

    Tin tức vừa nhận được khiến ông thấy phiền lòng cực điểm, và ông do dự một lúc lâu trước khi nhấc máy gọi Andrew.

    - Giọng anh chán thế, ông nói.

    - Đêm chán quá, Andrew đáp.

    - Tôi cũng vậy, tôi bị mất ngủ, và càng già thì càng tệ hơn. Nhưng tôi gọi cho anh không phải để than phiền về mấy chuyện phiền nhiễu lặt vặt. Tôi muốn báo anh biết rằng vợ Capetta sáng nay đã đặt vé máy bay đến New York. Và điều tôi bận tâm nhất chính là chị ta đặt vé đi ngày 14 tháng Sáu nhưng lại để trống ngày về. Anh sẽ nói với tôi rằng đặt vé càng sớm thì giá càng rẻ, tuy nhiên sự trùng hợp về ngày tháng khá là gây bối rối.

    - Sao ông lại biết được điều này?

    - Nếu một cảnh sát yêu cầu anh tiết lộ nguồn tin, anh có nói cho anh ta không?

    - Không bao giờ, Andrew đáp.

    - Thế thì tạm bằng lòng với điều tôi muốn anh biết đó thôi, phần còn lại là việc của tôi. Tôi đã sắp đặt vài thứ liên quan đến vợ Capetta rồi. Ngay khi chị ta đặt chân đến New York, chị ta sẽ bị theo dõi từ sáng đến tối. Đặc biệt là buổi sáng vì những lý do mà cả hai ta đều biết rõ.

    - Có thể chị ta đã quyết định sẽ gặp lại chồng mình.

    - Hẳn đó sẽ là tin tốt lành nhất trong vài tuần gần đây, nhưng tôi có một tật xấu đó là chẳng bao giờ tin vào các tin tốt lành cả. Thế còn anh, mọi việc của anh có tiến triển gì không?

    - Tôi chẳng còn thấy mọi chuyện rõ ràng nữa. Olson khiến tôi thấy lo lắng, nhưng không chỉ có mình hắn, tôi bất giác nhận thấy mình đang dè chừng tất cả mọi người.

    - Anh nên thay đổi không khí một chút, rời New York và tĩnh tâm lại. Anh đang ở hàng đầu trong cuộc điều tra này. Anh cần phải hoàn toàn tỉnh táo, ấy thế mà thời gian lại không phải là lợi thế của anh. Tôi biết rõ là anh chẳng thèm nghe theo lời khuyên của tôi đâu, và tôi lấy làm tiếc về điều đó.

    Pilguez chào Andrew rồi hứa sẽ gọi lại cho anh ngay khi có tin gì mới.

    - Ai thế? Valérie vừa ăn nốt ly kem ở sân hiên quán cà phê mà cả hai vừa vào.

    - Chẳng có gì quan trọng đâu, chuyện công việc thôi.

    - Lần đầu tiên em nghe thấy anh nói với em rằng công việc của anh không quan trọng, anh hẳn còn mệt nhiều hơn em nghĩ đấy.

    - Em nghĩ sao nếu tối nay chúng ta nghỉ đêm bên bờ biển?

    - Dĩ nhiên là đồng ý rồi.

    - Thế thì mình đến Ga Trung tâm đi, anh biết một khách sạn nhỏ thú vị trông ra bãi biển Westport. Không khí biển sẽ khiến chúng ta khỏe khoắn thêm.

    - Vậy giờ mình phải về nhà lấy vài thứ đồ đã.

    - Không cần đâu, mình sẽ mua bàn chải đánh răng tại đó luôn, chỉ có một đêm thì cũng chẳng cần gì khác đâu.

    - Có chuyện gì đang xảy ra thế anh, cứ như anh đang chạy trốn điều gì đó hay ai đó thì phải?

    - Anh chỉ muốn rời xa thành phố, một chuyến chạy trốn say men tình với em, rời xa tất thảy.

    - Em có thể biết làm thế nào anh lại biết cái khách sạn nhỏ thú vị trông ra bãi biển đó được không?

    - Anh đã viết cáo phó cho ông chủ của nó…

    - Em đánh giá cao sự ga lăng của anh đấy, Valérie dịu dàng đáp.

    - Không phải em đang ghen với quá khứ của anh đấy chứ?

    - Cả quá khứ lẫn tương lai của anh. Hồi học cấp hai, em còn ghen với đám con gái vây quanh anh nhiều hơn anh có thể hình dung nhiều, Valérie trả lời.

    - Đám con gái nào?

    Valérie mỉm cười không đáp rồi vẫy một chiếc taxi.

    Họ đến Westport vào lúc chập tối. Qua ô cửa sổ phòng nghỉ, họ có thể nhìn thấy phần mũi đất đang bị sóng đánh dồn dập không ngơi nghỉ.

    Sau khi ăn tối xong, họ cùng đi dạo bên phá nước, nơi đây đất không còn chút dấu vết của văn minh nhân loại. Valérie trải chiếc khăn tắm lấy từ khách sạn xuống nền cát, Andrew gác đầu lên đầu gối cô rồi cả hai cùng ngắm nhìn đại dương gầm gào giận dữ.

    - Em muốn mình sống đến già bên anh, Andrew à, sống đến già để có đủ thời gian hiểu anh.

    - Em hiểu anh rõ hơn bất cứ ai mà.

    - Kể từ khi rời Poughkeepsie, em chỉ biết đến cô đơn, ở bên anh, em dần dần từ bỏ được trạng thái này và điều đó khiến em thấy hạnh phúc.

    Thu mình trong làn không khí mát mẻ ban đêm, họ lặng im lắng nghe tiếng sóng dồi.

    Andrew hồi tưởng lại thời niên thiếu của cả hai. Kỷ niệm đôi khi như những tấm ảnh đã bị thời gian tẩy trắng ố mà các chi tiết lại nổi lên nhờ sự soi sáng nào đó. Anh cảm thấy mối đồng cảm gắn kết cả hai mạnh hơn tất thảy.

    Ba ngày nữa, có thể anh đang ở Buenos Aires, cách xa hàng nghìn ki lô mét với cô cùng những khoảnh khắc yên bình mà anh muốn sống lại khi mùa hè đang chiếu những tia nắng cuối cùng xuống khắp thế gian.

    °

    Một giấc ngủ thanh bình cùng bữa ăn trưa dưới ánh mặt trời đã giúp Andrew lại sức. Lưng anh không còn đau nhức nữa.

    Về đến New York vào tối Chủ nhật, anh nhấc máy gọi Simon rồi hẹn bạn đến gặp mình tại quán Starbucks vào 9 giờ sáng hôm sau.

    °

    Simon đến muộn, Andrew đọc báo trong lúc đợi bạn tới.

    - Đừng phê phán gì tớ nhé, tớ vừa trải qua một ngày thứ Bảy thối tha nhất đời mình đấy.

    - Tớ chẳng nói gì đâu.

    - Bởi tớ vừa cấm cậu làm thế mà.

    - Ngày thứ Bảy của cậu tệ hại đến thế là vì chuyện gì?

    - Tớ đã dành trọn ngày để theo Freddy Olson, một tên ngụy trang bẩn thỉu vượt xa những gì cậu có thể hình dung.

    - Đến mức thế cơ à?

    - Còn tệ hơn nữa cơ. Gái gú, ăn tacos rồi lại hút hít, còn hơn thế nữa, chương trình này chỉ chiếm có nửa ngày của hắn. Sau bữa trưa, hắn còn đến nhà xác một lát, đừng hỏi tớ hắn làm gì ở đó nhé, nếu tớ theo hắn vào trong, hắn sẽ nhận ra tớ mất và tớ cũng chẳng mặn mà gì với thứ đựng trong cái tủ lạnh khổng lồ đó. Sau đó hắn đi mua hoa rồi đến bệnh viện Lenox.

    - Thế sau bệnh viện thì sao?

    - Hắn đi dạo ở Công viên Trung tâm, rồi hắn đến khu phố nhà cậu và hắn đi lang thang dưới nhà cậu. Sau khi đi đi lại lại tầm bốn lượt trước cánh cổng tòa nhà cậu ở, hắn vào trong tìm hộp thư của cậu rồi đột nhiên quay gót.

    - Olson đến nhà tớ ư?

    - Khi cậu nhắc lại từng từ những gì tớ vừa nói, điều này khiến tớ cảm thấy đây là một cuộc nói chuyện thật sự thú vị…

    - Hắn điên thật rồi!

    - Chắc là hắn đã đường cùng. Tớ theo hắn cho đến tận khi hắn về nhà. Sự cô độc của gã đàn ông này là một hố sâu thăm thẳm, đó là một kẻ lạc lối.

    - Không chỉ mình hắn đang cảm thấy lạc lối. Sắp đến tháng Sáu rồi. Cậu thấy không, tớ không nên phàn nàn về điều này, ai có thể huênh hoang được như tớ là đã sống qua một tháng Năm những hai lần.

    - Dù sao cũng chẳng phải tớ, Simon đáp. Và xét theo doanh số kỳ lạ của tháng này thì chuyện đó cũng chẳng có gì là nghiêm trọng, tháng Sáu muôn năm… trong khi chờ đợi tháng Bảy.

    - Tháng Năm là tháng đã thay đổi cuộc đời tớ, Andrew thở dài, tớ đã thấy hạnh phúc và tớ vẫn chưa hủy hoại những gì tốt đẹp xảy đến với tớ.

    - Cậu phải tha thứ cho chính mình, Andrew, không ai khác có thể làm điều đó thay cậu. Có hàng đống người mong ước có thể bắt đầu lại từ đầu, mong được trở lại chính thời điểm họ thất bại. Cậu cho rằng đó là điều xảy đến với cậu, thế thì hãy tranh thủ tận dụng nó thay vì ca thán số phận đi.

    - Khi ta biết cái chết đang chờ dịp trả thù mình, giấc mơ nhanh chóng trở thành cơn ác mộng. Cậu sẽ chăm lo cho Valérie khi tớ không còn nữa chứ?

    - Chính cậu sẽ chăm lo cho cô ấy thì có! Cả ba chúng ta sẽ vượt qua chuyện đó, cuộc đời là một căn bệnh hiểm nghèo trong một trăm phần trăm các trường hợp. Về phần mình, tớ không biết cái ngày tiền định đó là ngày nào, và tớ cũng chẳng có đủ thời giờ kéo dài thời hạn đó. Nó cũng chẳng khiến cậu yên tâm hơn khi cậu cứ nghĩ đến nó. Cậu có muốn ngày mai tớ tiễn cậu ra sân bay không?

    - Không, không cần đâu.

    - Tớ sẽ nhớ cậu, cậu biết đấy.

    - Tớ cũng vậy.

    - Thôi nào, cậu về với Valérie đi, tớ còn có hẹn.

    - Với ai thế?

    - Cậu sắp muộn rồi đấy, Andrew.

    - Trước tiên hãy trả lời tớ đã.

    - Với cô lễ tân ở bệnh viện Lenox. Tối Chủ nhật vừa rồi tớ lại quay lại xem cô ấy thế nào sau chuyến viếng thăm của Freddy, tớ thích cầu toàn mà, tớ chẳng thể làm khác được.

    Andrew đứng dậy, chào Simon rồi quay ngược lại ngay khi ra đến cửa.

    - Tớ có một việc muốn nhờ cậu, Simon.

    - Tớ cứ tưởng là xong rồi chứ, nhưng cậu cứ nói đi.

    - Tớ cần cậu đến Chicago. Đây là địa chỉ của người phụ nữ mà tớ muốn cậu canh chừng trong vài ngày.

    - Từ đó suy ra là tớ sẽ không gặp lại cậu tại Buenos Aires nữa.

    - Cậu nghĩ sẽ tới đó thật à?

    - Va li của tớ đã đóng sẵn rồi, phòng khi cần.

    - Tớ sẽ gọi cho cậu và tớ hứa là sẽ bảo cậu đến nếu cần.

    - Thôi đừng chán nản nữa, tớ sẽ đi Chicago sớm nhất có thể; cậu hãy bảo trọng nhé. Cái cô vợ Capetta đó có xinh không?

    Andrew ôm ghì lấy bạn thật chặt.

    - Được rồi, thật là đáng yêu, nhưng tớ nghĩ là mình còn hóa đơn phải thanh toán với cô nàng phục vụ, thế nên nếu chúng ta miễn cho cô này phải chứng kiến cảnh hôn hít ngay trước mặt cô nàng thì tớ sẽ rất biết ơn cậu về điều đó.

    - Hôn hít á?

    - Đó là một thành ngữ vùng Québec.

    - Cậu nói tiếng Québec từ khi nào vậy?

    - Kathy Streinbeck từng ở Montréal. Điều mà thi thoảng cậu có thể làm tớ phát bực thật điên rồ!

    °

    Andrew tranh thủ ngày cuối cùng ở New York để thu xếp công việc một chút. Anh dành cả buổi sáng ở văn phòng, Freddy vắng mặt. Anh gọi cho lễ tân rồi dặn cô báo cho anh ngay khi Olson đến tòa soạn. Anh khẳng định có hẹn gặp Freddy trước tòa soạn.

    Ngay sau khi gác máy, Andrew đi thám thính bàn làm việc của đồng nghiệp. Anh lục lọi các ngăn kéo và chỉ tìm ra vài cuốn sổ đầy những chú thích, ý tưởng, những bài báo chẳng chút hấp dẫn, những đề tài mà tòa soạn sẽ chẳng bao giờ cho đăng. Làm sao Olson có thể lẩn thẩn đến mức này cơ chứ? Andrew sắp sửa bỏ cuộc đến nơi thì một tờ giấy nhớ dính vào thùng đựng giấy khiến anh chú ý. Trên đó có ghi mật khẩu máy tính cá nhân của anh. Làm sao Olson có thể kiếm được nó và hắn đã làm gì trên máy tính của anh?

    “Cũng giống như mi thôi” lương tâm trong anh lên tiếng, “chơi trò giải phân ấy mà”.

    - Hoàn toàn khác, Andrew thì thầm, với mình Olson là một mối đe dọa tiềm tàng.

    “Và với hắn thì mi cũng giống vậy thôi, ít nhất là ở khía cạnh công việc,” rốt cuộc anh thầm nghĩ.

    Một ý nghĩ điên rồ vụt qua tâm trí anh, anh sử dụng mật khẩu của chính mình để truy cập dữ liệu máy tính Olson và đăng nhập thành công. Andrew suy ra rằng tính cách Freddy chẳng khác nào một con cá vàng. Hoặc là độ xảo quyệt của hắn thật đáng khâm phục. Ai có thể nghĩ đến chuyện sử dụng cùng một mật khẩu với người mà hắn đang theo dõi cơ chứ.

    Ổ cứng máy tính chứa rất nhiều tài liệu, trong đó có tệp tên “SK”. Khi mở tệp tin đó ra, Andrew nhận ra giọng điệu phong phú của Spookie Kid. Olson đúng là kẻ thần kinh, anh tự nhủ trong lúc khám phá cả đống những lời chửi rủa lăng nhục nhằm vào mình. Liệu hắn có thấy khó chịu khi suốt ngày đi rêu rao lải nhải những điều như vậy hay không, nhưng ít ra thì anh vẫn thích chuyện này xuất phát từ một tay đồng nghiệp ghen ăn tức ở hơn là từ một độc giả nào đó. Andrew cắm USB vào máy tính rồi sao chép các tệp tin này để có thể thoải mái nghiên cứu sau. Anh đóng vội các file trên màn hình khi nghe thấy tiếng chuông điện thoại reo từ phía bên kia vách ngăn. Cửa thang máy mở ra, Andrew chỉ kịp cóp tệp tin có tên “Trừng phạt” rồi vội vàng đứng dậy trong lúc Freddy đang tiến bước trong hành lang.

    Khi quay trở lại chỗ ngồi, Andrew nhận thấy mình đã để quên công cụ do thám của mình ở máy tính của Olson và cầu cho hắn không để ý thấy.

    - Anh đã ở đâu đấy? Andrew lên tiếng hỏi khi Olson đến ngang chỗ mình.

    - Sao thế? Tôi phải báo cáo cho anh à?

    - Chỉ đơn giản là vì tò mò, Andrew đáp, anh đang tìm cách đánh lạc hướng chú ý của đồng nghiệp.

    - Khi nào anh đi Buenos Aires, Stilman?

    - Ngày mai.

    - Nếu anh có thể ở hẳn lại đó thì với tôi quả là yên bình lắm đấy.

    Olson nhận một cuộc điện thoại rồi rời khỏi văn phòng.

    Andrew tranh thủ thời cơ sang lấy USB.

    Rồi anh lấy sổ ghi chép, liếc nhìn lần cuối đồ đạc của mình rồi quyết định trở về nhà. Valérie đang đợi anh, đây là đêm cuối cùng họ bên nhau trước khi anh khởi hành đến Buenos Aires và anh không thích mình về muộn.

    °

    Anh đưa cô đến ăn tối tại Thượng Hải Café trong khu Little Italy. Phòng ăn nhà hàng ấm cúng hơn ở quán Joe’s nhiều. Valérie có vẻ u sầu và không tìm cách giấu anh chuyện đó. Andrew, dù rất vui được tiếp tục cuộc điều tra, vẫn cảm thấy mình có lỗi. Lẽ ra họ phải tranh thủ trọn vẹn tối bên nhau này nhưng viễn cảnh xa nhau sắp tới khiến điều này trở nên bất khả.

    Valérie quyết định về nhà mình ngủ. Cô thích mình không có mặt vào lúc tờ mờ sáng khi Andrew đóng lại chiếc va li mà cô đã chuẩn bị cho anh.

    Anh tiễn cô về tận nhà tại East Village và họ đứng ôm ghì lấy nhau một lúc lâu dưới chân tòa nhà cô ở.

    - Em ghét anh vì anh đã để em lại một mình nơi đây, nhưng nếu anh hủy chuyến đi này thì em lại càng ghét anh hơn.

    - Thế anh phải làm gì để em yêu anh thêm chút nữa?

    - Ngay trước khi khởi hành thì cũng không nhiều nhặn gì đâu. Hãy nhanh trở về nhé, đó là tất cả những gì em yêu cầu anh, chưa gì em đã nhớ anh rồi.

    - Chỉ có mười ngày thôi mà.

    - Và mười hai đêm đấy. Anh bảo trọng nhé, và tìm cho ra hắn. Em tự hào khi là vợ anh, Andrew Stilman à. Giờ thì anh đi nhanh trước khi em không cho anh đi đâu hết.


  11. #20
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,732
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 19
    Chiếc máy bay mà Andrew đã lên hạ cánh xuống sân bay quốc tế Ezeiza vào chập tối. Anh vô cùng kinh ngạc khi thấy Marisa tới đón anh. Anh đã gửi cho cô rất nhiều email, nhưng cô không để lại cho anh bất cứ dấu hiệu của sự sống nào kể từ sau cuộc trao đổi điện thoại gần đây. Trong chuyến đi trước, họ gặp nhau ở khách sạn, sau hôm anh đến.

    Andrew nhận ra rằng thời gian càng trôi, anh càng có cảm giác các sự việc dần rời xa trật tự mà nó diễn ra trước kia.

    Anh nhận ra chiếc Coccinelle cũ kỹ có phần cuối thùng xe mòn vẹt mà anh tự hỏi mỗi lần bị xóc nảy liệu cái ghế anh ngồi rốt cuộc có bật khỏi sàn hay không.

    - Tôi cứ tưởng là cô cậu đang đi nghỉ vui vẻ với món tiền mà tôi đã gửi rồi chứ, hai người đã hứa sẽ báo cho tôi khi có tin gì mới cơ mà.

    - Mọi chuyện phức tạp hơn dự tính, Antonio đang nằm viện.

    - Chuyện gì xảy đến với cậu ấy vậy? Andrew hỏi.

    - Chúng tôi bị tai nạn ô tô trên đường quay về.

    - Có nặng lắm không?

    - Cũng đủ để bạn trai tôi giờ đang phải bó bột một tay, sáu chiếc xương sườn bị rạn và chấn thương sọ não. Suýt nữa thì cả hai chúng tôi phải ở lại đó.

    - Cậu ấy đi sai à?

    - Nếu ta coi trọng chuyện anh ấy không phanh lại ở ngã tư khi gặp đèn đỏ thì đúng là vậy, nhưng vì phanh không ăn nên tôi cho rằng anh ấy không có lỗi.

    - Và chiếc xe của cậu ấy cũng được bảo dưỡng tốt như xe của cô chứ? Andrew lên tiếng hỏi trong lúc không tài nào kéo đai an toàn xuống được.

    - Antonio bị ám ảnh với chiếc xe của anh ấy, thi thoảng tôi còn tự hỏi liệu có phải anh ấy yêu xe hơn tôi hay không. Anh ấy không bao giờ lên đường mà không kiểm tra tất cả mọi thứ. Có kẻ đã cố tình phá hỏng phanh xe.

    - Cô nghi ngờ ai không?

    - Chúng tôi đã tìm được địa chỉ của Ortiz, chúng tôi đã theo dõi ông ta và chụp ảnh. Chúng tôi đã đặt vài câu hỏi về ông ta, có thể đã hơi quá, bạn bè của ông ta đâu phải là những kẻ ngây thơ.

    - Chuyện này cũng không khiến việc của tôi được êm đẹp, giờ thì phải thật cẩn thận thôi.

    - Antonio đang ở trong tình trạng rất tồi tệ, thế mà anh chỉ nghĩ đến cuộc điều tra của mình. Sự ân cần của anh khiến tôi xúc động dạt dào đó, anh Stilman à.

    - Tôi thật thiếu tế nhị, nhưng tôi rất lấy làm tiếc về vụ chồng chưa cưới của cô, anh ấy sẽ qua khỏi thôi, cô cứ an tâm. Đúng, tôi đang lo cho bài báo của mình. Tôi không đến đây để hát hợp xướng. Tai nạn xảy ra khi nào?

    - Cách đây ba ngày.

    - Sao cô không báo cho tôi biết?

    - Bởi Antonio chỉ mới hồi tỉnh vào tối qua và anh là mối bận tâm sau chót của tôi.

    - Cô còn giữ số ảnh kia chứ?

    - Hộp đựng bị hư hại nặng, chiếc xe đã bị lộn nhiều vòng. Chúng tôi sử dụng một chiếc máy ảnh cũ để không bị chú ý như với một chiếc quá đắt tiền. Phim chụp có thể đã bị cháy, tôi không biết chúng ta có thể in ra được không nữa. Tôi đã gửi chúng ở nhà một anh bạn làm nhiếp ảnh, chúng ta sẽ đến chỗ anh ấy vào ngày mai.

    - Mai cô đi một mình nhé, tôi sẽ lên đường đến Córdoba.

    - Chắc chắn anh sẽ không làm một điều ngu ngốc đến vậy, anh Stilman. Với tất cả lòng kính trọng mà tôi dành cho anh, nếu việc Antonio và tôi đang ở đây rốt cuộc lại bị lộ thì tôi tin là chỉ trong vòng chưa đầy nửa ngày, người của Ortiz sẽ tóm cổ anh ngay. Và anh cũng chẳng cần đi cả chặng đường bao nhiêu cây số đó đâu. Tuần nào ông ta cũng đến Buenos Aires để gặp khách hàng lớn nhất của mình.

    - Bao giờ cuộc gặp tiếp theo diễn ra?

    - Thứ Ba tới, nếu ông ta vẫn còn duy trì thói quen đó. Chúng tôi đã biết được điều đó nhờ hỏi han hàng xóm xung quanh, và có thể chính vì thế mà chúng tôi đã gặp tai nạn.

    - Tôi rất lấy làm tiếc, Marisa, tôi không nghĩ là cô cậu lại gặp nhiều rủi ro, nếu biết trước thế..., anh nói vẻ rất chân thành.

    Andrew không hề nhớ gì về vụ tai nạn này, chẳng còn gì xảy ra giống như trước kia nữa. Trong chuyến đi trước đây, chính anh đã chụp ảnh Ortega và rồi chiếc máy ảnh đã bị giật mất trên một con phố nhỏ ở ngoại ô Buenos Aires trong khi ba gã đàn ông túm chặt lấy anh.

    - Anh thực sự nghĩ rằng một gã đàn ông đã mất bao công sức để thay đổi nhân thân nhằm tránh cảnh tù đày lại để bị vạch mặt mà không phản kháng ư? Anh đang ở thời đại nào thế? Marisa tiếp tục.

    - Cô hẳn sẽ ngạc nhiên nếu như tôi miêu tả thời đại ấy cho cô, Andrew đáp.

    Marisa đỗ xe trước khách sạn Quintana tọa lạc trong một khu phố bình dị ở Recoleta.

    - Trước tiên hãy đi thăm bạn cô đã, tôi cất hành lý sau.

    - Antonio cần được nghỉ ngơi và giờ thăm bệnh nhân cũng hết rồi. Cảm ơn anh đã quan tâm, mai chúng ta sẽ đến. Anh ấy đang được chăm sóc tích cực ở bệnh viện General de Agudos, rất gần đây thôi. Tôi sẽ đến đón anh lúc 9 giờ nhé.

    - Tối nay cô không làm ở quán bar à?

    - Không, tối nay thì không.

    Andrew chào Marisa, lấy va li của anh đặt ở băng ghế sau rồi tiến thẳng về phía cổng vào khách sạn.

    Một chiếc xe hòm nhỏ màu trắng lao tới dưới cổng vào. Ngồi ở hàng ghế trước, một gã đàn ông đưa ống kính ngắm Andrew rồi chụp lia lịa. Cửa xe sau hé mở để một gã khác xuống lặng lẽ bước vào tiền sảnh khách sạn. Chiếc xe tải nhỏ khởi động lại rồi tiếp tục cuộc theo dõi. Gã tài xế chiếc xe này không rời Marisa nửa bước kể từ khi Antonio và cô rời khỏi Córdoba.

    Andrew mỉm cười khi cô lễ tân đưa chìa khóa phòng 712 cho anh. Đó cũng là cô lễ tân đã phục vụ anh ở cuộc đời trước.

    - Cô có thể bảo bộ phận bảo trì thay pin điều khiển vô tuyến được không? Anh lên tiếng hỏi.

    - Bộ phận bảo trì của chúng tôi vẫn kiểm tra chúng hàng ngày, cô nhân viên đáp.

    - Ờ thì, cô cứ tin tôi đi, người phụ trách việc này không làm tốt cho lắm công việc được giao.

    - Làm sao anh biết điều đó trong khi anh còn chưa lên phòng?

    - Tôi có tài tiên tri mà! Andrew vừa nói vừa mở to mắt.

    Phòng 712 giống y hệt như trong trí nhớ anh vẫn lưu giữ. Cửa sổ đóng kín, bản lề cửa tủ treo áo kêu kẽo kẹt, vòi hoa sen bị rỉ nước còn tủ lạnh ở quầy bar mini kêu ro ro như tiếng mèo hen.

    - Bộ phận bảo trì, đúng là nói dóc, Andrew vừa ném hành lý lên giường vừa làu bàu.

    Anh chưa hề ăn gì kể từ khi rời New York, khẩu phần ăn trên máy bay có vẻ quá tệ để anh có thể mạo hiểm nếm thử nên giờ anh đang đói ngấu. Anh nhớ là mình đã ăn tối, trong chuyến đi trước, tại một parrilla[1] nằm ngay đối diện nghĩa trang Recoleta. Khi đóng cửa phòng lại, anh thích thú với ý nghĩ được thưởng thức lại món thịt nướng ấy lần thứ hai.

    [1] Một kiểu quán đồ nướng.

    Khi Andrew rời khách sạn, gã đàn ông đang ngồi trong sảnh cũng liền rời khỏi ghế bành rồi theo anh bén gót. Hắn ngồi xuống một băng ghế nhỏ đối diện với nhà hàng.

    Trong lúc Andrew ăn uống no say thì một nhân viên bộ phận bảo trì của khách sạn Quintana đã nhận một khoản tiền típ hậu hĩnh để đi kiểm tra hành lý của khách ở phòng số 712. Anh ta thực thi nhiệm vụ vô cùng tỉ mẩn, mở chiếc két sắt nhỏ đặt trong phòng bằng mã số của bộ phận bảo trì, chụp ảnh tất cả các trang trong sổ địa chỉ của Andrew, hộ chiếu cũng như trong sổ ghi chép của anh.

    Khi đã xong xuôi mọi thứ, anh ta kiểm tra xem điều khiển vô tuyến có hoạt động hay không rồi thay pin và đi ra. Anh ta nhận khoản tiền hậu hĩnh còn lại trước lối vào bộ phận trực ban khách sạn rồi trả lại chiếc máy ảnh kỹ thuật số mà người kia đã đưa cho anh ta.

    °

    Ăn uống no nê, Andrew ngủ say như chết, không bị cơn ác mộng nào đến phá quấy giấc ngủ của anh nữa và anh tươi tỉnh thức dậy ngay từ rạng sáng.

    °

    Sau khi ăn sáng trong nhà hàng khách sạn, anh ra cổng đợi Marisa.

    - Chúng ta không đi thăm Antonio nữa, cô nói ngay sau khi Andrew trèo lên ngồi trong chiếc Coccinelle.

    - Đêm qua tình trạng cậu ấy xấu đi à?

    - Không, đúng ra thì sáng nay anh ấy đã ổn hơn nhiều rồi, nhưng dì tôi vừa nhận được một cuộc gọi rất khó chịu vào giữa đêm qua.

    - Sao thế?

    - Một gã đàn ông không xưng danh nói rằng bà nên cẩn thận dè chừng những kẻ mà cháu gái bà đang giao du nếu như muốn tránh gặp rắc rối nghiêm trọng.

    - Có thể nói đám bạn bè của Ortiz đã không bỏ phí thời giờ nhỉ.

    - Điều làm tôi thật sự lo lắng chính là bọn chúng biết anh đang ở đây và chúng ta có quen biết nhau.

    - Thế các mối giao du không mấy hay ho đó, chỉ có thể là tôi thôi sao?

    - Tôi hy vọng là anh đang không nghiêm túc chứ?

    - Cô xinh lắm, hẳn phải có cả đống đàn ông vây quanh cô.

    - Anh bỏ mấy cái kiểu suy nghĩ đó đi, tôi rất yêu chồng chưa cưới.

    - Không hề có ẩn ý nào trong lời khen ngợi ấy đâu, Andrew trấn an. Cô có biết cửa phụ bệnh viện nằm trên phố nào không?

    - Dùng mưu mẹo cũng chẳng ích chi đâu, người của Ortiz có thể đã cài cắm được người trực sẵn trong bệnh viện. Tôi không muốn Antonio gặp bất cứ nguy cơ nào, anh ấy đã chịu đủ rồi.

    - Thế chương trình tiếp theo là gì?

    - Tôi sẽ đưa anh đến nhà dì tôi, bà ấy biết nhiều hơn tôi và nhiều người dân trong thành phố này. Đó là một trong những Bà mẹ trên quảng trường tháng Năm đầu tiên. Và chúng ta hãy rõ ràng với nhau ở một điểm, anh không trả tiền cho tôi để làm hướng dẫn viên du lịch cho anh!

    - Tôi thực sự không gọi đây là du lịch, nhưng tôi sẽ nhớ nhận xét của cô... và tính cách tuyệt vời của cô.

    °

    Louisa sống trong một ngôi nhà nhỏ ở khu phố Monte Chingolo. Để vào được tận trong nhà bà phải qua một khoảnh sân rợp bóng phượng tím, có mấy bức tường giăng kín cây lạc tiên.

    Louisa lẽ ra có thể là một người bà rất đẹp lão nhưng chế độ độc tài một ngày nọ đã cướp mất khỏi bà quyền có những đứa cháu.

    Marisa dẫn Andrew vào tận phòng khách.

    - Ra đây chính là anh chàng phóng viên người Mỹ đang điều tra về quá khứ của chúng ta à, vừa nói Louisa vừa đứng dậy khỏi ghế bành nơi bà đang chơi trò giải ô chữ. Tôi đã nghĩ cậu bảnh trai hơn đấy.

    Marisa mỉm cười trong khi dì cô ra hiệu cho Andrew ngồi vào bàn. Bà đi vào bếp rồi trở ra với một đĩa đầy bánh ga tô nướng trên tay.

    - Sao cậu lại quan tâm đến Ortiz? Vừa rót cho anh một ly nước chanh bà vừa hỏi.

    - Tổng biên tập của tôi thấy hành trình của ông ta thật thú vị.

    - Sếp của anh quả là có mối quan tâm lạ lùng thật.

    - Như là hiểu được điều gì đã đưa một con người bình thường trở thành tên đao phủ, Andrew đáp lời.

    - Cô ta lẽ ra nên đến đây thay anh chứ. Tôi sẽ chỉ cho cô ta thấy hàng trăm quân nhân đã biến thành quỷ sứ như thế nào. Ortiz không phải là một tay tầm thường, nhưng cũng chẳng phải là kẻ tệ nhất trong số chúng. Đó là một sĩ quan phi công thuộc đội tuần tra bờ biển, một nhân vật phụ. Chúng tôi chưa bao giờ có được bằng chứng chính thức về việc hắn có tham gia hoạt động tra tấn. Đừng nghĩ là tôi tìm cách biện minh cho hắn, hắn đã phạm những tội ác kinh khủng và lẽ ra hắn, cũng như bao kẻ khác, phải chết rục xương trong tù vì tội ác của mình. Nhưng như bao kẻ khác, hắn đã thoát tội, ít ra là cho đến thời điểm hiện tại. Nếu cậu giúp chúng tôi chứng minh được rằng Ortiz đã trở thành thương nhân mang tên Ortega, chúng tôi sẽ có thể đưa hắn ra công lý. Ít nhất là chúng tôi sẽ thử làm thế.

    - Bà biết gì về hắn?

    - Về Ortega thì hiện tại chẳng có gì nhiều nhặn. Còn về Ortiz thì chỉ cần đưa cho cậu các hồ sơ lưu về ESMA là đủ rồi.

    - Sao hắn có thể thoát khỏi công lý?

    - Cậu đang nói về công lý nào vậy cậu nhà báo? Cái thứ công lý đã ân xá lũ chó rừng này ư? Cái thứ công lý đã cho chúng thời gian để tạo nhân thân mới ư? Sau khi chế độ dân chủ được lập lại vào năm 1983, chúng tôi, các gia đình nạn nhân, cứ tưởng rằng những kẻ phạm tội đó sẽ bị xét xử. Khi đó chúng tôi chưa tính đến sự nhu nhược của tổng thống Alfonsin và sức mạnh của quân đội. Chế độ quân sự đã có đủ thời gian để xóa bỏ mọi dấu vết, thanh trừng đám quân nhân trót dính máu, giấu kín các dụng cụ tra tấn trong lúc chờ thời cơ thích hợp, chẳng gì đảm bảo thời kỳ này sẽ không tái diễn vào một ngày nào đó. Chế độ dân chủ rất mong manh. Nếu cậu nghĩ sẽ tránh được điều tồi tệ nhất bởi vì câu là người Mỹ thì cậu đã nhầm hệt như chúng tôi từng nhầm. Vào năm 1987, Bareiro và Rico, hai sĩ quan cấp cao, đã kích động phe quân sự nổi lên và đã bịt mồm thành công hệ thống tư pháp của chúng tôi. Hai đạo luật đáng xấu hổ đã được thông qua, một đạo luật về nghĩa vụ tuân lệnh đã thiết lập các mức độ trách nhiệm tùy theo cấp bậc trong quân đội và đạo luật thứ hai còn ô nhục hơn gọi là “Chấm hết” đã bãi bỏ tất cả các tội ác chưa được đưa ra xét xử. Tay Ortiz đó, cũng như hàng trăm đồng phạm của hắn, tự thấy đã được tặng giấy thông hành cho phép chúng thoát mọi cuộc truy đuổi. Phần lớn những kẻ tra tấn đã được hưởng điều đó, và rất nhiều kẻ khác đang bị giam đều đã được phóng thích. Phải mười lăm năm sau, hai đạo luật đó mới được bãi bỏ. Nhưng, trong vòng mười lăm năm đó, cậu có thể hình dung rõ ràng lũ bất lương ấy thừa thời gian để ẩn mình.

    - Sao nhân dân Argentina lại có thể để một chuyện như vậy xảy ra cơ chứ?

    - Thật hài hước khi cậu hỏi tôi câu này với thái độ cao ngạo đến vậy. Thế còn người Mỹ các cậu, các cậu có đưa ra tòa tổng thống Bush, phó tổng thống Dick Cheney hay bộ trưởng Bộ Quốc phòng vì đã cho phép tra tấn trong các phiên thẩm vấn tại các nhà tù Irắc, họ đã biện minh cho hành động đó nhân danh Nhà nước hoặc vì đã lập ra nhà tù Guantánamo không? Các người đã đóng cửa cái nhà tù thách thức hàng loạt thỏa thuận trong Hiệp ước Genève suốt hơn một thập kỷ qua chưa? Cậu cũng thấy nền dân chủ mong manh cỡ nào rồi đấy. Vậy nên đừng có phán xét chúng tôi. Chúng tôi đã làm những gì mình có thể, đối mặt với một đội quân quyền lực thao túng bộ máy Nhà nước nhằm thu lợi cho mình. Đa phần chúng tôi bằng lòng làm thế để sao cho con cháu chúng tôi được đến trường, để chúng tôi có cái bỏ vào đĩa cho chúng ăn và một mái nhà che đầu cho chúng; riêng điều đó thôi đã đòi hỏi rất nhiều nỗ lực và hy sinh đối với tầng lớp dân nghèo trong xã hội Argentina rồi.

    - Tôi không phán xét mọi người, Andrew trấn an.

    - Cậu không phải là người chấp pháp, cậu nhà báo à, nhưng cậu có thể góp phần giúp công lý thực thi. Nếu cậu vạch mặt được kẻ ẩn mình sau cái tên Ortega, nếu đó đúng là Ortiz, thì hắn sẽ chịu số phận mà hắn đáng phải nhận. Thế nên tôi rất sẵn lòng giúp cậu.

    Louisa đứng dậy khỏi chiếc ghế để lại chỗ chiếc tủ buýp phê án ngữ trong phòng khách. Bà lôi một tập tài liệu ra rồi đặt xuống bàn. Bà nhấm ướt đầu ngón tay lật giở từng trang rồi dừng lại quay ngược cuốn sổ lại để cho Andrew xem.

    - Đây là Ortiz mà cậu muốn tìm, bà nói, vào năm 1977. Khi đó hắn tầm bốn mươi, đã quá già nên chỉ được lái những chiếc máy bay của đội tuần tra bờ biển. Một sĩ quan có sự nghiệp chẳng mấy lẫy lừng. Theo báo cáo điều tra mà tôi đã tìm thấy trong hồ sơ lưu trữ của Ủy ban quốc gia về người mất tích, có lẽ hắn đã nhận lệnh thực hiện rất nhiều chuyến bay tử thần. Từ chiếc máy bay hắn lái, rất nhiều nam giới và phụ nữ trẻ tuổi, đôi khi là những cô bé cậu bé vừa bước vào tuổi trưởng thành, đã bị ném sống xuống những nhánh sông Rio de La Plata.

    Andrew không thể kìm cái bĩu môi kinh tởm khi nhìn bức ảnh chụp tay sĩ quan toát ra vẻ đầy ngạo nghễ.

    - Hắn không trực thuộc Massera, kẻ đầu trùm ESMA. Có thể chính điều này đã giúp hắn lọt lưới trong ít năm khi mà hắn có nguy cơ bị túm. Ortiz tuân theo lệnh của Héctor Febres, đội trưởng đội tuần tra bờ biển. Nhưng Febres cũng là chỉ huy bộ phận tình báo ESMA, hắn phụ trách khu 4 gồm nhiều phòng tra tấn và nhà hộ sinh. Nhà hộ sinh là một từ to tát để miêu tả phần diện tích vài mét vuông nơi các nữ tù nhân đến sinh con không khác nào loài vật. Còn tồi tệ hơn cả loài vật: chúng trùm lên đầu họ một cái bao tải đay. Febres buộc những phụ nữ vừa sinh con này thảo một bức thư đề nghị gia đình họ gánh lấy trách nhiệm chăm lo cho đứa trẻ trong lúc họ bị giam cầm. Cậu biết điều gì xảy ra tiếp theo rồi đấy. Cậu Stilman, giờ thì hãy nghe cho rõ này, bởi nếu cậu thật sự muốn tôi giúp, chúng ta phải có một thỏa thuận, giữa tôi và cậu.

    Andrew rót đầy nước chanh vào cốc của Louisa. Bà uống liền một hơi rồi đặt cốc xuống bàn.

    - Nhiều khả năng là nhờ tận tâm phục vụ, Ortiz đã được Febres ưu ái. Cậu nghe kỹ đoạn này nhé, chúng đã trao lại cho hắn một trong những đứa trẻ đó.

    - Nhiều khả năng hay là bà biết chắc chắn như thế?

    - Không quan trọng, bởi đó chính là chủ đề thỏa thuận giữa chúng ta. Tiết lộ sự thật cho một trong những đứa trẻ bị đánh cắp đó đòi hỏi phải vô cùng thận trọng, điều mà chúng tôi, các Bà mẹ trên quảng trường tháng Năm, hết sức quan tâm. Đến tuổi trưởng thành mới biết được cha mẹ mình không phải là cha mẹ đẻ và thêm vào đó, họ lại dính líu ít nhiều đến việc đấng sinh thành ra mình mất tích không phải là không gây ra hậu quả. Đó là một quá trình khó khăn có thể gây tổn thương tâm lý. Chúng tôi đấu tranh để sự thật được sáng tỏ, để trả lại nhân thân thật sự cho các nạn nhân của chế độ độc tài, nhưng không phải để phá hỏng cuộc đời của những người vô tội. Tôi sẽ nói với cậu tất cả những gì tôi biết và tất cả những gì tôi có thể biết về Ortiz, và cậu, tất cả những gì mà cậu có thể biết về những đứa trẻ đó là nhờ tôi, chỉ duy nhất mình tôi nói điều đó cho cậu biết. Cậu phải thề danh dự là sẽ không đăng bất cứ thứ gì về chuyện này mà không được tôi cho phép.

    - Tôi không hiểu ý bà, Louisa, làm gì có chuyện sự thật nửa vời.

    - Quả nhiên là không, nhưng có những sự thật phải chờ đến thời cơ thích hợp thì mới được tiết lộ. Hãy hình dung cậu là đứa trẻ được gã Ortiz này “nhận nuôi”, liệu cậu có muốn được thông báo một cách đường đột rằng bố mẹ đẻ của mình đã bị sát hại, rằng cuộc đời cậu chỉ toàn dối trá, và cả nhân thân của cậu cũng là dối trá, đến cả cái họ cũng vậy? Cậu có muốn mình khám phá ra tất cả điều đó thông qua một tờ báo hay không? Cậu có nghĩ đến những hậu quả mà một bài báo có thể gây ra cho cuộc sống của những người có liên quan hay không?

    Andrew có cảm giác khó chịu khi thấy hình bóng Capetta lảng vảng đâu đó trong căn phòng.

    - Cậu chỉ trích chúng tôi vào thời điểm này cũng vô ích thôi, bởi chẳng có gì chứng minh được là Ortiz đã nhận nuôi một trong số những đứa bé bị đánh cắp đó. Nhưng nhỡ đâu đấy, tôi muốn cảnh báo cậu trước để chúng ta, cậu với tôi, cùng thống nhất với nhau rõ ràng từ trước.

    - Tôi hứa với bà là sẽ không đăng bất cứ thứ gì khi chưa xin phép bà, ngay cả khi tôi ngờ là bà không kể hết tất cả cho tôi nghe...

    - Chúng ta sẽ xem xét phần sau vào thời điểm thích hợp. Trong khi chờ đợi, cậu hãy bảo trọng. Febres là một trong những kẻ tàn ác nhất. Hắn đã chọn “Rừng rậm” làm tên cuộc chiến, bởi hắn từng luôn huênh hoang rằng hắn mạnh mẽ hơn tất thảy lũ thú săn kia hợp lại. Lời chứng của một số nạn nhân hiếm hoi sống sót qua tay hắn thật kinh khủng.

    - Febres vẫn còn sống à?

    - Than ôi không.

    - Sao bà lại than ôi?

    - Sau khi được hưởng ân xá, hắn đã sống phần lớn quãng đời còn lại trong tự do. Rốt cuộc, chỉ đến năm 2007, hắn mới bị đưa ra xét xử, và còn nữa, chỉ vì bốn trong số bốn trăm tội ác mà hắn đã thực hiện. Tất cả chúng tôi đều chờ đợi bản án dành cho hắn. Bản án dành cho kẻ đã xích một đứa trẻ mười lăm tháng vào ngực cha nó rồi kích điện để buộc kẻ bị kết án tử hình khai nhận. Vài ngày trước khi tuyên án, trong khi đang được hưởng chế độ ưu đãi ở tù, nơi hắn được sống trong những điều kiện đáng mơ ước, người ta đã tìm thấy hắn chết trong buồng giam. Bị đầu độc bằng cyanua. Phe quân sự quá lo sợ hắn sẽ khai ra, và công lý đã không được thực thi. Với gia đình các nạn nhân, điều đó như thể cuộc tra tấn chưa bao giờ ngừng.

    Louisa khạc nhổ xuống đất sau khi nói đến đó.

    - Chỉ có điều là Febres đã mang xuống mồ tất cả những gì hắn biết về danh tính của năm trăm trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ bị tước đoạt. Cái chết của hắn khiến nhiệm vụ của chúng tôi trở nên khó khăn, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục công việc điều tra của mình không ngơi nghỉ với đầy hy vọng. Tất cả những điều đó để nói với cậu rằng hãy cẩn trọng. Phần lớn người của Febres vẫn còn sống và đang được tự do, và chúng sẵn lòng tìm mọi cách làm nhụt chí những ai quan tâm đến chúng. Ortiz là một kẻ trong số chúng.

    - Làm thế nào để chứng minh được rằng Ortiz nấp sau cái tên Ortega?

    - Sự tương đồng về mặt hình ảnh lúc nào cũng rất hữu ích, chúng tôi đã xem kỹ những gì còn lại trong phim chụp của Marisa, nhưng còn khoảng cách hơn ba mươi năm ngăn cách giữa tên thiếu tá không quân tự phụ hiện diện trong album ảnh của tôi và gã thương nhân bảy mươi tư tuổi ngày hôm nay. Và rồi, chỉ giống nhau thôi thì chưa đủ để kiện ra tòa. Cách tốt nhất để đạt được mục đích của chúng tôi, dù rằng điều này với tôi dường như là bất khả, chính là khiến hắn hoảng loạn rồi tự thú. Bằng cách nào? Cái này thì tôi không biết.

    - Nếu tôi điều tra quá khứ của Ortega, chúng ta sẽ thấy rõ liệu hành trình của hắn có khớp hay không.

    - Cậu thật ngây thơ đến ngờ ngệch! Cứ cho là Ortiz đã thay đổi nhân thân đi, thì chuyện này không thể thực hiện được nếu không có người tiếp tay. Cuộc đời hắn dưới cái tên Ortega sẽ được sắp xếp đâu vào đấy, từ những trường lớp hắn đã học, rồi đến bằng cấp, việc làm, bao gồm cả những chức vụ giả tạo trong quân ngũ. Marisa, dì nhờ cháu một việc, vào bếp giúp dì nhé, vừa đứng dậy Louisa vừa ra lệnh.

    Còn lại một mình trong phòng khách, Andrew lật giở từng trang trong album ảnh. Mỗi trang dán một bức ảnh chụp một quân nhân, cấp bậc, đơn vị hắn tham gia, danh sách các tội ác mà hắn từng thực hiện, và với một vài kẻ trong số chúng là kèm thêm danh tính của đứa trẻ hắn được giao. Ở cuối album, một tập vở thống kê năm trăm đứa trẻ có bố mẹ đẻ đã bị mất tích vĩnh viễn. Chỉ năm mươi đứa trong số chúng có kèm dòng chữ “đã xác định”.

    Một lát sau, Louisa và Marisa trở lại, Marisa giúp Andrew hiểu rằng dì cô đang mệt và đã đến lúc rút lui.

    Andrew cảm ơn Louisa vì đã đón tiếp và hứa sẽ thông tin cho bà những gì anh phát hiện ra.

    Quay trở lại xe ô tô, Marisa trở nên câm lặng và cách hành xử của cô để lộ trạng thái căng thẳng. Tới một ngã tư, khi một chiếc xe tải không chịu nhường đường, cô đã bấm còi inh ỏi rồi tuôn cả tràng chửi rủa mà Andrew, vốn nói rất trôi chảy tiếng Tây Ban Nha, cũng không hoàn toàn hiểu hết nghĩa.

    - Tôi đã nói gì khiến cô bực mình à?

    - Không cần thiết phải dùng ngôn từ hoa mỹ đến vậy đâu anh Stilman, tôi làm việc ở quán bar và tôi thích người ta nói thẳng với mình hơn.

    - Dì cô đã nói gì với cô mà không muốn cho tôi nghe sao?

    - Tôi không hiểu anh đang nói gì, Marisa đáp.

    - Bà ấy bảo cô theo bà ấy vào bếp không phải để cô giúp bà ấy dọn dẹp mấy ly nước chanh, cô đã để mấy cái ly lại trên bàn rồi cô đi tay không trở lại.

    - Dì bảo tôi nên dè chừng anh, rằng anh biết nhiều hơn những gì anh vẫn khẳng định và bởi vì anh còn giấu bà nhiều thứ nên chúng tôi chưa thể tin anh hoàn toàn được. Không phải anh tình cờ gặp tôi ở quầy bar khách sạn đúng không? Tôi khuyên anh đừng nói dối tôi, trừ phi anh muốn quay về bằng taxi và đặt dấu chấm hết cho sự giúp đỡ của tôi.

    - Cô nói đúng, tôi biết dì cô là một Bà mẹ trên quảng trường tháng Năm và nhờ cô tôi có thể tiếp cận bà ấy.

    - Hóa ra tôi trở thành mồi nhử của anh à. Dễ chịu thật. Sao anh lại tìm ra tôi?

    - Tên cô nằm trong tập tài liệu người ta gửi cho tôi, thậm chí có cả nơi làm việc nữa.

    - Sao tên tôi lại có trong tập tài liệu đó?

    - Tôi cũng chẳng biết gì hơn cô. Cách đây vài tháng, tổng biên tập của tôi nhận được một phong bì chứa các thông tin về Ortiz và về một cặp vợ chồng bị mất tích. Một lá thư buộc tội chính Ortiz đã nhúng tay vào việc họ bị sát hại. Tên của cô cũng có trong đó, cùng thông tin về mối quan hệ họ hàng giữa cô với Louisa, và một dòng chú thích khẳng định cô là người đáng tin cậy. Olivia Stern, tổng biên tập của tôi, rất thích đề tài này, cô ấy đã bảo tôi lần theo Ortiz và thông qua câu chuyện của hắn, phác họa lại những năm tháng đen tối của chế độ độc tài Argentina. Năm tới sẽ kỷ niệm bốn mươi năm thời kỳ đáng buồn đó, báo nào cũng sẽ đề cập đến chuyện này. Olivia muốn đi trước các đối thủ một bước. Tôi nghĩ đây chính là động cơ thúc đẩy sếp tôi.

    - Thế ai đã gửi phong bì đó cho tổng biên tập của anh?

    - Cô ấy nói với tôi là thư khuyết danh, nhưng những thông tin trong đó đủ quan trọng để chúng tôi coi chúng là nghiêm túc. Và cho đến giờ phút này, tất cả đều xác nhận điều đó. Olivia cũng có nhiều khiếm khuyết và tính nết khó gần, nhưng đó là một người rất lành nghề.

    - Hai người có vẻ thân mật nhỉ.

    - Không hẳn thế đâu.

    - Tôi chưa bao giờ gọi tên riêng của sếp cả.

    - Tôi thì có đấy, nhờ ưu thế tuổi tác thôi.

    - Cô ấy trẻ hơn anh à?

    - Trẻ hơn vài tuổi.

    - Một phụ nữ, trẻ hơn anh và là sếp của anh, cái tôi của anh hẳn đã bị tổn thương cả về mặt thể chất lẫn tinh thần rồi nhỉ, Marisa vừa cười vừa nói.

    - Cô có thể chở tôi đến chỗ lưu trữ hồ sơ mà dì cô đã nhắc đến không?

    - Nếu tôi phải đóng vai tài xế riêng phục vụ cho anh trong những ngày lưu lại đây thì anh cũng nên nghĩ đến chuyện đền bù cho tôi chứ anh Stilman.

    - Cô đã nói gì về cái tôi của tôi ấy nhỉ?

    Marisa buộc phải dừng xe tại một trạm xăng. Ống xả chiếc Coccinelle của cô phát ra một chùm tia lửa điện; động cơ kêu ầm ĩ và tiếng ồn trở nên inh tai nhức óc.

    Trong lúc một thợ máy gắng chữa tạm - Marisa không đủ tiền để thay ống xả mới - Arew đi ra xa rồi gọi điện về văn phòng.

    Olivia đang họp, nhưng trợ lý của cô nài anh kiên nhẫn một chút.

    - Có tin gì mới thế? Olivia hỏi, giọng mệt đứt hơi.

    - Còn tệ hơn cả lần trước.

    - Nghĩa là sao?

    - Không có gì, Arew đáp, anh giận điên lên vì sai lầm mình vừa mắc phải.

    - Tôi vừa rời khỏi phòng họp vì anh...

    - Tôi cần thêm một khoản.

    - Tôi đang nghe anh đây, vừa nói Olivia vừa gõ gõ bút xuống bàn.

    - Hai nghìn đô.

    - Anh đùa chắc?

    - Cần phải tra dầu mỡ vào bản lề nếu như chúng ta muốn cửa mở ra.

    - Tôi đồng ý cấp cho anh một nửa chỗ đó và không thêm xu nào cho tới khi anh quay lại.

    - Tôi đành nhận khoản này vậy, Arew liền đáp, anh vốn chẳng mong là nhiều đến vậy.

    - Anh không còn gì khác để nói với tôi à?

    - Mai tôi sẽ đi Córdoba, tôi có đủ lý do để tin rằng gã đàn ông của chúng ta đang náu mình ở đó.

    - Anh đã có bằng chứng chứng tỏ đúng là hắn chưa?

    - Tôi rất hy vọng là mình đang đi đúng hướng.

    - Gọi lại cho tôi ngay khi anh có tin gì mới, kể cả gọi về nhà tôi, anh có số của tôi chưa?

    - Có, tôi đã ghi đâu đó trong sổ tay rồi.

    Olivia gác máy.

    Lúc này Arew muốn nghe giọng nói của Valérie hơn bao giờ hết, nhưng anh không muốn làm phiền cô ở văn phòng. Anh sẽ gọi cho cô vào buổi tối.

    Ô tô đã sẵn sàng chạy lại, người thợ máy bảo đảm rằng xe sửa xong sẽ chạy được hàng nghìn ki lô mét. Anh ta đã trám lại lỗ thủng gần bộ tiêu âm với hệ thống xích mới. Trong khi Marisa lục túi tìm tiền để trả thì Arew liền đưa cho anh ta 50 đô la. Tay thợ máy cảm ơn anh tới tận hai lần và thậm chí còn mở cửa xe cho anh lên.

    - Anh không cần phải làm thế đâu, vừa ngồi vào sau vô lăng Marisa vừa nói.

    - Cứ coi như phần đóng góp của tôi cho chuyến đi.

    - Phân nửa chỗ tiền đó cũng đủ trả công sửa rồi mà, anh phóng tay quá.

    - Cô thấy tôi cần cô giúp đến thế nào rồi đấy, Arew đáp, nụ cười nở trên môi.

    - Anh đang nói về chuyến đi nào đó?

    - Đến Córdoba.

    - Anh còn cứng đầu cứng cổ hơn cả tôi. Trước khi đánh liều cùng anh vào chuyện điên rồ đó, tôi có một địa chỉ cho anh đây. Gần hơn Córdoba nhiều.

    - Chúng ta đang đi đâu thế?

    - Tôi cần về nhà thay quần áo, tối nay tôi phải làm việc. Còn anh, anh sẽ bắt taxi, vừa đáp Marisa vừa chìa cho Arew một mảnh giấy. Đó là quán bar nơi các cựu thành viên phong trào du kích Montonero thường xuyên lui tới. Khi tới đó, hãy tỏ ra khiêm nhường nhé.

    - Cô muốn tôi đến đó làm gì?

    - Ở cuối phòng, anh sẽ thấy ba người đàn ông đang ngồi chơi bài với nhau. Người thứ tư đã không bao giờ quay lại kể từ ngày đến ESMA. Và mỗi tối, họ lại chơi lại cùng một ván đó, như một nghi thức tinh thần. Hãy lịch sự hỏi họ liệu anh có thể ngồi vào chỗ ghế trống kia không, rồi đề nghị mời họ uống, chỉ một chầu duy nhất thôi, sau đó xoay xở làm sao để anh thua chút đỉnh, vì lịch sự ấy mà. Nếu anh may mắn quá thì họ sẽ đuổi anh đi đó, còn nếu anh chơi quá tệ thì họ cũng sẽ làm như vậy.

    - Thế họ chơi cái gì?

    - Poker, nhưng có rất nhiều điểm khác biệt mà họ sẽ giải thích cho anh rõ. Khi đã giành được thiện cảm của họ, anh hãy nói chuyện với người đàn ông bị hói và để râu. Ông ấy tên là Alberto, đó là một trong những người hiếm hoi trốn thoát khỏi trại giam. Ông ấy từng rơi vào tay Febres. Như bao người sống sót khác, ông ấy luôn bị day dứt vì mặc cảm tội lỗi và nói về chuyện từng xảy đến với mình là chuyện rất nặng nề với ông ấy.

    - Mặc cảm tội lỗi nào?

    - Vì vẫn còn sống trong khi phần lớn bạn bè mình đều chết.

    - Sao cô biết ông ấy?

    - Đó là chú tôi.

    - Chồng của bà Louisa à?

    - Chồng cũ của dì, họ không nói chuyện với nhau từ lâu lắm rồi.

    - Sao vậy?

    - Chuyện này chẳng can dự gì tới anh cả.

    - Tôi càng biết nhiều thì nguy cơ mắc phải điều ngớ ngẩn càng ít đi, Arew viện cớ.

    - Dì tôi đã dành cả đời để lần theo dấu vết những kẻ tội phạm trước kia, còn chú ấy lại lựa chọn quên đi tất thảy. Tôi thì tôn trọng lựa chọn của họ.

    - Thế sao ông ấy sẽ kể cho tôi nghe?

    - Bởi có cùng một dòng máu chảy trong huyết quản chúng tôi và hai chúng tôi thì hay khắc khẩu nhau.

    - Thế bố mẹ cô đâu, Marisa?

    - Đây không phải là câu hỏi hay ho cho lắm, anh Stilman à. Điều tôi luôn tự hỏi mỗi ngày chính là ai là bố mẹ đẻ của mình, những người đã nuôi tôi khôn lớn hay những người mà tôi chưa bao giờ biết mặt?

    Marisa đỗ xe dọc vỉa hè. Cô với người sang mở cửa xe cho Arew.

    - Anh sẽ tìm thấy taxi ở bãi đỗ ngay phía trước. Nếu anh không về quá muộn thì có thể gặp tôi ở quầy bar. Tôi sẽ hết ca vào tầm một giờ sáng.

    °

    Quán bar giống hệt như những gì Marisa miêu tả. Qua bao năm tháng mà phần trang trí của quán không hề thay đổi. Các lớp sơn chồng chất lên nhau rốt cuộc lại điểm tô cho mấy bức tường một bức tranh tập hợp những đường nét hoa mỹ kỳ cục nhất. Đồ đạc trong quán vỏn vẹn có vài chiếc ghế cùng mấy cái bàn gỗ. Một bức ảnh của Rodolfo Walsh, phóng viên và lãnh đạo huyền thoại của phong trào du kích Montonero, bị phe đảo chính sát hại, được treo ở cuối phòng. Alberto ngồi ở ngay phía dưới bức ảnh. Cái đầu hói cùng khuôn mặt bị chòm râu dày bạc trắng che khuất. Khi Arew tiến lại gần bàn nơi ông đang ngồi chơi cùng mấy người bạn, Alberto ngẩng đầu lên quan sát anh trong giây lát rồi lại tiếp tục ván bài mà không nói bất cứ lời nào.

    Arew làm đúng theo những gì Marisa đã chỉ dẫn từng li từng tí một. Và một lát sau, người chơi phía bên tay phải Alberto đồng ý cho anh nhập hội. Jorge, người ngồi bên tay trái, chia bài rồi đặt 2 peso, tương đương 50 cent.

    Arew cũng đặt cược theo rồi hỏi cách chơi. Jorge lật ra ba lá bài đồng số, Arew lẽ ra có thể thắng nhưng nhớ lời khuyên của Marisa, anh liền úp bài xuống. Alberto mỉm cười.

    Chia ván mới. Lần này Arew có trong tay dây đồng chất năm con lớn nhất. Anh lại úp xuống và để Alberto nhét túi khoản tiền 4 peso. Ba vòng tiếp theo đều diễn ra hệt như vậy, và rồi đột nhiên, Alberto ném bài của mình xuống trước khi kết thúc ván bài đồng thời nhìn thẳng vào mắt Arew.

    - Được rồi đấy, ông nói, tôi biết cậu là ai, sao cậu lại ở đây, và cậu chờ đợi điều gì ở tôi. Cậu có thể ngừng việc để mất tiền như thằng đần đi.

    Cả hai ông lão đều phá lên cười thân thiện và Alberto trả lại tiền cho Arew.

    - Cậu không nhận thấy là họ ăn gian à? Cậu tưởng là mình may mắn đến thế ư?

    - Tôi cũng bắt đầu thấy ngạc nhiên rồi, Andrew đáp.

    - Anh chàng bắt đầu rồi đấy! Alberto vừa nhìn hai người bạn vừa thốt lên. Cậu vừa mời chúng tôi một chầu giao hữu, thế là đủ để chúng ta nói chuyện với nhau rồi, ngay cả khi chúng ta còn chưa là bạn. Thế nào, cậu nghĩ là mình đã chạm được tay tới thiếu tá Ortiz rồi sao?

    - Dù sao thì tôi cũng hy vọng là thế, vừa đáp Arew vừa đặt ly Fernet-Coca xuống bàn.

    - Tôi không thích ý tưởng cậu lôi cháu gái tôi vào câu chuyện này. Những tìm kiếm mà cậu đang thực hiện quả rất nguy hiểm. Nhưng nó là đứa đầu bò đầu bướu và tôi chẳng thể làm nó đổi ý được.

    - Tôi sẽ không để cô ấy gặp bất cứ nguy hiểm gì, tôi hứa với ông đấy.

    - Đừng có hứa nếu cậu không thể giữ lời, cậu không có bất cứ ý niệm gì về những gì mấy gã đàn ông đó có thể làm đâu. Nếu ông ấy còn ở đây, ông ấy có thể nói cho cậu biết điều đó, vừa nói Alberto vừa chỉ bức chân dung treo phía trên đầu mình. Ông ấy từng là phóng viên như cậu, nhưng trong khi làm nghề ông ấy đã phải mạo hiểm cả tính mạng. Chúng đánh đập ông ấy như đánh chó. Nhưng ông ấy đã kháng cự cho đến khi ngã xuống dưới làn đạn của chúng.

    Arew quan sát bức ảnh. Walsh có vẻ từng là một người có uy tín lớn, ánh mắt ông phía sau cặp kính nhìn về xa xăm. Arew thấy ông có vẻ giống bố đẻ của mình.

    - Ông có quen ông ấy không? Arew lên tiếng hỏi.

    - Hãy để người chết được yên và giờ thì nói cho tôi biết cậu muốn viết gì trong bài báo của cậu.

    - Tôi còn chưa thảo bài báo đó, và tôi không muốn hứa với ông điều tôi không thể giữ lời. Ortiz là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài báo của tôi, đó là một nhân vật mà số phận của hắn khiến tổng biên tập của tôi rất tò mò.

    Alberto nhún vai.

    - Lạ nhỉ, vì báo chí thường quan tâm đến đao phủ nhiều hơn anh hùng. Mùi cứt hẳn phải bán đắt hơn mùi hoa hồng. Hãy thận trọng như cậu vẫn thế từ trước tới giờ, hắn luôn đề cao cảnh giác. Cậu sẽ không bao giờ tiếp cận được hắn ở nhà riêng đâu, và hắn luôn di chuyển kèm người hộ tống.

    - Thật chẳng mấy khích lệ nhỉ.

    - Chúng ta có thể thu xếp để cũng được vũ trang tương tự.

    - Thu xếp bằng cách nào?

    - Tôi có những người bạn vẫn còn rất dũng cảm luôn háo hức mong được chiến đấu chống lại Ortiz và đồng bọn.

    - Rất tiếc, tôi không đến đây để tổ chức một vụ thanh toán lẫn nhau. Tôi chỉ muốn phỏng vấn người đàn ông đó.

    - Tùy cậu thôi. Tôi chắc là hắn sẽ tiếp cậu trong phòng khách rồi mời cậu uống trà trong lúc nghe hắn kể lại quá khứ của mình. Và cứ cho là hắn chẳng hề muốn cháu gái tôi gặp bất cứ nguy hiểm gì, Alberto vừa nhìn các bạn chơi vừa cười ồ lên.

    Alberto cúi người trên bàn, ghé sát mặt vào mặt Arew.

    - Hãy nghe tôi nói cho rõ này, chàng trai trẻ, nếu cậu không muốn chuyến thăm viếng này làm mất thì giờ của tất cả chúng ta. Để Ortiz thổ lộ tâm tình với cậu thì phải thật thuyết phục. Tôi không nói với cậu về chuyện sử dụng bạo lực cực đoan, việc đó không cần thiết. Tất thảy những kẻ từng hành động như hắn xét cho cùng đều là lũ hèn nhát. Khi chúng không còn đi thành bầy với nhau, chúng sẽ sun vòi ngay tức thì. Chỉ cần hăm dọa hắn ở mức vừa phải, hắn sẽ khóc lóc kể chuyện ngay. Nếu cho hắn thấy cậu sợ, hắn sẽ giết cậu không chút ăn năn hối hận và sẽ ném xác cậu làm mồi cho lũ chó hoang.

    - Tôi sẽ ghi nhớ lời khuyên của ông, Arew đáp rồi sửa soạn rời khỏi bàn.

    - Cứ ngồi nguyên, tôi còn chưa nói hết.

    Arew thấy buồn cười với cái giọng chuyên quyền của ông chú Marisa, nhưng anh không thích gây thù chuốc oán nên vâng lệnh.

    - May mắn đang đến với cậu đó, Alberto tiếp lời.

    - Không đâu, nếu như vẫn còn đánh bài bịp.

    - Tôi không nói về vụ bài bạc nữa. Thứ Ba tới, sẽ có một cuộc tổng đình công và các máy bay sẽ không được cất cánh. Ortiz sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài cách đi đường bộ đến gặp khách hàng của mình.

    Nghe Alberto nói, Arew suy ra rằng Marisa đã báo cho ông nhất cử nhất động của anh.

    - Ngay cả khi hắn ta có người hộ tống thì trên đường bộ cậu cũng sẽ có nhiều cơ may để bám đuổi hắn hơn... với điều kiện là cậu chấp thuận cho chúng tôi giúp một tay.

    - Tôi rất muốn vậy, nhưng tôi không bảo lãnh cho bất cứ hành động bạo lực nào đâu.

    - Ai bảo cậu là bạo lực? Cậu quả là một nhà báo kỳ cục, cứ như thể cậu suy nghĩ bằng tay ấy, còn tôi, tôi suy nghĩ bằng đầu óc.

    Lòng đầy nghi vấn, Arew nhìn Alberto.

    - Tôi rất quen thuộc với đường số 8, tôi đi con đường đó nhiều đến nỗi nếu cậu đưa tôi đến Córdoba, tôi có thể nhắm mắt miêu tả xung quanh cho cậu. Con đường đó chạy qua nhiều vùng không một bóng người trải dài hàng ki lô mét, nó cũng được duy tu bảo dưỡng rất kém... và người ta đã thống kê có vô số tai nạn xảy ra ở đó. Marisa cũng từng suýt bỏ mạng tại đó và tôi không muốn chuyện này tái diễn. Hãy hiểu cho tôi cậu nhà báo à, bạn bè của gã đàn ông này đã tấn công cháu gái tôi, và từ giờ trở đi thời kỳ thoát tội của chúng đã chấm dứt. Cách Gahan vài ki lô mét, con đường tách ra để tránh một bức tượng thánh giá. Phía bên tay phải có nhiều tháp dự trữ nông sản, nơi cậu có thể nấp sau đó đợi hắn. Các đồng đội của tôi có thể xoay xở sao cho ô tô của Ortiz nổ lốp đúng vị trí này. Với tất cả những chuyện tồi tệ thường xảy đến với đám xe tải, chúng sẽ không nghi ngờ gì đâu.

    - Được rồi, sau đó thì sao?

    - Bao giờ cũng chỉ có duy nhất một bánh sơ cua trên xe và khi ta ở một nơi mà điện thoại di động cũng chẳng có sóng ngay giữa đêm hôm khuya khoắt thì có thể làm gì khác ngoài việc đi bộ tới ngôi làng gần nhất để tìm người giúp đây? Ortiz sẽ cử người của hắn đi vào làng còn hắn sẽ đợi trong ô tô.

    - Sao ông có thể chắc chắn như vậy?

    - Một tay cựu sĩ quan loại như hắn không bao giờ từ bỏ thói cao ngạo của mình đâu, càng không từ bỏ được tính tự phụ: lội bùn đi bộ bên cạnh đám người của mình tức là hắn tự đặt mình ngang bằng với chúng. Tôi có thể nhầm, nhưng tôi biết rõ típ người như hắn.

    - Được rồi, Ortiz còn một mình trong xe, thế chúng ta có bao nhiêu thời gian trước khi người của hắn quay trở lại?

    - Cứ tính là mười lăm phút đi, mười lăm phút về cùng với thời gian đánh thức một tay thợ sửa xe giữa đêm hôm. Cậu tha hồ mà buộc hắn.

    - Ông chắc chắn hắn sẽ đi trong đêm chứ?

    - Dumesnil cách Buenos Aires bảy tiếng đi xe, cộng thêm tầm ba tiếng nếu mật độ giao thông dày đặc. Tin tôi đi, hắn sẽ khởi hành sau khi ăn tối xong, một kẻ lái ô tô, một tên khác đảm bảo an toàn cho hắn và một kẻ cậu cho là Ortiz ngủ say sưa ở băng ghế sau. Hắn muốn đi qua hết vùng ngoại ô trước khi thủ đô thức giấc và lên đường trở về ngay sau khi cuộc gặp gỡ kết thúc.

    - Đó là một kế hoạch rất chặt chẽ, trừ một chi tiết: nếu tất cả các lốp xe nổ tung cùng một lúc, khả năng cao là chiếc xe sẽ đâm bổ chửng vào tường cùng với hắn bên trong.

    - Trừ một điều là không có bức tường nào ở khu vực này cả! Chỉ có cánh đồng cùng các tháp dự trữ nông sản mà tôi đã nói với cậu rồi đấy, nhưng chúng nằm cách đường cái rất xa.

    Hai tay ôm lấy trán, Arew suy nghĩ về đề nghị của Alberto, anh ngẩng đầu ngắm bức ảnh chụp Walsh như thể tìm cách thăm dò suy nghĩ của người đồng nghiệp quá cố, sừng sững trong quá khứ đằng sau cặp kính cận.

    - Mẹ kiếp, cậu Stilman, nếu muốn biết sự thật thì cậu phải có đủ dũng cảm để đi tìm nó chứ! Alberto cam đoan.

    - Được rồi, tôi sẽ đi, nhưng sẽ chỉ có Marisa và tôi tra hỏi Ortiz thôi. Tôi muốn ông hứa là không người nào ở nhóm các ông tranh thủ cơ hội đó để tính sổ với hắn.

    - Chúng tôi đã sống sót qua những điều tàn bạo đó để không bao giờ làm giống chúng, đừng có xúc phạm ai đó đang giúp cậu.

    Arew đứng dậy rồi chìa tay cho Alberto. Người đàn ông do dự giây lát rồi cũng chìa tay ra.

    - Cậu thấy Marisa thế nào? Alberto vừa thu dọn quân bài vừa hỏi.

    - Tôi không chắc mình có hiểu rõ nghĩa câu hỏi của ông hay không.

    - Tôi thì chắc về điều ngược lại đấy.

    - Cô ấy giống ông y lột mà ông thì hoàn toàn không phải là típ phụ nữ tôi thích.

    °

    Quay trở về khách sạn, Arew dừng chân ở quầy bar. Căn phòng chật ních khách. Marisa vừa chạy đi chạy lại từ đầu này sang đầu kia quầy bar vừa tung hứng với mấy ly cocktail. Cổ áo sơ mi trắng khoét rộng để hở bộ ngực căng tròn mỗi khi cô cúi xuống và đám khách hàng ngồi ở ghế đẩu ngay quầy không bỏ sót một chi tiết nào. Arew quan sát cô một lúc lâu. Anh nhìn đồng hồ, giờ đã là một giờ sáng, anh mỉm cười rồi lui về phòng nghỉ.

    °

    Trong phòng ám mùi thuốc lá cùng mùi nước khử mùi rẻ tiền. Arew nằm dài trên tấm ga phủ giường. Đã quá muộn để gọi cho Valérie, nhưng anh nhớ cô kinh khủng.

    - Anh có đánh thức em không?

    - Anh biết là không cần thiết phải thì thào như vậy mà, em đang ngủ nhưng em rất vui vì anh đã gọi điện, em bắt đầu thấy lo lo rồi.

    - Quả là một ngày dài, Arew đáp.

    - Tất cả như anh mong muốn chứ?

    - Điều anh muốn là được nằm bên em.

    - Nhưng nếu như thế, anh sẽ lại mơ được đến Argentina mà thôi.

    - Đừng nói thế chứ.

    - Em nhớ anh.

    - Anh cũng rất nhớ em.

    - Anh làm việc tốt chứ?

    - Anh không biết, ngày mai có thể...

    - Ngày mai có thể gì cơ?

    - Em có thể đến đây với anh vào cuối tuần này được không?

    - Em muốn thế lắm chứ, nhưng em không nghĩ là tuyến tàu điện ngầm em đi có qua Buenos Aires, và cuối tuần này em còn phải trực nữa.

    - Em không muốn đến “trực” anh à?

    - Con gái Argentina đẹp đến thế cơ à?

    - Anh không rõ, anh đâu có nhìn ngó gì họ.

    - Nói phét.

    - Anh cũng nhớ cả tiếng cười của em.

    - Ai nói với anh là em đang cười?... Em đang cười đây. Về nhanh anh nhé.

    - Anh để em ngủ tiếp nhé, tha lỗi cho anh vì đã đánh thức em dậy, anh cần được nghe giọng của em.

    - Mọi chuyện ổn chứ Arew?

    - Anh nghĩ là thế.

    - Anh có thể gọi cho em bất cứ khi nào anh không ngủ được, anh biết mà, phải không?

    - Anh biết. Anh yêu em.

    - Em cũng yêu anh.

    Valérie gác máy. Arew ra đứng trước cửa sổ phòng nghỉ. Anh trông thấy Marisa đang rời khỏi khách sạn. Vì một lý do nào đó mà anh không cắt nghĩa nổi, anh hy vọng cô sẽ quay lại nhìn, nhưng Marisa bước lên chiếc Coccinelle rồi nổ máy.

    °

    Arew thức giấc bởi tiếng chuông điện thoại reo. Anh không có chút khái niệm về nơi mình đang ở và đang là mấy giờ.

    - Đừng nói với mình là cậu vẫn còn ngủ vào lúc mười một giờ sáng nhé! Simon lên tiếng.

    - Không. Arew vừa dụi mắt vừa nói dối.

    - Cậu đã tiệc tùng thâu đêm à? Nếu cậu trả lời là có thì tớ sẽ đáp ngay chuyến bay đầu tiên đến đấy.

    - Tớ đã gặp một cơn ác mộng tệ hại và tớ không tài nào chợp nổi mắt cho đến gần sáng.

    - Ừm, tớ sẽ cố tin là thế. Trong khi cậu nghỉ ngơi giải trí thì tớ đang ở Chicago đấy.

    - Khỉ thật, tớ quên béng mất.

    - Còn tớ thì không. Cậu có muốn nghe điều tớ sắp kể cho cậu không?

    Arew bị một cơn ho dữ dội khiến anh không thể thở nổi. Nhìn vào gan bàn tay, anh lo lắng khi trông thấy vết máu. Anh xin lỗi Simon, hứa sẽ gọi lại cho bạn rồi chạy vào phòng tắm.

    Chiếc gương treo phản chiếu một hình ảnh kinh hoàng. Da anh nhợt nhạt như xác chết. Khuôn mặt hốc hác, cặp mắt sâu hoắm trong hốc mắt làm gò má nhô cao. Trông như anh đã già đi ba chục tuổi chỉ trong có một đêm. Một cơn ho thắt ruột mới làm bắn cả máu lên gương. Arew cảm thấy đầu óc quay cuồng, đôi chân nhũn như con chi chi. Anh bám chặt vào mép bồn rửa rồi khuỵu gối trước khi ngã sụp xuống đất.

    Má tiếp xúc với sàn gạch lát lạnh lẽo khiến anh hồi tỉnh đôi chút. Anh lật ngửa người lại rồi nhìn chăm chăm vào chiếc đèn trần chiếu thứ ánh sáng chập chờn.

    Tiếng bước chân ngoài hành lang khiến anh hy vọng là người dọn phòng đến. Không thể kêu cứu, anh cố với lấy sợi dây điện của máy sấy tóc đang treo cách mình vài xăng ti mét. Dùng hết sức bình sinh chìa tay ra, rốt cuộc anh cũng nắm được nó, nhưng sợi dây trượt khỏi ngón tay anh rồi uể oải đung đưa trước mắt anh.

    Có ai đó đang tra chìa vào ổ khóa cửa phòng anh. Arew sợ rằng người dọn phòng đoán là phòng đang có người thì sẽ không bước vào nữa. Anh gắng bấu vào mép bồn tắm, nhưng chợt bất động khi nghe thấy tiếng hai người đàn ông đang thì thào với nhau ở phía bên kia cánh cửa phòng tắm.

    Chúng lục lọi căn phòng, anh nghe thấy tiếng tủ tường kêu kẽo kẹt khi bị chúng mở ra. Anh lại giơ tay lần nữa để với lấy chiếc máy sấy đáng ghét như thể đó là một thứ vũ khí.

    Anh kéo sợi dây, chiếc máy sấy rơi xuống sàn nhà lát gạch. Hai giọng nói liền im bặt. Arew đã ngồi lại được và dựa lưng vào cửa rồi dồn hết sức xuống đôi chân để ngăn chúng mở cửa.

    Anh bị văng mạnh về phía trước, một cú đá cực mạnh khiến ổ khóa tung ra và đẩy cánh cửa vào phía bên trong phòng tắm.

    Một gã đàn ông túm lấy vai anh hòng ấn anh xuống đất, Arew chống cự lại, nỗi sợ đã đẩy lùi cơn chóng mặt của anh. Anh tung được một cú đấm vào mặt kẻ tấn công mình. Gã đàn ông, vốn không hề trông đợi điều này, đổ sụp xuống sàn bồn tắm. Arew đứng dậy để đẩy kẻ thứ hai đang nhảy bổ vào anh. Anh vớ lấy chai xà phòng nước nằm trong tầm với rồi ném về phía hắn. Gã đàn ông tránh cú ném, cái lọ vỡ tan trên sàn nhà. Hai cú đấm móc vào mặt khiến Arew bắn đập vào gương, cung lông mày của anh rách toác. Máu bắt đầu chảy ra, che mờ tầm nhìn của Arew. Cuộc chiến trở nên không cân sức, Arew không còn chút cơ may nào cả. Gã khỏe hơn trong hai kẻ tấn công ấn chặt anh xuống đất, tên còn lại rút dao từ trong túi ra rồi đâm thẳng lưỡi dao vào phần cuối sống lưng anh. Arew thét lên đau đớn. Trong nỗ lực cuối cùng, anh vớ lấy mảnh vỡ chai xà phòng rồi cứa vào tay kẻ đang cố siết cổ anh.

    Đến lượt gã đàn ông thét lên đau đớn. trong khi lùi lại, hắn trượt ngã trên lớp nước xà phòng lênh láng trên mặt sàn và khuỷu tay va phải nút bấm báo cháy.

    Tiếng còi inh tai bắt đầu vang lên; hai gã đàn ông vội chuồn ngay.

    Arew buông mình trượt dọc bờ tường. Ngồi bệt xuống sàn, anh đưa tay ra sau lưng, gan bàn tay anh đầy máu. Ánh sáng từ chiếc đèn trần cứ chập chờn vào lúc anh bất tỉnh nhân sự.


Trang 2 / 3 ĐầuĐầu 123 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Nhân Sinh Nếu Như Lần Đầu Gặp Gỡ
    By giavui in forum Phim Trung Quốc Online
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-14-2020, 06:40 PM
  2. Nếu Như Được Làm Lại
    By giavui in forum Truyện Dài
    Trả Lời: 26
    Bài Viết Cuối: 10-01-2019, 09:29 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-27-2016, 02:08 PM
  4. Hòn đá kỳ lạ lớn lên như nấm sau mưa
    By sophienguyen in forum WallPapers
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-23-2015, 01:27 AM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-29-2014, 12:26 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •