Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tuổi trẻ là tuổi không ngại ngùng gì cả và không ghi ngờ gì cả.
Susanna March
Trang 3 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối
Results 21 to 30 of 34

Chủ Đề: Ly Rượu Pha Vội

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Ly Rượu Pha Vội

    Ly Rượu Pha Vội

    Tác giả :James Patterson & Howard Roughan

    Dịch Giả Thanh Vân





    Giới thiệu

    Cuốn tiểu thuyết “Ly rượu pha vội” của James Patterson có đầy đủ yếu tố hành động, hồi hộp, ly kỳ và lãng mạn.

    Laurent Stillman là một cảnh sát thành đạt, có một cuộc sống hôn nhân tuyệt vời “là một cặp vợ chồng yêu nhau đến rồ dại và là những người bạn thân thiết nhất, là những người có thể chết cùng nhau như Romeo và Juliet”.

    Khi tình cờ thấy chồng đi cùng một người phụ nữ khác, Laurent thất vọng và thèm khát trả thù. Chấp nhận ly rượu pha vội, đêm ngoại tình duy nhất đã đẩy cuộc đời chị vào rẽ ngoặt bất ngờ, đe dọa nhấn chìm sự nghiệp, hôn nhân và cả tính mạng.

    Trong đêm hẹn hò với Scott, Laurent đã nhìn thấy Paul, chồng mình tìm đến nhà Scott và đánh nhau với anh ta. Sáng hôm sau, khi hay tin Scott đã bị giết, Laurent nghĩ là do chồng ghen tuông giết chết tình địch nên đã tìm mọi cách xóa dấu vết, ngăn cản cuộc điều tra của đồng đội.

    Nhưng cô không ngờ, người mà mình quan hệ để trả đũa chồng lại là một cảnh sát biến chất, đã bắt tay cùng một băng đảng tội phạm. Trong quá trình điều tra băng đảng này, Laurent phát hiện ra chồng mình có một gia đình khác và là một tên cướp sừng sỏ. Cô phải làm thế nào để thoát ra khỏi mớ bòng bong mà mình đã góp phần tạo ra?



    MỞ ĐẦU. KHÔNG AI THÍCH NGẠC NHIÊN
    Một

    Tôi biết làm Paul ngạc nhiên vì đến ăn trưa ngay tại nơi làm việc của anh trên phố Pearl là một ý nghĩ cực hay, dẫu tôi không tự nhủ như thế.

    Tôi đã đi một chuyến đặc biệt đến Manhattan và diện “bộ đồ duyên dáng màu đen” ưa thích của tôi. Trông tôi mê hồn một cách kín đáo. Không những chọn địa điểm là nhà hàng chuyên đồ nướng Mark Joseph, tôi còn mặc một trong những bộ áo Paul thích, cũng là thứ Paul thường chọn mỗi khi tôi hỏi: “Hôm nay em nên mặc gì, hả Paul?”

    Dù sao tôi đang háo hức, tôi đã hỏi Jean, trợ lý của anh để biết chắc là anh ở đó, dù tôi không báo cho cô biết về sự bất ngờ. Sau rốt, Jean là trợ lý của Paul chứ không phải của tôi.

    Lúc lượn chiếc Mini Cooper của tôi vòng vào góc phố, tôi nhìn thấy anh đang rời công sở, đi cùng một phụ nữ tóc vàng hoe trạc tuổi đôi mươi.

    Paul cúi xuống rất sát cô gái, vừa chuyện gẫu vừa cười theo cách của anh, ngay lập tức tôi cảm thấy khó chịu.

    Cô ta có vẻ đẹp rạng rỡ, sáng ngời rất dễ gặp ở Chicago hoặc thành phố Iowa. Cao, mái tóc bạch kim mượt mà. Nước da màu kem trông từ xa đã thấy hoàn hảo. Không một nếp nhăn hoặc khiếm khuyết.

    Tuy vậy, cô ta không hoàn toàn trọn vẹn. Cô dẫm phải tà váy trên phiến đá lát đường lúc cô và Paul sắp bước vào taxi, và khi tôi quan sát Paul lịch sự nắm lấy lớp casơmia hồng trên khuỷu tay gầy gò của cô, tôi cảm thấy như bị ai đó táng một đòn lạnh buốt vào giữa ngực.

    Tôi đi theo họ. Vâng, tôi nghĩ đi theo còn quá lịch sự. Tôi lén theo họ.

    Suốt dọc đường đến Midtown, tôi cắn đuôi chiếc taxi đó giống như chúng tôi nối với nhau bằng một móc kéo. Khi chiếc taxi đột ngột đỗ lại trước lối vào khách sạn St. Regis, phố 55 Đông, Paul cùng cô gái bước ra và mỉm cười, tôi cảm thấy bừng bừng như có một con thằn lằn chạy suốt từ não thẳng xuống bàn chân phải của tôi, rồi lơ lửng trên chân ga. Sau đó, Paul khoác cánh tay cô ta. Hình ảnh hai người xen vào giữa các bậc đằng trước của khách sạn nhiều tầng và mui chiếc xe Mini màu xanh cứ lóe sáng trong trí tôi.

    Rồi hình ảnh ấy biến mất và họ đã đi rồi, tôi vẫn ngồi đó mà khóc cùng tiếng còi inh ỏi của những chiếc taxi xếp hàng sau xe tôi.

    Hai

    Tối hôm ấy, thay vì bắn Paul lúc anh đi qua cửa, tôi đã cho anh một cơ hội. Thậm chí đợi đến lúc ăn tối, tôi mới nói về chuyện diễn ra trong giờ ăn trưa tại khách sạn St. Regis ở Midtown.

    Có thể sẽ có vài lời giải thích hợp lý. Tôi chưa biết sẽ là gì, nhưng tôi đã thấy trong lời nói một dấu hiệu nho nhỏ Những điều kỳ diệu sẽ xảy ra.

    - Paul, - tôi bình thản nói. - Bữa trưa nay anh ăn gì? Câu đó làm anh chú ý. Dẫu tôi cúi đầu xuống làm như chăm chú ăn, tôi cảm thấy đầu Paul giật nảy lên, anh giương mắt nhìn tôi.

    Rồi sau một lúc bối rối, anh nhìn lại đĩa của mình.

    - Ăn bánh mì kẹp tại bàn, - anh lẩm bẩm. - Như thường lệ. Em biết tính anh rồi, Lauren.

    Paul nói dối, nói toẹt vào mặt mình.

    Con dao của tôi buông rơi, bắn khỏi đĩa như tiếng cồng. Sự hoang tưởng đen tối nhất tràn ngập người tôi. Những trò ngu xuẩn chẳng giống tôi tí nào.

    Biết đâu công việc của anh cũng chẳng có thật, tôi nghĩ. Có khi anh đã bịa ra phần in sẵn trên đầu các bức thư, và từ ngày phản bội tôi, anh đến khu thương mại hàng ngày. Làm sao tôi biết được các đồng nghiệp của anh? Có khi họ là các diễn viên đóng thuê bất cứ khi nào tôi có ý định ghé qua.

    - Sao em hỏi thế? - cuối cùng Paul nói, cũng bình thản như thế. Nó làm tôi đau đớn. Gần như lúc nhìn thấy anh đi cùng cô gái tóc vàng lộng lẫy ở Manhattan.

    Gần như thôi.

    Tôi không biết làm thế nào mỉm cười được với anh, với cơn bão cấp năm đang gầm réo trong tôi, nhưng dù sao tôi cũng cố kéo các cơ má căng lên phía trên.

    - Chỉ nói chuyện thôi mà, - tôi nói. - Chỉ nói chuyện với chồng trong bữa ăn thôi.



    PHẦN MỘT. LY RƯỢU PHA VỘI<

    Chương 1
    Đêm hôm ấy, cái đêm điên rồ, điên rồ ấy, ở phía nam Major Deegan và càng gần đến Triborough xe cộ càng đông đúc.

    Tôi không biết vì sao mắt tôi giật mạnh hơn lúc chúng tôi bò qua khoảng cách - tiếng còi của các ôtô khác ùn tắc ở cả hai chiều quanh chúng tôi hay tiếng nhạc Tây Ban Nha inh ỏi trong xe chúng tôi.

    Tôi đang đến Virginia dự một hội thảo tìm kiếm việc làm.

    Paul tiếp xúc với người nào đó cho một trong những khách hàng quan trọng nhất của hãng ở Boston.

    Cuộc dạo chơi duy nhất trong tuần này của chúng tôi, cặp vợ chồng Stillwell hiện đại, giỏi chuyên môn, mạnh dạn là cùng đến sân bay LaGuardia.

    Ít ra tôi cũng được ngắm nhiều phong cảnh tuyệt vời của Manhattan bên ngoài cửa xe. Thành phố New York dường như càng tráng lệ hơn ngày thường với những toà tháp bằng kính và thép sáng rực, nổi bật trên nền trời đầy mây đen ngòm khi cơn bão đang đến gần.

    Nhìn đăm đăm ra ngoài, tôi nhớ đến căn hộ xinh xắn ở Upper West Side mà Paul và tôi đã ở trước kia. Những ngày Chủ nhật ở Guggenheim Bảo tàng Mỹ thuật do anh em nhà công nghiệp và hảo tâm Guggenheim thành lập năm 1939 ở New York. hoặc MOMA 1 ; những quán ăn Pháp rẻ tiền, khiêm tốn ở NoHo; vang trắng Pháp để lạnh ở "sân sau", phòng làm việc của chúng tôi ở cửa thoát hiểm trên tầng bốn. Mọi thứ lãng mạn chúng tôi đã làm trước khi cưới, khi cuộc sống của chúng tôi còn chưa ổn định và vui tươi.

    - Paul, - tôi nói gấp gáp, gần như buồn bã. - Paul à?

    Paul là một "anh chàng quyến rũ", nên tôi có thể mạnh dạn viết rằng những chuyện xảy ra giữa chúng tôi là không thể tránh được. Khi ta già dặn hơn chút ít, có khi hoài nghi hơn, dứt khoát là tuần trăng mật đang đến hồi kết. Nhưng còn Paul và tôi? Chúng tôi khác chứ.

    Chúng tôi là một trong những cặp vợ chồng yêu nhau đến rồ dại, là những người bạn thân thiết nhất. Là những bạn tình hãy-để-chúng tôi-được-chết-cùng- lúc như Romeo và Juliet. Paul và tôi đã yêu nhau say đắm như thế, và không phải chỉ là những kỷ niệm chọn lọc cẩn thận. Chúng tôi vốn là như thế.

    Chúng tôi gặp nhau khi là sinh viên năm thứ nhất ở trường Luật Fordham. Chúng tôi cùng học và ở cùng nhóm hoạt động xã hội nhưng chưa thực sự chuyện trò. Tôi chú ý đến Paul vì anh rất điển trai. Anh hơn phần lớn chúng tôi vài tuổi, chăm chỉ hơn, nghiêm túc hơn. Tôi không thể tin nổi anh lại đồng ý xuống Cancún 2 với cả nhóm.

    Đêm trước khi chúng tôi bay về nhà, tôi quyết chống lại bạn trai hồi đó và ngẫu nhiên ngã vào một trong những cửa kính của khách sạn, cánh tay bị rách. Lúc bạn trai tôi tuyên bố anh ta "không thể làm gì được", Paul không biết từ nơi nào tới và nhận ngay việc đó.

    Anh đưa tôi đến bệnh viện và ở lại bên giường tôi. Trong khi đó, những người khác vội bay về nhà để không bị lỡ học.

    Tôi nhớ lại lúc Paul bước qua cửa phòng bệnh của tôi ở Mexico, tay bưng bữa sáng, cốc sữa đá thơm nức hương liệu và quyển tạp chí, trông anh mới duyên dáng làm sao, với mắt xanh thăm thẳm, những lúm đồng tiền xoáy sâu và nụ cười chết người.

    Lúm đồng tiền, cốc sữa lạnh và trái tim tôi.

    Từ lúc đó đã xảy ra những gì? Tôi không hoàn toàn biết chắc. Tôi cho rằng chúng tôi đã rơi vào lối mòn của nhiều cuộc hôn nhân hiện đại. Cả hai ngập đầu ngập cổ vì sự nghiệp khắt khe, tách rời nhau, chúng tôi trở nên gay gắt vì những nhu cầu và thiếu thốn cá nhân mà quên bẵng một điều: chúng tôi cần dành cho nhau trước tiên.

    Tôi vẫn căn vặn Paul về người phụ nữ tóc vàng tôi thấy đi cùng anh ở Manhattan. Có lẽ vì tôi không sẵn sàng ra ngoài ăn cùng Paul. Đương nhiên, tôi chưa biết chắc anh có ngoại tình không. Có lẽ vì tôi sợ đoạn kết của chúng tôi. Tôi biết Paul từng yêu tôi. Còn tôi yêu Paul bằng cả tâm hồn.

    Có lẽ tôi vẫn còn yêu như thế. Có lẽ.

    - Paul, - tôi lại gọi.

    Ở ghế bên kia của taxi, anh quay lại khi nghe thấy tiếng tôi. Tôi cảm thấy như lần đầu tiên anh chú ý đến tôi trong nhiều tuần nay. Mặt anh có vẻ ăn năn, gần như buồn bã. Anh bắt đầu hé miệng.

    Đúng lúc đó chuông điện thoại di động của anh reo. Tôi chợt nhớ anh đặt nhạc chuông bài Mối tình đồi bại như một trò chơi khăm. Trớ trêu thay, bài hát ngớ ngẩn trước kia chúng tôi từng khiêu vũ say sưa và hạnh phúc giờ lại thật đúng để miêu tả cuộc hôn nhân của chúng tôi.

    Nhìn chăm chăm vào điện thoại, tôi cân nhắc ý nghĩ chộp lấy nó khỏi bàn tay anh và ném ra ngoài cửa sổ xe, qua dây cáp cầu xuống dòng sông Đông.

    Một vẻ đờ đẫn quen thuộc lướt qua mắt Paul sau khi anh nhìn số máy gọi đến.

    - Anh phải nhận cú điện này, - anh nói và mở điện thoại.

    Tôi thì không, Paul ạ, tôi nghĩ lúc Manhattan lướt qua cửa xe chúng tôi.

    Nó đấy, tôi nghĩ. Giọt nước tràn ly. Anh đã phá hoại mọi thứ giữa chúng ta còn gì?

    Ngồi trong chiếc taxi đó, tôi mường tượng chính xác nơi anh nhắc đến.

    Khi bạn không còn chia sẻ một buổi hoàng hôn cùng nhau.

    --------------------------------
    1 MOMA: Bảo tàng Mỹ thuật Hiện đại ở New York (Các chú thích của người dịch).
    2 Cancún: Khu nghỉ dưỡng trên bờ biển Đông Bắc Quintana Roo, Mexico.

  2. #21
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 65
    Tôi đứng đó, im lìm, chết điếng. Paul không hủy hoại gì hết.

    Đó là tôi. Tôi đã làm mọi việc tan tành.

    Cuộc nói chuyện bị cản trở ngay trong bữa tối dự định của tôi. Tôi đã chuẩn bị nhắc lại những cuộc tình cũ của chúng tôi để Paul và tôi bỏ qua.

    Trừ việc tôi là người duy nhất ngoại tình!

    Tôi vẫn đứng, choáng váng, mặt tôi đông cứng lại. Paul cười phá lúc anh nắm chặt bàn tay tôi.

    - Anh biết đây là một quả bom, - anh nói. - Anh chỉ yêu em thôi. Thực lòng, anh coi Vicky chỉ là chuyện tào lao. "Này, anh có muốn đến làm việc với số lương gấp đôi không?" cô ta nói. Vậy ông chồng thông minh của em làm gì nào, anh cũng đùa lại rằng nếu họ trả lương gấp ba, họ sẽ có một cuộc thỏa thuận.

    Sáng hôm ấy, Vicky gọi cho anh báo tin vui. Mọi sự đã thông qua, đang chờ làm hồ sơ! Vấn đề duy nhất là chúng ta phải chuyển nhà. Đến Greenridge, Connecticut! Dường như chuyển từ Yonkers đến vùng quý phái kia là cả một vấn đề. Họ sẽ di chuyển hộ chúng ta. Bán nhà chúng ta và cho chúng ta mua nhà mới với khoản thế chấp lãi suất thấp. Đây là hồ sơ. Thử hình dung xem! Một người đi làm, một đứa con, một ngôi nhà mới có đủ phòng nuôi trẻ. Giấc mơ vật chất kiểu Mỹ. Đây là sự thay đổi chúng ta đang mong, Lauren.

    Đầu tôi quay tít như cái máy đang xay nước đá. Tôi không thể tin nổi. Không chỉ vì tôi là kẻ duy nhất lừa dối...

    Chúng tôi vừa trúng xổ số?

    Tôi ngồi chìm vào trong ghế như một võ sĩ quyền Anh sau vòng đấu rất gay go.

    - Anh thích thế, Lauren. Anh đã thực sự cướp phần ăn nói của em, - Paul nói và cười to. - À mà em định nói chuyện gì với anh?

    Có thể tôi sắp thất bại cả trái tim lẫn trí óc, nhưng tôi không phải là đứa ngốc.

    Tôi quyết học cách sống với cuộc tình bí mật của mình. Nhất là từ lúc tôi phát hiện ra tôi là kẻ duy nhất ngoại tình.

    - À vâng, - tôi cố lẩm bẩm. - Anh thích ăn cơm hay món nhồi?


    Chương 66
    Đêm hôm ấy, lần đầu tiên Paul và tôi làm tình từ khi tôi có thai. Tôi lao vào tắm rửa sạch sẽ và như hồi sinh nhờ những tiết lộ mới nhất của anh. Lúc đang gấp quần áo, tôi vớ được bộ đồ lót màu đen tôi đã cố rủ rê Paul trong buổi chiều trước khi câu chuyện điên rồ này bắt đầu.

    Chưa kịp hiểu mình làm gì, tôi đã cởi tuột quần jeans và chui vào bộ đồ lót đẹp nhất. Thậm chí chẳng có một chút băn khoăn nào về mặt tinh thần khi tôi ngắm hình ảnh gợi cảm của mình trong tấm gương buồng tắm. Ngực tôi đầy đặn hơn, chao ôi, tuyệt quá!

    Nhìn vẻ mặt sững sờ của Paul lúc tôi bước vào phòng ngủ, tôi hiểu anh cũng nghĩ thế. Tờ Wall Street Journal anh đang đọc tuột khỏi các ngón tay anh hết trang này đến trang khác, cho đến lúc chỉ còn lại không khí.

    - Hay tuyệt. Trông cứ như anh sắp ghi nợ hai lần trong một ngày vậy, chàng cao bồi, - tôi nói và xé toạc trang trên cùng, ném tờ báo tài chính bay vèo. Nó hầu như là sự vuốt ve kích thích mở đầu của chúng tôi.

    Tôi không biết cái gì ngự trị trong tôi. Có thể do hormone chăng? Sao lại không kia chứ? Trên giường, tôi đòi hỏi và rất cụ thể. Ban đầu, trông Paul khá sửng sốt. Không phải Paul không tuân theo từng mệnh lệnh. Ngoan ngoãn và sửng sốt.

    Tôi cảm thấy một cảm giác nguyên sơ choán giữ tôi, và tôi để mặc. Đó chẳng phải là một trong những giá trị lớn của tình dục sao? Chúng tôi giật tung quần áo, gạt bỏ những ngăn cản, những trở ngại của lề thói xã hội. Hàng ngàn năm văn minh - có đúng, có sai - bị quẳng tuốt ra ngoài cửa sổ và chúng tôi không lại hoàn không. Sex là sự thật dưới mọi dối trá. Chúng ta đang sống, nó hét lên như thế!

    Trước lúc đạt đến cực khoái, tôi mở mắt nhìn đăm đắm vào gương mặt điển trai của Paul ở trên tôi. Tôi nhìn thẳng vào cặp mắt xanh như thép, sáng ngời của anh và chợt hiểu.

    Đây là một nghi thức.

    Chúng tôi đã chiếm lại được nhau.

    Chương 67
    - Lạy Chúa tôi, Lauren, - sau đó, Paul nói và phập phồng như một con đom đóm cạnh tôi. - Em làm sao thế? Bộ ngực em nữa?

    - Em biết, - tôi nói và đùa cợt ghìm anh vào ngực. - Giờ kể cho em biết câu đùa về việc tăng lương gấp ba của anh đi.

    - Câu đùa thực sự hóa ra không phải là đùa, - Paul nói lúc anh đăm đăm nhìn lên trần. - Nó như thế nào nhỉ? Một hôm, bạn rơi vào tình cảnh vô vọng, vật lộn sống còn. Lúc đó, bỗng Bùm! Con tàu cứu hộ đến. Mà lại hai con tàu một lúc.

    Anh lật người và hôn lên bụng tôi.

    - Gượm đã. Chúng ta chưa nghĩ đến chuyện đặt tên cho con. Anh thử nghĩ xem nào?

    - Emmeline, - Paul nói. - Anh biết là nghe hơi Hoàng tộc Ăng lê, nhưng nó chỉ cần có vẻ vương giả bằng nửa mẹ nó thôi cũng cần phải có một cái tên cho xứng. Ngoài ra, nó phải đặt được một chân vào cuộc thi hoa hậu, cược trước một ngàn đô đấy.

    - Nghe như anh đang nghĩ đến việc này vậy. Nhưng có thể là con trai lắm chứ, - tôi nói.

    - Hừm, - Paul nói. - Xem nào. Melvin nghe kêu đấy, em thấy sao? Anh luôn thiên về cái tên Cornelius. Gọi nó là Corny 1 cho ngắn.

    Tôi cù dưới cánh tay Paul cho đến lúc anh phải ngồi dậy:

    - Anh mới cổ lỗ sĩ, đồ phá quấy.

    - Này, anh chỉ nghĩ món quà Trời cho tuyệt vời nhất này sắp đến với chúng ta. - Paul nói. - Anh nói nghiêm túc đấy. Cuối cùng thì em cũng có thể bỏ cái nghề vất vả của em được rồi.

    Tôi nhìn anh chằm chặp. Paul luôn ủng hộ sự nghiệp của tôi. Anh có nghiêm túc không đấy?

    - Anh biết nghề cảnh sát đối với em có ý nghĩa ra sao, và trước kia anh chưa bao giờ động đến, - anh nói. - Nhưng, em này. Giờ giấc. Mùi xác chết. Em có biết đôi khi em về nhà với bộ dạng như thế nào không? Trời ạ, anh ghét nghề ấy. Nói thật, anh luôn luôn ghét. Nó lấy đi của em quá nhiều.

    Tôi đăm đăm nhìn vào khoảng không, nhớ tới cuộc đối đầu gần đây với Mike Ortiz. Có lẽ Paul đúng. Tôi yêu công việc của tôi, nhưng gia đình quan trọng hơn. Trong tuần qua, tôi đã chứng minh điều đó rất chắc chắn.

    - Có lẽ anh đúng, - cuối cùng, tôi nói. - Đây là điều chúng ta thường mơ ước. Anh, em và con sống cùng nhau. Giờ nó đến rồi. Chỉ...có vẻ siêu thực quá. Anh có nghĩ thế không?

    - Em là vũ trụ của anh, - Paul nói, mắt anh ngân ngấn nước. - Em luôn là thế, Lauren ạ. Đây chỉ là gợi ý thôi. Anh sẽ làm bất cứ điều gì em muốn. Đi. Ở. Anh sẽ bỏ việc, nếu em muốn.

    - Ôi Paul, - tôi nói và lau nước mắt cho anh. - Con tàu của chúng ta thực sự đến rồi, phải không anh?

    --------------------------------
    1 Ủy mị, cổ lỗ sĩ.


    Chương 68
    Sáng hôm sau, khi bước vào phòng của đội, tôi thấy bàn của Mike vắng ngắt. Lúc tôi hỏi sếp Mike đâu, ông nhắc tôi về hai tuần nghỉ phép bắt buộc với các cảnh sát liên quan đến một vụ bắn súng.

    Lúc ngồi xuống, tôi cảm thấy đau nhói, có lỗi vì những lời đã nói với Mike. Sao lại có thể thế kia chứ? Mike bị tổn thương quá mức cả về tâm lý lẫn cảm xúc, còn tôi đã đi quá xa và dọa dẫm anh. Tôi là một cộng sự như thế. Một người bạn như thế.

    Tôi đu đưa trên ghế, nhìn khắp các bức tường màu xám của văn phòng đội. Thế là tôi sắp ra đi. Gần như điên rồ, sau những việc tôi đã làm ở đây. Tôi nhớ tôi đã bị dọa dẫm như thế nào khi nhận được phân công công tác. Đội Điều tra các vụ giết người Bronx là một trong những đội bận rộn nhất và nổi tiếng nhất trong ngành, và tôi không chắc có đóng góp được gì không.

    Nhưng tôi đã làm được. Tôi đã hoàn thành nhiều công việc khó khăn nhờ sự can đảm và trung thực.

    Trường đại học Spanish đã giành một chỗ ngon lành cho tôi ở đây, và tôi đã cố gắng làm trọn.

    Nhưng tôi biết mọi việc tôi làm bây giờ hầu như đã hết. Lúc ngồi đó, tôi cảm thấy thế. Hoặc thực ra là không thể cảm thấy. Chỉ có niềm vui thuần khiết là một trong những người trung thực mới giữ được bạn làm cảnh sát. Đấy chính là điểm mà các bộ phim thường làm sai. Phần lớn các cảnh sát tôi biết đều là người tốt. Là những người ưu tú nhất.

    Nhưng với mọi việc xảy ra, tôi đã phí phạm cảm giác đó. Người tốt không gian lận. Người tốt không dối trá.

    Paul đúng, tôi vừa nghĩ vừa bật máy tính.

    Giờ đây, tôi là người xa lạ ở chốn này. Tôi không còn liên quan gì nữa.

    Đây là lúc ra đi, trước khi xảy ra thêm việc gì đó.






  3. #22
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 69
    Tôi lấy hồ sơ của Scott ra và trong gần một giờ, tôi đọc lại các báo cáo tôi viết, từng cái một. Rồi tôi định đọc lại lần nữa.

    Tin tôi có thai và vận may của Paul là cái cớ cho tôi xin nghỉ hưu sớm, nhưng sẽ có một số cặp lông mày hoài nghi nhướn cao. Dứt khoát là những anh chàng IAB. Trước khi chính thức xin nghỉ, tôi cần chắc chắn gấp ba cho vỏ bọc của mình. Chưa kể những dấu vết của tôi. Và của Paul.

    Tôi bận rộn mất bốn mươi phút vào việc giấy tờ thì trung úy ra khỏi phòng làm việc, mang cái máy cắt khóa và một hộp các tông. Ông quẳng đánh sầm cả hai thứ lên bàn tôi.

    - Tôi vừa nhận được điện thoại của sếp phó, - ông nói. - Brooke, vợ Scott đề nghị cử ai đó dọn hết các thứ trong tủ Scott và mang đến nhà cho cô ấy. Cô là người được chọn.

    Trời ạ, cứ làm như tôi muốn gặp lại Brooke Thayer lần nữa. Lại phải đầm mình vào sự tàn phá mà tôi đã gây ra cho gia đình đó.

    - Còn những người khác trong đội đặc nhiệm của anh ấy? - Tôi nói. - Nhỡ Roy, cộng sự của Scott thích làm việc này?

    Sếp tôi lắc đầu.

    - Còn ông thì sao, thưa sếp? - Tôi nói. - Có khi ông ra khỏi văn phòng lại tốt. Hưởng ít nắng trời.

    Keane nghiêng vầng trán khắc kỷ của người Ireland về phía tôi.

    - Cảm ơn cô quan tâm đến sức khỏe của tôi, - ông nói, - vợ Scott đề nghị dành riêng việc này cho cô.

    Tôi gật đầu. Lẽ tất nhiên cô ta sẽ phải thế. Tôi cũng không nghĩ sẽ dễ dàng thoát được việc này.

    - Thế nào? Làm xong, cô sẽ nghỉ nốt phần ngày còn lại, - sếp tôi nói. - Nếu cô muốn biết ý kiến của tôi, thì dù sao tôi vẫn thấy cô trở lại đi làm quá sớm. Ai mà biết được mấy gã IAB có thể trở lại vào lúc nào. Nếu tôi là cô, tôi sẽ lấy cớ hoa mắt chóng mặt để nghỉ thêm ít nhất là một tuần nữa.

    - Xin tuân lệnh, thưa sếp, - tôi nói và đứng nghiêm chào.

    Tôi không biết vì sao, nhưng tôi sẽ nhớ Keane. May mắn thay, tầng hai của Đội Đặc nhiệm chống ma túy vắng tanh. Hay quá, tôi nghĩ lúc trở lại phòng thay quần áo và cắt Master Lock của Scott bằng máy cắt. Tôi bắt đầu hiểu vì sao cảnh sát khiến dân chúng căng thẳng. Nhất là người có tội.

    Tủ của Scott không có gì nhiều. Tôi lấy bộ đồng phục dự trữ, hai hộp đạn 38 ly, một áo chống đạn Kevlar. Sau một cái dùi cui đầy bụi, tôi tìm thấy một lọ nước hoa Le Male của hãng Jean Paul Gaultier.

    Tôi ngoảnh nhìn để chắc chắn chỉ có mình tôi, rồi chấm nhẹ lên cổ tay. Tôi choáng váng dựa đầu vào cửa. Phải. Đây chính là thứ nước hoa Scott dùng trong đêm ở với tôi.

    Lúc nhấc đôi giày lễ phục khỏi sàn tủ, tôi phát hiện ra một phong bì dày bên dưới. Ôi, lạy Chúa!

    Tôi không bị lừa, tôi buông rơi đôi giày như chúng là những hòn than hồng.

    Tôi không muốn nhìn vào bên trong phong bì, nhưng tôi biết là phải nhìn.

    Tôi lấy đầu bút chì mở nắp phong bì. Đầy tiền, đúng như tôi ngờ. Rất nhiều. Bốn hoặc năm tập dày, toàn những đồng tiền cũ buộc dây cao su. Phần lớn là một trăm và năm chục đô, nhưng số tiền bằng tờ hai chục và mười đô cũng rất ấn tượng.

    Mười, có khi mười lăm ngàn đôla, tôi nghĩ lúc mắt trái tôi đau nhức.

    Làm sao trong tủ cá nhân của một cảnh sát chống ma túy lại có tới mười lăm ngàn đôla? Scott không tin các nhà băng? Nàng tiên răng 1 lượn nhiều vòng ư?

    Hoặc, lẽ nào, Scott là kẻ xấu? Scott là một cảnh sát tha hóa?

    - Scott, - tôi thì thầm lúc nhìn trừng trừng vào mép những đồng bạc màu xanh nhàu nhĩ, bẩn thỉu. - Tên Thánh của anh là gì vậy?

    Bây giờ tôi nên làm gì đây? Nộp số tiền này cho sếp? Quan tài Scott vừa đóng lại. Có thật cần thiết để tôi bật nắp, mở ra lần nữa? Lúc đó, tôi nghĩ ra một giải pháp đơn giản.

    Tôi nhét cái phong bì vào chiếc giày bên phải và cho vào trong hộp.

    Nếu Brooke muốn mở hộp xua gián, nhậy, thì sẽ thấy, tôi nghĩ lúc đóng sập tủ lại. Nó là của cô ấy, chứ không phải của tôi.

    Phanh phui những sự thực bẩn thỉu chắc chắn không còn là việc của tôi nữa.

    --------------------------------
    1 Trong truyện cổ tích, nàng tiên mỗi lần lấy đi một cái răng sữa lại để một món tiền hoặc quà dưới gối cho trẻ em.

    Chương 70
    Mất gần một giờ xe nọ nối đuôi xe kia, tôi mới đến được nhà Brooke ở Sunnyside.

    Tôi đỗ chiếc xe cảnh sát cạnh ôtô khác cho đỡ bị chú ý, rồi đi bộ đến cửa trước, với đồ lề của Scott trong tay. Chuyến thăm này chắc chắn là không dễ chịu gì, nhưng tôi quyết thực hiện ngắn gọn hết mức cho phép. Sau khi bấm chuông, tôi chú ý đến nét phấn của một đứa trẻ vẽ lá cờ Mỹ trên đường dành cho xe. Tôi bấm chuông lần thứ hai.

    Mất ba phút bấm chuông. Tôi nghĩ chắc không có người ở nhà. Tôi định để cái hộp ở cửa sau cùng thư nhắn, nhưng tôi thấy không thể tàn nhẫn với Brooke như thế. Tôi quyết định về xe Impala của tôi, ngồi và đợi, thì nghe thấy tiếng gì đó nghẹt lại, mơ hồ.

    Tiếng đó vọng ra từ trong nhà, ngay gần cửa. Cuối cùng, tôi nhận ra âm thanh. Những tiếng nức nở. Có người đang khóc trong nhà. Ôi lạy Chúa, không có việc gì chứ?

    Lần này tôi gõ cửa.

    - Chị Brooke? - Tôi gọi to. - Tôi là Lauren Stillwell. Tôi mang đồ của Scott đến. Chị không sao chứ?

    Tiếng nức nở càng to hơn. Tôi quyết định xoay nắm cửa và vào nhà.

    Brooke cuộn tròn trên cầu thang. Cô đang trong cơn sốc. Mắt cô mở to nhưng bộ mặt vô cảm. Nước mắt chảy giàn giụa trên má cô.

    Tôi hoảng hốt trong giây lát. Cô có làm hại gì bản thân không? Tôi nhìn quanh, tìm lọ thuốc ngủ rỗng. Ít nhất cũng không có máu.

    - Brooke, - tôi nói. - Có chuyện gì thế? Tôi là thám tử Stillwell. Chị có thể nói cho tôi biết được không?

    Lúc đầu tôi ngập ngừng vỗ về cô nhè nhẹ, nhưng sau một phút, tiếng nức nở lặng dần, tôi đặt cái hộp của Scott xuống và ôm cô thật chặt.

    - Thôi nào. Nín đi. Rồi sẽ ổn thôi mà. - Tôi nói. Nó chưa ổn, nhưng tôi còn biết nói gì hơn?

    Căn nhà bừa bộn đến mức chỉ những đứa trẻ lẫm chẫm mới có thể gây ra. Đồ chơi rải khắp phòng khách. Tôi quỳ xuống sàn. Mình dò xét một người đàn bà đang trong lúc thần kinh hoàn toàn suy sụp, tôi nghĩ.

    Vài phút sau, Brooke nín khóc. Cô hít một hơi thật sâu, chắc nó khiến cô dễ chịu hơn là những việc tôi làm với cô. Tôi tìm thấy hộp khăn giấy trong chạn.

    - Tôi xin lỗi, - cuối cùng, Brooke nói và cầm một cái. - Tôi đang chợp mắt trên đivăng. Tôi tỉnh giấc khi chị bấm chuông và lúc nhìn ra, tôi thấy chị mang đồ của anh ấy, thế là... giống như sự việc lại diễn ra lần nữa.

    - Tôi không thể lường hết nỗi đau của chị, - tôi nói sau một lúc ngừng lặng.

    Mái tóc vàng hoe của Brooke rối bù lúc đầu cô gục xuống.

    - Tôi không... tôi không biết vì sao tôi lại thế này, - cô nói và lại khóc. - Mẹ tôi đã đưa bọn trẻ đi, còn tôi vẫn không thể làm được gì. Tôi không thể rời khỏi nhà, không trả lời điện thoại. Tôi tưởng sau tang lễ sẽ hết kinh hoàng, nhưng giờ lại càng tệ hơn.

    Tôi cố tìm ra lời để nói, để có thể giúp cô.

    - Hay chị tham gia nhóm trị liệu tâm lý? - Tôi nói ướm.

    - Tôi không thể làm việc đó, - Brooke nói. - Mẹ chồng và mẹ kế của tôi trông nom bọn trẻ một thời gian và...

    - Tôi không phải là nhà tâm lý học, Brooke, - Tôi nói. - Nhưng có khi chị cần gặp những người cũng bị mất chồng như chị. Không ai khác hiểu được những điều chị đang trải qua. Họ đã làm thế nào? Chị đừng ngại dựa vào những người khiến chị vững vàng hơn, bạn thân mến ạ. Chị là mẹ. Chị cần tỉnh táo cho các cháu nương tựa.

    Tôi không biết Brooke có thấm được lời động viên nào của tôi không, nhưng ít ra cô cũng nín khóc, cái nhìn đã lộ vẻ chăm chú.

    - Nếu là chị, chị sẽ làm gì? - Cô nói. Cái nhìn trân trân, thất vọng của cô choán lấy tôi, ghìm chặt tôi vào tường. - Hãy cho tôi biết tôi phải làm gì. Hình như trong toàn bộ chuyện này, chị là người duy nhất thấu hiểu.

    Tôi nuốt nỗi nghẹn vào trong cổ. Brooke Thayer tin cậy vào sự chỉ bảo của tôi ư? Làm sao tôi có thể tiếp tục và đùa cợt người đàn bà này? Làm sao tôi cứ đứng đó, im thin thít về những việc thực sự xảy ra? Tôi là loại gì không biết? Hãy nói ngọn nguồn chuyện này đi.

    - Tôi sẽ đi chữa trị, Brooke ạ, - tôi nói.

    Mình đang lừa phỉnh ai đây? Tôi nghĩ. Chính mình mới là người cần liệu pháp tâm lý.

    Brooke ngước nhìn cái hộp các tông tôi mang đến.

    - Chị làm ơn mang hộ những thứ này vào phòng làm việc của Scott ở tầng hầm được không? - Cô nói. - Tôi vẫn không thể bước chân vào đó. Hiện giờ tôi vẫn chưa thể xử lý mọi thứ. Tôi sẽ đi pha cà phê. Chị uống với tôi một tách nhé, thám tử?

    Tôi những muốn nói "không". Nói thật to. Brooke và tôi là những người đàn bà cuối cùng trên Trái đất này cần gắn bó với nhau. Nhưng giống như mọi phụ nữ Mỹ gan dạ được phép lựa chọn giữa những lời đề nghị biết điều và bổn phận dính đến tội lỗi, lẽ tất nhiên tôi đồng ý.

    - Hay quá. Tôi có thể uống ít cà phê. Và tên tôi là Lauren.


    Chương 71
    Tôi chớp chớp mắt trên các bậc thang cũ kỹ, kêu cót két xuống tầng hầm nhà Thayer. Chẳng phải cuộc tình nào cũng có những ràng buộc nhất định đó sao? Tôi phải ra khỏi nơi này trước khi bị giao việc sắp xếp những bức tranh của Scott từ thời tiểu học, rồi sau đó là dọn ngăn đồ lót của anh.

    Tôi đi qua lò nước nóng và phòng giặt, cuối cùng mở cánh cửa gỗ dán đầy những tranh quảng cáo Michael Strahan 1 .

    Tôi đứng lặng trên ngưỡng cửa sau khi bật đèn. Sau tầng hầm bên ngoài tối tăm, lem luốc dầu, tôi

    tưởng sẽ bước vào một phòng làm việc điển hình của

    đàn ông dưới tầng hầm. Dụng cụ rải rác trên bàn gỗ dán. Có thể trong góc, trên chồng Sport Illustrated là một máy in kim.

    Vì thế tôi phải công nhận là khá sửng sốt khi mắt tôi no nê vì cảnh tượng không khác gì văn phòng của Don Corleone 2 trong Bố già.

    Các bức tường ốp gỗ sồi đen. Bàn kiểu cổ bằng gỗ hồng sắc trông như làm từ một con tàu cổ. Trên bàn đặt chiếc laptop Apple PowerBook 3 .

    Một đivăng da màu đen, trên tường bên phải là màn hình tivi tinh thể lỏng 42 insơ. Trên nóc giá sách thấp sau bàn, tôi đếm được ba cái điện thoại di động và một cái BlackBerry đang tải.

    Chao ôi bạn đồng ngũ, cả hệ thần kinh của tôi căng thẳng, khiếp đảm lúc tôi để cái hộp cạnh laptop. Đầu tiên là khoản tiền kếch sù trong tủ Scott, giờ là nơi ẩn náu huy hoàng này trong tầng hầm nhà anh.

    Tôi đã chọn anh chàng muôn mặt để ngủ, còn gì? Có lẽ Scott là một Người dơi trong việc nhét khoản tiền bẩn xuống dưới giày và ngủ với các cảnh sát có chồng.

    Tôi ngồi lún sâu trong chiếc đivăng da và nhắm mắt lại vài giây. Việc khám phá hang ổ điều hành của Scott khiến tôi thêm lo lắng. Liệu anh có ghi chép về cuộc hành trình anh định đến trong đêm bị giết không? Tôi thầm hình dung cuốn sổ lịch bìa da ghi Lauren 11 giờ đêm viết ngay dưới ngày anh chết. Trong các vụ giết người, nhiều sự kiện lạ lùng xảy ra.

    Tôi vội vã nhìn khắp laptop, BlackBerry và các điện thoại di động của anh, nhưng may thay, không tìm thấy tên hoặc số của tôi ở đâu.

    Xong xuôi, tôi chú ý đến một tủ đựng hồ sơ và một tủ đứng bằng kim loại trong góc trái căn phòng.

    Tôi lắng nghe tiếng chân Brooke trên cầu thang lúc tiến thẳng tới đó.

    Lẽ tất nhiên cả hai tủ đều khóa.

    Tôi lật đi lật lại cái bàn của Scott cho đến khi tìm thấy vòng đeo chìa khóa bé xíu giữa nhiều thứ trong hộp bút chì. Chìa khóa mở được tủ hồ sơ nhưng không mở được tủ đứng.

    Những ngón tay đẫm mồ hôi của tôi gần như trượt khỏi tay cầm lúc tôi mở ngăn kéo đầu tiên, nặng chịch.

    Tôi phần nào nhẹ nhõm khi thấy các giấy tờ giống như của các gia đình bình thường. Các túi hồ sơ đề "Thuế Thu nhập", "Thẻ Tín dụng", "Sửa xe", "Nha sĩ".

    - Lauren? - Tôi nghe thấy Brooke gọi từ đầu cầu thang. - Chị không sao chứ?

    Tôi mong là thế, tôi nghĩ.

    - Một phút nữa thôi, - tôi gọi trong lúc lật nhanh các tập khác. - Tôi sắp xong rồi, Brooke.

    Tôi quay người rời đi sau khi đóng ngăn kéo cuối cùng. Nhưng lúc đó, tôi lần tay vào dưới ngăn bàn trên cùng, một thói quen của cảnh sát điều tra các vụ giết người.

    Tôi tìm thấy một đĩa DVD dán cẩn thận vào mặt dưới ngăn bàn.

    --------------------------------
    1 Cầu thủ bóng đá nổi tiếng của Mỹ.
    2 Trùm mafia, nhân vật chính trong tiểu thuyết Bố già của Mario Pulzo và bộ phim nổi tiếng, cùng tên của đạo diễn Francis Ford Coppola. Diễn viên Marlon Brando giành giải Oscar Nam diễn viên xuất sắc nhất vì vai này.
    3 Một trong hai thương hiệu máy tính xách tay đầu tiên, nổi tiếng của Mỹ trong thập niên 1990.


    Chương 72
    Tim tôi như nhảy khỏi lồng ngực lúc tôi bóc đĩa DVD khỏi lớp băng dán hai mặt.

    "BẢO HIỂM" ghi bằng bút màu xanh lơ.

    Lật cái đĩa trong ánh sáng huỳnh quang, tôi thấy khía cạnh bí ẩn của Scott tăng dần và thực sự gây tò mò. Có lẽ đáng sợ là từ chính xác hơn để miêu tả.

    Bảo hiểm loại gì mà ghi vào DVD? Loại đàn ông giữ 401 ngàn đôla dưới giày có thể cần lắm, tôi tự trả lời.

    Mang nó đi hay để lại? Tôi nghĩ. Tôi nhét đĩa DVD vào xắc.

    Lúc tôi lên đến đầu cầu thang, một xe tải nhỏ màu trắng đỗ bên ngoài hiệu cà phê, cửa sổ bếp buông rèm kín mít.

    - Họ đã trở lại, - Brooke nói, vẻ thất vọng. - Taylor là một con gấu thực sự trong việc di chuyển. Tôi phải nói thật, tôi không biết mẹ Scott sẽ phản ứng ra sao khi nhìn thấy chị. Bà còn tàn tạ hơn cả tôi. Chúng ta có thể hoãn uống cà phê vào dịp khác được không?

    Có lẽ chị nên ra khỏi nhà bằng cửa trước để bà không nhìn thấy thì tốt hơn.

    - Tất nhiên rồi, Brooke, - tôi nói. Hình như cô gắng gượng lắm mới đẩy tôi ra khỏi nhà một cách lịch sự. Thế cũng là tiến bộ rồi, tôi nghĩ thế. Thực ra, cô không phải bảo tôi tới hai lần để ra khỏi cái địa ngục này.

    - Chị đừng quên tìm hiểu về trị liệu theo nhóm, - tôi gọi với lại lúc vấp phải cửa trước. - Brooke nhé?

    Chao ôi, tôi nghĩ lúc khởi động chiếc Chevy. Trị liệu theo nhóm. Tôi không biết đấy có phải là lời nói vô nghĩa, sáo mòn nhất an ủi một người tột cùng đau khổ hay không. Sao tôi không khuyên cô trị liệu bằng cách trở lại quá khứ trong khi chính tôi làm thế?

    Những lời buột ra khỏi miệng tôi chỉ là thứ muộn màng quá thể. Tôi liếc nhìn xuống đĩa DVD ăn cắp được trong xắc. Chưa kể những hành động mà tôi đã làm.

    Lốp chiếc xe cảnh sát rít trên lớp nhựa đường lúc tôi giảm truyền động.

    Tôi đã thực sự thành một ả sói cái nhẫn tâm. Và tôi căm ghét từng giây của cái việc này.





  4. #23
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 73
    Chưa đầy một giờ sau, tôi đến lối vào phía nam công viên Van Cortland ở Bronx.

    Tôi lượn một vòng chữ U lên đường vào sân golf của công viên Van Cortland, có tiếng là sân golf lâu đời nhất nước Mỹ. Tôi không mong cải thiện môn chơi tôi vốn kém cỏi, mà chỉ muốn có chút riêng tư trong bãi xe của sân, một trong những địa điểm giấu xe tuần tra của NYPD cổ nhất ở Mỹ.

    Rãnh CD/DVD trên laptop của tôi kêu như tôi nạp đạn vào khẩu Glock, lúc tôi dò dẫm đĩa DVD "Bảo hiểm" của Scott. Tôi cố không làm vỡ trong lúc vội vàng mở.

    Có khi Scott viết nhầm, tôi nghĩ sau một phút chăm chú quan sát màn hình.

    Đây không phải là bảo hiểm. Đây là giám sát.

    Một kiểu theo dõi và giám sát cổ điển rất hiệu quả, góc dưới bên phải màn hình hiện rõ 10:30 AM, 22 tháng Bảy.

    Vai chính trong bộ phim là một người đàn ông Tây Ban Nha đứng tuổi, diện mạo dễ coi, mặc sơ mi Hawaii tản bộ trên đường phố, dường như chẳng cẩn trọng gì trên đời.

    Tôi suy luận là cảnh thành phố New York khi người đó dừng lại, ăn trưa một mình tại một nhà hàng ngoài trời bên kia công viên Quảng trường Union.

    Người đó thay đổi ít nhiều khi bộ phim quay nhanh đến đoạn ông ta ra khỏi taxi, vào cửa hàng tàu đô đốc Ralph Lauren ở góc phố 72 và Madison.

    Gã này buôn bán ma túy? Căn cứ vào nguồn cuốn băng và camera hình như quay qua cửa bên một chiếc xe tải, tôi tin chắc ông ta không thể là người dự báo thời tiết trên mạng truyền hình Mexico.

    Tiếp đó, người này rời cửa hàng quần áo sang trọng, xách những túi có vẻ đắt tiền và lên chiếc taxi khác. Thời gian bên góc màn hình cho biết nửa giờ sau, đối tượng xuống xe và vào cửa trước khách sạn xa xỉ Four Seasons trên phố 57 Đông. Mọi thứ đều là hạng nhất.

    Lúc đó, điểm quan sát của máy đột ngột thay đổi, từ đường phố đến gờ tường cao ngất của tòa nhà ba mươi hoặc bốn mươi tầng. Máy quay quét thẳng lên rồi hạ xuống, thời gian trên góc phải là 6:10 PM, 22 tháng Bảy.

    Máy lướt qua mái Four Seasons, cho đến lúc một trong các ban công phía phố 58 của khách sạn rõ nét.

    Sau vài phút theo dõi lặng lẽ, máy quay xuống, xuống, xuống phố, tập trung vào một người đàn bà vô gia cư ở góc đường của công viên.

    "... hậu quả của tội lỗi, lạy Chúa tôi. Lạy Đức Chúa Trời, hãy tha thứ cho họ, vì họ biết không phải là việc họ làm" nghe rất rõ cũng như tiếng lách cách của chén cà phê đã được đổ đầy.

    Tôi hình dung chắc ai đó đã bật micro.

    Lúc máy quay lướt trở lại ban công của tòa nhà, có thể nghe thấy những âm thanh của thành phố. Tiếng ầm ầm buồn tẻ của xe cộ. Tiếng còi hú xa xa. New York, New York.

    Sau hai chục phút ghi hình chăm chú, bỗng cắt đột ngột. Ban đầu, tôi nghĩ có lẽ đĩa DVD trắng, nhưng rồi chú ý đến thời gian trên góc phải, bỏ qua bảy tiếng liền tới 1:28 AM, 23 tháng Bảy.

    Tôi nhận ra đĩa DVD không trắng. Nó chỉ chuyển từ ngày sang đêm.

    Vẫn chưa có gì nhiều để xem. Trong hai phút, ngoài ánh lấp lánh của đèn đường chiếu lên chấn song kim loại của ban công, còn lại đều tối mò mò.

    Rồi bỗng sáng rực, toàn bộ ban công tràn ngập ánh sáng lạ lùng màu xanh lục.

    Tôi nhận ra nhóm theo dõi bắt đầu quay bằng tia hồng ngoại. Các anh chàng này hẳn sử dụng thành thạo các thứ đồ chơi đắt tiền.

    Đội Đặc nhiệm của Scott nghĩ người đàn ông Tây Ban Nha béo lùn kia sắp có cuộc buôn bán ma túy trên ban công khách sạn? Hoặc họ hy vọng ông ta sẽ ba hoa điều gì đó và họ có thể nghe lỏm được chăng?

    Tôi thực sự không có dịp khám phá.

    Vì sau mười lăm phút ban công trống trong tia hồng ngoại, có tiếng đập cửa rất rõ, camera quét ngược khoảng ba mét, thấy rõ mái khách sạn.

    Một người đàn ông béo tốt mặc ximốckinh và một cô gái mặc váy dạ hội đính những đồng sequin vàng lấp lánh, xuất hiện ở cửa dành cho nhân viên cạnh thang máy. Máy quay gần hơn lúc họ hôn nhau và dựa vào thiết bị điều hòa không khí, họ bắt đầu sờ soạng cuồng nhiệt.

    Có thể thấy miệng cô gái cử động, rồi một tiếng hét lúc âm lượng micro được điều chỉnh hoặc cô ta đến gần.

    - Đợi một chút, - cô ta nói.

    Rồi cô ta kéo tuột bộ váy áo dạ hội lấp lánh qua đầu. Chắc hẳn cô ta xé rách, vì nó rơi tuột xuống dễ dàng hơn. Bên trong, cô ta chỉ mặc đồ lót dây bé xíu.

    Gì vậy...? Tôi nghĩ lúc ngạc nhiên theo dõi.

    Chương 74
    - Chà, thế thích hơn, - cô gái trên màn hình nói và xoay tròn khoe mọi thứ, và tôi phải công nhận là rất ấn tượng.

    Cuối cùng, cô nàng dừng lại và hôn thật mạnh lên miệng người đàn ông. Cô ta chộp lấy bàn tay ông ta giơ ra rồi kéo xuống phía dưới.

    - Úm ba la! Em sẽ làm cho quần áo biến mất. Người đàn ông cười phá.

    - Em điên thật, - ông ta nói. - Chẳng biết xấu hổ là gì. Anh thích phụ nữ như thế.

    - Giờ đến lượt anh, - cô gái nói. - Xem anh có những gì nào.

    - Anh không biết, - người đàn ông nói ngập ngừng. Tôi không nhìn thấy mặt ông ta vì lưng ông ta quay về camera. - Các cửa sổ kia kìa. Nhỡ có người nhìn thấy.

    - Nhìn sao được? Anh thử giơ bàn tay ra trước mặt xem có thấy gì không, - cô gái đã phô bày trọn vẹn nói. - Nào, John. Trong đời, anh phải có mấy hòn d... chứ. Chắc buồn cười lắm!

    - Anh sẽ nghĩ đến việc này, - người đàn ông nói. - Anh có việc nho nhỏ phải chăm sóc trước đã.

    Xoay người, người đàn ông cúi cái đầu to tướng rồi sau đó là một âm thanh hít to.

    - Này, để dành cho em một ít chứ? - Cô gái nói và sấn tới. - Anh như một con lợn ấy.

    Lại có tiếng hít nữa.

    - Cái này êm lắm, - người đàn ông tên John nói. - Không như cái thứ của nợ em mang đến lần cuối. Mũi anh chảy máu suốt một tuần. Anh phải bảo vợ là bị viêm xoang.

    - Anh nói thêm một từ nữa về vợ anh, - cô gái nói. - là em sẽ xuống thẳng phòng anh bên dưới ngay bây giờ và đánh thức mụ ấy dậy. Bây giờ em hít, còn anh thì cởi ra.

    - Người đẹp muốn bất cứ thứ gì, - người đàn ông nói lúc cởi áo khoác. - là người đẹp sẽ được.

    Tôi cúi xuống, đưa con trỏ tới nút "chạy nhanh" lúc người đàn ông mở khóa thắt lưng. Ông ta ngã lúc cố kéo quần và quần lót qua giày. Hai bên sườn nhợt nhạt của ông ta chắc được chiếu sáng không cần tia hồng ngoại lúc ông ta cố lật sang bên phải mà không thành công.

    Lúc ông ta quay mặt lại, camera quay cận cảnh cả mặt. Tôi bấm nút "ngừng" mạnh đến mức suýt gẫy chuột. Đó là John Meade, Chưởng lý quận Bronx.

    Tôi ngồi đó, cố không thở quá nhanh lúc ý nghĩa mọi việc sáng rõ với tôi. Tôi đã biết Scott là một cảnh sát tha hóa. Anh ta lấy trộm tiền trong những cuộc vây bắt? Cướp đoạt của những kẻ buôn bán ma túy? Bất cứ thứ gì. Không thành vấn đề. Chắc chắn anh ta không phải là người như anh ta vẫn thể hiện.

    Còn đây, trong quá trình theo dõi đặc biệt này, anh ta đã vớ được món bở thực sự, bất ngờ.

    Tôi nhìn vị luật sư danh tiếng, cái bụng trần trụi như một bị thịt, cặp mắt đỏ kè trên cái cười nửa chừng vì hít ma túy.

    Tình cờ hay không, Scott đã nắm được con người có khả năng nguy hiểm nhất cho anh ta, viên Chưởng lý ở khu vực anh ta làm việc và cướp bóc. Trong tư thế tệ hại nhất có thể tưởng tượng được. Ngoại tình và hít ma túy.

    Không thể có loại bảo hiểm dự phòng nào hiệu quả hơn cái này, tôi nghĩ.

    Tôi lắng nghe tiếng xe cộ ầm ầm trên đường cao tốc sau tôi.

    Tôi không thể tin nổi. Dối trá. Những đồng tiền bẩn. Giờ là tống tiền. Scott chẳng giống Người dơi chút nào. Anh là Harvey Keitel 1 trong bộ phim Viên trung úy tha hoá.

    Sự bẩn thỉu vẫn còn tiếp diễn.

    Tôi gập nắp laptop lại và nổ máy ôtô. Tôi đã ngán chuyện này đến tận cổ.

    --------------------------------
    1 Diễn viên Mỹ, đóng vai trung úy trong phim Viên trung úy tha hóa (năm 1992).


    Chương 75
    Sáng hôm sau, tôi thức dậy với ý nghĩ sửng sốt và có phần kỳ quặc rằng đây là thời gian thích hợp để nghỉ phép một tuần.

    Chính xác thì tôi đã bắt đầu nghỉ từ thứ Hai. Bất chấp tất cả. Tôi có một thời gian khá thoải mái. Thay cho sex, băng video là sex, đồ ăn và chạy bộ, phần lớn là theo kiểu duy trì.

    Tôi chia các buổi sáng và buổi chiều thư giãn cùng con sếu trong công viên Tibbetts Brook và học cách nấu ăn của Julia Child 1 . Tối tối, tôi bảo đảm khi Paul về nhà đã có một bữa ngon lành tự nấu: bình vang đỏ hâm nóng, lườn vịt quay với nấm cục đen và món khoái khẩu của anh là bít tết thật mềm với khoai tây bỏ lò hai lần.

    Không chỉ những bữa ăn ngon tuyệt. Sinh hoạt trong phòng ngủ của chúng tôi cũng trở lại nếp xưa, có khi còn nồng nhiệt hơn bao giờ hết. Nói thật, chúng tôi không đủ cho nhau.

    Lúc ôm nhau trong bóng tối, một cơn điên choán lấy tôi và mọi thứ - quá khứ đen tối, tương lai bấp bênh - đột nhiên biến hết.

    Rồi cái rìu đã rơi xuống vào ngày thứ Năm trong tuần nghỉ phép.

    Nó đến dưới dạng một cú điện thoại hoàn toàn bất ngờ. Lúc mười giờ sáng, tôi đang cởi dây đôi giày Rebooks thì thấy tin nhắn nhấp nháy.

    Không có tin nghĩa là cho đến lúc này vẫn là tin tốt.

    Ai gọi về nhà cho mình trong kỳ nghỉ thế này? Tôi ấn nút tin nhắn.

    "Thám tử Stillwell, tôi là Jeffrey Fisher, trợ lý Chưởng lý nhắn từ Văn phòng hạt Bronx. Tôi biết cô đang nghỉ phép, nhưng chúng tôi cần cô tới cộng tác một số việc còn chưa giải quyết xong trong vụ Thayer. Mười giờ sáng mai sẽ tiện cho chúng tôi. Tòa án hạt Bronx, tầng hai".

    Tôi xem lại tin nhắn lần nữa, rồi lần nữa.

    Phiền nhất cho tôi là tôi có nhiều bạn trong Văn phòng điều tra tội giết người của Chưởng lý hạt Bronx, nhưng lại quen biết Fisher ít nhất. Hình như anh là người chẳng may bị giao cái việc khó chịu này. Còn cái giọng nửa hững hờ trong tin nhắn nữa? Cộng tác một số việc còn chưa giải quyết xong như thể chẳng có gì quan trọng. Nó không gây cho tôi cảm giác là một cuộc gọi nhiễu sự. Tôi đã quen với hàm ý tuân thủ luật pháp trong sách giáo khoa rằng bắt buộc là tự nguyện, khi buộc các nhân chứng nói chuyện với tôi.

    Các nhân chứng, tôi vừa nghĩ vừa nhắm mắt lại. Chưa kể đến các nghi phạm.

    Trong giây lát tôi đâm hoảng và bắt đầu nghĩ về các việc có thể xảy ra, tôi có thể bị căn vặn ở chỗ nào, Chưởng lý quận có thể đánh tôi ở điểm nào. Nhưng tôi tự ngăn mình lại.

    Tôi biết rằng cuộc chơi này đã xong, và tôi có lợi thế ngay trong viễn cảnh tệ hại nhất. Sự thực là, nếu Chưởng lý có lộ ra ý buộc tội tôi và Paul giết Scott, họ vẫn phải chứng minh điều đó. Sẽ là một việc khó khăn, vì không có dấu vân tay và Paul chưa bao giờ hé răng với ai về việc anh đã làm. Kể cả với tôi.

    Bạn có thể biết người đã làm một việc gì đó và họ vẫn thản nhiên dạo chơi. Tôi biết điều đó rất rõ. Bạn phải chứng minh vụ kiện trước tòa theo đúng luật, và cần có chứng cứ rõ ràng.

    Ngồi bên điện thoại, tôi cố biến nỗi sợ thành một thứ có lợi. Nếu Văn phòng Chưởng lý muốn chơi rắn, tôi quyết sẵn sàng đánh trả.

    Tuy nhiên, bàn tay tôi bắt đầu run trước khi chạm vào nút "xóa".

    Ờ, mà phải thế. Mình đang lừa gạt ai đây? Làm thế nào rút khỏi cái địa ngục này?

    --------------------------------
    1 Julia Child (1912-2004): Chuyên gia nấu ăn, là tác giả và đạo diễn truyền hình Mỹ. Bà dạy nấu các món ăn Pháp qua sách vở và các chương trình truyền hình.



  5. #24
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 76
    Sau một đêm thao thức và kiệt sức, gần như không chợp mắt tí nào, tôi quyết định nhét khẩu súng và phù hiệu của tôi vào trong chiếc áo vét Armani Exchange màu đen ưa thích. Tấm váy xẻ bên sườn thông thường không được chọn làm trang phục công sở, nhưng hôm nay không phải ngày làm việc của tôi kia mà?

    Tôi bỏ phù hiệu, chải mái tóc mới cắt và nhuộm rồi đi đôi dép Steve Madden hở ngón, quai vòng qua mắt cá.

    Cuộc gặp ở Văn phòng Chưởng lý sẽ là một trận chiến. Tôi cần mọi thứ vũ khí để đối phó trong cuộc chạm trán với luật pháp này.

    Tôi dành nhiều thời gian lượn trong Bronxville Starbucks uống cà phê. Uống xong, là lúc tôi tìm ra một bãi xe ở Lou Gehrig Plaza bên kia đường của tòa án. Tôi chăm chú nhìn ra sân vận động Yankee cuối phố 161, hy vọng biết đâu có một máy bay ném bom thần bí nào đó thổi bay tôi đi.

    Chín rưỡi, còn nửa giờ nữa mới đến cuộc hẹn, tôi đã thấy Fisher bên bàn làm việc trên tầng hai. Anh ta ngồi với ba trợ lý khác của Chưởng lý.

    - Xin chào các ông bạn. Có việc gì thế? - Tôi nói và nhìn vào mắt họ, từng người một.

    Tôi đã làm đủ thứ để trông dễ coi nhất. Lúc tôi đi qua những hành lang đá hoa, đàn ông các loại: cảnh sát, bị cáo, luật sư đều quay đầu nhìn, tôi biết mình trông khá xinh đẹp.

    Nếu đây là một bức biếm họa, các tròng mắt sẽ lồi ra, những trái tim to tướng màu đỏ sẽ thò ra thụt vào trên lồng ngực của các luật sư. Một phụ nữ duyên dáng và khẩu súng? Khó mà tin nổi. Đàn ông thật tầm thường nếu không dự đoán trước.

    - Các anh có quyền giữ im lặng, - tôi nói. - nhưng chuyện này thật nực cười. Các anh không thấy sao?

    Thế là "tôi phải đi" và "gặp sau nhé, Jeff", rồi từng người một, các luật sư đi ra. Cho đến khi chỉ còn tôi và ông bạn Fisher trong căn phòng chật hẹp. Tôi ghé mông ngồi lên cạnh bàn khiến anh ta suýt lăn khỏi ghế.

    Bí quyết thắng lợi trong bất kỳ cuộc chiến nào là làm đối thủ mất thăng bằng. Đánh vào điểm yếu, và không để đối phương ngóc đầu dậy cho đến khi kết thúc, chỉ còn tiếng kêu la. Thứ duy nhất tôi nhớ về Fisher là một anh chàng trạc ba mươi, hói đầu, nom quỵ lụy, cách anh ta cố dè bỉu trang phục của tôi trong bữa tiệc tiễn người về hưu năm ngoái ở Piper’s Kilt.

    - Anh nói muốn gặp tôi phải không, Fisher? - Tôi nói.

    Tôi quan sát mặt anh ta đỏ bừng như lúc gặp đèn giao thông.

    - À, ờ, vâng, thám tử, - vị trợ lý của Chưởng lý quận lắp bắp. - Ý tôi là... ờ, chắc không có gì đâu. Tôi chắc thế. Tôi để hồ sơ ấy đâu nhỉ? Tôi vừa nhận xong mà.

    Nhìn anh ta bới lung tung trên bàn, tôi cảm thấy mình đã thắng vòng đầu. Các cuộc thẩm vấn là đối chọi sức mạnh. Lúc trước, với tin nhắn khó hiểu để lại trong máy tôi, Jeffrey Fisher tưởng đã làm chủ tình thế. Nhưng không còn nữa.

    Các trợ lý của Chưởng lý thường có phức cảm tự ti với cảnh sát đội tôi. Fisher chắc chắn bị tôi hấp dẫn và tôi hầu như quyết định việc này.

    Anh ta sẽ đối xử thận trọng. Tôi sẽ phủ nhận bất cứ mâu thuẫn nào anh ta nêu ra, và anh ta sẽ chấp thuận. Tôi còn lo gì nữa? Tôi làm chủ cuộc gặp này. Fisher là ai kia chứ? Một luật sư rụt rè, sợ đặt chân lên các đường phố nguy hiểm ở Bronx? Tôi sẽ ra khỏi đây, vô tội và tự do. Tôi có thể cảm thấy thế.

    Nhưng lúc đó, không biết từ đâu, Jeff Buslik, sếp của Fisher xuất hiện như ma hiện hình. Buslik sẽ không im lặng. Trong thực tế, hình như anh ta quá bình tĩnh và tự chủ. Tự chủ một cách ác ý. Dường như Buslik không hề để ý đến trang phục của tôi. Anh ta hôn lên má tôi, trong trắng như tôi là cô em gái.

    - Lauren, công việc ra sao? - Anh ta nói. - Thực ra, chính tôi đề nghị cuộc gặp này. Sao chúng ta không về phòng tôi nhỉ?

    Ôi không, tôi nghĩ.

    Chó chết, không!


    Chương 77
    Tôi đi theo Jeff. Văn phòng của anh ở trong góc, quay ra sân vận động. Có thể nhìn thấy những chỗ ngồi trên khán đài phải của Yankees qua cửa sổ viền đồng đỏ.

    - Chà, anh có thể quan sát những người trên khán đài từ đây, - tôi nói.

    - Sao cô lại nghĩ tôi ghi vào sổ những kẻ bỏ trốn? - Jeff đùa. Ông trầm ngâm nhìn xuống bàn, dường như tìm lời cho đúng.

    - Nghe này, Lauren. Tôi mến cô. Tôi thực sự mến cô. Cô là một cảnh sát cừ và...

    - Tôi đã có chồng rồi, Jeff, - tôi nói và cười toét miệng.

    - Tôi biết. Thôi được. Tôi sẽ hỏi ngay đây. Cô đã làm mọi thứ với cái chết của Scott Thayer?

    Ra thế. Quả bom hủy diệt tôi mong đợi không bao giờ đến. Trong giây lát, tôi cảm thấy điếc đặc. Tôi hầu như cảm thấy bóng tôi khắc sâu vào bức tường phía sau.

    Tôi cố lấy lại nhịp thở và băn khoăn liệu họ có giải thẳng tôi từ đây vào phòng xử không? Áp giải tôi trong xe tải đến Rikers Island cùng các tù nhân khác?

    - Tất nhiên rồi, - tôi nói sau một lúc im lặng dài. Tôi mỉm cười để anh ta nghĩ là tôi tưởng anh đùa. - Tôi là điều tra viên chính trong vụ này mà.

    - Đấy không phải là điều tôi định nói, - Jeff nói khẽ. Tôi nhìn vào mắt luật sư bên nguyên. Lúc này tôi

    biết nói gì? Tôi có thể làm gì?

    Làm một việc, một tiếng nói bảo tôi. Đấu tranh. Hoặc chết.

    - À vâng, anh định nói gì vậy, Jeff? Chuyện này là thế nào? Quan tài Scott đóng lại rồi. Tôi nhớ vì cái nắp suýt làm bay đầu tôi khi đóng sập xuống. IAB đã gọi cho anh? Có phải chuyện này là thế không?

    - Ba ngày trước, luật sư của một người là Ignacio Morales liên hệ với Văn phòng này, - Jeff nói. - Ignacio là người gác cửa cho câu lạc bộ Wonderland, nơi cô đến tóm anh em Ordonez.

    Ôi, chó thật.

    - Vâng, tôi nhớ ông Morales, - tôi nói. - Ông Morales có tình cờ nhắc đến việc ông ta định cưỡng hiếp tôi trong tầng hầm không?

    Jeff giơ tay lên như thể đấy chỉ là tiểu tiết.

    - Ông ta khẳng định rằng khẩu súng tìm thấy trên người Ordonez lấy từ trong xắc của cô trong lúc khám xét thông thường ở hộp đêm đó.

    Tôi làm cho mắt tôi lồi ra vì giận dữ. Tôi nghĩ Nicole Kidman 1 chắc cũng phải tị với tài của tôi.

    - Anh tin điều này ư? - Tôi hỏi.

    - Thực ra thì không, - Jeff nói. - Tôi tin cái gã buôn bán ma túy sâu bọ ấy đến mức muốn tống hắn ra tòa.

    Jeff thọc tay vào ngăn kéo và rút ra một mảnh giấy.

    - Nhưng sau đó tôi đã xem cái này.

    Đó là dữ liệu những cuộc điện thoại của Scott. Cộng sự của tôi đã gửi cho anh ư? Ngay trong lúc hoảng sợ, tôi vẫn không tin như thế. Jeff là một thiên tài, là người vô cùng giỏi giang, chưa bao giờ bỏ sót điều gì ắt phải yêu cầu sao một bản cho mình.

    Ở mức độ nào đó, tôi đang mong việc này xảy ra. Tôi dùng cách duy nhất cho phép, là đong đưa.

    - Thì sao kia? - Tôi nói. - Tôi quen Scott. Chúng tôi trò chuyện qua điện thoại. Quan hệ của chúng tôi chẳng phải là việc của ai, nên tôi không nhắc tới. Bảo vệ sự riêng tư có phải là tội ác không?

    Thay cho câu trả lời, Jeff rút ra tờ nữa và đẩy qua bàn cho tôi.

    Đấy là bản chụp vé gửi xe của chiếc xe máy. Anh tatử tế cho tôi có thời gian đọc kỹ ngày tháng và địa chỉ nổi bật.

    Địa chỉ là Yonkers, cách nhà tôi nửa khối nhà.

    Một hồi chuông báo tang kinh hoàng vang lên trong tôi.

    Tôi không ngờ đến cái này.

    - Vé này phạt Scott đỗ xe trái luật, vài giờ trước khi bị chết bất thường, - Jeff từ tốn nói. - Tôi đã xem địa điểm trên bản đồ. Cách nhà cô nửa khối nhà, Lauren ạ. Cô hãy kể cho tôi ở đây. Làm mọi chuyện này có ý nghĩa nào đó. Vì tôi phải có lời biện hộ với bồi thẩm đoàn ngay bây giờ. Một nhân chứng đã nhìn thấy cô giấu khẩu súng. Bằng chứng để Scott đỗ xe cách nhà cô ngay trước giờ chết của anh ta. Tôi đã thắng nhiều vụ nhờ những chi tiết còn nhỏ nhất, Lauren ạ. Nhưng cô là một người bạn. Vì còn nghi ngờ nên tôi không muốn buộc tội cô trước những thủ tục tố tụng chính thức. Đây là cơ hội đầu tiên và cuối cùng của cô, hãy cho tôi biết chuyện xảy ra và để tôi giúp cô.

    --------------------------------
    1 Nữ diễn viên điện ảnh nổi tiếng của Australia, sinh năm 1967, từng hai lần giành giải Quả cầu vàng và giải Oscar về diễn xuất.


    Chương 78
    Nghe thực cám dỗ. Tôi đã phải giữ quá nhiều bí mật trong thời gian quá lâu. Đã nói dối các bạn bè và đồng nghiệp.

    Sự khao khát tự thanh minh, rũ bỏ gánh nặng gần như không chịu nổi. Lúc đầu tôi muốn giải thích vì sao song lại e sợ, và mọi sự diễn ra quá nhanh. Tôi chỉ muốn bảo vệ Paul, chồng tôi. Tôi đã làm tất cả vì anh.

    Giờ thì tôi hiểu vì sao trong những năm qua, nhiều nghi phạm tôi thấy có quyền bỏ tù, trước khi họ minh oan, đã chịu đầu hàng. Thú tội là bước cuối cùng đến tha thứ, chẳng phải là trò lừa bịp sao?

    Nhưng lúc đó tôi nhớ ra. Tôi không cần tha thứ.

    Tôi có phương án B khá hay.

    Tôi đã làm một việc mà tôi ngờ rằng Jeff Buslik không hay gặp trong văn phòng kín đáo đầy quyền lực của anh. Tôi dựa lưng vào ghế đối diện với Jeff, khoanh tay lên lòng phủ váy chật căng và mỉm cười.

    Rồi tôi quyết nhún chân nhảy qua hàng rào!

    - Tôi thấy anh có nhiều chứng cứ bằng giấy tờ ở đây, Jeff, - tôi nói. - Nhưng tôi tự hỏi liệu anh có chứng cứ bằng băng video không?

    - Cái gì? - Sếp phó Chưởng lý hỏi. Trên mặt anh ta có một vẻ trước kia tôi chưa hề thấy. Hoàn toàn ngỡ ngàng.

    - Lauren, xin cô. Giờ không phải lúc nói vớ vẩn. Tôi có việc để làm ở đây, và nếu cô không muốn chính thức bước theo hướng đúng đắn, tôi cho là chúng tôi phải...

    - Chứng cứ bằng băng video, Jeff, - tôi nói tiếp. - Bằng chứng bằng băng video là không thể chối cãi. Lý do duy nhất khiến tôi nói đi nói lại câu đó, vì trong quá trình điều tra, tôi đã bắt gặp... ờ...

    Tôi rút laptop trong xắc ra, bật máy và ấn nút "chạy".

    - Có lẽ anh nên tự xem cái này, - tôi nói. - Anh rất nên xem đấy, Jeff.




  6. #25
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 79
    Tôi để Jeff xem từ đầu đến cuối cuộc giám sát, không xen ngang. Tôi ngồi, đăm đăm nhìn khán đài trên sân vận động qua cửa sổ. Lần đầu tiên cha tôi đưa tôi đến đây xem là khi tôi lên tám. Tôi không hiểu cú đánh cho phép trong bóng chày, nhưng tôi nếm vị bia đầu tiên lúc một người say đằng sau cha con tôi buông rơi chai bia lên đầu tôi.

    Tôi tự hỏi nếu biết tất cả chuyện này, cha tôi sẽ nghĩ sao về tôi. Ông có xấu hổ không? Hay sẽ tự hào vì tôi có khả năng khai thác sự quỵ lụy và bẩn thỉu cho cuộc đấu sống còn của mình? Tôi lắng nghe tín hiệu của người cha lúc tôi đợi. Nhưng tôi chỉ nghe thấy tiếng đoàn tàu số 4 rầm rầm chạy qua.

    Lúc xem xong đĩa DVD, Jeff Buslik đóng laptop đánh tách và nhìn rất lâu ra cửa sổ.

    Chúng tôi cùng lắng nghe sự im lặng nặng nề một lát. Băng video về John Meade, sếp của Jeff, nhưng về mặt nào đó, giá là Jeff còn hay hơn nhiều. Jeff đang chạy đua chức vụ Chưởng lý vào tháng Mười một sang năm, khi Meade hết nhiệm kỳ, và anh là ứng viên sáng giá, dễ giành phần thắng nhất. Jeff không chỉ săn lùng chức vụ mà cả tiếng tăm. Sáng ngời như kim cương, da đen, vóc dáng như một ngôi sao, Jeff đã được báo chí tung hô là Barack Obama 1 của Bronx.

    Nhưng sự thật của đời làm chính trị là Jeff cần đến phúc lành của sếp. John Meade là người nổi danh ở Bronx, và Jeff là cánh tay phải của ông ta. Ít nhất cho đến ngày bầu cử, họ liên quan chặt chẽ với nhau.

    Cho đến ngày bầu cử, nếu John Meade đổ, Jeff sẽ tiêu ma cùng ông ta.

    Dường như Jeff thấm thía điều này y như tôi vậy. Trông ông ta như bị đau dạ dày bất ngờ. Một cơn đau dữ dội. Cuối cùng, ông ta chuyển cái nhìn chằm chằm, cay đắng lên tôi.

    - Chứng cứ, - tôi nhắc lại. - Anh có. Tôi cũng có. Anh nghe này, tôi không có những cảm giác gay gắt. Tôi hiểu rằng thỏa hiệp với tôi sẽ khiến anh rạng rỡ. Có khi thành nhân vật nổi tiếng cỡ quốc gia. Tôi nghĩ việc này rất hay cho người muốn tiến lên. Nhưng nếu anh thách đấu với tôi, thề có Chúa, lần sau anh sẽ nhìn thấy những cảnh này trên kênh Fox News.

    Jeff suy nghĩ giây lát.

    - Cô đã giết anh ấy phải không, Lauren? - Cuối cùng, anh hỏi. - Cô giết Scott Thayer thật sao?

    - Không, - tôi nói. - Anh không đọc báo à? Victor Ordonez giết. Đằng nào, tôi cũng đang xin từ chức. Tôi không thể chịu đựng cái chuyện điên rồ này thêm được nữa. Tôi nghĩ tốt hơn hết là ra đi với tiếng tốt. Cũng như sếp của anh vậy. Anh có thấy thế là hay hơn cả không?

    Tôi đứng dậy và lấy đĩa DVD ra khỏi laptop.

    - Chúng ta xong ở đây nhé? - Tôi nói. - Cuộc chuyện phiếm nho nhỏ của chúng ta ấy?

    Jeff ngồi lặng lẽ thêm phút nữa. Rồi anh xoay người, và tiếng máy hủy giấy rít lên hai lần, gần như hân hoan lúc anh ta cho dữ liệu điện thoại và vé xe của Scott vào.

    - Chúng ta đã xong, Lauren, - Jeff nói khẽ với bức tường phía xa. Giọng anh chan chứa nỗi buồn. Anh không ngoảnh lại cho đến lúc tôi đi ra.

    "Tôi không giết anh ấy", cuối cùng tôi nói, nhưng chỉ sau khi đã ra khỏi tòa nhà và trên đường ra ôtô của tôi.

    --------------------------------
    1 Tổng thống Mỹ đương nhiệm.

    PHẦN BA. CUỘC TÌNH Ở WASHINGTON

    Chương 80
    - Thêm nước sủi tăm, signora 1 ? Chianti 2 nữa, signore 3 ?

    - Si 4 , - Paul và tôi đồng thanh. Hãy tận hưởng thời gian thoải mái!

    Cậu hầu bàn râu lởm chởm tươi tắn rót đầy cốc của chúng tôi, như thể chúng tôi vừa ban cho cậu ta lời chúc trường thọ. Đằng sau cậu ta, những bức tường màu nhạt của Monticiano, nhà hàng Ý mới nhất và đắt tiền nhất ở Greenridge, Connecticut, rực rỡ như một buổi hoàng hôn Tuscan.

    Bữa tối bất ngờ tại nhà hàng bốn sao của Ý ở hạt Litchfield phía Bắc của Paul được tôi nồng nhiệt hưởng ứng sau buổi sáng kiệt sức tại trụ sở tòa án.

    Sau khi thắng Jeff Buslik, tôi xứng đáng một chuyến đến Tuscany 5 thực sự, tôi vừa nghĩ vừa cắn thêm một miếng thịt sốt nấm.

    - Signora, signore này đề nghị nâng cốc, - Paul nói.

    - Uống vì tương lai, - anh nói.

    - Vì tương lai.

    Chúng tôi chạm cốc.

    Chúng tôi sẽ an toàn và bên nhau mãi mãi, tôi nghĩ lúc nhấp một ngụm San Pellegrino mát lạnh, trong veo.

    Paul uống hết cốc vang và dựa vào lưng ghế, mỉm cười. Anh có vẻ thấy mọi sự đều tuyệt, lúc này sự điên rồ đã chấm dứt và cuộc sống mới của chúng tôi - cuộc sống thực sự của chúng tôi - vừa bắt đầu.

    Trong ánh nến lung linh, tôi nhìn Paul chăm chú, hầu như là lần đầu tiên. Mái tóc anh vàng hoe, cặp mắt xanh thăm thẳm, đôi tay khỏe khoắn của anh - đôi tay đã đánh nhau vì tôi.

    - Em yêu, nghe này, - Paul nói và nhoài người qua bàn sang phía tôi. - Em có tin được không?

    Trong loa, Frank Sinatra 6 đang hát The Way You Look Tonight.

    Bài ca hôn lễ của chúng tôi.

    Liệu có sự hoàn hảo nào cực kỳ hơn không? Trái tim tôi bập bềnh như những bong bóng trong cốc của tôi. Tôi cho rằng nó khẳng định Paul và tôi sẽ mãi mãi bên nhau. Hạnh phúc và tự do. Với đứa con chúng tôi hằng mong đợi.

    - Em nghĩ sao? - Paul hỏi khi bài hát ngừng.

    - Mì sợi nhé? - Tôi nói.

    - Không, - Paul đáp. - Đến khu vực mới. Greenridge có lẽ chỉ là một thị trấn New England nhỏ, xinh đẹp khác, trừ những gallery nghệ thuật đắt tiền, những cửa hàng rượu vang đắt tiền và những spa ban ngày đắt tiền trên phố Main. Phong cách của Norman Rockwell 7 gặp SoHo 8 . Nhà hàng Monticiano cũng là một trạm chữa cháy hồi thế kỷ mười chín sang sửa lại. Tôi đọc trong New York rằng nhiều nhà thiết kế thời trang thành phố New York có nhà nghỉ nông thôn ở đây. Với tỷ lệ tội phạm thấp thứ hai trong toàn vùng Đông Bắc, sao họ lại không làm thế kia chứ?

    - Cứ nghĩ đến việc chúng mình sẽ dọn đến một nơi nào đó mà ngại, - tôi nói. - Nhưng đến đây?

    - Em chưa nhìn thấy ngôi nhà đấy, - Paul nói. - Chuyến đi sẽ bắt đầu sau món tráng miệng.

    Một ngôi nhà mới, tôi nghĩ. Ý tôi là một mái nhà không bị dột? Cánh cửa đóng lại là sẽ đóng chắc? Tôi lắc đầu sửng sốt.

    Đầu óc tôi vẫn đang quay cuồng khi mươi phút sau, người hầu bàn trở lại.

    - Signora uống cappuccino 9 ? Món tráng miệng đặc biệt tối nay là bánh ngọt cannoli với kem chanh.

    - Si, - tôi nói lúc dựa vào ghế dài, đắm mình trong sự nổi bật của mình, trong ánh sáng vàng rực rỡ của ban đêm, vận may điên rồ của chúng tôi. - Si, si, si.

    --------------------------------
    1 Bà (tiếng Ý trong nguyên bản).
    2 Loại rượu vang của miền Trung nước Ý.
    3 Ông (tiếng Ý trong nguyên bản).
    4 Vâng, phải (tiếng Ý trong nguyên bản).
    5 Vùng Bắc Ý, trung tâm văn hóa thời Phục hưng.
    6 Frank Sinatra (1915-1998): Ca sĩ, diễn viên điện ảnh Mỹ gốc Ý, là một trong những nghệ sĩ nổi tiếng nhất trong thế hệ ông.
    7 Norman Rockwell (1984-1978): Họa sĩ Mỹ.
    8 Khu vực phía Tây Manhattan, New York, nổi tiếng vì nhiều studio và gallery nghệ thuật.
    9 Cà phê sữa sủi bọt, thêm sôcôla bột hoặc quế.


    Chương 81
    Nửa giờ sau, Paul lái chiếc Camry nhanh hơn tốc độ cho phép. Dây chằng qua vai và bụng tôi cùng căng lên lúc anh phanh đột ngột, ngoặt khỏi con đường thôn dã ngộ nghĩnh và lượn lên đỉnh đồi rồi xuống thung lũng.

    Bên ngoài cửa sổ, tấm biển "Evergreens" gắn ở chân hàng rào đá, chắc nhờ lòng tốt của dân miền rừng hoặc của chính Robert Frost 1 .

    Trong ánh sáng nhạt nhòa, bóng các cây thông lắc lư nhè nhẹ ven đường, in một vệt vàng vàng ở bên kia lớp nhựa đường mới trải.

    - Em thấy thế nào? - Paul nói và dừng xe.

    - Càng đi càng kinh hoàng, - tôi nói lúc nhìn quanh.

    - Em nghe thấy gì không? - Paul nói và hạ cửa kính xe xuống.

    Tôi lắng nghe. Tôi chỉ nghe thấy tiếng gió xào xạc trong lá cây.

    - Nghe thấy gì cơ? Paul mỉm cười.

    - Chính xác thì, - anh nói. - không có tiếng gầm của các máy khoan, tiếng động cơ ôtô hoặc những người vô gia cư rên rỉ. Anh đã đọc điều này ở đâu đó. Anh nghĩ, đấy chính là sự yên bình và tĩnh lặng.

    - Còn các thứ xam xám ven đường, trên đỉnh màu xanh kia là gì? - Tôi nói lúc nhìn qua cửa kính.

    - Những cái đó gọi là cây, - Paul nói. - Người ta đã nói về chúng trong các cuốn sách quảng cáo. Chúng trồng cùng ngôi nhà, nhỡ em muốn nâng cấp các phòng.

    Paul lại nổ máy và tiếp tục leo lên đỉnh đồi, anh dừng lại đó cho tôi có thể nhìn khắp các ngôi nhà trong vùng. Chúng đều đẹp. Có đến năm, sáu ngôi nhà New England theo phong cách thực dân, rộng rãi và xuôi xuống một thung lũng cuồn cuộn.

    - Đẹp lắm, - tôi nói. - còn mặt tiêu cực là gì? Chúng ta đang ở trên đường băng hạ cánh của một sân bay phải không?

    - Rất tiếc, - Paul nói lúc chúng tôi bắt đầu xuống đồi. - Greenridge có quy định chống tiêu cực. Hơn nữa, chúng ta đã có đủ thứ tiêu cực kéo dài cho hai cuộc đời rồi.

    Paul không biết một nửa số đó.

    --------------------------------
    1 Robert Frost (1874-1963): nhà thơ Mỹ, người đã tôn vinh phong cảnh đồng quê New England và ngôn ngữ New England.


    Chương 82
    Chúng tôi chạy qua một sân thể thao rộng, nhiều sân tennis và một sân bóng rổ được chăm sóc chu đáo. Tôi nhìn những vạch trắng mới toanh, kẻ chính xác. Phải, trông nó như một vùng ngoại ô thực thụ. Có lẽ cứ mặc xác mọi sự. Đầu óc tôi tiếp tục quay cuồng.

    Mặt trời gần như lặn hẳn khi chúng tôi dừng lại trước một ngôi nhà rộng rãi cạnh công viên có suối chảy.

    - Gì thế này? Văn phòng mua bán ư? - Tôi hỏi. Paul lắc đầu. Anh rút ra một chiếc chìa khóa.

    - Đây là câu lạc bộ, - anh nói. - Đi nào, anh sẽ chỉ cho em vị trí mảnh đất.

    Bên trong có nhiều phòng họp, vài tivi màn hình phẳng, một phòng tập tạ. Ruồi muỗi đậu trên bảng tin đăng tìm người giữ trẻ và những cuộc liên hoan. Có một tờ giới thiệu một thứ gọi là bữa ăn cấp tiến, giá một đô rưỡi một suất.

    - Họ đang làm một bể bơi vào mùa xuân, - Paul nói và ngồi phịch xuống đivăng da trong khoảng hành lang vòm.

    - Làm sao mà... - tôi bắt đầu. - Ngay cả khi anh được tăng lương, nhà này hình như...

    - Nhà đắt, nhưng nó khá xa thành phố nên rẻ hơn em tưởng. Lương mới của anh đủ cho chúng ta trang trải và thừa một chút. Em muốn xem nhà của chúng mình không? Nó sẽ là của chúng mình, nếu em cũng ưng nó như anh.

    Tôi giơ tay lên.

    - Cho em một giây để em đỡ hàm trước đã.

    Một vòng ánh sáng cuối cùng trùm lên những quả đồi phía tây lúc chúng tôi rời con đường đã lát vào đường đất đang xây dựng. Chúng tôi bò chầm chậm qua những đống đá vụn và máy móc nặng nề.

    - Anh phải đi chậm vì có nhiều đinh, vít rải rác khắp công trường. Anh không muốn bị thủng lốp. - Paul nói. - Dừng ở đây, chúng ta đến rồi.

    Ngôi nhà màu xám xanh Paul đỗ đằng trước... chao ôi, đẹp hoàn hảo. Tôi vào hiên trước, ống khói bằng gạch vươn cao, những cửa sổ mái duyên dáng trên tầng ba. Gượm đã, có tầng ba ư? Mọi thứ trông như đã xong trừ đầu cầu thang mà tôi chắc cũng sẽ đẹp mắt.

    - Đi nào em, - Paul nói. - Anh sẽ chỉ cho em dãy phòng của chủ nhân.

    - Chúng ta được phép ở lại đây ư? Không phải đợi cho đến lúc hoàn tất chứ? Anh chắc không?

    - Chắc chứ, anh tin chắc, - Paul nói và cười phá. - Anh sẽ bật đèn pha chiếu sáng để chúng ta có thể thấy mình sắp ở đâu.

    Chúng tôi đi qua ụ đất, và Paul mở cánh cửa không khóa. Bỗng anh hất tôi qua vai trong tư thế người cứu hỏa và giả vờ vấp lúc bế tôi qua ngưỡng cửa. Tiếng cười và tiếng chân của chúng tôi vang vọng trên sàn nhà lát gỗ cứng lấp lánh.

    - Em yêu nơi này mất rồi, - tôi thì thầm. - Em thực sự thích nó, Paul ạ.

    - Và đây là nơi có thể làm phòng trẻ, - Paul nói và ôm ghì tôi tại một trong các căn phòng trên gác.

    Bên ngoài cửa sổ "phòng trẻ", những vì sao lấp lánh như bụi kim cương trên nền trời nửa đêm, bên trên các ngọn cây đen sẫm. Nước mắt tôi bắt đầu trào ra. Đây là sự thực bất ngờ. Con chúng tôi sẽ lớn lên trong phòng này. Tôi thấy mình bế cái bọc thơm thơm mùi sữa và thủ thỉ, chỉ cho con các chòm sao, mặt trăng đang lên.

    Paul lau nước mắt trên má tôi và hôn lên cổ tôi.

    - Thế là xấu lắm, nhé? - anh thì thầm. Bỗng, tôi nín bặt như lúc bật khóc.

    Vì lúc đó, đèn pha xe Paul đang chiếu sáng ngôi nhà bỗng nhiên tắt phụt.

    Những giọt nước mắt lạnh giá trên má tôi lúc ngôi nhà trở nên tối đen như những khoảng không giữa các vì sao.





  7. #26
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 83
    - Gì thế? - Paul nói trong bóng tối. - Có phải vì ắc quy không? Em nghĩ sao, Lauren?

    Tôi nhìn anh chằm chằm. Chuyện quái quỷ gì đây?

    Dù là gì đi nữa, tôi cũng không thích.

    - Ờ, gượm đã. Anh hiểu rồi, - Paul nói. - Lỗi của anh. Hôm qua anh đã thấy bình xăng gần cạn, song anh quên đổ đầy. Đi những chuyến như thế này, chắc chúng ta đã dùng hết xăng.

    - Anh chắc không? - Tôi nói. Tôi thực sự hơi hoảng. Tôi cho là vì tôi chưa quen với nơi này.

    - Bình tĩnh nào, Lauren. Đây không phải là là Nam Bronx đâu, thám tử ạ, - Paul nói và cười. - Anh chắc là thế mà. Quanh đây chắc phải có trạm xăng đủ thiết bị. Em ở lại đây nhé. Anh lấy cái đèn pin đi thám thính xem sao.

    - Em đi cùng anh, - tôi nói. Trong giây lát, ngôi nhà tăm tối mất hẳn vẻ ấm cúng.

    - Anh này, - tôi ngẫm nghĩ và tỉnh táo lại. - Thay vì đi tìm nhiên liệu, sao anh không gọi Triple A bằng di động? - Hay tốt hơn hết là gọi 911, tôi nghĩ lúc liếc nhìn xuống các bậc thang chìm trong bóng tối.

    Một phút sau, Paul cười to.

    - Thế mới đúng là Lauren của anh, - anh nói và thọc tay vào túi. - Lúc nào cũng ngộ nghĩnh ngay trong cảnh bực mình.

    Bàn tay anh rút ra trống không.

    - Anh để di động của anh đang sạc pin trong xe rồi, - Paul nói. - Chúng ta phải dùng của em vậy.

    - Em để nó trong xắc, trên ghế xe.

    - Đợi ở đây nhé. Anh ra lấy.

    - Cẩn thận đấy, - tôi gọi Paul.

    - Đừng lo. Đây là Connecticut, em yêu ạ.



    Chương 84
    Năm phút sau đó trôi qua chậm chạp. Làn gió lạnh buốt bỗng thổi qua cửa sổ vào nhà. Tôi đăm đăm nhìn ra những cái cây đu đưa, lúc này nom chúng như trong phim Dự định của phù thủy Blair. Ma quỷ không đến các ngôi nhà mới chứ?

    Tôi lại xem đồng hồ. Paul có trở lại bây giờ không? Sao lấy di động trong xe mà lâu thế?

    Tôi ra cầu thang và nhẹ hẳn người khi nghe thấy tiếng bước chân của Paul. Anh đang đứng ở ngưỡng cửa trước để mở, tay cầm đèn pin sáng lóa. Anh đã lấy đèn trong thùng xe?

    - Anh lấy được chưa? - Tôi gọi xuống.

    Ánh đèn chiếu thẳng vào mặt tôi, làm tôi lóa mắt. Rồi những bước chân nặng nề gõ thình thịch lên cầu thang.

    - Tắt đi, Paul, - tôi nói. - Đừng đùa nữa.

    - Nhầm rồi, mụ phù thủy, - một giọng xa lạ nói. - Rồi một bàn tay thô bạo thộp ngực tôi và tôi bị đẩy ngã ngửa trên sàn.

    Không phải chuyện đùa. Không phải Paul.

    Trong nửa phút sau đó, tôi không thể làm được gì. Nhìn, thở, suy nghĩ đều làm tim tôi đau nhói. Khi lại có thể tập trung ý nghĩ, tôi giơ tay lên che và liếc nhìn bộ mặt của bóng người đứng im lìm khó chịu sau ánh đèn sáng chói mắt.

    - Anh là ai? - Tôi nói.

    - Mày không biết à? - Giọng nói hằn học. - Mày có phải vắt óc nghĩ ra một cái tên không hả? Mày đúng là một con sói cái khốn nạn.

    Ánh đèn đột ngột chiếu thẳng lên mặt gã đàn ông.

    Ôi, lạy Chúa.

    Tôi nén tiếng kêu, thay vào đó buột ra một tiếng rên rỉ.

    Môi tôi run rẩy lúc nhớ lại tấm ảnh căn cước. Da ngăm ngăm, cặp mắt vô hồn trên gò má cao và rỗ.

    Tôi trân trân nhìn Mark Ordonez. Anh trai tên Victor đã chết!

    Ý nghĩ tiếp theo của tôi là: Súng của mình đâu?

    Một tiếng cách khẽ của kim loại vang lên cạnh ngọn đèn.

    - Mày để quên súng trong xe, đồ ngu ạ, - đọc được ý nghĩ của tôi, tên buôn bán ma túy nói.

    - Nghe này, đây không phải là cách giải quyết chuyện này, - tôi nói nhanh. - Hãy tin tôi đi, không giải quyết được gì.

    Ordonez trả lời tôi bằng cách vặn ngoéo cánh tay tôi ra sau lưng.

    - Đứng dậy! - Hắn hằm hè.

    Tôi đứng lên, cảm thấy lạ lùng và bất lực. Tôi cảm thấy mình như không trọng lượng lúc tên buôn bán ma túy túm chặt đằng sau cổ áo tôi, ấn tôi xuống cầu thang.

    - Ra ngoài này mà xem, - Ordonez nói lúc chúng tôi bước ra nền đất xốp của sân trước.

    Hắn chiếu đèn lên một thân hình nằm cạnh ôtô của chúng tôi. Tôi thấy hình ảnh nhòe nhoẹt như qua một màn hình tivi bị nhiễu. Đó là Paul, mặt ngửa lên trời, cả người gần như nằm dưới chiếc ôtô. Máu dưới đầu anh đọng thành vũng trên đất. Anh không cựa quậy.

    - Lạy Chúa tôi! - Tôi nói và quỵ xuống. - Ôi, không, không! Không! Paul!

    Miệng tôi khô khốc ngay lập tức lúc Ordonez giật phắt tôi dậy và lôi tôi xềnh xệch quanh một đống đất, và tôi nhìn thấy chiếc xe tải. Cánh cửa bên sườn xe mở rộng, ô cửa dẫn vào một màu đen ngòm.

    Âm thanh duy nhất là tiếng chân chúng tôi nghiến trên sỏi.

    Tôi mất đâu một chiếc giày. Sau khi tôi nhảy lò cò một lúc, Ordonez dừng lại, cúi xuống và giật phắt nốt chiếc giày kia. Hắn ném chiếc giày vào bóng tối.

    - Mày không cần nó nữa đâu, - hắn nói. - Cứ tin tao đi.

    Đi xuống quả đồi phía sau xe, tôi ngắm từng cửa sổ sáng đèn của các ngôi nhà xa xa. Tôi hình dung một gia đình đang ngồi quanh bàn ăn, bọn trẻ đang bày đĩa và các đồ ăn bằng bạc, ông bố tháo cà vạt. Vô số vì sao nhấp nháy bên trên các ngôi nhà.

    Không dành cho ngươi đâu, tôi nghĩ lúc bị ném vào ô cửa xe mở toang hoác.

    Sàn kim loại lạnh lẽo đập vào má tôi, rồi sau đó chỉ còn bóng tối và tiếng sầm sầm của cánh cửa đóng lại. Âm thanh của kim loại vang vọng trong tai tôi.

    Đấy là âm thanh của cõi nhân gian sập cửa vào mặt tôi vĩnh viễn.


    Chương 85
    Tôi không thể ngừng nghĩ đến thân hình Paul đang nằm trên đất cạnh ôtô của chúng tôi.

    Khoảng mươi phút sau tôi hết run rẩy và có thể nói được.

    - Anh đưa tôi đi đâu? - Tôi nói và hướng về phía trước của chiếc xe.

    Mark Ordonez đang hí hoáy nghịch một đồ dùng bằng bạc trên bảng đồng hồ trong lúc lái xe. Tiếng nhạc bỗng tràn ngập trong xe. Nhạc cổ điển, có nhiều kèn co. Trong tình huống như vậy, tiếng nhạc vang lên nghe thật lố bịch.

    - Có thích XM không? - Hắn gọi với tôi. - Đây là bản Fly Me to the Moon. Chỗ của thằng khốn Frank 1 là cái áo mưa của ông bố.

    Hắn quay tròn cổ. Tóc cắt kiểu đầu đinh, trông hắn giống một bản sao của Victor em trai hắn, song tự chủ hơn, có kỷ luật hơn. Thứ duy nhất hắn đeo lóe sáng là chiếc đồng hồ tay, một chiếc Rolex bằng thép. Sao hắn lại làm tôi sợ hơn em trai hắn? Bên cạnh khuỷu tay hắn có một cái cốc cắm trong giá. Hắn cầm cốc lên và nhấp một ngụm.

    - Chúng ta đến đâu đây? - Tôi hỏi lại.

    - Chẳng đến đâu hết, - hắn nói. - Lên một chiếc Piper trong sân bay, bay qua biên giới Connecticut ở Rhode Island. Tao sẽ đưa mày bay một chuyến nho nhỏ. Mày đã sẵn sàng chưa?

    Câu đó làm tim tôi như rụng xuống. Tôi muốn kêu, nhưng kêu là quá lo lắng cho bản thân. Lúc này, điều cuối cùng tôi muốn làm sau mọi đau đớn và tàn phá tôi đã đem lại cho những người gần gũi là lo cho bản thân.

    Tình trạng tê cóng, khô héo choán lấy tôi lúc tôi nghĩ đến Paul. Lạy Chúa lòng lành, tôi cầu nguyện. Hãy phù hộ cho Paul tai qua nạn khỏi. Tôi thực sự sửng sốt mong Chúa nhận lời thỉnh nguyện của tôi lúc này.

    Tôi nằm đó, im lặng lúc chiếc xe chạy lúc lắc.

    - Này, - Ordonez nói và vặn nhỏ radio. - Tao sẽ cho mày biết chúng ta đi đâu nếu mày nói cho tao biết việc này.

    Tôi quan sát cặp mắt xám lạnh lẽo của hắn tìm gặp mắt tôi trong gương chiếu hậu.

    - Hãy cho tao biết vì sao mày và cộng sự của mày lại giết em trai tao rồi đổ cho nó là kẻ giết người? Nó không giết thằng cớm đó. Mày biết thế, và tao cũng biết thế. Ý tao là có chuyện quái gì vậy? Tại sao, hả?

    Tôi thấy chút hy vọng lúc chiếc xe vẫn lăn bánh. Ordonez tưởng tôi có thứ hắn muốn. Thông tin về em trai hắn. Tôi phải dùng điều đó để trì hoãn hắn, làm hắn mất thăng bằng để tạo dịp thoát thân.

    - Chúng tôi nhận được tin từ một chỉ điểm, - cuối cùng, tôi nói.

    - Một chỉ điểm? - hắn hỏi. - Tiện cho chúng mày quá nhỉ. Thằng hớt lẻo đó có tên chứ?

    - Chắc là có, song tôi không biết, - tôi nói. - Nguồn tin từ đội đặc nhiệm của Scott. Có kẻ trong tổ chức của anh, tôi có thể nói điều đó là sự thực. Hãy cho tôi cơ hội, tôi sẽ giúp anh tìm ra hắn.

    - Ái chà chà, - Ordonez nói. - Mày nói dối giỏi chẳng kém gì thằng Scott. Nó lúc nào cũng thích những đứa đầu óc sắc sảo như mày, kể từ hồi trong trường.

    Tôi nghển cổ lên, nhìn chằm chằm vào gương chiếu hậu.

    Hắn vừa nói gì vậy?

    - Anh quen Scott? - Tôi buột nói to.

    - Scott là đồng hương của tao, - tên buôn bán ma túy nói và đảo tròn mắt. - Hồi tao và Vic còn vận chuyển các bao niken, chúng tao đã quen với những vụ bắt giữ giả mạo cùng Scott. Chúng tao chia nhau tiền của ông chủ. Tao thường báo cho hắn về các cuộc cạnh tranh, những khách có tiền. Hắn báo cho tao những cuộc vây bắt.

    Ordonez cười phá khi thấy vẻ sửng sốt của tôi.

    - Cái đêm Scott chết, tao đã hẹn gặp hắn. Nhưng hắn hoãn. Hắn bảo hắn có một cú điện của một thám tử xinh đẹp trong Đội Điều tra các vụ giết người. Ở Yonkers. Mày biết con mèo đó là ai không?

    Tôi nhắm nghiền mắt, nghiến chặt hàm răng. Tôi không thể tin mình lại ngu đến thế.

    - Ờ, Scott là một thằng dẻo mỏ, - Ordonez nói. - Có điều, tao đoán đêm hôm ấy nó chuồn đi với mày. Nó đã từng hỏi ý kiến mày để lợi dụng mày chưa hả? Lẽ tất nhiên ngoài cái việc đút vào trong quần lót của mày. Vì nó chưa bao giờ làm việc gì mà không có lý do ngoắt ngoéo nào đấy, cứ tin tao đi. Scotty là một Freddy Krueger đeo phù hiệu, trơn hơn lươn.

    Chúng tôi im lặng sau câu chuyện khá ngạc nhiên đó.

    - Mày còn muốn tao cho biết sắp đến đâu không? - Giây lát sau, Ordonez nói.

    Tôi gật đầu:

    - Có chứ.

    Ordonez nháy tôi trong gương.

    - Đại Tây Dương, - hắn nói. - Cách đất liền khoảng một trăm rưởi dặm. Giờ thì nghe cho kỹ, việc này mới hay: tao sẽ rạch toang bàn tay, bàn chân mày.

    Hơi thở của tôi bắt đầu chìm trong những tiếng nức nở.

    - Đừng lo, thưa quý cô. Không chết người đâu, - Ordonez nói. - Nhưng sau đó tao sẽ giảm tốc độ, hạ độ cao và đẩy mày qua cửa xuống biển cả xanh thẳm. Bây giờ mày đã hình dung ra chưa? Mày hiểu ý tao chưa?

    Tôi bỗng thấy ngạt thở. Nếu tay không bị còng, ắt là tôi đã bịt chặt hai tai.

    - Từ lúc đó, mày chỉ có hai lựa chọn, - hắn nói tiếp lúc tôi bị cơn suyễn đầu tiên trong đời. - Chết đuối, hoặc cố mà sống sót. Hình như mày thích loại can đảm. Tao đoán mày nghĩ là sẽ gặp may - một con tàu hoặc máy bay đi qua phát hiện ra mày, vớt mày lên. Có điều chuyện đó sẽ không xảy ra.

    Ordonez uống một ngụm và điều chỉnh gương chiếu hậu. Hắn lạnh lùng nhìn tôi. Rồi lại nháy mắt, khủng khiếp.

    - Lúc mày vùng vẫy trong nước, máu sẽ rỉ ra. Rồi cá mập sẽ lao tới, Lauren, - hắn nói. - Không phải một, hai con. Tao nói cho mà biết, hàng trăm con. Đủ loại: cá mập đầu búa, xanh, hổ cát, có khi cả một hoặc hai con cá mập trắng loại lớn, chúng sẽ làm cho mày thành một mớ thịt nhừ. Lúc đó, Lauren, tao không đùa đâu, tao muốn thông báo cho mày đầy đủ, mày sẽ trải qua một cái chết đau đớn nhất có thể tưởng tượng. Lẻ loi, giữa đại dương, bị ăn sống nuốt tươi.

    Nếu mày còn băn khoăn, thì nghe đây: tao yêu em trai tao như một người anh.

    Ordonez đột ngột vặn to radio, tôi đoán hắn muốn thể hiện sự khinh bỉ tôi.

    Dù thứ tôi nghe thấy là không thể. Nhưng đúng là thế.

    Frank Sinatra.

    Thật trớ trêu, Ordonez lại xem đồng hồ Rolex và uống ngụm nữa. Giống như cách em nhìn...- hắn hát theo Sinatra, vui vẻ bật ngón tay tanh tách, đêm nay.

    --------------------------------
    1 Frank Borman, một trong bốn phi hành gia trên con tàu vũ trụ Apollo 8 của Mỹ, phóng ngày 21 tháng 12 năm 1968.


    Chương 86
    Khoảng mươi phút sau, sự kinh hoàng choán hết người tôi. Tôi nằm úp mặt xuống sàn xe, im lìm như một cái xác trong xe tang. Mark Ordonez lái rất êm, giữ ở tốc độ năm mươi nhăm cây số giờ nhằm không bị chú ý.

    Từ những tiếng ầm ầm của các xe tải lướt qua, tôi đoán chúng tôi trên đường I-84 nhằm phía đông đảo Rhode. Còn bao lâu nữa mới tới sân bay? Một giờ?

    Tôi dần tỉnh khỏi cơn mê. Đúng lúc nhận ra khắp người đau nhức. Tôi lật nghiêng, co đầu gối cho đến khi gần chạm vào bụng.

    Dù con là ai mẹ cũng xin lỗi, tôi nói với đứa con trong bụng lúc run lên vì thất vọng. Mẹ xin lỗi, rất xin lỗi con, con bé bỏng của mẹ.

    Tôi bị lắc rất mạnh lúc chiếc xe đột ngột ngoặt sang phải.

    - Này! - Ordonez quát, hắn nhìn chằm chằm vào gương lúc chúng tôi lại lùi ra sau lần nữa.

    - Thằng cha này say quá. Vào đúng đường đi, ông bạn.

    Cú va chạm mạnh thứ hai thúc vào bụng tôi. Ngay sau đó, một tiếng ầm răng rắc, thành bên tay lái chiếc xe tải cong hẳn vào trong. Lạy Chúa! Cái gì thế?

    Tiếng va chạm đều đặn cùng sự rung lắc dữ dội trùm lên chiếc xe tải. Tôi nhận ra chúng tôi đã vượt qua những đường khía nhằm giữ lái xe khỏi ngủ gật. Âm thanh như tiếng đồng hồ báo thức kỳ quái tắt hẳn trong đầu tôi lúc trán tôi đập như dùi trống lên sàn xe.

    - Đồ chó đẻ! - Ordonez hét lên lúc dận chân ga. Động cơ xe tải gầm vang, sự chấn động ầm ầm ngừng hẳn lúc chúng tôi lao sang trái, trở lại làn đường.

    Tôi lăn về phía đối diện và đập vào thành xe bên kia như một hộp bánh pizza bị bỏ quên.

    - Này! Hắn không say, - Ordonez quát gọi tôi. - Thằng lái xe đầy máu. Tao không thể tin nổi! Sao mày có thể mê cái của cứt đái này? Đấy là thằng chồng mày!

    Hắn dận chân ga mạnh hơn. Động cơ rền rĩ, chiếc xe tải bắt đầu loạng choạng vì tăng tốc quá nhiều.

    - Thằng da trắng này tưởng nó mạnh lắm, hử? Muốn đâm xe chắc? - Tên buôn ma túy cười khẩy trong gương chiếu hậu lúc vượt qua.

    Bụng tôi quặn thắt lúc nhìn thấy hắn với tay cài dây an toàn qua vai. Tôi không có lấy một sợi dây kìm giữ.

    - Đúng thế, mày là đồ chó đẻ. Đồ bốn mắt! Thế đấy. Làm sao mày lại thích những...

    Có tiếng rít của kim loại và cao su lúc Ordonez nhấn phanh.

    -... thằng như thế! - Hắn gào lên.

    Trong giây lát, âm thanh duy nhất là tiếng tôi trượt thẳng tới chỗ ghế ngồi của khách.

    Rồi phía sau chiếc xe tải bay vào trong với tiếng ầm ầm điếc tai.

    Tôi trồng cây chuối lúc chiếc xe tải lao về trước, rồi đập bụng xuống lúc nó nảy dữ dội và tụt lại đằng sau. Tôi bàng hoàng nhìn thấy khói đằng trước cái từng là chiếc Camry của Paul qua khe hở những cánh cửa kép đằng sau cong oằn. Trên nóc mui xe quăn queo, qua kính chắn gió vỡ nát, tôi nhìn thấy Paul. Anh đẫm máu, nhưng ít ra còn chớp chớp mắt lúc anh sờ cái túi khí trên lòng.

    Tôi quay sang Ordonez đúng lúc nghe thấy một tiếng cách to của kim loại. Hắn giơ cho tôi thấy khẩu Glock của tôi lúc mở cửa.

    - Đừng lo, Lauren, - hắn nói. - Chuyến đi của chúng ta vẫn theo đúng lịch trình. Tao sẽ trở lại ngay thôi, cô nàng ạ.

    Lúc hắn bước ra khỏi xe, một ý nghĩ xuyên suốt người tôi như một nhát búa tạ.

    Hắn đi giết Paul! Sau mọi chuyện này, Paul sẽ chết!





  8. #27
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 87
    Lúc đó tôi hét lên. Một trong những tiếng gào trong cổ họng, không thành lời vang trong tai tôi lúc tôi trườn bằng cả hai tay vẫn bị còng sau lưng.

    Lao đầu đi trước, hấp tấp, không kịp nghĩ, tôi trườn tới cánh cửa mở toang phía lái xe. Tôi cách cánh cửa mở đến một dặm, song cố hết sức đập đầu vào bánh lái trước khi ngã lộn ngược vào khoảng trống dưới ghế lái xe. Không thể tin nổi.

    Động cơ chạy không rồ lên lúc tôi ấn vào chân ga đằng sau. Tôi đá chân, cố tạo một lực đòn bẩy để thoát ra ngoài. Chân tôi bị mắc vào giữa bánh lái và chân ga.

    Tôi cố đá, cố thoát thân.

    Ôi chao.

    Chân ga trượt khỏi chân tôi, cái xe bỗng chuyển bánh. Chiếc xe tải đang vào số!

    Nhờ những tiếng còi xe gay gắt và tiếng kèn kéo dài từ một ngôi nhà, tôi đoán mình đã vào dòng xe cộ.

    Tôi cố nép sang một bên lúc Ordonez chạy tới và nhảy đại vào xe qua cánh cửa mở toang.

    - Mày định đi đâu, con chó điên kia? - Hắn quát. Hắn tát vào mặt tôi, túm lấy tôi và ném tôi lên ghế. Sau đó hắn lái chiếc xe tải vào lề đường.

    Hắn tắt động cơ, kéo phanh và đút chìa khóa vào túi trước khi bước ra ngoài.

    Ordonez giơ một ngón tay dọa tôi và cười gằn, hiểm ác:

    - Chúng ta thử lần nữa nhé, - hắn nói. - Mày vẫn... Tôi không bao giờ nghe được hết câu hắn nói.

    Một xe chở hàng cỡ lớn cuốn phăng hắn và cánh cửa của chiếc xe tải. Một chiếc Chevy Tahoes chất đầy hàng và kêu ken két như một bãi xe trong cơn lốc xoáy. Hẳn nó đang chạy với tốc độ bảy nhăm hoặc tám mươi dặm.

    Một giây trước Ordonez còn đứng đó, giây sau hắn đã mất rồi. Biến hẳn, như trong một trò quỷ thuật.

    Trò hay nhất tôi từng xem.

    Chương 88
    Tôi ngồi đó, chớp chớp mắt nhìn kính chắn gió của chiếc xe tải. Chiếc xe chở hàng không dừng lại. Thậm chí không giảm tốc độ. Hình như người lái xe không chú ý. Tôi bắt gặp cái gì đó động đậy trong bụi cây ven đường cách đó khoảng ba chục mét. Cửa chiếc xe tải hay tên buôn ma túy, tôi không biết chắc.

    Sau cùng, có lẽ Chúa đã nghe thấy lời cầu nguyện của tôi. Hoặc nghe thấy lời ai đó cầu nguyện cho tôi.

    Paul nằm trên đất đằng sau chiếc xe tải tan tành. Tôi nhìn thấy thân hình anh lúc tôi cố ra khỏi chiếc xe tải. Tim tôi lại nhảy thót lên tận cổ.

    - Paul, em đây, - tôi nói lúc chạy và quỳ gối cạnh anh. Tôi cầu cho anh qua khỏi. Tôi chỉ cố kéo căng đôi tay bị còng sau lưng ra để cấp cứu.

    - Lauren, - anh nói. Răng anh đánh vào nhau lập cập. - Anh thấy đèn hậu chiếc xe chạy đi, và anh...

    - Anh đừng nói, - tôi bảo.

    Hình như máu chảy ra từ sau gáy Paul, chỗ tên buôn bán ma túy đánh trộm, chắc là vài lần. Hơi thở của tôi nghẹn lại khi những từ xuất huyết màng não lóe lên trong trí tôi. Tôi thường đọc chữ đó trong các biên bản điều tra về nguyên nhân cái chết. Thực ra, việc Paul tỉnh lại cũng như một trong hai chúng tôi còn sống đã là điều kỳ diệu.

    - Nằm im nào, - tôi thì thầm vào tai anh. - Đừng cử động.

    Nhiều ôtô trên đường cái lướt qua chúng tôi lúc tôi ngồi xuống đống thủy tinh vỡ cạnh Paul. Những ngọn đèn xanh, đỏ bắt đầu nhấp nháy xa xa. Máu Paul ấm cả chân tôi.

    - Anh đã cứu em, Paul ạ, - tôi thì thầm lúc hai chiếc xe tuần tra của cảnh sát bang tách khỏi dòng xe cộ và đỗ kít ngay trước chúng tôi.

    Anh đã cứu em lần nữa, tôi nghĩ nhưng không nói ra lời.

    Chương 89
    - Sữa và đường nhé? - Cảnh sát Harrington nói lúc đến chỗ tôi trong phòng đợi của Trung tâm Y tế UConn.

    Từ lúc cô và đồng sự, cảnh sát Walker nhìn thấy phù hiệu của tôi, họ đối xử hết sức ân cần. Thay vì đợi xe cấp cứu, họ đặt Paul vào ghế sau xe của Harrington và chỉ hỏi khi chúng tôi nhằm tới bệnh viện gần nhất. Cảnh sát Harrington còn cho tôi mượn đôi dép trong túi đồ của cô trên thùng xe và lồng vào bàn chân trần, đau đớn của tôi.

    - Chồng và con chị thế nào? - Cô muốn biết.

    - Siêu âm cho thấy ổn cả, - tôi nói. - Nhưng Paul bị chấn thương và phải khâu. Họ muốn giữ anh ấy qua đêm để theo dõi. Ơn Chúa, bác sĩ cho là anh ấy sẽ ổn. Cảm ơn cô và đồng sự của cô.

    - Không thể nói như thế về gã Ordonez, - người nữ cảnh sát lắc đầu. - Tôi đã gọi điện đến hiện trường. Họ tìm thấy hắn trong cỏ, cách đường cái vài chục mét. Chiếc xe chở hàng đã cuốn hắn đi. Người ta bảo trông hắn như một đồng xu để quên trên đường ray. Đấy là mặt trái của việc tìm kiếm những rắc rối, phải không nào? Đôi khi ta tìm thấy hơn dự tính một chút. Quan trọng nhất là chị khỏe mạnh. Cả chồng con chị nữa chứ. Cả gia đình chị an toàn. Còn cần gì hơn nữa?

    Tôi nhìn vào gương mặt ân cần của người nữ cảnh sát. Mái tóc vàng hoe của cô chải gọn ra sau, đôi má nhẵn nhụi, cặp mắt xanh xám thông minh của cô tràn trề cảm thông. Có lẽ cô mới ra trường được một, hai năm. Ngày xưa tôi đã từng sốt sắng, nghiêm chỉnh như thế sao? Tôi cho là thế. Dường như cách một triệu năm trước vậy. Và trên một hành tinh khác. Tôi vừa khâm phục vừa ghen tị với cô.

    - Đội Điều tra các vụ giết người New York như thế nào? - Cô hỏi. Trong mắt cô lấp lánh vẻ háo hức. - Thực ra nó giống cái gì? Tôi hy vọng không giống như trong phim Luật pháp và Mệnh lệnh.

    - Đừng nghe cô ấy, - một giọng nói oang oang phía sau chúng tôi. - Cô ấy nói dối như Cuội.

    Tôi quay nhìn bộ mặt tươi tỉnh đã một thời gian tôi không thấy. Dường như lâu lắm rồi.

    Đó là cộng sự của tôi, Mike.

    - Anh làm gì ở đây? - Tôi nói.

    - Một trong những anh chàng Connecticut lanh chanh gọi cho Keane, và ông ấy gọi cho tôi, - Mike nói lúc xiết chặt bàn tay tôi. - Tôi đến thẳng đây. Các bạn đã đến giúp cô hả? Không thể tin nổi. Một chuyến đi

    kinh khủng. Cô cừ lắm, Lauren ạ. Đấy là những tin tốt lành nhất tôi đã nghe suốt ngày.

    Tôi gật đầu. Cuối cùng, tôi bật khóc. Tôi đã đối xử với Mike như với kẻ thù, còn lúc này anh ở đây, nắm tay tôi, ủng hộ tôi như thường lệ.

    - Tôi xin lỗi Mike, - tôi nói. - Tôi...

    - Sẽ mua cho tôi bữa ăn khuya nhé? - Mike nói, nối kết khuỷu tay chúng tôi lúc đỡ tôi dậy. - Tốt, nếu cô muốn thế.

    Chúng tôi tìm thấy một quán ăn mở suốt đêm ngay trên phố có bệnh viện.

    - Có gì mới không, Lauren? - Mike hỏi lúc chúng tôi đã yên vị. Anh trở lại là một cảnh sát dí dỏm.

    Tôi uống cà phê trong khoảng im lặng lúng túng giữa chúng tôi. Niềm vui chan chứa và chua xót. Giống như những điều lúc này tôi phải thú nhận.

    Mike nháy mắt với tôi:

    - Nói đi, Lauren. Tôi đã giết một tên Ordonez, - anh nói khẽ. - Giờ cô giết nốt một tên Ordonez. Nếu cô không thể nói với tôi, thì còn với ai nữa nào?

    Tôi kể hết với anh. Nhìn đăm đăm vào tách cà phê, tôi thuật lại toàn bộ câu chuyện. Tôi đã biết những gì. Biết khi nào. Từng thay đổi nhớp nhúa và từng diễn biến hào nhoáng.

    Mike uống ngụm Diet Coke cuối cùng của anh thật to và nhìn những ngọn đèn pha lướt qua.

    - Cô có hiểu gì không, Lauren? Tôi lắc đầu.

    - Cứ gọi tôi là kẻ đê tiện, nhưng ngay cả khi nghe xong toàn bộ chuyện này, tôi hầu như mừng vì sự thể đã diễn ra. Có lẽ bọn chúng không giết Scott, nhưng cả hai tên Ordonez này đều thuộc loại ác hiểm đáng sợ. Nếu thằng anh Mark nói đúng về việc Scott dính dáng với bọn chúng, thì Trời ạ, có khi cậu ta có một chuyện gì đó. Lạy Chúa, - Mike nói. - Chắc cậu ấy làm việc theo nhiều cung cách bí ẩn.


    Chương 90
    Tôi lắng nghe tiếng đĩa bát lách cách trong quán. Một thứ gì đó kêu xèo xèo trên vỉ nướng. Trên tivi đằng sau người tiếp tân, một phóng viên lảm nhảm như một thằng ngốc về chuyện anh ta bị cơn cuồng phong trong trận bão ở Florida vùi dập.

    - Chính vì thế tôi bỏ đi, - cộng sự của tôi bỗng nói. - Em trai tôi có một quán bar ở San Juan. Nó mời tôi xuống đấy. Tôi đã nộp đơn. Tôi đang làm thủ tục lĩnh tiền nghỉ việc, vì thế hôm nay là ngày làm việc cuối cùng của tôi. Tôi sẽ ra đi.

    - Nhưng...

    - Nhưng gì hả, Lauren? - Mike nói. - Tôi đã hiến cả thời gian của tôi và cô có biết không? Nó chẳng đi đến đâu hết, nên phải dứt thôi. Nếu cô nhầm lẫn ở nhà máy và có người bị thương, điều tồi tệ nhất xảy ra là gì? Cô sẽ bị mất việc. Trong nghề của chúng ta, nếu cô sai lầm, khả năng là cô mất việc và bị tống giam. Mà vì cái gì kia chứ? Năm chục ngàn đôla một năm ư?

    Thậm chí, chúng ta không được phép đình công. Thế đấy. Cô có biết tôi đã làm bao nhiêu người chết không? Bao nhiêu bà mẹ khóc thương không? Chẳng bõ chút nào. Tôi chấm dứt thôi. Bài hát ấy là gì nhỉ, Lauren? Kể cả những bức tường cũng sụp đổ.

    Tôi lại khóc tức tưởi, khóc thực sự.

    - Đúng, - tôi cố nói. - Và tôi là người đang cầm búa tạ.

    Mike đưa ngón tay cái lên lau nước mắt trên má tôi.

    - Khỉ thật, - anh nói. - Tôi kéo cái cò súng ấy mà chẳng làm được gì cho cô.

    Tôi nhìn anh đăm đăm:

    - Chẳng gì ư?

    - Phải, - anh nói và bóp ngón tay trỏ với ngón tay cái vào nhau. - Có lẽ chỉ một tí xíu thôi.

    Tôi đấm vào cánh tay anh.

    - Nhưng tôi tha cho cô, Lauren, - anh nói. - Chúng ta là đồng sự. Nhưng khi nó trở thành một việc đúng đắn cho gia đình cô, sự việc bị đẩy rất nhanh, phải không? Tôi là ai mà phán xét? Chẳng là ai cả. Không gì hơn. Chính vì thế tôi ra đi. Dù tôi rất tiếc một thứ?

    - Thứ gì vậy? - Tôi hỏi.

    - Không được ở đó để thấy cái cười méo mó trên bộ mặt bóng nhẫy của Jeff Buslik khi cô hăm dọa hắn. Tôi luôn biết cô là một con ngựa háu đá, nhưng Trời ạ. Cô tấn công thẳng cổ đối thủ nếu cần phải thế.

    - Hoặc thấp hơn, - tôi nói và lau cặp mắt đỏ hoe. - Trong bất cứ tình huống nào.

    Mike nhấc chai sốt cà chua nấm và làm dấu thánh giá cho tôi.

    - Giờ ta tha thứ cho những tội lỗi của con, con của ta. Con hãy đi vào lòng đất và sẽ không còn tội lỗi, - anh nói và đứng dậy. - Tôi nói rồi, Lauren. Cô là người tốt. Đừng quên điều đó nhé.

    Anh cúi xuống, hôn lên trán tôi rồi đứng thẳng lên.

    - Nếu cô tiện đường xuống San Juan, hãy tìm tôi nhé. Cộng sự cũ mà, dẫu là một người siêu rồ như cô, cũng đáng để nâng cốc margarita thâu đêm.


    Chương 91
    Sáng thứ Hai tuần sau đó, tôi tắm xong thì thấy Paul đợi sẵn. Một tay anh cầm tách cà phê cho tôi, tay kia cầm áo choàng tắm.

    - Phục vụ chu đáo gớm, - tôi nói và tươi tắn cười với anh. - Em hầu như không thể chịu nổi. Hầu như thôi.

    - Đấy là điều tối thiểu anh có thể làm trong một ngày trọng đại như thế này, - anh nói và đặt nụ hôn lên mũi tôi vẫn rỏ nước ròng ròng.

    Một ngày trọng đại, tôi nghĩ lúc long trọng khoác áo choàng. Tôi nhấp một ngụm cà phê và lấy ống tay áo lau hơi nước trên gương rồi ngắm mình.

    Ngày đầu tiên tôi trở lại làm việc.

    Và là ngày cuối cùng trong sự nghiệp của tôi.

    Tôi đã quyết làm theo lời chỉ bảo của Mike. Hôm nay tôi sẽ nộp đơn xin từ chức, rồi sẽ ra đi. Tôi biết là một sự thay đổi cho tôi. Nó sẽ là một đòn nặng khi đã quen là một cảnh sát.

    Nhưng với những chuyện xảy ra trong mấy tuần qua, tôi phải thừa nhận đây là thời điểm tốt nhất để di chuyển.

    Hai mươi phút sau, mặt mũi và phù hiệu đã đánh bóng, Paul hôn tôi cái nữa ở cửa gara.

    Anh đã ăn vận chỉnh tề, trông rất tuyệt, điển trai như mọi ngày. Ơn Chúa, anh chỉ bị chấn động qua loa đúng như các bác sĩ nghĩ. Ngoài hai chục mũi khâu ở sau gáy, anh hoàn toàn khỏe khoắn.

    Anh cũng đang thu xếp nơi làm việc. Giờ mọi sự đã xong. Hôm thứ Sáu, chúng tôi đã làm xong giấy tờ ở công ty di chuyển. Cả hai đều xong. Công việc mới của Paul ở Connecticut và cuộc sống mới của chúng tôi sẽ bắt đầu trong sáu tuần tới.

    Nếu như chúng tôi qua được tám giờ tiếp đó. Không có cái gì là chắc chắn, khi nghĩ đến chuyện vừa qua của chúng tôi.

    - Cả nhà ta sẽ cùng rời bỏ cuộc đua sống còn này... - tôi nói.

    - Luôn ở bên nhau, - Paul nói lúc tiếng lách cách của lớp thép không rỉ vang dội các bức tường gara.




  9. #28
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Chương 92
    Tôi đến gặp trung úy Keane trong văn phòng của ông lúc tôi vào phòng của đội. Ông chỉ ngước khỏi trò đố chữ trên tờ Post sau khi tôi đóng cửa phòng ông.

    Cặp mắt xanh sắc sảo của ông quét khắp mặt tôi. Bỗng nhiên, ông đập mạnh tờ giấy và cái bút xuống sàn.

    - Này, - ông nói. - Không thể là cô. Đừng có nói cô xin đi. Không thể được. Sao lại có chuyện vô lý thế này, hả Lauren? Chúng ta đã mất một cảnh sát, giờ lại mất thêm hai người nữa?

    - Không phải thế đâu, thưa trung úy. Ông đọc nhầm đấy.

    - Tôi xin cô. Trông tôi ngu lắm hả? Nếu cô lo lắng về bọn IAB, tôi sẽ đẩy họ đi và...

    - Tôi có mang, Pete ạ, - tôi nói.

    Keane nhìn tôi trừng trừng như thể tôi vừa bắn một vòng lên trần. Đầu ngón tay ông dụi dụi mắt.

    Cuối cùng, ông miễn cưỡng mỉm cười. Rồi ông đứng dậy và đi vòng quanh bàn, trìu mến ôm tôi như một người cha. Tôi tin là cái ôm đầu tiên ông tặng tôi. Và cũng là cuối cùng.

    - Tốt lắm, cô bạn ạ, dù tôi không nhớ là cho phép cô có thai, xin chúc mừng cô và Paul. Tôi mừng cho cả hai bạn.

    - Tôi rất cảm kích, thưa sếp.

    - Chắc cô cũng gặp một số thứ phiền toái, như tôi nhớ. Tôi cũng thế, trước khi có hai đứa sinh đôi. Thật tuyệt vời cho cả hai. Chắc các bạn phải sướng mê. Tôi rất phiền lòng vì cô ra đi, nhưng rồi sẽ quen thôi. Tôi biết chắc là sẽ nhớ cô. Tôi cho là ra đi sẽ thoát khỏi những chuyện này. Chúng ta có thể mừng sự kiện này được chứ? Một bữa sáng chẳng hạn?

    Sếp tôi gọi món ở quán ăn trong khu liên cơ và chúng tôi ngồi đó suốt nửa buổi sáng, ôn lại chuyện cũ trong lúc ăn trứng bác, quesadilla 1 và uống cà phê.

    - Chà, nếu tôi biết vui như thế này, tôi đã xin nghỉ từ mấy năm trước, - tôi nói và lau giọt nước sốt nóng trên má.

    Điện thoại trên bàn Keane réo vang lúc chúng tôi đang uống nốt cà phê.

    - Alô? - Ông nói vào máy. - Kỳ quá. Rất lạ lùng. Thôi được, cứ đưa bà ta lên đây.

    - Ai vậy? - Tôi hỏi, giọng hơi run.

    - Nhân chứng trong vụ Scott. Tên bà ta là gì? Bà giáo già ấy?

    Tim và bụng tôi quặn lên. Amelia Phelps!

    Giờ là gì đây?

    - Bà ấy muốn gì? - Tôi hỏi.

    Keane hất cái cằm nhọn về phía chấn song cầu thang ở phòng của đội, nơi Amelia Phelps đang đứng.

    - Cô có thể bắt đầu hai tuần xin thôi việc bằng cách tự khám phá. Đến nói chuyện với bà ta đi.

    Tôi đứng lên và ra xem có chuyện gì.

    - Chào bà... à cô Phelps, - tôi nói và dẫn bà già đến bàn tôi. - Hôm nay tôi có thể làm gì cho cô?

    - Tôi cứ đợi một cuộc gọi, - bà ta nói, tháo đôi găng trắng lúc ngồi xuống. - Nhưng không thấy ai liên hệ, nên tôi nghĩ nên ghé qua và hỏi xem có thể giúp gì không.

    Tôi buột một tiếng thở dài nhẹ nhõm.

    - Tôi xin lỗi, cô Phelps, lẽ ra tôi nên gọi cho cô. Chúng tôi đã bắt được nghi phạm nên không cần sự giúp đỡ của cô nữa. Song cô đã có lòng tốt đến đây, tôi có thể lái xe đưa cô về nhà được không? Không có gì phiền đâu ạ.

    Tôi thường không lái xe cho các nhân chứng, nhưng bà Phelps là người già cả. Ngoài ra, bà là người mách nước cuối cùng trong toàn bộ cuộc thử thách này. Tôi đưa bà ra khỏi đó càng sớm càng hay.

    - Được, được thôi, - bà nói. - Cô thật tốt bụng, thám tử ạ. Trước kia tôi chưa bao giờ đi xe cảnh sát. Cảm ơn cô.

    - Cô cứ tin tôi, - tôi nói lúc lái bà ra cửa. - Không phiền gì đâu ạ.

    --------------------------------
    1 Món bánh của Mexico, nhồi pho mát, thịt… rồi nướng lên.


    Chương 93
    Phần ngày còn lại, tôi gọi điện cho phòng nhân sự. Bám riết lấy phòng nhân sự hay hơn là xoay xỏa qua những tệ quan liêu giấy tờ trong việc xin thôi việc của tôi.

    Các bạn trong đội lần lượt ghé qua thể hiện sự ngạc nhiên và chúc mừng tôi. Họ nhất quyết bắt tôi khoảng bốn giờ chiều đến The Sportsmen, quán rượu trong khu liên cơ để liên hoan chia tay.

    Mặc dù bàng quang của tôi suýt vỡ ở quán - tất nhiên là vì Diet Coke -, tôi rất cảm động vì sự quan tâm và tôn trọng của các bạn đồng sự.

    Họ còn tặng tôi một thiếp mừng ngoại cỡ, có toàn bộ chữ ký của mọi người.

    Mặt trước tấm thiếp in dòng chữ Hẹn gặp lại.

    Bên trong là Đừng thành bà cụ non nhé.

    - Chao ôi, các bạn, - tôi sụt sịt nói. - Tôi cũng nhớ các bạn. Và cũng không muốn thành bà cụ non đâu.

    Cuối cùng, khoảng bảy giờ tôi khẩn khoản mới rời được khỏi đó và về nhà.

    Vui thật, tôi nghĩ lúc lái xe vào làn đường. Tôi không nhìn thấy xe của Paul. Anh thường gọi cho tôi biết mỗi khi anh phải làm việc muộn.

    Tôi đang mở di động gọi anh thì chú ý thấy cái gì đó là lạ trong ô cửa sổ bên trên gara. Có một khe hở đen ngòm giữa các sợi mành mành. Tôi vừa bấm số của Paul vừa cố nhớ lại lần cuối cùng tôi mở nó là khi nào.

    Tôi từ từ nhìn lại, rất thận trọng rồi đóng di động đánh tách.

    Khe hở trên mành mành đã khép lại.

    Gượm đã, - tôi nghĩ. - Bình tĩnh nào.

    Đầu óc tôi vội vã lướt qua mọi khả năng. Có lẽ đây là một trong những tên bạn của anh em Ordonez? Hay một người anh em khác mà tôi chưa biết?

    Hoặc có thể chỉ vì quá mệt mỏi và hoang tưởng, tôi nghĩ. Có khi vì uống quá nhiều Diet Coke ở The Sportsmen.

    Tôi lấy khẩu Glock và cài vào đằng sau thắt lưng váy. Hầu như là làm dáng, tôi nghĩ. Nhưng thà hoang tưởng còn hơn là hối tiếc.


    Chương 94
    Tôi rút chìa khóa lúc trèo lên bậc, tự nhiên như thường lệ. Lúc ra khỏi tầm nhìn của ô cửa sổ, tôi rút súng và chạy vòng ra phía sau nhà.

    Tôi liếc nhìn các cửa sổ. Mọi thứ có vẻ y nguyên. Không có dấu hiệu bị đột nhập. Cũng không có gì bất an.

    Trên rèm cửa sau có một khe hở nhỏ. Tôi nhìn chăm chú qua đó, quan sát hành lang từ trước ra sau một lúc. Không có chuyển động gì. Không gì hết.

    Sau vài phút, tôi cảm thấy mình ngốc nghếch. Chẳng có ai ngoài tôi.

    Lúc đó, ở cuối hành lang gần cửa, bỗng có gì đó vút qua căn phòng tối tăm. Một cái bóng to lớn chuyển động rất nhanh. Tôi tin chắc thế.

    Khốn kiếp! Tôi nghĩ lúc mạch đập dồn. Chúa ơi! Tôi có thể cảm thấy tim mình đập thình thịch.

    Đúng lúc đó tôi nghĩ đến Paul. Có lẽ anh đang ở nhà. Có một ai đó ở cùng anh. Đang chạy qua trong bóng tối. Ai? Vì một lý do hợp lý nào chăng?

    Mình phải vào bên trong, tôi hít một hơi thật sâu và quyết định.

    Tôi cởi giày, cố mở khóa cửa sau thật khẽ và xoay nắm đấm hết sức từ từ.

    - Suỵt, - tôi nghe thấy ai đó nói. Không phải với tôi. Tôi giơ khẩu Glock về phía tiếng động, sẵn sàng nhả đạn thì các ngọn đèn bật sáng.

    - NGẠC NHIÊN CHƯA! - mấy chục giọng nói đồng thanh.

    Tôi còn biết nói gì nữa! Lạy Chúa, đây là bạn bè và gia đình tôi. Ít ra là cánh nữ. Thật may mắn, tôi đã không nổ súng. Cảm tạ khẩu súng lục an toàn.

    Tôi ngẩn người vì những quả bóng Myllar, những món quà tặng gói giấy vàng - xanh, cái xe ba bánh cho trẻ tập đi dựng ở góc phòng.

    Rốt cuộc không phải là một cuộc đột nhập. Không có tin xấu hoặc thảm họa gì.

    Đây là bữa tiệc mừng con tôi!

    Căn cứ vào những bàn tay giơ lên che miệng há hốc, những bộ mặt không còn hạt máu, tôi biết họ thực sự sửng sốt.

    Tôi hạ thấp cái nhìn từ giữa mắt dì Lucy già lão của tôi. Bà bắt đầu thở lại.

    - Mẹ nhìn kìa, - đứa cháu gái lên bốn, con của chị gái Michelle tôi nói trong sự lặng ngắt. - Dì Lauren có súng.

    - Ổn cả rồi, thưa các vị, - Paul nói và mỉm cười lúc tiến tới, giúp tôi cho vũ khí vào bao. Anh ôm ghì tôi để giúp tôi hoàn hồn.

    - Sao anh lại tổ chức tiệc mừng lúc này? Em mới có thai mười một tuần thôi, - tôi thì thầm lúc anh hôn lên má tôi.

    - Anh muốn em có tiệc mừng trước khi chúng ta chuyển đi, - Paul nói và quay sang đám đông. - Giờ, hãy cười lên nào. Cười thật to. Chúng ta cùng vào tiệc.

    - Mọi sự ổn rồi, - Paul nhắc lại. - Chỉ là một ngày nữa trong đời một cảnh sát anh hùng. Ai muốn uống nào?


    Chương 95
    Tiệc mừng là một thành công lớn, mọi người đều rất vui, nhất là tôi. Tôi có những người bạn tốt như thế, và họ hàng của tôi phần lớn đều dễ thương. Cuối cùng thì cuộc đời lại bắt đầu có ý nghĩa nào đó. Rồi sau đó...

    - Này, người lạ! - Bonnie Clesnik nói, chị buông tờ thực đơn và suýt lật đổ bàn lúc ôm ghì lấy tôi giữa Dragon Flower phố Mott, ngày Chủ nhật sau tiệc mừng.

    Tôi nhìn khắp nhà hàng rực rỡ thái quá. Chỗ nào cũng có bể cá trông vẩn đục. Khi người bạn cũ của tôi, trung úy Bonnie gọi tôi ra ngoài với chị, tôi tưởng là một quán ăn xoàng, các món nướng rán làm lấy, có thể vài chai Virgin Mary.

    Tôi chớp mắt lúc cầm thực đơn, thấy hình con rùa và ếch. Ái chà. Bữa lỡ ngày Chủ nhật ở khu phố Tàu đây. Tôi đoán Bonnie chưa bao giờ bị buồn nôn buổi sáng.

    - Mình không thể tin là bị nhỡ bữa tiệc tiễn cậu về hưu và mừng cậu có thai, - Bonnie nói lúc chúng tôi đã yên vị. - Có người ở ca ba gọi điện báo ốm, và cậu có biết không? Mình bị đến thay.

    - Để dành sự nuối tiếc lại, Bonnie, - tôi nói và mỉm cười. - Mình đang ở đây này. Thế này mới vui chứ. Hoàn hảo. - Miễn là tôi chịu được món ăn Tàu.

    - Này, - đang ăn dở đĩa tỉm sắm, Bonnie nói. - Bỗng dưng cậu thay đổi nhiều thứ thế. Mình cứ ngỡ họ phải bẩy cậu khỏi công việc kia đấy. Tất nhiên là mình mừng cho cậu và Paul, nhưng... mình không biết nữa. Mình đã thấy cách cậu giải quyết các vụ rồi, Lauren. Ánh lấp lánh trong mắt cậu. Cậu có thể không biết sợ là gì. Mà này, mình không phải là nữ cảnh sát duy nhất được cậu truyền cho cảm hứng. Mình nghĩ là thật khó hình dung được cậu quay gót ra đi. Dù sao mình cũng không thể coi cậu như một người mẹ bận bịu tối ngày vì con cái.

    Thôi nào, Bonnie. Cảm ơn sự tin cậy của cậu, tôi nghĩ. Đây chẳng phải là dịp kỷ niệm sao? Cứ để cho nó thoải mái đi chứ?

    Bonnie bỗng đặt đũa xuống.

    - Suýt quên, - chị nói. - Mình có quà tặng cậu. Bonnie lấy trong xắc một phong bì lớn bằng giấy tơ chuối và đưa cho tôi. Tôi mở nắp.

    - Chỉ là thứ mình luôn muốn có, - tôi nói và nhìn những trang giấy rồi đăm đăm nhìn bạn, chế nhạo. - Một bản dữ liệu máy tính.

    Bây giờ là chuyện gì nữa đây?

    - Mình nhận được từ phòng thí nghiệm của FBI hôm thứ Sáu, - Bonnie nói. Chị lấy khăn ăn thấm nhẹ lên miệng và nhìn thẳng vào mắt tôi, vẻ ân cần. - Đây là kết quả xét nghiệm ADN mình tìm thấy trên tấm đắp bọc xác Scott Thayer.

    Trong giây lát, cả thế giới trắng lóa lúc một luồng nóng bỏng đột ngột xuyên suốt người tôi.

    Tấm Neat Sheet khốn kiếp của chúng tôi! Tôi nhớ rõ cuộc picnic mà Paul đã cung cấp mẫu ADN của anh!

    Đó là dịp kỷ niệm đầu tiên của chúng tôi. Paul đưa tôi và hai chai champagne đến công viên Rockwood Hall tuyệt đẹp ở Bắc Tarrytown. Còn gì đẹp hơn với chúng tôi nữa? Tôi do dự. Cuối hè. Rượu champagne, tiếng dế nỉ non, và chỉ có hai chúng tôi. Đây là lần đầu tiên chúng tôi cố có thai.

    Tôi liếc nhìn những trang giấy, rồi nhìn cô bạn.

    - Cậu đang nói gì vậy? - Tôi hỏi Bonnie. - Mình tưởng cậu đã nói là chỉ tìm thấy máu của Scott.

    - Sau khi cạo sạch máu, mình chú ý đến một thứ khác, một vệt cũ hơn. Hóa ra là tinh dịch khô. Chỉ đủ xét nghiệm ADN.

    Tôi liếc nhìn trang giấy. Nó sẽ là gì với vụ Scott đã đóng lại? Tôi tự hỏi. Nước thánh ư? Đóng cọc qua tim ư? Bắn bằng viên đạn bạc ư?

    Khốn khổ nhất là lúc này tôi biết nói gì đây? Hình như Bonnie đợi một điều gì đấy ở tôi.

    - Sao trước kia cậu không nói với mình việc này? - Cuối cùng, tôi thu hết can đảm hỏi.

    - Mình đã thử, - Bonnie nói. - Nhưng đúng vào buổi sáng Ordonez bị bắn, mình không thể liên hệ được với cậu. Ngày hôm sau, khi mình gọi cho trung úy của cậu, ông ấy bảo mình ỉm cái này đi. Người ta đã tìm thấy súng của Scott trên người Victor Ordonez, và vụ này là vụ xúc động và hiệu quả.

    - Thế vấn đề là gì? - Tôi nói. Bonnie buột một tiếng thở dài.

    - Mình có thể nói gì với cậu đây? ADN không phải của Ordonez. Mình tin chắc thế.

    Tôi đọc được ngay những hàm ý. Họ đã có ADN của Paul! Nó sẽ hủy hoại anh, hủy hoại cả hai chúng tôi. Kể cả đứa con là ba.

    - Thế thì của ai? - Tôi thận trọng hỏi.

    - Bọn mình không biết, - Bonnie trả lời.

    Tạ ơn Chúa, tình hình không đến nỗi tệ hại, tôi nghĩ. Nhưng không may, Bonnie chưa nói hết.

    - Nhưng bọn mình đã lấy được một mẫu ở hiện trường khác, - Chị nói. - Thế thì sao đây?

    Sao kia? Tôi sẽ tự tử ở đây, tại Dragon Flower ư?

    Lời ám chỉ kinh sợ và mơ hồ giáng thẳng vào giữa ngực tôi như một quả đấm.

    - Lại cho mình xem vậy, - tôi nói với Bonnie.

    - Cơ sở dữ liệu của FBI đã thu thập các mẫu ADN ở các hiện trường trong vùng để tìm danh tính thủ phạm. Hóa ra trùng ADN với tinh dịch trên tấm mền trong vụ của cậu, đã tìm thấy ở hiện trường khác, một vụ cướp có vũ trang ở Washington DC. Xảy ra từ năm năm trước. Vụ này chưa bao giờ khép lại.

    Sự kinh hãi cồn cào trong bụng tôi bỗng thay đổi cách tấn công và chẹn ngang họng tôi. Tôi băn khoăn suy nghĩ tuy vẫn giữ tư thế ngồi rất thẳng.

    Không. Không thể thế được. Điều Bonnie nói có nghĩa là...

    Paul dính dáng đến một tội ác khác? Một vụ cướp có vũ trang?





  10. #29
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 96
    Người phục vụ tới và Bonnie trả tiền. Rồi chị với tay qua bàn và vỗ nhẹ vào bàn tay tôi.

    - Mình không có ý đổ dồn mọi chuyện này lên cậu cùng một lúc, Lauren, - Bonnie nói. - Mình cũng sửng sốt không kém gì cậu.

    Muốn chắc ăn ư? Tôi nghĩ và hạ cái nhìn xuống bàn.

    - Một vụ cướp có vũ trang ở DC? - Tôi thì thào, miệng tôi bỗng nhiên như nhét đầy bông. - Cậu có chắc không, Bonnie?

    - Họ đã gửi cho bọn mình bản tóm tắt về sự trùng khớp với ADN ở mẫu máu tìm thấy trong vụ cướp có vũ trang tại một khách sạn ở DC. Nhưng vụ đó chưa phá được, và vẫn còn mở. Sự trùng khớp có nghĩa là bọn mình có những chất dịch vô danh ở hai hiện trường khác nhau. Tinh dịch trên tấm mền dùng gói Thayer. Và máu trong một phòng khách sạn ở DC.

    Như thế có nghĩa gì? Rõ ràng họ chưa biết những thứ đó là của Paul. Dường như đấy mới là vấn đề, tôi nghĩ lúc vùi cái đầu tàn tạ vào hai bàn tay. Hình như mọi sự kết thúc ở điểm này.

    Bonnie vẫn nói nhưng tôi hầu như không nghe thấy chị nói gì. Tôi chỉ còn biết chớp mắt và gật đầu. Điều không thể đã xảy ra. Lần đầu tiên, tôi thực lòng thôi quan tâm đến vụ của Scott. Tôi đã có một thứ sao lãng mới mẻ.

    Gần năm năm trước, Paul đã dính dáng đến một vụ cướp có vũ trang trong một phòng khách sạn? Đầu tôi quay cuồng vì ý nghĩ ấy, rồi nhanh chóng dừng lại.

    Vì điều đó là không thể. Nhưng ADN không nói dối.

    Lúc tôi ngước nhìn, tôi thấy Bonnie đăm đăm nhìn mình, đợi một lời bình luận.

    - Vậy việc này có nghĩa gì? - Tôi nói như thể không biết câu trả lời. - Victor Ordonez không giết Scott ư?

    Bonnie nhìn đám đông trên phố Mott qua cửa sổ. Trong mắt chị lộ vẻ đau đớn.

    - Mình không biết. Làm sao mà biết được, hả Lauren? Có lẽ hắn chỉ mượn tấm mền của một người bạn, nhưng rõ ràng là đã gây nhiều nghi ngờ. - Chị nói. - Loại ngờ vực mà luật sư biện hộ có thể nói cả ngày. Chưa kể đến giới báo chí.

    Tôi nhìn những chữ Tàu bằng neon trong tủ kính nhà hàng. Một con lươn màu đen trong bể nuôi cạnh ngăn chúng tôi đang đập đầu vào kính như cố làm tôi chú ý và nói điều gì đó. Này, Lauren. Sao cô không gào lên và chạy khỏi nhà hàng? Đừng ngừng lại cho đến lúc tới Bellevue.

    Bonnie vuốt thẳng những tờ giấy trên mặt bàn, cho vào phong bì và nhét tất cả vào xắc của tôi.

    - Nhưng mình quyết định rằng đây là loại nghi ngờ mà thành phố này, cơ quan này, vợ Scott và nhất là cậu, Lauren ạ, chẳng cần bác bỏ.

    Chị chỉ cái xắc của tôi:

    - Chính vì thế mình tặng nó cho cậu. Vụ này rút cạn sức lực của những người liên quan. Đây là món quà mình tặng cậu nghỉ hưu. Tên của thám tử ở DC và thông tin liên hệ ở đâu đó trong những tờ giấy này, nếu cậu còn muốn theo đuổi riêng. Hoặc cậu có thể vứt nó qua cầu Brooklyn. Tùy cậu.

    Bonnie đặt nụ hôn thắm thiết lên trán tôi lúc chị đứng dậy.

    - Có điều mình biết rằng là một cảnh sát, cậu làm những điều có thể. Đây không phải lỗi của chúng ta khi không làm trọn vẹn. Lauren ạ, cậu là bạn mình, mình yêu quý cậu và cậu xứng đáng được thế. Hẹn gặp lại cậu.

    Chương 97
    Vài giờ sau, tôi đứng trong bóng tối ở công viên Battery, cực Nam Manhattan.

    Manhattan, cha tôi hay nói trước khi chúng tôi bắt đầu những cuộc tản bộ ba lần một tuần ở chính công viên này. Guồng quay vĩ đại nhất trên đời.

    Bài tập thể dục hàng ngày sau khi nghỉ hưu của ông gồm đi xe điện ngầm từ đây đến ga cuối, đi bộ qua Broadway, xem ông đi được bao nhiêu dặm đường bê tông của Manhattan thì mệt và nhảy lên xe điện ngầm về nhà. Suốt thời gian học ở trường Luật, tôi đi cùng ông mỗi khi có dịp. Lắng nghe ông kể về các tội ác, những vụ bắt giữ xảy ra trên vô số giao lộ. Chính từ một trong những cuộc tản bộ với cha khiến tôi muốn trở thành cảnh sát hơn là luật sư. Tôi muốn được giống cha.

    Chính ở nơi này, bắt đầu chuyến đi bộ một mình, cha tôi đã mất vì một cơn đau tim. Dường như ông không có cách nào khác là dạo qua các nẻo đường trong thành phố mà ông đã phục vụ và yêu quý.

    Tôi để bản báo cáo của FBI dựa vào chấn song han gỉ trước mặt lúc lắng nghe những làn sóng mơ hồ vỗ vào cầu tàu bằng bê tông.

    Chỉ khi nào con hoàn thành trò chơi đố chữ gay cấn nhất này, cha ạ, tôi nghĩ.

    Con đã được giao phó một thứ bất thường. Câu chuyện đời con gần đây.

    - Con phải làm gì hở cha? - Tôi thì thầm lúc nước mắt chảy dài trên má. - Con không biết làm gì bây giờ.

    Tôi biết chính xác chỉ có hai lựa chọn.

    Tôi có thể vứt món quà của Bonnie đi như một chứng cứ còn lại, rồi đến với cuộc sống mới ở Connecticut, làm một người mẹ hạnh phúc.

    Hoặc có thể tát vào mặt mình vì từ bỏ và hình dung cuộc sống sắp tới của tôi đầy khổ ải với người chồng khó hiểu của tôi.

    Tôi giơ chiếc phong bì lên trên chấn song. Việc này thật dễ dàng.

    Chỉ cần tôi mở các ngón tay ra là xong.

    Tôi sẽ đi tàu lên phương Bắc, nơi an toàn, yên ổn, chồng tôi và cuộc sống mới của tôi đang đợi.

    Một cơn gió mạnh cuốn nước, vỗ cái phong bì phần phật trong tay tôi.

    Buông nó ra, tôi nghĩ. Buông nó ra, buông nó ra. Nhưng rốt cuộc, tôi cấu móng tay vào phong bì và ấp chặt nó vào ngực.

    Tôi không thể. Tôi cần đi tới tận cùng vụ này, dù nó khó khăn, xấu xa đến chừng nào. Ngay cả sau tất cả những việc tôi đã làm, những điên rồ, tổn thương bạn bè và che giấu sự việc, tôi vẫn còn một mảnh của thám tử trong con người tôi. Có lẽ còn hơn một mảnh.

    Tôi nhắm nghiền hai mắt. Tôi cảm thấy ở nơi nào đó trong bóng tối của công viên đằng sau tôi, một ông già đang duỗi chân, khởi động cho cuộc tản bộ. Lúc quay ngoắt lại tìm chiếc taxi, tôi cảm thấy qua khóe mắt một người đang gật đầu về phía tôi, nụ cười hiện trên gương mặt.



    Chương 98
    Sáng hôm sau, hơn tám giờ một chút, người chuyên pha cà phê ở Starbucks bên kia phố Pearl, cơ quan của Paul nhếch lông mày ngạc nhiên nhìn tôi.

    Vui thật, tôi nghĩ. Tưởng chừng như trước kia cô ta chưa bao giờ thấy một người đàn bà đầu tóc rối bời, xúc động hỏi mua hết lớp trên hộp bánh nướng vậy.

    Sau lễ hiển linh ở công viên Battery đêm qua, tôi gọi điện cho Paul bảo anh rằng Bonnie muốn tôi lưu lại trong thành phố để tưởng nhớ thời xưa. Rồi tôi lang thang lên Broadway như một kẻ vô gia cư đến tận nửa đêm.

    Tôi đã đi suốt quãng đường đến The Midtown, đến phía nam Ed Sullivan Theater, chân tôi mỏi rời.

    Tôi chỉ còn đủ sức quăng cái khăn trải giường màu cam có nhiều vết lốm đốm đáng ngờ vào một góc căn phòng thuê ba trăm đôla một đêm, rồi thiếp đi. Khá đắt, nhưng Paul có thể trả được.

    Bảy giờ sáng tôi thức giấc, không tắm rửa, tôi rời khách sạn và bắt taxi trên đại lộ Bảy, nhằm khu thương mại đến quận tài chính.

    Lần đầu tiên trong tháng, tôi sắp đặt một trò chơi. Tôi biết chính xác mình phải làm gì.

    Chất vấn Paul.

    Tôi không cần biết nó đạt được gì. Tôi vừa là cảnh sát giỏi vừa là cảnh sát tồi. Tôi liều mang theo cuốn danh bạ điện thoại khách sạn phòng khi phải bắt anh ta nói ra sự thực. Một việc chắc chắn. Paul sẽ phải thuật lại với tôi diễn biến sự việc nếu đấy là việc cuối cùng anh ta từng làm.

    Theo cách tôi cảm nhận khi đứng trong cửa hàng Starbucks bên kia văn phòng Paul, đấy là khả năng dễ thấy.

    - Còn gì nữa không ạ? - Cô nhân viên hỏi và đẩy bữa sáng năm calo qua quầy.

    - Cô chẳng còn gì nữa hết, - tôi bảo cô ta.

    Trong chiếc ghế bành bọc nhung đỏ tía ngoại cỡ cạnh cửa sổ, tôi đọc báo cáo của FBI từ đầu chí cuối.

    Tôi đăm đăm nhìn các bản chụp bằng tia phóng xạ - những mã số kẻ sọc theo chiều thẳng đứng của AND - của hai hiện trường tội ác cho đến lúc mờ mắt.

    Không hề nhầm lẫn, không thể phủ nhận những điều hiển hiện trên giấy. Tôi không cần biết số biến thiên lặp lại hoặc điểm STR nghĩa là gì, cũng thấy hai mẫu giống hệt nhau.

    Tôi để bản báo cáo xuống và để mắt tới cái cửa quay ở tòa nhà công sở lắp kính đen của Paul bên kia đường phố hẹp, tôi bắt đầu việc ăn uống bắt buộc theo kỷ lục thế giới. Đấy, phải cai tiệt rượu và thuốc lá. Làm cảnh sát mang thai có bực mình không kia chứ?

    Mười lăm phút sau, tôi đang liếm kem sôcôla trên ngón tay thì phát hiện ra mái đầu vàng hoe của một người đàn ông tầm vóc như Paul giữa đám complê công sở và cà vạt. Không thể phủ nhận là anh chàng rất điển trai. Đấy là người đã từng và đang là chồng tôi. Có lẽ là người duy nhất.

    Tôi uống nốt ngụm expresso nâu nâu, từ tốn sửa sang lại và chộp lấy báo cáo của FBI.

    Đi ra và giơ tay lên, Paul, tôi nghĩ lúc băng qua đường phố Pearl hẹp, rợp bóng. Mụ vợ khốn nạn của mi, mụ vợ đang có thai của mi có súng trong xắc đây.

    Nhưng lúc đứng trong hàng sau một anh chàng nhân viên bưu điện bên bàn an ninh, tôi chú ý đến một việc kỳ quặc.

    Paul đã ở trong cửa của một thang máy mở. Chúng ta lại đến đây, tôi nghĩ.

    Không như đội quân tài chính tràn lan, complê kẻ sọc nhỏ, anh đi ra như con cá hồi bơi ngược dòng, một con cá hồi lẻ loi.

    Dù gì đi nữa, tôi nghĩ và len qua đám đông bước nhanh tới chỗ anh ta. Nó tiết kiệm cho tôi một chuyến thang máy.

    Nhưng lúc đến gần hơn, tôi nhận ra cái ba lô bắt chéo qua ngực anh. Tay anh xách túi mua hàng.

    Túi màu xanh lơ của hãng Tiffany.

    Tôi chết lặng dừng lại, và lặng lẽ quan sát anh đi ra cửa.



    Chương 99
    BA LÔ? TÚI TIFFANY? Paul định đi đâu vậy? Bây giờ đang có chuyện quái quỷ gì đây? Tôi có thực sự muốn biết không?

    Có! Tôi quyết định phải khám phá bằng được, lúc nhìn anh vẫy taxi.

    Xe của anh vừa chuyển bánh thì tôi huýt gió gọi và vẫy được chiếc tiếp theo đỗ lại.

    - Nghe có vẻ liều, - tôi bảo người lái xe quấn khăn xếp màu cam. - Đi theo chiếc xe kia.

    Chúng tôi đi. Lên Midtown Manhattan. Rồi qua đường hầm Midtown lên đường cao tốc Long Island.

    Khi xe chúng tôi đến đường cao tốc Brooklyn- Queens, tôi gọi vào di động của Paul.

    - Chào Paul. Có chuyện gì thế? - Tôi nói lúc anh trả lời sau vài tiếng chuông reo.

    - Lauren, - Paul nói. - Đêm qua em ngủ ra sao? - Tôi nhìn thấy anh qua gương chiếu hậu của chiếc taxi trước tôi, tay cầm điện thoại.

    - Rất ngon, - tôi nói. - Nghe này, Paul. Em chán lắm. Em đang nghĩ gặp anh cùng đi ăn trưa nay. Có được không, anh?

    Ngay ở đây, Paul. Thời điểm để anh nói thật.

    - Không được đâu, bé ạ, - Paul nói. - Em thừa biết các ngày thứ Hai là không thể được. Bọn anh có sáu bảng lương phải rà soát, làm đi làm lại. Em có thể thấy lúc này sếp anh còn đang bên bàn làm việc. Ông ấy vừa uống thuốc trợ tim kia kìa. Tối nay nếu anh ra khỏi đây lúc tám giờ là may lắm rồi. Anh xin lỗi. Anh sẽ đền em, hứa đấy. Em thấy thế nào?

    Biển hiệu màu xanh lúc chúng tôi tăng tốc "Sân bay Laguardia". Tôi phải bịt chặt ống nghe để chặn tiếng nức nở.

    - Anh giữ sức khỏe nhé, Paul, - một giây sau, tôi nói. - Đừng lo cho em. Hẹn gặp anh tối nay. Nếu không sớm hơn, anh chàng điển trai ạ!

    Tại sân bay, tôi phải chìa phù hiệu và thẻ NYPD ra để qua cửa an ninh mà không cần vé. Rồi tôi lẩn vào dòng người lúc theo Paul đi xuống đám đông khởi hành, qua các quầy báo chí, cửa hàng bán đồ lưu niệm và các quán bar.

    Đi trước tôi khoảng ba chục mét, anh ta bỗng dừng lại. Rồi ngồi xuống bên cổng 32.

    Giữ khoảng cách bằng một dãy bốt điện thoại, tôi cảm thấy vết loét trong dạ dày tôi nổ tung khi nhìn thấy điểm đến của anh ta.

    Washington DC.


    Chương 100
    Tôi mất 175 đôla kiếm một ghế ở giây phút cuối cùng trên chuyến bay của Paul. Biết nói gì đây? Paul đáng giá 175 đôla. Hay thật.

    Quan sát từ một hàng ăn ở bên kia phòng đợi xuất phát, tôi thực sự nao núng lúc Paul làm thủ tục bằng thẻ doanh nhân.

    Nhân viên ở quầy đã làm một việc khá kỳ cục sau khi đưa cuống vé cho Paul.

    Anh ta đấm vào nắm tay Paul vui vẻ như họ là những người bạn cũ! Mọi chuyện này là gì đây?

    Tôi vớ vội tờ báo bỏ ở nơi soát vé che mặt lúc đi qua cabin đằng trước, nhưng tôi chẳng cần phải lo. Liếc nhìn cũng đủ cho tôi thấy Paul đang mải chuyện với người ngồi bên tay phải, tôi đoán là một khách bay thường xuyên.

    Nếu có việc tốt lành để nói là chỗ ngồi của tôi ở hàng cuối khoang, nên Paul và tôi sẽ chẳng lo chạm trán nhau trong chuyến bay. Nó có một túi nôn. Thứ tôi dùng ngay sau khi cất cánh.

    Có mang, nôn nao và quan sát thế giới chao đảo, chập chờn là một sự kết hợp rất tệ.

    - Xin lỗi bà, - tôi nói với người phụ nữ ở ghế bên đang nghe điện thoại, rõ là bối rối. - Tôi có thai. Buổi sáng thường khó chịu.

    Lúc hạ cánh ở Washington phải rất khéo léo. Paul cùng những người khác trong cái giới tẻ ngắt ấy ra trước. Vì thế tôi phải ra khỏi cổng thật nhanh để kịp xem anh ta đi đường nào.

    Nhưng lúc tôi tìm taxi trên phố đã chẳng thấy bóng dáng anh ta đâu nữa.

    Khỉ thật, khỉ thật, khỉ thật! Phí hoài cả chuyến đi đến đây.

    Tôi rẽ hai chỗ, đến thang cuốn thì nhìn thấy Paul từ phòng vệ sinh nam đi ra. Anh ta đã thay quần jeans, áo len dài tay màu xanh lịch sự, và không đeo kính nữa.

    Tôi không biết cái gì đã giữ tôi không quát gọi tên Paul ngay tại đây, ngay lúc ấy.

    Thay vào đó, tôi chỉ tính thời gian xuống cầu thang để tiếp tục theo vết người chồng lừa lọc.

    Paul đi thẳng qua dãy taxi, qua những lớp cửa kính trượt ra phố. Cánh cửa đang đóng thì tôi nhìn thấy anh ta làm một việc khiến tôi dừng lại trên đường và nhìn trân trân.

    Anh ta mở cửa một chiếc Range Rover đen bóng đỗ bên lề đường.

    Lúc đó, tôi quyết chạy theo.

    Lúc tôi ra ngoài được ba mét, chiếc xe SUV sang trọng, đẹp dáng ấy đang chuyển bánh, lốp xe rít lên lúc vượt một chiếc xe buýt nhỏ và lao vào làn đường trái.

    Mắt tôi căng ra nhìn biển xe lúc tôi cố chạy theo trên vỉa hè.

    Đó là biển số DC, bắt đầu bằng số 99.

    Tôi đành bỏ phần còn lại trên biển xe và cố nhìn người lái xe thật nhanh. Tôi muốn biết là ai, nhất là giới tính người vừa đón chồng tôi.

    Nhưng cửa xe lắp kính màu. Cũng trong khoảnh khắc đó, tôi phát hiện ra một thực tế nho nhỏ là tôi vấp phải một cái túi đánh golf, tạo cớ thiêng liêng để giơ tay, đấm ngực nồng nhiệt chào thủ đô.



  11. #30
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 101
    Không biết bắt đầu tìm Paul từ đâu, tôi quyết định đến thăm Roger Zampella, thám tử ký tên trên báo cáo của FBI.

    Lẽ tất nhiên tôi chưa bao giờ gặp mặt Roger. Hóa ra anh là người Mỹ gốc Phi, to con, ăn vận chải chuốt, có nụ cười còn sáng hơn cả cái khóa dây đeo quần của anh.

    Lúc tôi gọi điện cho anh từ sân bay, anh ta lập tức mời tôi đến phòng làm việc của đội ở ga Metro DC, quận Hai ở đại lộ Idaho. Tôi đến và bắt gặp anh vừa bắt đầu ăn bữa trưa ngay tại bàn làm việc.

    - Cô không phiền nếu tôi vừa ăn vừa nói chuyện chứ, thám tử? - Anh nói và vắt chiếc cà vạt sọc hồng- xanh dương qua vai. Anh ta nhét khăn ăn vào trong cổ áo trắng muốt của chiếc sơ mi hai màu xanh lơ trước khi để nghiêng cái túi màu nâu đựng bữa trưa lên bàn bằng động tác bay bướm.

    Một quả táo nhỏ lăn ra ngoài cùng một cái bánh bột yến mạch Quaker, cỡ bằng bánh xà phòng.

    Anh ta hắng giọng.

    - Vợ tôi đã thấy kết quả xét nghiệm cholesterol mới nhất của tôi, - anh ta giải thích lúc dùng răng xé giấy bọc bánh. - Tôi bị F âm. Cô nói trên điện thoại là muốn nói chuyện với tôi về một vụ cướp? Tôi phải nói với cô rằng hiện nay tôi ở Đội Điều tra các vụ giết người.

    - Vụ đó xảy ra gần năm năm trước, - tôi nói. - Tôi tự hỏi liệu anh có thể thuật lại mọi chi tiết vụ đó không? Số của vụ đó là 37345. Một vụ cướp có vũ trang tại khách sạn Sheraton Crystal City ở Arlington, Virginia, ở bên kia sông của thủ đô. Thủ phạm...

    - Để lại một ít máu, - thám tử Zampella nói ngay không ngập ngừng. - Một vụ về môi giới vé. Tôi nhớ vụ đó.

    - Anh có trí nhớ tốt thật, - tôi nói.

    - Không may là cô chẳng bao giờ quên những vụ chưa phá được, - anh nói.

    - Anh vừa nói gì về người môi giới vé?

    Zampella ngửi thỏi bánh trước khi cắn một miếng nhỏ nhẻ.

    - Sheraton là một trong những khách sạn gần sân bay nội địa Reagan, là nơi đón tiếp các huấn luyện viên bóng đá của NCAA 1 đến Hội nghị hàng năm, - anh nói lúc nhai xong. - Năm nào, huấn luyện viên và trợ lý huấn luyện viên của các trường lớn cũng nhận được vé miễn phí bốn trận cuối. Những kẻ mua bán vé này - nếu cô muốn biết ý kiến tôi, thì đó là những kẻ đầu cơ thượng thặng - lập cửa hàng ngay trong khách sạn và mua hết số vé. Trả tiền mặt ngay lập tức. Lẽ tất nhiên là bất hợp pháp, nhưng chúng ta đang nói về các hội viên mới của Hội. Họ rất biết bẻ cong một vài quy định.

    - Chúng ta đang nói đến bao nhiêu tiền mặt, hở Roger?

    - Nhiều lắm, - Zampella nói. - Một số cuộc thi đấu tới một ngàn đôla một vé.

    - Thế là có một vụ cướp?

    Zampella cắn một miếng nhỏ nữa, rồi mặc kệ, anh cho cả thỏi bánh vào miệng. Anh nhai hai lần, nuốt rồi hắng giọng.

    - Một trong những người môi giới này đến trước hội nghị vài đêm, - anh kể. - Ắt là có kẻ đồn thổi ông ta là ai và bọn chúng cướp vali đựng tiền mặt của ông ta.

    - Có miêu tả không? - Tôi nói. - Có chút nào không? Zampella lắc đầu:

    - Thằng cha ấy trùm mặt nạ kín đầu.

    Mặt nạ kín đầu? Chao ôi, Paul thật lập dị. Chưa nói đến hoàn toàn mất trí.

    - Máu ở đâu? Chảy ra từ người nào?

    - Khi người môi giới đưa vali, ông ta chợt nghĩ lại và đấm vào cằm tên cướp. Tôi đoán hắn bị chảy máu. Làm bẩn cả tấm thảm.

    - Sau đó tên cướp làm gì?

    - Hắn rút súng dọa bắn chết người kia. Lúc đó người môi giới đành nhượng bộ.

    - Hắn lấy được bao nhiêu?

    - Nửa triệu đô, có khi hơn. Người môi giới nói chỉ có bảy ngàn, nhưng vì ông ta không muốn gặp rắc rối với Cơ quan Thuế vụ hoặc bọn du thủ du thực. Gã này hẳn là một tay đầu cơ vé chủ chốt.

    - Còn các nghi phạm? - Tôi hỏi.

    - Không dính dáng gì đến vết máu. Chúng tôi đã hỏi vài vị khách cùng tầng với người môi giới. Đêm hôm ấy có khoảng hai ngàn người dự hội nghị. Chúng tôi không thể làm loạn cả thế giới để tìm một kẻ khôn khéo, chắc cũng là một tên môi giới vé nói dối như Cuội ngáng chân chúng tôi. Chúng tôi rà theo sổ sách và cô biết rồi đấy, tiếp theo đó là quên mọi chuyện. Cho đến bây giờ, vậy đấy. Mà cô đang làm gì vậy? Thu thập tài liệu mới để phục hồi Những bí mật chưa được giải quyết chăng?

    - Đây là việc cá nhân, - tôi nói với viên thám tử. - Một người bạn tôi bán đồ châu báu vừa bị tấn công và bị cướp trong một khách sạn ở Midtown Manhattan tháng trước. Tôi nhớ đã nhìn thấy bản tóm tắt về vụ của các anh khi nghiên cứu vụ đó. Liệu anh có bản sao đăng ký khách sạn không?

    - Tôi để một bản trong hồ sơ, - Zampella nói và xem đồng hồ. - Nhưng để làm gì kia? Năm năm rồi mà? Chúa mới biết họ vùi nó ở đâu.

    - Tôi biết mình đang quấy quả anh, - tôi nói. - Nhưng anh có thể gọi vài cú điện hộ tôi được không? Lẽ tất nhiên sau đó tôi sẽ mời anh đi ăn trưa. DC có nhà hàng Morton phải không?

    Zampella liếc nhìn quả táo còm cõi của anh. Rồi anh với áo vét khoác trên lưng ghế:

    - Thực ra thì có một bản ở ngay đây, ở Arlington. - Anh nói và đứng dậy.

    --------------------------------
    1 Cục Quản lý ôtô.


    Chương 102
    Hai giờ với hai suất thăn bò nướng khéo tuyệt ngon, chúng tôi trở lại văn phòng của Zampella và tôi kiểm tra tỉ mỉ bản đăng ký khách sạn mà tôi cần xem gấp.

    Zampella tưởng anh ta bị bệnh tim ư? Khi liếc nhìn vào đầu trang thứ hai, tôi ngỡ phải dùng máy khử rung và một phát thuốc trợ tim.

    Tên Paul Stillwell rành rành trên giấy trắng mực đen. Một cái gì đó xáo động dữ dội trong tôi. Ngay cả sau khi có mọi chứng cứ, tôi vẫn mong được hủy bỏ vào giờ thứ mười một. Ở đây là ngược lại. Thêm chứng cứ nữa của Paul là gì nhỉ? Tình trạng mất trí? Cuộc sống bí mật?

    Tôi không thể tin nổi. Paul đã cướp nửa triệu đôla tiền vé thể thao thật ư?

    Tôi đã ngỡ việc phát hiện ra bí mật về Scott Thayer hỏng bét. Bọn đàn ông sao tệ hại đến thế? Tất cả bọn họ đều hóa rồ về mặt pháp lý chăng?

    Không, tôi tự trả lời. Không phải tất cả. Chỉ những kẻ không may làm quen với tôi mà thôi. Hoặc vòng vo theo kiểu khác.

    Tôi nghĩ đến chiếc xe Range Rover, cái túi Tiffany, và sự kiện Paul không đeo kính khi xuống đây, ở DC.

    Tôi quay sang Zampella đang gà gà ngủ sau bàn. Anh ta đã uống martini với thịt nướng.

    - Anh có thể làm ơn giúp tôi một việc nữa được không, Roger? Chỉ một việc thôi, rồi tôi sẽ đi.

    - Nói đi, - anh ta nói.

    - Tôi đang tìm danh sách chủ nhân các xe Range Rover 2007. Biển số DC bắt đầu bằng số 99.

    - Lại thêm một tài liệu cho Những bí mật chưa được giải quyết, hả? Thôi được, cô cầm lấy đi. Nhưng giữ kín sự hợp tác của cảnh sát đấy, đây là quy định cuối cùng. Trung úy của tôi đi họp sắp về bây giờ. Ngay dưới khu nhà này có một hiệu sách. Sao cô không kiếm gì đó mà đọc, khoảng một giờ nữa tôi gặp cô nhé.

    Mất hơn nửa giờ. Tôi đang ngồi trước giá tạp chí, giở một tờ Vanity Fair thì Zampella vỗ vai tôi.

    - Tôi nghĩ cô bỏ quên cái này, thưa cô, - anh nói và đưa cho tôi cái phong bì rồi nháy mắt trước khi tiến thẳng ra cửa.

    Tôi bóc toạc tờ giấy khỏi phong bì. Hai mươi mốt ôtô trong bản danh sách dài. Tôi lần ngón tay theo cột chủ nhân, tìm tên Stillwell.

    Không có. Tôi tìm lại chậm hơn. Vẫn không thấy. Tôi dụi cặp mắt mệt mỏi, quá nhiều cà phê. Cái quái gì thế này? Một vụ cầu may đáng giá đây.

    Tôi vào quán cà phê trong hiệu sách, ngồi xuống và rút tờ danh sách khách của khách sạn. Tôi lần lượt kiểm tra chéo từng chủ nhân chiếc Range Rover với danh sách khách sạn. Có lẽ mười lăm phút sau, mông đã ê ẩm tôi mới tìm ra thứ phù hợp.

    Veronica Boyd. 221 Riggs Place.

    Veronica? Tôi suy nghĩ, giận dữ. Tôi biết mà! Một người đàn bà! Paul, mi là đồ chó đẻ!

    Tôi bật khỏi ghế và lao ra cửa. Tôi cần thuê một chiếc ôtô. Có lẽ làm một số việc theo dõi.

    Đây là lúc tìm ra chính xác việc Paul đã làm - và chao ôi, quan trọng nhất là làm vì ai.


    Chương 103
    Ngôi nhà gạch duyên dáng trên một đường phố thuộc vùng phía bắc Dupont Circle, không quá ồn ào và rõ ràng là dành cho giới thượng lưu. Những cây irit rực rỡ bên ngoài chấn song quán cà phê và nhiều nhà hàng nằm trong các tòa nhà cổ, trang nghiêm gợi tôi nhớ đến Greenwich Village và những vùng có nhiều thanh niên quý tộc.

    Tôi đỗ chiếc xe Ford Taurus thuê được ở góc phố, từ đó tôi dán mắt vào cánh cửa màu đen lấp lánh của số nhà 221 Riggs Place.

    Nhìn nhanh khắp khu nhà, tôi không thấy chiếc Range Rover màu đen giữa vài nhãn xe sang trọng khác đỗ dọc đường phố hẹp, ba làn xe.

    Bạn có biết gì không? Tôi nghĩ lúc liếc nhìn các cánh chớp cửa sổ trên cao của ngôi nhà. Hình như Paul làm tốt công việc vá víu cho bản thân trong cuộc sống bí mật của mình.

    Nhưng đây là nhà anh ta? Tôi thực sự không muốn là thế. Nếu tôi muốn mình nhầm một điều gì đó, thì chính là điều này.

    Hãy giải thích đi, Paul. Một việc mà tôi có thể tha thứ.

    Tôi định quay một vòng tìm nhà vệ sinh thì cửa trước bật mở. Chẳng ai khác ngoài Paul đi xuống ngôi nhà gạch, xách cái túi Tiffany màu xanh.

    Anh ta bóp dây đeo chìa khóa trong tay, và đèn pha chiếc Jaguar bỏ mui màu xanh dương ở tít góc phố sáng lóe cùng tiếng bíp bíp.

    Như thế là không công bằng, tôi nghĩ, cố kìm sự thôi thúc lao cả chiếc xe thuê vào chiếc Jaguar. Sao chúng tôi không thể có chiếc Jag giống hệt?

    Tiếp đó, tôi theo Paul trong dòng xe cộ buổi chiều. Chúng tôi vòng qua phố 14, qua nhiều đường phố khác, phố S, phố R rồi theo Paul vào phố Q, đến phố

    13 và vòng sang phố O. Tôi quan sát anh ghé vào bãi xe của một ngôi nhà gạch phủ dây thường xuân.

    Trường Chamblis, tấm biển đồng gắn trên tường ghi rõ. Việc này chẳng có gì hay ho. Không phải dịp để tôi khám phá ra một kết cục hạnh phúc.

    Tôi đỗ xe bên vòi nước máy, cảm thấy mê mụ lúc Paul ra khỏi chiếc Jag, xách chiếc túi Tiffany.

    Veronica Boyd là cô giáo? Tôi hình dung ra cô. Có học, xinh xắn và tóc vàng. Chưa kể là trẻ trung. Và đương nhiên là rất hấp dẫn.

    Mọi việc này là gì đây? Tôi vừa nghĩ vừa bắt đầu hút thuốc trong xe. Bất hòa với người cũ, hài lòng với người mới ư?

    Tôi quan sát ba phút sau, Paul trở lại chiếc Jag. Gì thế này?

    Một cô bé ba hoặc bốn tuổi mặc áo choàng carô quàng cánh tay quanh cổ Paul. Anh ta nhắm nghiền mắt lúc ôm ghì con bé rồi mở cái túi. Con bé lấy ra một con gấu bông trắng muốt, đeo dây chuyền bạc ở cổ và hôn nó.

    Paul nhấc bé lên và cẩn thận đặt bé cùng con gấu vào ôtô.

    Tôi vẫn ngồi, bất động khi Paul lượn chiếc Jag quanh những chiếc SUV, Hummer của các bậc cha mẹ khác đến đón con. Lúc anh đỗ ở góc phố, tôi nhìn rõ cô bé qua cửa sau.

    Phổi tôi khô quắt lại. Không hít vào. Không thở ra. Tôi nhận ra cái mũi thẳng, cặp mắt xanh biếc, mái tóc vàng hoe ấy. Cô bé xinh đẹp y như Paul điển trai.

    Nó thừa hưởng mọi nét của Paul.

    Tôi không thể tin nổi, hoàn toàn không tin. Nỗi đau này không thật, không thể hình dung tôi đang trải qua như một cuộc mổ phanh tim không gây mê.

    Sự việc xảy ra một ngàn lần đau hơn tôi tưởng. Paul đã thực hiện một trò gian trá tàn nhẫn nhất có thể.

    Một đứa con.

    Paul đã có một đứa con.

    Mà không cần có tôi.

    Chương 104
    Tôi trở lại 221 Riggs Place đúng lúc thấy Paul trở về nhà cùng cô bé, một chiếc xe đạp Dora the Explorer hoàn hảo, nhiều bánh xe để tập đi. Tôi gật đầu mỉa mai khi anh đẩy đứa bé đang cười trên xe đi xuống hè đường phía nam.

    Chắc là ra sân chơi. Tôi biết Paul sẽ là người cha tuyệt vời.

    Khi họ khuất tầm nhìn, tôi ra khỏi chiếc Taurus và tiến đến cái cổng vòm nhỏ. Làm thêm một việc nữa ở đây, tôi nghĩ lúc trèo lên các bậc một cách máy móc và bấm chuông. Một chi tiết cẩn thận cuối cùng.

    Tôi chỉ cần rứt những mảnh lẻ cuối cùng khỏi trái tim tôi.

    - Vâng. - Người phụ nữ mở cửa nói. Cô ta tóc vàng nhưng không trẻ trung. Và không nhỏ nhắn. Ít nhất là bộ ngực. Tôi đoán cô ta trạc tuổi tôi, và thật lòng, tôi chẳng nhẹ nhõm tí nào. Tôi chăm chú nhìn cách cô ta trang điểm thật đậm, cái váy đen bó chặt hằn rõ bụng. Nom cô ta như mới lên cân.

    Một phụ nữ hấp dẫn chiến đấu một cách tuyệt vọng với tuổi gần bốn mươi. Chào mừng người cùng hội.

    Tôi nhìn chằm chằm vào cặp mắt nâu sẫm dưới vệt tóc vàng hoe, đối chọi gay gắt như ánh sáng và bóng tối. Lúc ngửi thấy mùi nước hoa của cô ta, một thứ lạnh buốt cắt ngang bụng tôi. Như lưỡi dao cạo.

    - Chị là Veronica? - Cuối cùng, tôi nói.

    - Vâng, - cô ta lại nói. Tôi chú ý cô ta nói giọng miền Nam, chắc là dân Texas.

    Tôi chìa phù hiệu.

    - Tôi là thám tử Stillwell, - tôi nói. - Tôi có thể hỏi chị vài câu được không?

    - Về việc gì ạ? - Cô ta nói, căng thẳng và không rời khỏi cửa. Tôi không biết vì cô ta không ưa tôi hay chỉ không ưa cái phù hiệu.

    Tôi rút ra bản dữ liệu của DMV 1 lấy của Zampella.

    - Chị có một chiếc Range Rover 2007 màu đen? - Tôi hỏi người phụ nữ tóc vàng. Người vợ khác của Paul?

    - Vâng, - cô ta nói. - Có chuyện gì thế?

    - Tôi đang điều tra một vụ đụng xe. Tôi có thể vào trong nhà không? Chỉ mất một lúc thôi.

    - Sao một thám tử của thành phố New York lại muốn điều tra về vụ đụng xe ở Washington DC? - Cô ta hỏi và vẫn giữ cửa.

    Tôi có sẵn câu trả lời:

    - Tôi xin lỗi. Lẽ ra tôi nên giải thích. Ba ngày trước, mẹ tôi xuống đây cùng nhóm Giáo hội của bà. Mẹ tôi là nạn nhân. Nếu có vấn đề gì, tôi sẽ tiến hành và bắt giữ xe của chị.

    - Mời vào, - cô ta nói và bước tránh sang bên. - Chắc có nhầm lẫn nào đó.

    Trong tiền sảnh có một tấm gương của quán rượu trắng nhờ và một bàn xinh xắn dây vệt cà phê. Thiết kế hiện đại, thẩm mỹ vừa phải. Các phòng sáng sủa và ấm cúng.

    Cô ta dẫn tôi vào bếp, nơi cô đã lựa chọn những đồ dùng theo lối cổ. Một máy trộn màu hồng đặt trên thớt kê cạnh túi bột mì. Cô ta đang nấu ăn cho Paul? Một phụ nữ dịu dàng.

    - Hôm nay là sinh nhật con gái tôi, Caroline tròn bốn tuổi. Tôi phải làm một chiếc bánh Dora the Explorer hoặc thế giới sẽ tuyệt diệt, - Veronica nói và nhìn đăm đăm vào mắt tôi.

    Thế giới đang tuyệt diệt, tôi muốn nói thế lúc nhìn lảng đi.

    - Chị uống cà phê nhé? - Cô ta hỏi.

    - Thế thì hay quá, - tôi nói. - Cảm ơn chị.

    Cô ta mở và đóng cái tủ bên trên bồn rửa. Tôi như người mê sảng, cố đứng cho vững. Tôi đang làm cái quái gì ở đây? Tôi đang cố tìm gì ở ngôi nhà này?

    Dưới hành lang, tôi phát hiện một bức tường phù hoa, nhiều tấm ảnh trên những cái giá di động.

    - Tôi có thể dùng nhà vệ sinh được không? - Tôi hỏi.

    - Dưới hành lang, bên tay phải.

    Các bức tường dường như đổ sụp lên người tôi lúc tôi nhìn thấy Paul trong một bức ảnh. Anh ta ở trên bãi biển đầy nắng cùng Veronica và đứa trẻ, có lẽ là cô bé lúc nãy. Sóng vỗ tung tóe, cát trắng như đường bột. Bức ảnh bên cạnh - như bắn vào tim tôi - là họ, Cha và Mẹ, má áp má, đang cười, những ngọn đèn của thành phố nhấp nháy phía sau họ.

    Bức ảnh thứ ba như một lưỡi cưa cứa vào giữa hai mắt tôi. Veronica khoác áo choàng đêm, nửa trần truồng, Paul tỳ cằm lên vai cô lúc vòng tay ôm lấy cái bụng bầu của cô.

    Lúc tôi tiến đến bức ảnh thứ tư, bức cuối cùng, một tiếng thét vang vang trong đầu tôi. Paul, mi là đồ khốn.

    Hơi thở của Veronica bỗng ở ngay sau lưng tôi.

    - Chị không đến đây để hỏi về tai nạn ôtô, - cô ta tuyên bố.

    Tôi nhìn chằm chằm vào bức ảnh cưới của họ, mắt tôi khô khốc. Cũng trên bãi biển ở bức đầu tiên. Một mục sư đứng đó. Những bông hoa trắng muốt cài trên tóc Veronica. Paul mặc sơ mi lụa trắng, mở khuy cổ. Anh đang mỉm cười. Hết sức rạng rỡ.

    Cô ta khôn ngoan nhảy tránh đường lúc tôi vấp phải cửa trước.

    --------------------------------
    1 Department of Motor Vehicles




Trang 3 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-07-2020, 12:10 PM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-30-2015, 11:58 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •