Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Cái trở ngại to nhất của hạnh phúc là trông chờ một hạnh phúc khác to hơn.
Fontenelle
Trang 2 / 5 ĐầuĐầu 1234 ... Cuối Cuối
Results 11 to 20 of 47

Chủ Đề: Sát Nhân Mạng

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Sát Nhân Mạng

    Sát Nhân Mạng

    Tác giả :Jeffery Deaver

    Người dịch: Nguyễn Việt Dũng


    Khi nói bộ não con người cũng là một cỗ máy, tôi không có ý xúc phạm tới trí tuệ con người, mà chỉ thừa nhận tiềm năng của một chiếc máy. Tôi không tin rằng bộ não con người lại kém cỏi hơn những gì chúng ta tưởng tượng về nó, mà là một chiếc máy có thể ấn chứa những điều vượt xa trí tưởng tượng của chúng ta.

    - w. Daniel Haiis - Hoa văn trên đá




    CHÚ GIẢI

    Bot (bắt nguồn từ Robot): Chương trình phần mềm tự vận hành, hỗ trợ người dùng (users) hoặc các chương trình khác. Đồng thời cũng được coi như một điệp viên.

    Bug: Một lỗi phần mềm chặn hoặc can thiệp vào hoạt động của chương trình.

    CCU: Đơn vị điều tra tội phạm máy tính máy tính của Sở cảnh sát bang California.

    Chip - jock: Một người hoạt động trong ngành công nghiệp máy tính, chuyên sâu vào phát triển hoặc buôn bán phần cứng.

    Civilians: Những người bình thường không làm việc trong ngành công nghiệp máy tính.

    Code: Phần mềm.

    Code cruncher: Một lập trình viên không có tính sáng tạo, thực hiện những việc lập trình đơn giản bình thường.

    Codeslinger: Một lập trình viên tài năng, thành tựu của anh ta được xem là có tính tiên phong vượt trội. Được ví như một samurai.

    Crack: Đột nhập bất hợp pháp vào một máy tính, thường là để ăn trộm, phá hủy dữ liệu hoặc ngăn cản những người khác sử dụng hệ thống.

    Demon (hoặc Daemon): Một chương trình hoạt động thầm lặng, thường là ẩn đi, không được kích hoạt theo lệnh của người dùng (user) mà vận hành tự động. Nó thường chạy khi xuất hiện những điều kiện nhất định bên trong chiếc máy hoặc mạng lưới mà nó được cài đặt.

    Firewall: Hệ thống bảo mật máy tính ngăn ngừa những dữ liệu không mong muốn xâm nhập vào chiếc máy tính mà nó có nhiệm vụ bảo vệ.

    Freeware: Phần mềm miễn phí được tạo nên từ những nhà phát triển.

    Guru: Một chuyên gia máy tính thông minh, một bậc Thầy.

    Hack: Nghĩa nguyên bản của từ này ám chỉ việc viết một phần mềm trong thời gian ngắn, với một mục đích hạn chế mặc dù nó đã phát triển lên thành việc nghiên cứu và viết các phần mềm mang tính đột phá. Dần dần, nó được các civilians (người bình thường) sử dụng để ám chỉ việc đột nhập vào một hệ thống máy tính với những mục đích xấu hành động lẽ ra phải được gọi là cracking. Từ này cũng được sử dụng như một danh từ, nghĩa là một sản phẩm thông minh trong lập trình phần mềm.

    ICQ (I Seek You: Tôi tìm bạn): Một subnetwork (mạng con) của Internet, giống IRC nhưng dành cho các cuộc hội thoại riêng tư. Gần giống với việc nhắn tin trực tiếp.

    IRC (Internet Relay Chat): Một subnetwork (mạng con) phổ biến của Internet, nơi một lượng lớn người tham gia có thể trò chuyện theo thời gian thực trong các phòng chat trực tuyến (Online chat rooms) dành cho các sở thích, thú vui riêng.

    jpg (hay là jpeg - viết tắt của joint photographers experts group - Nhóm các chuyên gia ảnh, jpeg là một kỹ thuật nén ảnh): một định dạng số hóa, nén và lưu trữ những hình ảnh trên máy tính. Hình ảnh dưới định dạng này được nhận biết bằng đuôi.jpg sau tên file (tập tin).

    Kuldge: Một chương trình phần mềm được viết ra trong thời gian ngắn, thường được viết một cách ngẫu hứng, phục vụ cho mục đích nhất định, thường nhắm tới việc xử lý một lỗi phần mềm hay sự gián đoạn trong hoạt động của máy tính.

    Machine: Một chiếc máy tính.

    MUD: (Multiuser domain, multiuser dimension hay là multiuser dungeons): Một subnetwork (mạng con) giống với IRC, trong đó người tham gia chơi những trò chơi theo thời gian thực hoặc tiến hành những hoạt động giả lập (Mạng chiến thuật thời gian thực).

    MUDhead: Người tham gia vào các MUD.

    Packet: Một dải dữ liệu số hóa. Tất cả các thông tin được truyền qua mạng Internet - email, văn bản, nhạc, hình ảnh, đồ họa, âm thanh - được chia nhỏ thành các gói dữ liệu (packet), sau đó các gói này sẽ được ghép lại thành định dạng phù hợp ở thiết bị của người nhận.

    Packet - Sniffer (Chương trình săn tìm gói tin): Một chương trình được cài đặt lên router, seroer máy tính hoặc lên một máy tính cá nhân để chuyển hướng các gói dữ liệu (packet) sang một máy tính thứ ba, thường để đọc các tin nhắn hay lấy mật khẩu và các thông tin khác một cách trái phép.

    Phising: Tìm kiếm thông tin về một ai đó trên Internet.

    Phreak: Xâm nhập vào hệ thống điện thoại chủ yếu với mục đích tạo các cuộc gọi miễn phí, nghe trộm hoặc cắt dịch vụ. Từ này cũng được dùng để miêu tả những người tham gia vào hoạt động này.

    Root: Thư mục gốc. Trong hệ điều hành Unix, từ này ám chỉ sysadmin (quản trị hệ thống) hay một cá nhân khác chịu trách nhiệm với một máy tính hay một mạng lưới. Nó cũng được dùng để miêu tả sự kiểm soát, như trong từ "seizing roof - có nghĩa là đoạt quyền kiểm soát hoạt động của một máy tính hay một mạng lưới.

    Router: Thiết bị định tuyến. Một máy tính điều hướng các gói dữ liệu - packets qua mạng Internet tới điểm đến định trước.

    Script: Phần mềm.

    Server: Máy chủ. Một máy tính nhanh và lớn trên một mạng lưới - ví dụ như mạng Internet - nơi lưu trữ dữ liệu, các Websites và các files, mà người dùng - User có thể tiếp cận.

    Shareware: Phần mềm được các nhà phát triển đưa ra với mức phí rất thấp hoặc chỉ được sử dụng hạn chế.

    Source Code: Định dạng để một lập trình viên viết phần mềm, sử dụng các chữ cái, con số và các ký hiệu từ một trong số các ngôn ngữ lập trình. Source code - mã nguồn sau đó được chuyển đổi thành phần mềm máy tính có thể chạy thực sự. Source code thường được giữ bí mật và bảo vệ nghiêm ngặt bởi các nhà phát triển hay chủ sở hữu.

    Sysadmin (System administrator): Quản trị hệ thống. Cá nhân chịu trách nhiệm vận hành máy tính và/hoặc một mạng lưới cho một tổ chức.

    Unix: Một hệ điều hành máy tính phức tạp, giống như Windows. Là hệ điều hành mà hầu hết các máy tính trên Internet sử dụng.

    Warez: Phần mềm thương mại bị sao chép bất hợp pháp.

    .wav (waveform): Một định dạng cho việc số hóa và lưu trữ âm thanh trên máy tính. Âm thanh dưới định dạng này được nhận biết bằng đuôi.wav sau tên file.

    Wizard: Một chuyên gia máy tính thông minh lỗi lạc, một bậc thầy (guru), thậm chí còn được gọi là một thầy phù thủy.



    I. PHÙ THỦY MÁY TÍNH
    Hoàn toàn có thể... thực hiện hầu hết mọi tội ác với một chiếc máy tính. Thậm chí ta có thể sử dụng nó để giết người.

    - Một sỹ quan Sở cảnh sát Los Angeles

    Chương 1
    Chiếc xe tải trắng cũ kĩ khiến cô cảm thấy bất an.

    Lara Gibson ngồi bên quầy bar trong nhà hàng Vesta's Grill tại De Anza, Cupertino, California, tay giữ chặt đáy ly Martini lạnh ngắt và phớt lờ hai chuyên viên phần cứng trẻ tuổi đang đứng gần đó liếc mắt ve vãn cô.

    Cô lại hướng mắt ra ngoài lần nữa, nhìn sâu vào màn mưa u ám, và không thấy bất kỳ dấu hiệu nào của chiếc Econoline kín mít không cửa sổ, cô tin chắc rằng nó đã bám theo mình từ căn hộ cách đây vài dặm đến tận nhà hàng này. Lara tụt khỏi chiếc ghế ở quầy bar và bước tới cửa sổ, nhìn ra bên ngoài. Chiếc xe đó không đậu trong bãi đỗ của nhà hàng. Cũng chẳng ở bên kia đường, trong bãi xe của Apple Computer hay bãi bên cạnh, thuộc công ty Sun Microsystems. Không bãi đỗ xe nào trong số này là nơi hợp lý để theo dõi - nếu gã tài xế đó thực sự đang đeo bám cô.

    Không, chiếc xe đó chỉ là một sự trùng hợp mà thôi, cô kết luận, sự trùng hợp bị cường điệu hóa bởi một dạng hoang tưởng.

    Cô trở lại quầy bar và liếc nhìn hai gã trai trẻ, giờ đến lượt họ lờ cô đi và nhếch mép cười.

    Giống như hầu hết các chàng trai trẻ đến đây tìm kiếm niềm vui, họ mặc quần âu, áo sơ mi không cà vạt, và đeo cái phù hiệu đặc trưng nhan nhản ở Thung lũng Silicon, chiếc thẻ nhân viên gắn với quai đeo bằng dây dù lủng lẳng quanh cổ. Hai gã này mang thẻ xanh của Sun Microsystems. Những nhóm khác đến từ Compaq, Hewlett - Packard và Apple, chưa kể vài chú lính mới của các công ty Internet khởi nghiệp mà một số nhân vật khả kính quen thuộc ở Thung lũng đang điều hành với đôi chút khinh khỉnh.

    Ở tuổi ba hai, có khi Lara Gibson lớn hơn hai gã hâm mộ kia đến năm tuổi. Với tư cách là một nữ doanh nhân độc lập, không phải dân lập trình, cũng chẳng liên quan đến công ty máy tính nào, dễ cô nghèo hơn họ đến năm lần. Nhưng điều đó không thành vấn đề với hai gã này, vì họ đã bị hút hồn bởi khuôn mặt xinh đẹp ấn tượng lạ thường ôm trọn trong những lọn tóc đen nhánh, đôi bốt đến cổ chân, chiếc váy màu đỏ cam kiểu gypsy 1 và chiếc áo không tay màu đen tôn lên đường nét bắp tay đẹp hiếm có.

    Cô ước tính rằng hai phút nữa, một trong hai cậu trai này sẽ tiếp cận cô, và cô chỉ tính chệch mười giây.

    Những gì gã trai trẻ nói với cô là 'phiên bản mới' của kịch bản mà cô đã nghe cả tá lần trước đó: Xin lỗi, tôi không có ý làm phiền nhưng cô có muốn tôi bẻ gãy chân bạn trai cô vì đã để người phụ nữ xinh đẹp chờ đợi một mình ở quầy bar và nhân tiện, tôi có thể mời cô một ly trong khi cô quyết định xem chân nào bị bẻ được không?

    Người phụ nữ khác chắc hẳn đã nổi đóa, hoặc lắp bắp, đỏ mặt, cảm thấy bối rối hay lả lơi lại để anh ta mời một ly mà cô ta thậm chí chẳng muốn uống, chỉ vì không biết phải xử lý tình huống này thế nào. Nhưng đó là những người đàn bà yếu đuối hơn cô. Còn Lara Gibson là 'nữ hoàng của sự tự vệ nơi thành thị', danh hiệu mà tờ San Francisco Chronicle đã từng phong tặng cho cô. Cô nhìn thẳng vào mắt anh ta, nở một nụ cười xã giao và nói, "Tôi không quan tâm đến việc kết thân với bất kỳ ai lúc này."

    Chỉ đơn giản như thế. Kết thúc cuộc nói chuyện.

    Anh ta chớp mắt trước sự thẳng thắn này, né tránh ánh mắt kiên nghị của cô và quay lại với bạn của mình.

    Sức mạnh... tất cả nằm ở sức mạnh.

    Cô nhấp một ngụm đồ uống.

    Thực ra, cái xe tải màu trắng chết tiệt đó đã gợi nhắc đến tất cả những nguyên tắc cô từng đặt ra với tư cách người dạy phụ nữ cách tự vệ trong xã hội thời nay. Có vài lần trên đường đến nhà hàng, cô liếc vào gương chiếu hậu và thấy chiếc xe ở phía sau, cách khoảng ba bốn chục feet. Một tên nhóc nào đó cầm lái. Hắn là người da trắng, nhưng tóc được tết thành những lọn dài bù xù màu nâu. Hắn mặc đồ rằn ri và đeo kính đen, bất chấp cơn mưa tối tăm u ám. Tất nhiên đây là Thung lũng Silicon, nơi trú ngụ của những gã hacker và tụi vô công rồi nghề, cũng chẳng có gì bất thường khi dừng ở Starbucks để mua một cốc Venti Latte ít béo và được phục vụ bởi một cậu thiếu niên lịch sự có cả tá khuyên trên người, đầu trọc lóc, ăn vận như một tay găng-tơ trong thành phố. Dường như gã lái xe vẫn đang nhìn cô chằm chằm với vẻ thù địch kỳ quái.

    Lara chợt nhận ra mình đang vuốt ve lọ xịt hơi cay trong túi xách một cách vô thức.

    Liếc ra cửa sổ một lần nữa, cô chỉ thấy những chiếc xe xa xỉ được mua bằng tiền kinh doanh Internet.

    Nhìn quanh phòng. Chỉ có những tay nghiền máy móc vô hại.

    Thư giãn nào, cô tự nhủ và nhấp một ngụm Martini đậm đặc.

    Cô để ý nhìn đồng hồ treo tường. Bảy giờ mười lăm. Sandy đã muộn mười lăm phút rồi. Không giống cô ấy chút nào. Lara rút điện thoại đi động ra nhưng màn hình lại hiển thị: NGOÀI VÙNG PHỦ SÓNG.

    Cô định đi tìm điện thoại công cộng thì ngước lên thấy một người đàn ông trẻ bước vào quầy bar và vẫy tay về phía cô. Cô đã gặp anh ta ở đâu đó nhưng không thể nhớ chính xác. Mái tóc vàng khá dài nhưng được cắt tỉa gọn gàng, chòm râu dê của anh ta ám ảnh trong trí nhớ cô. Anh ta mặc chiếc quần jean trắng và áo sơ mi màu xanh nhàu nhĩ. Điều duy nhất cho thấy anh ta cũng thuộc giới làm ăn ở Mỹ là chiếc cà vạt, cho phù hợp với một doanh nhân của Thung lũng Silicon, mặc dù thiết kế của nó không phải kẻ sọc hay họa tiết hoa Jerry Garcia mà là chú chim hoạt hình Tweety Bird.

    "Chào cô, Lara," anh ta bước tới và bắt tay cô, tựa người vào quầy bar. "Nhớ tôi không? Tôi là Will Randolph. Em họ của Sandy đây? Cheryl và tôi đã gặp cô ở Nantucket, tại lễ cưới của Marry ấy."

    À phải rồi, đó chính là nơi cô đã gặp anh ta. Anh và cô vợ đang mang bầu đã ngồi cùng bàn với Lara và bạn trai cô, Hank. "Chắc chắn rồi. Dạo này anh thế nào?"

    "Tôi ổn. Công việc bận rộn. Nhưng làm gì có ai không đến đây cơ chứ?"

    Tấm thẻ nhựa trên cổ anh ghi dòng chữ Xerox Corporation PARC. Cô thấy rất ấn tượng. Ngay cả những kẻ tay ngang cũng biết về trung tâm nghiên cứu Paolo Alto huyền thoại của Xerox cách đây vài dặm về phía Bắc.

    Will ra hiệu cho phục vụ và gọi một cốc bia nhẹ. "Hank thế nào?" Anh hỏi. "Sandy nói anh ấy đang cố kiếm một công việc ở Wells Fargo."

    "Ồ, phải, anh ấy được nhận rồi. Giờ anh ấy muốn lập nghiệp ở L.A."

    Cốc bia được mang đến và Will nhấp một ngụm. "Chúc mừng."

    Một bóng trắng sượt qua trong bãi đỗ xe.

    Lara lập tức nhìn theo, cảnh giác. Nhưng hóa ra đó là chiếc Ford Explorer với một cặp đôi trẻ ở bên trong.

    Đôi mắt tập trung vào phía sau chiếc xe Ford, quét qua con phố rồi rà soát bãi đỗ xe một lần nữa, Lara nhớ lại rằng trên đường đến đây, cô đã nhìn vào hông chiếc xe tải khi nó vụt qua lúc cô tấp xe vào bãi đỗ nhà hàng. Có một vết bẩn của cái gì đó sẫm màu và đo đỏ trên hông xe, có thể là bùn - nhưng cô nghĩ trông nó gần giống máu.

    "Cô ổn chứ," Will hỏi.

    "À vâng, xin lỗi." Cô quay lại với anh, thấy mừng vì có một đồng minh. Một nguyên tắc tự vệ nữa ở chốn thành thị mà cô đặt ra là: Hai người luôn tốt hơn một. Giờ Lara đã biến tấu một chút bằng cách bổ sung thêm vế sau rằng dù vài người trong số họ chỉ là một gã mọt máy tính gầy gò, không cao hơn mét bảy nhăm và đeo cà vạt hoạt hình.

    Will nói tiếp, "Sandy đã gọi lúc tôi đang trên đường về nhà để hỏi xem tôi có thể ghé qua và báo tin cho cô được không. Cô ấy cố gọi cho cô nhưng ko liên lạc được. Cô ấy sẽ về muộn và liệu có thể hẹn cô ở chỗ cạnh văn phòng mà cô đã ghé qua tháng trước, chỗ Ciro ấy? Ở Mountain View. Cô ấy đã đặt bàn lúc tám giờ."

    "Anh đâu cần phải ghé qua. Cô ấy có thể gọi cho nhân viên quầy bar mà."

    "Cô ấy muốn tôi đưa cho cô những bức ảnh tôi đã chụp ở đám cưới. Hai người có thể xem chúng tối nay và cho tôi biết các cô muốn lấy những tấm nào."

    Will nhận ra một người bạn ở phía bên kia quầy bar và vẫy chào anh ta, có lẽ Thung lũng Silicon trải rộng hàng trăm dặm vuông nhưng nó thực sự vẫn là một thị trấn nhỏ. Anh nói với Lara, "Cheryl và tôi đang định mang những bức ảnh tới chỗ của Sandy ở Santa Barbara cuối tuần này...."

    "Phải, chúng tôi định tới đó vào thứ sáu."

    Will ngừng lại và mỉm cười như thể anh ta có một bí mật vĩ đại cần chia sẻ. Anh rút ví, mở ra bức ảnh chụp anh cùng vợ và một đứa bé nhỏ xíu còn đỏ hỏn, "Tuần trước," anh nói một cách tự hào, "Claire."

    "Ôi, dễ thương quá," Lara xuýt xoa.

    "Thế nên chúng tôi sẽ loanh quanh ở gần nhà một thời gian."

    "Cheryl thế nào rồi?"

    "Cô ấy ổn. Em bé cũng khỏe. Chẳng có điều gì sánh được... Nhưng, tôi sẽ nói với cô rằng việc trở thành một người cha sẽ làm cuộc sống hoàn toàn thay đổi."

    "Tôi tin chắc là như vậy."

    Lara liếc nhìn đồng hồ một lần nữa. Bảy rưỡi. Vào giờ này, phải mất ba mươi phút để lái xe đến Ciro. "Tôi nên đi ngay."

    Rồi, một hồi chuông cảnh giác gióng lên, cô lại nghĩ về chiếc xe tải và gã tài xế.

    Những lọn tóc tết.

    Vệt cáu bẩn trên cánh cửa xe cũ nát...

    Will ra hiệu tính tiền và thanh toán.

    "Anh không phải làm thế đâu," cô nói. "Tôi sẽ thanh toán."

    Anh cười. "Cô đã trả rồi mà."

    "Gì cơ?"

    "Cái quỹ chung mà cô kể với tôi ở đám cưới ấy. Quỹ mà cô mới mua ấy?"

    Lara nhớ lại lần cô khoác lác không biết ngượng về một quỹ công nghệ sinh học năm ngoái đã tăng trưởng tới sáu chục phần trăm.

    "Từ Nantucket về, tôi đã mua cả đống... vì thế... cảm ơn nhé." Anh dốc ngược cốc bia về phía cô rồi đứng dậy. "Cô về chưa?"

    "Chắc chắn rồi." Lara nhìn chằm chằm cánh cửa một cách bất an khi họ bước đến đó.

    Chỉ là một sự hoang tưởng thôi mà, cô tự nhủ. Lara thoáng nghĩ, như cô vẫn thường làm mỗi khi thế này, rằng cô nên kiếm một công việc thật sự, như tất cả những người trong quầy bar này. Cô không nên dấn thân vào thế giới bạo lực.

    Hẳn là thế, chỉ hoang tưởng thôi...

    Nhưng nếu vậy, thì tại sao gã choai choai có những lọn tóc tết ấy lại phóng vọt đi khi cô tấp vào bãi đỗ xe ở đây và nhìn thấy hắn?

    Will bước ra ngoài và bật ô. Anh giơ cao nó lên cho cả hai cùng đi.

    Lara nhớ lại một nguyên tắc tự vệ khác nơi thành thị: Đừng bao giờ tỏ ra quá ngại ngùng hay kiêu hãnh khi muốn xin sự giúp đỡ của người khác.

    Và dù Lara định nhờ Will Randolph đưa ra xe sau cuộc trò chuyện của họ, cô vẫn băn khoăn: Nếu gã choai choai trong xe tải là một mối đe dọa, thì chẳng phải cô thật ích kỷ khi nhờ vả và khiến anh gặp nguy hiểm? Anh là một người chồng, mới lên chức cha, có nhiều người đang trông cậy vào anh. Dường như không công bằng lắm nếu...

    "Có gì không ổn à?" Will hỏi.

    "Không hẳn."

    "Cô chắc chứ?" Anh gặng hỏi.

    "À, tôi nghĩ có ai đó đã bám theo tôi đến nhà hàng này. Một tên choai choai nào đó."

    Will nhìn quanh. "Cô thấy hắn à?"

    "Giờ thì không."

    Anh hỏi, "Cô có website đó đúng không? Cái website dạy phụ nữ cách tự vệ ấy."

    "Đúng vậy."

    "Cô có nghĩ hắn biết website đó không? Có thể hắn đang quấy rối cô."

    "Có lẽ. Chắc anh sẽ ngạc nhiên lắm khi thấy những bức thư đầy thù hằn mà tôi nhận được."

    Anh lục tìm điện thoại di động. "Cô có muốn gọi cảnh sát không?"

    Cô lưỡng lự.

    Đừng bao giờ cảm thấy quá ngại ngùng hay kiêu hãnh khi muốn xin sự giúp đỡ.

    "Không, không. Chỉ là... anh không phiền nếu đưa tôi đến chỗ để xe sau khi đi lấy ảnh chứ?"

    Will mỉm cười. "Tất nhiên là không rồi. Thực ra thì tôi không biết karate nhưng tôi có thể hét lên kêu cứu to hết cỡ."

    Cô bật cười. "Cảm ơn."

    Họ đi bộ dọc theo vỉa hè phía trước nhà hàng, cô liếc nhìn để kiểm tra những chiếc xe. Giống như mọi bãi đỗ xe ở Thung lũng Silicon, ở đây có hàng tá những chiếc Saab, BMW và Lexus. Dù sao thì, không có chiếc xe tải nào. Không một gã choai choai. Không có vết máu.

    Will hất đầu về chỗ để xe của mình ở bãi đỗ phía sau. Anh nói, "Cô có thấy hắn không?"

    "Không."

    Họ đi qua một hàng cây bách xù và đến chỗ xe của anh, một chiếc Jaguar màu bạc mới coóng.

    Lạy Chúa, có phải tất cả mọi người ở Thung lũng Silicon đều có tiền, trừ cô?

    Anh lôi chìa khóa ra khỏi túi. Họ đi ra chỗ cốp xe. "Tôi chỉ chụp hết hai cuộn phim ở đám cưới. Nhưng có vài bức khá đẹp." Anh ta mở cốp xe rồi ngừng lại nhìn quanh bãi đỗ. Cô cũng thế. Nơi này vắng tanh. Xe của anh là chiếc duy nhất ở đây.

    Will liếc nhìn cô. "Cô hẳn đã băn khoăn về mấy lọn tóc tết 2."

    "Tóc tết?"

    "Phải," anh ta nói. "Những lọn tóc tết ấy." Giọng nói trở lên đều đều, lơ đãng. Anh ta vẫn cười nhưng gương mặt có gì đó khang khác. Trông nó có vẻ đói khát.

    "Ý anh là gì?" Cô hỏi, giọng bình tĩnh nhưng trong thâm tâm, nỗi sợ hãi đang bùng lên. Cô chợt nhận ra có một sợi xích ngăn lối vào khu đằng sau bãi đỗ xe. Và cô hiểu rằng hắn đã móc nó vào sau khi đỗ xe, để đảm bảo không ai khác có thể để xe ở đây.

    "Nó chỉ là một bộ tóc giả."

    Ôi, lạy Chúa, Thánh thần ơi, Lara Gibson thầm nghĩ, dù cô đã không cầu nguyện trong suốt hai mươi năm.

    Hắn nhìn vào mắt cô, ghi lại nỗi khiếp sợ ấy. "Tôi đã đậu chiếc Jag này ở đây một lúc trước khi đánh cắp cái xe tải và bám theo cô từ nhà. Với bộ đồ rằn ri và mái tóc giả. Cô biết đấy, có thế thì cô mới thấy rợn người, hoảng loạn và muốn tôi ở cạnh... Tôi biết hết mọi quy tắc của cô - mớ nguyên tắc tự vệ nơi thành thị vớ vẩn đó. Không bao giờ vào bãi đỗ xe vắng vẻ với một gã đàn ông. Đàn ông đã kết hôn và có con an toàn hơn đàn ông độc thân. Và bức ảnh gia đình của tôi? Cái ở trong ví ấy? Tôi lấy nó từ tạp chí Parents đấy."

    Cô thì thầm trong tuyệt vọng, "Anh không phải là...?"

    "Anh họ của Sandy? Thậm chí còn chẳng biết hắn. Tôi chọn Will Randolph vì hắn là người cô có chút quen biết, và trông hắn có chút giống tôi. Ý tôi là, chẳng có cách quái nào để lôi cô ra đây một mình nếu cô không quen tôi, hoặc tưởng là mình quen. Ồ, cô có thể bỏ tay ra khỏi túi xách được rồi đấy." Hắn giơ chiếc bình xịt hơi cay của cô lên. "Tôi đã lấy nó khi chúng ta bước ra ngoài."

    "Nhưng...," cô bắt đầu nức nở, đôi vai buông thõng trong tuyệt vọng. "Anh là ai? Anh còn không biết tôi cơ mà..."

    "Không đúng, Lara," hắn thì thào, soi mói nỗi thống khổ nơi cô như một tay kỳ thủ ngạo mạn dò xét khuôn mặt bại trận của đối phương. "Tôi biết mọi điều về cô. Tất cả mọi thứ trên đời này."

    --------------------------------
    1 Phong cách thời trang tự do, phóng khoáng.
    2 Trong văn bản gốc, tác giả dùng từ 'dread', có nghĩa là điều gì đó gây khiếp sợ, để chơi chữ với từ 'Dreadlocks' nghĩa là 'tóc tết' trong câu hội thoại tiếp theo.

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 11
    Wyatt Gillette thả mình vào chiếc ghế văn phòng rẻ tiền. Hắn đang ở trong một khoang làm việc tù mù tăm tối nằm phía sau CCU, im lìm, tách biệt khỏi những người khác trong đội.

    Nhìn trân trân vào con trỏ nhấp nháy trên màn hình, hắn lăn chiếc ghế lại gần hơn và chùi hai tay vào quần. Rồi những ngón tay chai sần của hắn đưa lên và bắt đầu gõ như vũ bão xuống bàn phím màu đen. Mắt hắn không hề rời khỏi màn hình. Gillette biết rõ vị trí của từng chữ số, ký tự trên bàn phím và có thể đánh máy một trăm mười từ một phút với độ chính xác hoàn hảo mà không cần nhìn xuống. Nhiều năm trước, khi hắn mới bắt đầu hack, hắn nhận thấy tám ngón tay vẫn là quá chậm, vì vậy hắn tự luyện tập một phương pháp đánh máy mới sử dụng cả hai ngón cái thêm cho những phím nhất định, chứ không chỉ dành riêng cho phím space - phím cách.

    Tuy thể trạng hắn không khỏe, nhưng cẳng tay và những ngón tay của hắn là cơ bắp thuần túy. Ở trong ngục, khi phần lớn các bạn tu dành hàng giờ nâng tạ sắt ở sân thì Gillette chỉ làm duy nhất một việc là chống đẩy bằng các đầu ngón tay để giữ chúng luôn ở trong trạng thái sẵn sàng cho niềm đam mê của hắn. Lúc này, cái bàn phím nhựa đang nhảy múa theo từng phát gõ khi hắn chuẩn bị Online.

    Ngày nay, Internet hầu như là sự kết hợp của các trung tâm mua sắm, tờ USA Today, cụm rạp chiếu phim và công viên giải trí. Các trình duyệt và công cụ tìm kiếm tràn ngập những nhân vật hoạt hình được trang trí bằng những hình ảnh đẹp đẽ (cả một mớ những mẩu quảng cáo vớ vẩn nữa). Đến một đứa bé ba tuổi cũng có thể làm chủ công nghệ trỏ và nhấp chuột. Bảng hướng dẫn dễ hiểu chờ sẵn ở từng lửa sổ. Lúc này đây Internet như một món hàng đóng gói sẵn dành cho tất cả mọi người, thông qua bộ mặt hào nhoáng của mạng World Wide Web đầy tính thương mại hóa.

    Nhưng Internet đích thực - Internet của những tay hacker thực thụ, lẩn khuất phía sau mạng toàn cầu đó là một nơi hoang dã, sơ khai nơi những tay hacker dùng những câu lệnh phức tạp, các dụng cụ tiện ích của Telnet và các phần mềm truyền thông đã được bóc ra trần trụi như một chiếc xe đua để lướt khắp thế gian, nói theo nghĩa đen, bằng tốc độ ánh sáng.

    Đó chính là việc mà Wyatt Gillette sắp làm.

    Dù vậy, vẫn còn một việc cần quan tâm đến trước tiên. Một phù thủy huyền thoại không thể phù phép nếu thiếu cây đũa thần, sách bùa chú và những liều thuốc ma thuật, các phù thủy hay những bậc thầy máy tính cũng vậy.

    Một trong những kĩ năng đầu tiên mà hacker phải học là nghệ thuật ẩn giấu phần mềm. Vì ta phải tính đến việc một hacker đối địch, nếu không phải là cảnh sát hay FBI, có thể đoạt quyền kiểm soát hoặc phá hủy máy tính của mình, bởi vậy không bao giờ được để lại duy nhất một bản sao những công cụ của mình trên ổ cứng hay đĩa lưu trữ back up ở trong nhà.

    Ta phải cất giấu chúng trong một máy tính xa lạ, một chiếc máy chẳng có bất kỳ mối liên kết nào với mình.

    Phần lớn các hacker sẽ cất giấu trong máy tính ở các trường đại học vì hệ thống an ninh của họ nổi tiếng là nhiều lỗ hổng. Nhưng Gillette đã dành bao năm làm việc với công cụ phần mềm của hắn nhiều lần viết từ đầu đến cuối các phần mềm, cũng như chỉnh sửa những chương trình hiện có để phù hợp với nhu cầu của mình. Việc mất đi tất cả những thành quả đó thực sự sẽ trở thành bi kịch của hắn, cũng như tai họa cho rất nhiều người dùng máy tính trên toàn thế giới, vì với chương trình của Gillette, ngay cả những hacker hạng xoàng cũng có thể đột nhập vào hầu hết mọi trang web, dù là của Chính phủ hay một tập đoàn.

    Bởi thế, hắn lưu trữ các công cụ của mình ở nơi an toàn hơn một chút so với phòng xử lý dữ liệu của Dartmouth hoặc Đại học Tulsa. Sau khi liếc mắt ra phía sau để chắc chắn rằng không có ai nhòm ngó phía sau hắn và nhìn thấy những gì hiện lên trên màn hình, hắn gõ một lệnh và kết nối máy tính của CCU với một chiếc máy khác ở cách đó vài bang. Lát sau, trên màn hình hiện lên dòng chữ:

    Chào mừng đến với Trung tâm nghiên cứu Vũ khí hạt nhân Los Alamos - Không lực Hoa Kỳ.

    Username?

    Hắn gõ Jarmstrong để trả lời câu hỏi này. Cha của Gillette tên là John Armstrong Gillette. Thông thường, lấy tên tài khoản có bất kỳ sự liên quan nào đến đời thực là một ý tưởng tồi với một hacker, nhưng lần này hắn đã tự cho phép bản thân nhượng bộ khía cạnh con người của mình.

    Máy tính lại hỏi:

    Password?

    Hắn gõ dãy 4%xTtfllk5$$60%4Q, khác với usemame, nó hoàn toàn rõ ràng và lạnh lùng đúng kiểu hacker. Dãy ký tự này vô cùng khó nhớ, (một phần bài luyện tập trí óc hàng ngày của hắn ở trong tù là ôn lại hơn hai mươi mật khẩu dài cỡ này) nhưng nhờ đó không ai có thể đoán ra được, và vì nó dài đến mười bảy kí tự, một siêu máy tính sẽ phải mất đến hàng tuần mới phá được mật khẩu. Một chiếc máy tính cá nhân dòng IBM thì sẽ phải làm việc liên tục đến hàng trăm năm để lần ra được một mật khẩu phức tạp thế này.

    Trong tích tắc, con trỏ nhấp nháy rồi dòng chữ trên màn hình thay đổi, hắn đọc:

    Xin chào, Đại úy J. Amstrong

    Sau ba phút, hắn đã tải về nhiều file từ tài khoản của vị đại úy giả tưởng mang tên Amstrong. Kho vũ khí của ông gồm chương trình CQAPM nổi tiếng (Công cụ Quản trị an ninh cho Phân tích mạng, được cả các nhà quản trị và hacker sử dụng để kiểm tra 'khả năng bị hack' của các mạng máy tính), vài chương trình phá vỡ và xâm nhập cho phép nắm quyền truy cập vào thư mục gốc của vô số loại máy cùng hệ thống, một trình duyệt web và phần mềm đọc tin tự tạo, một chương trình che giấu đi sự hiện diện trong máy của người khác và xóa sạch những dấu vết hoạt động sau khi thoát ra, những chương trình 'chó săn' được dùng để 'đánh hơi' và tìm ra các tên truy cập, mật khẩu và những thông tin có ích khác trên mạng hoặc trong máy tính của ai đó, một chương trình truyền thông tin để gửi các dữ liệu về, các chương trình mã hóa và danh sách các trang web cùng trang nặc danh của hacker (những dịch vụ thương mại sẽ tẩy xóa các email và tin nhắn khiến người nhận không thể lần theo dấu vết của Gillette).

    Thứ cuối cùng trong những công cụ mà hắn tải về là một chương trình hắn đã tạo ra vài năm trước, HyperTrace, dùng để lần ra những người dùng khác trên mạng.

    Sau khi tải những công cụ này về một chiếc đĩa có dung lượng lớn, Gillette thoát khỏi trang Los Alamos. Hắn ngừng một lát, bẻ khớp các ngón tay rồi nhoài người về phía trước. Tiếp tục gõ lên bàn phím với sự nhanh nhẹn của một đô vật sumo, Gillette vào mạng. Hắn bắt đầu bằng những tên miền nhiều người dùng, căn cứ vào động cơ rõ ràng của tên sát nhân để chơi một phiên bản Đời thực của trò Access khét tiếng. Tuy vậy, trong số những người mà Gillette hỏi, chẳng có ai từng chơi hay biết ai đó chơi trò Access, hay ít nhất đó là những gì họ nói với gã. Dù vậy, Gillette vẫn tiếp tục với chút ít manh mối.

    Từ mạng trò chơi MUD, hắn chuyển sang mạng toàn cầu world Wide Web - thứ mà ai cũng nói tới nhưng chẳng mấy người có thể định nghĩa. www (World Wide Web) đơn giản là một mạng lưới quốc tế của nhiều máy tính, được truy cập thông qua những giao thức máy tính đặc biệt cho phép người dùng nhìn thấy hình ảnh, nghe thấy âm thanh và nhảy từ trang web này sang những trang khác, chỉ đơn giản bằng cách nhấp chuột vào những chỗ nhất định trên màn hình - siêu liên kết. Trước khi có Mạng toàn cầu, hầu hết thông tin trên mạng đều ở dạng văn bản và việc thoát từ trang này sang trang khác cực kì phiền phức. Được 'khai sinh' hơn một thập kỷ trước ở CERN - Viện Vật lý Thụy Sỹ, có thể nói hiện nay Mạng Toàn cầu vẫn đang ở 'tuổi vị thành niên'.

    Gillette tìm kiếm qua những trang hack ngầm - những địa hạt lập dị, đầy tính giải trí của thế giới mạng. Với một số trang, muốn truy cập được bạn phải trả lời một câu hỏi bí truyền về hacking, tìm ra và nhấp chuột vào một chấm siêu nhỏ trên màn hình hoặc cung cấp một mật mã. Dù vậy, chẳng rào cản nào ngăn được Gillette quá một đến hai phút.

    Hết trang này qua trang khác, Gillette mỗi lúc một chìm sâu trong miền xanh thẳm vô định, lang thang qua những chiếc máy tính có lẽ ở tận Moscow, Cape Town hay Mexico City. Hay ở ngay gần, Cupertino hoặc Santa Clara.

    Gillette tăng tốc khắp thế giới mạng nhanh đến mức hắn không muốn rời những ngón tay khỏi bàn phím vì sợ hụt mất tiến độ của mình. Thế nên, thay vì tốc ký bằng giấy bút như hầu hết các hacker khác, Gillette copy những gì hắn cho là có ích và dán vào một cửa sổ văn bản ngay trên màn hình.

    Trên trang Web, hắn tìm kiếm Usenet, nơi tập hợp tám mươi nghìn diễn đàn thảo luận đề tài, ở đó những người hứng thú với các chủ đề nhất định có thể tải lên những tin nhắn, tranh ảnh, chương trình, đoạn phim và âm thanh. Gillette lùng sục những diễn đàn thảo luận kinh điển của các hacker như alt.2600, alt.hack, alt.virus và alt.binaries.hacking.utilities, cắt và dán bất cứ thứ gì có vẻ liên quan. Hắn tìm thấy tài liệu về hàng tá những diễn đàn chưa tồn tại khi bị bắt vào tù. Hắn nhảy vào những diễn đàn này, rê chuột qua tất cả và lại tìm ra những diễn đàn khác được đề cập.

    Lại rê chuột, lại đọc, lại cắt và dán.

    Một cú gõ mạnh đã làm kẹt bàn phím, điều này thường xảy ra khi hắn đang hack. Gillette rút dây cắm, quẳng cái bàn phím xuống sàn nhà dưới chân hắn, cắm chiếc khác vào và tiếp tục đánh máy.

    Hắn lại chuyển sang những phòng chat trực tuyến (IRC). IRC là một loạt những mạng lưới tự do không hạn chế - nơi bạn có thể tìm thấy những cuộc thảo luận thật sự giữa những người cùng sở thích. Bạn gõ bình luận, nhấn nút ENTER và những từ ngữ của bạn sẽ xuất hiện trên màn hình của tất cả những ai đang đăng nhập trong phòng chat lúc đó. Hắn đăng nhập vào phòng hack (mỗi phòng được chỉ định bằng một con số và một từ mô tả). Cũng tại phòng chat này, khi còn là một tay hacker trẻ tuổi, hắn đã dành ra cả nghìn giờ/chia sẻ thông tin, tranh luận và tán gẫu với những hacker từ khắp nơi trên thế giới.

    Sau IRC, Gillette bắt đầu tìm kiếm qua BBS - những bảng tin tương tự như trang web nhưng có thể truy cập với chi phí chỉ bằng một cuộc gọi điện thoại trong vùng, không cần đến nhà cung cấp dịch vụ Internet. Nhiều trang hợp pháp nhưng cũng có nhiều trang khác như Death Hack và Silent Spring lại là mảng đen tối nhất của thế giới mạng. Hoàn toàn không được kiểm soát và giám sát, những trang này là nơi bạn có thể tìm ra công thức chế tạo bom, khí độc và những virus máy tính có thể xóa sạch ổ cứng của một nửa dân số thế giới.

    Lần theo những manh mối, thả mình trong những trang web, nhóm thảo luận, phòng chát và các trang lưu trữ. Săn tìm...

    Cũng giống như cách những luật sư xới tung các giá sách cũ kĩ để tìm kiếm một vụ việc có thể cứu thân chủ của mình khỏi án tử hình, các vận động viên rẽ đám cỏ hướng về nơi họ nghĩ mình vừa nghe thấy tiếng gầm gừ của một con gấu, cặp tình nhân kiếm tìm điểm nhục cảm của nhau...

    Ngoại trừ một điều, cuộc săn lùng trong Miền xanh thẳm vô định không giống tìm kiếm kho sách thư viện hay tại một cánh đồng cỏ cao ngút hoặc trên da thịt mượt mà của người tình, nó giống như cuộc săn mồi trong một vũ trụ hoàn toàn giãn nở, nơi không chỉ chứa đựng thế giới mà chúng ta đã biết và những bí ẩn chưa được hé lộ mà cả những thế giới đã qua và thế giới chưa hình thành.

    Vô tận.

    Cạch.

    Hắn lại làm hỏng một phím - phím E vô cùng quan trọng. Gillette quăng bàn phím này vào góc khoang làm việc, cho nó nhập bọn với người bạn đã chết của mình.

    Hắn cắm một bàn phím mới vào và tiếp tục.

    Lúc 2:30 chiều, Gillette ló ra khỏi khoang làm việc. Lưng hắn đau nhức vì phải ngồi bất động một chỗ. Tuy vậy hắn vẫn có thể cảm nhận được niềm hoan hỉ từ khoảng thời gian Online ngắn ngủi và sự miễn cưỡng khi phải rời chiếc máy.

    Trong văn phòng chính của CCU, hắn thấy Bishop đang thảo luận với Shelton, những người khác đang nói chuyện điện thoại hoặc đứng xung quanh tâm bảng trắng, nghiền ngẫm các bằng chứng. Bishop là người đầu tiên để ý thấy Gillette và ngừng câu chuyện.

    "Tôi tìm được vài thứ," tay hacker nói, tay giơ lên một xấp bản in.

    "Nói cho chúng tôi xem nào."

    "Nói dễ hiểu xem," Shelton nhắc nhở. "Chốt lại là gì?"

    "Chốt lại là," Gillette đáp, "Có một kẻ tên là Phate. Và chúng ta thực sự gặp rắc rối đấy."


  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 12
    Frank Bishop hỏi.

    "Phate à?"

    Gillette nói, "Đó là usemame của hắn - tên hiển thị trên màn hình. Có điều hắn đánh vần nó là P-h-a-t-e. Như kiểu P-h phishing, nhớ không? Kiểu của hacker."

    Tất cả nằm ở cách đánh vần, cách viết...

    "Tên thật của hắn là gì?" Patricia Nolan hỏi.

    "Tôi không biết. Có vẻ như không ai biết nhiều về hắn, hắn là một kẻ đơn độc, nhưng những ai đã nghe đến hắn đều sợ chết khiếp."

    "Một phù thủy?" Stephen Miller hỏi.

    "Thực sự là một phù thủy."

    Bishop hỏi, "Tại sao anh lại nghĩ hắn chính là hung thủ?"

    Gillette lật giở đống giấy đã in. "Đây là những gì tôi tìm được. Phate và một người bạn của hắn, gã nào đó tên là Shawn, đã viết một phần mềm tên là Trapdoor. Hiện tại 'Trapdoor' trong giới tin học nghĩa là một lỗ hổng được gắn vào hệ thống an ninh cho phép những nhà lập trình truy cập lại vào bên trong để sửa lỗi mà không cần mật khẩu. Phate và Shawn sử dụng chính cái tên đó cho phần mềm này của họ nhưng nó hơi khác một chút. Bằng cách nào đó, chương trình này cho phép chúng thâm nhập vào trong máy tính của bất cứ ai."

    "Trapdoor," Bishop lơ đãng. "Cũng giống như cái giá treo cổ nhỉ."

    "Giống như giá treo cổ," Gillette nhắc lại.

    Nolan hỏi, "Nó hoạt động như thế nào?"

    Gillette định giải thích cho cô bằng ngôn ngữ chuyên môn thì liếc thấy Bishop và Shelton.

    "Nói dễ hiểu thôi."

    Tay hacker bước đến chiếc bảng trống và vẽ một biểu đồ. Hắn nói, "Cách mà thông tin lan truyền trên mạng không giống như trên điện thoại. Mọi thứ được gửi lên mạng - email, nhạc, ảnh tải về, đồ họa trên một website - tất cả đều được tách thành những mảnh dữ liệu nhỏ gọi là các 'gói'. Khi trình duyệt của bạn yêu cầu điều gì đó từ một website, nó sẽ gửi những gói dữ liệu đó lên mạng Internet. Ở đầu thu, máy chủ ghép nối lại yêu cầu của bạn, rồi gửi đi hồi đáp của nó, đã được phân thành các gói trở lại máy của bạn."

    "Tại sao phải phân nhỏ chúng?" Shelton hỏi.

    Nolan trả lời, "Như thế thì nhiều tin nhắn có thể gửi qua một đường dây trong cùng một thời điểm. Tương tự, nếu một gói tin nào đó bị thất lạc hoặc hỏng, máy tính của bạn sẽ nhận được thông báo và chỉ cần gửi lại những gói bị trục trặc mà không phải gửi lại toàn bộ tin nhắn."

    Gillette chỉ vào sơ đồ của mình rồi tiếp tục, "Những gói tin được chuyển tiếp trên Internet qua những router là những máy tính lớn trên khắp đất nước để truyền dẫn những gói tin đến đích cuối cùng. Router có độ an toàn cực cao nhưng Phate đã đột nhập được vào vài router và cài một phần mềm packet-sniffer 1 bên trong."

    "Cái đó," Bishop nói, "chuyên tìm kiếm những gói dữ liệu cụ thể, tôi đoán là thế."

    "Chính xác," Gillette tiếp lời. "Nó nhận biết chúng nhờ tên hiển thị - screen name, hoặc địa chỉ máy nơi những gói tin này xuất phát hoặc hướng đến. Khi sniffer phát hiện ra những gói tin đang chờ đợi, nó sẽ chuyển hướng chúng đến máy của Phate. Khi ấy, Phate sẽ cài thêm thứ gì đó vào những gói tin này." Gillette hỏi Miller, "Anh đã từng nghe nói về kỹ thuật giấu thông tin rồi chứ?"

    Tay cảnh sát lắc đầu. Tony Mott và Linda Sanchez cũng không biết đến thuật ngữ này, riêng Patricia Nolan nói, "Tức là giấu dữ liệu bí mật bên trong, ví dụ như những bức ảnh hay file âm thanh mà bạn gửi qua mạng. Một kiểu gián điệp."

    "Đúng vậy," Gillette xác nhận. "Dữ liệu đã mã hóa được cài ngay vào chính file đó - vì thế kể cả nếu ai đó nhận được email của bạn rồi đọc nó hay mở file ảnh mà bạn đã gửi, thì họ chỉ thấy một file hoàn toàn vô hại, chứ không phải dữ liệu bí mật. Phần mềm Trapdoor của Phate cũng vậy. Nhưng thay vì giấu thông điệp vào file - nó giấu một ứng dụng."

    "Một chương trình hoạt động?" Nolan hỏi.

    "Phải. Rồi hắn gửi nó trở lại bằng chính đường đó đến máy của nạn nhân."

    Nolan lắc đầu. Khuôn mặt xanh xao, nhợt nhạt của cô bộc lộ sự kinh ngạc và kính cẩn. Cô thì thầm đầy kính nể, "Từ trước đến giờ chưa từng có ai làm thế."

    "Thế phần mềm mà hắn gửi là gì?" Bishop hỏi.

    "Đó là một demon," Gillette trả lời.

    "Demon?" Shelton hỏi.

    "Có cả một hạng mục phần mềm gọi là bot," Gillette giải thích, "Viết tắt của robots. Và chúng chính xác là như thế - những robot phần mềm. Một khi được kích hoạt, chúng tự chạy hoàn toàn mà không cần con người đưa vào máy. Chúng có thể chu du từ máy này sang máy khác, có thể sinh sản, trốn chạy, và giao tiếp với con người hoặc những máy tính khác, cũng như có thể tự hủy diệt chính mình."

    Gillette vẽ một biểu đồ thứ hai, để minh họa cách Trapdoor hoạt động. "Những demon cũng là một loại bot. Chúng cư ngụ trong máy tính của bạn và thực hiện những thao tác như vận hành đồng hồ và tự động sao lưu các file. Những việc lặt vặt. Nhưng demon của Trapdoor thực hiện thao tác gì đó đáng sợ hơn nhiều. Một khi vào được máy của bạn, nó sẽ sửa đổi hệ điều hành. Và khi bạn lên mạng, nó sẽ tự động kết nối máy của bạn với máy của Phate."

    "Và hắn đoạt quyền kiểm soát thư mục gốc," Bishop nói.

    "Chính xác."

    "Ôi, tệ quá," Linda Sanchez rên rỉ.

    "Ôi trời..."

    Nolan cuốn lọn tóc rối quanh ngón tay. Đằng sau cặp kính hàng hiệu mỏng manh, đôi mắt cô lộ vẻ lo sợ như thể vừa nhìn thấy một tai nạn nghiêm trọng. "Vậy nếu ta lướt web, đọc tin kiểm tra email, thanh toán hóa đơn, nghe nhạc, tải ảnh, tra chỉ số chứng khoán, nói chung là ta cần kết nối trực tuyến, Phate đều có thể xâm nhập vào máy tính của ta."

    "Đúng vậy. Bất cứ thứ gì bạn nhận được qua Internet đều có thể chứa phần mềm Trapdoor quỷ quái."

    "Thế còn những lớp tường lửa firewall, thì sao?" Miller hỏi. "Sao chúng không ngăn chặn nó?"

    "Tường lửa là lính canh gác máy tính, chúng chỉ ngăn chặn những file hay dữ liệu bạn không yêu cầu khỏi máy của bạn." - Gillette giải thích, "Đó chính là điểm siêu việt của phần mềm này: Bởi vì demon được giấu trong chính dữ liệu mà ban yêu cầu, tường lửa sẽ không ngăn chặn nó."

    "Siêu việt," Bob Shelton lẩm bẩm một cách mỉa mai. Tony Mott vô thức gõ ngón tay lên chiếc mũ bảo hiểm xe đạp của mình. "Hắn đã phá vỡ quy tắc số một."

    "Là gì?" Bishop hỏi.

    Gillette dẫn lại, "Không động đến dân thường."

    Mott gật đầu và nói tiếp, "Các hacker cho rằng Chính phủ, các tập đoàn và những hacker khác là cuộc chơi công bằng. Nhưng không bao giờ được nhắm vào dân chúng."

    Sanchez hỏi, "Liệu có cách nào biết được hắn có ở trong máy mình hay không?"

    "Chỉ vài điểm rất nhỏ nhặt, bàn phím có vẻ không nhanh nhạy, hình đồ họa nhìn hơi mờ, một trò chơi không phản hồi nhanh như thông thường, ổ cứng bất chợt khựng lại một hay hai giây. Không có gì quá rõ ràng nên hầu hết mọi người đều không để ý."

    Shelton hỏi, "Thế tại sao anh lại không tìm thấy thứ demon này trong máy tính của Lara Gibson?"

    "Có chứ, có điều cái tôi tìm thấy là tàn tích của nó - một đống dữ liệu số học vô nghĩa. Phate đã thiết kế cho nó cơ chế tự hủy nào đó. Nếu demon cảm nhận thấy bạn đang tìm kiếm nó, nó sẽ tự viết lại thành dữ liệu rác."

    "Làm thế nào cậu tìm ra tất cả những thứ này?" Bishop hỏi.

    Gillette nhún vai, "Chắp nối từ những cái này." Hắn đưa cho Bishop những bản in.

    Bishop nhìn trang trên cùng.

    Đến: Nhóm Từ: Triple-X

    Tôi nghe nói Titan 233 đang hỏi xin bản copy của Trapdoor. Đừng làm thế, anh bạn. Hãy coi như chưa từng nghe nói đến nó. Tôi có biết về Phate và Shawn. Họ rất NGUY HIỂM. Tôi không đùa đâu.

    "Hắn là ai?" Shelton hỏi. "Triple-X ấy? Nếu nói chuyện trực tiếp được với hắn ta là tốt nhất."

    "Tôi không có manh mối gì về việc hắn ta là ai hay sống ở đâu," Gillette nói. "Có thể hắn ta cùng một băng nhóm trực tuyến nào đó với Phate và Shawn."

    Bishop lật giở tất cả những bản in còn lại, tất cả đều cung cấp vài chi tiết hay tin đồn về Trapdoor. Tên của Triple-X xuất hiện trên vài tờ trong số đó.

    Nolan đập tay lên một tờ giấy. "Liệu chúng ta có thể truy từ thông tin trong tiêu đề này ngược trở lại máy của Triple-X không?"

    Gillette giải thích cho Bishop và Shelton, "Tiêu đề của những bài đăng trong diễn đàn thảo luận trên mạng và các email thể hiện đường đi từ máy của người gửi đến máy của người nhận. Theo lý thuyết, anh có thể dựa vào tiêu đề để tìm kiếm địa điểm của máy tính đã gửi đi thông điệp đó. Nhưng tôi đã kiểm tra cả rồi." Hắn hất đầu về phía tờ giấy. "Chúng là giả. Phần lớn những hacker thực thụ đều giả mạo tiêu đề để không ai có thể tìm được họ."

    "Vậy là ngõ cụt à?" Shelton lẩm bẩm.

    "Tôi mới chỉ đọc lướt nhanh. Chúng ta nên xem lại thật kỹ càng," Gillette nói, hất đầu về phía những bản in. "Sau đó tôi sẽ viết ra một bot của riêng mình. Nó sẽ tìm bất cứ thứ gì đề cập đến những từ Phate/Shawn/ Trapdoor/ hay Triple-X/"

    "Một mẻ lưới," Bishop liên tưởng. "P-h phishing."

    Tất cả nằm ở cách đánh vần, cách viết...

    Tony Mott nói, "Hãy gọi cho CERT. Xem họ có biết gì về thứ này không."

    Mặc dù bản thân tổ chức này chưa từng công nhận, nhưng trong giới ai cũng biết tên tổ chức là những chữ cái đầu của Computer Emergency Response Team (Đội Phản ứng nhanh An ninh mạng). Đặt tại học xá trường Camegie Mellon ở Pittsburgh, CERT là một cơ quan chuyên thu thập và phân loại thông tin về các loại virus và các mối đe dọa tin học khác. Nó cũng cảnh báo những nhà quản trị hệ thống về cuộc tấn công của các hacker.

    Sau khi nghe giải thích về tổ chức này, Bishop gật đầu. "Hãy gọi cho họ xem."

    Nolan nói thêm, "Nhưng đừng nói gì về Wyatt. CERT có liên kết với Bộ Quốc phòng."

    Mott bấm máy và nói chuyện với một người quen ở tổ chức này. Sau cuộc nói chuyện ngắn, anh gác máy. "Họ chưa từng nghe nói đến Trapdoor hay thứ gì đó tương tự. Họ muốn chúng ta tiếp tục cập nhật cho họ."

    Linda Sanchez chăm chú nhìn bức ảnh chụp Andy Anderson, vợ và con gái của ông đặt trên bàn. Cô nói bằng giọng thì thầm đầy lo âu, "Vậy là một khi đã lên mạng, không ai được an toàn."

    Gillette nhìn vào đôi mắt tròn màu nâu của cô. "Phate có thể khám phá ra bất kỳ bí mật nào của ta. Hắn có thể giả làm ta hay đọc hồ sơ bệnh án của ta. Hắn có thể khiến tài khoản ngân hàng của ta rỗng không, làm những việc phi pháp dưới danh nghĩa của ta, dựng lên một nhân tình giả và gửi cho vợ hoặc chồng ta bản sao của những lá thư tình giả. Hắn có thể khiến ta bị sa thải."

    "Hoặc," Patricia Nolan nhỏ nhẹ thêm vào, "hắn có thể giết ta."

    ° ° °

    "Cậu Holloway, cậu có nghe không đấy?... Cậu Holloway?"

    "Hừ?"

    "Hừ?" Đây có phải cách đáp lời của một sinh viên lễ phép không? Tôi đã hỏi cậu câu hỏi này hai lần còn cậu thì cứ mải nhìn ra ngoài cửa sổ. Nếu cậu không làm bài tập, chúng ta sẽ có vấn đề"

    "Câu hỏi là gì ạ?"

    "Để tôi nói xong đã, chàng trai trẻ. Nếu cậu không chịu làm bài tập thì chúng ta sẽ có vài rắc rối đấy. Cậu có biết bao nhiêu học sinh xứng đáng hơn đang nằm trong danh sách chờ để vào ngôi trường này không? Tất nhiên cậu không biết và cũng chẳng quan tâm. Cậu đã đọc đề bài chưa?"

    "Cũng không hẳn."

    "Cũng không hẳn?" Tôi hiểu rồi. Câu hỏi là: Định nghĩa hệ bát phân và cho tôi số thập phân tương đương của các số bát phân 05726 và 12438. Nhưng cậu muốn biết câu hỏi làm gì nếu cậu chưa đọc đề bài? Cậu khó mà trả lời được..."

    "Hệ bát phân là một hệ thống số đếm có tám chữ số giống như hệ thập phân thì có mười, còn hệ nhị phân thì có haỉ."

    "Vậy là, cậu cũng nhớ được vài điều nhờ kênh Discovery Channel, cậu Holloway."

    "Không, em... "

    "Nếu cậu biết nhiều đến thế thì tại sao cậu không lên bảng và thử chuyển những số này cho cả lớp. Lên bảng, mời cậu lên bảng!"

    "Em chả cần phải viết ra. Số bát phân 05726 chuyển thành số thập phân là 3030. Thầy bị sai ở số thứ hai - 12438 không phải là một số bát phân. Không có số 8 trong hệ bát phân. Chỉ từ không đến bảy."

    "Tôi không bị nhầm. Đó là một cầu hỏi mẹo. Để xem cả lớp có tập trung không."

    "Nếu thầy nói vậy."

    "Được rồi, cậu Holloway, đến lúc phải đi gặp thầy hiệu trưởng rồi."

    Ngồi trong phòng ăn kiêm phòng làm việc trong ngôi nhà ở Los Altos, lắng nghe một CD của vở Othello của James Earl Jones, Phate sục sạo tất cả các file của nhân vật trẻ tuổi - Jamie Turner và lên kế hoạch cho chuyên viếng thăm buổi tối ở Học viện Thánh Francis.

    Nhưng ý nghĩ về cậu sinh viên trẻ tuổi này gợi cho hắn nhớ lại quãng đời học sinh của chính mình - giống như hồi ức khó khăn về môn toán khi mới lên trung học. Những năm đầu thời học sinh của hắn luôn theo một mô hình rất dễ đoán. Kì đầu tiên, hắn sẽ giành toàn điểm A. Nhưng đến mùa xuân, điểm số của hắn sẽ lao dốc xuống điểm D và F. Lý do là vì hắn chỉ có thể chống đỡ nỗi chán ngán trường học trong ba hay bốn tháng, nhưng sau thời gian đó thì ngay cả việc đến lớp học cũng quá sức chịu đựng và lúc nào cũng vậy, hắn sẽ bỏ dở phần lớn học kỳ hai.

    Rồi bố mẹ Phate sẽ gửi hắn đến một ngôi trường mới. Và điều tương tự lại tái diễn.

    Cậu Holloway, cậu có nghe tôi nói gì không?

    Chà, đó luôn là vấn đề của Phate.

    Không, cơ bản thì đó luôn là vấn đề của Phate, hắn chưa từng giao du với ai, hắn đi trước họ hàng năm ánh sáng.

    Các giáo viên và thầy giám thị đã tìm đủ mọi cách. Họ gửi hắn vào những lớp học tài năng và chương trình tài năng vượt bậc, nhưng vẫn không giữ được sự hứng thú của hắn. Và một khi đã phát chán, hắn trở nên vô cùng xấu xa và hằn học. Những giáo viên của hắn, như thầy Cummings tội nghiệp, người giáo viên trẻ trong vụ việc số bát phân, không dám tiếp tục gọi đến hắn, vì sợ hắn sẽ chế giễu những hạn chế của họ.

    Sau vài năm, cha mẹ hắn - bản thân đều là những nhà khoa học, gần như bỏ cuộc. Bận rộn với cuộc sống riêng (Cha - một kỹ sư điện, mẹ - nhà hóa học làm việc cho một công ty mỹ phẩm), rất vui lòng trao gửi con trai cho một loạt những gia sư ngoài giờ học ở trường, mục đích là để mua thêm cho bản thân vài tiếng đồng hồ cho công việc riêng, họ đút lót Richard - đứa anh trai hơn Phate hai tuổi, thả Phate cả ngày ở trung tâm giải trí trò chơi điện tử thành phố Atlantic hoặc những trung tâm mua sắm quanh vùng cùng với một trăm đô vào lúc 10:15 sáng và đón nó sau mười hai tiếng.

    Còn đối với bạn học của hắn... bọn họ, tất nhiên là không ưa Jon ngay từ lần gặp đầu tiên. Hắn là 'Bộ óc' hắn là 'Jon đầu to' hắn là 'Tên phù thủy'. Họ hắt hủi hắn từ những ngày đầu tiên của lớp học, và khi khóa học dần trôi, vẫn trêu trọc và lăng mạ hắn không thương tiếc. (ít nhất không đứa nào buồn đánh hắn vì như một tay trong đội bóng đã nói, "Một con ranh cũng có thể làm nó vãi ra quần. Tao không thèm.")

    Vì vậy, để giữ sức ép bên trong bộ óc quay cuồng của Phate không thổi tung hắn thành từng mảnh, hắn dành ngày càng nhiều thời gian trong một nơi đặt ra cho mình nhiều thử thách: Thế giới máy tính. Vì cha mẹ hắn sẵn lòng chi tiền để tránh bị làm phiền, hắn đã có những chiếc máy tính cá nhân tốt nhất lúc bấy giờ.

    Một ngày điển hình của hắn ở trường trung học là chịu đựng cho xong những tiết học rồi phóng vội về nhà lúc 3 giờ chiều và biến vào phòng riêng nơi hắn tự ba hoa về bản thân trên các bản tin hay đột nhập các thiết bị chuyển mạch điện thoại hoặc lẻn vào hệ thống máy tính của Hội Khoa học Quốc gia, Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh, Lầu Năm Góc, Los Alamos, Harvard và CERT (Đội phản ứng nhanh an ninh mạng). Cha mẹ hắn phải cân nhắc hóa đơn điện thoại hàng tháng lên tới 800 đô la so với thứ phải đánh đổi - công việc bị mất cùng những cuộc gặp liên tục với giáo viên và giám thị, nên cuối cùng họ vui vẻ chọn việc viết séc gửi đến công ty điện thoại New Jersey Bell.

    Tuy vậy, rõ ràng là thằng bé ngày một phát triển theo chiều hướng xấu đi, hắn ngày càng tự cô lập, trở nên hằn học và dễ nổi nóng mỗi khi không được vào mạng.

    Nhưng trước khi hắn sụp đổ hoàn toàn và 'làm một Socrates' (một triết gia Hy Lạp cổ) cùng vài chất độc thông minh với công thức hắn tải về từ mạng, theo những gì hắn còn nhớ, có một chuyện đã xảy ra.

    Thằng nhóc mười sáu tuổi tình cờ vào một bảng tin trên diễn đàn của những người chơi trò nhập vai MUD. Trò chơi này lấy bối cảnh thời trung cổ, những hiệp sỹ đi tìm một thanh kiếm hoặc một chiếc nhẫn thần kỳ, hay những thứ đại loại như thế. Hắn xem một hồi rồi ngại ngùng gõ tin nhắn, "Tôi có thể chơi không?"

    Một trong những người chơi kì cựu chào đón hắn nồng nhiệt và hỏi, "Cậu muốn là ai?"

    Jon trẻ tuổi quyết định trở thành một hiệp sỹ và vui vẻ khởi hành cùng những chiến hữu của hắn, đi tìm giết những con rồng, thủy quái và kẻ thù trong tám tiếng liền. Đêm đó, sau khi đăng xuất, hắn nằm trên giường, không thể ngừng nghĩ về ngày tuyệt vời vừa trải qua. Hắn không còn bị gọi là 'Jon đầu to' hay 'Tên phù thủy' đầy khinh miệt nữa. Cả ngày dài, hắn được làm một hiệp sỹ trong vùng đất Cyrania thần thoại và hắn đã rất hạnh phúc. Có lẽ ở Thế giới thực, hắn cũng có thể trở thành một ai khác.

    Bạn muốn là ai?

    Ngày hôm sau, hắn đăng ký một hoạt động ngoại khóa ở trường, điều mà hắn chưa từng làm trước đó: Câu lạc bộ kịch nghệ.

    Hắn nhanh chóng nhận ra mình có khả năng diễn xuất thiên bẩm.

    Thời gian còn lại của hắn ở ngôi trường đó không mấy tiến triển, mối bất hòa giữa Jon với các giáo viên và bạn học quá sâu sắc, nhưng hắn cũng chẳng quan tâm, hắn đã có kế hoạch của riêng mình. Vào cuối học kỳ, hắn đòi bố mẹ cho chuyển sang một trường khác cho năm trung học tiếp theo. Vì hắn nói sẽ tự lo mọi giấy tờ thủ tục và việc chuyển trường sẽ không ảnh hưởng đến cuộc sống của họ, thế là họ đồng ý.

    Mùa thu năm sau, giữa những thí sinh hào hứng đăng ký vào các lớp học của trường Trung học đào tạo Tài năng Thomas Jefferson, có một thiếu niên đặc biệt hăng hái tên là Jon Patrick Holloway. Những giáo viên và giám thị xem lại tài liệu được gửi cho họ qua email từ ngôi trường cũ của cậu ta. Học bạ cho thấy thành tích B+ ổn định ở mọi cấp học kể từ nhà trẻ, bản nhận xét sinh động của các giám thị mô tả một đứa trẻ khéo léo và hòa đồng, điểm thi tuyển ấn tượng và hàng tá thư giới thiệu từ các giáo viên cũ. Buổi phỏng vấn trực tiếp với chàng trai lịch sự có ấn tượng bề ngoài gây thiện cảm bằng quần nâu, áo sơ mi xanh nhạt và áo khoác màu xanh hải quân đã diễn ra khá tốt đẹp và hắn được nồng nhiệt chào đón vào trường.

    Chàng trai này luôn hoàn thành bài tập và hiếm khi bỏ lỡ buổi học. Sức học của hắn ta ổn định ở giữa khoảng B+ và A-, giống như các học sinh khác ở Tom Jefferson. Hắn học tập rất siêng năng và có chơi vài môn thể thao. Hắn thường ngồi trên đồi cỏ bên ngoài ngôi trường, nơi những học sinh nhà giàu tụ tập lén lút hút thuốc lá, tán chuyện về mấy tên mọt sách và những kẻ kém cỏi. Hắn cũng hẹn hò, tham dự khiêu vũ và làm việc trong những ngày hội tựu trường.

    Giống như bất kỳ ai.

    Hắn ngồi trong bếp nhà Susan Coyne, lần mò dưới lớp áo của cô nàng và nhấm nháp cái niềng răng của cô ta. Hắn và Billy Pickford lái chiếc Corvette đời cổ của bố hắn ra đường cao tốc, tăng tốc chiếc xe lên đến một trăm kilomet một giờ, rồi phóng về nhà, tháo tung ra và cài đặt lại đồng hồ công tơ mét.

    Hắn có chút vui vẻ, chút tâm trạng, chút nổi loạn.

    Giống như bất kỳ ai.

    Vào năm mười bảy tuổi, Jon Holloway social engineer cho bản thân trở thành một trong những đứa trẻ bình thường và được yêu mến nhất ở trường.

    Thực tế thì hắn đã rất được yêu mến, đến nỗi đám tang của cha mẹ và anh trai hắn là một trong những đám tang có nhiều người đến dự nhất trong lịch sử của thị trấn New Jersey nhỏ bé nơi họ sống. (Thật là kỳ diệu, bạn bè và người thân bàn luận rằng Jon tình cờ mang máy tính đến một hiệu sửa chữa vào sáng sớm ngày thứ Bảy khi thảm kịch nổ ga xảy ra, cướp đi sinh mạng của những người thân trong gia đình hắn.)

    Jon Holloway đã quan sát cuộc sống và quả quyết rằng, Chúa trời và cha mẹ hắn đã làm tổn thương hắn sâu sắc đến nỗi cách duy nhất để hắn có thể tồn tại là nhìn nhận cuộc đời như một trò chơi MUD.

    Và giờ thì hắn lại bắt đầu cuộc chơi.

    Bạn muốn là ai?

    Trong tầng hầm của căn nhà ngoại ô đẹp đẽ ở Los Altos, Phate lau rửa vết máu trên con dao Ka-bar và bắt đầu mài sắc nó, tận hưởng tiếng lưỡi dao miết vào miếng thép mài hắn mua ở Williams-Sonoma.

    Đây cũng chính là con dao hắn đã dùng để đâm thẳng vào trái tim của một nhân vật quan trọng trong trò chơi cho đến khi nó bất động - Andy Anderson.

    Xoẹt, xoẹt, xoẹt...

    Access ...

    Tiếp tục mài dao vào miếng thép, trí nhớ hoàn hảo của Phate nhớ lại một đoạn trong bài viết có tiêu đề 'Cuộc sống ở Miền xanh thằm vô định' mà hắn đã chép lại vào sổ tay hack của mình vài năm trước:

    Ranh giới giữa Thế giới thực và Thế giới máy tính ngày càng trở nên mờ nhạt. Nhưng không phải do con người đang biến thành máy móc hay trở thành nô lệ của máy móc. Không, chỉ đơn giản là chúng ta đang xích lại gần nhau hơn. Trong Miền xanh thẳm vô định, máy móc đang tiếp nhận những mặt tính cách và văn hóa của chúng ta - ngôn ngữ, sự liên tường, phép ẩn dụ, triết lý và tinh thần của chúng ta.

    Và đổi lại, những tính cách và nền văn hóa đó cũng ngày một biến chuyển nhờ Thế giới máy tính.

    Hãy thử nghĩ về cuộc sống của một kẻ độc thân, về nhà sau giờ làm việc rồi ăn tối bằng đồ ăn sẵn và xem ti vi cả đêm. Giờ đây, anh ta sẽ bật máy tính lên và đăng nhập vào Miền xanh thẳm vô định, nơi anh ta được tương tác. Anh ta có kích thích về mặt xúc giác lên bàn phím, có những trao đổi về mặt ngôn ngữ, anh ta được thử thách. Anh ta không còn bị động như trước nữa. Anh ta buộc phải cung cấp dữ liệu đầu vào để được phản hồi. Anh ta đã bước lên một mức độ tồn tại cao hơn và lý do là nhờ máy tính đã đến với anh ta. Chúng nói thứ ngôn ngữ của anh ta.

    Dù tốt hay xấu, giờ đây máy tính đã phản ánh giọng nói, tinh thần, tình cảm và mục đích của con người.

    Dù tốt hay xấu, chúng còn phản ánh lương tâm, và cả sự vô lương của con người.

    Phate đã mài xong dao và lau nó thật sạch. Hắn đặt nó trở lại hộp dụng cụ và quay lên gác để thấy những đồng đô la đóng thuế của hắn đã được chi tiêu một cách thích đáng, những siêu máy tính của Trung tâm Nghiên cứu Quốc phòng vừa hoàn tất việc chạy chương trình của Jamie Turner và đã lấy được mật khẩu hệ thống cổng Học viện Thánh Francis. Đêm nay hắn sẽ tiếp tục cuộc chơi...

    Dù tốt hay xấu...

    ° ° °

    Sau hai mươi phút mày mò khắp các bản in của Gillette, cả đội không tài nào tìm thêm được manh mối gì. Tay hacker ngồi xuống một bàn làm việc và bắt đầu viết mã chương trình bot giúp hắn tiếp tục tìm kiếm trên mạng.

    Bỗng hắn ngừng lại và ngẩng lên. "Có một việc chúng ta phải làm. Sớm hay muộn thì Phate cũng sẽ nhận ra các anh đang nhờ một hacker tìm kiếm hắn và có thể hắn sẽ tìm cách theo sau chúng ta." Gillette quay sang Stephen Miller. "Từ đây các anh có thể truy cập vào những mạng bên ngoài nào?"

    "Hai cái - mạng Internet, qua domain của chính chúng tôi: cspccu.gov. Chính là mạng anh vừa dùng để Online. Ngoài ra chúng tôi cũng kết nối với ISLEnet."

    Sanchez giải thích thuật ngữ này. "Là viết tắt của Mạng lưới Hệ thống Hành pháp Liên bang - Integrated Statewide Law Enforcement Network."

    "Nó có được cách ly không?"

    Một mạng cách ly được tạo nên từ những máy tính chỉ kết nối với nhau và chỉ kết nối thông qua cáp phần cứng - không ai có thể hack vào nó thông qua đường dây điện thoại hay Internet.

    "Không," Miller nói. "Cậu có thể đăng nhập từ bất cứ đâu, nhưng cậu cần có các mật khẩu và phải vượt qua được vài tường lửa."

    "Những mạng ngoài nào mà tôi có thể truy cập từ ISLEnet?"

    Sanchez nhún vai. "Bất kỳ hệ thống mạng nào thuộc Cảnh sát bang hay liên bang - FBI, Sở Mật vụ, ATF (Cục cảnh sát đặc nhiệm về thuốc lá, vũ khí và chất cồn), NYPD (Sở cảnh sát New York)... thậm chí cả Scotland Yard (Sở cảnh sát Lon Don) và Interpol. Những cơ quan liên quan."

    Mott nói thêm, "Vì chúng tôi là cơ quan xử lý tất cả những tội phạm tin học của bang nên CCU có phân quyền gốc ở ISLEnet. Bởi thế chúng tôi có quyền truy cập vào nhiều máy hơn bất kỳ ai khác."

    Gillette liền nói, "Vậy thì chúng ta buộc phải ngắt mọi liên kết đến nó."

    "Này, này, này, backspace, backspace," Miller nói, sử dụng thuật ngữ của hacker có nghĩa là chờ một chút. "Ngắn kết nối đến ISLEnet? Chúng ta không thể làm thế."

    "Chúng ta buộc phải làm thế."

    "Tại sao?" Bishop hỏi.

    "Bởi vì nếu Phate xâm nhập được vào các liên kết đó bằng một Trapdoor demon, hắn có thể đột nhập vào ISLEnet. Và khi đó, hắn sẽ có quyền truy cập đến tất cả mạng lưới của các cơ quan hành pháp mà nó liên kết. Đó sẽ là một thảm họa."

    "Nhưng chúng tôi sử dụng ISLEnet cả chục lần mỗi ngày," Shelton phản đối. "Cơ sở dữ liệu vân tay tự động, lệnh bắt, tài liệu về nghi phạm, tìm kiếm...

    "Wyatt nói đúng đấy," Patrici Nolan nói. "Hãy nhớ rằng gã này đã đột nhập được vào VICAP và cơ sở dữ liệu của cảnh sát ở hai bang. Chúng ta không thể mạo hiểm để hắn đột nhập thêm bất kì một hệ thống nào khác."

    Gillette nói, "Nếu cần sử dụng ISLEnet, chúng ta phải đi tới địa điểm nào đó khác - trụ sở, hay bất cứ đâu."

    "Thật nực cười," Stephen Miller nói. "Chúng ta không thể lái xe cả năm dặm chỉ để đăng nhập vào một cơ sở dữ liệu. Chỉ làm tốn thêm thời gian cho cuộc điều tra."

    "Chúng ta đang lội ngược dòng từ đây rồi," Shelton nói. "Tên này luôn đi trước chúng ta. Hắn không cần thêm lợi thế nữa." Ông liếc nhìn Bishop vẻ van nài.

    Viên thám tử có vóc người mảnh khảnh liếc xuống gấu áo xộc xệch của mình và nhét nó vào trong cạp quần. Một lát sau, ông nói, "Cứ làm thế đi. Hãy làm như anh ta nói. Ngắt kết nối đến ISLEnet."

    Sanchez thở dài.

    Gillette nhanh chóng gõ lệnh ngắt kết nối mạng ngoài trong khi Stephen Miller và Tony Mott ngao ngán đứng xem. Hắn cũng đặt lại tên miền của CCU thành caltourisim.gov để khiến Phate gặp khó khăn hơn khi tìm kiếm và đột nhập hệ thống của họ. Khi đã xong xuôi, hắn ngẩng lên nhìn cả đội.

    "Còn một điều nữa... Kể từ giờ không ai được vào mạng trừ tôi."

    "Tại sao?" Shelton hỏi

    "Bởi vì tôi có thể cảm nhận được khi Trapdoor ở trong hệ thống của chúng ta."

    "Như thế nào?" Viên cảnh sát mặt rỗ chua chát hỏi. "Đường dây nóng Người bạn tâm tình à?"

    Gillette bình thản trả lời, "Cảm nhận của bàn phím, sự chậm trễ khi hệ thống hồi đáp, âm thanh của ổ cứng, tôi đã từng đề cập rồi."

    Shelton lắc đầu. Ông hỏi Bishop, "Anh sẽ không đồng ý chứ, đúng không? Đầu tiên, chúng ta đã thống nhất là cậu ta không được liên quan đến Internet nhưng rốt cuộc cậu ta lại dạo chơi khắp nơi trên mạng. Giờ thì, cậu ta lại nói rằng mình là người duy nhất được phép làm thế còn chúng ta thì không. Thật ngược đời, Frank. Ở đây có chuyện gì rồi."

    "Chuyện xảy ra ở đây," Gillette bật lại, "là tôi biết mình đang làm gì. Chỉ khi là một hacker, ông mới có cảm nhận về máy móc."

    "Chấp nhận," Bishop nói.

    Shelton giơ hai tay bất lực. Stephen Miller có vẻ cũng chẳng vui vẻ gì hơn. Tony Mott thì vuốt ve báng súng và dường như đang quan tâm đến việc mong muốn được bắn một phát vào tên giết người hơn là nghĩ đến máy tính.

    Điện thoại của Bishop đổ chuông, ông nghe máy. Ông lắng nghe một lát và dù không thực sự mỉm cười, khuôn mặt viên cảnh sát trở nên sinh động hơn hẳn. Ông lấy bút và giấy rồi bắt đầu ghi chép. Sau năm phút tốc ký, ông gác máy và nhìn cả đội.

    "Chúng ta không phải gọi hắn là Phate nữa. Đã có tên thật của hắn rồi."

    --------------------------------
    1 Một chương trình nhận dạng các gói dữ liệu.<

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 13
    Jon Patrick Holloway."

    "Thì ra là Holloway à?" Patricia Nolan cất giọng ngạc nhiên.

    "Cô biết hắn sao?" Bishop hỏi.

    "Ồ, chắc chắn rồi. Hầu như ai trong giới an ninh mạng chúng tôi cũng biết. Nhưng nhiều năm nay, không ai nghe tin gì về hắn nữa. Tôi tưởng hắn không còn vi phạm pháp luật hoặc đã chết rồi."

    Bishop nói với Gillette, "Nhờ anh mà chúng tôi tìm được hắn - là gợi ý về phiên bản bờ đông của Unix. Cảnh sát bang Massachusetts có dấu vân tay trùng khớp." Bishop đọc ghi chép của mình. "Tôi có vài dòng tiểu sử của hắn. Hắn ta hai mươi bảy tuổi. Sinh ra ở New Jersey. Cha mẹ và người anh trai duy nhất đều đã chết. Hắn theo học tại Rutgers và Princeton, điểm số cao, một lập trình viên xuất sắc. Nổi tiếng ở trường, tham gia nhiều hoạt động. Sau khi tốt nghiệp, hắn đến đây làm nghiên cứu siêu máy tính và trí tuệ nhân tạo ở Sun Microsystems. Rời chỗ đó và chuyển sang NEC. Rồi hắn làm việc cho Apple, ở Cupertino. Một năm sau, hắn quay lại bờ đông, làm thiết kế bộ chuyển mạch điện thoại tân tiến - hay cái quái gì tương tự cho Công ty Westem Electric, New Jersey. Rồi hắn làm việc ở Phòng thí nghiệm Khoa học máy tính của Harvard.

    Có vẻ như hắn là một nhân viên kiểu mẫu - rất có tính đồng đội, đội trưởng chiến dịch United Way, đại loại thế."

    "Mẫu lập trình viên trung lưu điển hình," Mott kết luận.

    Bishop gật đầu. "Ngoại trừ một vấn đề. Suốt thời gian làm công dân kiểu mẫu, thì khi đêm về, hắn hack và điều hành những băng nhóm trên mạng. Nổi tiếng nhất là băng Knights of Access (Những Hiệp sỹ Access). Hắn lập nên nó cùng với một hacker khác tên là Vallcyman. Không có thông tin về tên thật."

    "KOA à?" Miỉler nói, có vẻ lo ngại. "Đó là tin xấu đây. Họ quậy phá Masters of Evil - băng này đến từ Austin. Và Deceptors ở New York. Hắn đột nhập vào máy chủ của cả hai băng này và gửi hồ sơ của họ cho văn phòng FBI ở Manhattan. Khiến một nửa bị tóm."

    "Nhóm Knights cũng có thể chính là băng đã làm tê liệt 911 ở Oakland trong hai ngày." Nhìn lướt qua ghi chép, Bishop nói, "Vài người đã thiệt mạng vì lý do đó - đội cứu thương không nhận được thông tin. Nhưng Công tố quận không tài nào chứng minh được họ đã làm việc đó."

    "Lũ khốn," Shelton nguyền rủa.

    Bishop nói tiếp, "Holloway không dùng tên Phate lúc đó. Usemame của hắn là CertainDeath." Anh hỏi Gillette, "Cậu có biết hắn không?"

    "Không quen nhau. Nhưng tôi cũng có nghe về hắn. Mọi hacker đều thế. Vài năm trước hắn đứng đầu danh sách các cao thủ."

    Bishop quay lại với ghi chép của mình.

    "Ai đó đã chỉ điểm khi hắn đang làm việc cho Harvard và cảnh sát bang Massachusetts đã viếng thăm hắn. Tất cả về cuộc đời hắn hóa ra là giả. Hắn lấy trộm phần mềm và các linh kiện siêu máy tính từ Harvard và bán chúng. Cảnh sát kiểm tra với các công ty westem Electric, Sun, NIC - những nơi từng thuê hắn, và có vẻ hắn cũng làm như thế ở những nơi đó. Hắn đã bỏ trốn trong thời gian tại ngoại ở Masshachusetts và không ai nhìn thấy hay nghe gì về hắn đã ba, bốn năm nay."

    Mott nói, "Hãy lấy tài liệu từ cảnh sát bang Masshachusetts, chắc chắn phải có chứng cứ hữu ích nào đó mà chúng ta có thể sử dụng."

    "Mất hết rồi," Bishop đáp lại.

    "Hắn hủy toàn bộ chỗ tài liệu đó rồi à?" Linda Sanchez hỏi.

    "Chứ sao nữa?" Bishop mỉa mai đáp rồi liếc nhìn Gillette.

    "Anh có thể thay đổi bot của mình không - cái chương trình tìm kiếm ấy? Và thêm vào hai cái tên Holloway và Vallcyman?"

    "Dễ ợt," Gillette bắt đầu gõ lại mã.

    Bishop gọi cho Huerto Ramirez và trao đổi với anh ta trong vài phút. Sau khi gác máy, anh nói với cả đội, "Huerto nói không có manh mối nào từ hiện trường của Andy Anderson. Anh ta sẽ cho chạy cái tên Jon Patrick Holloway trên VICAP và ở hệ thống của các bang."

    "Sẽ nhanh hơn nếu sử dụng ISLEnet ở đây," Stephen Miller lẩm bẩm.

    Bishop lờ đi và nói tiếp, "Sau đó anh ấy sẽ lấy một bản sao ảnh Holloway từ hồ sơ lưu trữ ở Massachusetts. Anh ấy và Tim Morgan sẽ để lại vài bức ảnh quanh Mountam View, gần cửa hàng bán đồ hóa trang sân khấu, phòng trường hợp Phate đi mua đồ. Rồi họ sẽ gọi cho tất cả những công ty Phate từng làm để yêu cầu cung cấp báo cáo nội bộ về những vi phạm của hắn."

    "Với điều kỉện chúng cũng chưa bị xóa," Linda Sanchez lẩm bẩm một cách bi quan.

    Dishop nhìn lên đồng hồ. Đã gần bốn giờ. Anh lắc đầu.

    "Chúng ta phải khẩn trương lên. Nếu mục tiêu của hắn là trong một tuần giết được càng nhiều người càng tốt thì rất có thể hắn đã có mục tiêu mới rồi." Anh cầm một chiếc bút dạ lên và bắt đầu viết lại những ghi chép của mình lên tấm bảng trắng.

    Patricia Nolan gật đầu về phía tấm bảng trắng, nơi từ 'Trapdoor' được viết thật đậm bằng mực đen. Cô nói, "Đó là dạng tội phạm của thế kỷ mới. Những kẻ xâm phạm."

    "Kẻ xâm phạm?"

    "Trong thế kỷ hai mươi, người ta ăn cắp tiền của bạn. Giờ thì, thứ bị đánh cắp là sự riêng tư của bạn, bí mật của bạn, những mộng tưởng của bạn."

    Quyền truy cập là Chúa trời - là Đấng toàn năng...

    "Nhưng ở một mức độ nào đó," Gillette phản bác, "Cô phải thừa nhận là Trapdoor thật sự phi phàm. Nó là một chương trình vô cùng khủng."

    Một giọng hỏi gay gắt vang lên từ phía sau Gillette, "Khủng? Ý cậu là sao?" Gillette chẳng hề ngạc nhiên khi người vừa hỏi là Bob Shelton.

    "Ý tôi là nó là một phần mềm đơn giản mà rất mạnh."

    "Ôi Chúa ơi," Shelton nói. "Nghe như cậu ước mình là kẻ tạo ra cái thứ quái quỷ đó."

    Gillette bình tĩnh nói, "Đó là một chương trình đáng kinh ngạc. Tôi không hiểu nó hoạt động như thế nào và tôi muốn biết điều đó. Thế thôi. Tôi tò mò về nó."

    "Tò mò? Cậu hình như quên mất một vấn đề nho nhỏ ở đây là hắn giết người nhờ thứ đó."

    "Tôi..."

    "Cậu là đồ khốn.... Nó cũng chỉ là một trò chơi với cậu thôi, đúng không? Y như hắn." Ông ta bước ra khỏi CCU, nói to với Bishop, "Hãy biến quách khỏi chỗ này và đi tìm nhân chứng. Đó là cách để chúng ta tóm được tên khốn này. Không phải bằng mấy thứ tin học rác rưởi này." Ông ta xồng xộc bước ra cửa.

    Tất cả sững lại mất một lúc. Mọi người lúng túng nhìn tấm bảng trắng hoặc liếc sang máy tính hay sàn nhà.

    Bishop ra hiệu cho Gillette đi theo anh ta vào phòng trà. Viên thám tử rót một ít cà phê vào chiếc cốc giấy.

    "Jennie, vợ tôi, bắt tôi kiêng khem," Bishop nói, nhìn đăm đăm vào cốc cà phê đen. "Tôi yêu thứ đồ uống này nhưng lại có vấn đề về ruột. Tiền loét, bác sỹ nói thế. Đó có phải là một cách diễn đạt rất khùng không nhỉ. Nghe như là tôi đang trong thời kỳ huấn luyện."

    "Tôi thì bị trào ngược dạ dày," Gillette nói. Hắn chạm tay vào phía trên ngực. "Rất nhiều hacker bị như thế. Do cà phê và soda."

    "Nghe này, về Bob Shelton... Anh ấy đã gặp chuyện buồn cách đây vài năm." Viên thám tử nhấp ngụm cà phê, liếc xuống chiếc áo sơ mi đang bị xổ tung. Ông lại nhét nó vào. "Tôi đã đọc những bức thư trong tài liệu tòa án của anh - những email mà cha anh đã gửi cho quan tòa trong phần luận tội ở phiên điều trần. Có vẻ như hai người có một mối quan hệ tốt đẹp."

    "Rất tốt, đúng là như vậy," Gillette nói, gật đầu.

    "Đặc biệt là sau khi mẹ tôi qua đời."

    "Chà, thế thì tôi nghĩ cậu sẽ hiểu được chuyện này. Bob từng có một cậu con trai."

    Từng có?

    "Anh ấy rất yêu thằng bé - như cha cậu yêu cậu vậy, có vẻ thế. Có điều nó đã chết trong một tai nạn vài năm trước. Khi nó mười sáu tuổi. Kể từ đó, Bob không còn như trước nữa. Tôi biết đòi hỏi thế này là quá nhiều nhưng hãy cố gắng thông cảm cho anh ấy."

    "Tôi rất tiếc về chuyện đó." Gillette bỗng nghĩ đến vợ cũ của mình. Về việc hắn đã dành hàng giờ trong tù ước mong rằng mình vẫn còn vợ, ước rằng hắn và Ellie có một đứa con trai hoặc con gái, trăn trở vì hắn đã thật tồi tệ khi làm rối tung mọi chuyện và phá hủy những cơ hội có một mái ấm. "Tôi sẽ cố."

    "Tôi rất cảm kích vì điều đó."

    Họ quay lại gian phòng chính. Gillette trở về bàn làm việc của mình. Bishop hất hàm về phía bãi đỗ xe, "Bob và tôi sẽ kiểm tra nhân chứng ở Vesta's Grill."

    "Thanh tra," Tony Mott đứng bật dậy và nói. "Tôi đi với các ông có được không?"

    "Tại sao?" Bishop hỏi, lấy làm khó hiểu.

    "Tôi nghĩ là mình có thể giúp, việc liên quan đến máy tính ở đây đã được thu xếp, có Wyatt, Patricia và Stephen. Tôi có thể hỗ trợ thẩm vấn những nhân chứng."

    "Cậu đã bao giờ thẩm vấn chưa?"

    "Chắc chắn rồi." Sau vài giây, anh ta cười nhăn nhở. "À, cũng không hẳn là ngay trên đường phố sau khi xảy ra vụ án. Nhưng tôi đã phỏng vấn rất nhiều người qua mạng."

    "Chà, có lẽ để sau vậy, Tony. Tôi nghĩ tôi và Bob sẽ tự làm việc này." Rồi anh rời văn phòng.

    Viên cảnh sát trẻ quay trở lại bàn làm việc của mình, thất vọng ra mặt. Gillette băn khoăn không biết là do anh ta khó chịu vì bị bỏ lại để chịu sự chỉ đạo của một thường dân hay vì anh ta thực sự muốn có cơ hội sử dụng khẩu súng to đùng của mình, đầu báng của nó cứ va vào đồ đạc trong văn phòng.

    ° ° °

    Trong năm phút, Gillette đã hoàn tất việc tạo ra bot.

    "Sẵn sàng rồi đây," hắn thông báo. Hắn lên mạng và gõ lệnh để gửi sản phẩm của mình vào Miền xanh thẳm vô định.

    Patricia Nolan nghiêng người về phía trước, chăm chú nhìn vào màn hình. "Chúc may mắn," cô thì thầm. 'Chúa phù hộ' như người vợ một thuyền trưởng nói lời chào tạm biệt chồng khi con tàu của ông ta rời khỏi cảng trước chuyến đi đầy hiểm nguy đến những vùng nước lạ.

    ° ° °

    Lại một tiếng bíp trong máy hắn.

    Rời mắt khỏi bản sơ đồ kiến trúc của Học viện Thánh Francis và khu vực xung quanh mà hắn đã tải về, Phate nhìn lên đúng lúc thấy một tin nhắn nữa từ Shawn. Hắn mở mail và đọc. Lại một tin xấu. Cảnh sát đã biết được tên thật của hắn. Hắn hơi lo lắng một chút nhưng sau đó vẫn kết luận là việc này không có gì nghiêm trọng. Jon Patrick Holloway được giấu kín sau tầng tầng lớp lớp những nhân dạng và địa chỉ giả, đến nỗi không có một mối liên hệ nào giữa hắn và Phate. Dù vậy, cảnh sát có thể tìm thấy một bức ảnh của hắn (vài phần thuộc quá khứ vẫn không thể biến mất chỉ với một lệnh xóa) và chắc chắn họ đã phân phát nó khắp Thung lũng Silicon. Nhưng ít nhất, giờ hắn đã được báo trước. Hắn sẽ ngụy trang thêm.

    Dù sao thì, chơi một trò game MUD để làm gì nếu nó không ẩn chứa đầy thách thức?

    Hắn liếc nhìn đồng hồ trong máy tính: 4:15. Đã đến lúc tới Học viện Thánh Prancis để chuẩn bị cho cuộc chơi đêm nay rồi. Hắn có hơn hai tiếng nhưng sẽ phải thám thính ngôi trường xem nhân viên bảo vệ có thay đổi cung đường tuần tra hay không. Ngoài ra, hắn biết Jamie Turner bé nhỏ hẳn sẽ cảm thấy nôn nóng và muốn lỉnh khỏi trường trước giờ hẹn để đi tản bộ quanh tòa nhà trong lúc chờ anh trai đến.

    Phate bước xuống tầng hầm ngôi nhà và lấy ra từ hộp dụng cụ thứ hắn cần - con dao của hắn, một khẩu súng, và một ít băng keo. Rồi hắn vào nhà tắm tầng dưới và lôi ra một chai nhựa từ dưới bồn rửa mặt. Nó chứa một thứ chất lỏng mà hắn đã pha trộn trước đó. Hắn vẫn có thể ngửi thấy thứ mùi hăng hăng của những chất hóa học trong cái chai.

    Hắn quay lại phòng ăn và kiểm tra máy tính một lần nữa. Nhưng không có tin nhắn nào cả. Hắn đăng xuất, tắt đèn trên trần nhà và rời khỏi phòng.

    Khi đó, màn hình chờ trên máy hắn bỗng bật lên và phát sáng trong căn phòng tăm tối. Trên màn hình, những chữ cái chầm chậm hiện lên:

    ACCESS IS GOD.


  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 14
    Đây, mang cho anh này."

    Gillette quay lại. Patricia Nolan mời hắn một tách cà phê. "Sữa và đường, đúng không?"

    Hắn gật đầu, "Cảm ơn."

    "Tôi để ý thấy anh thích uống như thế," cô nói.

    Hắn định kể cho cô nghe ở San Ho, tù nhân thường trao đổi thuốc lá lấy những túi cà phê ngon và pha nó bằng nước nóng từ vòi như thế nào. Nhưng dù chuyện tán gẫu này có vui đến mấy, Gillette vẫn quyết định rằng mình chẳng hồ hởi với việc nhắc nhở mọi người, kể cả bản thân, nhớ rằng hắn đang là một tù nhân.

    Cô ngồi xuống bên cạnh hắn, ráng kéo lại chiếc váy len xộc xệch, rồi lôi lọ sơn móng tay ra khỏi chiếc ví Louis Vuitton và mở nắp. Nolan để ý thấy hắn nhìn chiếc lọ.

    "Dầu dưỡng," cô giải thích. "Việc đánh máy thật kinh khủng đối với móng tay của tôi." Cô lại nhìn vào mắt hắn rồi cúi xuống ngắm nghía những ngón tay. Cô nói, "Tôi có thể cắt ngắn chúng nhưng điều này không nằm trong kế hoạch của tôi." Cô hơi nhấn mạnh vào từ 'kế hoạch' như thể muốn chia sẻ điều gì đó riêng tư với hắn. Tuy nhiên, thực lòng mà nói hắn không chắc mình có muốn biết hay không.

    Cô nói, "Tôi thức dậy vào một buổi sáng đầu năm nay, chính xác thì đó là ngày đầu năm mới, sau khi trải qua ngày nghỉ lễ một mình trên máy bay. Và tôi bỗng nhận ra mình chỉ là một cô gái mọt sách độc thân ba mươi tư tuổi, sống cùng một con mèo và những sản phẩm bán dẫn trị giá hai mươi ngàn đô trong phòng ngủ. Tôi đã quyết định rằng mình cần phải thay đổi. Tôi không phải là người mẫu nhưng tôi nghĩ mình sẽ thay đổi một số điều có thể thay đổi. Móng tay, kiểu tóc, cân nặng. Tôi ghét tập thể dục nhưng sáng nào cũng đến câu lạc bộ thể dục lúc năm giờ. Nữ hoàng thể dục nhịp điệu ở Trung tâm Thể thao và Quần vợt Seattle."

    "Chà, móng tay cô đẹp đấy," Gillette nói.

    "Cảm ơn. Bắp đùi cũng rắn chắc nữa," cô nói với ánh mắt đưa đẩy. (Hắn quả quyết rằng kế hoạch của cô ta hẳn có chút liên quan đến tán tỉnh, cô ta có thể rèn luyện thêm.)

    Cô hỏi, "Anh đã kết hôn chưa?"

    "Đã ly hôn."

    Nolan nói, "Một lần tôi đã suýt..." Cô bỏ lửng ở đó nhưng liếc sang Gillette xem phản ứng của hắn.

    Đừng phí thời gian với tôi, quý cô ơi, hắn thầm nghĩ. Tôi là kiểu người không thể bị gạ gẫm. Nhưng cùng lúc đó, hắn thấy sự quan tâm của cô dành cho mình quá rõ ràng và việc Wyatt Gillette là một gã nghiện máy tính, gầy gò, đang phải thụ án một năm cũng chẳng hề gì. Gillette đã thấy ánh mắt ngưỡng mộ của cô khi hắn tạo ra bot của mình, và hắn biết sự quyến luyến đó bắt nguồn từ trí tuệ cùng niềm đam mê của hắn với công việc này. Điều này đủ để đánh bại một khuôn mặt bảnh bao và một thân hình kiểu si-pen-đan 1 bất cứ lúc nào.

    Nhưng chủ đề tình cảm và cuộc sống độc thân làm Gillette nhớ đến cô vợ cũ - Elana, và điều đó khiến hắn rầu rĩ. Hắn không nói gì mà chỉ gật gật đầu trong khi Nolan kể cho hắn nghe về những cuộc hẹn hò kì cục của cô với mấy anh chàng chuyên viên máy tính và buôn bán phần cứng.

    Trong chừng mười phút, hắn tiếp nhận mọi thông tin một cách lịch sự, đôi khi lơ đãng. Rồi chiếc máy tính của hắn vang lên một tiếng bip to, Gillette liền nhìn vào màn hình.

    Kết quả tìm kiếm:

    Yêu cầu tìm kiếm: "Phate."

    Vị tri: alt.pictures.true.crime

    Tình trạng: Đề cập trong Nhóm thảo luận

    "Bot của tôi tóm được một con cá rồi," hắn nói lo. "Có một đề cập đến Phate trong một nhóm thảo luận."

    Diễn đào thảo luận - nơi tập hợp những tin tức thảo luận về các chủ đề cụ thể thuộc mọi vấn đề trên trời dưới biển, nằm trong một phân nhánh phụ của Internet được biết đến là Usenet - viết tắt của Unix user network (mạng người dùng Unix). Bắt đầu xuất hiện năm 1979 để trao đổi thông tin giữa trường Đại học North Carolina và Đại học Duke, ban đầu Usenet chỉ đơn giản là các chủ đề liên quan đến khoa học và có quy định nghiêm ngặt, cấm các chủ đề như hacking, tính dục và chất gây nghiện. Dù vậy, đến thập niên tám mươi, rất nhiều user cho rằng những hạn chế này có vẻ nặng tính kiểm duyệt. Cuộc 'Đại Nổi dậy' đã xảy ra từ đó, dẫn đến sự ra đời của hình thức Nhóm thảo luận thay thế. Kể từ đó, Usenet giống như một thị trấn vùng biên. Giờ thì bạn có thế tìm thấy thông tin về bất kỳ chủ đề nào trên trái đất, từ ấn phấm khiêu dâm hạng nặng cho đến phê bình văn học, thuyết Thiên Chúa giáo, chính trị hậu phát xít, hay những lời chê bai kiểu phỉ báng văn hóa đại chúng (chẳng hạn như alt.bamey.the.dinosaur.must.die).

    Bot của Gillette đã phát hiện ra tin nhắn ai đó đăng lên có nhắc đến tên của Phate trong một nhóm thảo luận - alt.pictures.true. crime và báo động cho chủ của mình. Tay hacker tải trình duyệt tham gia diễn đàn thảo luận của hắn lên và đăng nhập vào mạng. Hắn tìm ra nhóm thảo luận đó, rồi xem xét kĩ khắp màn hình. Ai đó có screen name là Vlast453 đã đăng một tin nhắn có nhắc đến tên Phate. Hắn có gửi kèm một bức ảnh.

    Mott, Miller và Nolan xúm quanh màn hình.

    Gillette nhấp chuột vào tin nhắn. Hắn nhìn vào tiêu đề:

    Từ: "Vlast" <vlast453@euronet.net>

    Nhóm thảo luận: Alt.pictures.true.crime

    Tiêu đề: Một tấm ảnh cũ từ Phate. Có ai còn tấm khác không?

    Ngày: 1 Tháng Tư 23:54:08 +0100

    Dòng: 1323

    Message-ID: <8hj345d6f7$l@newsg3.svr.pdd.co.uk>

    References:<20000606164328.26619.00002274@ng-fml. hcf.com>

    NNTP-Posting-Host: modem-76.flonase.dialup.pol.co.uk

    class="left"X-Trace: newsg3.svr.pdd.co.uk 960332345 11751 62.136.95.76

    X-Newsreader: Microsoft Outlook Express 5.00.2014.211

    X-MimeOLE: Produced By Microsoft MimeOLE V5.00.2014.211

    Đường dẫn: News. Alliance-news. Com.traffic.Alliance-news icom!

    Rồi hắn đọc tin nhắn mà Vlast đã gửi.

    Đến Nhóm:

    Tôi nhận được cái này từ anh bạn Phate của chúng ta sáu tháng trước. Tôi không nghe tin gì của anh ta từ đó. Ai đó có thể đăng thêm những bức ảnh như thế này được không.

    - Vlast -

    Tony Mott nhận xét, "Nhìn ngữ pháp và chính tả kìa. Đó là người nước ngoài."

    Ngôn ngữ mà người ta sử dụng trên mạng nói lên rất nhiều điều về họ. Tiếng Anh là lựa chọn phổ biến nhất nhưng những hacker thực thụ còn thông thạo nhiều ngôn ngữ khác, đặc biệt là tiếng Đức, Hà Lan và Pháp để có thể chia sẻ thông tin với càng nhiều bạn bè hacker càng tốt.

    Gillette tải bức ảnh được gửi kèm tin nhắn của Vlast. Đó là một bức ảnh hiện trường phạm tội cũ, chụp xác chết khỏa thân của một phụ nữ trẻ bị đâm hàng chục lần.

    Linda Sanchez, chắc hẳn nghĩ đến con gái và đứa cháu sắp sinh của mình, nhìn bức ảnh một lần rồi vội quay đi. "Thật kinh khủng," cô lẩm bẩm.

    Quả thực là thế, Gillette đồng tình. Nhưng hắn ép mình nghĩ rộng hơn khỏi hình ảnh đó. "Thử lần theo gã này xem," hắn gợi ý. "Nếu tìm ra hắn thì có thể hắn sẽ cung cấp cho chúng ta vài manh mối về Phate."

    Có hai cách để lần ra ai đó trên mạng Internet. Nếu bạn có tiêu đề chính xác của một email hay nhóm thảo luận đang hoạt động, bạn có thể kiểm tra chú giải đường dẫn, thứ sẽ tiết lộ nơi mà tin nhắn được tải lên Internet và đường dẫn mà nó đi theo để đến được chiếc máy tính bạn đã tải ảnh về. Nếu trình được lệnh của tòa án, quản trị hệ thống sysadmin của mạng lưới khởi nguồn đó có thể cung cấp cho cảnh sát tên và địa chỉ của user đã gửi tin nhắn ấy.

    Tuy nhiên, các hacker thường sử dụng tiêu đề giả để tránh bị lần ra. Tiêu đề của Vlast, Gillette đã để ý ngay từ đầu, là giả một đường dẫn Internet thực sự chỉ chứa chữ thường trong khi cái này lại chứa cả chữ thường và chữ hoa. Hắn nói điều này với đội CCU và không quên bổ sung rằng hắn sẽ thử tìm ra Vlast bằng cách thứ hai: Qua địa chỉ Internet của hắn - Vlast453@euronet.net. Gillette tải HyperTrace lên. Hắn gõ địa chỉ của Vlast và chương trình bắt đầu chạy. Bản đồ thế giới xuất hiện và một đường nét đứt bắt đầu di chuyển từ San Jose - nơi đặt máy tính của CCU, băng qua Thái Bình Dương. Mỗi khi nó gặp một trạm định tuyến Internet và đổi hướng, máy tính lại phát ra một âm thanh điện tử kêu 'ping' được cài đặt theo âm thanh của thiết bị siêu âm trên tàu ngầm.

    Nolan nói, "Đây là chương trình của anh à?"

    "Đúng vậy."

    "Thật xuất sắc."

    "À, một vụ hack vui thôi," Gillette nói, để ý thấy sự giỏi giang đã đem đến cho hắn thêm một chút ngưỡng mộ từ cô nàng Nolan.

    Đường dẫn hiển thị đường đi từ CCU đến máy tính của Vlast hướng về phía tây và cuối cùng dừng lại giữa Châu Âu, kết thúc ở một chiếc hộp có chứa dấu hỏi.

    Gillette nhìn vào biểu đồ và gõ lên màn hình. "OK, hiện tại thì Vlast không Online hoặc hắn đang che giấu địa điểm đặt máy - chính là dấu hỏi nơi đường dẫn kết thúc. Nơi gần nhất mà chúng ta có thể tìm đến là nhà cung cấp dịch vụ của hắn: Euronet.bulg.net. Hắn đang đăng nhập thông qua server Bulgaria của Euronet. Lẽ ra tôi phải đoán ra điều đó."

    Nolan và Miller gật gù đồng tình. Có lẽ Bulgaria có số hacker trên bình quân đầu người cao hơn bất kỳ quốc gia nào. Sau sự sụp đổ của Bức tường Berlin và Chủ nghĩa Cộng sản ở Châu Âu, Chính phủ Bulgari đã cố gắng hướng đất nước thành một Thung lũng Silicon của khối Xô Viết cũ và tiếp nhận hàng ngàn lập trình viên và chuyên viên phần cứng. Tuy nhiên, đáng buồn cho họ, IBM, Apple, Microsoft và những công ty Mỹ khác đã càn quét khắp các thị trường trên toàn thế giới. Nhiều công ty máy tính nước ngoài đã phá sản và những chuyên viên trẻ bị bỏ lại, không có việc gì để làm ngoại trừ la cà ở các quán cà phê và hack. Mỗi năm, Bulgaria sản xuất ra nhiều virus máy tính hơn bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.

    Nolan hỏi Miller, "Liệu các nhà chức trách của Bulgari có hợp tác không?"

    "Không bao giờ. Chính phủ nước này thậm chí không trả lời các yêu cầu cung cấp thông tin của chúng ta." Rồi Stephen Miller gợi ý, "Tại sao chúng ta không email trực tiếp cho hắn luôn, Vlast ấy?"

    "Không," Gillette nói, "Có thể hắn sẽ cảnh báo Phate. Tôi nghĩ đến đây là ngõ cụt rồi."

    Nhưng ngay lúc đó, máy tính phát ra tiềng bíp khi phần mềm của Gillette báo hiệu một thông tin mới được tìm ra.

    Kết quả tìm kiếm:

    Yêu cầu tìm kiếm: "Triple-X"

    Địa điểm: IRC/ #hack

    Tình trạng: Đang Online

    Triple - X chính là tay hacker mà Gillette đã tìm ra trước đó, người có vẻ biết nhiều về Phate và Trapdoor.

    "Hắn đang ở trong phòng chat trực tuyến của hacker," Gillette nói, "Tôi không biết liệu hắn có chịu nói gì về Phate với một người lạ không nhưng cứ thử lần theo hắn xem." Hắn yêu cầu Miller, "Tôi cần một anonytnizer trước khi đăng nhập. Tôi sẽ phải chỉnh sửa chương trình của mình để chạy trên hệ thống của các anh."

    Anonytnizer, hay cloak, là một chương trình phần mềm để ngăn chặn mọi nỗ lực lần ra bạn khi bạn Online bằng cách khiến bạn có vẻ như một người khác và đang ở một địa điểm khác với địa điểm thực sự của bạn.

    "Chắc chắn rồi, tôi vừa làm một cái hôm trước."

    Miller tải chương trình về bàn làm việc phía trước Gillette. "Nếu Triple-X tìm cách lần theo cậu, hắn sẽ chỉ thấy là cậu đang đăng nhập thông qua một thiết bị truy cập đầu cuối ở Austin. Đó là một trung tâm công nghệ cao và có rất nhiều sinh viên đại học Texas là hacker thực thụ."

    "Tốt rồi." Gillette quay lại với bàn phím, kiểm tra nhanh chương trình của Miller, rồi đánh usemame giả của mình, Renegade334, vào anonymizer. Hắn nhìn cả đội. "Được rồi, đi bơi với cá mập nào," hắn nói. Và nhấn phím ENTER.

    ° ° °

    "Nó đã ở đó," nhân viên bảo vệ nói. "Một chiếc Sedan sáng màu đỗ ở đó khoảng một tiếng, ngay trong khoảng thời gian cô gái ấy bị bắt đi. Tôi khá chắc chắn là có người ở ghế trước."

    Nhân viên bảo vệ chỉ về phía một lối đỗ xe trống không trong bãi đỗ đằng sau tòa nhà ba tầng, trụ sở của công ty Giải pháp Marketing Internet. Chỗ đó nhìn ra bãi đỗ xe phía sau của quán bar Vesta's Grill ở Cupertino - nơi Jon Holloway, cũng chính là Phate, đã thực hiện kỹ thuật social engineering với Lara Gibson để sát hại cô. Dù là ai ở trong chiếc Sedan bí ẩn ấy, người đó chắc chắn phải ở tầm nhìn hoàn hảo để quan sát chiếc xe của Phate, cho dù không chứng kiến cuộc bắt cóc.

    Nhưng Frank Bishop, Bob Shelton và người phụ nữ điều hành phòng nhân sự của công ty Internet Marketing vừa thẩm vấn toàn bộ ba mươi hai người làm việc trong tòa nhà mà vẫn chưa thể tìm ra chiếc Sedan đó.

    Hai viên cảnh sát giờ lại đang thẩm vấn nhân viên bảo vệ đã nhìn thấy chiếc xe xem có tìm được điều gì khác giúp tìm ra nó không.

    Bob Shelton hỏi, "Vậy là nó chắc chắn phải thuộc về người nào đó làm việc trong công ty?"

    "Chắc chắn," tay bảo vệ cao ráo xác nhận. "Cần có thẻ nhân viên mới qua được cổng vào bãi đỗ này."

    "Khách thì sao?" Bishop hỏi.

    "Không, họ đỗ xe phía trước."

    Bishop và Shelton nhìn nhau. Không ai đưa ra được manh mối gì. Sau khi rời CCU, họ đã ghé qua Trụ sở cảnh sát bang ở San Jose và lấy một bản sao ảnh Jon Holloway do cảnh sát bang Massachusetts cung cấp. Trong ảnh là một thanh niên mảnh khảnh với mái tóc màu nâu đậm và gần như không có một đặc điểm nổi bật nào, giống như mười ngàn gã trai trẻ khác ở Thung lũng Sillicon. Huerto Ramirez và Tim Morgan cũng không thu được kết quả gì khi thẩm vấn cửa hàng bán đồ hóa trang kịch nghệ Ollie ở Moutain View, người bán hàng duy nhất không nhận ra bức ảnh của Phate.

    Đội ở CCU thì đã tìm ra một manh mối. Bot của Wyatt Gillette đã moi được một thông tin nhắc đến Phate, Linda Sanchez đã báo tin này cho Bishop qua điện thoại, nhưng cuối cùng đó cũng chỉ là ngõ cụt.

    Bulgaria à, Bishop bực mình nghĩ. Vụ này là kiểu gì đây?

    Viên thám tử nói với người nhân viên bảo vệ, "Cho tôi hỏi anh ntột câu. Tại sao anh lại chú ý chiếc xe đó?"

    "Xin lỗi?"

    "Chỗ đỗ là bãi đỗ xe. Chuyện một chiếc xe đỗ ở đó là hết sức bình thường. Tại sao anh lại chú ý đến chiếc Sedan đó?"

    "À, chuyện là, đỗ xe ở đằng sau này không bình thường chút nào. Lâu lắm rồi tôi mới nhìn thấy có xe đỗ ở đây." Ông ta nhìn quanh để chắc chắn không ai thấy ba người họ với nhau, rồi nói tiếp, "Nghe này, công ty này đang làm ăn không được tốt lắm. Chúng tôi đã phải giảm xuống còn bốn mươi người. Năm ngoái là gần hai trăm người. Toàn bộ nhân viên có thể đỗ xe ở bãi trước nếu muốn. Thực ra, giám đốc còn khuyến khích việc đó - như vậy trông công ty không có vẻ như sắp phá sản." Anh ta hạ thấp giọng, "Vì anh đã hỏi, tôi sẽ nói mấy cái thứ chấm com Internet này không phải là quả trứng vàng như người ta tô vẽ đâu. Bản thân tôi cũng đang tìm việc ở Costco. Bán lẻ... đó mới là công việc có tương lai."

    Được rồi, Frank Bishop nhủ thầm, nhìn chằm chằm về phía quán Vesta Grill. Hãy nghĩ xem: Chỉ một mình chiếc xe đó ở nơi không nhất thiết phải đỗ. Luận ra điều gì với chi tiết đó đi.

    Một ý nghĩ nào đó cứ lẩn quất trong đầu anh.

    Họ cảm ơn người bảo vệ rồi quay lại xe, bước đi trên con đường rải sỏi xuyên qua một công viên bao quanh tòa nhà văn phòng.

    "Thật lãng phí thời gian," Shelton nói. Nhưng thực ra anh ta đang khẳng định một sự thật đơn giản, phần lớn công việc điều tra đều phí thời gian, và không hề tỏ ra chán nản một cách rõ ràng.

    Hãy nghĩ đi, Bishop thầm nhắc lại.

    Luận ra điều gì với chi tiết đó đi.

    Sắp đến giờ về và vài nhân viên đang rảo bước trên con đường dẫn đến bãi đỗ xe phía trước. Bishop nhìn thấy một doanh nhân khoảng ba mươi tuổi đang im lặng sánh bước bên một phụ nữ trẻ trong bộ vét công sở. Đột nhiên, người đàn ông quay sang và choàng tay qua người phụ nữ. Họ bật cười và biến mất phía sau bụi cây đinh hương. Trong bóng cây, họ ôm chặt lấy nhau và hôn say đắm.

    Sự thân mật này làm Bishop nhớ đến gia đình mình và trăn trở liệu tuần tới anh có được thường xuyên nhìn thấy vợ và con trai. Anh biết điều đó là không thể.

    Rồi, như vẫn thường xảy ra, hai luồng suy nghĩ gặp nhau và một ý nghĩ mới xuất hiện.

    Hãy làm điều gì đó...

    Ông bất chợt dừng lại.

    ... với chuyện này.

    "Đi thôi," Bishop gọi và chạy về con đường mà họ vừa đi qua. Gầy hơn nhiều so với Shelton nhưng cũng chẳng sung sức hơn là mấy, ông thở hổn hển khi họ chạy ngược về tòa nhà văn phòng, chiếc áo sơ mi lại xổ tung ra.

    "Việc quái gì mà phải vội thế?" Người đồng nghiệp thở dốc.

    Nhưng viên thám tử không trả lời. Ông chạy qua hành lang của công ty Internet Marking, quay lại phòng nhân sự. Ông phớt lờ người thư ký vừa đứng bật dậy vì bất ngờ trước sự xuất hiện đột ngột của vị khách, và mở cửa phòng trưởng phòng nhân sự, nói cô ta đang ngồi nói chuyện với một gã đàn ông trẻ tuổi.

    "Thám tử," người cô ta ngạc nhiên nói. "Chuyện gì vậy?"

    Bishop cố lấy hơi. "Tôi cần phải hỏi cô vài câu về nhân viên của cô." Ông liếc nhìn gã đàn ông trẻ. "Tốt hơn là trao đổi riêng."

    "Phiền anh?" Cô gật đầu với người đàn ông ngồi đối diện và anh ta nhanh chóng rời khỏi phòng. Shelton đẩy cánh cửa đóng lại.

    "Câu hỏi như thế nào? Chuyện nhân sự à?"

    "Không," Bishop trả lời, "Cá nhân."

    --------------------------------
    1 lực sĩ.

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 15
    Jây là vùng đất của sự đủ đầy, đây là vùng đất của sự dồi dào.

    Vùng đất của Vua Midas - nơi cái chạm tay biến mọi thứ thành vàng. Dù vậy, nó không phải những ngón nghề ranh mãnh của phố Wall hay sự mạnh mẽ của nền công nghiệp Trung Tây mà chính là trí tưởng tượng đơn thuần.

    Đây là vùng đất có nhiều thư ký và quản gia là những triệu phú hợp đồng quyền chọn 1, trong khi biết bao kẻ khác đang vạ vật cả đêm trên chuyến xe bus số 22 dọc tuyến đường nối giữa San Jose và Metro Park chỉ để chợp mắt một chút - họ, cũng như một phần ba số người vô gia cư trong khu vực này, có công việc toàn thời gian nhưng không tài nào chi trả nổi một triệu đô cho căn nhà gỗ nhỏ hoặc ba ngàn đô mỗi tháng cho một căn hộ.

    Đây chính là Thung lũng Silicon - vùng đất đã thay đổi thế giới.

    Hạt Santa Clara - một thung lũng xanh tươi trải dài mười dặm, từ lâu đã được mệnh danh là 'The Valley of the Heart's Delight - Thung lũng của niềm hân hoan nơi trái tim'. Dù niềm hứng khởi trong tên gọi này được đặt ra để nói về ẩm thực chứ không phải là công nghệ. Những cây mơ, cây mận, cây óc chó và sơ ri vươn mình xum xuê trên những vùng đất màu mỡ ở phía nam SanFrancisco. Lẽ ra thung lũng này sẽ gắn bó mãi mãi với việc trồng trọt, như những vùng khác của California: Vùng Castroville với Atisô, vùng Gilroy với cây tỏi, nếu không có quyết định bất ngờ của một người tên là Davicl Slarr Jordan vào năm 1990. Ông là hiệu trưởng trường Đại học Stanford - ngôi trường tọa lạc ở giữa thung lũng Santa Clara. Jordan quyết định đặt cược một số vốn vào phát minh ít ai biết đến của một người tên là Lee De Forrest.

    Phát minh của ông ta - đèn hai cực, không giống như máy quay đĩa hay động cơ đốt trong. Đó là một phát minh mang tính cách tân mà công chúng ít ai hiểu được, và thực tế là, cũng chẳng ai để tâm vào thời điểm nó được công bố. Nhưng Jordan cùng những kỹ sư ở Standford tin rằng thiết bị này có thể đem đến một số ứng dụng thực tiễn và phải mất rất lâu trước khi thực tế chứng minh suy nghĩ của họ là vô cùng chính xác, đèn hai cực chính là ống chân không điện tử đầu tiên. Cuối cùng thì những thế hệ đời sau của nó đã thực sự tạo nên radio, ti vi, radar, thiết bị giám sát y tế, hệ thống giám sát hàng hải và chính những chiếc máy tính.

    Và khi tiềm năng của chiếc đèn hai cực nhỏ xíu này được khai phá, không có gì còn nguyên vẹn như cũ ở vùng thung lũng tươi xanh, yên bình này.

    Đại học Standford trở thành mảnh đất màu mỡ cho các kỹ sư điện tử, rất nhiều người trong số họ đã ở lại vùng đất này sau khi tốt nghiệp - David Packard và William Hewlett chẳng hạn. Cả Russell Varian và Philo Famsworth, bằng nghiên cứu của mình, họ đã đem đến cho chúng ta những chiếc ti vi, radar và lò vi sóng đầu tiên. Những chiếc máy tính đầu tiên như ENIAC và Univac là những phát minh của bờ đông. Nhưng một vài hạn chế của chúng như kích cỡ cồng kềnh và sức nóng cao từ những ống chân không đã khiến các nhà phát minh tìm tới California - nơi những công ty thực hiện biết bao cải tiến với những thiết bị vô cùng nhỏ, chính là những con chip bán dẫn, nhỏ hơn, ít tỏa nhiệt và hiệu quả hơn rất nhiều so với các ống chân không. Từ khi con chip được phát triển vào cuối thập niên năm mươi, thế giới của những chiếc máy tính đã bứt tốc như tàu con thoi. Từ IBM, Xeror's PARC, đến Stanford Research Institute, Intel, Apple và hàng ngàn công ty Internet khác rải rác khắp nơi trong không gian trù phú này.

    Miền đất Hứa, Thung lũng Silicon...

    Nơi Jon Patrick Holloway - Phate, đang lái xe trên cao tốc 280, xuyên qua cơn mưa rào, về phía tây nam, hướng đến học viện Thánh Francis, ở đó hắn có cuộc hẹn với Jamie Turner trong trò chơi MUD phiên bản đời thực.

    Trong ổ đĩa của chiếc Jaguar lần này là một vở kịch khác, vở Hamlet - phần diễn xuất của Laurence Olivier. Ngân nga theo phần thoại của diễn viên, Phate rẽ khỏi cao tốc ở lối rẽ khỏi San Jose và chỉ năm phút sau, hắn đã lượn lờ trước khối kiến trúc kiểu thực dân Tây Ban Nha của Học viện Thánh Francis. Lúc này là 5:15, vậy là hắn có hơn một giờ để theo dõi động tĩnh ở đây.

    Hắn đỗ xe ở một con phố thương mại bụi bặm gần cổng phía bắc, nơi Jamie định dùng làm lối thoát. Trải biểu đồ kế hoạch tuần qua và sơ đồ của khu nhà ra, Phate nghiền ngẫm chúng trong mười phút rồi hắn ra khỏi xe và chậm rãi đi vòng quanh ngôi trường, nghiên cứu mọi lối ra vào. Sau đó hắn quay lại chiếc Jaguar.

    Vặn to chiếc đài, hắn ngả ghế ngồi rồi quan sát mọi người đi dạo và đạp xe trên lối đi sũng ướt. Hắn nheo mắt nhìn họ đầy thích thú. Đối với hắn, họ không chân thực bằng, hay thậm chí còn ít chân thực hơn vị hoàng tử đau khổ trong vở kịch của Shakespeare và Phate không biết chắc lúc này hắn đang ở trong Thế giới máy tính hay Thế giới thực. Hắn nghe thấy một giọng nói, có thể là của chính hắn, có thể không, ngân nga một phiên bản hơi khác so với đoạn thoại của vở kịch. "Những cỗ máy thật kỳ diệu. Về mặt lý trí chúng cao quý làm sao. Năng lực của chúng vô tận biết bao. Hình dung và dáng điệu, thật giàu ý nghĩa và đáng kính. Khi vận hành thật thần kỳ biết bao. Có quyền tiếp cận thì khác gì Thượng đế."

    Hắn kiểm tra con dao và chai nhựa chứa thứ chất lỏng tự chế bốc mùi hăng hắc, tất cả được đặt cẩn thận trong những chiếc túi phía trong bộ đồ màu xám mà hắn đã cẩn thận thêu phía sau lưng dòng chữ 'Công ty Vệ sinh và Bảo trì AAA'.

    Hắn nhìn đồng hồ, rồi nhắm mắt lại, ngả lưng lên chiếc ghế xe bằng da đắt tiền. Hắn nghĩ: Chỉ còn bốn mươi phút nữa Jamie Turner sẽ lẻn ra sân trường để đi gặp anh trai.

    Chỉ bốn mươi phút nữa Phate sẽ biết được mình thắng hay thua trong lượt chơi này.

    Hắn cẩn thận miết ngón cái lên lưỡi dao sắc lạnh.

    Khi vận hành, thật thần kỳ biết bao..

    Có quyền tiếp cận thì khác gì Thượng đế.

    ° ° °

    Ẩn núp trong vai Renegade334, Wyatt Gillette lặng lẽ theo dõi phòng chat hack.

    Trước khi social engineer ai đó, bạn phải tìm hiểu về người ấy càng nhiều càng tốt để âm mưu trở lên đáng tin cậy hơn. Hắn sẽ nói ra những nhận định của mình, còn Patricia Nolan sẽ ghi lại bất cứ điều gì Gillette suy luận về Triple-X. Cô ngồi sát cạnh hắn. Hắn ngửi thấy mùi nước hoa dễ chịu và băn khoăn phải chăng đây cũng là một phần kế hoạch làm mới mình của cô.

    Cho đến giờ, những gì Gillette biết được về Triple-X là: Hiện tại hắn ta đang ở trong khu vực múi giờ Thái Bình Dương (Hắn có nhắc tới thời gian vui vẻ thưởng thức cocktail trong một quán bar gần đó. Giờ đã là gần 5:50 chiều theo giờ bờ tây).

    Có khả năng là hắn ở Bắc California (Hắn than phiền về trời mưa, và theo nguồn tin khí tượng học công nghệ cao của CCU, kênh Thời tiết thời điểm này phần lớn cơn mưa ở bờ tây đều tập trung tại và xung quanh khu vực vịnh San Francisco).

    Hắn là người Mỹ, lớn tuổi và có thể đã tốt nghiệp đại học (ngữ pháp và dấu câu rất chuẩn so với một hacker thông thường, quá chuẩn so với một tên học sinh trung học thích nghịch máy tính và cách hắn sử dụng tiếng lóng rất chuẩn xác, cho thấy hắn không phải một tay hacker đến từ Châu Âu, kẻ vẫn thường cố gắng gây ấn tượng với người khác bằng thành ngữ và luôn khiến họ hiểu sai ý).

    Có vẻ như hắn đang ở trong một khu mua sắm, đăng nhập vào phòng chat trực tuyến từ một điểm truy cập công cộng, một quán cà phê Internet chẳng hạn (Hắn vừa nhắc đến hai cô gái mà hắn vừa nhìn thấy đi vào một cửa hiệu Victoria's Secret, bình luận về giờ khuyến mại cũng gợi ý điều này).

    Hắn là một hacker sừng sỏ và có vẻ khá nguy hiểm (với điểm truy cập công cộng trong một trung tâm mua sắm như trên, hầu hết những người thực hiện các vụ hack mạo hiểm đều tránh lên mạng tại nhà bằng máy của mình, thay vào đó sử dụng thiết bị đầu cuối ở một điểm công cộng).

    Hắn có cái tôi khá lớn và tự nhận mình là một thầy phù thủy, lớp đàn anh đối với những tay trẻ tuổi trong nhóm (miệt mài giải thích những khía cạnh bí truyền về hacking cho những tay mơ trong phòng chat nhưng không kiên nhẫn nổi với những tay có hiểu biết).

    Với những nhận định này trong đầu, Gillette đã sẵn sàng lần theo Triple-X.

    Trong Miền xanh thẳm vô định, thật dễ dàng để tìm ra ai đó nếu họ không ngại bị tìm ra. Nhưng nếu họ quyết giấu mình thì việc truy tìm là một nhiệm vụ khó khăn và thường thất bại.

    Để truy theo một liên kết ngược trở lại máy tính của một cá nhân trong khi anh ta đang Online, bạn cần một bộ dụng cụ theo dấu vết trên Internet như HyperTrace của Gillette, nhưng bạn có thể cũng phải theo dấu cả công ty điện thoại.

    Nếu Triple-X kết nối với nhà cung cấp dịch vụ Internet bằng cáp quang hoặc cáp tốc độ cao, chứ không phải đường điện thoại thì HyperTrace có thể dẫn họ đến tọa độ chính xác của khu mua sắm nơi tay hacker này đang ngồi.

    Tuy nhiên, nếu như máy tính của Triple-X kết nối với mạng Internet bằng đường điện thoại thông qua một modem, một kết nối kiểu dial-up, giống như phần lớn máy tính cá nhân tại nhà, thì chương trình HyperTrace của Gillette chỉ có thể lần ngược trở lại nhà cung cấp dịch vụ Internet của Triple-X và dừng ở đó. Sau đó, nhân viên an ninh mạng của công ty điện thoại sẽ phải lần theo cuộc gọi từ nhà cung cấp dịch vụ ngược lại máy tính của Triple-X.

    Tony Mott búng tay tanh tách, ngước lên khỏi điện thoại và nở nụ cười, "OK, Pac Bell đã sẵn sàng cuộc truy lùng."

    "Chúng ta làm điều này thôi," Gillette nói. Hắn gõ một tin nhắn và nhấn ENTER. Trên màn hình của mọi người đang đăng nhập phòng chat hack hiện lên tin nhắn:

    Renegade334: Này Triple-X, tình hình của anh thế nào.

    Gillette đang đóng giả một người khác. Lần này hắn quyết định trở thành tay hacker mười bảy tuổi với học vấn tầm tầm nhưng có vô số mánh khóe và thái độ của kẻ mới lớn ngây ngô điển hình - kiểu người xuất hiện đầy rẫy trong phòng chat này.

    Trong các phòng chat, bạn có thể nhìn được ai đang đăng nhập dù họ không tham gia cuộc hội thoại nào. Triple-X đang nhắc nhở Gillette rằng hắn ta đang cảnh giác, có thể luận ra là: Đừng làm phiền tôi.

    Renegade334: Em đang ở chỗ công cộng, mọi người cứ đi qua, đi lại, khó chịu vãi.

    Triple-X: Cậu đang ở đâu?

    Gillette liếc nhìn Kênh Thời tiết.

    Renegade334: Austin, ở đây nóng khiếp. Anh đến đây bao giờ chưa.

    Triple-X: Mới đến Dallas thôi.

    Renegade334: Dalls củ chuối, Austin tuyệt vời!!!

    "Mọi người sẵn sàng chưa?" Gillette gọi. "Tôi đang tìm cách nói chuyện riêng với hắn."

    Xung quanh đều phản hồi là đã sẵn sàng. Hắn cảm thấy đùi của Patricia Nolan chạm vào đùi hắn. Stephen Miller ngồi ngay cạnh cô. Gillette đánh vài từ rồi nhấn ENTER.

    Renegade3341: Triple ICQ thì sao?

    ICQ ("I seek you" tôi tìm bạn) là một tin nhắn nhanh để kết nối máy tính của họ với nhau. Vì không ai có thể xem được cuộc nói chuyện của họ. Một yêu cầu ICQ được hiểu là Renegade có thể có thứ gì đó bí mật hoặc bất hợp pháp muốn chia sẻ với Triple-X - một sự cám dỗ mà hầu hết hacker không thể cưỡng lại.

    TiriplQ-X: Tại sao?

    Reneqade334: Không xem ở đây được

    Lát sau, một cửa sổ nhỏ xuất hiện trên màn hình của Gillette.

    Triple-X: Thế có chuyện gì vậy, anh bạn?

    "Chạy chương trình đi," Milier nói với Stephen Miller, anh ta liền khởi động HyperTrace. Một cửa sổ khác hiện lên trên màn hình, minh họa bản đồ của Bắc California. Những đường màu xanh xuất hiện trên tấm bản đồ khi chương trình lần theo lộ trình từ CCU ngược trở lại chỗ Triple-X.

    "Nó đang lần theo dấu vết," Miller nói to. "Tín hiệu đi từ đây đến Oakland, đến Reno, đến Seatle..."

    Renegade334: Cảm ơn đã đồng ý ICQ. Chuyện là em gặp rắc rối và em đang rất sợ. Mấy gã bàn tán về vụ của em và bảo rằng anh là siêu cao thủ và em nghe nói có thể anh biết gì đó.

    Không nên vuốt ve cái tôi của một hacker quá nhiều, Gillette biết điều đó.

    Triplo-X: Chuyện gì, anh bạn?

    Renegado334: Tên hắn là Phate.

    Không có phản hồi.

    "Thôi nào, thôi nào," Gillette thì thầm giục giã. Hắn nghĩ: Đừng biến mất. Tôi là một đứa trẻ đang run sợ. Anh là siêu cao thủ. Giúp tôi...

    Triple-X: Hắn thù sao? Ý tôi là 'thì sao'

    Gillette liếc nhìn cửa sổ hiển thị quá trình định vị lộ trình của HyperTrace trên màn hình của hắn. Tín hiệu của Triple-X nhảy khắp các bang phía tây nước Mỹ. Rốt cuộc nó kết thúc ở bộ chia tín hiệu cuối cùng, nhà cung cấp Bay Area Online, có trụ sở tại Walnut Creek, nằm ngay phía bắc Oakland.

    "Đã tìm ra nhà cung cấp dịch vụ của hắn," Stephen Miller hô to. "Đó là dịch vụ dial-in."

    "Mẹ kiếp," Patricia Nolan làu bàu. Điều này nghĩa là sẽ phải nhờ đến một công ty điện thoại để định vị chính xác đường dẫn cuối cùng từ máy chủ ở walnut Creek đến quán cà phê nơi Triple-X đang ngồi.

    "Chúng ta có thể làm được," Linda Sanchez kêu gọi đầy nhiệt huyết, như một thành viên đội cổ vũ. "Chỉ cần giữ chân hắn Online, Wyatt."

    Tony Mott gọi cho Bay Area Online và trao đổi với trưởng phòng an ninh về mọi việc đang diễn ra. Người này lại gọi cho những kỹ thuật viên của mình - những người sẽ phối hợp cùng Pacific Bell và lần theo kết nối từ Bay Area đến chỗ của Triple-X.

    Mott nghe máy một lát rồi gọi, "Pac Bell đang quét. Khu này khá đông đúc. Chắc mất tầm mười, mười lăm phút."

    "Lâu quá, lâu quá!" Gillette nói. "Bảo họ tăng tốc lên."

    Nhưng từ khi còn là một kẻ câu trộm đường điện thoại, từng tự đột nhập vào hệ thống của Pac Bell, Gillette biết rằng những nhân viên công ty điện thoại có thế phải chạy, theo đúng nghĩa đen qua những bộ chuyển mạch - chính là những căn phòng lớn chứa hàng đống rơ-le điện tử và tìm những đường kết nối bằng mắt thường, để theo dấu vết lần ngược trở lại nơi xuất phát của cuộc gọi.

    Renogadti334: Em đã nghe nói về vụ siêu hack cực đỉnh của Phate nên khi thấy hắn Online, em chỉ hỏi hắn về nó, vậy mà hắn đã gắt gỏng. Rồi mấy việc kì dị bắt đầu xảy ra sau đó, rồi em nghe đồn về chương trình mà hắn viết gọi là Trapdoor và giờ em hoàn toàn phát rồ.

    Một sự im lặng, rồi:

    Triple-X: Thế cậu đang muốn hỏi gì?

    "Hắn đang sợ," Gillette nói. "Tôi có thể cảm nhận được điều đó."

    Renegade334: Cái thứ trapdoor này, có phải nó thực sự đột nhập vào trong máy anh và mọi thứ của anh, ý em là TẤT CẢ MỌI THỨ, mà anh thậm chí còn không biết gì.

    Triple-X: Tôi không nghĩ nó thực sự tồn tại. Chỉ là một lời đồn.

    Renegade334: Em cũng không biết nữa nhưng em nghĩ nó có thật, em đã thấy mấy cái file chết tiệt TỰ MỞ dù em không hề làm thế.

    "Chúng ta có tín hiệu đến," Miller nói. "Hắn cũng đang định vị ta."

    Triple-X, đúng như Gillette đoán trước, đang chạy phiên bản HyperTrace của chính hắn để kiểm tra Renegade334. Tuy nhiên, chương trình nặc danh mà Stephen Miller đã làm khiến máy của Triple-X nghĩ rằng Renegade đang ở Austin. Tay hacker hẳn đã nhận được thông báo này và tin đó là thật vì hắn vẫn chưa đăng xuất.

    Triple-X: Tại sao cậu lại quan tâm đến hắn? Cậu đang ở một cổng đầu cuối công cộng, ở đó làm sao hắn vào được file của cậu.

    Renegade334: Hôm nay em ở đây vì ông bà già nhà em đã tịch thu con Dell trong một tuần vì chuyện điểm số. Lúc em Online ở nhà thì bàn phím loạn lên rồi những file bắt đầu tự mở. Em đã rất sợ. Thực sự hoảng sợ.

    Thêm một sự im lặng rất lâu. Rồi cuối cùng tay hacker cũng phản hồi:

    Triple-X: Cậu nên sợ đi. Tôi biết Phate.

    Renegade334: Ôi, như thế nào ạ?

    Triple-X: Chỉ mới bắt đầu nói chuyện với hắn trong một phòng Chat. Hắn giúp tôi sửa lỗi vài phần mềm. Trao đổi vài phần mềm bị sao chép.

    "Gã này quả là mỏ vàng đây," Tony Mott thì thầm.

    Nolan nói, "Có thể hắn biết địa chỉ của Phate. Hỏi hắn xem."

    "Không," Gillette nói. "Chúng ta sẽ làm hắn hoảng."

    Không có thêm tin nhắn nào trong một lúc rồi:

    Triple-X: BRB

    Những kẻ thường trực trong phòng chat đã nghĩ ra mấy câu viết tắt bằng chữ cái đầu - để tiết kiệm thời gian đánh máy và năng lượng. BRB có nghĩa là 'Be Right Back' (sẽ quay lại ngay).

    "Hắn chuồn mất à?" Sanchez hỏi.

    "Kết nối vẫn mở," Gillette nói. "Có lẽ hắn chỉ đi vệ sinh hoặc đại loại thế. Yêu cầu Pac Bell tiếp tục lần theo dấu vết."

    Hắn ngồi lại xuống ghế, nó kêu kẽo kẹt. Thời gian cứ trôi. Màn hình vẫn không thay đổi.

    BRB.

    Gillette liếc sang Patricia Nolan. Cô mở cái ví cũng rộng rãi như chiếc váy của cô, lấy ra chai dưỡng móng và lại lơ đễnh tô vẽ.

    Con trỏ vẫn nhấp nháy. Màn hình vẫn trống không.

    ° ° °

    Những bóng ma đã quay trở lại và lần này là vô số.

    Jamie Turner có thể nghe thấy tiếng họ di chuyển khi nó bước dọc hành lang Học viện Thánh Francis.

    Chà, âm thanh đó chắc là tiếng của Booty hoặc một giáo viên đi kiểm tra cửa sổ và cửa ra vào. Hoặc những sinh viên đang tìm chỗ rít thuốc lá hay chơi trò Game Boys.

    Nhưng cậu không thể xua những con ma ra khỏi tâm trí: Linh hồn của những người da đỏ bị tra tấn đến chết và người sinh viên bị sát hại vài năm trước bởi gã điên khùng đã đột nhập vào đây - kẻ mà giờ Jamie nhận ra là cũng gia nhập vào dân số ma ở đây sau khi bị cảnh sát bắn chết ở nhà ăn cũ.

    Jamie Turner rõ ràng là một sản phẩm của Thế giới máy tính - một hacker và một nhà khoa học, cậu ta hẳn biết hồn ma và những sinh vật hoang đường không hề tồn tại. Vậy tại sao cậu ta lại cảm thấy sợ hãi đến thế?

    Rồi một ý nghĩ kỳ lạ vụt đến với cậu ta. Cậu ta băn khoăn rằng phải chăng nhờ có những chiếc máy tính, cuộc sống đã quay về thời đại xa xưa, mang tính tâm linh và kỳ bí hơn. Máy tính khiến thế giới như biến thành một nơi trong những trang sách tà thập niên tám mươi của Washington Irving hay Nathaniel Hawthome. Truyền thuyết về thung lũng ngủ yên và Ngôi nhà có bảy đầu hồi. Khi đó, con người tin vào ma quỷ, linh hồn và những chuyện kỳ lạ xảy ra dù không hề thực sự nhìn thấy. Giờ đây, thế giới có mạng Internet, mã, bot và các electron cùng nhiều thứ bạn không thể nhìn thấy - cũng giống như những hồn ma. Chúng có thể trôi nổi xung quanh bạn, có thể thình lình xuất hiện, và có thể làm nhiều việc.

    Những suy nghĩ này khiến Jamie sợ chết khiếp nhưng nó cố gắng xua chúng đi và tiếp tục bước xuống hành lang tối tăm của Học viện Thánh Francis, ngửi mùi mốc ẩm của vữa, nghe những tiếng rì rầm nói chuyện và tiếng nhạc vọng ra từ dãy phòng ký túc đang lùi xa khi nó rời khu nhà ở và lẻn qua phòng tập thể dục.

    Những hồn ma...

    Không, quên nó đi! Nó tự nhủ.

    Hãy nghĩ đến Santana, nghĩ đến lúc đi chơi cùng anh trai, nghĩ đến đêm tuyệt vời trước mắt.

    Nghĩ đến lối lẻn vào hậu trường sân khấu.

    Cuối cùng cậu cũng đến được cửa thoát hiểm thông ra khu vườn.

    Jamie nhìn xung quanh. Không có dấu hiệu của Booty, không có dấu hiệu của các giáo viên khác, những người đôi khi vẫn lởn vởn quanh khu nhà như thể cai tù trong một bộ phim tù nhân chiến tranh.

    Jamie Tunmer quỳ xuống, nhìn ngắm chiếc cần gạt báo động thật kĩ càng như thể một đô vật đang ước lượng địch thủ.

    CẢNH BÁO:

    BÁO ĐỘNG KÊU

    KHI CỬA MỞ

    Nếu Jamie chưa ngắt được hệ thông báo động, nếu nó kêu rống lên khi cậu cố tìm cách mở cửa, đèn ở khắp nơi trong trường sẽ sáng lên, rồi cảnh sát và đội chữa cháy sẽ xuất hiện chỉ sau vài phút. Cậu sẽ phải chuồn về phòng và buổi tối hôm nay sẽ hỏng bét. Lúc này cậu đang giở một mảnh giấy nhỏ có in sơ đồ cấu tạo chuông báo động mà trưởng phòng dịch vụ của nhà sản xuất đã tốt bụng gửi cho cậu.

    Rọi đèn pin vào tờ giấy, cậu nhóc nghiền ngẫm sơ đồ thêm một lần nữa. Rồi cậu xoa xoa đầu kim loại của cần gạt báo động, quan sát cách hoạt động của thiết bị kích hoạt, những con ốc ở đâu và nguồn cấp điện đã bị giấu đi như thế nào. Với trí óc lanh lẹ, cậu chắp nối những gì thấy trước mắt với sơ đồ trong tay.

    Hít một hơi thật sâu.

    Cậu nghĩ đến anh trai.

    Kéo cặp kính dầy cộm lên để bảo vệ đôi mắt quý giá của mình, Jamie Turner thò tay vào túi áo, lấy ra một túi nhựa đựng dụng cụ, và lựa một chiếc cờ lê hiệu Phillips. Cậu còn vô số thời gian, Jamie tự nhủ. Không việc gì phải vội.

    Hãy sẵn sàng nhảy múa nào...

    --------------------------------
    1 Hợp đồng tạo lập quyền mua/bán cổ phần với một mức giá và tại một thời điểm xác định.

  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 16
    Frank Bishop đỗ chiếc Ford màu xanh nước biển không có gì nổi bật trước ngôi nhà nhỏ kiểu thuộc địa trên một khu đất tinh tươm - chỉ rộng khoảng một phần tám hecta, ông ước lượng, tuy vậy nó vẫn đáng giá dễ đến cả triệu đô vì tọa lạc ở trung tâm Thung lũng Silicon.

    Bishop để ý thấy một chiếc Lexus mui kín sáng màu mới coóng đang đỗ trên lối đi.

    Họ bước đến trước ngôi nhà và gõ cửa. Một người phụ nữ tầm bốn mươi với khuôn mặt cau có, vận quần jean và cái áo cánh thêu hoa đã phai màu ra mở cửa. Mùi hành phi và thịt xộc ra. Giờ là 6 giờ chiều - giờ ăn tối của gia đình Bishop, và viên thám tử bỗng cảm thấy đói cồn cào. Ông nhớ ra là mình chưa ăn gì từ sáng đến giờ.

    "Vâng?" Người phụ nữ hỏi.

    "Bà Cargill?"

    "Đúng vậy. Tôi có thể giúp gì cho các ông?" Bà hỏi đầy vẻ dè chừng.

    "Chồng bà có nhà không?" Bishop hỏi, giơ phù hiệu ra.

    "Ừm. Tôi..."

    "Có chuyện gì thế, Kath?" Một người đàn ông to lớn vận quần kaki và áo sơ mi hồng bước ra cửa. Ông ta đang cầm một ly cocktail.

    Khi nhìn thấy những chiếc phù hiệu hai viên cảnh sát đang giơ ra, ông ta đặt ly rượu lên một cái bàn gần lối đi, khuất tầm nhìn của họ

    Bishop nói, "Chúng tôi xin phép được nói chuyện với ông một phút, thưa ông?"

    "Chuyện này là thế nào vậy?"

    "Xảy ra chuyện gì thế, Jim?"

    Ông ta giận dữ liếc nhìn vợ, "Tôi không biết. Nếu biết tôi đã chẳng hỏi làm gì, đúng không?"

    Tái mặt, bà vợ bước lùi lại.

    Bishop nói, "Chỉ mất một phút thôi." Ông và Shelton dợm bước xuống lối đi trước nhà và dừng lại.

    Cargill đi theo hai viên thám tử. Khi họ đã ra khuất tầm nghe của ngôi nhà, Bishop nói, "Anh làm việc cho Công ty Giải pháp Internet Marketing ở Cuperentino, đúng không?"

    "Tôi là giám đốc bán hàng khu vực. Chuyện này là gì vậy..."

    "Chúng tôi có lý do để cho rằng anh có thể đã nhìn thấy chiếc xe mà chúng tôi đang cố gắng tìm ra, để hỗ trợ cho việc điều tra một vụ án mạng. Hôm qua lúc 7 giờ tối, chiếc xe này đã đậu ở bãi đỗ phía sau quán Vesta's Grill, bên con phố đối diện công ty anh. Và chúng tôi nghĩ có thể anh đã thấy nó."

    Ông ta lắc đầu, "Giám đốc nhân sự đã hỏi tôi chuyện này. Nhưng tôi đã nói với cô ta là tôi không nhìn thấy gì cả. Cô ta không nói với các anh à?"

    "Có," Bishop bình thản nói. "Nhưng tôi có lý do để tin rằng anh đã không nói thật."

    "Này, khoan đã..."

    "Anh đã đỗ xe ở lô phía sau công ty vào khoảng thời gian đó, trong chiếc Lexus và tham gia hành vi tình dục với Sally Jacobs, nhân viên phòng tài chính của công ty."

    Cargill vẫn nói những gì cần phải nói. Dù vẻ mặt kinh ngạc biến sắc vì sợ hãi của Cargill khiến Bishop thừa hiểu rằng ông ta đang nói dối vì tiền. "Thật là vớ vẩn. Bất kỳ ai nói thế đều đã nói dối. Tôi kết hôn được mười bảy năm. Ngoài ra, Sally Jacobs... nếu anh nhìn thấy cô ta, anh sẽ biết suy nghĩ này ngớ ngẩn thế nào. Cô ta là cô ả xấu xí nhất tầng mười sáu."

    Bishop ý thức được thời gian đang trôi. Ông nhớ lại những gì Wyatt Gillette đã mô tả về trò Access - trong một tuần giết được càng nhiều người càng tốt. Phate có thể đã tới rất gần nạn nhân tiếp theo. Viên thám tử nói ngắn gọn, "Thưa ông, tôi không quan tâm đến cuộc sống riêng tư của ông. Tất cả những gì tôi quan tâm là hôm qua ông đã nhìn thấy một chiếc xe đỗ ở lô phía sau quán Vesta. Nó thuộc về một nghi phạm giết người và tôi cần biết chiếc xe đó là loại nào."

    "Tôi không có ở đó," Cargill cứng đầu nói, vẫn nhìn về phía ngôi nhà. Từ sau tấm rèm, người vợ đang săm soi họ.

    Bishop từ tốn nói, "Không, thưa ông, ông đã ở đó. Và tôi biết ông chắc chắn đã xem xét chiếc xe của tên sát nhân."

    "Không, tôi không hề," người đàn ông làu bàu.

    "Ông có đấy. Để tôi giải thích cho ông tại sao nhé."

    Ông ta nở một nụ cười nhạo báng.

    Viên thám tử nói, "Một chiếc mui kín đời mới, sáng màu - giống như chiếc Lexus của ông, đã đỗ ở bãi đỗ phía sau công ty Internet Marketing ngày hôm qua trong khoảng thời gian nạn nhân bị bắt cóc từ quán Vesta. Giờ, tôi đã biết chủ tịch công ty ông khuyến khích nhân viên đậu xe ở bãi đỗ phía trước để khách hàng không để ý đến việc nhân sự của công ty đã giảm đi một nửa. Vậy, lý do hợp lý để đỗ xe ở bãi đỗ phía sau là để làm việc gì đó vụng trộm và khuất tầm nhìn từ tòa nhà hoặc con phố đó. Như vậy kết luận là sử dụng chất cấm hoặc/và quan hệ tình ái."

    Nụ cười trên môi Cargill tắt ngấm.

    Bishop nói tiếp, "Bởi vì đó là một bãi đỗ có kiểm soát, ra vào chỉ có nhân viên công ty mới được đỗ xe ở đó, không thể là khách. Tôi đã hỏi giám đốc nhân sự nhân viên nào sở hữu một chiếc Sedan sáng màu mà đang gặp vấn đề với chất gây nghiện hoặc ngoại tình. Cô ấy nói ông đang cặp bồ với Sally Jacobs. Mà thực sự chuyện này trong công ty ai cũng biết."

    Hạ giọng hết mức đến nỗi Bishop phải nghiêng người về phía trước đế nghe, Cargill lẩm bẩm, "Mẹ kiếp mấy chuyện đồn đại văn phòng - tất cả chỉ là đồn đại thôi!"

    Sau hai mươi hai năm làm thám tử điều tra, Bishop đã trở thành cái máy phát hiện nói dối biết đi. Ông nói tiếp, "Nếu một người đàn ông đỗ xe với bồ..."

    "Cô ta không phải bồ của tôi!"

    "... trong một bãi đỗ xe, ông ta sẽ phải kiểm tra mọi chiếc xe gần đấy để chắc chắn đó không phải là xe của vợ hay một người hàng xóm. Thế nên, thưa ông, ông đã nhìn thấy chiếc xe của tên nghi phạm. Đó là loại xe gì?"

    "Tôi chẳng nhìn thấy gì," tay doanh nhân gắt lên.

    Đến lượt Bob Shelton. "Chúng tôi không có thời gian cho bất kỳ thứ nhảm nhí nào nữa đâu, Cargill." Ông nói với Bishop, "Chúng ta đi tìm gặp Sally và đưa cô ta đến đây. Có lẽ hai người ở cùng nhau thì có thể nhớ ra thêm điều gì đó."

    Viên thám tử đã nói chuyện với Sally Jacobs - người khác xa với danh hiệu xấu nhất tầng mười sáu, hay bất kỳ tầng nào khác của công ty. Và cô ta đã xác nhận chuyện ngoại tình với Cargill. Nhưng còn độc thân, và vì lý do nào đó yêu say đắm gã này nên cô ta ít bị ám ảnh hơn ông ta và không để tâm kiểm tra những chiếc xe gặp ở đó. Cô ta nhớ có một cái xe ở đó nhưng không thể nhớ nó là loại gì. Bishop tin cô ta.

    "Đưa cô ta đến đây?" Cargill nói từng từ. "Sally?"

    Bishop ra hiệu cho Shelton và hai người quay đi. Ông nói với qua vai, "Chúng tôi sẽ quay lại ngay."

    "Không, đừng," Cargill khẩn nài.

    Họ dừng lại.

    Khuôn mặt Cargill bừng bừng vẻ phẫn nộ. Kẻ phạm tội nặng nhất hay tỏ vẻ mình là nạn nhân nhất, với cương vị là cảnh sát đường phố, Bishop biết rõ điều này. "Đó là một chiếc Jaguar mui trần. Đời mới. Màu bạc hoặc xám. Mái che màu đen."

    "Biển số xe?"

    "Biển Califomia. Tôi không nhìn thấy số."

    "Trước đó ông đã bao giờ nhìn thấy chiếc xe đó trong khu vực?"

    "Không."

    Bishop cho rằng giờ thì ông ta đang nói thật.

    Rồi một nụ cười khó hiểu nở trên khuôn mặt của Cargill và ông ta nhún vai, hất hàm về phía ngôi nhà, "Này anh sỹ quan, chỗ đàn ông với nhau, anh biết rồi đấy... Chúng ta có thể giữ bí mật chuyện này giữa tôi và anh thôi, đúng không?"

    Bishop giữ vẻ mặt điển hình của cảnh sát và nói, "Chuyện đó không thành vấn đề, thưa ông."

    "Cảm ơn," tay doanh nhân thở phào nhẹ nhõm nói.

    "Ngoại trừ bản khai cuối cùng," viên thám tử nói thêm. "Trong đó sẽ đề cập đến mối quan hệ của ông với Sally Jacobs."

    "Bản khai?" Cargill hỏi một cách lo lắng.

    "Cái đó Phòng Chứng cứ của chúng tôi sẽ gửi thư cho ông.

    "Gửi thư? Đến nhà à?"

    "Đó là luật của bang," Shelton nói. "Chúng tôi phải gửi cho mọi nhân chứng một bản sao lời khai của họ."

    "Các anh không thể làm thế!"

    Bản tính vốn không hay cười và vì hoàn cảnh lúc này cũng chẳng thích hợp để cười, Bishop nói, "Thực ra chúng tôi bắt buộc phải làm thế thưa ông. Như đồng sự của tôi đã nói. Đó là luật của bang."

    "Tôi sẽ lái xe đến văn phòng của các anh để lấy nó."

    "Bắt buộc phải gửi thư - từ Sacramento. Ông sẽ nhận được nó trong vòng vài tháng tới."

    "Vài tháng à? Không thể nói cho tôi chính xác là lúc nào à?"

    "Chính chúng tôi cũng không biết được, thưa ông. Có thể là tuần tới, cũng có thể là tháng Bảy hoặc tháng Tám. Chúc ông buổi tối vui vẻ. Và cảm ơn ông vì sự hợp tác."

    Họ vội vã quay trở lại chiếc Crown - Victoria màu xanh nước biển, bỏ lại sau lưng tay doanh nhân đang bẽ bàng, mải mê suy nghĩ đủ mọi mưu kế để nhận thư trong hai hay ba tháng nữa mà không để bà vợ nhìn thấy bản báo cáo đó.

    "Phòng bằng chứng?" Shelton nhướng một bên lông mày hỏi.

    "Tôi thấy nghe hay đấy chứ," Bishop nhún vai. Cả hai cùng bật cười.

    Sau đó Bishop gọi cho trung tâm điều động để yêu cầu một EVL (Emergency Vehicle Locator) - thiết bị định vị phương tiện khẩn cấp với chiếc xe của Phate. Yêu cầu này tập hợp tất cả dữ liệu của phòng phương tiện gắn máy về những chiếc Jaguar mui trần đời mới màu xám hoặc bạc. Bishop biết rằng nếu Phate sử dụng chiếc xe này khi phạm tội, nó chắc chắn là xe ăn cắp hoặc được đăng ký dưới tên và địa chỉ giả có nghĩa là báo cáo của phòng phương tiện gắn máy sẽ chẳng giúp được gì. Nhưng với một lệnh EVL, mọi bang, hạt và các cảnh sát địa phương ở bắc California sẽ được báo động để ngay lập tức báo cáo nếu nhìn thấy bất kỳ chiếc xe nào khớp với mô tả.

    Bishop đồng ý để Shelton, người lái xe ẩu hơn, và nhanh hơn cầm lái.

    "Quay lại CCU," ông nói.

    Shelton lẩm bẩm, "Vậy là hắn lái một chiếc Jag. Trời ạ, gã này không phải là một hacker bình thường."

    Nhưng Bishop thấy rằng họ vốn đã biết điều đó rồi.

    ° ° °

    Cuối cùng một tin nhắn cũng hiện lên trên màn hình máy tính của Gillette ở CCU.

    Triple-X: Xin lỗi, cậu bạn. Có một gã cứ hỏi tôi mấy cái vớ vẩn về phá mật khẩu màn hình chờ. Thật ngớ ngẩn.

    Những phút sau đó, Gillette, trong vai một thiếu niên cô độc ở Texas, kể cho Triple-X nghe chuyện làm thế nào cậu ta thắng được những mật khẩu screen saver và để tay hacker cho hắn lời khuyên về những cách hay hơn để làm việc đó. Gillette đang mải mê tôn sùng người quân sư thì cửa văn phòng CCU bật mở, hắn liếc lên nhìn thấy Frank Bishop và Bob Shelton đã quay trở lại. Patricia Nolan phấn khích nói, "Chúng ta sắp tìm ra chỗ của Triple-X rồi. Hắn đang ở quán cà phê Internet trong một trung tâm mua sắm quanh đây. Hắn nói rằng có biết Phate."

    Gillette nói với Bishop, "Nhưng hắn không nói gì cụ thể về Phate. Hắn biết chuyện, nhưng hắn sợ."

    "Pac Bell và Bay Area Online nói năm phút nữa họ sẽ xác định được vị trí của hắn," Tony Mott vừa nghe tai nghe vừa nói. "Họ đang thu hẹp dần đường trao đổi tín hiệu. Có vẻ như hắn đang ở Atherton, Menlo Park hoặc Redwood City."

    Bishop nói, "Chà, ở đó có bao nhiêu khu mua sắm nhỉ? Hãy điều vài đội tác chiến đến khu vực đó."

    Bob Shelton gọi một cú điện thoại rồi thông báo, "Họ đang điều quân. Sẽ có mặt ở khu vực đó trong năm phút."

    "Tiếp nào, tiếp nào," Mott nói với cái màn hình máy tính trong khi tay vẫn vuốt ve phần báng vuông vắn của khẩu súng bạc.

    Bishop nhìn màn hình và nói, "Lái hắn trở lại Phate. Thử xem có thể khiến hắn nói điều gì đó cụ thể hơn không."

    Renegade334: Anh này, cái gã Phate, không có cách nào để ngăn hắn được sao. Em muốn cho hắn bầm dập.

    Triple-X: Nghe này, cậu bạn. Cậu không làm Phate bầm dập. Mà hắn sẽ cho CẬU biết tay.

    Renegade334: Anh nghĩ vậy à?

    Triple-X: Phate gieo rắc cái chết, nhóc. Bạn hắn, Shawn, cũng vậy. Đừng có lại gần họ. Nếu Trapdoor của Phate đã ở trong máy cậu, hãy hủy ổ cứng và cài đặt một cái mới. Đổi tên màn hình đi.

    Renegade334: Anh có nghĩ là hắn có thể tóm được em không, ngay cả tại Texas? Hắn loanh quanh ở khu nào nhỉ?

    "Tốt lắm," Bishop nói.

    Nhưng Triple-X không đáp lại ngay. Một lát sau, có tin nhắn hiên lên màn hình:

    Triple-X: Tôi không nghĩ hắn sẽ đến Austin. Nhưng tôi nên nói với cậu điều này, cậu bạn...

    Renegade334: Gì thế?

    Triple-X: Chỗ mày ngồi không phải là chỗ ít an toàn nhất ở Bắc California, chính là chỗ mày đang ngồi lúc này đấy, thằng khốn giả mạo!!!

    Renegade334: Này anh, em đang ở Texas mà.

    Triple-X: "Này anh bạn," không, mày không ở đó đâu. Hãy kiểm tra thời gian phản hồi trên chương trình nặc danh của mày đi. ESAD55 1!

    Triple-X đăng xuất.

    "Khốn thật," Nolan nói.

    "Hắn chuồn rồi," Gillette nói với Bishop và giận dữ đấm tay xuống bàn.

    Viên thám tử liếc nhìn tin nhắn cuối cùng trên màn hình. "Hắn nói thời gian phản hồi là ý gì vậy?"

    Gillette không trả lời ngay. Hắn gõ vài lệnh và kiểm tra chương trình nặc danh mà Miller đã làm.

    "Mẹ kiếp," hắn lầm bầm khi phát hiện ra vấn đề. Hắn giải thích: Triple-X đã tìm cách lần theo dấu vết máy tính của CCU bằng cách gửi đi những ping 2 điện tử nhỏ tương tự như chương trình mà Gillette đã gửi đi để tìm ra hắn. Với chương trình nặc danh, Triple-X thấy Renegade ở Austin, nhưng, lúc hắn gõ 'BRB', tay hacker chắc chắn đã chạy thêm một phép thử nữa. Chương trình này cho thấy độ dài thời gian để các ping đi đến và quay trở lại từ máy tính của Renegade là quá ngắn để các hạt electron hoàn thành một chuyến đi trọn vẹn từ Texas và quay lại.

    Đây là một sai lầm nghiêm trọng - việc tạo ra một khoảng dừng ngắn vào chương trình nặc danh để thêm một vài mili giây và khiến cho Renegade có vẻ như đang ở cách xa cả nghìn dặm rất đơn giản. Gillette không thể hiểu nổi tại sao Miller lại không nghĩ ra.

    "Mẹ kiếp!" Viên cảnh sát mạng lắc đầu nói khi nhận ra sai lầm của mình. "Là lỗi của tôi. Tôi xin lỗi... tôi không nghĩ ra."

    Không, hẳn là anh chẳng nghĩ ra nổi rồi, Gillette nghĩ

    Họ đã tiến đến rất gần rồi.

    Bằng một giọng yếu ớt và thất vọng, Bishop nói, "Triệu hồi đội SWAT đi."

    Shelton móc di động ra và gọi.

    Bishop hỏi, "Thế chữ còn lại mà Triple-X đánh thì sao. ESAD, nó có nghĩa là gì?"

    "Chỉ là một chữ viết tắt rất quen thuộc," Gillette chua xót nói. "Nó nghĩa là Ăn phân và chết quách đi."

    "Hơi nóng nảy nhỉ," Bishop bình luận.

    Bỗng điện thoại đổ chuông - là chiếc di động của anh ta. Viên thám tử nghe máy, "Vâng?" Rồi anh hỏi cộc lốc, "Ở đâu?" Anh ghi chép lại và nói, "Huy động mọi lực lượng sẵn có đến khu vực đó. Gọi cho cả cảnh sát tàu điện ngầm San Jose nữa. Khẩn trương lên và tôi nhấn mạnh đây là vụ lớn đây."

    Anh gác máy rồi nhìn cả đội. "Chúng ta gặp may rồi. Thiết bị định vị phương tiện khẩn cấp đã nhận được phản hồi. Nửa tiếng trước, một cảnh sát giao thông ở San Jose đã nhìn thấy chiếc xe Jag đời mới màu xám đang đỗ ở một khu vực cũ kĩ của thành phố nơi những chiếc xe đắt tiền chẳng mấy khi xuất hiện." Ông bước tới tấm bản đồ và đánh một dấu X lên ngã tư nơi chiếc xe được nhìn thấy.

    Shelton nói, "Tôi biết chút ít về nơi này. Có rất nhiều khu căn hộ ở gần đó. Vài cửa hàng rượu vang, một số hàng bán rượu. Một quận nhiều nhà cho thuê giá rẻ."

    Rồi Bishop gõ gõ lên một hình vuông nhỏ trên bản đồ. Nó được chú thích là 'Học viện Thánh Francis'.

    "Nhớ vụ ở đó mấy năm trước chứ?" Viên thám tử hỏi Shelton.

    "Đúng rồi."

    "Một tên tâm thần đã đột nhập vào trường và giết một học viên hay giáo viên ở đó. Vì thế hiệu trưởng đã cho lắp đặt tất cả các hình thức an ninh, toàn những thứ công nghệ cao. Các bài báo đều nói về chuyện này." Ông gật đầu về phía tấm bảng trắng, "Phate thích thử thách, nhớ chứ?"

    "Lạy Chúa," Shelton lẩm bẩm trong cơn tức giận. "Lần này hắn tìm đến bọn trẻ."

    Bishop vồ lấy điện thoại và gọi cho Trung tâm Điều động yêu cầu mã điều động đột kích.

    Không ai dám nói ra điều mọi người đều đang nghĩ đến: Báo cáo của EVL đã phát hiện chiếc xe đó từ ba mươi phút trước. Có nghĩa là Phate có thừa thời gian để chơi trò chơi khủng khiếp của hắn.

    ° ° °

    Hệt như cuộc sống vậy, Jamie Turner nghĩ.

    Không có pháo sáng, không có tiếng hò hét, không có tiếng 'ting ting' hài lòng giống như trên phim ảnh, thậm chí không có cả đến một tiếng click nhẹ, bóng đèn trên cửa báo động vụt tắt.

    Trong Thế giới thực thì không có hiệu ứng âm thanh. Bạn làm những điều phải làm và chẳng có gì để tưởng niệm ngoại trừ một chiếc bóng đèn lặng lẽ vụt tắt.

    Cậu nhóc đứng lên và cẩn thận nghe ngóng. Từ xa xa phía dãy tòa nhà của Học viện Thánh Francis, cậu nghe thấy tiếng nhạc, tiếng hò hét, cười nói, tiếng tranh luận nho nhỏ vọng ra từ một chương trình trò chuyện trên đài phát thanh - tất cả những điều cậu đã bỏ lại phía sau, cậu sắp được trải nghiệm một buổi tối hoàn hảo cùng anh trai.

    Đẩy cánh cửa mở ra.

    Im lặng. Không chuông báo dộng, không có liếng quát tháo của Booty.

    Mùi không khí lạnh, trộn lẫn hương cỏ thơm ngai ngái choán lấy mũi cậu. Nó khiến cậu nhớ lại hàng giờ cô đơn dài dằng dặc sau bữa tối ở nhà cha mẹ tại Mill Valley suốt mùa hè - anh trai Mark của cậu vẫn ở Sacramento, nơi anh ấy có một công việc để thoát ly khỏi gia đình. Những đêm dài vô lận đó...

    Mẹ mang cho Jamie món tráng miệng và đồ ăn nhẹ để nó khỏi quẩn chân họ, bố cậu nói 'Ra ngoài kia chơi đi' trong khi họ và bạn bè nói những câu chuyện vô thưởng vô phạt mỗi lúc một lộn xộn, khi tất cả đều đã say khướt vì rượu.

    Ra ngoài kia chơi đi...

    Như thể nó đang ở trong một vườn trẻ chết tiệt!

    Chà, không phải là Jamie được ra ngoài. Cậu chỉ bước vào thế giới ảo và hack như thể không có ngày mai.

    Cái không khí mùa xuân mát mẻ này làm cậu nhớ đến quãng thời gian đó. Nhưng lúc này, cậu đã miễn dịch với những ký ức ấy. Cậu phấn khởi vô cùng vì đã thành công và sẽ được ở cùng anh trai tối nay.

    Cậu chốt cửa bằng băng dính để có thể vào trong khi quay lại trường lúc đêm muộn. Không có tiếng bước chân, không có Booty, không có những hồn ma.

    Cậu bước ra ngoài.

    Bước chân đầu tiên đến với tự do! Phải! Cậu đã làm được!

    Đúng lúc đó, một con ma bắt được cậu.

    Một cánh tay đàn ông bất ngờ kẹp chặt quanh ngực Jamie một cách đau đớn và một bàn tay mạnh mẽ bịt chặt lấy miệng cậu.

    Ôi Chúa ơi!.

    Jamie ráng hết sức lao ngược trở lại trường nhưng kẻ tấn công, trong bộ đồ kiểu đồng phục - quá khỏe đã quật cậu xuống đất. Rồi gã đàn ông đó kéo cặp kính bảo vệ dày cộp ra khỏi mũi cậu bé.

    "Xem chúng ta có gì đây," hắn thì thầm, thảy cặp kính xuống đất và vuốt ve mí mắt của thằng bé.

    "Không, không!" Jamie cố gắng giơ hai cánh tay lên để bảo vệ đôi mắt. "Ông định làm gì thế?"

    Gã đàn ông lấy ra thứ gì đó từ trong lớp áo. Trông nó giống như một cái bình xịt. Hắn giữ nó lại gần xịt thẳng vào mắt Jamie. Cái quái gì...?

    Một dòng chất lỏng sền sệt từ vòi xịt bắn thẳng vào mắt Jamie. Ngay lập tức, cơn bỏng rát khủng khiếp bùng lên. Thằng bé bắt đầu gào thét và quằn quại trong cơn hoang loạn tột độ. Nỗi sợ hãi lớn nhất của nó đã thành sự thật.

    Jamie Turner lắc đầu dữ đội để xua đi cơn đau và nỗi sợ hãi nhưng càng cảm thấy nhức nhối hơn. Nó gào lên, "không, không, không," tiếng của Jamie bị bóp nghẹt dưới bàn tay đang kẹp chặt quanh miệng nó.

    Gã đàn ông cúi thật gần và bắt đầu thì thầm vào tai nó nhưng Jamie không nghe được gì. Cơn đau đớn và nỗi hoảng sợ nuốt gọn nó như ngọn lừa bùng cháy trên cánh đồng cỏ khô.

    --------------------------------
    1 Một câu chửi.
    2 Viết tắt của Packet Internet Groper: Gửi một gói đến máy nào đó và đợi nó phản hồi về.

  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 17
    Frank Bishop và Wyatt Gillette đi xuyên qua cổng vòm cổ kính trên lối vào Học viện Thánh Francis, tiếng giày của họ bước trên những viên đá lót đường vang lên lạo xạo.

    Bishop gật đầu chào Huerto Ramirez, cơ thể to lớn của anh ta choán nửa cổng vào, và hỏi, "Có đúng thế không?"

    "Đúng vậy, Frank. Xin lỗi. Hắn chuồn mất rồi."

    Ramirez và Tim Morgan, hai người đang thẩm vấn các nhân chứng dọc tuyến phố xung quanh ngôi trường, là những người đầu tiên đến hiện trường.

    Ramirez quay ra và dẫn Bishop, Gillette cùng Bob Shelton và Patricia Nolan theo sau vào trong ngôi trường. Linda Sanchez kéo một vali có bánh to đi theo họ.

    Bên ngoài là hai xe cấp cứu và hơn chục xe cảnh sát, ánh đèn từ những chiếc xe nhấp nháy trong câm lặng. Một đám đông tò mò đứng trên lối đi bộ dọc con phố.

    "Chuyện gì xảy ra thế?" Shelton hỏi anh ta.

    "Như những gì chúng tôi biết, chiếc Jaguar đó đậu ở bên ngoài cổng đằng kia." Ramirez chỉ ra khoảng sân cách biệt với con phố bằng một bức tường cao. "Chúng tôi đã âm thầm điều động nhưng có vẻ hắn nghe ngóng được chúng ta đang đến nên đã phóng xe hết tốc lực ra khỏi ngôi trường này và bỏ trốn. Chúng tôi đã thiết lập rào chắn đường cách đây tám và mười sáu dãy phố nhưng hắn đều vượt qua được hết. Có lẽ hắn đã rẽ vào các con hẻm và đường nhỏ."

    Khi họ đi xuyên qua dãy hành lang u ám, Nolan bước đi bên cạnh Gillette. Dường như cô muốn nói điều gì đó nhưng lại thay đổi ý định và giữ im lặng.

    Khi họ bước xuống sảnh, Gillette nhận thấy không có học viên nào ở đó. Có lẽ các giáo viên đang giữ họ trong phòng cho đến khi cha mẹ và những người giám hộ đến.

    "Khám nghiệm hiện trường có phát hiện được gì không?" Bishop hỏi Ramirez.

    "Anh thấy đấy. Không tìm được gì cho chúng ta manh mối về nơi ở của hắn."

    Họ ngoặt vào một góc tường và ở cuối lối rẽ, họ thấy một cánh cửa đang mở, bên ngoài là hàng chục sỹ quan cảnh sát và vài nhân viên y tế. Raimirez nhìn Bishop rồi thì thầm điều gì đó với anh. Bishop gật đầu và nói với Gillette, "Trong đó không mấy dễ chịu. Giống như Andy Anderson và Lara Gibson. Tên giết người lại sử dụng con dao của hắn - đâm vào tim. Nhưng có vẻ như một lúc sau nạn nhân mới chết. Cảnh tượng khá khủng khiếp. Sao cậu không chờ ngoài này? Khi nào cần cậu xem xét chiếc máy tính tôi sẽ báo."

    "Tôi chịu được," tay hacker trả lời.

    "Cậu chắc chứ?"

    "Chắc."

    Bishop hỏi Ramirez, "Bao nhiêu tuổi?"

    "Thằng bé đó à? Mười lăm."

    Bishop nhướng một bên lông mày về phía Patricia Nolan ý hỏi liệu cô có chịu được cảnh chém giết đó không. Cô trả lời, "Không sao đâu."

    Họ bước vào trong căn phòng.

    Dù đã cân nhắc câu trả lời trước câu hỏi của Bishop, Gillette vẫn khựng lại vì sốc. Máu lênh láng khắp nơi. Lượng máu nhiều đáng sợ - trên sàn nhà, các bức tường, hàng ghế, những khung ảnh, chiếc bảng trắng, trên bục giảng. Màu sắc thay đổi tùy theo đồ vật máu bắn lên đó, từ hồng nhạt đến sẫm gần như đen.

    Trên sàn nhà, cái xác nằm chính giữa căn phòng, dưới một tấm chăn cao su màu xanh lá cây đậm. Gillette liếc nhìn Nolan, hắn nghĩ cô cũng sẽ thoái lui. Nhưng sau khi liếc nhìn những vệt máu đỏ thẫm bắn khắp nơi, đôi mắt cô chỉ quét quanh căn phòng, có lẽ để tìm kiếm chiếc máy tính mà họ sắp phân tích.

    "Tên thằng bé là gì?" Bishop hỏi. Một nữ Sỹ quan từ Sở cảnh sát San Jose đáp, "Jamie Turner."

    Bước vào căn phòng, Linda Sanchez phải hít một hơi thật sâu khi nhìn thấy cái xác và cảnh tượng máu me đó. Có vẻ như cô đang phân vân không biết mình có ngất đến nơi không. Cô lại bước ra ngoài.

    Frank Bishop bước vào phòng học bên cạnh, nơi một cậu thiếu niên đang ngồi rúm ró, đung đưa trên một chiếc ghế. Gillette theo sau viên thám tử.

    "Jamie?" Bishop hỏi. "Jamie Turner?"

    Cậu ta không đáp. Gillette để ý thấy mắt cậu ta đỏ rực lên và làn da xung quanh dường như bị bỏng. Bishop nhìn thấy một người đàn ông khác trong phòng. Anh ta mảnh khảnh và khoảng hơn hai mươi tuổi. Anh ta đứng cạnh Jamie và choàng tay lên vai cậu bé. Anh nói với viên thám tử, "Phải, đây là Jamie. Tôi là anh của nó. Mark Turner."

    "Booty chết rồi," Jamie đau khổ thì thầm và chậm một miếng vải ấm lên mắt.

    "Booty?"

    Một người đàn ông khác khoảng tầm ngoài bốn mươi, mặc quần kaki và áo sơ mi vải phông, tự giới thiệu mình là trợ lý của hiệu trưởng và nói, "Đó là biệt danh bọn trẻ đặt cho ông ấy." Ông ta hất đầu về phía căn phòng nơi cái xác đang nằm, "Cho ngài hiệu trưởng."

    Bishop cúi xuống, "Cháu cảm thấy thế nào, chàng trai trẻ?"

    "Hắn đã giết ông ấy. Hắn có con dao đó. Hắn đâm ông ấy còn thầy Boethe chỉ biết la hét và chạy quanh, cố tìm cách trốn chạy. Cháu..." Giọng cậu ta nghẹn lại vì thổn thức. Người anh trai siết chặt vai cậu.

    "Thằng bé ổn chứ?" Bishop hỏi một nữ nhân viên y tế vận chiếc áo khoác với ông nghe đang cầm mấy cái kẹp cầm máu. Cô nói, "Cậu bé ổn. Có vẻ như gã này phun vào mắt cậu ta thứ nước gì đó chứa chút hỗn hợp ammoniac và nước sốt hạt tiêu. Vừa đủ để gây đau nhức, nhưng không đủ để gây ra bất kỳ tổn hại nào."

    "Tại sao?" Bishop hỏi.

    Cô ta nhún vai, "Ông hiểu ý tôi mà."

    Bishop kéo một chiếc ghế và ngồi xuống. "Chú rất tiếc vì chuyện đã xảy ra, Jamie. Chú biết cháu rất buồn. Nhưng việc cháu nói hết với chú những gì cháu biết là vô cùng quan trọng."

    Cậu bé bình tĩnh trở lại và giải thích rằng cậu ta đã trốn khỏi trường để đi xem hòa nhạc cùng anh trai. Nhưng ngay lúc cậu ta mở được cửa thì gã này, trong bộ đồng phục của công nhân vệ sinh, tóm lấy cậu và xịt thứ nước đó vào mắt cậu. Hắn nói với Jamie rằng đó là axit và nếu cậu ta dẫn hắn đến chỗ thầy Boethe, hắn sẽ cho cậu ta thuốc giải. Nhưng nếu cậu ta không nghe theo thì thứ axit này sẽ ăn mòn mắt cậu ta.

    Đôi tay cậu bé run bần bật và nó lại òa khóc. "Đó là nỗi sợ lớn nhất của nó," Mark tức giận nói, "Nó sợ bị mù. Không biết tại sao tên khốn đó biết được." Bishop gật đầu và nói với Gillette, "Thầy hiệu trưởng mới là mục tiêu của hắn. Đây là một ngôi trường lớn - Phate cần Jamie để nhanh chóng tìm ra nạn nhân."

    "Mà nó rất đau! Thực sự rất đau đớn... Cháu nói với hắn rằng sẽ không giúp hắn. Cháu không muốn, cháu đã cố gắng kháng cự nhưng cháu không thể. Cháu..." Nó im bặt.

    Gillette cảm thấy Jamie còn muốn nói điều gì đó nhưng nó không thể nói ra.

    Bishop đặt tay lên vai thằng bé, "Cháu đã làm điều đúng đắn. Cháu chỉ làm những gì mà ta cũng sẽ làm, con trai ạ. Đừng lo lắng về điều đó. Hãy nói cho chú biết, Jamie, cháu có gửi mail về dự định tối nay của mình cho ai không? Chúng tôi rất cần biết việc này."

    Thằng bé nuốt khan rồi nhìn xuống.

    "Sẽ không có chuyện gì xảy ra với cháu đâu, Jamie. Đừng lo lắng. Chúng tôi chỉ muốn tìm ra gã này thôi."

    "Anh trai cháu, hình như thế. Và rồi..."

    "Cháu cứ nói đi."

    "Chuyện là, cháu có lên mạng để tìm mấy mật khẩu và vài thứ khác. Mật khẩu của cổng trước. Hắn hẳn đã hack vào máy cháu và nhìn thấy chúng, nhờ thế mà hắn đột nhập được vào sân trong."

    "Thế còn chuyện cháu sợ bị mù?" Bishop hỏi. "Liệu có phải hắn đã đọc được nó ở trên mạng?"

    Jamie lại gật đầu.

    Gillette nói, "Vậy là Phate đã biến Jamie thành một Trapdoor, để đột nhập vào trong."

    "Cháu rất dũng cảm, chàng trai trẻ," Bishop tử tế nói.

    Nhưng dường như điều đó chẳng thể làm thằng bé nguôi ngoai.

    Những nhân viên y tế của Đội Khám nghiệm Hiện trường đưa cái xác của vị hiệu trưởng đi, những cảnh sát ở lại hội ý ngoài hành lang, Gillette và Nolan tham gia cùng họ. Shelton báo cáo những thông tin từ chuyên viên pháp y, "Chẳng có gì ở hiện trường cả. Hàng tá dấu vân tay rõ ràng - họ đã cho kiểm tra vân tay, nhưng, quỉ thật, chúng ta đều biết đó là Holloway. Hắn đi giầy đế thường. Có đến triệu sợi vải trong căn phòng đó. Đủ để khiến đội ngũ kỹ thuật viên Phòng thí nghiệm Liên bang bận rộn cả năm. Ồ, họ tìm thấy cái này nữa. Là của cậu bé Turner."

    Ông đưa một mảnh giấy cho Bishop, ông ta đọc nó rồi chuyển qua cho Gillette. Có vẻ đó là những ghi chép của thằng bé về việc bẻ mật khẩu và ngắt hệ thống báo động ở cửa.

    Huerto Ramirez nói, "Không ai nhớ rõ chiếc Jaguar đã đỗ ở đâu. Mà dù sao thì cơn mưa đã xóa đi mọi dấu vết rõ ràng. Chúng ta có cả tấn rác ở lề đường nhưng liệu tên tội phạm của chúng ta có vứt bất kỳ thứ gì trong đó hay không, ai mà biết được?"

    Nolan nói, "Hắn là một cracker. Tức hắn là một tên tội phạm rất có tổ chức. Hắn sẽ không ném bì thư có địa chỉ nhà mình trên đó trong lúc rình mò nạn nhân đâu."

    Ramirez nói tiếp, "Tim vẫn đang rà soát vỉa hè cùng các cảnh sát từ trụ sở nhưng chẳng tìm được gì cả."

    Bishop nhìn Nolan, Sanchez và Gillette. "Được rồi, hãy bảo vệ và kiểm tra máy tính của thằng bé."

    Linda Sanchez hỏi, "Nó ở đâu?"

    Trợ lý hiệu trưởng nói anh ta sẽ dẫn họ đến phòng máy của trường. Gillette quay lại căn phòng nơi Jamie đang ngồi và hỏi cậu ta đã sử dụng chiếc máy nào.

    "Số ba," thằng bé rầu rĩ đáp rồi lại tiếp tục chậm miếng khăn lên mắt.

    Cả đội bước vào hành lang tối tăm. Trên đường đi, Linda Sanchez gọi điện cho ai đó. Từ cuộc hội thoại, Gillette đoán là con gái cô vẫn chưa chuyển dạ. Cô gác máy và nói "Dios 1."

    Phòng máy ở tầng hầm, một nơi lạnh lẽo và u ám, Gillette, Nolan và Sanchez bước đến chiếc máy được đánh dấu số 3. Gillette dặn Sanchez đừng vội cho chạy bất kỳ chương trình khai quật nào của cô. Hắn ngồi xuống và nói, "Theo như chúng ta biết thì Trapdoor demon vẫn chưa tự hủy. Tôi sẽ cố gắng tìm xem nó trú ngụ ở đâu trong hệ thống của máy."

    Nolan nhìn quanh căn phòng ẩm thấp theo kiểu Gô-tích. "Cảm giác như chúng ta là nhân vật trong bộ phim Quỷ ảm ấy... Không gian ma mị và nỗi ám ảnh quỷ quái."

    Gillette khẽ cười. Hắn bật nguồn và kiểm tra bảng menu chính. Sau đó hắn tải vô số ứng dụng - một file word, một bảng tính, một chương trình fax, một phần mềm kiểm tra virus, vài tiện ích sao chép đĩa, một số trò chơi, vài trình duyệt web, và một chương trình bẻ khóa mật khẩu mà Jamie mới viết gần đây (một phần mềm tự viết khá đỉnh so với một thiếu niên, Gillette nhận ra điều đó).

    Hắn chăm chú nhìn màn hình, tay không ngừng gõ bàn phím, để xem mất bao lâu các ký tự mới hiện lên màn hình. Hắn lắng nghe tiếng rền rĩ của ổ cứng để xem có bất kỳ âm thanh nào lạc điệu khi nó chạy một chương trình nào đó hay không.

    Patricia Nolan ngồi sát gần hắn, cũng chăm chú nhìn màn hình.

    "Tôi có thể cảm thấy demon," Gillette thì thầm. "Nhưng lạ lắm - dường như nó chạy vòng quanh. Nó nhảy từ chương trình này sang chương trình khác. Ngay khi tôi mở một chương trình, nó liền trượt ngay vào chương trình đó, có lẽ để xem tôi có đang tìm kiếm nó hay không. Khi nó cho rằng tôi không tìm nó, nó liền bỏ đi... Nhưng nhất định nó đang trú ngụ ở đâu đó."

    "Ở đâu?" Bishop hỏi.

    "Xem chúng ta có tìm ra không nhé." Gillette mở và đóng hàng tá chương trình, rồi lại cả tá nữa, tay đánh bàn phím như vũ bão. "Được rồi, được rồi... Đây là thư mục chậm chạp nhất." Hắn nhìn lại danh sách các file rồi nở một nụ cười lạnh nhạt. "Cậu biết Trapdoor ở đâu chưa?"

    "Ở đâu?"

    "Trong folder trò chơi. Hiện giờ nó đang ở trong chương trình Solitaire."

    "Cái gì?"

    "Trò chơi bài."

    Sanchez nói, "Nhưng hầu như mọi máy tính được bán ra ở Mỹ đều cài sẵn trò chơi này."

    Noian nói, "Có thể vì vậy mà Phate cố tình viết chương trình kiểu đó."

    Bishop lắc đầu, "Vậy bất kỳ ai có trò chơi này trong máy đều có thể giữ Trapdoor trong đó?"

    Nolan hỏi, "Chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh vô hiệu hóa trò Solitaire hoặc xóa nó?"

    Họ tranh luận một lúc. Gillette tò mò đến tuyệt vọng về cách thức hoạt động của Trapdoor và muốn tách demon ra để kiểm tra nó. Nếu họ xóa chương trình đó, demon có thể tự hủy, nhưng việc biết rằng nó sẽ tự hủy mang lại cho họ một thứ vũ khí, đó là bất kì ai nghi ngờ demon đang ở trong máy của mình chỉ cần làm một việc đơn giản là xóa trò chơi đó đi.

    Họ quyết định copy toàn bộ nội dung từ ổ cứng của chiếc máy tính mà Jamie đã sử dụng và Gillette sẽ thử xóa trò Solitaire, rồi họ cùng xem chuyện gì sẽ xảy ra.

    Khi Sanchez hoàn tất việc copy nội dung, Gillette xóa chương trình Solitaire. Nhưng hắn để ý thấy có chút trì hoãn trong quá trình xóa. Hắn lại thử vô số chương trình rồi bật cười chua chát. "Nó vẫn ở đó. Nó nhảy sang chương trình khác và sống khỏe re. Nó làm thế quái nào vậy nhỉ?" Demon của Trapdoor cảm nhận được ngôi nhà của nó sắp bị phá hủy nên đã kịp trì hoãn quá trình xóa đủ để thoát từ phần mềm Solitaire sang một chương trình khác.

    Gillette đứng dậy và lắc đầu, "Chẳng còn việc gì để làm ở đây nữa. Hãy mang chiếc máy này về CCU và...."

    Bóng ai đó vụt xuất hiện đúng lúc cửa phòng máy bật mở, khiến kính vỡ vương vãi khắp nơi. Một tiếng hét cuồng nộ vang lên và ai đó nhảy xổ đến chiếc máy tính. Nolan khuỵu xuống, khẽ kêu lên kinh ngạc.

    Bishop bị đẩy sang một bên. Linda Sanchez lóng ngóng tìm súng.

    Gillette thụp người xuống che chắn đúng lúc một chiếc ghế lẳng qua đầu hắn và bổ nhào vào màn hình máy tính hắn đang ngồi.

    "Jamie!" Người trợ lý hiệu trưởng gào lên thất thanh. "Không!"

    Nhưng thằng bé đã nhấc chiếc ghế nặng trịch lên rồi nện nó xuống màn hình, một tiếng nổ vang lên và kính vụn văng tung tóe xung quanh họ. Khói bốc lên từ trong chiếc máy.

    Người quản lý tóm lấy chiếc ghế và giằng nó khỏi tay Jamie, lôi thằng bé sang một bên rồi đè nó xuống sàn nhà. "Cậu làm cái quái quỉ gì thế, thưa cậu?"

    Thằng bé giãy giụa, thổn thức và lại tiếp tục vồ lấy chiếc máy. Nhưng Bishop và người quản lý kìm được nó lại. "Em phải đập tan nó! Nó đã giết chết thầy ấy! Chính nó giết chết thầy Boethe!"

    Người trợ lý hiệu trưởng quát lên, "Cậu dừng ngay lại, cậu bé ạ! Học sinh của tôi không có kiểu cư xử như thế."

    "Bỏ cái tay chết tiệt của thầy ra khỏi người em!" Thằng bé nổi đóa. "Nó đã giết thầy ấy nên em phải giết chết nó!" Toàn thân nó run lên vì cơn thịnh nộ.

    "Cậu Turner, cậu bình tĩnh lại ngay! Tôi không nói lần nữa đâu."

    Mark, anh trai của Turner, chạy vào phòng máy. Anh ôm lấy thằng bé, nó đổ gục người vào anh trai, thổn thức khóc.

    "Học sinh phải biết cư xử," người quản lý nói, giận run người. Ông ta nhìn những khuôn mặt ỉu xìu của mọi người trong đội CCU. "Ở đây là phải vậy."

    Bishop liếc nhìn Sanchez, người đang kiểm tra mức độ thiệt hại. Cô nói, "Bộ vi xử lý trung tâm ổn. Chỉ có màn hình bị hỏng."

    Wyatt Gillette kéo mấy chiếc ghế vào góc rồi ra hiệu cho Jamie đi theo hắn. Thằng bé nhìn anh trai và nhận được cái gật đầu. Nó đi theo tay hacker.

    "Tôi nghĩ cái đó không được bảo hành nữa rồi," Gillette nói, bật cười và hất đầu về phía màn hình máy tính.

    Một nụ cười yếu ớt nở trên môi thằng bé nhưng biến mất rất nhanh.

    Lát sau, nó mới cất lời, "Là lỗi của em khiến thầy Booty chết." Nó nhìn Gillette. "Em đã hack mật khẩu của cổng trường. Em tải sơ đồ hệ thống báo động... Ôi, em ước gì mình chết đi!" Nó lấy tay áo lau mặt.

    Vẫn còn điều gì đó trong lòng nó, Gillette có thể nhận thấy điều ấy. "Cứ nói đi, nói anh nghe xem," hắn nhẹ nhàng khích lệ.

    Thằng bé nhìn xuống, rồi cuối cùng nói, "Gã đó à? Hắn nói nếu không phải tại em hack thì thầy Boethe vẫn còn sống. Chính em đã giết thầy. Và em đừng bao giờ sờ đến máy tính nữa nếu không muốn có thêm người phải chết."

    Gillette lắc đầu, "Không, không, không, Jamie. Kẻ gây ra việc này là một tên khốn bệnh hoạn. Hắn đã nung nấu ý định giết thầy giáo của em và không việc gì có thể ngăn hắn được. Nếu không phải là em thì hắn cũng sẽ lợi dụng ai đó khác. Hắn nói những điều đó với em vì hắn sợ em."

    "Sợ em?"

    "Hắn đã theo dõi em từ lâu, xem em viết phần mềm và hack. Hắn sợ những điều em có thể làm để chống lại hắn một ngày nào đó."

    Jamie không nói gì.

    Gillette hất hàm về phía màn hình máy tính đang bốc khói. "Em không thể phá hủy tất cả máy tính trên thế giới."

    "Nhưng em có thể đập tan cái máy đó!" Nó tức giận.

    "Nó chỉ là một công cụ," Gillette nhẹ nhàng nói. "Nhiều người dùng tua vít để đột nhập vào nhà người khác. Em không thể vứt bỏ tất cả tua vít."

    Jamie ngả người dựa vào một chồng sách và khóc. Gillette choàng tay qua vai thằng bé. "Em sẽ không bao giờ đụng đến máy tính nữa. Em ghét chúng!"

    "Chà, thế thì lại là vấn đề đấy!"

    Thằng bé lại lau mặt. "Vấn đề?"

    Gillette nói, "Nghe này, bọn anh cần em giúp."

    "Giúp bọn anh?"

    Tay hacker hất hàm về phía chiếc máy. "Em viết phần mềm đó đúng không? Phần mềm Crack-er?"

    Thằng bé gật đầu.

    "Em giỏi lắm, Jamie. Em thực sự rất xuất sắc đấy. Có những người làm quản trị hệ thống mà chẳng thể chạy chương trình hack như em. Bọn anh sẽ mang chiếc máy đó về trụ sở để phân tích. Nhưng những máy còn lại vẫn ở đây, anh đang hy vọng em sẽ kiểm tra tất cả chúng để xem có tìm được gì giúp bọn anh bắt tên khốn đó không."

    "Anh muốn em làm thế?"

    "Em biết hacker mũ trắng là như thế nào chứ?"

    "Có ạ. Một hacker tốt giúp tìm ra những hacker xấu."

    "Em sẽ là mũ trắng của bọn anh chứ? Ở chỗ Cảnh sát bang bọn anh không có đủ người. Biết đâu em tìm ra điều gì đó mà bọn anh không tìm được."

    Giờ thì thằng bé có vẻ xấu hổ vì đã khóc. Nó tức giận lau mặt. "Em không biết. Em không nghĩ là mình muốn làm việc đó."

    "Bọn anh chắc chắn có thể sử dụng sự trợ giúp của em."

    Người trợ lý hiệu trưởng nói, "Được rồi, Jamie, đã đến lúc quay về phòng của cậu rồi."

    Người anh trai liền nói, "Không thể nào. Nó sẽ không ở đây đêm nay. Chúng tôi sẽ đi đến buổi hòa nhạc đó rồi sau đó nó sẽ qua đêm cùng tôi."

    Người trợ lý cứng rắn nói, "Không. Cậu ta cần phải có giấy cho phép viết tay của cha mẹ nhưng chúng tôi không thể liên lạc được với họ. Ở đây chúng tôi có những quy tắc, sau tất cả những chuyện này," ông ta khoát tay về phía hiện trường, "chúng ta cũng không được đi chệch khỏi những quy tắc đó."

    Mark Turner chúi người về phía trước và thì thầm một cách đay nghiến, "Lạy Chúa, hãy thoải mái đi, được không? Thằng bé vừa trải qua đêm tồi tệ nhất đời nó vậy mà ông...."

    Người quản lý đáp lại, "Anh không có quyền nói tôi phải làm gì với học sinh của mình."

    Khi đó Frank Bishop lên tiếng, "Nhưng tôi thì có. Và Jamie sẽ không ở lại đây hay đi xem ca nhạc. Cậu ta sẽ phải đến trụ sở cảnh sát và viết bản khai. Sau đó chúng tôi sẽ đưa cậu ta đến chỗ bố mẹ."

    "Cháu không muốn đến đó," thằng bé đau khổ nói. "Không đến chỗ bố mẹ."

    "Chú e rằng không có lựa chọn nào cả, Jamie," viên thám tử nói.

    Nó thở dài và lại trông như thể sắp khóc.

    Bishop nhìn người trợ lý hiệu trưởng và nói, "Từ bây giờ tôi sẽ đảm nhận mọi việc. Tối nay anh cũng đủ bận rộn với những học viên khác rồi."

    Viên trợ lý cay cú nhìn viên thám tử và cánh cửa hỏng, rồi rời khỏi phòng máy.

    Sau khi ông ta đi, Frank Bishop mỉm cười và nói với thằng bé, "Được rồi, chàng trai trẻ, cháu và anh trai ra khỏi đây đi. Có lẽ cháu đã lỡ tiết mục mở màn nhưng nếu đi nhanh có thể vẫn kịp phần trình diễn chính đấy."

    "Nhưng bố mẹ cháu? Chú nói là..."

    "Quên những gì chú vừa nói đi. Chú sẽ gọi cho bố mẹ cháu và nói với họ là cháu sẽ qua đêm với anh trai." Ông nhìn Mark. "Hãy đảm bảo là cậu ta sẽ quay lại đây kịp buổi học sáng mai nhé."

    Thằng bé không thể mỉm cười - sau tất cả những gì vừa xảy ra, nhưng nó cũng khẽ nói, "Cảm ơn chú." Rồi nó bước ra cửa.

    Mark Turner bắt tay viên thám tử. "Jamie," Gillette gọi.

    Thằng bé quay người lại.

    "Hãy nghĩ về những gì anh đã nhờ - về chuyện giúp bọn anh."

    Jamie nhìn một lát vào màn hình máy tính vẫn đang bốc khói.

    Nó không nói gì mà quay người bước đi.

    Bishop hỏi Gillette, "Cậu nghĩ thằng bé có thể tìm ra điều gì à?"

    "Tôi không biết nữa. Đó không phải là lý do tôi nhờ nó giúp. Tôi đoán là sau chuyện này, nó cần quay trở lại trên lưng ngựa." Gillette hất đầu về phía tờ ghi chép của Jamie, "Thằng bé là một thiên tài. Sẽ là tội ác thực sự nếu nó mang tâm lý sợ hãi và từ bỏ máy tính."

    Viên thám tử khẽ cười, "Càng biết cậu, tôi càng thấy dường như cậu không giống một hacker điển hình."

    "Ai mà biết được? Có lẽ tôi thực sự không như vậy."

    Gillette giúp Linda Sanchez hoàn thành nốt việc dỡ chiếc máy tính từng đóng vai trò đồng mưu trong cái chết của thầy Willam Boethe tội nghiệp. Cô gói nó trong một chiếc chăn và cẩn thận cột nó lên chiếc xe đẩy hàng, như thể cô sợ rằng nếu mạnh tay sẽ làm văng mất những chứng cứ mong manh về kẻ thủ ác.

    ° ° °

    Ở CCU, việc điều tra đang rơi vào bế tắc.

    Chương trình bot báo động để cảnh báo họ về sự hiện diện của Phate hoặc Shawn trên mạng vẫn chưa ngắt, mà Triple-X cũng không lên mạng nữa.

    Tony Mott, có vẻ vẫn không vui vì đã bỏ lỡ cơ hội được sắm vai 'một cảnh sát thực thụ', đang miễn cưỡng mày mò khắp các bản dữ liệu pháp lý, nơi anh ta và Miller đã ghi chép rất nhiều trong lúc những người khác trong đội đang ở Học viện Thánh Francis. Anh thông báo, "Chẳng có thông tin hữu ích nào về cái tên Holloway ở VICAP và cơ sở dữ liệu của cảnh sát các bang. Rất nhiều file đã biến mất, những file còn lại chả nói lên cái cóc khô gì."

    Mott nói tiếp, "Chúng tôi đã nói chuyện với một số nơi mà Holloway từng làm: Westem Electric, Apple, và Nippon Electronics tức NEC. Số ít người còn nhớ hắn nói rằng hắn là một lập trình viên thực sự tài ba... và một chuyên gia social engineer siêu đẳng."

    "TMS," Linda Sanchez nhắc lại, "IDK."

    Gillette và Nolan bật cười.

    Mott thì dịch những cụm viết tắt từ Miền xanh thẳm vô định này cho Bishop và Shelton. "Hãy nói cho tôi điều mà tôi không biết." Anh nói tiếp, "Nhưng, ngạc nhiên thay, tất cả các file đều biến mất khỏi phòng nhân sự và kiểm toán."

    "Tôi có thể hiểu cách hắn hack và hủy toàn bộ file mềm," Linda Sanchez nói, "nhưng hắn làm thế nào với đống tài liệu từ xác cây?"

    "Thứ gì cơ?" Shelton hỏi.

    "Tài liệu bản cứng trên giấy," Gillette giải thích. "Nhưng việc đó cũng dễ thôi: Hắn hack vào máy tính của Phòng lưu trữ giấy tờ và để lại tin nhắn yêu cầu nhân viên hủy chúng đi."

    Mott bổ sung thêm là một số nhân viên Phòng an ninh ở những công ty cũ của Phate tin rằng hắn từng và có thể vẫn đang - kiếm sống bằng cách môi giới linh kiện siêu máy tính bị ăn cắp, vì nhu cầu đối với mặt hàng này rất lớn, đặc biệt là ở Châu Âu và những nước thế giới thứ ba.

    Hy vọng của họ bùng lên trong chốc lát khi Ramirez gọi điện báo cáo rằng cuối cùng anh đã nhận được thông tin từ chủ hiệu Phục trang Kịch nghệ Ollie. Sau khi nhìn bức ảnh Jon Holloway hồi trẻ, ông ta xác nhận rằng hắn có đến cửa hiệu vài lần vào tháng trước. Người chủ cửa hiệu không nhớ chính xác là hắn đã mua những gì nhưng ông ta nhớ số hàng khá nhiều và hắn trả bằng tiền mặt. Ông ta cũng không biết hắn sống ở đâu nhưng vẫn nhớ rõ cuộc trao đổi ngắn ngủi giữa họ. Ông đã hỏi Holloway rằng hắn có phải là diễn viên không, nếu đúng vậy thì hắn xin việc rất khó?

    Tên sát nhân đã trả lời rằng, "Không hề, chẳng có gì là khó cả. Tôi vẫn diễn hàng ngày."

    Nửa tiếng sau, Frank Bishop đứng dậy vươn vai và nhìn quanh phòng máy chủ.

    Căn phòng chẳng có mấy sức sống. Linda Sanchez đang nói chuyện điện thoại với con gái. Stephen Miller ngồi ủ rũ một mình, nhìn những tờ ghi chép, có vẻ vẫn còn buồn về sai lầm của anh ta với chương trình nặc danh khiến Triple-X xổng mất. Gillette đang ở phòng thí nghiệm, kiểm tra nội dung trong máy tính của Jamie Turner. Patricia Nolan đang gọi điện trong khoang làm việc bên cạnh. Bishop không biết Bob Shelton ở đâu.

    Đúng lúc đó, điện thoại di động đổ chuông, ông nghe máy. Cuộc gọi từ Đội tuần tra cao tốc.

    Một sỹ quan đi xe motor đã tìm thấy chiếc Jaguar của Phate ở Oakland.

    Không có bằng chứng trực tiếp về mối liên hệ giữa chiếc xe và tên hacker nhưng nó chắc chắn thuộc về hắn, lý do duy nhất để đổ một lượng lớn xăng và châm lửa đốt một chiếc xe sáu mươi ngàn đô la chỉ có thể là để tiêu hủy bằng chứng.

    Theo Ban điều tra hiện trường, ngọn lửa đã làm tốt công việc của nó, không còn chút dấu vết nào có vẻ hữu ích cho đội của ông.

    Bishop quay lại mang theo báo cáo sơ bộ về hiện trường ở Học viện Thánh Francis. Huerto Ramirez đã soạn lại nó theo thời gian lưu trữ nhưng cũng chẳng tìm được gì giúp ích cho việc điều tra. Vũ khí giết người lại là một con dao Ka-bar. Loại băng dính dùng để bịt mắt Jamie Turner không giúp lần ra dấu vết, tương tự như thứ hỗn hợp nước sốt hạt tiêu và amoniac dùng để làm bỏng mắt thăng bé. Họ tìm thấy vô số dấu vấn tay của Holloway nhưng giờ chúng cũng vô dụng vì họ đã biết nhân dạng của hắn.

    Bishop bước đến tấm bảng trắng và ra hiệu cho Mott đưa cho cây bút, Mott liền tung nó về phía ông. Viên thám tử viết những chi tiết này lên tấm bảng nhưng khi bắt đầu viết 'Vân tay', ông dừng lại.

    Những dấu vấn tay của Phate...

    Chiếc Jaguar cháy...

    Những sự kiện này khiến ông gờn gợn. Tại sao? Ông băn khoăn, cọ các khớp tay vào chỗ tóc mai.

    Hãy làm điều gì đó với nó...

    Ông bẻ khớp ngón tay.

    "Sao vậy?" Linda Sanchez hỏi. Mott, Miller và Nolan nhìn ông.

    "Lần này Phate không đi găng tay."

    Ở quán Vesta, khi hắn bắt cóc Lara Gibson, Phate đã cẩn thận quấn một tờ giấy ăn xung quanh chai bia nhằm tránh để lại dấu vân tay. Ở Học viện Thánh Francis, hắn không buồn bận tâm nữa. "Như thế nghĩa là hắn biết chúng ta đã có nhân dạng thật của hắn." Rồi viên thám tử nói tiếp, "Và cả chiếc xe đó nữa. Lý do duy nhất để phá hủy chiếc xe vì có lẽ hắn biết chúng ta đã phát hiện ra hắn đang sử dụng một chiếc Jaguar. Làm thế nào mà hắn biết được?"

    Phía truyền thông không hề đề cập đến tên hắn hay việc kẻ giết người có sử dụng một chiếc Jaguar.

    "Chúng ta có gián điệp, anh nghĩ vậy sao?" Linda Sanchez hỏi.

    Bishop lại đưa mắt nhìn tấm bảng trắng và để ý thấy cái tên Shawn, cộng sự bí ẩn của Phate. Ông gõ gõ lên cái tên đó và hỏi, "tất cả mục đích trong trò chơi của hắn là gì? Là tìm một cách bí mật nào đó để truy cập vào cuộc sống của nạn nhân."

    Nolan nói, "Ông nghĩ Shawn là một Trapdoor? Một kẻ tay trong?"

    Tony Mott nhún vai, "Có thể hắn là người ở Trung tâm Điều động hoặc Trụ sở chính? Hay một người trong nhóm cảnh sát?"

    "Hoặc ai đó từ Phòng quản lý dữ liệu cảnh sát bang California?" Stephen Miller phỏng đoán.

    "Hoặc có lẽ," một giọng đàn ông cất lên, "Gillette chính là Shawn."

    Bishop quay lại và thấy Bob Shelton đang đứng trước khoang làm việc ở phía sau căn phòng.

    "Ông đang nói gì vậy?" Patricia Nolan hỏi.

    "Lại đây," ông ta nói, ra hiệu cho họ về phía khoang làm việc đó.

    Bên trong, màn hình máy tính trên bàn vẫn sáng lên các đoạn kí tự. Shelton ngồi xuống và kéo chuột qua các dòng chữ trong khi những người khác trong đội đứng xúm xung quanh.

    Linda Sanchez nhìn vào màn hình. Với vẻ lo lắng cô nói, "Anh đang vào ISLEnet. Gillette nói chúng ta không được đăng nhập từ đây."

    "Tất nhiên là hắn phải nói thế," Shelton cay nghiệt phản ứng. "Có biết tại sao không? Vì hắn sợ chúng ta sẽ tìm ra thứ này..." Ông kéo chuột xuống một chút và chỉ vào màn hình. "Đó là một báo cáo cũ của Bộ Tư Pháp mà tôi đã tìm thấy trong tài liệu lưu trữ của hạt Contra Costa. Hẳn Phate đã hủy bản sao ở Washington nhưng bỏ quên bản này." Shelton gõ tay lên màn hình. "Gillette chính là Valleyman. Hắn và Holloway điều hành băng đảng đó - Knights of Access (Những kị sỹ truy cập) - cùng nhau. Họ lập nên băng đó."

    "Mẹ kiếp," Miller lẩm bẩm.

    "Không," Bishop thì thầm. "Không thể nào."

    Mott gắt lên, "Hắn cũng social engineer với chúng ta!"

    Bishop nhắm mắt, đau đớn vì sự phản bội này.

    Shelton lẩm bẩm, "Gillette và Holloway đã biết nhau nhiều năm. "Shawn" hẳn là một tên màn hình của Gillette. Hãy nhớ rằng người cai tù nói họ có bắt gặp hắn Online. Lúc đó có thể hắn đang liên hệ với Phate. Có lẽ tất cả những chuyện này là kế hoạch để đưa Gillette ra khỏi nhà tù. Thật là một kẻ khốn nạn."

    Nolan phản bác, "Nhưng Gillette cũng lập trình cho chương trình bot của mình tìm kiếm Valleyman."

    "Nhầm rồi." Shelton thảy một bản in về phía Bishop. "Hắn chỉnh sửa lệnh tìm kiếm như thế này đây."

    Bản in ghi:

    Tìm kiếm trên: IRC, Undernet, Dalnet, WAIS, gopher, Usenet, BBSS, www, FTP, ARCHIVES.

    Tìm kiếm cho: (Phate HOẶC Holloway HOẶC "Jon Patrick Holloway" HOẶC "Jon Holloway") NHƯNG KHÔNG có Valleyman HOẶC Gillette.

    Bishop lắc đầu, "Tôi không hiểu."

    "Cách anh ấy viết yêu cầu," Nolan nói, "chương trình bot của anh ta sẽ săn tìm tất cả những gì nhắc đến Phate, Holloway hoặc Trapdoor mà không nhắc đến Gillette hoặc Valleyman. Những thông tin như thế sẽ bị bỏ qua."

    Shelton nói tiếp, "Hắn chính là kẻ đã báo động cho Phate. Vì vậy mà hắn đã kịp trốn khỏi Học viện Thánh Francis. Và cũng chính Gillette báo cho hắn rằng chúng ta đã biết loại xe mà hắn đang đi, thế nên hắn mới đốt nó đi."

    Miller bổ sung, "Và hắn còn tuyệt vọng đòi ở lại để giúp chúng ta, nhớ chứ?"

    "Chắc chắn là hắn phải thế," Shelton gật đầu nói. "Nếu không, hắn sẽ mất cơ hội để..."

    Hai viên thám tử quay ra nhìn nhau.

    Bishop thì thào, "... bỏ trốn."

    Họ chạy vội ra hành lang dẫn đến Phòng thí nghiệm phân tích. Bishop để ý thấy Shelton đã rút vũ khí ra.

    Cánh cửa Phòng thí nghiệm đã bị khóa. Bishop đập cửa nhưng không có phản hồi. "Chìa khóa!" Ông gọi Miller.

    Nhưng Shelton càu nhàu, "Chìa khóa mẹ gì..." rồi đạp cửa, giương súng lên.

    Căn phòng trống không.

    Bishop tiếp tục chạy đến cuối hành lang và xông vào một nhà kho ở phía sau tòa nhà.

    Ông nhìn thấy cửa thoát hiểm dẫn ra bãi đỗ xe. Nó mở toang. Chuông báo động trên thanh gạt mở cửa đã bị tháo ra - hệt như cách Jamie Turner đã làm để trốn thoát khỏi Học viện Thánh Francis.

    Bishop nhắm mắt và dựa vào bức tường ẩm thấp. Ông cảm thấy sự phản bội này thấm sâu tận vào tim, bén nhọn như con dao khủng khiếp của Phate.

    "Càng biết cậu, tôi lại càng thấy cậu không giống như những hacker điển hình."

    "Ai mà biết được? Có lẽ tôi thực sự không như vậy!"

    Viên thám tử quay lại và chạy vội vào khu vực chính của CCU. Ông nhấc điện thoại rồi gọi cho Văn phòng của Cục Cải huấn ở Tòa nhà hạt Santa Clara. Viên thám tử giới thiệu bản thân và nói, "Chúng tôi có một nghi phạm vừa bỏ trốn, chân đeo vòng giám sát. Chúng tôi cần một cuộc truy lùng khẩn cấp. Tôi sẽ cung cấp cho các anh số của chiếc vòng." Ông nhìn vào sổ tay. "Nó là..."

    "Ông vui lòng gọi lại sau được không, sỹ quan?" Một giọn uể oải đáp lại.

    "Gọi lại à? Xin lỗi ông, ông không hiểu rồi. Chúng tôi vừa có một vụ đào tẩu. Chỉ trong vòng ba mươi phút trước. Chúng tôi cần phải theo dấu hắn ta."

    "À, chúng tôi không theo dấu được. Toàn bộ hệ thống đang gặp sự cố. Sập như khí cầu Hindelberg rớt vậy. Kỹ thuật viên của chúng tôi chưa thể tìm ra nguyên nhân."

    Bishop cảm nhận một cơn ớn lạnh chạy toàn thân. "Hãy nói với họ các anh vừa bị hack," ông nói. "Đó là nguyên nhân đấy."

    Đầu máy bên kia bật cười mỉa mai. "Ông xem phim nhiều quá rồi, Ngài thám tử. Không ai có thể xâm nhập vào máy tính của chúng tôi. Hãy gọi lại sau ba hoặc bốn tiếng nữa. Người của chúng tôi nói rằng lúc đó hệ thống sẽ hoạt động trở lại."

    --------------------------------
    1 Chúa ơi.

  9. #18
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    III. SOCIAL ENGINEERING
    Sự nặc danh là điều mà làn sóng tin học tương lai sẽ xóa bỏ.

    - Newsweek

    Chương 18
    Nó tháo tung mọi thứ.

    Wyatt Gillette bước vội vã trong cơn mưa chiều lạnh buốt dọc vỉa hè một con đường ở Santa Clara, ngực hắn đau đớn, nghẹt thở. Đã 9:30 tối và hắn đoán mình đã cách trụ sở CCU hai dặm kể từ khi chạy trốn.

    Hắn thuộc lòng đường khu vực này - hắn đang ở gần những khu nhà nơi hắn từng sống khi còn bé, và hắn nghĩ về lần mẹ hắn nói chuyện với một người bạn, ông đã hỏi cậu bé Wyatt mười tuổi thích bóng chày hay bóng đá hơn, "Ôi, nó không thích thể thao. Nó toàn tháo tung mọi thứ. Có vẻ nó chỉ thích thú với việc đó."

    Một chiếc xe cảnh sát trờ tới và Gillette né sang một lối rẽ tắt, che dưới chiếc ô mà hắn đã tìm thấy trong phòng thí nghiệm ở CCU.

    Chiếc xe chạy vụt qua. Tay hacker lại tiếp tục bước thật nhanh. Hệ thống định vị trên vòng tín hiệu ở cổ chân có thể ngưng hoạt động trong vài giờ nhưng hắn không thể lãng phí thời gian.

    Nó tháo tung mọi thứ...

    Tạo hóa đã nguyền rủa Wyatt Edward Gillette với một trí tò mò mạnh mẽ, mỗi năm qua đi lại phát triển không ngừng. Nhưng món quà bất đắc dĩ đó ít nhất cũng được vớt vát phần nào vì nó được trao vào đôi tay khéo léo và một bộ óc đủ thông minh để thỏa mãn nỗi ám ảnh của hắn.

    Hắn tồn tại trên đời để tìm hiểu cách mọi thứ vận hành và chỉ có một cách duy nhất để làm việc đó là: Tháo tung chúng ra.

    Không có thứ đồ nào trong nhà Gillette được an toàn với thằng bé và hộp dụng cụ của nó.

    Mẹ nó về nhà sau giờ làm và thấy Wyatt bé nhỏ đang ngồi trước máy chế biến thực phẩm của bà, vui vẻ xem xét từng linh kiện bên trong.

    "Con có biết nó bao nhiêu tiền không?" Bà mẹ tức giận hỏi.

    Không biết, không quan tâm.

    Nhưng mười phút sau, chiếc máy sẽ được ráp lại và làm việc trơn tru, không tốt hơn mà cũng chẳng tệ hơn vì bị tháo tung ra.

    Và cuộc phẫu thuật với chiếc máy ẩm thực đó diễn ra khi thằng bé mới chỉ năm tuổi.

    Dù vậy, cậu bé Gillette đã sớm tháo tung ra rồi ráp lại tất cả những thứ mang tính kỹ thuật mà nó quan tâm. Nó hiểu ròng rọc, bánh xe, tay ga và mô tơ rồi chúng cũng làm nó chán nên nó tiếp tục với đồ điện tử. Trong một năm, nó mày mò đài radio, máy phát nhạc và máy ghi âm.

    Tháo tung chúng ra, ráp chúng lại...

    Không lâu sau đó, thằng bé phát hiện ra thế giới bí ẩn của những ống đèn hai cực và bảng mạch, và trí tò mò của nó bắt đầu trỗi dậy như một con hổ với cơn say mồi bị đánh thức.

    Nhưng rồi nó lại khám phá ra máy tính.

    Hắn nghĩ đến cha, một người đàn ông cao lớn với phong thái hoàn hảo và mái đầu cắt tỉa gọn gàng, dấu ấn từ những năm tháng trong không quân. Ông đã đưa Gillette đến cửa hàng Radio Shack khi hắn lên tám và nói với thằng bé rằng nó có thể tự chọn cho mình bất cứ thứ gì. "Con có thế lấy bất cứ thứ gì mình muốn."

    "Bất cứ thứ gì?" Thằng bé hỏi, đưa mắt nhìn hàng trăm món đồ trên các giá hàng.

    Bất cứ thứ gì con muốn...

    Nó đã chọn một chiếc máy tính.

    Đó là sự lựa chọn hoàn hảo với một đứa trẻ luôn thích tháo tung mọi thứ - vì chiếc máy tính Trash-80 nhỏ bé chính là cánh cổng mở ra Miền xanh thẳm vô định, nơi vô cùng sâu, vô cùng phức tạp, được tạo nên từ tầng tầng lớp lớp những phần nhỏ như phân tử và lớn như vũ trụ đang giãn nở. Đó là một nơi để trí tò mò có thể thỏa sức tung hoành mãi mãi.

    Tuy vậy, ở trường học, dường như người ta muốn học sinh phải biết tuân thủ trước tiên, trí tò mò chỉ là thứ yếu, vì thế, Wyatt Gillette bé nhỏ cứ đuối dần theo các cấp học.

    Dù vậy, trước khi Gillette tụt xuống tận đáy, một người giám thị khôn ngoan đã lôi nó ra khỏi cái nồi hầm thập cẩm của trường trung học, nhìn nhận thực lực của nó và gửi nó đến Trường chuyên số Ba Santa Clara.

    Ngôi trường được quảng cáo là 'điểm đến dành cho những học sinh tài năng nhưng rắc rối cư trú tại Thung lũng Silicon' - một kiểu mô tả, mà tất nhiên, có thể được diễn giải thành: Thiên đường của hacker. Một ngày điển hình của một học sinh điển hình ở trường chuyên số Ba bao gồm cúp tiết học thể dục và tiếng Anh, chịu đựng môn lịch sử và không gặp chút khó khăn gì với toán học và vật lý, trên hết là tập trung vào một môn học duy nhất thực sự cuốn hút: Tám chuyện không ngừng nghỉ với bạn bè về Thế giới máy tính.

    Giờ đây, khi đang bước đi trên vỉa hè ngập mưa, cách không xa ngôi trường đó, hắn nhớ lại nhiều kỉ niệm về những ngày đầu trong Miền xanh thẳm Vô định.

    Gillette nhớ rất rõ lúc ngồi trên sân trường chuyên số Ba, tập huýt sáo hàng giờ liền. Nếu bạn có thể huýt sáo đúng tông vào bốt điện thoại bạn có thể lừa những bộ chuyển trong điện thoại rằng bạn cũng là một bộ chuyển khác và có thể nhận được tiếng chuông vàng báo hiệu quyền truy cập. (Ai chả biết về Captain Crunch - usemame của một hacker trẻ huyền thoại, người đã khám phá ra rằng tiếng từ chiếc còi đồ chơi gói kèm trong những gói ngũ cốc cùng tên Cap'n Crunch có thể tạo ra một âm thanh với tần số 2600 megahertz, tần số chính xác để đột nhập vào đường dây điện thoại đường đài của công ty và thực hiện những cuộc gọi miễn phí.)

    Hắn nhớ những giờ ngồi lại quán ăn ở trường chuyên số Ba, lúc nào cũng có mùi như bột ướt, hay ngồi trong sảnh học hoặc những hành lang xanh tươi, nói chuyện về CPU, thẻ đồ họa, bảng tin, virus, đĩa ảo, mật khẩu, RAM mở rộng, và quyển kinh thánh đó - tức là, cuốn tiểu thuyết Neuromancer 1 của William Gibson, tác phẩm đã khiến cụm từ cyberpunk trở nên phổ biến.

    Hắn nhớ về lần đầu tiên đột nhập vào một máy tính của Chính phủ và lần đầu tiên bị bắt, bị kết án tù vì hành động hack - lúc mười bảy tuổi, vẫn còn là vị thành niên. (Dù vậy hắn vẫn phải chấp hành, Quan tòa rất cứng rắn với những thằng nhóc đã ăn cắp quyền kiểm soát thư mục gốc của máy tính trung tâm thuộc công ty Ford Motor trong khi lẽ ra chúng phải ra ngoài chơi bóng chày, và vị Quan tòa lớn tuổi này càng nghiêm khắc hơn với những thằng bé dám dạy đời ông ta, khăng khăng chỉ ra rằng thế giới ngày nay sẽ rất tệ nếu Thomas Alva Edison quan tâm đến thể thao hơn là phát minh.)

    Nhưng ký ức sâu đậm nhất lúc này là một sự kiện xảy ra vài năm trước khi hắn tốt nghiệp Berkeley: Cuộc gặp gỡ Online đầu tiên của hắn với một hacker trẻ tên là CertainDeath, usemame của Jon Patrick Holloway, trong phòng chat hack.

    Lúc đó cả ngày Gillette làm việc như một lập trình viên. Nhưng cũng giống như nhiều gã viết phần mềm yếu ớt thiếu sáng tạo, hắn chán ngán công việc của mình và đếm từng giờ để được về nhà với chiếc máy tính để khám phá Miền xanh thẳm vô định và gặp gỡ với những người bạn tâm giao, mà Holloway chắc chắn là một trong số đó, cuộc nói chuyện Online đầu tiên của họ kéo dài đến bốn tiếng rưỡi.

    Ban đầu, họ trao đổi thông tin về cách ăn cắp cuộc gọi, rồi họ thực hành những thông tin đó và hiện thực được điều mà họ tuyên bố là những vụ hack 'kinh điển', đột nhập vào Pac Bell, AT&T và hệ thống tổng đài Viễn thông Anh Quốc.

    Từ những khởi đầu khiêm tốn này, họ bắt đầu rình mò hệ thống máy tính của Chính phủ và các tập đoàn.

    Không lâu sau đó, các hacker khác bắt đầu tìm kiếm thông tin về họ, chạy lệnh tìm kiếm gõ tay của Unix trên mạng để tìm họ theo tên, rồi tự nguyện trở thành học sinh ảo của hai gã trai trẻ này để học hỏi những điều mà các bậc thầy chỉ dạy. Sau khoảng một năm cùng giao du trên mạng với nhau với tần suất thường xuyên, hắn và Holloway nhận ra cả hai đã trở thành một băng đảng trên mạng - một băng khá huyền thoại, sự thật là vậy. CertainDeath, kẻ cầm đầu, thực sự là một thầy phù thủy. Valleyman, cấp phó, nhà triết gia sâu sắc của nhóm và là một kẻ viết phần mềm xuất sắc ngang ngửa CertainDeath. Sauron và Klepto, không giỏi bằng nhưng có phần điên rồ và sẵn sàng làm bất cứ việc gì trên mạng. Cả những kẻ khác nữa: Mosk, Replicant, Grok, NeuRO, BYTEr...

    Họ cần một cái tên và Gillette đã đưa ra nó: "Knights of Access" - Những kỵ sỹ truy cập, cái tên đến với hắn sau khi chơi một trò MUD có bối cảnh thời trung cổ trong mười sáu giờ liên tục.

    Danh tiếng của nhóm nhanh chóng lan ra toàn thế giới - chủ yếu là do họ có thể viết ra những phần mềm khiến máy tính làm được những việc đáng kinh ngạc. Khác xa nhiều hacker và nhóm trên mạng khác, thường không phải là lập trình viên - họ hay bị nhắc đến một cách đầy coi thường là những kẻ 'trỏ và nhấp chuột'. Nhưng những người đứng đầu nhóm Knights là những tay viết phần mềm lão luyện, đến mức mà họ thậm chí không buồn biên soạn lại rất nhiều chương trình của mình - biến mã nguồn sơ khai thành chương trình hoạt động - vì họ biết rõ phần mềm đó sẽ hoạt động như thế nào. (Elana - vợ cũ của Gillette, người hắn gặp trong giai đoạn này - là một giáo viên piano. Cô nói Gillette và Holloway làm cô nhớ đến Beethoven, người có thể tưởng tượng ra bản nhạc trong đầu ông một cách hoàn hảo đến mức một khi ông đã viết bản nhạc đó ra, việc trình diễn sẽ thoái trào.)

    Khi nghĩ đến điều này, hắn lại nghĩ về vợ cũ của mình. Cách không xa đây là căn hộ màu be mà hắn và Elana đã chung sống trong vài năm. Hắn có thể hình dung lại một cách rõ ràng khoảng thời gian họ bên nhau, hàng ngàn hình ảnh vụt lên từ thẳm sâu trong ký ức. Nhưng không giống như hệ điều hành Unix hay một con chip xử lý thuật toán, mối quan hệ giữa hắn và Elana là điều gì đó chính hắn cũng không hiểu được. Hắn không biết làm sao để tháo tung nó ra và xem xét từng chi tiết.

    Và vì vậy, nó cũng là thứ mà hắn không thể sửa chữa.

    Người phụ nữ đó vẫn chiếm giữ toàn bộ con người hắn, hắn ước ao có được cô, hắn muốn có con với cô... nhưng trong lĩnh vực tình yêu, Wyatt Gillette biết mình không phải một phù thủy.

    Giờ hắn phải đặt những hồi tưởng này sang một bên và bước đi dưới mái hiên một cửa hiệu Goodwill cũ kĩ gần đường ranh giới của thị trấn Sunnyvale. Khi đã tránh khỏi cơn mưa, hắn nhìn ra xung quanh và sau khi thấy chỉ có một mình, hắn thò tay vào túi áo lấy ra một bảng mạch điện tử nhỏ mà hắn luôn mang theo bên mình. Khi quay lại phòng giam của mình ở San Ho lúc sáng để lấy đống tạp chí và những mẩu báo cho chuyến công du đến văn phòng CCU, hắn đã dán bảng mạch này vào bắp đùi sau, gần háng.

    Bảng mạch Gillette đã miệt mài tạo ra trong sáu tháng qua mới là thứ ngay từ đầu hắn đã nung nấu ý định lén mang ra khỏi nhà tù - chứ không phải chiếc hộp ăn cắp cuộc gọi màu đỏ mà hắn đã cố tình để vào túi để cho lính gác tìm thấy, và như hắn hy vọng, sẽ để hắn rời nhà tù mà không phải đi qua máy rà kim loại một lần nữa.

    Trong phòng phân tích máy tính ở CCU bốn mươi phút trước, hắn đã lôi chiếc bảng mạch ra khỏi da và thử nghiệm nó thành công. Giờ đây, dưới ánh đèn huỳnh quang nhờ nhờ hắt ra từ cửa hiệu Goodwill, hắn kiểm tra lại chiếc bảng mạch và nhận thấy nó vẫn nguyên vẹn sau hành trình đi bộ từ CCU.

    Hắn lại nhét nó vào túi và bước vào cửa hiệu, gật đầu chào người bán hàng đêm, ông ta nói, "Chúng tôi đóng cửa lúc mười giờ."

    Gillette biết điều này, trước đó hắn đã kiểm tra giờ giấc của họ. "Tôi không ở lại lâu đâu," hắn nói với ông ta, rồi nhanh chóng chọn đồ để thay, những bộ đồ không giống kiểu hắn thường mặc, cách tốt nhất để social engineering.

    Hắn thanh toán bằng số tiền lấy được từ một chiếc áo khoác ở CCU và bước ra phía cửa. Hắn dừng lại và quay ra chỗ người bán hàng. "Xin lỗi. Ở gần đây có một trạm xe buýt phải không?"

    Người đàn ông lớn tuổi chỉ về phía tây cửa hiệu. "Khoảng mười lăm mét. Đó là trạm trung chuyển. Từ đây cậu có thể bắt xe buýt đi bất cứ đâu."

    "Bất cứ đâu?" Wyatt Gillette vui mừng hỏi. "Còn đòi hỏi gì hơn thế nữa?" Rồi hắn mở rộng chiếc ô và bước ra màn mưa đêm.

    ° ° °

    Cả văn phòng CCU lặng đi vì sự phản bội này.

    Frank Bishop cảm nhận được sức ép nặng nề của sự im lặng xung quanh ông. Bob Shelton đang phối hợp với cảnh sát địa phương. Tony Mott và Linda Sancher, cung đang gọi điện thoại để kiểm tra các manh mối. Họ nói bằng giọng nho nhỏ, gần như là cung kính cho thấy quyết tâm lớn với mong muốn bắt lại kẻ phản bội.

    Càng biết cậu, tôi càng thấy dường như cậu không giống những hacker điển hình...

    Sau Bishop, có vẻ như Patrida Nolan là người thẫn thờ nhất và cô tiếp nhận sự trốn chạy này một cách riêng tư. Bishop cảm nhận được mối liên kết giữa họ - chà, ít nhất thì cô ta cũng bị hấp dẫn bởi tay hacker. Viên thám tử băn khoăn lẽ nào sự phải lòng này bắt buộc phải đúng với khuôn mẫu hiển nhiên: Người phụ nữ thông minh nhưng không duyên dáng sẽ ngay lập tức si mê một kẻ phản bội giỏi giang, kẻ sẽ quyến rũ cô ta trong chốc lát rồi biến mất khỏi đời cô. Trong ngày hôm đó, Bishop nghĩ về người vợ Jennie đến năm mươi lần và cảm thấy thật hạnh phúc vì có một cuộc hôn nhân viên mãn.

    Các báo cáo được gửi đến tới tấp, nhưng không hề có manh mối nào. Không ai ở những tòa nhà gần CCU nhìn thấy Gillette trốn thoát. Không có chiếc xe nào mất tích khỏi bãi đỗ xe nhưng văn phòng này ở ngay cạnh tuyến xe buýt tấp nập nên hắn có thể dễ dàng trốn theo đường đó. Không có chiếc xe cảnh sát nào thông báo nhìn thấy ai đó khớp với mô tả về hắn.

    Không có bằng chứng rõ ràng nào về nơi Gillette có thể đến, Bishop quyết định xem lại lai lịch của tay hacker cố gắng lần theo người cha hoặc anh trai của hắn. Kể cả bạn bè và những đồng nghiệp cũ. Bishop tìm kiếm bản sao tài liệu của nhà tù và tòa án về Gillette trên bàn của Andy Anderson nhưng không thấy. Khi Bishop yêu cầu một lệnh tìm kiếm khẩn cấp để tìm ra những bản sao tài liệu đó từ Trung tâm dữ liệu thì ông nhận ra rằng chúng đã biến mất.

    "Ai đó đã gửi một tin nhắn yêu cầu hủy chúng phải không?" Bishop hỏi người trực đêm.

    "Quả đúng là như vậy. Làm sao mà ông biết được?"

    "Đoán bừa thôi." Viên thám tử gác máy.

    Khi đó, một suy nghĩ nảy ra trong đầu ông. Bishop nhớ ra hắn từng vào Trại cải tạo dành cho vị thành niên.

    Thế là Bishop gọi cho một người bạn ở Văn phòng Tòa án địa phương. Sau một hồi kiểm tra, ông ấy cho biết họ có một tài liệu về vụ bắt giữ và kết án Wyatt Gillette khi hắn mười bảy tuổi. Họ sẽ gửi bản sao sớm nhất có thể.

    "Hắn quên hủy những thứ đó," Bishop nói với Nolan. "Ít nhất chúng ta có một đầu mối."

    Bỗng nhiên Tony Mott liếc nhìn một màn hình máy tính và nhảy lên hét, "Nhìn kìa!"

    Anh ta chạy vội ra chỗ màn hình và bắt đầu bổ liên tục xuống bàn phím.

    "Cái gì thế?" Bishop hỏi.

    "Một chương trình quản gia vừa bắt đầu hủy chỗ trống trên ổ cứng," Mott nói như nghẹn thở, tay vẫn không ngừng đánh máy. Anh nhấn ENTER rồi ngước lên. "Đó, nó dừng lại rồi."

    Bishop nhận thấy vẻ hốt hoảng trên mặt anh ta nhưng không hiểu chuyện gì đang diễn ra.

    Linda Sanchez giải thích, "Hầu như tất cả dữ liệu trong một chiếc máy tính - thậm chí cả những gì đã biến mất hoặc bị xóa khi tắt máy - vẫn tồn tại trong những khoảng trống của ổ cứng. Anh không thể xem chúng như các file nhưng rất dễ để phục hồi chúng. Nhờ thế mà chúng tôi tóm được nhiều tội phạm, những kẻ tưởng rằng mình đã xóa sạch bằng chứng phạm tội. Cách duy nhất để hủy hoàn toàn thông tin đó là chạy một chương trình 'xóa đi' khoảng trống đó. Nó giống như một cái máy hủy giấy ảo. Trước khi trốn đi hẳn Wyatt đã lập trình cho nó chạy."

    "Thế nghĩa là," Tony Mott nói, "Gillette không muốn chúng ta nhìn thấy hắn đã làm gì."

    Linda Sanchez nói, "Tôi có một chương trình tìm ra được bất cứ thứ gì hắn đã xem."

    Cô lật giở hộp chứa đĩa mềm và đưa một chiếc vào máy tính. Những ngón tay mập mạp của cô nhảy múa khắp bàn phím và lát sau, những ký hiệu khó hiểu hiện lên khắp màn hình. Bishop chẳng tài nào hiểu nổi chúng. Dù vậy ông nhận ra rằng đây hẳn là một chiến thắng của họ khi thấy Sanchez khẽ mỉm cười và ra hiệu cho các đồng nghiệp lại gần màn hình.

    "Cái này thú vị đây," Mott nói.

    Stephen gật đầu và bắt đầu ghi chép.

    "Gì vậy?" Bishop hỏi.

    Nhưng Miller không đáp lại vì còn mải mê ghi chép.

    --------------------------------
    1 Một dạng tiểu thuyết khoa học giả tưởng về tương lai.

  10. #19
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Chương 19
    Phate ngồi trong phòng ăn ở ngôi nhà của hắn tại Los Altos, nghe vở Cái chết của Người bán hàng từ chiếc máy nghe CD cá nhân.

    Dù đang chúi đầu vào chiếc laptop, hắn vẫn không tập trung nổi. Hắn đã hoàn toàn rúng động vì cuộc thoát hiểm như gang tấc từ Học viện Thánh Francis. Hắn nhớ lại khi đó mình đang đứng, hai tay kẹp chặt quanh người cậu nhóc Jamie Turner đang run rẩy - cả hai cùng chứng kiến cảnh Booty tội nghiệp giãy giụa vật lộn với cái chết, và nói với thằng bé hãy tránh xa khỏi máy tính mãi mãi. Nhưng bài độc thoại thuyết phục của hắn bất ngờ bị cắt ngang vì tin nhắn khẩn cấp của Shawn, cảnh báo rằng cảnh sát đang trên đường đến ngôi trường.

    Phate nhanh chóng chuồn khỏi ngôi trường vừa kịp lúc những chiếc xe cảnh sát lao đến từ ba hướng khác nhau.

    Làm thế quái nào mà họ biết được?

    Chà, hắn thực sự bị làm cho run rẩy, nhưng - là một cao thủ MUD game, một nhà chiến lược cao siêu, Phate biết rằng chỉ có một điều duy nhất phải làm khi kẻ thù đang tiến gần tới chiến thắng.

    Tiếp tục tấn công.

    Hắn cần một nạn nhân mới. Hắn rê chuột khắp các danh mục trong máy và mở một folder có tên Tuần Univac, trong đó chứa thông tin về Lara Gibson, Học viện Thánh Francis và những nạn nhân tiềm năng khác ở Thung lũng Silicon. Hắn bắt đầu đọc lướt qua nhũng bài báo trên các trang mạng địa phương, câu chuyện về những ngôi sao nhạc rap điên khùng đi khắp nơi với vệ sỹ có vũ trang, những chính trị gia ủng hộ các vụ việc ít được biết đến và những bác sỹ chuyên phá thai sống trong những pháo đài thực thụ.

    Nhưng chọn ai đây? Hắn băn khoăn. Nhân vật nào khó nhằn hơn Boethe và Lara Gibson?

    Đúng lúc đó, mắt Phate bắt gặp một bài báo mà Shawn đã gửi cho hắn khoảng một tháng trước. Nói về một gia đình sống ở khu thượng lưu của Palo Alto.

    AN NINH NGHIÊM NGẶT TRONG MỘT THẾ GIỚI CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI

    Donald W. đã từng rơi vào tình huống hiểm nguy. Và ông không hề thích điều đó.

    Dottald, 47 tuổi, người đã đồng ý cuộc phỏng vấn với điều kiện chúng tôi không tiết lộ họ của ông, là lãnh đạo cấp cao của một công ty có vốn đầu tư mạo hiểm thành công nhất Thung lũng Silicon. Trong khi người khác có thể khoe khoang về thành quả này; Donald vẫn cố gắng hết sức đế duy trì sự thành đạt, và tất cả những thông tin khác về cuộc sống của ông đều được giữ bí mật hoàn toàn.

    Có một lý do rất chính đáng cho việc này: Sáu năm trước, khi đang ở Argentina để hoàn tất thương thảo với những nhà đần tư, ông bị chĩa súng bắt cóc và giam giữ trong hai tuần. Công ty ông đã phải trả một khoản tiền chuộc không được tiết lộ để đổi lấy sự tự do cho ông.

    Cuối cùng cảnh sát Buenos Aires tìm thấy ông trong tình trạng an toàn, nhưng Donald nói kể từ đó ông không còn như trước.

    "Bạn nhìn thấy thần chết ngay trước mặt và bạn nghĩ, ta đã coi quá nhiều thứ là nghiễm nhiên. Chúng ta tưởng mình đang sống trong một thế giới văn minh, nhưng hoàn toàn không phải thế."

    Donnld là một trong số những lãnh đạo giàu có ở Thung lũng Silicon bắt đầu coi trọng vấn đề an ninh.

    Ông và vợ thậm chí còn lựa chọn một trường tư thục cho cô con gái duy nhất, Samantha, tám tuổi, dựa trên cơ sở vật chất an ninh nghiêm ngặt của ngôi trường.

    Hoàn hảo, Phate nghĩ và bắt đầu lên mạng.

    Tất nhiên sự khuyết danh của những nhân vật này chỉ là một bất tiện nhỏ và sau mười phút, hắn đã hack vào hệ thống máy tính biên tập của tòa báo và xem lướt qua toàn bộ ghi chép của tay phóng viên đã viết bài. Rất nhanh chóng, hắn đã có trong tay mọi chi tiết cần thiết về Donald Wingate, ở số 32983 đường Hesperia, Palo Alto, kết hôn với Joyce, bốn mươi hai tuổi, họ thời con gái là Shearer, họ là cha mẹ của một học sinh lớp ba ở trường Junipero Serra, 2346 Rio Del Vista, cũng ở Palo Alto. Hắn cũng tìm hiểu về em trai của Wingate, Irving cùng vợ của gã, Kathy, và hai lính bảo vệ mà Wingate thuê.

    Một số cao thủ của game MUD cho rằng đánh vào cùng kiểu mục tiêu - trong trường hợp này là một ngôi trường tư - hai lần liên tiếp, là một chiến thuật dở tệ. Phate, ngược lại, nghĩ rằng như thế mới là nước cờ hoàn hảo mà tụi cớm không thể ngờ đến.

    Hắn lại chầm chậm rê chuột qua các file.

    Bạn muốn trở thành ai?

    ° ° °

    Patricia Nolan nói, "Ông sẽ không làm hại anh ấy chứ? Anh ấy có vẻ không phải là người nguy hiểm. Ông cũng biết điều đó."

    Prank Bishop gắt lên rằng họ sẽ không bắn Gillette từ phía sau lưng, nhưng ngoài việc đó ra, chẳng thể đảm bảo điều gì. Cách đáp lại của ông không mấy lịch sự nhưng lúc này đây, mục tiêu của ông là tìm ra kẻ đào tẩu, chứ không phải là xoa dịu cô nàng cố vấn đang phải lòng hắn.

    Điện thoại bàn của CCU reo.

    Tony Mott nhấc máy, lắng nghe, rồi gật mạnh đầu, mắt hơi mở to hơn. Bishop cau mày, băn khoăn không biết ai ở đầu dây bên kia. Bằng một giọng kính cẩn, Mott nói, "Xin chờ một phút." Tay cảnh sát trẻ đưa ống nghe cho viên thám tử như thể nó là một trái bom.

    "Là của ông," tay cảnh sát ngập ngừng thì thầm.

    "Xin lỗi."

    Xin lỗi? Bishop nhướng một bên lông mày.

    "Từ Washington, Frank. Lầu Năm Góc."

    Lầu Năm Góc. Đã quá một giờ sáng theo giờ bờ đông rồi.

    Rắc rối rồi đây...

    Ông cầm ống nghe. "A lô?"

    "Thanh tra Bishop?"

    "Vâng."

    "Tôi là David Chambers. Tôi điều hành Ban điều tra tội phạm Bộ Quốc phòng."

    Bishop chuyển tai nghe điện thoại, như thể tin tức ông sắp nghe sẽ gây ít tổn thương hơn nếu được tiếp nhận bằng tai trái.

    "Tôi đã nghe từ nhiều nguồn là lệnh thả một tù nhân đã được thông qua ở quận bắc California. Và có vẻ như lệnh đó có liên quan đến một cá nhân mà chúng tôi quan tâm." Chamber nhanh chóng nói tiếp, "Đừng đề cập đến tên của người đó qua điện thoại."

    "Đúng vậy," Bishop trả lời.

    "Hắn ta đang ở đâu?"

    "Dưới sự canh giữ của tôi," Bishop nói.

    "Anh là nhân viên thuộc Sở cảnh sát bang California, đúng vậy không?"

    "Thưa đúng."

    "Làm thế quái nào mà anh khiến một tù nhân liên bang được thả vậy? Và quan trọng hơn, thế quái nào mà anh lại thả hắn ra dưới một danh tính không xác định? Thậm chí giám thị trại giam ở San Jose không hề biết gì cả... hoặc ít nhất là anh ta nói như vậy."

    "Ngài Bộ trưởng Tư pháp và tôi là bạn bè. Chúng tôi đã khép lại vụ giết người hàng loạt Gonzalez vài năm trước và cùng hợp tác kể từ đó."

    "Đây là một vụ giết người mà anh đang điều tra?"

    "Thưa vâng. Một tên hacker đột nhập vào máy tính của mọi người và sử dụng thông tin trong đó để tiếp cận những nạn nhân của hắn."

    Bishop nhìn khuôn mặt căng thẳng của Shelton và đưa ngón tay ngang qua cổ họng của mình. Shelton trợn mắt lên.

    Xin lỗi...

    "Anh biết tại sao chúng tôi quan tâm đến cậu ta, đúng không?" Chambers hỏi.

    "Đại loại là cậu ta đã viết phần mềm để bẻ khóa phần mềm của các ngài." Cố gắng tỏ ra chung chung hết mức. Ông đoán rằng ở Washington, thường có hai cuộc đối thoại xảy ra cùng lúc: Một là những gì bạn ẩn ý và hai là những gì bạn nói ra.

    "Việc đó, nếu anh ta quả thật làm thế, là vi phạm pháp luật và nếu một bản sao của cái phần mềm mà người này viết bị rò rỉ ra ngoài phạm vi quốc gia, thì đó là hành vi phản quốc."

    "Tôi hiểu điều đó." Bishop lấp liếm sự im lặng bằng cách nói tiếp. "Và ông muốn cậu ta quay lại nhà tù, phải vậy không?"

    "Đúng vậy."

    "Lệnh thả của chúng tôi kéo dài ba ngày," Bishop nói một cách cứng rắn.

    Đầu dây bên kia bật cười. "Chỉ một cuộc điện thoại của tôi là cái lệnh đó thành giấy vệ sinh ngay."

    "Tôi đoán ngài có thể làm thế, thưa ngài."

    Một khoảng im lặng.

    Rồi Chambers hỏi, "Tên anh là Frank?"

    "Thưa vâng."

    "OK, Frank. Nói chuyện với tư cách là hai cảnh sát: Cá nhân này có giúp ích gì cho vụ án không?"

    Một chút gì đó chợt lóe lên...

    Bishop đáp, "Rất cần. Thủ phạm là một cao thủ máy tính. Chúng tôi không là gì với hắn nếu không có ai đó như người mà chúng ta đang nói đến."

    Một sự im lặng nữa. Chambers nói, "Tôi nói thế này - cá nhân tôi không nghĩ rằng cậu ta là hiện thân của quỷ dữ như những gì người ta nói ở đây. Không hề có bằng chứng thuyết phục nào là cậu ta đã đột nhập vào hệ thống của chúng tôi. Nhưng có rất nhiều người ở Washington nghĩ rằng cậu ta đã làm việc đó và nó trở thành một cuộc truy lùng ở đây. Nếu quả thật cậu ta có hành động phạm luật thì cậu ta sẽ phải vào tù. Nhưng tôi ở phe cho rằng cậu ta vẫn vô tội cho đến khi được chứng minh điều ngược lại."

    "Thưa vâng," Bishop nói, rồi tế nhị bổ sung thêm, "Tất nhiên là ông có thể nhìn theo khía cạnh là nếu tên nhóc nào đó có thể bẻ khóa chương trình đó thì có lẽ ông sẽ muốn viết một chương trình tốt hơn."

    Viên thám tử nghĩ: OK, giờ thì bình luận này có thể khiến mình bị đuổi việc rồi.

    Nhưng Chambers bật cười. Ông ta nói, "Tôi không chắc Standard 12 được như những gì đã quảng cáo. Nhưng có rất nhiều người liên quan đến chương trình mã hóa ở đây không muốn nghe điều đó. Họ không muốn xuất hiện và họ sẽ rất ghét nếu phải xuất hiện trên phương tiện thông tin đại chúng. Mà, có một thứ trưởng, ngài Peter Kenyon, sẽ tìm mọi cách để bưng bít nếu biết được cá nhân không nêu tên của chúng ta đang ở ngoài nhà tù và có khả năng xuất hiện trên truyền thông. Nghe này, Kenyon chính là người phụ trách nhiệm vụ của chương trình mã hóa mới đó."

    "Tôi cũng đang thắc mắc."

    "Kenyon không biết cậu ta đang ở bên ngoài nhưng ông ta đã nghe thấy những lời đồn thổi, và nếu ông ta phát hiện ra thì sẽ rất tệ cho tôi và nhiều người khác đấy." Ông để Bishop suy ngẫm về những rắc rối chính trị này một lát. Rồi Chambers nói tiếp, "Tôi từng là một cảnh sát trước khi dấn thân vào chính trường."

    "Ngài đã làm việc ở đâu?"

    "Tôi từng là một cảnh sát quân sự trong Hải quân. Hầu hết thời gian tôi ở San Diego."

    "Ông đã tháo gỡ một vài trận chiến?" Bishop hỏi.

    "Chỉ khi nào phía quân đội đang thắng thế. Nghe này, Frank, nếu cậu đó đang giúp các anh tóm tên tội phạm thì ok, cứ tiến hành đi. Anh có thể giữ cậu ta đến khi nào lệnh thả hết hạn."

    "Cảm ơn ngài."

    "Nhưng tôi không cần phải nhắc là chính anh sẽ bị treo cổ đến chết nếu cậu ta hack vào website của ai đó. Hoặc nếu cậu ta biến mất."

    "Tôi hiểu, thưa ngài."

    "Nhớ cập nhật cho tôi, Frank."

    Điện thoại tắt.

    Bishop gác máy, lắc đầu.

    Xin lỗi...

    "Có chuyện gì thế?" Shelton hỏi.

    Nhưng lời giải thích của viên thám tử bị cắt ngang khi họ nghe thấy một tiếng la thắng lợi từ Miller. "Tóm được hắn rồi!" Anh ta phấn khích hô lên.

    Linda Sanchez gật gật mái đầu mệt mỏi. "Chúng tôi đã lấy lại được danh sách những website mà Gillette vào ngay trước khi hắn ta bỏ trốn."

    Cô đưa cho Bishop một số bản in. Chúng chứa rất nhiều câu chữ vô nghĩa, ký hiệu máy tính cùng những đoạn dữ liệu và văn bản hoàn toàn khó hiểu với ông. Nhưng giữa đống hỗn độn đó là một số hiệu chuyến bay và thông tin về những chuyến bay tối hôm đó từ sân bay quốc tế San Francisco đến những nước khác. Miller đưa cho ông một tờ giấy khác. "Hắn ta cũng tải cái này về - lịch trình xe buýt từ Santa Clara đến sân bay." Viên thám tử dáng người quả lê mỉm cười sung sướng - có lẽ vì đã được cứu vớt khỏi sự sơ suất trước đó.

    "Nhưng làm sao hắn thanh toán được tiền vé?" Shelton nói to thắc mắc của mình.

    "Tiền à? Ông đang đùa à?" Tony Mott bật cười hỏi. "Có thể bây giờ hắn ta đang ở một cây ATM và khoắng sạch tài khoản của ông."

    Bishop nghĩ gì đó. Rồi ông đến chỗ điện thoại và nhấc máy lên nhấn nút REDIAL - QUAY LẠI SỐ. Viên thám từ nói chuyện một lúc với ai đó ở đầu dây bên kia. Sau đó ông gác máy. Bishop thông báo cuộc nói chuyện với cả đội, "Số cuối cùng Gillette gọi là một cửa hàng Goodwill cách đây vài dặm ở Santa Clara. Họ đã đóng cửa nhưng người bán hàng vẫn ở đó. Họ nói ai đó có nhân dạng trùng với mô tả về Gillette đã vào cửa hàng hai mươi phút trước. Hắn đã mua một áo choàng màu đen, một quần bò màu trắng, một mũ lưỡi trai Okaland A và một túi thể thao. Ông ta nhớ được hắn vì hắn liên tục nhìn xung quanh và có vẻ rất lo lắng. Gillette cũng hỏi người bán hàng trạm xe buýt gần nhất ở đâu. Có một trạm gần cửa hàng và xe buýt ra sân bay có đỗ ở đó."

    Mott nói, "Chuyến xe buýt đó mất bốn mươi lăm phút để đến sân bay." Anh kiểm tra khẩu súng và định đứng dậy.

    "Không, Mott," Bishop nói. "Chúng tôi có kinh nghiệm với việc này."

    "Thôi mà," anh chàng trẻ tuổi van nài. "Trông tôi khỏe hơn chín mươi phần trăm lực lượng cảnh sát. Tôi đạp xe cả trăm dặm một tuần và tham gia hai cuộc thi chạy ma-ra-tông mỗi năm."

    Bishop nói, "Chúng tôi không cần cậu chạy đuổi theo Gillette. Cậu ở lại đây. Hoặc tốt hơn là về nhà và nghỉ ngơi một chút. Cả cô nữa, Linda. Dù chuyện của Gillette như thế nào chúng tôi vẫn phải làm thêm giờ để tìm kẻ sát nhân."

    Mott lắc đầu, hoàn toàn không vui vẻ gì với mệnh lệnh của viên thám tử. Nhưng anh ta vẫn phải chấp hành.

    Bob Shelton nói, "Chúng ta có thể đến sân bay sau hai mươi phút. Tôi sẽ gửi mô tả của hắn cho cảnh sát sân bay. Họ sẽ bao vây tất cả các trạm xe buýt. Nhưng tôi nói với cậu này - tôi sẽ đích thân đến ga đón khách quốc tế. Tôi rất nóng lòng được nhìn ánh mắt của hắn khi tôi nói lời chào." Viên thám tử mập mạp nở nụ cười đầu tiên mà đã nhiều ngày nay Bishop mới thấy.


  11. #20
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 20
    Wyatt Gillette bước ra khỏi xe buýt và nhìn nó lăn bánh khỏi trạm. Hắn ngước nhìn bầu trời đêm. Những áng mây đen vần vũ trên đầu và những giọt mưa lạnh lắc rắc rơi xuống đất. Hơi ẩm làm khuyếch tán mùi hương của Thung lũng Silicon: Mùi khói xe và xạ hương từ những cây khuynh diệp.

    Chiếc xe buýt đó không hề hướng thẳng đến sân bay mà đi vòng quanh hạt Santa Clara rồi thả hắn xuống một con đường tối tăm, vắng vẻ ở khu ngoại ô dễ chịu của Simnyvale. Hắn đang an toàn cách sân bay San Francisco mười dặm, nơi Bishop, Shelton và rất nhiều cảnh sát có lẽ đang điên cuồng lùng tìm một cổ động viên đội Oakland A mặc quần bò trắng và áo mưa đen.

    Ngay khi rời cửa hiệu Goodwill, hắn đã vứt bộ đồ đó và ăn cắp bộ đồ mà hắn đang mặc - áo khoác bò và quần bò xanh từ thùng quyên góp đồ trước cửa hiệu. Chiếc túi xách là vật duy nhất hắn vẫn mang theo.

    Mở ô ra và bắt đầu đi dọc con phố hiu hắt ánh đèn, Gillette hít thở thật sâu để làm dịu đi sự căng thẳng của mình. Hắn không sợ bị bắt lại - hắn đã ngụy trang ổn thỏa cuộc trốn chạy của mình ở CCU, đăng nhập vào một website hàng không, tìm kiếm thông tin chuyến bay quốc tế rồi chạy chương trình EmptyShred - để thu hút sự chú ý của đội và lôi kéo họ vào những manh mối giả về việc trốn chạy khỏi đất nước mà hắn đã dựng lên.

    Không, Gillette thật ra đang lo sốt vó về nơi mà hắn sắp đến.

    Giờ đã quá 10:30 và rất nhiều ngôi nhà trong thị trấn náo nhiệt này đã tắt đèn, những người chủ nhà đã say giấc, ngày mới bắt đầu rất sớm ở Thung lũng Silicon.

    Hắn đi về hướng bắc, xa rồi El Camino Real, và chẳng mấy chốc, âm thanh của phố xá trên con phố buôn bán bận rộn đó dần mất hút.

    Mười phút sau, hắn nhìn thấy ngôi nhà đó và bước chậm lại.

    Không, hắn tự nhắc nhở bản thân. Cứ bước đi... Đừng hành động gì khiến người ta nghi ngờ. Hắn lại bắt đầu rảo bước, mắt dán xuống vỉa hè, tránh ánh mắt của vài người trên phố: Một người phụ nữ đội chiếc mũ nhựa đi mưa ngớ ngẩn, đang dẫn chó đi dạo. Hai người đàn ông đang lúi húi quanh một chiếc xe nắp cốp mở tung. Một người giữ ô và đèn pin, trong khi người còn lại hì hục với chiếc cờ lê.

    Tuy vậy, khi hắn càng lúc càng tiền gần căn nhà - một ngôi nhà gỗ California kiểu cổ, Gillette thấy những bước chân của hắn chậm dần, cho đến khi chỉ còn cách ngôi nhà khoảng sáu mét, hắn dừng hẳn lại. Chiếc bảng mạch chỉ nặng vài chục gram trong cái túi bằng vải dù bỗng trở nên nặng như chì.

    Cứ bước tiếp thôi, hắn tự nhủ. Mày phải làm thế. Tiếp tục nào.

    Hít một hơi thật sâu. Hắn nhắm mắt lại, hạ thấp chiếc ô và ngửa mặt nhìn lên. Hắn để cơn mưa rơi trên mặt mình.

    Băn khoăn không biết những gì hắn sắp làm là sáng suốt hay hoàn toàn xuẩn ngốc. Hắn đang mạo hiểm điều gì?

    Mọi thứ, hắn nghĩ.

    Rồi hắn quyết định rằng việc đó cũng chẳng hề gì. Hắn không có quyền lựa chọn.

    Gillette lại bước tiếp về phía trước, hướng về phía ngôi nhà.

    Chưa đầy ba giây sau, họ tóm được hắn.

    Người dẫn chó bất ngờ quay lại và chạy thật nhanh về phía hắn, con chó - giống chăn cừu Đức - sủa dữ dội. Trong tay cầm một khẩu súng, cô ta hét lên, "Đứng yên, Gillette! Đứng yên!"

    Hai người đàn ông tưởng như đang sửa xe cũng rút vũ khí ra và chạy về phía hắn, đèn pin sáng lóa soi vào mắt hắn.

    Bàng hoàng, Gillette đánh rơi cái ô và chiếc túi. Hắn giơ hai tay lên và từ từ quay lưng lại. Hắn cảm thấy bàn tay ai đó nắm chặt vai mình và quay lại nhìn. Frank Bishop đã đến ngay đằng sau hắn. Bob Shelton cũng có mặt, chĩa nòng súng lớn đen bóng vào ngực hắn.

    "Làm thế nào các ông...," Gillette cất lời.

    Nhưng Shelton đã bất ngờ tung một cú đấm thẳng vào hàm Gillette. Đầu hắn bật ra phía sau, và choáng váng, hắn ngã phịch xuống đất.

    Frank Bishop đưa cho hắn một tờ khăn giấy Kleenex, hất đầu về phía xương hàm của hắn.

    "Cậu còn bỏ sót một ít ở đó. Không, sang bên phải."

    Gillette lau sạch chỗ máu.

    Cú đấm của Shelton không quá mạnh nhưng những khớp tay của ông ta đã cắt vào da hắn và nước mưa xối không ngừng vào nó, khiến vết thương vô cùng xót.

    Ngoại trừ việc đưa khăn giấy, Bishop không phản ứng gì trước đòn đánh của đồng nghiệp. Ông cúi xuống, mở chiếc túi bằng vải dù. Ông lấy chiếc bảng mạch ra và lật nó qua lại trong lòng bàn tay.

    "Cái gì thế, một quả bom à?" Bishop hỏi bằng một thái độ hời hợt cho thấy ông không nghĩ đó là chất nổ.

    "Chỉ là một thứ tôi tự chế thôi," Gillette lẩm bẩm, lấy tay quẹt mũi. "Mong rằng ông không làm nó bị ẩm."

    Bishop đứng lên, cho nó vào túi. Shelton, khuôn mặt đỏ bừng giận dữ và ướt đẫm nước mưa, nhìn chằm chăm vào hắn. Gillette hơi căng thẳng, không biết liệu viên cảnh sát này có tiếp tục mất kiểm soát và đánh hắn.

    "Làm thế nào?" Gillette lại hỏi.

    Bishop nói, "Chúng tôi đang trên đường đến sân bay nhưng rồi tôi bắt đầu nghĩ. Nếu cậu thực sự vào mạng để tìm thông tin về nơi cậu sẽ đến, cậu chỉ cần hủy ổ cứng và lẽ ra cậu đã làm thế ngay khi bỏ đi. Không đời nào hẹn giờ để chương trình ấy chạy sau đó. Mục đích của nó chỉ là thu hút sự chú ý của chúng tôi đến suy đoán là cậu sẽ tới sân bay. Như cậu đã lên kế hoạch, đúng không?"

    Gillette gật đầu.

    Viên thám tử nói tiếp, "Và cái quái gì khiến cậu vờ như sẽ đi Châu Âu? Cậu sẽ bị chặn lại ở hải quan."

    "Tôi không có nhiều thời gian lên kế hoạch," Gillette lẩm bẩm.

    Viên thám tử nhìn về phía con phố. "Cậu biết lý do chúng tôi tìm ra cậu sẽ đến đây, đúng không?"

    Tất nhiên là hắn biết. Họ đã gọi cho công ty điện thoại và biết số được gọi từ điện thoại trong phòng thí nghiệm trước số máy của cửa hàng Goodwill. Sau đó Bishop có địa chỉ của địa điểm đó - ngôi nhà trước mặt họ - và họ khoanh vùng mọi lối tiếp cận.

    Nếu như cách Bishop xử lý cuộc đào tẩu là phần mềm, tay hacker trong lòng Gillette phải gọi nó là một moby kludge 1.

    Hắn nói, "Lẽ ra tôi nên đột nhập tổng đài ở Pac Bell và thay đổi dữ liệu nhật ký các cuộc gọi trong vùng. Tôi sẽ làm thế nếu có thêm thời gian."

    Sự choáng váng vì cuộc bắt giữ nguôi dần và được thay thế bằng nỗi tuyệt vọng - khi hắn nhìn hình dáng sản phẩm điện tử của mình lấp ló trong túi áo mưa của Bishop. Gillette đã đến rất gần mục tiêu luôn ám ảnh hắn trong nhiều tháng qua. Hắn nhìn ngôi nhà mà mình tìm đến. Ánh sáng trong đó tỏa ra ấm áp.

    Shelton nói, "Mày là Shawn, phải vậy không?"

    "Không, không phải. Tôi không biết Shawn là ai."

    "Nhưng mày là Valleyman, đúng không?"

    "Phải. Và tôi từng là thành viên của Knights of Access."

    "Mày biết Holloway?"

    "Phải, tôi có biết hắn ta."

    "Lạy Chúa," viên thám tử mập mạp nói tiếp, "tất nhiên mày phải là Shawn. Lũ khốn chúng mày luôn có cả tá ID khác nhau. Mày chính là hắn và đang trên đường đến gặp Phate." Ông ta túm cổ chiếc áo khoác rẻ tiền Gillette thó ở Goodwill.

    Lần này, Bishop buộc phải can thiệp, ông đặt tay lên vai Shelton. Viên thám tử to béo thả tay hacker ra nhưng tiếp tục nói bằng giọng gầm gừ, đe dọa, ra hiệu về phía ngôi nhà trên con phố, "Phate đang dùng nhân dạng của Donald Papandolos. Hắn chính là kẻ mày đã gọi - và hôm nay mày đã gọi cho hắn vài lần từ CCU. Để mách lẻo với hắn về chúng tao. Chúng tao đã nhìn thấy nhật ký cuộc gọi."

    Gillette lắc đầu, "Không. Tôi..."

    Shelton vẫn tiếp tục, "Lính đặc nhiệm đã bao vây chỗ này. Và mày sẽ giúp chúng tao lôi hắn ra."

    "Tôi không biết Phate ở đâu. Nhưng tôi đảm bảo với ông là hắn không ở trong đó."

    "Vậy thì là ai?" Bishop hỏi.

    "Vợ tôi. Đó là nhà của bố cô ấy."

    --------------------------------
    1 Một phần mềm dùng để ứng phó, xử lý tình huống nhanh nhạy.


Trang 2 / 5 ĐầuĐầu 1234 ... Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-18-2019, 02:09 PM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-22-2019, 12:11 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 07-27-2017, 12:44 AM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-09-2016, 02:52 PM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-16-2015, 01:45 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •