Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tuổi trẻ là tuổi không ngại ngùng gì cả và không ghi ngờ gì cả.
Susanna March
Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12
Results 11 to 12 of 12

Chủ Đề: Sắc Lá Momiji

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Sắc Lá Momiji

    Sắc Lá Momiji

    Tác giả :Teru Miyamoto

    Người dịch: Song Lan Anh




    "Sự đồng hiện giữa nỗi buồn và niềm hân hoan cùng với nỗ lực vượt lên định mệnh đen tối chính là chủ đề của cuốn tiểu thuyết được dệt nên bởi bầu trời màu xám và những cây băng".- Thời báo Los Angeles

    "Trong tác phòng hẩm này, những trăn trở về kiếp người luôn hiện hữu đã đẩy các nhân vật tự khép mình trong vòng xoáy mâu thuẫn, rằng liệu con người có thể tự định đoạt số mệnh của mình hay không...

    Câu chuyện tình với nhưng đam mê nổi loạn và kết thúc đột ngột, đớn đau được Miyamoto khắc họa tinh tế đã mang đến cho người đọc một cảm nhận sâu sắc về sự đấu tranh với số phận trong sự giao thoa giữa truyền thống và hiện đại." - Thời báo Washington.

    LỜI BÀN VỀ TÁC PHẨM

    Sắc Lá Momiji là một cuốn tiểu thuyết được tạo nên bởi các bức thư, một dạng tiểu thuyết rất hiếm gặp trên văn đàn Nhật Bản trong thời gian gần đây. Xoay quanh sự trao đổi thư từ giữa một người đàn ông và một người phụ nữ, tôi cho rằng, chính kiểu kết cấu này đã khiến cho nội dung của cuốn tiểu thuyết được diễn tả cực kỳ chân thực.

    Có lẽ, bản thân hình thức theo thể loại viết thư đã đóng một vai trò nhất định cho xuất phát điểm của tiểu thuyết hiện đại, nhưng có thể nói rằng, cùng với việc tiểu thuyết hiện thực xuất hiện, hình ảnh của nó đã dần bị lu mờ đi. Đó là bởi, hình thức thể văn dưới dạng một nhân vật viết thư cho một nhân vật cụ thể khác có quá nhiều chế hạn, có quá nhiều những yếu tố gây trở ngại cho tác giả trong việc tự do triển khai, mở rộng thế giới trong tác phẩm của mình. Với ý nghĩa đó, thể loại tiểu thuyết dưới dạng thư từ giờ đây đã trở thành một thể loại mang phong cách có phần xưa cũ.

    Mặt khác, nếu nhìn vào cuộc sống của người dân thành phố bây giờ, có thể thấy sức nặng của thư từ đã giảm đi rất nhiều. Để chuyển tải suy nghĩ hoặc truyền đạt một nội dung công việc, đã có những công cụ khác hỗ trợ rất hiệu quả, chẳng hạn như điện thoại là một ví dụ minh chứng rõ ràng cho điều này.

    Từ những điều trên, có thể thấy, dù là đối với nghệ thuật tiểu thuyết, hay đối với cảm nhận của chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, thư từ viết tay cũng ngày càng xa rời cuộc sống con người.

    Thế nhưng, bất chấp tất cả, trên thực tế, vẫn có những lá thư mà người ta phải viết bằng tay. Và ta có thể khẳng định rằng, đó chính là những lá thư thể hiện đúng nhất cái bản chất vốn dĩ của thư viết tay thứ mà sẽ không có bất kỳ một phương tiện nào khác có thể thay thế được. Những dòng thư được chính bàn tay một người phụ nữ viết cho một người đàn ông chất chứa những tiếc nhớ, nỗi muộn phiền và bao nhớ thương đã cho chúng ta thấy được tác dụng của những lá thư viết tay. Nói một cách khác, khi bóng dáng của những lá thư trong cuộc sống đời thường ngày càng lu mờ dần, thì ngược lại, những lá thư vẫn còn ở lại lại chứa đựng đậm đà chất văn chương.

    Chính bởi những yếu tố này, tác giả Miyamoto Tero đã lựa chọn phong cách văn chương theo thể viết thư có phần hơi xưa cũ này, để rồi mở ra một thế giới kỳ ảo trong tâm tưởng. Hơn thế, Miyamoto Teru còn được mọi người công nhận là một nhà văn có lối viết rõ ràng, rành mạch. Có thể khẳng định rằng, đối với người kể chuyện, thư tay chính là một khoảng không gian vô cùng đáng quý, nơi mà ở đó, người ta có thể thỏa sức giãi bày những tâm sự của bản thân. Bởi vậy, không còn cần đến những câu miêu tả hay lời giải thích mà ta vẫn thường thấy trong các cuốn tiểu thuyết được viết bằng lời kể chuyện của người thứ ba. Chỉ với những lời lẽ của người viết thư mà toàn bộ diễn biến câu chuyện đã được tái hiện một cách hoàn hảo.

    Chẳng hạn, chúng ta cùng xem một đoạn thư trong tác phẩm này.

    "Anh!

    Việc gặp lại anh trên chuyến cáp treo từ khu vườn thược dược đi đến đầm Ddokko ở Zao ấy là điều em không thể tin được."

    Chỉ với vài dòng thư như thế này thôi đã hàm chứa bao nhiêu nội dung rồi. Trước tiên, chúng ta hiểu được có lẽ người phụ nữ và người đàn ông này mới vừa gặp lại nhau sau một quãng thời gian dài, hơn thế, đó còn là sự gặp gỡ tình cờ, và đối với người con gái, nó tình cờ như thể bất ngờ có tiếng sét của trời cao giáng xuống. Còn nữa, ta cũng hiểu được rằng đây là lá thư người phụ nữ viết cho người đàn ông mà cô đã gặp lại trong lần hội ngộ ấy. Đặc biệt, thông qua cách xưng hô "anh" được viết ở trong thư ấy, người đọc có được linh cảm rằng, sự gặp gỡ này không phải là một sự việc vô tình chỉ thoáng lướt qua trong cuộc sống của người phụ nữ, mà nó mang lại cho cô ấy một cú sốc, làm cho dòng chảy đời sống của cô ngưng lại đôi chút, cuốn theo cả cuộc sống của người đàn ông kia vào trong đó, để rồi tạo nên một câu chuyện giữa hai con người ấy.

    Nếu chú ý tới các từ nằm trong dòng thư ấy, ta cũng không thể bỏ qua: "vườn thược dược", "đầm Ddokko", "chuyến cáp treo". Những từ ấy mang một giai điệu trầm buồn, khiến cho người đọc cảm nhận được sự gặp lại tình cờ giữa hai con người này mênh mang vẻ u sầu.

    Gặp lại, có nghĩa là đương nhiên, trong quá khứ, hai con người này đã có gì đó với nhau. Vậy, mối quan hệ đó là gì? Tại sao hai người đó lại phải xa nhau? Điều đó sẽ dần được làm sáng tỏ qua những dòng thư đi thư lại của người phụ nữ và người đàn ông ấy, như những thước phim hiển hiện muôn dòng ký ức trong quá khứ.

    Có nghĩa là, ở đây, quá khứ không phải là quãng thời gian đã đi qua và hết hẳn. Nó là quãng thời gian vẫn tồn tại lặng lẽ và chất chứa muôn điều mà cả hai con người ấy đều chưa hề biết tới. Và chắc chắn, việc đặt chân lên vùng thời gian đó chính là việc con người ta được sống lại với quá khứ để vững bước trong cuộc sống hiện tại.

    Thông qua lá thư đầu tiên do Katsunuma Aki gửi cho người đàn ông có tên Arima Yasuaki sau hôm hai người tình cờ gặp lại, người đọc biết được rằng, hai người ấy trước đây đã từng là vợ chồng, rồi cuộc chia ly vội vã giữa hai người đã diễn ra là bởi một vụ tự sát tình ái không thành giữa Yasuaki với một người phụ nữ khác, và những diễn biến của sự việc ấy vẫn luôn là một dấu hỏi với Aki.

    Tuy lưỡng lự, nhưng cuối cùng Yasuaki cũng đã kể mọi điều về mối quan hệ của mình với Seo Yukako, người phụ nữ đã tự kết liễu đời mình và định giết luôn cả Yasuaki nhưng không thành.

    Cứ thế, cứ thế, những lá thư được gửi đi giữa hai người gồm có mười bốn lá, kéo dài từ giữa tháng Một đến giữa tháng Mười một.

    Nhưng, quãng thời gian gần một năm trời ấy, hai con người này không chỉ sống với những dòng sự kiện và ký ức trong quá khứ. Hai người không phải chỉ mang cho nhau xem những mảnh ký ức của quãng thời gian trước khi họ cưới nhau, khi đã cưới và sau khi ly hôn. Trong khi nỗ lực lấp đầy chỗ trống, đi tìm lời giải cho những ẩn số của quá khứ, thì từ lúc nào không hay họ đã thoát khỏi quá khứ, và đặt chân vào hiện tại. Ồ không, họ đã cho thấy quyết tâm bước từ hiện tại tiến tới tương lai cho bản thân mình. Và, chúng ta nhận thấy, câu chuyện được ghi lại trong cuốn tiểu thuyết Sắc lá Momiji không phải nằm ở mối hận sầu trong tình yêu của người đàn ông và người phụ nữ này, mà thể hiện ở sự chuyển mình, sự biến đổi trong những dòng thư: Từ việc hai con người ấy chạy đuổi theo quá khứ, giờ đây, họ đã thực sự bước vào cuộc đời trong hiện tại của chính mình.

    Tại sao hai con người đã ly hôn nhau ấy đang chạy đuổi theo quá khứ, lại có thể thành công trong việc vượt lên quãng đời quá khứ ấy? Đó không đơn thuần là bởi họ đã lấp đầy được những khoảng khuyết thiếu trong quá khứ. Đúng vậy. Phải chăng đó là bởi, con mắt của họ giờ đây bỗng có được một nhận thức để giúp họ khơi dậy khả năng ấy.

    Trước tiên, đó là những cảm nhận chân thật của Aki về âm nhạc Mozart. Nghe nhạc Mozart, cô đã thấy rằng, "sự sống và cái chết có lẽ là như nhau".

    Còn Yasuaki đã bị trọng thương ở cổ và ngực, bởi mũi dao của Seo Yukako, người đã tạo nên vụ tự sát tình ái, nhưng chỉ có mình cô bị chết. Yasuaki đã có những suy nghĩ sâu sắc hơn một chút về điều đó và đã viết như thế này: "Trong lúc đang lâng lâng như thế, tôi có cảm giác mình đã bắt đầu lờ mờ biết được thế nào là hình thù của cái vật nào đó cứ bám riết lấy và không có ý định đi xa khỏi một bản thân khác của tôi, cái bản thân đang dõi theo chính mình khi đang ở trong trạng thái chết ấy. Có phải tất cả những hành động tôi đã gây ra, và không chỉ có thế, ngay cả những điều chưa hiển hiện thành hành động, và những tình thế của lòng hận thù, của nỗi tức giận, của tình thương yêu, của sự ngốc nghếch mà tôi vẫn hằng ôm ấp trong lòng mình đã được khắc tạc vào sinh mệnh một cách rõ nét, biến thành những tì vết không bao giờ xóa đi được, rồi phang vào tôi khi tôi đang lưu lạc sang cõi chết. Và, tôi có cảm giác, bằng việc hồi tưởng lại những hình ảnh về Yukako, tại đâu đó, cái suy nghĩ ấy sẽ dần đi đến kết nối với từ nghiệp, cái từ mà đã đi qua tâm trí tôi trong một tích tắc nào đó."

    Mọi thứ sẽ không kết thúc bởi cái chết, mà thực ra, từ đó, hình ảnh của sự sống mới bắt đầu biểu hiện một cách rõ ràng. Từ mà Yasuaki nói đến, "sinh mệnh", có lẽ không phải là sinh mệnh mang ý nghĩa sinh lý. Nó là một vật thể thuộc về thế giới siêu nhiên, một thế giới mà cả thế giới của sự sống và thế giới của cái chết của anh ta đã hòa nhập vào nhau. Và, sự sống là việc con người ta khắc tạc vào sinh mệnh vô số vết thương, còn cái chết chính là việc người ta tiếp tục khám phá những vết thương ấy.

    Từ việc kết lại những chuyện quá khứ, rồi xin lỗi vì sự phản bội của mình, cho đến việc xưng tội, sự chuyển điệu trong những lá thư của Yasuaki ấy bắt đầu từ lá thư viết ngày 8 tháng 8, lá thư mà anh đã bày tỏ sự nhận thức của mình về sinh mệnh. "Có thể nói rằng, những sự việc xảy ra trong vài ngày ngắn ngủi vừa qua kể từ khi nhận được thư em cho tới ngày hôm nay đã được tôi ghi chép lại khá chính xác." Ở lá thư này, Yasuaki đã bất ngờ chèn thêm cái hiện tại có thể nói là đớn hèn của mình, gạt sang một bên những ký ức về Yukako. Và, một người phụ nữ khác, Reiko, bắt đầu xuất hiện.

    Một cô gái đầy sinh khí, đúng như bản chất của sinh mệnh, cô gái có tên Reiko đã đến bên Yasuaki. Cô cũng cùng độ tuổi với Yukako vào thời điểm Yukako bị chết đi, hai mươi bảy tuổi. Yukako xinh đẹp đã vẫy gọi anh đưa bước chân đến với cái chết còn Reiko, cô gái đã xây dựng kế hoạch làm một tạp chí PR cho các tiệm thẩm mỹ bằng số tiền mình tiết kiệm được trong suốt thời gian đi làm ở siêu thị, đã kéo giật anh lên trên ngọn đồi của sự sống. Nhờ có sự xuất hiện của Reiko trong những lá thư của Yasuaki, mà ánh sáng đã lấp lánh chiếu rọi cả sang những trang thư của Aki.

    Điệu nhạc ban đầu u sầu ca lên bài ca hội ngộ giờ đã vang lên những âm thanh có phần ấm áp, tươi vui. Những sắc thái ấy bắt đầu hiển hiện từ thời điểm này.

    Aki có cậu con trai bị chậm phát triển về trí tuệ tên Kiotaka. Đây là kết quả của cuộc hôn nhân giữa cô và Katsunuma Soichiro, người mà cô đã kết hôn sau khi chia tay với Yasuaki. Có thể nói rằng, nếu như đối với Yasuaki, Reiko là cây đũa thần cho sinh mệnh của mình, thì bé Kiotaka là ngọn lửa sinh mệnh của Aki. Không phải với tình thương dành cho đứa con trai khuyết tật, mà với ý chí và nỗ lực của người mẹ, quyết tâm từng bước, từng bước luyện tập cho con mình có được những khả năng giống như của một người bình thường, Kiotaka đã trở thành ngọn lửa cho sinh mệnh của Aki.

    Và thế là, kể từ sau lần gặp lại nhau "trên chuyến cáp treo từ khu vườn thược dược đi đến đầm Ddokko", người đàn ông và người phụ nữ ấy, trong quãng thời gian chưa đầy một năm, đã tìm ra con đường đi cho riêng bản thân mỗi người, và bắt đầu bước đi trên quãng đời mới.

    Sắc lá Momiji không thể gọi là một cuốn tiểu thuyết có đoạn kết có hậu (happy ending). Thế nhưng, nó cũng không phải một câu chuyện buồn cho một chuyện tình yêu đã kết thúc. Đó là câu chuyện cổ tích về sinh mệnh của một người đàn ông và một người phụ nữ đang vươn mình trong cơn gió thổi đến tương lai.

    Tháng một năm 1985
    Nhà văn Kuroi Senji



    "Anh! Việc gặp lại anh trên chuyến cáp treo từ khu vườn thược dược đi đến đầm Ddokko ở Zao ấy là điều em không thể tin được". Hai con người đó rất mực yêu thương nhau, nhưng lại phải đặt bút ký vào lá đơn ly hôn bởi một lý do không thể cưỡng lại được của số mệnh. Mười năm cách biệt. Họ gặp lại nhau tại Zao, nơi ngút ngàn màu đỏ của lá momiji. Và rồi, cô gái ấy đã viết cho người con trai một lá thư. Cuốn tiểu thuyết các bạn sẽ đọc là một câu chuyện lãng mạn của tình yêu và sự hồi sinh. Những dòng thư đi lại đã giúp hai con người ấy chôn vùi đi cái quá khứ cô đơn, buồn đau của mình.



    Anh!

    Việc gặp lại anh trên chuyến cáo treo từ khu vườn thược dược đi đến đầm Ddokko ở Zao ấy là điều em không thể tin được. Vì quá đỗi ngạc nhiên, suốt hai mươi phút đồng hồ, cho đến khi lên tới cửa xuống đầm Ddokko, em đã không thể thốt nổi nên lời anh ạ.

    Giờ đây, ngồi viết thư cho anh và nghĩ lại, cũng phải đến mười hai, mười ba năm rồi ấy nhỉ. Em đã nghĩ là sẽ chẳng bao giờ còn gặp lại anh nữa. Vậy mà, trong một hoàn cnarh không hề được sắp đặt trước, hai ta đã gặp lại nhau. Gặp lại anh với khuôn mặt và ánh mắt đã có nhiều đổi thay theo năm tháng, em đã bối rối, đã nghĩ ngợi biết bao điều. Thế rồi, bằng mọi cách em tìm ra được địa chỉ của anh, để có thể gửi cho anh lá thư này. Chắc anh sẽ lại bật cười vì cái tính bướng bỉnh, nóng vội ở em chẳng thay đổi gì đúng không?

    Ngày hôm đó, bất ngờ em quyết định từ nhà ga Ueno đi lên tàu Tsubasa số 3, bởi em muốn cho con mình được ngắm nhìn những vì sao từ trên đỉnh núi Zao (Con trai em tên là Kiokata, giờ đã lên tám tuổi rồi anh ạ). Chắc khi ngồi trên chuyến cáp treo đó, anh cũng đã để ý thấy thằng bé rồi nhỉ. Cháu nó bị khuyết tật bẩm sinh, bị liệt toàn bộ nửa người phía dưới. Thêm nữa, tuy tám tuổi đấy nhưng trí não của thằng bé chỉ phát triển như một cậu bé lên hai, lên ba mà thôi. Nhưng không biết vì sao mà cháu nó lại thích ngắm những vì sao đến thế, thích đến mức mà vào những tối đẹp trời, hai mẹ con lại ra khu vườn nhà mình ở Koroen, cháu cứ mải mê ngắm nhìn bầu trời đêm hàng giờ đồng hồ không biết chán. Có một lần, hai mẹ con ngủ lại hai đêm ở căn hộ của ông ngoại ở Aoyama. Vào tối trước hôm lên đường về Koroen (thành phố Nishinomya), vô tình em thấy trong một cuốn tạp chí có bức ảnh bầu trời đêm chụp trên đỉnh núi Zao. Em đã ngạc nhiên vô cùng với hình ảnh những vì sao đầy ắp cả bầu trời. Em nghĩ rằng chác mình sẽ không thể nào có cơ hội cho con trai, bé Kiokata, được ngắm nhìn những vì sao ấy đâu. Từ khi sinh ra, hầu như em chưa cho thằng bé đi chơi xa bao giờ anh ạ.

    Bố em năm nay đã bảy mươi tuổi rồi, nhưng hằng ngày cụ vẫn đều đặn đi đến công ty. Hơn nữa, để thuận tiện cho việc chỉ đạo công việc ở chi nhánh Tokyo, mỗi tháng khoảng hai tuần, cụ vẫn sống ở Tokyo, tại khu tập thể Aoyama mà anh cũng biết. Có điều, tuy tóc bố em đã bạc đi rất nhiều so với mười năm trước đây, lưng cụ đã còng hơn, nhưng cụ vẫn rất khỏe, vẫn phân đều nửa tháng sống ở Koroen, nửa tháng sống ở Aoyama. Thế nhưng, vào khoảng hồi đầu tháng Mười vừa rồi, khi xe của công ty đến đón, bố em đã bước hụt ở bậc cầu thang bằn gđá trước cửa khu tập thể nên bị trật mắt cá chân. Xương chân cụ hơi bị rạn, máu tụ nhiều khiến cụ không thể đi lại được. Nghe được tin, em vội vã lên tàu Shinkansen 1 để đến chỗ cụ, dẫn theo cả Kiotaka. Bởi khi thấy mình không thể đi được, cụ chẳng thèm chú ý đến sự chăm sóc tận tụy của chị giúp việc Ikuko, mà gọi điện thoại kêu em đến ngay. Em nghĩ chắc phải mất một thời gian khá lâu cụ mới có thể khỏi được, nên vội vã dắt Kiotaka đi theo. Rất may là chân cụ chỉ bị bong gân, không có gì đáng ngại lắm. Cho nên, khi nhìn thấy hai mẹ con em là cụ nguôi hẳn cơn bực bội. Rồi có lẽ cụ lại thấy lo lắng cho ngôi nhà ở Koroen không có ai trông nom nên lại khăng khăng bắt hai mẹ con phải về ngay. Vừa buồn cười, vừa mệt mỏi với cái tính gàn dở của cụ, em đành cậy nhờ chị Ikuko và anh thư ký Okabe, rồi hai mẹ con lại lóc cóc ra ga Tokyo để lên tàu trở về Koroen. Tại ga, em lại bắt gặp tờ quảng cáo về tour du lịch Zao. Đó là một bức ảnh lớn, dường như được chụp vào mùa lá momiji 2 thì phải. Bao trùm toàn bộ bức ảnh là muôn màu của những cây cổ thụ với những cành cây to, mập mạp. Em mới chỉ biết về Zao với những màn sương muối mỏng nhẹ bao trùm trong mùa đông. Nhưng giờ đây, khi đứng ở phòng chờ của nhà ga Tokyo, em lại hình dung thấy những cành cây cổ thụ ấy chẳng bao lâu nữa sẽ hóa thành vô số những cành băng, đung đưa trong gió dưới bầu trời ngút ngàn sao. Chẳng hiểu sao em cứ nóng lòng muốn cho đứa con trai khuyết tật của mình được thấy khung cảnh núi non dịu mát cùng những vì sao ở nơi ấy đến vậy. Khi nói ra điều đó với Kiotaka, thằng bé có vẻ rất vui. Ánh mắt bé sáng lên và nằn nì mẹ cho đi đến đó. Vì vậy, mặc dù biết rằng với hai mẹ con, đây có thể sẽ là chuyến đi mạo hiểm, nhưng em vẫn quyết định đi ngay đến đại lý du lịch nằm ngay trong nhà ga để mua vé đến tỉnh Yamagata, đặt phòng ở suối nước nóng Zao và đặt luôn cả vé máy bay đi về từ Sendai đến sân bay Osaka. Thế nhưng máy bay đã kín chỗ, cho nên để có được vé máy bay, em phải có một chút thay đổi trong lịch trình. Đó là hai mẹ con sẽ phải ngủ lại một đêm nữa ở Zao hoặc Sendai. Em quyết định sẽ nghỉ hai đêm ở Zao, rồi hai mẹ con sẽ lên ga Ueno. Ví thử như khi ấy, hai mẹ con em chỉ nghỉ lại Zao một đêm thôi, thì hai ta đâu có gặp được nhau phải không? Giờ đây nghĩ lại, em thấy đây quả là sự sắp đặt tình cờ đến kỳ lạ anh ạ.

    Bầu trời Yamagata hôm ấy thật u ám. Ngồi trên xe taxi đi từ ga Yamagata đến suối nước nóng Zao, em nhìn trời với tâm trạng vô cùng thất vọng. Và bất giác, em chợt nhớ ra rằng đây là lần thứ hai em đến vùng Tohoku này. Em nhớ tới chuyến du lịch tuần trăng mật của chúng ta, khi em và anh từ hồ Tazawa ở tỉnh Akita đi về phía Towada. Anh ạ, đêm đó, hai mẹ con em đã trọ lại một đêm ở một ngôi nhà nghỉ tắm nước nóng, nơi có những dòng nước nóng đầy tràn chảy quanh các dãy phố như những con mương và nồng nặc mùi lưu huỳnh. Đó là một đêm mà những đám mây che phủ bầu trời khiến người ta chẳng thể nhìn thấy trăng hay chút ánh sáng nào đó của những vì sao. Thế nhưng không khí của núi non thì thật là dễ chịu. Em thấy lòng mình thư thái trong chuyến du lịch đầu tiên của hai mẹ con. Sáng hôm sau, trời trở nên trong xanh. Kiotaka tay cầm nạng và có vẻ nóng lòng muốn đến bến ngay. Do vậy, hai mẹ con mau chóng ăn bữa sáng rồi ngay lập tức ra bến để lên cáp treo đi đến vườn thược dược. Em đã chợt nhìn thấy anh cùng đi với mình trên một chiếc cáp treo trong vô vàn những chiếc cáp treo nơi vùng đất xa xôi Yamagata, trên sườn núi Zao. Đó là sự tình cờ hay là sự sắp đặt của trái tim hả anh?

    Rất nhiều người phải đợi đến lượt mình lên cáp treo, nhưng hai mẹ con em chỉ phải chờ khoảng hai, ba phút là đến lượt luôn. Người phụ trách mở cửa chiếc cáp treo, bế bé Kiotaka đang ôm nạng vào trong, rồi sau đó đến lượt em. Khi đó, em nghe thấy người phụ trách nói rằng vẫn còn chỗ cho thêm một người nữa. Và một người đàn ông mặc chiếc áo khoác màu nâu nhạt vào ngồi ở ghế đối diện với hai mẹ con trong khoang cáp treo chật hẹp ấy. Cửa đóng lại. Khi chiếc cáp treo rung rinh để bắt đầu chuyển động, em nhận ra người đàn ông đó chính là anh. Không thể diễn tả được sự kinh ngạc của khi đó. Lúc ấy, anh vẫn chưa để ý thấy em đâu. Anh đang lấy tay kéo cổ áo che cằm cho khỏi lạnh và say sưa ngắm nhìn cảnh vật bên ngoài. Trong lúc anh cứ lơ đãng thả hồn ra khung cảnh bên ngoài cửa sổ như thế, em đã ngắm nhìn anh không chút chớp mắt. Em ngồi trên chiếc cáp treo này là để được ngắm nhìn lá momiji, ấy vậy mà giờ đây em chẳng hề để mắt đến rừng cây ấy, cứ mải miết ngắm nhìn người đàn ông đang ngồi ngay trước mặt mình.

    Trong thoáng giây em cứ tự hỏi rồi lại tự trả lời, rằng người đàn ông này có phải là Arima Yasuaki, người trước đây đã từng là chồng của mình đấy không. Rồi em lại nghĩ, nếu đó chính là anh, Arima Yasuaki, thì tại sao anh lại lên cáp treo ở Zao, nơi vùng Yamagata này. Em nghĩ như thế không chỉ bởi em ngạc nhiên vì sự tình cờ này, mà còn vì hình ảnh của anh sau mười năm không gặp trông khác đi quá nhiều so với hình ảnh của anh trong những kỷ niệm vẫn còn mãnh liệt nơi trái tim em. Mười năm rồi. Hồi đó em hai lăm, giờ thì cũng đã ba lăm rồi. Còn anh, đương nhiên đã ba bảy tuổi còn gì. Khuôn mặt hai chúng ta giờ đã đổi thay khá nhiều theo năm tháng, đã dần hiện lên nhưng nếp nhăn của tuổi tác. Dẫu vậy, em vẫn cảm nhận rõ ràng một điều rằng sự thay đổi đó ở anh không phải là điều bình thường, cuộc sống của anh chẳng hề bình yên. Anh đừng buồn em vì em nói ra những điều này nhé. Em cũng không rõ rằng lúc này đây, em viết là thư này cho anh để làm gì. Em chỉ cứ thế viết nên nỗi niềm của mình, viết riêng cho đọc mà sẽ chẳng bao giờ gửi cho anh đâu. Thế nhưng, dù tâm niệm là vậy, em vẫn cứ băn khoăn hay là cứ gửi nó cho anh nhỉ.

    Chẳng bao lâu sau, anh vô tình đưa mắt về nơi em, rồi lại cứ thế nhìn ra bên ngoài cửa sổ. Thế rồi bất chợt anh mở to mắt, kinh ngạc nhìn em. Thế rồi hai chúng ta đăm đăm nhìn nhau trong một quãng thời gian dài. Em tự bảo mình rằng phải nói gì đi chứ, nhưng đã chẳng thể nào thốt nổi nên lời. Cuối cùng thì em cũng tỉnh táo lại và bảo: "Chào anh. Lâu lắm rồi chúng ta không gặp nhau." Anh đáp lại: "Chào em. Quả lâu lắm rồi nhỉ." Rồi anh bất giác ngoảnh mặt sang Kiotaka và hỏi: "Con em đây à?". Em dồn hết sức để bật ra câu trả lời "vâng ạ" với giọng run run. Trên cao, phía hai bên cửa sổ, từng chùm lá momiji thoáng lướt qua ánh mắt trống rỗng nơi em. Đã bao nhiêu lần người ta nhìn Kiotaka và hỏi rằng: "Đây có phải là con chị không?" rồi nhỉ?! Trước đây, khi thằng bé nhỏ hơn, với bàn tay, bàn chân khuyết tật bẩm sinh và khuôn mặt thể hiện rõ sự chậm phát triển về trí tuệ, có người thì hỏi em như vậy với một thái độ thương hại, lại có những người khác cũng hỏi vậy nhưng không hề tỏ vẻ gì. Còn em, mỗi lần như vậy, lại cố gắng hết sức nhìn thẳng vào mắt họ và tự tin trả lời: "Vâng". Thế nhưng, trước câu hỏi đó của anh, em lại cảm thấy nỗi hổ thẹn bao trùm tâm can, vì thế em chỉ khẽ cất tiếng ngập ngừng trả lời anh mà thôi.

    Chiếc cáp treo chậm rãi đi lên cửa xuống đầm Ddoko. Phía xa xa là đỉnh núi sáng chói với ánh mặt trời buổi sớm. Nhìn xuống dưới chân núi, những mái nhà của khu phố suối nước nóng cũng dịu dàng ánh lên trong nắng. Em vẫn nhớ như in hình ảnh mái ngói đỏ rực của khách sạn nằm trên triền núi, tách biệt hẳn với khu phố suối nước nóng đã khiến em liên tưởng tới ngọn đuốc nơi địa ngục được vẽ trong bức tranh cuộn dài từ thời Kamakura. Vì sao em lại liên tưởng tới hình ảnh ấy kia chứ? Có lẽ chiếc cáp treo đang rung rinh, em đã bị rơi vào trạng thái tinh thần không bình thường bởi những dao động mạnh và nỗi căng thẳng trong cõi lòng. Bởi vậy, lẽ ra trong hai mươi phút đồng hồ ngồi trong khoang cáp treo ấy, em đã có thể nói với anh bao điều. Ấy vậy mà, em chỉ lặng im không nói thêm một lời nào, và tự hỏi không biết sắp tới nơi chưa nhỉ. Khoảnh khắc ấy thật giống hệt cái thời khắc chúng ta chia tay nhau mười năm trước đây. Khi ly hôn, còn biết bao điều chúng ta muốn nói với nhau, vậy mà ta đã không sao làm nổi. Mười năm trước, em đã bướng bỉnh, đã không yêu cầu ở anh một lời giải thích về sự việc đó. Còn anh cũng kiên cường chịu đựng, chẳng hề thanh minh, biện hộ gì cho mình. Cô gái hai mươi lăm tuổi là em ngày đó đã không thể rộng lòng tha thức ho anh. Còn anh cũng chẳng thể nào hạ mình thêm nữa. Những tán cây ngày một rậm rạp đã che khuất ánh mặt trời, khiến cho bên trong khoang cáp treo trở nên tối hơn. Anh vẫn cứ nhìn chằm chằm về phía trước nơi em ngồi rồi khẽ nói: "Đến nơi rồi đấy nhỉ." Đúng lúc ấy, em nhìn thấy vết sẹo phía bên phải cổ anh. Em chợt nghĩ: "Trời ơi, vết thương hồi đó của anh!" rồi vội vã quay mặt đi. Sau đó, chúng ta xuống bến, một khu bến u ám, nhem nhuốc. Đứng trên con đường khúc khuỷu để xuống đầm Ddokko, anh khẽ nói: "Thôi, tạm biệt" và chạy đi.

    Em viết cho anh những dòng thư này với những tình cảm chân thành nơi đáy lòng. Bóng anh dần xa khuất, em vẫn còn thẫn thờ đứng như vậy hồi lâu. Em lại có cảm giác rằng từ đây chúng mình sẽ vĩnh viễn xa rời nhau, và cố kìm nén tiếng nức nở cứ trực chào tra. Em không thể hiểu nổi lòng mình nữa, không hiểu vì sao mình lại có tâm trạng như vậy. Anh biết không, bất chợt, em muốn đuổi theo anh. Em muốn hỏi anh rằng giờ này anh sống ra sao, đã trải qua cuộc sống thế nào trong mười năm trôi qua kể từ khi chúng ta chia tay. Nếu như không có bé Kiotaka ở đây, có thể em đã làm vậy cũng nên.

    Em bắt đầu bước từng bước chậm rãi cùng bé Kiotaka trên con đường đi xuống đầm Ddokko. Những cánh hoa cúc vạn thọ héo tơi tả khẽ đung đưa theo làn gió hiu hiu. Một đoạn đường chỉ đi hết mười phút với một đứa bé đi lại bình thường thì bé Kiotaka phải đi hết ba mươi phút. Như thế là con em đã tiến bộ hơn rất nhiều so với trước rồi đấy anh ạ. Cháu mới chỉ bắt đầu thể hiện mong muốn được tự mình hoạt động, tự mình làm mọi thứ từ hai năm trở lại đây thôi. Gần đây, thầy giáo ở trường trẻ em khuyết tật còn động viên em rằng nếu cháu nó cố gắng và chăm chỉ luyện tập, thì đến một ngày nào đó, rất có thể cháu sẽ có thể sống và làm việc được gần như người bình thường. Hai mẹ con đi xuyên qua những tia nắng đang tỏa xuống rừng cây rậm rạp ven đầm, rồi đi thang máy để lên trên đỉnh núi. Em dõi tầm mắt ra phía xa để tìm bóng dáng anh nhưng chẳng thấy. Hai mẹ con lại cùng nhau đi từ trên đỉnh núi xuống rừng sồi. Đến chỗ có những phiến đá nhấp nhô nơi sườn núi, em cho bé Kiotaka ngồi xuống đó và hai mẹ con cùng ngắm nhìn cảnh vật một lúc lâu. Trời không một gợn mây. Tít phía xa xa, những chú diều hâu liệng bay trên bầu trời. Ở nơi có màn sương mờ màu tím nhạt bao phủ phía chân trời (có lẽ đó là khu vực gần vùng biển Nhật Bản), thấp thoáng bóng những ngọn núi nối tiếp nhau. Em nói cho Kiotaka biết rằng đó là dãy núi Asahi, và ngọn núi nhô hẳn lên ở phía bên phải có tên là núi Chokai. Vừa nói với con, em vừa dõi mắt không biết bao nhiêu lần xuống chiếc cáp treo hình vuông chở khách xuống bên sườn núi khác của ngọn Zao. Biết đâu anh lại có ở trên đó. Mỗi lần có tiếng bước chân người trên con đường nhỏ phía sau lưng, em lại hồi hộp quay đầu lại. Kiotaka cười khúc khích khi nhìn thấy lũ diều hâu, khi nhìn thấy chiếc cáp treo chỉ còn là một chấm nhỏ ở phía dưới, và khi nhìn thấy những ngọn khói bếp của nhà dân bay lên từ đâu đó. Em vừa vui vẻ hòa theo tiếng cười của con trai vừa cố lưu giữ vào trái tim mình hình ảnh của anh, hình ảnh em vừa mới gặp đây thôi, hình ảnh mà mười năm trời nay em mới được nhìn lại. Trí óc em cứ vẩn vơ nghĩ ngợi, rằng khuôn mặt anh sao khác trước đây đến thế, và rằng anh đến Zao này để làm gì.

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Anh Arima Yasuaki!

    Giờ này đã quá trưa rồi. Em ngồi ở chiếc bàn kế bên góc cửa sổ của quán Mozart và đọc lá thư dài anh gửi. Đọc xong, trở về nhà, Kiotaka tay cầm cuốn vở tập viết chữ Hiragana 1 mà bé đang được học ở trường, chạy đến bên em. Kiotaka nói với em rằng, con bắt đầu học từ hàng a đấy, bây giờ chúng con học xong hàng ha rồi. Hôm nay cô giáo dạy tiếp đến hàng ma , rồi cho luyện các từ ghép với chữ mi đấy mẹ ạ. Trong các ô vuông của cuốn vở tập viết, có rất nhiều chữ mizư (nước) được viết ở đó. Nét chữ run run, cong cong, trồi ra cả bên ngoài ô vuông, nhưng em vẫn biết đó là chữ gì. Ở trang tiếp theo là một loạt chữ michi (con đường). Em khen bé Kiotaka rằng, con mẹ giỏi quá, rồi lau vết mực xanh dính ở đuôi mắt con trai mình. Ngay lúc ấy, Kiotaka khoe với em rằng còn một chữ nữa cơ, rồi giở ngay cho em xem trang tiếp theo. Một hàng chữ mirai (tương lai) hiện ra. Em hỏi con rằng, tại sao con chưa học hàng ra mà cô giáo đã cho viết chữ mirai rồi. Kiotaka trả lời rằng bé không biết. Và em hỏi tiếp con, vậy làm thế nào mà con lại viết được chữ ra , thì được biết. Cô giáo không nói gì, mà cứ thế viết lên bảng chữ mirai , rồi cho học sinh đọc to ra mồm nhiều lần từ mirai, mirai, mirai . Sau đó, cô giáo nói với học sinh rằng, tuy các em chưa được học chữ ra , nhưng yêu cầu các em nhìn lên bảng, tập viết theo chữ trên bảng để các em có thể viết được chữ mirai . Kiotaka bảo, cô giáo dạy, mirai (tương lai) có nghĩa là những việc của ngày mai.

    Lúc này đây, vừa viết thư cho anh, em vừa nghĩ đến chữ mirai (tương lai) mà bé Kiotaka đã viết. Trong số rất nhiều bức thư mà chúng ta đã gửi cho nhau, hầu như chúng ta chỉ toàn nhắc lại những chuyện trong quá khứ phải không anh? So sánh những bức thư của em và anh, em thấy tần số viết về quá khứ của em nhiều hơn. Thế nhưng, anh lại bị lệ thuộc bởi quá khứ nhiều hơn em đấy. Từ sự việc của mười năm về trước, cho đến những chuyện bây giờ phát sinh từ sự việc ấy, anh đều bị lệ thuộc vào quá khứ như một nỗi ám ảnh vậy. Nhưng anh ơi, quá khứ là gì vậy? Trong thời gian qua, em đã nghĩ, chắc chắn là hiện tại của em được tạo nên bởi cái quá khứ của em. Đây hoàn toàn chẳng phải một phát hiện gì mới mẻ cả, nhưng em có cảm giác rằng điều đó dường như là một lẽ đương nhiên, mà em thì lại chưa từng suy ngẫm kỹ càng về nó bao giờ, nên em thấy như mình đã phát hiện ra một chây lý nào đó thật mới mẻ. Hiển nhiên quá khứ có vai trò mang hiện tại đến cho em phải không anh? Và nếu vậy, tương lai của em sẽ thế nào nhỉ? Liệu có phải tương lai của em đã được định đoạt bởi quá khứ của em, một tương lai mà em sẽ không thể nào thay đổi được hay không? Có phải em không có cách nào có thể thay đổi được tương lai hay không? Em buộc phải nghĩ rằng, làm gì có chuyện đó, chẳng có chuyện vớ vẩn ấy đâu. Cứ nhìn Kiotaka là em lại thấy mình có đủ can đảm. Cũng có những lúc em đã chán nản, để mình chìm trong tuyệt vọng, nhưng rồi em lại nghĩ, lại tự nhủ với bản thân, và mang một quyết tâm mạnh mẽ sẽ lại dốc sức chiến đấu đến cùng.

    Ban đầu, bé Kiotaka thậm chí còn không ngồi được nữa kia. Để bé cất tiếng gọi được tiếng bố, tiếng mẹ, cũng phải mất tới năm năm. Và để bé tự biết mình cài và cởi cúc áo, em đã phải tốn không biết bao nhiêu công sức và thời gian. Nhưng, giờ bé đã sắp tròn chín tuổi. Tốc độ đi của bé khi chống nạng đã nhanh hơn chút xíu so với một năm trước đây rồi. Tuy vẫn còn chậm, nhưng bé đã nói được chính xác cụm từ bột sống, gạo sống, trứng sống . Bé cũng đã biết diễn đạt những điều mình muốn nói. Và cả những phép tính trong môn toán nữa, thứ mà trước đây em cho rằng bé sẽ không bao giờ có khả năng thực hiện, thế mà giờ bé cũng đang dần làm được đấy anh ạ, dù rằng mất rất nhiều thời gian để thực hiện một con tính. Bây giờ, bé mới chỉ làm được phép cộng ở một hàng đơn vị, nhưng nhất định, em sẽ luyện tập cho con có được những năng lực như của một người bình thường cho mà xem. Để được như thế, rất có thể em sẽ phải mất mười năm. Mà không, có lẽ phải hai mươi năm. Rất có thể cho dù em cố gắng thế nào đi chăng nữa, sẽ vẫn có giới hạn mà em không thể vượt qua được. Nhưng, nhất định em sẽ hướng dẫn con con, rèn luyện để con có thể có được một năng lực nhất định như của một người bình thường, cho dù sẽ không thể đạt được mức độ hoàn toàn. Em sẽ nuôi dạy con trở thành một người có khả năng tự mình làm việc để nuôi sống bản thân cho mà xem. Có thể con em sẽ trở thành một con người chỉ biết rót trà mà thôi. Có sao đâu. Có thể con em sẽ trở thành một con người chỉ biết cho một loại hàng hóa gì đó vào những thùng bìa các tông. Có sao đâu. Em sẽ nuôi dạy con trở thành một con người yêu lao động, có thể đàng hoàng nhận số tiền lương dù ít ỏi bằng chính sức lao động của mình. Người đã sinh ra bé Kiotaka là em. Chính là em mà không phải một ai khác. Chính cái sự thật quá hiển nhiên này đã cho em một phát hiện lớn. Em cho rằng, việc phải gánh mang nỗi bất hạnh và sinh ra trên cõi đời này là việc của riêng bé Kiotaka, có lẽ đó cũng chính là nghiệp của bé Kiotaka. Quả là thế rồi phải không anh? Nhưng, không chỉ có thế. Đó cũng chính là cái nghiệp của em, một người mà số mệnh đã định đoạt rằng phải làm mẹ của bé Kiotaka, chứ đó chẳng hề do lỗi tại ai. Một ngày nọ, bất chợt em nghĩ về điều này như thể được trời cao soi đường chỉ lối vậy. Em đã lầm. Trước đây là cái thời em sống trong sầu hận, oán trách rằng điều đó là tại anh. Thật đúng là giận cá chém thớt phải không anh? Nhưng, đó chẳng phải lỗi tại ai cả đâu. Căn bệnh khuyết tật bẩm sinh của bé Kiotaka chính là bởi cái nghiệp của bản thân em. Và chắc có lẽ ta cũng có thể nói rằng, đó là nghiệp của cả anh Katsunuma Soichiro, người mà số mệnh đã định đoạt rằng phải làm bố của một đứa trẻ như thế. Em đã nghĩ thế đấy. Song, em cần phải làm thế nào để vượt qua được cái nghiệp ấy hả anh? Hay là em chỉ cần cứ thế hướng đến tương lai và bước đi, mà không cần biết nó sẽ ra sao? Không, chắc hẳn em và con cần sống thiết tha ngay với chính cuộc sống của hiện tại , cho dù mọi chuyện có thế nào. Có thế, em mới giúp được bé Kiotaka đến gần được với năng lực của người bình thường trong một giới hạn nhất định, mặc cho bé mang trong mình những khuyết tật. Là mẹ của một đứa trẻ như Kiotaka, dứt khoát em không thể để mình rơi vào khoảng không trống rỗng và tuyệt vọng. Anh hãy dõi theo những bước đi của hai mẹ con em nhé! Vì chắc chắn em sẽ cho anh thấy, em sẽ nuôi dạy bé Kiotaka trở thành con người biết lao động ở ngoài xã hội như thế nào.

    Chà, em nói nhiều về chuyện bé Kiotaka quá. Và những dòng thư mang nặng lý lẽ thuyết giáo quá. Thế nhưng, anh đừng nghĩ những điều trên là giáo điều nhé. Em có cảm giác vì anh quá lệ thuộc vào quá khứ , nên anh đã quên đi những gì có trong hiện tại của mình. Em lại hồi tưởng lại một câu nói trước đây của bố. "Con người ta luôn luôn thay đổi. Con người là sinh vật kỳ lạ mà đôi khi, người ta thay đổi trong từng giờ từng phút". Đúng như lời bố nói. Chắc chắn, cách sống trong hiện tại của anh sẽ lại một lần nữa làm cho tương lai của anh có sự thay đổi lớn. Quá khứ ư? Đó chẳng qua chỉ là những sự việc, sự vật đã đi qua mà ta không sao có thể lấy lại được. Nhưng, cái quá khứ ấy vẫn tồn tại một cách chắc chắn, để tạo nên chúng ta ngày hôm nay. Tuy nhiên, em cảm giác, cả anh và em đều đã sống mà không hề để ý rằng cái hiện tại vẫn luôn xen vào giữa quá khứ và tương lai trong đời sống của chúng ta.

    Anh đừng tức giận mà xé lá thư này đi nhé, và bảo rằng, cô không cần phải thuyết giáo. Em thấy lo cho anh quá. Lời nói của cô bé Reiko, người mà em cũng không rõ đã xuất hiện trong thư anh từ lúc nào, cứ ám ảnh mãi trong lòng em, khiến em thấy vô cùng áy náy. "Vì em sợ anh sẽ chết mất". Rõ ràng, Reiko rất hiểu anh. Tuy anh không hề kể với cô ấy những chuyện của mình, nhưng có lẽ Reiko đã hiểu rất sâu sắc về con người anh đấy. Trời ơi! Anh đừng nghĩ đến cái chết nhé! Cứ tưởng tượng về điều ấy, tim em như muốn nổ tung lên. Vì lẽ gì mà anh lại đến tận Arashiyama, để rồi trọ lại tại căn phòng đã xảy ra vụ việc ở nhà nghỉ Kionoya thế? Đó chẳng phải là kỷ niệm đau lòng của chàng thanh niên trẻ tuổi hai mươi hay sao? Và nữa, sao anh lại còn thản nhiên kể cho em nghe câu nói của người phụ nữ trung niên ấy, rằng, Yukako là một người phụ nữ thật xinh đẹp nữa chứ...

    Dẫu sao đi chăng nữa, em vẫn cho rằng cái kế hoạch kinh doanh mà Reiko đã vạch ra nhất định sẽ xuôi chèo mát mái. Anh cũng biết rất rõ là linh cảm của em rất chính xác mà. Đó là một kế hoạch kinh doanh rất thú vị, mà chẳng ai nghĩ ra anh nhỉ. Đúng là cô ấy đã bị mất đi chín trăm tám mươi sáu nghìn yên, một khoản tiền vô cùng quan trọng cho công việc kinh doanh và cho cuộc sống từ nay trở đi của mình, nhưng Reiko đã không hề cảm thấy chút lưỡng lự, hối tiếc nào khi phải lựa chọn giữa tiền và anh. Chính vì vậy, cô ấy đã không chút ngần ngại mà đưa cho tên vô lại khoản tiền đó. Em vô cùng thán phục anh, khi anh đã thử đến tiệm thẩm mỹ đó để đặt vấn đề ký hợp đồng. Em có linh cảm rằng, rồi tới đây, hai người sẽ có trong tay một trăm năm mươi khách hàng. Hoặc giả, nếu như số lượng khách hàng nhích rất chậm, em vẫn cứ tin tưởng rằng, chẳng bao lâu, với sự kiên trì tìm thêm được từng cửa hàng một, sẽ đến ngày số lượng khách hàng đạt đến con số một trăm năm mươi. Anh nghĩ em đã mất bao nhiêu tháng năm để bé Kiotaka có thể diễn đạt được suy nghĩ của mình? Anh cũng hãy như bé Kiotaka đi, hãy bước từng bước, từng bước một nhé. Cho dù anh có dự đoán về một tình hình xấu, nếu anh vẫn kiên trì bước tiếp từng bước trong một tuần, rồi anh sẽ lại tìm được một hay nhiều cửa hàng đồng ý ký hợp đồng đặt cuốn tạp chí PR đó. Một tháng bốn cửa hàng, vị chi một năm sẽ là bốn mươi tám cửa hàng, vậy là trong ba năm, hai người sẽ đạt được mục tiêu đề ra. Anh ơi, thế là chỉ cần có ba năm thôi đấy. Trong quá trình đó, chắc hẳn sẽ có những lúc hai người gặp khó khăn về tiền bạc đấy. Sẽ có những trở ngại rình rập ở phía trước mà hai người không thể ngờ tới. Nhưng, em thấy Reiko là một người phụ nữ rất có bản lĩnh. Đằng sau tính cách hiền lành, ít nói, ẩn giấu một khí phách mạnh mẽ của phụ nữ vùng Osaka. Cô ấy đúng là người mang trong mình tố chất ấy. Cô ấy chắc chắn mạnh mẽ và quyết liệt hơn anh rất nhiều đấy. Và, chắc chắn cô ấy cũng yêu anh bằng một tình yêu sâu đậm. Em hiểu điều đó. Ồ không, vì em là em mà, nên em hiểu điều đó. Mỗi khi anh cằn nhằn, hay muốn ném bỏ đi cái kế hoạch kinh doanh đang thực hiện dở dang ấy, Reiko lại ở bên cạnh hỗ trợ anh. Chính những lần đó đã cho thấy cô ấy là một cô gái rất có tiềm năng. Em thật lòng cầu chúc cho hai người. Em không theo đạo nên em không biết mình nên cầu xin ai điều ấy. Nhưng, em cầu chúc cho hai người. Phải rồi, em cầu xin vũ trụ này. Em cầu xin vũ trụ bao la vô tận này phù hộ cho sự thành công của kế hoạch kinh doanh ấy, phù hộ cho tương lai hạnh phúc của anh.

    Anh nhớ viết thư hồi âm cho em nhé. Em chờ thư của anh. Nhất định anh phải viết thư hồi âm đấy nhé.

    Chào anh!

    Ngày 18 tháng 9
    Katsunuma Aki

    Tái bút: Em quên mất. Trong phần đầu lá thư trước, anh có viết rằng em là một người vợ rất đáng yêu, hơn thế, tính cách bướng bỉnh của một cô gái lớn lên trong sự cưng chiều của bố mẹ lại là một đặc điểm hấp dẫn đối với anh. Đọc thư anh mà mặt em cứ nóng dần lên. Tại sao khi có một người vợ đáng yêu như thế là em, mà anh vẫn cứ có dan díu tình cảm với một người con gái khác trong suốt một năm trời hả anh? Với câu trả lời rằng, đó vốn dĩ là bản chất của đàn ông, em không sao có thể dễ dàng chấp nhận, có thể buông xuôi rằng: "Vậy ư anh?" được đâu anh ạ. Và, với câu anh viết ngay sau đó, rằng không rõ người chồng mới của em cảm nhận thế nào, thì anh ơi, em đây là người hiểu rõ nhất. Với Katsunuma, em hoàn toàn không phải một người vợ tốt. Bởi, em không sao có thể yêu và coi người ấy là chồng được. Và nữa, cả giấc mơ ngắn ngủi trong khoảnh khắc mà anh đã mơ thấy nữa, nó vẫn cứ đọng lại trong em như một giấc mơ u buồn. Còn một điều nữa, trong câu chuyện mà đối với em, nó như thể một câu chuyện rung trời lở đất, đọc đến chi tiết lãng mạn ấy của bố, em thấy choáng váng bởi hiểu ra rằng, phàm đã là giống đàn ông, rồi kẻ nào cũng bị hút hồn trước gái đẹp. Nhưng, đọc đoạn thư ấy, không hiểu sao em thấy vui vui và bật cười khúc khích. Và em muốn nói lời cảm ơn với anh. Bởi em cứ nghĩ chắc anh phải hận bố em lắm kìa.



    Chào em!

    Quá khứ, hiện tại, tương lai... Tôi đã lĩnh hội những từ ngữ mang lời lẽ thuyết giáo ấy của em như là những từ ngữ chất chứa bao tâm huyết của em, của một người mẹ đã nuôi dạy đứa con trai bị khuyết tật bẩm sinh tên là Kiotaka cho đến ngày hôm nay, và từ nay vẫn phải tiếp tục nỗ lực chiến đấu nhiều hơn nữa với chính bản thân mình. Và thực tế, bản thân tôi đây cũng sắp tròn ba mươi tám tuổi rồi, vậy mà tôi thấy mình vẫn chẳng khác nào một cậu thanh niên còn búng hơi sữa. Quả đúng như nhận xét của em. Rốt cuộc thì tôi vào nhà nghỉ Kionoya ấy để làm gì? Chính vì cái thằng tôi là thế đấy, nên mười năm trời trôi qua, tôi đã tụt dốc, đã biến thành đôi giày rách nát bị người ta ném xuống cống. Dẫu vậy, bây giờ tôi vẫn đang làm việc. Tôi lần lượt đi bộ vòng quanh từng khu vực ở khắp Osaka này để làm công việc của mình. Cứ vào chín giờ sáng, tôi lại cho cuốn tạp chí mẫu, tờ rơi quảng cáo và tờ đơn cần thiết để xác nhận việc đồng ý ký hợp đồng vào cặp, rồi cùng Reiko cũng xách theo chừng ấy đạo cụ đi về hướng nhà ga. Chúng tôi chia tay nhau ở đó, rồi lên xe điện nhằm về phía khu vực nằm trong kế hoạch ngày hôm đó. Khu vực trong thành phố Osaka là do Reiko đảm nhiệm, các thành phố Hirakata, Neyagawa , Sakai ở bên ngoài thành phố do tôi phụ trách. Nếu đi bằng ô tô thì hồi này, hầu hết các phố đều cấm đỗ ô tô, nên rất có khả năng xe sẽ bị dán giấy phạt vi phạm quy định về đỗ xe trong khi tôi đang mải bàn chuyện trong các tiệm thẩm mỹ. Vả lại, các tiệm thẩm mỹ thường nằm trong các khu phố buôn bán sầm uất, hay ở những khu vực đông người qua lại như trước cửa nhà ga chẳng hạn, nên xe ô tô khó mà lách được vào những con phố chật hẹp ấy. Do vậy, chúng tôi đã đi đến quyết định rằng, khi đi làm công tác ngoại giao thì đi bộ tốt hơn là đi xe ô tô.

    Tôi cầm trên tay tấm bản đồ và bắt đầu đi. Tôi vừa đi vừa đảo mắt nhìn quanh để tìm những biển hiệu có đề tiệm thẩm mỹ. Khi tìm thấy một tiệm thẩm mỹ nào đó, trước tiên tôi sẽ xem xét kỹ hình thức của cửa hàng đó. Những cửa hàng mà kính cửa sổ bẩn thỉu, hoàn toàn không có sự đầu tư, sáng tạo để thu hút khách hàng, thì cho dù có to đến mấy, họ cũng sẽ chẳng quan tâm gì đến cuốn tạp chí PR này đâu. Nhưng, cho dù đó chỉ là một cửa hàng nhỏ, có một mình chủ cửa hàng quản lý thôi, mà thấy trên cửa ra vào hay trên tường có dán ảnh các mẫu tóc hiện đang mà mốt, hay có gắn biển thông báo rằng, "Giảm 10% cho khách hàng làm vào các ngày trừ thứ Bảy và Chủ nhật", thì dù lúc đầu họ có tỏ vẻ khó chịu đi chăng nữa, chỉ cần tôi kiên trì giải thích cho họ, dần dần, họ sẽ tỏ ý quan tâm và sẽ ký tên đóng dấu vào bản đăng ký hợp đồng, với mong muốn lấy thử tạp chí của một tháng.

    Cảm giác đau đớn của đôi bàn chân vào cái hôm mà tôi đã đi bộ suốt cả một ngày trời, vào gần hai mươi tiệm thẩm mỹ, mà chẳng ký thêm được hợp đồng với một cửa hàng nào thật là khó diễn tả. Tôi vô cùng kinh ngạc khi bà chủ béo tròn như một chú lợn của một tiệm thẩm mỹ cuối phố khi đang nghe lời thuyết trình của tôi đã bất chợt nổi cáu. Bà ấy đã bóng gió yêu cầu tôi một việc này. Đó là, tôi phải gọi bà ta là thầy. Tôi cũng băn khoăn không hiểu vì sao mình lại phải gọi bà chủ cái tiệm thẩm mỹ bé tí ti kia là thầy, nhưng bà ta thì lại bảo là, trên thế giới này, việc gọi những người chủ cửa hàng là thầy là lẽ thường. Sau khi đã trình bày cặn kẽ một hồi, tôi bị bà ta chối phắt: "Tặng khách hàng những tập giấy trị giá hai mươi yên cho một bản thế này thì phí phạm quá". Kể từ lúc đó, mỗi lần bước vào tiệm thẩm mỹ nào, cho dù có biết rõ người ra tiếp tôi là nhân viên của cửa hàng đó, lúc đầu bao giờ tôi cũng cứ hỏi: "Xin hỏi có phải thầy không ạ?". Không biết bao nhiêu lần tôi kiên trì thuyết phục phải đến gần một giờ đồng hồ, khi người chủ cửa hàng có vẻ chuẩn bị đồng ý ký hợp đồng, thì người thanh niên học việc trẻ tuổi lại chêm vào: "Khách hàng cũng chẳng thích thú gì với việc chúng ta đưa cho họ cái thứ này đâu ạ. Thầy ơi, thầy nên bỏ qua nó đi ạ". Cuối cùng, tôi lại chẳng ký được hợp đồng với những cửa hàng ấy. Tuy nhiên, cũng có những ngày, tôi vào ba cửa hàng thì cả ba cửa hàng đó đều đồng ý ký hợp đồng với tôi. Tôi cứ liên tục đi bộ như thế trong vòng ba tuần, và một đôi giày da của tôi đã rách toạc. Ở đầu mũi ngón cái chỗ đáy của cả hai chiếc giày đều bị thủng một lỗ, cái gót thì mòn vẹt đi. Đôi giày tôi mới tậu để dùng cho việc đi giao dịch, chỉ trong vòng ba tuần đã thê thảm thế đấy. Bù đắp cho điều đó, đôi bàn chân của tôi vốn mềm oặt như con sứa giờ đã chắc khỏe như bàn chân của một vận động viên leo núi. Trong vòng ba tuần vừa qua, Reiko đã ký hợp đồng được với mười hai cửa hàng, còn tôi cũng được mười sáu cửa hàng. Cộng với cả hai mươi sáu cửa hàng của tháng trước, lúc này con số đó đã tăng lên năm mươi tư cửa hàng. Ngoài ra, chúng tôi cũng đã gửi thư quảng cáo tới năm trăm tiệm thẩm mỹ ở khắp vùng Kinki, và có mười hai cửa hàng đã gửi đơn xin ký hợp đồng. Tổng số bây giờ là sáu mươi sáu cửa hàng.

    Hơi cường điệu một chút, tuy nhiên, đôi khi tôi có cảm giác như cái việc đi bộ để tìm các tiệm thẩm mỹ này giống như một kiếp người vậy. Có những lúc đứng ở ngã tư đường phố, tôi định vị trong đầu xem mình sẽ đi theo hướng nào. Rẽ phải rồi đi tiếp, người trên đường cứ thưa dần, tôi lạc vào con đường với một loạt các nhà máy, khi ấy tôi mới nhận ra là mình đang đi bộ trên một con đường mà chắc chắn sẽ chẳng có một tiệm thẩm mỹ nào. Nhưng, tôi đã đi được một quãng khá xa, lúc này chẳng thể nào quay đầu lại được nữa, tôi chỉ còn cách cứ thế bước đi như một gã khờ trên con đường chỉ toàn nhà máy nối tiếp nhà máy. Khi đặt chân đến chỗ trông có vẻ như con phố tôi muốn đến thì ánh chiều đã tắt, tôi lại còn chẳng rõ đấy là chỗ nào, và đi đường nào để trở về nhà nữa, rồi thì chỉ muốn ngồi phệt xuống chỗ đó, người mệt lử đử, và dò dẫm tìm đường trở về nhà mà chẳng muốn bước chân vào trong một tiệm thẩm mỹ nào nữa. Tương tự, có những khi, tôi đến một ngã tư đường, phân vân và tự nhủ, ây hà, đi theo lối này thôi. Ngay lập tức, tôi ra đến một khu đô thị mới, rồi tìm thấy một tiệm thẩm mỹ vừa mới khai trương, và họ nhanh chóng nhận lời ký hợp đồng với tôi. Ngày ngày, tôi cứ thế đi bộ trên các dãy phố, phân vân không biết nên rẽ trái hay rẽ phải, khiến tôi có một cảm nhận kỳ lạ, thật giống như số kiếp con người.

    Riêng việc đưa tạp chí đến sáu mươi sáu cửa hàng, chúng tôi vẫn buộc phải sử dụng xe ô tô. Tháng trước, chỉ cần một ngày là xong hết, nhưng tháng này phải mất tới ba ngày. Phân phát xong, tôi nghỉ ở nhà khoảng ba ngày. Tôi đến hiệu sách, tìm mua những cuốn sách phục vụ cho công việc biên tập cuốn tạp chí PR số tiếp theo rồi trở về nhà. Vào đến nhà, tôi thấy Reiko đang ngồi cúi đầu với nét mặt ủ rũ. Tôi hỏi cô ấy rằng, có chuyện gì vậy, nhưng cô ấy không đáp lại. Nhưng khi tôi nằm xuống, duỗi chân xem ti vi, có vẻ như không chịu đựng được nữa, cô ấy liền nói: "Cái cô Katsunuma Aki là ai vậy?". Tôi giật mình nhìn Reiko. Tôi đã cất tất cả những lá thư em gửi vào sâu tít trong cùng của ngăn bàn làm việc của tôi kia mà. Đợt trước, Reiko đi làm ở siêu thị, còn tôi thì ngày ngày lông bông ở nhà, nên tôi vẫn thường nhòm vào hòm thư trước nhà và cứ thế thản nhiên nhận thư em mà chả lo bị cô ấy phát hiện. Nhưng, từ hai tháng trước, khi Reiko bắt đầu say sưa vào dự án kinh doanh này, tôi đã nhờ trước với bác quản lý khu nhà này bí mật cất giùm những lá thư gửi đến cho tôi, rồi hãy lẳng lặng đưa cho tôi sau. Tôi đã dúi vào tay bà cụ tờ giấy bạc năm nghìn yên để bà cụ giúp cho việc ấy. Bà cụ cười tinh quái rồi nhận số tiền đó. Nên, tôi không hiều làm sao Reiko lại biết được việc của em. Thấy tôi lặng im không nói, Reiko lôi từ trong ngăn kéo bàn làm việc của tôi ra một xấp thư dày cộp đến độ đáng kinh ngạc, gồm có bảy lá thư, bắt đầu từ lá thư đề ngày 16 tháng 1, theo dấu bưu điện. Những lá thư ấy vẫn cứ liên tiếp được gửi đến đây. Tóm lại, cô gái có tên là Katsunuma Aki là ai vậy? Reiko hỏi dồn tôi. Phong thư đã được cắt ra, bởi vậy rõ là nếu Reiko có ý định đọc trộm thì cô ấy hoàn toàn có thể đọc được. Nhưng, với câu hỏi "là ai vậy", tôi suy ra là cô ấy chưa hề xem nội dung bên trong. Có lẽ Reiko đã kiềm chế việc muốn đọc những lá thư ấy, và đợi tôi về. Reiko bảo thế này. Lá thư đầu tiên thì đề tên là Hoshijima Aki, vậy mà từ lá thư thứ hai trở đi lại đề là Katsunuma Aki. Tóm lại người phụ nữ này là ai? Em muốn anh nói cho em biết cô ấy là gì với anh? Tôi cười hỏi: "Em đang ghen đấy à?". "Em thèm vào mà ghen". Reiko ngước mắt lên lườm lại tôi. "Phong bì đã cắt ra rồi, sao em không đọc trộm nó đi". Nghe tôi hỏi vậy, Reiko cúi đầu, lẩm bẩm: "Em không thể làm cái việc tự tiện đi đọc thư của người khác...". Tôi chưa từng kể cho Reiko nghe về quá khứ của mình. Chỉ có duy nhất một lần, vào hôm tôi chở cô ấy đi giao dịch, tôi có nói với cô ấy rằng trước đây, tôi đã từng sống ở quận Namano. Tôi vừa nhìn theo dấu bưu điện in trên những lá thư của em, vừa xếp chúng lần lượt theo thứ tự, rồi bảo với Reiko rằng, em đọc chúng đi. Tôi xin lỗi em vì đã cho người khác đọc những lá thư em gửi mà chưa được sự đồng ý của em. Bởi tôi nghĩ rằng, nếu đọc rất nhiều những lá thư em gửi đến cho tôi này, thì dẫu tôi chẳng kể thêm gì, cô ấy vẫn sẽ hiểu tất cả.

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Dù sao tất cả cũng chỉ toàn là những lá thư rất dài. Lại còn những bảy lá nữa chứ. Ban đầu, Reiko cầm hết chúng ra chiếc bàn tròn, rồi ngồi ở đó và bắt đầu đọc chúng. Trong lúc ấy, tôi cứ thế nằm xem ti vi. Tôi thầm nghĩ không biết cô ấy sắp đứng dậy đi nấu cơm tối chưa nhỉ. Ấy nhưng cô ấy vẫn cứ tiếp tục đọc nghiến đọc ngấu những lá thư ấy. Tôi hỏi cô ấy rằng, anh đi ra ngoài ăn nhé, có được không. Reiko mắt vẫn dán chặt vào trang thư, lí nhí trả lời, vâng.

    Tôi ăn tối ở một nhà hàng gần đó. Ăn xong, tôi ghé vào một quán cà phê trước cửa nhà ga và uống cà phê ở đó. Được ba mươi phút, thấy chẳng có việc gì để làm, tôi mượn người chủ quán cà phê một tờ giấy nháp và một cái bút bi, nghĩ ngợi xem để tăng số lượng khách hàng lên một trăm năm mươi cửa hàng, cần phải đưa ra hình thức kinh doanh gì, lại còn số tạp chí tháng sau nên đăng nội dung gì nữa, và viết vào giấy khoản tiền thâm hụt hiện tại, số tiền tiết kiệm còn lại. Vắt óc nghĩ ngợi, và trong khi nhìn những con số nối tiếp nhau được ghi trên giấy, tôi bỗng nhớ ra là đã lâu rồi không đi đến cửa hàng cắt tóc. Định bụng ngày mai sẽ đi cắt tóc, tôi chợt nghĩ ra một điều này. Đó là, hay là chúng tôi cũng làm tạp chí kiểu thế này dành cho các tiệm cắt tóc nhỉ. Hệ thống cũng tương tự như vậy, nhưng một khi đã là tiệm cắt tóc thì nội dung cũng phải thay đổi, phải hướng đến nam giới nhiều hơn. Phải rồi, mình mở rộng sân sang cả tiệm cắt tóc nữa. Nhưng, không được vội vàng đâu đấy. Để cho mảng tiệm thẩm mỹ đi vào quỹ đạo đã, để doanh thu của nó đi vào ổn định đã.

    Rời quán cà phê, tôi đi qua khu chung cư, rẽ vào con ngõ nhỏ để đến xưởng in. Chỗ cửa sổ kính có dòng chữ "Xưởng in Tanaka", đóng cửa, rèm bên trong cũng kéo kín. Nơi làm việc đèn vẫn sáng, tôi nghe thấy tiếng máy chạy. Tôi mở cửa kính, và thấy ông chủ xưởng in tay đeo đôi găng màu đen, vấy bẩn bởi mực dùng cho máy in, đang kiếm tra lại bản in nổi dính đầy mực in. Tôi hỏi ông ấy rằng, bác vẫn đang làm việc ạ. Ông chủ xưởng in dáng người thấp bé, mái tóc hoa râm liền ngừng tay lại, nháy nháy đôi mắt nhỏ xíu, cười niềm nở: "Mời anh vào". Nào hộp mực, nào giấy dùng để in thử để bừa bãi khắp phòng, đến mức chẳng còn chỗ nào để mà đi nữa. Căn phòng thì nồng nặc mùi mực in, rồi mùi giấy. Còn nữa, mấy nghìn khuôn chữ in bằng chì trong hộp các tông nơi góc tường ánh lên dưới ánh đèn huỳnh quang. Ông chủ kéo chiếc ghế ở góc phòng, mời tôi ngồi. Rồi ông cởi đôi găng tay ra, bắt đầu nói chuyện: "Tháng này đã tăng thêm bốn mươi cửa hàng rồi đấy nhỉ". "Cứ đà, chẳng mấy chốc mà lên thành một trăm năm mươi cửa hàng ấy chứ". Tôi nói đại ý là chúng tôi cũng đã được xưởng in của ông giúp đỡ rất nhiều. "Tôi nghĩ số lượng đó sẽ tăng lên tới con số năm trăm". Ông nói vậy với cách nói không hề lấy lòng chút nào. Năm trăm cửa hàng sẽ là một trăm nghìn bản. Trong số đó, sẽ có những cửa hàng một bộ lấy hai trăm bản là không đủ, phải là bốn trăm bản, sáu trăm bản kia. Và nếu vượt qua con số một trăm nghìn bản, mỗi một bản, xưởng chúng tôi có thể giảm xuống cho anh thành năm yên, chứ không phải bảy yên như bây giờ. Có những khách hàng trả cho chúng tôi khoản tiền mặt mỗi tháng năm trăm nghìn yên là rất quý với một xưởng in nhỏ như chúng tôi. Ông chủ xưởng in nói vậy với vẻ mặt chân thành. Vì vậy, tôi đã nói qua với ông ấy về kế hoạch mở rộng sân sang cả tiệm cắt tóc mà khi nãy, tôi mới nghĩ ra ở quán cà phê. "Hay lắm". Ông chủ xưởng in vỗ đét vào đầu gối. Không nên bỏ qua các tiệm cắt tóc. Biết đâu, số lượng tiệm cắt tóc lại còn tăng hơn ấy chứ. Ông ấy nói vậy. "Các tiệm cắt tóc mọc lên ở khắp mọi nơi. Thời đại bây giờ, họ không thể giữ nguyên cách làm kiểu cũ nữa rồi". Ông chủ khoanh hai tay vào nhau, mắt ngước lên trần nhà, nhẩm tính: Năm trăm tiệm cắt tóc, năm trăm tiệm thẩm mỹ, vị chi là một nghìn cửa hàng. Thế là phải in tới hai trăm nghìn bản cơ đấy. Ông leo lên chiếc cầu thang ở góc cuối cửa hàng, mang bia và cốc xuống, rồi rót mời tôi uống. Chúng tôi vừa uống bia vừa say sưa nói chuyện gần một giờ đồng hồ. Ông ấy rất muốn nói chuyện tiếp với tôi, nhưng tôi lại muốn mau mau nói cho Reiko nghe về cái kế hoạch mà mình vừa nghĩ ra, nên mặc dù ông ấy muốn giữ tôi lại, tôi vẫn đứng dậy cảm ơn ông và trở về nhà. Tôi vừa đi vừa nghĩ, một nghìn cửa hàng ư. Hãy tiến từng bước vững chắc. Mình sẽ tăng con số ấy lên một nghìn cửa hàng trong vòng mười năm cho coi. Tâm trạng tôi lúc bấy giờ giống hệt như của một cầu thủ ném bóng chày: Cho dù có suy đi tính lại trong suốt mười năm trời, dù khóc hay cười, thì cú ném bóng cuối cùng này sẽ là đòn quyết định cho sự thành bại của tôi.

    Reiko đã ra khỏi chiếc bàn tròn, đang ngồi dựa lưng vào tường và vẫn đang tiếp tục đọc thư. Tôi lén nhòm vào, cô ấy đã đọc đến gần cuối lá thư thứ tư của em gửi. Tôi hỏi, em định đọc liền tù tì những lá thư này ư? Em không ăn tối sao? Reiko chỉ nói mỗi câu: "Vâng", rồi chẳng hề ngẩng mặt lên. Tôi tự trải chăn, thay bộ đồ ngủ, rồi nằm xuống, và lại bấm nút ti vi. Đến lá thư thứ sáu và thứ bảy, Reiko nằm sấp xuống bên cạnh chỗ tôi nằm, rồi đọc tiếp. Lúc Reiko đọc hết toàn bộ những lá thư của em cũng là lúc kim đồng hồ chỉ đến con số mười hai. Để lại tập thư ấy vào ngăn kéo, Reiko đứng dậy, tắt đèn trong phòng, rồi ra bật đèn bếp, lấy đồ ăn còn thừa trong tủ lạnh ra, và bắt đầu ăn. Tôi tắt ti vi, nhỏm dậy, ra ngồi ở chiếc ghế cạnh chỗ Reiko, châm một điếu thuốc lá. Reiko bật khóc. Cô ấy ăn đậu phụ nguội, vừa ngoạm miếng giăm bông phết đầy mayonnaise, rồi vừa ấn cơm vào mồm vừa khóc. Vừa sụt sịt, cô ấy vừa lấy mu bàn tay lau nước mắt, rồi khịt khịt hít mũi. Lau đi lau lại, nước mắt từ khóe đôi mắt tròn vẫn cứ trào ra, lăn dài xuống hai gò má trắng mịn màng, rơi xuống mặt bàn. Ăn xong, Reiko vẫn vừa dọn dẹp bát đĩa vừa khóc. Sau đó, cô ấy đi rửa mặt, đánh răng, thay bộ quần áo ngủ, trải giường ngủ của mình bên cạnh chỗ chăn của tôi, rồi nằm xuống chẳng nói một lời, trùm chăn kín lên tít tận trên đầu. Tôi một mình ngồi thần ra một lúc ở chiếc ghế chỗ bếp, nhìn Reiko nằm im trùm kín chăn không chút cử động. Chẳng lâu sau, tôi rón rén lại gần cô ấy, rồi từ từ kéo chiếc chăn đang trùm kín đầu cô ấy ra. Reiko vẫn đang mở mắt như thế, và khóc. Tôi hỏi, sao em lại khóc như thế? Mắt đẫm nước, Reiko nhìn tôi, rồi cô ấy choàng tay ra phía tôi. Cứ thế, cô ấy kéo tôi vào trong chăn của mình, lấy đầu ngón tay lần lần vết thương ở cổ tôi. Chứng tỏ là cô ấy đã đoc hết bảy lá thư của em gửi cho tôi. Cô ấy hoàn toàn không biết nội dung của năm lá thư tôi đã gửi cho em. Thế nhưng, Reiko ôm ghì lấy tôi, rồi nói: "Em thấy quý chị vợ cũ của anh, anh ạ". Cô ấy chỉ nói có vậy, còn sau, tôi có gợi chuyện thế nào đi chăng nữa, cô ấy cũng chỉ im lặng. Tôi ra khỏi chăn của Reiko, lấy những bức thư của em ra, xếp lên chiếc bàn tròn ở bếp. Một mình lặng yên vừa hút thuốc lá, tôi vừa nhìn tập thư đó. Em đã viết rằng, em biết đến một lúc nào đó, sự thư từ qua lại này sẽ phải kết thúc. Tôi nhìn về phía Reiko. Cô ấy vẫn đang trùm kín chăn, chẳng biết đã ngủ chưa, hay là vẫn đang sụt sịt. Và tôi biết, thời điểm ấy sắp đến rồi.

    Có lẽ, lá thư này sẽ là lá thư cuối cùng tôi viết cho em. Sau khi tôi bỏ lá thư này vào hòm thư, tôi sẽ lại tìm đến các biển hiện có đề tiệm thẩm mỹ và tiếp tục rong ruổi trên con phố có tên Neyagawa. Và biết đâu sau vài năm nữa, tôi sẽ từ chuyến tàu Hanshin bước xuống nhà ga Koroen, đi qua khu tập thể xưa ấy, đến trước cửa ngôi nhà của em ở phía trước câu lạc bộ tennis. Thế rồi, tôi sẽ lặng lẽ nhìn vào ngôi nhà của em, ngắm nhìn cây mimosa già nua, rồi lại lặng lẽ trở về. Mong em luôn mạnh khỏe. Từ đáy lòng mình, tôi sẽ luôn âm thầm cầu nguyện cho con trai em sẽ khôn lớn trưởng thành theo đúng nguyện ước của em.

    Chào em!

    Ngày 3 tháng 10

    Arima Yasuaki



    Anh Arima Yasuaki!

    Em ngồi nơi chiếc ghế băng dưới giàn đậu tía trong câu lạc bộ tennis, đọc lá thư cuối cùng của anh trong ánh nắng thu ấm áp và dịu nhẹ. Em như nhìn thấy bóng dáng anh, một tay cầm tấm bản đồ, rong ruổi trên khắp các nẻo đường.

    Đọc thư anh, định bụng mình cũng sẽ viết một lá thư cuối cùng này nữa thôi, nhưng rồi một tháng trôi qua, chẳng hiểu sao em vẫn chưa cảm thấy muốn đặt bút để viết lá thư ấy. Chuyện là thế này. Vào cái ngày hôm ấy, quãng gần buổi trưa của một ngày thứ Năm đẹp trời. Bố em nói là hôm nay cụ nghỉ làm vì đã lâu rồi cụ không nghỉ phép. Bố không đến công ty mà ngồi ở mái hiên đầu nhà ngắm cây cối trong vườn. Bố rủ em cùng đi với cụ đến thăm mộ mẹ. Chẳng phải tiết thanh minh hay ngày giỗ mẹ, nhưng em vẫn muốn đi. Em nhờ chị Ikuko ba rưỡi đi đón bé Kiotaka tại điểm dừng của xe buýt đưa đón của nhà trường trước cửa nhà ga, rồi vội vàng đi thay quần áo. Ông cụ gọi điện đến công ty, lệnh cho họ đưa một xe ô tô đến, và bảo, bố ăn mặc thế này hơi nổi quá, rồi lôi ra cái áo vét màu ô liu đậm mà bố đã cất công đi may nhưng lại chưa hề một lần mặc nó. Bộ áo vét đó rất hợp với bố em. Em và bố ăn nhẹ trong lúc đợi xe ô tô. Bố bảo sẽ đãi em món ăn Kyoto rất ngon sau khi tảo mộ xong, nên hãy ăn tạm chút bữa trưa trước đi đã. Anh cũng đã một lần cùng với bố và em, ba người cùng đi tảo mộ mẹ rồi nhỉ. Em nhớ khi ấy hai chúng ta mới cưới nhau chưa đầy một tháng. Sau ngày giỗ lần thứ bảy của mẹ, ba người chúng ta đã đến viếng khu nghĩa trang được bao bọc bởi rừng cây rậm rạp ở quận Yamashina (Kyoto). Yamashina là nơi chôn rau cắt rốn của mẹ, nên bố đã chôn cất hài cốt của mẹ tại khu nghĩa trang này.

    Nghe thấy tiếng anh lái xe Kosakai, em và bố đi ra xe. Bố nói với anh Kosakai: "Anh chở chúng tôi tới Yamashina. Tôi đi thăm mộ bà nhà". Anh Kosakai làm lái xe riêng cho bố đến năm nay là được mười lăm năm. Được biết là cô con gái cả của anh mới cưới hồi đầu tháng Mười, thế mà lại nghe nói tháng Một năm tới đây, cô con gái thứ hai cũng sẽ tổ chức. Em nói với anh Kosakai: "Tổ chức gấp quá anh nhỉ". Anh Kosakai vừa lái xe vừa nói: "Nhà tôi suýt thì phá sản đấy". Em hỏi anh ấy sao hai chị em lại cưới liền thế, bố bật cười và trả lời thay anh Kosakai: "Không tổ chức ngay thì con chúng nó sẽ ra đời trước mất". Em cũng bật cười. Anh Kosakai lấy một tay đập nhẹ vào cổ, nhếch mép cười ngượng nghịu và bảo, bây giờ nó đã bảy tháng rồi, nếu sinh sớm có khi nó sinh và đúng ngày cưới thì chết mất.

    Chúng em ra khỏi con đường cao tốc Meishin, tiến vào Kyoto và đi trên con đường quốc lộ tới Yamashina. Em nhìn xem cửa hàng bán hoa ở đâu và nói anh Kosakai dừng xe lại một chút. Thấy thế, bố bảo không cần mua hoa đâu. Cụ bảo, nhìn những bông hoa héo khô ở nghĩa trang, cụ thấy rất buồn. Con có cúng hoa cho mẹ thì chẳng lâu sau, chúng cũng lại héo đi thôi. Bố ghét nhất là cúng hoa và bánh kẹo ở nghĩa trang. Xe lại tiếp tục chuyển bánh, bố lẩm bẩm như thể tự nói với chính mình, ở mộ không nên trang trí gì nhiều, chỉ cần khắc mỗi cái tên thôi, chỉ cần như thế là được. Chẳng bao lâu, chúng em nhìn thấy những ruộng lúa, rồi đi vào ngôi làng bên núi với những ngôi nhà của người nông dân nằm san sát bên nhau. Xe ô tô tiến dần trên con đường nhỏ khúc khuỷu, bao quanh là những tán cây của khu rừng rậm rạp. Bố nói: "Bây giờ là mùa lá momiji đấy".

    Khu nghĩa trang được đặt trên sườn một ngọn núi nhỏ. Vô vàn những chiếc lá cây muôn màu sắc của khu rừng rậm bay bay trong gió trông như thể đang che giấu đi khu nghĩa trang âm thầm ấy. Trên lối vào khu nghĩa trang có một túp lều nhỏ. Một ông cụ đang ngồi trong đó. Đó là một túp lều có diện ích chỉ một người chui lọt dùng để tránh mưa hay nắng. Mùi hương từ trong đó tỏa ra nồng nặc. Người ta để ở trong đó nào nến, hương, rồi cả thùng gỗ và gáo. Bố mua hương của ông cụ, mượn ông cái thùng và cái gáo, rồi lấy nước vào đầy thùng và leo lên ngọn đồi thoai thoải để đến khu lăng mộ. Anh Kosakai cũng xuống khỏi xe, nói rằng tôi cũng xin phép được đi thăm mộ cụ, và đi theo sau hai bố con em. Mộ của mẹ nằm ở phía trên cùng của khu lăng mộ. Đó là một ngôi mộ nhỏ chỉ khắc duy nhất dòng chữ: "Hoshijima Fumi, mất ngày 14 tháng 12 năm 1963". Rất nhiều lá cây rơi rụng lả tả xung quanh bia mộ. Thế nên, em đi xuống dốc, đến chỗ túp lều của ông cụ già, mượn ông cái chổi, cái xẻng, và quay trở lại. Thế rồi em bắt đầu quét tước xung quanh mộ của mẹ. Thấy thế, bố em ngăn lại. Bố nói cứ để nguyên như thế này thì tốt hơn. Con có dọn dẹp bao nhiêu đi chăng nữa, những chiếc lá héo vẫn cứ rụng xuống. Liên tục không ngừng. Và mưa tuôn, và gió quật, mộ của mẹ con sẽ nằm chìm dưới những chiếc lá rơi xuống ấy, chẳng bao lâu sẽ được bao bọc bởi rêu xuống ấy, chẳng bao lâu sẽ được bao bọc bởi rêu phong... Như thể chẳng tốt hơn hay sao con? Thế rồi bố chẳng rưới nước ở thùng lên bia mộ, cứ thế lặng yên nhìn mộ của mẹ. Em bảo, con thắp hương nhé, rồi mượn bố cái bật lửa. "Đốt ba nén thôi. Đốt bao nhiêu thế khói mù mịt bây giờ". Bố nói như thể đang cáu với em. Em đốt ba nén nhang như lời bố nói. Em nghĩ, nếu như mẹ còn sống, cho dù sự việc ấy có xảy ra, nhất định mẹ sẽ phản đối việc em và anh ly hôn. Mẹ mất khi em mới mười bảy tuổi, nên đúng là mẹ không hề biết anh, nhưng không hiểu sao em lại có cảm giác như vậy, và cứ thế đứng yên nhìn ngôi mộ nhỏ phủ đầy lá rụng. Nhưng, cái từ "nếu như" và "giá như" chẳng có tác dụng gì cả. Và việc người ta cứ phải thốt ra miệng những lời nói vô tác dụng ấy chứng tỏ người ta đang than phiền về nó. Em nghĩ, nếu nói về thứ mà em đã bị mất đi trong quãng thời gian ba mươi lăm năm qua, thứ đặc biệt quan trọng đối với em, thì đó chính là mẹ và anh. Thế nhưng, vừa nhìn vào tấm bia mộ, vừa nhớ tới lá thư cuối cùng của anh, em lại có cảm giác như mình đã mất đi rất nhiều thứ. Cả em, cả bố, cả anh Kosakai từ lúc đó trở đi, chẳng ai nói thêm câu gì, và đứng trước ngôi mộ gần hai mươi phút đồng hồ. Khi nén nhang bay lên làn khói đậm cuối cùng rồi tắt hẳn, bố nói: "Chúng ta đi thôi".

    Quay trở lại xe, bố nói với anh Kosakai rằng: "Anh lái xe ra đằng kia giúp tôi". Chiếc xe ô tô không quay lại con đường khi nãy, mà tiếp tục tiến về phía trước trên con đường nhỏ gập ghềnh, khúc khuỷu. Những tán cây mỗi lúc một rậm rạp hơn, trong lúc em còn chưa hiểu sẽ đi đâu, chiếc xe đã đến trước cổng một nhà hàng với chiếc cổng ra vào tráng lệ. "Shinoda" là tên của nhà hàng đó. Một nhân viên cỡ tuổi trung niên có vẻ đã quá quen mặt với bố đi ra, dẫn ba người chúng em vào một cái phòng khác. Từ đồ nội thất, chất liệu xây dựng, rồi cả thiết kế khiến cho tất cả các phòng đều có thể nhìn ra vườn cho ta thấy đây một nhà hàng đã được người chủ đầu tư khác nhiều tiền bạc và thời gian. Bố em cũng mời cả anh Kosakai vào cùng ăn, nhưng anh ấy khách sáo nói rằng đã ăn trưa rồi, bây giờ bụng vẫn no, anh ấy sẽ ở lại xe nghe nhạc gì đó.

    Chỉ riêng khu vườn thôi cũng cỡ ba nghìn hecta rồi. Đó là một khu vườn đơn giản, với nhiều cây to và những tảng đá lớn phủ đầy rong rêu, được sắp đặt bên nhau một cách tài tình. Ngay lập tức, một người phụ nữ trong bộ quần áo kimono cỡ chừng trạc tuổi em, hoặc hơn em một chút xíu đến bên bàn, chào hai bố con em. Bố giới thiệu với em rằng: "Đây là bà chủ cửa hàng". Sau đó, bố nói rằng em là con gái của ông, rồi kêu người ta mang đồ ăn như mọi khi tới. Em khẽ liếc bố và nói, bố có chỗ ở ẩn tận nơi này kia đấy. Bố giải thích rằng, bố bắt đầu thường xuyên đến đây để tiếp khách vào khoảng năm năm trước đây, và bố không biết tên, nhưng bà chủ này có một người bảo trợ cực kỳ to và lắm tiền. Những món ăn Kyoto được mang đến, bà chủ cửa hàng vừa xếp đồ ăn lên bàn vừa tiếp chuyện hai bố con em. Trong lúc ấy, em hướng mắt ra khu vườn và ngắm nhìn ra phía xa xa, nơi có vùng không gian thấm nhuộm một màu đỏ của cây momiji mùa độ lá với những chiếc lá đung đưa theo làn gió. Khi bà chủ đi khỏi, bố hỏi em rằng con thấy người phụ nữ ấy thế nào. Em trả lời rằng, cô ấy, cả bộ áo kimono, cả chiếc đai obi 2 thắt ngang hông, cả những thứ gắn trên người cô ấy đều tuyệt vời, thêm nữa, cô ấy lại còn rất đẹp nữa. Bố bảo: Người phụ nữ đó có cả tiền, rất xinh đẹp, và cái đầu cũng rất thông minh, nhưng giọng nói lại dở ẹc. Em bác lại, giọng nói chán cũng được chứ sao, bố. Bất chợt, mặt bố nghiêm lại và nói: "Giọng nói rất quan trọng. Nó phô bày bản chất của con người đó mà". Bố em còn nói thêm rằng, bác sĩ giỏi là một bác sĩ có thể phán đoán tình trạng sức khỏe của bệnh nhân vào ngày hôm đó thông qua sắc thái của giọng nói. "Giọng nói của người phụ nữ ấy rất tầm thường". Bố vừa lấy đũa gắp thức ăn trong những chiếc bát sơn mài vừa nói vậy và bật cười. Ăn xong cơm, hai bố con ăn hoa quả tráng miệng. Một lúc sau, bố chỉ tay ra vườn và bảo, ở đằng kia có bậc thang bằng đá. Leo hết những bậc thang đó, ta sẽ thấy một điện thờ nhỏ. Ngắm lá momiji ở đó là tuyệt nhất đấy. Sau đó, bố ra vườn, xỏ đôi guốc mộc geta 3, và rủ em: "Aki, con cũng đi cùng bố nào". Em nhận ra rằng bố có điều gì đó muốn nói với mình. Vì thế, em cùng bố đi ra vườn, rồi bước theo sau bố. Đúng như bố nói, đằng sau cây thông to là bậc thang bằng đá. Đó là những bậc thang có bề ngang rất hẹp mà cả hai người sẽ không thể cùng leo một lúc. Bậc thang đó khá dài. Leo hết những bậc thang dó, em và bố thở hổn hển, rồi hai bố con lấy khăn mùi soa trải xuống, và ngồi trên những phiến đá đó. Em ngồi yên nhìn bố từ phía sau. Em khẽ hỏi bố, bố định thế nào, bởi cũng sắp đến lúc bố phải nghỉ việc ở công ty rồi. Bố trả lời như thế này. "Đến tuổi này rồi, giờ thì bố đã hiểu thế nào là công việc. Giờ thì bố đã biết rằng làm việc chính là sống. Bố sẽ làm việc nhiều hơn nữa". Bố lại hướng mắt ra nhìn rừng lá momiji bát ngát, im lặng hồi lâu, rồi lúc sau, bố bắt đầu nói với em câu chuyện này. Bố có nghe chị Ikuko nói, hồi này, thường xuyên có những lá thư đề tên người nhận là con được gửi đến nhà mình. Tên người gửi những lá thư đó đều là tên con gái, nhưng mỗi lá lại là tên một người. Khoảng một tháng trước, có một hôm bố rời nhà đến công ty vào buổi trưa, xe ô tô đến đón và bố ra đến cổng nhà mình, khi ấy, trong hộp thư có thư nên bố đã lấy ra. Đó là thư gửi đến cho con, người gửi đề tên Hamashaki Michiko. Bố đưa lá thư đó cho chị Ikuko, rồi lên xe. Kể đến đó, bố quay lại nhìn em và nói thế này. "Nét chữ quen quá con ạ". Một lúc lâu, cả em và bố đều không nói gì, cứ thế hai bố con nhìn nhau. Cuối cùng bố cũng nói ra trước. "Arima hồi này thế nào hở con?". Em định kể cho bố nghe tất cả mọi chuyện, nhưng chẳng biết phải bắt đầu từ đâu. Vì thế, em đã giải thích cho bố nghe tất cả mọi chuyện với giọng kể rời rạc, không mạch lạc, cũng chẳng theo trình tự gì cả, từ chuyện em đã gặp lại anh tại Zao một năm trước đây, rồi việc trao đổi thư từ với anh, chi tiết diễn biến sự việc đó của anh, chuyện của anh vào Seo Yukako, cả kế hoạch kinh doanh mà anh đang thực hiện. Trong khi kể cho bố nghe tất cả những chuyện ấy, giọng em run run, nước mắt ngân ngấn. Thấy em như vậy, bố ân cần nói: "Con cứ bình tĩnh kể cho bố nghe nào". Kể xong, không hiểu sao tim em đập thình thịch, mãi không trấn tĩnh được. Bố im lặng một lúc lâu, rồi bố nhìn xuống đất và lại hỏi em. "Katsunuma có đưa hết khoản tiền lương ở trường đại học cho con không?". Em trả lời rằng: "Có ạ". Bố lại trầm tư nghĩ ngợi điều gì đó, rồi bâng quơ lẩm bẩm một tràng: "Nó thật khác với Katsunuma, thật bẩn thỉu". Bố nói rằng bố đã điều tra về Katsunuma. Nó có một người phụ nữ khác ở Kobe. Chắc con cũng biết chuyện đó rồi chứ? Bố tiếp tục. "Và, hai người đó đã có với nhau một đứa con gái, năm nay ba tuổi tròn". Bố vừa châm lửa vào điếu thuốc lá vừa nói, chắc hẳn nó phải làm thêm cái gì đó để kiếm thêm tiền. Bố hỏi em: "Con ghét Katsunuma à? Con không thích nó sao?". Rồi chẳng đợi em trả lời, bố nói với giọng bực bội. Nếu con muốn chia tay với nó, thì nên chia tay. Đó là quyền tự do của con. Con không nên sống cả đời với người đàn ông mà mình không yêu. Bố là người chỉ biết áp đặt. Bố không có con mắt nhìn người. Lúc nào con cũng bị bố mang những điều buồn phiền đến cho con. Nói đến đó, bố ngừng lại và lặng im không nói nữa. "Người khiến anh Katsunuma làm những điều đó là con. Người kết hôn xong, rồi gặp phải những điều buồn phiền là anh Katsunuma. Thế nhưng, con không thể nào thích được anh Katsunuma". Em cố gắng nói trong sự xúc động, nói cho bố hết những tâm tư ấy của mình.

    Từ lúc ấy, em lặng im một lúc rất lâu. Bố chăm chú ngắm nhìn rừng lá momiji, và cũng ngồi im, không nói một câu nào. Em nghĩ về anh Katsunuma. Trong nhiều lá thư của em, em đã cố tình không nhắc gì đến chồng mình, anh Katsunuma Soichiro. Chính điều đó đã cho thấy rõ ràng tình cảm của em với con người có tên Katsunuma ấy. Nhưng, anh Katsunuma hoàn toàn không phải là con người xấu. Là bố của bé Kiotaka, tuy không bao giờ nói ra, nhưng anh ấy luôn chất chứa nỗi buồn phiền và mang trọn tình yêu thương cho bé, cũng giống như em. Anh ấy chỉ toàn đọc những cuốn sách rất khó về lịch sử phương Đông, và là con người luôn hết lòng với những công trình nghiên cứu của bản thân mình, với những em sinh viên ở trường đại học mà mình phụ trách. Đã rất nhiều lần em nhìn hình ảnh anh ấy kiên trì chơi trò ném bóng chày với bé Kiotaka trên bãi cỏ để tập luyện phục hồi chức năng cho bé. Và rồi, sau đó, lần nào cũng như lần nào, anh ấy lại ngồi khoanh chân trên tấm thảm trong phòng khách, ôm bé Kiotaka vào lòng, hai bố con thủ thỉ tâm sự với nhau đủ thứ chuyện. Tại sao em lại không thể thích được một người đàn ông như thế kia chứ? Và, anh Katsunuma đã có tâm trạng thế nào khi thấy em như vậy? Bất chợt, em nghĩ đến những chuyện sau này, khi bố mất đi. Bố cũng sắp bảy mươi mốt tuổi. Không biết liệu bố có thể sống cho đến khi bé Kiotaka khôn lớn trưởng thành hay không? Em nhìn chiếc áo vét màu quả ô liu mà bố đang mặc trong tư thế ngồi quay lưng lại phía em. Em hình dung lại khuôn mặt của anh Katsunuma khi thủ thỉ tâm sự với con. Em thấy cổ họng mình nghèn nghẹn. Em ngồi bất động, người cứng đờ. Hình ảnh Katsunuma và cô bé sinh viên ấy đang quấn vào nhau dưới bóng râm của chiếc cổng ngôi biệt thự lớn trên con đường vào buổi chiều tà, phải rồi, hình ảnh đen sì như cái bóng, chứ không phải hình ảnh con người thực ấy lướt qua trong đầu em. Và lúc này, lần đầu tiên em cảm nhận thấy trong lòng mình mang một thứ tc gì đó na ná như tình yêu với anh Katsunuma. Em đứng lên, hướng tầm mắt nhìn ra những hàng cây cổ thụ rậm rạp, um tùm khắp một vùng không gian. Vài trăm loài cây màu đỏ sẫm, vài trăm loài cây màu vàng, vài trăm loài cây màu xanh và màu nâu đung đưa như thể đang nhảy múa trong ánh nắng thu, nghe xào xạc. Vừa ngắm nhìn rừng cây ấy, em vừa nói với bố, con muốn chia tay với anh Katsunuma. Con nên để cho anh ấy được công khai làm chồng của người phụ nữ kia, được làm cha chính thức của bé gái ba tuổi ấy. Con sẽ không kết hôn nữa đâu. Con sẽ cố gắng hết sức để nuôi dạy bé Kiotaka nên người. Bố giúp con bố nhé.

    Bố hút thêm một điếu thuốc nữa. Hút xong, bố dụi mẩu thuốc xuống đất cho tắt lẳ. Bố ngẩng mặt lên nhìn em khi em đang đứng ngây người ra, và cười. Bố nói: "Được", sau đó bố đứng dậy, rồi đi xuống bậc thang đá phủ kín rêu.

    Khi viết cho anh lá thư này, em đã đọc lại tất cả những lá thư của anh gửi đến cho em. Rất nhiều chuyện đã hiện lại trong đầu em. Tất cả đều là cái gì đó như là hình hài trái tim của riêng em, mà em không thể diễn đạt bằng lời. Duy có một điều, em có thể diễn đạt được và mô tả lại. Anh đã viết rằng, anh đã nhìn thấy sinh mệnh của mình, và bởi thế, anh cảm thấy sợ sống, anh nhỉ. Nhưng, phải chăng có thể nói rằng, thật sự anh đã nhìn thấy năng lượng mạnh nhất để người ta có thể sống một đời người, đời người mà nếu ta bảo nó ngắn thì nó ngắn, nếu bảo dài thì sẽ là dài. Em cứ thế nắm chặt bút mà băn khoăn không biết nên kết thúc lá thư cuối cùng gửi đến cho anh như thế nào đây. Tại sao em lại nghĩ ra câu nói đó từ âm nhạc của Mozart, anh nhỉ? "Cháu nghĩ, sự sống và cái chết có lẽ là như nhau". Thật như thể một câu nói từ đâu bột phát tuôn ra. Em đã viết lại câu nói đó vào trong thư, và nó là khởi nguồn để anh cho em hay rất nhiều chuyện mình không hề biết. Thế nhưng, cái từ mà em tuyệt nhiên không hề nói, cái từ mà ông chủ quán Mozart có cảm tưởng như nghe từ lời em nói, cái từ con tạo xoay vần lạ kỳ của vũ trụ, con tạo xoay vần lạ kỳ của sinh mệnh ấy giờ đây mang lại cho em một cảm xúc như thể một nỗi sợ sâu xa. Yukako, người đã chết vì tự dùng dao rạch cổ mình. Anh, kẻ nhìn thấy bản thân mình trong giờ phút hấp hối để rồi sống lại. Bố, con người cô đơn, hết mình vì công việc. Katsunuma, kẻ còn lén lút có thêm một gia đình nữa. Rồi em và bé Kiotaka, hai mẹ con cùng ngồi trên chiếc ghế băng ở khu vườn thược dược gần đó, ngắm nhìn vô số những vì sao trên trời. Có chăng, sinh mệnh của tất cả chúng ta chính là điều ẩn chứa những quy luật kỳ lạ và con tạo xoay vần .

    Có viết đến bao nhiêu đi chăng nữa sẽ không thể hết được. Có lẽ đã đến lúc phải buông bút rồi. Em cầu xin vũ trụ này, cầu xin vũ trụ ẩn chứa những quy luật kỳ lạ và con tạo xoay vần này ban phước cho hạnh phúc mãi mãi từ nay về sau của anh và Reiko. Em quyết định sau khi cho lá thư này vào phong bì, viết tên người gửi và dán xong tem, mình sẽ nghe bản giao hưởng số 39 của Mozart, những giai điệu mà lâu lắm rồi mình không nghe. Chào tạm biệt anh! Anh cố gắng giữ gìn sức khỏe nhé! Tạm biệt anh!

    Kính thư!

    Ngày 18 tháng 11

    Katsunuma Aki

    --------------------------------
    1 Hiragana: là kiểu chữ âm tiết truyền thống của tiếng Nhật, thuộc một thành phần của hệ thống chữ viết Nhật Bản, cùng với katakana và kanji.
    2 Obi: Là chiếc thắt lưng được dùng để mặc kèm với kimono.
    3 Geta: Là loại guốc truyền thống của Nhật Bản.




    Hết

Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-16-2020, 11:10 PM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-23-2019, 11:47 AM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-21-2018, 02:04 PM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-06-2016, 12:45 PM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-30-2013, 01:08 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •