Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Ái tình và hạnh phúc là hình với bóng, nếu biết bảo vệ thì hạnh phúc sẽ thành sự thật, ngườc lại nếu không biết bảo vệ thì hạnh phúc chỉ là một hình ảnh ảo tưởng không bao giờ có.
Pascal
Trang 4 / 5 ĐầuĐầu ... 2345 Cuối Cuối
Results 31 to 40 of 47

Chủ Đề: Sát Nhân Mạng

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Sát Nhân Mạng

    Sát Nhân Mạng

    Tác giả :Jeffery Deaver

    Người dịch: Nguyễn Việt Dũng


    Khi nói bộ não con người cũng là một cỗ máy, tôi không có ý xúc phạm tới trí tuệ con người, mà chỉ thừa nhận tiềm năng của một chiếc máy. Tôi không tin rằng bộ não con người lại kém cỏi hơn những gì chúng ta tưởng tượng về nó, mà là một chiếc máy có thể ấn chứa những điều vượt xa trí tưởng tượng của chúng ta.

    - w. Daniel Haiis - Hoa văn trên đá




    CHÚ GIẢI

    Bot (bắt nguồn từ Robot): Chương trình phần mềm tự vận hành, hỗ trợ người dùng (users) hoặc các chương trình khác. Đồng thời cũng được coi như một điệp viên.

    Bug: Một lỗi phần mềm chặn hoặc can thiệp vào hoạt động của chương trình.

    CCU: Đơn vị điều tra tội phạm máy tính máy tính của Sở cảnh sát bang California.

    Chip - jock: Một người hoạt động trong ngành công nghiệp máy tính, chuyên sâu vào phát triển hoặc buôn bán phần cứng.

    Civilians: Những người bình thường không làm việc trong ngành công nghiệp máy tính.

    Code: Phần mềm.

    Code cruncher: Một lập trình viên không có tính sáng tạo, thực hiện những việc lập trình đơn giản bình thường.

    Codeslinger: Một lập trình viên tài năng, thành tựu của anh ta được xem là có tính tiên phong vượt trội. Được ví như một samurai.

    Crack: Đột nhập bất hợp pháp vào một máy tính, thường là để ăn trộm, phá hủy dữ liệu hoặc ngăn cản những người khác sử dụng hệ thống.

    Demon (hoặc Daemon): Một chương trình hoạt động thầm lặng, thường là ẩn đi, không được kích hoạt theo lệnh của người dùng (user) mà vận hành tự động. Nó thường chạy khi xuất hiện những điều kiện nhất định bên trong chiếc máy hoặc mạng lưới mà nó được cài đặt.

    Firewall: Hệ thống bảo mật máy tính ngăn ngừa những dữ liệu không mong muốn xâm nhập vào chiếc máy tính mà nó có nhiệm vụ bảo vệ.

    Freeware: Phần mềm miễn phí được tạo nên từ những nhà phát triển.

    Guru: Một chuyên gia máy tính thông minh, một bậc Thầy.

    Hack: Nghĩa nguyên bản của từ này ám chỉ việc viết một phần mềm trong thời gian ngắn, với một mục đích hạn chế mặc dù nó đã phát triển lên thành việc nghiên cứu và viết các phần mềm mang tính đột phá. Dần dần, nó được các civilians (người bình thường) sử dụng để ám chỉ việc đột nhập vào một hệ thống máy tính với những mục đích xấu hành động lẽ ra phải được gọi là cracking. Từ này cũng được sử dụng như một danh từ, nghĩa là một sản phẩm thông minh trong lập trình phần mềm.

    ICQ (I Seek You: Tôi tìm bạn): Một subnetwork (mạng con) của Internet, giống IRC nhưng dành cho các cuộc hội thoại riêng tư. Gần giống với việc nhắn tin trực tiếp.

    IRC (Internet Relay Chat): Một subnetwork (mạng con) phổ biến của Internet, nơi một lượng lớn người tham gia có thể trò chuyện theo thời gian thực trong các phòng chat trực tuyến (Online chat rooms) dành cho các sở thích, thú vui riêng.

    jpg (hay là jpeg - viết tắt của joint photographers experts group - Nhóm các chuyên gia ảnh, jpeg là một kỹ thuật nén ảnh): một định dạng số hóa, nén và lưu trữ những hình ảnh trên máy tính. Hình ảnh dưới định dạng này được nhận biết bằng đuôi.jpg sau tên file (tập tin).

    Kuldge: Một chương trình phần mềm được viết ra trong thời gian ngắn, thường được viết một cách ngẫu hứng, phục vụ cho mục đích nhất định, thường nhắm tới việc xử lý một lỗi phần mềm hay sự gián đoạn trong hoạt động của máy tính.

    Machine: Một chiếc máy tính.

    MUD: (Multiuser domain, multiuser dimension hay là multiuser dungeons): Một subnetwork (mạng con) giống với IRC, trong đó người tham gia chơi những trò chơi theo thời gian thực hoặc tiến hành những hoạt động giả lập (Mạng chiến thuật thời gian thực).

    MUDhead: Người tham gia vào các MUD.

    Packet: Một dải dữ liệu số hóa. Tất cả các thông tin được truyền qua mạng Internet - email, văn bản, nhạc, hình ảnh, đồ họa, âm thanh - được chia nhỏ thành các gói dữ liệu (packet), sau đó các gói này sẽ được ghép lại thành định dạng phù hợp ở thiết bị của người nhận.

    Packet - Sniffer (Chương trình săn tìm gói tin): Một chương trình được cài đặt lên router, seroer máy tính hoặc lên một máy tính cá nhân để chuyển hướng các gói dữ liệu (packet) sang một máy tính thứ ba, thường để đọc các tin nhắn hay lấy mật khẩu và các thông tin khác một cách trái phép.

    Phising: Tìm kiếm thông tin về một ai đó trên Internet.

    Phreak: Xâm nhập vào hệ thống điện thoại chủ yếu với mục đích tạo các cuộc gọi miễn phí, nghe trộm hoặc cắt dịch vụ. Từ này cũng được dùng để miêu tả những người tham gia vào hoạt động này.

    Root: Thư mục gốc. Trong hệ điều hành Unix, từ này ám chỉ sysadmin (quản trị hệ thống) hay một cá nhân khác chịu trách nhiệm với một máy tính hay một mạng lưới. Nó cũng được dùng để miêu tả sự kiểm soát, như trong từ "seizing roof - có nghĩa là đoạt quyền kiểm soát hoạt động của một máy tính hay một mạng lưới.

    Router: Thiết bị định tuyến. Một máy tính điều hướng các gói dữ liệu - packets qua mạng Internet tới điểm đến định trước.

    Script: Phần mềm.

    Server: Máy chủ. Một máy tính nhanh và lớn trên một mạng lưới - ví dụ như mạng Internet - nơi lưu trữ dữ liệu, các Websites và các files, mà người dùng - User có thể tiếp cận.

    Shareware: Phần mềm được các nhà phát triển đưa ra với mức phí rất thấp hoặc chỉ được sử dụng hạn chế.

    Source Code: Định dạng để một lập trình viên viết phần mềm, sử dụng các chữ cái, con số và các ký hiệu từ một trong số các ngôn ngữ lập trình. Source code - mã nguồn sau đó được chuyển đổi thành phần mềm máy tính có thể chạy thực sự. Source code thường được giữ bí mật và bảo vệ nghiêm ngặt bởi các nhà phát triển hay chủ sở hữu.

    Sysadmin (System administrator): Quản trị hệ thống. Cá nhân chịu trách nhiệm vận hành máy tính và/hoặc một mạng lưới cho một tổ chức.

    Unix: Một hệ điều hành máy tính phức tạp, giống như Windows. Là hệ điều hành mà hầu hết các máy tính trên Internet sử dụng.

    Warez: Phần mềm thương mại bị sao chép bất hợp pháp.

    .wav (waveform): Một định dạng cho việc số hóa và lưu trữ âm thanh trên máy tính. Âm thanh dưới định dạng này được nhận biết bằng đuôi.wav sau tên file.

    Wizard: Một chuyên gia máy tính thông minh lỗi lạc, một bậc thầy (guru), thậm chí còn được gọi là một thầy phù thủy.



    I. PHÙ THỦY MÁY TÍNH
    Hoàn toàn có thể... thực hiện hầu hết mọi tội ác với một chiếc máy tính. Thậm chí ta có thể sử dụng nó để giết người.

    - Một sỹ quan Sở cảnh sát Los Angeles

    Chương 1
    Chiếc xe tải trắng cũ kĩ khiến cô cảm thấy bất an.

    Lara Gibson ngồi bên quầy bar trong nhà hàng Vesta's Grill tại De Anza, Cupertino, California, tay giữ chặt đáy ly Martini lạnh ngắt và phớt lờ hai chuyên viên phần cứng trẻ tuổi đang đứng gần đó liếc mắt ve vãn cô.

    Cô lại hướng mắt ra ngoài lần nữa, nhìn sâu vào màn mưa u ám, và không thấy bất kỳ dấu hiệu nào của chiếc Econoline kín mít không cửa sổ, cô tin chắc rằng nó đã bám theo mình từ căn hộ cách đây vài dặm đến tận nhà hàng này. Lara tụt khỏi chiếc ghế ở quầy bar và bước tới cửa sổ, nhìn ra bên ngoài. Chiếc xe đó không đậu trong bãi đỗ của nhà hàng. Cũng chẳng ở bên kia đường, trong bãi xe của Apple Computer hay bãi bên cạnh, thuộc công ty Sun Microsystems. Không bãi đỗ xe nào trong số này là nơi hợp lý để theo dõi - nếu gã tài xế đó thực sự đang đeo bám cô.

    Không, chiếc xe đó chỉ là một sự trùng hợp mà thôi, cô kết luận, sự trùng hợp bị cường điệu hóa bởi một dạng hoang tưởng.

    Cô trở lại quầy bar và liếc nhìn hai gã trai trẻ, giờ đến lượt họ lờ cô đi và nhếch mép cười.

    Giống như hầu hết các chàng trai trẻ đến đây tìm kiếm niềm vui, họ mặc quần âu, áo sơ mi không cà vạt, và đeo cái phù hiệu đặc trưng nhan nhản ở Thung lũng Silicon, chiếc thẻ nhân viên gắn với quai đeo bằng dây dù lủng lẳng quanh cổ. Hai gã này mang thẻ xanh của Sun Microsystems. Những nhóm khác đến từ Compaq, Hewlett - Packard và Apple, chưa kể vài chú lính mới của các công ty Internet khởi nghiệp mà một số nhân vật khả kính quen thuộc ở Thung lũng đang điều hành với đôi chút khinh khỉnh.

    Ở tuổi ba hai, có khi Lara Gibson lớn hơn hai gã hâm mộ kia đến năm tuổi. Với tư cách là một nữ doanh nhân độc lập, không phải dân lập trình, cũng chẳng liên quan đến công ty máy tính nào, dễ cô nghèo hơn họ đến năm lần. Nhưng điều đó không thành vấn đề với hai gã này, vì họ đã bị hút hồn bởi khuôn mặt xinh đẹp ấn tượng lạ thường ôm trọn trong những lọn tóc đen nhánh, đôi bốt đến cổ chân, chiếc váy màu đỏ cam kiểu gypsy 1 và chiếc áo không tay màu đen tôn lên đường nét bắp tay đẹp hiếm có.

    Cô ước tính rằng hai phút nữa, một trong hai cậu trai này sẽ tiếp cận cô, và cô chỉ tính chệch mười giây.

    Những gì gã trai trẻ nói với cô là 'phiên bản mới' của kịch bản mà cô đã nghe cả tá lần trước đó: Xin lỗi, tôi không có ý làm phiền nhưng cô có muốn tôi bẻ gãy chân bạn trai cô vì đã để người phụ nữ xinh đẹp chờ đợi một mình ở quầy bar và nhân tiện, tôi có thể mời cô một ly trong khi cô quyết định xem chân nào bị bẻ được không?

    Người phụ nữ khác chắc hẳn đã nổi đóa, hoặc lắp bắp, đỏ mặt, cảm thấy bối rối hay lả lơi lại để anh ta mời một ly mà cô ta thậm chí chẳng muốn uống, chỉ vì không biết phải xử lý tình huống này thế nào. Nhưng đó là những người đàn bà yếu đuối hơn cô. Còn Lara Gibson là 'nữ hoàng của sự tự vệ nơi thành thị', danh hiệu mà tờ San Francisco Chronicle đã từng phong tặng cho cô. Cô nhìn thẳng vào mắt anh ta, nở một nụ cười xã giao và nói, "Tôi không quan tâm đến việc kết thân với bất kỳ ai lúc này."

    Chỉ đơn giản như thế. Kết thúc cuộc nói chuyện.

    Anh ta chớp mắt trước sự thẳng thắn này, né tránh ánh mắt kiên nghị của cô và quay lại với bạn của mình.

    Sức mạnh... tất cả nằm ở sức mạnh.

    Cô nhấp một ngụm đồ uống.

    Thực ra, cái xe tải màu trắng chết tiệt đó đã gợi nhắc đến tất cả những nguyên tắc cô từng đặt ra với tư cách người dạy phụ nữ cách tự vệ trong xã hội thời nay. Có vài lần trên đường đến nhà hàng, cô liếc vào gương chiếu hậu và thấy chiếc xe ở phía sau, cách khoảng ba bốn chục feet. Một tên nhóc nào đó cầm lái. Hắn là người da trắng, nhưng tóc được tết thành những lọn dài bù xù màu nâu. Hắn mặc đồ rằn ri và đeo kính đen, bất chấp cơn mưa tối tăm u ám. Tất nhiên đây là Thung lũng Silicon, nơi trú ngụ của những gã hacker và tụi vô công rồi nghề, cũng chẳng có gì bất thường khi dừng ở Starbucks để mua một cốc Venti Latte ít béo và được phục vụ bởi một cậu thiếu niên lịch sự có cả tá khuyên trên người, đầu trọc lóc, ăn vận như một tay găng-tơ trong thành phố. Dường như gã lái xe vẫn đang nhìn cô chằm chằm với vẻ thù địch kỳ quái.

    Lara chợt nhận ra mình đang vuốt ve lọ xịt hơi cay trong túi xách một cách vô thức.

    Liếc ra cửa sổ một lần nữa, cô chỉ thấy những chiếc xe xa xỉ được mua bằng tiền kinh doanh Internet.

    Nhìn quanh phòng. Chỉ có những tay nghiền máy móc vô hại.

    Thư giãn nào, cô tự nhủ và nhấp một ngụm Martini đậm đặc.

    Cô để ý nhìn đồng hồ treo tường. Bảy giờ mười lăm. Sandy đã muộn mười lăm phút rồi. Không giống cô ấy chút nào. Lara rút điện thoại đi động ra nhưng màn hình lại hiển thị: NGOÀI VÙNG PHỦ SÓNG.

    Cô định đi tìm điện thoại công cộng thì ngước lên thấy một người đàn ông trẻ bước vào quầy bar và vẫy tay về phía cô. Cô đã gặp anh ta ở đâu đó nhưng không thể nhớ chính xác. Mái tóc vàng khá dài nhưng được cắt tỉa gọn gàng, chòm râu dê của anh ta ám ảnh trong trí nhớ cô. Anh ta mặc chiếc quần jean trắng và áo sơ mi màu xanh nhàu nhĩ. Điều duy nhất cho thấy anh ta cũng thuộc giới làm ăn ở Mỹ là chiếc cà vạt, cho phù hợp với một doanh nhân của Thung lũng Silicon, mặc dù thiết kế của nó không phải kẻ sọc hay họa tiết hoa Jerry Garcia mà là chú chim hoạt hình Tweety Bird.

    "Chào cô, Lara," anh ta bước tới và bắt tay cô, tựa người vào quầy bar. "Nhớ tôi không? Tôi là Will Randolph. Em họ của Sandy đây? Cheryl và tôi đã gặp cô ở Nantucket, tại lễ cưới của Marry ấy."

    À phải rồi, đó chính là nơi cô đã gặp anh ta. Anh và cô vợ đang mang bầu đã ngồi cùng bàn với Lara và bạn trai cô, Hank. "Chắc chắn rồi. Dạo này anh thế nào?"

    "Tôi ổn. Công việc bận rộn. Nhưng làm gì có ai không đến đây cơ chứ?"

    Tấm thẻ nhựa trên cổ anh ghi dòng chữ Xerox Corporation PARC. Cô thấy rất ấn tượng. Ngay cả những kẻ tay ngang cũng biết về trung tâm nghiên cứu Paolo Alto huyền thoại của Xerox cách đây vài dặm về phía Bắc.

    Will ra hiệu cho phục vụ và gọi một cốc bia nhẹ. "Hank thế nào?" Anh hỏi. "Sandy nói anh ấy đang cố kiếm một công việc ở Wells Fargo."

    "Ồ, phải, anh ấy được nhận rồi. Giờ anh ấy muốn lập nghiệp ở L.A."

    Cốc bia được mang đến và Will nhấp một ngụm. "Chúc mừng."

    Một bóng trắng sượt qua trong bãi đỗ xe.

    Lara lập tức nhìn theo, cảnh giác. Nhưng hóa ra đó là chiếc Ford Explorer với một cặp đôi trẻ ở bên trong.

    Đôi mắt tập trung vào phía sau chiếc xe Ford, quét qua con phố rồi rà soát bãi đỗ xe một lần nữa, Lara nhớ lại rằng trên đường đến đây, cô đã nhìn vào hông chiếc xe tải khi nó vụt qua lúc cô tấp xe vào bãi đỗ nhà hàng. Có một vết bẩn của cái gì đó sẫm màu và đo đỏ trên hông xe, có thể là bùn - nhưng cô nghĩ trông nó gần giống máu.

    "Cô ổn chứ," Will hỏi.

    "À vâng, xin lỗi." Cô quay lại với anh, thấy mừng vì có một đồng minh. Một nguyên tắc tự vệ nữa ở chốn thành thị mà cô đặt ra là: Hai người luôn tốt hơn một. Giờ Lara đã biến tấu một chút bằng cách bổ sung thêm vế sau rằng dù vài người trong số họ chỉ là một gã mọt máy tính gầy gò, không cao hơn mét bảy nhăm và đeo cà vạt hoạt hình.

    Will nói tiếp, "Sandy đã gọi lúc tôi đang trên đường về nhà để hỏi xem tôi có thể ghé qua và báo tin cho cô được không. Cô ấy cố gọi cho cô nhưng ko liên lạc được. Cô ấy sẽ về muộn và liệu có thể hẹn cô ở chỗ cạnh văn phòng mà cô đã ghé qua tháng trước, chỗ Ciro ấy? Ở Mountain View. Cô ấy đã đặt bàn lúc tám giờ."

    "Anh đâu cần phải ghé qua. Cô ấy có thể gọi cho nhân viên quầy bar mà."

    "Cô ấy muốn tôi đưa cho cô những bức ảnh tôi đã chụp ở đám cưới. Hai người có thể xem chúng tối nay và cho tôi biết các cô muốn lấy những tấm nào."

    Will nhận ra một người bạn ở phía bên kia quầy bar và vẫy chào anh ta, có lẽ Thung lũng Silicon trải rộng hàng trăm dặm vuông nhưng nó thực sự vẫn là một thị trấn nhỏ. Anh nói với Lara, "Cheryl và tôi đang định mang những bức ảnh tới chỗ của Sandy ở Santa Barbara cuối tuần này...."

    "Phải, chúng tôi định tới đó vào thứ sáu."

    Will ngừng lại và mỉm cười như thể anh ta có một bí mật vĩ đại cần chia sẻ. Anh rút ví, mở ra bức ảnh chụp anh cùng vợ và một đứa bé nhỏ xíu còn đỏ hỏn, "Tuần trước," anh nói một cách tự hào, "Claire."

    "Ôi, dễ thương quá," Lara xuýt xoa.

    "Thế nên chúng tôi sẽ loanh quanh ở gần nhà một thời gian."

    "Cheryl thế nào rồi?"

    "Cô ấy ổn. Em bé cũng khỏe. Chẳng có điều gì sánh được... Nhưng, tôi sẽ nói với cô rằng việc trở thành một người cha sẽ làm cuộc sống hoàn toàn thay đổi."

    "Tôi tin chắc là như vậy."

    Lara liếc nhìn đồng hồ một lần nữa. Bảy rưỡi. Vào giờ này, phải mất ba mươi phút để lái xe đến Ciro. "Tôi nên đi ngay."

    Rồi, một hồi chuông cảnh giác gióng lên, cô lại nghĩ về chiếc xe tải và gã tài xế.

    Những lọn tóc tết.

    Vệt cáu bẩn trên cánh cửa xe cũ nát...

    Will ra hiệu tính tiền và thanh toán.

    "Anh không phải làm thế đâu," cô nói. "Tôi sẽ thanh toán."

    Anh cười. "Cô đã trả rồi mà."

    "Gì cơ?"

    "Cái quỹ chung mà cô kể với tôi ở đám cưới ấy. Quỹ mà cô mới mua ấy?"

    Lara nhớ lại lần cô khoác lác không biết ngượng về một quỹ công nghệ sinh học năm ngoái đã tăng trưởng tới sáu chục phần trăm.

    "Từ Nantucket về, tôi đã mua cả đống... vì thế... cảm ơn nhé." Anh dốc ngược cốc bia về phía cô rồi đứng dậy. "Cô về chưa?"

    "Chắc chắn rồi." Lara nhìn chằm chằm cánh cửa một cách bất an khi họ bước đến đó.

    Chỉ là một sự hoang tưởng thôi mà, cô tự nhủ. Lara thoáng nghĩ, như cô vẫn thường làm mỗi khi thế này, rằng cô nên kiếm một công việc thật sự, như tất cả những người trong quầy bar này. Cô không nên dấn thân vào thế giới bạo lực.

    Hẳn là thế, chỉ hoang tưởng thôi...

    Nhưng nếu vậy, thì tại sao gã choai choai có những lọn tóc tết ấy lại phóng vọt đi khi cô tấp vào bãi đỗ xe ở đây và nhìn thấy hắn?

    Will bước ra ngoài và bật ô. Anh giơ cao nó lên cho cả hai cùng đi.

    Lara nhớ lại một nguyên tắc tự vệ khác nơi thành thị: Đừng bao giờ tỏ ra quá ngại ngùng hay kiêu hãnh khi muốn xin sự giúp đỡ của người khác.

    Và dù Lara định nhờ Will Randolph đưa ra xe sau cuộc trò chuyện của họ, cô vẫn băn khoăn: Nếu gã choai choai trong xe tải là một mối đe dọa, thì chẳng phải cô thật ích kỷ khi nhờ vả và khiến anh gặp nguy hiểm? Anh là một người chồng, mới lên chức cha, có nhiều người đang trông cậy vào anh. Dường như không công bằng lắm nếu...

    "Có gì không ổn à?" Will hỏi.

    "Không hẳn."

    "Cô chắc chứ?" Anh gặng hỏi.

    "À, tôi nghĩ có ai đó đã bám theo tôi đến nhà hàng này. Một tên choai choai nào đó."

    Will nhìn quanh. "Cô thấy hắn à?"

    "Giờ thì không."

    Anh hỏi, "Cô có website đó đúng không? Cái website dạy phụ nữ cách tự vệ ấy."

    "Đúng vậy."

    "Cô có nghĩ hắn biết website đó không? Có thể hắn đang quấy rối cô."

    "Có lẽ. Chắc anh sẽ ngạc nhiên lắm khi thấy những bức thư đầy thù hằn mà tôi nhận được."

    Anh lục tìm điện thoại di động. "Cô có muốn gọi cảnh sát không?"

    Cô lưỡng lự.

    Đừng bao giờ cảm thấy quá ngại ngùng hay kiêu hãnh khi muốn xin sự giúp đỡ.

    "Không, không. Chỉ là... anh không phiền nếu đưa tôi đến chỗ để xe sau khi đi lấy ảnh chứ?"

    Will mỉm cười. "Tất nhiên là không rồi. Thực ra thì tôi không biết karate nhưng tôi có thể hét lên kêu cứu to hết cỡ."

    Cô bật cười. "Cảm ơn."

    Họ đi bộ dọc theo vỉa hè phía trước nhà hàng, cô liếc nhìn để kiểm tra những chiếc xe. Giống như mọi bãi đỗ xe ở Thung lũng Silicon, ở đây có hàng tá những chiếc Saab, BMW và Lexus. Dù sao thì, không có chiếc xe tải nào. Không một gã choai choai. Không có vết máu.

    Will hất đầu về chỗ để xe của mình ở bãi đỗ phía sau. Anh nói, "Cô có thấy hắn không?"

    "Không."

    Họ đi qua một hàng cây bách xù và đến chỗ xe của anh, một chiếc Jaguar màu bạc mới coóng.

    Lạy Chúa, có phải tất cả mọi người ở Thung lũng Silicon đều có tiền, trừ cô?

    Anh lôi chìa khóa ra khỏi túi. Họ đi ra chỗ cốp xe. "Tôi chỉ chụp hết hai cuộn phim ở đám cưới. Nhưng có vài bức khá đẹp." Anh ta mở cốp xe rồi ngừng lại nhìn quanh bãi đỗ. Cô cũng thế. Nơi này vắng tanh. Xe của anh là chiếc duy nhất ở đây.

    Will liếc nhìn cô. "Cô hẳn đã băn khoăn về mấy lọn tóc tết 2."

    "Tóc tết?"

    "Phải," anh ta nói. "Những lọn tóc tết ấy." Giọng nói trở lên đều đều, lơ đãng. Anh ta vẫn cười nhưng gương mặt có gì đó khang khác. Trông nó có vẻ đói khát.

    "Ý anh là gì?" Cô hỏi, giọng bình tĩnh nhưng trong thâm tâm, nỗi sợ hãi đang bùng lên. Cô chợt nhận ra có một sợi xích ngăn lối vào khu đằng sau bãi đỗ xe. Và cô hiểu rằng hắn đã móc nó vào sau khi đỗ xe, để đảm bảo không ai khác có thể để xe ở đây.

    "Nó chỉ là một bộ tóc giả."

    Ôi, lạy Chúa, Thánh thần ơi, Lara Gibson thầm nghĩ, dù cô đã không cầu nguyện trong suốt hai mươi năm.

    Hắn nhìn vào mắt cô, ghi lại nỗi khiếp sợ ấy. "Tôi đã đậu chiếc Jag này ở đây một lúc trước khi đánh cắp cái xe tải và bám theo cô từ nhà. Với bộ đồ rằn ri và mái tóc giả. Cô biết đấy, có thế thì cô mới thấy rợn người, hoảng loạn và muốn tôi ở cạnh... Tôi biết hết mọi quy tắc của cô - mớ nguyên tắc tự vệ nơi thành thị vớ vẩn đó. Không bao giờ vào bãi đỗ xe vắng vẻ với một gã đàn ông. Đàn ông đã kết hôn và có con an toàn hơn đàn ông độc thân. Và bức ảnh gia đình của tôi? Cái ở trong ví ấy? Tôi lấy nó từ tạp chí Parents đấy."

    Cô thì thầm trong tuyệt vọng, "Anh không phải là...?"

    "Anh họ của Sandy? Thậm chí còn chẳng biết hắn. Tôi chọn Will Randolph vì hắn là người cô có chút quen biết, và trông hắn có chút giống tôi. Ý tôi là, chẳng có cách quái nào để lôi cô ra đây một mình nếu cô không quen tôi, hoặc tưởng là mình quen. Ồ, cô có thể bỏ tay ra khỏi túi xách được rồi đấy." Hắn giơ chiếc bình xịt hơi cay của cô lên. "Tôi đã lấy nó khi chúng ta bước ra ngoài."

    "Nhưng...," cô bắt đầu nức nở, đôi vai buông thõng trong tuyệt vọng. "Anh là ai? Anh còn không biết tôi cơ mà..."

    "Không đúng, Lara," hắn thì thào, soi mói nỗi thống khổ nơi cô như một tay kỳ thủ ngạo mạn dò xét khuôn mặt bại trận của đối phương. "Tôi biết mọi điều về cô. Tất cả mọi thứ trên đời này."

    --------------------------------
    1 Phong cách thời trang tự do, phóng khoáng.
    2 Trong văn bản gốc, tác giả dùng từ 'dread', có nghĩa là điều gì đó gây khiếp sợ, để chơi chữ với từ 'Dreadlocks' nghĩa là 'tóc tết' trong câu hội thoại tiếp theo.

  2. #31
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Chương 31
    Màn hình trước mặt Gillette bất chợt hiện lên dòng chữ:

    BẮT ĐẦU MÃ HÓA KHỐI DỮ LIỆU

    Ngay sau đó, lại là một thông báo nữa:

    ĐANG MÃ HÓA STANDARD 12 BỘ QUỐC PHÒNG

    "Không!" Gillette gào lên, việc tải file từ máy Phate dừng lại và nội dung của file Những dự án sắp tới chuyển thành mớ số học hỗn độn.

    "Chuyện gì xảy ra thế?" Bishop sốt sắng hỏi.

    "Chắc chắn Phate có cài cảnh báo tải file," Nolan lẩm bẩm, tức giận với chính mình. "Tôi đã nhầm."

    Gillette tuyệt vọng chụp lại màn hình. "Hắn đã chặn việc tải file nhưng lại không thoát ra. Hắn nhấn một phím nóng và đang mã hóa mọi thứ ở trong máy."

    "Cậu có thể giải mã nó được không?" Shelton lên tiếng.

    Điệp vụ Backle vẫn chăm chú quan sát Gillette.

    "Không thể nếu không có mã giải của Phate," tay hacker quả quyết. "Ngay cả cỗ máy Fort Meade chạy cả dãy máy một lúc cũng không thế giải mã từng này dữ liệu trong một tháng."

    Shelton đáp, "Tôi không hỏi là cậu có mã giải không. Tôi hỏi là cậu có thể bẻ khóa nó được không?"

    "Tôi không thể. Tôi nói rồi. Tôi không biết cách bẻ khóa Standard 12."

    "Mẹ kiếp," Shelton lẩm bẩm, nhìn chằm chăm Gillette. "Sẽ có thêm người chết nếu chúng ta không tìm ra thông tin trong máy của hắn."

    Đặc vụ Backle thở dài. Gillette để ý thấy anh ta nhìn sang bức ảnh Lara Gibson trên tấm bảng trắng, rồi anh ta quay sang nói với Gillette, "Làm đi. Nếu việc đó có thể cứu mạng người thì cậu cứ làm đi."

    Gillette quay lại màn hình. Lần này, những ngón tay hắn vẫn đang đung đưa phía trước, như thể đang cố kìm nén không gõ vô thức vào không khí khi nhìn trước dòng thác kí tự vô nghĩa chạy trên màn hình. Bất cứ cái gì trong số những thứ này có thể là đầu mối cho biết Shawn là ai, Phate ở đâu, hay ai là nạn nhân tiếp theo.

    "Cứ làm đi, vì Chúa," Shelton lẩm bẩm.

    Backle thì thầm, "Tôi nghiêm túc đấy. Tôi sẽ coi như không biết chuyện này."

    Gillette nhìn như thôi miên vào dòng dữ liệu chạy qua trước mắt. Đôi tay hắn chạm vào bàn phím. Hắn cảm thấy mọi cặp mắt đang đổ dồn về mình.

    Nhưng Bishop chợt hỏi bằng giọng lo lắng, "Đợi đã. Sao hắn không đơn giản là chuyển sang chế độ offline? Tại sao hắn lại mã hóa? Việc này chẳng có nghĩa lý gì."

    "Ôi, Chúa ơi," Gillette nói. Hắn ngay lập tức nhận ra câu trả lời. Hắn quay ra nhìn xung quanh rồi chỉ vào một hộp màu xám trên tường, nổi bật giữa hộp là một nút màu đỏ. "Nhấn cái nút khẩn cấp đó đi! Ngay!" Hắn gào lên với Stephen Miller, người đang đứng gần nhất.

    Miller nhìn công tắc rồi lại nhìn Gillette. "Tại sao?"

    Tay hacker bật dậy, bỏ mặc chiếc ghế đổ kềnh ra phía sau. Hắn phóng đến chỗ cái nút bấm. Nhưng đã quá muộn. Trước khi hắn kịp nhấn nút, một tiếng động rít lên từ hộp máy chủ của CCU, rồi tất cả màn hình trong phòng chuyển thành màu xanh đậm vì hệ thống đã ngừng hoạt động, "màn hình xanh chết chóc" khét tiếng mà ai cũng biết.

    Bishop và Shelton giật lùi lại vì những tia lửa bắn ra từ một lỗ thông trên hộp. Mùi khói khét lẹt bắt đầu tràn ngập căn phòng.

    "Chúa lòng lành...," Mott vội bước ra xa khỏi chiếc máy.

    Tay hacker đập cả tay lên nút khẩn cấp, nhưng điện đã bị cắt, khí halon phụt đầy phòng và dập tắt ngọn lửa.

    "Xảy ra chuyện quái quỷ gì vậy?" Shelton hỏi.

    Gillette tức tối lầm bầm, "Đây là lý do tại sao Phate mã hóa các dữ liệu nhưng vẫn để chế độ Online - Để hắn có thể gửi cho hệ thống của chúng ta một quả bom."

    "Hắn đã làm gì?" Bishop hỏi.

    Tay hacker nhún vai. "Ý tôi là hắn gửi một lệnh làm tắt quạt làm mát, sau đó chỉ thị cho ổ cứng tìm một khu vực không hề tồn tại trên ổ đĩa. Việc đó khiến cho mô tơ của ổ bị kẹt và trở lên quá nóng."

    Bishop kiểm tra chiếc hộp bị cháy. Ông nói với Miller, "Tôi muốn mọi thứ hoạt động trở lại trong vòng nửa tiếng nữa. Anh lo việc đó, được chứ?"

    Miller dè dặt nói, "Tôi không biết trung tâm dịch vụ ổ cứng có sẵn thiết bị trong kho không nữa. Họ hay găm hàng. Lần trước phải mất vài ngày để thay ổ, mặc kệ cái máy đi. Vấn đề là...."

    "Không," Bishop giận dữ nói. "Nửa tiếng thôi."

    Anh chàng có dáng người hình quả lê hướng mắt xuống sàn nhà. Anh hất đầu về phía những chiếc máy tính cá nhân nhỏ. "Chúng ta có thể thiết lập một mạng lưới mini với những chiếc máy đó và tải lại những file dự phòng. Rồi..."

    "Vậy hãy làm đi," Bishop nói và nhặt những tờ giấy cạnh máy in, những gì họ lấy được từ máy của Phate nhờ thao tác in màn hình trước khi hắn mã hóa dữ liệu. Quay lại toàn đội, ông nói, "Hãy xem chúng ta có tìm được gì không."

    Mắt và miệng Gillette cay xè vì khói từ chiếc máy bị chập. Hắn để ý thấy Bishop, Shelton và Sanchez đang đứng im, băn khoăn nhìn chiếc máy ám khói, chắc chắn họ cũng đang nghĩ đến điều mà hắn lo lắng: Thật đáng sợ khi một thứ ảo như mã phần mềm, đơn giản chỉ là một dãy những con số lại có thể dễ dàng mơn trớn thân thể bằng xương bằng thịt của con người bằng cái vuốt ve gây đau đớn, thậm chí là chí mạng.

    ° ° °

    Trong gian phòng khách, những con người trong bức ảnh gia đình giả như đang chằm chằm nhìn hắn, Phate đi tới đi lui, gần như nghẹt thở vì cơn giận điên người.

    Valleyman đã đột nhập vào máy của hắn...

    Và, tệ hại hơn, hắn làm được việc này chỉ với một chương trình backdoor đơn giản, loại chương trình mà một tên nhóc trung học cũng có thể làm được.

    Tất nhiên hắn ngay lập tức thay đổi nhận dạng máy tính và địa chỉ Internet. Không đời nào Gillette có thể xâm nhập lần nữa.

    Nhưng điều khiến Phate đau đầu nhất bây giờ là: Bọn cớm đã nhìn thấy những gì? Không có gì ở trong máy có thể đưa chúng đến nhà hắn ở Los Altos nhưng nó chứa rất nhiều thông tin về những cuộc tấn công hiện tại và sắp tới của hắn. Liệu Valleyman đã thấy thư mục Những dự án sắp tới? Hay hắn đã thấy việc Phate định làm trong vài giờ tới chưa?

    Hắn đã lên toàn bộ kế hoạch cho cuộc tấn công sắp tới... Chết tiệt, mọi việc đều đã được sắp xếp.

    Hắn có nên chọn một nạn nhân khác?

    Nhưng ý nghĩ phải từ bỏ một kế hoạch mà hắn đã mất rất nhiều công sức và thời gian thật quá khó khăn với Phate. Tuy vậy, khó chịu hơn cả việc mất công toi, chính là ý nghĩ phải bỏ dở kế hoạch chỉ vì kẻ đã phản bội hắn - kẻ đã bán đứng hắn cho cảnh sát Massachusetts, phơi bày công cuộc đại Social Engineering của hắn, và kết cục, giết chết Jon Patrick Holloway, khiến Phate phải sống cuộc đời chui lủi mãi mãi.

    Hắn lại ngồi xuống bên chiếc máy tính, thả lỏng những ngón tay chai sần trên bàn phím nhựa bóng láng, như thể những móng tay được chăm chút của phụ nữ. Hắn nhắm mắt lại, và giống như bất cứ hacker nào đang cố gắng tìm ra cách vá bản lỗi, hắn mặc cho tâm trí lang thang đến bất cứ nơi nào nó muốn.

    ° ° °

    Jennie Bishop đang phải mặc một bộ đồ hở lưng xấu tệ mà các bệnh viện vẫn phát cho bệnh nhân.

    Và chính xác thì mấy cái chấm bi nhỏ xíu này để làm gì cơ chứ, cô nghĩ.

    Cô dựng chiếc gối lên và lơ đễnh nhìn quanh căn phòng màu vàng trong khi đợi bác sỹ Williston. Đã mười một giờ mười lăm rồi và ông bác sỹ đang trễ buổi hẹn.

    Cô nghĩ về những gì cần làm sau khi hoàn tất các xét nghiệm ở đây. Đi mua sắm, đón Brandon ở trường, dẫn cậu bé đến sân tennis. Hôm nay thằng bé sẽ đấu với Linda Garland, cô bé dễ thương nhất khối lớp bốn và cũng là đứa trẻ khó chịu với chiến lược duy nhất là lên lưới bất cứ lúc nào có thể, trong một nỗ lực mà Jennie tin là để đập vỡ mũi đối thủ bằng một cú volley chết người.

    Tất nhiên cô cũng nghĩ về Frank nữa. Và quả quyết rằng thật nhẹ nhõm làm sao khi chồng không ở đây. Ông quả là một người mâu thuẫn. Đuổi theo những tên tội phạm trên đường phố Oakland, không chút nao núng khi bắt mấy gã giết người to gấp đôi mình và tám chuyện vui vẻ với những cô gái điếm cùng những gã bán ma túy. Cô không nghĩ là mình từng thấy ông run sợ.

    Cho đến tuần trước. Khi một đợt kiểm tra sức khỏe cho thấy lượng tế bào bạch cầu của Jennie đang ở mức bất thường mà không có lý do hợp lý nào. Khi cô báo tin cho Bishop, mặt ông trắng bệch và không thốt lên lời. Ông cứ gật đầu thật mạnh cả tá lần. Cô tưởng như ông sắp khóc đến nơi - một điều cô chưa từng thấy và Jennie tự hỏi chính mình rằng sẽ phải giải quyết việc này như thế nào.

    "Vậy tóm lại thế là sao?" Frank hỏi bằng giọng run rẩy.

    "Có lẽ là một chứng bệnh nhiễm trùng nào đó," cô nói, nhìn thẳng vào mắt ông, "hoặc có thể là ung thư."

    "Được rồi, được rồi," ông lặp đi lặp lại bằng giọng thì thầm, như thể nếu nói to hơn hay nói điều gì khác sẽ đẩy cô vào nguy hiểm đến nơi.

    Họ trao đổi vài chi tiết linh tinh khác - những lần hẹn khám, giấy ủy nhiệm của bác sỹ Williston. Rồi cô bảo ông ra ngoài chăm sóc vườn cây ăn quả của mình, trong khi cô chuẩn bị bữa tối.

    Có thể là một bệnh nhiễm trùng nào đó...

    Ồ, cô yêu Frank Bishop hơn bất kỳ ai từ trước đến giờ, nhiều hơn tất cả những người mà mình có thể yêu. Nhưng Jennie thấy thật biết ơn khi chồng không có ở đây. Cô chẳng có tâm trạng để nắm tay bất cứ ai bây giờ.

    Có thể là ung thư...

    Ừ thì, cô sẽ sớm biết đó là bệnh gì thôi. Cô nhìn đồng hồ. Bác sỹ Williston đâu nhỉ? Cô không ngại đến bệnh viện, không ngại những cuộc xét nghiệm khó chịu, nhưng cô ghét chờ đợi. Có lẽ trên ti vi có chương trình nào đó. Khi nào thì có Những đứa trẻ hiếu động nhỉ? Hay là nghe radio vậy, có lẽ...

    Một nữ y tá mập mạp đẩy xe chở thuốc vào phòng. "Xin chào," người phụ nữ nói bằng âm điệu Latin nằng nặng.

    "Xin chào."

    "Cô là Jennie Bishop?"

    "Vâng."

    Cô y tá gắn tay Jennie vào máy theo dõi treo trên tường phía trên giường bệnh. Một tiếng bíp nhỏ bắt đầu vang lên nhịp nhàng. Rồi nữ y tá quay sang xem một bản in từ máy tính, và xem xét chỗ thuốc trên xe.

    "Cô là bệnh nhân của bác sỹ Williston đúng không?"

    "Đúng vậy."

    Cô ta nhìn chiếc vòng tay bằng nhựa của Jennie rồi gật đầu.

    Jennie mỉm cười. "Không tin tôi à?"

    Người y tá nói, "Luôn phải kiểm tra kĩ. Cha tôi là một thợ mộc và ông luôn nói đo hai lần, cắt một lần."

    Jennie cố nhịn cười, thầm nghĩ đó chắc hẳn không phải là cách diễn đạt hay ho nhất để chia sẻ với bệnh nhân trong một bệnh viện.

    Cô thấy nữ y tá rút thứ chất lỏng không màu vào kim tiêm nên hỏi, "Bác sỹ Williston chỉ định tiêm?"

    "Đúng vậy."

    "Tôi chỉ đến làm xét nghiệm thôi mà."

    Kiểm tra bản in một lần nữa, người phụ nữ gật đầu. "Đúng là chỉ định của ông ấy."

    Jennie nhìn tờ bản in nhưng không hiểu những dòng chữ và con số trong đó.

    Người y tá sát trùng tay cô bằng bông cồn rồi tiêm thuốc. Sau khi cô ta rút kim, Jennie cảm nhận một cơn râm ran khác lạ lan truyền trong tay gần chỗ tiêm một cơn buốt lạnh.

    "Bác sỹ sẽ đến gặp cô ngay thôi."

    Cô ta bỏ đi khi Jennie chưa kịp hỏi loại thuốc vừa tiêm là gì. Mũi tiêm đó, nó khiến cô hơi lo lắng. Jennie biết rằng người ta phải hết sức cẩn thận nếu ở trong tình trạng như cô, nhưng rồi lại tự nhủ rằng không có gì phải lo lắng hết. Việc cô đang mang thai đã được ghi lại rõ ràng trong bệnh án, Jennie biết điều đó, và chắc chắn là chẳng có ai ở đây sẽ làm gì gây hại cho em bé.


  3. #32
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Chương 32
    Tất cả những gì tôi cần là các số điện thoại liên quan đến chiếc di động mà hắn đang sử dụng và, à, khoanh vùng trong khoảng một dặm vuông từ chỗ tôi. Tôi có thể bước đến ngay sau lưng gã này."

    Người thốt ra lời cam đoan này là Gary Hobbles, một người đàn ông tóc vàng khó đoán tuổi, gầy còm, ngoại trừ cái bụng to tròn tố cáo niềm đam mê uống bia của anh ta. Anh ta vận quần jean xanh và áo sơ mi ca rô.

    Hobbes là trưởng phòng an ninh của nhà cung cấp dịch vụ di động lớn nhất ở bắc California, Mobile America.

    Email về nhà cung cấp dịch vụ di động của Shawn mà Gillette đã tìm thấy trong máy của Phate, là một bản khảo sát những công ty cung cấp dịch vụ tốt nhất cho những ai muốn vào mạng bằng di động. Kết quả khảo sát cho thấy Mobile America đứng đầu, nên cả đội phỏng đoán có khả năng Phate sẽ làm theo gợi ý của Shawn. Tony Mott đã gọi cho Hobbes, người mà trước đây CCU thường làm việc cùng để đề nghị ông đến văn phòng.

    Hobbes xác nhận là nhiều hacker sử dụng Mobile America bởi để vào mạng bằng di động, bạn cần đường truyền chất lượng cao và ổn định, mà Mobile America đáp ứng được những điều kiện này. Hobbes gật đầu chào Stephen Miller, người đang miệt mài làm việc cùng Linda Sanchez để kết nối các máy ở CCU với nhau và khiến chúng có thể hoạt động trực tuyến trở lại. "Steve và tôi vừa nói về chuyện này tuần trước. Anh ta nghĩ rằng chúng tôi nên đổi tên công ty thành Hacker's America."

    Bishop hỏi cách lần ra Phate vì giờ họ đã biết hắn là một khách hàng của công ty, mặc dù có thể là bất hợp pháp.

    "Tất cả những gì ông cần là ESN và MIN của chiếc điện thoại mà hắn đang dùng," Hobbes nói.

    Gillette, người đã từng hưởng lợi nhờ việc hack đường điện thoại, biết ý nghĩa của những chữ viết tắt đó, liền giải thích: "Mọi điện thoại di động đều có một ESN - Electronic Serial Number (số seri điện tử, số này là bí mật) và một MIN - Mobile Identification Number (Tức là số nhận dạng di động - mã vùng và số liên lạc của chiếc điện thoại đó, hay còn gọi là số điện thoại)."

    Hobbes tiếp tục bổ sung rằng nếu anh biết những con số này, và nếu anh đang ở trong vòng một dặm từ chỗ chiếc điện thoại khi nó đang được sử dụng, anh có thể dùng sóng radio để lần ra người gọi với sai số chỉ vài mét. Hay, như Hobbes nhắc lại, "Ngay sau lưng hắn."

    "Làm sao chúng ta biết được số điện thoại của hắn?" Bishop hỏi.

    "À, khó là ở chỗ đó. Hầu như chúng ta chỉ biết số điện thoại khi một khách hàng báo cáo điện thoại của anh ta bị đánh cắp. Nhưng gã này có vẻ không phải loại đi ăn trộm điện thoại của người khác. Dù vậy chúng tôi vẫn cần những con số đó, nếu không chúng tôi không thể giúp gì cho các bạn."

    "Các anh mất bao lâu để tìm ra nêu chúng tôi có số?"

    "Tôi à? Siêu tốc độ đấy. Thậm chí sẽ còn nhanh hơn nếu tôi được lái một trong số mấy cái xe có đèn chớp nháy bên trên," anh tếu táo. Anh đưa cho họ một thẻ card visit. Hobbes có hai số văn phòng, một số fax, một số máy nhắn tin và hai số di động. Anh cười toe toét, "Bạn gái tôi rất vui vì dễ liên lạc với tôi. Tôi nói với nàng đó là vì tôi yêu nàng, nhưng sự thật là công ty muốn tôi lúc nào cũng sẵn sàng. Tin tôi đi, ăn cắp dịch vụ di động sẽ trở thành hành vi tội ác chính trong thế kỷ mới này."

    "Ồ, là một trong số thôi," Linda Sanchez lẩm bẩm, mắt nhìn bức ảnh màn hình chụp con gái của Andy Anderson.

    Hobbes ra về, còn cả đội quay lại với việc xem xét vài tài liệu mà họ kịp in ra từ máy của Phate trước khi hắn mã hóa dữ liệu.

    Miller thông báo mạng lưới dã chiến của CCU đã sẵn sàng. Gillette kiểm tra và giám sát việc lắp đặt đĩa sao lưu mới nhất, hắn vẫn muốn đảm bảo rằng không còn liên kết nào tới ISLEnet trong máy này. Ngay khi hắn vừa hoàn thành việc chạy kiểm tra cuối cùng, chiếc máy bắt đầu phát ra âm thanh bíp, bíp.

    Gillette nhìn vào màn hình, băn khoăn phải chăng chương trình bot của hắn vừa tìm kiếm thêm được thứ gì mới. Nhưng, không, đó là âm báo thư đến. Một email từ Triple-X.

    Gillette đọc to tin nhắn. "Đây là một file có vài thứ hay ho về anh bạn của chúng ta." Anh nhìn lên. "File, P-H-I-L-E. Friend, P-H-R-I-E-N-D." (File và Friend file và bạn: Được viết chệch thành Phile và Phriend).

    "Chỉ là chính tả thôi mà," Bishop trầm ngâm. Đoạn ông nói, "Tôi tưởng Triple-X bị hoảng loạn, và sẽ chỉ dùng điện thoại."

    "Anh ta không đề cập đến tên của Phate và bản thân file này đã được mã hóa." Gillette để ý tay đặc vụ phá đám của Bộ Quốc phòng và nói tiếp, "Xin lỗi phải làm ông thất vọng, đặc vụ Backle, không phải là Standard 12. Đó là một chương trình mã hóa thương mại thôi." Rồi hắn cau mày. "Nhưng anh ta không hề gửi chìa khóa để mở file. Còn ai nhận được tin nhắn gì từ Triple-X không?"

    Không một ai nhận được cuộc gọi nào từ tay hacker này.

    "Anh có số của anh ta không?" Gillette hỏi Bishop.

    Viên thám tử không có, vì trước đó khi Triple-X gọi để cung cấp địa chỉ email của Phate, số máy hiện lên trên di động là từ điện thoại công cộng.

    Nhưng sau khi kiểm tra chương trình mã hóa, Gillette bật cười nói, "Tôi cá là tôi có thể bẻ khóa nó." Hắn đẩy chiếc đĩa chứa những công cụ hacker vào một chiếc máy tính và tải một chương trình bẻ khóa mà hắn đã làm vài năm trước.

    Linda Sanchez, Tony Mott và Shelton đã xem xong những trang tài liệu mà Gillette kịp dùng lệnh in màn hình từ thư mục Dự án tiếp theo của Phate trước khi tên sát nhân chặn việc tải file và mã hóa toàn bộ dữ liệu.

    Mott đính những trang này lên tấm bảng trắng, cả đội đứng xung quanh.

    Bishop nhấn mạnh, "Có rất nhiều thông tin liên quan đến quản lý cơ sở vật chất - quản lý nhà cửa, bãi đỗ xe, an ninh và dịch vụ ăn uống, nhân sự, tiền lương. Có vẻ mục tiêu này là một nơi rất quy mô."

    Mott nói, "Trang cuối cùng, nhìn xem. Dịch vụ y tế."

    "Một bệnh viện," Bishop nói. "Hắn đang nhắm vào một bệnh viện."

    Shelton tiếp lời, "Có lý đây - an ninh cao, có nhiều nạn nhân để lựa chọn."

    Nolan gật đầu. "Nó phù hợp với các thử thách và cuộc chơi của hắn. Và hắn có thể giả làm bất kỳ ai - một bác sỹ phẫu thuật hoặc y tá hay người làm công. Có manh mối là hắn đang nhắm đến bệnh viện nào không?"

    Nhưng không ai có thể tìm ra mối liên hệ đến một bệnh viện cụ thể trong những trang giấy đó.

    Bishop chỉ vào dòng chữ trên một bản in.

    CSGEI Claims ID Numbers - Unit 44

    "Dòng này có cái gì đó rất quen."

    Bên dưới dòng chữ là một danh sách dài, có vẻ như là số an sinh xã hội.

    "CSGEI," Shelton nói, gật gù, cũng cố gắng nhớ ra. "Phải rồi, tôi đã từng nghe nói về nó."

    Bỗng nhiên Linda Sanchez nói, "Ồ, chắc chắn rồi, tôi biết là công ty bảo hiểm của chúng ta - Công ty Bảo hiểm Viên chức Chính phủ bang California - California State Government Employees Insurance. Dãy số kia hẳn là số an sinh của các bệnh nhân."

    Bishop nhấc máy gọi cho văn phòng của CSGEI ở Sacramento. Ông nói chuyện với một chuyên gia giải đáp về thông tin mà đội đã tìm được và hỏi nó có nghĩa là gì. "Đó là yêu cầu bảo hiểm cho dịch vụ y tế của viên chức Chính phủ" Bishop lại tiếp tục cuộc nói chuyện, "Ban 44 nghĩa là gì?"

    Ông lắng nghe. Trong chốc lát, nét lo lắng hiện lên trên khuôn mặt, ông nhìn cả đội, "Ban 44 là cảnh sát bang - văn phòng San Jose. Là chúng ta. Đó là thông tin bí mật... Làm sao Phate có được?"

    "Chúa ơi," Gillette lẩm bẩm. "Hãy hỏi xem hồ sơ lưu trữ của nó có trên ISLEnet không."

    Bishop làm theo. Ông gật đầu. "Chắc chắn là chúng ở đó."

    "Mẹ kiếp," Gillette văng tục. "Khi đột nhập vào ISLEnet, hắn không chỉ trực tuyến trong vòng bốn mươi giây, khốn kiếp, hắn đã thay đổi tệp tin dữ liệu log để khiến chúng ta tưởng như vậy. Chắc chắn hắn phải tải về hàng giga bite dữ liệu rồi. Chúng ta nên..."

    "Ôi, không," giọng ai đó thốt lên, với một âm sắc khiếp đảm.

    Cả đội quay ra và nhìn thấy Frank Bishop, miệng đang há hốc toàn thân run rẩy, chỉ tay vào danh sách những con số được dán trên tấm bảng.

    "Sao thế Frank?" Gillette hỏi.

    "Hắn sẽ tấn công trung tâm y tế Stanford-Packard," viên thám tử thì thầm.

    "Sao ông biết được?"

    "Dòng thứ hai từ dưới lên, số an sinh đó. Là của vợ tôi. Hiện giờ cô ấy đang ở bệnh viện này."

    ° ° °

    Một người đàn ông bước đến cửa phòng của Jennie Bishop.

    Cô rời mắt khỏi chiếc ti vi không bật tiếng - trên đó đang chiếu một cảnh phim truyền hình lâm li, Jennie lơ đãng xem và xăm soi kiểu tóc của nữ diễn viên. Cô đang đợi bác sỹ Williston nhưng vị khách vừa xuất hiện lại là người khác - một người đàn ông trong bộ đồng phục màu xanh đậm. Anh ta còn khá trẻ và có hàng ria đen rậm, không mấy liên quan đến mái tóc màu nhạt. Rõ ràng là bộ ria chỉ để khiến khuôn mặt trẻ măng già dặn thêm một chút. "Cô Bishop?" Giọng anh ta mang chút ngữ điệu miền Nam, khá là hiếm ở vùng này của California.

    "Đúng vậy."

    "Tên tôi là Hellman. Tôi là nhân viên an ninh của bệnh viện. Chồng cô gọi điện yêu cầu tôi đến phòng cô."

    "Tại sao?"

    "Ông ấy không nói gì cả. Ông ấy chỉ nói là phải đảm bảo không có ai vào phòng cô, trừ ông ấy, cảnh sát hoặc bác sỹ của cô."

    "Tại sao?"

    "Ông ấy không nói."

    "Con trai tôi có ổn không? Brandon ấy?"

    "Tôi không thấy nói là thằng bé không ổn."

    "Tại sao Frank không trực tiếp gọi cho tôi?"

    Hellman nghịch chai xịt hơi cay đeo bên thắt lưng. "Đường điện thoại của bệnh viện không hoạt động từ khoảng nửa tiếng trước. Thợ đang sửa. Chồng bà gọi đến trên sóng radio mà chúng tôi sử dụng để liên lạc với nhau, cô biết đấy, xe cứu thương."

    Jennie để di động trong ví nhưng cô nhìn thấy cảnh báo gắn trên tường cho thấy điện thoại di động không được sử dụng trong bệnh viện - vì tín hiệu đôi khi gây nhiễu máy điều hòa nhịp tim và các thiết bị khác.

    Tay bảo vệ nhìn quanh phòng rồi kéo một chiếc ghế lại gần giường và ngồi xuống. Cô không nhìn trực diện gã đàn ông trẻ này nhưng cô cảm nhận được đôi mắt hắn đang dò xét cô, lướt khắp cơ thể cô, như thể hắn đang cố tìm cách nhìn vào chỗ xỏ tay áo của bộ đồ chấm bi này để nhòm ngực cô. Cô quay ra nhìn hắn bằng một cái nhìn giận dữ nhưng hắn đã quay đi ngay trước khi cô bắt được ánh mắt của hắn.

    Bác sỹ Williston, một người đàn ông mũm mĩm, hói đầu gần sáu mươi tuổi, bước vào phòng.

    "Chào Jennies, sáng nay cô thấy thế nào?"

    "Ổn," cô ngập ngừng nói.

    Rồi ông bác sỹ để ý thấy tay nhân viên an ninh và nhướng mày liếc nhìn anh ta.

    Gã trả lời, "Thám tử Bishop yêu cầu tôi ở bên cạnh bà nhà."

    Bác sỹ Williston chăm chú nhìn gã đàn ông rồi hỏi, "Anh thuộc đội an ninh của bệnh viện?"

    "Thưa vâng."

    Jennie nói, "Thi thoảng chúng tôi cũng gặp phải chút rắc rối vì những vụ điều tra của Frank. Anh ấy muốn cẩn thận."

    Bác sỹ gật đầu rồi chuyển sang vẻ mặt động viên. "Được rồi, Jennie, những xét nghiệm này cũng không tốn nhiều thời gian nhưng tôi muốn trao đổi trước với cô về những gì chúng ta sẽ làm và những gì chúng ta đang tìm kiếm." Ông gật đầu về phía chiếc băng gạc trên canh tay cô. "Tôi thấy họ đã lấy máu rồi, giờ thì..."

    "Không. Vết đó do mũi tiêm."

    "Vết...?"

    "Ông biết đấy, là mũi tiêm."

    "Sao lại thế?" Ông ta hỏi, vẻ hốt hoảng.

    "Khoảng hai mươi phút trước. Mũi tiêm mà ông chỉ định."

    "Không hề có lịch tiêm nào cả."

    "Nhưng...," cô cảm nhận cơn ớn lạnh của nỗi sợ hãi chạy xuyên qua, lạnh và buốt như thể liều thuốc đó lan dần từ chỗ tiêm lên dọc cánh tay. "Người y tá tiêm tôi... cô ta có một bản in từ máy tính. Trong đó ghi là ông đã chỉ định một mũi tiêm!"

    "Là loại thuốc gì? Cô có biết không?"

    Thở dốc trong cơn hoảng loạn, cô thì thầm, "Tôi không biết! Bác sỹ, đứa bé..."

    "Đừng lo," ông nói. "Tôi sẽ tìm ra. Người y tá đó là ai?"

    "Tôi không để ý tên cô ta. Dáng người thấp, béo, tóc đen. Người gốc Tây Ban Nha. Cô ta mang một xe đẩy." Jennie bật khóc.

    Tay nhân viên an ninh ngó nghiêng. "Có chuyện gì xảy ra à?

    "Tôi có thể giúp gì không?"

    Cả hai người không để ý đến hắn, vẻ mặt của bác sỹ khiến cô hoang mang - ông cũng đang rất hốt hoảng. Ông chúi người về phía trước và lấy từ trong túi ra một chiếc đèn pin. Ông soi vào mắt và đo huyết áp cho cô. Đoạn ông nhìn lên màn hình máy HP. "Nhịp tim và huyết áp hơi cao. Nhưng đừng quá lo lắng. Để tôi đi xem đã xảy ra chuyện gì."

    Ông vội vàng rời khỏi phòng.

    Đừng quá lo lắng...

    Tay nhân viên an ninh đứng dậy và đóng cửa.

    "Không," cô nói. "Hãy để cửa mở."

    "Xin lỗi," hắn điềm tĩnh đáp lại. "Là lệnh của chồng cô."

    Hắn ngồi xuống, kéo ghế lại gần cô hơn. "Ở đây khá là im ắng nhỉ. Hay chúng ta bật to tiếng ti vi lên nhé."

    Jennie không đáp lại.

    Đừng quá lo lắng...

    Tay bảo vệ cầm chiếc điều khiển lên và điều chỉnh âm lượng to hơn. Hắn bấm nút chọn một bộ phim truyền hình khác rồi ngả người vào ghế.

    Jennie cảm nhận hắn lại đang nhìn mình nhưng tâm tư cô không thể nghĩ gì về hắn nữa. Trong đầu cô giờ chỉ còn hai điều: Ký ức khủng khiếp về mũi tiêm đau buốt đó và đứa bé trong bụng. Cô nhắm mắt, thầm cầu nguyện mọi việc sẽ ổn và chạm nhẹ vào bụng, nơi đứa con hai tháng tuổi của cô đang nằm, có thể đang ngủ yên, hay đang ngọ nguậy vì nghe thấy nhịp đập dồn dập, sợ hãi từ trái tim đầy lo lắng của mẹ nó, chắc chắn đó là âm thanh duy nhất vang lên nơi thế giới tối tăm của sinh linh bé nhỏ này.


  4. #33
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 33
    KKhó chịu và bực bội, tay đặc vụ Arthur Backle kéo ghế sang bên cạnh để có thể nhìn màn hình máy của Wyatt Gillette rõ hơn.

    Tay hacker liếc xuống theo tiếng ghế nghiến trên tấm lót sàn rẻ tiền, rồi lại nhìn lên màn hình và tiếp tục gõ phím. Những ngón tay hắn lướt khắp bàn phím.

    Giờ thì văn phòng CCU chỉ còn lại hai người họ. Ngay khi nhận ra rằng vợ mình có thể là mục tiêu tiếp theo của tên sát nhân, Bishop vội vã lao đến bệnh viện. Những người khác đều đi cùng, ngoại trừ Gillette, người phải ở lại để giải mã email mà họ nhận được từ gã có cái tên kỳ lạ, Triple-X. Gillette gợi ý rằng Backle có thể có nhiều việc để làm hơn ở bệnh viện nhưng tay đặc vụ chỉ nở nụ cười nửa miệng bí hiểm mà hắn biết có thể chọc tức những nghi phạm, và kéo ghế ngồi lại gần Gillette hơn.

    Backle không tài nào theo kịp tốc độ múa tay trên bàn phím của tay hacker.

    Kỳ lạ là tay đặc vụ cũng biết đánh giá cao những tài năng máy tính. Vì cơ quan của anh ta - Bộ Quốc phòng, chính là cơ quan cấp liên bang tham gia vào thế giới tin học sớm nhất (và theo lưu ý của Ban đối ngoại Bộ Quốc phòng thì ngay từ đầu nó cũng là một trong những nhà sáng lập nên Internet). Ngoài ra, là một phần của khóa huấn luyện nghiệp vụ, tay đặc vụ đã tham gia nhiều khóa học về tội phạm máy tính do CIA, Bộ Tư pháp và cơ quan của anh ta chủ trì. Ở nơi làm việc, anh ta từng dành hàng giờ xem những đoạn băng về hacker.

    Gillette gợi nhắc anh ta về một khóa tập huấn gần đây ở Washington, D.c. Ngồi bên những chiếc bàn gỗ ép rẻ tiền trong một phòng họp ở Lầu Năm Góc, những đặc vụ từ Ban Điều tra tội phạm lại trở thành học trò của hai nam thanh niên chẳng hề giống những giảng viên quân sự điển hình. Một người để tóc dài đến vai và đi xăng đan thắt nút, mặc quần soóc và áo sơ mi nhàu nhĩ. Người còn lại ăn mặc chỉnh tề hơn, nhưng khắp mình bấm đầy khuyên và mái tóc húi cua thì nhuộm màu xanh lá cây. Hai người này là thành viên của 'Đội Cọp' - thuật ngữ chỉ một nhóm cựu hacker mũ đen, những người đã hoàn lương (thường là sau khi nhận ra mình có thể nhận được những khoản tiền lớn từ việc bảo vệ các công ty và cơ quan Chính phủ khỏi cựu đồng nghiệp).

    Dù ban đầu có hoài nghi về những tay chơi này, nhưng cuối cùng thì Backle vẫn bị thuyết phục bởi sự tài giỏi và khả năng đơn giản hóa những vấn đề khó hiểu về mã hóa và hacking của hai người này. Họ là những giảng viên có thể truyền đạt chính xác nhất và dễ hiểu nhất trong số những khóa học anh đã tham gia trong suốt sáu năm làm việc cho Ban Điều tra Tội phạm thuộc Bộ Quốc phòng.

    Backle biết mình không phải là một chuyên gia, nhưng chính nhờ lớp học đó, anh cũng hiểu được cơ bản những gì chương trình phá khóa của Gillette đang làm. Nó không có vẻ gì là liên quan đến hệ thống mã hóa Standard 12 của Bộ Quốc phòng. Nhưng thấy Tóc Xanh đã từng giải thích cách người ta ngụy trang những chương trình phần mềm. Chẳng hạn như, bạn có thể tạo một lớp vỏ bọc cho Standard 12 để khiến nó trông giống như một chương trình kiểu khác - thậm chí là một trò chơi hay một bản Word. Và chính vì thế mà bây giờ anh ta cứ chúi người về phía trước và thể hiện sự khó chịu của mình một cách lộ liễu.

    Cảm thấy ngột ngạt sau vai mình, Gillette ngừng tay. Hắn nhìn tay đặc vụ. "Tôi thực sự đang cần tập trung. Và anh cứ thở vào cổ tôi như thế khiến tôi hơi rối trí đấy."

    "Chương trình mà cậu lại cho chạy là cái gì thế?"

    "Không có gì là 'lại' ở đây. Tôi đã nói từ đầu rồi đấy thôi."

    Lại một nụ cười nhạt. "Ồ, cậu cứ nói xem? Tôi tò mò đấy."

    "Một chương trình mã hóa/giải mã mà tôi tải từ trang HackerMart Web và chỉnh sửa theo ý mình. Nó miễn phí nên tôi đoán mình không phạm tội xâm phạm bản quyền. Dù sao việc này cũng không thuộc quyền hạn của anh. Mà này, anh muốn biết nó dùng thuật toán gì không?"

    Backle không trả lời mà chỉ nhìn chằm chằm vào màn hình, cố gắng đè nén cơn tức tối bằng nụ cười nửa miệng của mình.

    Gillette nói, "Nghe tôi nói này, Backle, đây là việc tôi cần làm. Sao anh không đi uống chút cà phê và ăn ít bánh vòng hoặc bất cứ thứ gì có trong căng tin trên tầng và để tôi làm việc của mình?" Hắn vui vẻ nói tiếp, "Anh có thể thoải mái xem xét khi tôi xong việc, rồi cứ việc bắt tôi với bất cứ tội danh của nợ nào mà anh muốn."

    "Ái chà, chúng ta đang hơi nhạy cảm đấy nhỉ?" Backle nói, kéo lê chân ghế một cách ồn ào. "Tôi chỉ đang làm việc của mình thôi."

    "Còn tôi thì đang cố làm việc của mình." Tay hacker quay lại với chiếc máy tính.

    Backle nhún vai. Thái độ của Gillette không làm anh ta bớt cay cú nhưng ý tưởng về bánh vòng cũng hay. Anh đứng dậy, vươn vai và bước xuống hành lang, đi về hướng mùi cà phê bay ra.

    ° ° °

    Frank Bishop đạp phanh chiếc Crown Victoria, dừng lại ở bãi đỗ xe của Trung tâm Y tế Stanford-Packard rồi nhảy phắt ra, quên cả tắt máy và đóng cửa.

    Đi nửa đường đến cổng trước, hình như ông nhận ra mình vừa làm gì nên vội dừng bước và quay lại. Nhưng ông nghe thấy, giọng một phụ nữ, "Cứ đi đi, sếp. Để đó cho tôi." Là Linda Sanchez. Cô, Bob Shelton và Tony Mott đi ngay sau Bisho, vì quá vội chạy đến với vợ mình nên ông đã rời CCU mà không kịp đợi những người còn lại. Patricia Nolan và Stephen Miller đến trong chiếc xe thứ ba.

    Bishop tiếp tục lao hộc tốc đến cửa trước và chạy vội vào trong.

    Ông nín thở chạy qua cả tá bệnh nhân đang chờ ở khu vực lễ tân. Ở bàn tiếp nhận, ba y tá đang đứng xúm quanh nhân viên lễ tân, mắt nhìn màn hình vi tính. Không ai ngước lên nhìn ông. Có chuyện gì đó không ổn. Vẻ mặt ai cũng khó hiểu, họ thay nhau gõ bàn phím.

    "Xin lỗi, đây là việc của cảnh sát," ông nói, tay giơ ra phù hiệu. "Tôi cần biết Jennie Bishop đang ở phòng nào."

    Một y tá ngước lên. "Xin lỗi, ngài sỹ quan. Hệ thống đang gặp trục trặc. Chúng tôi không rõ là chuyện gì nhưng toàn bộ thông tin của bệnh nhân đã biến mất."

    "Tôi phải tìm được cô ấy. Ngay bây giờ."

    Người y tá thấy nỗi đau khổ trên khuôn mặt ông và bước lại gần. "Cô ấy có phải là bệnh nhân nội trú không?"

    "Sao?"

    "Cô ấy có ở nội trú không?"

    "Không. Cô ấy đến làm vài xét nghiệm. Trong một hay hai giờ gì đó. Cô ấy là bệnh nhân của bác sỹ Williston."

    "Bệnh nhân ngoại trú khoa ung thư" Người y tá hiểu ngay. "Được rồi, ở trên tầng ba, hướng tây. Lối đó." Cô ta chỉ tay và nói gì đó nhưng Bishop đã chạy vội ra đại sảnh. Một bóng trắng phấp phới bên cạnh. Ông liếc xuống. Chiếc áo sơ mi đã tuột hết ra. Ông nhét nó vào trong cạp quần, không được phá nếp.

    Lên trên tầng, qua một hành lang dài như hàng dặm, rẽ hướng tây.

    Ở cuối sảnh, ông nhìn thấy một y tá và được chỉ dẫn đến một căn phòng. Khuôn mặt cô gái trẻ tóc vàng có vẻ đang rất vội nhưng Bishop không biết lý do là vì có chuyện xảy ra với Jennie hay vì vẻ lo lắng trên khuôn mặt ông.

    Ông chạy vội xuống sảnh và xộc vào phòng, gần như va vào viên bảo vệ trẻ tuổi đang ngồi cạnh giường. Gã đứng bật dậy, tay với khẩu súng của mình.

    "Anh yêu!" Jennie òa khóc.

    "Ổn rồi," Bishop nói với người bảo vệ. "Tôi là chồng cô ấy."

    Vợ ông vẫn khóc thút thít. Ông chạy đến bên vợ và ôm chặt cô trong vòng tay.

    "Một y tá đã tiêm cho em," cô thì thầm. "Bác sỹ không hề chỉ định. Họ không biết là thuốc gì. Đang xảy ra chuyện gì vậy, Frank?"

    Ông liếc nhìn tay bảo vệ, tên trên phù hiệu đang mang là 'R. Hellman'. Anh ta nói, "Xảy ra trước khi tôi đến đây, thưa ông. Giờ họ đang tìm cô y tá đó."

    Bishop cảm ơn anh ta vì đã ở đây. Viên thám tử vừa phải trải qua một khoảng thời gian kinh khủng mới liên lạc được với bên an ninh của bệnh viện để yêu cầu cử người đến phòng bệnh của Jennie. Phate đã phá hoại đường điện thoại của bệnh viện, còn sóng radio lại nhiễu đến mức ông thậm chí không nghe rõ đầu dây bên kia đang nói gì. Nhưng rõ ràng là thông điệp đã được tiếp nhận khá chuẩn xác. Bishop còn cảm thấy hài lòng hơn khi tay bảo vệ, không như phần lớn đồng nghiệp của anh ta ở bệnh viện này, anh ta có trang bị vũ khí.

    "Chuyện này là sao, Frank?" Jennie nhắc lại.

    "Nhớ kẻ mà bọn anh đang theo không? Hắn biết em đang ở bệnh viện này. Bọn anh nghĩ có thể hắn đang quanh quẩn đâu đây."

    Linda Sanchez bước nhanh vào phòng. Tay bảo vệ nhìn thấy tấm thẻ cảnh sát đung đưa trên dây đeo cổ liền mời cô vào. Hai người phụ nữ có quen biết nhau nhưng nỗi lo lắng làm Jennie quên cả gật đầu chào.

    "Frank, thế còn con của chúng ta thì sao?" Cô hỏi, giọng thổn thức. "Nhỡ thứ hắn tiêm cho em gây hại cho em bé thì sao?"

    "Thế bác sỹ nói gì?"

    "Ông ấy không biết!"

    "Mọi chuyện sẽ ổn thôi, cưng à. Em sẽ không sao đâu."

    Bishop kể cho Linda Sanchez chuyện đã xảy ra. Người phụ nữ mập mạp ngồi xuống giường Jennie, cô cầm lấy tay bệnh nhân, ngả người về phía trước và nói bằng một giọng thân thiện nhưng chắc chắn, "Nhìn tôi này, cưng. Nhìn tôi đi..." Khi Jennie đã nhìn cô, Sanchez nói, "Giờ thì, chúng ta đang trong bệnh viện, đúng không nào?"

    Jennie gật đầu.

    "Thế nên nếu kẻ nào đó làm việc không nên, họ có thể chữa cho cô ngay lập tức." Những ngón tay màu nâu mập mạp của cô xoa cánh tay của Jennie đầy mạnh mẽ như thể cô vừa trở về nhà từ bão tuyết. "Mỗi mét vuông ở đây có nhiều bác sỹ hơn bất cứ nơi nào ở Thung lũng này. Đúng không? Nhìn tôi này. Tôi nói đúng không?"

    Jennie lau nước mắt và gật đầu. Cô có vẻ nhẹ nhõm hơn một chút.

    Bishop cũng vậy, ông cảm thấy vui vì cũng góp phần vào việc an ủi vợ. Nhưng chút khuây khỏa đó nhanh chóng nhường chỗ cho ý nghĩ rằng nếu vợ ông hoặc đứa bé bị bất kỳ tổn hại nào thì Shawn hay Phate sẽ không đời nào còn sống sót để vào tù.

    Tony Mott bước vào, anh ta chưa phải là người mệt nhất cuộc chạy đua vội vàng. Không giống như Bob Shelton, ông ta đang thất thểu bước vào phòng, dựa vào khung cửa, thở hổn hển. Bishop nói, "Có vẻ Phate đã làm gì đó với đơn thuốc của Jennie. Giờ họ đang kiểm tra lại."

    "Lạy chúa," Shelton lẩm bẩm. Lần này Bishop cảm thấy thoải mái khi Tony Mott đi hàng đầu vì anh ta có mang theo khẩu súng lục to bự mạ vàng bên hông. Giờ thì ông hiểu rằng không nên đi cùng quá nhiều đồng đội hay trang bị nhiều súng ống khi đối mặt với một kẻ như Phate.

    Sanchez vẫn nắm tay an ủi Jennie, thì thầm miên man về việc trông cô ổn thế nào, thức ăn ở đây có thể tệ đến mức nào, rồi thì, trời ơi, cả tá chuyện trên trời dưới bể. Bishop thầm nghĩ con gái Sanchez thật may mắn vì có một người mẹ như cô - người chắc hẳn sẽ ngồi như thế này, ngay bên cạnh con gái khi nó cuối cùng cũng chuyển dạ sinh đứa con bướng bỉnh của mình.

    Mott đã cẩn thận mang theo những bản sao bức ảnh của Holloway từ kỷ yếu của trường Massachusetts. Anh đã đưa chúng cho một số bảo vệ ở tầng dưới, giải thích với họ, rồi họ lại phân phát cho các nhân viên bệnh viện. Dù vậy, cho đến giờ chưa một ai nhìn thấy tên sát nhân.

    Tay cảnh sát trẻ nói với Bishop, "Patricia Nolan và Miller đang ở trong phòng máy tính của bệnh viện để xem xét mức độ thiệt hại của vụ hack này."

    Bishop gật đầu rồi nói với Shelton và Mott, "Tôi muốn các anh...."

    Đột nhiên những ký hiệu trên màn hình máy tính treo trên tường nhảy loạn xạ, kèm theo một âm thanh lớn. Đường biểu đồ hiển thị nhịp tim của Jennie nhảy lên và xuống một cách hỗn loạn.

    Một thông báo đỏ chói hiện lên trên màn hình.

    CẢNH BÁO:

    LOẠN NHỊP TIM

    Jennie thở dốc và ngước lên nhìn màn hình. Cô kêu thất thanh.

    "Chúa ơi!" Bishop gào lên rồi vồ lấy nút gọi nhân viên y tế khẩn cấp. Ông điên cuồng nhấn nút. Bob Shelton chạy ra ngoài hành lang và la lên, "Chúng tôi cần giúp đỡ ngay! Ở đây! Ngay bây giờ!"

    Rồi đột nhiên tất cả các đường trên màn hình biến thành một đường thẳng. Âm thanh cảnh báo chuyển thành một tiếng ré chói tai rồi một thông báo mới nổi bật trên màn hình.

    CẢNH BÁO:

    TIM NGỪNG HOẠT ĐỘNG

    "Anh ơi," Jennie khóc nức nở. Bishop ôm lấy cô thật chặt, cảm thấy hoàn toàn bất lực. Mồ hôi túa ra trên gương mặt Jennie, toàn thân cô run rẩy, nhưng cô vẫn tỉnh táo. Linda Sanchez chạy ra cửa và gào lên, "Gọi bác sỹ chết tiệt nào đó đến đây ngay!"

    Ngay sau đó, bác sỹ Williston chạy vào phòng. Ông nhìn lên màn hình rồi lại nhìn bệnh nhân và với tay tắt máy.

    "Hãy làm điều gì đi!" Bishop gào lên.

    Williston nghe lồng ngực cô rồi kiểm tra huyết áp. Rồi ông bước lùi lại và thông báo, "Cô ấy ổn cả."

    "Ổn ư?" Mott hỏi.

    Sanchez nhìn ông bác sỹ như thể cô sắp tóm lấy rồi ném ông ta vào bệnh nhân. "Ông kiểm tra lại đi!"

    "Cô ấy không làm sao cả," ông bác sỹ nói với nữ cảnh sát.

    "Nhưng trên màn hình...," Bishop lắp bắp.

    "Sự cố," bác sỹ giải thích. "Hệ thống máy chủ gặp vấn đề gì đó. Tất cả màn hình của tầng này đều bị như thế."

    Jenme nhắm mắt và ngả đầu xuống gối. Bishop ôm cô thật chặt.

    "Còn mũi tiêm đó thì sao?" Vị bác sỹ tiếp tục nói, "Tôi đã kiểm tra lại. Không biết tại sao bộ phận dược trung tâm nhận được chỉ định yêu cầu tiêm vitamin cho cô. Chuyện là như vậy."

    "Một loại vitamin?"

    Bishop rơi nước mắt vì trút được nỗi lo sợ.

    Vị bác sỹ nói, "Nó chắc chắn không gây hại gì cho cô hay thai nhi cả." Ông lắc đầu. "Thật kỳ lạ, chỉ định này được đưa ra dưới tên tôi và kẻ làm thế hẳn phải có mật khẩu phân quyền của tôi. Tôi giữ nó trong một file cá nhân ở máy tính của mình. Tôi không thể tưởng tượng làm sao mà có người lấy được nó."

    "Không thể tưởng tượng nổi," Tony Mott nói, kèm theo một cái nhìn đầy ẩn ý về phía Bishop.

    Một người đàn ông tầm năm mươi, đeo quân hàm bước vào phòng. Ông ta đóng bộ vét chỉnh tề. Ông tự giới thiệu mình là Les Allen. Ông phụ trách an ninh tại bệnh viện này. Hellman, tay bảo vệ trong phòng gật đầu chào Allen, nhưng không được đáp lại. Ông ta hỏi Bishop, "Có chuyện gì xảy ra ở đây thế Thám tử?"

    Bishop kể cho ông ta mọi chuyện xảy ra với vợ mình và các màn hình máy tính.

    Allen nói, "Vậy nghĩa là hắn ta đã đột nhập vào máy chủ của chúng tôi... Tôi sẽ báo cáo với ban an ninh ngay hôm nay. Nhưng bây giờ thì chúng ta nên làm gì? Các anh nghĩ gã này đang ở đâu đó quanh đây?"

    "Ồ, phải, hắn đang ở đây." Bishop khoát tay về phía màn hình tối đen trên đầu Jennie. "Hắn làm việc này để đánh lạc hướng, khiến chúng ta mải tập trung vào Jennie và khu vực này. Nghĩa là hắn đang nhắm vào một bệnh nhân khác."

    "Hoặc là nhiều bệnh nhân khác," Bob Shelton nói.

    Mott bổ sung thêm, "Hoặc là ai đó trong số những nhân viên."

    Bishop nói, "Kẻ tình nghi này thích thử thách. Nơi nào khó đột nhập nhất trong bệnh viện này?"

    Bác sỹ Williston và Les Allen thảo luận về việc này. "Ông nghĩ sao, bác sỹ? Khu phẫu thuật? Tất cả các phòng đều có cửa kiểm soát ra vào."

    "Tôi cũng đoán thế."

    "Thế khu đó ở đâu?"

    "Trong một tòa nhà độc lập, từ đây đến đó phải qua một đường hầm."

    "Và nhiều bác sỹ cùng y tá ở đó đeo khẩu trang và mặc áo choàng, đúng không?" Linda Sanchez hỏi.

    "Phải."

    Nhờ vậy, Phate có thể tự do gieo rắc sự giết chóc. Rồi Bishop hỏi, "Hiện giờ có ca phẫu thuật nào không?"

    Bác sỹ Williston bật cười. "Có ca nào không à? Tôi phải nói là có khoảng hai mươi ca đang diễn ra" Ông quay sang Jennie. "Mười phút nữa tôi sẽ quay lại. Chúng tôi sẽ làm xong những xét nghiệm và cô có thể về nhà." Ông rời khỏi phòng.

    "Đi săn thôi," Bishop nói với Mott, Sanchez và Shelton. Ông lại ôm chặt Jennie. Khi ông ra khỏi phòng, tay bảo vệ trẻ tuổi kéo ghế lại gần cạnh giường hơn. Khi họ đã ra đến hành lang, hắn đẩy cánh cửa đóng lại. Bishop nghe thấy tiếng chốt cửa.

    Họ khẩn trương bước xuống sảnh, Mott vẫn để tay gần khẩu súng tự động của mình, dáo dác nhìn quanh, như thể đã sẵn sàng rút súng và bắn bất kì kẻ nào có chút gì giống với Phate.

    Bishop cũng cảm thấy rất nôn nóng, ông biết rằng kẻ sát nhân là một con tắc kè hoa, với tài cải trang của mình, hắn có thể đi ngang qua họ ngay lúc này mà họ chẳng hề hay biết.

    Khi bước vào thang máy, điều gì đó lóe lên trong đầu Bishop. Hoảng hốt, ông quay lại nhìn về phía cánh cửa đã chốt chặt ở phòng Jennie. Không kịp nói chi tiết kỹ năng social engineering của Phate, ông hỏi với Allen, "Rắc rối là ở chỗ chúng tôi không bao giờ có thể chắc chắn về diện mạo của hắn trong vụ tiếp theo. Tôi không để ý lắm tay bảo vệ trong phòng vợ tôi. Anh ta cũng cùng tầm tuổi và cỡ người với kẻ đó. Ông có chắc anh ta làm ở bộ phận của anh?"

    "Ai cơ? Dick Hellman à?" Allen trả lời, khẽ gật đầu. "Ồ, điều tôi có thể khẳng định với anh là cậu ta là chồng của con gái tôi và tôi đã biết cậu ấy tám năm rồi. Theo hết nghĩa của từ 'làm' trong câu hỏi của anh - nếu coi một ngày dài bốn tiếng đồng hồ trong một ca trực tám tiếng là 'làm việc', thì tôi cho rằng câu trả lời là có."

    ° ° °

    Trong căng tin nhỏ ở CCU, đặc vụ Art Backle lục lọi trong vô vọng khắp tủ lạnh để tìm một ly sữa hoặc cà phê sữa. Kể từ khi Starbucks xuất hiện ở vùng Bay, Backle không hề uống bất kỳ loại cà phê nào khác và anh ta biết rằng thứ nước uống bốc mùi khê nồng ở đây luôn có vị kinh dị mà không thứ gì có thể gia giảm nổi. Hơi bực mình, anh ta trút một lượng lớn cà phê hòa tan vào cốc. Thứ chất lỏng chuyển thành màu xám.

    Anh ta lấy một chiếc bánh vòng từ đĩa và ngoạm nó một cách đói khát. Mẹ kiếp... Anh quăng cục cao su giả sang tận đầu kia căn phòng, và chợt nhận ra rằng rõ ràng là Gillette đã chơi khăm mình khi dụ anh ta đến đây. Anh thề là khi tay hacker bị tống lại vào tù, anh sẽ...

    Tiếng động gì thế nhỉ?

    Anh quay đầu ra phía cửa.

    Nhưng ngay khi anh nhận ra đó là tiếng bước chân chạy, kẻ tấn công đã ở phía trên. Hắn giáng mạnh một đòn vào lưng người đặc vụ, ném anh vào tường và đâm mạnh một cú tưởng như thủng phổi.

    Kẻ tấn công tắt hết đèn. Căn phòng không cửa sổ tối đen như mực. Rồi hắn tóm lấy cổ áo Backle và ném anh đập mặt xuống sàn nhà. Đầu anh đập uỵch xuống sàn bê tông.

    Cố lấy hơi thở, tay đặc vụ lần tìm khẩu súng.

    Nhưng kẻ khác đã nhanh tay hơn và tước mất nó.

    ° ° °

    Bạn muốn là ai?

    Phate chầm chậm bước dọc hành lang chính của văn phòng CCU. Hắn mặc một bộ đồng phục cũ kĩ lấm lem của hãng Pacitic Gas & Electric và đội một chiếc mũ cứng. Giấu dưới bộ đồ là con dao Ka-bar và một khẩu súng trường tự động - khẩu GLock, cùng ba băng đạn. Hắn còn mang theo một thứ vũ khí nữa nhưng chẳng ai có thể nhận ra khi nó ở trong tay một thợ sửa chữa: Một chiếc cờ lê mỏ lết.

    Bạn muốn là ai?

    Ai đó mà tụi cớm ở đây không chút nghi ngờ, ai đó mà chúng sẽ không mảy may để mắt đến lần hai. Chính là kẻ đó.

    Phate nhìn xung quanh, ngạc nhiên khi thấy CCU có hẳn một phòng máy chủ ngay trong trụ sở. Có phải ngẫu nhiên mà chúng thiết lập riêng một xưởng ở đây? Hay đây là chủ ý của lão già Andy Anderson đã chết?

    Hắn dừng lại để định hướng rồi lại tiếp tục từ từ tiến đến một khoang làm việc nằm khuất sau khu điều khiển trung tâm trong im lặng. Hắn có thể nghe thấy tiếng gõ bàn phím như vũ bão vọng lại từ đó.

    Lại một sự ngạc nhiên nữa khi CCU vắng vẻ thế này, hắn tưởng phải có ít nhất ba hoặc bốn mạng ở đây - lý do cho sự hiện diện của khẩu súng và băng đạn dự trữ, nhưng rõ ràng là bọn chúng đều đã đến bệnh viện, nơi bà Bishop có thể đang chịu chút tổn thương vì mũi tiêm vitamm B đầy dưỡng chất mà hắn đã chỉ định cho cô ta sáng nay.

    Thực ra Phate đã cân nhắc đến việc giết cô ta, hắn có thể làm việc đó một cách dễ dàng bằng việc chỉ định cho phòng cấp thuốc cấp một lượng lớn insulin chẳng hạn. Nhưng thế chưa hẳn là chiến thuật tốt nhất trong bàn chơi này. Còn sống và gào thét trong cơn hoảng loạn, cô ta sẽ có giá trị hơn trong vai trò nghi binh. Nếu cô ta chết, cảnh sát sẽ kết luận cô ta là mục tiêu của hắn và quay lại nơi này ngay lập tức. Giờ thì bọn chúng hẳn đang chạy nhốn nháo khắp bệnh viện để tìm ra nạn nhân thực sự.

    Thực ra, mục tiêu đó đang ở một nơi khác. Có điều kẻ đó không phải là bệnh nhân, cũng chẳng phải nhân viên của Trung tâm Y tế Stanford-Packard. Hắn đang ở ngay đây, tại CCU này.

    Và tên của hắn là Wyatt Gillette.

    Kẻ giờ đây chỉ còn cách Phate hơn sáu mét, trong khoang làm việc tối tăm ngay trước mắt hắn.

    Phate nghe ngóng nhịp điệu bàn phím nhanh và mạnh đáng kinh ngạc của Valleyman. Tiếng gõ không ngừng nghỉ, như thể những ý tưởng tinh túy của hắn sẽ biến mất như làn khói nếu hắn không nhanh chóng đẩy chúng vào bộ xử lý trung tâm của máy tính.

    Phate chầm chậm tiến gần nơi đó, tay nắm chặt chiếc cờ lê nặng trịch.

    Trong những ngày hai gã trai trẻ cùng điều hành Knights of Access, Gillette thường nói rằng là hacker thì phải tinh thông nghệ thuật ứng tác.

    Đó cũng là kỹ năng mà Phate luyện tập rất nhiều, và vì thế, hôm nay hắn đã ứng tác.

    Phate đoán rằng khi Gillette đột nhập vào máy của hắn, khả năng rủi ro cao là Gillette đã phát hiện ra cuộc tấn cống vào bệnh viện. Vì vậy hắn đã thay đổi kế hoạch một chút. Thay vì giết vài bệnh nhân trong khu phẫu thuật như ý định ban đầu, hắn sẽ viếng thăm CCU.

    Tất nhiên còn một khả năng là Gillette sẽ đi cùng đám cảnh sát đến bệnh viện, nên hắn đã gửi đi một file vô nghĩa được mã hóa, một tin nhắn tưởng như do Triple-X gửi, để đảm bảo giữ chân Gillette lại và tìm cách giải mã nó.

    Trong suy nghĩ của hắn, đây quả là một bàn chơi hoàn hảo. Không chỉ vì đột nhập vào CCU là một thách thức thực sự đối với Phate - đáng giá hai mươi điểm, mà còn vì nếu thành công thì cuối cùng hắn cũng có cơ hội hủy hoại kẻ mà nhiều năm nay hắn vẫn truy lùng.

    Hắn nhìn quanh một lần nữa, nghe ngóng. Tịnh không một bóng người trong căn phòng rộng lớn, ngoại trừ tên Judas phản bội Valleyman. Và việc bảo vệ ở đây lỏng lẻo hơn hắn tưởng nhiều. Tuy vậy, hắn cũng không hối tiếc khâu chuẩn bị cầu kì - bộ đồng phục PG&E, phiếu yêu cầu kiểm tra bảng mạch giả, tấm thẻ mỏng mà hắn đã tỉ mẩn làm bằng máy ID của mình, dụng cụ phá khóa ngốn kha khá thời gian. Khi mày đấu trò Access với một gã cao thủ, mày không thể bất cẩn, đặc biệt là khi hắn lại tình cờ đang ở trong nhà ngục của chính mình ở sở cảnh sát.

    Giờ thì hắn chỉ còn cách kẻ thù của mình một khoảng tính bằng mét, kẻ mà Phate đã dành rất nhiều giờ vẽ vời trong trí tưởng tượng của mình cái chết của hắn.

    Nhưng, không giống như trò Access nguyên bản, đâm vào trái tim đang đập thổn thức của nạn nhân, trong đầu Phate còn có một thứ khác dành cho Gillette:

    Một cú đánh bằng cờ lê vào đầu sẽ làm tên Valleyman bất tỉnh, và rồi khi nắm lấy đầu mình, Phate sẽ tiếp tục công việc với con dao Ka-bar. Hắn có ý tưởng này từ tay hacker trẻ ở Học viện Thánh Francis, Jamie Turner. Trong một email gửi cho anh trai, nó đã viết:

    Jamie: Anh này, anh có nghĩ ra điều gì khiến một hacker sợ hơn là bị mù không?

    Không, Jamie, tao chắc là không nghĩ ra nổi đâu, Phate tự trả lời trong im lặng.

    Hắn dừng lại bên cạnh khoang làm việc và cúi thấp người, lắng nghe tiếng lách cách đều đều của bàn phím. Hít một hơi thật sâu, hắn bước vào thật nhanh, vung chiếc cờ lê ra phía sau để có được lực đòn bẩy thật mạnh.


  5. #34
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Chương 34
    Phate bước ngay vào giữa khoang làm việc trống không, chiếc cờ lê vẫn giơ phía trên đầu.

    "Không!" Hắn thì thầm.

    Tiếng gõ bàn phím không hề phát ra từ những ngón tay của Wyatt Gillette. Âm thanh đó phát ra từ chiếc loa nối với máy tính. Khoang làm việc trống rỗng.

    Nhưng ngay khi hắn thả chiếc cờ lê ra và vừa định rút khẩu súng ra khỏi lớp áo ngoài, Gillette bước ra từ một khoang ngay bên canh và dí khẩu súng hắn vừa lấy được từ tay đặc vụ Backle đáng thương vào cổ Phate. Hắn tước khẩu súng khỏi tay tên giết người.

    "Đứng im, Jon," Gillette nói với hắn và lục soát túi của hắn. Hắn lôi ra một chiếc đĩa nén, một chiếc đầu đĩa xách tay và tai nghe, một chùm chìa khóa và một cái ví. Thứ cuối cùng hắn tìm thấy là một con dao. Hắn đặt mọi thứ lên bàn.

    "Giỏi đấy," Phate nói, hất đầu về phía chiếc máy tính. Gillette gõ một phím và âm thanh ngưng bặt.

    "Mày ghi âm tiếng đánh máy vào một file.wav. để tao tưởng mày đang ngồi đây."

    "Phải."

    Phate lắc đầu cười cay đắng.

    Gillette bước lùi lại và hai phù thủy máy tính thăm dò lẫn nhau. Đây là lần gặp gỡ mặt đối mặt đầu tiên của cả hai. Họ đã từng cùng nhau chia sẻ hàng trăm bí mật và kế hoạch, cùng hàng triệu từ khóa, nhưng những lần giao tiếp đó chưa bao giờ là trực tiếp, tất cả đều dưới sự hiện thân kì diệu của những hạt electron chạy trong lõi dây đồng hay dây cáp quang.

    Phate, như Gillette quan sát, có vẻ gọn gàng và khỏe mạnh so với một hacker thông thường. Hắn có làn da hơi rám nắng nhưng Gillette biết rằng màu da này là nhờ một loại mỹ phẩm nào đó, trên thế giới chẳng có hacker nào chịu bỏ thời gian bên máy tính để đến bãi biển, dù chỉ mười phút. Gương mặt của gã có vẻ vui thích nhưng đôi mắt lại lạnh lùng như những mảnh đá.

    "Bộ đồ đẹp đấy," Gillette nói, hất đầu về phía bộ đồng phục Pac Bell. Hắn nhặt chiếc đĩa nén mà Phate đã mang theo lên và nhướng một bên lông mày.

    "Phiên bản Trốn tìm của tao," Phate giải thích. Đây là một virus rất mạnh có thể càn quét mọi chiếc máy ở CCU và mã hóa các file dữ liệu cùng hệ thống điều hành. Vấn đề duy nhất là không có chìa khóa để giải mã chúng.

    Hắn hỏi Gillette, "Sao mày biết là tao sẽ tới?"

    "Tao đã đoán là mày thực sự định giết ai đó ở bệnh viện, cho đến khi mày bắt đầu lo lắng rằng tao đột nhập vào máy của mày và có thể đã nhìn thấy một vài ghi chép. Thế nên mày đã đổi kế hoạch. Mày dắt mũi những người khác rời khỏi đây để tìm đến tao."

    "Cũng khá chuẩn đây."

    "Mày đảm bảo tao sẽ ở lại bằng cách gửi cho chúng tao email bị mã hóa đó - giả vờ là thư gửi từ Triple-X. Chính nó gợi ý cho tao rằng mày đang đến đây. Anh ta sẽ không gửi mail cho chúng tao, anh ấy sẽ gọi điện. Với Trapdoor ở khắp nơi, Triple-X luôn ám ảnh rằng mày sẽ phát hiện ra anh ta đang giúp đỡ chúng tao."

    "À, thế nào thì cuối cùng tao cũng phát hiện ra thôi, đúng không nhỉ?" Phate lúc này mới lên tiếng, "Nó chết rồi, mày biết đấy. Triple-X."

    "Cái gì?"

    "Tao có dừng chân một chút trên đường đến đây." Hất đầu về phía con dao. "Là máu của hắn trên đó đấy. Tên hắn là Peter C. Grodsky. Sống một mình ở Sunnyvale. Làm lập trình viên của một văn phòng tín dụng vào ban ngày, hack vào ban đêm. Hắn chết ngay bên cạnh máy tính của mình. Cũng đáng đấy chứ."

    "Làm sao mà mày tìm ra được?"

    "Rằng chúng mày đang trao đổi thông tin về tao?" Phate nhạo báng. "Mày nghĩ là có sự thật nào trên thế giới này mà tao không thể tìm ra nếu tao muốn sao?"

    "Đổ khốn kiếp." Gillette ấn mạnh khẩu súng và chờ đợi sự rúm ró sợ hãi của Phate. Nhưng không hề. Hắn chỉ đơn giản quay lại, bình thản, nhìn thẳng vào mắt Gillette và nói tiếp, "Dù sao, Triple-X vẫn phải chết. Hắn là nhân vật phản bội."

    "Là cái gì?"

    "Trong trò chơi của chúng ta. Trò chơi chiến thuật của chúng ta. Triple-X là kẻ phản bội. Tất cả chúng đều phải chết - như Judas, hay Boromir trong Chúa tể những chiếc nhẫn. Nhân vật của mày cũng rất rõ ràng. Mày biết là gì mà?"

    Những nhân vật... Gillette nhớ lại tin nhắn gửi kèm bức ảnh xác chết của Lara Gibson. Cả thế giới này chỉ là một trò chơi MUD, và con người sống trong đó chỉ là những nhân vật.

    "Mày nói đi."

    "Mày là một anh hùng bị khiếm khuyết, khiếm khuyết đó thường khiến các anh hùng vướng phải rắc rối. Ồ, kết cục là mày sẽ làm điều gì đó anh hùng, cứu được vài mạng người, khán giả sẽ khóc thương mày. Nhưng mày sẽ không bao giờ đạt được mức cuối cùng của cuộc chơi."

    "Vậy khiếm khuyết của tao là gì?"

    "Mày không biết à? Sự tò mò của mày."

    Rồi Gillette hỏi, "Vậy mày là nhân vật nào?"

    "Tao là đối thủ của mày, giỏi và mạnh hơn mày, tao không bị hạn chế bởi quan điểm đạo đức. Nhưng những thế lực lương thiện lại chống lại tao. Điều đó khiến tao phải trở thành một tên khốn nếu muốn chiến thắng... Xem nào, còn ai nữa nhỉ? Andy Anderson à? Hắn là một kẻ khôn ngoan, tuy đã chết nhưng linh hồn vẫn tồn tại. Obi-Wan Kenobi. Frank Bishop là tên lính..."

    Gillette thầm nghĩ: "Trời ơi, lẽ ra chúng ta nên cử cảnh sát bảo vệ Triple-X. Lẽ ra chúng ta đã có thể làm điều gì đó."

    Lại lấy vẻ mặt vui nhộn, Phate nhìn xuống khẩu súng trong tay Gillette. "Chúng cho mày dùng súng à?"

    "Tao mượn nó đấy," Gillette giải thích. "Từ một gã ở lại để trông chừng tao."

    "Và hắn ta, thế nào nhỉ, bị hạ gục rồi? Bị trói và bịt miệng?"

    "Đại loại thế."

    Phate gật gù. "Và hắn không nhìn thấy mày làm thế nên mày sẽ nói với chúng là tao làm?"

    "Chuẩn đấy."

    Một nụ cười cay đắng. "Tao quên mất mày là một tay chiến thuật MUD rất siêu. Trong Knights of Access, mày là một kẻ lặng lẽ, là gã nhà thơ. Thế nhưng, mẹ kiếp, mày chơi rất giỏi đấy."

    Gillette lôi từ trong túi ra chiếc còng tay. Hắn đã lấy nó khỏi thắt lưng của Eaekle sau khi hạ tay đặc vụ trong phòng cà phê. Hắn cảm thấy ít tội lỗi hơn nhiều so với hắn tưởng lúc đầu. Hắn thảy chiếc còng về phía Phate và bước lùi lại. "Tự còng vào."

    Tay hacker nhặt lên nhưng không còng vào cổ tay của mình. Hắn chỉ đơn giản nhìn chằm chăm hồi lâu vào Gillette. Rồi hắn nói, "Cho tao hỏi mày một câu - tại sao mày lại bước sang phe kia?"

    "Cái còng tay," Gillette lẩm bẩm, ra hiệu về phía nó. "Còng tay vào."

    Nhưng với đôi mắt khẩn nài, Phate say mê nói, "Thôi nào, Mày là một hacker. Mày sinh ra là để sống trong Miền xanh thẳm vô định. Mày đang làm gì thế, sao lại làm việc cho chúng chứ?"

    "Tao làm cho họ vì tao thực sự là một hacker," Gillette phản bác. "Mày thì không. Mày chỉ là kẻ thất bại khốn kiếp, chẳng may lại biết dùng máy móc để giết người. Đó không phải là mục đích của hacking."

    "Quyền truy cập là mục đích của hacking. Thâm nhập càng sâu càng tốt vào hệ thống của một kẻ nào đó."

    "Nhưng mày lại không dừng lại ở ổ C của họ, Jon. Mày vẫn tiếp tục dấn sâu hơn, vào thân xác của họ." Hắn giận dữ khoát tay về phía tấm bảng, nơi gắn tấm ảnh chụp Lara Gibson và Willem Boeth. "Mày đang giết người đấy. Họ không phải là những nhân vật, không phải là các dung lượng hình ảnh. Họ là con người."

    "Thì sao? Tao không thấy có chút khác biệt gì giữa mã phần mềm và một con người cả. Đều được tạo ra vì một mục đích, con người thì sẽ chết đi, còn mã thì sẽ được thay thế bằng một phiên bản mã mới. Bên trong hay bên ngoài một cỗ máy, bên trong cơ thể con người hay bên ngoài, tế bào hay hạt electron, chẳng có gì khác biệt cả."

    "Tất nhiên là có sự khác biệt đây, Jon."

    "Vậy à?" Hắn hỏi, rõ ràng là cảm thấy lúng túng trước câu nói của Gillette. "Hãy nghĩ đi. Sự sống bắt đầu như thế nào? Sét đánh vào khối hỗn hợp sơ khai của carbon, hydro, oxy, photphat và sulfat. Mọi sinh vật sống đều được tạo nên từ những nguyên tố này, mọi sinh vật sống hoạt động nhờ vào những xung điện. Mọi vật đều được hình thành từ những nguyên tố này, dù dạng này hay dạng khác, mày cùng có thể tìm thấy chúng trong một chiếc máy tính. Thứ cũng hoạt động nhờ những xung điện."

    "Hãy giữ mớ triết lý trên trời ấy cho bọn nhóc ranh trong những phòng chat, Jon. Máy móc là thứ đồ chơi tuyệt vời, nó đã thay đổi thế giới này. Nhưng nó không sống. Nó không biết tư duy."

    "Từ bao giờ tư duy đã thành một điều kiện tiên quyết cho sự sống thế?" Phate bật cười. "Một nửa con người trên trái đất là lũ ngu ngốc, Wyatt. Những con chó và cá heo được huấn luyện còn tư duy giới hạn chín mươi phần trăm lũ người trên trái đất này."

    "Vì Chúa, chuyện gì đã xảy ra với mày vậy? Có phải mày đã lạc lối trong Thế giới ảo đến mức không thể phân biệt nổi?"

    Phate trừng mắt giận dữ. "Lạc lối trong Thế giới ảo? Tao chẳng có thế giới nào khác cả! Và đó là lỗi của ai?"

    "Ý mày là gì?"

    "Jon Patrick Holloway đã từng có một cuộc sống thật trong thế giới thực. Hắn sống ở Cambridge, làm việc ở Harvard, có bạn bè, đi ăn tối, cũng hẹn hò. Hắn đã từng có thật như cuộc đời khốn kiếp của bất cứ ai khác. Và, mày biết không? Hắn từng thích nó! Hắn sẽ gặp một ai đó và cũng sẽ có một gia đình!" Giọng hắn như vỡ òa. "Nhưng rồi chuyện gì xảy ra? Mày đã bán đứng hắn và hủy hoại hắn. Và nơi duy nhất còn lại dành cho hắn là Thế giới ảo."

    "Không," Gillette nói, giọng bình thản. "Con người thực của mày bị nhập vào các mạng, đánh cắp mã và phần cứng, phá hoại cuộc sống của Jon Holloway hoàn toàn chỉ là giả tạo."

    "Nhưng nó vẫn là một cái gì đó! Đó là lần tao suýt có một cuộc đời thật sự!" Phate nuốt khan và trong giây phút ấy, Gillette băn khoăn có phải hắn sắp sửa bật khóc. Nhưng tên giết người nhanh chóng kiểm soát cảm xúc của mình, rồi hắn mỉm cười, liếc xung quanh căn phòng. Hắn để ý thấy hai bàn phím bị hỏng đặt ở góc phòng. "Mày mới chỉ phá được hai thôi à?" Hắn bật cười.

    Chính Gillette cũng không thể nhịn cười. "Tao mới đến đây vài ngày. Cho tao thêm thời gian đã."

    "Tao nhớ mày từng nói mày không bao giờ học nổi cách gõ nhẹ nhàng."

    "Có một lần khi tao đang hack, cũng phải cách đây năm năm, thì tao làm gãy ngón út. Tao thậm chí không hề biết. Tao vẫn tiếp tục gõ phím thêm mấy tiếng nữa. Đến khi tao nhìn mấy bàn tay bắt đầu chuyển màu đen."

    "Kỉ lục của mày là gì?" Phate hỏi.

    Gillette nhớ lại. "Một lần tao đã gõ trong ba mươi chín tiếng liên tục."

    "Còn tao là ba mươi bảy," Phate đáp. "Lẽ ra còn lâu hơn nhưng tao ngủ quên mất. Lúc tỉnh dậy, tao không thể động đậy nổi bàn tay trong hai tiếng... Ôi, chúng ta đã làm được khối việc ra trò đây chứ, đúng không?"

    Gillette nói, "Có nhớ lão đó - lão tướng không quân ấy? Chúng ta nhìn thấy lão ta trên CNN. Lão ta nói là trang web tuyển quân của bọn họ còn kín kẽ hơn Fort Knox và không một tên hacker nào có thể hack nó."

    "Và chúng ta đột nhập được vào máy VAX của họ, trong bao lâu nhỉ, khoảng mười phút?"

    Hai tay hacker trẻ đã đăng quảng cáo của hãng Kimberly-Clark lên trang đó, tất cả những bức ảnh hào hùng về máy bay chiến đấu và ném bom được thay thế bằng những shot hình sản phẩm băng vệ sinh Kotex.

    "Lần đó thật hay ho," Phate nói.

    "Thế còn lần chúng ta đổi đường dây chính của Văn phòng báo chí Nhà Trắng thành điện thoại trả trước?" Gillette trầm ngâm.

    Cả hai im lặng. Cuối cùng Phate lên tiếng, "Ôi, mày đã từng giỏi hơn tao, mày chỉ trật đường ray thôi. Mày đà lấy cô nàng Hy Lạp đó. Tên cô ta là gì nhỉ? Ellie Papandolos đúng không nhỉ? Hắn săm soi Gillette khi nhắc đến tên cô. "Mày đã ly hôn, nhưng mày vẫn còn yêu cô ta, đúng không? Tao có thể thấy rõ điều ấy."

    Gillette im lặng

    Phate nói tiếp, "Mày là một hacker. Mày không liên quan gì đến đàn bà cả, Khi những chiếc máy tính là cuộc đời của mày thì cần gì tình nhân. Chúng sẽ chỉ lầm mày tụt hậu."

    Gillette chất vấn, "Vậy Shawn thì sao?"

    Phate im lìm nét mặt. "Chuyện đó thì khác. Shawn hiểu rõ tao là ai. Không có nhiều người như thế!"

    "Hắn là ai?"

    "Không phải chuyện của mày." Phate nói với vẻ đe dọa, rồi ngay sau đó, hắn mỉm cười. "Thôi nào Wyatt chúng ta hãy hợp tác. Tao biết mày cũng muốn tìm hiểu Trapdoor mà. Mày không chịu mất cái gì để biết nó hoạt động thế nào à?"

    "Tao thừa biết nó hoạt động như thế nào. Mày dùng một phần mềm săn tìm gói dữ liệu để làm chệch hướng các tin nhắn. Rồi lại dùng thuật giấu thư để cài một demon vào gói đó. Demon này tự kích hoạt ngay khi nó vào trong máy mục tiêu và cài đặt lại giao thức truyền thống của máy. Nó được giấu trong một chương trình trò chơi và sẽ tự hủy nếu ai đó tìm kiếm nó."

    Phate bật cười. "Nhưng thế thì giống như nói kiểu, ồ, anh chàng kia vỗ cánh tay và bay lên. Làm sao tao làm được thế? Đó là thứ mà mày không biết. Là thứ mà không một ai biết. Chẳng nhẽ mày không băn khoăn mã nguồn của nó trông như thế nào à? Hay mày không thèm xem mã đó, ngài tò mò? Nó giống như được nhìn thấy Chúa trời vậy, Wyatt. Mày biết là mày muốn mà."

    Trong một khoảnh khắc, những dòng phần mềm lập trình chạy lướt qua trong đầu Gillette - những dòng mà tự hắn sẽ viết ra để nhân bản Trapdoor. Nhưng khi đến một điểm nhất định, hình ảnh màn hình trong đầu hắn trở lên trống rỗng. Hắn không thể thấy gì nữa và hắn cảm nhận được cơn thèm khát tò mò tệ hại đang xâm chiếm hắn. Phải rồi, hắn thực sự muốn xem mã nguồn. Rất... rất muốn.

    Nhưng rồi hắn nói, "Còng tay vào."

    Phate liếc nhìn chiếc đồng hồ trên tường. "Còn nhớ tao từng nói gì về sự trả thù khi chúng ta còn hack cùng nhau không?"

    "Sự trả thù của hacker là sự trả thù kiên nhẫn. Thì sao?"

    "Tao chỉ muốn gửi gắm lại ý tưởng đó. Ồ, còn điều này nữa... Mày đã từng đọc Mark Twain chưa?"

    Gillette cau mày và không trả lời.

    Phate nói tiếp, "Gã người Mỹ ở Connecticut trong Phiên tòa Vua Arthur. Chưa sao? À, cuốn sách đó viết về một người đàn ông sống trong những năm đầu thế kỷ 18, du hành ngược thời gian về nước Anh thời trung cổ. Có một màn cực đỉnh diễn ra khi giữa hồi gay cấn, các hiệp sỹ đã giết chết nhân vật chính hoặc ai đó, hay đại loại thế."

    "Jon, đeo còng vào tay." Gillette giơ khẩu súng lên.

    "Những gì xảy ra... mới hay. Chỗ ly kỳ là hắn có mang theo một quyển niên giám và khi tra ngày tháng năm, hắn thấy thời điểm xảy ra nhật thực. Nên hắn nói với các hiệp sỹ rằng nếu họ không giết hắn, hắn sẽ biến ngày thành đêm. Và tất nhiên là họ không tin hắn nhưng nhật thực đã xảy ra, khiến mọi người hoảng sợ và nhân vật chính đã thoát chết."

    "Thì sao?"

    "Tao đã sợ rằng mình có thể vướng phải tình huống gay cấn nào đó ở đây."

    "Thế mày làm gì?"

    Phate không nói gì. Nhưng chỉ vài giây sau, khi đồng hồ điểm chính xác mười hai giờ ba mươi, ẩn ý của hắn bỗng trở nên rõ ràng, con virus mà Phate chắc hẳn đã tải lên máy chủ của công ty điện lực chợt ngắt toàn bộ hệ thống điện ở văn phòng CCU.

    Căn phòng chìm trong bóng tối.

    Gillette nhảy lùi lại, giơ khẩu súng của Backle lên và bắn hú họa vào mục tiêu trong bóng tối. Quả đấm mạnh mẽ của Phate giáng xuống cổ Gillette và làm hắn choáng váng. Rồi hắn dùng vai xô mạnh Gillette vào tường, khiến hắn ngã xuống sàn nhà.

    Hắn nghe thấy tiếng Phate vơ lấy chùm chìa khóa và những thứ khác trên bàn. Gillette với tay lên, cố gắng giữ lại chiếc ví. Nhưng Phate đã nhanh tay hơn, và tất cả những gì Gillette giữ được là chiếc máy nghe CD. Hắn cảm thấy một cơn đau choáng váng nữa khi chiếc cờ lê giáng vào cẳng chân. Gillette khuỵu xuống, giơ khẩu súng của Backle về hướng mà hắn nghĩ là Phate và kéo cò súng.

    Nhưng chẳng có gì xảy xa hết. Hiển nhiên là nó đã bị khóa chốt an toàn. Ngay khi hắn định mở chốt, một bàn chân đạp thẳng vào cằm hắn. Khẩu súng văng khỏi tay và hắn lại ngã xuống sàn nhà.


  6. #35
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    V. ĐẲNG CẤP CHUYÊN GIA
    Chỉ có hai cách để thoát khỏi hacker và phreaker. Một là tránh xa khỏi máy tính và điện thoại... Cách còn lại là cho chúng tôi tất cả những gì chúng tôi muốn, chính là quyền tự do truy cập TẤT CẢ các thông tin. Nếu không có được một trong hai điều này, chúng tôi sẽ chẳng đi đâu hết.

    - Một hacker được biết đến như một Revelation - Đảng khai phá, trong Hướng dẫn cơ bản dành cho người nhập môn Hacking và Phreaking.

    Chương 35
    Anh không sao chứ?" Patricia hỏi, mắt nhìn vào vết máu trên mặt, cổ và quần của Gillette.

    "Tôi không sao," hắn đáp.

    Nhưng Nolan không chịu tin và khăng khăng thể hiện vai trò người chăm sóc. Cô biến mất sau căng tin và quay trở lại với khăn giấy ướt cùng nước xà bông. Cô rửa lông mày và má, những chỗ xây xước sau cuộc vật lộn của hắn với Phate. Hắn ngửi thấy mùi chất dưỡng móng còn mới trên đôi bàn tay khỏe khoắn của cô, tự hỏi không biết cô ta lấy đâu ra thời gian làm đỏm giữa cuộc tấn công của Phate vào bệnh viện và cuộc ẩu đả ở đây.

    Nolan bắt hắn xắn ống quần lên để rửa vết thương trên chân, tay cô giữ chặt bắp chân hắn. Khi đã xong xuôi, cô mỉm cười thân mật với hắn.

    Quên chuyện đó đi, Patty, hắn lại nghĩ... Tôi là một tên tù vô công rỗi nghề, tôi yêu người khác. Đừng bận tâm làm gì, thật đấy.

    "Không đau đấy chứ?" Cô hỏi, chấm mảnh vải ướt vào vết cắt.

    Vết thương xót như hàng chục con ong đang châm chích. "Hơi xót một chút thôi," hắn nói, hy vọng có thể khiến Nolan nản lòng, cô đang chăm sóc cho hắn bằng tất cả sự nhiệt tình.

    Tony Mott chạy trở lại vào CCU, tra vũ khí của mình vào bao súng bên hông. "Không có dấu hiệu của hắn."

    Shelton và Bishop bước theo sau. Cả ba người vừa trở về từ bệnh viện và mất thêm nửa tiếng lùng sục khắp nơi, tìm kiếm dấu hiệu của Phate hoặc nhân chứng nhìn thấy lúc hắn đột nhập hay trốn khỏi CCU. Nhưng vẻ mặt họ cho thấy họ cũng chẳng may mắn hơn Mott.

    Bishop mệt mỏi ngồi xuống một chiếc ghế. "Vậy đã xảy ra chuyện gì?" Ông hỏi tay hacker.

    Gillette kể vắn tắt cho mọi người về cuộc tấn công của Phate ở CCU.

    "Hắn có nói gì giúp ích cho việc điều tra không?"

    "Không. Chẳng có gì cả. Tôi gần như đã lấy được ví của hắn nhưng cuối cùng chỉ giằng giật được mỗi thứ đó." Hắn hất đầu về phía chiếc máy CD. Một kỹ thuật viên ở Phòng Phân tích hiện trường đã kiểm tra dấu tay trên nó nhưng chỉ tìm thấy vân tay của Phate và Gillette.

    Rồi tay hacker thông báo cái tin Triple-X đã chết.

    "Ôi, không," Frank Bishop thốt lên, cảm thấy đau lòng khi một dân thường, người đã mạo hiểm giúp họ lại bị giết. Bob Shelton thở dài tức giận.

    Mott bước đến tấm bảng bằng chứng và viết tên của Triple-X bên cạnh Andy Anderson, Lara Gibson và Willem Boethe dưới tiêu đề 'Nạn nhân'.

    Nhưng Gillette vụt đứng dậy, hơi chao đảo vì vết thương ở chân và bước tập tễnh đến tấm bảng. Hắn xóa cái tên đó.

    "Cậu làm gì vậy?" Bishop hỏi.

    Gillette cầm bút lên và viết 'Peter Grodsky'. Hắn nói, "Đó là tên thật của anh ấy. Anh ấy là một lập trình viên sống ở Sunnyvale."

    Hắn nhìn cả đội. "Tôi chỉ nghĩ là chúng ta nên nhớ rằng anh ấy không chỉ đơn thuần là một cái screenname," Bishop gọi cho Huerto Ramirez và Tim Morgan yêu cầu họ tìm kiếm địa chỉ của Grodsky và khám nghiệm hiện trường tội phạm.

    Gillette để ý thấy mẩu giấy nhắn màu hồng, hắn nói với Bishop, "Tôi có ghi lại một tin nhắn gửi cho ông ngay trước khi ông từ bệnh viện về. Là vợ ông gọi." Hắn đọc mẩu tin. "Đại loại là xét nghiệm đã có kết quả và nó là tin tốt, ừm, tôi không chắc mình có hiểu đúng không, tôi nghĩ chị ấy nói chị ấy có một mũi tiêm nghiêm trọng. Tôi không rõ tại sao nó lại là tin tốt."

    Nhưng niềm vui ánh lên trên khuôn mặt Bishop - một nụ cười rạng rỡ, hiếm hoi, nó cho hắn biết rằng, phải, thông điệp đúng là thế.

    Hắn thấy mừng cho viên thám tử nhưng lại thấy buồn cho bản thân vì Elena không gọi. Hắn băn khoăn không biết giờ này cô đang ở đâu. Liệu Ed có đang ở bên cạnh cô. Mồ hôi ướt đẫm bàn tay hắn vì cơn ghen tức.

    Đặc vụ Backle từ bãi đỗ xe bước vào văn phòng. Mái tóc bóng mượt của anh ta giờ rối bù, còn bước chân thì khập khiễng. Anh ta đã tự sơ cứu trước đó nhưng cũng vừa được Dịch vụ cấp cứu chăm sóc ở xe cứu thương đỗ ngoài bãi đỗ. Anh ta bị chấn động nhẹ khi bị tấn công trong phòng cà phê. Giờ thì, một bên đầu anh ta được quấn một dải băng trắng to.

    "Anh thấy thế nào?" Gillette lạnh nhạt hỏi.

    Tay đặc vụ không đáp, thấy khẩu súng của mình trên chiếc bàn gần Gillette, anh ta liền chộp lấy. Anh kiểm tra nó một cách cẩn thận thái quá, rồi bỏ khẩu súng vào bao.

    "Đã xảy ra chuyện quái quỷ gì thế?" Backle hỏi.

    Bishop nói, "Phate dột nhập, tấn công và cướp vũ khí của anh."

    "Còn cậu thì lấy lại nó từ hắn?" Tay đặc vụ hỏi Gillette bằng giọng ngờ vực.

    "Phải."

    "Cậu biết tôi ở trong phòng cà phê," Backle ngắt lời. "Hắn thì không."

    "Nhưng tôi đoán là hắn biết, phải không nhỉ?" Gillette đáp. "Nếu không làm sao hắn có thể tấn công và cướp vũ khí của anh?"

    "Có vẻ như là," tay đặc vụ chậm rãi nói, "bằng cách nào đó cậu biết được hắn sắp đến đây. Cậu muốn có vũ khí và tìm cách xoay sở để đoạt vũ khí của tôi."

    "Ồ, chuyện không phải như vậy đâu," Gillette nói rồi liếc sang Bishop, người đang nhướng một bên lông mày như thể suy nghĩ của tay đặc vụ không hoàn toàn sai. Tuy nhiên viên thám tử không nói gì.

    "Nếu tôi truy ra kẻ đó là cậu..."

    Bishop vội nói, "Này, này, này... Tôi nghĩ anh nên thể hiện lòng biết ơn một chút đấy, quý ngài ạ. Nói một cách tích cực thì Wyatt đây đã cứu mạng anh."

    Cố gắng nhìn đáp trả viên cảnh sát nhưng cuối cùng tay đặc vụ vẫn phải chịu thua, anh ta bước đến một chiếc ghế rồi hậm hực ngồi xuống. "Tôi vẫn sẽ giám sát cậu, Gillette."

    Bishop có cuộc gọi. Sau khi gác máy, ông thông báo, "Là Huerto. Anh ta cho biết họ có báo cáo từ Havard. Không có thông tin ghi nhận một ai tên là Shawn từng theo học hoặc làm việc tại trường cùng khoảng thời gian với Holloway. Anh ta cũng kiểm tra những nơi Holloway từng làm việc - Westem Electric, Apple và tất cả những chỗ khác. Không có ai tên là Shawn." Ông liếc sang Shelton, "Anh ta cũng nói vụ MARINKILL đang rất gay cấn. Họ xác định được bọn tội phạm đang ẩn nấp ở ngay sân sau của chúng ta. Santa Clara, gần cao tốc 101."

    Bob Shelton cười nhạt. "Anh có muốn một miếng trong vụ này hay không cũng chẳng quan trọng, Frank. Có vẻ chính nó mới đang đeo bám anh."

    Bishop lắc đầu. "Có lẽ vậy, nhưng chắc chắn tôi không muốn nó quanh quẩn ở đây, không phải là lúc này. Nó sẽ lôi kéo hết nguồn lực trong khi tất cả chúng ta cần mọi sự hỗ trợ có thể." Ông nhìn Patricia Nolan. "Cô tìm được gì ở bệnh viện?"

    Cô giải thích cách mình và Miller xem xét bên trong hệ thống mạng của bệnh viện. Và dù có tìm thấy những dấu hiệu chứng tỏ Phate đã đột nhập vào hệ thống, họ vẫn không tài nào tìm thấy bất kì thứ gì về địa điểm Phate thực hiện việc hack.

    "Quản trị mạng bên đó đã in ra những thứ này." Cô đưa cho Gillette một xấp bản in. "Báo cáo hoạt động đăng nhập và đăng xuất trong vòng một tuần. Tôi nghĩ anh có thể tìm thấy thứ gì đó."

    Gillette bắt đầu nghiền ngẫm cả trăm trang giấy.

    Trong khi đó, Bishop nhìn quanh phòng máy chủ rồi lo lắng hỏi, "Này, Miller đâu rồi?"

    Nolan nói, "Anh ấy rời trung tâm máy tính của bệnh viện trước tôi. Anh ấy nói sẽ về thẳng đây."

    Vẫn cắm cúi vào các bản in, Gillette nói, "Tôi chưa nhìn thấy anh ấy."

    "Có thể anh ấy đến trung tâm máy ở Standford," Mott nói. "Anh ấy đặt lịch sử dụng siêu máy tính ở đó rất nhiều. Có thể anh ấy đi kiểm tra đầu mối." Anh gọi vào di động của Miller nhưng không thấy trả lời nên đành để lại tin nhắn thoại.

    Gillette mải miết đọc lướt toàn bộ các bản in, cho đến khi bắt gặp một danh sách đặc biệt khiến tim hắn giật thót. Hắn đọc lại để chắc chắn. "Không..."

    Hắn nói rất nhỏ nhưng mọi người trong đội đều ngừng bặt và quay sang nhìn hắn.

    Tay hacker nhìn lên. "Sau khi đã cướp được quyền kiểm soát thư mục gốc ở Stanford-Packard, Phate không chỉ đăng nhập vào các mạng khác có liên kết với hệ thống của bệnh viện. Hắn còn nhảy từ máy của bệnh viện sang một máy tính bên ngoài. Nó coi Stanford-Packard là một hệ thống đáng tin cậy nên hắn đã thoải mái đi xuyên qua tường lửa và đoạt quyền truy cập gốc ở đó."

    "Đó là hệ thống nào vậy?" Bishop hỏi.

    "Đại học Bắc California ở Sunnyvale." Gillette nhìn lên. "Hắn đã có được các tài liệu về quy trình an ninh và thông tin nhân sự của từng nhân viên an ninh của trường." Tay hacker thở dài. "Nhưng chúng ta sắp gặp rắc rối trong việc tìm ra nạn nhân tiếp theo. Hắn đã tải về tên và dữ liệu cá nhân của hai nghìn tám trăm sinh viên."

    ° ° °

    Có kẻ đang theo đuôi hắn...

    Là ai?

    Qua gương chiếu hậu, Phate nhìn những chiếc xe phía sau trên đường cao tốc 280. Hắn đang trốn chạy khỏi trụ sở của CCU. Hắn hoàn toàn rúng động vì Valleyman một lần nữa lại đi trước hắn một nước cờ và giờ hắn phải chạy trối chết về nhà.

    Hắn đã kịp nghĩ về cuộc tấn công tiếp theo - vào Đại học Bắc California. Nó không thách thức bằng một số mục tiêu mà hắn đã chọn nhưng an ninh ở khu học xá rất nghiêm ngặt và ngôi trường này sở hữu một hệ thống máy tính mà trong một cuộc phỏng vấn, chính ngài hiệu trưởng từng tuyên bố là nó miễn dịch khỏi hacker. Thêm một điểm thú vị nữa, nó kiểm soát hệ thống báo động và phun chống cháy tối tân xuyên suốt hai mươi lăm khu học xá - nơi ở của tất cả sinh viên.

    Một vụ hack dễ dàng, không khó nhằn bằng vụ Lara Gibosn hay Học viện Thánh Francis. Nhưng lúc này đây, Phate đang cần một chiến thắng. Hắn đang thua lượt chơi này và điều đó làm lung lay sự tự tin của hắn.

    Và đổ dầu vào ngọn lửa điên loạn bệnh hoạn của hắn... Hắn lại liếc nhìn vào gương chiếu hậu.

    Phải rồi, nhất định là có kẻ nào đó! Hai gã ở ghế trước đang chằm chằm nhìn hắn.

    Đảo mắt trở lại con đường, rồi hắn liếc về phía sau lần nữa.

    Nhưng chiếc xe mà hắn đã nhìn thấy - hay tưởng là đã nhìn thấy, chỉ là một cái bóng hay một hình ảnh phản chiếu.

    Không, chờ đã! Nó đây rồi... Nhưng bây giờ một người phụ nữ đang cầm lái.

    Khi hắn nhìn đến lần thứ ba thì lại chẳng có người lái xe nào hết. Chúa ơi, đó là một loại sinh vật nào đó!

    Một bóng ma.

    Một con quỷ.

    Đúng, không đúng...

    Mày nói đúng, Valleyman: Khi máy tính là thứ duy nhất cho mày cuộc sống, khi chúng là những tô-tem 1 duy nhất bảo vệ mày khỏi sự nguyền rủa chết chóc của nỗi buồn chán, thì sớm hay muộn cái ranh giới giữa hai thế giới sẽ biến mất và những nhân vật đến từ Miền xanh thẳm vô định sẽ bắt đầu xuất hiện trong Thế giới thực.

    Đôi khi những nhân vật đó là bè bạn của mày.

    Và đôi khi không phải vậy.

    Đôi khi mày thấy chúng lái xe phía sau, đôi khi lại thấy bóng của chúng trên những lối đi mày đang tiến đến, thấy chúng trốn trong gara, trong phòng ngủ, trong nhà kho. Mày thấy chúng trong cái nhìn của một người xa lạ.

    Mày thấy chúng trong những hình ảnh phản chiếu của màn hình khi mày ngồi trước chiếc máy của mình khi giờ phù phép đã điểm.

    Đôi khi chúng chỉ là tưởng tượng của mày.

    Hắn lại liếc mắt vào gương chiếu hậu.

    Nhưng đôi khi, tất nhiên, chúng thực sự tồn tại

    ° ° °

    Bishop nhấn nút KẾT THÚC trên chiếc di dộng.

    "Khu học xá Đại học Bắc California có kiểu an ninh điển hình của các trường đại học có nghĩa là khá dễ dàng đột nhập."

    "Tôi tưởng hắn muốn thử thách," Mott nói

    Gillette đáp, "Tôi đoán lần này mục tiêu của hắn là một vụ chết chóc dễ dàng. Có lẽ hắn đã bĩnh ra quần khi mấy lần suýt bị chúng ta tóm và hắn muốn thấy đổ máu."

    Nolan nói thêm, "Cũng có thể là một trò nghi binh nữa."

    Gillette đồng ý rằng đó cũng là một khả năng.

    Bishop nói, "Tôi đã nhắc hiệu trưởng là họ nên hủy các buổi học và cho mọi người về nhà. Nhưng ông ta không đồng ý vì các sinh viên sẽ bắt đầu kì thi tốt nghiệp trong hai tuần nữa. Vậy là chúng ta sẽ phải bao bọc cả trường bằng lính và cảnh sát hạt. Nhưng thế cũng nghĩa là có thêm người lạ trong trường và gia tăng nguy cơ Phate sẽ social engineer để xâm nhập vào một khu học xá."

    "Chúng ta làm gì bây giờ, Mott hỏi.

    Bishop nói, "Nghiệp vụ cảnh sát kiểu cũ nào đó thôi." Ông nhặt chiếc máy CD của Phate lên. Viên thám tử mở nắp, là bản ghi âm một vở kịch, buổi biểu diễn vở Othello. Ông lật thiết bị lại và lưu số seri. "Có lẽ Phate mua nó ở vùng nầy thôi. Tôi sẽ gọi cho công ty đó để xem thiết bị nầy được giao đến đâu."

    Bishop bắt đầu gọi cho vô số trung tâm phân phối và bán hàng của công ty sản phẩm điện tử Akisha frên khắp đất nước. Ông đã được chuyển máy, và chờ máy trong khoảng thời gian dài tưởng như vô tận, rồi khó khăn lắm mới gặp được một ai đó có thể hoặc sẵn lòng giúp đỡ.

    Viên thám tử đang tranh cãi với ai đó ở đầu dây bên kia, Wyatt Gillette quay vòng trên một chiếc ghế xoay đến một máy tính gần đó và bắt đầu gõ phím. Một lát sau, hắn đứng dậy và lấy một tờ giấy ra khỏi máy in.

    Trong khi Bishop đang bực dọc nói vào điện thoại, "Chúng tôi không thể chờ đợi thông tin đó tận hai ngày được." Gillette đưa tờ giấy cho viên thám tử.

    DANH MỤC GIAO HÀNG SẢN PHẨM ĐIỆN TỬ AKISHA - QUÝ ĐẦU

    Model: Đầu đĩa xách tay Heavy Bass HB

    Số Seri Ngày giao hàng Người nhận

    HB400321 1/12 Mountain View Music&Electronics

    HB40068 1 9456 Rio Verde, Mountain View/ CA

    Viên thám tử thả lỏng chiếc điện thoại trong tay, ông nói vào ống nghe, "Không sao," rồi gác máy. "Làm thế nào cậu có được thứ này?" Bishop hỏi Gillette. Rồi giơ một tay lên. "Mà thôi, tôi không nên biết thì hơn." Ông mỉm cười. "Nghiệp vụ cảnh sát kiểu cũ, như tôi đã nói đấy."

    Bishop nhấc điện thoại và gọi cho Huerto Ramirez. Ông yêu cầu anh ta cầm theo ảnh của Phate đến cửa hàng âm nhạc Moutain View xem liệu họ có thể tìm ra chỗ ở của hắn trong vùng này không. "Còn nữa, nhớ nói người bán hàng là chàng trai của chúng ta có vẻ thích những vở kịch. Hắn có đĩa Othello. Có thể giúp gợi lại trí nhớ của họ."

    Một người lính từ trụ Sở cảnh sát bang ở San Jose chuyển một phong bì cho Bishop.

    Ông mở ra và tóm tắt cho toàn đội, "Báo cáo của FBI về những chi tiết trong bức ảnh Lara Gibson mà Phate đã đăng lên. Họ nói rằng đó là một lò sưởi bằng ga hiệu Tru-Heat, model GST3000. Model này được giới thiệu ba năm trước và rất phổ biến trong những khu nhà mới. Vì công suất nhiệt của nó mà model này thường được sử dụng trong những căn nhà riêng, hai hoặc ba tầng, không phải nhà chung cư hay nhà trên phố. Các kỹ thuật viên còn quét bằng máy tính thông tin trên tem dán ở tấm ván Sheetrock trong tầng hầm và phát hiện ngày sản xuất: Tháng Một năm ngoái."

    "Nhà mới trong một khu mới xây," Mott nói và viết những chi tiết này lên tấm bảng. "Cao từ hai đến ba tầng."

    Bishop khẽ cười và nhướng mày ngưỡng mộ. "Tiền thuế liên bang của chúng ta được chi tiêu đâu ra đấy, các chàng trai và cô gái ạ. Những quý ngài ở Washington biết mình đang làm gì đấy. Nghe đây. Những đặc vụ này đã tìm thấy vài chỗ không đồng đều trong cách trát vữa và xếp gạch sàn, họ nhận định rằng điều đó cho thấy căn nhà này được bán khi tầng hầm vẫn đang xây dở và chủ nhà đã tự lát gạch."

    Mott viết thêm lên bảng: "Bán với tầng hầm đang xây dở."

    "Vẫn chưa hết," viên thám tử nói tiếp. "Họ cũng phóng to một phần của tờ báo trong thùng rác và phát hiện ra nó là của một nhà bán lẻ, The Silicon Valey Marketeer. Nó được phát tận nhà và chỉ được giao cho những hộ gia đình ở Palo Alto, Cupertino, Mountain View, Los Altos, Los Altos Hills, Sunnyvale và Santa Clara."

    Gillette lên tiếng, "Chúng ta có thể biết thêm gì về các khu nhà mới ở những quận này không?"

    Bishop gật đầu. "Tôi cũng đang tính thế" Ông nhìn sang Bob Shelton. "Anh vẫn quen anh bạn ở Ban Quy hoạch quận Santa Clara chứ?"

    "Chắc chắn rồi." Shelton gọi cho Ban Quy hoạch. Ông hỏi về giấy phép xây dựng khu nhà hai hoặc ba tầng có tầng hầm chưa hoàn thiện, được xây từ sau tháng Một năm ngoái trên những con phố trong danh sách của họ. Sau năm phút chờ máy, Shelton kẹp ống nghe dưới cằm, chộp lấy một chiếc bút và bắt đầu viết. Ông viết một hồi dài, danh sách những khu nhà dài đến nản. Phải có đến bốn mươi cả thảy.

    Ông gác máy và lẩm bẩm, "Anh ấy nói họ không xây kịp nhu cầu. Thời đại số, mọi người biết đấy."

    Bishop lấy danh sách đó và bước đến bản đồ Thung lũng Silicon, khoanh tròn những địa điểm mà Shelton đã ghi ra.Vừa lúc đó, điện thoại đổ chuông, ông trả lời. Ông lắng nghe và gật đầu. Rồi gác máy. "Là Huerto và Tim. Một người bán hàng ở cửa hàng băng đĩa nhận ra Phate và nói hắn đã đến đó vài lần trong vòng mấy tháng qua, luôn mua các vở kịch. Không bao giờ mua nhạc. Lần gần đây nhất là vở Cái chết của một người bán hàng. Nhưng anh ta không biết hắn sống ở đâu."

    Ông khoanh tròn địa điểm cửa hàng băng đĩa. Ông đập tay lên chỗ đó, rồi đến vòng tròn xung quanh cửa hàng trang phục Ollie trên đường E1 Camino real, nơi Phate đã mua keo dán sân khấu và những thứ đồ cải trang khác. Những cửa hàng này cách nhau khoảng ba phần tư dặm. Địa điểm này cho thấy, có thể Phate sống ở khu trung tâm hoặc phía tây Thung lũng Silicon, như vậy là vẫn còn hai mươi hai khu nhà trải rộng trên một diện tích khoảng bảy hoặc tám dặm vuông. "Vẫn là quá lớn cho công cuộc tìm kiếm từng nhà một."

    Họ chăm chú nhìn bản đồ và tấm bảng phải đến mười phút vô vọng, đưa ra cả tá phương án vô dụng về việc thu hẹp cuộc tìm kiếm. Các đồng nghiệp gọi về từ căn hộ của Peter Grodsky ở Sunnyvale. Người đàn ông trẻ tuổi chết vì một nhát đâm thấu tim - cũng giống như các nạn nhân khác trong phiên bản đời thực của trò chơi Access. Cảnh sát đã khám nghiệm hiện trường nhưng không tìm được manh mối nào có ích.

    "Mẹ kiếp," Bob Shelton nói, chân đá một chiếc ghế thể hiện cơn giận mà tất cả bọn họ đều đang cảm nhận.

    Một sự im lặng kéo dài khi cả đội chăm chú nhìn tấm bảng trắng, sự im lặng này bị cắt ngang bởi một giọng nói rụt rè cất lên sau lưng họ. "Xin lỗi."

    Một cậu thiếu niên mập mạp, đeo cặp kính cận dầy cộp đứng ở ngưỡng cửa, đi cùng là một thanh niên tầm hai mươi tuổi.

    Là Jamie Turner, Gillette nhớ ra, cậu học viên ở trường Thánh Francis và anh trai tên Mark.

    "Chào chàng trai trẻ," Frank Bishop mỉm cười nói với cậu. "Cháu khỏe không?"

    "Ổn ạ, cháu đoán vậy." Cậu ngước nhìn anh trai, Mark gật đầu khích lệ. Jamie tiến đến chỗ Gillette. "Em đã làm theo lời anh," cậu nói, nuốt khan một cách khó nhọc.

    Gillette không nhớ nổi cậu bé đang nói đến chuyện gì. Nhưng hắn vẫn gật đầu và nói giọng khích lệ, "Em nói đi."

    Jamie nói tiếp, "À, em đã xem xét những chiếc máy tính ở trường, trong phòng máy tính. Như anh đã yêu cầu. Và em đã tìm thấy thứ có lẽ sẽ giúp anh bắt được hắn, ý em là kẻ đã giết ông Boethe."

    --------------------------------
    1 linh vật.

  7. #36
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Chương 36
    Em luôn giữ quyển sổ tay này khi Online," Jamie Turner nói với Wyatt Gillette.

    Những hacker thực thụ thường là những kẻ lộn xộn và luộm thuộm, mỗi người một kiểu, nhưng tất cả đều mang theo bút cùng những quyển sổ tốc ký quăn queo hay xấp giấy Big Chief - bất kỳ thể loại giấy tờ nào khi họ Online. Họ ghi lại từng chi tiết các URL - Universal Resource Locators - bộ định vị nguồn đa năng, những địa chỉ của các Website họ đã tìm thấy, tên phần mềm, các kênh điều khiển của các hacker khác mà họ muốn truy theo và những nguồn khác hỗ trợ việc hack. Việc này rất cần thiết vì hầu hết các thông tin trôi nổi trong Miền xanh thẳm vô định đều rất phức tạp, không ai có thể nhớ các chi tiết một cách chính xác. Trong khi chúng lại đòi hỏi phải thật chính xác, chỉ cần có lỗi in sai sẽ dẫn đến một cú hack thất bại hoặc bỏ lỡ cơ hội kết nối với website hoặc một bảng tin hay ho nhất.

    Đã đầu giờ chiều, mọi người trong đội đều cảm thấy vô cùng tắc, vì Phate có thể tiếp cận nạn nhân tiếp theo của hắn ở Bắc California bất cứ lúc nào. Tuy vậy, Gillette vẫn để cậu bé tiếp tục câu chuyện theo nhịp độ của mình.

    Jamie nói tiếp, "Em đang xem lại toàn bộ những gì em ghi được trước khi thầy Boethe... trước khi xảy ra chuyện, anh biết đấy!

    "Thế em tìm thấy gì?" Gillette khích lệ. Frank Bishop đứng ngay cạnh cậu bé và gật đầu mỉm cười. "Cứ nói đi."

    "Vâng, chuyện là chiếc máy tính mà em dùng ở thư viện - cái mà các anh đã mang đi ấy, nó hoạt động rất ổn định cho đến cách đây khoảng hai hay ba tuần thì bắt đầu xuất hiện thứ gì đó thực sự không ổn. Em nhận được những fatal conflict error - lỗi xung đột nghiêm trọng. Và chiếc máy thì kiểu như, bị đơ."

    "Lỗi xung đột?" Gillette ngạc nhiên hỏi. Hắn nhìn sang Nolan, cô lắc đầu. Cô vuốt mớ tóc khỏi mắt rồi lơ đãng xoắn chúng quanh những ngón tay.

    Bishop hết nhìn người này, lại quay sang người nọ. "Thế nghĩa là sao?"

    Nolan giải thích, "Thường thì anh gặp lỗi như thế khi máy cố gắng thực hiện cùng lúc nhiều nhiệm vụ và không thể xử lý nổi việc đó. Giống như là chạy bảng tính và đọc email cùng lúc."

    Gillette gật đầu xác nhận. "Nhưng một trong những lý do mà các công ty như Microsoft và Apple phát triển hệ điều hành của họ là để cho phép người dùng chạy nhiều chương trình cùng lúc. Thế nên bây giờ hiếm khi thấy lỗi xung đột xảy ra."

    "Em biết," cậu bé nói. "Thế nên em mới thấy bất thường. Rồi em thử chạy lại cùng những chương trình đó trên các máy khác ở trường. Và em không thấy, anh biết đấy, lặp lại lỗi đó."

    Tony Mott nói, "Ái chà chà... Trapdoor cũng có lỗ hổng đây."

    Gillette gật đầu với cậu bé. "Giỏi lắm, Jamie. Anh nghĩ đó chính là mảnh ghép mà bọn anh đang tìm kiếm."

    "Tại sao?" Bishop hỏi. "Tôi không hiểu."

    "Chúng ta cần số seri và số điện thoại mạng Mobile America của Phate - để lần ra hắn."

    "Nếu may mắn, việc này sẽ giúp chúng ta có được chúng." Gillette nói với cậu bé, "Em có nhớ thời gian và ngày tháng những lỗi xung đột này làm máy bị đơ không?"

    Cậu bé lật giở quyển sổ tay rồi chỉ cho Gillette xem một trang. Những lần xảy ra lỗi được ghi lại cẩn thận. "Giỏi lắm." Gillette gật đầu và nói với Tony Mott, "Gọi cho Garvy Hobbes. Bật loa ngoài lên."

    Mott làm ngay và chỉ lát sau đã kết nối với Trưởng ban An ninh mạng Mobile America.

    "Xin chào," Garvy Hobbes nói. "Các anh có manh mối của gã xấu xa đó rồi à?"

    Gillette nhìn Bishop, ông khoát tay ra dấu chiều theo ý muốn của tay hacker và nói, "Đây là nghiệp vụ cảnh sát kiểu mới. Xin mời anh."

    Tay hacker nói, "Thế này nhé, Garvy. Nếu tôi cung cấp cho anh bốn mốc thời gian và ngày tháng cụ thể mà một thuê bao di động tắt máy trong khoảng sáu mươi giây rồi lại mở máy, gọi cùng một số, các anh có xác định được chiếc máy đó không?"

    "Hừmm. Đúng là kiểu mới đấy, để tôi thử xem sao. Cho tôi thời gian và ngày tháng nào."

    Gillette cung cấp ngay, Hobbes nói, "Cứ giữ máy nhé, tôi sẽ quay lại ngay."

    Tay hacker giải thích với cả đội: "Khi máy tính của Jamie bị đơ, cậu bé phải khởi động lại máy để Online trở lại. Việc đó mất khoảng một phút. Nghĩa là cuộc gọi di động của Phate cũng bị gián đoạn trong cùng khoảng thời gian đó, khi tên giết người này cũng phải khởi động lại máy của hắn và kết nối lại. Bằng cách kiểm tra chéo những thời điểm máy của Jamie bị đơ, rồi Online trở lại với thời điểm một thuê bao di động của Mobile America ngắt kết nối và khi kết nối trở lại, họ sẽ biết thuê bao đó là của Phate.

    Năm phút sau, tay chuyên gia an ninh quay trở lại. "Chuyện này vui đây," Hobbes hớn hở nói. "Tôi tóm được nó rồi." Rồi anh ta chuyển giọng nghiêm túc, "Nhưng kỳ lạ là các số của điện thoại của hắn chưa được đăng ký."

    Gillette giải thích, "Điều Garvy nói nghĩa là Phate đã hack vào một bộ chuyển mạch an ninh, không phải đường dây công cộng và đánh cắp các số đó."

    "Chưa ai từng đột nhập được vào bảng mạch chính của chúng tôi. Gã này khác thường đây, tôi phải nói vậy."

    "Chúng tôi thì biết đấy," Frank Bishop lẩm bẩm.

    "Hắn vẫn đang sử dụng chiếc điện thoại đấy chứ?" Shelton hỏi.

    "Đã thôi từ hôm qua. Đặc điểm điển hình của những kẻ câu trộm cuộc gọi là nếu chúng không sử dụng số đánh cắp đó trong hai mươi tư giờ nghĩa là chúng đã đổi số."

    "Vậy là chúng ta không thể lần ra hắn nữa?" Bishop ngán ngẩm hỏi.

    "Đúng vậy," Hobbes xác nhận.

    Nhưng Gillette nhún vai và nói, "Ồ, tôi đã đoán hắn sẽ đổi số từ khi khám phá ra chúng ta đang theo hắn. Nhưng chúng ta vẫn có thể thu hẹp nơi hắn gọi đi trong vòng mấy tuần gần đây. Đúng không, Garvy?"

    "Cá là vậy," Hobbes đáp. "Chúng tôi có hồ sơ ghi lại tất cả các cuộc gọi xuất phát từ khối nào. Hầu hết các cuộc gọi từ chiếc điện thoại đó đến từ khối 879. Đó là Los Altos. Tôi còn thu hẹp hơn nhờ vào dữ liệu MITSO."

    "Dữ liệu gì?"

    Gillette nói, "Văn phòng chuyển mạch điện thoại. Họ có khả năng khoanh vùng, tức là họ có thể định vị hắn ở phần nào của khối. Khoanh vùng trong khoảng một ki-lô-mét vuông."

    Hobbes bật cười và hỏi một cách dè dặt, "Gillette này, làm sao mà anh lại biết nhiều về hệ thống của chúng tôi như chính chúng tôi vậy?"

    "Tôi đọc nhiều," Gillette hài hước nói. Rồi hắn hỏi, "Cho tôi tọa độ của vị trí đó. Anh có thể cho thông tin theo tên phố không?" Hắn bước về phía tấm bản đồ.

    "Chắc chắn rồi." Hobbes đọc một mạch bốn ngã tư, còn Gillette thì kết nối các địa điểm. Đó là một tứ giác bao bọc phần lớn khu vực Los Altos. "Hắn ở đâu đó trong đây." Tay hacker vỗ lên tấm bản đồ.

    Trong phạm vi này có sáu khu nhà mới mà phía Sở quy hoạch Santa Clara đã cung cấp địa chỉ cho họ.

    Như thế là khá hơn con số hai mươi hai rồi nhưng vẫn còn khá nản.

    "Sáu cơ à?" Linda Sanchez cất giọng uể oải. "Phải có đến ba nghìn người sống ở đó. Chúng ta có thể thu hẹp thêm nữa không?"

    "Chúng ta có thể thử xem," Bishop nói. "Vì chúng ta đã biết nơi hắn đi mua sắm." Trên bản đồ, Bishop đập tay lên khu nhà nằm ở giữa hiệu trang phục Ollie và cửa hàng Băng đĩa Mountain View. Tên của nó là Stonecrest.

    Không khí khẩn trương tràn ngập căn phòng. Bishop đề nghị Garvy gặp họ gần khu nhà ở Los Altos, rồi ông gọi cho đội trưởng Bernstein và kể tóm tắt mọi việc. Họ quyết định sử dụng những nhân viên mặc thường phục để gõ cửa thẩm tra từng căn hộ trong khu nhà, mang theo ảnh của Phate. Bishop nghĩ ra ý tưởng mua những xô nhựa nhỏ rồi phát cho những người lính, đóng giả làm những người quyên tiền cho trẻ em, phòng trường hợp Holloway nhìn thấy họ trên phố. Sau đó ông phát lệnh cho những người lính đặc nhiệm. Toàn đội CCU sẵn sàng lên đường. Bishop và Shelton kiểm tra súng. Gillette, laptop. Tony Mott, tất nhiên là, cả hai.

    Patricia Nolan ở lại, phòng trường hợp đội cần truy cập máy ở CCU.

    Khi họ chuẩn bị rời đi, điện thoại đổ chuông, Bishop nhấc máy. Ông im lặng rồi nhìn sang Gillette và nhướng mày, đưa ống nghe cho hắn.

    Vẻ băn khoăn, tay hacker áp ống nghe vào tai. "A lô?"

    Đầu dây bên kia im lặng. Rồi Elena Papandolos cất tiếng, "Là em đây."

    "Ồ, chào em."

    Gillette nhìn Bishop thúc giục mọi người đi ra cửa. "Anh không nghĩ là em sẽ gọi."

    "Em cũng không định," cô nói.

    "Thế tại sao em lại gọi?"

    "Vì em nghĩ em nợ anh điều đó."

    "Em nợ anh điều gì?"

    "Nói cho anh biết là em sẽ vẫn đi New York vào ngày mai."

    "Với Ed?"

    "Vâng."

    Những lời nói đó còn làm hắn đau đớn hơn cả những cú đánh mới đây của Phate. Hắn đã hy vọng cô sẽ hoãn chuyến đi.

    "Đừng."

    Rồi một sự im lặng nặng nề. "Wyatt."

    "Anh yêu em. Anh không muốn em đi."

    "Ừm, chúng em sẽ đi."

    Gillette nói, "Hãy làm cho anh một việc thôi. Cho anh gặp em trước khi em đi."

    "Tại sao? Việc đó có ích gì?"

    "Xin em. Chỉ mười phút thôi."

    "Anh không thể làm em đổi ý đâu."

    Hắn nghĩ, ôi, phải rồi, anh có thể.

    Cô nói, "Em phải đi rồi. Tạm biệt, Wyatt. Em mong anh may mắn với bất kỳ việc gì anh làm trong đời."

    "Đừng!"

    Ellie im lặng rồi gác máy.

    Gillette nhìn chằm chằm chiếc điện thoại câm lặng.

    "Wyatt," Bishop gọi.

    Hắn nhắm mắt lại.

    "Wyatt," viên thám tử nhắc lại. "Chúng ta phải đi thôi."

    Tay hacker ngước lên rồi thả ống nghe vào giá điện thoại. Câm lặng, hắn bước theo viên cảnh sát xuống hành lang.

    Tay thám tử nói nhỏ gì đó với hắn.

    Gillette lơ đãng nhìn ông. Rồi hắn hỏi lại Bishop vừa nói gì.

    "Tôi nói việc này giống như những gì cậu và Patricia đã nói trước đây. Chuyện này giống trong game MUD."

    "Cái gì giống cơ?"

    "Tôi nghĩ chúng ta vừa đạt mức cao thủ."

    ° ° °

    Đường E1 Monte nối khu E1 Camino Real với trục đường xương sống của Thung lũng Silicon, cao tốc 280, cách đó vài dặm.

    Nếu bạn đi xuôi từ hướng nam về phía con đường này, quang cảnh từ E1 Monte thay đổi từ những cửa hiệu bán lẻ đến những ngôi nhà kiểu nông trang truyền thống California từ thập niên năm mươi và sáu mươi, cuối cùng là những khu nhà kiểu mới, thành quả từ nguồn tiền dồi dào từ mạng Internet của những cư dân khu vực.

    Tòa nhà Stonecrest cách những khu nhà này không xa, nơi mười sáu chiếc xe cảnh sát và hai xe tải của đội cảnh sát đặc nhiệm bang California đang đậu sẵn. Chúng đang nằm trong khu đỗ xe của nhà thờ First Baptist ở Los Altos, khuất khỏi tầm mắt từ đường E1 Monte, sau một hàng rào cao, đây là lý do khiến Bishop chọn bãi đỗ bên cạnh ngôi nhà của Chúa này làm nơi tập kết.

    Wyatt Gillette ngồi cạnh ghế lái, sát bên Bishop trên chiếc xe Crown Victoria. Shelton ngồi im lặng ở ghế sau, đăm đăm nhìn những cây cọ phấp phới trong cơn gió lạnh ẩm ướt. Trong chiếc xe đỗ cạnh họ là Linda Sanchez và Tony Mott. Bishop dường như đã từ bỏ ý muốn kềm chế chàng người hùng Eliot Ness 1, nên Mott ngay lập tức chạy vội từ xe đến nhập hội với một toán lính đặc nhiệm đang mặc thường phục ngoài lớp áo chống đạn. Chỉ huy Đội đặc nhiệm - Alonso Johnson, cũng có mặt. Anh đứng một mình, đầu cúi xuống, vừa lắng nghe chiếc bộ đàm vừa gật gù.

    Đi theo xe của Bishop đến đây, đặc vụ Bộ Quốc phòng Arthur Backle đang đứng bên chiếc xe, tay cầm ô, dựa vào thành xe, tay kia kéo dải băng trên đầu.

    Không xa đó, nhiều lính đặc nhiệm đang lùng sục khắp khu Stonecrest. Họ cải trang thành những nhà gây quỹ, đưa ra những chiếc xô màu vàng rồi giơ nhanh những tấm ảnh của Jon Holloway.

    Thời gian dần trôi nhưng vẫn chưa có thông báo nào khả quan. Những nghi ngờ bắt đầu dấy lên: Có thể phân tích của Mobile America bị sai. Có thể số đó đúng là của hắn nhưng sau cuộc chạm trán với Gillette hắn đã cao chạy xa bay đến một bang khác.

    Rồi chiếc di động của Bishop đổ chuông, ông nghe máy. Ông gật đầu và mỉm cười, rồi nói với Shelton và Gillette, "Đã có tín hiệu tích cực. Một người hàng xóm nhận ra hắn ta. Hắn ở số 34004 phố Alta Vista."

    "Có thế chứ!" Shelton nói, tay giơ nắm đấm vui mừng. Ông ra khỏi xe. "Tôi đi báo cho Alonso." Viên cảnh sát tầm thước biến mất trong đám đông.

    Bishop gọi cho Garvy Hobbes để thông báo địa chỉ. Trong chiếc Jeep của mình, anh ta đã có sẵn một máy Cellscope - một thiết bị kết hợp giữa máy tính và máy rà hướng sóng vô tuyến. Anh ta sẽ lái nó qua ngôi nhà của Phate, quét tần sóng của Mobile America để kiểm tra xem có tín hiệu truyền phát hay không.

    Một lát sau, anh ta gọi lại cho Bishop và báo cáo, "Hắn đang sử dụng di động trong nhà. Là truyền dữ liệu, không phải cuộc gọi."

    "Hắn đang Online," Gillette nói.

    Bishop và Gillette bước ra khỏi xe, đi tìm Shelton và Alonso Johnson để thông báo tin mới.

    Johnson liền cử một xe theo dõi, ngụy trang thành một chiếc xe đưa thư đến con phố trước ngôi nhà của Phate. Nhân viên cảnh sát báo cáo các rèm cửa đều hạ, cửa gara mở. Một chiếc Ford cũ kĩ đậu trên lối đi. Không thấy ánh đèn nào hắt ra. Đội theo dõi thứ hai, đang giấu mình trên một cây lan dạ hương cổ thụ cũng báo cáo tương tự.

    Cả hai đội cáo báo thêm rằng mọi lối ra vào và các cửa sổ đều được bao vây, kể cả nếu Phate có tình cờ nhìn thấy cảnh sát hắn cũng không tài nào trốn thoát.

    Sau đó, Johnson mở một tấm bản đồ chi tiết của khu Stonecrest được ép nhựa. Anh khoanh tròn nhà của Phate bằng bút chì sáp rồi kiểm tra một catalogue căn nhà mẫu của khu dân cư này. Anh nhìn lên và nói, "Căn nhà hắn ở là kiểu Troubadour." Anh đập tay lên mẫu nhà này và chỉ cho đội phó của mình, một người lính trẻ cắt đầu đinh có vẻ nghiêm nghị theo tác phong kiểu nhà binh.

    Wyatt Gillette liếc nhìn cuốn catalouge và thấy một câu khẩu hiệu quảng cáo in bên dưới. "Troubadour - căn nhà mơ ước cho bạn và gia đình tận hưởng tương lai..."

    Người trợ lý của Johnson tổng kết, "Ok, sếp, chúng ta có cửa trước và cửa sau ở tầng trệt. Thêm một cửa mở ra lan can phía sau. Không có thang nhưng nó chỉ cao mười feet. Hắn có thể nhảy qua đó. Không có lối ra hai bên. Gara có hai cửa, một cửa dẫn vào trong nhà, thông vào bếp, cái còn lại thông ra sân sau. Theo tôi chúng ta sẽ đi theo đội hình tiếp cận từ ba hướng."

    Linda Sanchez lên tiếng, "Hãy cách ly hắn khỏi máy tính ngay lập tức. Đừng để hắn nhấn bất kỳ phím nào. Hắn có thể phá hủy nội dung trong ổ máy chỉ trong tích tắc. Chúng tôi cần phải kiểm tra nó và xem xét xem hắn có nhắm vào nạn nhân nào khác không."

    "Rõ," người trợ lý nói.

    Johnson nói, "Đội Able vào bằng cửa trước, Baker phía sau, Charlie tiến qua gara. Giữ lại hai cảnh sát từ đội Charlie để chốt gần ban công phòng trường hợp hắn nhảy cầu." Anh ngẩng đầu lên rồi nhét chiếc tai nghe màu vàng vào tai trái. "Được rồi. Đi bắt con quái thú nào."

    Gillette, Shelton, Bishop và Sanchez quay lại một trong những chiếc Crown Victoria. Họ lái vào khu nhà, đậu xe ở chỗ khuất tầm nhìn từ ngôi nhà của Phate, bên cạnh những chiếc xe tải của đội đặc nhiệm. Cái bóng của họ, đặc vụ Backle theo sau. Tất cả cùng dõi theo những người lính đang khẩn trương dàn trận, cúi thấp người và di chuyển phía sau những bụi cây.

    Bishop quay sang Gillette và nghiêm cẩn cúi mình về phía trước để bắt tay hắn, khiến tay hacker vô cùng ngạc nhiên. "Dù kết quả thế nào, Wyatt, chúng tôi sẽ không thể tiến xa được thế này nếu không có cậu. Không mấy ai dám chấp nhận những nguy hiểm này và làm việc hết sức như cậu"

    "Đúng đó," Linda Sanchez nói. "Cậu ấy là của hiếm đấy, sếp ạ!" Cô hướng cặp mắt to màu sẫm sang Gillette, "Này, nếu cậu muốn có một công việc khi được tại ngoại, có lẽ cậu nên xin vào CCU." Gillette cố nghĩ ra câu nào đó để tỏ lòng biết ơn. Nhưng hắn quá bối rối và chẳng thể nghĩ được điều gì nên chỉ biết gật đầu. Lần này Bob Shelton có vẻ xao động trước không khí xúc động xung quanh, nhưng cuối cùng ông ta ra khỏi xe và biến mất vào đám cảnh sát mặc thường phục mà ông có vẻ quen biết. Alonso Johnson bước lại phía họ. Bishop hạ kính xe xuống.

    "Đội theo dõi vẫn không thể nhìn được bên trong và mục tiêu bật điều hòa mức tối đa nên máy quét hồng ngoại không phát hiện được gì. Hắn vẫn đang dùng máy tính chứ?"

    Bishop gọi Garvy Hobbes và hỏi cùng câu hỏi. "Có," anh chàng cao bồi đáp, "Máy Cellscope vẫn đang thu được tín hiệu của hắn."

    "Tốt lắm," Johnson nói. "Chúng tôi muốn hắn thật sự không chú ý khi chúng tôi phát lệnh." Rồi anh nói vào microphone. "Dọn sạch con phố?"

    Cảnh sát yêu cầu những xe đang đi dọc Alta Vista quay lại.

    Họ vẫy cờ ra hiệu cho một trong những hàng xóm của Phate, một người phụ nữ tóc bạc đang lái xe ra khỏi gara, và hướng dẫn chiếc Ford Explorer của bà ta đi xuống đường, tránh khỏi ngôi nhà của hắn. Ba cậu bé vui vẻ nhào lộn ầm ĩ dưới cơn mưa trên những tấm ván. Hai cảnh sát trong trang phục quần soóc và áo sơ mi Izod giả vờ vô tình bước đến chỗ bọn trẻ và lùa chúng ra khỏi tầm mắt.

    Con đường của khu ngoại ô thanh bình không một bóng người.

    "Trông ổn rồi đấy," Johnson nói, rồi cúi người chạy về phía ngôi nhà.

    "Tất cả đều kết thúc bằng việc này...," Bishop lẩm bẩm.

    Linda Sanchez nghe được liền nói, "có thật vậy không sếp." Rồi cô giơ ngón cái lên với Tony Mott, anh ta đang quỳ gối, bò theo những lính đặc nhiệm, phía sau một bờ giậu bao quanh tư gia của Phate. Cô dịu dàng nói, "Tốt nhất là cậu chàng không tự làm đau mình."

    Bob Shelton quay trở lại và nặng nề thả mình xuống ghế xe trên chiếc Crown Victoria.

    Gillette không nghe thấy bất kỳ hiệu lệnh nào, nhưng những người lính SWAT bỗng đồng loạt xuất hiện từ chỗ nấp và chạy thật nhanh về phía ngôi nhà.

    Thình lình ba tiếng nổ to vang lên. Gillette giật mình. Bishop giải thích, "Những phát súng đặc biệt. Họ đang bắn tung khóa cửa đấy."

    Lòng bàn tay đẫm mồ hôi, Gillette thấy mình đang gắng giữ hơi thở, chờ đợi tiếng súng bắn, tiếng nổ, tiếng gào thét, tiếng còi hú...

    Bishop vẫn bất động, dõi theo ngôi nhà. Nếu có căng thẳng ông cũng không thể hiện ra.

    "Nào, nào," Linda Sanchez lẩm bẩm. "Đang xảy ra chuyện gì vậy?"

    Sự im lặng kéo dài, thật dài, không một âm thanh nào ngoại trừ tiếng mưa rơi trên nóc xe.

    Khi radio phát tiếng trở lại, âm thanh của nó quá đột ngột khiến tất cả đều giật mình.

    "Đội trưởng đội Alpha gọi Bishop. Ông có đó không?"

    Bishop vồ lấy microphone. "Nói đi, Alonso."

    "Frank, hắn không có ở đây." Giọng nói từ radio vang lên,

    "Cái gì?" Viên thám tử hỏi, hoàn toàn thất vọng.

    "Chúng tôi đang lục soát toàn bộ chỗ này nhưng hiện giờ thì có vẻ như hắn đã chuồn mất. Giống hệt lúc ở khách sạn."

    "Mẹ kiếp," Shelton chửi thề.

    Johnson nói tiếp. "Tôi đang ở trong phòng ăn - cũng là văn phòng của hắn. Có một lon Moutain Dew vẫn còn lạnh. Và máy dò thân nhiệt cho thấy hắn vừa ngồi ở ghế trước máy tính khoảng năm đến mười phút trước."

    Bishop nói đầy tuyệt vọng, "Hắn ta ở đó, AL. Hắn phải ở đó. Hắn ẩn nấp ở đâu đó thôi. Hãy kiểm tra nhà vệ sinh. Kiểm tra dưới gầm giường."

    "Frank, tia hồng ngoại không bắt được gì ngoại trừ bóng ma của hắn chỗ chiếc ghế."

    "Nhưng không thể có chuyện hắn đã ra ngoài được," Sanchez nói.

    "Chúng tôi sẽ tiếp tục kiểm tra."

    Bishop thả mình vào cửa xe, nỗi thất vọng xâm chiếm khuôn mặt co rúm như diều hâu của ông.

    Mười phút sau, người chỉ huy tác chiến trở lại trên sóng radio.

    "Cả ngôi nhà an toàn, Frank," Jonhson nói. "Hắn không có ở đây. Nếu ông muốn khám nghiệm hiện trường, ông có thể vào."

    --------------------------------
    1 Tên một thanh tra huyền thoại trong phim Những kẻ bất khả xâm phạm.

  8. #37
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 37
    Bên trong ngôi nhà thật miễn chê.

    Hoàn toàn khác hẳn với suy nghĩ của Gillette. Hầu hết hang ổ của các hacker đều bừa bộn, chồng chất những linh kiện máy tính, dây cáp, sách hướng dẫn kỹ thuật, công cụ, đĩa mềm, hộp đựng thức ăn mốc meo, cốc bẩn, sách và giấy nháp vương vãi.

    Phòng khách của Phate trông như thể vừa được Martha Stewart trang hoàng. Cả đội CCU nhìn xung quanh. Ban đầu Gillette băn khoăn không biết họ có vào nhầm nhà không, nhưng rồi hắn để ý thấy những tấm ảnh được đóng trong khung và khuôn mặt Holloway xuất hiện trong nhiều bức ảnh.

    "Nhìn kìa," Linda Sanchez nói, tay chỉ vào một khung ảnh. "Người phụ nữ đó nhất định là Shawn." Rồi cô nhìn sang một tấm ảnh khác. "Bọn họ còn có con nữa à?"

    Shelton nói, "Chúng ta có thể gửi những bức ảnh cho cảnh sát liên bang và..."

    Nhưng Bishop lắc đầu.

    "Sao vậy?" Alonso Johnson hỏi.

    "Chúng là đồ giả, phải không?" Bishop nhướng mày nhìn sang Gillette.

    Tay hacker cầm một khung ảnh lên và gỡ tấm ảnh ra. Chúng không được in bằng loại giấy bóng in ảnh mà được in ra từ một máy in màu của máy tính. "Hắn tải chúng từ trên mạng hoặc scan từ một quyển tạp chí và ghép mặt mình vào."

    Trên mặt lò sưởi, bên cạnh một bức ảnh chụp cặp đôi hạnh phúc ngồi trên ghế dài bên bể bơi, là một chiếc đổng hồ cổ từ thời ông bà, đang chỉ 2:15. Tiếng kim đồng hồ như nhắc nhở rằng nạn nhân, hoặc có thể là những nạn nhân tiếp theo của Phate ở trường Đại học, có thể bị giết bất cứ lúc nào.

    Gillette nhìn quanh căn phòng phảng phất không khí ngoại ô thịnh vượng.

    Troubadour - căn nhà mơ ước cho bạn và gia đình tận hưởng tương lai...

    Huerto Ramirez và Tim Morgan đã thẩm vấn hàng xóm xung quanh nhưng không ai cung cấp được manh mối gì về địa điểm khác có mối liên hệ với Phate. Ramirez nói, "Theo như người dân ở con phố này, hắn tên là Waren Gregg và hắn nói với mọi người rằng gia đình hắn sẽ chuyển đến sống cùng khi nào bọn trẻ hết năm học."

    Bishop nói với Alonso, "Chúng tôi biết mục tiêu tiếp theo của hắn có thể là một sinh viên trường Đại học Bắc California nhưng chúng tôi không biết đích xác là ai. Hãy đảm bảo rằng người của anh tìm kiếm tất cả những gì có thể là manh mối về nạn nhân tiếp theo của hắn."

    Johnson lắc đầu và nói, "Nhưng giờ thì chúng ta đã xộc vào tận hang ổ của hắn rồi, ông không nghĩ là hắn sẽ chui xuống đất và tạm thời quên đi những nạn nhân khác sao?"

    Bishop nhìn Gillette và nói, "Đó không phải hình dung của tôi về hắn."

    Tay hacker đồng tình. "Phate muốn chiến thắng. Bằng cách này hay cách khác, hắn phải giết một ai đó trong hôm nay."

    "Tôi sẽ chuyển lời đến họ," viên cảnh sát đội SWAT nói và rời đi.

    Cả đội kiểm tra những căn phòng, chúng hoàn toàn trống rỗng, cách biệt với thế giới bên ngoài bởi những tấm rèm kín mít. Phòng tắm chỉ có những vật dụng tối thiểu: dao cạo, kem cạo râu, dầu gội và xà bông. Họ cũng tìm thấy một hộp to đựng toàn những viên đá bọt.

    Bishop nhặt một viên lên, cau mày tò mò.

    "Những ngón tay của hắn," Gillette nhắc. "Hắn dùng những viên đá đó chà chỗ chai tay để có thể gõ phím nhanh hơn."

    Họ bước vào phòng ăn, nơi Phate đặt Laptop.

    Gillette liếc nhìn màn hình, lắc đầu chán nản. "Nhìn này."

    Bishop và Shelton đọc những con chữ:

    TIN NHẮN KHẨN CẤP TỪ: SHAWN MA 10-87 CHO SỐ 34004 PHỐ ALTA VISTA

    "Đó chính là mã đột kích của đội đặc nhiệm mã 87. Nếu hắn không nhận được tin nhắn này, chúng ta đã tóm cổ được hắn," Bishop nói. "Chúng ta đã tiến sát đến thế."

    "Gã Shawn khốn kiếp," Shelton chửi rủa.

    Một cảnh sát gọi với lên từ tầng hầm, "Tôi tìm được lối trốn thoát rồi. Nó ở dưới này."

    Gillette xuống dưới cùng những người khác. Nhưng khi bước đến bậc thang cuối, hắn khựng lại, nhận ra khung cảnh trong bức ảnh của Lara Gibson. Sàn nhà lát vụng về, tấm ván Sheetrock chưa sơn phủ. Và vệt máu loang trên sàn nhà? Cảnh tượng thật kinh khủng.

    Hắn đi cùng Alonso Johnson, Frank Bishop cùng những người lính khác kiểm tra một cánh cửa nhỏ ở cạnh tường. Nó mở ra một đường ống rộng hơn một mét, giống như một ống thoát nước mưa lớn. Một người lính chiếu đèn vào ống. "Nó dẫn sang ngôi nhà bên cạnh."

    Gillette và Bishop quay sang nhìn nhau. Viên thám tử thốt lên, "Ôi không! Người phụ nữ với mái tóc bạc - trong chiếc Explorer! Người đánh xe ra khỏi gara. Chính là hắn."

    Johnson vớ lấy bộ đàm và ra lệnh cho cảnh sát vào căn nhà đó. Sau đó anh cử một xe định vị tìm kiếm xe bốn bánh.

    Lát sau, một người lính gọi lại. "Căn nhà bên cạnh hoàn toàn trống rỗng. Không đồ đạc. Không gì cả."

    "Hắn sở hữu cả hai căn nhà."

    "Lại cái thứ social engineering chết tiệt," Bishop làu bàu, thốt ra câu chửi thề mà Gillette lần đầu tiên nghe thấy từ viên thám tử.

    Năm phút sau, đã có báo cáo về chiếc Explorer. Chiếc xe được tìm thấy tại một bãi đỗ ở trung tâm mua sắm cách đó chưa đến một phần tư dặm. Một bộ tóc bạc và chiếc váy vứt lại ở ghế sau. Không ai trong số những người được thẩm vấn tại trung tâm mua sắm nhìn thấy có người đổi từ chiếc Explorer sang chiếc xe khác.

    Đội khám nghiệm hiện trường cảnh sát bang rà soát kĩ càng cả hai ngôi nhà nhưng không tìm được nhiều thứ hữu ích. Hóa ra Phate - dưới cái tên Waren Gregg, đã mua cả hai ngôi nhà, bằng tiền mặt. Họ đã gọi cho nhà môi giới bán nhà cho Phate. Cô này không nghĩ việc hắn mua hai ngôi nhà bằng tiền mặt là bất thường, ở Thung lũng Niềm hân hoan của trái tim (tên gọi khác của Santa Clara Valley) này, những nhân viên kinh doanh máy tính trẻ tuổi giàu có thường mua một ngôi nhà để ở và một để đầu tư. Dù vậy, cô ta cũng nói rằng, dường như vẫn có một điều bất thường về cuộc giao dịch đặc biệt này. Khi cô ta tra các báo cáo và ứng dụng tín dụng theo yêu cầu của cảnh sát thì tất cả dữ liệu bán hàng đã biến mất. "Việc đó không lạ lùng sao? Tất cả đã ngẫu nhiên bị xóa hết."

    "Phải rồi, rất lạ lùng," Bishop nói vẻ châm biếm.

    "Đúng rồi, ngẫu nhiên nữa chứ," Gillette nói thêm.

    Bishop nói với tay hacker, "Chúng ta hãy mang máy tính của hắn về CCU. Nếu may mắn, biết đâu có thứ gì đó liên quan đến mục tiêu của hắn ở ngôi trường đó. Hãy khẩn trương tiến hành việc này."

    Johnson và Bishop rời khỏi hiện trường, sau đó Linda Sanchez điền hết biên bản tang vật và bọc máy tính cùng những chiếc đĩa của Phate lại.

    Cả đội quay trở lại xe và phóng về trụ sở CCU.

    Gillette thông báo với Nolan cuộc vây bắt đã thất bại.

    "Gã Shawn lại mách lẻo hắn à?" Cô tức giận hỏi.

    Sanchez giao laptop của Phate cho Gillette và Nolan rồi đi nhận một cuộc gọi.

    "Làm sao hắn biết chúng ta sắp đột kích ngôi nhà đó?" Tony Mott. "Tôi không hiểu nổi."

    "Tôi thì chỉ muốn biết một điều," Shelton lẩm bẩm. "Gã Shawn đó là tên khốn kiếp nào?"

    Dù hiển nhiên là ông không mong chờ được đáp lại ngay lúc đó, nhưng ông sắp có câu trả lời.

    "Tôi biết là ai," Linda Sanchez nói, choáng váng và tức giận. Cô nhìn toàn đội rồi giơ chiếc ống nghe đang lủng lẳng trên tay. Búng những móng tay được sơn đỏ, cô nói, "Là quản trị mạng ở San Jose. Mười phút trước anh ta phát hiện ai đó đột nhập vào ISLEnet và dùng nó làm hệ thống đáng tin để xâm nhập cơ sở dữ liệu của Bộ Ngoại giao. Người sử dụng là Shawn. Hắn đã chỉ thị cho hệ thống của Bộ Ngoại giao xuất ra hai hộ chiếu lùi ngày bằng tên giả. Quản trị mạng nhận ra những tấm ảnh mà Shawn scan vào hệ thống. Một là của Holloway, cô hít một hơi, "cái kia là của Stephen."

    "Stephen nào?" Tony Mott hỏi, không hiểu gì.

    "Stephen Miller," Sanchez nói như chực khóc. "Hắn chính là Shawn."

    Bishop, Mott và Sanchez đi vào khoang làm việc của Miller, lục soát bàn làm việc của anh ta.

    "Tôi không tin điều đó," Mott bướng bỉnh nói. "Lại là Phate thôi. Hắn đang chơi chúng ta."

    "Nhưng nếu vậy thì Miller ở đâu," Bishop hỏi. Patricia Nolan nói cô ở văn phòng CCU suốt khoảng thời gian cả đội đến nhà của Phate nhưng Miller không hề gọi. Cô thậm chí còn thử tìm kiếm anh ta ở rất nhiều phòng ban máy tính thuộc các trường đại học khu vực nhưng anh ta không hề có ở đó.

    Mott bật máy của Miller.

    Màn hình yêu cầu nhập mật khẩu. Mott thử cách thông thường nhất - đoán thử vài mật khẩu: ngày sinh, tên đệm, hoặc tương tự như thế. Nhưng truy cập bị từ chối.

    Gillette bước vào khoang làm việc và tải về chương trình phá khóa của hắn. Chỉ trong vài phút mật khẩu đã bị bẻ, Gillette vào được máy của Miller. Rất nhanh chóng, hắn tìm thấy hàng tá tin nhắn gửi đến Phate dưới tên Shawn, đăng nhập Internet thông qua công ty Monterey Online. Nội dung tin nhắn đã được mã hóa nhưng chỉ nhìn tiêu đề là đã rõ thân phận thực sự của Miller.

    Patricia Nolan nói, "Nhưng Shawn rất giỏi - Stephen chỉ là tay ma so với hắn."

    "Social engineering," Bishop nói.

    Gillette đồng tình. "Hắn phải làm ra vẻ ngốc nghếch để chúng ta khỏi nghi ngờ. Trong khi đó, hắn tuồn tin tức cho Phate."

    Mott quát lên, "Hắn chính là nguyên nhân cái chết của Andy Anderson. Hắn đã bán đứng ông ấy."

    Shelton lẩm bẩm, "Cứ mỗi lần chúng ta sắp tóm được Phate, Miller lại cảnh báo cho hắn."

    "Quản trị mạng đó có phán đoán được Miller hack từ đâu không?" Bishop hỏi.

    "Không, thưa sếp," Sanchez nói. "Hắn dùng chương trình bulletproof anonymizer - chương trình nặc danh chống can nhiễu từ bên ngoài."

    Bishop hỏi Mott, "Những trường mà hắn đăng ký sử dụng máy tính - Trường Bắc California có nằm trong số đó không?"

    Mott đáp, "Tôi không rõ. Cũng có thể."

    "Vậy là hắn đang giúp Phate đặt bẫy những nạn nhân tiếp theo." Điện thoại Bishop reo. Ông nghe máy và gật đầu. Sau khi gác máy ông nói, "Là Huerto." Bishop đã cử Ramie và Morgan đến nhà Miller ngay khi Linda Sanchez nhận được cuộc gọi từ quản trị mạng ISLEnet. "Xe của Miller đã biến mất. Phòng làm việc của anh ta không có gì ngoài một đống cáp và linh kiện máy tính. Anh ta đã mang tất cả máy và đĩa theo." Ông quay sang hỏi Mott và Sanchez, "Anh ta có nhà nghỉ dưỡng mùa hè nào không? Gia đình có ở gần không?"

    "Không. Cả đời anh ta chỉ có máy móc," Mott nói. "Làm việc ở văn phòng này và làm việc ở nhà."

    Bishop nói với Shelton, "Gửi ảnh Miller lên mạng và cử một số cảnh sát mang theo bản sao ảnh đến trường Đại học Bắc California." Ông liếc nhìn máy tính của Phate và nói với Gillette, "Dữ liệu trong đó không bị mã hóa nữa, đúng không?"

    "Không," Gillette trả lời. Hắn gật đầu về phía màn hình, nơi màn hình chờ của Phate chuyển động đều đều - khẩu hiệu của trò Knights of Access.

    Quyền truy cập là Chúa trời, là Đấng toàn năng...

    "Để tôi xem có thể tìm thấy gì nào." Hắn ngồi xuống trước chiếc laptop.

    "Hắn có thể đặt hàng đống bẫy bên trong đấy," Linda Sanchez cảnh báo.

    "Tôi sẽ bước thật nhẹ, đi thật khẽ. Tắt màn hình chờ rồi chúng ta sẽ tiếp quản từ đó. Tôi biết những chỗ logic mà hắn đặt dây bẫy đấy" Gillette ngồi xuống trước chiếc máy. Hắn nhấn nút bấm vô hại nhất trên một bàn phím - phím Shift, để tắt chế độ màn hình chờ. Vì bản thân phím Shift không thể tạo ra lệnh nào hay gây ảnh hưởng đến các chương trình và dữ liệu lưu trong máy, các hacker không bao giờ cài một dây bẫy cho phím đó.

    Nhưng tất nhiên Phate đâu phải một tay hacker bất kỳ.

    Gillette vừa nhấn phím, màn hình trở nên tối đen, rồi một dòng chữ xuất hiện:

    BẮT ĐẦU MÃ HÓA KHỐI

    ĐANG MÃ HÓA - CHƯƠNG TRÌNH MÃ HÓA STANDARD 12 CỦA BỘ QUỐC PHÒNG

    "Không!" Gillette kêu lên và nhấn nút tắt máy. Nhưng Phate đã vô hiệu hóa điều khiển nguồn, không có phản ứng. Hắn lật chiếc laptop lại để tháo rời pin nhưng nút tháo ra đã bị gỡ bỏ. Trong vòng ba phút toàn bộ nội dung ổ cứng đã bị mã hóa.

    "Khốn kiếp, khốn kiếp...," Gillette chán nản đập bàn. "Tất cả thành công cốc rồi," hắn nói.

    Tay đặc vụ bộ quốc phòng Backle đứng dậy và chầm chậm tiến đến chỗ để chiếc máy. Anh ta nhìn Gillette rồi lại nhìn màn hình, giờ chỉ còn dày đặc những kí tự vô nghĩa. Rồi tay đặc vụ lại liếc sang những bức ảnh chụp nạn nhân trên tấm bảng trắng. Anh ta ra hiệu về phía chiếc laptop và hỏi Gillette, "Cậu nghĩ trong đó có thứ gì đó có thể cứu vài mạng người à?"

    "Có thể."

    "Những gì tôi nói lúc trước là nghiêm túc đây. Nếu cậu có thể bẻ khóa chương trình mã hóa đó, tôi cũng sẽ coi như không thấy gì. Tất cả những gì tôi yêu cầu là cậu đưa cho chúng tôi đĩa có chương trình bẻ khóa."

    Gillette chần chừ. Rốt cuộc hắn lên tiếng, "Anh nghiêm túc chứ?"

    Backle nở một nụ cười khó hiểu và vỗ đầu hắn. "Thằng khốn đó đã cho tôi một cú búa bổ vào đầu. Tôi muốn thêm tội tấn công một đặc vụ liên bang vào danh sách tội danh của hắn."

    Gillette liếc nhìn Bishop, một cái gật đầu - một sự ngầm thừa nhận rằng ông ta sẽ bảo trợ cho hắn. Tay hacker ngồi xuống một bàn máy tính và vào mạng. Hắn vào lại tài khoản ở Los Amos, nơi hắn lưu giữ bộ công cụ hacker của mình, và tải về một fìle có tên Pac-Man.

    Nolan bật cười. "Pac-Man?"

    Gillette nhún vai. "Tôi đã làm liền hai mươi hai tiếng mới xong. Không thể nghĩ ra được cái tên nào hay hơn."

    Hắn copy nó vào một đĩa mềm, rồi cho đĩa vào laptop của Phate.

    Màn hình hiện lên:

    Mã hóa/Giải mã

    Nhập Username:

    Nhập Password:

    Những chữ cái, con số và ký hiệu Gillette đánh chuyển thành một dãy mười tám dấu hoa thị. Mott nói, "Mật khẩu quá khủng."

    Màn hình hiện lên:

    Lựa chọn chương trình mã hóa:

    1. Công ty đường dây cá nhân Online

    2. Chương trình chống mã hóa tiêu chuẩn

    3. Ban điều hành Defense Standard 12

    4. NATO

    5. Hệ thống máy tính quốc tế

    Patricia Nolan bắt chước Mott. "Hack quá khủng. Anh viết loại tập lệnh có thể bẻ khóa tất cả những chương trình mã hóa này?"

    "Thường thì nó sẽ giải mã khoảng chín mươi phần trăm file," Gillette nói, nhấn phím 3. Rồi hắn bắt đầu quá trình giải mã bằng chương trình của mình.

    "Cậu làm như thế nào vậy?" Mott hỏi, rõ ràng là bị mê hoặc.

    Gillette không thể kìm nổi sự hào hứng và cả tự mãn trong giọng nói, "Về cả bản tôi đưa đủ những mẫu của mỗi chương trình mã hóa sao cho chương trình bắt đầu ghi nhận kiểu thuật toán được sử dụng để mã hóa chúng. Sau đó nó sẽ tạo ra những phép đoán logic về..."

    Đặc vụ Backle đột nhiên bước qua Bishop, tóm lấy cổ áo Gillette và ấn mạnh hắn xuống sàn nhà. "Wyatt Edward Gillette, anh bị bắt vì vi phạm Luật phá hoại và gian lận tin học, ăn cắp thông tin mật của Chính phủ và phản quốc."

    Bishop thốt lên, "Anh không thể làm thế!"

    Tony Mott định tiến về phía anh ta. "Anh là đồ khốn nạn!"

    Backle kéo vạt áo khoác, để lộ báng súng. "Cẩn thận đấy. Tôi sẽ suy ngẫm thật lâu về việc anh định làm, anh cảnh sát ạ!"

    Motl lùi lại. Còn Backle, gần như ung dung, còng tay tội nhân của mình.

    Bishop giận dữ nói, "Thôi nào, Backle, anh đã nghe chuyện của chúng tôi rồi đấy, Phate đang nhắm vào ai đó ở trường Đại học. Rất có thể hắn đang ở đó ngay lúc này!"

    Patricia Nolan nói, "Chính anh nói với anh ấy là việc đó không sao!"

    Nhưng Backle lạnh lùng phớt lờ cô, kéo Gillette đứng lên và ấn hắn xuống một chiếc ghế. Đoạn tay đặc vụ lôi bộ đàm ra, bấm nút và nói, "Backle gọi số 23. Tôi đã bắt được nghi phạm. Anh có thể đến đưa hắn đi."

    "Rõ," đầu dây rè rè đáp.

    "Anh chơi đểu anh ấy!" Nolan tức giận quát lên. "Anh là thằng khốn chỉ chực chờ để làm thế."

    "Tôi sẽ gọi cho sếp của mình," Bishop quát lên, rút di động ra và sải chân mạnh mẽ về phía cửa trước.

    "Cứ gọi cho bất kỳ ai mà ông muốn. Hắn ta sẽ phải quay lại nhà tù."

    Shelton giận dữ nói, "Ngay lúc này, chúng ta có một tên sát nhân đang rình rập nạn nhân tiếp theo! Có thể đây là cơ hội duy nhất để ngăn chặn hắn."

    Backle đáp, gật đầu về phía Gillette, "Còn mật mã bị hắn phá đồng nghĩa với việc hàng trăm người khác có thể chết."

    Sanchez nói, "Anh đã hứa với chúng tôi. Chẳng nhẽ việc đó không có nghĩa lý gì?"

    "Không. Bắt những kẻ như hắn mới là nghĩa lý - cho tất cả mọi chuyện."

    Gillette tuyệt vọng nói, "Cho tôi thêm một giờ nữa thôi."

    Nhưng Backle dù nhếch mép cười gian xảo và bắt đầu đọc những quyền lợi của Gillette.

    Vừa lúc đó, họ nghe thấy tiếng súng nổ từ bên ngoài và tiếng kính vỡ tung khi những viên đạn đập vào lớp cửa ngoài của CCU.

  9. #38
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 38
    Mott và Backle rút súng và nhìn về phía cửa. Sanchez quỳ thụp xuống, lục lọi vũ khí trong túi của mình, Nolan núp dưới một cái bàn.

    Frank Bishop, trườn người trên sàn nhà, lùi dần từ cửa trước xuống lối hành lang ngắn dẫn vào phòng máy chủ.

    Sanchez gọi, "Anh có trúng đạn không, sếp?"

    "Tôi không sao!" Viên thám tử nấp sau bức tường, đứng nhấp nhổm. Ông rút súng ra và nói, "Hắn đang ở bên ngoài là Phate! Tôi đang đứng ở hành lang. Hắn bắn vài phát vào tôi. Hắn vẫn còn ở đó!"

    Backle chạy qua ông, gọi vào điện đài để cảnh báo đồng sự về tên tội phạm. Anh ta nép mình sau cửa, chăm chú nhìn lỗ đạn trên tường và những mảnh kính vỡ. Tay cầm khẩu súng bự chảng, Tony Mott chạy đến chỗ tay đặc vụ.

    "Hắn ở đâu?" Backle hỏi, nhìn thật nhanh ra bên ngoài, rồi lại núp vào chỗ trốn.

    "Đằng sau chiếc xe tải màu trắng kia kìa," viên thám tử nói to. "Ở phía bên trái ấy. Chắc chắn hắn quay lại để giết Gillette. Hai người chạy sang phía bên phải, khóa hắn lại. Tôi sẽ tấn công từ sau lưng. Cúi thấp xuống. Hắn bắn cừ lắm đấy."

    Tay đặc vụ và chàng cảnh sát trẻ nhìn nhau rồi gật đầu. Cả hai cùng lao thật nhanh qua cửa trước.

    Bishop nhìn họ rồi đứng dậy và tra súng vào bao. Ông sơ vin lại áo, lôi chùm chìa khóa ra và tháo còng tay cho Gillette. Ông thả chiếc còng vào túi áo.

    "Anh đang làm gì vậy, sếp?" Sanchez hỏi, ngồi nhổm dậy khỏi sàn nhà.

    Patricia Nolan bật cười, chừng như đã đoán ra chuyện vừa xảy ra. "Một vụ vượt ngục, đúng không?"

    "Phải."

    "Nhưng còn những phát đạn?" Sanchez hỏi.

    "Là tôi đấy."

    "Anh à?" Gillette hỏi, ngạc nhiên..

    "Tôi bước ra ngoài rồi bắn vài phát vào cửa trước" Ông cười hớn hở. "Cái thứ social engineering này - tôi nghĩ mình bắt đầu thành thạo chiêu này rồi đây." Rồi viên thám tử hất đầu về phía chiếc máy tính của Phate và nói với Gillette, "Này, đừng có đứng mãi thế. Cầm lấy máy của hắn và chuồn khỏi đây thôi."

    Gillette xoa cổ tay. "Ông có chắc muốn làm việc này không?"

    Bishop trả lời, "Điều tôi chắc chắn nhất là Phate và Miller có thể đang ở khu học xá trường Bắc California. Và tôi sẽ không để bất cứ ai phải chết nữa. Vậy nên hãy đi thôi."

    Tay hacker tóm lấy chiếc máy và dợm bước theo viên thám tử.

    "Khoan đã," Patrieia gọi, "Tôi đậu xe ở phía sau. Chúng ta có thể đi xe của tôi."

    Bishop ngần ngừ.

    Cô nói tiếp, "Chúng ta sẽ đến khách sạn chỗ tôi. Tôi có thể giúp anh xử lý máy của hắn."

    Viên thám tử gật đầu. Ông định nói gì đó với Linda Sanchez nhưng cô ra hiệu cho ông im lặng. "Tất cả những gì tôi biết là tôi quay lại và nhìn thấy Wyatt đã chạy trốn rồi ông đuổi theo cậu ta, và tôi cũng chỉ biết là cậu ta đến Napa, với ông đuổi theo sát nút. Chúc ông bắt được cậu ta, sếp. Uống giùm tôi một cốc rượu nữa. Chúc may mắn."

    ° ° °

    Nhưng có vẻ như hành động anh hùng của Bishop cũng không giúp được gì.

    Trong phòng khách sạn của Patricia Nolan - căn hộ đẹp đẽ nhất mà Gillette từng thấy, tay hacker nhanh chóng giải mã được dữ liệu trong máy tính của Phate. Tuy nhiên, hóa ra đây không phải là chiếc máy lúc trước Gillette đã đột nhập vào. Nó không hẳn là một máy nóng nhưng chỉ chứa hệ điều hành, Trapdoor và một vài file những bài báo mà Shawn đã gửi cho Phate. Phần nhiều là về Seatle, nơi có thể là điểm đến tiếp theo trong trò chơi của Phate. Nhưng giờ hắn đã biết họ đang giữ máy của hắn, nên tất nhiên, hắn sẽ tìm đến nơi khác.

    Không có gì liên quan đến đại học bắc California hay bất kỳ ai có khả năng trở thành nạn nhân.

    Bishop thả mình vào một chiếc ghế bành bọc nhung, hai tay đan vào nhau, nhìn đăm đăm xuống sàn nhà, chán nản. "Không có gì cả."

    "Đế tôi thử xem?" Nolan hỏi. Cô ngồi xuống bên cạnh Gillette rồi kéo chuột vào danh mục. "Có thể hắn đã xóa một vài file. Anh đã thử khôi phục bằng phần mềm Restore8 chưa?"

    "Không, tôi chưa," Gillette nói. "Tôi đoán hắn đã hủy hết mọi thứ rồi."

    "Có lẽ hắn không để tâm," cô nói. "Hắn khá tự tin rằng không ai vào được máy của hắn. Vả nếu có thì cái bẫy mã hóa sẽ ngăn chặn họ."

    Cô chạy chương trình Restore8, sau một tích tắc, những dữ liệu mà Phate đã xóa trong vài tuần hiện lên trên màn hình. Cô đọc lướt qua toàn bộ. "Không có gì về ngôi trường đó. Chả có bất kỳ điều gì về những vụ tấn công. Tôi chỉ thấy những đơn vị bit của các biên lai bán linh kiện máy tính của hắn. Phần lớn dữ liệu đã bị sai hỏng. Nhưng thứ này có thể giúp ích đây."

    Bishop và Gillette đọc màn hình.

    Tay hacker nói, "Nhưng nó cũng không giúp ích gì cho chúng ta. Đó là một công ty đã mua vài linh kiện của hắn. Chúng ta cần địa chỉ của Phate, nơi từ đó những linh kiện được chuyển đi.

    Gillette tiếp tục công việc của Nolan và rà lại toàn bộ số file được khôi phục. Chúng chỉ là đống rác số học. "Chẳng có gì."

    Nhưng Bishop lắc đầu. "Chờ một chút." Ông chỉ vào màn hình. "Kéo lên."

    Gillette kéo chuột trở lại đoạn văn bản biên lai.

    Bishop vỗ vào màn hình và nói, "Công ty này - San Jose Computer Products, chắc hẳn họ có lưu lại danh sách người bán linh kiện và nơi hàng được giao đi."

    "Trừ khi họ biết chúng là đồ ăn cắp," Patricia Nolan nói. "Và họ sẽ phủ định việc biết bất cứ điều gì về Phate."

    Gillette nói, "Tôi cá là một khi đã biết Phate là kẻ giết người họ sẽ hợp tác hơn một chút đấy."

    "Hoặc bớt hợp tác hơn," Nolan nghi ngờ nói.

    Bishop nói thêm, "Nhận hàng ăn cắp là một tội danh. Tránh được San Quentin (Nhà tù Bang California) là lý do khá hay để hợp tác đấy."

    Viên thám tử vuốt mái tóc xịt keo, nghiêng người về phía trước và nhấc điện thoại. Ông gọi đến văn phòng CCU, thầm cầu mong một ai đó trong đội - không phải là Backle hoặc nhân viên FBI sẽ nhấc máy. Ông thở phào nhẹ nhõm khi Tony Mott trả lời. Viên thám tử nói, "Tony, là Frank đây. Cậu có nói chuyện được không?... Tình hình ở đó xấu thế nào?... Họ có manh mối gì không?... Không, ý tôi là, manh mối về chúng tôi ấy... Được rồi, tốt lắm. Nghe này, cậu giúp tôi việc này nhé, tìm cụm từ San Jose Computer Products, 2335 Winchester ở San Jose... Không. Tôi sẽ giữ máy."

    Một lát sau, Bishop ngẩng đầu lên. Ông chầm chậm gật đầu. "Được, hiểu rồi. Cảm ơn cậu. Chúng tôi nghĩ rằng Phate đã bán linh kiện cho họ. Chúng tôi sẽ tìm gặp ai đó ở công ty này. Nếu tìm được gì tôi sẽ báo cho cậu. Nghe này, hãy gọi cho hiệu trưởng và trưởng ban an ninh trường Bắc California và nói cho họ biết là kẻ giết người có thể đang trên đường đến. Và huy động thêm lính tới đó."

    Ông gác máy và nói với Nolan và Gillette, "Công ty đó trong sạch. Nó hoạt động khoảng mười lăm năm, chưa từng có bất kỳ rắc rối với ERS, EPA hay thuế vụ bang. Trả đầy đủ tất cả theo giấy phép kinh doanh. Nếu họ từng mua thứ gì từ Phate, có lẽ họ cũng không biết nó là hàng nóng. Hãy đến đó nói chuyện với ông McGonagle này hay ai đó xem."

    Gillette đi cùng viên thám tử. Nolan nói, "Các anh cứ đi đi. Tôi sẽ tìm kiếm thêm trong máy hắn xem có manh mối gì không."

    Dừng bước nơi cửa, Wyatt Gillette liếc lại sau lưng và nhìn thấy cô ngồi xuống bên bàn phím. Cô nở một nụ cười khích lệ nhẹ nhàng. Nhưng với hắn, dường như ánh mắt ấy có chút nuối tiếc và vẻ mặt cô ẩn chứa một hàm nghĩa khác - có lẽ cô hiểu rõ rằng sẽ chẳng có hy vọng nảy sinh chút tình cảm nào giữa họ.

    Nhưng rồi, cũng giống một hacker như hắn, nụ cười đó biến mất rất nhanh và Nolan quay lại với màn hình đang sáng và bắt đầu gõ phím thật nhanh. Ngay lập tức, vẻ tập trung cao độ xâm chiếm khuôn mặt, cô thoát khỏi Thế giới thực tại để chìm đắm trong Miền xanh thẳm vô định.

    ° ° °

    Trò chơi này không còn vui nữa rồi.

    Mồ hôi vã ra, hoảng loạn, tuyệt vọng, Phate ngồi thõng xuống bên bàn và lơ đãng nhìn xung quanh - tất cả những vật dụng máy tính quý giá từ thuở sơ khai của hắn. Hắn biết rằng Gillette và cảnh sát đang tiến đến rất gần và không thể nào tiếp tục cuộc chơi ở hạt Santa Clara thịnh vượng này nữa.

    Phải thú nhận điều này quả là đau đớn với hắn, vì hắn luôn coi tuần lễ này - Tuần lễ Univac là một phiên bản đặc biệt trong trò chơi của hắn. Nó cũng giống như trò MUD nổi tiếng, những cuộc thập tự chinh, Thung lũng Silicon là vùng đất thần thánh mới và hắn muốn thắng lớn ở mọi ván.

    Nhưng cảnh sát và Valleyman đã chứng tỏ rằng chúng giỏi hơn hắn tưởng nhiều.

    Vì vậy, không có lựa chọn khác, hiện giờ hắn chưa có nhân dạng mới và phải chuồn đi ngay lập tức. Seatle đáng ra là điểm đến tiếp theo, nhưng có khả năng Gillette đã bẻ khóa thành công Chương trình mã hóa 12 và phát hiện ra chi tiết về trò chơi Seatle và những mục tiêu dự định ở đó.

    Có lẽ hắn sẽ thử đến Chicago, cao nguyên Silicon, Hoặc tuyến đường 128, nằm ở phía bắc Boston.

    Dù vậy, hắn không thể nào đợi lâu đến thế cho một cuộc chết chóc, do bị ám ảnh bởi ham muốn duy trì cuộc chơi. Nên trước tiên hắn sẽ ghé chân ở khu học xá trường đại học bắc California và để lại một quả bom xăng. Một món quà chia tay. Một tòa nhà trong khu học xá được đặt theo tên người sáng lập Thung lũng Silicon, nhưng như thế sẽ khiến mục tiêu trở nên dễ đoán, hắn đã quyết định rằng những sinh viên sống trong học xá trên con phố này sẽ phải chết. Đó là phố Yeats Hall - tên một nhà thơ, người chắc chắn chẳng dành chút thời gian nào cho máy tính hay những gì liên quan.

    Khu học xá này là một khối kiến trúc bằng gỗ kiểu cũ, nên rất dễ bị lửa tấn công, đặc biệt là khi hệ thống chuông báo cháy và vòi phun nước đã bị ngắt bởi máy chủ của trường.

    Tuy vậy, vẫn còn một việc cần phải làm. Nếu là kẻ khác, hắn sẽ không thèm bận tâm. Nhưng đối thủ lần này của hắn lại là Wyatt Gillette, vì vậy Phate cần mất thêm thời gian để có cơ hội đặt quả bom rồi chuồn sang bờ đông. Cơn tức giận điên loạn làm hắn muốn vồ ngay lấy một khẩu súng máy và bắn chết hàng tá người để làm quẩn chân lũ cảnh sát. Nhưng tất nhiên, đó không phải là thứ vũ khí gần gũi nhất với tâm hồn hắn, thế nên hắn chỉ đơn giản là ngồi trước máy tính và bắt đầu điềm tĩnh gõ một câu thần chú quen thuộc.


  10. #39
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 39
    Trong Trung tâm điều khiển của phòng công ích hạt Santa Clara, ngụ trong một khu phức hợp với hàng rào dây thép gai bao quanh, ở phía tây nam San Jose, là máy tính trung tâm có tên Alanis, được đặt theo tên một ca sỹ nhạc pop.

    Cỗ máy này giải quyết hàng nghìn nhiệm vụ cho DPW (Sở giao thông công chính), chẳng hạn như lên lịch bảo dưỡng và sửa chữa những con đường, điều chỉnh việc cấp phát nước vào mùa khô, giám sát hệ thống cống thoát nước và xử lý rác thải, điều phối hàng chục ngàn đèn giao thông trên toàn Thung lũng Silicon.

    Nằm không xa Alanis là một trong những liên kết chính của cỗ máy với thế giới bên ngoài, một giá đỡ băng kim loại cao sáu feet mang trên mình ba mươi hai modem tốc độ cao. Vào thời điểm này 13:30 chiều, rất nhiều cuộc điện thoại đang kết nối đến những modem này. Có một kết nối từ người thợ sửa chữa công ích kì cựu ở Mountain View. Ông ta đã làm việc cho DPW nhiều năm và gần đây mới miễn cưỡng làm theo chính sách của cơ quan về việc đăng nhập thông qua một laptop từ khu vực mình quản lý để nhận nhiệm vụ mới - nhận biết địa điểm phát sinh trục trặc trong hệ thống công ích rồi báo cáo khi nào cả đội hoàn thành việc sửa chữa. Từng nghĩ máy tính chỉ là thứ tốn thời gian vô ích, người đàn ông năm mươi lăm tuổi mập mạp đó giờ lại trở nên say mê thứ máy móc này và luôn chực chờ từng cơ hội được đăng nhập.

    Email mà ông ta gửi đến Alanis là bản tóm tắt về việc hoàn thành sửa chữa một đoạn cống.

    Tuy nhiên, tin nhắn mà chiếc máy tính nhận được lại hơi khác một chút. Chèn thêm vào đoạn tin nhắn của người thợ sửa chữa là một mã lạ: một Trapdoor demon.

    Giờ đây, bên trong 'nàng Alanis' không mảy may ngờ vực, demon này nhảy ra khỏi email và chui vào tận sâu bên trong hệ điều hành của chiếc máy.

    Cách đó bảy dặm, ngồi bên chiếc máy của mình, Phate chiếm giữ quyền truy cập gốc rồi nhanh chóng rà soát toàn bộ Alanis, định vị những câu lệnh mà hắn cần. Hắn chép lại chúng vào một mẩu giấy màu vàng, rồi quay lại công việc chính. Hắn tra cứu tờ giấy đó rồi gõ permit/g/segment và nhấn ENTER. Giống như rất nhiều câu lệnh trong những hệ điều hành máy tính kỹ thuật, câu lệnh này bí ẩn nhưng lại gây ra hậu quả nặng nề.

    Tiếp đó, Phate phá hủy chương trình ghi đè và cài đặt lại mật khẩu gốc thành ZZY?a##9\%48?95, một mật khẩu không con người nào có thể đoán ra được, còn một siêu máy tính phải mất ít nhất nhiều ngày để bẻ khóa.

    Rồi hắn thoát ra.

    Ngay khi bắt đầu thu xếp đồ đạc trốn chạy khỏi Thung lũng Silicon này, hắn bắt đầu nghe thấy những âm thanh mơ hồ từ công việc mà hắn vừa đích thân làm bao trùm bầu trời ban chiều.

    ° ° °

    Chiếc Volvo màu đồng phóng qua một ngã tư trên đại lộ Stevens Creek và cứ thế lao về phía chiếc xe cảnh sát của Bishop.

    Người lái xe trợn mắt hoảng loạn trước vụ va chạm không tránh khỏi.

    "Ôi trời, cẩn thận!" Gillette hét, hai cánh tay giơ lên theo bản năng tự vệ, quay đầu về phía bên trái và nhắm chặt mắt khi biểu tượng đường chéo mạ crôm nổi tiếng của hãng xe Thụy Điển lao thẳng về phía hắn.

    "Được rồi," Bishop bình tĩnh nói.

    Có thể bản năng hoặc kĩ năng lái xe của một cảnh sát đã khiến ông quyết định không phanh lại. Bishop nhấn mạnh chân ga xuống sát sàn xe và văng chiếc Crown Victoria về phía chiếc xe đang lao đến. Mẹo này đã phát huy tác dụng. Hai chiếc xe sượt qua nhau trong khoảng cách vài inch và chiếc Volvo đâm sầm vào chắn bùn trước của chiếc Porsche đằng sau. Bishop đã kiểm soát được cú văng xe và phanh lại.

    "Thằng ngu nào lại vượt đèn đỏ," Bishop lầm bầm, tay lôi bộ đàm ra để báo cáo về vụ tai nạn.

    "Không, anh ta không ngu đâu," Gillette nói, ngoái lại phía sau. "Nhìn kìa, cả hai bên đều đèn xanh."

    Ở dãy phố trước mặt họ, thêm hai chiếc xe lật nghiêng ngay giữa ngã tư, khói bốc lên từ mui xe.

    Tiếng bộ đàm lạo xạo, lùng bùng với những báo cáo tai nạn và rối loạn đèn giao thông. Họ nghe ngóng thêm một chút.

    "Tất cả đèn đều xanh," viên thám tử nói. "Cả hạt đều thế. Là Phate, đúng không? Hắn đã gây ra việc này."

    Gillette cười chua chát. "Hắn đã đột nhập mạng giao thông công chính. Đây là màn tung hỏa mù để hắn và Miller trốn thoát."

    Bishop tiếp tục đi, nhưng vì tình hình giao thông, họ phải di chuyển với tốc độc vài dặm một giờ. Đèn nhấp nháy trên nóc xe không còn tác dụng nên Bishop đành tắt đi. Ông quát át cả những tiếng còi, "Ở chỗ giao thông công chính người ta có thể làm gì để sửa nó?"

    "Có thể hắn đã làm đơ hệ thống hoặc để lại một mật khẩu không thể phá nổi. Họ sẽ phải tải lại mọi thứ từ đĩa dự phòng, sẽ mất hàng tiếng đồng hồ." Tay hacker lắc đầu. "Nhưng tình hình giao thông này cũng sẽ làm hắn mắc kẹt. Để làm gì nhỉ?"

    Bisphop nói, "Không, hắn sẽ ở ngay bên đường cao tốc. Có thể là ngay cạnh con dốc dẫn lên đường lớn. Đại học Bắc California cũng nằm ở vị trí như thế. Hắn sẽ giết nạn nhân tiếp theo, rồi nhảy trở lại đường cao tốc và chuồn đi đâu không ai biết, đào tẩu êm thấm."

    Gillette gật đầu và nói thêm, "ít nhất thì không có ai ở công ty máy tính San Jose biến mất."

    Còn cách điểm đến một phần tư dặm thì giao thông hoàn toàn tê liệt, nên Bishop và Gillette buộc phải bỏ xe lại. Họ nhảy khỏi xe và cuốc bộ phăm phăm về phía trước với tâm trạng phấp phỏng đầy tuyệt vọng. Phate chắc chắn chỉ tạo ra vụ kẹt xe ngay trước khi hắn sẵn sàng cho cuộc tấn công vào trường học. Nếu may mắn lắm thì ngay cả khi một ai đó ở công ty máy tính San Jose tìm ra địa chỉ gửi hàng, họ cũng không thể đến kịp chỗ của Phate trước khi nạn nhân bị giết, còn hắn và Miller đã cao chạy xa bay.

    Họ đến được tòa nhà trụ sở của công ty và dừng lại, dựa vào một hàng rào, thở dốc.

    Không gian tràn ngập tiếng còi xe inh ỏi và tiếng chiếc trực thăng bay lượn gần đó, một đài địa phương đang ghi lại hậu quả sự phá hoại của Phate và sự mong manh của hạt Santa Clara cho người dân cả nước chứng kiến.

    Hai người họ lại đi tiếp, khẩn trương tiến đến một cánh cửa để ngỏ cạnh khu chất hàng của công ty. Họ trèo qua khu chất hàng và bước vào trong. Một công nhân mập mạp, tóc hoa râm đang chất những thùng các tông lên giá để hàng, ngước lên nhìn họ.

    "Xin lỗi ông. Cảnh sát đây" Bishop nói và giơ phù hiệu ra. "Chúng tôi cần hỏi ông một vài câu."

    Người đàn ông nheo mắt sau cặp-kính dầy khi xem xét phù hiệu của Bishop. "Vâng, tôi có thể giúp gì cho ông?"

    "Chúng tôi đang tìm ông Joe McGonagle."

    "Tôi đây," ông ta nói. "Là về vụ tai nạn hay cái gì? Những tiếng còi xe đó là gì vậy?"

    "Đèn giao thông bị hỏng."

    "Lộn xộn thật. Cũng sắp đến giờ cao điểm rồi."

    Bishop hỏi, "Ông sở hữu công ty này?"

    "Cùng với em họ tôi. Chính xác là có vấn đề gì vậy, anh cảnh sát?"

    "Tuần trước ông nhận được gói hàng là một vài linh kiện siêu máy tính."

    "Chúng tôi làm việc đó hàng tuần. Đó là công việc kinh doanh của chúng tôi."

    "Chúng tôi có lý do để tin rằng có lẽ ai đó đã bán cho ông linh kiện ăn cắp."

    "Ăn cắp?"

    "Ông không bị điều tra, thưa ông. Nhưng việc tìm ra người đã bán chúng rất quan trọng với chúng tôi. Ông không phiền nếu chúng tôi xem qua sổ sách nhận hàng của ông chứ?"

    "Tôi thề là không biết bất cứ thứ gì bị đánh cắp. Jim, em tôi, cũng không đời nào làm việc đó. Cậu ấy là một con chiên ngoan đạo."

    "Tất cả những gì chúng tôi muốn là tìm ra kẻ đã bán chúng. Chúng tôi cần địa chỉ hoặc số điện thoại của công ty nơi những linh kiện này được chuyển đi."

    "Tất cả tài liệu chuyển hàng đều ở trong này." Ông ta bước xuống hành lang. "Nhưng nếu tôi cần luật sư hoặc đại loại thế trước khi nói chuyện với các anh, anh sẽ cho tôi biết chứ."

    "Vâng, tôi sẽ nói," Bishop đáp chân thành. "Chúng tôi chỉ quan tâm đến việc truy tìm kẻ này thôi."

    "Tên hắn là gì?" McGonagle hỏi.

    "Có thể hắn dùng tên Warren Gregg."

    "Không gợi lên điều gì cả."

    "Hắn có rất nhiều tên."

    McGonagle bước vào một văn phòng nhỏ và đi đến tủ tài liệu, kéo cánh tủ ra. "Ông có biết ngày tháng không? Ngày giao hàng ấy?"

    Bishop ngó vào sổ tay. "Chúng tôi nghĩ là vào ngày hai mươi bảy tháng ba."

    "Để xem nào..." McGonagle chăm chú nhìn vào tủ, bắt đầu lục lọi.

    Wyatt Gillette không thể nhịn cười thầm. Thật là khôi hài khi một công ty cung cấp máy tính lại lưu hồ sơ vào tủ. Một thứ không liên quan máy tính. Hắn vừa định nói thầm điều này với Bishop thì tình cờ nhìn thấy bàn tay trái của McGonagle, đang đặt trên tay cầm của ngăn tủ hồ sơ.

    Những ngón tay đó, rất vạm vỡ, đầu ngón tay bè ra và như bị bịt bởi một lớp chai tay vàng khè.

    Móng tay của một hacker...

    Nụ cười của Gillette biến mất và toàn thân hắn cứng đờ. Bishop nhận ra điều này và nhìn hắn chằm chằm. Tay hacker chỉ vào ngón tay của mình, rồi ra hiệu về phía bàn tay của McGonagle. Bishop cũng đã nhìn thấy.

    McGonagle nhìn lên, bắt gặp đôi mắt kinh ngạc của Bishop.

    Có điều tên ông ta, tất nhiên, không phải là McGonagle. Bên dưới bộ tóc nhuộm màu xám, những nếp nhăn giả, cặp kính, miếng độn thân, chính là Jon Patrick Holloway. Những mảnh ghép lướt qua trong đầu Gillette như một bản viết phần mềm: Joe McGonagle là một nhân dạng khác của hắn. Công ty này là một trong những bình phong của hắn. Hắn đã hack vào dữ liệu kinh doanh của bang và tạo ra một công ty hoạt động mười lăm năm và biến bản thân hắn, và có thể cả Stephen Miller, thành đồng sở hữu. Biên lai mà họ tìm thấy là của một linh kiện mà Phate đã mua, chứ không phải là bán.

    Không một ai cử động.

    Rồi...

    Gillette thụp xuống, Phate nhảy lùi lại, lôi khẩu súng của hắn từ trong ngăn kéo tủ ra. Bishop không kịp rút súng, ông chỉ đơn giản là nhảy về phía trước và giáng một đòn vào tên sát nhân, khiến vũ khí rơi khỏi tay hắn. Bishop đá nó sang một bên trong khi Phate chụp lấy cánh tay thuận của viên cảnh sát và tóm lấy cái búa đang nằm trên nắp một thùng gỗ. Hắn bổ mạnh nó xuống đầu Bishop. Một tiếng ụych khủng khiếp vang lên.

    Viên thám tử thở hắt ra rồi ngã sụp xuống. Phate lại bồi thêm một cú vào phía sau đầu Bishop, rồi buông chiếc búa và chộp lấy khẩu súng trên sàn nhà.


  11. #40
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 40
    Theo bản năng, Gillette lao bổ về phía trước, tóm lấy cổ áo và cánh tay Phate trước khi hắn kịp chộp được khẩu súng.

    Tên sát nhân liên tiếp vung nắm đấm vào mặt và cổ Gillette nhưng khoảng cách giữa hai người quá gần nên đòn đánh không gây ra thương tích gì.

    Cả hai vật lộn, lăn sang một phòng khác, ra khỏi văn phòng và dừng lại ở một khu vực rộng - một phòng máy chủ, giống như ở trụ sở CCU.

    Bài tập ngón tay mà hắn đã luyện suốt hai năm qua khiến Gillette ghì chặt được Phate nhưng tên giết người rất khỏe nên Gillette cũng không giành được lợi thế. Giống như những đô vật, họ vật lộn trên sàn nhà. Gillette liếc nhìn xung quanh, tìm kiếm một thứ vũ khí. Hắn kinh ngạc trước bộ sưu tập máy tính và linh kiện cổ nơi này. Toàn bộ lịch sử của ngành máy tính được tái hiện.

    "Chúng tao biết hết rồi, Jon," Gillette thở gấp nói. "Chúng tao biết Stephen Miller là Shawn. Chúng tao biết những kế hoạch, những mục tiêu của mày. Mày không đời nào thoát khỏi đây đâu."

    Nhưng Phate không đáp lại. Gầm gừ, hắn ghì Gillette xuống sàn nhà, tay lần tìm một chiếc xà beng gần đó. Nghiến răng dùng hết sức lực, Gillette kéo Phate xa khỏi cây xà beng.

    Trong vòng năm phút, hai hacker tung cùi chỏ vào nhau, càng lúc càng thấm mệt. Rồi Phate vùng ra được. Hắn đến chỗ cây xà beng và tóm lấy nó. Hắn lại chỗ Gillette, kẻ đang tuyệt vọng tìm vũ khí cho mình. Hắn nhìn thấy một hộp gỗ cũ kĩ đặt trên chiếc bàn gần đó và mở nắp, rồi lôi những thứ bên trong ra.

    Phate đó người đứng chôn chân tại chỗ.

    Gillette đang giữ trong tay một thứ trông giống như một bóng đèn thủy tinh kiểu cổ - nó là một ống triôt kiểu sơ khai, tiền thân của đèn chân không, và nói một cách dễ hiểu, chính là con chip Silicon của máy tính.

    "Không!" Phate gào lên, giơ tay ra. Hắn thì thầm, "Xin hãy cẩn thận với nó!"

    Gillette lùi về phía căn phòng Bishop đang nằm bất tỉnh.

    Phate chầm chậm tiến đến, chiếc xà beng trong tay như thể cây gậy bóng chày. Hắn biết là nên đánh vào đầu hoặc cánh tay Gillette, hắn có thể dễ dàng làm thế, nhưng hắn không thể làm gì gây nguy hiểm cho món đổ cổ mỏng manh kia.

    Đối với hắn, những chiếc máy tính quan trọng hơn cả con người. Cái chết của một con người không là gì cả, nhưng một ổ đĩa bị hỏng quả là bi kịch.

    "Cẩn thận," Phate thì thầm. "Xin cẩn thận."

    "Bỏ xuống!" Gillette quát, ra hiệu về phía chiếc xà beng.

    Kẻ giết người định vung tay ra đòn, nhưng cuối cùng ý nghĩ làm hại chiếc bóng thủy tinh mong manh dễ vỡ kia đã ngăn hắn lại. Gillette dừng tay, ước đoán khoảng cách phía sau rồi tung chiếc ống chân không về phía Phate. Hắn hốt hoảng gào lên và vứt chiếc xà beng để cố găng bắt được món đồ cổ. Nhưng chiếc ống đập xuống sàn nhà và vỡ tan tành.

    Khóc rống lên, Phate khuỵu chân xuống.

    Gillette bước thật nhanh vào căn phòng nơi Bishop đang nằm hơi thở yếu ớt và đầy máu me, Gillette tóm lấy khẩu súng của ông. Hắn bước ra và chĩa súng vào Phate, kẻ đang nhìn những mảnh vỡ của món đồ như thể một người cha nhìn nấm mồ của con mình. Gillette thực sự choáng vì biểu hiện đau khổ tột cùng của hắn, nó còn khiến Gillette ớn lạnh hơn cả cơn hung hăng dữ tợn của Phate vừa mới đây thôi.

    "Lẽ ra mày không nên làm thế, kẻ giết người lầm bầm một cách cay độc, lấy tay áo lau đôi mắt đỏ vằn và từ từ đứng dậy. Dường như hắn thậm chí không nhận ra Gillette đang cầm khẩu súng.

    Phate nhặt chiếc xà beng lên và tiến về phía trước, rú lên một cách man rợ.

    Gillette co rúm người, nâng khẩu súng lên và chuẩn bị bóp cò.

    "Không!" Giọng phụ nữ gào lên.

    Gillette giật bắn mình. Hắn nhìn lại đằng sau và thấy Patricia Nolan đang chạy vào phòng máy chủ, túi laptop đeo bên vai và trong tay cầm thứ gì đó trông giống như một chiếc đèn pin màu đen. Phate cũng sững người lại vì sự xuất hiện đầy thị uy của cô.

    Gillette vừa định hỏi làm thế nào cô đến được chỗ này, và tại sao, thì cô ta đã dí vật hình trụ đen ngòm kia vào cánh tay có hình xăm của hắn. Cây gậy đó, hóa ra không phải là một chiếc đèn pin. Gillette nghe tiếng điện nổ lách tách, và thấy thứ ánh sáng màu vàng xám lóe lên, rồi một cơn đau khủng khiếp quét từ hàm xuống lồng ngực hắn. Thở dốc, hắn khuỵu xuống, khẩu súng rơi trên nền nhà.

    Hắn nghĩ: Mẹ kiếp, lại sai rồi! Stephen Miller không phải là Shawn.

    Hắn mò mẫm tìm khẩu súng nhưng Nolan đã chạm chiếc kìm kích điện vào cổ hắn và bấm cò một lần nữa.


Trang 4 / 5 ĐầuĐầu ... 2345 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-18-2019, 02:09 PM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-22-2019, 12:11 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 07-27-2017, 12:44 AM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-09-2016, 02:52 PM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-16-2015, 01:45 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •