Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Kẻ nào không chịu đựng được đau khổ trong tình yêu thì không xứng đáng để hưởng hạnh phúc của tình yêu.
V.Ạ Sukhomlinski
Trang 3 / 5 ĐầuĐầu 12345 Cuối Cuối
Results 21 to 30 of 47

Chủ Đề: Sát Nhân Mạng

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Sát Nhân Mạng

    Sát Nhân Mạng

    Tác giả :Jeffery Deaver

    Người dịch: Nguyễn Việt Dũng


    Khi nói bộ não con người cũng là một cỗ máy, tôi không có ý xúc phạm tới trí tuệ con người, mà chỉ thừa nhận tiềm năng của một chiếc máy. Tôi không tin rằng bộ não con người lại kém cỏi hơn những gì chúng ta tưởng tượng về nó, mà là một chiếc máy có thể ấn chứa những điều vượt xa trí tưởng tượng của chúng ta.

    - w. Daniel Haiis - Hoa văn trên đá




    CHÚ GIẢI

    Bot (bắt nguồn từ Robot): Chương trình phần mềm tự vận hành, hỗ trợ người dùng (users) hoặc các chương trình khác. Đồng thời cũng được coi như một điệp viên.

    Bug: Một lỗi phần mềm chặn hoặc can thiệp vào hoạt động của chương trình.

    CCU: Đơn vị điều tra tội phạm máy tính máy tính của Sở cảnh sát bang California.

    Chip - jock: Một người hoạt động trong ngành công nghiệp máy tính, chuyên sâu vào phát triển hoặc buôn bán phần cứng.

    Civilians: Những người bình thường không làm việc trong ngành công nghiệp máy tính.

    Code: Phần mềm.

    Code cruncher: Một lập trình viên không có tính sáng tạo, thực hiện những việc lập trình đơn giản bình thường.

    Codeslinger: Một lập trình viên tài năng, thành tựu của anh ta được xem là có tính tiên phong vượt trội. Được ví như một samurai.

    Crack: Đột nhập bất hợp pháp vào một máy tính, thường là để ăn trộm, phá hủy dữ liệu hoặc ngăn cản những người khác sử dụng hệ thống.

    Demon (hoặc Daemon): Một chương trình hoạt động thầm lặng, thường là ẩn đi, không được kích hoạt theo lệnh của người dùng (user) mà vận hành tự động. Nó thường chạy khi xuất hiện những điều kiện nhất định bên trong chiếc máy hoặc mạng lưới mà nó được cài đặt.

    Firewall: Hệ thống bảo mật máy tính ngăn ngừa những dữ liệu không mong muốn xâm nhập vào chiếc máy tính mà nó có nhiệm vụ bảo vệ.

    Freeware: Phần mềm miễn phí được tạo nên từ những nhà phát triển.

    Guru: Một chuyên gia máy tính thông minh, một bậc Thầy.

    Hack: Nghĩa nguyên bản của từ này ám chỉ việc viết một phần mềm trong thời gian ngắn, với một mục đích hạn chế mặc dù nó đã phát triển lên thành việc nghiên cứu và viết các phần mềm mang tính đột phá. Dần dần, nó được các civilians (người bình thường) sử dụng để ám chỉ việc đột nhập vào một hệ thống máy tính với những mục đích xấu hành động lẽ ra phải được gọi là cracking. Từ này cũng được sử dụng như một danh từ, nghĩa là một sản phẩm thông minh trong lập trình phần mềm.

    ICQ (I Seek You: Tôi tìm bạn): Một subnetwork (mạng con) của Internet, giống IRC nhưng dành cho các cuộc hội thoại riêng tư. Gần giống với việc nhắn tin trực tiếp.

    IRC (Internet Relay Chat): Một subnetwork (mạng con) phổ biến của Internet, nơi một lượng lớn người tham gia có thể trò chuyện theo thời gian thực trong các phòng chat trực tuyến (Online chat rooms) dành cho các sở thích, thú vui riêng.

    jpg (hay là jpeg - viết tắt của joint photographers experts group - Nhóm các chuyên gia ảnh, jpeg là một kỹ thuật nén ảnh): một định dạng số hóa, nén và lưu trữ những hình ảnh trên máy tính. Hình ảnh dưới định dạng này được nhận biết bằng đuôi.jpg sau tên file (tập tin).

    Kuldge: Một chương trình phần mềm được viết ra trong thời gian ngắn, thường được viết một cách ngẫu hứng, phục vụ cho mục đích nhất định, thường nhắm tới việc xử lý một lỗi phần mềm hay sự gián đoạn trong hoạt động của máy tính.

    Machine: Một chiếc máy tính.

    MUD: (Multiuser domain, multiuser dimension hay là multiuser dungeons): Một subnetwork (mạng con) giống với IRC, trong đó người tham gia chơi những trò chơi theo thời gian thực hoặc tiến hành những hoạt động giả lập (Mạng chiến thuật thời gian thực).

    MUDhead: Người tham gia vào các MUD.

    Packet: Một dải dữ liệu số hóa. Tất cả các thông tin được truyền qua mạng Internet - email, văn bản, nhạc, hình ảnh, đồ họa, âm thanh - được chia nhỏ thành các gói dữ liệu (packet), sau đó các gói này sẽ được ghép lại thành định dạng phù hợp ở thiết bị của người nhận.

    Packet - Sniffer (Chương trình săn tìm gói tin): Một chương trình được cài đặt lên router, seroer máy tính hoặc lên một máy tính cá nhân để chuyển hướng các gói dữ liệu (packet) sang một máy tính thứ ba, thường để đọc các tin nhắn hay lấy mật khẩu và các thông tin khác một cách trái phép.

    Phising: Tìm kiếm thông tin về một ai đó trên Internet.

    Phreak: Xâm nhập vào hệ thống điện thoại chủ yếu với mục đích tạo các cuộc gọi miễn phí, nghe trộm hoặc cắt dịch vụ. Từ này cũng được dùng để miêu tả những người tham gia vào hoạt động này.

    Root: Thư mục gốc. Trong hệ điều hành Unix, từ này ám chỉ sysadmin (quản trị hệ thống) hay một cá nhân khác chịu trách nhiệm với một máy tính hay một mạng lưới. Nó cũng được dùng để miêu tả sự kiểm soát, như trong từ "seizing roof - có nghĩa là đoạt quyền kiểm soát hoạt động của một máy tính hay một mạng lưới.

    Router: Thiết bị định tuyến. Một máy tính điều hướng các gói dữ liệu - packets qua mạng Internet tới điểm đến định trước.

    Script: Phần mềm.

    Server: Máy chủ. Một máy tính nhanh và lớn trên một mạng lưới - ví dụ như mạng Internet - nơi lưu trữ dữ liệu, các Websites và các files, mà người dùng - User có thể tiếp cận.

    Shareware: Phần mềm được các nhà phát triển đưa ra với mức phí rất thấp hoặc chỉ được sử dụng hạn chế.

    Source Code: Định dạng để một lập trình viên viết phần mềm, sử dụng các chữ cái, con số và các ký hiệu từ một trong số các ngôn ngữ lập trình. Source code - mã nguồn sau đó được chuyển đổi thành phần mềm máy tính có thể chạy thực sự. Source code thường được giữ bí mật và bảo vệ nghiêm ngặt bởi các nhà phát triển hay chủ sở hữu.

    Sysadmin (System administrator): Quản trị hệ thống. Cá nhân chịu trách nhiệm vận hành máy tính và/hoặc một mạng lưới cho một tổ chức.

    Unix: Một hệ điều hành máy tính phức tạp, giống như Windows. Là hệ điều hành mà hầu hết các máy tính trên Internet sử dụng.

    Warez: Phần mềm thương mại bị sao chép bất hợp pháp.

    .wav (waveform): Một định dạng cho việc số hóa và lưu trữ âm thanh trên máy tính. Âm thanh dưới định dạng này được nhận biết bằng đuôi.wav sau tên file.

    Wizard: Một chuyên gia máy tính thông minh lỗi lạc, một bậc thầy (guru), thậm chí còn được gọi là một thầy phù thủy.



    I. PHÙ THỦY MÁY TÍNH
    Hoàn toàn có thể... thực hiện hầu hết mọi tội ác với một chiếc máy tính. Thậm chí ta có thể sử dụng nó để giết người.

    - Một sỹ quan Sở cảnh sát Los Angeles

    Chương 1
    Chiếc xe tải trắng cũ kĩ khiến cô cảm thấy bất an.

    Lara Gibson ngồi bên quầy bar trong nhà hàng Vesta's Grill tại De Anza, Cupertino, California, tay giữ chặt đáy ly Martini lạnh ngắt và phớt lờ hai chuyên viên phần cứng trẻ tuổi đang đứng gần đó liếc mắt ve vãn cô.

    Cô lại hướng mắt ra ngoài lần nữa, nhìn sâu vào màn mưa u ám, và không thấy bất kỳ dấu hiệu nào của chiếc Econoline kín mít không cửa sổ, cô tin chắc rằng nó đã bám theo mình từ căn hộ cách đây vài dặm đến tận nhà hàng này. Lara tụt khỏi chiếc ghế ở quầy bar và bước tới cửa sổ, nhìn ra bên ngoài. Chiếc xe đó không đậu trong bãi đỗ của nhà hàng. Cũng chẳng ở bên kia đường, trong bãi xe của Apple Computer hay bãi bên cạnh, thuộc công ty Sun Microsystems. Không bãi đỗ xe nào trong số này là nơi hợp lý để theo dõi - nếu gã tài xế đó thực sự đang đeo bám cô.

    Không, chiếc xe đó chỉ là một sự trùng hợp mà thôi, cô kết luận, sự trùng hợp bị cường điệu hóa bởi một dạng hoang tưởng.

    Cô trở lại quầy bar và liếc nhìn hai gã trai trẻ, giờ đến lượt họ lờ cô đi và nhếch mép cười.

    Giống như hầu hết các chàng trai trẻ đến đây tìm kiếm niềm vui, họ mặc quần âu, áo sơ mi không cà vạt, và đeo cái phù hiệu đặc trưng nhan nhản ở Thung lũng Silicon, chiếc thẻ nhân viên gắn với quai đeo bằng dây dù lủng lẳng quanh cổ. Hai gã này mang thẻ xanh của Sun Microsystems. Những nhóm khác đến từ Compaq, Hewlett - Packard và Apple, chưa kể vài chú lính mới của các công ty Internet khởi nghiệp mà một số nhân vật khả kính quen thuộc ở Thung lũng đang điều hành với đôi chút khinh khỉnh.

    Ở tuổi ba hai, có khi Lara Gibson lớn hơn hai gã hâm mộ kia đến năm tuổi. Với tư cách là một nữ doanh nhân độc lập, không phải dân lập trình, cũng chẳng liên quan đến công ty máy tính nào, dễ cô nghèo hơn họ đến năm lần. Nhưng điều đó không thành vấn đề với hai gã này, vì họ đã bị hút hồn bởi khuôn mặt xinh đẹp ấn tượng lạ thường ôm trọn trong những lọn tóc đen nhánh, đôi bốt đến cổ chân, chiếc váy màu đỏ cam kiểu gypsy 1 và chiếc áo không tay màu đen tôn lên đường nét bắp tay đẹp hiếm có.

    Cô ước tính rằng hai phút nữa, một trong hai cậu trai này sẽ tiếp cận cô, và cô chỉ tính chệch mười giây.

    Những gì gã trai trẻ nói với cô là 'phiên bản mới' của kịch bản mà cô đã nghe cả tá lần trước đó: Xin lỗi, tôi không có ý làm phiền nhưng cô có muốn tôi bẻ gãy chân bạn trai cô vì đã để người phụ nữ xinh đẹp chờ đợi một mình ở quầy bar và nhân tiện, tôi có thể mời cô một ly trong khi cô quyết định xem chân nào bị bẻ được không?

    Người phụ nữ khác chắc hẳn đã nổi đóa, hoặc lắp bắp, đỏ mặt, cảm thấy bối rối hay lả lơi lại để anh ta mời một ly mà cô ta thậm chí chẳng muốn uống, chỉ vì không biết phải xử lý tình huống này thế nào. Nhưng đó là những người đàn bà yếu đuối hơn cô. Còn Lara Gibson là 'nữ hoàng của sự tự vệ nơi thành thị', danh hiệu mà tờ San Francisco Chronicle đã từng phong tặng cho cô. Cô nhìn thẳng vào mắt anh ta, nở một nụ cười xã giao và nói, "Tôi không quan tâm đến việc kết thân với bất kỳ ai lúc này."

    Chỉ đơn giản như thế. Kết thúc cuộc nói chuyện.

    Anh ta chớp mắt trước sự thẳng thắn này, né tránh ánh mắt kiên nghị của cô và quay lại với bạn của mình.

    Sức mạnh... tất cả nằm ở sức mạnh.

    Cô nhấp một ngụm đồ uống.

    Thực ra, cái xe tải màu trắng chết tiệt đó đã gợi nhắc đến tất cả những nguyên tắc cô từng đặt ra với tư cách người dạy phụ nữ cách tự vệ trong xã hội thời nay. Có vài lần trên đường đến nhà hàng, cô liếc vào gương chiếu hậu và thấy chiếc xe ở phía sau, cách khoảng ba bốn chục feet. Một tên nhóc nào đó cầm lái. Hắn là người da trắng, nhưng tóc được tết thành những lọn dài bù xù màu nâu. Hắn mặc đồ rằn ri và đeo kính đen, bất chấp cơn mưa tối tăm u ám. Tất nhiên đây là Thung lũng Silicon, nơi trú ngụ của những gã hacker và tụi vô công rồi nghề, cũng chẳng có gì bất thường khi dừng ở Starbucks để mua một cốc Venti Latte ít béo và được phục vụ bởi một cậu thiếu niên lịch sự có cả tá khuyên trên người, đầu trọc lóc, ăn vận như một tay găng-tơ trong thành phố. Dường như gã lái xe vẫn đang nhìn cô chằm chằm với vẻ thù địch kỳ quái.

    Lara chợt nhận ra mình đang vuốt ve lọ xịt hơi cay trong túi xách một cách vô thức.

    Liếc ra cửa sổ một lần nữa, cô chỉ thấy những chiếc xe xa xỉ được mua bằng tiền kinh doanh Internet.

    Nhìn quanh phòng. Chỉ có những tay nghiền máy móc vô hại.

    Thư giãn nào, cô tự nhủ và nhấp một ngụm Martini đậm đặc.

    Cô để ý nhìn đồng hồ treo tường. Bảy giờ mười lăm. Sandy đã muộn mười lăm phút rồi. Không giống cô ấy chút nào. Lara rút điện thoại đi động ra nhưng màn hình lại hiển thị: NGOÀI VÙNG PHỦ SÓNG.

    Cô định đi tìm điện thoại công cộng thì ngước lên thấy một người đàn ông trẻ bước vào quầy bar và vẫy tay về phía cô. Cô đã gặp anh ta ở đâu đó nhưng không thể nhớ chính xác. Mái tóc vàng khá dài nhưng được cắt tỉa gọn gàng, chòm râu dê của anh ta ám ảnh trong trí nhớ cô. Anh ta mặc chiếc quần jean trắng và áo sơ mi màu xanh nhàu nhĩ. Điều duy nhất cho thấy anh ta cũng thuộc giới làm ăn ở Mỹ là chiếc cà vạt, cho phù hợp với một doanh nhân của Thung lũng Silicon, mặc dù thiết kế của nó không phải kẻ sọc hay họa tiết hoa Jerry Garcia mà là chú chim hoạt hình Tweety Bird.

    "Chào cô, Lara," anh ta bước tới và bắt tay cô, tựa người vào quầy bar. "Nhớ tôi không? Tôi là Will Randolph. Em họ của Sandy đây? Cheryl và tôi đã gặp cô ở Nantucket, tại lễ cưới của Marry ấy."

    À phải rồi, đó chính là nơi cô đã gặp anh ta. Anh và cô vợ đang mang bầu đã ngồi cùng bàn với Lara và bạn trai cô, Hank. "Chắc chắn rồi. Dạo này anh thế nào?"

    "Tôi ổn. Công việc bận rộn. Nhưng làm gì có ai không đến đây cơ chứ?"

    Tấm thẻ nhựa trên cổ anh ghi dòng chữ Xerox Corporation PARC. Cô thấy rất ấn tượng. Ngay cả những kẻ tay ngang cũng biết về trung tâm nghiên cứu Paolo Alto huyền thoại của Xerox cách đây vài dặm về phía Bắc.

    Will ra hiệu cho phục vụ và gọi một cốc bia nhẹ. "Hank thế nào?" Anh hỏi. "Sandy nói anh ấy đang cố kiếm một công việc ở Wells Fargo."

    "Ồ, phải, anh ấy được nhận rồi. Giờ anh ấy muốn lập nghiệp ở L.A."

    Cốc bia được mang đến và Will nhấp một ngụm. "Chúc mừng."

    Một bóng trắng sượt qua trong bãi đỗ xe.

    Lara lập tức nhìn theo, cảnh giác. Nhưng hóa ra đó là chiếc Ford Explorer với một cặp đôi trẻ ở bên trong.

    Đôi mắt tập trung vào phía sau chiếc xe Ford, quét qua con phố rồi rà soát bãi đỗ xe một lần nữa, Lara nhớ lại rằng trên đường đến đây, cô đã nhìn vào hông chiếc xe tải khi nó vụt qua lúc cô tấp xe vào bãi đỗ nhà hàng. Có một vết bẩn của cái gì đó sẫm màu và đo đỏ trên hông xe, có thể là bùn - nhưng cô nghĩ trông nó gần giống máu.

    "Cô ổn chứ," Will hỏi.

    "À vâng, xin lỗi." Cô quay lại với anh, thấy mừng vì có một đồng minh. Một nguyên tắc tự vệ nữa ở chốn thành thị mà cô đặt ra là: Hai người luôn tốt hơn một. Giờ Lara đã biến tấu một chút bằng cách bổ sung thêm vế sau rằng dù vài người trong số họ chỉ là một gã mọt máy tính gầy gò, không cao hơn mét bảy nhăm và đeo cà vạt hoạt hình.

    Will nói tiếp, "Sandy đã gọi lúc tôi đang trên đường về nhà để hỏi xem tôi có thể ghé qua và báo tin cho cô được không. Cô ấy cố gọi cho cô nhưng ko liên lạc được. Cô ấy sẽ về muộn và liệu có thể hẹn cô ở chỗ cạnh văn phòng mà cô đã ghé qua tháng trước, chỗ Ciro ấy? Ở Mountain View. Cô ấy đã đặt bàn lúc tám giờ."

    "Anh đâu cần phải ghé qua. Cô ấy có thể gọi cho nhân viên quầy bar mà."

    "Cô ấy muốn tôi đưa cho cô những bức ảnh tôi đã chụp ở đám cưới. Hai người có thể xem chúng tối nay và cho tôi biết các cô muốn lấy những tấm nào."

    Will nhận ra một người bạn ở phía bên kia quầy bar và vẫy chào anh ta, có lẽ Thung lũng Silicon trải rộng hàng trăm dặm vuông nhưng nó thực sự vẫn là một thị trấn nhỏ. Anh nói với Lara, "Cheryl và tôi đang định mang những bức ảnh tới chỗ của Sandy ở Santa Barbara cuối tuần này...."

    "Phải, chúng tôi định tới đó vào thứ sáu."

    Will ngừng lại và mỉm cười như thể anh ta có một bí mật vĩ đại cần chia sẻ. Anh rút ví, mở ra bức ảnh chụp anh cùng vợ và một đứa bé nhỏ xíu còn đỏ hỏn, "Tuần trước," anh nói một cách tự hào, "Claire."

    "Ôi, dễ thương quá," Lara xuýt xoa.

    "Thế nên chúng tôi sẽ loanh quanh ở gần nhà một thời gian."

    "Cheryl thế nào rồi?"

    "Cô ấy ổn. Em bé cũng khỏe. Chẳng có điều gì sánh được... Nhưng, tôi sẽ nói với cô rằng việc trở thành một người cha sẽ làm cuộc sống hoàn toàn thay đổi."

    "Tôi tin chắc là như vậy."

    Lara liếc nhìn đồng hồ một lần nữa. Bảy rưỡi. Vào giờ này, phải mất ba mươi phút để lái xe đến Ciro. "Tôi nên đi ngay."

    Rồi, một hồi chuông cảnh giác gióng lên, cô lại nghĩ về chiếc xe tải và gã tài xế.

    Những lọn tóc tết.

    Vệt cáu bẩn trên cánh cửa xe cũ nát...

    Will ra hiệu tính tiền và thanh toán.

    "Anh không phải làm thế đâu," cô nói. "Tôi sẽ thanh toán."

    Anh cười. "Cô đã trả rồi mà."

    "Gì cơ?"

    "Cái quỹ chung mà cô kể với tôi ở đám cưới ấy. Quỹ mà cô mới mua ấy?"

    Lara nhớ lại lần cô khoác lác không biết ngượng về một quỹ công nghệ sinh học năm ngoái đã tăng trưởng tới sáu chục phần trăm.

    "Từ Nantucket về, tôi đã mua cả đống... vì thế... cảm ơn nhé." Anh dốc ngược cốc bia về phía cô rồi đứng dậy. "Cô về chưa?"

    "Chắc chắn rồi." Lara nhìn chằm chằm cánh cửa một cách bất an khi họ bước đến đó.

    Chỉ là một sự hoang tưởng thôi mà, cô tự nhủ. Lara thoáng nghĩ, như cô vẫn thường làm mỗi khi thế này, rằng cô nên kiếm một công việc thật sự, như tất cả những người trong quầy bar này. Cô không nên dấn thân vào thế giới bạo lực.

    Hẳn là thế, chỉ hoang tưởng thôi...

    Nhưng nếu vậy, thì tại sao gã choai choai có những lọn tóc tết ấy lại phóng vọt đi khi cô tấp vào bãi đỗ xe ở đây và nhìn thấy hắn?

    Will bước ra ngoài và bật ô. Anh giơ cao nó lên cho cả hai cùng đi.

    Lara nhớ lại một nguyên tắc tự vệ khác nơi thành thị: Đừng bao giờ tỏ ra quá ngại ngùng hay kiêu hãnh khi muốn xin sự giúp đỡ của người khác.

    Và dù Lara định nhờ Will Randolph đưa ra xe sau cuộc trò chuyện của họ, cô vẫn băn khoăn: Nếu gã choai choai trong xe tải là một mối đe dọa, thì chẳng phải cô thật ích kỷ khi nhờ vả và khiến anh gặp nguy hiểm? Anh là một người chồng, mới lên chức cha, có nhiều người đang trông cậy vào anh. Dường như không công bằng lắm nếu...

    "Có gì không ổn à?" Will hỏi.

    "Không hẳn."

    "Cô chắc chứ?" Anh gặng hỏi.

    "À, tôi nghĩ có ai đó đã bám theo tôi đến nhà hàng này. Một tên choai choai nào đó."

    Will nhìn quanh. "Cô thấy hắn à?"

    "Giờ thì không."

    Anh hỏi, "Cô có website đó đúng không? Cái website dạy phụ nữ cách tự vệ ấy."

    "Đúng vậy."

    "Cô có nghĩ hắn biết website đó không? Có thể hắn đang quấy rối cô."

    "Có lẽ. Chắc anh sẽ ngạc nhiên lắm khi thấy những bức thư đầy thù hằn mà tôi nhận được."

    Anh lục tìm điện thoại di động. "Cô có muốn gọi cảnh sát không?"

    Cô lưỡng lự.

    Đừng bao giờ cảm thấy quá ngại ngùng hay kiêu hãnh khi muốn xin sự giúp đỡ.

    "Không, không. Chỉ là... anh không phiền nếu đưa tôi đến chỗ để xe sau khi đi lấy ảnh chứ?"

    Will mỉm cười. "Tất nhiên là không rồi. Thực ra thì tôi không biết karate nhưng tôi có thể hét lên kêu cứu to hết cỡ."

    Cô bật cười. "Cảm ơn."

    Họ đi bộ dọc theo vỉa hè phía trước nhà hàng, cô liếc nhìn để kiểm tra những chiếc xe. Giống như mọi bãi đỗ xe ở Thung lũng Silicon, ở đây có hàng tá những chiếc Saab, BMW và Lexus. Dù sao thì, không có chiếc xe tải nào. Không một gã choai choai. Không có vết máu.

    Will hất đầu về chỗ để xe của mình ở bãi đỗ phía sau. Anh nói, "Cô có thấy hắn không?"

    "Không."

    Họ đi qua một hàng cây bách xù và đến chỗ xe của anh, một chiếc Jaguar màu bạc mới coóng.

    Lạy Chúa, có phải tất cả mọi người ở Thung lũng Silicon đều có tiền, trừ cô?

    Anh lôi chìa khóa ra khỏi túi. Họ đi ra chỗ cốp xe. "Tôi chỉ chụp hết hai cuộn phim ở đám cưới. Nhưng có vài bức khá đẹp." Anh ta mở cốp xe rồi ngừng lại nhìn quanh bãi đỗ. Cô cũng thế. Nơi này vắng tanh. Xe của anh là chiếc duy nhất ở đây.

    Will liếc nhìn cô. "Cô hẳn đã băn khoăn về mấy lọn tóc tết 2."

    "Tóc tết?"

    "Phải," anh ta nói. "Những lọn tóc tết ấy." Giọng nói trở lên đều đều, lơ đãng. Anh ta vẫn cười nhưng gương mặt có gì đó khang khác. Trông nó có vẻ đói khát.

    "Ý anh là gì?" Cô hỏi, giọng bình tĩnh nhưng trong thâm tâm, nỗi sợ hãi đang bùng lên. Cô chợt nhận ra có một sợi xích ngăn lối vào khu đằng sau bãi đỗ xe. Và cô hiểu rằng hắn đã móc nó vào sau khi đỗ xe, để đảm bảo không ai khác có thể để xe ở đây.

    "Nó chỉ là một bộ tóc giả."

    Ôi, lạy Chúa, Thánh thần ơi, Lara Gibson thầm nghĩ, dù cô đã không cầu nguyện trong suốt hai mươi năm.

    Hắn nhìn vào mắt cô, ghi lại nỗi khiếp sợ ấy. "Tôi đã đậu chiếc Jag này ở đây một lúc trước khi đánh cắp cái xe tải và bám theo cô từ nhà. Với bộ đồ rằn ri và mái tóc giả. Cô biết đấy, có thế thì cô mới thấy rợn người, hoảng loạn và muốn tôi ở cạnh... Tôi biết hết mọi quy tắc của cô - mớ nguyên tắc tự vệ nơi thành thị vớ vẩn đó. Không bao giờ vào bãi đỗ xe vắng vẻ với một gã đàn ông. Đàn ông đã kết hôn và có con an toàn hơn đàn ông độc thân. Và bức ảnh gia đình của tôi? Cái ở trong ví ấy? Tôi lấy nó từ tạp chí Parents đấy."

    Cô thì thầm trong tuyệt vọng, "Anh không phải là...?"

    "Anh họ của Sandy? Thậm chí còn chẳng biết hắn. Tôi chọn Will Randolph vì hắn là người cô có chút quen biết, và trông hắn có chút giống tôi. Ý tôi là, chẳng có cách quái nào để lôi cô ra đây một mình nếu cô không quen tôi, hoặc tưởng là mình quen. Ồ, cô có thể bỏ tay ra khỏi túi xách được rồi đấy." Hắn giơ chiếc bình xịt hơi cay của cô lên. "Tôi đã lấy nó khi chúng ta bước ra ngoài."

    "Nhưng...," cô bắt đầu nức nở, đôi vai buông thõng trong tuyệt vọng. "Anh là ai? Anh còn không biết tôi cơ mà..."

    "Không đúng, Lara," hắn thì thào, soi mói nỗi thống khổ nơi cô như một tay kỳ thủ ngạo mạn dò xét khuôn mặt bại trận của đối phương. "Tôi biết mọi điều về cô. Tất cả mọi thứ trên đời này."

    --------------------------------
    1 Phong cách thời trang tự do, phóng khoáng.
    2 Trong văn bản gốc, tác giả dùng từ 'dread', có nghĩa là điều gì đó gây khiếp sợ, để chơi chữ với từ 'Dreadlocks' nghĩa là 'tóc tết' trong câu hội thoại tiếp theo.

  2. #21
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 21
    Người tôi gọi là Elana," Gillette giải thích.

    Hắn quay sang Shelton, "Và ông nói đúng. Tôi đã lên mạng khi mới tới CCU. Tôi đã nói dối chuyện đó. Tôi hack vào DMV để kiểm tra xem cô ấy còn sống ở nhà bố mình không. Rồi lúc tối, tôi gọi cho Elana xem cô ấy có ở nhà không."

    "Tôi tưởng cậu đã ly hôn," Bishop nói.

    "Tôi đã ly hôn," hắn chần chừ. "Tôi vẫn nghĩ tới cô ấy như vợ mình."

    "Elana," Bishop nói. "Họ là Gillette?"

    "Không. Cô ấy quay lại tên thời con gái. Papandolos."

    Bishop nói với Shelton, "Kiểm tra cái tên đó."

    Viên cảnh sát bấm máy gọi và lắng nghe, rồi gật đầu, "Là cô ta. Đây là địa chỉ của cô ta. Ngôi nhà thuộc sở hữu của Donald và Irene Papandolos. Không có tiền án."

    Bishop lôi ra một bộ tai nghe điện thoại. Ông nói vào mic, "Alonso à? Là Bishop. Chúng tôi khá chắc chắn là phạm nhân không có gì nguy hiểm và trong ngôi nhà đó là những người vô tội. Hãy kiểm tra và nói cho tôi anh thấy gì..." Vài phút im ắng. Rồi ông nghe tai nghe. Ông ngước lên nhìn Gillette. "Một người phụ nữ khoảng sáu mươi, tóc muối tiêu."

    "Mẹ của Elana. Irene."

    "Một người đàn ông ngoài hai mươi."

    "Tóc đen xoăn?"

    Bishop nhắc lại câu hỏi, lắng nghe câu trả lời rồi gật đầu.

    "Là em trai cô ấy, Christian."

    "Và một người phụ nữ tóc vàng tầm trên ba mươi. Cô ta đang đọc truyện cho hai đứa trẻ."

    "Tóc Elana màu sẫm. Đó có thể là Camilla, chị gái của cô ấy. Lúc trước tóc chị ấy màu đỏ nhưng cứ mấy tháng chị ấy lại thay màu tóc. Hai đứa nhóc là con của chị ấy. Chị ấy có bốn đứa con."

    Bishop nói vào mic, "OK, nghe có vẻ hợp lý đấy. Hãy yêu cầu mọi người rút lui. Tôi sẽ giải tỏa hiện trường." Viên thám tử hỏi Gillette, "Tất cả những chuyện này là sao? Thay vì kiểm tra chiếc máy tính của Học viện Thánh Francis thì cậu lại bỏ trốn?"

    "Tôi đã kiểm tra chiếc máy đó. Không có gì giúp ta tìm ra hắn. Ngay khi tôi khởi động máy, chương trình demon cảm nhận được điều gì đó - có thể là chúng ta đã ngắt kết nối với modem và nó tự hủy. Nếu tìm được gì có ích, tôi đã gửi lại cho ông một lời nhắn."

    "Gửi cho chúng tôi một lời nhắn?" Shelton ngắt lời, "Cậu nói như thể vừa chạy ra cửa hiệu 7/Eleven để mua thuốc lá vậy! Đồ khốn, cậu đã trốn thoát khỏi nơi giam giữ đấy!"

    "Tôi không trốn." Hắn chỉ vào chiếc kiềng chân. Hãy kiểm tra hệ thống giám sát. Nó sẽ hoạt động trở lại trong vòng một giờ. Tôi định sẽ gọi cho các ông từ nhà cô ấy và nhờ ai đó đến đón và đưa tôi về CCU. Tôi chỉ cần chút thời gian để gặp Ellie.

    Bishop chăm chú nhìn tay hacker rồi hỏi, "Cô ấy có muốn gặp cậu không?"

    Gillette ngập ngừng, "Có lẽ là không. Cô ấy không biết tôi đến."

    "Nhưng cậu đã gọi cho cô ấy, cậu nói vậy mà," Shelton chỉ ra.

    "Tôi gác máy ngay khi cô ấy trả lời. Tôi chỉ muốn chắc cô ấy có ở nhà tối nay."

    "Tại sao cô ta lại sống với bố mẹ?"

    "Tại tôi. Cô ấy không còn tiền. Cô ấy đã chi trả hết cho luật sư và tiền phạt..." Hắn gật đầu về phía túi áo của Bishop, "Vì vậy mà tôi làm ra nó - tôi lén mang nó ra ngoài."

    "Nó được giấu bên dưới cái hộp điện thoại gì đó ở trong túi cậu, đúng không?"

    Gillette gật đầu.

    "Lẽ ra tôi nên yêu cầu họ kiểm tra bằng cây dò kim loại hai lần. Tôi đã bất cẩn. Vợ cậu làm gì được với thứ này?"

    "Tôi sẽ đưa nó cho Ellie. Cô ấy có thể đăng ký bằng sáng chế cho nó và cấp phép sử dụng cho một công ty phần cứng. Kiếm được một khoản. Nó là kiểu modem không dây mới mà ông có thể sử dụng cho laptop. Ông có thể vào mạng khi đang di chuyển mà không cần dùng đến di động. Nó sử dụng hệ thống định vị toàn cầu để nhận biết tổng đài di động ở nơi ông đang ở, rồi tự động kết nối ông đến tín hiệu tốt nhất để truyền tải dữ liệu. Nó..."

    Bishop phẩy tay trước bài giảng kỹ thuật. "Cậu đã làm ra nó à? Với những thứ cậu tìm thấy ở trong tù?"

    "Tìm thấy hoặc mua được."

    "Hoặc ăn cắp được," Shelton nói.

    "Tìm thấy hoặc mua được," Gillette nhắc lại.

    Bishop hỏi, "Tại sao cậu không nói với chúng tôi cậu là Valleyman? Và cậu từng ở trong hội Knights of Access cùng Phate?"

    "Bởi vì ông sẽ lại tống tôi vào tù. Và như thế thì tôi không thể giúp ông tìm ra hắn." Gillette ngừng một chút. "Và tôi sẽ không có cơ hội được gặp Eỉlie... Nghe này, nếu tôi biết điều gì giúp bắt được Phate, tôi đã nói với ông rồi. Chắc chắn là chúng tôi từng ở cùng băng Knights of Access, nhưng đó là chuyện nhiều năm trước. Trong các băng đảng ảo, ông không bao giờ gặp gỡ kẻ mà mình giao du cùng - tôi thậm chí không biết hắn trông như thế nào, hắn gay hay thẳng, đã kết hôn hay còn độc thân. Tất cả những gì tôi biết là tên thật của hắn và hắn ở Massachusetts. Nhưng tự ông cũng đã biết điều đó cùng lúc với tôi. Cho đến trước hôm nay thì tôi chưa từng nghe nói gì về Shawn."

    Shelton tức giận nói, "Vậy cậu là một trong những tên khốn kết bè với hắn - phát tán virus và công thức làm bom, rồi làm sập tổng đài 911?"

    "Không," Gillette nói một cách quả quyết. Hắn tiếp tục giải thích rằng trong năm đầu tiên, Knights of Access là một trong những băng hàng đầu nhưng họ không bao giờ làm gì gây hại đến dân thường. Họ có những trận chiến hacking với các băng khác và đột nhập hệ thống website của các tập đoàn và Chính phủ. "Việc tệ hại nhất chúng tôi từng làm là tự viết phần mềm miễn phí vận hành y hệt như phần mềm thương mại đắt tiền rồi phát tán bản sao. Khiến cho gần chục công ty mất đi hàng ngàn đô la lợi nhuận. Chỉ thế thôi."

    Nhưng, Gillette nói tiếp, hắn bắt đầu nhận ra có một con người khác bên trong CertainDeath - tên màn hình của Holloway lúc đó. Hắn càng lúc càng trở nên nguy hiểm và manh động, bắt đầu tìm kiếm nhiều hơn về một loại truy cập đặc biệt - kiểu truy cập cho hắn cơ hội làm hại người khác. "Hắn càng lúc càng lẫn lộn giữa ai là người thật và ai là nhân vật trong trò chơi máy tính mà mình đang chơi."

    Gillette đã dành ra hàng giờ gửi tin nhắn cho Phate, cố gắng lôi hắn ra khỏi những vụ hack xấu xa và những kế hoạch 'ăn thua đủ' với những ai hắn xem như kẻ thù.

    Cuối cùng, Gillette phải đột nhập vào máy của Holloway và sững sờ phát hiện ra hắn đã và đang viết những virus chết người - những chương trình như chương trình làm tê liệt hệ thống 911 ở Oakland hoặc chương trình chặn tín hiệu thu phát từ đài kiểm soát không lưu gửi đến các phi công. Gillette tải những virus này về máy mình sau đó viết những chương trình chống lại rồi đăng tải chúng lên mạng. Gillette còn tìm thấy phần mềm bị đánh cắp của Đại học Harvard trong máy của Holloway. Hắn gửi một bản sao cho trường và cảnh sát bang Massachusetts, cùng với địa chỉ email của CertainDeath. Holloway đã bị tóm.

    Gillette không sử dụng usemame Valleyman nữa. Hiểu rõ về bản chất tàn ác không khoan nhượng của Holloway, Gillette đã phải dùng nhiều nhân dạng khác nhau khi bắt đầu hack trở lại.

    Shelton nói, "Hãy đưa tên trộm vặt này về lại San Ho. Chúng ta đủ phí thời gian rồi."

    "Không, đừng. Xin đừng!"

    Bishop dò xét hắn với thái độ thích thú. "Cậu muốn tiếp tục làm việc với chúng tôi?"

    "Tôi buộc phải thế. Ông đã thấy Phate giỏi như thế nào rồi đấy. Ông cần ai đó cỡ như tôi mới chặn được hắn."

    "Ôi trời," Shelton nói, bật cười. "Cậu thật có khiếu hài hước."

    "Tôi biết cậu giỏi, Wyatt," Bishop nói. "Nhưng cậu cũng vừa trốn khỏi sự giám sát của tôi và việc đó có thể khiến tôi mất việc. Giờ thì khó mà tin được cậu, phải vậy không? Chúng tôi sẽ xoay xở với người khác vậy."

    "Ông không thể 'xoay xở' với người khác - không phải với kẻ như Phate. Stephen Miller không thể giải quyết được đâu. Việc này quá sức anh ta. Patricia Nolan chỉ là cảnh sát an ninh mạng - dù có giỏi cỡ nào, những người làm an ninh mạng luôn chậm một bước so với các hacker. Ông cần một ai đó cùng 'chiến hào' với họ."

    "Chiến hào," Bishop khẽ nói. Câu nói của hắn có vẻ làm ông thích thú. Ông im lặng và cuối cùng cũng nói, "Tôi nghĩ rằng mình sẽ cho cậu thêm một cơ hội nữa."

    Mắt Shelton tối sầm vì giận dỗi. "Sai lầm tệ hại."

    Bishop khẽ gật đầu, như thể công nhận rằng có thể điều đó cũng đúng. Rồi ông nói với Shelton, "Hãy nhắc mọi người đi ăn tối và nghỉ ngơi vài giờ. Tôi sẽ đưa Wyatt về San Ho đêm nay."

    Shelton lắc đầu, ngán ngẩm với kế hoạch của đồng sự, nhưng vẫn đi làm những gì được yêu cầu.

    Gillette xoa xoa cái cằm vẫn còn đau nhức của mình và nói, "Cho tôi mười phút gặp cô ấy."

    "Ai?"

    "Vợ tôi."

    "Cậu nghiêm túc đấy chứ?"

    "Tôi chỉ xin mười phút thôi."

    "Không được, vì một giờ trước tôi đã nhận được cuộc gọi từ David Chambers ở Bộ Quốc phòng, người suýt chút nữa thu hồi lại lệnh thả của cậu."

    "Họ đã phát hiện ra à?"

    "Chắc chắn là vậy rồi. Thế nên nghe tôi nói này, con trai ạ, bầu không khí trong sạch mà cậu đang hít thở và đôi bàn tay đang tự do này của cậu - tất cả chỉ là vận may bất ngờ thôi. Lẽ ra lúc này cậu đang ngủ trong buông giam của mình đấy." Viên thám tử nắm lấy cổ tay của gã hacker. Nhưng trước khi chiếc còng sắt kịp bập quanh nó, Gillette hỏi, "Ông đã kết hôn phải không, Bishop?"

    "Phải."

    "Ông có yêu vợ mình không?"

    Viên cảnh sát im lặng một lúc. Ông nhìn lên bầu trời đang mưa rồi cất chiếc còng đi. "Mười phút thôi đấy."

    ° ° °

    Lúc đầu, hắn chỉ nhìn thấy dáng hình nàng, ngược ánh sáng từ phía sau.

    Nhưng không nghi ngờ gì nữa, đó chính là Ellie. Hình bóng thân thương của nàng, mái tóc đen dài lòa xòa buông xõa dần xuống phần lưng dưới. Khuôn mặt tròn trịa của nàng. Bằng chứng duy nhất cho nỗi căng thẳng mà nàng chắc chắn đang phải chịu đựng là cách nàng bóp chặt tay nắm ở phía bên kia cánh cửa. Những ngón tay chơi đàn piano của nàng đỏ ửng lên vì sức ép mạnh mẽ.

    "Wyatt," nàng thì thầm. "Họ...?"

    "Thả anh ra?" Hắn lắc đầu.

    Mắt nàng thoáng tối lại khi nhìn qua vai hắn và thấy Frank Bishop đứng giám sát trên lối đi.

    Gillette nói tiếp, "Anh chỉ được ra vài ngày. Đại loại là án treo tạm thời. Anh đang giúp họ truy lùng một kẻ - Jon Holloway."

    Nàng lẩm bẩm, "Bạn cùng nhóm với anh."

    Gillette hỏi, "Em có nghe gì về hắn không?"

    "Em à? Không. Sao em lại nghe về hắn chứ? Em chẳng hề gặp bất cứ bạn bè nào của anh nữa." Liếc qua vai về phía mấy đứa nhóc nhà chị gái, Ellie bước ra ngoài rồi đóng cửa lại, như thể muốn ngăn cách hoàn toàn hắn và quá khứ đã qua khỏi cuộc sống hiện tại của nàng.

    "Anh đang làm gì ở đây thế? Làm sao mà anh biết được em... Khoan đã. Những cuộc gọi rồi gác máy đó. Hiển thị là 'cuộc gọi bị chặn'. Chính là anh."

    Hắn gật đầu, "Anh muốn chắc là em đang ở nhà."

    "Tại sao?" Ellie hỏi một cách cay nghiệt.

    Hắn ghét giọng điệu đó của nàng. Hắn nhớ lại lúc ở phiên tòa. Hắn cũng nhớ cái từ đó. Tại sao? Nàng rất hay hỏi thế trong những ngày trước khi hắn bị giam.

    Tại sao anh không chịu từ bỏ những cái máy chết tiệt đó đi? Có thể anh đã không bị tống vào tù, anh sẽ không mất em, nếu anh chịu làm thế. Tại sao?

    "Anh muốn nói chuyện với em," giờ thì hắn nói với nàng.

    "Chúng ta chẳng có gì để nói với nhau cả, Wyatt. Chúng ta đã có hàng năm để nói chuyện - nhưng anh lại có nhiều thứ khác để làm hơn."

    "Xin em," hắn nói, cảm nhận nàng sắp sửa quay gót trở vào trong. Gillette nghe được cả nỗi tuyệt vọng trong giọng nói của mình nhưng hắn đã gạt bỏ cả lòng kiêu hãnh cố hữu.

    "Cây cối mọc nhanh thật." Gillette hất đầu về phía bụi cây hoàng dương rậm rạp. Elana liếc nhìn nó và vẻ mặt nàng giãn ra trong thoáng chốc. Nhiều năm trước, trong một đêm tháng mười một dịu mát, họ đã làm tình bên cạnh chính bụi cây đó, trong khi bố mẹ nàng ở trong nhà, theo dõi kết quả bầu cử.

    Nhiều kỷ niệm khi họ còn bên nhau tràn về trong tâm trí Gillette - một nhà hàng thực phẩm sạch bổ dưỡng họ thường đến ăn mỗi thứ Sáu, chạy ra ngoài lúc nửa đêm để mua Pop-Tarts và pizza, đạp xe xuyên qua khu học xá trường Standford. Trong chốc lát, Wyatt Gillette vô vọng đắm chìm trong những ký ức đó.

    Nhưng rồi khuôn mặt Elana bỗng cau có trở lại. Nàng liếc nhìn vào nhà qua cửa sổ buông rèm. Bọn trẻ, lúc này đã mặc pijama, tung tăng chạy khắp nơi khuất khỏi tầm nhìn của nàng. Elana quay lại và quan sát hình xăm cây cọ cùng con chim biển trên cánh tay Gillette. Nhiều năm trước, hắn đã nói với nàng rằng hắn muốn xóa nó đi và nàng có vẻ thích ý tưởng đó, nhưng hắn lại chưa bao giờ thực hiện. Giờ đây Gillette cảm thấy mình đã làm nàng thất vọng.

    "Camilla và bọn nhóc thế nào?"

    "Ổn cả."

    "Bố mẹ em?"

    Mất kiên nhẫn, Elana hỏi, "Anh muốn gì nào, Wyatt?"

    "Anh mang cho em cái này."

    Hắn đưa cho nàng chiếc bảng mạch và giải thích nó là gì.

    "Tại sao anh đưa thứ này cho em?"

    "Nó đáng giá rất nhiều tiền," Gillette đưa cho nàng tờ giấy mà hắn đã tranh thủ viết trên chuyến xe buýt từ cửa hàng Goodwill, trên đó có thông số kỹ thuật của thiết bị này. "Hãy tìm cho mình một luật sư ở Sand Hill Road và bán nó cho một trong những công ty lớn này: Compaq, Apple, Sun. Họ sẽ muốn đăng ký bản quyền nó và em có thể chấp nhận đề nghị đó nhưng hãy đảm bảo họ trả cho em một khoản tiền cọc lớn. Không hoàn lại. Không chỉ là tiền bản quyền phát minh. Luật sư sẽ biết tất cả về việc này."

    "Em không muốn nó."

    "Đây không phải là một món quà. Anh chỉ đang trả lại cho em. Em đã mất ngôi nhà và khoản tiết kiệm vì anh. Em cần có đủ tiền đền bù cho chuyện đó."

    Nàng nhìn xuống tấm bảng mạch nhưng không đón lấy nó từ bàn tay đang chìa ra của hắn. "Em nên vào nhà thôi."

    "Khoan đã," hắn nói. Có nhiều điều, rất nhiều điều nữa mà hắn muốn nói. Ngày ngày ở trong tù, hắn đã tập đi tập lại những gì cần nói, gắng tìm ra cách tốt nhất để giải bày lòng mình.

    Những ngón tay mạnh mẽ của nàng - móng tay sơn màu hồng nhạt, giờ đây đang siết chặt phần lan can ẩm ướt. Nàng nhìn ra khoảng sân sũng nước mưa.

    Hắn đắm đuối nhìn nàng, ngắm đôi bàn tay, mái tóc, cái cằm, đôi bàn chân.

    "Đừng nói điều đó," hắn tự nhủ. "Đừng. Nói. Điều. Đó."

    Nhưng rồi hắn lại nói ra điều đó. "Anh yêu em."

    "Không," nàng kiên quyết đáp lại và giơ một bàn tay lên như thể muốn xua đi những lời đó.

    "Anh muốn được cố gắng một lần nữa."

    "Quá muộn rồi, Wyath."

    "Anh sai rồi. Anh sẽ không bao giờ lặp lại những gì đã làm nữa."

    "Quá muộn," nàng nhắc lại.

    "Anh đã để mình bị cuốn đi. Anh đã không ở bên cạnh em. Nhưng anh sẽ ở bên em. Anh hứa. Em luôn muốn có con. Chúng ta có thể có con."

    "Anh đã có những chiếc máy tính của mình. Anh còn cần con cái làm gì nữa?"

    "Anh đã thay đổi."

    "Anh đang ở trong tù. Anh chẳng có cơ hội để chứng tỏ với ai cả - kể cả bản thân anh - rằng anh có thể thay đổi."

    "Anh muốn có một gia đình thực sự với em."

    Nàng bước đến cửa và mở nó ra. "Em cũng đã từng muốn thế. Và xem chuyện gì đã xảy ra nào?"

    Hắn buột miệng, "Đừng chuyển đến New York."

    Elana sững người. Nàng quay lại. "New York?"

    "Em sắp chuyển đến New York. Với bạn em, Ed."

    "Làm thế nào mà anh biết về Ed?"

    Mất kiểm soát, hắn hỏi, "Em sẽ lấy anh ta phải không?"

    "Làm thế nào mà anh biết về anh ấy?" Nàng nhắc lại. "Làm thế nào mà anh biết chuyện New York?"

    "Đừng làm thế, Elana. Hãy ở lại đây. Hãy cho anh một..."

    "Làm thế nào?" Nàng quát lên.

    Gillette nhìn xuống nơi cổng vòm, nhìn cơn mưa rơi tí tách trên lớp sơn màu xám. "Anh đã bẻ khóa tài khoản mạng của em và đọc email."

    "Anh đã làm gì cơ?" Nàng để mặc cánh cửa tự đóng lại. Cơn giận dữ xa hoa kiểu Hy Lạp tràn ngập trên khuôn mặt nàng.

    Không còn đường lùi nữa. Gillette buột miệng, "Em có yêu Ed không? Em sắp cưới anh ta à?"

    "Lạy Chúa, Em không thể tin được anh nữa! Ở trong tù? Anh hack vào email của em ở trong tù?"

    "Em có yêu anh ta không?"

    "Ed không liên quan gì đến những chuyện chết tiệt của anh. Anh nắm tất cả mọi cơ hội trên đời này để có một gia đình với em nhưng anh lại không chọn điều đó. Anh hoàn toàn không có quyền nói một từ nào về cuộc sống riêng tư của em!"

    "Xin em..."

    "Không! À, Ed và em sẽ đi New York. Và ba ngày nữa chúng em sẽ đi. Anh chẳng thể làm điều chết tiệt gì trên đời này để ngăn được em đâu. Tạm biệt, Wyatt. Đừng làm phiền em nữa."

    "Anh yêu..."

    "Anh chẳng hề yêu một ai hết," nàng ngắt lời. "Anh chỉ social engineer họ mà thôi."

    Nàng bước vào trong, nhẹ nhàng khép cửa lại.

    Hắn bước xuống bậc thềm đi về phía Bishop.

    Gillette hỏi, "Số máy ở CCU là bao nhiêu?"

    Bishop đưa nó cho hắn rồi tay hacker chép con số đó lên mảnh giấy thông số kỹ thuật và viết, "Hãy gọi cho anh." Hắn gói mảnh giấy quanh chiếc bảng mạch và bỏ vào hòm thư.

    Bishop dẫn hắn trở lại lối đi ẩm ướt, lạo xạo. Ông không phản ứng gì với những điều vừa chứng kiến nơi thềm nhà.

    Khi hai người họ, một người có vóc dáng hoàn hảo, kẻ còn lại thì vô cùng ủ rũ - đến gần chiếc Crown Victoria, một người đàn ông bước ra từ bóng tối ở phía bên đường đối diện nhà Elana.

    Anh ta chừng ngoài bốn mươi, gầy, mái tóc cắt tỉa gọn gàng và để ria. Ấn tượng đầu tiên của Gillette là hắn ta trông hơi 'gay'. Hắn mặc áo mưa nhưng không mang ô. Gillette để ý thấy bàn tay của viên thám tử trượt ngay xuống cò súng khi gã đàn ông này tiến lại gần.

    Kẻ lạ mặt bước chậm lại và thận trọng giơ ví lên, trình ra một phù hiệu và thẻ căn cước. "Tôi là Gharlie Pittman. Sở cảnh sát quận Santa Clara."

    Bishop cẩn thận đọc tấm thẻ và tỏ ra hài lòng với thẻ căn cước của Pittman.

    "Anh là cảnh sát bang?" Pittman hỏi.

    "Frank Bishop."

    Pittman nhìn sang Gillette, "Còn anh là...."

    Trước khi Gillette kịp nói, Bishop hỏi, "Chúng tôi có thể giúp gì cho anh, Charlie?"

    "Tôi đang điều tra vụ Peter Fowler."

    Gillette nhớ lại: Hắn là kẻ buôn súng đã bị Phate giết, cùng với Andy Anderson, ở Hacker's Knoll sáng sớm hôm đó.

    Pittman giải thích, "Chúng tôi nghe nói có chiến dịch liên quan ở đây tối nay."

    Bishop lắc đầu, "Báo động nhầm. Chẳng có gì giúp ích cho anh đâu. Chúc ngủ ngon, ngài cảnh sát." Ông dợm bước qua, ra hiệu cho Gillette đi cùng, nhưng Pittman nói, "Chúng tôi đang bơi ngược dòng vụ này, Frank. Bất cứ điều gì ông có thể cho chúng tôi biết sẽ giúp ích rất nhiều. Tất cả mọi người ở trường Standford đều rúng động vì có kẻ buôn bán súng ngay trong trường. Chúng tôi là những người họ đang chống lại."

    "Chúng tôi không theo đuổi khía cạnh vũ khí của cuộc điều tra. Chúng tôi đang lần theo kẻ giết Fowler nhưng nếu muốn có thông tin, anh sẽ phải qua trụ sở Cảnh sát ở San Jose. Anh biết thủ tục rồi đấy."

    "Đó có phải văn phòng của ông?"

    Bishop hiểu rõ sự cạnh tranh trong ngành cảnh sát như cuộc sống trên những con phố nhỏ ở Oakland. Ông đáp, cố tìm cách lảng tránh cho hợp lý, "Họ là những người mà anh cần nói chuyện. Đội trưởng Berstein có thể hỗ trợ anh."

    Pittman lại quay ra dò xét Gillette, có thể là đang băn khoăn gã trai trẻ mảnh khảnh trong chiếc áo khoác lấm lem này - rõ ràng không phải một cảnh sát - đang làm gì ở đây.

    "Bernstein là một người thẳng thắn. Ông ta sẽ giúp anh nếu có thể."

    Đôi mắt sâu của Pittman dò xét khắp người Gillette. Rồi hắn ta liếc lên nhìn bầu trời tăm tối. "Tôi thật phát ốm vì thời tiết này. Mưa dai dẳng mãi." Hắn quay ra nhìn Bishop. "Anh biết đây, Frank, chúng tôi ở quận, chỉ toàn được nhận phần việc đầu thừa đuôi thẹo. Chúng tôi luôn lạc lối trong những lời nói mập mờ và cuối cùng lại làm những việc mà người khác đã làm rồi. Đôi khi cũng khá mệt."

    "Chúc anh may mắn," Bishop nói.

    "Cảm ơn thám tử." Pittman lại bước vào trong bóng tối.

    Khi họ đã yên vị trong chiếc xe tuần tra, Gillette nói, "Tôi quả thật không hề muốn quay lại San Ho."

    "Chà, tôi sẽ quay lại CCU để kiểm tra bằng chứng và tranh thủ chợp mắt một chút. Mà tôi lại không thấy ở đó có phòng tạm giam."

    Gillette nói, "Tôi sẽ không trốn nữa."

    Bishop không đáp.

    "Tôi thực sự không muốn quay lại nhà tù." Viên thám tử vẫn im lặng còn tay hacker tiếp tục cố nài thêm, "Cứ còng tay tôi vào ghế nếu ông không tin tôi."

    Bishop nói, "Thắt đai an toàn vào."


  3. #22
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Chương 22
    Trường Junipero Serra trông thật bình dị trong sương sớm.

    Ngôi trường tư dành riêng cho giới nhà giàu, tọa lạc tại một khu đất rộng tám héc ta, nằm giữa Trung tâm nghiên cứu Xerox's Palo Alto và một trong nhiều cơ sở của Hewlett-Packard gần Đại học Stanford. Nó trở nên nổi tiếng và gắn liền với danh tiếng tuyệt vời vì đã đào tạo nên hầu hết những học sinh đủ tiêu chuẩn vào các trường trung học mà (bố mẹ) họ chọn lựa. Khuôn viên trường tuyệt đẹp và nhân viên thì được trả lương hậu hĩnh.

    Tuy nhiên, lúc này cô tiếp tân có thâm niên làm việc vài năm ở đây lại không muốn tận hưởng những lợi ích từ môi trường làm việc của mình. Đôi mắt cô nhòa lệ và cô phải cố hết sức để kiểm soát cơn run rẩy trong giọng nói. "Ôi Chúa ơi, Chúa ơi," cô thì thào. "Joyce vừa ở đây nửa tiếng trước. Tôi có nhìn thấy chị ấy. Chị ấy vẫn ổn. Ý tôi là, mới chỉ nửa tiếng trước thôi mà."

    Đứng trước mặt cô ta là một người đàn ông trẻ tuổi, tóc hung đỏ và có ria mép, vận một bộ vét đắt tiền. Mắt anh ta đỏ hoe, như thể anh ta cũng đang khóc, hai bàn tay siết chặt vào nhau, dường như đang rất đau buồn.

    "Chị ấy và Don đang lái xe đến Napa, tới vườn nho. Họ dự định ăn trưa với một đối tác đầu tư của Don."

    "Đã xảy ra chuyện gì?" Cô ta nghẹn lời hỏi.

    "Một chiếc xe buýt chở công nhân nhập cư... nó bất ngờ ngoặt tay lái và đâm thẳng vào họ."

    "Ôi, Chúa ơi," cô lại lẩm bẩm. Một người phụ nữ khác đi ngang qua và người lễ tân nói, "Amy, lại đây."

    Người phụ nữ này, mặc một bộ vét màu đỏ, trên tay mang một mảnh giấy có tiêu đề 'Giáo án', bước tới chiếc bàn. Người lễ tân thì thầm, "Joyce và Don Wingate gặp tai nạn."

    "Không!"

    "Thật tệ." Cô lễ tân gật đầu. "Đây là em trai Don, Irv."

    Họ gật đầu chào nhau rồi cô Amy rầu rĩ nói, "Họ thế nào?"

    Người em trai nuốt khan nơi cổ họng đang nghẹn lên vì xúc động. "Họ sẽ qua khỏi. Ít nhất đó là điều bác sỹ nói lúc này. Nhưng cả hai vẫn còn đang hôn mê. Anh trai tôi bị thương ở lưng." Anh ta cố kìm nén những giọt nước mắt.

    Người lễ tân cũng lau nước mắt. "Joyce rất tích cực trong hội phụ huynh. Ai cũng yêu mến chị ấy. Chúng tôi có thể giúp gì không?"

    "Tôi cũng chưa biết," Irv nói, lắc đầu. "Tôi chưa thể nghĩ thông suốt được."

    "Không, không, tất nhiên là không."

    Amy nói, "Nhưng mọi người ở trường sẵn sàng giúp đỡ anh, dù anh cần gì." Amy gọi đến một người phụ nữ dáng người đậm khoảng gần sáu mươi. "Ồ, bà Nagler!"

    Người phụ nữ vận bộ vét màu xám tiến đến và nhìn Irv, người đang gật đầu chào bà. "Bà Nagler," anh ta nói. "Bà là giám đốc ở đây đúng không?"

    "Đúng vậy."

    "Tôi là Irv Wingate, chú của Samantha. Tôi đã gặp bà ở Hội bình thơ xuân năm ngoái."

    Bà ta gật đầu và bắt tay anh.

    Wingate tóm tắt vụ tai nạn.

    "Ôi, Chúa ơi, không," bà Nagler thảng thốt. "Tôi rất tiếc."

    Irv nói, "Kathy - vợ tôi, đang tới đó. Tôi đến để đón Sammie."

    "Tất nhiên rồi."

    Nhưng dù rất đồng cảm, bà Nagler vẫn giữ nguyên tắc và không đời nào bỏ qua những quy định. Bà cúi xuống rồi gõ lên bàn phím bằng những ngón tay được cắt móng vuông vức và không sơn bóng. Bà nhìn màn hình rồi nói, "Anh có trong danh sách người thân được ủy quyền để đón Samantha." Bà nhấn một phím khác và một bức ảnh hiện lên - ảnh bằng lái của Irving Wingate. Bà ngước lên nhìn anh ta. Trùng khớp. Rồi bà nói, "Nhưng tôi e rằng vẫn còn hai việc nữa mà anh phải xác nhận. Đầu tiên, vui lòng cho tôi xem bằng lái của anh?"

    "Chắc chắn rồi." Anh ta đưa tấm thẻ ra. Nó trùng khớp với vẻ ngoài của anh ta và bức ảnh trên máy tính.

    "Thêm một việc nữa thôi. Tôi xin lỗi. Anh trai anh là người rất quan tâm đến an ninh, anh biết mà."

    "Ồ, chắc chắn rồi," Wingate nói. "Mật khẩu." Anh ta nói nhỏ với bà, "Là S-H-E-P." Bà Nagler gật đầu xác nhận. Irv đưa mắt ra ngoài cửa sổ nhìn những tia nắng mặt trời trong trẻo rơi trên hàng rào bằng gỗ hoàng dương. "Đó là con chó giống Airedale đầu tiên của Donald, Shep. Chúng tôi nhận nuôi nó khi anh ấy mười hai tuổi. Nó là một con chó tuyệt vời. Anh ấy vẫn nuôi giống chó ấy, bà biết đấy."

    Bà Nagler buồn rầu nói, "Tôi biết. Thi thoảng chúng tôi email cho nhau ảnh những chú chó của mình. Tôi nuôi hai con weimaraner." Giọng bà nhỏ dần và cố gắng gạt nỗi đau buồn sang một bên. Bà nhấc máy gọi cho giáo viên của Sammie rồi đề nghị đưa cô bé đến khu vực lễ tân.

    Irv nói, "Xin đừng nói gì với Sammie. Tôi sẽ nói với con bé khi lên xe."

    "Tất nhiên rồi."

    "Chúng tôi sẽ dừng xe ăn sáng trên đường đi. Bánh kẹp trứng McMuffin's là món ưa thích của con bé."

    Cô Amy vận bộ vét đỏ nghẹn lại vì mẩu chuyện nhỏ ấy. "Đó cũng là món con bé ăn trong chuyến đi của lớp đến Yosemite... Cô nhắm mắt và thầm khóc.

    Một người phụ nữ châu Á, có vẻ là giáo viên của Sammie, dẫn một bé gái mảnh khảnh có mái tóc hung đỏ vào văn phòng. Bà Nagler mỉm cười và nói, "Chú Irving của con đây."

    "Irv," anh ta chữa. "Con bé gọi tôi là chú Irv. Chào Sammie."

    "Wow, râu chú mọc lại nhanh thật đấy."

    Wingate bật cười. "Cô Kathy của cháu nói nhìn chú lúc trước trông tao nhã hơn." Anh ta cúi xuống. "Nghe này, bố mẹ cháu quyết định cho cháu nghỉ học một ngày. Chúng ta sẽ dành ngày hôm nay cùng với họ ở Napa."

    "Bố mẹ đến vườn nho ạ?"

    "Đúng thế."

    Một thoáng lưỡng lự xuất hiện trên khuôn mặt lấm tấm tàn nhang của con bé. "Bố nói bố mẹ không đi được cho đến tuần sau. Bởi vì những thợ săn."

    "Họ đã đổi ý. Và cháu sẽ đến đó cùng với chú."

    "Tuyệt vời!"

    Người giáo viên nói, "Em quay về lớp lấy cặp sách nhé?"

    Cô bé chạy vội đi và bà Nagler bắt đầu kể với cô giáo mọi chuyện. "Ôi, không," cô khẽ thốt lên khi nghe về thảm kịch đó. Vài phút sau, Samantha quay lại, chiếc cặp sách nặng trĩu trên vai. Cô bé và chú Irv bước ra cửa. Người lễ tân thì thầm với bà Nagler, "Cảm ơn Chúa, con bé sẽ được bao bọc."

    Irv Wingate chắc hẳn đã nghe thấy điều này vì anh ta quay lại và gật đầu. Tuy vậy, người lễ tân thoáng khựng lại, nụ cười của anh ta dường như không thân thiện, mà giống như một sự hả hê đầy ma mãnh. Nhưng cô quả quyết rằng mình đã nhầm và cảm thông với nỗi đau buồn tột độ mà người đàn ông tội nghiệp này đang phải chịu đựng.

    ° ° °

    "Dậy thôi," một giọng nói mạnh mẽ cất lên.

    Gillette mở mắt và nhìn lên thấy Frank Bishop, đã cạo râu và tắm táp xong, đang tiện tay nhét gấu áo xấu tính của mình vào cạp quần.

    "Tám giờ ba mươi rồi," Bishop nói. "Trong tù họ cho cậu dậy muộn à?"

    "Hôm qua tôi thức đến tận bốn giờ," tay hacker càu nhàu. "Tôi không thể cảm thấy thoải mái. Nhưng cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, đúng không?" Gillette hất đầu về phía chiếc ghế sắt lớn mà Bishop đã còng tay hắn vào.

    "Là ý tưởng của cậu đấy chứ, còng tay và chiếc ghế."

    "Tôi không nghĩ ông lại hiểu theo nghĩa đen."

    "Hiểu nghĩa đen cái gì?" Bishop hỏi. "Hoặc cậu còng tay ai đó vào ghế hoặc là không."

    Viên thám tử mở khóa cho Gillette, tay hacker khó nhọc đứng dậy, xoa cổ tay. Hắn đi vào bếp để pha cà phê và lấy một chiếc bánh vòng để từ hôm trước.

    "Mà này, ở đây các ông có Pop-Tarts không? Gillette nói, quay trở lại gian chính của CCU.

    "Tôi không biết," Bishop đáp. "Đây không phải là văn phòng của tôi, nhớ chứ? Dù sao thì, tôi không ưa đồ ngọt. Mọi người chỉ nên ăn sáng bằng thịt xông khói và trứng. Cậu biết đấy, mấy đồ tốt cho tim." Ông nhấp một ngụm cà phê. "Tôi đã quan sát cậu - khi cậu ngủ."

    Gillette không biết phải nói gì cả. Hắn nhướng một bên lông mày.

    "Cậu đã đánh máy trong khi ngủ."

    "Giờ người ta gọi là gõ bàn phím, không phải là đánh máy."

    "Cậu có biết mình làm thế không?"

    Tay hacker gật đầu. "Ellie thường nói tôi luôn làm thế. Đôi khi tôi cũng mơ thấy mã."

    "Cậu mơ gì?"

    "Tôi mơ thấy các tập lệnh - ông biết đấy, những dạng mã nguồn phần mềm. Bằng ngôn ngữ Basic hay C++ hoặc Java."

    Hắn nhìn quanh. "Mọi người đâu cả rồi?"

    "Linda và Tony đang trên đường đến đây. Miller cũng thế. Linda vẫn chưa được lên chức bà. Patricia Nolan vừa gọi điện tới từ khách sạn." Ông nhìn vào mắt Gillette một thoáng. "Cô ấy hỏi cậu có ổn không."

    "Thật à?"

    Viên thám tử gật đầu cười. "Càu nhàu tôi vì đã còng tay cậu vào ghế. Cô ấy nói lẽ ra cậu có thể ngủ qua đêm trên ghế bành trong phòng khách sạn của cô ấy. Quả quyết là đêm nay sẽ như vậy."

    "Shelton?"

    Bishop nói, "Anh ấy đang ở nhà với vợ. Tôi đã gọi cho anh ấy nhưng không ai nghe máy. Đôi khi chỉ đơn giản là anh ấy phải biến mất và dành thời gian bên vợ - cậu biết đấy, vì vấn đề mà tôi đã kể với cậu. Cái chết của cậu con trai."

    Một tiếng bíp vang lên từ khoang làm việc gần đó. Gillette nhỏm dậy và nhìn vào màn hình. Chương trình bot của hắn đã làm việc không ngừng nghỉ cả đêm, lùng sục khắp thế giới, và giờ nó có một phần thưởng mới cho những nỗ lực của mình. Hắn đọc tin nhắn và nói với Bishop, "Triple-X lại đang Online. Hắn ta đã quay lại phòng chat của hacker."

    Gillette ngồi xuống bên máy tính.

    "Chúng ta sẽ lại social engineering hắn à?" Bishop hỏi.

    "Không. Tôi có ý tưởng khác."

    "Gì thế?"

    "Tôi sẽ thử nói thật xem."

    ° ° °

    Tony Mott tăng tốc chiếc xe đạp Fisher đắt tiền của mình về hướng đông, dọc theo đại lộ Stevens Creek, vượt qua rất nhiều ô tô và xe tải, và ngoặt nhanh vào bãi đỗ xe của CCU.

    Anh luôn đạp xe suốt hơn sáu dặm từ nhà ở Santa Clara đến tòa văn phòng CCU với một tốc độ ổn định - tay cảnh sát vạm vỡ rạp mình đạp xe hết tốc lực, như khi chơi các môn thể thao khác, dù là đang trượt tuyết ở A-basin ở Colorado, trượt tuyết bằng trực thăng ở Châu Âu, bơi xuồng hay đu dây xuống từ những vách đá dựng đứng của dãy núi mà anh thích trèo.

    Nhưng hôm nay anh đạp xe nhanh một cách khác thường, ý nghĩ rằng sớm hay muộn sẽ năn nỉ được Frank Bishop cứ lẩn quẩn trong đầu anh, bằng cái cách mà anh chưa thể thuyết phục được Andy Anderson, để khoác lên mình bộ áo chống đạn và thực thi công việc của một cảnh sát thực thụ. Anh đã học hành rất chăm chỉ ở học viện, và dù là một cảnh sát mạng giỏi, nhiệm vụ của anh tại CCU vẫn chẳng mấy thú vị hơn việc làm luận văn tốt nghiệp. Có vẻ như anh đã bị phân biệt đối xử chỉ vì bảng điểm trung bình 3.97 ở MIT.

    Thòng chiếc khóa Kryptonite cũ kỹ mòn vẹt qua phần khung xe, anh ngước lên nhìn, thấy một người đàn ông mảnh khảnh, để ria mép, đang sải bước về phía anh trong bộ áo mưa.

    "Chào," người đàn ông cất lời, mỉm cười.

    "Xin chào."

    "Tôi là Charlie Pittman, Sở cảnh sát quận Santa Clara." Anh ta nói rồi chìa tay ra.

    Mott bắt tay anh ta. Dù biết rất nhiều thanh tra quận, anh vẫn không nhận ra người này. Nhưng liếc nhanh tấm thẻ căn cước lủng lẳng trên cổ anh ta, Mott thấy tấm ảnh đó trùng khớp.

    "Anh chắc là Tony Mott."

    "Đúng vậy."

    Viên cảnh sát quận trầm trồ nhìn chiếc xe Fisher. "Tôi nghe nói anh đạp xe thần sầu."

    "Chỉ khi xuống dốc thôi," Mott nói, mỉm cười khiêm tốn, dù sự thật đúng là thế, phải, anh đạp xe thần sầu, dù là xuống dốc, lên dốc hay trên đường bằng.

    Pittman cũng bật cười. "Tôi không tập nổi nửa số bài thể dục cần thiết. Đặc biệt là khi đang phải theo chân một tên như gã máy tính này."

    Buồn cười thật - Mott chưa từng nghe nói ai đó từ cảnh sát quận đang làm vụ này. "Anh có vào trong không?" Mott tháo mũ bảo hiểm.

    "Tôi vừa vào đó rồi. Frank đã nói qua tình hình cho tôi. Đây quả là một vụ điên rồ."

    "Tôi cũng thấy thế," Mott đồng tình, nhét đôi găng tay bắn súng kiêm găng tay đi xe vào cạp quần soóc spandex của mình.

    "Gã mà Frank đang làm việc cùng - gã cố vấn ấy? Cái gã trẻ đấy?"

    "Ý anh là Wyatt Gillette?"

    "Phải, đó là tên của hắn. Hắn thực sự hiểu biết về máy tính, đúng không?"

    "Hắn là một cao thủ," Mott nói.

    "Hắn sẽ giúp các anh trong bao lâu?"

    "Đến khi nào chúng tôi tóm được tên khốn này, tôi đoán thế."

    Pittman nhìn đồng hồ. "Tôi nên đi thôi. Khi khác tôi qua."

    Khi Pittman quay bước đi, Tony Mott gật đầu, rút di động ra và bấm máy gọi. Tay cảnh sát quận đi qua bãi đỗ của CCU rồi vào bãi đỗ bên cạnh. Mott để ý điều này và thoáng nghĩ thật lạ khi anh ta lại đỗ xe xa thế, trong khi còn rất nhiều chỗ trống ngay phía trước CCU. Nhưng rồi Mott tiếp tục bước về phía văn phòng, miên man nghĩ về vụ án và làm thế nào, bằng cách này hay cách khác, kiếm được một chân trong đội tác chiến lúc họ đá tung cửa để tóm cổ Jon Patrick Holloway.

    ° ° °

    "Ani, Ani, Animorphs," bé gái nhỏ nói.

    "Gì nhỉ?" Phate lơ đãng hỏi. Họ đang ở trên một chiếc xe Acura Legend, vừa mới bị đánh cắp nhưng đã được đăng ký hợp lệ bằng một trong số những nhân dạng của hắn. Chiếc xe đang trên đường đến tầng hầm nhà hắn ở Los Altos, nơi cuộn băng dính, con dao Ka-bar và một chiếc camera kỹ thuật số đang chờ Samantha Wingate bé nhỏ.

    "Ani, Ani, Animorphs. Này, Chú Irv, chú có thích Animorphs không?"

    Không, không một chút quái nào hết, Phate nghĩ. Nhưng chú Irv nói, "Chắc chắn là có rồi."

    "Sao bà Gitting lại buồn thế?" Samie Wingate hỏi.

    "Ai cơ?"

    "Cái bà ở bàn tiếp tân ấy."

    "Chú không biết."

    "Có phải bố mẹ đã đến Napa rồi đúng không ạ?"

    "Đúng vậy."

    Phate không biết họ đang ở đâu. Nhưng hắn biết, dù ở đâu thì họ cũng được tận hưởng những khoảnh khắc bình yên cuối cùng trước khi cơn bão kinh hoàng nổi lên. Chỉ mấy phút trước, khi ai đó ở trường Junipero Serra gọi cho bạn bè cùng gia đình của Wingate và phát hiện ra rằng không hề có vụ tai nạn nào.

    Phate băn khoăn ai sẽ kinh hoàng nhất: Cha mẹ của đứa trẻ mất tích, bà hiệu trưởng hay những giáo viên đã giao nó cho một tên sát nhân?

    "Ani, Ani, Ani, Ani, Animorphs. Ai là nhân vật yêu thích của chú?"

    "Yêu thích cái gì?" Phate hỏi.

    "Chú nghĩ là cái gì?" Samantha nhỏ bé hỏi - hơi hỗn, cả Phate và chú Irv đều nghĩ thế.

    Con bé nói, "Animorph yêu thích ấy. Cháu nghĩ Rachel là nhân vật yêu thích của cháu. Cô ấy biến thành một con sư tử. Cháu đã nghĩ ra một câu chuyện về cô ấy. Và nó cực hay. Chuyện xảy ra thế này...."

    Phate lắng nghe câu chuyện tầm phào khi cô bé tiếp tục huyên thuyên bên tai. Con bé hỗn hào cứ nói mãi câu chuyện ngớ ngẩn mà chẳng cần chút khích lệ nào từ chú Irv, kẻ lúc này chỉ cảm thấy dễ chịu khi nghĩ đến con dao sắc như dao cạo đang chờ ở nhà và mường tượng ra phản ứng của Donald Wingate khi tay doanh nhân nhận được chiếc túi nhựa chứa một món quà khá kinh khủng vào cuối ngày. Như trong trò Access, bản thân Phate là người giao UPS, kẻ giao món hàng và nhận được chữ ký nhận của D. Wingate trên hóa đơn. Với nhiệm vụ này, hắn sẽ thu được hai mươi lăm điểm, số điểm cao nhất cho một vụ giết người. Hắn nghĩ lại cú social engineer của mình ở ngôi trường đó. Quả là một vụ hack tuyệt đỉnh. Rất thách thức nhưng vẫn ổn thỏa (mặc dù chú Irv không mấy hợp tác vì hắn rõ ràng đã cạo ria sau khi chụp bức ảnh trên bằng lái xe gần đây).

    Ngồi trên ghế xe, con bé ngó ngoáy kinh khủng. "Chú có nghĩ chúng ta sẽ được cưỡi chú ngựa con mà bố mua cho cháu không? Trời, thế mới là tuyệt. Billy Tomkins suốt ngày nói về con chó ngu ngốc của nó, kiểu như, ai mà lại không có nổi một con chó chứ? Ý cháu là, ai cũng có một con chó. Nhưng cháu có hẳn một chú ngựa con."

    Phate liếc nhìn con bé. Mái tóc được chải chuốt hoàn hảo. Chiếc đồng hồ đeo tay đắt tiền với quai đeo bằng da bị nó bôi bẩn với những hình vẽ bằng mực rối rắm. Đôi giày được đánh bóng loáng. Hơi thở thơm mùi pho mát.

    Hắn quyết định rằng Sammie không giống Jamie Turner, kẻ mà hắn do dự không giết vì thằng bé gợi lên nhiều điều về chính bản thân hắn. Không, đứa bé này cũng giống như tất cả những đứa nhỏ thối tha khác đã biến cuộc sống ở trường của cậu bé Jon Patrick Holloway thành địa ngục.

    Chụp vài bức ảnh của Samantha bé nhỏ trước chuyến đi đến tầng hầm của hắn và sau đó, Samantha bé nhỏ hẳn sẽ mang lại cho hắn rất nhiều khoái cảm.

    "Chú có muốn cưỡi con Charizard không, chú Irv?"

    "Ai cơ?" Phate hỏi.

    "Trời, con ngựa của cháu. Con mà bố mua cho cháu hôm sinh nhật ấy. Hình như chú cũng ở đó mà."

    "Đúng rồi, chú quên mất."

    "Bố con cháu đôi khi cũng đi cưỡi ngựa. Charizard khá là tài. Nó biết tự quay về chuồng. Hoặc, cháu biết rồi, chú có thể lấy con ngựa của bố và chúng ta sẽ đi quanh hồ cùng nhau. Nếu chú theo kịp."

    Phate băn khoăn không biết hắn có đợi được đến lúc đưa con bé vào tầng hầm không.

    Đột nhiên, một tiếng bíp vang lên trong xe, và trong khi con bé vẫn tiếp tục huyên thuyên về những con chó hay sư tử hoạt hình, hoặc bất kể cái gì, Phate lôi chiếc máy nhắn tin ra khỏi thắt lưng rồi lướt ngón tay trên màn hình hiển thị.

    Phản ứng của hắn là một cơn thở dốc có thể nghe rõ.

    Nội dung tin nhắn của Shawn là Wyatt Gillette đang ở trụ sở CCU.

    Phate cảm thấy choáng váng như thể hắn vừa chạm phải một dây điện hở. Hắn buộc phải tấp xe vào lề đường.

    Chúa trên cao... Gillette - Valleyman, đang hỗ trợ bọn cớm! Đó là lý do tại sao chúng biết rất nhiều về hắn và đang theo hắn sát nút. Đột nhiên hàng trăm ký ức từ những ngày của hội Knights of Access ùa về. Những vụ hack không thể tin nổi. Hàng giờ đồng hồ dành cho những cuộc trò chuyện điên rồ, gõ bàn phím hết tốc lực vì sợ tan biến một ý tưởng. Nỗi ám ảnh. Sự liều lĩnh. Niềm hứng khởi khi vào được những nơi trên mạng mà chẳng ai đến được.

    Và mới hôm qua thôi, hắn vẫn nghĩ về bài báo mà Gillette đã viết. Hắn nhớ dòng cuối cùng: Một khi bạn đã dành thời gian trong Blue Noivhere - Miền xanh thẳm vô định, bạn sẽ không bao giờ có thể hoàn toàn quay lại Thế giới thực.

    Valleyman - kẻ mang trong mình nỗi tò mò trẻ thơ và bản năng gan lì không cho phép hắn ngơi nghỉ cho đến khi hiểu được mọi điều cần biết về những thứ mới mẻ.

    Valleyman - kẻ có tài viết phần mềm giỏi ngang ngửa, và đôi khi, vượt qua cả Phate.

    Valleyman - kẻ đã phản bội và phá hủy đời Holloway, đập tan sự nghiệp Social Engineer vĩ đại của hắn. Và cũng là kẻ vẫn còn sống sót vì Phate chưa bận tâm đến việc giết hắn.

    "Chú Irv, ừm, sao ta lại dừng ở đây? Ý cháu là, có phải xe bị làm sao không?"

    Hắn liếc nhìn con bé. Rồi lại nhìn quanh con đường vắng vẻ.

    "Chà, Sammie, cháu biết không - chú nghĩ có vẻ là thế đấy. Cháu xem hộ một chút được không?"

    "Ừm, cháu ư?"

    "Phải."

    "Cháu không biết phải làm gì."

    "Chỉ cần xem có phải xe bị xịt lốp không," chú Irv ân cần nói. "Cháu làm được không?"

    "Cháu nghĩ là được. Thế bánh nào?"

    "Bánh sau bên phải."

    Con bé nhìn về bên trái.

    Phate chỉ hướng ngược lại.

    "Ừm, được rồi, bánh xe đó. Cháu phải xem gì đây?"

    "Chà, thế Animorphs sẽ xem xét gì nhỉ?"

    "Cháu không biết. Có lẽ là xem có đinh cắm vào nó không hay đại loại thế?"

    "Giỏi đấy. Sao cháu không đi xem có đinh găm vào bánh xe không nhỉ?"

    "Được ạ."

    Phate mở khóa dây đai an toàn cho con bé.

    Rồi hắn vươn người qua Sammie để với tay nắm cửa.

    "Cháu tự làm được," nó quả quyết nói. "Chú không cần giúp đâu."

    "Được." Phate ngồi lại và quan sát con bé lóng ngóng với cái chốt rồi đẩy cửa xe mở ra.

    Sammie bước ra ngoài và đi tới phía sau xe. "Cháu thấy nó ổn," con bé nói to.

    "Tốt lắm," Phate nói. Và khởi động động cơ, phóng vọt lên phía trước. Cửa xe sập lại và từ bánh xe, bụi và sỏi bắn tung tóe vào Sammie. Con bé bắt đầu gào lên, "Chờ đã, chú Irv.".

    Chiếc xe phóng lên đường cao tốc.

    Sammie khóc lóc chạy theo chiếc xe nhưng nhanh chóng khuất trong đám bụi lớn từ những bánh xe đang phóng hết tốc lực. Về phần mình, Phate đã không hề nghĩ đến Samantha Wingate bé nhỏ ngay từ lúc cửa xe sập lại.


  4. #23
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 23
    Renegade334: Triple-X, lại là tôi đây. Tôi muốn nói chuyện với anh. NBS.

    "Từ viết tắt của No bullshit (không phải chuyện nhảm nhí)," Patricia Nolan giải thích cho Frank Bishop khi họ chăm chú nhìn vào màn hình trước mặt Wyatt Gillette.

    Nolan đã từ khách sạn đến vài phút trước, khi Gillette đang vội vã lao đến một khoang làm việc gần đó. Cô lẩn quẩn gần hắn như thể sắp ôm hắn chào buổi sáng. Nhưng cô dường như nhận thấy hắn đang hoàn toàn tập trung và quyết định không làm thế. Cô kéo một chiếc ghế và ngồi gần màn hình. Tony Mott cũng ngồi xuống ngay cạnh. Bob Shelton đã gọi lại để báo với Bishop là vợ ông đang ốm và ông sẽ đến muộn.

    Gillette gõ một tin nhắn khác và nhấn RETURN.

    Renegade334: Anh có đó không? Tôi muốn nói chuyện.

    "Nào," Gillette thì thầm khích lệ. "Nào... hãy nói chuyện với tôi đi."

    Cuối cùng, một cửa sổ ICQ mở ra và Triple-X đáp lại.

    Triple-X: Giờ thì anh gõ bàn phím giỏi hơn rồi đấy. Cả ngữ pháp và chính tả nữa. BTW (mà này), tôi đang nhắn tin từ một địa chỉ nặc danh ở Châu Âu. Anh không thể lần ra tôi đâu.

    Renegade334: Chúng tôi cũng không định làm thế. Tôi xin lỗi về chuyện lần trước. Vì đã cố gài bẫy anh. Chúng tôi cần sự trợ giúp của anh. Tôi đang xin anh giúp đây.

    Triple-X: Anh là thằng quái nào?

    Renegade334: Anh đã từng nghe đến Knights of Access chưa?

    Triple-X: MỌI NGƯỜI đều từng nghe nói đến KOA. Anh định nói là anh từng ở trong băng đó?

    Renegade334: Tôi là Valleyman.

    Triple-X: Anh là Valleyman? NFW.

    "Làm gì có chuyện đó," Tony Mott dịch từ này cho Bishop.

    Cánh cửa CCU bật mở và Stephen Miller cùng Linda Sanchez bước vào. Bishop nói vắn tắt về việc đang diễn ra.

    Renegade334: Chính là tôi. Thật đấy.

    Triple-X: Nếu vậy nói cho tôi xem sáu năm trước anh đã crack cái gì - vụ lớn ấy, anh hiểu ý tôi mà.

    "Anh ta đang kiểm tra tôi," Gillette nói. "Có lẽ anh ta từng nghe Phate nói đến một vụ hack của KOA và muốn xem tôi có biết không." Gillette gõ:

    Renegade334: Fort Meade.

    Fort Meade, Maryland, là trụ sở của Cơ quan An ninh Quốc gia và ở đó có nhiều siêu máy tính hơn bất kỳ nơi nào trên thế giới.

    Nó cũng được trang bị an ninh nghiêm ngặt nhất trong tất cả các cơ quan Chính phủ.

    "Lạy Chúa," Mott thì thào. "Anh đã đột nhập vào Meade?"

    Gillette nhún vai. "Chỉ là kết nối Internet. Không phải những hộp đen."

    "Nhưng dù vậy, Chúa ơi..."

    Triple-X: Vậy làm thế nào mà các anh vượt qua được tường lửa?

    Renegade334: Chúng tôi nghe nói NSA chuẩn bị cài đặt một hệ thống mới. Chúng tôi đột nhập vào thông qua lỗ hổng gửi mail ở Unix. Chúng tôi có ba phút sau khi họ cài đặt máy, trước khi họ tải patch 1 để sửa nó. Đó là lúc chúng tôi đột nhập vào.

    Sendmail flaw nổi tiếng chính là một lỗi trong phiên bản ban đầu của Unix, sau này đã được sửa, cho phép người dùng gửi một loại email nhất định đến người dùng gốc - người quản trị các hệ thống để thỉnh thoảng cho phép người gửi đoạt quyền kiểm soát máy tính đó.

    Triple-X: Trời, anh quả là một phù thủy. Mọi người đều nghe nói về anh. Tôi tưởng anh đang ở trong tù.

    Renegade334: Đúng vậy. Tôi đang thụ án. Nhưng họ không theo bắt anh đâu. Đừng lo.

    Mott thì thầm, "Xin... Đừng chạy mất dạng."

    Triple-X: Anh muốn gì?

    Renegade334: Chúng tôi đang tìm Phate - Jon Holloway.

    Triple-X: Tại sao anh lại muốn hắn?

    Gillette nhìn Bishop, người gật đầu cho phép Gillette nói hết ra.

    Renegade334: Hắn đang giết người.

    Một sự im lặng nữa. Gillette gõ những tin nhắn vô hình vào không khí trong ba mươi giây trước khi Triple-X phản hồi.

    Triple-X: Tôi đã nghe những lời đồn. Hắn đang sử dụng chương trình đó của hắn, Trapdoor, để rình mò mọi người, đúng không?

    Renegade334: Đúng vậy.

    Triple-X: TÔI BIẾT ngay là hắn sẽ sử dụng nó để làm hại mọi người. Gã đó là một tên bệnh hoạn. ĐM.

    Không cần phải dịch từ này, Gillette nghĩ.

    Triple-X: Anh muốn gì từ tôi?

    Renegade: Giúp tìm ra hắn.

    Triple-X: IDTS.

    Bishop đoán, "I don't think so (tôi không nghĩ vậy)."

    Linda Sanchez bật cười. "Đúng rồi đó sếp. Anh đang học được thuật ngữ rồi đấy." Gillette để ý rằng giờ Bishop đã giành được chức 'sếp' mà trước đó rõ ràng Linda Sanchez chỉ dành cho Andy Anderson.

    Renegade334: Chúng tôi cần giúp đỡ.

    Triple-X: Anh không biết gã điên đó nguy hiểm thế nào đâu. Hắn là kẻ tâm thần. Hắn sẽ theo dõi tôi.

    Renegade334: Anh có thể thay đổi username và địa chỉ mạng của mình.

    Triple-X: LTW.

    Nolan giải thích cho Bishop, "Like, that'd work (cứ làm như nó sẽ có tác dụng vậy). Với ý mỉa mai."

    Triple-X: Hắn sẽ tìm ra tôi trong mười phút.

    Renegade334: Vậy hãy offline cho đến khi chúng tôi tóm được hắn.

    Triple-X: Khi anh đang hack thì anh có chịu nổi một ngày không Online không?

    Giờ thì Gillette im lặng. Cuối cùng hắn gõ:

    Renegade334: Không.

    Triple-X: Và anh muốn tôi mạo hiểm cuộc sống của mình cũng như tránh xa mạng Net vì anh chưa thể tìm ra gã khốn đó?

    Renegade: Hắn ĐANG GIẾT những dân thường.

    Triple-X: Có thể hắn đang theo dõi chúng ta đấy. Có thể Trapdoor hiện đang ở trong máy của anh. Hoặc của tôi. Có thể hắn đang đọc những gì mà chúng ta viết.

    Renegade334: Không, không đâu. Tôi có thể cảm nhận được nếu hắn ở đây. Và anh cũng có thể cảm nhận được hắn. Anh có cảm giác đó, đúng không?

    Triple-X: Đúng.

    Renegade: Chúng ta biết hắn thích những bức ảnh gián điệp và ảnh hiện trường tội phạm. Hắn có gửi cho anh thứ gì không?

    Triple-X: Không. Tôi đã xóa mọi thứ rồi. Tôi không muốn bất kỳ liên hệ gì với hắn.

    Renegade334: Anh có biết Shawn không?

    Triple-X: Hắn giao du với Phate, đó là tất cả những gì tôi biết. Phate không thể tự hack một mình bằng Trapdoor và Shawn giúp hắn.

    Renegade: Hắn cũng là một cao thủ?

    Triple-X: Tôi nghe nói thế. Và HẮN cũng vô cùng đáng sợ.

    Renegade: Shawn ở đâu?

    Triple-X: Có thông tin là hắn ở khu Bay. Nhưng tôi chỉ biết vậy thôi.

    Renegade: Anh có chắc hắn là đàn ông không?

    Triple-X: Không, nhưng anh biết bao nhiêu hacker mặc váy?

    Renegade: Anh sẽ giúp chúng tôi chứ? Chúng tôi cần địa chỉ email thật của Phate, địa chỉ Internet, những website mà hắn ghé thăm, trang FTP mà hắn tải file... bất kỳ thứ gì tương tự

    Gillette nói với Bishop, "Anh ta sẽ không muốn liên hệ trực tuyến với chúng ta hay ở CCU này. Cho tôi số di động của ông."

    Bishop làm theo và Gillete gửi cho Triple-X. Anh ta không thừa nhận là đã có số điện thoại và chỉ đánh:

    Triple-X: Tôi đăng xuất đây. Chúng ta đã nói chuyện quá lâu rồi. Tôi sẽ nghĩ về chuyện đó.

    Renegade334: Chúng tôi cần sự giúp đỡ của anh. Làm ơn...

    Triple-X: Dị thật đấy.

    Renegade334: Chuyện gì?

    Triple-X: Tôi không nghĩ mình từng thấy một hacker viết làm ơn bao giờ.

    Kết nối chấm dứt.

    ° ° °

    Sau khi Phate khám phá ra rằng Wyatt Gillette đang hỗ trợ cảnh sát truy tìm hắn và bỏ lại Animorph bé nhỏ gào khóc bên con đường, hắn đã vứt lại chiếc xe, con nhỏ lắm lời có thể nhận dạng được cái xe, và mua một chiếc đã qua sử dụng bằng tiền mặt. Rồi Phate tăng tốc băng qua không gian u ám lạnh lẽo đến căn nhà kho hắn đã thuê gần San Jose.

    Khi chơi trò Access phiên bản đời thực của mình, hắn đến một thành phố khác và thu xếp một ngôi nhà để ở tạm, nhưng nhà kho này, dù ít hay nhiều, cũng là nơi ở thường xuyên của hắn. Nó cất giữ mọi thứ quan trọng với hắn.

    Nếu, trong một nghìn năm nữa, các nhà khảo cổ đào qua những lớp cát và bùn, tìm ra chỗ bụi bặm phủ đầy mạng nhện này, họ có thể tin rằng mình đã khám phá ra một ngôi đền thuộc thời đại sơ khai của máy tính, cũng quan trọng chẳng kém cuộc khám phá của nhà thám hiểm Howard Carter khai quật ra ngôi mộ của vua Pha-ra-ông Tutankhamen ở Ai Cập.

    Trong không gian lạnh lẽo và trống rỗng này - một phòng máy chủ bị bỏ hoang, là tất cả kho báu của Phate. Một cỗ máy điện toán EAITR-20 từ thập niên sáu mươi, một chiếc máy tính điện toán điện tử y tế từ năm 1956, chiếc máy tính Altair 8800 và những mẫu 860b, một chiếc máy tính xách tay IBM 510 hai mươi lăm năm tuổi, một chiếc Commodore KIM-1, chiếc TRS-80 danh tiếng, một chiếc xách tay Kaypro, một chiếc COSMAC VIP, một loạt máy Apple và Mac, đèn điện tử từ chiếc Univac nguyên bản, những bánh răng đồng và vô số đĩa từ một nguyên mẫu của cỗ máy Difference Engine chưa từng được hoàn thiện của Charles Babbage từ những năm 1800 và những ghi chép của Ada Byron - con gái Lord Byron, cũng là đồng sự của Babbage - người đã viết bản hướng dẫn cho cỗ máy của ông ta và từ đó được coi là nhà lập trình máy tính đầu tiên trên thế giới. Ngoài ra còn hàng tá những bộ phận phần cứng khác nữa.

    Trên giá là bộ Rainbow Books - tập tài liệu hướng dẫn kỹ thuật bao quát toàn bộ các khía cạnh của hệ thống mạng và bảo mật máy tính, các bìa sách nổi bật trong không gian mờ tối với màu sắc riêng, da cam, đỏ, vàng, xanh lam, xanh oải hương và xanh cổ vịt.

    Có lẽ đồ lưu niệm ưa thích của Phate là một tấm áp phích được đóng khung của bức thư có đầu đề của công ty Traf-O-Data, tên ban đầu mà Bill Gate đặt cho Microsoft.

    Nhưng nhà kho này không chỉ đơn thuần là một bảo tàng. Nó còn phục vụ một mục đích. Nơi này là hàng nối hàng những thùng đựng đĩa, hàng tá máy tính miệt mài làm việc và số linh kiện máy tính chuyên dụng phải đáng giá đến hàng triệu đô la, hầu hết dùng cho việc chế tạo và sửa chữa siêu máy tính. Bán và mua những sản phẩm này thông qua các công ty hình thức là cách Phate kiếm được nguồn thu dồi dào.

    Đây cũng là hậu trường của Phate - nơi hắn lên kế hoạch các trò chơi và thay đổi nhân dạng cũng như nhân cách của mình. Hầu hết trang phục và đồ hóa trang của hắn đều ở đây. Trong góc phòng là một máy ID 4000 - máy làm thẻ nhận dạng an ninh và một chiếc máy in dải băng từ để hoàn thiện dàn thiết bị này. Những thiết bị máy khác cho phép hắn kích hoạt động thẻ đó, bằng việc phát ra mật khẩu ở lối vào các cơ sở an ninh đặc biệt. Với những cỗ máy này và một vụ hack nhẹ nhàng vào Phòng Xe cơ giới, các trường học cùng nhiều ban ngành lưu trữ dữ liệu quan trọng khác, Phate có thể trở thành bất kỳ kẻ nào mà hắn muốn và tạo ra tài liệu dẫn chứng cho điều đó. Hắn thậm chí còn có thể tự tạo cho mình một hộ chiếu.

    Bạn muốn trở thành ai?

    Giờ hắn kiểm tra thiết bị của mình. Từ giá sách phía trên bàn Phate lấy ra một chiếc di động và vài máy Laptop Toshiba cấu hình mạnh, hắn tải vào máy một file jpeg - một bức ảnh đã được nén. Hắn cũng tìm thấy một chiếc hộp to đựng đĩa mềm, thứ sẽ đáp ứng tốt những nhu cầu của hắn.

    Cú sốc choáng váng thất thần khi phát hiện ra Valleyman trà trộn trong hàng ngũ kẻ thù đã tan biến, và trở thành nỗi kích động đầy hứng khởi. Giờ đây Phate đang vô cùng phấn chấn vì trò chơi của hắn đã bất ngờ phát triển theo chiều hướng kịch tính, một đặc điểm quen thuộc với những ai đã từng chơi Access hay những trò game MUD khác: Đây là thời điểm cốt truyện xoay chuyển một trăm tám mươi độ, khi những kẻ đi săn trở thành con mồi.

    ° ° °

    Ngụp lặn trong Miền xanh thẳm vô định như một con cá heo, trong những vịnh nhỏ gần bờ biển, trong biển lớn, lao xuống mặt nước hay ngụp lặn tận tầng sâu tối tăm của đáy biển, chương trình bot của Wyatt Gillette miệt mài gửi những thông điệp khẩn cấp về cho chủ của nó.

    Chiếc máy tính trong trụ sở CCU vang lên một tiếng bíp.

    "Chúng ta có gì ở đây nào?" Patricia Nolan hỏi.

    Gillette gật đầu về phía màn hình.

    Kết quả tìm kiếm:

    Yêu cầu tìm kiếm: "Phate."

    Địa điểm: Newsgroup: alt.pictures.true.crime

    Tình trạng: Đã đăng tin

    Khuôn mặt Gillette bừng lên hứng khởi. Hắn gọi Bishop: "Phate vừa tự đăng cái gì đó." Hắn mở tin nhắn đó.

    Message-ID: <10004234 54210815.NP16015@k2rdka>

    X-Newsposter: newspost-l.2

    Nhóm tin: alt.pictures.true.crime

    Từ: <phate@icsnet.com>

    Gửi đến: Nhóm Chủ đề: Một nhân vật mới

    Encoding:.jpg

    Lines: 1276

    NNTP-Posting-Date: 2 April

    Thời gian: 2 Apr 11:12 a.m.

    Đường dẫn: news.newspost.com!southwest.com!newscom.mesh.ad.jp !counterculturesystems.com! larivegauche. fr.net!frankfrt.de.net!swip.net!newsserve.deluxe. interpost.net!internet.gateway.net!roma.internet. itiglobal systems.uk!

    Hãy nhớ: Thế giới này là một trò chơi MUD, và những con người trong đó chỉ là những nhân vật.

    Không ai luận ra được ẩn ý của chú giải từ Shakespeare mà Phate vừa đăng lên là gì.

    Cho đến khi Gillette tải về bức ảnh đính kèm tin nhắn đó.

    Nó hiện dần trên màn hình.

    "Ôi, lạy Chúa," Linda Sanchez lẩm bẩm, mắt dán chặt vào hình ảnh khủng khiếp đó.

    "Thằng khốn," Tony Mott thì thầm. Stephen Miller không nói gì mà vội quay đi.

    Trên màn hình là bức ảnh chụp Lara Gibson. Cô bán khỏa thân và nằm trên một nền nhà lát gạch - trong một tầng hầm hay đại loại thế, có vẻ là vậy. Trên người cô ta đầy những vết đâm và toàn thân ngập trong một vũng máu. Đôi mắt lờ đờ nhìn đăm đăm vô vọng vào camera. Phát ói lên vì bức ảnh, Gillette đoán rằng nó được chụp khi cô đang thoi thóp vài phút trước khi tắt thở. Cũng giống như Stephen Miller, hắn buộc phải quay đi.

    Bishop hỏi, "Địa chỉ đó? Phate@icsnet.com? Liệu có khả năng là thật không?"

    Gillette cho chạy chương trình HyperTrace và kiểm tra địa chỉ này.

    "Giả," hắn nói, chẳng ai ngạc nhiên trước tin này.

    Miller gợi ý, "Bức ảnh này - chúng ta đều biết Phate đang ở đâu đó quanh đây. Hay thử cử cảnh sát đến thẩm vấn các địa điểm chuyên xử lý ảnh nhanh trong vòng một giờ? Họ có thể nhận ra nó."

    Trước khi Gillette kịp trả lời, Patricia Nolan đã sốt ruột nói, "Hắn sẽ không mạo hiểm mang phim đến một phòng tráng ảnh đâu. Hắn sẽ sử dụng máy ảnh kỹ thuật số." Kể cả một người không rành về kỹ thuật như Frank Bishop cũng biết trước điều này.

    "Vậy là việc này chẳng giúp ích được gì cho ta," viên thám tử nói.

    "Chà, vẫn có thể đấy," Gillette nói. Hắn chúi người về phía trước và gõ gõ màn hình, chỉ vào một đường kẻ được ghi chú là đường dẫn. Hắn nhắc lại với Bishop về đường dẫn trong tiêu đề email, nó chỉ ra các hệ thống mạng mà tin nhắn của Phate phải đi qua trên đường đến được máy chủ mà họ vừa tải ảnh về.

    "Chúng cũng giống như những biển chỉ đường. Tay hacker ở Bulgaria? Vlast ấy? Tất cả những đường dẫn được liệt kê của hắn đều là giả. Nhưng cái này có thể là thật, hoặc ít nhất cũng có một số mạng lưới mà Phate thực sự dùng để tải ảnh Lara Gibson lên."

    Gillette bắt đầu kiểm tra từng mạng lưới được liệt kê trong phần tiêu đề Đường dẫn bằng HyperTrace. Chương trình này đã phát hiện ra một mạng lưới là thật.

    "Đó chính là mạng lưới mà máy tính của Phate thực sự có liên kết đến: newsserve.deluxe.mterpost.net."

    Gillette ra lệnh cho HyperTrace đào bới thêm thông tin về công ty này. Trong chốc lát, màn hình hiện lên thông tin:

    Tên miền: Interpost.net

    Đăng ký với: Interpost Europe SA 23443 Grand Palais Bruges, Belgium

    Dịch vụ: Nhà cung cấp dịch vụ Internet, Máy chủ web, email và trình duyệt vô danh.

    "Nó là một chainer," Gillette lắc đầu nói. "Tôi không ngạc nhiên đâu."

    Nolan giải thích với Bishop vì sao chuyện này lại đáng thất vọng: "Đó là một dịch vụ để giấu nhân dạng của ông khi ông gửi email hay đăng tin nhắn."

    Gillette tiếp lời, "Phate đã gửi bức ảnh này cho Interpost, sau đó máy tính của họ tước bỏ địa chỉ email thật, thêm những địa chỉ giả rồi tiếp tục gửi đi."

    "Chúng ta không thể theo dấu nó à?" Bishop hỏi.

    "Không," Nolan đáp. "Ngõ cụt rồi. Vì vậy mà Phate chẳng thèm viết một tiêu đề giả, giống như Vlast."

    "Chà," viên cảnh sát nói, "Interpost biết máy tính của Phate ở đâu. Hãy tìm số điện thoại của họ, gọi cho họ và tìm ra hắn."

    Tay hacker lắc đầu. "Những chainer giữ được mối làm ăn vì họ đảm bảo rằng không ai có thể tìm ra người gửi, kể cả cảnh sát."

    "Vậy là chúng ta chết chìm rồi," Bishop nói.

    Nhưng Wyatt Gillette nói, "Cũng không đến mức thế. Tôi nghĩ chúng ta nên làm một mẻ câu." Rồi Gillette tải một trong những công cụ tìm kiếm của riêng hắn về máy của CCU.

    --------------------------------
    1 miếng vá phần mềm.

  5. #24
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 24
    Trong khi máy tính của Đơn vị điều tra tội phạm máy tính thuộc Cảnh sát bang gửi đi yêu cầu thông tin về Interpost, Phate ngồi trong khách sạn Bay View, một nơi đìu hiu nằm dọc bãi cát trải dài ở khu Freemont sầm uất, California, phía bắc San Jose. Chăm chú nhìn màn hình, hắn theo sát quá trình tìm kiếm của Gillette.

    Gillette thừa hiểu rằng ngoài sự hồi đáp cho phải phép, một chainer nước ngoài như Interpost không đời nào cung cấp thông tin gì nhiều về nhân dạng của một khách hàng theo yêu cầu từ phía cảnh sát Mỹ. Vậy nên, đúng như Phate tiên liệu, Gillette phải dùng một cỗ máy tìm kiếm riêng để tìm thông tin cơ bản về Interpost với hy vọng khôi phục được thứ gì đó khiến cảnh sát có thể xin hoặc đổi chác lấy sự hợp tác từ nhà cung cấp dịch vụ Internet Bỉ.

    Chỉ trong vài giây, cỗ máy tìm kiếm của Gillette đã tìm ra hàng chục trang đề cập đến Interpost, gửi tên và địa chỉ các trang này ngược trở lại máy của CCU. Nhưng gói dữ liệu tạo nên thông tin này lại đi chệch hướng - chúng được chuyển đến laptop của Phate. Sau đó Trapdoor sửa đổi các gói dữ liệu để chèn những demon cần mẫn của nó vào và gửi lại về CCU.

    Phate hiện nhận được thông báo này:

    TRAPDOOR Liên kết hoàn thành

    Bạn có muốn vào máy tính của đối tượng? Y/N

    Phate gõ Y, nhấn phím Enter và ngay lập tức có thể tự do dạo chơi trong hệ thống của CCU.

    Hắn gõ thêm lệnh và bắt đầu xem xét các file. Điều này minh chứng cho nhận định của CCU rằng, như bất kỳ tên giết người hàng loạt quái đản khác, việc Phate đăng ảnh xác chết của Gibson, chỉ để đe dọa họ hoặc lấy cảm hứng cho sở thích phô trương tình dục bệnh hoạn. Nhưng kì thực, bức ảnh chỉ là mồi nhử để truy ra địa chỉ Internet của máy ở CCU. Khi đã đăng xong ảnh, Phate chỉ thị một bot cho hắn biết toàn bộ những địa chỉ đã download bức ảnh này. Một trong số đó là máy tính của Cơ quan Chính quyền Bang California ở khu tây San Jose. Hắn đoán đó là văn phòng CCU, dù tên miền có vẻ là của một công ty du lịch.

    Phate lướt nhanh qua toàn bộ chiếc máy tính cảnh sát này, sao chép thông tin, rồi vào thẳng một file mang tên Dữ liệu Nhân sự - Đơn vị điều tra tội phạm máy tính.

    Không mấy ngạc nhiên, nội dung đã được mã hóa. Phate kéo xuống một cửa sổ của Trapdoor, nhấn Giải mã. Chương trình bẻ khóa bắt đầu chạy.

    Trong khi ổ cứng đang chạy rền rĩ, Phate đứng dậy và với tay lấy một lon Mountain Dew mát lạnh nằm dưới sàn. Hắn hòa 1 viên No-Doz vào lon nước, nhấp một ngụm thứ nước ngọt đó và bước đến bên cửa sổ, nơi những tia nắng rực rỡ chiếu xuyên qua đám mây dông. Dòng thác ánh sáng chói lọi ấy kích động hắn, hắn kéo vội tấm rèm cửa, quay lại với thứ màu sắc câm lặng trên màn hình, nó khiến hắn cảm thấy dễ chịu hơn nhiều tấm bảng màu của Chúa trời ngoài kia.

    ° ° °

    "Tóm được hắn rồi," Gillette báo cho cả đội. "Phate đang ở trong máy của ta. Hãy bắt đầu cuộc truy lùng nào."

    "Hay lắm!" Tony Mott nói, miệng huýt sáo ăn mừng chiến thắng.

    Gillette bắt đầu chạy HyperTrace, và sau vài tiếng ping nhỏ, từng chút một, đường thẳng nhỏ màu vàng hiển thị tuyến đường từ máy tính của CCU đến máy của Phate dần hiện lên trên màn hình.

    "Anh chàng của chúng ta khá đấy, nói gì đi chứ, sếp?" Linda Sanchez thốt lên, nghiêng đầu về phía Gillette tỏ vẻ ngưỡng mộ.

    "Có vẻ cậu ấy đã đi đúng hướng," Bishop nói.

    Mười phút trước, Gillette đã thầm nghĩ: Tin nhắn của Phate chỉ là đòn nhử. Chắc chắn tên sát nhân đã dựng lên tất cả như một siêu game thủ MUD và việc hắn đăng ảnh Lara không phải để chọc tức hay đe dọa mà để lần ra địa chỉ Internet máy của CCU và đột nhập vào nó.

    Gillette đã trình bày suy nghĩ này với cả đội và nói thêm, "Vậy thì chúng ta sẽ để hắn làm thế."

    "Như vậy chúng ta có thể theo dấu hắn," Bishop nói.

    "Ông hiểu vấn đề rồi đấy," Gillette xác nhận.

    Khoát tay về phía những cỗ máy của CCU, Stephen Miller phản đối, "Nhưng chúng ta không thể để hắn xâm nhập hệ thống."

    Gillette nói ngắn gọn, "Tôi sẽ chuyển toàn bộ dữ liệu thực vào đĩa dự phòng và tải lên một số file đã mã hóa. Trong khi hắn tìm cách giải mã, ta sẽ lần ra hắn."

    Bishop tán thành và Gillette chuyển toàn bộ dữ liệu nhạy cảm, như các file nhân sự vào băng từ và thay thế bằng các file giả. Tiếp đó Gillette gửi đi một yêu cầu tìm kiếm về Interpost, khi kết quả được trả về, demon của Trapdoor bám theo cùng.

    "Hắn như thể một kẻ hiếp dâm ấy," Linda Sanchez nói, nhìn những folder trong hệ thống của họ liên tục được mở ra rồi đóng lại khi Phate lục lọi chúng.

    Sự xâm phạm là tội ác của thế kỷ mới...

    "Tiếp tục, tiếp tục nào," Gillette khích lệ chương trình HyperTrace của mình, âm thanh như tiếng từ thiết bị tín hiệu tàu ngầm khẽ vang lên mỗi khi nó xác định được một đường dẫn của chuỗi kết nối.

    "Nếu hắn đang sử dụng một anonymizer thì sao?" Bishop hỏi

    "Tôi cũng ngờ vậy. Nếu là hắn tôi sẽ làm một cú rồi chuồn, chẳng hạn như đăng nhập từ một trạm điện thoại trả trước hoặc phòng khách sạn. Và tôi sẽ dùng máy nóng."

    Nolan lập tức giải thích, "Tức là máy tính dùng một lần rồi bỏ. Không có chút manh mối gì để lần ra anh."

    Gillette chúi người về phía trước, mắt dán vào màn hình trong khi những đường HyperTrace chậm chạp tìm đường từ CCU về phía Phate. Cuối cùng, chúng dừng tại một điểm nằm ở phía đông bắc. "Có được nhà cung cấp dịch vụ của hắn rồi!" Gillette reo lên khi đọc thông tin trên màn hình. "Hắn đang sử dụng ContraCosta Online ở Oakland." Hắn ngẩng lên nhìn Stephen Miller. "Gọi Pac Bell truy ra nó ngay!"

    Công ty điện thoại sẽ hoàn thành cuộc truy tìm từ ContraCosta Online đến chính máy của Phate. Miller cấp tốc gọi cho nhân viên an ninh của Pac Bell.

    "Chỉ mấy phút nữa thôi," Nolan nói, giọng nôn nóng. "Tiếp tục Online, cứ tiếp tục Online nào... Làm ơn."

    Trong khi đó, Stephen Miller tiếp tục thúc giục qua điện thoại và cuối cùng nở nụ cười. "Pac Bell tìm ra hắn rồi! Hắn đang ở nhà nghỉ Bay View ở Fremont."

    Bishop rút điện thoại gọi cho trung tâm đề nghị điều động đội đặc nhiệm. "Lặng lẽ tiến quân," ông ra lệnh. "Tôi muốn các anh đến đó trong năm phút. Rất có thể hắn đang ngồi ở cửa trước, quan sát bãi đỗ trong khi xe vẫn đang chạy. Nhớ nói điều đó với đội SWAT." Rồi ông liên lạc với Huerto Ramirez và Tim Morgan, chỉ đạo họ đến khách sạn đó.

    Tony Mott nhận thấy đây quả là cơ hội được làm một cảnh sát thực thụ. Tuy vậy lần này Bishop khiến anh ta ngạc nhiên. "Được, cậu sỹ quan, lần này cho cậu đi cùng. Với điều kiện phải ở phía sau."

    "Thưa vâng," chàng cảnh sát trẻ phấn khích đáp lại và lấy từ bàn mình ra thêm một hộp đạn.

    Bishop nhìn vào thắt lưng Mott. "Tôi nghĩ với hai băng đạn sẵn có là đủ rồi."

    "Vâng, chắc chắn rồi." Thế nhưng khi Bishop vừa quay đi, Mott vơ vội một nắm đạn cho vào túi áo khoác.

    Bishop nói với Gillette, "Cậu đi cùng tôi. Chúng ta sẽ ghé qua đón Bob Shelton. Cũng tiện đường. Sau đó chúng ta sẽ cùng tự tay đi tóm tên sát nhân."

    ° ° °

    Thám tử Robert Shelton sống ở một khu bình dân thuộc San Jose, cách cao tốc 280 không xa.

    Trong sân các ngôi nhà đầy rẫy đồ chơi trẻ em bằng nhựa, những chiếc xe bình dân như Toyata, Ford, Chevy đỗ đầy lối đi.

    Frank Bishop tấp lại trước ngôi nhà. Ông không vội bước ra mà có vẻ đang phân vân. Cuối cùng ông lên tiếng, "Tôi muốn cậu biết, về vợ của Bob... Con trai họ đã chết trong một tai nạn xe hơi. Nên vợ ông ấy chưa bao giờ thực sự vượt qua được chuyện đó. Cô ấy uống khá nhiều. Bob nói rằng cô ấy bị ốm. Nhưng sự thực không hẳn là vậy."

    "Tôi hiểu."

    Họ bước đến ngôi nhà. Bishop nhấn chuông cửa. Không có chuông vang lên nhưng có tiếng lầm rầm phát ra từ trong nhà.

    Những giọng nói tức giận.

    Rồi bất thình lình có một tiếng hét.

    Bishop liếc sang Gillette, lưỡng lự giây lát rồi thử mở cửa. Cửa không khóa. Ông đẩy cửa, tay đặt trên cò súng. Gillette bước vào theo.

    Căn nhà như một bãi chiến trường. Bát đĩa bẩn, tạp chí, quần áo vương vãi khắp phòng khách. Mùi chua nồng nặc từ rượu và quần áo bẩn. Bữa ăn cho hai người còn dở dang, những chiếc bánh kẹp pho mát thảm hại vẫn còn nguyên trên bàn. Đã 12:30, là giờ ăn trưa, nhưng Gillette không biết chỗ thức ăn đó là của hôm nay hay hôm qua, hoặc thậm chí trước đó. Họ không thấy một ai, nhưng có tiếng đổ vỡ và tiếng bước chân từ căn phòng phía sau.

    Tiếng quát tháo làm Bishop và Gillette giật mình - giọng phụ nữ méo mó: "Tôi rất ổn! Anh tưởng anh điều khiển được tôi à. Tôi không hiểu thế quái nào anh lại nghĩ thế... chính anh mới khiến tôi bất thường."

    "Anh không...," giọng Bob Shelton cất lên. Nhưng câu nói của ông lẫn vào một tiếng rơi vỡ nữa, như thể có thứ gì đó rơi xuống hoặc có thể bị vợ ông ta ném. "Ôi Chúa ơi," ông hét lên. "Nhìn xem em đã làm gì đây."

    Tay hacker và thám tử đứng chôn chân ở phòng khách, không biết phải làm gì vì đã xâm phạm vào tình huống khó khăn của gia đình này.

    "Tôi sẽ dọn dẹp," vợ Shelton chì chiết.

    "Không, để anh..."

    "Hãy để tôi yên! Anh chả hiểu cái quái gì. Anh không bao giờ ở nhà. Làm sao mà anh hiểu nổi?"

    Gillette tình cờ nhìn thoáng qua ngưỡng cửa một căn phòng gần đó. Hắn liếc mắt nhìn. Căn phòng tối tăm và từ bên trong tỏa ra một mùi mốc meo khó chịu. Tuy vậy điều thu hút sự chú ý của hắn không phải là mùi ấy mà là thứ gì đó ở gần lối đi. Một hộp kim loại vuông.

    "Nhìn kìa."

    "Cái gì thế?" Bishop hỏi.

    Gillette xem xét nó, bật cười ngạc nhiên. "Một ổ cứng Winchester cũ. Loại to. Giờ không ai dùng đến nữa nhưng vài năm trước thì chúng là đỉnh cao công nghệ đấy. Hầu hết mọi người dùng chúng để chạy bảng tin hoặc những trang web sơ khai. Tôi tưởng Bob không rành máy tính."

    Bishop nhún vai.

    Dù vậy câu hỏi tại sao Bob Shelton lại có một ổ máy chủ không bao giờ được trả lời, vì ngay lúc đó, viên thám tử bước vào phòng, chớp mắt bàng hoàng trước sự hiện diện của Bishop và Gillette.

    "Chúng tôi có nhấn chuông," Bishop nói.

    Shelton vẫn đờ người, có vẻ như đang cố nghĩ xem hai kẻ xâm phạm đã nghe được những gì.

    "Emma ổn chứ?" Bishop hỏi.

    "Cô ấy ổn," Shelton thận trọng đáp.

    "Cô ấy có vẻ không...," Bishop cất lời.

    "Chỉ là cảm cúm thôi," Shelton ngắt lời rồi lạnh lùng nhìn Gillette. "Cậu ta làm gì ở đây?"

    "Chúng tôi ghé qua để đón anh, Bob. Chúng tôi đã có manh mối là Phate đang ở Fremont. Chúng ta phải đi ngay."

    "Manh mối?"

    Bishop giải thích về kế hoạch tác chiến ở khách sạn Bay View.

    "OK," ông nói trong khi đưa mắt về phía người vợ có vẻ như đang rấm rứt khóc. "Một phút nữa tôi ra. Anh chờ tôi trong xe được không?" Rồi ông liếc mắt sang Gillette, "Tôi không muốn cậu ta ở trong nhà tôi. OK?"

    "Được, Bob."

    Shelton đợi đến khi Bishop và Gillette ra đến cửa trước mới trở vào căn phòng tối phía sau.


  6. #25
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 25
    Tất cả đều kết thúc bằng việc này...

    Nhiều năm trước, một trong những người thầy của Bishop ở Cảnh sát bang đã chia sẻ những lời này với ông, khi họ chuẩn bị đá tung cánh cửa một căn hộ lên xuống bằng cầu thang bộ gần bến tàu Oakland. Trong đó là năm hay sáu ký thứ gì đó mà những kẻ trong ngôi nhà không chịu giao nộp, cùng với một số vũ khí tự động mà chúng sẵn sàng dùng đến.

    "Tất cả đểu kết thúc bằng việc này" viên cảnh sát già nói. "Hãy quên kế hoạch dự phòng, trực thăng cứu nạn, phóng viên đưa tin, quan hệ công chúng, trống dong cờ mở, sóng phát thanh và mạng máy tính đi. Đơn giản chỉ là cậu và tên tội phạm. Cậu đá tung một cánh cửa, cậu đuổi theo một tên nào đó trong hẻm tối, rồi cậu bước đến cạnh ghế lái của chiếc xe nơi gã đang ngồi sau tay lái và chăm chú nhìn phía trước. Hắn có thể là một công dân mẫu mực, đang cầm sẵn ví và bằng lái, hoặc đang cầm cái 'của nợ' của mình, hay cũng có thể là một khẩu Browning380 đã lên đạn, sẵn sàng hành động vì sự an toàn của bản thân. Hiểu tôi nói gì không?"

    Ồ, Bishop quá hiểu: Bước qua cánh cửa đó là tất cả những gì người cảnh sát phải làm.

    Phóng như bay đến khách sạn Bay View ở Fremont, nơi Phate đang đột kích vào máy tính của CCU, Frank Bishop đắm chìm trong suy nghĩ về những điều viên cảnh sát đó đã nói với ông nhiều năm trước.

    Ông cũng nghĩ đến điều khiến ông chú ý trong tài liệu của người quản giáo nhà tù San Ho về Wyatt Gillette - bài viết của tay hacker này, khi gọi Thế giới máy tính là The Blue Nowhere - Miền xanh thẳm vô định. Một cụm từ mà Frank Bishop tin rằng cũng có thể dùng cho thế giới của những cảnh sát.

    Màu xanh là sắc phục.

    Vô định bởi vì những gì ở đằng sau cánh cửa mà bạn sắp đá tung, hay dưới con hẻm đó hoặc ở ghế trước của chiếc xe bị chặn lại, khác hoàn toàn với bất cứ nơi đâu trên trái đất tươi đẹp của Chúa.

    Tất cả đều kết thúc bằng việc này...

    Vẫn còn rầu rĩ vì chuyện gia đình, Shelton đang cầm tay lái. Bishop ngồi ở ghế sau. Gillette ngồi kế bên ghế lái (Shelton không thoải mái với việc một tù nhân không bị còng tay ngồi ở phía sau hai cảnh sát).

    "Phate vẫn Online và đang tìm cách bẻ khóa các file của CCU," Gillette nói. Tay hacker đang theo dõi màn hình chiếc laptop kết nối Online thông qua di động.

    Họ đến khách sạn Bay View. Bob Shelton phanh gấp và ngoặt xe vào chỗ đỗ theo hướng dẫn của một cảnh sát mặc đồng phục.

    Có hàng tá xe cảnh sát bang và xe tuần tra đã đỗ sẵn ở đó cùng rất nhiều cảnh sát đặc nhiệm mặc đồng phục, thường phục và trang phục có vũ trang vây quanh họ. Bãi đỗ này nằm ngay cạnh Bay View nhưng khuất tầm nhìn từ các cửa sổ.

    Trong một chiếc Crown Victoria khác là Linda Sanchez, cùng với Tony Mott, anh chàng mặc cho thời tiết âm u vẫn làm đỏm với chiếc kính râm hiệu Oakley và đôi găng tay cao su. Bishop băn khoăn không biết làm cách nào Mott tránh được việc tự làm mình hay người khác bị thương trong chiến dịch.

    Anh chàng Tim Morgan sành điệu, hôm nay diện chiếc áo vét có hai hàng cúc màu xanh bị mất dáng vì áo chống đạn, nhìn thấy Bishop cùng Shelton và vội chạy đến bên chiếc xe.

    Tựa vào kính xe, thở đứt hơi, anh ta nói, "Kẻ phù hợp với mô tả của Holloway đã nhận phòng hai tiếng trước dưới tên Fred Lawson. Trả tiền mặt. Hắn có điền thông tin xe vào thẻ đăng ký của khách sạn nhưng không có chiếc xe nào phù hợp trong bãi đỗ. Biển số giả. Hắn ở trong phòng 1-18. Cửa sổ che rèm nhưng hắn vẫn đang kết nối điện thoại."

    Bishop quay sang nhìn Gillette. "Hắn vẫn đang Online?"

    Gillette nhìn vào màn hình Laptop.

    "Vâng."

    Bishop, Shelton và Gillette xuống xe. Sanchez và Mott theo sau.

    "Al," Bishop gọi một anh lính da đen vạm vỡ. Alonso Johnson là đội trưởng đội cảnh sát đặc nhiệm khu vực San Jose, Bishop có cảm tình với anh ta vì sự bình tĩnh và cẩn thận như một viên cảnh sát ít kinh nghiệm, trong khi Tony Mott thì hăng hái một cách nguy hiểm, "Kịch bản là gì?" Bishop hỏi.

    Viên cảnh sát đặc nhiệm mở sơ đồ của khách sạn ra, "Chúng ta có lính ở đây, đây và đây." Anh đập tay lên nhiều chỗ quanh tầng trệt và hành lang tầng một. "Chúng ta không có nhiều thời gian. Sẽ là một cuộc đột kích phòng khách sạn điển hình. Chúng ta sẽ đảm bảo an toàn cho các phòng xung quanh và bên trên. Chúng tôi đã có chìa khóa vạn năng và máy cắt xích. Chúng tôi sẽ vào bằng cửa chính và bắt hắn. Nếu hắn định trốn bằng cửa ngách thì còn đội hai chờ bên ngoài. Các tay bắn tỉa đã sẵn sàng, phòng trường hợp hắn có vũ khí."

    Bishop ngẩng lên và thấy Tony Mott đang siết chặt áo giáp. Anh ta vớ lấy một khẩu shotgun tự động ngắn màu đen và ngắm nghía nó một cách âu yếm. Diện cặp kính râm bao viền và quần soóc cho người đi xe đạp, anh ta trông như thể nhân vật trong một bộ phim giả tưởng dở tệ. Bishop vẫy cậu chàng lại gần và hỏi, "Cậu đang làm gì với nó thế?" Chỉ vào khẩu súng.

    "Tôi chỉ nghĩ mình nên trang bị hỏa lực tốt hơn."

    "Cậu đã bao giờ dùng loại súng này chưa, sỹ quan?"

    "Ai cũng có thể.."

    "Cậu đã bao giờ bắn bằng shotgun chưa?" Bishop kiên nhẫn nhắc lại.

    "Chắc chắn rồi."

    "Kể từ khóa huấn luyện bắn súng ở học viện?"

    "Không hẳn. Nhưng.."

    "Đặt nó xuống," Bishop nói.

    "Còn nữa, sỹ quan?" Alonso Johnson nói khẽ. "Bỏ kính râm ra." Anh liếc mắt về phía Bishop.

    Mott giậm chân bước đi và giao lại khẩu súng cho một nhân viên đặc nhiệm.

    Linda Sanchez đang gọi điện, chắc chắn là cho cô con gái mang bầu, nhưng cô vẫn nghiêm chỉnh chấp hành vị trí ở hàng sau. Không cần phải nhắc nhở, cô tự hiểu công việc đặc nhiệm không phải chuyên môn của mình.

    Nhận được tín hiệu, Johnson khẽ gật đầu rồi ngẩng đầu lên, "Chúng tôi đã sẵn sàng."

    "Tiến hành thôi," Bishop trang trọng nói như thể ông đang lịch sự nhường lối vào thang máy cho người khác.

    Người chỉ huy đội SWAT gật đầu và nói vào chiếc micro nhỏ. Rồi anh ra hiệu cho một số nhân viên trong đội đi theo mình, họ băng qua bụi cây tiến về phía khách sạn. Tony Mott chạy theo, giữ vị trí phía sau như đã được yêu cầu.

    Bishop quay trở lại xe và bật radio theo tần số của đội đặc nhiệm.

    Tất cả đều kết thúc bằng việc này ...

    Từ tai nghe ông thấy tiếng Johnson đột ngột vang lên, "Đi thôi, đi thôi!"

    Bishop căng thẳng, cúi rạp người tiến về phía trước. Liệu Phate có đang chờ họ với khẩu súng trong tay? Bishop băn khoăn. Hay hắn hoàn toàn bất ngờ? Chuyện gì sẽ xảy ra?

    Nhưng câu trả lời là: Chẳng có gì xảy ra cả.

    Một tín hiệu nhiễu từ radio cắt ngang bầu không khí căng thẳng. Alonso Johnson nói, "Frank, căn phòng trống hoác. Hắn không có ở đây."

    "Không có ở đó?" Bishop hỏi một cách ngờ vực, băn khoăn phải chăng họ đã vào nhầm phòng.

    Một lát sau, Johnson trở lại trên sóng radio, "Hắn chuồn rồi."

    Bishop quay sang, thấy Wyatt Gillette đang nhìn chằm chằm vào màn hình máy tính trong chiếc Crown Victoria. Phate vẫn đang Online và Trapdoor vẫn đang tìm cách bẻ khóa folder tài liệu nhân sự. Gillette chỉ màn hình rồi nhún vai.

    Viên thám tử gọi radio cho Johnson, "Chúng tôi thấy hắn vẫn đang phát tín hiệu từ khách sạn này. Chắc chắn hắn phải ở đó."

    "Không có, Frank," Johnson đáp. "Phòng trống không, ngoại trừ một chiếc máy tính, đang kết nối với đường điện thoại. Hai lon Mountain Dew rỗng. Nửa tá hộp đựng đĩa vi tính. Hết. Không vali, không quần áo."

    Bishop nói, "OK, Al, chúng tôi sẽ vào kiểm tra."

    Bên trong căn phòng kín mít và nóng bức, nửa tá cảnh sát tiến hành lục soát ngăn kéo, kiểm tra tủ tường. Trong một góc phòng, Tony Mott cũng đang sốt sắng tìm kiếm như những người khác. Chiếc mũ cơ động trên đầu anh ta trông kém tự nhiên hơn hẳn mũ đi xe đạp, Gillette kết luận.

    Bishop vẫy Gillette lại gần chiếc máy tính đang đặt trên một chiếc bàn rẻ tiền. Trên màn hình là chương trình giải mã. Hắn đánh vài lệnh rồi cau mày. "Khỉ thật, nó là giả. Phần mềm này giải mã mãi một đoạn tin."

    "Vậy thì," Bishop nghĩ ngợi, "Hắn đã lừa chúng ta là hắn đang ở đây... Nhưng để làm gì?"

    Họ tranh luận điều này trong vài phút nhưng không ai tìm ra câu trả lời xác đáng, cho đến khi Wyatt Gillette tình cờ mở nắp một hộp nhựa to đựng đĩa và nhìn vào trong. Anh thấy một hộp kim loại màu vàng lục, trên đó có khắc dòng chữ:

    THUỐC NỔ SÁT THƯƠNG QUÂN ĐỘI MỸ

    ĐỘ PHÁT NỔ CAO

    MẶT NÀY QUAY VỀ PHÍA KẺ THÙ

    Nó được gắn với chiếc hộp nhỏ màu đen, một mắt đèn đỏ bắt đầu nhấp nháy liên hồi trên đó.

  7. #26
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 26
    Thực ra Phate quả thật đang ở trong một khách sạn. Khách sạn đó ở Fremont, California. Và hắn đang ngồi trước một chiếc laptop.

    Tuy nhiên, đó là khách sạn Ramada Inn, cách khách sạn Bay View hai dặm, nơi Gillette - tên Judas phản bội mang tên Valleyman và đám cảnh sát chắc hẳn đang chạy toán loạn khỏi căn phòng, gắng lánh xa khỏi quả bom sát thương có thể nổ tung bất cứ lúc nào.

    Nó sẽ không nổ, chiếc hộp được đổ toàn cát và điều duy nhất thiết bị này làm được là mang lại nỗi sợ hãi rụng rời cho bất cứ kẻ nào đứng đủ gần để nhìn thấy ánh sáng nhấp nháy trên đó, tưởng nó là kíp nổ.

    Phate, tất nhiên, không đời nào giết đối thủ theo cách trang nhã như vậy. Đó là chiến thuật quá tầm thường với một người chơi MUD game Access. Mục đích của hắn là tiếp cận con mồi đủ gần để có thể cảm nhận được trái tim run rẩy của họ khi hắn đâm thẳng mũi dao vào. Hơn nữa, giết chết cả tá cảnh sát sẽ khiến FBI vào cuộc rầm rộ, vậy thì hắn sẽ phải bỏ dở cuộc chơi ở Thung lũng Silicon này. Không đời nào. Hắn tạm bằng lòng với việc giữ Gillette và đám cảnh sát của CCU bận rộn tại Bay View trong một giờ đồng hồ để chờ đội phá bom mang thứ thiết bị khiếp vía đó ra khỏi phòng, nhờ thế Phate sẽ có cơ hội thực hiện kế hoạch hắn ấp ủ từ lâu: Dùng chính cỗ máy của CCU để xâm nhập vào ISLEnet. Hắn cần đăng nhập thông qua CCU để ISLEnet coi hắn là một người dùng gốc và cho hắn quyền truy cập không giới hạn vào hệ thống.

    Phate đã chơi rất nhiều trò game MUD với Vaileyman nên hắn biết Gillette đoán được rằng hắn sẽ thâm nhập vào máy của CCU và sẽ tìm cách lần ra nếu hắn làm thế.

    Vì vậy, sau khi Trapdoor thâm nhập được vào máy tính của CCU, Phate lái xe khỏi Bay View đến khách sạn này, nơi chiếc máy tính thứ hai của hắn đã được khởi động và đang đợi sẵn, Online thông qua kết nối di động từ nhà cung cấp Internet Nam Carolin, có kết nối đến một mạng nặc danh khởi nguồn từ Praha - gần như không thể truy ra.

    Phate xem xét một số file hắn đã sao chép được trong lần đầu thâm nhập vào hệ thống của CCU. Những file này đã bị xóa nhưng chưa bị phá hủy hoàn toàn, nên giờ hắn dễ dàng khôi phục lại bằng phần mềm Restore - một chương trình khôi phục vô cùng hiệu quả. Hắn tìm ra số ID máy tính của CCU, và sau một lát tìm kiếm thêm, hắn có được dữ liệu này:

    Hệ thống: ISLEnet

    Đăng nhập: RobertShelton

    Mật khẩu: BlueFord

    Cơ sở dữ liệu: Tài liệu lưu trữ hoạt động tội phạm Cảnh sát Bang California

    Yêu cầu tìm kiếm: ("Wyatt Gillette" HOẶC "Gillette, Wyatt" HOẶC "Knights of Access" HOẶC "Gillette, W.") VÀ (Computer* HOẶC hack*).

    Hắn thay đổi số ID và địa chỉ Internet cho laptop theo số máy tại CCU, rồi lệnh cho modem của máy quay số điện thoại truy cập ở ISLEnet. Hắn nghe thấy tiếng huýt sáo và âm thanh vo ve của giao thức điện tử. Đây là lúc lẽ ra tường lửa bảo vệ ISLEnet phải từ chối mọi cố gắng xâm nhập từ bên ngoài, nhưng do máy tính của Phate đã ngụy tạo thành máy của CCU nên ISLEnet nhận biết nó là một hệ thống siêu truy cập đáng tin cậy và Phate ngay tức khắc được chào đón vào trong. Hệ thống hỏi:

    Tên người dùng?

    Phate gõ: RobertShelton

    Mật khẩu?

    Hắn gõ: Blueford

    Màn hình trống không và vài chữ viết đơn điệu xuất hiện, tiếp theo là:

    Mạng lưới các Cơ quan Hành pháp Califomia

    MAIN MENU

    Phòng phương tiện gắn máy

    Cảnh sát bang

    Phòng Hộ tịch

    Dịch vụ Pháp lý

    Các trụ sở Hành pháp địa phương

    Los Angeles

    Sacramento

    San Francisco

    San Diego

    Oakland

    Fresno

    Bakersfield

    Hạt Monterey

    Hạt Orange

    Hạt Santa Barbara

    Khác

    Văn phòng Tổng Kiểm sát bang

    Các Cục liên bang

    FBI

    ATF

    Kho bạc

    Thống chế Hợp chủng quốc Hoa Kỳ IRS

    Dịch vụ bưu chính

    Khác

    Cảnh sát liên bang Mexican, Tijuana

    Ban liên lạc Lập pháp

    Quản trị hệ thống

    Như con sư tử vồ lấy cổ một con linh dương, Phate xộc thẳng vào file quản trị hệ thống. Hắn bẻ mật khẩu để giành lấy quyền truy cập gốc - thứ giúp hắn có quyền truy cập không giới hạn trong ISLEnet và tất cả những hệ thống mà ISLEnet có kết nối.

    Tiếp đó hắn quay lại màn hình chính và nhấp vào một mục khác.

    Cảnh sát bang Tuần tra đường cao tốc

    Nhân sự

    Kế toán

    Tội phạm tin học

    Tội phạm hình sự

    Trẻ vị thành niên

    Lưu trữ hành vi tội phạm

    Xử lý dữ liệu

    Dịch vụ quản trị

    Chiến dịch tác chiến

    Tội phạm phổ biến

    Phòng Pháp chế

    Quản lý cơ sở vật chất

    Trát thi hành trọng án chưa thực thi

    Phate không tốn chút thời gian nào để quyết định. Hắn đã biết chính xác mình muốn đến đâu.

    ° ° °

    Đội phá bom đã di chuyển chiếc hộp xám ra khỏi khách sạn Bay View và tháo dỡ nó, rồi vỡ lẽ ra rằng bên trong chỉ toàn là cát.

    "Mục đích của thứ này là cái quái gì vậy?" Shelton gắt gỏng. "Đây có phải một phần trong trò chơi chết tiệt của hắn không? Làm rối trí chúng ta à?"

    Bishop nhún vai.

    Đội phá bom cũng rà soát máy tính của Phate bằng máy dò cảm ứng Nitơ và tuyên bố nó không chứa chất nổ. Gillette liền rê chuột thật nhanh. Chiếc máy chứa hàng trăm file, hắn mở ngẫu nhiên vài file.

    "Toàn những thứ vô nghĩa."

    "Bị mã hóa?" Bishop hỏi.

    "Không, nhìn đây, chỉ là những đoạn trích từ sách, trang web, chữ viết. Tất cả chỉ để lấp chỗ trống." Gillette nhìn lên, đảo mắt liên tục, nhìn chằm chằm trần nhà, ngón tay gõ trong không khí. "Tất cả chuyện này là gì, quả bom giả, những file vô nghĩa?"

    Đã tháo áo giáp và mũ bảo hiểm, Tony Mott nói, "Phải rồi. Phate dựng lên tất cả chuyện này để kéo chúng ta ra khỏi văn phòng, khiến ta bận rộn... Tại sao nhỉ?"

    "Ôi, Chúa ơi," Gillette thốt lên. "Tôi biết tại sao rồi!"

    Frank Bishop cũng thế. Ông vội nhìn sang Gillette và nói,

    "Hắn đang tìm cách xâm nhập ISLEnet!"

    "Chính xác!" Gillette xác nhận. Hắn vồ lấy điện thoại và gọi về CCU.

    "Phòng điều tra tội phạm máy tính. Tôi là Hạ sỹ Miller..."

    "Wyatt đây. Nghe này..."

    Các anh tìm thấy hắn chưa?"

    "Không. Nghe tôi này. Gọi ngay cho quản trị mạng ISLEnet và yêu cầu họ tạm ngưng toàn bộ mạng. Ngay bây giờ."

    Im lặng. "Họ sẽ không làm thế," Miller nói. "Việc đó..."

    "Họ phải làm. Ngay bây giờ! Phate đang tìm cách xâm nhập nó. Có thể hắn đã vào được rồi. Đừng tắt hệ thống, phải đảm bảo nó bị treo. Như thế tôi mới có thể đánh giá được thiệt hại."

    Bishop giằng lấy điện thoại. "Đây là mệnh lệnh, Miller. Ngay bây giờ!"

    "Được, được, tôi sẽ gọi. Họ sẽ không thích đâu. Nhưng tôi sẽ gọi."

    Gillette thở dài. "Hắn nhanh trí hơn. Toàn bộ chuyện này đã được sắp đặt - đăng ảnh Lara Gibson để tìm ra địa chỉ của chúng ta, vào máy của CCU, lừa chúng ta đến đây. Ôi trời, tôi lại tưởng chúng ta đi trước hắn một bước."

    Như một nhân viên chuyển nhà của hãng Mayflower, Linda Sanchez đóng gói toàn bộ bằng chứng, đính thẻ kê khai tang vật và sắp xếp những chiếc đĩa mềm cùng máy tính vào những hộp các tông mà cô mang theo. Họ thu dọn dụng cụ và rời căn phòng.

    Khi Frank Bishop và Wyatt Gillette trở ra xe, họ để ý thấy một gã đàn ông mảnh khảnh để ria mép đang theo dõi họ từ phía bên kia bãi gửi xe.

    Ở anh ta có nét gì đó rất quen thuộc và trong thoáng chốc, Gillette nhớ ra: Charles Pittman, thám tử hạt Santa Clara.

    Bishop nói, "Tôi không thể để hắn thò mũi vào việc của chúng ta. Nửa số cảnh sát ở cấp Hạt thế này chuyên đảm nhận việc theo dõi, như thể đó là một bữa tiệc cho nam sinh." Ông định đi về phía Pittman nhưng tay cảnh sát đã trèo lên xe, nổ máy và phóng đi.

    Bishop gọi cho Cảnh sát trưởng của Hạt. Được nối máy với hộp thư thoại của Pittman, ông để lại một tin nhắn yêu cầu viên cảnh sát gọi lại cho Bishop càng sớm càng tốt.

    Rồi Bob Shelton nhận được một cuộc gọi, ông nghe rồi cúp máy. "Là Stephen Miller. Quản trị mạng đang giận sôi gan nhưng dù sao thì ISLEnet cũng đã bị treo." Ông ta quát vào mặt Gillette, "Cậu nói sẽ đảm bảo hắn không thể xâm nhập vào ISLEnet."

    "Tôi đã chắc chắn thế," Gillette nói với ông ta. "Tôi đã chuyển hệ thống về chế độ offline và hủy mọi thứ dính dáng đến tên đăng nhập và mật khẩu. Hắn chỉ có thể xâm nhập ISLEnet vì ông đã bật lại chế độ Online từ CCU để kiểm tra tôi. Phate chắc chắn đã tìm ra số ID của máy tính CCU để vượt qua tường lửa và sau đó đăng nhập bằng tên và mật khẩu của ông."

    "Không thể nào. Tôi đã xóa mọi thứ."

    "Ông đã xóa sạch bộ nhớ trong trong ổ chưa? Ông đã viết lại các tệp tin trống và tạm thời chưa? Ông mã hóa lịch sử truy cập và viết lại chúng chưa?"

    Shelton im lặng. Ông ta lảng tránh Gillette và nhìn đăm đăm vào màn sương mù đang trôi nhanh về phía vịnh San Francisco.

    Gillette nói, "Không, ông đã không làm vậy. Thế nên Phate mới vào được. Hắn đã chạy chương trình khôi phục và có được mọi thứ hắn cần để đột nhập vào ISLEnet. Nên đừng có trách cứ gì tôi."

    "À, nêu cậu đừng bốc phét chuyện Valleyman và không quen biết Phate, tôi đã chẳng phải Online," Shelton chống chế.

    Gillette tức giận quay đi và tiếp tục bước ra xe. Bishop theo sau hắn.

    "Nếu hắn vào được ISLEnet, ông biết hắn có quyền truy cập những gì đúng không?" Gillette hỏi viên thám tử.

    "Tất cả mọi thứ," Bishop nói. "Hắn sẽ có quyền truy cập vào tất cả mọi thứ."

    Wyatt nhảy vội ra trước khi Bishop kịp dừng hẳn xe ở bãi đỗ trụ sở của CCU. Hắn chạy hộc tốc vào trong.

    "Đánh giá thiệt hại?" Hắn hỏi. Cả Miller và Patricia Nolan đều ở đó nhưng câu hỏi này là dành cho Nolan.

    "Họ vẫn đang offline nhưng một trong những trợ lý quản trị mạng đã đem đến một đĩa ghi những file lịch sử hoạt động. Tôi chuẩn bị xem qua nó đây," Nolan đáp.

    Các file lịch sử hoạt động chứa thông tin cho biết những người dùng nào đã kết nối với hệ thống nào, trong bao lâu, họ làm gì trên mạng và liệu họ có vào một hệ thống khác khi đang kết nối không.

    Gillette tiếp quản công việc và bắt đầu gõ bàn phím một cách tức giận. Hắn lơ đễnh cầm tách cà phê từ sáng, nhấp một ngụm rồi rùng mình vì vị đắng lạnh ngắt. Hắn đặt tách xuống, quay trở lại màn hình, gõ mạnh bàn phím khi lướt qua toàn bộ các file nhật ký của ISLEnet.

    Một lát sau, hắn nhận ra Patricia Nolan đang ngồi kề bên. Cô đặt một tách cà phê mới bên cạnh hắn. Gillette liếc sang và nói, "Cảm ơn."

    Cô mỉm cười. Hắn gật đầu đáp lại, bốn mắt gặp nhau trong chốc lát. Ngồi gần thế này, Gillette nhận thấy da mặt cô rất căng, hắn nhủ thầm chắc hẳn cô ta đã quyết tâm chỉnh trang quá kỹ đến mức phải viện đến phẫu thuật thẩm mỹ. Hắn thoáng nghĩ nếu cô đừng trang điểm quá đậm, mua một ít trang phục đẹp hơn và bỏ cái thói quen cứ vài phút lại hất tóc khỏi mặt, hẳn trông cô cũng hấp dẫn. Không đẹp hay rực rỡ, nhưng cũng dễ nhìn.

    Hắn quay lại màn hình và tiếp tục gõ phím. Những ngón tay bổ xuống đầy giận dữ. Hắn không ngừng nghĩ đến Bob Shelton. Sao một người cũng biết về máy tính đủ để sở hữu một ổ cứng máy chủ Winchester lại có thể bất cẩn đến thế?

    Cuối cùng, hắn ngồi trở lại ghế và thông báo, "Cũng không tệ như tôi tưởng. Phate đã vào được ISLEnet, nhưng mới chỉ trong vòng bốn mươi giây trước khi Stephen treo hệ thống."

    Bishop hỏi, "Bốn mươi giây. Chừng đó đã đủ để hắn lấy được thứ gì hữu ích cho mình chưa?"

    "Không thể nào," tay hacker đáp. "Có thể hắn đã xem được vài file và các danh mục chính, nhưng để vào được những tài liệu mật, hắn cần thêm mật khẩu và phải chạy chương trình bẻ khóa. Việc đó mất ít nhất nửa tiếng."

    Bishop gật đầu, "Ít nhất ta đã được nghỉ giải lao."

    ° ° °

    Bây giờ đã gần 5h chiều, trời lại mưa, và sắp đến giờ cao điểm. Nhưng đối với một hacker thì không có chiều, không có sáng, cũng chẳng có đêm. Đơn giản chỉ là thời gian bạn dành cho Thế giới máy tính và thời gian bạn không dành cho nó.

    Hiện tại thì Phate đang offline.

    Dù vậy, dĩ nhiên, hắn vẫn đang ngồi lì trước máy tính trong ngôi nhà với 101 kiến trúc đáng yêu ở khu E1 Monte, Los Altos. Hắn rê chuột qua từng trang dữ liệu, tất cả được tải về từ ISLEnet.

    Đơn vị điều tra tội phạm máy tính tin rằng Phate mới chỉ xâm nhập vào ISLEnet trong vòng bốn mươi giây. Thế nhưng, họ không hề biết rằng ngay khi hắn vào được hệ thống, một trong những demon thông minh của Trapdoor đã kiểm soát đồng hồ nội bộ và viết lại tất cả những thao tác kết nối, truy cập và download. Sự thực là Phate đã ở trong ISLEnet trong năm mươi hai phút, ung dung tải về hàng gigabyte thông tin.

    Một vài thông tin tình báo trong số đó ở dạng bình thường, nhưng vì máy của CCU có quyền truy cập gốc, nên một số thông tin có tính tối mật đến nỗi chỉ vài ba quan chức hành pháp trong bộ máy Chính phủ của bang và liên bang mới được phép xem: Số và mật khẩu truy cập đến những máy tính tối mật của Chính phủ, mã tấn công chiến thuật, những file đã được mã hóa về các mật vụ đang thực thi, thủ tục giám sát, cùng những thông tin mật về cảnh sát Bang, FBI, Cục Rượu, Thuốc lá và Vũ khí, Bộ Nội vụ và hầu hết các cơ quan hành pháp khác.

    Giờ đây, khi cơn mưa phùn đang chảy thành những vệt nước trên cửa sổ ngôi nhà, Phate tiếp tục rê chuột qua một trong những thư mục mật chứa những tệp tin về nhân sự Cảnh sát bang. Những tài liệu này chứa thông tin về từng cá nhân làm việc cho Cảnh sát bang California. Có rất nhiều thư mục phụ, nhưng ngay lúc này, Phate chỉ quan tâm đến duy nhất một thứ mà hắn đang chăm chú nhìn vào. Thư mục được đặt tên là Ban Thanh tra và nó chứa một số dữ liệu rất hữu ích.


  8. #27
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    IV. ACCESS - TRUY CẬP
    Internet là một nơi an toàn như tiệm tạp hóa ở đông L.A. vào đêm thứ Bảy.

    - Jonathan Littman - The Jugitive Game

    Chương 27
    Suốt thời gian còn lại của buổi tối, toàn đội CCU chúi mũi vào các báo cáo từ khách sạn Bay View, miệt mài tìm kiếm bất cứ manh mối nào về Phate và lo lắng nghe ngóng các báo cáo về các vụ sát hại.

    Một báo cáo cho biết vào buổi sáng cùng ngày, tại một trường tư, một bé gái đã bị một gã đàn ông mạo nhận là chú bắt cóc, rồi lại được thả. Chính xác là cách thức của Phate nhưng khi Huerto Ramirez cùng Tim Morgan kiểm tra ngôi trường và nói chuyện với nạn nhân, họ không tìm được manh mối nào. Cô bé hoảng loạn đến độ không thể nhớ được màu xe của kẻ bắt cóc.

    Những nhân viên khác đã hỏi chuyện hầu hết khách tại khách sạn Bay View và các khu vực xung quanh nhưng không tìm được một nhân chứng nào nhìn thấy kiểu xe con hay xe tải Phate đã lái.

    Một nhân viên bán hàng tại cửa hàng 7-Eleven, khu Fremont có bán hai lốc sáu lon Mountain Dew cho một người có nhận dạng giống Phate vài tiếng trước. Nhưng kẻ sát nhân đã không nói điều gì để có thể giúp lần ra hắn. Cũng không một ai bên trong hay ngoài cửa hiệu để mắt đến chiếc xe của hắn.

    Việc kiểm tra hiện trường phòng khách sạn cũng không cho thấy dấu hiệu nào giúp ích cho việc lần theo Phate đến một địa điểm cụ thể.

    Wyatt Gillette đã giúp Stephen Miller, Linda Sanchez và Tony Mott phân tích chiếc máy tính bị bỏ lại trong phòng. Tay hacker xác nhận rằng đó quả thật là một máy tính nóng, chỉ tải đúng những phần mềm giúp cho việc đột nhập. Nó không chứa bất cứ thông tin gì cho thấy Phate có thể đang ở đâu. Số seri hãng Toshiba cho thấy nó thuộc chuyến hàng gửi tới Computer World ở Chicago sáu tháng trước. Người mua trả bằng tiền mặt, chưa từng điền phiếu bảo hành hay đăng ký trên mạng. Tất cả những chiếc đĩa máy tính Phate bỏ lại trong phòng là đĩa trắng. Linda Sanchez - nữ hoàng khảo cổ máy tính, kiểm tra từng chiếc một bằng chương trình Restore8 và nhận thấy không chiếc nào từng chứa dữ liệu.

    Sanchez tiếp tục bận rộn với con gái, cứ vài tiếng lại gọi một lần để hỏi thăm tình hình. Rõ ràng là cô muốn đến chỗ con bé, thế nên Bishop cho phép cô về nhà. Ông cũng giải tán những người còn lại, Miller và Mott - chàng cảnh sát tóc vàng hoe đang phấn chấn tinh thần sau trải nghiệm với đội SWAT, về nhà ăn tối và ngủ.

    Patricia Nolan, ngược lại, không vội về khách sạn. Cô ngồi sát cạnh Gillette và cùng rê chuột qua từng tệp tin ISLEnet, gắng tìm hiểu thêm về Trapdoor demon. Tuy vậy, không có dấu hiệu nào về chương trình này và Gillette báo cáo rằng bot chắc chắn đã tự hủy.

    Một lát sau, Gillette mệt mỏi ngả người, bẻ khớp ngón tay và vươn vai. Bishop nhìn thấy hắn đang để ý tới một nắm các mẩu giấy báo tin nhắn điện thoại màu hồng. Khuôn mặt sáng bừng lên, hắn hào hứng cầm lên xem. Rõ ràng là hắn rất thất vọng vì không có cái nào dành cho mình, có lẽ hắn buồn vì cô vợ cũ không gọi điện, như hắn đã cầu xin cô tối qua.

    Ồ, Frank Bishop hiểu rằng không chỉ những công dân gương mẫu mới có cảm xúc đối với người thân yêu. Ông đã tóm cổ hàng tá sát nhân vô lại, những kẻ đã khóc òa khi bị còng tay dẫn đi, không phải vì nghĩ về những năm tháng khổ sở trước mắt, mà vì bị chia cắt khỏi vợ con.

    Bishop lại để ý thấy những ngón tay của tay hacker bắt đầu đánh máy, không, là gõ phím vào không khí, trong khi mắt vẫn dán lên trần nhà. Có phải hắn đang viết điều gì đó cho vợ? Hay có lẽ hắn đang xin ý kiến hay trợ giúp từ người cha - một kỹ sư ở tận vùng cát bụi Trung Đông, hoặc đang nói với anh trai rằng khi nào được thả, hắn muốn đến sống với anh ta một thời gian.

    "Chẳng có gì cả," Nolan càu nhàu. "Chúng ta sẽ chẳng đi đến đâu hết."

    Trong một khoảnh khắc, Bishop cũng cảm nhận được nỗi thất vọng trên khuôn mặt cô. Nhưng rồi ông nghĩ, chờ một chút... Mình sắp quẫn trí ở đây mất. Ông nhận ra mình đã lún quá sâu vào sự thôi miên của cụm từ Blue Nowhere - Miền xanh thẳm vô định. Nó đã bóp méo suy nghĩ của ông. Đoạn ông bước lại chiếc bảng trắng và chăm chú nhìn những ghi chú về bằng chứng, những bản in và các bức ảnh.

    Hãy làm điều gì đó với nó...

    Bishop liếc sang bản in của bức ảnh khủng khiếp chụp nạn nhân Lara Gibson.

    Hãy làm điều gì đó...

    Viên thám tử bước lại gần bức ảnh, xem xét nó thật kĩ lưỡng.

    "Hãy nhìn này," ông nói với Shelton. Viên cảnh sát đậm người ủ rũ bước đến bên cạnh.

    "Cái này thì sao?"

    "Anh thấy gì nào?"

    Shelton nhún vai. "Tôi không biết. Thế anh thấy gì?"

    "Tôi thấy những manh mối," Bishop đáp. "Những thứ khác trong tấm ảnh này - trên sàn nhà, trên những bức tường... Chúng có thể cho chúng ta biết điều gì đó về nơi Phate đã giết cô ta, tôi chắc chắn."

    Gillette lỉnh lên phía trước và chăm chú nhìn bức ảnh khủng khiếp đó.

    Trong ảnh, cô gái tội nghiệp ở cận cảnh. Bishop chỉ ra những thứ khác mà bức ảnh tiết lộ: Sàn nhà nơi cô gái nằm được lát đá màu xanh lục. Có một ống dẫn kim loại mạ kẽm chạy từ một máy điều hòa hoặc máy sưởi màu be. Bức tường là mặt sau chưa sơn của tấm vữa từ hãng Sheetrock, được đóng vào những cột gỗ. Đây có thể là gian chứa máy sưởi trong một tầng hầm đang hoàn thiện. Anh cũng có thể thấy một phần của cánh cửa sơn trắng và thứ gì đó có vẻ là thùng rác ngay bên cạnh, đầy ắp rác rưởi.

    Bishop nói, "Chúng ta sẽ gửi tấm ảnh đến FBI. Hãy để chuyên gia của họ xem xét nó thật kĩ."

    Shelton lắc đầu. "Tôi không biết nữa, Frank. Tôi nghĩ hắn thông minh hơn việc ăn đâu bày đấy. Quá dễ bị lần ra." Ông hất mặt về phía bức ảnh. "Hắn đã giết cô ta ở chỗ khác. Không thể là nơi hắn sống được."

    Nhưng Nolan nói, "Tôi không đồng ý. Ông đã đúng nói khi nói rằng hắn là một kẻ thông minh, nhưng hắn không nhìn nhận mọi việc theo cách của chúng ta."

    "Nghĩa là sao?"

    Gillette dường như hiểu ngay vấn đề. "Phate không nghĩ về Thế giới thực. Hắn tìm cách che giấu tất cả bằng chứng về máy tính nhưng tôi nghĩ hắn có thể đã bỏ sót những manh mối vật chất."

    Bishop nghiêng đầu về phía bức ảnh. "Tầng hầm này nhìn khá mới, cả chiếc máy sưởi cũng thế. Hoặc là máy điều hòa, dù là cái gì đi nữa. Bên FBI có thể tìm ra xem có chủ thầu nào làm nhà riêng bằng vật liệu của những hãng này. Chúng ta có thể khoanh vùng tòa nhà."

    Shelton nhún vai. "Sẽ rất mất thời gian đấy. Nhưng cũng chẳng hại gì nhỉ?"

    Bishop gọi cho một người bạn ở FBI. Ông kể về tấm ảnh và những gì họ cần biết. Họ chuyện trò một lúc, rồi viên thám tử gác máy.

    "Anh ấy sẽ tự tải một bản gốc của bức ảnh và gửi đến phòng thí nghiệm," Bishop nói. Rồi viên thám tử liếc xuống chiếc bàn cạnh đó và để ý thấy một phong bì to gửi cho ông. Tờ lộ trình bưu phẩm cho thấy nó được gửi từ Phòng lưu trữ trung tâm ban trẻ vị thành niên thuộc Cảnh sát bang California, chắc hẳn nó được gửi đến khi ông đang ở Bay View. Ông mở thư và đọc qua nội dung. Đó là tài liệu của Tòa án vị thành niên về Gillette mà ông đã gửi yêu cầu khi tay hacker trốn đi đêm qua. Ông bỏ xuống bàn rồi nhìn chiếc đồng hồ bụi bặm trên tường. Đã 10:30. "Tôi nghĩ tất cả chúng ta cần đi nghỉ thôi," ông nói.

    Shelton không nhắc gì đến vợ nhưng Bishop hiểu là ông rất nóng lòng về nhà với vợ. Viên thám tử đậm người rời đi sau khi gật đầu chào đồng sự. "Gặp anh sáng mai, Frank." Ông cười chào Nolan. Gillette thì không nhận được một lời nói hay cử chỉ tạm biệt nào.

    Bishop nói với Gillette, "Tôi không muốn qua đêm ở đây nữa. Tôi sẽ về nhà. Và cậu sẽ đi cùng tôi."

    Nghe thấy thế, Patricia Nolan quay đầu về phía tay hacker. Cô nói một cách thân mật, "Tôi còn rất nhiều phòng ở khách sạn. Công ty trả cho cả tầng. Anh có thể ở lại nếu muốn. Còn có một minibar rất tuyệt nữa."

    Nhưng ngài thám tử cười khúc khích, nói, "Vụ này cũng đủ làm tôi sắp thất nghiệp đến nơi rồi. Tốt hơn là cậu ấy đi với tôi. Tù nhân chịu giám hộ, cô biết rồi đấy."

    Nolan chấp nhận chịu thua. Bishop nghĩ cô đã bắt đầu từ bỏ những suy nghĩ lãng mạn về Gillette. Cô nhặt ví, laptop cùng một chồng đĩa mềm và rồi đi.

    Khi Bishop và Gillette bước ra khỏi cửa, tay hacker hỏi, "Ông không phiền nếu chúng ta dừng một chút trên đường đi chứ?"

    "Dừng một chút?"

    "Tôi muốn mua một thứ," Gillette nói. "Ồ, mà nhân tiện nói chuyện đó, tôi có thể mượn ông vài đô la được không?"


  9. #28
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 28
    Đến nơi rồi," Bishop nói.

    Họ dừng xe trước một ngôi nhà kiểu nông trang nhỏ nhắn nhưng nằm giữa một bãi cỏ xanh tươi, áng chừng khoảng nửa mẫu Anh, một mảnh đất có thể coi là lớn trong khu vực Thung lũng Silicon này.

    Gillette hỏi tên thị trấn và Bishop trả lời là Moutain View. Rồi ông nói thêm, "Tất nhiên tôi không thực sự nhìn thấy ngọn núi nào. Cảnh duy nhất tôi thấy là khu nhà của ông hàng xóm Dodge, vào những ngày quang đãng thì là nhà chứa máy bay khổng lồ ở Monett Filed." Ông chỉ về phía bắc, bên kia dòng đèn xe cộ ngược xuôi dọc cao tốc 101.

    Họ đi dọc trên vỉa hè quanh co rạn nứt và lồi lõm tệ hại. Bishop nói, "Cẩn thận bước chân cậu đó. Tôi cũng định sửa mấy lần rồi. Cậu phải biết đó là nhờ dãy đứt gãy San Andreas 1 đấy. Nó cách đây ba dặm về phía kia. Này, nếu cậu không phiền thì hãy lau chân đã."

    Ông mở cửa và dẫn tay hacker vào trong nhà.

    Vợ của Frank Bishop - Jennie, là một người phụ nữ nhỏ nhắn độ gần bốn mươi tuổi. Khuôn mặt ngắn của cô không xinh đẹp nhưng lại rất lôi cuốn và có nét gì đó hiền dịu. Trong khi Bishop có mái tóc xịt keo, tóc mai dài và áo sơ mi tay ngắn màu trắng - đích thực là một kẻ du hành xuyên thời gian đến từ thập niên năm mươi thì vợ ông lại là một bà nội trợ rất thời thượng. Mái tóc dài bện kiểu Pháp, quần jean, áo sơ mi hàng thiết kế. Trông cô rất gọn gàng và khỏe mạnh, dù với Gillette - một người vừa thoát khỏi nhà tù và xung quanh toàn những người California rám nắng, cô có vẻ xanh xao.

    Cô không có vẻ gì là ngạc nhiên khi chồng mang gã tội phạm về nhà ngủ lại qua đêm, nên Gillette tự nhủ hẳn cô đã nhận được điện thoại báo trước về vị khách.

    "Anh đã ăn chưa?" Cô hỏi.

    "Chưa," Bishop đáp.

    Nhưng Gillette giơ lên túi giấy đựng thứ họ đã ghé mua trên đường từ CCU về. "Tôi ổn với cái này."

    Rất tự nhiên, Jennie giật lấy cái túi, nhìn vào trong. Cô bật cười. "Cậu sẽ không ăn tối bằng bánh Pop-Tarts. Cậu cần một bữa ăn thực sự."

    "Không, thật ra..." Ngoài mặt thì cười mà lòng đau như cắt, Gillette đành nhìn món bánh của mình biến mất vào trong nhà bếp.

    Rất gần, mà lại rất xa...

    Bishop tháo dây, cởi giầy rồi đi đôi dép lê trong nhà vào. Tay hacker cũng tháo giày, và chân đi tất bước vào phòng khách, nhìn ngó xung quanh.

    Nơi này gợi cho Gillette nhớ về những ngôi nhà tuổi thơ của mình. Thảm trải sàn màu trắng đã tới lúc phải thay. Đồ đạc của hãng JCPenney hoặc Sears. Một chiếc ti vi đắt tiền và dàn âm thanh rẻ tiền. Chiếc bàn ăn cũ đang được trưng dụng thành bàn làm việc, có vẻ hôm nay là ngày thanh toán các hóa đơn. Cả tá bì thư được bày ra cẩn thận chờ gửi đi. Pacitic Bell, Mervyn's, MasterCard, Visa.

    Gillette ngắm nghía mấy cái khung ảnh đặt trên bệ lò sưởi. Có đến mấy chục khung như thế. Trên tường, bàn và giá sách còn nhiều hơn. Trong tấm ảnh cưới của cặp đôi là một Frank Bishop trẻ trung, trông giống hiện tại, vẫn hai hàng mai và tóc xịt keo (tuy nhiên chiếc sơ mi trắng bên dưới áo vét tuxedo được giữ thẳng thớm nhờ một chiếc thắt lưng vải to bản).

    Bishop thấy Gillette đang chăm chú xem ảnh. "Jennie gọi nhà chúng tôi là Thế giới khung ảnh. Chúng tôi có nhiều ảnh hơn cả hai gia đình bất kỳ trong dãy phố gộp lại." Ông hất đầu về phía sau. "Còn vô số trong phòng ngủ và phòng tắm nữa. Bức ảnh mà anh đang xem - là bố và mẹ tôi."

    "Ông ấy có phải là cớm không? Khoan, ông có thấy phiền khi bị gọi là cớm không?"

    "Thế anh có thấy phiền khi bị gọi là hacker?"

    Gillette nhún vai. "Không. Chuẩn mà."

    "Cớm cũng thế. Nhưng không, bố tôi sở hữu một công ty in ở Oakland. Bishop và các con trai. Phần 'các con trai' không chính xác hoàn toàn vì giờ hai trong số các chị gái tôi đang điều hành nó, cùng với hầu hết các anh em trai."

    "Hai trong số?" Gillette nhướng mày. "Hầu hết?"

    Bishop bật cười. "Tôi là con thứ tám trong số chín anh chị em. Năm con trai và bốn con gái."

    "Thế mới là gia đình."

    "Tôi có cả thảy hai mươi chín đứa cháu cả trai và gái," ông tự hào nói.

    Gillette nhìn bức ảnh chụp một người đàn ông gầy guộc mặc chiếc áo lùng thùng như của Bishop đang đứng trước một tòa nhà một tầng, ngoài mặt tiền là một bảng hiệu, Công ty In ấn và sắp chữ Bishop và các con trai.

    "Ông không muốn theo nghiệp à?"

    "Tôi thích ý tưởng công ty gia đình." Ông cầm bức ảnh lên và nhìn nó chăm chú. "Tôi nghĩ gia đình là điều quan trọng nhất trên đời. Nhưng nói thật với cậu, tôi không giỏi nghiệp in ấn. Nhàm chán, cậu biết đấy. Việc trở thành một cảnh sát... Nói thế nào nhỉ? Nó dường như vô tận, không có điểm dừng. Luôn có thứ gì đó mới mẻ, mỗi ngày. Ngay khi anh nghĩ mình đã hiểu được tâm địa bọn tội phạm, thì bùm, anh lại thấy một viễn cảnh hoàn toàn khác."

    Ai đó lại gần. Họ quay lại.

    "Nhìn xem chúng ta có gì đây nào," Bishop nói.

    Một cậu nhóc tầm tám tuổi đang đứng ở lan can nhòm vào phòng khách.

    "Lại đây nào, chàng trai trẻ.

    Bận một bộ pajama trang trí bằng những con khủng long nhỏ xíu, cậu bé bước vào phòng khách, ngước nhìn Gillette.

    "Chào chú Gillette đi con. Đây là Brandon."

    "Chào chú."

    "Chào Brandon," Gillette nói. "Cháu thức khuya thế."

    "Cháu muốn chúc bố ngủ ngon. Nếu bố không về nhà quá muộn thì mẹ cho cháu thức."

    "Chú Gillette viết phần mềm cho máy tính đấy."

    "Chú viết các tập lệnh?" Cậu bé hào hứng hỏi.

    "Đúng thế," Gillette nói, bật cười vì cách gọi ngắn gọi của các nhà lập trình dành cho phần mềm lại bật ra một cách dễ dàng khỏi miệng cậu bé.

    Cậu bé nói, "Ở trường, chúng cháu viết các chương trình trong phòng máy tính. Chương trình chúng cháu viết tuần trước làm quả bóng nảy khắp màn hình."

    "Nghe vui đấy," Gillette ướm lời, để ý đôi mắt tròn xoe háo hức của cậu bé. Các nét của bé hầu hết là giống mẹ.

    "Không," Brandon nói, "Nó chán òm. Chúng cháu phải dùng Basic. Cháu sẽ học O-O-P."

    Ngôn ngữ lập trình hướng đến đối tượng (Object-oriented programming) - xu hướng mới nhất, được minh họa bằng ngôn ngữ C++ phức tạp.

    Cậu bé nhún vai. "Còn có Java và HTML cho Net nữa. Nhưng ai mà chẳng biết nó."

    "Vậy khi lớn lên cháu muốn theo ngành máy tính?"

    "Không, cháu sẽ chơi bóng chày chuyên nghiệp. Cháu chỉ muốn học O-O-P vì mọi thứ bây giờ đều xoay quanh nó."

    Đây là một học sinh tiểu học đã phát mệt vì Basic với đôi mắt bị che lấp bởi khía cạnh lợi thế của lập trình.

    "Sao con không chỉ cho chú Gillette máy tính của con."

    "Chú có chơi Tomb Raider không?" Cậu bé hỏi. "Hoặc Earthworm Jim?"

    "Chú cũng không hay chơi game lắm."

    "Cháu sẽ chỉ cho chú. Đi nào."

    Gillette đi theo cậu bé vào một căn phòng ngổn ngang sách, đồ chơi, dụng cụ thể thao và quần áo. Những tập truyện Harry Porter đặt gần bàn, bên cạnh một đĩa Game Boy, hai đĩa "N Sync và một tá đĩa mềm. Ồ, quả là bức tranh điển hình về thời đại của chúng ta, Gillette thầm nghĩ.

    Ở giữa phòng là một chiếc máy tính dòng IBM và hàng tá sách hướng dẫn sử dụng phần mềm. Brandom ngồi xuống, và với tốc độ gõ phím thần tốc, thằng bé khởi động máy và tải một trò game. Gillette nhớ lại khi hắn tầm tuổi cậu bé, phiên bản đỉnh cao trong Thế giới máy tính cá nhân là chiếc Trash-80 mà hắn đã chọn khi cha hắn nói rằng Gillette có thể tự chọn quà cho mình ở Radio Shack. Chiếc máy tính nhỏ bé đó đã khiến hắn vô cùng sung sướng, nhưng tất nhiên nó chỉ là một món đồ chơi thô sơ nếu so với chiếc máy được đặt hàng qua email đang ở trước mắt hắn. Vào thời điểm đó - mới vài năm trước, chỉ vài người trên thế giới sở hữu những chiếc máy có sức mạnh như chiếc mà Brandon đang dùng để điều khiển một cô gái xinh đẹp mặc chiếc váy bó sát màu xanh vượt qua các hang động với khẩu súng trong tay.

    "Chú có muốn chơi không?"

    Nhưng điều này khiến hắn liên tưởng đến trò chơi 'Access' kinh khủng và bức ảnh cô gái nạn nhân của Phate (tên của cô cũng là Lara, giống như nhân vật nữ anh hùng trong trò chơi của Brandom), hiện giờ thì hắn không muốn bất kỳ điều gì liên quan đến bạo lực, kể cả chỉ trong không gian hai chiều.

    "Có lẽ để sau vậy."

    Trong vài phút, hắn quan sát đôi mắt hào hứng của cậu bé long lanh trước màn hình máy tính. Rồi viên thám tử ngó vào cửa. "Tắt đèn thôi, con trai."

    "Bố nhìn xem con đến level nào rồi này! Năm phút nữa thôi."

    "Không. Đến giờ đi ngủ rồi."

    "Ôi, bố..."

    Bishop kiểm tra xem cậu bé đã đánh răng và nhét bài tập vào cặp chưa. Ông hôn chúc con ngủ ngon, tắt máy tính và đèn, chỉ để lại một nguồn sáng duy nhất là chiếc đèn ngủ hình phi thuyền Star Wars.

    Ông nói với Gillette, "Đi nào. Tôi sẽ cho cậu xem pháo đài của tôi."

    "Cái gì cơ?"

    Bishop dẫn Gillette đi qua nhà bếp, nơi Jennie đang làm bánh kẹp, và ra cửa sau.

    Tay hacker khựng lại chỗ cổng vòm, ngạc nhiên trước những gì nhìn thấy trước mặt. Hắn bật cười.

    "Phải, tôi là một nông dân," Bishop tuyên bố.

    Những hàng cây ăn quả - có lẽ phải đến năm mươi hàng, chiếm toàn bộ sân sau.

    "Chúng tôi chuyển đến đây mười tám năm trước - ngay khi vùng Valley bắt đầu khởi sắc. Tôi vay mượn đủ để mua hai lô. Nơi này vốn là nông trang. Đây là cây mơ và cây anh đào."

    "Anh làm gì với chúng, bán à?"

    "Hầu hết là đem cho. Đến Giáng sinh, nếu anh quen với nhà Bishop, anh sẽ nhận được mứt hoặc trái cây sấy. Những người mà chúng tôi thực sự yêu quý thì được tặng rượu anh đào."

    Gillette ngắm nghía những bình tưới và bình phun sương. "Ông khá nghiêm túc với việc này đây nhỉ," tay hacker nhận xét.

    "Nó giúp tôi thăng bằng." Khi về nhà, tôi với Jennie cùng ra đây và chăm sóc cây cối. Như thể bỏ lại sau lưng tất cả những thứ xấu xa tôi phải giải quyết trong ngày."

    Họ đi dọc những luống cây. Sân sau đầy những ống và vòi nhựa, hệ thống tưới tiêu của viên cảnh sát. Gillette chỉ vào chúng, "Ông biết không, ông có thể vận hành một chiếc máy tính bằng nước đấy."

    "Có thể à? Ồ, ý anh là một thác nước để chạy một tua bin tạo ra điện."

    "Không, ý tôi là thay vì dòng điện chạy qua dây, ông có thể sử dụng nước chảy qua các ống dẫn có van để mở hoặc tắt dòng nước. Tất cả máy tính đều như thế, ông biết đấy. Tắt hoặc mở một dòng chảy."

    "Có thật thế không?" Bishop hỏi. Ông có vẻ thật sự quan tâm.

    "Bộ xử lý máy tính cũng chỉ là những công tắc nhỏ cho phép hoặc không cho phép những hạt điện tích chạy qua. Tất cả những bức ảnh ông nhìn thấy trên máy tính, những bản nhạc, bộ phim, file Word, bảng tính, trình duyệt, các cỗ máy tìm kiếm, mạng Intemet, các phép toán học, virus... mọi thứ mà một chiếc máy tính làm đều bắt nguồn từ nguyên lý cơ bản này. Không có phép màu nào cả. Chỉ là bật hoặc tắt những công tắc nhỏ thôi."

    Viên cảnh sát gật gù rồi nhìn Gillette vẻ thấu hiểu. "Trừ một điều là anh không tin điều đó, đúng không?"

    "Ý ông là gì?"

    "Anh nghĩ những chiếc máy tính thật sự là phép màu."

    Sau một hồi im lặng, Gillette bật cười. "Vâng, đúng thế đấy."

    Họ cứ đứng nơi hàng hiên thêm vài phút, nhìn ngắm những cành cây sáng lấp lánh. Sau đó Jennie Bishop gọi họ vào ăn tối. Hai người bước vào nhà bếp.

    Jennie nói, "Tôi phải đi ngủ rồi. Ngày mai tôi rất bận. Rất vui được gặp cậu, Wyatt." Cô bắt tay anh thật chặt.

    "Cảm ơn vì đã cho tôi nghỉ lại. Tôi rất cảm kích."

    Cô quay sang nói với chồng, "Em hẹn khám lúc mười một giờ ngày mai."

    "Em có muốn anh đi cùng không? Anh sẽ đi. Bob có thể tiếp quản công việc trong vài giờ."

    "Không. Anh bận tối mắt rồi. Em sẽ ổn thôi. Nêu bác sỹ Williston thấy có gì lạ, em sẽ gọi cho anh từ bệnh viện. Nhưng sẽ không có chuyện gì đâu."

    "Anh sẽ mang di động theo."

    Cô đã dợm bước rồi lại quay ra với một cái nhìn nghiêm nghị. "Ồ, nhưng có một thứ anh phải làm ngày mai đây."

    "Gì thế, em yêu?" Ông lo lắng hỏi.

    "Chiếc Hoover." Cô hất đầu về phía chiếc máy hút bụi nằm ở góc nhà, tấm nhựa phía trước đã bị trật ra và đường ống phủ bụi treo bên cạnh. Một số phụ tùng khác nằm trên một tờ báo gần đó. "Hãy tiếp quản nó."

    "Anh sẽ sửa," Bishop nói. "Chắc chỉ là bụi hoặc thứ gì đó mắc trong mô tơ."

    Cô càu nhàu, "Anh đã có một tháng rồi. Giờ đến lúc mời chuyên gia thôi."

    Bishop quay sang Gillette. "Cậu có biết gì về máy hút bụi không?"

    "Không. Rất tiếc."

    Viên thám tử nhìn sang vợ. "Ngày mai anh sẽ mang nó đi sửa. Hoặc ngày kia."

    Một nụ cười thấu hiểu. "Địa chỉ chỗ sửa ở trên tờ giấy nhắn màu vàng kia. Anh thấy không?"

    Ông hôn vợ, "Ngủ ngon, em yêu." Và Jennie đi khuất sau lan can.

    Bishop đứng dậy bước đến tủ lạnh. "Tôi cho là mời một tù nhân một cốc bia cũng chẳng khiến tôi gặp rắc rối hơn cái mớ bòng bong mà tôi đang mắc phải."

    Gillette lắc đầu. "Cảm ơn nhưng tôi không uống."

    "Không?"

    "Có một điều về hacker: Chúng tôi không bao giờ uống thứ gì gây buồn ngủ. Vào một nhóm thảo luận về hacking - chẳng hạn như alt.hack, ông sẽ thấy một nửa bài đăng nói về việc tháo tung các công tắc của Pac Bell hay đột nhập vào Nhà Trắng, nửa còn lại là về lượng caffeme trong các loại đồ uống mới nhất."

    Bishop rót cho mình một cốc Budweiser. Ông liếc nhìn cánh tay của Gillette, hình xăm con mòng biển và cây cọ. "Hình đó xấu tệ, tôi phải nói vậy. Đặc biệt là con chim đó. Sao cậu lại xăm nó?"

    "Lúc đó tôi đang học đại học ở Berkeley. Tôi đã hack liên tục trong ba mươi sáu tiếng trước khi đến bữa tiệc đó."

    "Rồi sao? Cậu làm thế vì bị thách đố à?"

    "Không, tôi ngủ quên và thức dậy thì đã thấy nó rồi. Đến giờ vẫn chưa tìm ra thủ phạm."

    "Nó khiến cậu trông kiểu như cựu lính thủy."

    Tay hacker nhìn quanh để chắc chắn Jennie đã đi ngủ rồi bước đến quầy bếp, nơi cô đã vứt túi Pop-Tarts. Anh mở túi rồi lấy ra bốn chiếc bánh, mời Bishop một chiếc.

    "Không phải cho tôi, cảm ơn."

    "Tôi cũng sẽ ăn thịt bò nướng," Gillette nói, chỉ về phía những chiếc bánh kẹp của Jennie. "Chỉ là, trong tù lúc nào tôi cũng mơ về những thứ này. Chúng là loại đồ ăn tuyệt nhất đối với các hacker - nhiều đường và ông có thể mua qua mạng, chúng cũng không bị thiu." Hắn ngốn một lúc hai cái. "Thậm chí có khi còn chứa các loại vitamin. Tôi không biết nữa. Đây là nguồn năng lượng chính của tôi khi hack. Pop-Tarts, pizza, Moutain Dew và Jolt cola." Lát sau, Gillette hạ thấp giọng, hỏi, "Vợ ông có ổn không? Cuộc hẹn mà bà nhắc đến ấy?"

    Hắn thấy bàn tay viên thám tử thoáng lưỡng lự khi ông nhấc cốc bia lên và nhấp một ngụm. "Cũng không có gì nghiêm trọng... Vài xét nghiệm thôi." Rồi, như để chuyển hướng câu chuyện, ông nói, "Tôi đi xem Brandon thế nào đây."

    Vài phút sau ông quay lại thì túi Pop-Tarts mà Gillette cầm đã rỗng không. "Tôi không để dành cho ông đâu."

    "Không sao," Bishop cười và ngồi xuống.

    "Thằng bé thế nào?"

    "Nó ngủ rồi. Cậu và vợ đã có con chưa?"

    "Chưa. Lúc đầu thì chúng tôi không muốn... À, nên nói là tôi không muốn. Nhưng đến lúc tôi muốn, tôi lại bị bắt. Rồi sau đó chúng tôi ly hôn."

    "Vậy cậu thích trẻ con chứ?"

    "Ôi, có chứ." Anh nhún vai, chùi vụn bánh vào tay rồi thả lên một cái khăn giấy. "Anh tôi có hai con, một trai một gái. Tôi rất hay vui đùa với chúng."

    "Anh trai cậu à?" Bishop hỏi.

    "Ricky," Gillette nói. "Anh ấy sống ở Montana. Anh ấy làm quản lý công viên, ông tin hay không cũng được. Anh ấy và Carole - vợ anh ấy, có một tổ ấm tuyệt vời. Kiểu nhà bằng gỗ ghép, dù vậy cũng khá là to." Hắn hất đầu về phía sân sau nhà Bishop. "Ông sẽ ngưỡng mộ vườn rau của họ. Chị ấy là một thợ làm vườn tuyệt vời."

    Đôi mắt Bishop nhìn xuống mặt bàn. "Tôi đã đọc hồ sơ của cậu."

    "Hồ sơ của tôi?" Gillette hỏi.

    "Hồ sơ thời vị thành niên của cậu. Thứ mà cậu đã quên không hủy."

    Tay hacker chậm rãi cuộn tròn tờ giấy ăn trong tay, rồi lại trải ra. "Tôi tưởng chúng phải được bảo mật."

    "Đối với mọi người. Chứ không phải với cảnh sát."

    "Tại sao ông lại làm thế?" Gillette lãnh đạm hỏi.

    "Vì cậu đã trốn khỏi CCU. Tôi đã yêu cầu một bản sao khi chúng tôi phát hiện cậu trốn mất. Tôi nghĩ có thể có chút thông tin giúp tìm ra cậu." Giọng nói điềm tĩnh của viên thám tử tiếp tục vang lên, "Báo cáo của nhân viên xã hội cũng được gửi kèm về cuộc sống gia đình cậu. Hay sự thiếu thốn cuộc sống gia đình... Kể cho tôi đi. Tại sao cậu phải nói dối mọi người?"

    Gillette im lặng hồi lâu.

    "Tại sao mày lại nói dối?" Gillette nghĩ.

    Bạn nói dối vì bạn có thể làm thế.

    Bạn nói dối vì trong Miền xanh thẳm vô định, bạn có thể dựng lên bất cứ chuyện gì bạn muốn và chẳng ai biết những gì bạn nói không phải là sự thật. Bạn có thể vào bất kỳ phòng chat nào, nói với cả thế giới rằng bạn đang sống trong một căn nhà to đẹp ở Simnyvale, Menlo Park hoặc Walnut Creek và cha bạn là một luật sư, hay bác sỹ hoặc phi công và mẹ bạn là nhà thiết kế hay chủ hàng hoa rồi bạn trai Rick của bạn là ngôi sao đua xe vô địch bang. Rồi bạn có thể tiếp tục nói với thế giới về việc cha con bạn cùng tạo nên một chiếc máy tính Altair từ bộ đồ nghề, liên tục sáu đêm mỗi khi ông đi làm về, và đó là lý do khiến bạn đam mê máy tính.

    Một người tuyệt vời.

    Bạn có thể nói với cả thế giới rằng, mặc dù mẹ đã qua đời đột ngột vì đau tim, bạn vẫn rất gần gũi với cha. Là một kỹ sư dầu khí, ông phải đi khắp nơi nhưng vẫn luôn về nhà thăm các con vào kỳ nghỉ. Và khi ông về, bạn qua nhà ông mỗi Chủ nhật để ăn tối với ông cùng người vợ mới rất tốt bụng của ông, rồi thỉnh thoảng hai cha con vào phòng làm việc của ông để cùng sửa lỗi phần mềm hoặc chơi một game MUD.

    Và đoán thử xem?

    Cả thế giới tin lời bạn. Bởi vì ở Miền xanh thẳm vô định, thứ duy nhất mà người ta phải vượt qua là các byte bạn tạo ra bằng những ngón tay vụng về của mình.

    Thế giới chẳng bao giờ biết được tất cả chỉ là dối trá.

    Thế giới cũng chẳng bao giờ biết bạn là đứa con duy nhất của một người mẹ đã ly hôn, người luôn làm việc khuya đến ba hay bốn đêm một tuần rồi lại đi chơi với 'bạn bè', luôn là đàn ông, vào những đêm còn lại. Và bà chết không phải vì trái tim bệnh tật mà vì cả lá gan và tinh thần của bà đều bị hủy hoại, khi bạn mới mười tám tuổi.

    Thế giới không bao giờ biết được rằng cha bạn - người đàn ông không có nghề nghiệp tử tế, đã kết thúc sứ mệnh dường như là duy nhất trong cuộc đời mình, bằng cách rời bỏ mẹ con bạn vào ngày bạn lên lớp ba.

    Và tổ ấm của bạn là một loạt những nhà gỗ cùng xe mooc ở khu tồi tàn nhất Thung lũng Silicon. Thứ tài sản duy nhất bạn có là một chiếc máy tính rẻ tiền. Hóa đơn duy nhất được thanh toán đúng hạn là hóa đơn điện thoại vì bạn tự trả bằng tiền công giao báo, để có thể tiếp tục kết nối với thứ giúp bạn không phát điên vì buồn chán lẫn cô đơn: Miền xanh thẳm vô định.

    OK, Bishop, ông đã bắt được tôi. Không cha, không anh em. Một người mẹ ích kỷ và nghiện ngập. Và tôi - Wyatt Edward Gillette, một mình trong phòng với những người bạn: Trash-80, Apple, Kaypro, máy tính để bàn, Toshiba, Sun SPARC station...

    Cuối cùng, Gillette ngước lên và làm điều hắn chưa từng làm bao giờ, kể cả với vợ mình, hắn kể toàn bộ câu chuyện cho một người khác. Frank Bishop ngồi bất động, chăm chú nhìn khuôn mặt u ám, trống rỗng của Gillette. Khi câu chuyện kết thúc, Bishop nói,

    "Vậy là cậu đã social engineer cả tuổi thơ của mình."

    "Phải."

    "Khi cha tôi bỏ đi, tôi lên tám," Gillette nói, hai tay nắm lấy chai cola, những ngón tay chai sần gõ lên bề mặt kim loại lạnh ngắt như thể đang gõ các phím. T-Ô-I-T-Á-M T-U-Ổ-I-K-H-I... "Cha tôi, ông ấy từng phục vụ trong không quân. Ông đóng quân ở Travis và ở lại đó sau khi giải ngũ. À, thỉnh thoảng ông ở đó. Hầu hết thời gian, ông ra ngoài với bạn bè trong quân ngũ hoặc... À, ông có thể đoán ra ông ấy ở chỗ nào khi không về nhà ban đêm. Ngày ông ấy bỏ đi là lần duy nhất chúng tôi từng nói chuyện nghiêm túc. Lúc đó mẹ tôi không có nhà, ông vào phòng tôi nói rằng ông định đi mua đồ, sao tôi không đi cùng ông. Điều đó hơi kỳ cục vì chúng tôi chưa từng làm bất cứ việc gì cùng nhau cả."

    Gillette hít sâu, cố gắng giữ bình tĩnh. Những ngón tay của hắn gõ điên cuồng trên lon soda như một cơn dông câm lặng.

    B-ì-N-H Y-Ê-N. B-ì-N-H Y-Ê-N

    "Khi đó chúng tôi sống ở Burlingame, gần sân bay. Rồi tôi và cha lấy xe và lái đến khu mua sắm nhỏ đó. Ông mua cho tôi thứ gì đó ở một hiệu thuốc rồi dẫn tôi đi ăn tối cạnh ga tàu. Món ăn được dọn ra nhưng tôi quá lo lắng nên không ăn được. Ông ấy còn không để ý thấy điều đó. Rồi bỗng nhiên, ông đặt dĩa xuống, nhìn tôi và nói rằng ông không hạnh phúc với mẹ tôi thế nào và ông cần phải ra đi ra sao. Tôi vẫn nhớ cách ông đặt dĩa. Ông nói rằng sự bình yên trong tâm hồn ông đã bị hủy hoại và ông cần phải đi vì chính bản thân mình."

    B-ì-N-H-Y-Ê-N...

    Bishop lắc đầu. "Ông ấy nói chuyện với cậu như thể cậu là một ông bạn trong quán rượu. Không phải với một cậu bé, không phải con trai mình. Thật tệ."

    "Ông nói rằng ra đi là một quyết định khó khăn nhưng đó là điều đúng đắn và hỏi liệu tôi có cảm thấy mừng cho ông không."

    "Ông ấy hỏi cậu như vậy ư?"

    Gillette gật đầu. "Tôi không nhớ mình đã nói gì. Sau đó chúng tôi rời nhà hàng và bước ra phố. Có lẽ ông để ý thấy tôi buồn nên khi nhìn thấy cửa hiệu ấy, ông nói, Con nói xem con thích gì, con cứ vào đó và mua bất cứ thứ gì con muốn."

    "Một phần thưởng an ủi."

    Gillette cười và gật đầu. "Tôi đoán chính xác là như vậy đấy. Cửa hiệu đó là Radio Shack. Tôi bước vào và chỉ biết đứng đó, nhìn quanh quất. Tôi không nhìn thấy gì hết, tôi đã quá đau đớn và bối rối, cố kìm nén để không khóc. Tôi lấy ngay thứ đầu tiên mình nhìn thấy. Một chiếc máy Trash-80."

    "Một cái gì cơ?"

    "Một chiếc TRS-80. Một trong những chiếc máy tính cá nhân đầu tiên."

    B-Ấ-T c-ứ T-H-ứ G-ì C-O-N M-U-Ố-N...

    "Tôi đem nó về nhà và tối hôm đó bắt đầu chơi với nó. Rồi tôi nghe thấy mẹ về nhà, sau đó cha mẹ xô xát rồi cha đi mất. Chuyện là thế đấy."

    M-I-Ề-N X-A-N-H T-H-Ẳ-M V-Ô...

    Gillette cười mỉm, những ngón tay vẫn gõ nhẹ. "Bài báo mà tôi viết? Miền xanh thẳm vô định?"

    "Tôi nhớ," Bishop nói. "Có nghĩa là không gian ảo."

    "Nhưng nó cũng mang một ý nghĩa khác," Gillette chậm rãi nói.

    V-Ô Đ-Ị-N-H.

    "Là gì?"

    "Cha tôi từng phục vụ không quân, như tôi đã nói. Và khi tôi còn rất nhỏ, ông thường rủ bạn trong quân ngũ đến và chè chén ồn ào say sưa. Đôi lần họ hát bài hát của không quân, Trời xanh Tự do trên cao - The Wild Blue Yonder. Đó, sau khi họ ra về, tôi vẫn nghe thấy bài hát ấy vang lên trong đầu, chỉ là tôi đổi trên cao (yonder) thành vô định (nowhere), the Wild Blue Nowhere, vì ông đã ra đi. Ông ấy đã ở một nơi vô định, nơi tôi không biết." Gillette nuốt nghẹn khó nhọc. Anh nhìn lên, "Khá là ngớ ngẩn, đúng không?"

    Nhưng dường như Frank Bishop không cho rằng điều đó có gì là ngớ ngẩn. Giọng nói đầy cảm thông như thể một người thân trong gia đình, ông hỏi, "Cậu có bao giờ nghe được tin tức gì từ ông ấy không? Hoặc điều gì đã xảy ra với ông ấy?"

    "Không. Không chút manh mối nào." Gillette cười. "Thỉnh thoảng cũng có lúc tôi nghĩ mình nên đi tìm ông ấy."

    "Cậu rất giỏi tìm người trên mạng mà."

    Gillette im lặng. Cuối cùng anh cất tiếng, "Nhưng tôi không nghĩ mình sẽ làm thế."

    Những ngón tay chuyển động dữ dội. Càng về cuối càng chậm dần, vì những vết chai tay khiến Gillette không cảm nhận được cái lạnh của lon soda.

    C-H-Ú-N-G T-A Đ-I - V-À-O

    "Mọi chuyện rồi cũng tốt lên. Tôi học Basic, ngôn ngữ lập trình, khi tôi chín hay mười tuổi, và tôi thường dành hàng giờ viết chương trình. Những chương trình đầu tiên có thể khiến chiếc máy nói chuyện với tôi. Tôi gõ xin chào, và chiếc máy đáp lại Chào Wyatt. Bạn thế nào? thế là tôi liền gõ Khỏe, và nó sẽ hỏi, Hôm nay bạn làm gì ở trường? tôi cố nghĩ ra những điều mà một người cha thực sự sẽ hỏi để lập trình cho chiếc máy.

    B-Ấ-T C-Ứ- T-H-Ứ- G-Ì - C-O-N- M-U-Ố-N...

    "Tất cả những email mà mọi người nghĩ là cha tôi đã gửi cho thẩm phán và những bản fax anh tôi gửi đề nghị tôi đến sống cùng anh ấy ở Motana, cùng những báo cáo của các nhà tâm lý học về cuộc sống gia đình tuyệt vời mà tôi có, về chuyện cha tôi là người cha tuyệt vời nhất?... Tôi đã tự viết tất cả."

    "Tôi rất tiếc," Bishop nói.

    Gillette nhún vai. "Này, tôi vẫn tồn tại. Cũng chẳng có vấn đề gì."

    "Có thể là có đấy," Bishop nhỏ nhẹ nói.

    Họ ngồi yên lặng trong vài phút. Rồi viên thám tử đứng dậy và bắt đầu rửa chén đĩa. Gillette cũng giúp ông, họ nói chuyện vẩn vơ - về giỏ lan của Bishop, về cuộc sống ở San Ho. Khi họ sấy khô bát đĩa xong, Bishop uống hết cốc bia rồi kín đáo liếc sang tay hacker. Ông nói, "Tại sao cậu không gọi cho cô ấy?"

    "Gọi à? Cho ai?"

    "Vợ cậu."

    "Cũng muộn rồi," Gillette phản đối.

    "Thế thì đánh thức cô ấy dậy. Cô ấy sẽ không tuyệt giao đâu. Tôi thấy có vẻ cậu cũng còn gì để mất đâu." Bishop đẩy chiếc điện thoại về phía Gillette.

    "Tôi nên nói gì?" Anh ngập ngừng nhấc ống nghe.

    "Cậu sẽ nghĩ ra điều gì đó."

    "Tôi không biết."

    Viên cảnh sát hỏi, "Cậu nhớ số chứ?"

    Gillette quay số theo trí nhớ, rất nhanh, trước khi kịp chùn lại và ngẫm nghĩ: Nếu em trai cô ấy nghe máy thì sao? Nếu là mẹ cô ấy? Nếu...

    "A lô."

    Cổ họng hắn nghẹn lại.

    "A lô?" Elana nhắc lại.

    "Là anh đây"

    Một quãng im lặng, chắc chắn là cô đang kiểm tra đồng hồ.

    Tuy vậy, cô không nhắc đến chuyện giờ giấc muộn.

    Tại sao cô ấy không nói gì cả?

    Tại sao anh ấy không nói?

    "Bỗng nhiên muốn gọi cho em. Em đã thấy cái modem đó chưa? Anh để lại trong hòm thư."

    Elana im lặng hồi lâu. Rồi cô nói, "Em đang ở trên giường."

    Một ý nghĩ héo hắt: Liệu cô ấy có đang nằm một mình? Hay Ed đang nằm bên? Trong nhà bố mẹ cô? Nhưng anh vứt nỗi ghen tuông sang một bên và nhẹ nhàng hỏi, "Anh có đánh thức em không?"

    "Anh có gì muốn nói không, Wyatt?"

    Anh nhìn Bishop nhưng ông chỉ nhướng mày nhìn anh một cách không kiên nhẫn.

    "Anh..."

    Elena nói, "Em phải đi ngủ đây."

    "Ngày mai anh gọi cho em được không?"

    "Tốt hơn là anh không nên gọi đến nhà. Hôm trước Christian đã nhìn thấy anh và nó không vui đâu."

    Cậu em trai hai mươi hai tuổi của cô - một sinh viên xuất sắc ngành marketing với tính khí của một ngư dân Hy Lạp, nó đã dọa đánh Gillette ở phiên tòa.

    "Vậy hãy gọi cho anh lúc nào em một mình. Vào số máy anh đưa em hôm qua."

    Im lặng.

    "Em có nó chưa?" Anh hỏi. "Số điện thoại?"

    "Em có rồi. Tạm biệt anh."

    "Đừng quên gọi cho luật sư về..."

    Điện thoại lặng lẽ ngắt và Gillette gác máy.

    "Tôi xử trí không tốt lắm."

    "Ít nhất cô ây đã không gác máy ngay lập tức. Thế là có gì đó rồi." Bishop bỏ chai bia vào thùng rác. "Tôi không thích làm việc khuya - tôi không thể ăn khuya mà không uống bia, nhưng sau đó tôi lại phải thức dậy vài lần giữa đêm để đi tiểu. Đó là vì tôi đang già đi. À, mai chúng ta sẽ có một ngày khó khăn đấy. Đi chợp mắt chút thôi."

    Gillette hỏi, "Ông sẽ còng tay tôi vào chỗ nào đó à?"

    "Trốn thoát hai lần trong hai ngày là rất tệ, kể cả đối với một hacker. Tôi nghĩ chúng ta bỏ qua cái còng tay thôi. Phòng cho khách ở kia. Trong phòng tắm có bàn chải mới và khăn."

    "Cảm ơn."

    "Ở đây chúng tôi thức dậy lúc sáu giờ mười lăm." Viên thám tử biến mất vào gian phòng mờ tối.

    Gillette nghe thấy tiếng ván sàn cọt kẹt, tiếng nước chảy trong đường ống. Một cánh cửa đóng lại.

    Thế là chỉ còn lại một mình hắn, bị bủa vây bởi màn đêm tịch mịch, trong một ngôi nhà xa lạ, những ngón tay lơ đãng gõ hàng tá thông điệp lên một chiếc máy vô hình.

    Nhưng chưa đến sáu giờ mười lăm, hắn đã bị chủ nhà đánh thức. Mới chỉ hơn năm giờ.

    "Chắc hẳn là lễ Giáng sinh rồi," viên thám tử nói, tay nhấn công tắc bật đèn trần lên. Ông vận bộ pijama màu nâu. "Chúng ta có quà đây."

    Cũng giống như hầu hết các hacker khác, Gillette cảm thấy rằng nên tránh giấc ngủ như tránh bệnh cúm, nhưng hắn vẫn chưa sẵn sàng thức dậy. Mắt nhắm mắt mở, hắn lẩm bẩm, "Có quà à?"

    "Triple-X gọi vào di động của tôi năm phút trước. Anh ta có địa chỉ email thật của Phate. Là deathknell@mol.com."

    "MOL? Tôi chưa từng nghe đến nhà cung cấp dịch vụ Internet nào có tên như thế." Gillette lăn khỏi giường, cố gắng chống lại cơn chóng mặt.

    Bishop nói tiếp, "Tôi đã gọi cho mọi người trong đội. Họ đang trên đường đến văn phòng."

    "Nghĩa là cả chúng ta nữa à?" Tay hacker ngái ngủ càu nhàu.

    "Phải, nghĩa là chúng ta nữa."

    Hai mươi phút sau, họ đã tắm rửa và mặc đồ chỉnh tề. Trong bếp, Jennie đã pha sẵn cà phê nhưng họ ăn sáng luôn, để đến văn phòng CCU sàng sớm càng tốt. Bishop hôn tạm biệt vợ. Ông nắm tay vợ và nói, "Cuộc hẹn gặp bác sỹ của em... Chỉ cần em gọi, anh sẽ đến bệnh viện ngay trong vòng mười lăm phút."

    Jenme hôn lên trán ông. "Anh yêu, em chỉ phải làm vài xét nghiệm. Thế thôi."

    "Không, không, không, em nghe này," ông nói một cách hết sức nghiêm túc, "Anh sẽ gọi. Anh hứa."

    Khi họ ra đến cửa, một tiếng động bất ngờ vang lên ầm ĩ cả gian bếp. Jennie Bishop rê tới lui chiếc máy hút bụi đã được lắp lại hoàn chỉnh trên thảm sàn. Cô tắt máy và ôm chầm lấy chồng.

    "Giỏi lắm," Jennie nói. "Cảm ơn anh yêu."

    Bishop cau mày bối rối. "Anh..."

    Gillette vội ngắt lời. "Một việc như thế phải mất cả nửa đêm ấy chứ."

    "Và anh ấy còn dọn dẹp hậu trường nữa chứ," Jennie Bishop nói với nụ cười hài hước. "Đây mới là phần kỳ diệu."

    "À...," Bishop lên tiếng.

    "Chúng ta nên đi thôi," Gillette ngắt lời.

    Jennie vẫy chào họ và bắt tay vào làm bữa sáng cho Brandon, mắt âu yếm nhìn chiếc máy hút bụi vừa được sửa lại.

    Khi hai người bước ra ngoài, Bishop thì thầm với tay hacker, "Vậy là sao? Cậu có mất đến cả nửa đêm không?"

    "Để sửa máy hút bụi?" Gillette đáp. "Không, chỉ mười phút. Lẽ ra chỉ cần năm phút thôi nhưng tôi không tìm thấy dụng cụ. Tôi phải sử dụng dao làm bếp và cái kẹp quả hạch.

    Viên thám tử nói, "Tôi không nghĩ là cậu biết về máy hút bụi."

    "Thực ra là không. Nhưng tôi rất tò mò tại sao nó không hoạt động. Vì vậy mà bây giờ tôi đã biết tuốt về máy hút bụi rồi. Gillette trèo vào xe rồi quay sang Bishop. "Này, liệu chúng ta co thể dừng một lát ở 7-Eleven được không? Nếu như tiện đường.

    --------------------------------
    1
    Đứt gãy San Andreas là một đứt gãy chuyển dạng lục địa, có độ dài khoảng 1.300 km (800 dặm), cắt qua Califomia, Hoa Kỳ).

  10. #29
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 29
    Đhưng, dù có được những thông tin mà Triple-X cung cấp qua điện thoại, Phate - trong hiện thân mới là Deathknell, vẫn nằm ngoài tầm với.

    Ngay khi đến CCU, Gillette khởi động HyperTrace và chạy lệnh tìm kiếm MOL.com. Hắn khám phá ra rằng tên đầy đủ của nhà cung cấp dịch vụ Internet này là Monterey Intemet Online. Nó có trụ sở tại Padfic Grove, California, cách San Jose khoảng một trăm dặm về phía nam. Nhưng khi họ liên hệ bên bảo mật của Pac Bell ở Salinas yêu cầu truy cuộc gọi từ MOL đến máy tính của Phate thì hóa ra không hề có Monterey Internet Online nào cả và vị trí địa lý thật của máy chủ là ở Singapore.

    "Ôi, thật là láu cá," Patricia Nolan lẩm bẩm trong bộ dạng ngái ngủ, nhấp một ngụm cà phê Starbucks. Buổi sáng giọng cô rất trầm, nghe như giọng đàn ông. Cô ngồi xuống cạnh Gillette. Trông cô vẫn lôi thôi như thường ngày trong chiếc váy liền màu xanh mềm mại. Rõ ràng là một người không hay dậy sớm, Nolan thậm không buồn chải mái tóc lòa xòa trên mặt.

    "Tôi không hiểu," Shelton nói, "Cái gì láu cá? Tất cả là thế nào?"

    Gillette nói, "Phate tự tạo một nhà cung cấp Internet cho riêng mình. Và hắn là khách hàng duy nhất. À, có thể cả Shawn nữa. Còn máy chủ mà chúng kết nối lại đang ở Singapore - chẳng có cách nào để truy ngược lại máy của chúng."

    "Giống như một tập đoàn ốc mượn hồn ở đảo quốc Cayman Islands," Frank Bishop nói. Dù trước đó ông chỉ có ít kiến thức về Miền xanh thẳm vô định, nhưng cũng khá giỏi áp dụng phép ẩn dụ của Thế giới thực.

    "Nhưng," Gillette nói tiếp, nhìn thấy sự thất vọng trên khuôn mặt mọi người trong đội, "địa chỉ này cũng rất quan trọng."

    "Tại sao?" Bishop hỏi

    "Bởi vì như thế nghĩa là chúng ta có thể gửi cho hắn một bức thư tình."

    ° ° °

    Linda Sanchez bước qua cửa trước của CCU, tay xách túi Dunkin' Donuts, mắt thâm quầng cùng bước đi uể oải. Cô nhìn xuống và thấy chiếc áo khoác da của mình cài lệch cúc, nhưng cũng không buồn cài lại mà vẫn tiếp tục đặt thức ăn lên đĩa.

    "Có thêm nhánh mới trên cây gia phả nhà cô chưa?" Bishop hỏi.

    Cô lắc đầu. "Chuyện là thế này, tôi đã xem một bộ phim kinh dị, ok? Bà tôi nói là có thể kích đẻ bằng cách kể chuyện ma. Anh đã bao giờ nghe chuyện đó chưa, sếp?"

    "Hoàn toàn mới mẻ với tôi," Bishop nói.

    "Dù sao, chúng tôi đoán một bộ phim kinh dị cũng có tác dụng tương tự. Nên tôi thuê phim Tiếng thét - Scream. Rồi thì sao? Con tôi và chồng nó ngủ gật trên đi văng nhưng bộ phim làm tôi phát khiếp đến mức không ngủ nổi. Thế là tôi thức nguyên đêm luôn."

    Cô đi vào phòng cà phê và mang bình ra.

    Wyatt Gillette nhận ly cà phê bằng vẻ cảm kích, đây là ly thứ hai của hắn, nhưng trong bữa sáng hắn chỉ đắm mình vào những cái Pop-Tarts.

    Vài phút sau, Stephen Miller đến, ngay sau đó là Tony Mott, mướt mát mồ hôi vì đạp xe.

    Gillette giải thích cho toàn đội về việc Triple-X đã gửi cho họ địa chỉ mail thật của Phate và kế hoạch gửi tin nhắn cho Phate.

    "Ta sẽ nói gì trong thư?" Nolan hỏi.

    "Phate thân mến," Gillette nói. "Tôi đang rất vui, ước gì anh cũng ở đây, nhân tiện, đây là ảnh một xác chết."

    "Cái gì," Miller hỏi.

    Gillette hỏi Bishop, "Ông có thể cho tôi một bức ảnh hiện trường tội phạm được không? Ảnh một xác chết ấy?"

    "Để tôi xem," viên thám tử đáp.

    Gillette ra hiệu về phía tấm bảng trắng. "Tôi sẽ giả là một hacker ở Bulgari từng trao đổi ảnh với hắn, Vlast. Tôi sẽ tải lên cho hắn một tấm ảnh."

    Nolan bật cười và gật đầu. "Và hắn sẽ nhận được một con virus cùng với nó. Anh sẽ tiếp quản máy của hắn."

    "Tôi sẽ cố."

    "Tại sao cậu cần gửi ảnh?" Shelton hỏi. Ông ta có vẻ không thoải mái với ý tưởng gửi bằng chứng tội phạm kinh khủng lên Miền xanh thẳm vô định cho tất cả mọi người xem.

    "Virus của tôi không thông minh như Trapdoor. Với virus này, Phate phải làm gì đó để kích hoạt nó, nhờ thế tôi mới có thể thâm nhập vào hệ thống của hắn. Hắn sẽ phải mở tấm ảnh đính kèm để con virus hoạt động."

    Bishop gọi cho trụ sở chính. Cảnh sát gửi bản fax một bức ảnh hiện trường của vụ giết người gần đây đến CCU.

    Gillette liếc nhìn bức ảnh - một phụ nữ trẻ bị đánh bằng dùi cui đến chết, rồi vội quay đi ngay. Stephen Miller scan tấm ảnh sang dạng file mềm để họ có thể tải lên bằng email. Viên cảnh sát có vẻ miễn dịch với tội ác kinh hoàng trong bức ảnh và thực hiện việc scan ảnh như thường lệ. Anh đưa cho Gillette chiếc đĩa chứa hình ảnh.

    Bishop hỏi, "Nếu như Phate thấy email từ Vlast và trả lời lại để hỏi xem đó có đúng là email của anh ta hoặc phản hồi lại thì sao?"

    "Tôi đã nghĩ đến chuyện đó. Tôi sẽ gửi một virus khác đến Vlast, nó sẽ chặn mọi email gửi từ Mỹ."

    Gillette vào mạng để lấy bộ dụng cụ được lưu trữ tại phòng thí nghiệm không quân ở Los Alamos. Hắn tải xuống và tự sửa đổi theo ý muốn, các virus và chương trình email nặc danh của mình, không thể tin tưởng Stephen Miller nữa. Sau đó hắn gửi một bản sao của virus Chặn mail đến Vlast, và gửi cho Phate phiên bản Blackdoor-G của chính Gillette. Đây là một loại virus phổ biến cho phép một người dùng từ xa có thể tiếp quản máy tính của người khác, thường là khi họ cùng sử dụng một mạng máy tính - tương tự như hai nhân viên cùng làm trong một công ty. Tuy vậy, phiên bản của Gillette vẫn phát huy tác dụng với hai máy tính bất kỳ, chúng không nhất thiết phải kết nối trong cùng một hệ thống.

    "Máy của chúng ta có cài cảnh báo. Nếu Phate mở bức ảnh khiến virus của tôi được kích hoạt thì sẽ có âm báo ở đây. Tôi sẽ xâm nhập vào máy của hắn, rồi chúng ta sẽ cũng xem xét xem có thể tìm được gì để lần ra hắn hoặc Shawn không... hoặc tìm hiểu về nạn nhân tiếp theo."

    Điện thoại reo, Miller bắt máy. Anh nói với Bishop, "Của anh, là Charles Pittman."

    Đang rót cà phê, Bishop nhấn nút loa ngoài trên điện thoại.

    "Cảm ơn vì đã gọi lại, cảnh sát Pittman."

    "Không có gì, thám tử." Giọng nói của anh ta bị bóp méo vì chiếc loa rẻ tiền. "Tôi có thể giúp gì cho ông?"

    "Ồ, Charlie này, tôi biết vụ Peter Fowler của anh vẫn để ngỏ. Nhưng lần tới khi chúng tôi đang có vụ điều tra, tôi sẽ phải yêu cầu anh hoặc bất kỳ ai thuộc Cảnh sát Hạt liên hệ trước với tôi để chúng ta có thể hợp tác."

    Im lặng. "Nghĩa là sao?"

    "Tôi đang nói đến chiến dịch ở khách sạn Bay View hôm qua đấy."

    "Chuyện gì cơ?" Giọng nói qua chiếc loa lộ vẻ bối rối.

    "Lạy chúa," Bob Shelton nói, đưa cặp mắt băn khoăn sang đồng sự. "Anh ta không biết gì về chuyện đó. Gã mà anh nhìn thấy không phải là Pittman."

    "Anh sỹ quan này," Bishop hỏi gấp gáp, "Có phải tối hôm kia anh làm quen với tôi ở Sunnyvale?"

    "Chúng ta có hiểu nhầm ở đây rồi, thưa ngài. Tôi đang ở Oregon, đi câu cá. Tôi nghỉ phép được một tuần rồi và ba ngày nữa tôi mới về. Tôi chỉ gọi về văn phòng để nhận tin nhắn. Tôi thấy ông nhắn tôi nên gọi lại. Đó là tất cả những gì tôi biết."

    Tony Mott nghiêng đầu về phía chiếc loa. "Ý anh là hôm qua anh không hề đến trụ sở CCU của cảnh sát bang?"

    "Uhm, không, thưa ngài. Như tôi đã nói. Oregon. Câu cá."

    Mott nhìn Bishop. "Đấy là gã tự nhận là Pittman ở bên ngoài khách sạn hôm qua. Hắn nói vừa có cuộc họp ở đây. Tôi đã không nghi ngờ gì cả."

    "Không, hắn không vào đây," Miller nói.

    Bishop hỏi Pittman, "Sỹ quan, có báo cáo gì về kỳ nghỉ của anh không?"

    "Chắc chắn rồi. Chúng tôi luôn gửi một thông báo."

    "Bằng giấy? Hay là qua email?"

    "Hiện giờ chúng tôi dùng email cho tất cả mọi việc," viên sỹ quan nói một cách dè dặt. "Người ta nghĩ Cảnh sát Hạt không cập nhật như mọi người, nhưng không phải thế."

    Bishop giải thích, "À, ai đó đã và đang sử dụng tên của anh. Với phù hiệu và căn cước giả."

    "Chết tiệt. Tại sao?"

    "Có thể là liên quan đến một vụ điều tra giết người mà chúng tôi đang theo đuổi."

    "Tôi nên làm gì?"

    "Gọi cho chỉ huy của anh và yêu cầu báo cáo về dữ liệu máy tính. Nhưng mặt khác, chúng tôi sẽ rất biết ơn nếu anh tạm thời giữ kín chuyện này. Sẽ rất hữu ích nếu tên vô lại đó không hay chúng tôi đã biết chuyện. Đừng gửi bất cứ thứ gì bằng email. Chỉ sử dụng điện thoại thôi."

    "Chắc chắn rồi. Tôi sẽ gọi về trụ sở ngay bây giờ."

    Bishop xin lỗi Pittman vì đã trách nhầm anh và gác máy. Ông liếc nhìn cả đội. "Lại là social engineering." Ông nói với Mott, "Hãy mô tả hắn, gã mà anh nhìn thấy ấy."

    "Gầy, có ria mép. Mặc một chiếc áo mưa tối màu."

    "Y như gã chúng tôi nhìn thấy ở Sunnyvale. Lúc đó hắn đang làm gì?"

    "Có vẻ hắn đang rời văn phòng nhưng tôi không thực sự thấy hắn bước ra khỏi cửa. Có lẽ hắn đang rình mò xung quanh."

    Gillette nói, "Là Shawn. Chắc chắn là thế."

    Bishop đồng tình. Ông nói với Mott, "Tôi và anh cùng phác thảo hắn." Ông quay sang Miller, "Các anh có bộ Identikit ở đây không?"

    Đó là một chiếc cặp ca táp đựng những tấm nhựa trong suốt với hình ảnh các kiểu nét khác nhau trên khuôn mặt, có thể kết hợp để nhân chứng dựng lại hình ảnh kẻ tình nghi - về cơ bản nó là một họa sỹ cảnh sát gói gọn trong chiếc hộp.

    Nhưng Linda Sanchez lắc đầu. "Chúng tôi không hay dùng nhận dạng khuôn mặt."

    Bishop nói, "Tôi có một bộ trong xe. Tôi sẽ quay lại ngay."

    ° ° °

    Trong văn phòng, tại phòng ăn của mình, Phate đang gõ phím một cách tự mãn. Một lá cờ hiện lên màn hình, cho biết hắn vừa nhận được một email gửi vào địa chỉ cá nhân của hắn, Deathknell.

    Hắn để ý thấy nó được gửi bởi Vlast, gã bạn người Bulgari.

    Có cả file đính kèm email. Thời gian trước họ thường hay trao đổi những bức ảnh giết chóc, nhưng cũng đã lâu rồi. Hắn băn khoăn liệu đó có thật sự là thư Vlast gửi.

    Phate rất tò mò muốn biết gã kia gửi gì cho mình nhưng hắn phải chờ cho đến khi tìm hiểu rõ đã. Còn hiện tại, hắn đang rất phấn khích với chuyến đi săn mới nhất cùng Trapdoor. Sau một tiếng phá mã mật khẩu tính theo thời gian của siêu máy tính, cuối cùng Phate đã nắm quyền truy cập gốc một hệ thống máy tính không xa nhà hắn ở Los Altos là mấy. Cũng khá mất thời gian để xâm nhập vì một khi kẻ nào đó có toàn quyền kiểm soát hệ thống đặc biệt này, hắn có thể gây hại khủng khiếp đến rất nhiều, rất nhiều người.

    Hắn rê chuột qua menu.

    Kế toán

    Trung tâm Y tế Standford

    Packard Palo AI to, Califomia

    MAIN MENU

    1. Quản trị

    2. Nhân sự

    3. Tiếp nhận bệnh nhân

    4. Hồ sơ bệnh án

    5. Các phòng ban theo chuyên môn

    6. CMS

    7. Quản lý cơ sở vật chất

    8. Trung tâm Phục hồi chức năng Tyler-Kresge

    9. Dịch vụ Cấp cứu

    10. Hồi sức tích cực

    Hắn dành thời gian xem xét toàn bộ và cuối cùng chọn số 6. Một bảng menu mới xuất hiện.

    Dịch vụ y tế vi tính

    1. Lịch Phẫu thuật

    2. Kế hoạch quản lý và liều lượng thuốc

    3. Cấp Oxygen

    4. Lịch hóa trị/xạ trị ung thư

    5. Kế hoạch và lịch ăn của bệnh nhân

    Hắn gõ 2 và nhấn ENTER

    ° ° °

    Trong khu để xe của CCU, Bishop đang đi lấy bộ Identikit. Ông cảm nhận có một mối đe dọa đang đến gần, trước khi thực sự nhìn thấy trực diện gã đàn ông đó.

    Bishop biết rằng kẻ xâm nhập đang ẩn mình trong màn sương mờ của buổi sớm cách đó năm mươi feet rất nguy hiểm, như cái cách bạn nhận ra có kẻ đang mang vũ khí bằng cách quan sát hắn bước xuống xe. Cách bạn nhận biết mối đe dọa đang rình rập đằng sau cánh cửa dẫn ra ngõ hẻm, hay ở ghế trước một chiếc xe đang đỗ.

    Bishop chỉ ngập ngừng trong một tíc tắc. Rồi ông bước tiếp như thể không có gì đáng ngờ. Không nhìn rõ mặt kẻ xâm nhập, nhưng ông biết đó chắc chắn là Pitttman - À, Shawn thì đúng hơn. Hôm qua hắn đang rình mò nơi này thì bị Tony Mott bắt gặp và hôm nay hắn lại tiếp tục rình mò.

    Có điều, viên thám tử cảm thấy rằng có vẻ hôm nay Shawn đến đây không chỉ để theo dõi, có lẽ hắn đang săn mồi.

    Và Frank Bishop - một cựu chiến binh dưới những chiến hào, phán đoán rằng nếu gã này ở đây thì hẳn hắn biết loại xe mà Bishop lái. Hắn sẽ ra tay khi Bishop đang ra xe, và hẳn là hắn đã kiểm tra góc bắn, vùng bắn cũng như nhìn ngó cảnh giới xung quanh.

    Vì vậy, viên thám tử vẫn tiếp tục bước ra xe, tay vỗ nhẹ túi như thể đang tìm thuốc lá, dù ông đã bỏ thuốc nhiều năm và đăm đăm nhìn vào màn mưa với khuôn mặt tư lự, cố làm ra vẻ đang chú ý đến thời tiết.

    Không gì khiến những tên tội phạm bấn loạn và sẵn sàng chạy trốn hoặc tấn công, bằng sự khó đoán và chuyển động bất ngờ của cảnh sát

    Ông biết mình có thể chạy thật nhanh vào trong CCU đế đảm bảo an toàn. Nhưng nếu làm thế Shawn sẽ biến mất và có thể họ sẽ không bao giờ có được cơ hội như thế này nữa. Không, Bishop không đời nào bỏ lỡ cơ hội tóm được cộng sự của kẻ giết người, giống như ông không bao giờ lờ đi những giọt nước mắt của cậu con trai bé bỏng vậy.

    Tiếp tục bước đi, tiếp tục bước đi.

    Tất cả đều kết thúc bằng việc này...

    Một bóng đen chuyển động phía trước, có vẻ là Shawn, kẻ đang trốn bên cạnh một chiếc winnebago to lớn, thò đầu ra để ước đoán vị trí của Bishop, rồi lại né về đằng sau. Viên thám tử vẫn tiếp tục tản bộ trên đường, vờ như không nhìn thấy gì.

    Khi đã đến gần chiếc Winnebago, ông né về bên phải, lôi khẩu súng quen thuộc ra khỏi bao và lăn nhanh một vòng quanh góc chiếc xe. Ông giơ súng lên.

    Nhưng rồi ông nhanh chóng dừng lại.

    Shawn đã chuồn mất. Trong vài giây, ông vòng ra sau chiếc xe, tên cộng sự của Phate đã biến mất.

    Ở phía bên phải ông, đầu kia của bãi để xe, có tiếng cửa xe đóng sầm lại. Bishop xoay nhanh về phía có tiếng động, cúi người và giơ vũ khí lên. Nhưng ông nhận ra âm thanh đó đến từ một chiếc xe chuyển hàng. Một người đàn ông da đen cao to đang chuyển những cái hộp từ trên xe vào nhà xưởng gần đó.

    Ồ, Shawn có thể đi đâu được nhỉ?

    Chỉ trong khoảnh khắc, ông đã có câu trả lời. Khi cánh cửa xe bật mở phía sau ông, và trước khi ông kịp quay lại, Bishop cảm nhận một nòng súng ghì chặt vào phía sau đầu.

    Viên thám tử thoáng thấy khuông mặt có ria mép của gã đàn ông gầy gò giống Shawn kề bên cạnh và tay hắn vươn ra như một con rắn, tước vũ khí khỏi tay Bishop.

    Bishop nghĩ đến Brandon, rồi Jennie.

    Ông thở dài.

    Tất cả đều kết thúc bằng việc này...

    Frank Bishop nhắm mắt lại.


  11. #30
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Chương 30
    Âm thanh phát ra từ cỗ máy của CCU chỉ đơn giản là một file dịnh dạng.wav được chuyển đi, nhưng với cả đội, nó như tiếng gầm của một con quái vật.

    Wyatt Gillette chạy đến bàn làm việc. "Có thế chứ!" Hắn thì thầm. "Phate đã xem ảnh. Virus đã vào trong máy hắn."

    Màn hình lóe lên dòng chữ:

    Config.sys modified

    "Được rồi. Nhưng chúng ta không có nhiều thời gian đâu, hắn chỉ cần kiểm tra hệ thống một lần thôi là sẽ nhận ra chúng ta đang xâm nhập."

    Gillette ngồi xuống bên chiếc máy. Nhấc hai bàn tay lên bàn phím, cảm nhận niềm hứng khởi không gì sánh bằng mỗi khi hắn bắt đầu cuộc hành trình vào một phần chưa được thám hiểm - một miền đất cấm của Miền xanh thẳm vô định.

    Hắn bắt đầu nhấn phím.

    "Gillette!" Một giọng đàn ông quát lớn, cùng lúc đó, cửa trước của CCU bật mở.

    Tay hacker quay lại và nhìn thấy ai đó bước vào phòng máy chủ. Gillette há hồc miệng. Đó là Shawn - kẻ đã giả dạng Charles Pittman.

    "Chúa ơi," Shelton hoảng hốt la lên.

    Tony Mott di chuyển rất nhanh, với lấy khẩu súng to bằng bạc của mình. Nhưng súng của Shawn đã lên nòng, trước khi Mott kịp rút súng, khẩu súng của Shawn nghển lên và chĩa vào đầu chàng cảnh sát trẻ. Mott chậm chạp giơ tay lên. Shawn ra hiệu cho Sanchez và Miller lùi lại và tiến về phía Gillette, chĩa thẳng khẩu súng vào đầu hắn.

    Tay hacker đứng dậy và vấp ngã ngữa ra, hai tay giơ lên.

    Không còn nơi nào để trốn chạy nữa.

    Nhưng, khoan đã... Chuyện gì đang xảy ra thế này?

    Mặt hằm hằm, Frank Bishop bước qua cửa trước, hai bên là hai người đàn ông tầm thước mặc vét.

    Vậy là, gã này không phải Shawn.

    Anh ta giơ ra chiếc thẻ căn cước. "Tôi là Arthur Backle, cục Điều tra tội phạm Bộ Quốc phòng." Anh ta hất đầu về phía hai đồng sự, "Họ là đặc vụ Luis Martinez và Jim Cable."

    "Ông đến từ Cục điều tra hình sự? Chuyện gì ở đây thế?" Shelton gắt lên.

    Gillette nói với Bishop, "Chúng ta đã kết nối được với máy của Phate. Nhưng chúng ta chỉ có vài phút thôi. Tôi phải thâm nhập ngay bây giờ!"

    Bishop toan cắt lời nhưng Backle đã nói với một đồng sự, "Còng tay hắn lại."

    Người này bước lên và tra còng vào tay Gillette. "Không!"

    Mott nói, "Ông nói với tôi ông là Pittman."

    Backle nhún vai. "Tôi phải cải trang. Tôi có lý do để nghi ngờ rằng anh sẽ không chịu hợp tác nếu tôi xưng danh thật."

    "Không hợp tác là quá đúng rồi," Bob Shelton nói.

    Backle nói với Gillette, "Chúng tôi đến đây để hộ tống anh về trại giam San Jose."

    "Anh không thể!"

    Bishop nói, "Tôi đã nói chuyện với Lầu Năm Góc, Wyatt. Việc này đúng luật. Chúng ta phá sản rồi." Ông lắc đầu.

    Mott nói, "Nhưng ngài tư lệnh đã đồng ý thả anh ấy."

    "Dave Chambers không nắm quyền nữa," viên thám tử giải thích. "Bây giờ Peter Kenyon giữ Quyền Tư lệnh của CID. Ông ta đã hủy lệnh thả."

    Gillette nhớ lại, Keynon là người giám sát sự ra đời của chương trình Mã hóa Standard 12. Chính là người có khả năng bị bẽ mặt nhất; chưa nói đến chuyện bị sa thải, nếu chương trình này bị bẻ khóa. "Chuyện gì xảy ra với Chambers?"

    "Sai sót tài chính," Backle mặt ngắn cau có nói. "Giao dịch tay trong với các tập đoàn nước ngoài. Tôi không biết và cũng chẳng quan tâm. Rồi Backle nói với Gillette, "Chúng tôi có lệnh cho phép kiểm tra toàn bộ những file anh đã truy cập để xem xét liệu có bằng chứng liên quan đến việc anh truy cập trái phép vào phần mềm mã hóa của Bộ Quốc phòng hay không."

    Tony Mott tuyệt vọng nói với Bishop, "Chúng ta đang Online với Phate đây, Frank. Ngay lúc này đây!"

    Bishop nhìn chằm chằm vào màn hình. Ông nói với Backle, "Làm ơn! Chúng tôi đang có cơ hội tìm ra chỗ ẩn nấp của kẻ tình nghi này. Wyatt là người duy nhất có thể giúp chúng tôi."

    "Để hắn ta Online à? Ông cứ mơ đi."

    Shelton ngắt lời, "Ông cần có lệnh bắt nếu..."

    Đồng sự của Backle giơ ra tờ giấy có mặt sau màu xanh. Bishop đọc nhanh rồi gật đầu chua xót. "Họ có thể bắt cậu ấy và tịch thu tất cả đĩa cũng như bất kỳ máy tính nào mà cậu ấy đã sử dụng."

    Backle nhìn quanh, thấy một phòng trống và bảo các đồng sự nhốt Gillette trong khi họ kiểm tra các file.

    "Đừng để họ làm thế Frank!" Gillette kêu lên. "Tôi sắp nắm được quyền truy cập gốc trong máy hắn. Đây là máy thật của hắn, chứ không phải một chiếc máy nóng. Có thể có những địa chỉ trong đó. Thậm chí cả tên thật của Shawn. Và địa chỉ nạn nhân tiếp theo của hắn."

    "Im lặng, Gillette," Backle ngắt lời.

    "Không!" Tay hacker phản kháng, vật lộn với các đặc vụ, những người đang kéo hắn về phía căn phòng một cách dễ dàng. "Bỏ bàn tay chết tiệt của các ông khỏi người tôi! Chúng tôi..."

    Họ quăng Gillette vào trong rồi đóng cửa lại.

    "Anh có thể vào máy của Phate không?" Bishop hỏi Stephen Miller.

    Người đàn ông to béo lo lắng nhìn vào màn hình. "Tôi không biết. Có lẽ. Chỉ là... Chỉ cần gõ sai một phím Phate sẽ phát hiện ra chúng ta đang đột nhập vào máy."

    Bishop cảm thấy tuyệt vọng. Đây là lần đầu tiên họ thật sự xâm nhập thành công vậy mà cơ hội lại bị nẫng mất chỉ vì những trò đấu đá nội bộ vô nghĩa và sự quan liêu của Chính phủ. Đây là cơ hội duy nhất để nhìn thấu bên trong bộ óc điện tử của tên giết người.

    "Những file của Gillette ở đâu?" Backle hỏi, "Cả đĩa của hắn nữa?"

    Không ai tình nguyện trả lời. Cả đội lầm lì nhìn tay đặc vụ. Backle nhún vai và nói với giọng hớn hở, "Thế thì chúng tôi sẽ tịch thu tất cả. Không có vấn đề gì. Đơn giản là chúng tôi mang đi và các người sẽ nhận lại sau sáu tháng - nếu các người may mắn."

    Bishop gật đầu với Sanchez.

    "Chỗ làm việc ở kia," cô chỉ tay, nói khẽ.

    Backle và những mật vụ khác bắt đầu lục tìm chồng đĩa cao ba inch rưỡi như thể họ có thể nhìn xuyên những bìa đĩa bằng nhựa sắc sỡ và nhận biết được dữ liệu bên trong bằng mắt thường.

    Trong khi Miller nhìn chằm chằm màn hình một cách lo lắng, Bishop quay sang Patricia Nolan và Morgan. "Có ai trong hai người có thể chạy chương trình của Wyatt không?"

    Nolan nói, "Tôi biết cách nó hoạt động về mặt lý thuyết. Nhưng tôi chưa từng đột nhập máy của ai bằng Backdoor-G. Tất cả những gì tôi từng làm là cố gắng tìm ra con virus đó và cách chống lại nó."

    Mott nói, "Tôi cũng thế. Và chương trình của Wyatt là do anh ấy tự làm ra. Có thể nó có một số dòng lệnh đặc biệt."

    Bishop đưa ra quyết định. Ông chọn thường dân, tức là Patricia Nolan, "Hãy làm hết sức có thể."

    Cô ngồi xuống bàn làm việc. Lau tay vào bộ váy lùng bùng của mình và vén tóc khỏi mặt, nhìn chăm chú vào màn hình, cố gắng hiểu những lệnh trên bảng chọn, những thứ Bishop cảm thấy khó hiểu ngang tiếng Nga.

    Chiếc di động của viên thám tử reo lên. Ông trả lời, "Vâng?" Ông lắng nghe một lát. "Vâng, thưa ngài. Ai, đặc vụ Backle?"

    Tay đặc vụ nhìn lên.

    Bishop nói tiếp vào điện thoại. "Anh ấy có ở đây, thưa ngài... Nhưng... Không, đây không phải là đường dây an toàn. Để tôi nhắn anh ấy gọi lại cho ngài bằng một trong những đường viễn thông trong văn phòng. Vâng, thưa ngài. Tôi sẽ làm ngay." Viên thám tử viết vội một con số và cúp máy. Ông nhướng mày về phía Backle. "Là Sacramento. Anh có bổn phận gọi cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ở Lầu Năm Góc. Ông ấy muốn anh gọi lại bằng một đường dây an toàn. Đây là số riêng của ông ấy."

    Một đồng sự liếc sang Backle vẻ băn khoăn. "Bộ trưởng Metzger?" Anh ta lẩm bẩm. Giọng nói kính cẩn của Bishop cho thấy ông chưa từng nhận được cuộc gọi như thế.

    Backle chậm rãi cầm chiếc điện thoại mà Bishop đưa. "Ông có thể sử dụng cái này," viên thám tử nói.

    Tay đặc vụ lưỡng lự rồi bấm điện thoại. Trong chốc lát, anh ta trở lên tập trung. "Đây là đặc vụ Backle, Cục điều tra hình sự, thưa ngài. Tôi đang ở đường dây đảm bảo... Thưa vâng," Backle gật đầu quả quyết. "Thưa vâng... Là theo lệnh của Peter Keynon. Sở cảnh sát California không thông báo với chúng tôi. Họ đưa anh ta ra dưới danh nghĩa không xác định... Tuân lệnh. Ồ, nếu ngài muốn thế. Nhưng ngài biết việc Gillette đã làm rồi đấy. Anh ta..." Backle lại gật đầu. "Xin lỗi, tôi không có ý bất tuân lệnh. Tôi sẽ lo liệu, thưa ngài."

    Anh ta gác máy rồi nói với các đồng sự, "Hẳn là ai đó có bạn bè giữ chức vụ cao phải biết." Anh ta ra hiệu về phía tấm bảng trắng. "Kẻ tình nghi của các anh hả? Là Holloway? Một trong số những người hắn giết ở Virginia có liên quan đến một nhân vật đã đóng góp quan trọng cho Nhà Trắng. Vậy nên Gillette được tại ngoại cho tới khi các anh tóm cổ tên tội phạm." Anh ta bật ra tiếng thở dài giận dữ. "Chính trị khốn kiếp." Liếc mắt sang đồng sự, anh ta nói, "Hai anh rút lui, về văn phòng." Quay sang Bishop, anh ta nói, "Tạm thời anh có thể giữ hắn ta. Nhưng tôi vẫn trông chừng cho đến khi vụ này kết thúc."

    "Tôi hiểu," Bishop nói, chạy đến căn phòng nơi những tay đặc vụ đã ném Gillette vào và mở khóa cửa.

    Thậm chí không kịp hỏi lý do được thả, Gillette chạy vội về bàn làm việc. Patricia Nolan nhường ghế cho anh.

    Gillette ngồi xuống. Anh ngước lên nhìn Bishop, ông nói, "Trước mắt anh vẫn ở trong đội."

    "Tuyệt," tay hacker xúc động nói, lần lại gần bàn phím. Nhưng khi đã ngoài tầm nghe của Backle, Bishop nở nụ cười và thì thầm với Gillette, "Làm thế quái nào mà cậu làm thế được?"

    Vì sự thật là chẳng có Lầu Năm Góc nào gọi cho Bishop, đó chính là Gillette. Hắn gọi vào máy của Bishop từ một chiếc máy ở chỗ bị nhốt. Cuộc nói chuyện thực ra có hơi khác.

    Bishop đã trả lời, "Vâng?"

    Gillette: "Frarik, Wyatt đây. Tôi đang gọi bằng máy trong phòng. Hãy giả như tôi là sếp của ông. Hãy nói với tôi là Backle đang ở đó."

    "Vâng, thưa ngài. Ai, đặc vụ Backle?"

    "Tốt lắm," tay hacker đáp.

    "Anh ấy có ở đây, thưa ngài."

    "Giờ hãy nói hắn ta gọi cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Nhưng hãy đảm bảo hắn gọi bằng đường dây điện thoại chính của văn phòng CCU. Không phải bằng di động của hắn hay của ai khác. Hãy nói đó là một đường dây an toàn."

    "Nhưng..."

    Gillette cam đoan, "Không vấn đề gì đâu. Cứ làm thế đi. Và cho hắn số này." Rồi hắn đọc cho Bishop một số điện thoại từ Washington, D.c.

    "Không, đây không phải là đường dây an toàn. Để tôi nhắn anh gọi lại cho ngài bằng một máy bàn trong văn phòng. Vâng. Tôi sẽ làm ngay.

    Giờ thì Gillette thì thầm giải thích, "Tôi phá khóa hệ thống quay số của Pac Bell ở đây bằng máy tính trong đó và khiến cho tất cả các cuộc gọi từ CCU đến số mà tôi cho ông đều chuyển đến tôi."

    Bishop lắc đầu, vừa băn khoăn vừa thích thú. "Số đó là của ai?"

    "Ồ, chính xác là của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Bẻ khóa đường điện thoại của ông ấy cũng dễ như của người khác thôi. Nhưng đừng lo. Tôi cài đặt lại rồi."

    Thế rồi, dường như ngay khi hắn liếc mắt nhìn màn hình, tất cả những ý nghĩ về việc hack công ty điện thoại và chuyện chính trị ở Washington bốc hơi khỏi đầu Gillette, những ngón tay hắn lại bắt đầu thảo ra câu thần chú mà họ hy vọng sẽ đưa kẻ sát nhân vào tầm với của họ.

    Phiên bản chương trình Backdoor-G của Gillette lập tức đưa hắn vào trong máy của Phate. Thứ đầu tiên hắn nhìn thấy là một thư mục mang tên Trapdoor.

    Tim Gillette bắt đầu đập mạnh và toàn thân như phát sốt vì cảm giác bồn chồn xen lẫn hứng khởi, sự tò mò như một liều thuốc chiếm lĩnh tâm hồn hắn. Đây là cơ hội để tìm hiếu về phần mềm kì diệu này, thậm chí có thể được nhìn thấy mã gốc của nó nữa.

    Tuy nhiên, hắn gặp phải một tình huống nan giải: Dù có thể lẻn vào thư mục Trapdoor này để xem xét chương trình, hắn cũng rất dễ dàng bị phát giác vì đang nắm quyền kiểm soát gốc. Cũng với cách tương tự mà Gillette có thể nhìn thấy Phate khi hắn xâm chiếm máy tính của CCU. Nếu điều đó xảy ra, Phate sẽ ngay lập tức tắt máy và tạo một nhà cung cấp dịch vụ Internet và địa chỉ email mới. Họ sẽ không bao giờ có thể tìm thấy hắn nữa, chắc chắn là không kịp để cứu nạn nhân tiếp theo.

    Không, hắn hiểu điều đó, cũng mạnh mẽ như nỗi khát khao tò mò mà hắn cảm nhận được, hắn phải từ bỏ Trapdoor để tìm kiếm những manh mối giúp họ tìm ra nơi lẩn trốn của Phate hoặc Shawn hay nạn nhân tiếp theo.

    Với sự miễn cưỡng khó nhọc, Gillette đành ngoảnh mặt với Trapdoor và bắt đầu lén lút lục soát máy của Phate.

    Nhiều người nghĩ cấu trúc máy tính giống như một tòa nhà hoàn toàn cân đối và vô trùng: cân xứng, hợp lý, ngăn nắp. Tuy nhiên, Wyatt Gillette biết rằng phần bên trong của một cỗ máy mang tính hữu cơ hơn thế nhiều, cũng giống như một sinh vật sống, nơi sự thay đổi diễn ra liên tục. Trong một chiếc máy, có hàng ngàn nơi để bạn thăm thú và vô số những đường đi khác nhau để tới mỗi điểm đến. Và từng chiếc máy lại khác biệt so với những chiếc máy khác. Khám xét máy tính của người khác cũng giống như đi tham quan địa điểm du lịch gần đó. Ngôi nhà Kỳ bí Winchester chẳng hạn, một lâu đài trải rộng với một trăm sáu mươi phòng, nơi người vợ góa chồng của nhà phát minh ra súng tự động Winchester từng sống. Đó là một nơi đầy rẫy những hành lang khuất và các căn phòng bí mật (Và, theo lời bà chủ nhà lập dị thì cũng có vô số hồn ma).

    Những đường đi ảo trong máy của Phate cuối cùng cũng dẫn tới một folder có tên Thư từ, và Gillette lần theo nó như một con cá mập săn mồi.

    Hắn mở thư mục con đầu tiên, Thư gửi đi.

    Mục này chủ yếu chứa những email Holloway đã gửi đến địa chỉ Shawn@MOL.com dưới cả hai usemame, Phate và Deathknell.

    Gillette thì thầm, "Tôi nói rồi mà. Shawn sử dụng cùng một nhà cung cấp Internet với Phate - Monterey Online. Cũng không có cách nào lần được ra hắn."

    Hắn nhấp chuột hú họa vào một vài email và đọc. Hắn thấy ngay là bọn chúng chỉ sử dụng tên màn hình, Phate hoặc Deadthknell và Shawn. Nội dung toàn mang tính kỹ thuật - các bản vá phần mềm, bản sao dữ liệu điều hành cùng những thông số kỹ thuật tải về từ mạng và vô số các cơ sở dữ liệu khác. Như thể lo ngại rằng ai đó sẽ chiếm máy của chúng, Phate và Shawn đã thống nhất là không bao giờ đề cập đến cuộc sống riêng tư hay con người thật của mình ngoài đời. Không hề có chút bằng chứng nào tiết lộ Shawn là ai hay nơi hắn và Phate đang sống.

    Nhưng rồi Gillette tìm thấy một email có phần khác thường. Nó được Phate gửi cho Shawn vài tuần trước vào lúc 3:00 sáng, thời điểm được coi là giờ phù thủy của giới hacker, thời điểm chỉ những tay cao thủ nhất lên mạng.

    "Kiểm tra cái này xem," Gillette nói với cả đội.

    Patricia Nolan đọc bức email qua vai Gillette. Hắn cảm nhận được những sợi tóc của cô quét qua vai mình khi cô vươn người về phía trước và chạm tay vào màn hình. "Có vẻ như bọn chúng hơn mức bạn bè một chút đây."

    Anh đọc đoạn đầu cho cả đội. "Đêm qua sau khi hoàn thành việc vá lỗi, tôi nằm dài trên giường. Giấc ngủ mãi không đến, và tất cả những gì tôi có thể làm là nghĩ về anh, sự dễ chịu anh mang lại cho tôi... Tôi bắt đầu tự vuốt ve mình. Tôi thực sự không thể dừng..."

    Gillette ngước lên. Toàn đội, cả đặc vụ Backle, đang nhìn anh chằm chằm. "Tôi có nên tiếp tục không?"

    "Trong đó có gì giúp ta tìm ra hắn không?" Bishop hỏi.

    Tay hacker nhanh chóng đọc lướt phần còn lại của email. "Không. Khá là nhạy cảm đấy."

    "Có lẽ cậu có thể tìm kiếm tiếp đi," Frank Bishop nói.

    Gillette ra khỏi mục Thư đi và xem xét những file Thư đến. Phần lớn là tin nhắn từ các máy chủ liệt kê, những dịch vụ email tự động gửi bản tin về những chủ đề quan tâm đến những người đăng ký theo dõi. Có vài thư cũ từ Vlast và Triple-X, thông tin kỹ thuật về phần mềm. Chẳng giúp ích gì. Số còn lại là thư của Shawn nhưng chúng chỉ là phản hồi những yêu cầu của Phate về gỡ rối Trapdoor hay viết bản vá cho các chương trình khác. Đống email này thậm chí còn nặng tính kỹ thuật hơn và hé lộ ít thông tin hơn thư của Phate.

    Hắn mở thêm một thư.

    Từ: Shawn Đến: Phate

    Re: FWD: Những Công tỵ điện thoại di động.

    Shawn đã tìm được một bài viết trên mạng mô tả những công ty điện thoại nào là hiệu quả nhất và chuyển tiếp cho Phate.

    Bishop nhìn thấy liền nói, "Có thể trong đó có nói về mạng điện thoại chúng đang dùng. Cậu có thể sao chép lại không?"

    Tay hacker nhấn phím In-màn hình (Print-screen) - còn gọi là phím In-cam, để gửi nội dung trên màn hình đến máy in.

    "Tải xuống," Miller nói. "Như thế sẽ nhanh hơn nhiều."

    "Tôi không nghĩ chúng ta muốn làm thế đâu" Tay hacker tiếp tục giải thích rằng thao tác in màn hình không ảnh hưởng gì đến hoạt động trong máy của Phate mà chỉ đơn giản là gửi hình ảnh và văn bản trên chính màn hình máy của CCU đến máy in. Phate không đời nào biết được Gillette đang sao chép dữ liệu. Trong khi thao tác tải file lại dễ khiến Phate chú ý hơn nhiều. Nó thậm chí còn có thể kích hoạt báo động trong máy của Phate.

    Hắn tiếp tục lục soát máy tính của tên giết người.

    Nhiều file được kéo qua, mở ra rồi lại đóng. Lướt thật nhanh, rồi lại tiếp tục với một file mới. Gillette không thể ngăn được cảm giác hứng khởi và choáng ngợp trước những tài liệu kỹ thuật tuyệt đỉnh nhiều vô kể trong máy tính của tên giết người này.

    "Cậu có thể suy ra điều gì về Shawn dựa trên những email của hắn không?" Tony Mott hỏi.

    "Không nhiều lắm," Gillette đáp. Hắn đưa ra nhận định rằng Shawn rất tài giỏi, thực dụng, lạnh lùng. Những câu trả lời của Shawn đều cộc lốc và có vẻ am hiểu sâu rộng về Phate, khiến Gillette nghĩ rằng hắn là một kẻ ngạo mạn và thiếu kiên nhẫn với những ai không thể bắt kịp hắn. Có thể hắn có ít nhất một bằng đại học của một trường danh giá, mặc dù hắn hiếm khi chịu viết câu cú đầy đủ, nhưng ngữ pháp, cú pháp và chấm câu thì hoàn hảo. Phần nhiều mã phần mềm trao đổi qua lại được viết theo phiên bản bờ đông của Unix, không phải phiên bản Berkeley.

    "Vậy thì," Bishop phỏng đoán, "rất có thể Shawn quen Phate ở Harvard."

    Viên thám tử ghi chú điều này lên tấm bảng trắng và yêu cầu Bob Shelton gọi đến nhà trường xem liệu có ai tên là Shawn từng theo học hoặc giảng dạy tại đó trong vòng mười năm qua.

    Patricia Nolan liếc nhìn chiếc đồng hồ đeo tay hiệu Rolex của mình và nói, "Anh đã xâm nhập được tám phút rồi. Hăn có thể kiem tra hệ thống bất cứ lúc nào."

    Bishop nói, "Hãy khẩn trương lên. Tôi muốn xem chúng ta có thể tìm ra điều gì đó về nạn nhân tiếp theo không."

    Lướt bàn phím thật nhẹ như thể sợ Phate nghe thấy, Gillette quay lại bảng chọn chính - một biểu đồ các folder và subfolder.

    A: /

    C: /

    1 - -Hệ điều hành

    - - -Thư từ

    - - -Trapdoor

    - - -Kinh doanh

    - - -Trồ chơi

    - - -Công cụ

    - - -Viruses

    - - -Tranh ảnh D: /

    - - -Backup

    "Trò chơi!" Gillette và Bishop thốt lên cùng lúc, và tay hacker đi vào thư mục này.

    Trò chơi Tuần ENIAC

    Tuần IBM PC

    Tuần Univac

    Tuần Apple

    Tuần Altair

    Các dự án năm tới.

    "Tên khốn đó sắp xếp tất cả ở đây, ngăn nắp và quy củ," Bob Shelton nói.

    "Và thêm nhiều vụ giết chóc đang xếp hàng chờ." Gillette chạm vào màn hình. "Ngày chiếc Apple đầu tiên được tung ra. Máy tính Altair cũ. Và, lạy Chúa, còn cả năm sau nữa."

    "Hãy kiểm tra tuần này - Univac," Bishop nói.

    Gillette mở rộng cây thư mục.

    - - - Tuần Univac.

    - - - Trò chơi đã hoàn thành

    - - - Lara Gibson

    - - - Học viện st. Francis

    Các dự án tiếp theo

    "Kia rồi!" Tony Mott thốt lên. "Các dự án tiếp theo."

    Gillette nhấp chuột vào đó.

    Danh mục này chứa hàng tá file - trang nối tiếp trang dầy đặc những ghi chú, hình họa, biểu đổ, ảnh, giản đồ, và các mẩu tin cắt ra từ báo. Có quá nhiều để có thể đọc lướt qua, vì vậy Gillette đọc tuần tự từ đầu, rê chuột qua file đầu tiên, nhấn nút in màn hình mỗi khi hắn chuyển sang trang mới. Hắn cố gắng nhanh hết mức có thể nhưng việc in màn hình rất chậm, để in một trang mất tới mười giây.

    "Tốn nhiều thời gian quá," hắn nói.

    "Tôi nghĩ chúng ta nên tải nó về," Patricia Nolan nói.

    "Như thế quá mạo hiểm," Gillette nói. "Tôi đã nói rồi mà."

    "Nhưng hãy nhớ Phate là kẻ cao ngạo," Nolan tranh luận. "Hắn nghĩ không một ai đủ giỏi để thâm nhập vào máy của hắn, vì vậy có thể hắn không cài đặt cảnh báo trong máy."

    "Việc này chậm quá thể," Stephen Miller nói. "Chúng ta mới xong có ba trang."

    "Tùy ý ông đấy," Gillette nói với Bishop. Viên thám tử ngả người về phía trước, chăm chú nhìn màn hình, trong khi đôi bàn tay của Gillette giữ trong khoảng trống trước mặt hắn, gõ một cách dữ dội lên một bàn phím không hề tồn tại.

    ° ° °

    Phate đang ngồi thoải mái bên chiếc laptop của mình trong phòng ăn hoàn hảo ở ngôi nhà của hắn.

    Dù vậy tâm trí hắn không hề ở đó.

    Hắn đang chìm đắm trong Thế giới máy tính, lang thang trong chiếc máy mà hắn vừa hack được và lên kế hoạch cho cuộc tấn công cuối ngày.

    Đột nhiên, từ loa máy, âm thành bíp bíp báo động phát ra. Cùng lúc đó, một hộp màu đỏ xuất hiện nơi góc phải bên trên màn hình. Trong hộp chỉ có duy nhất một từ:

    ACCESS

    Hắn há hốc miệng kinh ngạc. Ai đó đang tìm cách tải file từ máy của hắn! Việc này chưa từng xảy ra. Choáng váng, mồ hôi vã ra đầm đìa trên mặt, Phate thậm chí chẳng hề kiểm tra hệ thống để xem chuyện gì đang xảy ra. Ngay tức khắc hắn hiểu: Bức ảnh Vlast gửi thực ra là của Wyatt Gillette, để cấy một con virus back-door vào máy hắn.

    Ngay lúc này, tên Valleyman phản bội khốn khiếp đó đang rình mò trong hệ thống của hắn!

    Phate với tay ra nút tắt - giống như người tài xế ngay lập tức đạp phanh khi nhìn thấy một con sóc băng ngang đường.

    Nhưng rồi, cũng như một số tài xế khác, hắn mỉm cười lạnh lùng và để cỗ máy tiếp tục chạy hết tốc lực. Đôi tay hắn quay về bàn phím, hắn nhấn tổ hợp phím SHIFT, CONTROL và E cùng lúc./p>

Trang 3 / 5 ĐầuĐầu 12345 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-18-2019, 02:09 PM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-22-2019, 12:11 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 07-27-2017, 12:44 AM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-09-2016, 02:52 PM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-16-2015, 01:45 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •