Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Hạnh phúc giống như tiếng vang, chỉ nghe được tiếng trả lời mà không bao giờ thấy đến.
Carmen Sylva
Trang 2 / 3 ĐầuĐầu 123 Cuối Cuối
Results 11 to 20 of 22

Chủ Đề: Xóm cụt

  1. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Phần 11

    Hai anh em ghé nhà vợ chồng ông thương binh về hưu thăm hỏi sau khi hết việc. Dường như lâu ngày ông cũng đang thiếu một người bạn nên trông thấy chúng tôi là vồ vập ngay. Bà vợ cũng lăng xăng, thật tình như đón khách.

    Sau vài câu qua loa thăm hỏi, ông thương binh quay qua lần lượt nói với hai anh em : chú này (ý nói anh thợ sửa xe) tôi biết đã lâu, dù chưa có dịp tận mặt han hỏi. Rồi quay sang tôi, ông nói rất thân tình : còn ông mới về, tôi cũng dặn lòng hôm nào sang làm quen.

    Để khỏa lấp sự ngượng nghịu cho cả hai bên, ông toang toang nói luôn : ấy, chiến tranh đào sâu hầm hố với nhau như thế, giờ hòa bình rồi mà vẫn khó lấp kín lại những cách biệt. Hồi xưa, bất đắc dĩ chúng ta phải ghim đầu nhau giữa hai trận tuyến, nếu không, khó ai giữ vững được mạng sống của mình. Cũng may, cả ông lẫn tôi còn sống sót lại được, nhưng bao nhiêu lần lá xanh đã thi nhau rụng nhiều. Lá vàng như bọn mình hóa ra thành chứng tích của nỗi buồn đất nước. Biết bao giờ, mọi người được thảnh thơi, ông nhỉ.

    Tôi nghe quặn thắt trong tim, nhưng nỗi e dè lớn quá khiến tôi không muốn bặp ngay vào những sự thể tế nhị. Tôi khề khà cốt đánh trống lảng cho qua, nhưng trong thâm tâm tôi nghĩ tại định kiến làm cho người ta càng phải buộc lòng ngăn cách. Thí dụ như ngay lúc này người chiến thắng đối xử lịch thiệp với kẻ bị thua thì tôi e hóa ra cái chính nghĩa được nhân danh để xua nhau thành thù địch là ngớ ngẩn hay sao.

    Có lẽ, ông thương binh đoán ra được chỗ lắt léo tâm tư của tôi nên vội xuề xòa quay sang hướng khác : được ông đến chia xẻ với gia đình, thật không gì quí hóa bằng. Vợ chồng tôi xin cám ơn hai người và mong thời gian sẽ là liều thuốc bổ để ta xóa đi cái ranh giới ké né.

    Sau một hồi xã giao vô thưởng vô phạt, chúng tôi chia tay. Anh thợ sửa xe tẩm ngẩm tầm ngầm nhìn tôi, nhưng không hề đả động một lời. Tôi về nhà, vợ và các con đang tíu tít vì bữa cơm dọn sẵn. Vẫn là những cục bột sắn đun sôi trộn với gạo thành bữa, những bữa ăn cốt để sống chứ không dám màng đến chất dinh dưỡng ra sao.

    Người ta vẫn kháo nỗi khó khăn còn lớn quá, ta giờ cốt có cái ăn đã, rồi dần dần sẽ tính tới ăn ngon, ăn bổ và mặc đẹp. Câu này dường như người ta rêu rao đã từ lâu rồi, sao vẫn chỉ là ước mơ, hoài vọng.

    Phải chăng thời thế cố tình tạo ra như thế để mãi mãi con người có cái đích mà đấu tranh lăn xả. Nếu không thì ai cũng ngủ quên trên chiến thắng, lơ là trách nhiệm cố tạo ra cho được một thế giới đại đồng. Người ta cứ luôn nhắc với nhau : bây giờ ta tạm làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu, một mai nào đó ta sẽ tiến đến chỗ làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu.

    Ôi, chân lý nghe thật vô vàn quyến rũ, nhưng một mai là bao giờ, chịu, chẳng ai giải thích được. Trải qua gần 20 năm kẹt lại quê nhà, tôi thường vẩn vơ tự hỏi chỉ riêng với mình như thế mà không sao tìm ra lời giải đáp.

    Tôi như con ốc bơ vơ nằm trên cát một mình. Những sóng nước triều mạnh bạo tràn lên vùi sâu thân ốc vào cát. Ngoi mãi mới trồi lên được, lấm lem, lạo xạo những hạt sạn cứa vào da thịt đau rần, chưa kịp hít chút không khí lại bị một làn sóng triều khác dồi vào làm lao đao nghiêng ngửa.

    Tôi nghĩ mà buồn cho thân phận những kẻ hẩm hiu chúng tôi. Giờ đây, thượng cấp, bạn bè và những người may mắn mấy ai lẩm nhẩm đếm xem còn bao nhiêu đồng đội bị sót lại. Hay là những cuộc vui suốt sáng, trận cười thâu đêm, những vinh hoa phú quí đã xóa sạch sành sanh hình ảnh những người đã một thời cùng sống cùng chết với mình.

    Có khi các vị, các ngài ấy còn cười mủi tự khen sự thức thời, nhanh chân của họ để rồi mỉa mại, chê trách bọn chúng tôi chậm đụt phải đem thân làm kiếp khổ sai. Kinh nghiệm những năm thắc thỏm vì tiếng kẻng giữa rừng già u tịch, vội lồm cồm thức dậy cụ bị cuốc xẻng đi lao động, khát đói triền miên, đau không có thuốc, vợ con không thăm, mà thấy lòng ức đau vô hạn.

    Tôi không đến nỗi cực đoan thề không bao giờ chịu ra đi, nhưng quả lòng hận các vị đem con bỏ chợ thì chắc là có. Tôi nuôi ý chí một ngày nào được gặp lại những bộ mặt câng câng trơ trẽn đó để chỉ xin được thưa thớt một điều : xin các bố bớt phét lác đi, chúng con đã lỡ một lần bị các bố đánh lừa nên thất điên bát đảo, vợ con có đứa đã bỏ mặc để đi lấy kẻ giam hãm chồng mình. Chỉ thế thôi, không hề mang thù mang oán.

    Đã bao lần đối mặt mình với mình, nằm nghe cái sâu lắng mênh mông và cảnh vợ con nheo nhóc ngủ vờ ngủ vật, áo hở vai còm, tôi đã tự dằn vặt tôi : đây có phải mình đang sống chính trên quê hương. Tôi hoàn toàn bơ vơ, lạc lõng, lắm lúc nghĩ mình sắp điên đến nơi.

    Nhìn những chuyên viên khách các nước anh em một dạo và sau này là những đoàn du khách các nước ào ạt ghé quê nhà, tôi càng có cảm tưởng mình bị vong thân tàn nhẫn. Khách thân mật hỏi thăm mà chính mình ú ớ không dám tiếp xúc vì sợ những con mắt tị hiềm nào đó theo dõi cho là mình còn mơ đến ngoại bang này khác.

    Có đời thuở nào mà một con người phải nép mình chịu đựng đến vậy chăng ? Người ta tự đánh lừa tự ví : ngày xưa Câu Tiễn… để tự ủi an và còn một chút can đảm mà sống, chứ ai cũng biết rằng mình đã tự lừa dối mình.

    Người vợ thân yêu của tôi đã bao lần trong đêm rúc vào người tôi bật khóc. Bởi vì lúc chiều nghe con than không được theo học chuyên ban, nỗi xót thương của bà mẹ đã khiến cô không kịp giữ lời chì chiết chồng : tại ông mà con cái không ngóc đầu lên nổi.

    Ôi, lý lịch, hai chữ đơn sơ mà nặng ngàn cân với một con người. Nó là một bản án không tuyên nhưng sẽ không bao giờ gột sạch. Nó đeo đẳng từng số kiếp đoạn trường trải 3 đời liên tiếp thông nhau.

    Bây giờ, trong nghĩa tình chồng vợ, nàng nấc lên xin tôi tha thứ. Hai vợ chồng như hai xác mắm khô rã rời bị vắt kiệt nước, đến yêu đương cũng đã tắt lặn từ lâu, nhưng nước mắt thì lúc nào cũng dư để rửa cho nhau nỗi buồn cắt ruột.

    Tôi đã bao lần cám ơn đời, cám ơn người, những người cùng chung số phận nhưng còn biết can ngăn vợ tôi đừng làm chết đuối thêm tâm hồn một người thất thế. Lới chân tình, đậm đà đạo đức của ai đó đã khiến tôi còn nhen nhúm một chút tin tưởng trong tâm.

    Người bạn đã khuyên can vợ tôi :chị không nên làm khổ thêm anh ấy nữa. Vợ chồng có lúc vui lúc buồn, ngày trước chị đã chẳng cùng anh trải một thời hoan lạc thì nay đừng vì dĩ vãng mà đẩy anh đến chỗ buồn đau. Sông có khúc, người có lúc, lẽ đâu cứ phải chịu sống mãi thế này.

    Ôi ! Những lời nói như cơn gió thoảng giữa trưa hè sôi bỏng, như ngụm nước được nhắp môi khi khát cháy buồng gan. Xin cám ơn đời, giúp cho tình người nở hoa giữa miền khô cằn sa mạc. Xin cám ơn người còn gieo cho nhau một lóe sáng trong đêm thẳm âm u.

    Chỉ với bấy nhiêu, chẳng ai bảo ai, cả hai cũng cố nén những tiếng thổn thức để đám con đừng thức giấc vì nỗi niềm đắng cay của bố mẹ. Những giề bột được chia phiên nhau xay nhuyễn để khuya hôm tôi thức dậy nhúm lửa lay vợ dậy đổ bánh bò. Những nghề ngỗng học lóm nhau mạnh dạn đem ra thị trường làm cái cần câu con cá sặc mà sống ủ ấp lẫn nhau.

    Những rổ bánh bò èo uộc nở và tịt theo thời tiết và chất lượng của bột vớ được. Thằng trai lớn và tôi thi nhau chạy long tóc gáy, giao cho các quán hàng, không vội nhận tiền để sẽ trở lại lấy khi sáng bạch. Những ngày mưa cũng như những ngày nắng, những hôm bão cùng những hôm lạnh se sắt cuối năm, cuộc đời lênh đênh theo mớ bánh bò bán được thì hí hửng, không bán được thì vợ chồng con cái nuốt thay cơm.

    Có trải qua những thời thê lương như thế mới thấy đoạn trường tang thương ngẫu lục, mới thấy buốn cho cảnh “ sông kia rày đã nên đồng, chỗ thì nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai “, hay cám cảnh cho thân phận “ đêm nghe tiếng ếch bên tai, giật mình còn ngỡ tiếng ai gọi đò “.

    Những năm tháng chết tiệt, mịt mờ, sâu hoắm như vết lở sâu quảng đục ruỗng tế bào rấm rứt đêm đêm.

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Phần 12


    Gần 20 năm sống với xóm Cụt, quả thật tôi mới nhận biết ra nỗi sợ là thế nào. Cho dù tôi đã cố gắng ví mình như đui mù, què sứt, điếc lác, tam tam thì nỗi sợ vẫn không tha. Vợ tôi thấy tội nghiệp cho tôi nên hết lời năn nỉ, khuyên can, dỗ dành hơn trẻ nít. Các con nhìn vẻ lì lì của tôi cũng nhận ra chính thân phận chúng mà ít dám lớn tiếng nói cười.


    Chúng miệt mài lăn vào việc học, dù biết rằng chẳng để làm vương làm tướng gì, song có dăm chữ cũng đỡ hơn là dốt. Ngoài việc học, chúng bị sên vô các buổi lao động chùa, cơm nhà làm công lênh thiên hạ vẫn bị đánh giá là con cái kẻ hư thân. Chúng không ranh ma cũng hóa ranh ma, tập tõm học đòi chen chân chạy chợ. Con lớn đã biết chạy đôn chạy đáo dẫn hàng ăn hoa hồng, hoặc bắt mánh moi hàng từ các hiệu quốc doanh ra kiếm chút cháo.


    Những đứa lèng xèng thì hùng hục với mẹ xay bột, đãi gạo, nấu ăn, nhồi bánh và gỡ bánh bò ra cho hai bố con tôi chạy. Tôi được ưu tiên hơn hết là cho đi ngủ sớm để khoảng 2 giờ thức dậy nhóm bếp và khua vợ con dậy đổ bánh bò. Lắm hôm ti toe định ghé bà xã tí ti thì nhận ngay bộ mặt lãnh đạm của bà đáp trả và hẹn hò nhau : anh chịu khó cực khổ ít lâu mà giữ sức.


    Tôi nghe lênh láng nước muối đổ vào lòng. Dù ở tịt trong nhà mà tin tức gì không thiếu. Con bé lớn suốt ngày nhông nhông ngoài chợ nên có gì cũng biết, không thua cái loa thông tin của khóm kêu ông ổng từ sáng tới khuya. Có những tin nó loan còn nhanh lẹ, chắc ăn hơn là tin chính thức, từ loại tin xe cán chó đến tin chuyện thường ngày ở huyện.


    Hôm thì nó kể : bữa nay có một chuyện thấy kỳ, tự dưng cái bà đứng mua sổ gạo ở cửa hàng lương thực bị tay công an còng đưa về đồn tẩn tra. Bà ta bị buộc tội ăn cắp sổ lương thực của nhà ông ấy nên đi đòn tán mạng. Đến khi được thả ra hết còn lết nổi chớ đừng nói là đi. Rồi nó hỏi tôi như đánh đố : ba biết rồi sau ra sao hôn ? Tôi mù tịt, nó thở phào như chê tôi cù lần và lẩm rẩm nói : thì huề chớ còn sao nữa. Nhà công an bố ai vào mà ăn cắp được sổ gạo, chẳng qua con em ổng thiếu tiền đi ăn chơi với bạn nên chôm sổ ra đưa cho bà. Tay buôn nào thấy lợi hổng ham nên trả tiền cho nhỏ, nào dè ông anh ra cửa hàng nghe nói bà ấy bà nọ mua rồi thì cứ quơ về tẩn cho đã, nếp tẻ gì sẽ hay. Nghe đâu, bữa sau trưởng đồn khệ nệ bê hộp sữa và tí tiền nhét phong bì vào tận nhà thương thăm vừa xin lỗi vừa hăm he nếu muốn còn làm ăn thì bãi tố. Thế là xong.


    Tôi nghe chỉ còn biết thở dài. Mạng người thua con ngóe, có miệng mà câm, ai đời nào có thấu. Lại có bữa cũng con nhỏ xí xọn đó về mét : ba ơi bữa nay trường con vui lắm, có ông cán bộ vô lôi xềnh xệch bà cô mắng đã đời. Chẳng qua tại quí tử của ổng ham chơi hơn ham học bị cô rầy, nó về mét là cô nói “ con cán bộ mà ngu “. Chẳng cần biết đầu đuôi, ông đến tóm ngay cô la nhoi : mày nói ai ngu, ngu mà trị được cả lũ nhà mày. Tôi chẳng biết nói năng ra sao, chỉ còn lén nhìn con mà tự an ủi : thời buổi bây giờ như vậy đó.


    Thằng tửng tôi có vẻ khôn ngoan hơn. Nó là bản sao của tâm tính tôi nên ít ăn, ít nói. Lời nào mà nói ra đều thật kinh khủng vô cùng, cho nên tôi tâm đắc coi nó là nguồn tin được xếp vào loại A1, tức là có cơ sở. Như cái vụ đánh tư sản, nó to nhỏ với tôi : con nghe phong phanh nhà nước ký một mảnh giấy sẵn, nội dung trắng tinh để ông phó vô Nam diệt mại bản.


    Tôi nói với nó : mày đừng xạo, loại tin mật cỡ đó mà mày biết được, đúng là dóc tận mạng. Coi chừng bị gài ở tù đó nghe mày. Nó trâng trâng cãi lại tôi, ai dè chỉ vài hôm lảng vảng thấy đám thanh niên ở đâu lạ hoắc ngầu ngầu bổ về vây những nhà gọi là điểm. Và họ đánh thật, người ra vào ùng oàng, khiêng cơ man vải vóc, bị, gói và lỉnh kỉnh trăm thứ hà rầm khiến cho đối tượng mặt mày méo xệch, lơ láo như bị thiến. Tội nghiệp có người chỉ vì có nhà ngày trước cho mỹ hàn thuê hay ti toe bắt tay buôn với ông này bà nọ giờ bị dện cho cái mác : “ tư bản mại bản “ thiếu điều muốn bậy trong quần.


    Đã hết đâu. Một bữa, thằng tửng còn hỏi nhóng tôi : ba nè, nhà nước sắp cho người Hoa ra đi, đóng 2 cây theo đầu người, ba tính kỳ này có theo hôn. Tôi nổi sùng thì ít mà nghĩ con ghẹo chọc thì nhiều, tôi đâm vặc : tao còn có mỗi củ khoai lận bụng, mày coi có ai mua thì bán để tao đi. Bà vợ tôi nghe cha con choảng nhau nạt thêm : mày không thương ba mày sao còn phá ổng để nhà cửa om sòm. Thằng tửng phụng phịu : thì con nghe góp ý, ba không có tiền thì thôi, sao ba nói nặng con.


    Tía con tôi thường có những cơn nổi khùng như thế. Thiệt là điên chẳng ra điên mà tỉnh chẳng ra tỉnh. Những kẻ cùn đời chỉ cắn cấu nhau như chó chạy rông. Đầu tôi lúc nào cũng như bị búa bổ, lắm đêm ngủ mê còn nghe rõ tiếng “ cốc “ khô rang của trái dừa già bị ngọn rựa chém phập vào. Tôi ú ớ như bị ma đè khiến bà vợ phải lay tỉnh để rồi cứ nằm trợn trừng nghe cái âm u thông thống tràn dâng.


    Nhiều lúc tôi thở than với vợ : bà này, đời mình cực quá, còn cố nuôi bọn nhóc đi học làm chi. Vợ tôi giận quắc mắt nhìn tôi hỏi vặn : không cho đi học để ở nhà đi lao động dài dài à. Tôi như con cuốn chiếu bị đạp nhăn nheo, vừa được thả chưn ra thì quán tính lại khiến co vòi vón cục lại. Vợ thấy tôi tiu nghỉu thì mềm lòng, ngao ngán trách nhẹ tôi : tui đã muốn điên cái đầu, ông còn muốn khêu lên để vợ chồng cẳng rẳng nhau chi nữa hổng biết. Những câu nói như ngọn lao phóng đi, trúng trật đâu chưa biết mà sao cánh tay bị lọi cảm thấy rã rời.


    Có lúc tẩn mẩn tôi ngồi nghĩ một mình mà ví cái tên Xóm Cụt thực cũng không khác gì nỗi bơ vơ cụt ngủn đời tôi. Tuy nhiên có một điều tôi ghim trong bụng mà không hé ra, dù ngay cả với vợ con, là việc tôi lẩn thẩn đièu nghiên và phân chia thời thế ra thành nhiều giai đoạn. Hẳn nhiên, đây hoàn toàn là chủ quan nhận định của tôi và có thể là trật lấc nên nói ra chi để bị chê cười.


    Theo tôi, lấy dấu mốc 75 làm tiêu điểm thì đại khái cuộc diện đã, đang và sẽ trải qua những chặng đường như sau. Thời gian đầu là thời gian xóa sạch, xóa từ tên gọi, cung cách đến cảm nghĩ, lý luận nhỏ hay to. Kế tiếp là thời gian bứng gốc nên hễ thứ gì dây dưa với cũ là tháo bằng hết, kể cả nguồn gốc, nhà cửa, xe cộ và luôn con người. Chặng ba là sàng xẩy, chỉ cho phép lưu lại những gì hợp và cần thôi.


    Sau khi đã rửa sạch tay thì lúc ấy mới bắt đầu thời hãnh tiến. Cho nên, những ngày tháng tôi về Xóm Cụt có thể đang ở vào cuối giai đoạn 1 sang đầu giai đoạn 2 nên đời tôi có lao đao lận đận cùng là thường tình của nhân thế.


    Cũng may là tôi còn được gá tí ti vào cái mác có người nhà không dính dáng gì đến giặc, cho dù đó chỉ là thứ cà nông bắn xa cũng không tới, thế nhưng có còn hơn không. Chính người nhà tôi đã rỉ tai bao lần : chú đừng dại mà bỏ thành phố, tiêu tùng là cái chắc. Tôi xin cám ơn lời dạy khôn dạy khéo cho tôi. Cho nên hễ rục rịch nghe thằng tửng tôi nói : ba ơi tuần sau lại bình bầu đi kinh tế mới là tôi vội sấp ngửa tìm cách vọt. Tôi vơ quàng vơ bậy bất cứ cái cọc khô nào, thậm chí biết rõ mười mươi đi làm sẽ chẳng có đồng lương mang về, tôi cũng nhào đầu theo hơn là bị dính chấu.


    Có kỳ tôi đã lặn lội lên tận Bù Đăng, Bù Đốp làm thợ vịn cho các công trình xây dựng. Lão chủ thầu khai danh sách toàn thợ xịn mà chính thực là lợi dụng bọn tôi làm thợ xây, thợ mộc chí chát. Lão móc nối được trưởng phòng xây dựng nên tường có cong, cửa có lệch vẫn được nghiệm thu và thanh toán đàng hoàng.


    Tiền đó lão chủ chi vào đãi đằng khắp lượt từ kỹ thuật đến tài vu, ngân hàng hay o một cô nào đi miết, chỉ cần quẳng bao gạo cho công nhân ì ọp nấu ăn, thức ăn là bứt trộm hoa bầu hoa bí hay chung nhau mà mua tí lạc về giã ăn dần. Thế nên, bọn tôi có thằng đi kiết lòi dom cũng cố mà làm hay quơ bậy mấy cái lá mơ, la thúi **** nhá nuốt mà làm tiếp.


    Ôi, những ngày tháng dìm thân nơi rừng già, chiến tuyến cũ. Đêm nghe mênh mang đồng đội cũ về kêu đói xin ăn. Thằng đói nhường người chết đói hơn, bọn tôi giữa khuya cũng lo ki cóp chạy xin nắm nhang của bà con gần đó làm chút hương ủ ấp truy niệm những người chết trận ngày nào. Tự dưng thấy buồn và thương cho những người lạc lõng bơ vơ, trong khi các quan to “ giờ này ông ở đâu “, liệu có biết cơ man dọc dài đất nước những người một thời đã đắng cay nằm xuống để quí ông vênh vang bán đất, bán nhà, đợ vợ, buôn con, buôn cả xì ke, đĩ điếm và choảng nhau liên tục vì cái chỗ.


    Bây giờ rừng già tuy xanh cỏ, nhưng oan hồn tức tưởi vẫn chưa được siêu thoát thênh thang. Thản hoặc, trong khi đào móng, anh em chúng tôi vẫn cuốc nhằm những lóng xương lổn nhổn, vôi vàng thu nhặt rửa sạch và tìm cái bao cát ni lông ngày xưa làm nơi trấn thủ để gói ghém mà vùi nông anh em một tấc, tiễn nhau trong cảnh ngậm ngùi, sau khi đã xì xụp khấn phù hộ cho nhau để công trình xong tươm tất.


    Thời gian đó, nào ai còn biết Giáng Sinh hay Phật Đản là gì. Chỉ còn nghe tiếng rế và tiếng côn trùng thi nhau rỉ rả gáy và bóng đom đóm lập lòe như ma trơi đang diễn binh giữa bóng tối triền miên

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Phần 13

    Có một dạo đi đến đâu cũng nghe mọi người trong nước than bị bệnh ghẻ xâm nhập vào mình. Đây không phải là những nốt ghẻ mọc ở những nơi bình thường mà ranh ma chỉ tìm các kẽ ngón tay, khoeo đầu gối, dưới nách hay quanh bẹn mà tấn công. Ngặt thêm đây còn thuộc loại ghẻ mủ, gây đau nhức, nên trông ai cũng nhăn nhó, khệnh khạng như anh mang bệnh lậu.


    Có người cứ phải luôn luôn xòe các ngón tay ra vì nếu kẹp lại bình thường thì các nốt ghẻ cấn cái làm cho khó chịu. Bực nhất là ai bị ghẻ ở quanh bẹn thì chẳng khác người nổi hột xoài, đi lênh khênh như người mang bệnh kín.


    Không ai biết xuất xứ căn bệnh từ đâu đến mà đồng loạt ai cũng ít nhiều đều bị. Người thì nói là tại các bộ đội đem từ Bắc vào, kẻ lại bảo là tại ăn loại sắn Ấn Độ dài ngày nên sinh ra mụn nhọt.


    Người ta còn giảng rành rẽ giống sắn này bên Ấn chỉ dùng để nuôi súc vật, bây giờ trở thành món ăn chiến lược của toàn dân nên gây ra tai họa. Họ kháo nhau cứ thử ngâm sắn trong nước một ngày đêm sẽ thấy bốc mùi thối khăm khẳm, hắt đổ ra quanh đó thì cỏ dại gì cũng thối rễ mà gục hết.


    Vậy mà có giai đoạn cả miền Nam đều phải nhận phần sắn chủ lực này làm trọng lượng lương thực thay gạo. Còn mì sợi, khoai hay các thứ có chút ít dinh dưỡng hơn chỉ ưu tiên dành cho cán bộ, công nhân viên hay gia đình có công mới được hưởng chế độ đặc biệt.


    Tội nghiệp mấy nhóc của tôi chẳng đứa nào thoát khỏi những mụn mủ mọc như đơm hoa trên thân, lâu lâu mủ vỡ ra gây nhức nhối, nặng mùi, rên như đạp phải đinh hay ăn phải mật gấu.


    Dạo đó, phòng khám y tế đông như kiến, ai cũng kè rè đem tay chân đến xin khám và nài xin thuốc. Cũng chỉ mấy viên xuân tâm liên kèm lơ thơ mấy hạt B1 gì đó là hết. Do muốn chóng được trị lành bệnh để còn đi lao động kiếm cơm nên ai cũng nài nỉ tuyến phường chuyển lên bệnh viện da liễu thì xem như hạn chờ mưa, không được để tâm đến.


    Tôi có nghe lao xao những lời đồn không khống này nhưng chỉ dám nửa tin, nửa ngờ vì không có chứng cớ chính xác. Chẳng hạn ở Xóm Cụt chỉ duy nhất có anh thợ sửa xe và gia đình tôi là bị nạn, còn ông bà thương binh và nhà bán máy thì vẫn dửng dưng. Con bé ngồi chợ về lăng xăng lít xít kêu rùm cả chợ ai cũng co tay, nhón cẳng, thấy mà ớn.


    Thằng tửng tôi thì rên rẩm suốt ngày, thở dài sườn sượt, bung xung như chó tháng bảy. Đôi khi bực mình tôi khẹc nó : mày cho là tại tao mà mày sinh ra ghẻ phỏng. Rồi tôi khua vung vít tay chân, nhảy choi choi như đứng ở tổ kiến. Nó sợ nên chỉ thút thít khóc. Thét rồi nó hết dám than vãn với tôi, gặp đâu cũng thấy mặt nó nhăn nhó như cái bị rách, nhưng với mẹ thì nó tỉ tê suốt ngày.


    Một đêm tôi đã nghe bà xã rụt rè nói với tôi : ông à, thằng Tửng bảo nghe nói vì chất sắn lưu cữu làm cho khó thẩm thấu được nên sinh ghẻ. Nó còn nói thêm nhiều nhà đã thử ăn một bữa nấu toàn gạo là thấy ghẻ bay đi cả. Tôi nghe như huyền thoại, nhưng ở cái thời buổi chỉ tiêu mỗi tháng có 3 cân gạo/người mà nó đòi có một bữa không ăn độn thì họa nó là con vua, cháu chúa hay là ông “ cán bộ con “ mới có.


    Tuy nhiên, lòng thương con vẫn dâng tràn trong tôi, ngặt cái tôi cũng lúng túng chẳng biết giải quyết làm sao nên giả tảng đã ngủ quay cu lơ rồi. Tôi nghe bà xã than : người gì dễ ngáo, mới đó mà đã hò kéo gỗ ngay được. Thế là mẹ mẹ con con rủ rỉ bàn với nhau sao đó, tôi thấy con bé nhà tôi chạy liên chi hồ điệp ở chợ và một chiều dù trời chưa đẹp, nắng chưa trong, con bé khệ nệ bê về một túm đủ thứ và khoe um nhà : bữa nay nhà ta liên hoan lớn.


    Tội nghiệp, con bé chạy sấp chạy ngửa để có được đồng tiền, rồi lại nịnh khéo nịnh khôn để mua được tí gạo ngoài chỉ tiêu, nó đãi cả nhà một bữa cơm trắng đàng hoàng. Những hạt gạo thơm tho (do tưởng tượng để đời còn thấy lên hương tí xíu) làm cả nhà ăn mà muốn chảy nước mắt, thằng Tửng xem ra hí hửng nhất.


    Mà lạ, chỉ ăn duy nhất có một tối, hôm sau đã nhìn nó có vẻ thong dong. Nó chìa hai bàn tay như các cụ ta xòe đủ 5 ngón ngay ngắn khi ngồi chụp ảnh và trịnh trọng nói với tôi : bố này, các mụn hết cương mủ rồi.


    Tôi nghe mùng thì ít mà thấy xót dạ thì nhiều. Có đời thủa nào đến bệnh cũng chỉ cần được ăn một bữa tầm thường mà hết chóng vánh như thế. Tôi ngẫm ra hay vì tại thiếu quá nhiều chất cám mà da trở nên bì bì, dễ bị nhiễm khuẩn cũng nên chăng.


    Tôi đem kinh nghiệm này phổ biến với ân nhân truyền nghề bơm xe cho tôi, anh bạn vội đánh bạo chi tiền làm một bữa thì con ghẻ của anh cũng vội dông đi hết. Tôi khôi hài gọi đoạn đường trải qua thời gian đó là “ con đường khốn khổ “, y như tựa đề một tập truyện dịch từ nhà văn Liên Xô rất lưu truyền dạo ấy.


    Những ngày ở Xóm Cụt còn để vương lại nơi tôi nhiều kỷ niệm vừa ngộ nghĩnh, vừa đau lòng như vậy. Tôi nghĩ suốt đời sẽ không sao quên được, cho dù sau này tôi có được sống một cuộc sống tươm tất hơn, hay cho dù có được đổi thay bằng một thời hoan hỉ đến mấy thì chắc không sao xóa hết những thời gian khốn khỗ này.


    Tôi sống bằng nghề bơm bánh xe và trộn lẫn với những kỳ đi chu du làm thợ vịn mất đến sáu năm hơn. Những cuộc chạy chính sách bất đắc dĩ khiến tôi biết nhiều vùng đèo heo hút gió. Ngày còn ở quân ngũ, tôi đã từng biết Kontum, Thiện Giáo, Quảng Đức, Daksong, nhưng so với những địa danh sau này thì vẫn còn “ văn minh “ hơn nhiều.


    Bây giờ thì chuyện nằm ngủ trên đống gạch chờ xây chất cao giữa trời, đêm vẫn còn âm ỉ tỏa sức nóng và gần sáng thì nhoáng nhoàng chạy vì sương phủ toát là chuyện cơm bữa. Còn cảnh bị đem bỏ chợ, ăn uống cực thiếu dinh dưỡng, sinh kiết lỵ, đổ máu cam hay làm mà tay run, lương bị quịt, thì chẳng còn lạ lẫm gì.


    Ai chê dại tôi xin chịu, bởi vì khôn gì ở thời buổi lúc bấy giờ. Dại mà còn bám được thành phố thì cũng hơn khôn mà đem thân giam vào kinh tế mới, để bị hành suốt từ hèn đến sang. Có thấy mấy tay du kích lúc nào cũng khinh khỉnh hăm he, mới thấy dù gì cực ở phố hơn là sướng ở thôn.


    Tôi đã bao lần bị mấy nhóc cỡ tuổi con cháu mình, mỉa mai, hoạnh họe, nói xóc óc mà cứ một điều thưa anh, hai điều thưa anh rối rít. Điều này tôi cóc dám nói lại với vợ con để khỏi thấy họ buồn lây, ích gì.


    Hòa bình đến, địa bàn gom chung rồi lại giãn ra, lúc gộp thì gộp hằng hai ba tỉnh thành một, chừng bát nháo đòi tách chia thì lại xoèn xoẹt làm ngay. Bởi mỗi lần thay đổi cơ chế hành chánh là một lần dựng xây vô tội vạ.


    Rừng bắt đầu được hạ một cách phóng túng, gỗ mặc sức xẻ lềnh khênh, công trình sử dụng một thì đám kên kên bu vô ăn có gấp hai ba. Có những cây lâu năm vòng ôm hằng ba bốn người nắm tay nhau không giáp kín, vậy mà thi nhau hạ để làm ván bìa dựng vách.


    Những hôm mưa đã nghe gió thịnh nộ giông cuồng. Những con nước nguồn đã từ rừng băng băng đổ xuôi, gây lụt lội triền miên khi mưa đến. Người đông, của khó, ý thức bảo vệ nguồn tài sản sơn lâm xem nhẹ chẳng ai nghe, cuộc sống cơ cực khiến ai cũng sẵn của thiên nhiên hùa nhau làm thịt.


    Bằng lăng, cà te, gõ, cây cày, hương, trắc, người biết hay chẳng biết đều đua nhau chặt đốt than lậu tít trên triền núi cao và ban đêm chuyển đi bán lén lút. Kiểm lâm có ngăn chặn thì hoặc là được dấm dúi chi tiền, hoặc bơ vơ sợ ăn đòn nên lơ là hay thỏa hiệp cho xong.


    Những năm đó, người đi tìm trầm hương, cây gió cũng nhiều. Phần lớn là các anh em quân nhân cũ, ai cũng nghĩ làm vài chuyến may ra vớ được của trời, nhưng lắm người đi mà chẳng thấy về, tin đồn bị cọp, beo sơi thịt ở đâu đó.

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Phần 14

    Gia đình ông chú ở rìa ngoài thị trấn cách tôi chừng nửa giờ đạp xe (sau biến cố 75, ai cũng lấy đơn vị xe đạp làm thước đo đường trường vì ngoài xe đạp thì chẳng còn loại phương tiện nào khác, hoặc nếu có thì cũng phủ chăn đậy cất vì không mua được xăng, hoặc đem phát mãi cho cánh cán bộ chập chững từ Bắc vào, rất thích con Hon Đa của đế quốc). Ông chú thuôc bên nội là đồng tông với bố tôi. Ông chỉ có mỗi một mụn con trai còn thì toàn bốn cô gái. Anh trưởng này hên là có tật ở bàn tay phải từ ngày bé nên suốt thời gian chiến tranh chẳng phải lo lính tráng hay bị cảnh sát hỏi thăm sức khỏe đưa vào trung tâm nhập ngũ gì cả.


    Trong số các con gái, có cô thứ ba đã từng đi làm công chức quốc phòng, làng nhàng cũng chỉ sắp giấy tờ vào hồ sơ. Cho nên phải nói là lý lịch cả nhà ông chú rất sạch, lại nữa ông cũng có một thời đi núi và bị bắt sao đó.


    Sau này biết tôi là lính tráng, ông luôn than van chính tôi đã bắt ông. Tôi giải thích hết lời, tôi là quân đội ngành chuyên môn kỹ thuật thì làm sao nhúng vào nhiệm vụ bắt thường dân như cảnh sát được, nhưng ông nhất quyết nhớ là không sai, nên tôi cũng im cho xong.


    Cô con gái của ông do tôi giới thiệu vào một cơ quan bạn, còn các vách tường nhà ông cũng do tôi xin bạn bè các thùng lớn đựng quân nhu viện trợ nên ván ép thuộc loại dày có thể chịu đựng mưa gió, rét mướt suốt từ bao lâu nay.


    Vậy mà đùng cái, gia đình ông dắt díu đi xây dựng nông thôn mới ngay đợt đầu. Tôi nghĩ giá ông và các em có trụ lại cũng nào ai thèm rớ tới, vì nhà ông lụp xụp núp sau xa một ngôi nhà to dựa quốc lộ, muốn ra vào phải đi nhờ một lối mòn băng qua vườn nhà chủ. Tôi đem thắc mắc này hỏi chú thì ông thành thật kể với tôi : bạn bè kháng chiến xưa am tường về gặp đều báo với ông chính sách giãn dân. Theo các ông bạn thì trước sau dân sở tại cũng sẽ bị bứng đi hết vì đất đai quanh vùng chỉ dành cho cán bộ, viên chức nên khuyên chú tôi đi sớm còn được chọn vùng gần gần.


    Vậy là gia linh ông chú com cóp đìu bòng nhau vào một thôn dưới chân núi cách đó hơn 1 giờ đạp xe nữa. Khi dọn dời thì tôi còn đang theo học làm con người mới chưa tốt nghiệp xong, mãi khi về sau gần cả năm chui rúc trong nhà, tôi lóc cóc đạp xe đi thăm thì thấy nhà cửa ông chú vẫn tuềnh toàng chưa ra cơ ngơi gì cả.


    Dạo đó, khối người ở quanh tôi hăm hở kéo về làm dân ở đây vì nghĩ dù sao cũng còn gần thành phố một chút. Ông chú chỉ trỏ nhà này cho biết mới đi tù về, nhà kia vốn là dân buôn cũ ở phố. Tôi có hỏi sao khi đi không dọn theo mớ ván ép để đến đây có sẵn dùng thì ông chú nói nghe họ trả giá hời bán quách cho đỡ nặng.


    Lên ở chỗ mới, anh con trưởng trần thân đi chặt cây làm cột, kèo, rui, mè và đi cắt lá kè về lợp che làm mái, chả thấy than tay bị tật hay đơ gì sất. Còn các cô con gái xoay nhau mở đủ nghề, người đúc bánh căng, người làm bánh bò, lại còn xoay vần việc nhà nông vì bị bắt buộc gia nhập hợp tác xã nông nghiệp. Chính kỹ nghệ bánh bò gia đình tôi lấy làm kế sinh nhai cũng do được từ các em chuyền chỉ cho. Vì học vội học vàng nên thường bị bột vật cho trần thân khổ ải, bữa nở, bữa chai, bừa lì, bữa lịt. Cũng may dạo đó, người đông của hiếm nên trời thương cũng cho lây lất qua truông.


    Thời buổi đó, ông Võ Tòng Xuân cổ vũ đưa giống lúa nổi về trồng thử nên khắp nước đều đua nhau gieo và thu. Ngặt cái, đất đai phần mới giỡ, phần bỏ hoang hóa lâu năm, nay cả nước mở phong trào, đòi hỏi phải tốn nhiều phân, thuốc mới có kết quả. Mọi dịch vụ cung cấp sản phẩm phục vụ cho nghề nông đều nằm trong tay nhà nước nên giá cả, điều lệnh ra sao đều do họ qui định hết, dân nông chỉ có è cổ ra chịu.


    Lại thêm chế độ công lênh theo kiểu “ cha chung không ai khóc “ nên làm chăng hay chớ, trốn lỉnh là nhiều, nợ tràn đìa lây lất, trả mùa này sang mùa khác vẫn không đủ. Gặp kỳ đến thăm chú đúng vào hôm thu hoạch, cả thôn tấp nập khuân chuyển thóc rơm ra nộp cho hợp tác buổi tối. Tiếng đong đếm rào rào, tiếng bàn tán xôn xao, cấp bộ kiểm tra xong cho lệnh ủ che, sợ hớt hao hay bị mưa thóc úng mục, thế là bà con mượn cơ hội giới chức đã đi, lén nhau hốt trộm đem thót về nhà. Vì bụng đói quá, làm việc nhiều mà công chấm ít nên nông dân liều lĩnh làm bậy.


    Đến khi nhiều nơi tự phát âm thầm cho nông dân nhận khoán thì chẳng cần kẻng báo, loa giục họ cũng tự động hăng hái ra đồng. Khởi xướng từ miền Nam, nhưng một là phải im hơi kín tiếng, hai là có tranh đoạt danh hiệu cũng chẳng được (công đầu bao giờ cũng thuộc về miền Bắc ưu việt đã), nên hiên tượng Thái Bình quê hương 5 tấn mới được báo đài ông ổng ca vang.


    Trước nhà nước còn hăm he là nông dân làm chưa có lệnh của lãnh đạo, nhưng rồi thành quả như con nước vỡ bờ cuốn hút theo mọi ì xèo để thành khoán 10, kể công tài ba của cấp lãnh đạo với cả nước.


    Giai đoạn bình bầu đi kinh tế mới xoành xoạch như cơm bữa, cô em thứ ba thỉnh thoảng có ghé xuống thăm xem tình hình gia đình tôi ra sao. Bọn nhóc được cô cho dăm tá bánh tráng ngọt thì thi nhau nhá chóp chép có vẻ khoái chí. Nghe vợ tôi tỏ nỗi lo có thể bị bứng thì cô em đề nghị hay là tôi “ di tản chiến thuật “ lên chỗ ông chú ít lâu, khi nào tan việc cắt cử lại về.


    Kể ra bất cứ xã hội nào cũng khó lấp hết các kẽ hở, chứ nếu không thì ai thoát cho nổi. Dù đang bù đầu bù óc với lo lắng bất an, tôi cũng phải phì cười vì câu “ di tản chiến thuật “ của cô em. Nó nhắc với tôi một thời từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 4-1975 mà bao người phải cười đau khóc hận vì mệnh nước.


    Chính quyền có thể làm bất cứ chuyện gì, nhưng không sao lấy thúng úp voi cho nổi. Việc phân chia phường này phường nọ, chỉ cần từ bên này đường tếch sang bên kia đường là hai bên đương sự đã có thể nghinh nhìn nhau chẳng sợ chi. Cũng nhờ chỗ lắt léo này mà dân miền Nam mới lập mánh sống và thoát. Những người buôn chạy biết thân phận họ nên chẳng khi nào chịu mở cửa hiệu hay lập chỗ bán hẳn hoi.


    Chị bán thuốc lẻ chỉ cần dùng các tút không bỏ lơ thơ dăm bao thuốc xé lẻ hay mấy bó thuốc quấn, nhưng ai hỏi bất cứ gì cũng có, từ số điếu đến cả bao. Lăn lóc các vỉa hè, lề đường ta thấy bày các chai không hiền từ, nhưng ai cũng hiểu muốn mua xăng là có, dù lúc ấy xăng chỉ bán theo giấy giới thiệu hay phiếu mua và thường chỉ hàng cán bộ hay công nhân viên mới có tiêu chuẩn.


    Phương chi nếu tôi chọn đi lánh nạn chiến thuật chỗ ông chú thì ai biết đâu mà mò. Nhưng tôi không chọn giải pháp đó vì vẫn còn tạo bấp bênh cho vợ con và chính tôi cũng bị ghép vào lỗi đi không khai báo. Cho nên, tôi chọn lối chắc ăn hơn là xung phong vào các đội xây dựng làm việc cho nhà nước để cốt có cái giấy chứng minh thư công nhân quèn, công nhân vịn mà có nộp cho ban bầu chọn là xong. Sau này khi tôi đã tập trung hơn mười giấy chứng nhận công nhân thì coi như hóa giải khỏi thành phần bị gọi đi kinh tế mới.


    Không phải chỉ có duy nhất cách của tôi, mà mỗi người đều có sáng kiến hay ho cho riêng mình. Anh tình nguyện vào thanh niên xung phong, chị nhận làm chị nuôi cho các đoàn đi thăm vùng kinh tế mới, họ đều mưu tìm một số bảo đảm cho thành tích lao động tích cực của họ để có lợi thế khi bị bình bầu.


    Có thời đại nào con người bị điêu linh và vong thân đến vậy không nhỉ ? Những con người bề ngoài tưởng là bằng phẳng êm tịnh nhưng bên trong đều là biển thái bình dậy sóng, những đợt sóng ngầm chực chờ dìm sâu đời họ vào phong ba bão táp mà không biết lúc nào ngưng.

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Phần 15
    Sống giữa xóm Cụt tôi như nằm trong cái hộp, bốn bề vây quanh bằng những gờ tường cao lừng lững. Tin tức phần thì bị bưng bít, phần bản thân tôi cũng ít quan tâm. Nỗi ám ảnh lời dặn dò của tay chính ủy nói riêng với tôi khi được gọi làm thủ tục về với gia đình còn văng vẳng suốt ngày.


    Anh ta ngầm ngầm nhìn tôi rồi nhẩn nha kể lể : tôi biết các anh rắn đầu lắm, còn ở đây thì còn nhũn nhặn, ra về đối mặt với thực tế, đôi khi dễ chóng quên. Tôi chắc thâm tâm anh không muốn quay lại đây lần nữa vì chẳng có cuộc tập trung “ cải tạo “ nào xem ra nhẹ nhàng cả. Các anh không muốn, chúng tôi càng không muốn hơn, hòa bình đã nhiều năm mà nào tôi đã được trở về thăm quê. Nỗi nhức nhối đó đôi khi làm tôi hận các anh, giá đừng có chuyện người bị giữ thì làm gì có cảnh người canh tù. Vậy ra về anh hãy giữ gìn cẩn thận, đừng dại dột đối đầu với người muốn gây sự với anh. Dưới mắt họ, anh chẳng là gì hết, cụng nhau chỉ bươu đầu sứt trán, phần thua thiệt vẫn ở phía anh. Đừng bất đắc dĩ để chúng ta gặp lại nhau lần nữa ở chỗ này, chẳng vui gì và còn kéo dài thời gian vô ích.


    Tôi hết sức cám ơn anh ta, một lóe nắng giữa mùa đông rét mướt. Về gia đình, tôi mới thấm thía lời của anh. Dạo Trung Quốc rục rịch choảng người đồng chí “ môi hở răng lạnh “ của mình, bọn quan quân chúng tôi bị tập trung ắc ê gọi là tập tành quân sự.


    Đúng là điếc không sợ súng, dù gì chúng tôi cũng được huấn luyện gần cả năm hoặc lâu hơn tại các lò luyện đánh nhau, thế mà vẫn phải đóng kịch lơ láo đến ngồi nghe một tay du kích phường chỉ vẽ cho cách lấy đường ngắm vũ khí. Tếu nhất là tôi được gọi ra chất vấn thế nào là đường ngắm đúng, làm tôi suýt bật cười mà vẫn cố bặm môi nghiêm trang đọc vanh vách lời định nghĩa ở liên trường võ khoa dạy thuở xưa.


    Đã thế, nào được xem là xong. Tay nhóc con ngồi gác chân lên ghế hút thuốc lá vặt nghe xong còn phán một câu xanh dờn : anh định nghĩa tạm được, dù chưa đủ hoàn toàn, làm cả bọn tôi nhìn nhau láo liên như rớt từ cung mây xuống.


    Không gì cay đắng và khổ nhục bằng mình hóa ngọng hóa nghịu, hóa đui hóa điếc, hóa ngẩn hóa ngơ. Cho nên thôi thì nhắm mắt, bịt tai, lấy keo dán miệng cho qua. Thế nhưng thằng tửng nhà tôi thì không chịu như vậy. Nó đúng là cái ống nhổ để thiên hạ có gì trút toẹt vào, dù hay dù dở, dù xấu dù đẹp.


    Khơi khơi khoảng cuối những năm 80 bước sang đầu 90, nó về khoe nhặng xị với tôi : bố này, mình sắp mở cửa, nghe đâu các nước sắp đổ vào làm ăn buôn bán. Tôi nạt nó nói bậy : đời nào lại có chuyện này. Đánh nhau hằng chục năm, hy sinh hằng mấy triệu người để đạt cái chính danh “ đánh cho Mỹ cút “ hoặc “ hoàn tất con đường đi lên chủ nghĩa xã hội “, chẳng lẽ lại nhanh chóng nhận phe phái ngày nao đánh nhau vỡ đầu thì còn gì là “ đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản “ nữa. Phương chi, các nước thập thò đến làm ăn nếu không là Pháp, Úc, Anh, Nhật, Đài Loan, Đại Hàn thì cũng dây dưa đến bọn tư bản thù hằn mới đây, chừng đó ăn làm sao nói làm sao với các gia đình liệt sĩ hay có công vì đánh nhau tóe khói để lại rước họ vào.


    Tôi bỏ lơ lời nói của thằng con, có lúc còn nghĩ là nó nói khùng nói điên cho đỡ nản. Thế nhưng hôm nghe báo chí loan tin trân trọng chuyến bay Air France đầu tiên ghé Saigon, bay rất thấp để ai cũng nhìn thấy loáng thoáng dáng vóc phi hành đoàn thì tôi thấy thằng tửng có thể đi làm thầy sờ mu rùa kiếm tiền được rồi.


    Lại thêm, những tin thằng chó đem về ngày thêm giựt gân hơn nữa. Một hôm nó không oang oang như thường lệ mà thập thò như thằng ăn cắp, nó lôi tôi sền sệt vào sau nhà mà dặn : bố đừng nghe ai rủ rê làm đơn xin đi Úc là sập bẫy đó nghe. Mấy hôm nay họ hốt đám này dữ lắm vì ai ngây thơ nghĩ đã có sự thỏa hiệp giữa hai nước Việt Úc là coi như tự đút đầu vào túi.


    Hồi đó, tin tức loạn xạ, khi thế này lúc thế khác. Không khống người ta bung tin sắp cho người đi ra ngoài nước, chủ yếu là các ông đi tù về. Ai cũng nháo nhào theo dõi xem độ xác thực đến bao nhiêu. Rồi lại có tin Mỹ sắp tặng gia đình nào không chịu đi số tiền 5000MK làm vốn sinh sống. Ôi chao, giữa cảnh bo bo, khoai độn, gạo hẩm, bụng không no mà nghe khơi khơi sắp có 5000 tiền đô thì ai mà chẳng hám.


    Nhưng dần dần các tin tương tự đều tự hóa giải vì chả ai hiểu nguồn gốc từ đâu mà loan ra. Y như người đi đường dài, thỉnh thoảng lại nhóng với nhau sắp tới chỗ nghỉ để còn hơi sức mà đi tiếp.


    Đến cái tin nhà nước sắp cho người Hoa ra đi bán chính thức với điều kiện nộp một món tiền theo đầu người thì thằng tửng nói là chắc chắn hoàn toàn, nhưng gia đình tôi có vặn răng cũng chẳng ra được một hạt bụi vàng thì làm sao mưu toan đi đây. Chuyến đầu tiên ra khơi đó trot lọt, dù có tin là người ta gửi hết mớ này đến mớ khác, khiến ghe khẳm muốn chìm, hoặc người Hoa tương kế tựu kế giả đem củi theo để nấu ăn dọc biển mà thực ra là họ tráo đem trầm hương hầu chuộc vốn bỏ cho chuyến đi.


    Dư luận thế giới cũng hùa nhau phê phán nên sau chuyến này thì tịt luôn. Những người rắp tâm đợi xem kỹ càng mới hành động thì đành ngậm đắng nuốt cay vì tiền đã đóng mà thuyền thì không ra khơi nữa.


    Lại thêm, cái tin đã có sự âm thầm chuyển thư gửi xin tị nạn LHQ qua hệ thống bưu điện. Thằng tửng nói rõ quầy số mấy của bưu điện Saigon chịu nhận chuyển đi với tiền lót tay ra sao đó, còn kèm thêm ai muốn làm đơn bằng tiếng Pháp hay tiếng Anh đều có “ cò “ nhận giúp ngay tại quầy viết cạnh đó. Ôi chao, những cái tin làm lao xao tấm lòng hạn hán đang mong vài giọt mưa cho mát mặt.


    Cho đến một bữa khác thằng tửng khoe là gia đình một người nào đó vừa nhận được thư gửi thẳng từ Mỹ về không phải dùng con đường lòng vòng qua Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Đan Mạch v.v…


    Rồi hải quan thông báo cho lập sổ nhận tiền, nhận hàng, dù còn hạn chế mỗi năm vài bận, nhưng thứ gì mặt này cho thì lại mặt kia bày ra thủ tục để kiếm chút cháo. Cấp phường trực tiếp xem ra vớ bở nhất vì đơn từ hay giấy tờ gì cũng đều phải qua sự chứng nhận của họ thì mới có giá trị hoặc được hay không.


    Những thùng hàng, những hộp thuốc cưu mang gửi về, dù phải lặn lội vào Saigon hay ra Đà Nẵng để nhận thì mọi người cũng cố vay mượn mà đi. Chợ thuốc Tân Định đặt người tại các trạm, mời bán hay ghi chép địa chỉ để theo đến tận nhà điều đình. Những cò mua lại hàng, hay các chủ ứng tiền cho mượn đóng thuế, mục đích bắt buộc người lãnh phải bán, nhượng lại cho họ với giá hời vì ân huệ nhờ đó mới lấy hàng ra được.


    Rồi những tin kể lại với nhau về xin khéo, mua khéo để mau mắn được kiểm sớm, thuế giảm và có người còn cường điệu bằng cầm lên sấp hàng mới nhận để đón lại cảm giác mùi vị của một thời lãng đãng còn rơi rớt mới đây. Ai cũng đau hơn bị bò đá mà cắn răng chịu vì có nằm mơ cũng không nghĩ là đột nhiên mình nhận được ơn mưa móc thế này.


    Những giọt lệ thút thít, những tình cảm lưu linh, những bức thư kể lể cho nhau nỗi nhớ nhung của người ở xa với người kẹt lại, dù đằm đằm mà sao đâm nhói vào tim óc của nhau.


    Một hôm, bất chợt ông thương binh về hưu gặp tôi. Cả hai cùng ngượng ngùng mất mấy giây, rồi ông ta hỏi thăm : tôi nghe nói nhà nước đã cho các ông được nhận quà của thân nhân ở nước ngoài, vậy ông có được bạn bè hay bà con gửi giúp đỡ gì chưa.


    Tôi nghẹn vì nhớ ra chẳng có ai hết. Bạn bè thì hoặc là không biết ai còn ai đi, hoặc là chân trời góc bể nên mù mịt mọi bề, còn thân nhân thì ai biết và biết ai đâu. Tôi giả tảng nói nước đôi để khỏi chạnh lòng và cũng để không gây cho ông hàng xóm nỗi buồn lây của mình.



    Phần 16

    Cuộc sống càng lúc càng trở nên chật vật. Thực phẩm khan hiếm, hàng tiêu dùng ít ỏi. Lại thêm chế độ tem phiếu rắc rối, phiền hà làm cho con người đã khốn đốn càng khốn đốn thêm. Gạo thóc, thịt thà, vải vóc cho đến cây đinh, bát chè đều được bán theo tiêu chuẩn và rất mực hạn chế.


    Khổ nhất là những gia đình dính dáng đến chế độ ngày trước, mất lương, mất chỗ ở, mất mọi thứ, lại còn bị phân biệt đối xử nặng nề, nên nhìn vào ai cũng thấy như bị đeo đá, cùm gông.


    Phường khóm đặt ra đủ thứ khai báo : tạm trú, tạm vắng, lại còn chịu những phận hẩm hiu về số gạo mua theo đầu người, thời hạn được mua v.v… Hẳn nhiên, những người đang đi tù cải tạo đều không được kể là đang có mặt trong hộ khẩu, bị mất phần thụ hưởng như mọi người.


    Vậy mà đôi ba tháng một lần, ki cóp đi xin được một giấy phép thăm nuôi trầy vi tróc vẩy thì tấm lòng người vợ ở nhà thể hiện sự chắt chiu biết bao để mua cho chồng từ gói bột sắn, đến gô thịt ram xả, bánh thuốc lào, gói đường thẻ, mong ủi an người xa nhà sống trong cảnh thiếu thốn tứ tung.


    Những bà vợ xưa nay chỉ trông vào đồng lương của chồng, một thời bị lên án theo địch ăn bơ tàn sữa cặn, lười lao động hay sống bám dựa linh tinh, nay mọi nguồn lợi bị cúp hết, họ vẫn can đảm sống tự lo thân, gánh vác cho đám con cái tiếp tục đi học, lại còn nuôi báo cô ông chồng đi học mút mùa mà chưa thấy tiến bộ để về với gia đình.


    Khốn khổ thay những ai lại còn bố mẹ già hai bên, nuôi chính người trong gia đình đã khó, lại phải nghiêng vai gánh vác cả giang sơn nhà chồng mới thiểu não làm sao. Những người có chức quyền bị hành hạ đã đành vì ở vào địa vị thua phải chịu dằn vặt, nhưng những anh em hạ sĩ quan, binh lính hay thương bệnh binh nào cũng có hơn gì đâu.


    Họ cũng bị qui vào thành phần phải giãn dân, đi xây dựng kinh tế mới hay sống cầu bơ cầu bất tự kiếm ăn ra sao thì mặc. “ Đi đâu cũng gặp anh hùng, đi đâu cũng gặp thằng khùng, thằng điên “, đó là câu ca dao thời thế dạo đó ai cũng nghe, cũng biết.


    Nhiều người ta thán sao thành phố nhếch nhác đầy những người lẩm nhẩm một mình, bơ bơ như chẳng cần thiên hạ. Và nạn ly thân, ly dị bát nháo cũng xảy ra. Nay nghe tin nhà này đổ vỡ, mai nhận tin nhà nọ chia tay.


    Xóm Cụt tôi ở, tuy chỉ lơ thơ dăm nhà mà cũng thấy lung lay tận gốc. Anh thợ sửa xe đã nhỏ to với tôi : cỡ này chắc em cũng tính đi buôn chuyến quá, ông thầy liệu có muốn cộng tác với em hôn ? Tôi đâm ngọng nghịu vô cùng. Hoàn cảnh tôi không cho phép tôi làng xàng chường mặt ra xã hội, mỗi bước đi của tôi đều bị theo dõi hay bắt buộc phải khai báo hơn ai hết. Xin thì chắc là không cho, mà liều sẽ bị cường điệu lung tung, chắc chắn chuyện trở về “ trại “ sẽ không thoát. Nói đến “ trại “ chỉ mới nghe danh thôi đã ớn ợn rùng mình, còn nói chi trở lại để biết mùi đời thì chắc là không ai dám.


    Người đời phóng túng đi buôn, ai đàng hoàng thì nhắn nhe bắn tiếng, ai dấm dúi đi cũng chẳng người nào biết đấy là đâu. Một mặt, chính quyền cũng ngơ ngơ vì người đâu kiểm soát cho hết, một mặt tuy họ là dân con của vùng địch ngày trước, nhưng chưa đến nỗi liệt vào đám có thành tích, nên thôi thì cũng để họ ngóc ngách tìm cái sống, chứ chẳng lẽ để họ lăn quay ra đó khi mà nhà nước chưa với tay nuôi họ sao.


    Hầu như mười nhà hết bảy tám các bà thay chống xắn tay lăn vào xã hội. Gom góp tí vốn, bán dần bán mòn thứ này thứ kia, chồng còn đi tù hay về nhà, mỗi lần các bà đi phải lo từ miếng ăn để lại cho lão ấy và lũ nhóc, rồi lênh đênh trên đường giụi mặt vào gió bụi cuộc đời.


    Chưa hồi nào tài xế và lơ xe có giá và huênh hoang đến thế, muốn cho ai đi, muốn đuổi ai xuống là thuộc quyền sinh sát của họ. Có vé đàng hoàng nhưng vẫn phải chịu lép ngồi ở ghế do họ chỉ định. Có trăm ngàn duyên cớ để họ hoạnh họe khách đi xe : đến trễ, phòng vé bán lộn, ai bảo không ra trước v.v…


    Nói ngọt không xong thì nói xẵng, gay cấn nữa thì a lê hấp mời xuống xe và quẳng lủng mủng túi, bị theo liền đó. Kêu ai, nào biết kêu ai, trời xanh cao quá mà đất thì chỉ biêt nghe chứ chẳng trả lời. Thân phận người đi buôn tùy thuộc hoàn toàn vào những người nắm quyền ban ơn bố thí này.


    Nào đã hết. Bọn tài, lơ nắm được chỗ yếu của các bà/chị đi buôn, ai cũng lo mất vốn, ai cũng sợ hàng không lọt nên một mặt mè nheo, một mặt có thiểu số tấn công tình luôn với những người khốn khổ. Ai dễ dãi thì ngã quị luân thường, coi như “ qua sông phải lụy đò “, còn ai khó khăn thì lơ vừa là hung thần vừa là chỉ điểm khi đến trạm kiểm soát.


    Dọc dài trên những con đường lớn nhỏ từ thôn, ấp ra tỉnh và từ tỉnh này sang tỉnh khác, cơ man là các trạm kiểm soát được đặt ra. Chẳng cứ là cấp có trách nhiệm mà kể cả du kích cũng lộng hành. Chỉ cần vài tay quấn băng đỏ và ngang nhiên chặn một cái bàn thổ tả giữa đường là uy quyền cát cứ của một sứ quân coi như vô hạn.


    Tha ai, tịch thu ai chỉ cần không khống, chẳng biên bản, chẳng kêu ca vào đâu được, rồi chẳng ai biết những đống hàng đủ thứ kếch xù đó đi về đâu, liệu nhà nước thu được bao nhiêu hay là vớ vẩn chia chác nhau giữa tối mò chở đi đẩu đâu ai biết.


    Tội có nhiều người con đau, mẹ yếu cần phải chạy lo tìm đồng mua thuốc, miếng ăn mặc bản thân cũng nhếch nhác, yếu đuối vì tuổi đời chồng chất mà hết bị đám ôn con hành hạ lại còn bị chửi mắng lên đầu.


    Có bà đáng tuổi nội/ngoại hay có thể đẻ ra những người kiểm soát chỉ vì cố lăn vào xin xỏ lại chút hàng bị tịch thu đã bị họ nhẫn tâm đạp xô, ngã nhào với lời riếc móc : mày liệu chết được thì chết ngay đây đi cho tao xem. Ôi thời buổi. Ôi đạo lý luân thường.


    Giả như công bộc quốc gia làm việc công bằng thì âu cũng đành, đằng này kẻ buôn hàng đầy xe thì thoát, trong khi người chen chân tủn mủn dăm bị, mấy bao bị nghiến xén sạch sành sanh.


    Nói của đáng tôi, đôi khi đám buôn lớn cũng bị mất, song chỉ dăm thì mười họa, hoặc lâu lâu phải hi sinh để đám nhân viên vớt vát uy tín. Chính tai tôi đã từng nghe mẩu đối thoại giữa một tay buôn sành và đám quản lý thị trường : sao mày ác thế em, lột gì lột sạch chị vậy. - Thì lơ cho bà chị mấy chuyến cũng phải chặn một phen chứ.


    Cà rề cà rang, bên bắt bên xin, ngả giá nhau dăm lần bảy lữa, rồi : thì đây cho bớt chị 2 bao cà phê, 3 bao lỉnh kỉnh gì đó. Năm bao thả cho nhà giàu bằng nuôi được bao gia đình nhi nhoe đi buôn còm, chỉ mong kiếm ít đồng sắm quà đi nuồi chồng sắp đến, hay lo cho nhóc vào trường gần đây.


    Ôi chân lý, ôi siêu việt. Đã bao nhiêu nước mắt đổ ra dọc dài con đường gập ghềnh khốn khổ. Đã bao gia đình tan vỡ vì những chuyến xe buôn chạy lại qua. Đã bao cái đồn được người dân buôn diễu là mang tên “ sơn trạch “ vì mỗi lần ngang đó là đều bị lột “ sạch trơn “ đúng nghĩa trăm phần trăm.


    Cho nên, khi vợ tôi một đêm tối trời bò vào với tôi đã nói : hay là để em đi thử một vài chuyến, tôi đã gắt om lên không khứng. Tôi nêu lý do gia cảnh đã đói, dồn tiền để bị mất thì có nước bị gậy ra đường ăn mày. Còn không thì trước sau gì vợ chồng cũng xào xáo, chi bằng nếu vợ tôi định đi buôn, hãy cùng nhau tính chuyện chia tay để mặc ai muốn làm gì cũng được.


    Dằn vặt nhau xong, cả hai cùng sụt sùi, không biết thương cho đời, thương cho mình hay chỉ buồn nỗi vu vơ. Ôi thời buổi của những trạm canh, những ba ri e, những đồn quản lý thị trường mà ai đã một lần sống qua vẫn còn bị ám ảnh dằng dai không dứt

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Phần 17

    Năm 1975, miền Nam trở thành một mối thống nhất với cả nước. Năm 1976, nhà nước vội vã họp Quốc Hội để sắp đặt lại hệ thống lãnh đạo, xóa toẹt cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam và Chính Phủ Lâm Thời miền Nam Việt Nam.


    Báo chí ca khen cái gọi là thống nhất về măt nhà nước và đề cao khẩu hiệu “ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Ở đâu cũng oang oang về 3 phong trào cách mạng : quan hệ sản xuất, khoa học kỹ thuật, văn hóa và tu tưởng, trong đó quan trọng nhất là cách mạng khoa học kỹ thuật.


    Trại tập trung nào cũng khoe khoang là chúng ta phải xóa bỏ nhanh cái cảnh “ con trâu đi trước cái cày theo sau “, nhưng thực tế bao nhiêu máy cày, máy bơm, máy xới vốn lềnh khênh ở miền Nam thời trước đều bị đem gán trả nợ hoặc xếp xó vì xăng khó mua.


    Ì à, ì ạch miệng thì bảo phải dứt khoát tiến đến khoa học kỹ thuật mà thực tế thì ví như các ông bà lão hết gân. Từ cái đinh, quyển vở đều theo chế độ phân phối, hoặc bán với giấy giới thiệu, dĩ nhiên làng nhàng là người dân khó mà có được cái ưu tiên này.


    Năm năm một lần họp Đại Hội Đảng để vạch kế hoạch cho 5 năm sắp tới, đồng thời cắt đặt người vào các địa vị lãnh đạo. Có đại hội băng băng được cử hành xuôi rót, có đại hội rặn mãi không xong, thậm chí dời tới dời luôn mà vẫn còn trắc trở.


    Đó là những giai đọan gay cấn vì băn khoăn không biết sắp xếp sao cho yên. Đại loại là phân chia vai số 1, số 2, số 3 không ổn thỏa, lớp vì chia chác theo kiểu địa phương, miền không ổn hay vây cánh này kèn cựa vây cánh khác bát nháo, dây dưa.


    Chính phủ, tổ chức Đảng im im, nhưng người dân thì rì rào kháo nhau tin hành lang và lạ là gần đúng chóc. Không kể thời ông Ba Duẩn hay ông Trường Chinh còn nhân đà chiến thắng, phán sao ai cũng răm rắp nghe, sau thời độc tôn này thì chẳng mấy ai còn nghe ai nữa.


    Tin đồn ầm ầm, nay tên này mai tên khác, cứ như thả bong bóng thăm dò. Có lúc tưởng ông này lên đến nơi thì bỗng tuột dốc thê thảm. Ngày ông Mười Cúc lên nhận chức Tổng Bí Thư, đảng rêu rao là đã đến thời mở cửa, đảng khoe đã chọn đúng người tài.


    Một phần vì ông Muời Cúc là dân Nam Bộ, mẫu người chân chất, xuề xòa. Cái tính chất ăn no ngủ kỹ, nhậu xả láng, sống thảnh thơi ăn sâu trong tiềm thức và cung cách làm cho cánh miền Nam nổi tiếng cởi mở và dễ chịu.


    Chả thế mà từ từ các nước vốn một thời thù địch ngày xưa, nay nhân thấy làm ăn có lợi thì ùn ùn kéo nhau vào xuất vốn rất nhanh. Có một dạo, báo chí cũng kêu ca là vốn nước ngoài chỉ tập trung nhiều ở miền Nam hơn là các nơi khác.


    Người dân lẳng lặng cười thầm. Hồi nao chính những cái miệng chửi oang oang thằng Nam Triều Tiên, thằng này, thằng nọ thì bây giờ lại mau mắn đón họ thân mật như chưa bao giờ thân mật đến thế.


    Đồng tiền quẳng ra, thù thành bạn, bạn thành thù, dễ và nhanh biết bao. Dần dà đất đai trở thành món hàng trao đổi có giá lớn, đắt tựa kim cương. Bệnh đua đòi, trấn áp, mánh khóe ào ạt bung ra, dân bị bứng đuổi để lấy chỗ mọc xí nghiệp đùng đùng. Dân được dỗ ngon dỗ ngọt, nghĩ là vì lợi ích chung nên khi lỡ dọn ra với đồng tiền bồi thường bọt bèo, sau mới biết các bố bán, sang cho nước ngoài gấp trăm gấp ngàn lần trị giá mà ngân sách nhà nước thì chẳng tăng ra thêm.


    Chưa thành hình ai ngồi, ai ra đi, ai giữ chức gì thì trong dân gian đã vanh vách thao thao kể ra ông X, ông Y, bà Z chắc chắn sẽ ngồi vào chỗ này, chỗ nọ. Người ta còn kể chi tiết ông này bà nọ phải được bố trí như thế vì là người miền này, miền khác, phân chia như thế mới hợp lý và công bằng.


    Phần đông, người dân nhìn vào tổ chức thành phố miền Nam để đoán định và lần lần cả tin là có sự sắp xếp, tập tành để người ấy, người nọ chuẩn bị nắm chức lớn trong tương lai. Sự cao rao này không khác tin tức phút cuối bao nhiêu, độ sai lệch chỉ chừng 2-3% đổ lại.


    Đôi khi, thiên hạ cũng xì xào tiếc là chỉ vì một sai sót bất chợt mà ông kia bà nọ bị văng cái chỗ ao ước, như trường hợp ông Nghiệp, ông Sang v.v… Mỗi phen đại hội như thế, tốn bao nhiêu là thì giờ, công sức, thật gay go vì diễn ra từ cấp thấp lên cấp cao hơn dần.


    Đại để na ná như nhau : báo cáo thành tích, đánh giá kết quả, bầu đại biểu tham dự cấp kế tiếp, rồi thì là liên hoan và sau đó lúc nào cũng khen lấy khen để “ thành công mỹ mãn “.


    Năm năm là đại hội lớn, còn giữa 2 năm lại mở đại hội bản lề, gọi là củ soát và hứa hẹn. Nhất là từ dạo nảy ra phong trào các đại biểu đi dự ra về đều nhận phong bì chi phí kèm theo thì xem ra việc họp hành càng hăng say và nhiều vô kể.


    Cứ theo báo đài thì “ ba phong trào cách mạng làm gỏi chế độ tư bản đến nơi “ và nói theo sách vở thì “ chế độ tư bản tự đào mồ chôn sống tắp lự “. Vậy mà đùng cái bức tường Bá Linh bị phá đổ, rồi cả một khối Liên Xô thịnh trị cũng bị hất văng, khiến ai nấy bàng hoàng, ngơ ngẩn.


    Rồi mấy anh Rumani, Ukraine, Ba Lan, Tiệp ro re làm cách mạng xanh, cách mạng vàng, cả khối rã như giấy bồi bị thấm nước mưa thì chẳng ai bảo ai đều lao xao chẳng hiểu mô tê ất giáp gì sất.


    Đại hội 5 công khai chấp nhận Khoán 10, tỉnh Thái Bình được đề cao là “ quê hương năm tấn “, lãnh đạo cho là mình thấy xa, thấy rộng nên đã mở thoát cho đất nước. Nếu ai tỉnh táo còn nhớ trước đó cũng cái khoán 10 suýt làm lắm tay lao đao, lận đận vì dám vượt quyền hạn thi hành không được sự chấp thuận của trên.

    Phần 18

    Trong đời một con người, không gì trơ trẽn và nhục nhã bằng mình tự dối mình. Bụng đói như điên, nhưng gặp ai hỏi đều cười khì thưa : cám ơn cũng tạm ổn. Hằng ngày bị chà lết dưới chân mà khi ai thăm đều khoe : nhờ ơn cũng sống yên lành.


    Yên gì mà cái ba lô giúi mấy bộ đồ cứ chực chờ ngay bên cạnh, chỉ sợ đột nhiên các bố vào gọi mình ú ớ quên không kịp lấy. No bụng gì mà cứ ước mơ có một vài viên xíu mại điểm tâm, cái món ngày xưa mình quẳng đi không hết giờ muốn ăn chẳng có.


    Cái nhà hàng củ tiếu, phá lấu, giò chéo quảy quen đã dẹp tiệm đóng hụi chết theo chuyến vượt biên do nhà nước tổ chức cho đi một lần duy nhất. Bây giờ chỉ còn rặt cửa hàng ăn uống quốc doanh, hàng vừa dở vừa ôi mà mụ nào cũng mặt vênh như tấm thớt.


    Ông Mười Cúc lên nhậm chức, tờ báo trung ương thỉnh thoảng đã có bài “ Nói và Làm “ ký tên NVL. Đọc nghe cũng rỉ rả thấy hay hay vì dám chạm vào những cái tổ con chuồn chuồn trì trệ. Ai cũng hi vọng rằng cuộc sống tháo gỡ rồi. Nhưng chẳng mấy chốc thì các bài tương tự lại trở về cõi im lìm như chùa bà Đanh vắng ngắt.


    Thét rồi chẳng ai còn nhớ ông NVL là ai và cái ma két “ Nói và Làm “ cũng tuyệt nhiên bị gỡ bỏ. Cái ngôi thứ nhất của ông Muời Cúc cũng chóng vánh lu mờ, ngắc ngoải vừa đúng một nhiệm kỳ là rớt.


    Tôi thở dài buồn bã, chẳng thiết soi gương ngắm mặt mỗi ngày. Chỉ sợ nhìn vào thấy một người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm. Hãi nhất là đối chất với chính mình mà cứ ngỡ thấy thằng cha căng chú kiết nào đó.


    Chẳng những tôi độc đoán với tôi mà ngay cả trong nhà tôi cũng hung hăng vô lý như vậy. Tôi hét inh bắt giỡ hết các vật có thể soi phản hình bóng, đưa ráo ra bán chợ trời. Tôi bảo : đắt rẻ gì thảy quách mua tí gạo sắn nhét bụng còn hơn.


    Léng phéng làm sao một bữa tôi bắt gặp con gái đang giúi giúi mảnh gương rẽ ngôi chải tóc, tôi nhào đến vớ lấy đập vỡ tan tành. Con bé ngẩn tò te, nhướn mắt to nhìn tôi, tưởng rằng sắp cha con đụng trận, vậy mà con bé cười xòa ngay được mà ỏn ẻn : con yêu bố.


    Nói rồi nó vừa chạy vừa khóc. Tôi ân hận mà thấy tủi vô cùng. Vợ tôi lấm lét nhìn tôi, rồi cũng chỉ nhỏ nhẹ nói bâng quơ : sao ông lạ thế. Từ đó, con bé dấm dúi cất cái mảnh bể nhặt lại để trong túi, mỗi lần vì xã giao sắp đi chợ lại lén lấy ra soi mà nhìn ngang nhìn ngửa như kẻ trộm. Ôi, con gái sinh ra chi thời nhiễu nhương để phải lén trộm soi gương ?


    Ôi thời buổi sao kỳ lạ, tựa hồ như tâm hồn bị rệu rã hết trơn, sinh khí đều mất sạch. Thằng tửng đôi khi mời rủ tôi ra quán uồng cà phê. Tôi hét với nó : mày tìm gì trong đó mà rủ rê tao. Nó hé môi cười : thì nhìn đời qua cái màu đen cũng thấy hay hay chớ bố. Tôi lắc đầu chịu thua : bọn trẻ thật hơn tôi xa lắc.


    Vậy mà có một bận bưu điện giao cho tôi cái phiếu gọi nhận hàng. Tôi cố moi óc tìm hiểu xem ai còn nhớ cưu mang tôi ở chặng đất bùn này. Tôi đã định bỏ lơ, nhưng vợ và con gái cứ thúc đi nhận. Tôi cấm cảu hỏi : lấy gì đi. Vợ tôi thụt ý kiến, nhưng con gái căng cổ : bố để con lo cái vé tàu.


    Khổ nỗi có bao giờ tôi biết cái chuyện nhận hàng như thế nào. Tôi mù tịt thể thức phải làm sao để đem món gì đó về nhà. Con bé chạy hỏi han linh tinh, làm đơn xin đưa phường ký và ra hải quan lập sổ. Tôi tránh đối mặt để khỏi nhận những tiếng mỉa mai.


    Dạo đó, hàng từ ngoại quốc về đều phải nhận hoặc từ cảng Tân Sơn Nhất hay Kho 4 Khánh Hội. Tôi lóp ngóp lên tàu cà xịch cà tang suốt một đêm đen. Toa tối thui, hàng buôn lềnh khênh chật choán hết lối đi, gầm ghế và lổn nhổn đầy các chỗ.


    Tôi chẳng có vai vế, phe cánh gì nên dù có vé mà cũng phải chịu nằm trấn ngay chỗ cửa buồng vệ sinh khai khẳm. Dù cửa bị khóa nghiến bên trong để dấu hàng mà chuyện dọn dẹp lâu ngày lưu cữu nên mùi hôi chưa xóa sạch cứ lồng lộng dâng cao.


    Tôi mới hiểu ra cái chỗ ưu việt mà tôi đang được thụ hưởng. Tôi nằm co ro trên miếng áo mưa ni lông, nghe gió thốc dưới gầm toa xe, nghe dập dềnh tiếng bánh xe lướt qua các mỗi nối, nghe u u tiếng xé gầm của không khí lòn dưới đường tàu.


    Chiều mênh mang qua Ngã Ba rồi Cà Ná, Ma Lâm, Mương Mán, Suối Vận, đêm ập xuống khi tàu vào Rừng Lá, Sông Phan, Suối Kỉết, Sông Mao. Rưng rưng nhớ một lần đi cứu cấp đoàn tàu bị phục kích để đau đớn nhận đón xác bạn bè, đàn em cháy thui vì bị mìn và lửa đốt.


    Ngậm ngùi nhớ lại một ngày nào, lòng đau như cắt, nức lên tiếng khóc mình ên. Tàu âm u không một ngọn đèn, cái địa ngục trần gian xen với chốn địa ngục dưới sâu ba tầng đất sao mà chẳng khác nhau một mảy.


    Những người chết giờ liệu đã được siêu thoát vãng sanh hay vẫn còn lẩn quất giữa rừng già oan ức. Những người bị mìn phải cưa chân, cụt tay dù chỉ thấp hèn là một kẻ đi buôn xui xẻo gặp ngày tàu bị nạn, bây giờ họ làm gì, sống ra sao và phiêu dạt nơi đâu.


    Tự nhiên, tôi thấy mình có lỗi. Tôi nghe cay xè nơi đuôi mắt, tôi nghe rát rạt ở da, mồ hôi hay lệ đã chảy ra để nhớ, để thương về một thời dĩ vãng. Bất chợt, tôi nấc lên, dấu mặt mình trong đôi lòng bàn tay mà kêu xin nho nhỏ : hãy thứ lỗi cho tôi, hỡi những hồn oan bóng quế.


    Tờ mờ sáng tàu lướt Trãn Táo, Bàu Cá, Dầu Giây, Trãng Bom để đổ vào Hố Nai, Biên Hòa và gập ghềnh trên ván lót của cầu Đồng Nai. Những quán bán bưởi chưa dọn hàng, cái ba ri e vẫn hững hờ chặn hai đầu dốc, một nhóm dânđi làm sớm ngơ ngác đứng nhìn tàu chạy qua.


    Ngọn núi Chứa Chan thấp toẹt, con sông dập dềnh sóng nước. Nhớ quá, thời gian như một nét vẽ phác lờ mờ trong bụi cây lá cỏ. Chợt buồn khi đoán lờ mờ đây là chỗ Nghĩa Trang Quân Đội ngày xưa. Trái tim chợt se căng lỗi nhịp, nhói lên một đau thốn nghẹn ngào.


    Tượng Tiếc Thương hẳn là đã bị giật sập, nhưng ngôi mộ nào còn, ngôi mộ nào bị phá tan hoang. Ôi, những thượng cấp, đồng đội, anh em, quen hay không quen, tại sao đến khi chết vẫn còn bị văng vật.


    Triều đại nào rồi có lúc tàn, người chung một giống sao nỡ hành hạ nhau quá thể. Ngày xưa có những xe chở quan tài bị mìn thảy văng xác tứ tung, người chết dù hai lần cũng chẳng qua tại tình cờ xui xẻo. Ngày nay người chiến thắng thù hận cả thây ma, sao lại cứ nhân danh và nhận mình là đạo đức nhất như chưa từng có.


    Cái thế giới đại đồng kêu rổn rảng rồi ra “ ta sẽ làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu “ sao lại được chuẩn bị khởi đi từ thù hận. Kẻ buông tay nào còn cựa quậy được mà trút hận thêm lên họ làm chị.


    Tôi ôm tiếng lắc lư của con tàu như ru trái tim tôi bắt đầu nhỏ máu từng giọt.



  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Phần 19

    Tôi để hồn dập dềnh theo những tấm ván lót trên hai cầu sắt bắc trên sông Đồng Nai. Gió sớm mênh mông lùa vào toa như đánh thức mọi người vươn vai trở dậy sau một đêm dài suốt dặm trường. Con tàu mệt nhoài nên giảm tốc độ, bỏ lại màu nước đỏ ngầu phù sa trôi về mãi tận đâu.


    Còn sớm quá vậy mà lác đác đã có người ra sông tắm giặt, dòng nước quyện lộn nhộn những hạt bùn đỏ bám vào vải vóc để căng ra mà sống. Tôi vừa qua con sông hồi nao ông Tổng Thống họ Ngô và ông Đại Tướng họ Dương tay trong tay đến dự khán cuộc biểu diễn vượt sông của những con cua đồng M-113, bắt đầu được quăng vào chiến trận. Hồi đó tôi mới chỉ là anh sinh viên sĩ quan Thủ Đức tập tọng học ắc ê, hát ông ổng “ đường trường xa, con chó nó tha con mèo “ (xin lỗi tôi đã ngoa ngoắt sửa lời ca, nhưng đó chính là lời ca quả được đặt ra ở Liên Trường Võ Khoa) nghĩ là triều đại chắc bền vững mãi mãi. Có ai ngờ sau này loáng một cái chính tay ông thuộc hạ lại im im để người ta giết béng chủ mình, ôi thời cuộc nhiễu nhương thật quá quắt.


    Bây giờ con sông vẫn còn đó, nhưng người xưa nay ở đâu. Những con cua đồng M-113 cũng bặt mất, thì ra chẳng có gì tồn tại miên viễn cả, kể cả đời một con người. Con tàu phì phà vào Dĩ An, con đường sắt lẻ loi len qua một góc phố nhỏ, một ngôi chợ.


    Loáng thoáng hồi nao tôi về ghé lại đây, mỗi chiều mò ra chợ nhâm nhi ly bia. Bây giờ con đường nhựa heo hắt quá, chợ lơ thơ vài gian hàng. Tôi bò ra ngồi ở bậc lên xuống toa tàu đón ngọn gió ban mai, đội lên đầu cái mũ lưỡi trai thằng cu con đã vội trao dặn dò : bố đội nó để che cái nắng miền Nam.


    Chưa kịp ngồi vững thì vút cái chiếc mũ lưỡi trai bị đoạt mất. Cái thằng lỏi hí hửng đang cầm trên tay vật đó đi dần vào con đường đất kế bên ga. Nó khinh khỉnh cười nhạo tôi, vẫy vẫy tay loạn xạ. Thời buổi đến lạ, đến cái mũ bèo nhèo mà cũng khoắng của nhau. Đói và giành giật nhau đến vậy rồi sao ?


    Tàu lại dềnh dang vào Sóng Thần, cái ga xép nhỏ nhoi một thời có cả một đoàn quân anh dũng tung hoành giờ xẹp lép thảm thương. Những anh lính mũ xanh mang tên Trâu Điên, Ó Xanh giờ ở đâu, tôi nghe đầu óc oang oang có hàng ngàn, hàng vạn cái búa đang dọng lên đó.


    Tim tôi nghẽn lại, nhói đau, máu ứ trào, mắt kèm nhem gay gắt. Tôi đưa tay vuốt, không sao dập được những nhịp đập sai lạo nhạo trong huyết quản tôi. Saigon của tôi loáng thoáng đây rồi, thành phố của những cây me đến ba bốn người nối tay nhau vẫn không ôm kín gốc.


    Bao nhiêu hình ảnh ào ào kéo tới. Saigon của Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Tự Do. Saigon của Pole Nord, rạp Rex, thương xá Tax, Quốc Hội. Saigon có thời mỗi tháng tôi vào dự hội thảo bàn về kế hoạch hay trở ngại tiếp vận khi thời thịnh trị còn mạnh.


    Saigon của trại Trần Hưng Đạo uy nghi, nơi đặt bộ Tổng Tham Mưu để điều động quân binh khắp 4 Vùng Chiến Thuật mà nay sao hoang vắng quá vậy. Sắp tới tôi sẽ vào Tân Sơn Nhất để nhận hàng tình nghĩa do ai đó gửi cứu nạn, làm sao tôi chịu được khi đi ngang qua nơi doanh trại ngày xưa.


    Saigon. Saigon… Những tiếng sấm đùng đùng đang vò xé tim tôi, làm nổ toang cái đầu vốn khật khừ tê dại. Tôi sao yếu mềm để lệ long lanh nơi khóe mắt. Lảng vảng tôi chợt nhớ góc này góc kia còn vương lại bóng hình cõi xưa. Queen Bee, Joe Marcel, Đêm Màu Hồng, Quốc Thanh, Nguyễn Văn Hảo, chợ Bến Thành, bến Bạch Đằng, Ba Son cùng Nguyễn Bá Tòng, Hưng Đạo, Chu Văn An, Trưng Vương, Gia Long, Pétrus Ký, dù nay đã thay tên đổi họ vẫn không sao tan biến trong tâm tưởng mọi người.


    Ôi, Saigon, trải qua cuộc đời đã bị bao lưỡi dao của người đời, thời thế đâm không thương xót, mà sao Saigon không chết, vẫn bất diệt ngẩng lên. Người Saigon có thể bên ngoài vờ thờ ơ như không để ý tới, nhưng đêm nào chẳng có không ít người nhỏ lệ khóc thầm. Có thể nhất thời người ta nhạo báng, khinh miệt Saigon, nhưng sau khi trầm lắng chẳng ai không tiếc Saigon, kể cả những người chiến thắng cũng vậy.


    Dù chưa thực sự đặt chân lại Saigon sau gần mười năm xa cách mà sao lòng đã chuếnh choáng men say. Ly rượu nào đã chuốc cho tôi thành hư ảo, mềm môi để bước lung linh giữa bầu trời Hòn Ngọc Viễn Đông.


    “ Ngày xưa “ vào Saigon tôi đi với hai bàn tay không vì chẳng thứ gì không có. Hôm nay, tôi vào Saigon phải mang kè kè theo cái bao cát đựng ít lon gạo. Đây là quà của tôi vào biếu nội các cháu vì không gì quí bằng để nội khỏi phải lo vì thêm một cái miệng ăn.


    Suốt đêm, nằm ngửi mùi khai trong toa không mệt mà việc lo canh cánh giữ túi gạo mới nhọc làm sao. Chỉ sợ có tí quà lại bị kẻ gian cuỗm mất. Mà tàu đông người, biết ai thực, ai gian. Đến cái mũ cũ kỹ mà còn bị giựt nữa là.


    Con tàu xập xình về Gò Vấp, Phú Nhuận, loáng thoáng Saigon đã hiện ra. Vẻ tiêu điều với rặt toàn màu áo đen, nâu và dép cao su ở nơi dân lẫn chính làm cho cái thành phố ọp ẹp hẳn đi. Cũng phải thôi, tàn dư đế quốc cần phải nhanh chóng gỡ bỏ để cái mới vươn lên, cho dù cái mới chỉ là bước lùi so với thời đại.


    Dân Saigon nhậy lắm. Nhìn ai chỉ mũ cối dép râu là biết ngay vị thế làng nhàng, còn nếu thêm cái xà cột lủng lẳng bên hông mới là hàng cán bộ vai vế. Còn nói chi, vẻ nhìn, lời nói, thái độ khinh khỉnh hăm dọa của họ làm ai chẳng thấy ớn lòng.


    Họ chẳng cần dấu diếm kỹ trong lòng thù hận mà phun ra ở miệng : bọn chúng nó chỉ đáng beng một phát vì tội “ đất không dung, trời không tha “, chẳng biết sao đảng lại dung dưỡng để họ còn ngáp ngáp mỗi ngày.


    Thực ra họ có thương yêu dân Nam Bộ không ? Điều đó cần nên quan sát kỹ, chẳng qua thời thế chưa đến lúc, vả chăng họ còn nghi hoặc của cải miền Nam còn rải rác dấu diếm quanh co đâu đó, đợi đến khi tóm hết sẽ tính.


    Điều này càng rõ khi những anh em tù cải tạo đều được nhắn nhe phải khai báo tất tật, không được dấu điếm điều gì, cho dù chỉ nghe đồn như hầm ngầm, nơi chôn dấu, cơ sở mật dù của bất cứ ai, nhất là trong các căn cứ của Mỹ cũ.


    Nhiều gia đình nửa chân trong nửa chân ngoài còn cho thấy rõ điều này. Tôi nhận ra ở họ có đến 3 lối nói : lối nói ở hội trường, lối nói giữa đồng chí với nhau và lối nói chỉ riêng nhỏ to ở gia đình. Tôi đoan chắc ít nhất một lần những con em miền Nam có người thân tham gia phía đối diện đã từng nghe dặn dò : nếu tìm ra cách đi được nên cố mà đi, không ở yên được đâu.


    Lai rai, bàn dân thiên hạ cũng nghe biết những bà mẹ chiến sĩ, những gia đình nuôi bộ đội miệt Bảy thôn vườn Trầu, An Phú Đông, Củ Chi, Đồng Tháp Mười, ngay cả vùng Bến Tre, Chợ Đệm đã từng đào hầm nuôi cách mạng bắt đầu eo xèo, phàn nàn về thái độ bất nhất trước sau đến với chính họ.

    Phần 20

    Cuối cùng đoàn tàu vứt toạch tất cả hành khách xuống một nơi nào đó. Dù mang máng biết mình đang ở bên rìa thành phố, nhưng sao cái ga tổng đình này chẳng khác đồng không mông quạnh thế này. Chả biết tay thầy hù nào cố vấn đường sắt chọn cái ga hẻo lánh này làm bãi đỗ của thủ đô.


    Điều này tôi đã nhận khi tàu lướt qua cầu xi măng Gò Dưa với những bao mủng hàng hóa lao vút từ cửa sổ, bậc lên xuống lăn ba vạ ra dọc hai bên đường tàu. Những tiếng í ới gọi nhau : “ chị Ba, cô Năm, hoặc 3 giỏ 5 bị, hoặc 2 càn xé 4 túi “, thi nhau đổi trao, người trên toa, kẻ dưới đất, chẳng để tôi hiểu ra sao cả.


    Đến cái chỗ ngồi cá kèo của tôi ở bàn đạp lên xuống cũng bị bứng đi. Mấy bà đi buôn và mấy tay bặm trợn đầu gấu yêu cầu nhỏ nhẹ tôi xê ra để họ nhờ một tí, song nếu tôi kèn cựa không nghe là có chuyện ngay. Tôi hiểu thân phận tôi lúc này nên nhũn mà nghe cho xong việc.


    Người ta đói, xáo lục vùng vẫy tứ tung, chỉ cần vô tình mình làm một cục đá cỏn con để họ đạp phải nhói chân cũng đủ khiến họ nghiến răng trợn mắt đấm cho dăm cái. Cuộc sống bấp bênh, lấn chăn nhau khiến họ phải lăn xả vào giành giựt ăn thua đủ, trốn lủi đủ kiểu, mồm năm miệng cười thì mới có cơ hàng thoát, qua mặt quản lý thị trường mà đem chút tiền về nuôi cha mẹ hai bên, con cái lẫn cả cái ông chồng còn đang đi “ học tập “ chẳng biết đến bao giờ về.


    Ôi những bà vợ, em, chị, bồ bịch của đồng đội tôi, nếm mùi đổi đời sao lao đao, vất vả thế. Tôi ứa nước mắt cho dù thấy cảnh đang diễn ra thất thoát vô vàn. Thấy tôi ngớ ngẩn, ai đó tay còn đùn hàng mà miệng nhắn nhủ tôi : tới Bình Triệu rồi, chú đi tay không sao hổng lo xuống, còn đứng áng đó làm sao tui lăn hàng kịp.


    Ùn ùn nhứng dân cư gần nhà bên đường sắt lũ lượt kéo túa ra ôm vội các thứ chạy chuyển đi biến vào mấy con đường hẹp quanh đó. Trông tưởng loạn xạ mà có mối manh kỷ luật, chẳng ai tham cướp lỏng của nhau.


    Đây là một kiểu hợp đồng làm ăn mới, qua mặt từ hỏa xa, thuế vụ, công an đến quản lý thị trường. Dân vác hàng về, sẽ xé lẻ ra, đóng vào những cái cà ròn nhỏ rồi sau đó xe ba gác, xe đạp ôm sẽ chuyển dần đến các chợ. Cuộc đấu trí tay đôi giữa người cầm quyền và bọn dân ngoan cố miền Nam xem ra gay go và không dứt.


    Cấm kiểu này họ thay kiểu nọ. Không cho buôn cà phê, gạo thì họ buôn cá, mắm, rau củ linh tinh. Ngăn không cho xuất cá sống từ địa phương này sang địa phương khác thì họ hấp, họ kho từng ơ, từng nồi ngang nhiên qua trạm, những tay khám hoạnh họe họ giở mọi lý ra đương đầu. Lệ đổi thay xoành xoạch cũng không chặt đứt được cái khôn lỏi của “ Nam Bộ thành đồng đất nước đi trước về sau “. Thêm nữa, người lăn lưng đi buôn là ai, nếu chẳng phải là những người mà chồng, cha, ông, cậu họ đang chúi đầu trong các nơi được gọi mỹ miều là “ trại tập trung “.


    Tôi lê gót bước ra bằng cổng chính nhà ga, trong khi ở những lỗ đục thủng trên vách đan bê tông lũ lượt nhiều khách đi tàu đang chui ra, có thể họ có vé, có thể họ đi chui, song ai cũng hấp tấp chạy đua với đồng hồ để còn nhanh chóng kịp lên chuyến tàu chiều quay về. Ở nhà, canh cánh những cụ già, con trẻ đang đợi, ngong ngóng mong họ thoát chuyến để có chút thức ăn. Tội nghiệp biết bao cái thời chờ đợi lê thê ngày “ làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu “.


    Tôi trở về thành phố nơi tôi được sinh ra mà ngơ ngáo như mán ra tỉnh. Cái ngã tư tráng nhựa lở lổm chổm bắc ngang con quốc lộ chính và đường vào hai dãy phố bát nháo làm sao. Đền thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Fatima vươn lên cao nghệu mà số người đến cầu xin thưa vắng.


    Tôi chợt nhìn ra những vày đen thui của cầu sắt Bình Lợi. Dĩ vãng ùa về, ở đây có một lần đảo chính, cái ông trung tướng lập công cứu được nhà Ngô đã nghễu nghện ngồi đu chân trên về cầu, trong khi thượng cấp của ông khoanh tay đứng dưới đất. Ai dám bảo kỷ luật được duy trì tột độ trong quân đội, khi mà bóng dáng chính trị và kiêu mạn đã loáng thoáng chen chân.


    Cái bao cát đựng gạo bỗng oằn trệ, cánh tay tôi thấy đau nhói vô cùng. Tôi bảo với tôi : cậu bắt đầu lẩm cẩm rồi, có vẻ già khụm nữa. Nắng loe hoe rọi những tia đầu ngày mà sao chợt bỏng rát. Hàng quán theo cuộc thế mọc vô tội vạ, xem ra cửa hàng ăn uống quốc doanh khó chọi lại với đầu óc ăn nhậu miền Nam. Người bán người mua tíu tít, đua nhau ăn, gỡ gạc như sợ rằng không còn được ăn nữa.


    Tuy đã trải qua một đêm nhịn khe mà bụng không thấy đói, có lẽ ý tưởng sắp thăm lại nội các cháu và niềm vui len lén được về thăm Saigon làm tôi cảm no bụng chăng. Tôi lách qua những ô bán thức ăn ngào ngạt thơm, nhanh thoát ra khỏi chỗ..


    Các anh xe ôm túa đến mời, tôi phân vân lơ đãng. Phần tiền đem đi quá ít, phần e bị cứa giá cao nên tôi xun xoe cám ơn và bước đi. Tôi chủ tâm muốn hỏi thăm bến xe buýt, nhưng có một anh cứ lẽo đẽo theo mời. Cái mũ lưỡi trai của lính trên đầu lờ mờ cho tôi đoán anh là phe ta ngày trước. Một hai anh khích động tôi : lên xe tôi đi, chả lẽ tôi lại chém người ngã ngựa. Tôi lấy giá phải chăng thôi vì cả hai cùng dựa nhau để cố sống mà.


    Tôi nghe chả biết nên chua xót hay mừng rỡ. Tuy vậy, tôi chẳng dám tin ai được, cứ phải cò kè trả giá và khi thấy thuận người thuận mình thì tôi tót lên ôm chặt anh vọt đi. Saigon lụm khụm lắm, nhưng nhóc nhách vẫn gượng nghểnh cổ lên, sinh hoạt thưa thớt, nhưng cũng còn sinh khí hơn tỉnh lẻ.


    Tôi dò hỏi anh về việc lãnh hàng, anh thao thao bày kể đủ ngóc ngách và hỏi tôi có cần giúp bất cứ gì anh đều có tuy dô chắc ăn hết. Tôi trớ đi nào còn có ai gởi quà cáp gì đâu, chợt nghe thì muốn hỏi cho biết. Anh bảo tôi về cách mấy tay len vào cho vay tiền đóng thuế hòng bắt chẹt mua rẻ hàng sau khi lãnh ra, hoặc chớ tin mấy tay cò bặm trợn có khi chúng lấy mất sổ, mua chuộc lãnh hàng rồi dông tuốt đó nghe.


    Tôi nghe muốn toát mồ hôi. Xe lượn lờ qua những con phố. So ra vẻ nhộn nhịp không còn, Bình Hòa, Bà Chiểu, Tân Định đâu đâu cũng gượng gạo. Anh xe ôm đưa tôi từ Phan Thanh Giản cũ quẹo xuống Hai Bà Trưng để về Nguyễn Thông. Khi xe chạy tới con hẻm nhỏ gần những tòa nhà kín cổng cao tường, tôi vọt hỏi anh : bễ tắm ngựa vẫn còn ở trỏng chứ.


    Anh xe ôm ớ ra, có lẽ anh biết tôi ít nhiều cũng từng là dân Saigon. Anh đáp : còn, còn dù chẳng ai nuôi ngựa làm gì, còn xe thổ mộ thì bị tắt cấm từ lâu. Tôi lại đau đầu vì cảnh “ dấu xưa xe cộ hồn thu thảo; lầu cũ lâu đài bóng tịch dương “ (TQ).


    Đột nhiên, tôi không cầm được tiếng nấc. Vai tôi rung lên, cọ vào người anh lái xe. Anh có vẻ hoảng : ông sao thế. Và chợt như hiểu ra, ông nghẹn ngào : tôi biết, đau lắm ông…


    Cả hai cùng im bặt.

  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Phần 21

    Chiếc xe ôm sắp trờ tới đầu đường Trương Minh Giảng thì tôi gọi giật lại. Tôi yêu cầu anh lái cho tôi ghé bến tắm ngựa một chút. Anh có vẻ không hiểu nên hỏi lại : dường như ông vừa sực nhớ ra một người quen nên muốn vào tìm. Tôi trả lời anh chẳng đâu vào đâu hết : xin vui lòng giúp tôi đi, tôi muốn gặp lại một dĩ vãng.

    Anh xe ôm có vẻ biết cái sự lừng khừng của người dân ở thời buổi nực cười này nên không nói gì thêm mà lẳng lặng quay đầu xe. Tôi lướt qua những dãy nhà thấp lè tè,bên đường, đối diện một dãy chúng cư nhiều tầng và mấy biệt thự im thin thít. Tôi chợt nhớ ra thời đại nào cũng thế, đoạn đường này đều đặc ân dành riêng cho mấy tay chóp bu, nghe đâu giờ thành ủy đang ở đó. Loe lóe tôi thoáng nhìn thấy một chỏm mũ cát kết có một mảng viền nỉ đỏ với huy hiệu công an ló ra từ cái chuồng cu bê tông để hiểu những gì xảy ra như giấc mộng.

    Xe quặt phải vào một hẻm chắn bởi gờ tường dài của một ngôi nhà mặt đường tựa lưng vào con ngõ. Chạy một loáng gờ tường hết, nối theo là những ngôi nhà nhỏ nhoi với những con đường đất dẫn xuống sông.

    Tôi cố moi óc tìm, tất cả đều lạ hoắc, không sao nhận ra được. Nhưng thật sự là mắt đang thấu cay, màn lệ thập thò nơi đuôi chân chim ngày tháng. Chốc chốc anh lái xe lại hỏi : sắp tới nơi chưa ông. Tôi thở dài : lâu quá rồi tôi không về nên chẳng nhìn ra được. Bất ngờ tôi xin anh quay ra.

    Anh lái xe vẫn thắc mắc nên rụt rè hỏi : ông muốn tìm lại nơi người yêu ngày xưa hả. Tôi lắc đầu, không ngăn nổi giọt lệ trào mà thổn thức : tôi cố tìm căn nhà nơi mẹ tôi có thời trú ngụ mà không ra. Nỗi nghẹn ngào, tức tưởi làm buồn lây anh lái xe, nên nghe anh ỏn ẻn : tôi xin lỗi đã chạm đến vùng kỷ niệm thiêng liêng của ông.

    Để đánh tan nỗi buồn thiu vừa nhóm, tôi chuyển sang hỏi thăm anh về thủ tục nhận hàng. Lãng đãng như tò mò chứ không phải đề cập một việc có dính dáng đến tôi. Anh lái xe cho biết lãnh quà ở Tân Sơn Nhất chỉ một lần trong ngày vào sáng sớm, ai có giấy mời phải tập trung tại trụ sở Air Vietnam trên đường Phan Đình Phùng, gần đài phát thanh quân đội cú để chờ xe đưa đón một lượt, ai trễ phải đợi qua ngày sau.

    Saigon đã đổi chủ, mọi cơ quan, tổ chức đều đã đổi tên, tại sao người Saigon nói với nhau vẫn dùng cái đích đã bị phế bỏ. Họ không gọi trường đại học tổng hợp 2 mà vẫn gọi đại học văn khoa hay đài phát tuyến, đài truyền hình chứ không dùng danh xưng mới. Tôi nghiệm ra Saigon đã ăn sâu cốt lõi vào tâm tư, tình cảm của mọi người, cho dù bây giờ có thay họ đổi tên thì người Saigon vẫn như trước kêu tên miền thân yêu cũ kỹ ngày xưa.

    Tôi về Phú Nhuận trú tại nhà cô cháu. Lóc cóc ra trụ sở khai tạm trú, tạm vắng linh tinh, tay du kích lật ngang lật ngửa tấm giấy công an địa phương cấp như tìm cho ra một dấu vết giả mạo để xích đầu người trình lại.

    Cũng may chồng cô cháu là tổ trưởng dân phố nên chẳng bị hoạnh họe. Trái lại chỉ nghe mấy tay rủ nhau bữa nào nhậu là hết. Xa Saigon lâu quá, con đường Võ Di Nguy với hẻm Cô Giang, Cô Bắc vẫn vậy, nhưng nhà mọc ra nhiều làm con đường thu hẹp còn một tí, tôi nghĩ nhỡ có hỏa hoạn thì chẳng biết làm sao bò chạy ra.

    Đêm Saigon nóng quá, túi gạo vẫn chưa biếu nội các cháu vì lấn cấn chút việc riêng. Nội đã bỏ gia đình từ 45 để đi miết. Bây giờ nội về mang danh cán bộ hưu nhưng lại đèo thêm bà vợ khác cùng mấy em con bà hai.

    Tôi không mặc cảm vì éo le thời cuộc mà thương vì mẹ tôi đã chờ, chờ hoài cho đến chết để rồi giờ bố lại mang tình riêng vợ mọn về. Các ông em tôi ba hoa chích chòe, cứ khăng khăng là nhờ có các chú cụ bị đầy đủ hồ sơ, giấy chứng nhận nên tôi mới sớm được thả về.

    Dù là ơn từ đánh võ mồm, nhưng tôi không muốn gây xích mích vì bố tôi còn sờ sờ ra đó. Tôi cố tránh gặp gỡ chừng nào hay chừng đó để anh em khỏi hoặc nhau. Tôi nhớ hôm bố vào tận trại cải tạo thăm tôi, cha con đã ngỡ ngàng vì thời gian đã làm con người già nhanh chóng.

    Tôi đã chuyển lại bố lời trăn trối của mẹ tôi, coi như hoàn thành một phó chúc được giao dặn, bây giờ giữa bố và tôi vẫn lờ mờ có một khoảng cách chia lìa. Có lẽ bố tôi cũng hiểu như vậy nên không tỏ ý cản ngăn tôi.

    Đêm nằm lại thành phố ngày xưa sao nghe râm ran tâm tình tủi hổ. Bao nhiêu hình ảnh chợt hiện, chợt mất nối nhau. Ngôi trường tiểu học Dakao, ngôi trường Trương Minh Ký, ngôi trường Tôn Thọ Tường và ngôi trường Pétrus Trương Vĩnh Ký với những năm lận đận bỏ học dở dang chợt như những bàn tay nhẫn tâm vả vào mặt tôi những cái tát đau điếng.

    Con đường Phan Đình Phùng buổi trưa lết bộ về bụng đói nhặt trái chùm bao đập vỡ cạp ăn tạm đè cơn nhói bụng. Con đường Gia Long mùa mưa rụng lá me đầy với dáng mẹ còm cõi chờ chồng. Tôi không khóc mà sao nước mắt tuôn ràn rụa.

    Saigon của thời đi lính, xót chua khi gặp những chiếc áo sơn chữ “ LCĐB “ ở lưng. Ôi những đồng đội của tôi sinh không phùng thời, hoặc bất mãn, hoặc chán chê cảnh tranh giành của đám chóp bu mà thành có tội. Bao nhiêu người đã chết vì đạn pháo, vì mũi súng giặc khi phải ôm vác những hòm đạn với tay không. Bao nhiêu người đã chết oan vì hòn đạn vốn mù lòa hung hãn tương tự.

    Ngược lại tôi cũng nhác nhớ tới chiều thứ bảy Saigon tấp nập, con đường Lê Lợi dìu dặt bóng người, thậm chí có lần tôi thấy rõ một em gái ngông nghênh mặc áo chẳng cần lót đứng tán hươu tán vượn không hề mảy may e thẹn.

    Saigon của mặt trái mặt phải, Saigon của nửa nọ nửa kia. Bây giờ Saigon rệu rã, người đi đã ra đi, ở lại toàn những người chậm chân, tiếc của mà đành cam chịu nhục dài dài. Chiều nay tôi vừa qua chiếc cầu xi măng nối Tân Định với Phú Nhuận. Dòng sông con hồi nao nước trong chảy nay bốc toàn mùi hôi đen ngòm của bùn dơ tù đọng. Lơ thơ có mấy cái ghe neo chặt dựa vào vách của dãy nhà bên xóm Stacindo làm nơi thường trú lâu niên của họ.

    Phối nào chứa nổi những mùi hôi lưu cữu và không khí nào sạch trong sẽ len lỏi được vào hô hấp của người ta. Tôi buồn rũ cả người, lơ mơ như chính mình có tội. Tôi lầm thầm gì đó mãi khi xe vọt qua khỏi cầu mới vỡ là tôi đang xin lỗi con phố ngày xưa vì bất lực để rơi vào tay kẻ hủy hoại.

    Tôi ôm thổn thức chìm vào giấc ngủ dật dờ. Chồng cô cháu nằm cạnh nói chuyện cho vui phải lay tôi mấy bận vì những giấc mơ khổ sở quấn quanh tôi. Anh cũng là một trung sĩ không quân hồi trước nên ra chiều thông cảm. Chú cháu nhìn nhau, giọt vắn giọt dài, đêm Saigon không còn bóng hỏa châu mà sao vẫn nghẹn ngào, nức nở.


    Phần 22

    Tưởng rằng chỉ ở những địa phương xa mới xảy ra cảnh tiêu điều, ảm đạm, nào dè về ghé thủ đô xưa của miền Nam một thời, tôi thấy cũng không hơn. Saigon bây giờ vắng quá, xe cộ thưa thớt, hàng quán đìu hiu.


    Cho dù ông Mười Cúc lên nắm Tổng Bí Thư đã hé mở chiều hướng cải cách và cho dù ông Sáu Dân nắm chức Thành Ủy cũng năng nỗ săn tay, bộ xậu Saigon có những gương mặt bạo miệng, bạo làm cỡ bà Ba Thi, Sáu Nghiệp, vậy mà Saigon vẫn im lìm như cõi chết.


    Đêm vắng tanh, nhà nào nhà ấy đóng kín cửa, cha con, chồng vợ xúm xít than thở với nhau. 3 giờ sáng, tôi thức dậy, người cháu lóc cóc đi theo đến địa điểm chờ xe của hãng Hàng Không Việt Nam đưa vào chỗ nhận hàng.


    Tôi ngỏ ý để tôi đi một mình cũng được, nhưng anh cháu không nghe, bảo : đi với chú cho vui, đã lâu cũng không biết Saigon đêm ra sao nữa. Len lỏi qua những vì tường của các căn nhà nhô ra thụp vào như hàm răng bà lão trong con hẻm sâu, hai chú cháu than với nhau : ngữ này xảy hỏa hoạn, chỉ nội chạy giẵm lên nhau cũng đủ chết, chứ không cần nhà đổ hay lửa cháy.


    Saigon vốn dĩ đã đông, nay lại càng đông hơn. Chủ cũ hiến nhà đi kinh tế mới bị lừa kéo nhau bò về sống bê tha hoặc dựng đại chòi tạm trú, bất chấp chính quyền, công an khu vực mè nheo họ cũng ì ra chẳng sợ.


    Còn gì nữa đâu đối với họ, giá có ai đoàng cho một phát để họ chết nhanh, có lẽ hay hơn. Những con đường vùng Phú Nhuận len lách tối tăm, điện chỗ có chỗ tắt. Nhưng tên phố lạ hoắc nghe chối tai, chẳng ai biết đó là những anh hùng khỉ khô gì.


    Ra khỏi ngõ Cô Bắc, hai chú cháu bắt vào con đường Huỳnh Văn Bánh đi lẹt xẹt với đôi dép cao su. Dân Phòng ngả ngớn nằm lăn hẳn ra lòng đường nghêu ngao hát hay chuyện khào, những chiếc gậy canh phòng bỏ chỏng trơ lăn lóc dưới đường, khua lạch cạch khi có người chạm vào hay bị đá xô lệch vì ai đó ngủ quên.


    Thấy hai chú cháu đi ngang, đám tâng công nhỏm dậy, dòm lom lom như xem chừng coi có phải gián điệp hay trộm đạo gì mò đi khoắng của sớm. Tôi đã được anh cháu dặn dò thây kệ chúng vì lúc này dây vào phần bất lợi ắt sẽ lãnh đủ thiệt thòi là phía ta.


    Tôi cảm nhận mình lơ ngơ quá mức. Cái thành phố nơi tôi đã được sinh ra, lớn lên và từng tóm thâu rất nhiều kỷ niệm bây giờ trở nên lạ hoắc, lạ huơ. Thản hoặc có dịp tạt qua cửa Tây chợ Bến Thành để nhìn lại căn nhà ngày xưa chắc tôi cũng không nhận ra đuợc.


    Còn nói chi những nhà thuốc tây Cường Lắm, tiệm vàng Nguyễn Thế Năng, Nguyễn Thế Tài hay văn phòng luật sư Vương Quang Nhường v.v..kéo dọc quanh khu gần đó. Tuy vậy, tôi vẫn lờ mờ nhận ra tiềm lực của Saigon ẩn dấu đâu đây. Bề ngoài xem Saigon lử đử lừ đừ, nhưng dường như sự câm nín của Saigon cũng mang một ý nghĩa thời cuộc.


    Trai thanh, gái lịch của thủ đô bây giờ miệt mài trong hàng ngũ thanh niên xung phong phân tán khắp các vùng thủy lợi, thủy điện Trị An, khu du lịch Cát Tiên, nông trường 19-5, hay cả vùng kinh tế mới Gia Lành, Phương Lâm. Cho nên Saigon vắng càng thêm vắng, người ta có thể chẳng ưa gì chế độ, nhưng phải ngậm miệng qua sông để mong còn bám được Saigon, hoặc theo lời khuyến dụ, hoặc do sự răn đe, hoặc bàn lén nhau để cố giữ cái chân “ người dân thành phố “.


    Tôi nghĩ mình đi đã sớm vậy mà đến trạm vẫn có người còn đến sớm hơn. Lác nhác vài người từ tỉnh xa cho biết cả đêm đã nằm vạ vật trên nền đất vì không ai có bà con, thân quen gì cả.


    Tòa nhà đồ sộ vàng ệch một bóng đèn, hai cửa khép kín dửng dưng. Những người đi lãnh hàng xì xào bàn với nhau, từ cung cách kiểm xét, đến nhân viên hải quan ngỏ ý xin một món nào đó, thậm chí còn chỉ luôn mánh khóe làm sao để được giảm thuế. Lai rai, có vài anh gạ gẫm cho mượn tiền đóng thuế với điều kiện nhượng ưu tiên cho họ mua một số hàng sắp lãnh.


    Saigon bao giờ vẫn thế, vẫn có những cây tầm gửi sống bám vào những cội cây khô. Bất cứ ở đâu đều lảng vảng đủ thứ “ cò “ nam lẫn nữ, lòn cúi điếu đóm công nhân viên để lọt được vào kiếm ăn. Ở mỗi tầng lớp đều có giá ngầm và chia ra vai vế rõ rệt. Chẳng hạn muốn làm ăn ngay tại Tân Sơn Nhất hay Kho 4 thì phải chi thế nào, nhờ cậy ai, mối lái ra sao.


    Cứ như thế Saigon phân ra nhiều hạng ngạch, đám lau nhau ở trạm đưa đón là lèng xèng nhất, tuy vậy vẫn không ai xâm phạm, léo hánh vào lãnh địa của ai, dù nếu có họ sẵn sàng dùng băng nhóm thanh toán nhau cạn láng để quyết không nhả địa bàn sinh sống của mình.


    Tám giờ sáng mới thấy anh gác cổng ra mở cửa rồi ngồi uỵch ra cái bàn, mặt khó đăm đăm như một vị gia ân. Có người sốt ruột mon men hỏi khi nào xe đến thì liền bị nạt ngang : ở đó mà chờ, hỏi linh tinh bỏ mẹ.


    Saigon bây giờ là thế đó. Những nét lịch sự, duyên dáng xem như cùng theo chân Mỹ ra đi theo. Mặt ai cũng cau có, hiếm thấy một nụ cười và lúc nào cũng đằng đằng sát khí. Hỏi chỉ được nhận những câu đáp cấm cảu, hoặc mắng mỏ người dân. Thét rồi chẳng ai buồn mở miệng.


    Chín giờ chiếc xe ca đầu tiên ghé lại. Tài xế đẩy cần mở cửa bên hông xong, nhảy phóc vô tán gẫu với anh lao công. Khách nhận hàng tranh nhau len lên cửa xe. Ai cũng hối hả sợ trễ, chẳng ai quan tâm cho biết sự thể thế nào.


    Tội nghiệp, bản tính người dân vốn đã tranh giành nhau lên thì lên trước, xuống cũng xuống mau, trông nhếch nhác như sợ không còn chuyến khác. Chừng thấy xe đầy, anh tài lững thững ra, bước lên xe bằng cánh cửa của tài xế và chẳng cần hỏi han gì, đóng xoạch cửa lại và phóng xe chạy.


    Những người không lên kịp ngơ ngác chẳng rõ thế nào. Tôi là một trong số người chậm châm. May sao có vài vị chắc từng đi lãnh hàng nhiều lần và những mối lái cho vay nói “ bà con cứ yên tâm, họ sẽ quay lại chở khi nào hết thì thôi “. Bấy giờ tôi mới thở phào.


    Nghĩ đến sự lẩn thẩn của mình, tôi cười nụ cười méo mó thảm hại. Nào đã lâu lắc gì đâu mà sao tôi bệ rạc vậy nhỉ. Anh cháu đã bận đi đâu, chứ nếu còn nán lại chắc đến cười tóe nước mắt và nói “ chú dạo này sao đụt quá “.


    Cám ơn, sáng sớm Saigon còn giúp tôi che đậy bớt vẻ lóng ngóng, quê mùa. Tôi bước lên khoang xe như chui vào một cái rọ. Gió Saigon ban mai chưa gì đã lợn cợn, tôi nghe ran rát nơi đuôi mắt. Xe chạy đi, con đường Phan Đình Phùng bị hắt toẹt sau lưng. Cây ăng ten đài truyền hình vẫn lập lòe bóng đèn đỏ đánh dấu chiều cao để phi cơ bay ngang không đâm xầm vào gây nạn.

    Last edited by giavui; 08-23-2011 at 01:01 AM.

  9. #18
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Phần 23

    Lụi hụi tôi cũng leo lên chuyến xe chót để được đưa vào Tân Sơn Nhất lãnh hàng. Đây là khu vực dành cho phi trường quân sự ngày trước, khoảng gần câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc ăn thông ra cửa Lăng Cha Cả.


    Hầu hết những dãy ba rắc ngày xưa giờ là chỗ chất hàng và ngăn thành những nơi kiểm xét hải quan. Phần đông những người đi lãnh đều tới lui nhiều bận nên quen thuộc. Gia đình nào có bà con, thân nhân ở nước ngoài đều làm sổ nhận tiền, hàng cho tất cả những người trong gia đình. Sở dĩ vậy là vì dạo đó mỗi năm mỗi người chỉ được phép tối đa nhận quà từ nước ngoài về 2 lần, cho nên nhà nào muốn nhận được nhiều phải lập sổ để luân phiên nhau mà theo đúng thủ tục cho phép.


    Từ ngày đi tù về, tôi chẳng còn mảy may ham bon chen, nhờ vậy chuyến xe tôi lên chỉ lưa thưa còn lèo tèo vài người, điều này khiến tôi thấy hết sức thoải mái. Mấy người bâng quơ hỏi thăm tôi và khi tôi đưa họ xem giấy gọi thì ai nấy đều cho biết người nào đó gởi cho tôi đã chịu hết mọi chi phí, thuế cước nên tôi khỏi phải lo bị tính tiền gì nữa hết.


    Tôi bỗng thở phào, có lẽ ai đó hiểu rõ hoàn cảnh gia đình tôi nên đã giúp là giúp cho trót cũng nên. Tưởng rằng mình đúng tên đúng địa chỉ gọi đi lãnh thì nhanh chóng xong kịp ra về, nào dè sự làm việc lề mề, theo tính cách gia ân khiến tôi mất rất nhiều thời gian chờ đợi.


    Mãi đến sau buổi trưa, tôi mới đến lượt được gọi tên. Nhìn ai cũng thùng nào thùng ấy nặng trĩu, lỉnh ca lỉnh kỉnh trăm món, trong khi hàng của tôi đưa ra chỉ vỏn vẹn một chiếc hộp cỏn con. Mọi người nhìn có vẻ giễu cợt, song với tôi đó là cả một hạnh phúc tuyệt vời, chắc là có nằm mơ tôi cũng không tưởng tượng ra nổi.


    Nhân viên kiểm soát hàng của tôi gồm 2 người, một nam, một nữ. Họ đều mặc đồng phục hải quan vừa làm vừa đủng đỉnh pha trò nói chuyện. Tôi vào nộp giấy, họ đối chiếu xong vào kho kế bên lấy hàng ra. Tôi hồi hộp chờ.


    Chợt nghe cô nhân viên hỏi : chú có biết ai là người đứng tên gửi quà về cho chú không ? Tôi thấy có vẻ lạ vì tên người nhận và địa chỉ đúng của tôi sao còn truy hỏi ai gởi để làm chi. Nhưng tôi vẫn nhũn nhặn trả lời : tên những thân nhân của tôi thì đều đã ghi rõ trong sổ nhận hàng, tôi chắc không ngoài một trong số những người đó.


    Hai nhân viên hải quan so tên nơi sổ với tên ghi ngoài hộp hàng và cho biết không phải những tên tôi đã khai. Và họ đòi hỏi tôi phải cho biết tên người gởi để xem quả có liên hệ thân hữu với tôi chăng thì mới phát hàng ra được.


    Nào tôi đã được lãnh hàng bao giờ mà biết sẽ gặp cảnh đánh đố nhau tận tình đến vậy, nhưng tôi nghĩ cũng phải vặn hết đầu óc ra mà suy xem ai còn nhớ đến tôi ra tay tế độ cứu vớt cho đây.


    Việc này quả thật ngoài tầm hiểu biết. Cho đến lúc này tôi hoàn toàn mù tịt chẳng biết bạn bè, thân quen ai đã may hay không may thoát ra được hồi biến cố vừa rồi. Còn nói chi ai ở, ai đi và nơi nào họ đến thì càng hoàn toàn không đoán nổi.


    Có lẽ thấy tôi ngu ngơ, cô nhân viên hải quan mớm cho một thoáng hé mở : người này ở Mỹ chú ạ, xem ra không phải bà con mà như là bạn cũ của chú thì phải. Tôi càng ngớ người ra, tự hỏi ai đây. Hai nhân viên hải quan cũng không có vẻ thúc, lẳng lặng nói chuyện khào chờ đợi tôi.


    Tôi xoay trong đầu, moi trong trí, đoán lờ mờ xem liệu ai có thể còn nhớ đến tôi. Thỉnh thoảng tôi nêu ra một tên hú họa nhưng đều bị xem là không đúng. Sau cùng tôi đánh bạo hỏi ngược hai người : thưa anh và cô, theo tôi nếu bắt buộc phải khai đúng tên người gởi mới được nhận hàng thì làm sao tôi biết được. Thú thực khi nhận được giấy gọi tôi cũng đã băn khoăn dữ lắm. Vì người cho có lòng, chắc họ không nghĩ ra nhiêu khê bên nhà phải đối mặt. Chả lẽ đúng tên mà tôi lại bỏ lơ không đi.


    Lời tôi có vẻ gây xúc động sao đó nên cô nhân viên nói : cháu nhắc sơ sơ để chú cố nhớ. Đây là tên một cô gái nghe có vẻ hay hay, chắc trước đây là bạn với gia đình. Chú thử nghĩ xem may ra có phải không. Và để đánh tan nỗi thắc mắc của tôi, anh nhân viên phân trần : chúng cháu không muốn làm khó ai đâu, song luật lệ buộc chúng cháu phải hỏi cho rõ.


    Tôi lại cà kê dê ngỗng nhớ được tên nào thì đọc ra, có đến năm sáu tên bạn nữ mà vẫn chẳng xuôi. Sau cùng chợt tôi lóe sáng khi sực nhớ tới vợ anh bạn hồi nao làm báo Chính Luận của ông Đặng Văn Sung, có lần đã ra ở nhà tôi hơn 1 tuần, biết đâu nay cô thương tình mà muốn đỡ đần vợ chồng tôi chút ít chăng.


    Tôi đành đưa tên cô ta và may mắn sao cô nhân viên hải quan cũng reo : đúng đó chú. Bấy giờ thủ tục kiểm hàng mới khởi sự. Tiếng lưỡi lam rọc nắp hộp kêu xoèn xoẹt, lôi ra hai sấp vải vừa sa tanh vừa lụa hoa, vài cái áo lót nữ, một bó bút Bic, một ít lưỡi dao cạo Gillette, mấy hộp thuốc cảm, ho, tiêu chảy, thế thôi.


    Tôi nhìn muốn hoa cả mắt, mùi hàng mới bay xực nức, cơn xúc động dâng lên tôi có cảm tưởng đuôi mắt đang ngần ngận nước. Hai nhân viên để riêng từng thứ ra, cầm lên lại bỏ xuống.


    Tôi nghe cô nhân viên nói : cháu muốn gửi mua chiếc lót loại này lâu mà không tìm ra ai quen. Nay chú nhận được mấy cái, liệu chú có thể nhượng cho cháu một chiếc, cháu xin gửi tiền lại chú nhé.


    Tôi nào biết giá cả thế nào mà bàn và dù là lần đầu lớ ngớ đi lãnh quà, tôi cũng đã nghe và thuộc nằm lòng lối khơi mở đề nghị của các cô chú hải quan khi thấy hàng ngoại. Có người còn cho biết thêm là nếu dễ dãi biếu cho họ món gì thì việc nhận hàng càng nhanh và có khi thuế má lại được nhẹ nhàng hơn.


    Tôi nghĩ đây quả là của từ trên trời rơi xuống, giá không có gì cũng vậy thôi nên mau mắn nói với cô nhân viên hải quan xin biếu cô một chiếc cho xong. Cô rối rít cám ơn và thu gom từng món nhét lại vào hộp, ràng buộc và lấy băng keo dán cho tôi cẩn thận. Cô nhẩm đọc địa chỉ của tôi, ân cần dặn dò đi đường giữ gìn và nhất là đừng vội vàng bán ngay tại cổng vì lớ ngớ dễ bị con phe ăn chặn hay mua rẻ.


    Không gì bằng “ có qua có lại mới toại lòng nhau “ nên tôi cám ơn và lui ra. Hoàn tất việc đi nhận hàng gần hết cả một ngày. Chiếc đồng hồ trong khu ghi con số 4 giờ 30 chiều, tôi mới nhớ suốt từ sáng đến giờ chưa ăn chưa uống gì cả.


    Tôi ôm chiếc hộp ra, lao xao có người hỏi mua hay hỏi cho biết nơi tạm trú lát sau họ sẽ tới. Tôi ừ hử cho xong. Lúc vào thì xe chở, nhưng lúc ra thì ai nấy tự lo phương tiện về nhà. Tôi lừ đừ ôm cái thùng mà nhìn quanh nhìn quất, sợ đủ chuyện. Mấy anh xe ôm bu vào gạ mời, giới tắc xi cũng ơi ới gọi theo, lại thêm mấy tay mặt lì lì đeo làm tôi hoảng hốt.


    Tôi phóng đại lên chiếc tắc xi về nhà anh cháu. Vác được cái thùng vào đến tận trong nhà mới yên chí. Tôi quáng quàng ăn vội tí chút, rồi vơ túi gạo và chút quà đến biếu nội các cháu. Tôi ở chơi đến gần khuya xin phép về để sáng sớm trở ra cho kịp chuyến tàu lửa.


    Anh cháu khuyên tôi không nên để nguyên cái thùng giấy khiến ai cũng chăm bẳm nhìn theo. Hai vợ chồng giúp tôi nhét mọi thứ vào một chiếc bao và dặn dò đi tàu nằm chặn lên mà ngủ kẻo tàu đông bị cướp giật.


    Tôi vội vã bỏ Saigon về bằng chuyến tàu 6 giờ sáng, cà tịch cà tang ghé hầu hết các ga, trạm lớn nhỏ, nhường ưu tiên hết tàu thống nhất lại các chuyến tàu nhanh nên mãi đến 6 giờ sáng hôm sau tàu mới bỏ tôi xuống ga cuối.


    Tôi gọi xe về nhà, vợ con còn chập choạng ngủ. Tôi đánh thức cả dậy và lao nhao mở cái bao ra cùng ngắm nghía với nhau. Không nói, mắt ai cũng loang loáng nước. Thẳng tửng vốn háo hức cái xe ba gác nên nhân cơ hội xía ngay vào : chuyến này mình sắm được xe rồi đó bố. Nào dè mẹ nó trợn trừng mắt cắt ngang, anh ta cụt hứng im thin thít.


    Phần 24

    Giá như thời buổi hồi nao, mớ quà này xem ra chẳng là gì cả. Thế nhưng trải qua một thời gian dài quá thiếu thốn thì lại hóa ra vô cùng quan trọng. Cả nhà tỉnh hẳn khi trời còn lấm lem tối. Ai nhìn cũng lặng đi, không biết nói sao. Đối với bên nhà, từng thước vải, từng lưỡi dao, từng cây bút đều quá quí. Chẳng những chúng nói lên tấm lòng người ở xa nghĩ đến kẻ kém may mắn mà chúng còn khiến cho người nhận cảm thấy quá bùi ngùi.


    Kèm theo một lá thư ngắn, nhưng đọc lên không giữ nổi nước mắt đừng tuôn : anh chị mến, đã lâu lắm chúng ta không gặp nhau. Tình cờ anh Sâm sang, em biết được tin anh chị. Em cầu mong chút quà nhỏ nhoi này sẽ đến tay anh chị như lòng em nhớ. Bây giờ nhắc lại chuyện hồi xưa, chắc năm tháng đã xóa sạch rồi. Nhưng em vẫn giữ trong lòng ngày ra thăm anh chị, khi về lỡ tiêu béng các món, em đã tạm vay của anh chị tiền mua vé máy bay. Em hứa mãi sẽ trở ra thăm và hoàn lại, để rồi thình lình mọi việc sai lệch hết. Em còn mang nợ anh chị, nay em xin được đền bù. Ước mong anh chị tha lỗi cho em…


    Vợ chồng, con cái nhìn nhau, không biết nên vui hay nên buồn. Sự im ắng làm cho buổi sáng đâm nặng nề quá đỗi. Tôi phá tan cảnh tịch mịch của nhau : này mẹ nó nên giữ sấp vải may cái quần mặc kỷ niệm. Vợ tôi lặng đi một lúc mới rụt rè lên tiếng : thời buổi này cần miếng ăn, chứ không cần chưng diện. Em nghĩ cả nhà nên hi sinh để đãi ngộ nhau một bữa cho tất cả được vui. Đứa con gái chạy chợ nhận trách nhiệm giải quyết khoản quà cáp, nhưng vợ tôi nói để hỏi xem bà vợ ông thương binh về hưu có định mua không rồi sẽ tính.


    Thế là món quà chóng vánh được thanh toán. Từ ngày xảy biến cố, đến râu ria cũng e dè chuyện bị phân bổ kinh tế mới mà chẳng dám loe hoe mọc rộ ra, nên mớ lưỡi dao tôi nghĩ là cũng không cần thiết. Bọn nhóc giá không còn lẽo đẽo đi học thì chắc mấy cái bút BIC cũng không được giữ lại làm chi, thành ra chỉ làng nhàng một vòng là coi như xong liền.


    Tôi chẳng biết nên vui hay nên buồn nữa. Thời gian đó thật muôn vàn nhăng nhố, ai có thân nhân dần dần quà cáp gửi về hoài, cuộc sống đâm ra có mòi dễ chịu. Thế nhưng bên cạnh những tình nghĩa yêu thương cũng nảy sinh ra lắm điều đầy đọa lẫn nhau.


    Có nhà dù anh, chị, em, con cháu thay phiên nhau gửi quà về cho từng tên người khác nhau ở bên nhà để không bị vi phạm qui định mỗi năm tối đa nhận 4 lần quà và 2 lần tiền mà vẫn chưa thấy đủ. Nay thư sang kể cảnh đau yếu, mai tin sang xin tiền sửa mộ, lợp nhà. Nhiều gia đình còn tự tha hóa mình để gây xúc động cho người ở xa.


    Thậm chí bạn bè tôi có người chỉ chăm chăm đi dò la bạn bè, đơn vị để kể khổ, kể khó xin trợ giúp. Có bà mẹ liên tục gửi thư xin con gái đến nỗi anh chồng của cô phải cất lời van xin nếu má còn thương vợ con là con của má xin thư thả để chúng con lo liệu, chứ má cứ thúc giục luôn thì chắc vợ con đến sớm chết mất.


    Ôi thời buổi bung xung, lộn tùng phèo lên hết cả. Những ông thợ chụp hình vớ bở luôn được các gia đình này chèo kéo để đạo diễn những bức ảnh lâm ly thảm khốc hầu moi tiền những đứa con ở xa. Tôi từng biết, có người chụp đi chụp lại cái xẻo lá ngụy trang ở ngay sau vách tường nhà họ để đánh động tình thương của những người con hộc tốc chúi đầu chúi cổ đi làm, cày chết bỏ để có tiền gửi về chi viện cho thân nhân.


    Thằng tửng tôi hay phê phán chuyện nhà người thẳng thừng : con không hiểu sao lòng tham của con người quá quắt. Tôi phải nạt nó : mày không được bép xép, chuyện thiên hạ mắc gì đến mày. Tại tao không nhớ và không tìm ra được ai quen, chứ biết tao cũng dám làm như họ để sống thoải mái. Nào dè nó dám nghênh ngang trả lời tôi : bố quả có ý đó thì con không còn muốn ở trong nhà này nữa. Đến nỗi vợ tôi phải réo lên : bố con nhà ông đâm lẩn thẩn cả, chuyện đẩu đâu cũng tự buộc vào mình.


    Tôi đã bao lần nằm vắt tay lên trán nghĩ hoài mà không ra. Điều gì đã làm cho con người sa đọa vào lừa dối nhau trắng trợn thế nhỉ. Thiếu thốn, bức bách, bụng đói, rét mướt, hay vốn dĩ sẵn chố dựa, không nài cũng uổng, mà ngay nguời trong nhà cũng chẳng còn biết quí nhau. Có thể người ở bên phía này mặt trời cho rằng phía bên kia là mỏ vàng, mỏ bạc, chỉ cần vói tay ra là hốt vô biên. Cho nên mới kêu nạy luông tuồng. Có khi chính vì lòng thương nhau đặt không đúng chỗ cũng làm cho sự ỷ lại, dựa dẫm tăng mau. Trách ai, nào biết trách ai bây giờ.


    Sau này mỗi lần nhìn bà vợ ông thương binh hưu trí mặc chiếc quần từ sấp vải của vợ tôi bán lại, tôi thấy lòng tôi ngấm muối xót xa. Tôi nghĩ đến lọn cải muối dưa bị khú cũng không đến nỗi bốc mùi hăng thậm tệ như vầy. Vợ tôi nhìn được vẻ đắng cay của tôi, bà mở nụ cười méo xệch vớt vát : em cũng từng được mặc những thứ ấy rồi mà anh.


    Những năm tháng kẹt lại quê nhà là những mùa dài thương đau buồn tủi. Cuộc đời ôm cái ống bơm nhấn xịt xịt cho xe khách lại qua, tôi thấm thía như chính tôi là chiếc xăm cọc còi, mục rã. Có những mùa lá rụng đầy, gió thổi bay làm xác khô kéo xào xạc trên mặt đường, tôi tưởng cõi lòng tôi cũng khô khốc như thế.


    Mùa mưa biển dữ dội, mây ùn che kín bầu trời, Chớp giật, sấm vang, tôi chỉ mong bầu trời rách nát ra, chôn vùi một lần cho xong đời đầy đọa. Mùa bão dâng, màu nuớc biển đỏ quệch đẫm buồn, tôi nghĩ máu đã pha vào cả những hạt cát làm băng hoại đi màu xanh biếc của thiên nhiên.


    Có bao giờ tôi tin sẽ đến một lần thoát ra khỏi ngẫu hứng tang thương đang giăng giăng cùng khắp. Anh bạn sửa xe thấy tôi lúc nào cũng buồn buồn thường ủi an tôi : ông thầy đừng nản chí, ít ra ông thầy còn chút vốn tù vạ, biết đâu sẽ chẳng là cơ duyên để ông thầy đi được. Tôi định hỏi anh ta : lấy gì làm vốn ra đi, nhưng thấy im.


    Thời gian đó, trong nước xảy ra việc ông Chu Phạm Ngọc Sơn sáng chế được loại sơn lót gì đó, bỗng dưng được nhà nước cuỗm coi là công trình sáng tạo tập thể dưới sự dẫn dắt của đảng. Ông Sơn không chịu, kêu réo, dù lúc ấy ông đang là một trong những người tham gia Hội Trí Thức Yêu Nước. Tưởng rằng thái độ khăng khăng của ông sẽ bị phê phán gắt gao, ấy vậy mà lại được thu vén để hoàn trả chính danh lại cho ông, cho dù công việc được làm cách im im, nhưng vẫn không dấu được lời xầm xì của bàn dân thiên hạ.


    Chuyện này xảy ra, tôi có nghe loáng thoáng ông thương binh về hưu ca cẩm mà không hiểu ông đề cập đến ai lúc bấy giờ. Hôm ông toang toang ra lời là hôm ông vừa gặp bạn nhậu về, chân nam đá chân chiêu, ông nhủng nha nhủng nhẳng kể lòng dân ví như bầu trời, định lấy cái que chống thì đỡ sao cho nổi. Tôi lờ đi như không hay biết, nhưng anh bạn sửa xe hí hửng thúc hông tôi bỏ nhỏ : ông thầy nghe chớ. Nghe thì ai chẳng nghe, nhưng miệng còn có đâu mà nhận…

  10. #19
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Phần 25

    Người gằm ghè gia đình tôi nhất phải nói là anh công an khu vực. Đành rằng “ ăn cơm chúa phải múa tối ngày “, nhưng anh quá tích cực với cá nhân tôi. Nhiều khi đang lui hui lo việc gì đó không để ý đến ai, thì tôi nghe tiếng xe chạy qua và quay vòng ngay lại. Chưa thấy người đã nghe tiếng : chú dạo này khỏe chứ. Hỏi dăm điều ba chuyện, chưa đâu ra đâu, thì như sực nhớ anh căn dặn tôi phải làm lại tờ khai lý lịch.


    Tôi thường điên đầu vì công việc này, hết trích dọc lại trích ngang, quãng 3 tháng một lần, mà tôi biết chắc sẽ không bao giờ lưu hồ sơ gì hết. Chẳng qua anh muốn hù tôi nể mặt anh ta thôi. Tôi mấy lần định hỏi sao làm đi làm lại nhiều bận, nhưng bà vợ can gián : việc của người ta, ông đừng ý kiến vào mà mang họa.


    Tôi ấm ức, vợ tôi càng ấm ức hơn, tôi thì nín khe, còn bà xã sang phàn nàn với bên nhà ông thương binh hưu nhân được gọi sang giúp việc. Có lần bà về khoe với tôi : bà ấy hứa sẽ bảo ban để anh khu vực đừng chú ý đến ông. Nghe thì cứ nghe, nhưng tin thì tôi không tin.


    Việc này tôi có nói lại với ông nội các cháu. Cha con không bằng lòng nhau nhiều khoản, nhưng “ một giọt máu đào (vẫn) hơn ao nước lã “ nên ông cụ thông cảm giúi cho tôi cái bằng khen để về nhá treo ở nhà. Thời buổi thật kỳ lạ, nguời thật việc thật chẳng có cà ram nào trong việc xử thế lẫn nhau, vậy mà mảnh giấy lại làm nên tích sự mới điên.


    Tôi đem bọc nhựa và đính mảnh bằng khen ngay ở gian ngoài. Anh khu vực đến giục tôi nộp tờ khai lý lịch, nhác thấy vội nói bận công tác gì đó, hẹn sẽ quay lại lấy sau. Chả bao giờ thấy anh trở lại nữa. Thì ra người ta sợ bóng sợ gió khi nhìn thấy chữ ký của người cấp bằng.


    Sau này tôi nghe ông trưởng khóm kể lại tay khu vực bảo gia đình tôi thuộc loại có công với nhà nước nên thôi không chăm chú dò xét nữa. Công lênh gì đâu chớ, chẳng qua bố tôi vốn có thời gian làm cửa hàng trưởng tân dược, chả hiểu sao lại vớ được cái bằng khen đáng đồng tiền bát gạo này, thế là thấy thằng con trai lao đao lận đận thì cụ nhín cho để làm lá bùa hóa giải chưởng lực đối phương.


    Ôi, nếu phải kể những nỗi gian nan của tháng ngày không ngóc đầu lên nổi thì cơ man nào cho hết. Tôi mượn tạm cái bằng khen chỉ một lần đâu chừng nửa tháng rồi lại cẩn thận giao hoàn lại cụ, vậy mà ép phê kéo dài mãi đến tận sau này.


    Từ đó, việc xin tạm vắng tạm trú không còn bị ì xèo nữa, thậm chí lại được mớm cứ việc đi làm ăn họ sẽ lơ là cho. Thế nhưng tôi vẫn cẩn thận nắm cán chớ không đánh đu chơi trò nắm lưỡi, nhỡ một ngày buồn buồn nào đó, các trự dở quẻ chỉ mệt vào thân.


    Gần 20 năm trôi nổi sau ngày biến cố, tôi tưởng tôi chẳng còn ra giống người, loáng thoáng nhớ ông Darwin chứng minh thủy tổ chúng ta từ loại vượn, có lúc tôi nghĩ hay tôi đúng là vượn cũng nên.


    Tin gia đình tôi có quà đến tai tay khu vực rất chóng. Anh xí lô xí la hỏi thăm đời sống, rồi rong rỏng phết cho một câu : chú sướng nhé, thỉnh thoảng có cứu viện. Mà thật, sau lần được ơn mưa móc bất ngờ, tôi như sẵn trớn có giấy gọi đi nhận quà tiếp. Lần này tôi bớt lúng túng vì đã biết trước người cho là ai.


    Nguyên cụ tôi nhặt nhạnh mớ ảnh chụp gia đình ngày xưa đem đi in thêm ở hiệu, bất đồ sao ông chủ nhận ra người chị nuôi của tôi. Ông chủ vốn là chú bên chồng của chị nên hỏi thăm đến nơi đến chốn cụ tôi về liên hệ với bà chị. Cụ tôi kể hết ngọn ngành, thế là cha con cách xa nhau cả 40 năm tình cờ biết tin nhau lại.


    Nỗi lòng người ở xa xót người bị kẹt nên quà cáp tuôn về tưng bừng, mục đích là cưu mang cụ tôi, nhưng tôi vẫn có chút phần ăn ké. Cụ gọi tôi vào, bọc cho vài sấp vải, một ít thuốc, chục cây bút BIC, một túi lưỡi lam và một lá thư.


    Vợ chồng con cái lại hết nước mắt vì những lời chân thành an ủi. Tôi còn được anh chị hỏi nguyên do sao không “ gửi bớt vài cháu về quê “, tôi hiểu ngay anh chị muốn nói gì. Tôi tình thật kể lại khúc nhôi và bóng bẩy lấy tên các con anh chị để lòn lách tường thuật đến việc khó của tôi.


    Sau đó, anh chị gửi riêng cho một thùng về chỗ tôi, đủ mọi thứ. Thời buổi đó đem thẩy cũng thu về được một món tiền to, có nằm mơ cũng chẳng đoán ra nổi. Thằng tửng tôi ngửi thấy mùi vải vóc, tính lóc chóc của nó diễu được ngay : mùi Mẽo có khác,


    Những năm 80, gia đình nào thỉnh thoảng nhận được quà xem như phúc bảy mươi đời. Ai cũng nghèo quá nên ngóng sự giúp đỡ như ngóng mưa. Chả thế, việc quà cáp xem ra cũng có mặt này mặt khác. Người ẩn nhẫn chẳng nói làm gì, nhưng có lắm anh ngong ngóng hỏi thăm bạn bè, cấp chỉ huy cũ, hoặc địa chỉ một hội quân binh chủng nào đó để chăm chăm chú chú chạy xoay tiền tem gửi lá thư xin cứu trợ.


    Có anh khoe với tôi đã nhận đuợc nhiều lần quà từ bên ấy gửi về. Thời buổi khiến con người quên đi lòng tự trọng, nhăm nhăm trông chờ vào sự cưu mang ở mãi tận xa. Chẳng biết sao là đủ, sao cho vừa, được một lại muốn có hai, cứ thế đâm mè nheo, xoay sở và làm phiền nhiễu bạn bè, thân thuộc.


    Xã hội dần dần đã bớt cảnh kham khổ, túng bấn. Các nhóm chợ trời mọc tự phát ở khắp nơi, tỉnh thành nào cũng có. Con buôn không còn thuần túy làm ăn tại địa phương như trước, có người đã buôn rộng ra khắp nơi, mon men lại có cả người đổ dồn vào các tỉnh có đường xuyên ranh giới.


    Miền Bắc chen chân lên các tỉnh biên giới, khuân đủ thứ hàng hóa từ Tàu sang. Miền Trung hay trong Nam chủ yếu lần mò len theo các đường buôn với Lào và Cam Bốt. Người ta rủ nhau đi chợ thành đoàn, khuân chẳng kể thượng vàng hạ cám. Đứa con gái tôi chấp chỏm cũng muốn đi, tôi phải nạt mới bỏ ý định. Không phải tôi sợ cụt vốn mà thấy thân gái đường trường không an toàn.


    Đã có biết bao gia đình tan vỡ cũng vì vợ con đi buôn chuyến. Phương tiện di chuyển hạn hẹp, hàng hóa thứ gì cũng thuộc loại quốc cấm hay buôn chui nên lắm bà, lắm cô phải dựa vào lơ tài xe đò, xe tải để mong được dấu che thoát khỏi kiểm soát của quản lý thị trường, thuế má và công an giao thông.


    Ai cũng có quyền sinh sát, ai cũng có quyền chặn bắt và ai cũng có quyền ban ơn. Thậm chí chỉ cần một địa phương xưng hùng xưng bá đặt nghênh ngang một cái bàn ra cạnh quốc lộ, đeo cái băng đỏ nơi tay là cũng hét ra lửa, mửa ra khói với bạn hàng buôn ngay.


    Hàng hóa tịch thu có khi lập biên bản, có khi không, nhưng dù với dạng vẻ nào thì phần thua thiệt vẫn là về phía những người sống theo quốc lộ. Chưa có ai làm một bản thống kê mạch lạc, nhưng chắc chắn rằng số chồng bỏ vợ, con bỏ gia đình nhan nhản trong thời buổi mà những anh hùng xa lộ mặc sức hành hạ người đi xe.


    Tôi chán ngán biết bao nên đành chọn sự thua thiệt để gia đình còn là của nhau hơn vì chút quyền lợi mà có khi cửa nhà tan nát. Những thùng quà nhận được đều tiêu pha hết sức dè sẻn, mong rằng sẽ có một dịp nào đó mình phải chi dụng để thoát khỏi sự bức bách vây quanh.


    Càng ngày tin đồn Mỹ sắp nhận những người đi tù cải tạo càng dồn dập. Nay là tin những ai tù từ 10 năm trở lên sẽ có danh sách sẵn để được Công An đến hỏi lập thủ túc ra đi. Tin này, tin khác, trúng trật chẳng ai truy nguyên được. Có người còn bạo miệng nói Mỹ sẽ bằng lòng cấp cho mỗi gia đình 5000MK nếu không muốn ra đi khỏi nước. Và không thiếu người hí hửng tin và chờ như chờ sung rụng.


    Các thành phố ngơ ngáo vì các mẩu tin đồn. Có lẽ vì quá khổ nên ai cũng đặt hi vọng vào những chuyện hão huyền cho bớt tủi. Như có dạo phong trào làm đơn nộp xin đi Úc, anh nào hấp tấp cả tin là dính chấu ngay. NHà nước gom nhốt luôn mấy năm mới thả, oi đúng là oan nghiệt.


    Phần 26








    Đầu óc tôi muốn nổ tung lên vì lượng thông tin dồn dập kéo đến. Tôi chóng mặt đến không nhìn đâu ra sự thật hoặc lừa dối. Thằng tửng tôi là người đầu tiên lay động tâm trí tôi : này bố, những người hoàn cảnh như bố sắp được ra đi đàng hoáng đấy. Tôi há hốc mồm tròn xoe, không tin vào cái tai nghễnh ngãng của mình. Tội nghiệp thằng bé thấy bố ngẩn tò te thì nói vun vào thêm : con nói thật, bố phải tin vào con.


    Rồi nó huyên thuyên kể như sự việc đã mười mươi đến tận nơi : bố sướng nhé, chuyến này chả còn sợ ai bắt điều bắt nết mình nữa. Gia đình ta sẽ lên máy bay đàng hoàng nhé, ngang nhiên ra đi mà chẳng ai làm khó dễ ta.


    Tôi cũng thấy nôn, nhưng không tin chuyện đời đâu lại có sự lạ tới vậy. Tôi gạt ngang nó : mày thôi bép xép cho tao nhờ. Mẹ kiếp hơn 20 năm giời, tao ví như con rệp khô nằm giữa khe mộng phản. Chẳng còn ai đủ mập mạp để con rệp hút máu họ sống lây lất cho qua, mày hãy để tao yên, đừng khuấy động rối lên mà lại tù rạc, con ạ


    Thằng con tôi không chịu lép : trời ơi, con được bố rứt ruột đẻ ra, lẽ nào con đi hại bố. Cả thành phố người ta ùn ùn kéo nhau chạy đi hỏi han chuyện lo giấy lo tờ, chỉ có bố làng nhàng chưa biết thôi. Rồi như là tay cố vấn chuyên nghiệp, nó mach nước cho tôi : giấy tờ quân đội bố còn giữ đủ cả chứ.


    Tôi ngây như phỗng đá, lẩm nhẩm tính trong đầu : thẻ quân nhân, chứng chỉ tại ngũ đốt béng ngay từ khi nhộn nhạo xảy ra, ba món quần áo lính thời gian đi tù mặc rệu rã, cũng rách bươm hết, hình ảnh cũng đốt sạch, sợ bị kết án còn nuôi mộng phản thùng. Tôi ân hận sao hồi đó mình khờ thế nhỉ.


    Thằng con thở dài sườn sượt, tội nghiệp cho tôi sợ quá hóa ngu ngơ. Nó không nói ra miệng, nhưng cái nhìn sâu thăm thẳm của mắt nó cho tôi suy diễn ra quả nó đang nghĩ như vậy. Tôi bộc bạch tâm sự với nó như ân tình giữa hai người bạn : hồi ấy, ai chả thế, con. Tất cả mọi người dường như bị ăn cháo lú nên ngu đần hết trơn. Đời lính rõ mười mươi dẫu có lấy đất đắp lên phi tang cũng chả dấu được, thế mà ai cũng rét. Phương chi lối xóm đâu thiếu những thằng điếu đóm, nịnh bợ thời cuộc tâu hót, kết tội mình.


    Tôi bật cười thầm nhớ lại những ngày nằm ấp, mắc chứng gì mà những chuyện không đáng cũng khai ra. Từ chuyện hồi nảo hòi nao đi hướng đạo hay đi hát hò vớ vẩn, có ăn nhập gì đâu đến đời lính tráng mà lắm anh cứ nghĩ “ thôi thì gan ruột có gì nói quách hết ra một lần cho nhẹ bụng, sau chẳng còn ăn năn, thắc mắc gì nữa cho rảnh “. Có ông nho nhoe kê cần lao, cần liếc gì đó từ đời tám tỏng cũng vơ vào “ thưa cán bộ tôi vốn thế nọ, thế kia “ để đến nỗi phải lận đận xách ba lô đi dài suốt từ Nam ra Bắc hàng bảy, tám năm dài mới vỡ lẽ ra sao mình dớ dẩn nhỉ.


    Thời buổi ấy, lắm bà giận dỗi cũng chỉ vì các ông ngây thơ mở ruột ra cho người ta ngắm, nên bỏ luôn anh chồng khờ cho nhớ mãi cái ngu. Tôi đâm tẽn tò với thằng tửng. Có lẽ thấy tôi vẻ tội nghiệp nên nó lại trấn an tôi : chẳng sao đâu bố, miễn là bố cứ nhớ chắc số quân, đơn vị đã phục vụ và tên tuổi lần lượt các cấp trên của bố, chắc họ cũng sẽ truy nguyên ra thôi.


    Có đời thuở nào một thằng nít ranh lại chỉ bày cho đấng sinh thành ra nó vanh vách như lão thầy bói dựa đoán theo ý của thân chủ để moi bạc hay chăng. Tôi càng đắn đo hơn khi được ông thương binh hưu cạnh nhà cho biết thêm sự việc. Ông chặn tôi vào buổi chiều khi đi ngang chỗ phục vụ của tôi. Ông khoe vừa đi họp chi bộ về và được phổ biến tin sắp tới sẽ có chiến dịch những người chế độ cũ ra đi trong vòng trật tự. Ông hỏi tôi có ý định ra sao. Thật quả những sự việc tế nhị này khiến tôi phải thập thò, tôi không dám tin vào bất cứ một ai để tỏ bày tâm sự. Tôi chọn giải pháp lửng lơ con cá vàng, vô thưởng vô phạt, cốt đưa đẩy cho qua.


    Ông ta thông cảm nên không ép buộc sâu mà lại cũng vẩn vơ dặn dò : tôi nghĩ ông nên suy nghĩ cho kỹ, đừng quá đắn đo có khi bị lỡ dịp. Và ông quáng quàng nói thêm như một lời cuối khi chân đã chập choạng muốn bước đi : theo tôi, nếu có thể ông nên chọn sự ra đi, tốt hơn. Tôi ngẩn ngơ, phân vân trong lòng. Tiếng nhắn nhủ của ông sao giống hệt như những điều tôi láng máng nghe được từ những người thân của bè bạn : các anh đừng mơ tưởng hão sẽ được trọng dụng lại hoặc được xem đồng đẳng như nhau. Bởi vì trong cái xã hội này, chẳng ai tin tưởng các anh hết.


    Anh bạn sửa xe cũng đốc thúc tôi nên dứt khoát. Lời chí tình của anh làm tôi thấy nao nao : ông thầy sắp có vận hội lớn rồi. Em ước gì được có điều kiện như ông thầy thì hay biết mấy. Tôi chợt nghĩ đến người yêu bé nhỏ của anh, tôi chắc vì anh muốn cất công đi tìm cô hơn là vì một ý nghĩa nào khác. Lối nghĩ cạn hẹp và hàm hồ này khiến tôi ân hận mãi đến sau này.


    Thằng tửng tỉ tê với mẹ nó vì biết rằng sống trong giai đoạn này chẳng còn ai có thể thuyết phục được tôi hơn. Cho nên buổi tối nằm bên nhau, vợ tôi đã mở đầu chuyện mãi từ xa xôi dần dần kéo tôi về việc gần trước măt : mính ạ, em nghĩ mình nên ngỏ lời với anh chị giúp mình một cơ hội lúc này.


    Tôi hơi sẵng muốn cự nự. Tính tôi không thích làm khăn khó cho chị tôi. Những người sống ở xa nào phải dễ đâu để mình dựa vào moi móc mãi. Đời tôi không muốn là kẻ chuyên ỷ lại bám vào bất cứ người nào. Thế nhưng nước mắt vợ con đôi khi vẫn làm bào hao, lay chuyển sự cứng cỏi, bướng bỉnh của tôi.


    Một mặt, đứa con gái lớn năng nổ chạy chợ gấp bội lên, tích từng đồng kiếm ra, âm thầm cụ bị cho việc chi tiêu sắp tới. Một mặt thì tôi cũng đành bấu víu thì thọt xin anh chị tôi một lần cho xong. Tôi nghĩ làm để vợ con đừng trách cứ hơn là tin sẽ nhận được sự hồi đáp từ thân nhân.


    Nào dè sự thành công vượt ngoài mọi dự đoán. Anh chị tôi gửi ngay về cho một món tiền khá lớn, trị giá lúc ấy tôi nghĩ không bao giờ nắm được trong tay. Tôi xông xáo đến cơ quan quản lý xuất nhập cảnh tại địa phương để thăm nom việc xin làm thủ tục. Tôi luôn được mời ra xem thông báo ghi ở tấm bảng phía ngoài. Tôi chẳng tìm được điều gì hơn một câu viết bằng phấn trên bảng đen “ nơi đây được phép nhận sự giúp đỡ của những người muốn xin ra đi hợp pháp “.


    Tôi lờ mờ hiểu ý nghĩa bên trong của những lời này, cũng mong mọi sự trôi chảy cho xong, nhưng không nắm được đầu mối từ đâu để xin chạy lo cho được việc. Tôi mất nghiến cả tháng trời loăng quăng với những thủ tục kỳ quặc khó hiểu. Cho đến một hôm bất chợt có người giới thiệu với tôi về “ cơ quan dịch vụ xuất nhập cảnh bộ Công An “ ở Hà Nội.


    Tôi gom góp những giấy tờ gì còn sót lại, đưa thị thực và gửi thẳng đi kèm với lá thư ngỏ ý xem trường hợp của gia đình tôi có hội đủ điều kiện được chấp thuận ra đi hay chăng. Chỉ một tuần sau, tôi nhận được hồi âm rõ rệt nếu đúng như những gì tôi đã nộp thì tôi nằm vào danh sách những người được cứu xét ra đi. Đồng thời trong thư cũng cho tôi biết giá thành của dịch vụ trọn gói.


    Gia đình tôi vô cùng mừng rỡ. Vợ con tôi lo chuyển đổi phần nào món tiền anh chị giúp để nhanh chóng lo việc ra đi. Kinh nghiệm đã qua cho tôi thấy không nên vội mừng hay vội tính thu vén nhà cửa vì chưa có gì gọi là chắc chắn hết. Ai làm cứ làm, ai tính việc nhà cứ lo, cơ hồ như chẳng có gì thay đổi, vẫn thản nhiên như cuộc sống mọi ngày. Mọi người đều âm thầm giữ kín việc sắp đặt riêng tư để bên ngoài không ai đoán hay nghĩ ra chũng tôi đang tính toán gì trong bụng.


    Thấm thoắt, thời gian hẹn nhận hộ chiếu đã đến. Tôi lóc cóc vào Saigon để nhận đem giấy tờ về. Xong giai đoạn đầu, tôi bước sang việc kế tiếp, sao lục lại các giấy hộ tịch, tờ khai gia đình và chụp ảnh người ra đi. Những công việc này phải tới lui phường khóm xin xác nhận hay ký thị thực. Do đó mới loáng thoáng có lời bàn tán về việc xin ra đi của bọn tôi, nhưng ai cũng khẳng định là chúng tôi làm cho vui thôi, chứ không sao đi được.


    Thật quả, lắm khi tôi cũng thấy hoang mang. Nội sự việc nhà nước để những người lần lượt ra đi xem ra chẳng có một lý do thuyết phục nào hết. Tôi còn luôn mang máng trong đầu “ đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào “ và lời kiêu hãnh của các tay lãnh tụ “ nước ta vô cùng anh hung vì đã đánh tan những tay đế quốc sừng sỏ nhất thế giới Pháp, Nhật, Mỹ “, lẽ nào bây giờ lại bằng lòng để những người chống đối mình trở lại nơi kẻ thù vạn đại của mình ngày trước. Như thế chả hóa ra việc “ đốt cháy cả dãy Trường Sơn để thắng Mỹ “ là chuyện tào lao chăng ? Nhưng chính trị vốn dĩ là như thế, chả có gì là đúng là sai, là miên viễn. Đó chỉ là những giai đoạn cần thiết để thúc đẩy con người vào chém giết lẫn nhau thôi, khi tỉnh ra mới thấy thật hoàn toàn vô nghĩa.
    Last edited by JennyVuong; 09-03-2011 at 03:18 AM.

Trang 2 / 3 ĐầuĐầu 123 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Nữ Chúa Cụt Đầu Trên Sàn Rạp Hát Hòa Khánh
    By giavui in forum Audio Ma Kinh Dị
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-15-2016, 06:53 PM
  2. Những tác dụng tuyệt vời của măng cụt.
    By sophienguyen in forum Món Ăn Sưu Tầm
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-30-2012, 03:40 AM
  3. Cụt hết chân tay sau khi... độn mông
    By giavui in forum Chuyện Lạ Đó Đây
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 05-15-2012, 11:52 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •