Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tình yêu chân thật không phân biệt giai cấp tuổi tác, địa vị danh vọng... Nó sang bằng tất cả. Nó là vị thần của tình cảm.
Lope De Vegas
Trang 5 / 5 ĐầuĐầu ... 345
Results 41 to 47 of 47

Chủ Đề: Sát Nhân Mạng

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Sát Nhân Mạng

    Sát Nhân Mạng

    Tác giả :Jeffery Deaver

    Người dịch: Nguyễn Việt Dũng


    Khi nói bộ não con người cũng là một cỗ máy, tôi không có ý xúc phạm tới trí tuệ con người, mà chỉ thừa nhận tiềm năng của một chiếc máy. Tôi không tin rằng bộ não con người lại kém cỏi hơn những gì chúng ta tưởng tượng về nó, mà là một chiếc máy có thể ấn chứa những điều vượt xa trí tưởng tượng của chúng ta.

    - w. Daniel Haiis - Hoa văn trên đá




    CHÚ GIẢI

    Bot (bắt nguồn từ Robot): Chương trình phần mềm tự vận hành, hỗ trợ người dùng (users) hoặc các chương trình khác. Đồng thời cũng được coi như một điệp viên.

    Bug: Một lỗi phần mềm chặn hoặc can thiệp vào hoạt động của chương trình.

    CCU: Đơn vị điều tra tội phạm máy tính máy tính của Sở cảnh sát bang California.

    Chip - jock: Một người hoạt động trong ngành công nghiệp máy tính, chuyên sâu vào phát triển hoặc buôn bán phần cứng.

    Civilians: Những người bình thường không làm việc trong ngành công nghiệp máy tính.

    Code: Phần mềm.

    Code cruncher: Một lập trình viên không có tính sáng tạo, thực hiện những việc lập trình đơn giản bình thường.

    Codeslinger: Một lập trình viên tài năng, thành tựu của anh ta được xem là có tính tiên phong vượt trội. Được ví như một samurai.

    Crack: Đột nhập bất hợp pháp vào một máy tính, thường là để ăn trộm, phá hủy dữ liệu hoặc ngăn cản những người khác sử dụng hệ thống.

    Demon (hoặc Daemon): Một chương trình hoạt động thầm lặng, thường là ẩn đi, không được kích hoạt theo lệnh của người dùng (user) mà vận hành tự động. Nó thường chạy khi xuất hiện những điều kiện nhất định bên trong chiếc máy hoặc mạng lưới mà nó được cài đặt.

    Firewall: Hệ thống bảo mật máy tính ngăn ngừa những dữ liệu không mong muốn xâm nhập vào chiếc máy tính mà nó có nhiệm vụ bảo vệ.

    Freeware: Phần mềm miễn phí được tạo nên từ những nhà phát triển.

    Guru: Một chuyên gia máy tính thông minh, một bậc Thầy.

    Hack: Nghĩa nguyên bản của từ này ám chỉ việc viết một phần mềm trong thời gian ngắn, với một mục đích hạn chế mặc dù nó đã phát triển lên thành việc nghiên cứu và viết các phần mềm mang tính đột phá. Dần dần, nó được các civilians (người bình thường) sử dụng để ám chỉ việc đột nhập vào một hệ thống máy tính với những mục đích xấu hành động lẽ ra phải được gọi là cracking. Từ này cũng được sử dụng như một danh từ, nghĩa là một sản phẩm thông minh trong lập trình phần mềm.

    ICQ (I Seek You: Tôi tìm bạn): Một subnetwork (mạng con) của Internet, giống IRC nhưng dành cho các cuộc hội thoại riêng tư. Gần giống với việc nhắn tin trực tiếp.

    IRC (Internet Relay Chat): Một subnetwork (mạng con) phổ biến của Internet, nơi một lượng lớn người tham gia có thể trò chuyện theo thời gian thực trong các phòng chat trực tuyến (Online chat rooms) dành cho các sở thích, thú vui riêng.

    jpg (hay là jpeg - viết tắt của joint photographers experts group - Nhóm các chuyên gia ảnh, jpeg là một kỹ thuật nén ảnh): một định dạng số hóa, nén và lưu trữ những hình ảnh trên máy tính. Hình ảnh dưới định dạng này được nhận biết bằng đuôi.jpg sau tên file (tập tin).

    Kuldge: Một chương trình phần mềm được viết ra trong thời gian ngắn, thường được viết một cách ngẫu hứng, phục vụ cho mục đích nhất định, thường nhắm tới việc xử lý một lỗi phần mềm hay sự gián đoạn trong hoạt động của máy tính.

    Machine: Một chiếc máy tính.

    MUD: (Multiuser domain, multiuser dimension hay là multiuser dungeons): Một subnetwork (mạng con) giống với IRC, trong đó người tham gia chơi những trò chơi theo thời gian thực hoặc tiến hành những hoạt động giả lập (Mạng chiến thuật thời gian thực).

    MUDhead: Người tham gia vào các MUD.

    Packet: Một dải dữ liệu số hóa. Tất cả các thông tin được truyền qua mạng Internet - email, văn bản, nhạc, hình ảnh, đồ họa, âm thanh - được chia nhỏ thành các gói dữ liệu (packet), sau đó các gói này sẽ được ghép lại thành định dạng phù hợp ở thiết bị của người nhận.

    Packet - Sniffer (Chương trình săn tìm gói tin): Một chương trình được cài đặt lên router, seroer máy tính hoặc lên một máy tính cá nhân để chuyển hướng các gói dữ liệu (packet) sang một máy tính thứ ba, thường để đọc các tin nhắn hay lấy mật khẩu và các thông tin khác một cách trái phép.

    Phising: Tìm kiếm thông tin về một ai đó trên Internet.

    Phreak: Xâm nhập vào hệ thống điện thoại chủ yếu với mục đích tạo các cuộc gọi miễn phí, nghe trộm hoặc cắt dịch vụ. Từ này cũng được dùng để miêu tả những người tham gia vào hoạt động này.

    Root: Thư mục gốc. Trong hệ điều hành Unix, từ này ám chỉ sysadmin (quản trị hệ thống) hay một cá nhân khác chịu trách nhiệm với một máy tính hay một mạng lưới. Nó cũng được dùng để miêu tả sự kiểm soát, như trong từ "seizing roof - có nghĩa là đoạt quyền kiểm soát hoạt động của một máy tính hay một mạng lưới.

    Router: Thiết bị định tuyến. Một máy tính điều hướng các gói dữ liệu - packets qua mạng Internet tới điểm đến định trước.

    Script: Phần mềm.

    Server: Máy chủ. Một máy tính nhanh và lớn trên một mạng lưới - ví dụ như mạng Internet - nơi lưu trữ dữ liệu, các Websites và các files, mà người dùng - User có thể tiếp cận.

    Shareware: Phần mềm được các nhà phát triển đưa ra với mức phí rất thấp hoặc chỉ được sử dụng hạn chế.

    Source Code: Định dạng để một lập trình viên viết phần mềm, sử dụng các chữ cái, con số và các ký hiệu từ một trong số các ngôn ngữ lập trình. Source code - mã nguồn sau đó được chuyển đổi thành phần mềm máy tính có thể chạy thực sự. Source code thường được giữ bí mật và bảo vệ nghiêm ngặt bởi các nhà phát triển hay chủ sở hữu.

    Sysadmin (System administrator): Quản trị hệ thống. Cá nhân chịu trách nhiệm vận hành máy tính và/hoặc một mạng lưới cho một tổ chức.

    Unix: Một hệ điều hành máy tính phức tạp, giống như Windows. Là hệ điều hành mà hầu hết các máy tính trên Internet sử dụng.

    Warez: Phần mềm thương mại bị sao chép bất hợp pháp.

    .wav (waveform): Một định dạng cho việc số hóa và lưu trữ âm thanh trên máy tính. Âm thanh dưới định dạng này được nhận biết bằng đuôi.wav sau tên file.

    Wizard: Một chuyên gia máy tính thông minh lỗi lạc, một bậc thầy (guru), thậm chí còn được gọi là một thầy phù thủy.



    I. PHÙ THỦY MÁY TÍNH
    Hoàn toàn có thể... thực hiện hầu hết mọi tội ác với một chiếc máy tính. Thậm chí ta có thể sử dụng nó để giết người.

    - Một sỹ quan Sở cảnh sát Los Angeles

    Chương 1
    Chiếc xe tải trắng cũ kĩ khiến cô cảm thấy bất an.

    Lara Gibson ngồi bên quầy bar trong nhà hàng Vesta's Grill tại De Anza, Cupertino, California, tay giữ chặt đáy ly Martini lạnh ngắt và phớt lờ hai chuyên viên phần cứng trẻ tuổi đang đứng gần đó liếc mắt ve vãn cô.

    Cô lại hướng mắt ra ngoài lần nữa, nhìn sâu vào màn mưa u ám, và không thấy bất kỳ dấu hiệu nào của chiếc Econoline kín mít không cửa sổ, cô tin chắc rằng nó đã bám theo mình từ căn hộ cách đây vài dặm đến tận nhà hàng này. Lara tụt khỏi chiếc ghế ở quầy bar và bước tới cửa sổ, nhìn ra bên ngoài. Chiếc xe đó không đậu trong bãi đỗ của nhà hàng. Cũng chẳng ở bên kia đường, trong bãi xe của Apple Computer hay bãi bên cạnh, thuộc công ty Sun Microsystems. Không bãi đỗ xe nào trong số này là nơi hợp lý để theo dõi - nếu gã tài xế đó thực sự đang đeo bám cô.

    Không, chiếc xe đó chỉ là một sự trùng hợp mà thôi, cô kết luận, sự trùng hợp bị cường điệu hóa bởi một dạng hoang tưởng.

    Cô trở lại quầy bar và liếc nhìn hai gã trai trẻ, giờ đến lượt họ lờ cô đi và nhếch mép cười.

    Giống như hầu hết các chàng trai trẻ đến đây tìm kiếm niềm vui, họ mặc quần âu, áo sơ mi không cà vạt, và đeo cái phù hiệu đặc trưng nhan nhản ở Thung lũng Silicon, chiếc thẻ nhân viên gắn với quai đeo bằng dây dù lủng lẳng quanh cổ. Hai gã này mang thẻ xanh của Sun Microsystems. Những nhóm khác đến từ Compaq, Hewlett - Packard và Apple, chưa kể vài chú lính mới của các công ty Internet khởi nghiệp mà một số nhân vật khả kính quen thuộc ở Thung lũng đang điều hành với đôi chút khinh khỉnh.

    Ở tuổi ba hai, có khi Lara Gibson lớn hơn hai gã hâm mộ kia đến năm tuổi. Với tư cách là một nữ doanh nhân độc lập, không phải dân lập trình, cũng chẳng liên quan đến công ty máy tính nào, dễ cô nghèo hơn họ đến năm lần. Nhưng điều đó không thành vấn đề với hai gã này, vì họ đã bị hút hồn bởi khuôn mặt xinh đẹp ấn tượng lạ thường ôm trọn trong những lọn tóc đen nhánh, đôi bốt đến cổ chân, chiếc váy màu đỏ cam kiểu gypsy 1 và chiếc áo không tay màu đen tôn lên đường nét bắp tay đẹp hiếm có.

    Cô ước tính rằng hai phút nữa, một trong hai cậu trai này sẽ tiếp cận cô, và cô chỉ tính chệch mười giây.

    Những gì gã trai trẻ nói với cô là 'phiên bản mới' của kịch bản mà cô đã nghe cả tá lần trước đó: Xin lỗi, tôi không có ý làm phiền nhưng cô có muốn tôi bẻ gãy chân bạn trai cô vì đã để người phụ nữ xinh đẹp chờ đợi một mình ở quầy bar và nhân tiện, tôi có thể mời cô một ly trong khi cô quyết định xem chân nào bị bẻ được không?

    Người phụ nữ khác chắc hẳn đã nổi đóa, hoặc lắp bắp, đỏ mặt, cảm thấy bối rối hay lả lơi lại để anh ta mời một ly mà cô ta thậm chí chẳng muốn uống, chỉ vì không biết phải xử lý tình huống này thế nào. Nhưng đó là những người đàn bà yếu đuối hơn cô. Còn Lara Gibson là 'nữ hoàng của sự tự vệ nơi thành thị', danh hiệu mà tờ San Francisco Chronicle đã từng phong tặng cho cô. Cô nhìn thẳng vào mắt anh ta, nở một nụ cười xã giao và nói, "Tôi không quan tâm đến việc kết thân với bất kỳ ai lúc này."

    Chỉ đơn giản như thế. Kết thúc cuộc nói chuyện.

    Anh ta chớp mắt trước sự thẳng thắn này, né tránh ánh mắt kiên nghị của cô và quay lại với bạn của mình.

    Sức mạnh... tất cả nằm ở sức mạnh.

    Cô nhấp một ngụm đồ uống.

    Thực ra, cái xe tải màu trắng chết tiệt đó đã gợi nhắc đến tất cả những nguyên tắc cô từng đặt ra với tư cách người dạy phụ nữ cách tự vệ trong xã hội thời nay. Có vài lần trên đường đến nhà hàng, cô liếc vào gương chiếu hậu và thấy chiếc xe ở phía sau, cách khoảng ba bốn chục feet. Một tên nhóc nào đó cầm lái. Hắn là người da trắng, nhưng tóc được tết thành những lọn dài bù xù màu nâu. Hắn mặc đồ rằn ri và đeo kính đen, bất chấp cơn mưa tối tăm u ám. Tất nhiên đây là Thung lũng Silicon, nơi trú ngụ của những gã hacker và tụi vô công rồi nghề, cũng chẳng có gì bất thường khi dừng ở Starbucks để mua một cốc Venti Latte ít béo và được phục vụ bởi một cậu thiếu niên lịch sự có cả tá khuyên trên người, đầu trọc lóc, ăn vận như một tay găng-tơ trong thành phố. Dường như gã lái xe vẫn đang nhìn cô chằm chằm với vẻ thù địch kỳ quái.

    Lara chợt nhận ra mình đang vuốt ve lọ xịt hơi cay trong túi xách một cách vô thức.

    Liếc ra cửa sổ một lần nữa, cô chỉ thấy những chiếc xe xa xỉ được mua bằng tiền kinh doanh Internet.

    Nhìn quanh phòng. Chỉ có những tay nghiền máy móc vô hại.

    Thư giãn nào, cô tự nhủ và nhấp một ngụm Martini đậm đặc.

    Cô để ý nhìn đồng hồ treo tường. Bảy giờ mười lăm. Sandy đã muộn mười lăm phút rồi. Không giống cô ấy chút nào. Lara rút điện thoại đi động ra nhưng màn hình lại hiển thị: NGOÀI VÙNG PHỦ SÓNG.

    Cô định đi tìm điện thoại công cộng thì ngước lên thấy một người đàn ông trẻ bước vào quầy bar và vẫy tay về phía cô. Cô đã gặp anh ta ở đâu đó nhưng không thể nhớ chính xác. Mái tóc vàng khá dài nhưng được cắt tỉa gọn gàng, chòm râu dê của anh ta ám ảnh trong trí nhớ cô. Anh ta mặc chiếc quần jean trắng và áo sơ mi màu xanh nhàu nhĩ. Điều duy nhất cho thấy anh ta cũng thuộc giới làm ăn ở Mỹ là chiếc cà vạt, cho phù hợp với một doanh nhân của Thung lũng Silicon, mặc dù thiết kế của nó không phải kẻ sọc hay họa tiết hoa Jerry Garcia mà là chú chim hoạt hình Tweety Bird.

    "Chào cô, Lara," anh ta bước tới và bắt tay cô, tựa người vào quầy bar. "Nhớ tôi không? Tôi là Will Randolph. Em họ của Sandy đây? Cheryl và tôi đã gặp cô ở Nantucket, tại lễ cưới của Marry ấy."

    À phải rồi, đó chính là nơi cô đã gặp anh ta. Anh và cô vợ đang mang bầu đã ngồi cùng bàn với Lara và bạn trai cô, Hank. "Chắc chắn rồi. Dạo này anh thế nào?"

    "Tôi ổn. Công việc bận rộn. Nhưng làm gì có ai không đến đây cơ chứ?"

    Tấm thẻ nhựa trên cổ anh ghi dòng chữ Xerox Corporation PARC. Cô thấy rất ấn tượng. Ngay cả những kẻ tay ngang cũng biết về trung tâm nghiên cứu Paolo Alto huyền thoại của Xerox cách đây vài dặm về phía Bắc.

    Will ra hiệu cho phục vụ và gọi một cốc bia nhẹ. "Hank thế nào?" Anh hỏi. "Sandy nói anh ấy đang cố kiếm một công việc ở Wells Fargo."

    "Ồ, phải, anh ấy được nhận rồi. Giờ anh ấy muốn lập nghiệp ở L.A."

    Cốc bia được mang đến và Will nhấp một ngụm. "Chúc mừng."

    Một bóng trắng sượt qua trong bãi đỗ xe.

    Lara lập tức nhìn theo, cảnh giác. Nhưng hóa ra đó là chiếc Ford Explorer với một cặp đôi trẻ ở bên trong.

    Đôi mắt tập trung vào phía sau chiếc xe Ford, quét qua con phố rồi rà soát bãi đỗ xe một lần nữa, Lara nhớ lại rằng trên đường đến đây, cô đã nhìn vào hông chiếc xe tải khi nó vụt qua lúc cô tấp xe vào bãi đỗ nhà hàng. Có một vết bẩn của cái gì đó sẫm màu và đo đỏ trên hông xe, có thể là bùn - nhưng cô nghĩ trông nó gần giống máu.

    "Cô ổn chứ," Will hỏi.

    "À vâng, xin lỗi." Cô quay lại với anh, thấy mừng vì có một đồng minh. Một nguyên tắc tự vệ nữa ở chốn thành thị mà cô đặt ra là: Hai người luôn tốt hơn một. Giờ Lara đã biến tấu một chút bằng cách bổ sung thêm vế sau rằng dù vài người trong số họ chỉ là một gã mọt máy tính gầy gò, không cao hơn mét bảy nhăm và đeo cà vạt hoạt hình.

    Will nói tiếp, "Sandy đã gọi lúc tôi đang trên đường về nhà để hỏi xem tôi có thể ghé qua và báo tin cho cô được không. Cô ấy cố gọi cho cô nhưng ko liên lạc được. Cô ấy sẽ về muộn và liệu có thể hẹn cô ở chỗ cạnh văn phòng mà cô đã ghé qua tháng trước, chỗ Ciro ấy? Ở Mountain View. Cô ấy đã đặt bàn lúc tám giờ."

    "Anh đâu cần phải ghé qua. Cô ấy có thể gọi cho nhân viên quầy bar mà."

    "Cô ấy muốn tôi đưa cho cô những bức ảnh tôi đã chụp ở đám cưới. Hai người có thể xem chúng tối nay và cho tôi biết các cô muốn lấy những tấm nào."

    Will nhận ra một người bạn ở phía bên kia quầy bar và vẫy chào anh ta, có lẽ Thung lũng Silicon trải rộng hàng trăm dặm vuông nhưng nó thực sự vẫn là một thị trấn nhỏ. Anh nói với Lara, "Cheryl và tôi đang định mang những bức ảnh tới chỗ của Sandy ở Santa Barbara cuối tuần này...."

    "Phải, chúng tôi định tới đó vào thứ sáu."

    Will ngừng lại và mỉm cười như thể anh ta có một bí mật vĩ đại cần chia sẻ. Anh rút ví, mở ra bức ảnh chụp anh cùng vợ và một đứa bé nhỏ xíu còn đỏ hỏn, "Tuần trước," anh nói một cách tự hào, "Claire."

    "Ôi, dễ thương quá," Lara xuýt xoa.

    "Thế nên chúng tôi sẽ loanh quanh ở gần nhà một thời gian."

    "Cheryl thế nào rồi?"

    "Cô ấy ổn. Em bé cũng khỏe. Chẳng có điều gì sánh được... Nhưng, tôi sẽ nói với cô rằng việc trở thành một người cha sẽ làm cuộc sống hoàn toàn thay đổi."

    "Tôi tin chắc là như vậy."

    Lara liếc nhìn đồng hồ một lần nữa. Bảy rưỡi. Vào giờ này, phải mất ba mươi phút để lái xe đến Ciro. "Tôi nên đi ngay."

    Rồi, một hồi chuông cảnh giác gióng lên, cô lại nghĩ về chiếc xe tải và gã tài xế.

    Những lọn tóc tết.

    Vệt cáu bẩn trên cánh cửa xe cũ nát...

    Will ra hiệu tính tiền và thanh toán.

    "Anh không phải làm thế đâu," cô nói. "Tôi sẽ thanh toán."

    Anh cười. "Cô đã trả rồi mà."

    "Gì cơ?"

    "Cái quỹ chung mà cô kể với tôi ở đám cưới ấy. Quỹ mà cô mới mua ấy?"

    Lara nhớ lại lần cô khoác lác không biết ngượng về một quỹ công nghệ sinh học năm ngoái đã tăng trưởng tới sáu chục phần trăm.

    "Từ Nantucket về, tôi đã mua cả đống... vì thế... cảm ơn nhé." Anh dốc ngược cốc bia về phía cô rồi đứng dậy. "Cô về chưa?"

    "Chắc chắn rồi." Lara nhìn chằm chằm cánh cửa một cách bất an khi họ bước đến đó.

    Chỉ là một sự hoang tưởng thôi mà, cô tự nhủ. Lara thoáng nghĩ, như cô vẫn thường làm mỗi khi thế này, rằng cô nên kiếm một công việc thật sự, như tất cả những người trong quầy bar này. Cô không nên dấn thân vào thế giới bạo lực.

    Hẳn là thế, chỉ hoang tưởng thôi...

    Nhưng nếu vậy, thì tại sao gã choai choai có những lọn tóc tết ấy lại phóng vọt đi khi cô tấp vào bãi đỗ xe ở đây và nhìn thấy hắn?

    Will bước ra ngoài và bật ô. Anh giơ cao nó lên cho cả hai cùng đi.

    Lara nhớ lại một nguyên tắc tự vệ khác nơi thành thị: Đừng bao giờ tỏ ra quá ngại ngùng hay kiêu hãnh khi muốn xin sự giúp đỡ của người khác.

    Và dù Lara định nhờ Will Randolph đưa ra xe sau cuộc trò chuyện của họ, cô vẫn băn khoăn: Nếu gã choai choai trong xe tải là một mối đe dọa, thì chẳng phải cô thật ích kỷ khi nhờ vả và khiến anh gặp nguy hiểm? Anh là một người chồng, mới lên chức cha, có nhiều người đang trông cậy vào anh. Dường như không công bằng lắm nếu...

    "Có gì không ổn à?" Will hỏi.

    "Không hẳn."

    "Cô chắc chứ?" Anh gặng hỏi.

    "À, tôi nghĩ có ai đó đã bám theo tôi đến nhà hàng này. Một tên choai choai nào đó."

    Will nhìn quanh. "Cô thấy hắn à?"

    "Giờ thì không."

    Anh hỏi, "Cô có website đó đúng không? Cái website dạy phụ nữ cách tự vệ ấy."

    "Đúng vậy."

    "Cô có nghĩ hắn biết website đó không? Có thể hắn đang quấy rối cô."

    "Có lẽ. Chắc anh sẽ ngạc nhiên lắm khi thấy những bức thư đầy thù hằn mà tôi nhận được."

    Anh lục tìm điện thoại di động. "Cô có muốn gọi cảnh sát không?"

    Cô lưỡng lự.

    Đừng bao giờ cảm thấy quá ngại ngùng hay kiêu hãnh khi muốn xin sự giúp đỡ.

    "Không, không. Chỉ là... anh không phiền nếu đưa tôi đến chỗ để xe sau khi đi lấy ảnh chứ?"

    Will mỉm cười. "Tất nhiên là không rồi. Thực ra thì tôi không biết karate nhưng tôi có thể hét lên kêu cứu to hết cỡ."

    Cô bật cười. "Cảm ơn."

    Họ đi bộ dọc theo vỉa hè phía trước nhà hàng, cô liếc nhìn để kiểm tra những chiếc xe. Giống như mọi bãi đỗ xe ở Thung lũng Silicon, ở đây có hàng tá những chiếc Saab, BMW và Lexus. Dù sao thì, không có chiếc xe tải nào. Không một gã choai choai. Không có vết máu.

    Will hất đầu về chỗ để xe của mình ở bãi đỗ phía sau. Anh nói, "Cô có thấy hắn không?"

    "Không."

    Họ đi qua một hàng cây bách xù và đến chỗ xe của anh, một chiếc Jaguar màu bạc mới coóng.

    Lạy Chúa, có phải tất cả mọi người ở Thung lũng Silicon đều có tiền, trừ cô?

    Anh lôi chìa khóa ra khỏi túi. Họ đi ra chỗ cốp xe. "Tôi chỉ chụp hết hai cuộn phim ở đám cưới. Nhưng có vài bức khá đẹp." Anh ta mở cốp xe rồi ngừng lại nhìn quanh bãi đỗ. Cô cũng thế. Nơi này vắng tanh. Xe của anh là chiếc duy nhất ở đây.

    Will liếc nhìn cô. "Cô hẳn đã băn khoăn về mấy lọn tóc tết 2."

    "Tóc tết?"

    "Phải," anh ta nói. "Những lọn tóc tết ấy." Giọng nói trở lên đều đều, lơ đãng. Anh ta vẫn cười nhưng gương mặt có gì đó khang khác. Trông nó có vẻ đói khát.

    "Ý anh là gì?" Cô hỏi, giọng bình tĩnh nhưng trong thâm tâm, nỗi sợ hãi đang bùng lên. Cô chợt nhận ra có một sợi xích ngăn lối vào khu đằng sau bãi đỗ xe. Và cô hiểu rằng hắn đã móc nó vào sau khi đỗ xe, để đảm bảo không ai khác có thể để xe ở đây.

    "Nó chỉ là một bộ tóc giả."

    Ôi, lạy Chúa, Thánh thần ơi, Lara Gibson thầm nghĩ, dù cô đã không cầu nguyện trong suốt hai mươi năm.

    Hắn nhìn vào mắt cô, ghi lại nỗi khiếp sợ ấy. "Tôi đã đậu chiếc Jag này ở đây một lúc trước khi đánh cắp cái xe tải và bám theo cô từ nhà. Với bộ đồ rằn ri và mái tóc giả. Cô biết đấy, có thế thì cô mới thấy rợn người, hoảng loạn và muốn tôi ở cạnh... Tôi biết hết mọi quy tắc của cô - mớ nguyên tắc tự vệ nơi thành thị vớ vẩn đó. Không bao giờ vào bãi đỗ xe vắng vẻ với một gã đàn ông. Đàn ông đã kết hôn và có con an toàn hơn đàn ông độc thân. Và bức ảnh gia đình của tôi? Cái ở trong ví ấy? Tôi lấy nó từ tạp chí Parents đấy."

    Cô thì thầm trong tuyệt vọng, "Anh không phải là...?"

    "Anh họ của Sandy? Thậm chí còn chẳng biết hắn. Tôi chọn Will Randolph vì hắn là người cô có chút quen biết, và trông hắn có chút giống tôi. Ý tôi là, chẳng có cách quái nào để lôi cô ra đây một mình nếu cô không quen tôi, hoặc tưởng là mình quen. Ồ, cô có thể bỏ tay ra khỏi túi xách được rồi đấy." Hắn giơ chiếc bình xịt hơi cay của cô lên. "Tôi đã lấy nó khi chúng ta bước ra ngoài."

    "Nhưng...," cô bắt đầu nức nở, đôi vai buông thõng trong tuyệt vọng. "Anh là ai? Anh còn không biết tôi cơ mà..."

    "Không đúng, Lara," hắn thì thào, soi mói nỗi thống khổ nơi cô như một tay kỳ thủ ngạo mạn dò xét khuôn mặt bại trận của đối phương. "Tôi biết mọi điều về cô. Tất cả mọi thứ trên đời này."

    --------------------------------
    1 Phong cách thời trang tự do, phóng khoáng.
    2 Trong văn bản gốc, tác giả dùng từ 'dread', có nghĩa là điều gì đó gây khiếp sợ, để chơi chữ với từ 'Dreadlocks' nghĩa là 'tóc tết' trong câu hội thoại tiếp theo.

  2. #41
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 41
    Không thể nhúc nhích, ngoại trừ đầu và các ngón tay, Wyatt Gillette tỉnh lại và cảm nhận cơn đau lan khắp thể. Hắn không biết mình đã ngất đi bao ỉâu.

    Hắn nhìn thấy Bishop vẫn đang nằm trong văn phòng. Máu dường như đã ngừng chảy nhưng hơi thở của ông rất nặng nề. Gillette cũng để ý thấy những món đồ máy tính cổ, thứ mà Phate đang cố gói ghém khi hắn và Bishop đến, vẫn ở nguyên đó. Hắn ngạc nhiên vì chúng bỏ lại tất cả những thứ này, giá trị của chúng phải đến cả triệu đô la.

    Giờ thì chúng đã cao chạy xa bay, tất nhiên là vậy. Kho hàng này nằm ngay canh đường Winchester dẫn lên cao tốc 280. Đúng như Bishop và hắn đã tiên đoán, Phate và Shawn chắc chắn đã bỏ lại sau lưng đám tắc đường. Và có thể ngay lúc này, chúng đang ở đại học Bắc California, tìm giết nạn nhân cuối cùng trong lượt chơi này. Chúng...

    Nhưng khoan đã, Gillette ngẫm nghĩ trong màn sương mờ mịt của cơn đau. Tại sao mình vẫn còn sống? Chẳng có lý nào chúng lại không giết hắn. Chúng đã...

    Tiếng đàn ông gào thét vang lên phía sau hắn, rất gần. Gillette thở dốc vì choáng váng và cố xoay sở để quay đầu lại.

    Patricia Nolan đang cúi xuống Phate, kẻ đang quằn quại vì đau đớn. Hắn ngồi dựa vào một cột kim loại gióng lên trần nhà tối tăm. Mái tóc xõa xượi thường ngày của Nolan đã được búi gọn gàng phía sau. Vẻ ngoài của một cô nàng mọt sách nhút nhát đã hoàn toàn biến mất. Cô ta nhìn Phate bằng đôi mắt của một điều tra viên. Hắn ta cũng không hề bị trói hai tay hắn thả lỏng, và Gillette đoán cô ta cũng hạ gục hắn bằng cây roi điện đó. Dù vậy, cô ta đã đổi từ thứ vũ khí công nghệ cao thành chiếc búa mà Phate đã dùng để tấn công Bishop.

    Thế thì, cô ta không phải là Shawn. Vậy cô ta là ai?

    "Giờ thì hiểu là tôi nghiêm túc rồi đấy," cô ta nói với tên sát nhân, giơ chiếc búa về phía hắn như thể một giáo sư cầm cây gậy chỉ bảng. "Tôi không ngại làm đau anh đâu."

    Phate gật đầu. Mồ hôi tuôn lã chã trên khuôn mặt hắn.

    Cô ta hẳn đã nhìn thấy Gillette nhúc nhắc đầu. Cô liếc nhìn hắn và kết luận rằng hắn không đáng ngại. Cô quay lại với Phate. "Tôi muốn mã nguồn của Trapdoor. Nó ở đâu?"

    Hắn gật đầu về phía cái laptop để trên chiếc bàn phía sau cô ta. Nolan liếc nhìn màn hình. Chiếc búa vung lên và giáng xuống vào ngay chân hắn, với một tiếng uỵch nhẹ nhàng nhưng vô cùng đáng sợ. Hắn lại gào lên.

    "Anh chẳng đi khắp nơi với một chiếc laptop chứa mã nguồn đâu. Thứ đó là giả, đúng không? Chương trình mang tên Trapdoor trong chiếc máy đó - thực ra nó là cái gì?

    Cô ta lại vung búa lên.

    "Shredder-4," hắn hổn hển nói.

    Một virus sẽ phá hủy tất cả dữ liệu của bất kỳ máy tính nào tải nó.

    "Việc đó không ích gì đâu, Jon." Cô ta nghiêng người lại gần hắn hơn, chiếc áo thùng thình và chiếc váy len của cô ta giãn rộng

    "Giờ thì nghe đây, Tôi biết Bishop đã không gọi cứu viện vì ông đã trốn đi cùng Gillette. Mà kể cả ông ta có gọi, cũng sẽ không có ai đến dây, vì nhờ có anh, các con đường đã trở nên vô dụng. Tôi có tất cả thờ gian trên thế giới này để khiến anh phải nói ra điều tôi muốn. Và, tin tôi đi, tôi là kiểu phụ nữ có thể làm điều đó đấy. Tôi đã quá quen với việc này rồi."

    "Cút xuống địa ngục đi," hắn hổn hển nói.

    Vô cùng bình tĩnh, cô ta nắm chặt cổ tay hắn và chầm chậm kéo hắn ra, đặt bàn tay lên sàn bê tông. Hắn cố gắng kháng cự nhưng không thể. Hắn nhìn các ngón tay xòe rộng của mình, với thứ dụng cụ bằng sắt đang lơ lửng bên trên.

    "Tôi muốn mã nguồn. Tôi biết anh không để nó ở đây. Anh đã tải nó lên một chỗ cất giấu - một trang FTP được bảo vệ bằng mật khẩu. Đúng không?"

    Một giao thức trao đổi trang và file FTP là nơi rất nhiều hacker cất giữ chương trình của họ. Nó có thể nằm trong bất kỳ hệ thống máy tính ở bất kỳ đâu trên thế giới. Trừ khi bạn có địa chỉ chính xác trang FTP, tên người dùng và mật khẩu, nếu không thì khả năng bạn tiếp cận được file đó cũng ngang ngửa khả năng tìm thấy một chấm vi phim trong một khu rừng nhiệt đới.

    Phate ngần ngừ.

    Nolan dịu dàng nói, "Hãy nhìn những ngón tay này..." Cô ta vuốt ve những ngón tay thô kệch. Lát sau, cô ta thì thầm, "Mã nguồn ở đâu?"

    Hẳn lắc đầu.

    Chiếc búa bổ xuống ngón út của Phate. Gillette thậm chí không nghe thấy tiếng nó đập xuống. Hắn chỉ nghe thấy tiếng thét đau đớn của Phate.

    "Tôi có thể làm việc này cả ngày," cô ta bình thản nói. Nó không khiến tôi áy náy gì và đó là công việc của tôi."

    Khuôn mặt Phate tối sầm lại vì cơn thịnh nộ. Một kẻ đã quen với việc kiểm soát, một bậc thầy chơi MUD, giờ lại đang hoàn toàn tuyệt vọng. "Sao mày không cút xéo đi?" Hắn mỉm cười yếu ớt. "Mày sẽ không bao giờ tìm nổi ai muốn mày. Mày chỉ là kẻ thất bại, một con ế già mọt sách, tương lai của mày chỉ là một cuộc đời tẻ nhạt chết giẫm."

    Tia giận giữ trong mắt cô ta biến mất rất nhanh. Cô ta lại giơ cao chiếc búa.

    "Không, không!" Phate gào lên. Hắn hít một hơi dài. "Được rồi... Hắn cho cô ta một địa chỉ web, tên người dùng và mật khẩu.

    Nolan lôi chiếc di động ra và bấm một phím. Có vẻ như cuộc gọi được kết nối ngay lập tức. Cô ta cung cấp chi tiết về trang web của Phate cho người ở bên kia đầu dây và nói, "Tôi sẽ giữ máy. Kiểm tra xem."

    Lồng ngực Phate căng lên rồi giãn ra. Những giọt nước mắt đau đớn lăn ra từ khóe mắt hắn. Rồi hắn nhìn sang Gillette. "Chúng ta ở đây, Valleyman, hồi ba trong vở kịch của chúng ta." Hắn ngồi thẳng dậy một chút và bàn tay đẫm máu của hắn nhúc nhích một hai inch. Hắn nhăn mặt. "Mọi thứ không diễn ra như tao đã tưởng. Có vẻ như mỗi người trong chúng ta đều có một kết thúc bất ngờ cho riêng mình, nhỉ."

    "Im mồm," Nolan lẩm bẩm.

    Nhưng Phate phớt lờ cô và tiếp tục nói với Gillette bằng giọng hổn hển, "Tao có chuyện này muốn nói với mày. Mày có nghe không đây? Hãy thành thật với bản thân, đó là quy luật, như ngày và đêm, không trừ một kẻ nào," Hắn hung hắng ho. "Tao rất thích kịch. Đó là câu nói từ Hamlet, một trong những vở kịch yêu thích của tao. Hãy nhớ câu đó, Valleyman. Đó là lời khuyên từ một phù thủy. Hãy thành thật với chính mình."

    Khuôn mặt Nolan nhăm nhúm vì tức giận khi cô nghe điện thoại. Đôi vai cô chùng xuống và cô nói, "Chờ máy nhé." Cô ta đặt chiếc điện thoại sang bên cạnh và lại nhặt chiếc búa lên, trừng trừng nhìn Phate, kẻ dù đã bị cơn đau nuốt chửng nhưng vẫn mỉm cười nhạt.

    "Họ đã kiểm tra trang mà anh cho tôi," cô nói, "đó hóa ra là một tài khoản email. Khi họ mở các file, trình truyền tin đã gửi thứ gì đó đến một trường đại học ở Châu Á. Đó có phải là Trapdoor không?"

    "Tao không biết nó là gì," hắn thì thầm, mắt đăm đăm bàn tay nát bét đẫm máu của mình. Một thoáng cau có trên khuôn mặt hắn chuyển thành nụ cười lạnh lùng. "Có lẽ tôi cho nhầm địa chỉ."

    "Ô, vậy cho tôi địa chỉ đúng đi."

    "Sao phải vội thế?" Hắn hỏi một cách cay độc. "Có cuộc hẹn hò quan trọng với con mèo ở nhà sao? Hay một chương trình ti vi? Hoặc một chai rượu mà mày sẽ uống với... chính mình?"

    Cơn tức giận ngay lập tức bùng nổ, cô ta giáng chiếc búa xuống bàn tay hắn.

    Phate lại thét lên.

    Nói cho cô ta đi, Gillette nghĩ. Vì Chúa, nói đi!

    Nhưng hắn cứ câm lặng trong năm phút dài như vô tận của cuộc tra tấn này, chiếc búa cứ giơ lên rồi lại giáng xuống, những ngón tay nẩy lên dưới tác dụng lực. Cuối cùng, Phate không thể chịu đựng thêm được nữa. "Được rồi, được rồi." Hắn cho cô ta một địa chỉ, tên và mật khẩu khác.

    Nolan nhấc máy lên và truyền đạt thông tin này cho người đồng nghiệp bên kia đầu dây. Vài phút chờ đợi. Cô ta lắng nghe, rồi nói, "Xem kỹ từng dòng một rồi chạy một trình biên dịch, hãy đảm bảo nó là thật.".

    Trong khi chờ đợi, cô ta nhìn quanh căn phòng chứa những chiếc máy tính cũ. Đôi mắt cô ta đôi lúc ánh lên vẻ thán phục, có lúc lại là sự say mê và niềm vui sướng khi nhìn vài vật nhất định.

    Năm phút sau, người đồng nghiệp quay lại. "Tốt lắm," Nolan nói vào điện thoại, rõ ràng hài lòng vì mã nguồn đó là thật. "Giờ hãy quay lại trang FTP đó và đoạt quyền kiểm soát gốc. Kiểm tra những đăng nhập tải lên và tải về. Xem liệu hắn có chuyển mã này đến đâu nữa không."

    Cô ta đang nói chuyện với ai vậy? Gillette băn khoăn. Để rà soát và biên soạn một chương trình phức tạp như Trapdoor thường tốn hàng giờ, Gillette đoán rất nhiều người đang làm việc này và sử dụng những siêu máy tính chuyên dụng cho việc phân tích.

    Lát sau, cô ta ngẩng đầu lên và lắng tai nghe. "Tốt rồi. Hãy tiêu hủy trang FTP đó và mọi thứ liên quan đến nó. Hãy sử dụng Infekt IV... Không, ý tôi là toàn bộ mạng. Tôi không quan tâm nó liên quan đến Norad hay kiểm soát không lưu. Hủy hết đi."

    Virus này giống như một đám cháy trên cánh đồng cỏ khô, không thể kiểm soát được. Nó sẽ tự động phá hủy nội dung của tất cả các file trong trang FTP mà Phate đã dùng để cất giữ mã nguồn này và bất kỳ máy tính nào có liên kết với nó. Infekt sẽ biến đổi dữ liệu trong hàng ngàn máy tính thành chuỗi những ký hiệu vô nghĩa, và sẽ không thể tìm được bất kỳ mối liên hệ nào dù là nhỏ nhất với Trapdoor, chứ đừng nói đến mã nguồn hoạt động của nó.

    Phate nhắm mắt lại và dựa đầu vào cây cột.

    Nolan đứng đó, tay vẫn giữ chiếc búa, rồi cô ta bước lại gần Gillette. Hắn lăn người sang một bên và cố gắng bò đi. Nhưng cơ thể hắn vẫn không thể hoạt động sau cú sốc điện nên hắn lại đổ sập người xuống sàn nhà. Patricia tựa sát vào người hắn. Gillette nhìn chiếc búa. Rồi hắn nhìn cô ta kỹ hơn và thấy chân tóc cô ta có màu hơi khác sợi tóc, và cô đang mang kính áp tròng màu xanh lá cây. Dưới lớp trang điểm lem nhem khiến khuôn mặt cô ta trông nặng nề và trắng bệch, hắn có thể nhìn thấy những đường nét thanh tú. Nghĩa là có lẽ cô ta cũng đang mang miếng độn để khiến cơ thể săn chắc khỏe mạnh của mình tăng thêm ba mươi pound.

    Rồi hắn để ý đến bàn tay cô ta.

    Những ngón tay... những đầu ngón tay hơi bóng lên và có vẻ trong suốt. Và hắn hiểu ra: Tất cả những lúc bôi lớp bảo vệ móng tay, cô ta đều bôi lên đầu ngón tay - để che dấu vân tay.

    Cô ta cũng social engineer họ. Ngay từ ngày đầu tiên.

    Gillette thì thầm, "Cô đã theo hắn lâu rồi, đúng không?"

    Nolan gật đầu. "Một năm. Kể từ khi chúng tôi nghe nói đến Trapdoor."

    "Chúng tôi là ai?"

    Cô ta không đáp nhưng Gillette cũng không cần câu trả lời nữa. Gillette đoán tổ chức thuê cô ta không phải Horizon Online, hay chỉ mình Horizon, mà là một liên hợp những nhà cung cấp dịch vụ Internet để tìm ra mã nguồn của Trapdoor, phần mềm do thám tối thượng, cấp quyền truy cập hoàn toàn vào cuộc sống của những người ít cảnh giác và không hay nghi ngờ. Những ông chủ của Nolan sẽ không sử dụng Trapdoor mà viết phần mềm chống lại nó, rồi sau đó phá hủy hoặc cách ly mối đe dọa đối với ngành công nghiệp Online trị giá hàng tỉ đô này. Gillette có thể tưởng tượng ra viễn cảnh những người dùng Internet nhanh chóng từ bỏ dịch vụ đó và sẽ không bao giờ Online nữa nếu biết những hacker có thể tự do dạo chơi trong máy tính và biết mọi ngóc ngách đời sống của họ. Ăn cắp của họ. Phơi bày đời tư, thậm chí hủy hoại họ.

    Và cô ta đã lợi dụng Andy Anderson, Bishop và toàn bộ đội CCU, như cô đã sử dụng cảnh sát ở Portland và bắc Virginia, nơi Phate và Shawn đã tấn công trước đó.

    Cũng giống như cô ta đã lợi dụng chính Gillette.

    Cô hỏi, "Hắn có nói với anh điều gì về mã nguồn không? Liệu hắn có cất giữ nó ở nơi khác?"

    "Không."

    Chằng có lí gì Phate lại làm thế, nên sau khi thăm dò hắn kĩ càng, dường như cô ta tin Gillette. Rồi Nolan từ từ đứng dậy và quay lại nhìn Phate. Gillette thấy đôi mắt cô ta dò xét tay hacker một cách kỳ lạ và hắn cảm thấy một cơn lo sợ chạy qua. Giống như một lập trình viên biết cách một phần mềm vận hành từ đầu đến cuối không chút sai lệch, không phí phạm, không lạc đề, Gillette đột nhiên hiểu rõ việc Nolan sắp làm.

    Hắn khẩn khoản cầu xin, "Đừng."

    "Tôi phải làm thế."

    "Không, đừng. Hắn sẽ không bao giờ được xuất hiện nữa. Hắn sẽ ở trong tù đến hết đời."

    "Anh nghĩ nhà tù sẽ giữ được một kẻ như hắn offline à? Nó sẽ không ngăn được hắn đâu."

    "Cô không được làm thế!"

    "Trapdoor quá nguy hiểm," cô nói. "Và hắn đã có mã nguồn của nó trong đầu. Có thể là cả tá những chương trình khác nữa, chúng quá nguy hiểm."

    "Không," Gillette thì thầm một cách tuyệt vọng. "Chưa từng có hacker nào tài giỏi như hắn. Có thể là không bao giờ có. Hắn viết ra được những mã mà hầu hết chúng ta không thể tượng tượng được."

    Cô ta bước lại chỗ Phate.

    "Đừng!" Gillette gào lên.

    Nhung hắn biết sự phản đối của mình là vô nghĩa.

    Từ chiếc túi laptop, cô ta lấy ra một hộp da nhỏ, rút một ống tiêm dưới da và hút đầy ống thứ chất lỏng từ một cái chai trong suốt. Không chút ngập ngừng, cô ta nghiêng người về phía trước và tiêm vào cổ Phate. Hắn không hề phản kháng và trong một khoảnh khắc, Gillette có cảm giác rằng hắn biết rõ mọi điều đang diễn ra và chấp nhận cái chết của mình. Phate nhìn sâu vào Gillette rồi đăm đăm nhìn hộp vỏ gỗ của chiếc máy tính Apple trên một cái bàn gần đó. Những chiếc Apple đời đầu thực sự là máy tính của hacker mà bạn chỉ cần mua phần chính của chiếc máy rồi tự xây ngôi nhà của riêng mình. Phate vẫn nhìn chằm chằm vào vật đó như thể hắn đang cố gắng nói điều gì với nó. Hắn quay sang Gillette. "Hãy..." Những lời của hắn biến thành những tiếng thì thầm.

    Gillette lắc đầu.

    Phate ho và tiếp tục bằng giọng yếu ớt, "Hãy thành thật với chính mình...." Rồi hắn đầu gục về phía trước và hơi thở của hắn ngưng bặt.

    Gillette không khỏi cảm thấy mất mát và đau buồn. Chắc chắn, Jon Patrick Holloway đáng chết. Hắn là một con quỷ dữ và có thể tước đoạt mạng sống của một con người dễ dàng như moi trái tim ra khỏi thân thể của một nhân vật giả tưởng trong trò chơi MUD. Tuy vậy, bên trong hắn còn là một con người khác: Một kẻ viết nên những mã nguồn thanh tao như một bản nhạc, có tiếng gõ bàn phím nghe như tiếng cười lặng thầm của những hacker và có thể được nhìn nhận như một trí tuệ tài hoa vô biên, điều này, nếu được hướng theo một cách khác đi có thể tạo nên một phù thủy máy tính Jon Holloway được toàn thế giới ngưỡng mộ.

    Hắn cũng từng là một người cùng Gillette tiến hành vài vụ hack để đời. Dù cuộc đời có xoay vần, sự gắn kết giữa những kẻ cùng khám phá Miền xanh thẳm vô định không bao giờ mất đi.

    Patricia Nolan đứng dậy và nhìn Gillette.

    Hắn nghĩ, mình tiêu rồi.

    Cô hút thêm thứ chất lỏng đó vào kim tiêm, thở dài. Lần giết người này, ít nhất, cũng sẽ khiến cô ta bận lòng.

    Hắn thì thầm. Lắc đầu. "Tôi sẽ không nói gì đâu."

    Hắn cố gắng lết xa ra khỏi cô ta nhưng cơ bắp hắn vẫn tê liệt vì cú sốc điện. Cô ta cúi xuống cạnh hắn, kéo cổ áo và xoa cổ hắn để tìm ven.

    Gillette nhìn sang căn phòng nơi Bishop đang nằm, ông vẫn đang bất tỉnh. Viên thám tử sẽ là nạn nhân tiếp theo, hắn hiểu điều đó.

    Nolan cúi người về phía trước với chiếc kim tiêm.

    "Không," Gillette thì thầm. Hắn nhắm mắt lại, hắn nghĩ về Ellie. "Không! Đừng làm thế!"

    Bỗng một giọng đàn ông quát lên, "Này, ở yên đó!"

    Không mất đến một giây, Nolan vứt chiếc kim tiêm xuống, lôi khẩu súng từ túi đựng laptop ra và bắn thẳng vào Tony Mott, người đang đứng ở cửa.

    "Lạy Chúa," tay cảnh sát trẻ khựng lại, la lên. "Cô đang làm cái quái gì vậy?" Anh ta nằm rạp xuống sàn nhà.

    Nolan tiếp tục giơ súng lên nhưng trước khi cô ta kịp bóp cò, vài tiếng nổ lớn làm rung chuyển không gian và khiến cô ngã ngửa. Mott đang bắn cô ta bằng khẩu súng tự động mạ bạc lấp lánh.

    Không một viên đạn nào bắn trúng Nolan, và cô ta bật dậy rất nhanh, tiếp tục dùng khẩu súng nhỏ hơn rất nhiều, bắn về phía Mott.

    Viên cảnh sát CCU, diện chiếc quần short bó, áo sơ mi Guess và cặp kính râm Oakley đung đưa trên cổ, trườn dần vào nhà kho. Anh bắn liên tục, khiến Nolan vất vả chống trả. Cô ta cũng bắn vài phát nhưng đều trượt.

    "Chuyện quái gì đang xảy ra thế? Cô ta làm cái gì vậy?"

    "Cô ta đã giết Holloway. Tiếp theo sẽ là tôi."

    Nolan bắn trả rồi di chuyển dần về phía trước nhà kho.

    Mott tóm lấy gấu quần Gillette và kéo hắn vào chỗ nấp rồi bắn viên đạn cuối cùng của khẩu tự động về phía Nolan. So với niềm đam mê dành cho đội SWAT, viên cảnh sát có vẻ hoảng hốt khi ở trong tình huống thực tế. Anh ta cũng là một tay súng tồi. Trong khi anh vẫn đang nạp đạn, Nolan đã biến mất sau những thùng các tông.

    "Cậu có trúng đạn không?" Tay Mott run lẩy bẩy và thở như hết hơi.

    "Không, cô ta cho tôi một phát súng điện hay đại loại thế. Tôi không thể cử động."

    "Thế Frank thì sao?"

    "Ông ấy không bị bắn. Nhưng chúng ta phải đưa ông ấy đến bác sỹ. Sao anh biết chúng tôi ở đây?"

    "Frank gọi và nói tôi kiểm tra tài liệu về nơi này."

    Gillette nhớ Bishop có gọi cho ai đó từ phòng khách sạn của Nolan.

    Kiểm tra khắp gian nhà để tìm Nolan, viên cảnh sát trẻ nói, "Tay Backle thọc gậy bánh xe ấy biết Frank và cậu đi với nhau. Hắn có thiết bị nghe trộm điện thoại. Hắn nghe được địa chỉ ở đây và gọi người đến bắt cậu. Tôi đến đây để cảnh báo cậu."

    "Nhưng làm sao mà anh vượt qua được hết đám tắc đường?"

    "Xe đạp của tôi, nhớ không?" Mott bò về phía Bishop, ông đang bắt đầu nhúc nhích. Rồi, từ phía bên kia phòng máy chủ, Nolan đứng dậy và bắn một loạt đạn về phía họ. Cô ta chuồn ra cửa trước.

    Mott miễn cưỡng đuổi theo cô ta.

    Gillette gọi, "Cẩn thận đấy. Cô ta cũng không thể trốn được vì tắc nghẽn. Cô ta sẽ ở bên ngoài, chờ đợi...."

    Nhưng tiếng Gillette bị át đi và hắn nghe thấy một âm thanh đặc biệt đang càng lúc càng gần hơn. Hắn nhận ra rằng, cũng giống như hacker, những người như Patricia Nolan hẳn là chuyên gia ứng biến, một vụ kẹt xe toàn hạt sẽ không làm ảnh hưởng đến kế hoạch của cô ta. Âm thanh đó là tiếng gầm rú của chiếc trực thăng, rõ ràng là chiếc giả làm trực thăng báo chí mà hắn đã nhìn thấy lúc trước, chính nó đã đưa cô ta đến đây.

    Trong chưa đầy ba mươi giây, chiếc máy bay đã đón được cô ta và lại cất cánh, tăng tốc lượn đi, âm thanh nặng nề của cánh quạt nhanh chóng bị thay thế bởi dàn giao hưởng hết sức hài hòa của còi xe ô tô lẫn xe tải inh ỏi khắp khoảng trời chiều.


  3. #42
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 42
    Gillette và Bishop đã quay trở lại CCU.

    Viên thám tử không cần phải ở phòng cấp cứu nữa.

    Chấn động, cơn đau đầu dữ dội và tám mũi khâu là minh chứng duy nhất cho thử thách vừa rồi, cùng với chiếc áo sơ mi mới thay thế cho chiếc áo đầy máu. (Chiếc này có vẻ vừa vặn hơn nhưng dường như vẫn quá rộng để cắm thùng.)

    Đồng hồ chỉ 6:30 chiều và sở giao thông công chính đã tải lại được phần mềm điều khiển đèn giao thông. Phần lớn những đoạn tắc nghẽn ở hạt Santa Clara đã thông. Công ty Jose Computer Products đã phát hiện ra một quả bom xăng và vài thông tin về hệ thống báo cháy của trường đại học Bắc California. Hiểu rõ sở thích nghi binh của Phate, Bishop lo ngại tên giết người đã đặt một thiết bị thứ hai ở khu học xá. Nhưng cuộc kiểm tra kĩ lưỡng toàn bộ khu học xá và những tòa nhà khác trong trường không tìm thấy gì bất thường.

    Và chẳng mấy ngạc nhiên khi Horizon Online khẳng định họ chưa từng nghe nói đến ai tên là Patricia Nolan. Lãnh đạo công ty và trưởng phòng an ninh ở Seatle nói họ chưa từng liên hệ với trụ Sở cảnh sát bang California sau cái chết của Lara Gibson và không một ai gửi email hay fax giấy ủy quyền Nolan cho Andy Anderson. Số máy của Horilon Online mà Anderson đã gọi để xác minh Nolan là một số máy làm việc của Horizon, nhưng theo công ty điện thoại ở Seatle, tất cả các cuộc gọi đến số đó đều được chuyển tiếp đến một máy di động mạng Mobile America với số điện thoại chưa đăng ký hiện đã không còn hoạt động.

    Nhân viên an ninh ở Horizon không biết ai có nhân dạng phù hợp với cô ta. Địa chỉ cô ta dùng để đăng ký ở khách sạn ở San Jose là giả và thẻ tín dụng cũng giả mạo nốt. Tất cả các cuộc gọi từ khách sạn của cô ta đều đến cùng số điện thoại mạng Mobile America bị hack nói trên.

    Tất nhiên, không một ai ở CCU tin lời phủ định của Horizon. Nhưng khó mà chứng minh sự liên hệ giữa HOL (Horizon Online) và Patricia Nolan cũng như việc trước tiên là tìm ra cô ta. Một bức ảnh của cô ta từ băng an ninh ở trụ sở CCU đã được đăng lên ISLEnet để thông tin cho Cục cảnh sát bang trên toàn liên bang và gửi đến FBI để đăng lên VICAP. Tuy vậy, Bishop buộc phải xấu hổ thừa nhận rằng, mặc dù người phụ nữ này đã ở ngay trụ sở cảnh sát bang trong vài ngày, nhưng họ lại không có bất kỳ dấu vân tay nào của cô ta và rất có thể bề ngoài của cô ta khác biệt nhiều so với hình ảnh trong băng.

    Ít nhất thì nơi trốn của tên đồng chủ mưu còn lại đã được tìm ra. Xác của Shawn - Stephen Miller, được tìm thấy trong cánh rừng phía sau nhà hắn, hắn tự sát bằng khẩu súng lục ổ quay của mình sau khi biết rằng sự thật về mình đã bị phanh phui. Lá thư hối lỗi tuyệt mệnh của hắn, như một lẽ tất nhiên, được viết dưới dạng một email.

    Linda Sanchez và Tony Mott cố gắng chắp ghép lại mức độ thiệt hại từ sự phản bội của Miller. Cảnh sát bang sẽ phải ra thông cáo rằng một nhân viên của họ là đồng phạm trong vụ giết người của tay hacker ở Thung lũng Silicon. Bộ nội vụ muốn biết mức độ thiệt hại mà Miller đã gây ra và hắn đã là đồng sự kiêm người tình của Phate từ khi nào.

    Đặc vụ Bộ Quốc phòng Backle vẫn quyết tâm tóm cổ Wyatt Gillette với một danh sách những tội danh liên quan đến Chương trình mã hóa Standard 12 và giờ còn muốn bắt cả Frank Bishop vì đã thả một phạm nhân liên bang.

    Với cáo buộc về vụ hack Chương trình Standard 12 của Gillette, Bisphop giải thích với Đại tá Bernstein, "Thưa ngài, sự việc khá rõ ràng là Gillette đã chiếm quyền truy cập gốc tại một trong những trang FTP của Holloway và tải về một bản sao của bản mã hay chỉ đơn giản là thâm nhập trực tiếp vào máy của Holloway, xuyên tường lửa và có được một bản sao theo cách đó."

    "Thế nghĩa là thế quái nào?" Viên cảnh sát tóc hoa râm húi cua quát.

    "Xin lỗi ngài," Bishop nói, rồi diễn giải bài nói đầy tính kỹ thuật của mình. "Ý tôi là tôi nghĩ chính Holloway đã đột nhập vào Bộ Quốc phòng và viết chương trình giải mã. Gillette đánh cắp nó từ hắn và sử dụng nó vì chúng tôi yêu cầu cậu ta làm thế."

    "Anh nghĩ thế," Bernstein lẩm bẩm một cách thiếu tin tưởng. "Chà, tôi không hiểu mấy chuyện máy móc này." Nhưng ông ta vẫn nhấc máy và gọi cho Tổng Chưởng lý Hoa Kỳ (Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hoa Kỳ), vị này đồng ý xem xét kỹ bất kỳ bằng chứng nào CCU có thể đưa ra đế củng cố cho giả thuyết của Bishop trước khi khởi tố tội danh chống lại Gillette hay Bishop (Danh tiếng của cả hai đang lên cao vì đã tóm được 'Tay Kracker ở Thung lũng Silicon', cách truyền hình địa phương gọi Phate).

    Tay đặc vụ đành miễn cưỡng quay về văn phòng của mình ở San Francisco's Presidio.

    Tuy vậy, ngay thời điểm này, tất cả các cơ quan hành pháp đã chuyển sự chú ý từ Phate và Miller sang vụ MARINKILL. Những thông báo gần đây cho biết những tên giết người này lại xuất hiện, lần này thì ngay sát vách, ở San Jose, rõ ràng vài ngân hàng đã lọt vào tầm ngắm của chúng. Bishop và Shelton đã được triệu tập vào đơn vị phối hợp FBI - Đội đặc nhiệm Cảnh sát bang cho nhiệm vụ này. Họ có vài giờ để ăn tối cùng gia đình, rồi sẽ tường trình trước văn phòng Cục cảnh sát San Jose lúc tối muộn.

    Bob Shelton đã về đến nhà (động thái tạm biệt duy nhất dành cho Gillette là một cái nhìn khó hiểu, và Gillette cũng không buồn để tâm đến ẩn ý của nó). Còn Bishop lại quyết định trì hoãn chuyến thăm nhà và chia sẻ món Pop-Tarts cùng cà phê với tay hacker trong khi chờ đợi người đến đưa hắn trở lại San Ho.

    Điện thoại reo. Bishop trả lời, "Đơn vị điều tra tội phạm máy tính xin nghe."

    Ông lắng nghe một lát. "Chờ một chút." Ông nhìn Gillette, nhướng mày. Rồi đưa ống nghe cho hắn. "Của cậu đây."

    Hắn cầm máy. "A lô?"

    "Wyatt."

    Giọng Elana vang lên quá đỗi thân thuộc đến mức hắn gần như cảm nhận nó ngay dưới những ngón tay đang gõ nhịp của mình. Chỉ riêng âm sắc nơi giọng nói của cô đã luôn tiết lộ cho hắn toàn bộ tâm hồn cô, và chỉ cần nghe một từ thôi là đủ để hắn biết liệu rằng cô đang đùa vui, giận dỗi, tức giận, buồn phiền hay say mê. Hôm nay, trong lời chào của cô, hắn cảm nhận rằng cô gọi cho hắn một cách miễn cưỡng và có vẻ đề phòng, như những tấm giáp trên phi thuyền trong những bộ phim khoa học viễn tưởng mà họ đã xem cùng nhau.

    Dù sao thì, cô cũng đã gọi.

    Cô nói, "Em nghe nói hắn đã chết. Jon Holloway. Em nghe trên tin thời sự."

    "Đúng vậy."

    "Anh có ổn không?"

    "Ổn."

    Một sự im lặng kéo dài. Như muốn lấp đầy sự im lặng; cô nói tiếp, "Em sẽ vẫn đi New York."

    "Với Ed."

    "Vâng."

    Hắn nhắm mắt và thở dài. Rồi, với giọng nói có phần đanh lại, hắn hỏi, "Vậy tại sao em lại gọi?"

    "Em nghĩ là để hỏi xem liệu anh có muốn ghé qua không, anh có thể đến."

    Gillette băn khoăn: Sao phải bận tâm? Để làm gì?

    Hắn nói, "Mười phút nữa anh đến."

    Họ gác máy. Hắn quay ra thì thấy Bishop đang thận trọng nhìn hắn. Gillette nói, "Cho tôi một giờ thôi."

    "Tôi không thể đưa cậu đi," viên thám tử nói.

    "Cho tôi mượn một chiếc xe."

    Viên thám tử đắn đo, nhìn quanh phòng máy chủ, cân nhắc. Ông nói với Linda Sanchez, "Ở CCU có chiếc xe nào mà cậu ấy có thể sử dụng không?"

    Cô miễn cưỡng đưa chìa khóa cho ông. "Việc này không đúng nguyên tắc đâu, sếp."

    "Tôi sẽ chịu trách nhiệm."

    Bishop tung chùm chìa khóa cho Gillette rồi móc điện thoại ra và gọi cho những người sẽ áp tải hắn về San Ho. Ông cho họ địa chỉ nhà Elana và nói ông cho phép Gillette ở đó. Tù nhân sẽ quay lại CCU sau một tiếng. Ông gác máy.

    "Tôi sẽ quay lại," tay hacker nói.

    Hai người đối diện nhau một lát. Họ bắt tay. Gillette gật đầu rồi dợm bước ra cửa.

    "Khoan đã," Bishop lo lắng hỏi. "Cậu có bằng lái không?"

    Gillette bật cười, "Không, tôi không có bằng lái."

    Bishop nhún vai và nói, "Ồ, vậy đừng để bị chặn lại."

    Tay hacker gật đầu và trang nghiêm nói, "Phải. Họ có thể cho tôi vào tù."

    ° ° °

    Ngôi nhà hôm nay có mùi thơm của chanh, như thường lệ.

    Đó là nhờ tài nội trợ đảm đang của Irene Papandolos, mẹ của Ellie. Bà không phải là quý bà Hy Lạp trầm lặng, thận trọng kiểu truyền thống mà là một nữ doanh nhân sắc sảo, sở hữu một công ty thực phẩm nhưng vẫn có thể sắp xếp thời gian nấu từng bữa ăn hoàn chỉnh cho gia đình. Đang là giờ ăn tối và bà mặc chiếc tạp dề chấm bi bên ngoài bộ vét công sở màu đỏ hoa hồng.

    Bà chào Gillette bằng một cái gật đầu lạnh nhạt và mời hắn vào nhà.

    Hắn ngồi xuống một chiếc trường kỉ, bên dưới bức ảnh chụp bờ sông Piraeus. Gia đình rất quan trọng với người Hy Lạp, hai chiếc bàn bày biện nhiều bức ảnh gia đình cùng họ hàng trong vô số kiểu khung, một số rẻ tiền, một số mạ bạc và vàng. Gillette thấy một tấm ảnh chụp Elana mặc váy cưới. Hắn không nhận ra bức ảnh và băn khoăn liệu có phải lúc đầu đó là ảnh chụp hai người họ và hình của hắn đã bị cắt bỏ ra.

    Eỉana bước vào phòng.

    "Anh tự đến đây à?" Cô hỏi, không hề mỉm cười. Cũng không chào.

    "Ý em là sao?"

    "Không có cảnh sát hộ tống à?"

    "Em thấy có vài cảnh sát đi qua. Em thắc mắc có phải là họ đi cùng anh." Cô hất đầu về phía bên ngoài.

    "Không," Gillette nói. Dù hắn cùng nghĩ có thể vài viên cảnh sát đi theo hắn thật.

    Cô ngồi đó và vân vê gấu chiếc áo cánh hiệu Standford đang mặc.

    "Anh không nói tạm biệt đâu," hắn nói. Cô cau mày còn hắn vẫn tiếp tục, "Vì anh muốn nói chuyện với em khi được tự do. Anh muốn vẫn được nhìn thấy em."

    "Nhìn em ư? Anh đang ở trong tù, Wyatt."

    "Năm tới anh được ra rồi."

    Cô bật cười kinh ngạc vì tự trơ lì của hắn.

    Hắn nói, "Anh muốn làm lại từ đầu."

    "Anh muốn làm lại, thế còn điều em muốn thì sao?"

    "Anh có thể mang lại cho em những gì em muốn. Anh sẽ làm được. Anh đã suy nghĩ rất nhiều. Anh có thể làm em yêu lại anh. Anh không muốn em bước ra khỏi đời mình."

    "Anh chọn máy tính thay vì em. Anh đã có những gì mình muốn."

    "Chuyện đó là quá khứ

    "Cuộc sống của em giờ đã khác. Em rất hạnh phúc."

    "Thật chứ!"

    "Vâng," Elana dứt khoát nói.

    "Nhờ có Ed?"

    "Một phần nhờ anh ấy... Thôi nào, Wyatt, anh có thể mang lại gì cho em? Anh là tội phạm. Anh nghiện những chiếc máy đáng ghét của anh. Anh không có công việc và quan tòa nói rằng kể cả khi ra tù anh cũng không được phép tiếp xúc với mạng Internet trong vòng một năm."

    "Vậy Ed có một công việc tốt? Phải không? Anh không biết là thu nhập tốt lại quan trọng với em đấy."

    "Câu hỏi ấy không có nghĩa lí gì, Gillette. Vấn đề là trách nhiệm. Còn anh thì rất vô trách nhiệm."

    "Anh đã vô trách nhiệm. Anh thừa nhận điều đó. Nhưng anh sẽ không như thế nữa." Hắn cố gắng nắm tay cô nhưng cô nhẹ nhàng rút tay ra. Hắn nói, "Thôi nào, Ellie... Anh đã xem những email của em. Khi em nói về Ed thì có vẻ anh ta sẽ không phải là người chồng hoàn hảo."

    Cô khựng lại và hắn hiểu mình đã chạm đúng huyệt. "Đừng lôi Ed vào chuyện này. Em đang nói về anh và em."

    "Anh cũng vậy. Anh cũng đang nói về anh và em. Anh yêu em. Anh biết anh đã biến đời em thành địa ngục. Sẽ không bao giờ như thế nữa. Em muốn có con, một cuộc sống bình thường. Anh sẽ tìm một công việc. Chúng ta sẽ có một gia đình."

    Một thoáng lưỡng lự.

    Hắn khẩn khoản. "Tại sao em phải đi vào ngày mai? Tại sao phải vội vã như vậy?"

    "Thứ Hai tới, em sẽ bắt đầu công việc mới."

    "Tại sao lại là New York?"

    "Bởi vì đó là nơi xa nhất em có thể tránh khỏi anh."

    "Hãy chờ một tháng. Chỉ một tháng thôi. Anh được hai lần thăm nuôi một tuần. Hãy đến gặp anh." Hắn mỉm cười. "Chúng ta có thể đi bên nhau. Cùng ăn pizza."

    Nước mắt cô bắt đầu tuôn lã chã và hắn cảm nhận thấy cô đang đấu tranh.

    "Có phải mẹ em đã cắt anh khỏi tấm ảnh đó?" Hắn nhoẻn miệng cười và hất đầu về phía tấm ảnh chụp cô trong bộ váy cô dâu.

    Cô khẽ mỉm cười. "Không. Tấm đó Alexis chụp - trên bãi cỏ. Chỉ có em thôi. Nhớ không, tấm mà anh không nhìn được chân em."

    Hắn bật cười. "Có bao nhiêu cô dâu đánh mất giầy trong ngày cưới của mình nhỉ?"

    Cô gật đầu. "Chúng ta cứ thắc mắc mãi không biết chuyện gì xảy ra với chúng nữa."

    "Ôi, anh xin em Ellie. Hãy lùi lại chỉ một tháng thôi. Đó là tất cả những gì anh khẩn nài."

    Đôi mắt cô chăm chú nhìn vài bức ảnh. Cô định nói điều gì đó nhưng mẹ cô đột ngột xuất hiện ở ngưỡng cửa. Khuôn mặt sa sầm của bà còn tối tăm hơn cả lúc trước. "Có cuộc gọi cho cậu."

    "Cho cháu?" Gillette hỏi.

    "Là ai đó tên Bishop. Ông ấy nói là việc quan trọng."

    "Frank, có chuyện..."

    Giọng viên thám tử rất cấp bách. "Hãy nghe kĩ đây, Wyatt. Chúng ta có thể mất liên lạc bất cứ lúc nào. Shawn chưa chết."

    "Cái gì? Nhưng Miller..."

    "Không, chúng ta đã nhầm. Stephen Miller không phải là Shawn. Đó là kẻ khác. Tôi đang ở CCU. Linda Sanchez tìm thấy một tin nhắn gửi cho tôi trên tin nhắn thoại ở máy chủ của CCU. Trước khi chết Miller đã gọi và để lại tin nhắn. Có nhớ lúc Phate đột nhập CCU và tấn công cậu?"

    "Đúng rồi"

    "Lúc đó Miller vừa trở về từ bệnh viện. Anh ấy đang trong bãi đỗ xe thì nhìn thấy Phate chạy ra khỏi tòa nhà và nhảy lên một chiếc xe. Anh ấy đã đuổi theo hắn."

    "Tại sao?"

    "Để tóm hắn."

    "Một mình?" Gillette hỏi.

    "Tin nhắn nói rằng anh ấy muốn tự tay mang tên giết người về. Anh ấy nói rằng anh ấy đã mắc sai lầm nhiều lần, anh ấy muốn chứng tỏ mình có thể làm điều gì đó đúng đắn."

    "Vậy là anh ấy không tự sát?"

    "Không. Họ chưa khám nghiệm tử thi nhưng tôi đã nhờ một chuyên gia khám nghiệm kiểm tra dấu vết thuốc súng trên tay anh ấy. Không hề có chút nào, nếu anh ta tự tử, sẽ phải có rất nhiều vết thuốc súng. Chắc chắn Phate đã nhìn thấy Miller bám theo và giết anh ấy. Rồi hắn giả là Miller và cố tình để bị bắt gặp khi thâm nhập vào trang của Bộ Ngoại giao. Hắn đã hack máy tính của Miller ở CCU và đặt những email giả, mang toàn bộ máy và đĩa ở nhà anh đi. Chúng tôi chắc chắn lá thư tuyệt mệnh cũng là giả. Tất cả là để ngăn chúng ta tìm kiếm Shawn thật."

    "Vậy thì hắn là ai?"

    "Tôi không có manh mối gì. Tôi chỉ biết là chúng ta đang gặp một rắc rối thật sự. Tony Mott đang ở đây. Shawn đã hack vào máy xử lý mệnh lệnh chiến thuật của FBI ở Washington và San Jose, hắn đã xâm nhập thông qua ISElnet và có quyền truy cập gốc." Hạ giọng, Bishop nói tiếp, "Giờ hãy nghe kỹ đây. Shawn đã phát đi lệnh bắt và quy tắc tác chiến đối với những nghi phạm vụ MARINKILL. Chúng tôi đang xem màn hình đây."

    "Tôi không hiểu," Gillette nói.

    "Lệnh bắt cho biết những nghi phạm này đang ở số 3245 đại lộ Abrego Avenue ở Sunnyvale."

    "Nhưng đó là chỗ này! Nhà của Elana."

    "Tôi biết. Hắn đã chỉ thị cho các đội tác chiến tấn công trong hai mươi lăm phút nữa."

  4. #43
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    VI. TẤT CẢ NẰM Ở
    CÁCH ĐÁNH VẦN, CÁCH VIẾT

    Chương 43
    Elana bước đến và nhìn thấy vẻ thất thần của Gillette. "Có chuyện gì thế? Đang xảy ra chuyện gì?"

    Hắn không để ý đến cô mà vẫn nói với Bishop, "Hãy gọi cho FBI. Nói cho họ biết mọi chuyện. Gọi cho Washington nữa."

    "Tôi đã thử," Bisphop đáp lại. "Bernstein cũng thử rồi. Nhưng các đặc vụ đều dập máy. Quy tắc tác chiến mà Shawn phát lệnh nói rằng những tên tội phạm có thể giả làm cảnh sát bang và tìm cách hủy lệnh hoặc trì hoãn lệnh tấn công. Chỉ mã trên máy tính có hiệu lực. Mọi lời nói đều vô hiệu. Kể cả là từ Washington. Nếu chúng tôi có thêm thời gian có lẽ chúng tôi có thể thuyết phục họ, nhưng..."

    "Lạy Chúa, Frank..."

    Làm thế nào mà Shawn biết hắn đang ở đây? Rồi hắn nhớ ra Bishop đã gọi cho cảnh sát để báo rằng Gillette sẽ ở nhà Elana trong một tiếng. Hắn nhớ rằng Phate cùng với Shawn đã kiểm soát tín hiệu vô tuyến và điện thoại với những từ khóa như Triple-X, Holloway/ Gillette. Chắc hẳn Shawn đã nghe được cuộc nói chuyện của Bishop.

    Bishop nói, "Giờ họ đã đến sát ngôi nhà, đang ở một khu vực tập kết." Viên thám tử nói thêm, "Tôi chỉ không hiểu tại sao Shawn lại làm việc này."

    Nhưng Gillette thì biết.

    Sự trả thù của hacker là sự trả thù của lòng kiên nhẫn.

    Nhiều năm trước, Gillette đã phản bội Phate, phá vỡ cuộc sống trong vỏ bọc giả tạo hoàn hảo mà hắn đã tự tạo cho mình, và hôm nay, Gillette đã góp phần kết liễu hoàn toàn cuộc sống của tay hacker đó. Giờ thì Shawn sẽ phá hủy Gillette và những gì thân yêu nhất của hắn.

    Hắn nhìn ra cửa sổ, hắn nghĩ mình nhìn thấy vài dáng người đang chuyển động.

    "Wyatt?" Elana hỏi. "Có chuyện gì vậy?" Cô định ngó ra ngoài cửa sổ nhưng hắn kéo mạnh cô lại. "Cái gì thế?" Cô quát lên.

    "Lùi lại! Tránh xa tất cả các cửa sổ!"

    Bishop nói tiếp. "Shawn đã ban ra Quy tắc tác chiến cấp độ bốn - có nghĩa là các đội SWAT sẽ không phát lệnh yêu cầu đầu hàng. Họ được chuẩn bị tinh thần để đối mặt với sự chống trả liều chết. Đó cũng chính là quy tắc tác chiến họ sử dụng khi chống lại những tên khủng bố liều chết."

    "Vậy là họ sẽ ném hơi cay vào trong," Gillette lẩm bẩm, "rồi đá tung cửa và bất cứ ai cử động sẽ bị bắn chết."

    Bishop ngắt lời. "Có thể là như thế."

    "Wyatt?" Elana hỏi. "Đang xảy ra chuyện gì thế? Nói cho em đi!"

    Hắn quay lại, quát lên, "Hãy bảo mọi người nằm sấp xuống sàn phòng khách! Cả em nữa! Ngay bây giờ!"

    Đôi mắt đen thẫm của cô bừng bừng nỗi tức giận và sợ hãi. "Anh đã làm gì thế?"

    "Anh xin lỗi, anh xin lỗi... Hãy làm ngay đi. Nằm xuống!"

    Hắn quay lại, nhìn ra ngoài cửa sổ. Hắn có thể thấy hai chiếc xe tải to màu đen đang chầm chậm lăn bánh dọc con phố cách năm mươi feet. Phía xa, một chiếc trực thăng bay lượn cách mặt đất một trăm feet.

    "Nghe này, Wyatt, FBI sẽ không tiến hành tấn công chừng nào chưa có xác nhận cuối cùng. Đó là một phần của quy tắc tác chiến. Có cách nào tắt được máy tính của Shawn không?"

    "Bật loa cho Tony."

    "Tôi đây," Mott nói.

    "Anh có đang ở trên hệ thống của FBI không?"

    "Có, chúng tôi có thể xem màn hình. Shawn giả làm Trung tâm điều hành tác chiến ở Washington, phát ra mã lệnh. Đơn vị tác chiến của khu vực này vẫn phản hồi như công việc bình thường."

    "Anh có thể lần ngược trở lại cuộc gọi đến chỗ của Shawn được không?"

    Mott nói, "Chúng tôi không có lệnh cho phép nhưng tôi sẽ tác động với Pac Bell xem. Cho tôi một hoặc hai phút."

    Âm thanh của xe tải hạng nặng vang lên bên ngoài. Chiếc trực thăng đang tới gần.

    Gillette nghe thấy tiếng khóc thổn thức của mẹ Elana và những lời nói tức giận của em trai cô từ phòng khách vọng vào. Riêng Elana chỉ nín lặng. Hắn thấy cô ra dấu thánh, ngước lên nhìn hắn một cách vô vọng rồi chúi đầu xuống tấm thảm bên cạnh mẹ cô.

    Ôi, Chúa ơi, con đã làm gì thế này?

    Vài phút sau, Bishop trở lại. "Pac Bell đang tiến hành theo dấu. Đó là một đường viễn thông mặt đất. Họ đã khoanh vùng là văn phòng trung tâm. Hắn ở đâu đó phía tây San Jose, gần đại lộ Winchester. Chỗ nhà kho của Phate."

    Gillette hỏi, "Ông nghĩ là hắn đang ở tòa nhà công ty máy tính San Jose? Có lẽ hắn lẻn vào trong sau khi các ông kết thúc việc khám nghiệm ở đó."

    "Hoặc có lẽ hắn ở đâu đó quanh đây, có hàng tá nhà kho cũ gần đó. Tôi sẽ vắng mặt trong mười phút," viên thám tử nói, "Tôi sẽ đến đó ngay. Người anh em, tôi ước chúng ta biết Shawn là ai."

    Một suy nghĩ thoáng qua trong Gillette - Giống như khi hắn viết mã, hắn thường áp dụng giả thiết chống lại những sự thật đã biết và những quy luật logic. Hắn đi tới một kết luận. Hắn nói, "Tôi có một ý về việc đó."

    "Về Shawn?"

    "Phải. Bob Shelton đâu?"

    "Ở nhà. Sao cậu hỏi thế?"

    "Hãy gọi xem có đúng ông ấy ở đó không?"

    Vài phút sau, điện thoại nhà Papandolos reo vang, Gillette chộp lấy ống nghe. Frank Bishop gọi lại trên đường phóng từ San Carlos đến Winchester.

    "Bob đáng lẽ ra phải ở nhà," Bishop nói, "nhưng không có ai trả lời. Dù vậy nếu cậu nghĩ Bob là Shawn thì cậu sai đấy."

    Nhìn ra cửa sổ, thấy một chiếc xe cảnh sát khác đi ngang qua, theo sau là một xe tải loại quân dụng, Gillette nói, "Không, Frank, nghe này, Shelton nói ông ấy ghét máy tính, không biết tí gì về chúng. Nhưng nhớ lại xem, ông ta có phần cứng đó trong nhà."

    "Có gì cơ?"

    "Ổ đĩa mà chúng ta đã nhìn thấy - đó là một loại phần cứng mà chỉ những người giỏi hack hoặc chạy bảng tin cách đây vài năm mới sử dụng."

    "Tôi không biết," Bishop chậm rãi nói. "Có lẽ đó là tang chứng hay đại loại thế."

    "Ông ấy đã bao giờ điều tra vụ nào liên quan đến máy tính trước vụ này chưa?"

    "Chà, chưa..."

    Gillette nói tiếp, "Và ông ấy biến mất một lúc trước khi chúng ta đột kích nhà Phate ở Los Altos. Ông ta có thời gian gửi tin nhắn về mã đột kích để Phate có cơ hội trốn thoát. Nghĩ mà xem, chính vì ông ta mà Phate xâm nhập được vào ISLEnet và có địa chỉ các máy tính của FBI cùng mã tác chiến. Shelton nói ông ta lên mạng để kiểm tra về tôi. Nhưng thực ra thì ông ta đã để lại mật khẩu và địa chỉ máy tính của CCU cho Phate - nhờ thế hắn có thể đột nhập ISLEnet."

    "Nhưng Bob không phải là người rành máy tính."

    "Đấy là ông ta nói thế. Nhưng ông có biết chắc không? Ông có hay qua nhà ông ấy không?"

    "Không."

    "Ông ta làm gì vào buổi tối?"

    "Thường là ở nhà."

    "Không bao giờ ra ngoài?"

    Bishop do dự đáp lại, "Không."

    "Đó là thói quen của hacker."

    "Nhưng tôi đã biết anh ấy ba năm rồi."

    "Social engineering."

    Bishop nói, "Không thể nào. Chờ chút, có một cuộc gọi đến."

    Trong khi chờ máy, Gillette nhòm qua tấm rèm. Hắn có thể nhìn thấy thứ gì đó trông giống như xe tải chở lính đỗ cách đó không xa. Những bóng người di chuyển sau những bụi cây dọc con đường. Cảnh sát trong trang phục ngụy trang chạy từ hàng rào này qua hàng rào khác. Dường như có đến cả trăm sỹ quan bên ngoài.

    Bishop nối máy trở lại.

    "Pac Bell đã có địa điểm mà Shawn đột nhập vào hệ thống của FBI. Hắn đang ở công ty máy tính San Jose. Tôi gần đến đó rồi. Tôi sẽ gọi cho cậu khi vào trong."

    Frank Bishop gọi cứu viện rồi đỗ xe trong bãi đỗ bên kia đường, khuất tầm nhìn của tòa nhà, tòa nhà máy tính San Jose dường như không có cửa sổ nhưng ông sẽ không để Shawn nhìn thấy mình.

    Cúi rạp mình, di chuyển thật nhanh mặc cho cơn đau khủng khiếp nơi thái dương và sau đầu, Bishop đã đến được chỗ nhà kho.

    Ông không tin kết luận của Gillette về Bob Shelton. Nhưng ông cũng không thể bỏ qua điều đó. Trong tất cả những đồng sự ông từng làm việc cùng, ông biết về Shelton ít nhất. Viên cảnh sát to lớn thường chỉ ở nhà vào buổi tối. Ông ta không giao du với những cảnh sát khác. Trong khi ngay bản thân Bishop chẳng hạn, tuy cũng có kiến thức cơ bản về ISLEnet nhưng cũng không thể vào hệ thống đó để tìm kiếm thông tin về Gillette như Shelton đã làm. Ông cũng nhớ lại là Shelton từng xung phong nhận vụ này, Bishop còn nhớ đã thắc mắc tại sao ông ta lại muốn nhận vụ này hơn vụ MARINKILL.

    Nhưng chẳng còn gì quan trọng vào lúc này. Dù Shawn có phải là Bob hay ai khác, Bishop chỉ có mười lăm phút trước khi đội tác chiến liên bang bắt đầu cuộc tấn công. Rút súng ra, ông nép mình vào bức tường bên cạnh khoang chất hàng và dừng lại, nghe ngóng. Ông không nghe thấy tiếng động gì từ bên trong.

    Được rồi... Đi thôi!

    Đẩy cánh cửa mở ra, Bishop chạy xuống lan can, qua văn phòng và vào trong nhà kho ẩm ướt. Bên trong tối đen và dường như trống không. Ông tìm thấy một dãy đèn trần và bật công tắc đèn bằng tay trái, tay còn lại giơ khẩu súng ra phía trước. Thứ ánh sáng ảm đạm chiếu sáng toàn bộ không gian, ông thấy rõ là nó hoàn toàn trống rỗng.

    Ông lại chạy ra ngoài để tìm kiếm một tòa nhà khác mà có thể Shawn đang sử dụng. Nhưng không còn công trình nào có liên kết với căn nhà kho. Khi ông vừa định quay lưng lại thì bỗng để ý thấy rằng nhìn từ phía ngoài, căn nhà kho to hơn nhiều so với không gian bên trong.

    Vội vàng chạy ngược trở lại trong tòa nhà, ông thấy ở một đầu của nhà kho, một bức tường có vẻ như được thêm vào, so với kiến trúc ban đầu của tòa nhà, dường như nó mới được dựng lên. Phải rồi, Phate chắc chắn đã xây thêm một căn phòng bí mật. Đó là nơi Shawn đang trú ẩn...

    Trong một góc khuất của căn phòng, ông tìm thấy một tấm ván không có tay nắm gắn vào bản lề và lặng lẽ kiểm tra nó. Nó không khóa. Ông hít một hơi thật sâu, lau mồ hôi tay vào chiếc áo sơ mi thùng thình rồi đẩy tấm ván một lần nữa. Liệu tiếng bước chân của ông hay tiếng bật công tắc đèn đã cảnh báo cho Shawn biết về sự xâm nhập này hay chưa? Liệu hắn có đang cầm vũ khí chực chờ sẵn nơi ngưỡng cửa?

    Tất cả đều kết thúc bằng việc này...

    Frank Bishop đẩy cánh cửa, giơ khẩu súng lên.

    Ông thụp người xuống, đảo mắt tìm mục tiêu, nhìn khắp căn phòng tối, hơi lạnh tỏa ra từ chiếc máy điều hòa nhiệt độ. Không có dấu hiệu của Shawn, chỉ toàn máy móc và thiết bị, thùng và giá xếp hàng, dụng cụ, xe nâng thủy lực điều khiển bằng tay.

    Trống không. Chẳng có gì...

    Đúng lúc đó ông nhìn thấy nó.

    Ôi, không...

    Bishop nhận ra rằng số phận của Wyatt Gillette cùng với vợ và gia đình cô đã được định đoạt.

    Căn phòng này chỉ là một trạm chuyển tiếp tín hiệu điện thoại Shawn đang hack từ một nơi khác.

    Ông miễn cưỡng gọi cho Gillette.

    Tay hacker nghe máy và tuyệt vọng nói, "Tôi có thể thấy họ, Frank. Họ có súng máy. Chuyện này sẽ rất tệ. Ông có tìm được gì không?"

    "Wyatt, tôi đang ở trong căn nhà kho đó... Nhưng... Tôi xin lỗi. Shawn không có ở đây. Đây chỉ là trạm chuyển tiếp điện thoại hay đại loại thế." Ông mô tả chiếc hộp kim loại to màu đen.

    "Nó không phải là hộp trung chuyển đâu," Gillette lẩm bẩm, giọng hắn chìm vào cơn tuyệt vọng. "Nó là một cầu dẫn Internet. Nhưng cũng không ích gì với chúng ta cả. Phải mất một giờ mới lần ngược lại được Shawn. Chúng ta sẽ không thể tìm ra hắn kịp."

    Bishop nhìn chằm chằm chiếc hộp. "Không hề có công tắc trên đó và dây dẫn thì nằm dưới sàn, nơi này cũng là một phòng máy chủ giống như ở CCU. Nên cũng không có phích cắm để rút."

    "Dù thế nào cũng không ích gì đâu. Ngay cả khi ông tắt nó đi, tín hiệu của Shawn sẽ tự động tìm một đường dẫn khác đến FBI."

    "Có lẽ có thứ gì khác ở đây cho chúng ta biết hắn ở đâu." Bishop tuyệt vọng lục lọi chiếc bàn và những chiếc thùng đóng gói. "Có rất nhiều giấy và sách."

    "Có những gì?" Tay hacker hỏi, nhưng giọng nói đây tuyệt vọng của hắn đã trở lên đều đều, sự tò mò trẻ thơ đã biến mất tự bao giờ.

    "Sách hướng dẫn, bản in, bảng chấm công, đĩa máy tính. Hầu hết là những đồ kỹ thuật. Từ Sun Microsystems, Apple, Harvard và Westem Electric - những nơi Phate từng làm việc." Bishop xáo tung tất cả các thùng, giấy lộn vung vãi khắp nơi. "Không, không có gì ở đây cả." Bishop tuyệt vọng nhìn xung quanh. "Tôi sẽ cố đến nhà Ellie kịp lúc, thuyết phục Cục điều tra liên bang cử một nhà thương thuyết đến trước khi họ bắt đầu tấn công."

    "Ông đang ở cách xa hai mươi phút, Frank." Gillette thì thầm. "Ông sẽ không thể làm được đâu."

    "Tôi sẽ cố," viên thám tử nhẹ nhàng nói. "Nghe này, Wyatt, hãy đi vào giữa phòng khách và nằm xuống. Giang rộng tay ra. Hãy cầu nguyện điều tốt đẹp nhất." Ông dợm bước ra cửa.

    Bỗng ông nghe Gillette reo lên, "Khoan đã!"

    "Có chuyện gì thế?"

    Tay hacker nói, "Mấy quyển hướng dẫn sử dụng mà hắn đóng gói. Nói lại xem là của những công ty nào?"

    Bishop nhìn đống tài liệu. "Những nơi mà Phate từng làm việc. Harvard, Sun, Apple, Westem Electric. Và..."

    "NEC!" Gillette thốt ra.

    "Đúng vậy!"

    "Đó là một kiểu ghép chữ cái đầu!"

    "Ý cậu là sao?" Bishop hỏi.

    Gillette nói, "Nhớ lại xem? Tất cả những tên ghép mà các hacker thường dùng? Chữ cái đầu của những nơi hắn từng làm việc - S trong từ Sun. H trong Harvard. A trong Apple, Westem Electric, NEC... S, H, A, W, N... Chiếc máy ở trong phòng với ông... Nó không phải là một cầu dẫn. Chiếc hộp đó - nó chính là Shawn. Hắn đã tạo ra nó từ mã và phần cứng hắn ăn cắp được!"

    Bishop thấy thật buồn cười. "Không thể nào."

    "Không, chính vì thế mà việc lần tìm dẫn đến đó. Shawn là một cỗ máy. Hắn ta ...nó đang phát ra tín hiệu. Trước khi chết, Phate chắc chắn đã lập trình để nó xâm nhập vào hệ thống của Cục điều tra liên bang và sắp xếp cuộc tấn công. Và Phate có biết về Ellie, hắn có nhắc đến tên cô ấy khi đột nhập vào CCU. Dường như hắn nghĩ là vì cô ấy mà tôi phản bội hắn."

    Run lập cập vì hơi lạnh, Bishop đi đến chỗ chiếc hộp màu đen. "Một chiếc máy tính không thể làm tất cả những chuyện này..."

    Nhưng Gillette ngắt lời, "Không, không, không... Sao tôi lại không nghĩ sáng suốt hơn nhỉ? Chỉ có máy móc mới làm được chuyện này. Một siêu máy tính là thứ duy nhất có thể bẻ khóa những tín hiệu đã được mã hóa và kiểm soát tất cả những cuộc gọi rồi chuyển phát sóng vô tuyến ra vào CCU. Một con người không thể làm thế, quá nhiều thứ để nghe trộm. Các máy tính của Chính phủ làm việc đó hàng ngày, nghe những từ khóa như Tống thống và ám sát trong cùng một câu. Đó là cách Phate biết được Andy Anderson sẽ đến Hacker's Knoll và về tôi - chắc chắn Shawn đã nghe Backle gọi cho Bộ Quốc phòng và gửi lại cho Phate mẩu thông tin đó. Và cũng chính nó nghe thấy mã đột kích khi chúng ta sắp tóm hắn ở Los Altos và gửi tin nhắn cho Phate để cảnh báo hắn."

    Viên thám tử nói, "Nhưng những email của Shawn trong máy của Phate... Nghe như một con người đã viết ra chúng."

    "Ông có thể giao tiếp với một chiếc máy theo bất kỳ cách nào ông muốn - việc gửi email cũng như bất cứ thứ gì khác. Phate đã lập trình để nghe như ai đó đã viết chúng. Nó khiến hắn cảm thấy khá hơn khi đọc những thứ giống như ngôn từ của một con người. Như tôi đã kể cho ông, tôi cũng đã làm thế với chiếc máy Trash-80 của mình."

    S-H-A-W-N.

    Tất cả nằm ở cách đánh vần, cách viết...

    "Chúng ta làm gì được?" Viên thám tử hỏi.

    "Có duy nhất một việc thôi. Ông phải..."

    Đường dây bị cắt.

    ° ° °

    "Chúng ta đã ngắt điện thoại của chúng," một kỹ thuật viên thông tin báo cáo với đặc vụ Mark Little, chỉ huy chiến thuật thuộc Cục điều tra liên bang của chiến dịch MARINKILL. "Tất cả di động đã bị ngắt. Không máy di động nào hoạt động trong vòng một dặm."

    Little, cùng với cấp phó của mình, đặc vụ đặc biệt George Steadman, đang ở trong một chiếc xe thùng dùng làm nơi phát lệnh ở Sunnyvale. Chiếc xe đỗ ở góc đường gần ngôi nhà trên phố Abrego, nơi những tên tội phạm trong vụ MARINKILL được báo là đang lẩn trốn.

    Ngắt đường điện thoại là một bước chuẩn hóa trong quy trình. Năm hoặc mười phút trước mỗi cuộc đột kích, dịch vụ điện thoại của đối tượng sẽ bị ngắt. Như thế, không kẻ nào có thể cảnh báo cho chúng về cuộc tấn công sắp xảy ra.

    Little đã trải qua rất nhiều cuộc đột kích khốc liệt vào những địa điểm khó nhằn, phần lớn là những ổ ma túy ở Oakland và San Jose. Anh chưa từng để mất đặc vụ nào. Nhưng chiến dịch này lại là một thách thức đặc biệt đối với đặc vụ ba mươi mốt tuổi này. Anh đã theo vụ MARINKILL ngay từ ngày đầu tiên và đã đọc tất cả các bản tin, bao gồm cái vừa nhận được từ một nguồn tin nặc danh, báo cáo rằng những tên giết người này nghĩ rằng chúng sẽ bị FBI và cảnh sát tiêu diệt nên đã lên kế hoạch tra tấn bất cứ nhân viên hành pháp nào chúng bắt được. Cùng với báo cáo này là một báo cáo khác cho rằng chúng thà chết còn hơn bị bắt sống.

    Ôi trời, chưa bao giờ dễ dàng cả. Nhưng lần này...

    "Mọi người đã sẵn sàng và trang bị áo giáp chưa?" Little hỏi Steadman.

    "Rồi. Cả ba đội và các lính bắn tỉa đã sẵn sàng. Đường phố an toàn. Trực thăng cứu thương từ Travis đã cất cánh. Các xe cứu hỏa đã túc trực sẵn."

    Little gật đầu khi nghe báo cáo. Chà, mọi việc có vẻ rất ổn. Nhưng cái quái gì khiến anh thấy bất ổn thế nhỉ?

    Anh cũng không chắc. Có lẽ là sự tuyệt vọng trong giọng nói của gã đó - kẻ tự nhận mình là cảnh sát bang. Hình như gã tên là Bishop. Lảm nhảm mãi về chuyện kẻ nào đó hack vào hệ thống máy tính của Cảnh sát liên bang và phát mã đột kích giả chống lại những người vô tội.

    Nhưng quy tắc tác chiến phát đi từ Washington đã cảnh báo rằng những tên tội phạm này có thể giả làm đồng nghiệp của họ và khẳng định rằng toàn bộ chiến dịch này là một sự hiểu nhầm. Những tên tội phạm thậm chí có thể giả làm cảnh sát bang. Thêm nữa, Little cũng đã ngẫm nghĩ, hack vào máy tính của Cục điều tra liên bang? Vô lý. Những trang web công khai là một nhẽ, nhưng máy tính chiến thuật an ninh mật? Không thể nào.

    Anh nhìn đồng hồ trên tay.

    Còn tám phút nữa.

    Anh nói với một kỹ thuật viên đang ngồi trước màn hình máy tính, "Lấy lệnh xác nhận vàng."

    Anh ta đánh:

    Từ: CHỈ HUY TÁC CHIẾN, BỘ TƯ PHÁP QUẬN BẮC CALIFORNIA ĐẾN: TRUNG TÂM CHIẾN DỊCH TÁC CHIẾN BỘ TƯ PHÁP, WASHINGTON, D.c.

    RE: BỘ TƯ PHÁP QUẬN BẮC CALIFORNIA CHIẾN DỊCH 139-01 XÁC NHẬN MÃ VÀNG?

    Rồi anh ta nhấn ENTER.

    Có ba mức độ trong mã chiến dịch tác chiến: xanh, vảng và đỏ. Một mã phát lệnh màu xanh cho phép các đặc vụ di chuyển đến địa điểm tập kết của chiến dịch. Việc này đã diễn ra từ nửa tiếng trước. Mã phát lệnh màu vàng được hiểu là họ đã sẵn sàng cho cuộc đột kích và di chuyển vào vị trí xung quanh mục tiêu. Màu đỏ kiểm soát chính cuộc đột kích thực tế.

    Một lát sau, trên màn hình hiện lên tin nhắn:

    TỪ: TRUNG TÂM CHIẾN DỊCH TÁC CHIẾN BỘ TƯ PHÁP, WASHINGTON, D.c

    ĐẾN: CHỈ HUY TÁC CHIẾN, BỘ TƯ PHÁP QUẬN BẮC CALIFORNIA RE: BỘ TƯ PHÁP QUẬN BẮC CALIFORNIA CHIẾN DỊCH 139-01 MÃ VÀNG: <OAKTREE>

    "Hãy in ra," Little ra lệnh cho kỹ thuật viên thông tin. "Vâng, sếp."

    Little và Steadman kiểm tra mật khẩu và thấy rằng 'cây sồi - oaktree' là mật khẩu đúng. Những đặc vụ đã được chấp thuận triển khai chiến dịch quanh ngôi nhà.

    Tuy vậy, anh vẫn ngần ngừ, trong đầu như vang lên giọng nói của gã tự nhận là Frank Bishop. Anh nghĩ về những đứa trẻ bị giết ở Waco. Dù quy tắc tác chiến cấp độ bốn đã khẳng định rằng các chuyên gia thương lượng không thích hợp với những chiến dịch tác chiến liên quan đến tội phạm kiểu này, Little vẫn băn khoăn không biết có nên gọi cho San Prancisco, nơi Cục cảnh sát liên bang có những chuyên gia thương thuyết giải vây xuất sắc mà anh từng làm việc cùng. Có lẽ...

    "Đặc vụ Little?" Tiếng nhân viên thông tin cắt ngang dòng suy nghĩ, anh ta ra hiệu về phía màn hình máy tính. "Tin nhắn của anh."

    Little nhoài người về phía trước và đọc.

    KHẨN CẤP KHẨN CẤP KHẨN CẤP

    TỪ: TRUNG TÂM CHIẾN DỊCH TÁC CHIẾN BỘ TƯ PHÁP, WASHINGTON, D.C

    ĐẾN: CHỈ HUY TÁC CHIẾN, BỘ TƯ PHÁP QUẬN BẮC CALIFORNIA RE: BỘ TƯ PHÁP QUẬN BẮC CALIFORNIA, CHIẾN DỊCH 139-01 QUÂN ĐỘI HOA KỲ

    BÁO CÁO NHỮNG NGHI PHẠM TRONG VỤ MARINKILL ĐÃ ĐỘT NHẬP VÀO KHO QUÂN SỰ Ở SAN PEDRO MILITARY VÀO LÚC 15:40 GIỜ HÔM NAY VÀ ĐÁNH CẮP MỘT LƯỢNG LỚN VŨ KHÍ TỰ ĐỘNG, LỰU ĐẠN CẦM TAY VÀ ÁO GIÁP CHỐNG ĐẠN.

    BÁO CHO CÁC ĐẶC VỤ VỀ TÌNH HUỐNG NÓI TRÊN.

    Trời đất, Little nghĩ, trống ngực đập dồn dập. Tin nhắn đã đánh gục mọi ý nghĩ về chuyên gia thương thuyết. Anh nhìn sang đặc vụ Steadman và bình tĩnh nói, ra hiệu về phía màn hình, "Chuyển mệnh lệnh này, George. Rồi yêu cầu mọi người vào vị trí. Chúng ta sẽ vào trong sáu phút nữa."

  5. #44
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 44
    Frank Bishop bước quanh Shawn.

    Chiếc hộp có diện tích khoảng bốn feet vuông và làm bằng những tấm thép dày. Ở phía sau là một loạt lỗ thông gió nơi hơi nóng tuôn ra thành những làn khói màu trắng như thể hơi thở trong một ngày đông. Tấm ốp phía trước không có gì ngoài ba mắt đèn màu xanh lá cây - những vật chỉ thị sáng rực thi thoảng lại nhấp nháy, cho thấy Shawn đang làm việc hết sức để thực thi lời trăng trối của Phate.

    Viên thám tử cố gắng gọi lại cho Wyatt Gillette nhưng điện thoại không liên lạc được. Ông gọi cho Tony Mott ở CCU. Ông mô tả chiếc máy cho anh và Linda Sanchez, rồi giải thích rằng dường như Gillette nghĩ rằng ông có khả năng làm một việc cụ thể nào đó. Nhưng tay hacker không có đủ thời gian để nói với ông. "Có ý tưởng gì không?"

    Họ tranh luận. Bishop nghĩ ông nên thử tắt chiếc máy và chặn việc truyền mã xác nhận từ Shawn gửi đến đội trưởng đội tác chiến của FBI. Tuy nhiên, Tony Mott cho rằng nếu làm thế có thể vẫn còn một chiếc máy thứ hai ở nơi khác sẽ tiếp nhận việc gửi xác nhận, và một khi xác định Shawn đã bị hạ, có thể nó đã được lập trình trước để gây thiệt hại nặng nề hơn như làm tắc nghẽn máy tính điều khiển không lưu của FAA (Cục hàng không liên bang) ở đâu đó.

    Anh ta nghĩ rằng tốt hơn là tìm cách hack vào máy của Shawn và giành quyền truy cập gốc.

    Bishop không phản đối ý kiến của Mott nhưng ông thấy ở đây không hề có bàn phím nào để sử dụng. Hơn nữa, chỉ còn vài phút là đến thời điểm tấn công, sẽ không có đủ thời gian để bẻ mật khẩu và kiểm soát chiếc máy.

    "Tôi sẽ tắt nó đi," ông nói. "Cứ giữ máy."

    Nhưng viên thám tử không tìm ra cách cụ thể nào để làm việc đó. Ông tìm công tắc nguồn một lần nữa nhưng không tài nào tìm ra. Ông tìm kiếm một đường thoát ra của chiếc máy cho phép ông tiếp cận cáp nguồn bên dưới lớp sàn gỗ dày nhưng cũng không hề có.

    Ông nhìn đồng hồ trên tay.

    Còn ba phút nữa. Không còn thời gian để ra ngoài kiếm hộp biến thế của công ty điện lực.

    Và vì vậy, giống như những gì ông đã làm trong con hẻm ở Oakland sáu tháng trước, khi Tremain Winters nâng khẩu súng mười hai li lên vai, nhắm vào Bishop và hai cảnh sát khác, viên thám tử bình tĩnh lôi khẩu súng ngắn ra và bắn ba phát liên tiếp vào người đối phương.

    Nhưng không như những viên đạn đã kết liễu tên đầu sỏ kia, những viên đạn bọc đồng này bị bẹp thành hình những chiếc bánh dẹt nhỏ và nẩy trên sàn nhà, lớp da của Shawn gần như không suy chuyển.

    Bishop bước lại gần hơn, chọn góc đứng để tránh đạn bật ngược trở lại và xả hết cả băng đạn vào những chiếc đèn hiển thị. Một vài chiếc vỡ tan nhưng từ những lỗ thông gió, hơi nóng vẫn tiếp tục xả ra.

    Bishop tóm lấy chiếc di động và quát lên với Mott, "Tôi vừa xả cả một băng đạn vào chiếc máy đó. Nó vẫn còn Online à?"

    Ông phải ép chặt điện thoại vào đôi tai đã bị ù đi vì tiếng súng nổ để nghe thấy tay cảnh sát trẻ ở CCU nói rằng Shawn vẫn đang hoạt động.

    Mẹ kiếp...

    Ông nạp đạn và chĩa súng vào một lỗ thông gió phía sau hộp và lại xả hết cả băng đạn. Lần này đạn nẩy ra, một mẩu chì nóng rẫy va vào mu bàn tay ông và để lại một vết rách tả tơi trên da. Ông lau sạch máu và tóm lấy điện thoại.

    "Xin lỗi, Frank," Mott tuyệt vọng đáp lại. "Nó vẫn đang chạy."

    Viên cảnh sát nhìn chiếc hộp trong cơn thịnh nộ. Chà, ông cay đắng nghĩ, Phate, nếu mày định đùa với Chúa và tạo ra một dạng sống mới, mày hẳn nhiên biết làm cho nó không thể tổn thương đây.

    Sáu mươi giây.

    Bishop bấn loạn. Ông nghĩ đến Wyatt Gillette, người chỉ gây nên tội lỗi duy nhất là đã sa chân lầm lỡ khi cố gắng trốn tránh một tuổi thơ trống rỗng. Rất nhiều đứa trẻ mà Bishop từng tóm cổ, những đứa trẻ ở East Bay hay Haight giờ đã trở thành những kẻ giết người không gớm tay và vẫn đang tự do tự tại. Còn Wyatt Gillette chỉ đơn giản là đi theo một con đường hầu như vô hại mà Chúa trời và sự tinh hoa của chính hắn đã dẫn dắt, kết cục là, hắn với người phụ nữ hắn yêu, cùng gia đình của cô sắp gánh chịu những điều khủng khiếp.

    Không còn thời gian nữa. Shawn sẽ gửi tín hiệu xác nhận bất cứ lúc nào.

    Ông có thể làm gì để ngăn chặn Shawn đây?

    Có lẽ là đốt cháy thứ khốn kiếp này chăng? Châm lửa bên cạnh lỗ thông gió? Ông chạy đến chỗ chiếc bàn và đổ tung toàn bộ đồ trong các ngăn kéo ra sàn nhà, tìm kiếm những que diêm hoặc một chiếc bật lửa.

    Chẳng có gì.

    Bỗng thứ gì đó nảy ra trong đầu ông.

    Là gì?

    Ông không thể nhớ chính xác, một ý nghĩ từ điều gì đó như thể đã xảy ra nhiều năm rồi - điều gì đó mà Gillette từng nói khi hắn bước vào CCU lần đầu tiên.

    Tay hacker có nói đến lửa.

    Hãy làm điều gì đó đi.

    Ông liếc nhìn đồng hồ. Đã đến thời hạn tấn công rồi. Hai con mắt còn lại của Shawn nhấp nháy đều đều.

    Hãy làm...

    Lửa.

    ... điều gì đó.

    Phải rồi! Bishop đột nhiên quay lưng lại phía Shawn và điên cuồng nhìn quanh căn phòng. Nó kia rồi! Ông chạy đến chỗ chiếc hộp nhỏ màu xám có một nút màu đỏ ở giữa - công tắc khẩn cấp của phòng máy.

    Ông giáng cả bàn tay lên chiếc nút.

    Từ trần nhà, âm thanh báo động inh ỏi vang lên và với một tiếng xì mạnh, dòng khí chống cháy tuôn ra từ những lỗ nhỏ của các đường ống bên trên và bên dưới cỗ máy, bao bọc hai kẻ trong căn phòng - một là con người, và một thì không, trong một màn sương trắng ma quái.

    Đặc vụ tác chiến Mark Little nhìn vào màn hình máy tính trong chiếc xe tải chỉ huy.

    MÃ ĐỎ: <Mapleleaf>

    Đây là mã phát lệnh cho cuộc tấn công.

    "Hãy in ra," Little nói với kỹ thuật viên. Rồi anh quay sang George Steadman. "Xác nhận rằng Mapleleaf bật đèn xanh cho chúng ta tấn công với quy tắc tác chiến cấp độ bốn."

    Đặc vụ này giở một quyển sách nhỏ có dấu tuyệt mật bằng chữ hoa cỡ to của Bộ Tư pháp trên bìa trước.

    "Đã xác nhận."

    Little báo qua điện đài cho ba lính bắn tỉa đang kiểm soát tất cả các cửa. "Chúng tôi sắp vào. Có mục tiêu nào xuất hiện ở cửa sổ không?"

    Họ đều báo cáo là không có ai.

    "Tốt rồi. Nếu có bất kì kẻ nào trang bị vũ trang đi qua cửa, hãy loại chúng. Hạ chúng bằng một phát vào đầu để chúng không có thời gian nhấn bất kỳ kíp nổ nào. Nếu chúng có vẻ không có vũ khí, hãy sử dụng quyền phán quyết của riêng các anh. Nhưng tôi nhắc các anh rằng quy tắc tác chiến đã được đặt ở cấp độ bốn. Hiểu những gì tôi nói chứ?"

    "Năm trên năm," một trong những tay bắn tỉa nói và hai người còn lại xác nhận họ cũng hiểu.

    Little và Steadman rời xe tải chỉ huy và chạy xuyên qua bóng tối nhập nhoạng đến với đội của họ. Little lẻn vào khoảng sân bên hông nhà, nhập vào đội mà anh chỉ huy - đội Alpha. Steadman đi với đội của mình, Bravo.

    Little lắng nghe đội của mình tìm kiếm và giám sát báo cáo. "Đội trưởng đội Alpha, tia hồng ngoại cho thấy có thân nhiệt trong phòng khách và phòng khách nhỏ. Trong bếp cũng có, nhưng đó có thể là từ lò nướng."

    "Đã hiểu." Sau đó Little thông báo qua điện đài, "Tôi sẽ dẫn đội Alpha tấn công theo hướng bên phải của ngôi nhà. Chúng tôi sẽ dùng lựu đạn cay - ba quả ở phòng khách nhỏ, ba ở phòng khách, ba ở trong bếp, ném theo thời gian năm giây một. Sau lần ném thứ ba, Bravo vào từ phía trước, Charlie từ phía sau. Chúng tôi sẽ lập vùng bắn chéo cánh từ những cửa sổ bên."

    Steadman và đội trưởng của các đội còn lại xác nhận rằng họ đã nghe thấy và nhận mệnh lệnh.

    Little đeo găng tay, đội mũ trùm đầu và mũ sắt vào, trong đầu nghĩ về số súng tự động, lựu đạn rút chốt cùng áo giáp bị đánh cắp.

    "Được rồi," anh nói. "Đội Alpha tiến về trước. Đi chậm thôi. Sử dụng tất cả đồ bảo vệ có sẵn, sẵn sàng thắp nến thôi."



  6. #45
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 45
    Bên trong nhà gia đình Papandolos - ngôi nhà của những quả chanh, những bức ảnh, ngôi nhà của không khí gia đình, Wyatt Gillette vùi mặt vào tấm rèm đăng ten mà hắn nhớ mẹ của Elana đã may mùa thu vài năm trước. Từ vị trí đầy hoài niệm này, hắn nhìn thấy những đặc vụ FBI bắt đầu di chuyển vào.

    Vài mét một lần, rạp mình, cẩn trọng.

    Hắn liếc về phía căn phòng kia, đằng sau hắn, và nhìn thấy Elana đang nằm trên sàn, vòng tay ôm lấy mẹ cô. Christian - em trai cô, đang ở gần đó, nhưng gã đầu ngẩng lên và nhìn vào mắt Gillette với niềm căm hận ngút ngàn.

    Hắn không thể nói gì với họ, bao nhiêu lời xin lỗi cũng là không đủ và hắn đành giữ im lặng, quay lưng về phía cửa sổ.

    Hắn đã quyết định việc mình sẽ làm, thực ra hắn đã quyết định từ trước nhưng hắn muốn dành thêm vài phút cuối cùng của đời mình để ở gần người phụ nữ mà hắn yêu thương.

    Mỉa mai thay ý tưởng này đến từ Phate.

    Mi là anh hùng mang yếu điểm - yếu điểm thường đẩy họ vào rắc rối. Ô, cuối cùng mi sẽ làm một việc anh hùng và cứu được vài mạng người, rồi khán giả sẽ khóc thương ngươi...

    Hắn sẽ bước ra ngoài với hai tay giơ lên cao. Bishop đã nói họ sẽ không tin và nghĩ rằng hắn là một kẻ đánh bom liều chết hoặc đang giấu trong mình một khẩu súng. Phate và Shawn đã tiên liệu được cảnh sát sẽ chuẩn bị tinh thần cho tình huống xấu nhất. Nhưng những sỹ quan này cũng là con người, họ có thể sẽ lưỡng lự. Nếu vậy họ có thể tin tưởng và cho phép hắn gọi Elana cùng những người khác ra ngoài.

    Nhưng mi vẫn không tài nào đến được mức cuối cùng của trò chơi.

    Còn ngay cả nếu hắn không làm được điều đó, nếu họ bắn chết hắn, họ sẽ kiểm tra xác hắn và phát hiện ra hắn không có vũ khí. Sau đó có lẽ họ sẽ nghĩ rằng những người khác cũng sẵn sàng đầu hàng một cách hòa bình. Rồi họ sẽ khám phá ra rằng đây chỉ là một sai lầm khủng khiếp.

    Hẳn nhìn vợ mình. Ngay cả lúc này, hắn nghĩ, nàng vẫn rất đẹp. Cô không nhìn lên và hắn thấy mừng vì điều đó, hắn sẽ không tài nào chịu đựng được gánh nặng từ cái nhìn của cô.

    Hãy chờ cho đến khi họ đến gần, hắn tự nhủ, để họ thấy được mày không phải là một mối đe dọa.

    Khi bước vào sảnh đợi bên cạnh cửa ra vào, hắn để ý thấy trên một chiếc bàn trong căn phòng, có một chiếc máy tính dòng IBM đời cũ. Wyatt Gillette nhớ đến hàng chục giờ đồng hồ hắn dành để vào mạng trong vài ngày qua. Gillette nghĩ, nếu hắn không thể mang theo tình yêu của Elana sang thế giới bên kia, ít nhất hắn đã có những kỷ niệm với Miền xanh thẳm vô định theo cùng.

    ° ° °

    Những đặc vụ tác chiến của đội Alpha chậm chạp bò về phía ngôi nhà kiểu ngoại ô - chẳng hề giống một ngôi nhà dành cho những chiến dịch kiểu này. Mark Little ra dấu cho cả đội nấp đằng sau một luống đỗ quyên gai cách phía tây ngôi nhà khoảng hai mươi feet.

    Anh đưa tay ra dấu cho ba đặc vụ đang đeo thắt lưng dắt lựu đạn cay. Họ chạy vào vị trí bên dưới cửa sổ phòng khách nhỏ, phòng khách và bếp rồi kéo chốt lựu đạn. Ba người khác đến bên cạnh họ và nắm chặt những cây dùi cui trong tay, họ sẽ dùng chúng để đập vỡ kính cho cộng sự ném những trái lựu đạn vào.

    Họ quay lại nhìn Little, chờ đợi anh ra dấu tay hành động.

    Rồi, một tiếng loẹt xoẹt vang lên trong tai nghe của Little.

    "Đội trưởng đội Alpha, chúng ta có một cuộc gọi khẩn cấp từ một đường dây mặt đất. Đó là SAC từ San Francisco."

    Đặc vụ Jaeger? Ông ta gọi làm gì nhỉ?

    "Chuyển máy đi," anh nói thầm vào mic.

    Rồi một tiếng click.

    "Đặc vụ Little," một giọng xa lạ vang lên. "Là Frank Bishop. Cảnh sát bang."

    "Bishop à?" Là tay cảnh sát vớ vẩn đã gọi điện lúc trước. "Chuyển máy cho Henry Jaeger."

    "Ông ta không có ở đây, sếp. Tôi đã nói dối. Tôi nhất định phải gặp được anh. Đừng ngắt máy. Anh phải nghe tôi."

    Bishop chính là kẻ mà họ nhận định là một tên tội phạm trong ngôi nhà đó, và hắn đang cố đánh lạc hướng họ.

    Ngoại trừ, Little suy ngẫm, các đường dây điện thoại đến ngôi nhà này và di động đều đã bị ngắt, có nghĩa là cuộc gọi này không thể đến từ những tên giết người đó.

    "Bishop... Anh muốn cái quái quỉ gì đây? Anh có biết mình sẽ vướng phải rắc rối gì khi giả làm một đặc vụ FBI không? Tôi cúp máy đây."

    "Không! Đừng! Hãy xin xác nhận lại."

    "Tôi không muốn nghe bất kỳ thứ vớ vẩn này nọ nào về hacker nữa."

    Little quan sát ngôi nhà. Mọi thứ vẫn im lặng. Những thời khắc như thế này gợi lên cảm giác tò mò, phấn chấn, sợ hãi và tê liệt cùng một lúc. Bạn cũng có cảm giác nôn nao khi một trong những tên giết người ngắm nghía bạn, nhằm vào mục tiêu bằng da bằng thịt ngay trong lớp áo vét.

    Tay cảnh sát đó nói, "Tôi vừa tóm được tên tội phạm gây ra vụ hack và tắt máy tính của hắn. Tôi đảm bảo rằng anh sẽ không nhận được xác nhận lại. Hãy gửi yêu cầu mà xem."

    "Việc đó không có trong quy trình."

    "Hãy cứ làm đi. Anh sẽ hối tiếc suốt phần đời còn lại nếu anh vào đó dưới quy tắc tác chiến cấp độ bốn."

    Little sững lại. Làm thế nào mà Bishop biết họ đang tiến hành ở cấp độ bốn? Chỉ có người trong đội hoặc ai đó truy cập được vào máy tính của FBI mới biết điều đó.

    Viên đặc vụ thấy cấp phó của mình, Steadman, sốt ruột vỗ tay lên đồng hồ của anh ta rồi hất đầu về phía ngôi nhà.

    Giọng nói của Bishop đầy sự tuyệt vọng. "Xin anh. Tôi xin đặt cược cả công việc của mình."

    Viên đặc vụ lưỡng lự rồi lẩm bẩm, "Chắc chắn là thế rồi, Bishop." Anh quàng khẩu súng máy lên vai và chuyển lại tần số của đội tác chiến. "Tất cả các đội, giữ nguyên vị trí. Nhắc lại, giữ nguyên vị trí. Nếu các anh bị bắn, được phép chống trả hết mức."

    Anh chạy thật nhanh ngược trở lại xe phát lệnh. Kỹ thuật viên thông tin ngạc nhiên ngước lên. "Sao thế?"

    Trên màn hình, Little vẫn nhìn thấy mã xác nhận chấp thuận tấn công.

    "Xác nhận lại mã đỏ."

    "Sao thế? Chúng ta không cần xác nhận nếu..."

    "Làm ngay đi," Little gắt lên.

    TỪ: CHỈ HUY TÁC CHIẾN, BỘ TƯ PHÁP QUẬN BẮC CALIFORNIA ĐẾN: TRUNG TÂM CHIẾN DỊCH TÁC CHIẾN BỘ TƯ PHÁP, WASHINGTON, D.C

    RE: BỘ TƯ PHÁP QUẬN BẮC CALIFORNIA CHIẾN DỊCH 139-01 XÁC NHẬN MÃ ĐỎ?

    Một tin nhắn hiện lên:

    <Vui lòng chờ>

    Vài phút này cũng đủ cho những kẻ giết người trong ngôi nhà đó có cơ hội chuẩn bị một cuộc tấn công hay gài đặt chất nổ cho một vụ tự sát tập thể, kéo theo mạng sống của nửa tá người dưới trướng anh.

    <Vui lòng chờ>

    Việc này thật mất thời gian. Anh nói với sỹ quan thông tin. "Thôi quên đi. Chúng tôi sẽ vào trong." Anh dợm bước về phía cửa.

    "Này, chờ đã," viên sỹ quan nói. "Có cái gì đó rất lạ." Anh ta ra hiệu về phía màn hình. "Xem này."

    Từ: TRUNG TÂM CHIẾN DỊCH TÁC CHIẾN BỘ TƯ PHÁP, WASHINGTON, D.c

    ĐẾN: CHỈ HUY TÁC CHIẾN, BỘ TƯ PHÁP QUẬN BẮC CALIFORNIA

    RE: BỘ TƯ PHÁP QUẬN BẮC CALIFORNIA, CHIẾN DỊCH 139-01

    <KHÔNG CÓ THÔNG TIN. VUI LÒNG XÁC MINH SỐ HIỆU CHIẾN DỊCH >

    Người nhân viên nói, "Đó là số đúng. Tôi đã kiểm tra rồi." Little nói, "Gửi lại đi."

    Viên đặc vụ đánh lại thông điệp và nhấn ENTER.

    Lại một sự trì hoãn. Và...

    TỪ: TRUNG TÂM CHIẾN DỊCH TÁC CHIẾN BỘ TƯ PHÁP, WASHINGTON, D.C.

    ĐẾN: CHỈ HUY TÁC CHIẾN, BỘ TƯ PHÁP QUẬN BẮC CALIFORNIA RE: BỘ TƯ PHÁP QUẬN BẮC CALIFORNIA CHIẾN DỊCH 139-01 <KHÔNG CÓ THÔNG TIN. VUI LÒNG XÁC MINH SỐ HIỆU CỦA CHIẾN DỊCH >

    Little kéo chiếc mũ trùm đầu màu đen ra và lau mồ hôi trên mặt. Lạy Chúa, chuyện này là sao?

    Anh chộp lấy điện thoại và gọi cho đặc vụ FBI phụ trách vùng gần kho quân sự San Pedro, cách đó ba mươi dặm. Viên đặc vụ này nói rằng không hề có vụ đột nhập hay cướp vũ khí chiều hôm đó. Little thả ống nghe xuống, nhìn chằm chằm vào màn hình.

    Steadman chạy đến bên cửa chiếc xe. "Đang xảy ra chuyện quái gì thế Mark? Chúng tôi chờ lâu quá rồi. Nếu chúng ta định tấn công chúng thì lẽ ra bây giờ phải diễn ra rồi."

    Little vẫn chăm chăm nhìn màn hình.

    <KHÔNG CÓ THÔNG TIN. VUI LÒNG XÁC MINH SỐ HIỆU CỦA CHIẾN DỊCH!>

    "Mark, chúng ta có đi không?"

    Viên chỉ huy liếc về phía ngôi nhà. Đến lúc này, thời gian trì hoãn đã đủ để những người trong đó nghi ngờ khi đường điện thoại đã bị cắt. Hàng xóm có thể đã gọi báo cho cảnh sát địa phương về những người lính mà họ thấy ở khu vực xung quanh và những chiếc máy dò tần số cảnh sát của các phóng viên hẳn đã nhận được các cuộc gọi. Trực thăng của cánh báo chí có thể đang trên đường đến và sẽ có buổi truyền tin trực tiếp từ những chiếc máy bay. Chỉ vài phút nữa thôi, những kẻ giết người trong ngôi nhà đó có thể sẽ xem được bản tin đó trên ti vi.

    Đột nhiên, một giọng nói vang lên trong điện đài: "Đội trưởng đội Alpha, là lính bắn tỉa số ba. Một trong những nghi phạm đang đứng trên bậc cửa trước. Đàn ông, da trắng, gần ba mươi. Hai tay giơ lên trời. Tôi có quyền bắn hạ. Tôi có nên không?"

    "Có vũ khí? Chất nổ không?"

    "Không nhìn thấy."

    "Hắn đang làm gì?"

    "Bước chầm chậm về phía trước. Hắn đã quay lại để cho chúng ta thấy lưng, vẫn không có vũ khí. Nhưng hắn có thể giấu thứ gì đó dưới áo sơ mi. Tôi sẽ bị khuất tầm bắn sau tán lá trong mười giây nữa. Bắn tỉa hai, tiếp nhận mục tiêu khi hắn đi qua bụi cây đó."

    "Đã hiểu," giọng một tay bắn tỉa khác.

    Steadman nói, "Hắn chắc chắn có mang một thiết bị trong người, Mark. Tất cả bản tin đều nói rằng chúng sẽ làm thế - tiêu diệt càng nhiều người của ta càng tốt. Gã này sẽ cho nổ mìn còn những tên còn lại sẽ thoát ra bằng cửa sau, bắn giết."

    <KHÔNG CÓ THÔNG TIN. VUI LÒNG XÁC MINH SỐ HIỆU CỦA CHIẾN DỊCH>

    Mark Little nói vào micro, "Đội phó đội Bravo, yêu cầu nghi phạm nằm xuống đất. Bắn tỉa hai, nếu hắn không úp mặt xuống trong năm giây, anh cứ bắn."

    "Rõ,"

    Một lát sau họ nghe thấy tiếng loa: "Đây là FBI. Nằm xuống và giang rộng tay ra. Ngay, ngay, ngay!"

    KHÔNG CÓ THÔNG TIN

    Rồi viên đặc vụ nói vào điện đài, "Hắn đã nằm xuống. Chúng ta có nên không chế và khám xét?"

    Little nghĩ về vợ và hai con của mình rồi nói, "Không, tôi sẽ tự làm." Anh nói vào micro, "Toàn bộ các đội, rút vào nơi ẩn nấp."

    Anh quay sang sỹ quan thông tin. "Nối máy cho tôi gặp Phó giám đốc ở Washington." Rồi anh chỉ ngón tay vào hai thông điệp mâu thuẫn - bản in tín hiệu xuất phát và thông điệp không có thông tin trên màn hình máy tính. "Và cho tôi biết chính xác chuyện quái quỷ gì đã xảy ra."


  7. #46
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 46
    Nằm trên cỏ, ngửi mùi đất, mùi mưa và mùi thơm thoang thoảng của cây tử đinh hương, Wyatt Gillette nheo mắt vì những ánh đèn pha chĩa vào hắn. Hắn thấy một đặc vụ trẻ có gương mặt sắc sảo thận trọng tiến về phía hắn, chĩa một khẩu súng rất to vào đầu hắn.

    Viên đặc vụ còng tay hắn và khám xét khắp người hắn, thả lỏng người khi Gillette nhờ anh ta gọi cho một cảnh sát bang tên là Bishop, người có thể xác nhận rằng hệ thống máy tính của FBI đã bị hack và những người trong ngôi nhà không phải là nghi phạm của vụ MARINKILL.

    Sau đó, viên đặc vụ yêu cầu gia đình Elana bước ra ngoài. Cô, mẹ và em trai bước chầm chậm ra bãi cỏ, tay giơ lên cao. Họ bị khám xét và còng tay. Mặc dù không bị đối xử thô bạo, rõ ràng khuôn mặt phẫn nộ của họ cho thấy họ gần như đang phải chịu đựng sự nhục nhã và kinh hoàng ngang với sự tổn thương về thể xác.

    Dù vậy, Gillette mới là kẻ phải chịu sự trừng phạt nặng nề nhất không phải là từ FBI, mà vì hắn biết rằng người phụ nữ hắn yêu thương giờ đã mãi mãi rời xa hắn. Cô dường như đã do dự về quyết định chuyển đến New York cùng với Ed nhưng giờ thì máy tính, thứ đã chia cách họ nhiều năm trước đã suýt hủy diệt cả gia đình cô, và việc này, tất nhiên, không thể tha thứ. Giờ thì cô sẽ đến bờ đông cùng anh chàng Ed mẫu mực, lương cao, và trong lòng Gillette, Ellie chỉ còn là những kỉ niệm, giống như file.jpg hay.wav - những hình ảnh và âm thanh sẽ biến mất khỏi trung tâm xử lý của bạn khi bạn tắt nó lúc đêm về.

    Những đặc vụ FBI hội ý và gọi rất nhiều cuộc điện thoại, rồi lại hội ý. Họ kết luận rằng cuộc đột kích này quả thực là mệnh lệnh bất hợp pháp. Họ thả mọi người, tất nhiên là ngoại trừ Gillette, dù đã giúp hắn đứng lên và nới lỏng chiếc còng ra một chút.

    Elana sải bước đến chỗ chồng cũ. Hắn đứng bất động trước mặt cô, im lặng khi hứng trọn cái tát rất mạnh vào má. Người phụ nữ đó, vẫn gợi cảm và xinh đẹp ngay cả khi tức giận, quay đi mà không nói một lời, giúp mẹ bước lên bậc thang vào nhà. Em trai cô buông lời đe dọa gì đó của một kẻ hai mươi hai tuổi về việc kiện tụng hay tệ hơn thế rồi đi theo mẹ và chị gái, đóng sầm cửa lại.

    Bishop đến khi các đặc vụ đang dọn dẹp. Ông bước đến chỗ tay hacker và nói, "Cái công tắc khẩn cấp."

    "Một đống bọt chống cháy." Gillette gật đầu. "Tôi định nói thế với ông trước khi họ cắt đường điện thoại."

    Bishop gật đầu. "Tôi nhớ ra là cậu từng nhắc đến nó khi ở CCU. Khi cậu nhìn thấy phòng máy chủ lần đầu."

    "Có hư hại gì không?" Gillette hỏi. "Shawn ấy?"

    Hắn hy vọng là không. Hắn cực kì tò mò về cỗ máy đó nó hoạt động ra sao, nó có thể làm gì, hệ điều hành nào làm nên trái tim và trí óc của nó.

    Nhưng cỗ máy đó không bị hư hại nặng, Bishop kể lại. "Tôi đã xả sạch hai băng đạn vào chiếc hộp đó nhưng cũng chẳng ăn thua gì." Ông mỉm cười. "Chỉ để lại một vết thương phần mềm."

    Một người đàn ông đậm người bước qua ánh đèn pha về phía họ. Khi ông ta lại gần hơn, Gillette nhận ra đó là Bob Shelton. Viên cảnh sát mặt rỗ chào người đồng sự rồi liếc sang Gillette với vẻ khinh bỉ mọi khi.

    Bishop kể cho ông ta mọi chuyện nhưng không nói đến việc đã nghi ngờ Shelton chính là Shawn.

    Viên cảnh sát lắc đầu với một nụ cười cay đắng. "Shawn là một chiếc máy tính? Chúa ơi, ai đó nên vứt từng cái máy khốn kiếp này xuống biển."

    "Tại sao ông lúc nào cũng nói thế?" Gillette gắt lên. "Tôi bắt đầu phát mệt vì chuyện đó rồi."

    "Vì chuyện gì nào?" Shelton đốp lại.

    Không tài nào kiểm soát nổi cơn tức giận trước lối xử sự thô lỗ của ông ta đối với hắn trong những ngày qua, tay hacker lầm bầm, "Ông chì chiết tôi và máy tính mỗi khi có cơ hội. Nhưng thật khó tin khi đó lại là cách hành xử của một người có một ổ máy Winchester giá cả nghìn đô trong phòng khách nhà mình đấy."

    "Một cái gì?"

    "Khi chúng tôi đến nhà ông, tôi đã nhìn thấy chiếc ổ máy chủ đó trong phòng khách."

    Đôi mắt viên cảnh sát lóe lên. "Thứ đó là của con trai tôi," ông gầm gừ. "Tôi đang định vứt nó đi. Cuối cùng tôi cũng quyết định dọn dẹp phòng nó, thoát khỏi tất cả những thứ liên quan đến máy tính của nó. Vợ tôi lại không muốn tôi vứt đi bất cứ thứ gì. Chính vì thế mà chúng tôi cãi nhau."

    "Cậu ấy say mê máy tính phải không, con trai ông?" Gillette hỏi, nhớ lại rằng cậu ta đã chết vài năm trước.

    Lại một nụ cười cay đắng. "Ồ, phải rồi, nó rất say mê máy tính. Nó dành hàng giờ đồng hồ trên mạng. Tất cả những gì nó muốn làm là hack. Cho đến khi một nhóm trên mạng phát hiện nó là con trai của một cảnh sát và nghĩ rằng nó đang tìm cách chỉ điểm chúng. Chúng đã đi theo thằng bé. Đăng đủ các thứ bẩn thỉu về nó lên Internet - rằng nó là gay, có tiền án, từng lạm dụng trẻ em... Chúng đột nhập vào máy tính trường nó và làm cho có vẻ như nó đã tự thay đổi điểm của mình. Khiến nó bị đình chỉ. Chúng gửi cho con bé mà nó đang hẹn hò một email tục tĩu dưới tên nó. Vì thế mà con bé chia tay nó. Vào hôm xảy ra chuyện đó, nó đã uống say và đâm vào một trụ trên đường cao tốc. Có lẽ đó là một tai nạn hoặc có thể nó đã tự tử. Dù thế nào thì chính máy tính đã giết chết nó."

    "Tôi rất tiếc," Gillette nhẹ nhàng nói.

    "Tiếc cái mẹ gì." Shelton bước lại gần tay hacker hơn, cơn giận dữ của ông ta không hề nguôi ngoai. "Đó là lý do tại sao tôi xung phong nhận vụ này. Tôi nghĩ tên tội phạm này có thể chính là một trong những đứa thuộc băng đó. Và cũng vì thế mà hôm trước tôi lên mạng, cũng để kiểm tra xem cậu có phải là một trong số chúng không."

    "Không, không phải tôi. Tôi không đời nào làm thế với ai. Đó không phải là lý do tôi hack."

    "Ồ, cậu cứ việc nói thế. Nhưng cậu cũng tồi tệ như bất kỳ kẻ nào trong bọn chúng, khiến cho con trai tôi tin rằng những chiếc hộp nhựa chết tiệt này là cả thế giới. Chúng chỉ là rác rưởi. Cuộc sống không nằm ở đó." Ông tóm lấy áo Gillette. Tay hacker không phản ứng, chỉ nhìn thẳng vào khuôn mặt đang hóa khùng của ông ta. Shelton quát lên, "Cuộc sống là ở đây này! Là máu, là thịt những con người... gia đình cậu, con cái cậu..." Giọng ông lạc đi, đôi mắt giàn giụa nước. "Đó mới là cuộc sống thực."

    Shelton đẩy tay hacker ra, lấy tay lau mắt. Bishop bước đến và đặt tay lên cánh tay ông. Nhưng Shelton quay đi rồi biến mất trong đám đông cảnh sát và đặc vụ.

    Gillette cảm thấy thương cho người đàn ông tội nghiệp nhưng hắn không ngăn nổi suy nghĩ rằng máy tính cũng là thật, Shelton. Chúng ngày càng trở thành một phần của cuộc sống máu thịt thường nhật, và điều đó sẽ không bao giờ thay đổi. Câu hỏi mà chúng ta phải đặt ra không phải là bản thân sự thay đổi này tốt hay xấu, mà chỉ đơn giản là, chúng ta sẽ trở thành người như thế nào khi bước qua màn hình để vào Miền xanh thẳm vô định?

    Chỉ còn lại một mình, viên thám tử và tay hacker đứng đối mặt nhau. Bishop để ý áo mình đã bị tuột. Ông nhét áo vào quần rồi gật đầu về phía hình xăm cây cọ trên cẳng tay Gillette. "Có thể cậu muốn xóa thứ đó đi đấy. Tôi không nghĩ nó có ích gì cho cậu, ít nhất là con chim bồ câu kia. Cái cây thì cũng không tệ lắm."

    "Đó là chim mòng biển," tay hacker đáp. "Nhưng giờ ông có nhắc đến nó rồi, Frank... sao ông không thử một cái."

    "Cái gì?"

    "Một hình xăm."

    Viên thám tử định nói gì đó, nhưng rồi chỉ nhướng một bên mày. "Cậu biết không, có lẽ tôi sẽ thử."

    Rồi Gillete cảm thấy hai cánh tay mình bị ghì từ đằng sau. Những cảnh sát bang đã đến, rất đúng lịch hẹn, để đưa hắn trở lại San Ho.

  8. #47
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 47
    Một tuần sau, khi Gillette quay trở lại nhà tù, Bishop đã thực hiện đúng lời hứa của Andy Anderson, mặc sự phản đối của giám thị, gửi cho Wyatt Gillette một máy laptop Toshiba đã qua sử dụng.

    Khi hắn mở máy, điều đầu tiên hắn nhìn thấy là bức ảnh chụp một em bé da đen mũm mĩm, mới vài ngày tuổi. Chú thích bên dưới bức ảnh đề Lời chào từ Linda Sanchez và cô cháu gái mới sinh của cô ấy, Maria Andie Harmon. Gillette viết một bức thư ngắn gửi lời chúc mừng cho cô, còn món quà mừng em bé thì phải chờ vì nhà tù liên bang không có cửa hàng bán quà cho trẻ em.

    Tất nhiên là không có modem gửi kèm chiếc máy. Gillette có thể lên mạng đơn giản bằng cách tự làm một modem từ chiếc Walkman của Devon Franklin (đổi lại mấy lọ mứt mơ), nhưng hắn quyết định không làm thế. Đó là một phần thỏa thuận của hắn với Bishop. Thêm nữa, tất cả những gì hắn muốn là năm cuối cùng trong tù trôi qua thật nhanh để hắn tiếp tục cuộc đời mình.

    Nhưng như thế không có nghĩa hắn hoàn toàn cách ly khỏi thế giới mạng. Hắn được phép dùng chiếc máy tính IBM chậm như rùa trên thư viện để hỗ trợ việc phân tích Shawn, hiện đang trú ngụ trong ngôi nhà mới ở Đại học Stanford. Gillette đang hợp tác cùng những nhà khoa học máy tính của trường và Tony Mott. (Frank Bishop đã dứt khoát từ chối thỉnh cầu được chuyển qua Đội điều tra trọng án của Mott và xoa dịu chàng cảnh sát trẻ bằng việc đề xuất anh ta làm quyền trưởng ban Điều tra tội phạm máy tính, việc này đã được Sacramento chấp thuận.)

    Điều mà Gillette khám phá ra bên trong Shawn làm hắn kinh ngạc. Để cho Phate quyền truy cập vào nhiều máy tính hết mức có thể, thông qua Trapdoor, hắn đã trao cho tạo vật của mình một hệ điều hành riêng. Nó độc nhất, là sự kết hợp của tất cả những hệ điều hành hiện thời như Windows, MS-DOS, Apple, Unix, Linux, VMS và rất nhiều hệ thống ít ai biết dành cho các ứng dụng khoa học và chế tạo. Nó cũng có thể tự điều chỉnh để kết hợp với bất kỳ hệ điều hành mới nào mà Phate cài vào. Hệ thống của nó, được gọi là Protean 1.1, gợi cho Gillette nhớ về thuyết tương đối, lý giải cơ chế hoạt động của tất cả vật chất và năng lượng trong vũ trụ.

    Chỉ có điều là, không giống như Einstein và những hậu duệ của ông, rõ ràng Phate đã thành công trong sứ mệnh của hắn.

    Có một điều mà Shawn không khai ra là mã nguồn của Trapdoor hoặc địa chỉ các trang nó có thể đang giấu. Người phụ nữ tự nhận mình là Patricia Nolan, có vẻ như đã thành công trong việc cô lập và đánh cắp mã nguồn, và phá hủy tất cả các bản sao của nó.

    Không ai tìm thấy cô ta.

    Trước kia, bạn biến mất dễ dàng vì chưa có máy tính để lần ra bạn. Gillette đã từng nói thế với Bishop. Giờ đây, bạn cũng có thể biến mất dễ dàng vì máy tính có thể xóa mọi dấu vết từ nhân dạng cũ của bạn và tạo nên những nhân dạng mới.

    Bishop thông báo rằng Stephen Miller đã được cử hành tang lễ theo nghi thức cảnh sát. Linda Sanchez và Tony Mott rõ ràng vẫn còn cảm thấy có lỗi vì họ đã từng tin rằng Miller là kẻ phản bội trong khi trên thực tế, anh chỉ là một người hoài cổ buồn rầu về những ngày xa xưa của giới tin học, một người tụt hậu luôn tìm kiếm một trang sử mới ở Thung lũng Silicon trong vô vọng. Mặc dù Wyatt Gillette có thể nói với họ rằng họ không cần phải cảm thấy có lỗi, Miền xanh thẳm vô định khoan dung với sự dối trá nhiều hơn sự kém cỏi.

    Tay hacker đã được cho phép vào mạng nhiều hơn vì một nhiệm vụ mới. Đó là xem xét những cáo buộc chống lại David Chambers - nguyên phụ trách ban Điều tra tội phạm thuộc Bộ Quốc phòng, hiện đang bị đình chỉ. Frank Bishop, Đại úy Bernstein và Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hoa Kỳ kết luận rằng máy tính cá nhân và công việc của ông đã bị Phate hack nhằm khiến Chambers bị thuyên chuyển, Kenyon được chỉ định thay thế còn Gillette phải quay lại nhà tù.

    Tay hacker chỉ mất mười lăm phút để tìm ra và tải về bằng chứng cho thấy máy của Chamber đã bị đột nhập và những giao dịch môi giới và tài khoản ở nước ngoài là do Phate giả mạo. Những cáo buộc chống lại ông được gỡ bỏ và ông được phục hồi vị trí.

    Không có cáo buộc nào chống lại Wyatt Gillette về tội hack Chương trình Standard 12 hay đối với Bishop vì đã giúp đỡ Gillette trốn khỏi CCU. Bộ trưởng Bộ tư pháp quyết định đình chỉ điều tra, không phải vì ông ta tin vào câu chuyện chính rằng Phate là kẻ đã tạo ra một chương trình bẻ khóa làm phá sản Chương trình 12, mà bởi một cuộc điều tra của Ban Kiểm toán Bộ Quốc phòng đang xem xét tại sao phải chi ra 35 triệu đô cho một chương trình mã hóa mà về cơ bản là không an toàn.

    Gillette cũng đang được yêu cầu giúp lần theo dấu vết một virus máy tính vô cung nguy hiểm, được biết đến với cái tên Polonius, xuất hiện lần đầu vào tuần trước. Con virus này là một demon khiến cho máy tính của bạn có thể tự vào mạng và chuyển tất cả email trong quá khứ lẫn hiện tại của bạn cho tất cả mọi người trong sổ địa chỉ điện tử. Việc này không chỉ khiến tắc nghẽn mạng Internet mà còn gây ra nhiều tình huống oái oăm khi người ta nhận được những email không dành cho họ. Vài người đã tìm cách tự vẫn khi chuyện ngoại tình, những ca bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục và những hoạt động kinh doanh mờ ám bị phanh phui.

    Dù vậy, điều đáng sợ nhất là cách những máy tính bị lây nhiễm. Biết rằng những bức tường lửa và phần mềm diệt virus sẽ ngăn chặn phần lớn virus, thủ phạm đã đột nhập vào hệ thống của những nhà sản xuất phần mềm thương mại và chỉ thị cho máy chế tạo đĩa của họ chèn con virus này vào những đĩa mới đính kèm trong gói sản phẩm bán cho những cửa hàng bán lẻ và những công ty đặt hàng qua email.

    Các đặc vụ FBI phụ trách vụ này và tất cả những gì họ kết luận được là virus này bắt nguồn từ một trường đại học ở Singapore khoảng hai tuần trước. Họ không còn manh mối nào khác, cho đến khi một đặc vụ băn khoăn, "Polonius - đó là một nhân vật trong vở Hamlet, đúng không?"

    Gillette nhớ lại điều gì đó mà Phate đã nói với hắn. Hắn cày tung bản sao các vở kịch của Shakespeare và khám phá ra rằng, quả thật, chính Polonius là người đã nói 'Hãy thành thật với chính mình'... Gillette yêu cầu họ kiểm tra lại thời gian và ngày virus này xuất hiện lần đầu, đó là chiều muộn cùng ngày Patricia Nolan giết Phate. Khi những đồng nghiệp của cô ta vào trang FTP đầu tiên mà hắn nói, họ đã vô tình phóng thích virus Polonius ra thế giới - một món quà từ biệt của Phate.

    Mã của nó rất tao nhã và vô cùng khó tiêu diệt. Những nhà sản xuất sẽ phải viết lại hoàn toàn hệ thống sản xuất đĩa của họ còn người dùng thì phải xóa tận gốc toàn bộ nội dung trên ổ cứng và bắt đầu lại với những chương trình không có virus.

    "Hãy nhớ câu đó, Valleyman. Đó là lời khuyên của một phù thủy. "Hãy thành thật với chính mình..."

    ° ° °

    Vào ngày thứ Ba cuối tháng Tư, Gillette đang ngồi bên chiếc laptop của mình, trong buồng giam, phân tích một vài hệ điều hành của Shawn, thì người quản giáo đến bên cửa.

    "Có khách, Gillette."

    Chắc hẳn là Bishop, hắn đoán. Viên thám tử vẫn đang theo vụ MARINKTLL, ông dành rất nhiều thời gian ở khu bắc Napa, nơi những nghi phạm được báo là đang lẩn trốn. (Chúng chưa bao giờ xuất hiện ở hạt Santa Clara. Có vẻ như chính Phate đã gửi hầu hết thông tin về những tên giết người này cho báo giới và cảnh sát làm đòn nghi binh.) Dù vậy, thỉnh thoảng Bishop vẫn nghé qua San Ho khi ông có mặt trong vùng. Lần trước, ông đã đem đến cho Gillette mấy cái bánh Pop-Tarts và một ít mứt mơ mà Jennie làm từ khu vườn ăn quả của Bishop. (Không phải món ăn ưa thích của hắn nhưng chỗ mứt này là vật phẩm tuyệt vời để trao đổi trong tù. Thực tế thì mẻ mứt này đã được dùng để đổi lấy chiếc Walkman lẽ ra được dùng để chế thành một chiếc modem. Chà, dù thế nào cũng không nên).

    Tuy nhiên, vị khách không phải là Frank Bishop.

    Hắn ngồi trong khoang nói chuyện và nhìn thấy Elana Papandolos bước vào phòng. Cô vận một chiếc váy màu xanh dương. Mái tóc bóng mượt sậm màu của cô được vuốt ra đằng sau. Mớ tóc dày đến nỗi chiếc ghim giữ như chực bung ra. Để ý những móng tay được cắt giũa tỉ mẩn và sơn màu hoa oải hương của cô, hắn nghĩ về một điều chưa từng đến. Rằng Ellie, một giáo viên piano, cũng dùng đôi bàn tay cho thế giới của riêng mình, cũng giống như hắn. Chỉ có điều, những ngón tay của cô rất đẹp và không có những vết chai.

    Cô ngồi xuống, kéo chiếc ghế về phía trước.

    "Em vẫn ở đây à," hắn nói, hơi hạ thấp đầu để nói qua những lỗ thông trên vách kính hiệu Plexiglas. "Anh không nghe nói gì về em. Anh tưởng em đã rời đi từ mấy tuần trước rồi."

    Cô im lặng không đáp. Nhìn vào vách ngăn. "Họ đã làm thêm cái này."

    Lần cuối cùng cô đến thăm hắn cách đây vài năm, họ ngồi quanh một chiếc bàn, không có vách ngăn, một lính gác trông chừng họ. Hệ thống mới này không cần lính gác, bạn có được sự riêng tư nhưng lại mất sự gần gũi. Hắn thà được gần gũi cô còn hơn, Gillette nghĩ, nhớ lại những lần cô đến thăm, hắn rất thích được nắm tay cô, hay chạm giày hắn vào bàn chân cô, sự đụng chạm đó tạo ra một dòng điện gần như khi họ làm tình.

    Gillette nhận ra hắn đang vô thức gõ tay vào không trung khi chúi người về phía trước. Hắn dừng lại và thọc hai tay vào túi.

    Hắn hỏi, "Em đã nói chuyện với ai về cái modem đó chưa?"

    Elana gật đầu, "Em đã tìm được một luật sư. Cô ấy không biết có bán được nó không. Nhưng nếu được, em sẽ thu xếp thế này, em sẽ lấy khoản em đã chi trả cho luật sư của anh và một nửa ngôi nhà mà chúng ta đã mất. Phần còn lại là của anh."

    "Không, anh muốn em..."

    Cô ngắt lời hắn, "Em đã hoãn lại kế hoạch của mình. Đến New York ấy."

    Hắn im lặng, ngẫm nghĩ về điều này. Cuối cùng hắn hỏi cô, "Trong bao lâu?"

    "Em không chắc."

    "Thế còn Ed thì sao?"

    Cô liếc ra đằng sau. "Anh ấy ở ngoài kia."

    Điều này làm tim Gillette nhói lên. Anh ta thật tử tế khi đưa đón cô đến gặp chồng cũ, tay hacker cay đắng nghĩ, cảm thấy cơn ghen tuông nhức nhối. "Vậy em đến làm gì?" Hắn hỏi.

    "Em đã suy nghĩ nhiều về anh. Về những gì anh nói với em hôm đó. Trước khi cảnh sát xuất hiện."

    Hắn gật đầu chờ cô nói tiếp.

    "Anh sẽ từ bỏ máy tính vì em chứ?" Cô hỏi.

    Gillette hít một hơi. Hắn thả lỏng rồi bình thản trả lời, "Không. Anh sẽ không bao giờ làm thế. Máy tính là ý nghĩa của đời anh."

    Hãy thành thật với bản thân...

    Hắn tưởng cô sẽ đứng lên và bỏ đi. Điều đó sẽ giết chết một phần trong hắn, có lẽ là phần lớn con người hắn, nhưng hắn dám thề rằng nếu hắn có một cơ hội để nói lại với cô, hắn cũng không đời nào nói dối.

    Hắn nói tiếp, "Nhưng anh có thể hứa với em rằng chúng sẽ không bao giờ xen vào giữa chúng ta như trước kia nữa. Không bao giờ nữa."

    Elana chầm chậm gật đầu. "Em không biết nữa, Wyatt. Em không biết liệu có thể tin anh không. Bố em uống cả chai rượu mỗi tối. Ông lúc nào cũng thề rằng sẽ từ bỏ rượu. Và ông đã làm thế khoảng sáu lần một năm."

    "Em phải cho anh cơ hội," hắn nói.

    "Đó có thể chỉ là lời nói bột phát."

    "Nhưng chân thành."

    "Sự cam đoan, Gillette. Em cần sự cam đoan trước khi có thể bắt đầu cân nhắc về điều đó."

    Gillette không nói gì. Hắn không thể cho cô thấy nhiều bằng chứng thuyết phục rằng hắn đã thay đổi. Hắn ở đây, trong tù, đã khiến cho cô và gia đình suýt chết vì niềm đam mê dành cho một thế giới hoàn toàn xa lạ với thế giới mà cô đang sống và hiểu.

    Một lát sau hắn nói, "Anh không thể nói thêm gì ngoại trừ một điều là anh yêu em và anh muốn được ở bên em, cùng em xây dựng gia đình."

    "Ít nhất thì em sẽ ở lại đây thêm một thời gian nữa," cô chậm rãi nói. "Tại sao chúng ta không thử xem mọi chuyện sẽ ra sao?"

    "Thế còn Ed? Anh ta sẽ nói gì?"

    "Sao anh không tự hỏi anh ấy?"

    "Anh?" Gillette hỏi, giật mình.

    Elana đứng dậy và bước về phía cửa.

    Hắn sẽ phải nói gì đây? Gillette hốt hoảng băn khoăn. Hắn sắp sửa đối mặt với người đàn ông đã cướp mất trái tim của vợ hắn.

    Cô mở cửa và đưa tay về phía hắn.

    Sau đó, người mẹ nghiêm nghị, lạnh lùng của Elana bước vào phòng. Bà dắt theo một bé trai, khoảng mười tám tháng.

    Chúa ơi... Gillette choáng váng. Elana và Ed đã có con!

    Vợ cũ của hắn ngồi xuống chiếc ghế và bế đứa bé vào lòng.

    "Đây là Ed."

    Gillette thì thầm, "Nó à?"

    "Đúng thế."

    "Nhưng..."

    "Anh luôn nghĩ Ed là bạn trai của em. Nhưng là con trai em...Thực ra, em nên nói là con trai của chúng ta. Em đặt tên con theo tên anh. Tên đệm của anh. Edward không phải là một cái tên của hacker."

    "Con chúng ta?" Hắn thì thầm.

    Cô gật đầu.

    Gillette nhớ lại những đêm cuối cùng họ bên nhau trước khi hắn đầu hàng nhà chức trách để bắt đầu thụ án, nằm bên cô, kéo cô lại gần...

    Hắn nhắm mắt lại. Ôi trời ơi... Hắn nhớ lại lúc hắn quan sát ngôi nhà Elana ở Sunnyvale vào đêm hắn trốn thoát khỏi CCU, hắn đã tưởng rằng lũ trẻ mà cảnh sát nhìn thấy là con của chị gái cô.

    Nhưng một trong số đó chắc hẳn là thằng bé.

    Anh đã xem email của em. Khi em nói đến Ed, có vẻ như anh ta không phải mẫu người chồng hoàn hảo...

    Hắn khẽ cười. "Em chẳng nói gì với anh."

    "Em đã giận anh đến mức không muốn cho anh biết. Không bao giờ nói."

    "Nhưng giờ em không còn cảm thấy như thế nữa?"

    "Em không chắc."

    Hắn ngắm nhìn mái tóc dày, loăn xoăn của cậu bé. Nét thừa hưởng từ mẹ. Thằng bé còn có đôi mắt đẹp sẫm màu và khuôn mặt tròn của cô. "Em bế con đứng dậy được không?"

    Cô đỡ con trai đứng trên đùi mình. Đôi mắt nhanh nhẹn của cậu bé dò xét Gillette một cách kĩ càng. Rồi cậu bé nhận ra vách kính Plexiglas. Nó với ra phía trước và chạm những ngón tay mũm mĩm vào đó, mỉm cười thích thú, cố tìm hiểu tại sao nó có thể nhìn xuyên qua nhưng không thể chạm được vào vật ở bên kia.

    Thằng bé rất tò mò, Gillette nghĩ. Nó thừa hưởng điều đó từ mình.

    Rồi người bảo vệ bước vào phòng và báo với họ đã hết giờ thăm. Elana đặt con trai xuống sàn và đứng dậy. Mẹ cô nắm tay cậu bé, rồi Ed cùng bà ngoại bước ra khỏi phòng.

    Elana và Gillette đứng đối diện nhau qua vách kính ngăn.

    "Chúng ta sẽ xem xem mọi chuyện sẽ ra sao," cô nói. "Anh nghĩ sao?"

    "Anh chỉ mong có thế."

    Cô gật đầu.

    Rồi họ quay đi theo hai hướng khác nhau. Và khi Elana khuất sau cánh cửa phòng khách thăm, viên cai ngục đưa Wyatt Gillette trở lại hành lang âm u về buồng giam của hắn, nơi chiếc máy tính của hắn đang chờ đợi.

    Hết

Trang 5 / 5 ĐầuĐầu ... 345

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-18-2019, 02:09 PM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-22-2019, 12:11 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 07-27-2017, 12:44 AM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-09-2016, 02:52 PM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-16-2015, 01:45 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •