Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Muốn nhận hạnh phúc thì trước hết phải chia hạnh phúc.
The Flight Of Freedom
Trang 5 / 6 ĐầuĐầu ... 3456 Cuối Cuối
Results 41 to 50 of 51

Chủ Đề: Kim Bút Thần Hiệp

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Kim Bút Thần Hiệp

    Kim Bút Thần Hiệp

    Tác giả :Trần Thanh Vân




    MỤC LỤC [−]

    1. Thiên Long Kim Bút
    2. Long Xà Qui Tụ Thành Trường An
    3. Hỏa Thiêu Thiên Long Phủ
    4. Tiêu Dao Thư sinh
    5. Gia Nhập Hổ Huyệt
    6. Vân Mộng Ma Đàn Hội Ân Sư
    7. Nạn Nữ Lấy Chết Báo Thâm Thù
    8. Trong Hang Hùm Bày Kế Ly Gián
    9. Trong Đầm Rồng Mây Mưa Vần Vũ
    10. Kim Bút Thần Hiệp
    11. Nghệ Cao Đởm Tráng Tựa Thần Long
    12. Mưu Sâu, Trí Lớn
    13. Vô Tình Kim Cang Táng Mạng
    14. Kim Hoa Ma Hội Nghịch Thiên Ma Giáo
    15. Sở Tuy Đông Nhưng Vẫn Bị Tần Diệt
    16. Dông Tố Qua Đi Trời Lại Sáng




    Hồi 1

    Thiên Long Kim Bút
    Vầng kim ô đã ngã về tây, từng đàn chim lần lượt kéo nhau vào rừng.

    Trên một bãi cỏ rộng ven rừng, một văn sĩ trung niên đang cúi xuống xem xét một tử thi.

    Tử thi ấy tuy bị trúng rất nhiều phi tiêu, nhưng không phải là một người bằng xương bằng thịt.

    Lúc này, chỉ thấy văn sĩ trung niên từ từ đứng thẳng nguời lên, lắc đầu buông tiếng thở dài, đoạn đưa mắt nhìn về phía trời tây, đối mặt với nắng chiều rực rỡ thờ thẫn đứng thừ ra.

    Bảy tám năm về trước, một cuộc chiến đẫm máu đã xảy ra tại vùng Tân Dã thuộc Do Nam. Kết quả là Thiên Cương Thất Sát cùng Hải Nội Tứ Độc tất cả đều vong mạng.

    Thiên Yêm Tẩu ở Ngũ Đài đứt một cánh tay. Thủy Hỏa Song Cơ ở Dương Châu kinh hồn bỏ chạy mới khỏi táng thân.

    Sau cuộc chiến kinh thiên động địa giữa hai phái chính tà ấy, bọn hắc đạo trong một thời gian dài không còn dám làm mưa làm gió trên chốn giang hồ nữa.

    Và vị truyền nhân của Thiên Long, người đã lãnh đạo phe chánh phái tiêu diệt quần ma, Kim Bút đại hiệp Lệnh Hồ Huyền trong một sớm một chiều đã vang danh thiên hạ. Vô hình trung trở thành người lãnh tụ võ lâm được hai giới hắc bạch công nhận.

    Kim Bút đại hiệp Lệnh Hồ Huyền chính là người văn sĩ trung niên hiện đang đứng trên bãi cỏ.

    Tuy nhiên, Kim Bút đại hiệp Lệnh Hồ Huyền lúc này không phải đang ngắm mặt trời lặn, và cũng không phải đang hồi tưởng lại dĩ vãng huy hoàng kia, mà nguyên nhân đã khiến cõi lòng ông trĩu nặng cũng chẳng phải do hình nộm dưới chân, mặc dù mỗi ngọn tiêu đều không trúng vị bộ đã định.

    Bởi ông hiểu rất rõ về tư chất của đệ tử các cấp, ngay như ba nguời đệ tử đồng bút còn không hy vọng, sá chi là mấy vị đệ tử thiết bút vừa rồi.

    Trời tối dần, Kim Bút đại hiệp nhếch môi cười chua chát, lại lắc đầu và buông tiếng thở dài, đoạn quay người rời khỏi bãi cỏ, theo một con suối nhỏ đủng đỉnh bước về phía trang viện.

    Ngay khi Kim Bút đại hiệp khuất dạng sau cổng trang viện, bỗng có hai bóng người từ trong rừng phóng ra, im lìm phi thân đến cạnh hình nộm.

    Sau một hồi kỹ lưỡng xem xét, một người áo đen thấp giọng:

    - Mã huynh thấy thế nào?

    Người áo đen kia lắc đầu, giọng ồ ề đáp:

    - Ta thấy đầu lĩnh chúng ta nên tạm dẹp bỏ ý định kia là hơn, người ta chỉ vì có đệ tử không ra gì nên mới buồn rầu như vậy, đầu lĩnh lại ngỡ người tạ..

    Rồi thì cũng như lúc xuất hiện, hai người áo đen nhìn quanh thật nhanh, sau đó biến mất trở vào rừng Lúc Kim Bút đại hiệp đang đi đến tiền sảnh, bỗng nghe bên trong đang có tiếng cười nói râm ran, Kim Bút đại hiệp bất giác chau chặt đôi mày rậm.

    Những người đang chờ trong sảnh để cùng ông ăn tối chính là Kim Bút Tứ Hữu mà mọi người trong giới võ lâm ai cũng đều biết đến, đó là Hoa Sơn Bạch Y Hiệp Nhiếp Văn Vệ, Kim Lăng Công Tử Hồ Dật Bình, Thuận Thiên Vô Thường Tố Đạt Tam và Lưu Tinh Cản Nguyệt Lang Tinh Kỳ!

    Bốn người này đều là bạn thân đã kết giao lúc hành đạo trên chốn giang hồ của Kim Bút đại hiệp. Kim Bút đại hiệp luôn xem bốn người bạn sinh tử chi giao này như là thủ túc, mặc dù họ chưa từng tham dự vào cuộc chiến Tân Dã khi xưa. Tuy nhiên, sự việc đã xảy ra khi sáng khiến Lệnh Hồ Huyền đã không bằng lòng đối với bốn người này.

    Kim Bút đại hiệp nhận thấy bốn người bạn thân này có lẽ đã vì quá kính trọng ông, cho nên việc gì cũng đều quyết định theo ánh mắt của ông, hoàn toàn không như Thiên Long Lục Tào đối với ân sư ông là Thiên Long lão nhân khi xưa, luôn giữ gìn sự trung thực giữa bằng hữu với nhau.

    Ông tin rằng sáng nay nếu Tứ Hữu đổi lại là Lục Tào thì chàng thiếu niên Do Nhân Kiệt chắc chắn đã được thu nhận rồi.

    Kim Bút đại hiệp chợt dừng bước, lão gia nhân đi sau liền ngạc nhiên hỏi:

    - Lão gia...

    Kim Bút đại hiệp quay lại ngắt lời:

    - Hãy vào nói với Nhiếp gia và mọi người không cần chờ nữa, bảo là hiện ta đang có việc cần, không phân thân được, lát nữa hãy cho ta tô mì, nhân tiện bảo Trịnh sư gia đến thư phòng gặp ta!

    Vào trong thư phòng nơi góc viện, Kim Bút đại hiệp đăm chiêu nhìn vào ngọn lửa bập bùng cháy trước mặt, lại đăm chiêu vào suy tư.

    Trong gian thư phòng này đâu đâu cũng có để lại bút tích của ân sư Thiên Long lão nhân, qua đó đã khiến Kim Bút đại hiệp lại nhớ đến Thiên Long Lục Tào.

    Trong cuộc chiến tại Tân Dã khi xưa, phe tà phái đông hơn trăm người, phe chính phái ngoài ông ra chỉ có Thiên Long Lục Tào gồm Thi, Kỳ, Tửu, Trà, Địch và Kiếm sáu người, kết quả Thiên Long Lục Tào đã thiệt mất bốn người, chỉ còn lại Tửu Tẩu Từ Thích Chi và Kiếm Tẩu Tiêu Chấn Võng!

    Sau đó, mặc dù ông đã thu xếp ổn thỏa cho bốn gia đình của Thi, Kỳ, Trà, Địch, xây nhà nuôi dưỡng Tửu Tẩu và Kiếm Tẩu, song dù đối với người sống cũng như kẻ chết, ông vẫn luôn cảm thấy ray rứt trong lòng.

    Bởi Lục Tào đã theo ân sư gần sáu mươi năm dài đều bình an vô sự, vậy mà sau khi ân sư từ trần, tuy thanh danh Kim Bút đại hiệp của ông ngày một vang lừng, song trong số họ sáu người, bốn người đã vĩnh viễn xa rời nhân thế.

    Sau cuộc chiến Tân Dã vì khơi quật nhân tài để kế nghiệp cho dòng Thiên Long và phòng bị bọn ma đầu đã cao bay xa chạy, hằng năm vào ngày hôm nay mồng năm tháng tám, và cũng là ngày kỷ niệm cuộc chiến Tân Dã, Kim Bút đại hiệp đều tiếp kiến hai hoặc ba thiếu niên đã trải qua cuộc sơ thí nghiêm ngặt, cùng với sự có mặt của Kim Bút Tứ Hữu tuyển chọn lần cuối cùng, để quyết định có thu nhập vào làm đệ tử hay không.

    Hôm nay có ba thiếu niên được tiếp kiến, hai người một họ Vưu và một họ Thân, đều do phái Hành Sơn đề cử. Hai người này tuy khí chất cũng khá, song hiềm vì căn cơ quá kém, khó hy vọng đạt được thành tựu lớn, nên khi vừa lên đến đã bị Tứ Hữu nhất trí phủ quyết.

    Còn người thứ ba là Do Nhân Kiệt, vừa trông thấy diện mạo của chàng thiếu niên này, Kim Bút đại hiệp lập tức hết sức kinh ngạc, ông có cảm giác khi xưa ân sư lần đầu tiên gặp ông, nhất định cũng kinh ngạc như vậy!

    Chẳng những vậy, Kim Bút đại hiệp lúc bấy giờ còn khẳng định là chàng thiếu niên Do Nhân Kiệt sau khi đầu nhập Thiên Long môn, nếu được ông tận tâm đào tạo, thành tựu sau này nhất định còn cao hơn chính bản thân ông.

    Do đó, ngay lúc ấy Kim Bút đại hiệp trong lòng đã nảy sinh một cảm giác kỳ lạ, hiện tuổi ông chưa đầy năm mươi, đang trong thời kỳ sung mãn đối với một người trong giới võ lâm, phải chăng thật sự cần thiết cấp tốc đào tạo một người kế nghiệp hầu trong tương lai làm rạng rỡ cho ông.

    Ngay khi ý nghĩ ấy vừa nảy sinh, chính bản thân Kim Bút đại hiệp cũng không khỏi kinh ngạc.

    Thế là đôi mày của Kim Bút đại hiệp đã tự nhiên chau lại, thật ra đó chẳng qua chỉ là do tự trách, với một người vang danh hiệp nghĩa như ông, tại sao lại có ý nghĩ hẹp hòi vị kỷ như vậy?

    Thế nhưng, nhóm Tứ Hữu hiển nhiên đã hiểu lầm tâm ý của ông, nên liền khoát tay, thế là cuộc thi đã kết thúc một cách qua loa trước thời gian đã định.

    Đến khi Kim Bút đại hiệp quay về thực tại thì chàng thiếu niên họ Do đã ra đến ngoài cổng trang rồi!

    Khi nãy ở trên bãi cỏ, Kim Bút đại hiệp đã thẫn thờ nghĩ ngợi chính là vì việc này.

    Suốt ngày lòng ông đã không ngớt tự hỏi, ngay khi phác giác chàng thiếu niên họ Do rời khỏi, ông đuổi theo phải chăng vẫn còn kịp? Thế nhưng, tại sao ông đã không làm như vậy?

    Bỗng, bóng người thấp thoáng, một lão nhân áo dài bước vào, người này chính là Trịnh sư gia, vừa vào đến thư phòng, Trịnh sư gia liền vòng tay thi lẽ nói:

    - Lão gia cho gọi chẳng hay có điều chi dặn bảo?

    Kim Bút đại hiệp ngẩng lên:

    - Bốn nhà Phùng Lập Lý Do dạo này đều yên khỏe cả chứ?

    Trịnh sư gia cung kính đáp:

    - Nhờ hồng phúc của lão gia, tất cả đều yên khỏe cả! Hồi tháng rồi Trương Tam có đi ngang qua Trung Nghĩa Trang, họ đều nhắn lời thăm hỏi và mong lão gia hãy giữ gìn sức khỏe!

    Kim Bút đại hiệp gật đầu:

    - Còn hai lão nhân gia Từ Tiêu thì sao?

    Trịnh sư gia mỉm cười:

    - Từ lão nghe đâu suốt ngày vẫn say sưa, ai khuyên cũng không được, còn Tiêu lão thì đang lo rèn một thanh kiếm tốt cho lão gia?

    Kim Bút đại hiệp ngạc nhiên:

    - Rèn kiếm cho Lệnh Hồ mỗ ư? Bổn nhân đâu có dùng kiếm!

    Trịnh sư gia mỉm cười:

    - Tiêu lão bảo là cũng biết điều ấy, nhưng vẫn cho là trong Thiên Long phủ mà không có một thanh kiếm tốt thì thật là thiếu sót. Tiêu lão còn bảo là nếu lão gia không chịu mang theo bên mình thì cứ treo trong thư phòng để trang trí cũng tốt thôi!

    Kim Bút đại hiệp phì cười:

    - Đó cũng là tấm lòng của ông ấy, thôi thì cứ để mặc ông ấy vậy!

    Trịnh sư gia tiếp lời:

    - Lão gia còn dặn bảo gì nữa không?

    Kim Bút đại hiệp ngẫm nghĩ một hồi, đoạn nói:

    - Từ nay cứ cách mười hôm nửa tháng, hãy bảo Trương Tam đến Trung Nghĩa Trang một lần, xem thiếu thứ gì thì cứ cho người đến lấy. Còn về phần Từ lão, sư gia hãy đích thân đến đó, ông ấy đã nghiện rượu quá nặng, bảo ông cai bỏ ngay tức khắc đương nhiên là không thể được, nhưng uống ít đi một chút hẳn là có thể. Nếu cần thiết, sư gia cứ dọa cho ông ấy một phen, bảo đó là của lệnh Lệnh Hồ mỗ, nếu ông ấy mà không chịu giảm bớt sẽ lập tức đưa ông vào ở trong phủ, đến lúc ấy thì ngay cả một giọt cũng chẳng được uống.

    Trịnh sư gia khom mình:

    - Lão nô xin vâng mạng!

    Sau khi Trịnh sư gia lui ra, lão gia nhân Trần Đại mang vào tô mì. Kim Bút đại hiệp ăn xong, đứng lên đi loanh quanh trong phòng, mặc dù cõi lòng đã có phần nhẹ nhõm bởi sự sắp xếp vừa rồi, song hình bóng của chàng thiếu niên họ Do vẫn không tài nào xua tan được.

    Sau cùng, Kim Bút đại hiệp khẽ buông tiếng thở dài, thầm nhủ:

    - Việc đã qua rồi, còn nghĩ đến làm gì nữa? Tương lai còn dài, chả lẽ không còn gặp được một người như Do Nhân Kiệt nữa hay sao?

    Ra khỏi Thiên Long phủ, Do Nhân Kiệt chán chường vô hạn. Chàng không oán trách ai cả, Kim Bút đại hiệp là Thái Sơn bắc đẩu trong giới võ lâm, Kim Bút Tứ Hữu cũng là những hào kiệt xuất sắc xuống bàn, trố to mắt và chỏi tay lên bàn lớn tiếng nói:

    - Tiểu tử ngươi không cho họ biết ngươi chính là...

    Do Nhân Kiệt cười khẩy:

    - Cho họ biết kẻ này chính là tôn nhi của Địch Tẩu trong Lục Tào chứ gì? Vậy, nếu nói ra thì Do Nhân Kiệt này nhất định sẽ được thu nhập vì nễ tình gia tổ, không đáng làm đồ đệ thì cũng có thể làm công vặt, nhưng thật đáng tiếc, Do Nhân Kiệt này chưa đến nỗi hèn hạ như vậy!

    Lão nhân lắc đầu nguây nguẩy:

    - Không đúng! Không đúng!

    Do Nhân Kiệt nghiêng mặt:

    - Gì mà không đúng?

    Lão nhân lẩm bẩm:

    - Theo lão phu thấy nhất định là phải có vấn đề!

    Do Nhân Kiệt thắc mắc:

    - Vấn đề gì?

    Lão nhân ngẩng lên:

    - Cái khác không nói đến, chỉ so với mấy tên tiểu tử họ Công Dã, họ Dương, họ Dư, họ Mã... chẳng lẽ ngươi không hơn sao?

    Do Nhân Kiệt nhếch môi cười chua chát:

    - Những lời ấy Kiệt nhi đã nghe đến hàng trăm lần rồi, xin đa tạ sự khen ngợi của gia gia, chỉ tiếc là truyền nhân Thiên Long họ Lệnh Hồ chứ không phải là Tửu Tẩu đại nhân, một trong Lục Tào!

  2. #41
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Đoạn khẽ buông tiếng thở dài, từ từ nhắm mắt lại, dừng như ý vốn có gì muốn nói, nhưng lại thấy dù có nói ra thì cũng chẳng ích gì cho bản thân y vậy.

    Vô Tình Kim Cang quay sang Do Nhân Kiệt nói:

    – Hắn vậy là sao?

    Do Nhân Kiệt nhún vai:

    – Ai mà biết? Có lẽ định nhờ tiểu đệ cầu xin đó thôi!

    – Hừ, đừng có mơ tưởng!

    Đoạn hai người đi về phía tử thi của Ngô Tam Cát. Lần này, chẳng mấy chốc đã có thu hoạch, vật soát ra được là một chiếc túi da.

    Vô Tình Kim Cang từ trong lấy ra một mảnh giấy, khẽ đọc:

    – Có Huỳnh kỳ hộ giáo ngoại hiệu Ngũ Toàn Sơn Nhân và phó đường chủ Nga Mi Đao đường Hỏa Cơ Giải Y Lôi đã lần lượt đến Huê Dung...

    Do Nhân Kiệt hồn phi phách tán, chàng nằm mơ cũng chẳng ngờ người do Đỗ Môn tú sĩ phái tiềm phục trong Thiên Ma Giáo lại là Đa Nhục Cương Thi Thân Nhật Phú.

    Vô Tình Kim Cang vội vàng đọc xong cười khẩy nói:

    – Khốn kiếp, giỏi cho tiểu tử!

    Do Nhân Kiệt định thần tiếp lời:

    – May là chúng ta đã trừ khử được Âu Dương Đạt và ngăn cản hai tên này tại đây, không thì thật là tệ hại.

    Giờ đây chàng chỉ còn niềm hy vọng duy nhất đó là mong Đỗ Môn tú sĩ đã không dối gạt chàng, chàng không biết kẻ chuyển tin là Đa Nhục Cương Thi và Đa Nhục Cương Thi cũng không biết kẻ viết mảnh giấy này chính là chàng.

    Vô Tình Kim Cang ngoắc tay nói:

    – Hãy đến hỏi thử tên kia xem!

    Do Nhân Kiệt vờ ngạc nhiên hỏi:

    – Tang chứng đã tìm được rồi, còn gì để mà hỏi nữa?

    – Có lẽ còn nội tình nữa, hôm trước đã trừ đi tên tiểu tử họ Long, bây giờ lại đến tên họ Thân này, đó là một bằng chứng rất cụ thể, lại thêm hắn lại là cháu vợ của tam giáo chủ, chẳng thể không tra hỏi cho tận tường, hãy xem thủ đoạn của lão phu đây!

    Do Nhân Kiệt càng nghĩ càng hối hận, song giờ thì đã quá muộn màng, đành gật đầu nói:

    – Hạ Hầu huynh nói rất phải!

    Hai người đi đến trước mặt Đa Nhục Cương Thi.

    Vô Tình Kim Cang giơ mảnh giấy lên, đanh mặt hỏi:

    – Cái này có phải ngươi đã trao cho tên tiểu tử đó không?

    Đa Nhục Cương Thi thẳng thắng gật đầu:

    – Đúng vậy!

    – Và ai đã trao cho ngươi?

    – Không biết!

    Vô Tình Kim Cang tức giận:

    – Khốn kiếp, nếu ngươi mà nói thêm một tiếng không biết, lão phu lột da ngươi ngay!

    Đa Nhục Cương Thi nhắm mắt lại nói:

    – Đừng nói lột da, dù thịt cũng vậy thôi, không biết vẫn là không biết!

    Do Nhân Kiệt nhẹ người, quả nhiên Đỗ Môn tú sĩ đã không dối gạt chàng.

    Vô Tình Kim Cang nghiến răng, cười khẩy nói:

    – Để xem xương cốt của ngươi cứng đến độ nào!

    Đoạn nhấc chân lên, đạp trên cột sống Đa Nhục Cương Thi, vận kình đè xuống.

    Đa Nhục Cương Thi liền rên lên một tiếng đau đớn, người co rún lại, mồ hôi to cỡ hạt đậu từng giọt vã ra, gương mặt vốn xanh xao lập tức trở nên vàng bệch.

    Vô Tình Kim Cang nới chân lên một chút, gằn giọng hỏi:

    – Bây giờ đã biết chưa?

    Đa Nhục Cương Thi thở hào hển một hồi, giọng đứt quãng nói:

    – Xin Hạ Hầu lão hộ giáo minh xét, Thân mỗ... quả thật là... không biết...

    Vô Tình Kim Cang thấy đối phương không giống nói dối, quắc mắt hỏi tiếp:

    – Vậy bức thư này từ đâu mà có?

    – Dưới bậc thềm trước Nga Mi Đao đường có một kẽ nức nhỏ, bức thư này chính là đã lấy được từ trong ấy.

    – Mỗi lần ngươi lấy được đều mang đến đây phải không?

    – Phải!

    – Mỗi lần đều trao cho tên tiểu tử họ Ngô ư?

    – Phải!

    – Sau đó hắn chuyển đến tay Ôn Tư Quảng phải không?

    – Phải!

    – Ôn Tư Quảng hiện đã có mặt tại Huê Dung, tại sao không mang đến đó gần hơn mà lại mang đến đây xa vậy?

    – Không rõ!

    Vô Tình Kim Cang cười khẩy:

    – Lại không rõ nữa ư?

    Đa Nhục Cương Thi hoảng kinh, vội nói:

    – Quả thật là không rõ, có lẽ họ còn cách chuyển giao khác nữa. Tại hạ ngặt vì úy kỵ, chẳng tiện hỏi nhiều, mong lão hộ giáo hiểu rõ điều ấy.

    – Ngươi làm vậy được ích lợi gì?

    – Điều ấy...

    – Nói đi, ngươi là cháu vợ của tam giáo chủ, lại là người kỳ cựu trong giáo, hiện nay dù gì cũng là một Huỳnh kỳ hộ pháp, ăn uống tha hồ, bổn giáo đã ngược đãi ngươi ở chỗ nào hả?

    Đa Nhục Cương Thi cúi gầm mặt:

    – Họ bảo là sau này khi Thiên Đạo Giáo chính thức thành lập, sẽ giao cho tại hạ chức vị đường chủ!

    Vô Tình Kim Cang tức giận:

    – Hiện nay ngươi đã là một Huỳnh kỳ hộ pháp, chức hộ giáo sẽ được thăng trong nay mai, một hộ giáo kém hơn một đường chủ ở chỗ nào?

    Đa Nhục Cương Thi lúng túng:

    – Đó là việc hồi hai năm trước, khi ấy Thân mỗ còn là một Hắc kỳ hộ đàn.

    – Cho dù lúc ấy địa vị ngươi còn thấp, nhưng chả lẽ ngươi không nghĩ đến ngươi là gì của tam giáo chủ, ngươi làm như vậy thì còn mặt mũi nào nhìn mặt lão nhân gia nữa?

    – Tại hạ nguyện đới công chuộc tội, chỉ xin lão hộ giáo nương tay cho. Thân mỗ sẽ vĩnh viễn không quên ân đức của lão hộ giáo.

    Vô Tình Kim Cang cười khẩy:

    – Chỉ cần tam giáo chủ tha cho ngươi được thì lão phu chẳng có gì để nói cả!

    Đa Nhục Cương Thi nghe nói sẽ đưa mình về tổng đàn giao cho tam giáo chủ đích thân xét xử, lập tức mặt mày tái ngắt. Thế nhưng, hiển nhiên y biết rõ tính nết của Vô Tình Kim Cang, van xin cũng chỉ uổng công, nên nhắm mắt lại không nói gì nữa.

    Vô Tình Kim Cang quét mắt nhìn quanh, đoạn lại quay lại hỏi:

    – Khách điếm này không còn ai khác nữa ư?

    – Còn hai gã phổ ky!

    – Khách điếm này có quan hệ với Ôn Tư Quảng hay không?

    – Tại hạ không rõ, chỉ biết là Ngô Tam Cát rất quen thân với họ, có lẽ không có quan hệ gì sâu xa, chỉ là được chút lợi lộc thôi!

    – Hai gã phổ ky ấy hiện ở đâu?

    – Đi chuẩn bị thức ăn rồi!

    Ngay khi ấy, trong sân vườn ngoài kia bỗng có tiếng bước chân vang lên.

    Chỉ nghe một gã phổ ky nói:

    – Tối nay còn đi nữa không?

    Một gã phổ ky khác làu bàu:

    – Đương nhiên là phải đi rồi, nhưng ta nghi tên Tiền Hạt Tử quá! Mẹ kiếp, bài của ta cứ luôn thua hắn sát nút, ta quyết chẳng tin là không có sự gian lận!

    Gã phổ ky trước cười ha hả:

    – Đó đúng là trời cao có mắt! Mẹ kiếp, ngươi còn độc thân, nếu không uống rượu, không đàn bà, mỗi tháng kiếm được nhiều thế kia, nếu không cúng vào đó một ít thì biết tiêu xài vào đâu chứ?

    – Thôi đi, tổ bà ngươi!

    – Sao ngươi lại mắng người ta? Đó là ta nói thật lòng mà! Hãy xem ta này, chi tiêu khác không kể, nội chỗ mụ góa phụ Bì Tứ, mỗi tháng chỉ cần đến đó chừng mười lần...

    Vô Tình Kim Cang khoát tay:

    – Lão đệ hãy canh chừng ở đây, để lão phu giải quyết hai tên đó cho!

    Đoạn liền lách người ra cửa.

    Lão vừa khuất dạng, Đa Nhục Cương Thi bỗng hối hả nói:

    – Do thiếu hiệp, xin hãy giải huyệt đạo cho tại hạ mau!

    Do Nhân Kiệt giật mình kinh hãi:

    – Ngươi... ngươi nói gì?

    Đa Nhục Cương Thi nói nhanh:

    – Lão quỷ ấy hành sự luôn rất sạch gọn, sẽ quay lại đây ngay, thời gian không nhiều, thiếu hiệp hãy mau động thủ, có gì lát nữa thư thả hãy nói...

    Do Nhân Kiệt nghĩ nhanh, nếu bỏ mặc Đa Nhục Cương Thi, về đến tổng đàn sớm muộn gì y cũng sẽ cung khai. Như vậy, chẳng những không hay cho cá nhân chàng, mà phía Huê Dung, bởi không nhận được mật tin này, rất có thể sẽ bị Ngũ Toàn Sơn Nhân dò la được bí mật Quân Sơn, nếu không có bọn Đỗ Môn tú sĩ đối kháng Thiên Ma Giáo thì sư đồ chàng với Thiên Sơn Tam Nghĩa có chống nổi Thiên Ma Giáo chăng?

    Do đó, chàng quyết định mọi sự phải vì đại cuộc, bèn lập tức tiến đến gần, một tay đặt lên huyệt đan điền của Đa Nhục Cương Thi.

    – Lát nữa còn động thủ được chăng?

    Đa Nhục Cương Thi gật đầu:

    – Không hề gì! Lão quỷ ấy rất là xuẩn ngốc, vừa rồi Thân mỗ chỉ là giả tạo thôi.

    Lát nữa thiếu hiệp chỉ cần tìm lời để nói, kéo dài thời gian chừng nửa tuần trà nóng.

    Thân mỗ sẽ hoàn toàn bình phục, khi ấy Thân mỗ sẽ hạ thủ sau lưng, lúc lão quỷ ấy quay lại, thiếu hiệp bồi thêm một thích nữa là xong!

    Bên kia sân vườn, bỗng vang lên hai tiếng rú thảm thiết.

    Đa Nhục Cương Thi đưa tay đẩy nhẹ nói:

    – Được rồi, tránh ra mau!

    Do Nhân Kiệt vừa đứng thẳng lên, đã thấy bóng người thấp thoáng, Vô Tình Kim Cang sải bước đi vào.

    Do Nhân Kiệt quay người lại hỏi:

    – Đã giải quyết xong cả rồi chứ?

    Vô Tình Kim Cang khoát tay:

    – Phải! Hãy trói lão tiểu tử này lại rồi đi tìm một chiếc xe ngựa, chúng ta có thể đi được rồi!

    Do Nhân Kiệt lắc đầu:

    – Hãy khoan, tiểu đệ vừa chợt nghĩ đến một vấn đề!

    Vô Tình Kim Cang ngạc nhiên:

    – Vấn đề gì vậy?

    Do Nhân Kiệt rề rà đáp:

    – Tiểu đệ nhận thấy những lời nói vừa rồi của Thân hộ pháp này dường như chưa hoàn toàn đúng sự thật!

    Vô Tình Kim Cang trố mắt:

    – Ở điểm nào?

    – Y bảo tên tiểu tử họ Ngô là đệ tử phái Chung Nam, điều ấy e rằng không đúng sự thật!

    – Dựa vào đâu?

    – Theo tiểu đệ được biết, Thần Đao Hiệp phái Chung Nam là một người khá chính trực, còn tên tiểu tử Ngô Tam Cát này tướng mạo gian xảo, Thần Đao Khách không bao giờ lại thu nhận một đệ tử như thế!

    – Cho dù hắn không phải đệ tử phái Chung Nam thì có quan hệ gì?

    – Quan hệ lắm chứ! Qua đó chứng tỏ những lời nói của Thân hộ pháp vừa rồi hoàn toàn là bịa đặt!

    – Về đến tổng đàn thì thiếu gì thời gian, từ từ tra khảo cũng chẳng muộn.

    – Tình hình đâu có như nhau!

    – Khác nhau ở chỗ nào?

    – Khi về đến tổng đàn, việc tra khảo tiếp theo nhất định vẫn là hai chúng ta, lúc bấy giờ nếu Thân hộ pháp này tráo trở không thừa nhận, trước mặt ba vị giáo chủ chẳng phải chứng tỏ hai chúng ta bất tài hay sao?

    Vô Tình Kim Cang gật đầu:

    – Cũng có lý! Vậy theo ý lão đệ thì sao?

    Do Nhân Kiệt trầm ngâm:

    – Theo ý tiểu đệ thì... à, Hạ Hầu huynh hãy đến đây!

    Song chàng vẫn đứng yên, nên khi Vô Tình Kim Cang đi đến trước mặt chàng thì lại vừa quay lưng về phía Đa Nhục Cương Thi.

    Ngay khi Vô Tình Kim Cang chưa đứng yên, Đa Nhục Cương Thi đã tung người lên, nhắm ngay sau ót Vô Tình Kim Cang, cố sức một chưởng bổ xuống.

    Do Nhân Kiệt cũng không chút chậm trễ, song chưởng với chiêu “Song Long xuất hải” phóng thẳng ra.

    Vô Tình Kim Cang bị tiền hậu giáp công bất ngờ, không tài nào trở tay kịp, chỉ mắng chửi được một tiếng rồi lảo đảo gục ngã xuống đất. Đa Nhục Cương Thi sợ Vô Tình Kim Cang tỉnh dậy, y bồi thêm mấy đạp nữa, đến khi sọ não đối phương nát bấy mới từ trên mình tử thi lấy mật thư ra, đứng lên hất mạnh đầu nói:

    – Ta đi thôi!

    Nói xong hai người tung mình lên không, vội vã rời khỏi khách điếm. Họ rời khỏi khách điếm nơi đầu trấn, lại đi vào một khách điếm nơi cuối trấn.

    Sau khi vào trong phòng, Do Nhân Kiệt hỏi:

    – Bức mật thư này giải quyết sao đây?

    Đa Nhục Cương Thi ngẫm nghĩ một hồi, đoạn nói:

    – Bây giờ Thân mỗ đành đích thân mang đi thôi!

    – Thân hộ pháp còn quay về nữa không?

    – Còn quay về chi nữa? Lão đệ nghĩ là Thân mỗ có thể bắt được đồ đệ của Hắc Bạch Song Quái thật ư?

    – Vậy thì Thân hộ pháp đi đi!

    – Còn lão đệ?

    – Tối nay Do mỗ phải trở lại khách điếm kia đem xác lão quỷ ấy vào rừng đặt cạnh tử thi của Âu Dương Đạt...

    Đa Nhục Cương Thi sửng sốt:

    – Lão đệ nói sao?

    Do Nhân Kiệt bèn kể lại sự việc trừ khử Tiếu Diện Di Đà vừa qua.

    Nghe xong, Đa Nhục Cương Thi giơ ngón tay cái lên nói:

    – Lão đệ quả là tài giỏi!

    Chẳng bao lâu trời đã tối, hai người chia tay đường ai nấy đi. Trước lúc lên đường, Do Nhân Kiệt nhờ Đa Nhục Cương Thi chuyển lời với Đỗ Môn tú sĩ, bảo là sào huyệt của Thiên Hồ Vi Sĩ Lôi nhất thời chẳng dễ tìm ra, nhưng xin lão cứ yên tâm, nếu việc này không hoàn thành, chàng quyết không rời khỏi Thiên Ma Giáo.

    Đêm ấy, Do Nhân Kiệt thực hiện xong những gì cần làm, chàng tiếp tục đi về hướng Hoàng Mai, như không hề hay biết gì cả.

    Ba hôm sau, chàng đến một tiểu trấn có tên là Đại Kim Phố, lúc ấy vào đầu giờ ngọ, khi chàng đang định tìm một quán cơm ăn uống và nghỉ chân, bỗng thấy một đám đông vây quanh một khoảng đất trống, chen lẫn nhau tiến tới trước, như để xem chuyện vui lạ chi đó.

    Nhất thời lòng hiếu kỳ thôi thúc, chàng bất giác cũng đi về phía khoảng đất trống.

    Song, kết quả thật là thất vọng, thì ra đó chỉ là một người mại võ giang hồ.

    Do Nhân Kiệt không khỏi nực cười vừa định quay người bỏ đi, chàng chợt động tâm, liền lại chững bước. Không, đây nhất định không phải một người mại võ bình thường.

    Lúc này đứng giữa khoảng đất trống là một người đàn ông tuổi trạc tứ tuần, chỉ mặc mỗi chiếc quần cộc, mình trần trùi trụi, lưng thắt dây đai to bản, ngoài ra không còn đặc điểm nào khác, thậm chí ngay cả loại binh khí biểu diễn cũng chẳng có một món. Như vậy có giống một người mại võ trên chốn giang hồ chăng?

    Chàng lại nhìn kỹ người đàn ông ấy, chỉ thấy y dáng người tầm thước, bắp thịt rắn chắc, hai mắt sáng ngời, ngoại trừ bộc lộ vài cân sức đần độn, chẳng còn điểm gì nổi bật khác.



  3. #42
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Thông thường, sống bằng nghề này đa số là bầu đoàn thê tử, không thì cũng là sư đồ, huynh đệ hoặc phu thê một nhóm, rất ít khi chỉ một mình đơn độc thế này! Chả lẽ y là giáo đồ Thiên Ma Giáo thuộc phân đàn nào đó gần đây, mại võ làm cảnh hầu thực hiện mưu đồ gì khác hay sao?

    Lúc này, người đàn ông mại võ ôm quyền cao giọng nói:

    – Nói nhiều chi bằng diễn nhiều, bây giờ tại hạ xin bêu xấu đây!

    Rồi thì, hai tay từ từ buông thõng xuống, hít vào một hơi thật sâu, đoạn đứng vững chân tấn, tay trái đưa ra trước một chút, tay phải co vào trong tư thế sẵn sàng.

    Sau đó, buông tiếng gầm vang, tả quyền rụt về, hữu quyền vụt phóng ra, đồng thời liên tiếp tiến tới ba bước, đột nhiên hóa quyền thành chưởng, bổ ngang quét dọc, bóng chưởng chập chùng, gió rít vùn vụt, công tới uy mãnh như hổ báo, lạng lách nhanh nhẹn như khỉ vượn, một pho chưởng pháp triển khai thật là phi thường.

    Chừng sau một tuần trà, lại một tiếng gầm vang, người đã trở về vị trí cũ. Đám đông liền nổi lên tiếng hoan hô vang dội, song chẳng một ai ném tiền cho cả.

    Do Nhân Kiệt hết sức ngạc nhiên, chẳng phải vì không có ai ném tiền cho, mà là chàng chẳng thể nào ngờ được đối phương lại giỏi võ như vậy. Nếu dựa vào tiêu chuẩn chọn người của Thiên Ma Giáo, chàng dám quả quyết người này chẳng kém hơn bất kỳ Huỳnh kỳ hộ pháp nào.

    Thế nhưng, người này hiển nhiên không phải là hộ pháp của Thiên Ma Giáo, vậy thì lai lịch của y như thế nào? Với võ công như vậy, chắc chắn không phải là kẻ vô danh trong giới võ lâm, mà điều chủ yếu nhất là, một cao thủ như vậy vì lẽ gì lại phải đến vùng hẻo lánh này thi thố chân tài thực học với dân thường?

    Chàng đã móc ra một nén bạc, song nghĩ lại thấy không ổn, lại bỏ bạc trở vào lòng. Sự thật rất hiển nhân, pho chưởng pháp vừa rồi của người này quyết không phải dùng để đổi lấy vài lạng bạc nhỏ nhặt. Nhất định là y có mục đích khác, chàng phải tìm hiểu rõ ràng dụng tâm thật sự của y mới được!

    Người đó thấy không ai thưởng tiền, nhưng cũng chẳng mấy bận tâm, ôm quyền nhếch môi cười nói:

    – Biểu diễn một mình vốn dĩ khó thể phô bày được chân tài thực học, cũng chẳng trách được chư vị. Tại hạ hiện đang tạm trú tại khách điếm Đại Phát, nếu vị nào ham thích võ nghệ, xin mời đến khách điếm bất kỳ lúc nào, Ưng mỗ hết sức hoan nghênh!

    À, thì ra là y quảng cáo, định lập võ đường tại đây! Vâng, có được thân thủ thế này, thừa sức lập võ đường rồi!

    Tuy nhiên, chàng vẫn hết sức hoài nghi, theo chàng được biết thì vùng này chẳng mấy ưa chuộng võ nghệ, điều muốn lập võ đường để sống, lẽ ra không nên chọn nơi này mới phải.

    Trong khi Do Nhân Kiệt ngẫm nghĩ, đám đông đã giải tán dần, chàng không muốn để lộ hình tích, vội trà trộn vào đám đông rời khỏi.

    Trước hết, chàng vào một quán cơm trưa, sau đó đi đến khách điếm Đại Phát nằm ở cuối trấn. Khách điếm này quả là nhỏ bé đến tội nghiệp, cả thảy chỉ có được bảy tám gian phòng.

    Tuy nhiên, đối với Do Nhân Kiệt thì lại rất tiện lợi, gian phòng chàng thuê, trời xui đất khiến lại ở ngay kế cận phòng của người họ Ưng.

    Vách ván ngăn giữa hai phòng rất mỏnh manh và bị khoét rất nhiều lỗ nhỏ, một số đã được trám lại, còn một số chỉ được nhét tạm bằng giẻ rách, với tai mắt linh mẫn của Do Nhân Kiệt, mọi cử động ở phòng bên cơ hồ hoàn toàn trông thấy rõ ràng. Đồng thời, chàng biết mọi cử động bên này cũng khó mà thoát khỏi tai mắt của người họ Ưng.

    Do đó, chàng chẳng thể không hết sức thận trọng. Sau khi vào phòng, chàng chỉ làm mỗi việc là lấy bản đồ ra xem gần đây là phân đàn nào, và chàng đã nhanh chóng tìm ra, gần nhất là phân đàn Hoàng Mai.

    Hoàng Mai cách tiểu trấn này hơn năm mươi dặm, họ Ưng này mà không phải là người của Thiên Ma Giáo, trễ nhất là ngày mai, cũng vào lúc này, phân đàn sẽ phái người đến đây.

    Ngày hôm ấy không việc gì xảy ra cả. Người họ Ưng chẳng những không nghèo nàn mà còn tỏ ra rất khá giả, trong bữa ăn tối y đã gọi đến những bốn món và hai cân rượu, đối với một người mại võ sa sút, như vậy thật là quá sang trọng, chứng tỏ y dứt khoát không phải là người sống bằng nghề mại võ.

    Sáng hôm sau, người họ Ưng rời khỏi khách điếm, lại đến chỗ hôm qua biểu diễn một pho quyền chưởng chẳng cần có chút thu hoạch nào.

    Lần này Do Nhân Kiệt không đi theo, bởi chàng đã hiểu quá rõ về đối phương, chẳng cần đi theo cũng biết việc gì sẽ xảy ra.

    Quả nhiên, chừng một giờ sau người họ Ưng đã về đến.

    Người họ Ưng về đến khách điếm không lâu thì có hai thanh niên tìm đến, họ tự xưng là đến từ Hoàng Mai Đại Hà trấn, mang theo mười lạng bạc kính tặng, định mời người họ Ưng đến Đại Hà trấn một phen, bảo nơi ấy có rất nhiều người muốn học võ nghệ với y.

    Người họ Ưng hớn hở ưng thuận cùng nhau ăn uống trong khách điếm, sau đó đi theo hai thanh niên ấy rời khỏi.

    Do Nhân Kiệt đã chuẩn bị từ trước, chờ ba người vừa ra khỏi cửa khách điếm, lập tức thanh toán tiền bạc rồi đi theo ngay.

    Trước khi ra khỏi tiểu trấn, chàng lẻn vào một chỗ tối nhanh chóng cải trang diện mạo, sau đó mới đuổi theo sau.

    Hai bên đường cái quan ngoài trấn, là đồng lúa bao la, ba người đi trước không nhanh lắm, Do Nhân Kiệt ra khỏi trấn không bao lâu thì đã trông thấy bóng dáng ba người từ xa.

    Lúc này là cuối tháng năm, ruộng đồng mới cấy, đâu đâu cũng mạ non xanh rì, trên đường thỉnh thoảng có các lão nông phu vác cuốc đang đi trước mặt, để làm bình phong, chàng bèn vội bước nhanh tới bắt chuyện với họ.

    Theo lời hai lão nhân, họ có ruộng lúa ở bên kia sông Cầu Mã, bây giờ đi thị sát kinh mương xem có chỗ nào vỡ lỡ hay không?

    Do Nhân Kiệt thì nói với họ là chàng định đến Đại Hà trấn viếng thăm một người thân thích.

    Người họ Ưng vừa đi vừa khoa chân múa tay, như đang giảng giải về yếu quyết võ công với hai thanh niên kia. Bỗng ba người lần lượt dừng lại dưới bóng râm của một hàng cây tùng to lớn.

    Người họ Ưng đứng yên, hai thanh niên kia thì lùi ra sau hơn một trượng, sóng vai nhau đứng đối mặt với người họ Ưng.

    Hai lão nông phu thấy vậy liền hoảng kinh nói:

    – Nguy rồi, ba người kia dường như muốn đánh nhau.

    Do Nhân Kiệt mỉm cười:

    – Nhị vị lão nhân gia chớ sợ, họ không phải đánh nhau, mà là giảng giải chiêu thức võ công, người bên kia là võ sư đấy!

    Hai lão nông phu gật đầu, ra chiều đã yên tâm.

    Do Nhân Kiệt lại nói tiếp:

    – Rất hiếm khi gặp dịp thế này, chúng ta đến xem mau!

    Hai lão nông phu dường như cũng cảm thấy thú vị, bèn theo sau Do Nhân Kiệt đi đến dưới một tàng cây bên này, đứng xem ba người diễn giảng.

    Qua chân tấn của hai thanh niên, chứng tỏ cũng từng tập luyện được vài năm, chỉ thấy người họ Ưng gật đầu, hai thanh niên liền tạt sang hai bên tiến tới. Khi đến gần, gã thanh niên bên trái với chiêu “Bạt Thủ tầm xà”, tay trái nhẹ đưa sang bên, đánh lạc hướng sự chú ý của đối phương, hữu quyền vụt phóng ra, đấm thẳng vào mặt người họ Ưng.

    Người họ Ưng mỉm cười, ung dung tạt sang bên một bước, vung tay lên gạt quyền đối phương. Ngay khi ấy, gã thanh niên bên phải hai mắt bỗng lộ sát khí đằng đằng, phóng bước nhanh tới, vụt tung lên một cước, vị trí chính là huyệt Chỉ Đường nơi cột sống có thể gây nên tàn phế cho đối phương.

    Do Nhân Kiệt thấy vậy, bất giác giật mình kinh hãi. Chàng sớm biết hai gã thanh niên này có lẽ đến từ phân đàn Hoàng Mai, nhưng không ngờ gã thanh niên bên phải thân thủ lại cao cường đến vậy.

    Thế nhưng, ngay khi mũi chân gã thanh niên bên phải sắp chạm vào thân, người họ Ưng như nhận thấy nguy tai qua ánh mắt gã thanh niên bên trái, chẳng kịp ngoái lại nhìn, vội rụt tay phải về, nhoài người tới trước và trở tay bổ vào gót chân gã thanh niên bên phải. Quá bất ngờ, gã thanh niên bên phải không kịp biến chiêu, tức khắc bị bổ trúng gót chân.

    Gã thanh niên bên trái thấy đồng bọn thất thủ, biết với sức một mình quyết chẳng phải địch thủ của đối phương, bất giác biến sắc mặt và thừ ra tại chỗ, như không biết thu xếp tàn cuộc bằng cách nào.

    Người họ Ưng bởi không trông thấy vẻ mặt hung tợn của gã thanh niên bên phải lúc tung chân đá, tưởng đâu đối phương vì lòng hiếu thắng chứ không có ác ý, bèn vội chạy đến cúi xuống xem xét thương thế của gã thanh niên ấy và luôn miệng xin lỗi.

    Nào ngờ người họ Ưng vừa vén ống quần của kẻ thọ thương lên, từ trong cành lá rậm rạp trên một ngọn tùng đối diện có hai đốm sáng lạnh bay xuống nhanh như chớp.

    Người họ Ưng không kịp tránh né, liền ngã lăn ra đất.

    Trong lá rậm vang lên tiếng cười ha hả, rồi thì một bóng người nhẹ nhàng đáp xuống, đó là một lão nhân tuổi ngoài ngũ tuần, trang phục nông dân, mắt tam giác và mày chữ bát, miệng cười méo xệch.

    Lão nhân vừa chạm chân trên mặt đất đã hướng về gã thanh niên chưa thọ thương khoát tay nói:

    – Mỗi người cõng một người, đi!

    Đoạn xách lấy người họ Ưng, phóng bước đi trước.

    Gã thanh niên chưa thọ thương cũng liền cõng lấy kẻ thọ thương cất bước theo sau.

    Do Nhân Kiệt khẽ buông tiếng mắng, đứng phắt dậy toan đuổi theo.

    Hai lão nông phu vội hỏi:

    – Lão đệ định làm gì vậy?

    – Lão già và hai tên tiểu tử đều không phải người tốt, tại hạ chẳng thể không cứu.

    Một lão nông phu hỏi:

    – Lão đệ cứu được chăng?

    Do Nhân Kiệt mỉm cười:

    – Nhị vị lão trượng yên tâm, hạng đó dù có thêm một hai tên nữa, tại hạ tin là vẫn có thể hạ được.

    – Lão hán không tin...

    Lời chưa dứt tay đưa ra chộp nhanh như chớp. Do Nhân Kiệt chẳng ngờ, tay phải liền bị lão nông phu ấy nắm chặt, chỉ cảm thấy toàn thân tê dại, chân lực hoàn toàn tiêu tan.

    Sau khi đắc thủ, lão nông phu cười híp mắt nói:

    – Lão hán bảo thế nào hả?

    Do Nhân Kiệt sửng sốt:

    – Nhị vị vậy là sao?

    Lão nông phu ấy khoát tay, chờ lão nông phu kia gật đầu đi ra xa, mới ngoảnh lại khẽ hắng giọng nói:

    – Là muốn lão đệ đừng xen vào chuyện người!

    – Thì ra nhị vị là...

    – Là gì?

    – Buông tay ra mau, chúng ta chẳng phải người ngoài.

    Lão nông phu tủm tỉm cười:

    – Lấy gì chứng minh?

    – Xin hãy buông tay rồi hãy nói!

    – Nói xong buông tay thì cũng vậy thôi!

    – Nhị vị cũng là người trong giáo ư?

    – Giáo gì?

    – Trên chốn giang hồ hiện nay tổng cộng có mấy giáo?

    – Thiên Ma Giáo ư?

    – Không phải sao?

    – Còn lão đệ?

    – Nói đến vậy mà chưa đủ rõ ràng hay sao?

    – Chỉ bằng vào lời nói thật ư?

    – Đương nhiên là còn có bằng cớ!

    – Bằng cớ đâu?

    – Ở trong mình!

    – Lão hán lấy ra xem được chăng?

    – Được thì được, nhưng tại hạ khuyên lão bằng hữu hãy buông tay ra trước là hơn!

    – Vì sao?

    – Bằng không tôn giá có thể sẽ hối hận!

    – Lão hán sống đến từng tuổi này, chưa hề nếm mùi hối hận bao giờ, nay nếm thử một lần thì cũng tốt thôi!

    (mất trang, tập trang -) Triệu Phú, lão đại trong Thiên Sơn Tam Nghĩa. Song chàng bởi huyệt đạo bị điểm, ngàn vạn lời trong lòng không sao tỏ bày được.

    Lúc này chỉ thấy Tiêu Dao Thư Sinh và Kim La Hán đứng lên, mặt thoáng vẻ cười ngạc nhiên, kẻ trước người sau đến gần hỏi:

    – Lão Viên và tiểu Trịnh đâu?

    Lão nông phu buông tay ra, Do Nhân Kiệt rơi bịch xuống đất như cái bị, một mặt nói:

    – Tiến hành rất thuận lợi, tiểu Trịnh thất thủ bị bắt, lão Viên đã đuổi theo rồi!

    – Người này là ai vậy?

    Lão nông phu cười cười:

    – Một thu hoạch bất ngờ!

    Hai lão nhân như không quan tâm đến thân phận của kẻ bị bắt giữ, nghe lão nông phu nói vậy, cũng chẳng hỏi gì thêm nữa.

    Kim La Hán quay người, hướng vào nhà lớn tiếng nói:

    – Lão Dương, hâm thêm một ấm rượu nữa đi!

    Đến lúc này Do Nhân Kiệt mới bắt đầu lo lắng, chàng biết lão Viên và tiểu Trịnh nhất định là lão nhị Kỳ Chính Thủ Viên Trung Hòa và người mại võ họ Ưng, còn lão nông phu sanh cầm chàng chính là lão tam Bách Biến Chưởng Ngôn Cập Nghĩa.

    Do bởi chàng không cải dạng thành Ác Quân Bình và lại không mang theo Tam Lăng thích, trên lệnh kỳ hộ giáo tuy có thêu hai chữ Công Tôn, nhưng khi xem xét có lẽ Bách Biến Chưởng đã không chú ý đến. Chàng hiểu rõ ân sư và Tam Nghĩa rất căm thù những kẽ gian ác, lát nữa đây rất có thể chẳng thèm hỏi lấy một câu, một chưởng bổ chết chàng ngay, nếu thật vậy thì chàng chết quá oan ức rồi còn gì?

    Nghĩ vậy, chàng không khỏi lo sợ đến toát mồ hôi lạnh, cố gắng mở to mắt nhìn ba lão nhân, chàng tin là chỉ cần một người, nhất là ân sư mà đưa mắt nhìn mình, chàng nhất định có cơ hội sống còn.

    Thế nhưng, cái mà ba lão nhân quan tâm trong lúc này lại là ấm rượu của lão Dương nào đó trong nhà.

    Chỉ nghe Kim La Hán ra chiều rất nóng ruột, lại hướng vào nhà lớn tiếng nói:

    – Lão Dương, nhanh thêm chút nữa được không?

    Một giọng nói già nua từ trong nhà vọng ra:

    – Xong rồi đây! Xong rồi đây!

    Rồi thì một lão nhân lưng gù từ trong nhà bước ra, trên tay bưng một chiếc khay gỗ, trên khay là một ấm rượu và mấy dĩa thức ăn nhỏ.

    Tiêu Dao Thư Sinh cười ha hả nói:

    – Xem đó, chậm rãi kỹ lưỡng thì mới nên việc, lão đại chỉ đòi hỏi một ấm rượu mà lão Dương lại có thêm thức ăn uống, vậy là từ nay không được phàn nàn người bạn già này của chúng ta chậm chạp nữa đấy!

    Lão Dương đặt rượu và thức ăn lên bàn xong, Bách Biến Chưởng đưa tay chỉ nói:

    – Lão Dương, hãy lôi tên tiểu tử này ra sau nhà, thưởng cho hắn một đao!

    Lão Dương cung kính đáp:

    – Vâng, thưa tam gia!

    Đoạn dùng mũi chân hất nhẹ Do Nhân Kiệt lên, cắp vào nách đi ra sau nhà.

    Sau nhà là một vườn rau, lão Dương đặt chàng xuống đất, vén áo lên, từ bên lưng rút ra một ngọn trủy thủ sáng loáng cầm trong tay, bỗng nghiêng đầu sang bên suy tư.

    Do Nhân Kiệt thầm kêu lên:

    – Lão nhân gia này, hãy cất trủy thủ đi, giải khai á huyệt cho Do mỗ, hỏi rõ ràng hãy hạ thủ cũng chẳng muộnmà!

    Nhưng trong đầu óc lão Dương lúc này hiển nhiên là một ý nghĩ khác, chỉ thấy lão tần ngần một hồi, bỗng gật đầu như đã có sự quyết định, giắt ngọn trủy thủ trở vào lưng, quay người đi trở ra trước nhà, vừa đi vừa lẩm bẩm một mình.

    Do Nhân Kiệt thở phào một hơi dài, lòng lại dâng lên một tia hy vọng sống mới, lão Dương này trông mặt mũi hiền từ, có lẽ không đành lòng hạ thủ nên đi ra phía trước cầu xin ba lão nhân cũng nên.

    Sau chừng một tuần trà nóng, lão Dương lại đi trở vào. Khi trông thấy rõ những vật do lão Dương mang vào, Do Nhân Kiệt bất giác lặng người, thế là hết. Chàng lập tức nhắm mắt lại, không còn đủ can đảm nhìn tiếp nữa.

    Lão Dương thong thả đặt thùng nước nóng trong tay xuống, bày thau và thở ra, lại rút trủy thủ cầm tay lẩm bẩm:

    – Bằng hữu không oán trách ai được, chỉ trách gã Trương đồ phu trong trấn sớm không đi, muộn không đi, lại nhân lúc này đưa vợ đến Hoàng Mai cúng bái mong được toàn ước nguyện, trong trấn đã ba hôm không có thịt để mua, mà tam gia một ngày cũng chẳng thể thiếu món thịt vò viên chiên...

    Xắn tay áo lên, buông tiếng thở dài lại lẩm bẩm nói tiếp:

    – Hồi ba mươi năm trước, đây là ngón chuyên môn của lão hán, vậy mà hôm nay cầm đao trong tay lại thấy rờn rợn. Ôi, đúng là thời gian vô tình, lão hán quả đã già rồi!

    Vừa nói vừa đi đến gần, tóm lấy cổ áo Do Nhân Kiệt, giơ cao ngọn trủy thủ trong tay, đâm mạnh xuống...

    Chỉ nghe “hự” một tiếng.

    Do Nhân Kiệt chợt tối sầm mắt, rồi liền bất tỉnh nhân sự.

    Chẳng rõ đã trải qua bao lâu, trong mơ màng dường như chàng nghe có tiếng nói từ xa dần gần, từ loáng thoáng dần dần rõ rệt, sau cùng chàng đã nhận ra đó là tiếng nói của lão tam Bách Biến Chưởng Ngôn Cận Nghĩa mừng rỡ reo lên:

    – Được rồi, được rồi, đã tỉnh lại rồi!

    Do Nhân Kiệt kinh ngạc mở bừng mắt, theo phản ứng tự nhiên đưa tay lên sờ sau ót.

    Lão Dương đứng cạnh cười nhăn nhó nói:

    – Đừng sợ nữa, sau ót bị sưng là lão gù này chứ không phải lão đệ đâu!

    Do Nhân Kiệt ngớ ngẩn:

    – Việc gì thế này? Do mỗ chưa trở thành thịt vò viên chiên ư?

    Ba lão nhân nghe nói đầu bật cười ha hả, kể cả lão Dương, đúng là sau gáy sưng lên một cục to cũng không nén được, cười lên thành tiếng.

    Mọi người cười một hồi, sau đó Bách Biến Chưởng mới với vẻ áy náy kể lại sự tình. Thì ra Bách Biến Chưởng mang chàng về, vốn có ý định tra hỏi, song vì mải mê chuyện trò với Tiêu Dao Thư Sinh và Kim La Hán nên đã quên khuấy, nên khi Tiêu Dao Thư Sinh xem lại lá lệnh kỳ hộ giáo, trông thấy hai chữ Công Tôn trên ấy, mới biết người bị bắt chính là chàng.

    Thế là ba lão nhân cấp tốc phóng nhanh ra sau nhà, Kim La Hán dẫn trước thấy lão Dương đã giơ trủy thủ lên, lên tiếng ngăn cản không còn kịp nữa, bắt buộc phải ném ra ba hạt thiết liên tử.

    Kết quả, Do Nhân Kiệt được cứu sống, nhưng lão Dương thì lại bị nếm mùi đau khổ.

    Sau cùng Bách Biến Chưởng cười nói:

    – Tai họa tuy do Ngôn mỗ gây ra, nhưng cũng có công lao rất lớn, bởi việc lão Dương định lấy thịt Nhân Kiệt vò viên chiên đó là vì muốn đáp ứng khẩu vị của Ngôn mỗ, nếu không vậy thì Nhân Kiệt sớm đã mất mạng rồi.

    Do Nhân Kiệt cười ngượng ngùng:

    – Thôi, đằng nào thì việc cũng đã rồi! Tục ngữ có câu “Đại nạn không chết, ắt có hậu phúc”!

    Bách Biến Chưởng cười tiếp lời:

    – Lão đệ nói rất đúng, pho Bách Biến chưởng pháp tầm thường của Ngôn mỗ sẽ được mang ra đền bù cho lão đệ trước tiên.

    Do Nhân Kiệt mừng rỡ, Tiêu Dao Thư Sinh cười nói:

    – Hãy bái tạ Ngôn lão tiền bối mau!

    Do Nhân Kiệt vội vâng lời quỳ xuống vập đầu lạy tạ.

    Kim La Hán thở dài nói:

    – Lão tam rõ là khéo nói, họa do mình gây ra, mình chuộc tội là phải, lại còn bảo trước tiên là sao? Có trước là phải có sau, người sau ngoài lão phu ra thì còn ai vào đây nữa?

    Bách Biến Chưởng cười ha hả:

    – Đó là tại lão đại quá nóng nảy thôi, trách ai được? Giả mà lão đại tảng lờ như không nghe thấy thì ai ép buộc được chứ?

    Tiêu Dao Thư Sinh nháy mắt ra hiệu, Do Nhân Kiệt lại quay sang quỳ lạy Kim La Hán.

    Kim La Hán lắc đầu nguầy nguậy:

    – Thôi, thôi, đứng lên, như vậy cũng tốt, Kim mỗ kể như đã tròn một tâm nguyện, không còn mắc nợ gì hai sư đồ nữa.

    Bách Biến Chưởng cười:

    – Còn mắc một chút!

    Kim La Hán trừng mắt:

    – Còn mắc gì nữa?

    – Pho Kỳ Chính Đại Cầm Nã gồm tám mươi mốt thức của lão nhị!

    Kim La Hán lại lắc đầu:

    – Thật là quá quắc!

    Bách Biến Chưởng cười:

    – Lão đại thử nghĩ xem, nếu mà Nhân Kiệt thật sự bị lão Dương làm thành một mâm thịt vò viên thì ba lão già vô dụng chúng ta sẽ như thế nào? Như vậy, Nhân Kiệt may mắn hay ba chúng ta may mắn?

    Mọi người lại cười vang một hồi, sau đó cùng ngồi vào bàn nói chuyện nghiêm túc.

    Trước hết, Tiêu Dao Thư Sinh hỏi Do Nhân Kiệt về tình hình gần đây của Thiên Ma Giáo.

    Do Nhân Kiệt bắt đầu kể từ lúc ở Ba Đông chỉ chậm một bước đã không gặp được ân sư, đến việc lập kế diệt trừ được Tiếu Diện Di Đà và Vô Tình Kim Cang.

    Nghe xong, ba lão nhân đều hết sức vui mừng. Sau cùng, Do Nhân Kiệt lại hỏi ân sư về vụ việc tiểu Trịnh.

    Tiêu Dao Thư Sinh mỉm cười hỏi ngược lại:

    – Ngươi đoán thế nào?

    Do Nhân Kiệt ngẫm nghĩ chốc lát, đoạn nói:

    – Kiệt nhi chỉ biết đây là một cạm bẫy, còn về dụng tâm thế nào thì Kiệt nhi khó thể khẳng định, bởi muốn dò la bí mật của một phân đàn Thiên Ma Giáo, dường như không cần phải tốn công hao sức như vậy.

    Bách Biến Chưởng cười xen lời:

    – Để Ngô mỗ hướng dẫn cho, đó là thế này, nếu bọn ta mà được như ý muốn, lão đệ sẽ được ngồi mát ăn bát vàng!

    Do Nhân Kiệt thoáng kinh ngạc:

    – Các vị lão nhân gia cũng đang tìm kiếm sào huyệt của Thiên Hồ Vi Sĩ Lôi ư?

    Bách Biến Chưởng cười to:

    – Ha ha, lão đệ quả là thông minh, rất đáng khâm phục!

    Tiêu Dao Thư Sinh gật đầu:

    – Không sai! Thiên Hồ Vi Sĩ Lôi chính là ở trong khu vực Hoàng Mai Thanh Thạch Lãnh, nhưng Thanh Thạch Lãnh trải dài đến mấy mươi dặm, tìm kiếm chẳng phải là dễ. Mục đích của bọn ta là mong phân đàn khi bắt được người, không dám tự ý quyết định mà chuyển đưa đến cho Vi Sĩ Lôi.

    Do Nhân Kiệt lắc đầu:

    – E không thể đơn giản như vậy!

    Bách Biến Chưởng xen lời:

    – Vì sao?

    – Chỗ ở của Thiên Hồ, ngay trong tổng đàn Thiên Ma Giáo còn là một điều đại bí mật, cả các đường chủ Tam Đường và hộ giáo Tam Kỳ cũng không biết, một phân đàn thấp bé thì sao biết được?

    Tiêu Dao Thư Sinh lắc đầu:

    – Không phải vậy! Thiên Hồ sở dĩ giấu kín chỗ ở chẳng qua là một sự đề phòng, hạng đại ma đầu như vậy rất quý trọng tính mạng, bất luận thế nào cũng phải có vệ sĩ tâm phúc, qua việc lão phân đàn chỉ bằng vào hai hạt thiết liên tử đánh ngã được tiểu Trịnh đủ chứng tỏ phân đàn Hoàng Mai quyết không phải là một phân đàn thường.

    Do Nhân Kiệt gật gù, nhận thấy sự suy luận của ân sư quả rất chính xác, bèn lại ngẩng lên hỏi:

    – Sau khi Kiệt nhi rời khỏi tổng đàn, nghe nói Thiên Hồ Vi Sĩ Lôi và Luyện Hồ Thường Vân Sanh đều đã lần lượt đến tổng đàn, hai lão ma ấy đã ra khỏi sào huyệt, liệu phân đàn Hoàng Mai có còn đưa Trịnh hiệp đến đó nữa chăng?

    Tiêu Dao Thư Sinh trầm ngâm:

    – Điều ấy chúng ta khó thể tiên đoán được. Tuy nhiên, theo sư phụ suy đoán, cho dù hai lão ma đầu ấy đã rời khỏi sào huyệt đi đến tổng đàn, song nhất định không ở lại lâu, bọn họ có lẽ sẽ tạm giam phạm nhân để chờ lão ma trở về xét xử.

    Do Nhân Kiệt như chợt nhớ ra, vội hỏi:

    – À, đúng rồi, Kiệt nhi đã quên hỏi, vị Trịnh hiệp kia Kiệt nhi chưa từng gặp bao giờ, đó là ai vậy?

    Tiêu Dao Thư Sinh mỉm cười:

    – Ngươi chưa từng gặp qua thật ư?

    Do Nhân Kiệt đảo tròn mắt lia lịa, bỗng kêu lên:

    – À, đúng rồi, Kiệt nhi đã nhớ ra rồi, lão nhân lùn ở Hồ Gia trại...

    Tiêu Dao Thư Sinh mỉm cười tiếp lời:

    – Y tên thật là Trịnh Tráng Vi, ngoại hiệu là Thiên Sơn Hắc Y Hiệp, cháu gọi bằng cậu của Triệu lão đại, sau này ngươi gọi là Trịnh đại ca là được rồi!

    Kim La Hán ngước lên nhìn trời, đoạn đứng lên nói:

    – Triệu mỗ đến lúc phải đi rồi!

    Do Nhân Kiệt quay sang ân sư hỏi:

    – Triệu lão tiền bối phải đi đâu vậy?

    – Đi tiếp ứng cho Viên lão nhị, do đã giao hẹn trước, khi trời tối mò chưa thấy về là chứng tỏ có chuyện rắc rối, chúng ta phải tức khắc phái thêm người đến.

    Do Nhân Kiệt sốt sắng nói:

    – Kiệt nhi đi thay có được chăng?

    Kim La Hán lắc đầu:

    – Ngươi đâu thể ở mãi đây được, hãy lo mà học pho chưởng pháp của lão tam là hơn, cho dù lão nhị về đến, mỗi người cũng chỉ có chừng một ngày thời gian, không khéo dở dở ương ương thì thà không dạy ngươi còn hơn!

    Đoạn vào nhà cải trang, sau đó ra đi một mình. Bách Biến Chưởng để tranh thủ thời gian, ngay đêm hôm ấy đã giảng dạy yếu quyết chiêu thức pho Bách Biến chưởng pháp cho Do Nhân Kiệt. Với căn cơ võ học hiện có của chàng, tất nhiên là nhanh chóng thấu hiểu, trời hừng sáng chàng đã nhớ thuộc lòng đến bảy tám phần mười pho Bách Biến chưởng pháp.

    Hôm sau, lại giảng giải thêm một buổi sáng. Sau đó, hai lão nhân cùng nhau ra ngoài trấn, chỉ một mình Do Nhân Kiệt ở lại tĩnh tâm điều luyện.

    Vào lúc chiều tối, Kỳ Chính Thủ Viên Trung Hòa về đến.

    Tiêu Dao Thư Sinh và Bách Biến Chưởng vội hỏi:

    – Sự việc thế nào?

    Kỳ Chính Thủ đáp:

    – Lão phân đàn chủ có cặp lông mày chữ bát dường như họ Lương, y mang tiểu Trịnh về đến phân đàn, không đưa đi nơi khác ngay, dường như y muốn lập công, đã đánh tiểu Trịnh một trận dữ dội, nhất quyết buộc tiểu Trịnh phải khai thật ra. Viên mỗ thấy vậy đau lòng quá, mấy phen định hiện thân ra giết quách lão quỷ ấy đi. Sau cùng thì y cũng dừng tay, hiện đang giam giữ tiểu Trịnh trong phân đàn, chưa biết đêm nay có hành động gì khác hay không, hiện Triệu lão đại đang thay cho Viên mỗ tiếp tục theo dõi.

    Bách Biến Chưởng hỏi:

    – Vậy theo lão nhị thì lão họ Lương có biết chỗ ở của Thiên Hồ hay không?

    – Có lẽ biết! Bởi võ công của y khá là cao cường, hơn xa các phân đàn chủ khác, và ngay cả bọn giáo đồ dường như cũng có thân thủ tương đương với hàng hộ pháp Tam Kỳ.

    Kỳ Chính Thủ gật đầu:

    – Phải! Nếu quá thời gian mà không gặp, chứng tỏ tiểu Trịnh đã bị đưa đi nơi khác, nếu không có ký hiệu cầu viện thì không cần chờ tiếp nữa!

    Đoạn quay sang nhìn Do Nhân Kiệt mỉm cười nói:

    – Đây có phải là món thịt vò viên chiên mà lão Dương đã không điều chế thành công không?

    Do Nhân Kiệt vội cung kính nói:

    – Kiệt nhi xin ra mắt Viên lão tiền bối!

    Bách Biến Chưởng cười tiếp lời:

    – Có lẽ lão đại đã nói với lão nhị về cái giá phải trả cho món thịt vò viên chiên rồi chứ?

    – Rồi!

    – Vậy tối nay đến lượt lão nhị, nhớ là không được bớt xén đấy nhé!

    Mọi người bông đùa một hồi, trời dần tối, Bách Biến Chưởng bởi ngày mai có việc cần làm nên ăn tối xong thì đã đi nằm ngay. Còn Kỳ Chính Thủ thì đưa Do Nhân Kiệt qua gian phòng phía tây truyền cho tám mươi mốt thức Đại Cầm Nã.

    Ngày thứ ba, trời vừa sáng Bách Biến Chưởng đã vội vã rời nhà ra đi. Theo kế hoạch hành sự của Tam Nghĩa, nếu hôm nay phân đàn Hoàng Mai không có diễn biến gì đặc biệt thì Bách Biến Chưởng sẽ thay thế Kim La Hán tiếp tục ngầm bảo vệ cho Hắc Y Hiệp Trịnh Tráng Vi.

    Chẳng ngờ tối hôm ấy, Bách Biến Chưởng và Kim La Hán lại cùng trở về.

    Tiêu Dao Thư Sinh kinh ngạc hỏi:

    – Tại sao hai người lại cùng về thế?

    Kim La Hán tủm tỉm cười lấy ra một mảnh giấy nói:

    – Hãy xem cái này đi!

    Mở ra xem, thì ra đó là một bức địa đồ.

    Tiêu Dao Thư Sinh mừng rỡ nói:

    – Đã tìm được rồi hả?

    Bách Biến Chưởng gật đầu:

    – Phải, đó là ở sau một bức vách đá trong sơn cốc Thanh Thạch Lãnh, quả là hết sức kín đáo. Bây giờ chúng ta phải bằng cách nào giải cứu cho tiểu Trịnh đây?

    Kỳ Chính Thủ trố mắt:

    – Đã biết địa điểm rồi, vậy chẳng dễ dàng là gì?

    Do Nhân Kiệt tiếp lời:

    – Theo vãn bối thì việc giải cứu cho Trịnh hiệp cần phải bàn bạc kỹ lưỡng mới được!

    Kim La Hán gật đầu:

    – Ý Triệu mỗ cũng vậy, chỗ ở của Thiên Hồ nhất định được bối trí rất nhiều cơ quan, không khéo cứu người chẳng được mà cả mấy mạng già chúng ta cũng mang nộp hết vào đó.

    Do Nhân Kiệt lắc đầu:

    – Ý vãn bối không phải là vậy!

    Kim La Hán ngạc nhiên:

    – Vậy chứ ý lão đệ ra sao?

    – Cách tốt nhất là hãy để cho phía Đỗ Môn tú sĩ kéo đến phá hủy sào huyệt ấy, nay nếu chúng ta cứu thoát Trịnh hiệp, ba lão ma ấy ắt phải cảnh giác, sẽ chuyển Trịnh hiệp đi nơi khác, như vậy thì một phen tâm huyết của chúng ta sẽ mất đi còn gì?

    Bách Biến Chưởng gật đầu:

    – Nhân Kiệt lão đệ quả rất có lý!

    Kỳ Chính Thủ hỏi:

    – Vậy theo ý lão đệ thì phải làm sao?

    Do Nhân Kiệt trâm ngâm:

    – Vãn bối nhận thấy tốt hơn hết là hãy giao việc này cho vãn bối giải quyết!

    Kim La Hán ngẩn người:

    – Lão đệ...

    Do Nhân Kiệt mỉm cười:

    – Chả lẽ các vị lão tiền bối đã quên thân phận kia của vãn bối rồi hay sao?


  4. #43
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Hồi 14

    Kim Hoa Ma Hội Nghịch Thiên Ma Giáo
    Hôm sau vào giờ ngọ, trong phân đàn Hoàng Mai bỗng có một vị khách quý đến viếng, đó là Huỳnh kỳ hộ giáo Ác Quân Bình Công Tôn Tiết, người được tổng đàn trọng vọng nhất hiện nay.

    Vị Lương phân đàn chủ thấy hộ giáo giá lâm, vội niềm nở đón tiếp. Lão tuy là vệ sĩ tâm phúc của Thiên Hồ, song so với một Huỳnh kỳ hộ giáo thì địa vị hãy còn kém xa.

    Phen này Do Nhân Kiệt chẳng chút khách sáo, khi đối phương hỏi chàng đến có công cán gì, chàng quắt mắt lạnh lùng hỏi ngược lại:

    – Có cần thiết phải báo cáo với quý đàn không?

    Lương phân đàn chủ bị xối cho một gáo nước lạnh, chẳng dám hó hé lấy một tiếng, bởi lão hiểu rất rõ, cho dù lão là vệ sĩ của đại giáo chủ, song nếu làm cho vị Huỳnh kỳ hộ giáo này nổi giận, đối phương có thể bằng vào đặc quyền trong giáo, lấy đầu lão mà không cần bất kỳ lý do nào.

    Lát sau, yến tiệc đã được bày xong, Do Nhân Kiệt hiên ngang ngồi vào ghế thủ tọa, ăn uống đến giữa chừng, chàng nhìn đối phương đanh mặt hỏi:

    – Dạo này nơi đây vẫn yên ổn chứ?

    Lương phân đàn chủ vội cười giả lả nói:

    – Vẫn yên, vẫn yên...

    – Hừ, vẫn yên ư? Bổn tọa hỏi ngươi, tên mại võ ở Đại Kim Phố, các ngươi có biết lai lịch của y không?

    Lương phân đàn chủ ngớ người:

    – Đó thì...

    – Đó thì sao hả? Đại Kim Phố có thuộc quý đàn quản hạt hay không?

    Lương phân đàn chủ đưa mắt nhìn hai phía tả hữu, đoạn khẽ nói:

    – Chẳng giấu gì hộ giáo, hắn đã bị bọn này bắt giữ rồi!

    – Hừ, người đâu?

    – Ở...

    Do Nhân Kiệt cười khẩy:

    – Lại thả rồi chớ gì?

    Lương phân đàn chủ vội phân biện:

    – Hộ giáo quá lời, ti chức có gan bằng trời cũng chẳng dám làm vậy!

    Do Nhân Kiệt khoát tay:

    – Hãy mang đến đây đển bổn tọa đích thân tra hỏi!

    Lương phân đàn chủ không dám từ chối, lại không dám nói thật là đã đưa đến Thanh Thạch Lãnh, đành viện lý do là người này hình tích khả nghi, sợ đồng bọn đến giải cứu nên hiện đang được giam giữ tại một nơi bí mật, xin Do Nhân Kiệt cho thời gian thư thả, hứa là trước khi trời tối sẽ nhất định đưa đến.

    Do Nhân Kiệt đành miễn cưỡng chấp thuận. Lương phân đàn chủ không dám chậm trễ, liền phái hai tên thuộc hạ lập tức cấp tốc đến Thanh Thạch Lãnh đưa phạm nhân về.

    Do Nhân Kiệt vờ ra vẻ bực tức, cũng chẳng hỏi người bị giam giữ tại đâu, tiếp tục ăn uống đến khi trời sắp tối. Bỗng thấy một trong hai tên giáo đồ ra đi mặt bê bết máu hơ hãi chạy vào nói:

    – Nguy... Nguy rồi...

    Lương phân đàn chủ biến sắc mặt vội hỏi:

    – Người đâu? Đã xảy ra chuyện hả?

    Gã giáo đồ hổn hển đáp:

    – Vâng, ở ngay phía trước không xa!

    Lương phân đàn chủ tức giận lẫn sợ hãi, quát:

    – Toàn một lũ vô dụng...

    Do Nhân Kiệt lặng thinh, chỉ ngồi cười khẩy.

    Lương phân đàn chủ giận chân chửi mắng một hồi, bỗng nhận thấy tiếp tục như vậy chẳng giải quyết được vấn đề, bèn khoát tay quát lui gã giáo đồ ấy, đoạn quay sang khẽ ấp úng nói:

    – Ti chức... trong mấy năm qua... cũng có dành dụm... được chút ít... xin... xin hộ giáo... chẳng hay hộ giáo... có bằng lòng... bỏ qua cho ti chức một phen không?

    Do Nhân Kiệt nhất thời chưa hiểu ý đối phương, trố mắt nói:

    – Ý ngươi là...

    Lương phân đàn chủ thấy chàng không có vẻ gay gắt, tưởng đã bổ đúng thuốc, bèn vội khẽ nói tiếp:

    – Vâng, xin hộ giáo vui lòng nhận cho! Để tiện cất giữ nên ti chức đổi hết thành vàng lá, tuy không nhiều nhưng đó cũng là chút lòng thành của ti chức. Hộ giáo luôn luôn thăng tiến, mai sau hãy còn nhờ cậy đến nhiều, rồi đây ti chức sẽ thường xuyên biếu kính!

    Do Nhân Kiệt giờ đã nghe hiểu, nhiệm vụ cứu người của chàng đã hoàn thành, vốn cũng định tìm lý do rút lui, đã vậy thì chàng sẽ lấy số tiền bất nghĩa này chuyển trao cho Tam Nghĩa dùng để tế bần, đó cũng là một việc tốt thôi!

    Thế là, chàng vờ sầm mặt nói:

    – Phân đàn nhỏ bé này thì có được bao nhiêu, ngươi tưởng bổn tọa cần thiết năm ba trăm lạng bạc lắm sao?

    Lương phân đàn chủ vội phân bày:

    – Đương nhiên! Đương nhiên! Nội lương bổng của hộ giáo mỗi tháng đã đến vài trăm lạng, năm ba trăm lạng bạc dĩ nhiên rất là tầm thường, hộ giáo đừng xem khinh phân đàn này...

    Do Nhân Kiệt khẽ đằng hắng, hất hàm nói:

    – Hãy nói ra con số để bổn tọa tham khảo thử xem!

    Lương phân đàn chủ lặng thinh, lật đật rời chỗ ngồi đi vào trong, lát sau bưng ra một hột vàng nhỏ, đặt lên đùi Do Nhân Kiệt, sau đó trở về chỗ ngồi, nâng ly nói:

    – Nào, ti chức xin kính hộ giáo một ly!

    Do Nhân Kiệt nâng nhẹ đầu gối, ước lượng hộp vàng nặng khoảng hai mươi cân, nếu đổi ra bạc, ít ra cũng phải trên năm ngàn lạng, bất giác hết sức ngạc nhiên, chàng quả không ngờ một phân đàn chủ nhỏ bé thế này mà lại gom góp được món tiền nhiều đến vậy. Chàng vì muốn sớm trở về để học tập pho Thông Thiên Thần Quyền của Kim La Hán Triệu Phú, nên bèn cáo từ mang theo hộp vàng rời khỏi phân đàn.

    Về đến nhà, chàng kể lại mọi sự với bốn vị kỳ nhân.

    Nghe xong bốn người đều ôm bụng cười ngặt nghẽo.

    Ba ngày tiếp theo đã trôi qua trong bầu không khí hết sức vui vầy.

    Ba hôm sau, Do Nhân Kiệt học xong các đại tuyệt học võ lâm rồi bái biệt ân sư và Tam Nghĩa, lên đường trở về tổng đàn Thiên Ma Giáo.

    Về đến tổng đàn, tuy chàng biết rõ là Vô Tình Kim Cang đã chết, song vẫn theo thói quen đi đến chỗ ở của Vô Tình Kim Cang trước.

    Kết quả đương nhiên là không gặp, theo lời một Huỳnh kỳ hộ đàn hầu cận cho biết, lão hộ giáo đã có việc đi khỏi chưa về.

    Chàng lại đi đến chỗ ở của Tam Hồ. Khi bước vào gian thạch thất của Dâm Hồ Vu Mã Ngũ Lang, trong ấy đã có hai người trung niên đang ngồi uống trà chuyện trò với Dâm Hồ.

    Hai người ấy xem ra tuổi khoảng từ bốn đến năm mươi, một với mặt vuông râu ngắn, vóc người không cao nhưng trông rất uy nghiêm, còn người kia thì thân hình mảnh khảnh, mặt hẹp và dài, da dẻ trắng trẻo, hai mắt sáng ngời, trông uy nghiêm còn hơn người râu ngắn.

    Do Nhân Kiệt đương nhiên là biết rõ hai người ấy là ai, nhưng nhất thời chưa phân biệt ra ai là Thiên Hồ Vi Sĩ Lôi, ai là Luyện Hồ Thường Vân Sanh mà thôi.

    Ba người thấy chàng bước vào, chỉ Dâm Hồ mỉm cười đứng lên đón, còn Thiên Hồ và Luyện Hồ đều ngồi yên, chỉ hai đôi mắt là chằm chặp nhìn chàng từ đầu đến chân.

    Chàng không đếm xỉa đến hai người, đi thẳng đến trước mặt Dâm Hồ, hai tay dâng lên ngọn Kim Hồ Lệnh, khom mình nói:

    – Hạ Hầu lão hộ giáo nghe nói có việc đi khỏi chưa về, nên đã mạo muội đến đây khấu kiến giáo chủ, phen này chưa thể hoàn thành sứ mệnh, những xin giáo chủ lượng thứ cho!

    Dâm Hồ mỉm cười:

    – Trên đường có phát hiện gì không?

    Do Nhân Kiệt lắc đầu:

    – Không có gì khác lạ cả! Có lẽ bọn tặc tử đã có cảnh giác, còn không là do bổn tọa đã sắp đặt không được chu tường. Nói tóm lại, lần thất bại này chỉ trách bổn tọa bất tài, bởi không rõ đại giáo chủ và nhị giáo chủ có thật sự là ở Thanh Thạch Lãnh hay không, nên chẳng thể ở lại quá lâu, đành cam chịu xấu hổ trở về đây phục lệnh!

    Dâm Hồ cũng chỉ mỉm cười:

    – Việc ấy hãy tạm gác sang bên, có một việc khác định bàn bạc với Công Tôn huynh. Hiện bổn giáo đang khiếm khuyết chức vị Kim Bút đường chủ, theo Công Tôn huynh thì người nào xứng đáng bổ xung nhất?

    Do Nhân Kiệt bất giác sửng sốt. Nếu là mọi khi thì cử chỉ này đủ để khiến chàng mất mạng, song tình hình hiện nay đã khác, vẻ sửng sốt của chàng trái lại thật là đúng lúc, nghe trong giáo bỗng nhiên thay đổi một vị đường chủ, không kinh ngạc sao được?

    Dâm Hồ lại hỏi:

    – Công Tôn huynh nghĩ sao?

    Do Nhân Kiệt vờ ngập ngừng nói:

    – Việc ấy... bổn tọa không dám... mạo muội góp ý, bởi... bổn tọa chưa biết... Âu Dương đường chủ đã gặp... rắc rối gì...

    Dâm Hồ lắc đầu:

    – Việc ấy Công Tôn huynh đừng thắc mắc, bổn giáo chủ chỉ hỏi người nào xứng đáng để kế nhiệm chức đường chủ Kim Bút đường, Công Tôn huynh chỉ cần nói ra danh tánh người ấy là đủ!

    Do Nhân Kiệt lưỡng lự một hồi mới dè dặt nói:

    – Kiều hộ giáo... dường như thích hợp hơn, đó là nhận xét của bổn tọa, chẳng hay ý giáo chủ thế nào?

    Dâm Hồ cười ha hả:

    – Hay, hay lắm!

    Đoạn quay sang Thiên Hồ và Luyện Hồ nói:

    – Thế nào? Phen này hai người không thể bảo Vu Mã mỗ thiên vị với Kiều hộ giáo nữa rồi chứ?

    Thiên Hồ và Luyện Hồ gật đầu lặng thinh, Do Nhân Kiệt thoáng tần ngần hỏi:

    – Hai vị này là...

    Dâm Hồ mỉm cười:

    – Công Tôn huynh đoán xem họ là ai nào?

    Do Nhân Kiệt trố mắt:

    – Không phải đại giáo chủ và nhị giáo chủ chớ?

    Dâm Hồ lại cười ha hả, sau đó mới giới thiệu hai người với Do Nhân Kiệt.

    Quả như chàng đã suy đoán, người mặc áo trắng là Thiên Hồ Vi Sĩ Lôi, còn người râu ngắn là Luyện Hồ Thường Vân Sanh.

    Tiếp theo, Dâm Hồ lại cho chàng biết về việc đã phát hiện tử thi của Tiếu Diện Di Đà và Vô Tình Kim Cang. Đối với lòng trung thành của Vô Tình Kim Cang, Dâm Hồ chẳng chút nghi ngờ, nên y đã quả quyết Tiếu Diện Di Đà chắc chắn là nội gian, nhất định là Vô Tình Kim Cang bởi muốn bắt sống Tiếu Diện Di Đà nên mới thọ thương quá nặng mà chết.

    Bằng không, với công lực của vị thủ tịch hộ giáo ấy, hẳn không đến đỗi đồng quy ư tận.

    Do Nhân Kiệt hỏi:

    – Vậy thi thể hai người có đưa về tổng đàn không?

    – Không!

    – Đã mai táng ở gần đó ư?

    – Phải!

    – Ai đã phát hiện hai tử thi ấy trước tiên vậy?

    – Một Hắc kỳ hộ đàn của phân đàn Hoàng Mai đã phát hiện trên đường đưa ngân quỹ đến tổng đàn, Công Tôn huynh sợ y đã nhận lầm người phải không?

    – Đúng vậy!

    Dâm Hồ thở dài:

    – Không lầm được đâu! Vị Hắc kỳ hộ đàn ấy tuy chức phận thấp, nhưng người hết sức tinh tế, y cũng đã đề phòng đến điều ấy, nên khi phát hiện tử thi, mặc dù đã soát ra hai đạo lệnh phù, song vẫn dùng thuốc rửa sạch mặt hai người, sau khi nhận diện kỹ lưỡng mới báo cáo lên, và lệnh phù cũng đúng là không phải giả mạo, từ nay những mong Công Tôn huynh hãy quan tâm đến giáo vụ nhiều hơn nữa!

    Do Nhân Kiệt thầm hổ thẹn, giờ đây mới cảm thấy hoàn toàn an tâm. Bởi Tiếu Diện Di Đà hôm ấy đâu phải chết dưới tay Vô Tình Kim Cang, nếu là một người cao minh thì rất dễ dàng nhận ra y đã chết bởi một ngọn Tam Lăng thích. Trong đương kim võ lâm, có mấy ai sử dụng binh khí Tam Lăng thích?

    Lúc bấy giờ chàng không hề nghĩ đến phải hạ sát Vô Tình Kim Cang, sự hậu khi bố trí tử thi hai người, lại vì quá vội vàng nên đã quên mất sơ suất ấy, cũng may là hai tử thi ấy đã bị một Hắc kỳ hộ đàn phát hiện trước và mai táng tại chỗ, không thì hậu quả thật vô cùng tai hại.

    Thiên Hồ Vi Sĩ Lôi phen này trở về tổng đàn mà chưa có hành động gì, hiển nhiên là đang chờ Do Nhân Kiệt trở về. Cho nên chàng vừa về đến, Dâm Hồ lập tức tuyên bố triệu tập hội nghị ngay đêm hôm ấy, từ hộ pháp trở lên, người nào hiện diện trong tổng đàn thảy đều phải tham dự.

    Đây là một buổi hội nghị khá long trọng, song đối với Do Nhân Kiệt thì lại nhận thấy tà giáo này đã dần tiêu tan.

    Điểm rõ rệt nhất là hộ giáo Tam Kỳ đã từ mười một người còn lại chín, trong số ấy nếu trừ đi Hoa Hoa công tử cùng Đoạt Hồn Kim Tiêu Tiền Xung Ngô và Phan Vân Chưởng Tố Nguyên Bồi mới được thăng làm Hắc kỳ hộ giáo, thì hộ giáo thực thụ chỉ còn lại sáu người. Và điểm quan trọng nhất là, trong sáu hộ giáo ấy đã không còn Vô Tình Kim Cang Hạ Hầu Uy!

    Nếu Hắc Thiên Vương Kiều Bán Sơn được bổ nhiệm làm Kim Bút đường chủ thì chỉ còn lại năm người, mà trong số ấy lại có cả chàng, Ác Quân Bình Công Tôn Tiết.

    Tuy nhiên, khi buổi hội nghị bắt đầu, nhìn gian đại sảnh có sức chứa ngàn người cơ hồ ngồi đầy, vẫn khiến ai nhìn thấy cũng thất đởm kinh tâm cho thế lực của họ.

    Nơi bàn hộ giáo, vị trí của Ác Quân Bình được sắp xếp ngồi vào chiếc ghế chính giữa, đó nghĩa là từ nay Do Nhân Kiệt đã thay thế cho Vô Tình Kim Cang. Tuy nhiên, điều ấy đã khiến chàng hết sức băn khoăn.

    Theo giao ước, chàng đã khám phá ra chỗ ở của Thiên Hồ, bất kỳ lúc nào cũng có thể rời khỏi tổng đàn Thiên Ma Giáo, đến phía Đỗ Môn tú sĩ báo cáo. Thế nhưng, bằng vào địa vị hiện nay, nếu chàng tiếp tục lưu lại Thiên Ma Giáo, nhất định sẽ càng phát huy sức mạnh nhiều hơn, nấp trong bóng tối giáng những đòn chí mạng cho bọn ma giáo.

    Nếu chàng hành động như vậy, Đỗ Môn tú sĩ sẽ hoài nghi chàng chăng? Nếu một khi họ Ôn đã không tín nhiệm chàng nữa, sẽ sử dụng thủ đoạn gì đối với chàng?

    Lão ta là người thâm hiểm độc ác, nhất định sẽ chẳng từ thủ đoạn nào, chỉ cần tung tin Ác Quân Bình là kẻ giả mạo, bảo Tam Hồ điều tra lai lịch chàng, vậy là đủ đưa chàng vào cõi chết rồi.

    Trong đại sảnh tuy đông người, song hết sức trật tự, các hộ pháp Tam Đường chia nhau ngồi vào vị trí, phân biệt hết sức rõ ràng.

    Do Nhân Kiệt thầm ước tính, hiện ngay Nga Mi Đao đường là có nhân số cao nhất, còn Kim Bút đường và Huyết Chưởng đường thì tương đương nhau.

    Kim Bút đường thiếu nhân số là bởi đã bị tổn thất trong cuộc chiến tại Đại Thiên sơn trang, còn về hành động, Kim Hoa Ma hiển nhiên đã chấp nhận lời đề nghị của chàng, đã sắp xếp một số người vào việc khác, điều này Do Nhân Kiệt hết sức lấy làm an ủi. Nếu trong tương lai, cuộc hỗn chiến bùng nỗ, ít ra chàng cũng có thể khống chế được một phần thực lực.

    Sau khi hội nghị chính thức khai mạc, khắp đại sảnh im phăng phắc.

    Thiên Hồ Vi Sĩ Lôi trước tiên đứng lên phát ngôn, y đã tuyên bố với đại hội hai điều, một là Huỳnh kỳ hộ pháp Hắc Thiên Vương Kiều Bán Sơn tiếp chưởng Kim Bút đường hai là Huỳnh kỳ hộ giáo Ác Quân Bình Công Tôn Tiết thăng nhậm thủ tịch hộ giáo, kể từ nay mọi sự vụ trong giáo ngoại trừ phải do giáo chủ ban lệnh, đều phải được sự đồng ý của thủ tịch hộ giáo mới được thi hành.

    Tiếp đến, Luyện Hồ Thường Vân Sanh báo cáo giáo vụ, y đã thẳng thắn bộc bạch, kẻ địch lớn nhất của Thiên Ma Giáo hiện nay đã không phải là Tiêu Dao Thư Sinh và Thiên Sơn Tam Nghĩa, mà là Thiên Đạo Giáo dưới sự lãnh đạo của nhóm Đỗ Môn tú sĩ, Tụ Thủ Thần Y và Đại Thiên sơn trang chủ Thái Công Minh.

    Sau hết, đại hội giao cho Dâm Hồ Vu Mã Ngũ Lang chủ trì.

    Khi bắt đầu trưng cầu ý kiến thảo phạt kẻ địch thì mọi người tranh nhau phát ngôn, bên này la, bên kia hét, cả đại sảnh ồn ào như vỡ chợ.

    Thiên Hồ và Luyện Hồ thấy vậy chỉ biết chau mày.

    Dâm Hồ quay sang Do Nhân Kiệt khẽ nói:

    – Công Tôn huynh thấy cứ tiếp tục thế này có giải quyết được vấn đề không? Có cần lên tiếng ngăn cản chăng?

    Do Nhân Kiệt lắc đầu:

    – Tuyệt đối không nên!

    Dâm Hồ ngạc nhiên:

    – Sao vậy?

    – Đây là sĩ khí!

    Dâm Hồ ngớ người, đoạn gật đầu liền liền như đã hiểu ra, đồng thời mặt bất giác lộ vẻ thán phục.

    Do Nhân Kiệt khẽ nói tiếp:

    – Họ la ó như vậy tuy không có ích lợi gì, nhưng ít ra cũng có thể khiến họ hiểu ra tầm quan trọng của cuộc chiến này đối với bản thân họ.

    Dâm Hồ khẽ thở dài:

    – Vu Mã mỗ thật chẳng thể không bội phục Công Tôn huynh, trong những trường hợp như thế này, trước kia Hạ Hầu lão hộ giáo chẳng thể nào suy nghĩ được chu đáo đến vậy!

    Do Nhân Kiệt khiêm tốn:

    – Không hẳn vậy, Hạ Hầu lão hộ giáo cũng có những sở trường riêng, Công Tôn mỗ được tiếp bước tiền nhân mà không đến đỗi yếu kém, đó là do phúc khí của bổn giáo thôi!

    Dâm Hồ thấy chàng vẫn tỏ lòng tôn kính đối với người đã chết, lại càng thêm kính phục, quay sang Thiên Hồ và Luyện Hồ thuật lại những lời nói của chàng. Nghe xong, hai người đều gật đầu và bộc lộ vẻ tin cậy.

    Sau cùng, Do Nhân Kiệt chậm rãi đứng lên, tiếng ồn ào liền ngưng bặt.

    Do Nhân Kiệt quét mắt nhìn khắp đại sảnh, ung dung nói:

    – Ý kiến của các vị huynh đệ đều rất đáng quý, bổn tọa cùng ba vị giáo chủ đều đã nghe hết sức rõ ràng. Nhất là ý kiến của Tỉnh hộ pháp Kim Bút đường, Trần hộ pháp Nga Mi Đao đường lại càng vô cùng chính xác và thiết thực. Tin rằng mọi kế hoạch hành động của bổn giáo từ nay sẽ không vượt ra ngoài phạm trù do chư vị đã nêu ra. Trước hết, bổn tọa xin thay mặt ba vị giáo chủ chân thành cảm tạ những lời trần tình khẳng khái của các vị huynh đệ.

    Tiếng vỗ tay như sấm rền, khiến chàng bắt buộc phải tạm ngưng nghỉ.

    Do Nhân Kiệt lại nói tiếp:

    – Tiếp đến, bổn tọa tin rằng, nhất định hãy còn một số huynh đệ còn có rất nhiều ý kiến quý giá chưa nên ra được tại đây. Về điều này, xin các vị đường chủ hãy lưu ý, sau khi hội nghị giải tán, các đường hãy triệu tập hội nghị riêng, sau đó tổng hợp rồi trao hết cho bổn tọa để chuyển cho ba vị giáo chủ. Buổi hội nghị hôm nay đến đây kết thúc, đa tạ các vị huynh đệ!

    Trong tiếng hoan hô rền rĩ, mọi người giải tán. Lát sau, trong đại sảnh chỉ còn lại Tam Hồ với bảy hộ giáo là Do Nhân Kiệt, Lãnh Nguyệt Tiên Tử, Huyết Kiếm Phiêu Hoa, Ngân Tu Tẩu, Tý Ngọ Tẩu, Đoạt Hồn Kim Tiêu và Phân Vân Chưởng.

    Dâm Hồ Vu Mã Ngũ Lang buông tiếng thở dài:

    – Ôi, mất cả nửa đêm trời mà cũng chẳng có được chút kết quả nào cả!

    Do Nhân Kiệt mỉm cười:

    – Bổn tọa đã nói rồi, lần hội nghị này chẳng qua là để nâng cao sĩ khí của mọi người thôi! Trong tình huống này tam giáo chủ còn mong có được kết quả gì nữa?

    Luyện Hồ quét mắt nhìn sáu vị hộ giáo kia hỏi:

    – Chư vị có ý kiến gì không?

    Trong số sáu hộ pháp hiện diện, Ngân Tu Tẩu và Tý Ngọ Tẩu vốn trầm lặng ít nói.

    Đoạt Hồn Kim Tiêu và Phân Vân Chưởng đã là người mới mà chức phận lại thấp, có điều gì cũng chẳng dám mạo muội lên tiếng, ngoài Do Nhân Kiệt ra, người có đủ tư cách nói vài lời chỉ còn Lãnh Nguyệt Tiên Tử Vưu Thu Hoa và Huyết Kiếm Phiêu Hoa Tiêu Anh mà thôi.

    Do đó Huyết Kiếm Phiêu Hoa đưa mắt nhìn Lãnh Nguyệt Tiên Tử hỏi:

    – Vưu hộ giáo có cao kiến gì không?

    Lãnh Nguyệt Tiên Tử ngẫm nghĩ một hồi mới nói:

    – Bổn tọa thấy không cần phải vội trong nhất thời, tốt hơn hết hãy chờ Âm hộ giáo từ Huê Dung trở về, sau khi hiểu rõ sự bố trí của đối phương rồi hãy định liệu.

    Huyết Kiếm Phiêu Hoa gật đầu:

    – Bổn tọa cũng nghĩ như vậy!

    Luyện Hồ lại quay sang Do Nhân Kiệt hỏi:

    – Ý kiến Công Tôn hộ giáo thế nào?

    Do Nhân Kiệt trầm ngâm:

    – Bổn tọa không phản đối, nhưng cần phải bổ xung một chút ý kiến nữa.

    Tam Hồ nghe chàng còn có ý kiến bổ xung đề xuất, thảy đều phấn chấn tinh thần.

    Còn các hộ giáo khác thì chẳng cần phải nói, ngay cả Huyết Kiếm Phiêu Hoa cũng ra chiều ngưng thần lắng nghe.

    Vị Bạch kỳ hộ giáo này tuy với Ác Quân Bình có mối thù khi xưa, song y thấy đối phương địa vị trong giáo đến sau lại ngồi trên và vững như núi Thái, tự biết chẳng làm gì được, hiển nhiên đã dần từ bỏ ý định phục thù.

    Do Nhân Kiệt làm ra thói quen của Ác Quân Bình, đảo mắt nhìn quanh rồi khẽ hắng giọng nói:

    – Binh gia có câu “dặm trường tranh lợi binh ắt bại”, đó chính là nguyên nhân đã khiến phía ta phải thất bại bao lần trong thời gian qua. Tuy nhiên, hai bên giao chiến, điều quyết định thắng lợi chủ yếu nhất là do chí khí. Nếu chỉ chịu đòn mà không trả đũa thì nhuệ khí sẽ hao mòn, cũng chẳng phải là thượng sách. Do đó, theo bổn tọa thì nếu muốn triệt để tiêu diệt đối phương, đành rằng không cần gấp vội, song vì thanh danh của bổn giáo trong chốn võ lâm, cần phải lập tức ăn miếng trả miếng.

    Thiên Hồ và Luyện Hồ nghe xong đều xúc động gật đầu.

    Còn Dâm Hồ thì có vẻ do dự nói:

    – Thế nhưng...

    Do Nhân Kiệt gật đầu tiếp lời:

    – Bổn tọa hiểu ý tam giáo chủ, ở đây bổn tọa còn có một chút giải thích nữa.

    Trước đây sở dĩ bao phen xuất xư bất lợi vì trong giáo có nội gian, tuy rằng là một nguyên nhân, song về mặt sách lược cũng chẳng phải là không có thiếu sót. Về điểm này, bổn tọa vừa rồi đã có đề cập đến việc đả kích đối phương và việc triệt để tiêu diệt đối phương là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau, nên việc vận dụng thủ đoạn cũng phải khác biệt nhau.

    Dâm Hồ bỗng hỏi:

    – Vậy thì theo ý Công Tôn huynh thì phải làm sao?

    – Phải khinh binh đột xuất, trước tiên hãy thiêu hũy Tứ Hải tiêu cục ở Huê Dung.

    Luyện Hồ gật đầu:

    – Hay lắm! Nếu chỉ là việc phóng hỏa thì chỉ cần phái đi vài người là đủ, mặc dù một tiêu cục chẳng đáng gì, nhưng quả là có thể nêu cao thanh thế.

    Bởi Luyện Hồ tỏ ý tán thành trước tiên nên kiến nghị ấy liền được trở thành định luận, hôm sau bèn do một Bạch kỳ hộ pháp họ Chu thuộc Nga Mi Đao đường nhận lệnh lên đường.

    Việc hỏa thiêu Tứ Hải tiêu cục có đúng là một ý kiến hoàn hảo chăng? Vâng, nếu đứng về phía sư đồ Tiêu Dao Thư Sinh và Thiên Sơn Tam Nghĩa, đó quả là một ý kiến rất hoàn hảo. Bởi một khi Tứ Hải tiêu cục bị thiêu hủy, phía Đỗ Môn tú sĩ nhất định sẽ chọn phân đàn Huê Dung làm đối tượng báo phục. Và rồi phía Thiên Ma Giáo mắt thấy phân đàn Huê Dung bị phá hủy, tất nhiên cũng chẳng thể bỏ qua. Như thế, kẻ thiêu người giết diễn ra tuần hoàn, có lẽ chỉ chừng một năm là nhân lực và tài lực đôi bên cũng đều cạn kiệt.

    Đồng thời, Do Nhân Kiệt tin là trong tổng đàn Thiên Ma Giáo hiện nay tuy không dám chắc có còn người của Đỗ Môn tú sĩ tiềm phục hay không, nhưng dù có chăng nữa thì cũng không nằm trong hàng ngũ hộ giáo, đó là điều chắc chắn.

    Hiện nay chàng tạm gián đoạn liên lạc với Đỗ Môn tú sĩ, đó là một cơ hội tốt để chàng “tận lực” với bên Thiên Ma Giáo.

    Chiều hôm ấy, sau khi Bạch kỳ hộ pháp họ Chu lên đường không lâu, Do Nhân Kiệt nhân lúc nhàn rỗi vừa định đến Huyết Chưởng đường gặp Kim Hoa Ma, nhân tiện hỏi xem lão ta đã thu xếp thế nào về số tâm phúc kia rồi.

    Bỗng thấy Hắc Thiên Vương Kiều Bán Sơn vội vã đi đến.

    Do Nhân Kiệt thấy trong tay y có một chiếc hộp gỗ, bèn ngạc nhiên hỏi:

    – Kiều đường chủ...

    Kiều Bán Sơn đặt chiếc hộp gỗ xuống bàn nói:

    – Đây là do phân đàn Gia Ngư đưa về, vì có niêm phong nên bổn tọa không đám tự ý mở ra, cũng chẳng rõ trong ấy chứa gì, nên chuyển trình hộ giáo định đoạt, e chẳng phải đồ tốt lành gì đâu!

    Do Nhân Kiệt nghe xong, vừa bực tức vừa nực cười, nghe giọng điệu y rõ ràng là ngờ vực trong hộp là độc vật, sợ mở ra có thể tổn hại đến tính mạng. Y không tự mở ra xem mà lại mang đến đây, như thế tính mạng kẻ khác không đáng giá bằng tính mạng của y vậy.

    Thế nhưng chàng biết Kiều Bán Sơn này cũng lờ khờ như là Hà Đại Bảo bèn không chấp nhất, ngước lên hỏi:

    – Người mang đến đâu?

    – Đã bảo hắn ra về rồi!

    – Vậy Kiều đường chủ có hỏi chiếc hộp này phân đàn đã có từ đâu không?

    – Có!

    – Hắn trả lời sao?

    – Hắn bảo là trong phân đàn không một ai biết cả.

    – Từ trên trời rơi xuống ư?

    Kiều Bán Sơn như không nhận ra ý mai mỉa trong lời nói của Do Nhân Kiệt và cũng chẳng thắc mắc về việc chưa hỏi rõ ràng đã cho người ra về có gì là không ổn, lại gật đầu nói:

    – Cũng gần như vậy!

    Do Nhân Kiệt cố dằn lòng hỏi tiếp:

    – Người mang đến đã nói vậy ư?

    Kiều Bán Sơn lắc đầu:

    – Không phải! Hắn vừa đặt hộp xuống là mỗ bảo hắn ra về ngay. Nhưng theo mỗ suy đoán, có lẽ là phân đàn vừa mở cửa ra đã trông thấy chiếc hộp này rồi...

    (mất trang, tập trang -) Song liền biết lỡ lời, vội sầm mặt buông tiếng cười khẩy nói:

    – Hay cho cái bọn rõ là ngông cuồng!

    Kiều Bán Sơn vốn là một kẻ đần độn, y chỉ ngơ ngẩn hỏi:

    – Trong ấy viết gì vậy?

    Do Nhân Kiệt thấy đối phương không hề sinh nghi, mới yên tâm đẩy nắp hộp lại, vờ hậm hực nói:

    – Kiều đường chủ hãy xem, vậy có ngông cuồng không chứ?

    Kiều Bán Sơn rụt tay về, ấp úng nói:

    – Tốt hơn... hộ giáo hãy đọc đi!

    Do Nhân Kiệt thấy vẻ ngượng ngùng của đối phương, biết ngay là Kiều Bán Sơn chữ nghĩa có hạn, bèn đọc cho y nghe rồi lại giải thích, sau đó y mới hiểu hoàn toàn.

    Kiều Bán Sơn nghe xong tức giận nói:

    – Tên khốn kiếp họ Ôn quả là ngông cuồng quá mức, hãy mang chiếc hộp đến gặp giáo chủ ngay.

    – Tất nhiên là phải báo ngay với ba vị giáo chủ rồi.

    Thế là hai người bưng chiếc hộp đi vào nội cung. Trên đường, Do Nhân Kiệt thầm bảo may mắn không ngớt, việc Hỏa Cơ đến Huê Dung vốn là do chàng đề nghị, song Vô Tình Kim Cang là người tham công, nhất định không nói với Dâm Hồ đó là ý kiến của kẻ khác. Bằng không hôm nay Dâm Hồ mà nhìn thấy bức thư này, nhất định sẽ căm hận chàng thấu xương.

    Vào đến nội cung, trước tiên họ đến gặp Dâm Hồ. Dâm Hồ đi khỏi rồi đến gặp Luyện Hồ, Luyện Hồ cũng đi khỏi, mãi đến khi bước chân vào bí thất của Thiên Hồ mới thấy Tam Hồ đang ở cùng một nơi.

    Do Nhân Kiệt chẳng nói chẳng rằng, hai tay trao chiếc hộp ra.

    Thiên Hồ Vi Sĩ Lôi đón lấy, mở nắp ra xem, trông thấy đầu người trong hộp, liền thoáng biến sắc mặt. Luyện Hồ và Dâm Hồ tuy ngồi xa hơn, song bằng vào khả năng nhận xét, liền đoán ra được đại khái vật trong hộp là gì.

    Luyện Hồ Thường Vân Sanh trố mắt hỏi:

    – Một đầu người phải không?

    Thiên Hồ nhẹ gật đầu:

    – Phải!

    – Của ai vậy?

    – Hộ giáo Âm Bách Biến!

    Luyện Hồ và Dâm Hồ cùng sửng sốt:

    – Âm hộ giáo ư?

    Đoạn Dâm Hồ với giọng căm hờn nói:

    – Tên Âu Dương Đạt càng nghĩ càng đáng hận, công lực của lão Âm đã đạt đến mức thần hóa. Nếu không phải lão quỷ ấy được thông báo tin trước thì lão Âm không bao giờ thất thủ được.

    Kiều Bán Sơn không dằn lòng được nữa, lớn tiếng nói:

    – Chưa hết đâu!

    Thiên Hồ thoáng ngạc nhiên:

    – Gì mà chưa hết nữa?

    Do Nhân Kiệt cúi đầu:

    – Kiều đường chủ muốn nói lưng nắp hộp còn có một bức thư, bổn tọa thật không đủ can đảm báo với các vị giáo chủ điều không may ấy nữa.

    Thiên Hồ vội lật ngửa nắp hộp lên xem nhanh, sắc mặt thoạt trắng thoạt xanh, tức đến nghiến răng trèo trẹo. Xem xong, chẳng nói chẳng rằng trao hộp vào tay Luyện Hồ. Luyện Hồ xem xong, sắc mặt cũng trở nên tái ngắt, nhưng y không trao nắp hộp cho Dâm Hồ ngay.

    Dâm Hồ đi đến gần, chìa tay ra nói:

    – Đưa đây xem!

    Luyện Hồ khẽ buông tiếng thở dài, đành phải trao nắp hộp ra.

    Dâm Hồ xem xong, chẳng nói một lời, song vẻ mặt y còn kỳ khôi hơn Thiên Hồ và Luyện Hồ gấp trăm lần.

    Vì sao? Đương nhiên là Do Nhân Kiệt hiểu rất rõ.

    Luyện Hồ khẽ đằng hắng rồi nói:

    – Ngũ Lang, tốt hơn nên cởi mở một chút, rồi đây để xem bọn họ lộng hành đến bao giờ...

    Dâm Hồ ném bỏ nắp hộp, nghiến răng nói:

    – Vu Mã mỗ việc gì cũng có thể cởi mở, duy việc này là chẳng thể bỏ qua cho lão họ Ôn được.

    Đoạn quay phắt người, sải bước đi ra khỏi thất.

    Chiếc nắp hộp nẩy lên rồi lại rơi xuống đất, nhưng không vỡ mà lại hiện ra một vết lõm sâu hơn nửa tấc trên mặt đất.

    Do Nhân Kiệt thầm kinh hãi, chàng chỉ biết Thiên Hồ Vi Sĩ Lôi ẩn cư tại Thạch Thanh Lãnh là để tiềm tu một môn thần công. Bây giờ Dâm Hồ không tham luyện thần công mà công lực còn khủng khiếp thế này, Thiên Hồ và Luyện Hồ dĩ nhiên càng khỏi phải nói.

    Qua đó, chàng bất giác liên tưởng đến nhóm thủ lĩnh Thiên Đạo Giáo, phía ấy Thần Hành Vô Ảnh Thái Công Minh chỉ khinh công là sở trường, quyền chưởng và binh khí có lẽ không cao minh. Còn Tụ Thủ Thần Y Thi Đức Tu tuy khá hơn một chút, nhưng cũng chẳng có gì đáng kể.

    Hai người ấy nếu xung đột trực diện, nhất định không phải là đối thủ của một trong Tam Hồ.

    Còn võ công của Đỗ Môn tú sĩ thật sự thế nào? Không một ai biết rõ. Thế nhưng, tục ngữ có câu “một cây làm chẳng nên non”. Xét theo tình thế hiện nay, thực lực đôi bên dường như Thiên Ma Giáo mạnh hơn khá nhiều.

    Nhược điểm lớn nhất của Thiên Ma Giáo là đông người, nhưng không đồng tâm nhất trí, và thiếu nhân tài mưu lược.

    Còn về phía Đỗ Môn tú sĩ, chiến thuật đã áp dụng hiện nay chính là nhắm vào nhược điểm ấy của Thiên Ma Giáo mà phát huy tối đa.

    Thiên Hồ và Luyện Hồ đưa mắt nhìn theo Dâm Hồ đi khỏi, vẻ mặt hai người đều hết sức u ám, thật lâu chẳng nói một lời.

    Luyện Hồ bỗng ngẩng lên nói:

    – Chiếc hộp này mang vào đây có bao nhiêu người biết?

    Do Nhân Kiệt quay saong Kiều Bán Sơn hỏi:

    – Bên Kiều đường chủ thế nào?

    Kiều Bán Sơn lắc đầu:

    – Bên mỗ chỉ có một hộ pháp trực đường là trông thấy chiếc hộp này thôi, nhưng y không hề biết trong ấy chứa gì, khi mang đến chỗ Công Tôn hộ giáo mới được mở ra.

    Do Nhân Kiệt gật đầu, quay sang Luyện Hồ nói:

    – Vậy là chỉ có tất cả năm người chúng ta đây biết thôi.

    Luyện Hồ thở phào:

    – Vậy là không đến đỗi nào. Xin Công Tôn hộ giáo và Kiều đường chủ hãy lưu ý, việc này tuyệt đối không được tiết lộ ra ngoài, nhất là đối với Tam đường chủ, hai vị đã hiểu ý Thường mỗ rồi chứ?

    Do Nhân Kiệt và Kiều Bán Sơn gật đầu lia lịa ra chiều đã hiểu.

    Luyện Hồ lại nói tiếp:

    – Bây giờ không còn việc gì khác nữa, Công Tôn hộ giáo hãy ghé qua bên tam giáo chủ xem còn điều gì dặn bảo nữa không?

    Do Nhân Kiệt gật đầu:

    – Vâng!

    (mất trang, tập trang -) Ngay cả nơi đó mà cũng không ai nghĩ đến... dù là nuôi chó thì cũng biết kêu gâu gâu vài tiếng chứ.

  5. #44
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Do Nhân Kiệt thầm nghĩ:

    “Khốn kiếp! Vậy là ngươi mắng cả thiếu gia còn gì?”.

    Dâm Hồ hiển nhiên không hề nghĩ đến điều ấy, bặm chặt môi và đảo tròn mắt một hồi, bỗng ngẩng lên hỏi:

    – Công Tôn huynh thấy nên giải quyết việc này thế nào?

    Do Nhân Kiệt vờ ỡm ờ:

    – Đó chỉ là Công Tôn mỗ suy đoán thôi, chưa chắc gì Ôn Tư Quảng đã ở Quân Sơn, việc này... theo Công Tôn mỗ thì...

    Dâm Hồ vội khoát tay nói:

    – Không sai được đâu. Nếu Ôn Tư Quảng mà không ở Quân Sơn, Vu Mã mỗ dám đánh cuộc cái đầu với Công Tôn huynh...

    Do Nhân Kiệt biết bây giờ chỉ cần chàng xúi bẩy vài lời là sẽ khơi dậy một cuộc chiến đẫm máu. Thế nhưng, vì cần có một khoảng thời gian thư thả để bắt liên lạc với ân sư và Tam Nghĩa, chàng không muốn đôi bên phát động nhanh như vậy.

    Thế là chàng ngẫm nghĩ chốc lát rồi nói:

    – Nếu khởi sự ngay có hai vấn đề chẳng thể không đắn đo cân nhắc.

    Dâm Hồ nóng ruột:

    – Hai vấn đề gì?

    – Một là chúng ta cần phải xác định xem bọn nội gian trong giáo phải chăng đã hoàn toàn thanh trừ?

    – Tốt lắm, còn vấn đề thứ hai?

    – Hai là trước khi việc Ôn Tư Quảng ở Quân sơn chưa được minh xác, đại giáo chủ và nhị giáo chủ có đồng ý đại cử động binh chăng?

    – Không sai, không sao. Hai vấn đề đều rất dễ giải quyết.

    – À, giải quyết như thế nào?

    Dâm Hồ phấn khởi:

    – Về đại giáo chủ và nhị giáo chủ thì Vu Mã mỗ lo liệu, còn về phần nội gian thì giao cho Công Tôn huynh điều tra, mỗi người giải quyết một vấn đề.

    Do Nhân Kiệt gật đầu:

    – Được!

    Nhưng trong bụng lại thầm mắng:

    “Ngươi thật là khôn ngoan, như vậy thì kế hoạch của thiếu gia hụt hẫng còn gì?”.

    Dâm Hồ vẻ như một khắc cũng chẳng thể chờ được, đứng lên nói:

    – Đi nào, chúng ta chia nhau hành động ngay!

    Do Nhân Kiệt đứng lên theo, ơ hờ nói:

    – Điều tra nội gian không phải một việc khó, chỉ sợ về phía đại giáo chủ và nhị giáo chủ chẳng dễ gì thuận lợi thông qua...

    Dâm Hồ cười gằn:

    – Hừ, mọi sự vụ trong giáo trước nay hai người rất ít khi thắc mắc đến, Vu Mã mỗ không tin lần này lại có lý do phủ quyết.

    Do Nhân Kiệt vừa đi ra cửa vừa ơ hờ nói:

    – Nếu trong giáo không có việc gì, đại giáo chủ và nhị giáo chủ sẽ còn ở lại đây bao lâu nữa?

    Dâm Hồ buột miệng đáp:

    – Chừng bốn năm hôm!

    – Khi nào đại giáo chủ và nhị giáo chủ rời khỏi, nếu tam giáo chủ tìm một lý do nào đó đột nhiên cử binh đến Quân Sơn, sự hậu hai vị ấy có trách cứ không?

    Dâm Hồ nghe vậy ngẩn người, bất giác chững bước nói:

    – Ờ nhỉ...

    Do Nhân Kiệt thấp giọng nói tiếp:

    – Việc điều tra nội gian ít ra cũng phải bốn năm hôm, tam giáo chủ nên tạm dằn lòng để khỏi sinh chuyện cãi vã nhau, chuyên tâm vào việc bố trí chẳng hơn ư?

    Dâm Hồ thở dài:

    – Thú thật, Công Tôn huynh hiện đã là Huỳnh kỳ thủ tịch hộ giáo, Vu Mã mỗ quả tình không thể nghĩ ra được phương pháp gì để có thể ngỏ lòng cảm kích của Vu Mã mỗ đối với Công Tôn huynh.

    Do Nhân Kiệt buông thỏng hai tay:

    – Câu nói này của tam giáo chủ cũng đã quá đủ rồi.

    Dâm Hồ gật gù:

    – Hai chúng ta tự hiểu lấy trong lòng, nói nhiều lại đâm ra phàm tục, vậy là kể như đã quyết định. Công Tôn huynh hãy đi lo việc mình đi.

    Do Nhân Kiệt ra khỏi nội cung, lại đến Huyết Chưởng đường gặp Kim Hoa Ma Thích Bổn Vũ.

    Chàng chẳng chút giấu giếm cho Kim Hoa Ma biết vì Hỏa Cơ Giải Y Lôi mà Dâm Hồ sẽ chẳng ngại dụng binh Huê Dung và hỏi Kim Hoa Ma về tình hình sắp xếp nhân thủ ở Nhạc Dương.

    Nghe xong, Kim Hoa Ma tức giận nói:

    – Mẹ kiếp! Vì một nữ nhân mà y chẳng ngại động dụng đến nhân lực toàn giáo, Thích mỗ chỉ có mỗi đứa con trai, vậy mà họ chẳng đếm xỉa đến, thật là quá quắt.

    Do Nhân Kiệt phải khó khăn lắm mới làm cho Kim Hoa Ma nguôi giận. Sau cùng, Kim Hoa Ma cho chàng biết là đã phái đi mười Huỳnh kỳ hộ pháp và năm Bạch kỳ hộ pháp, trên danh nghĩa là đi thiêu hủy Tứ Phương Bảo, song thực tế thì ở lại Nhạc Dương. Mười lăm người ấy đều là gia tướng của Thích phủ trước đây, thân thủ cũng thuộc vào bậc nhất, trong tương lai cuộc hỗn chiến xảy ra, họ sẽ biết lệnh chứ không biết người, ai có trong tay Ngọc Diệp Kim Hoa Lệnh thì nghe theo sự chỉ huy của người đó.

    Do Nhân Kiệt gật đầu, lại an ủi lão ma vài câu nữa, sau đó cáo từ ra về.

    Khi về đến chỗ ở, nàng hầu phân phái cho chàng đã chuẩn bị sẵn nước tắm và bữa ăn, đồng thời hỏi ý chàng về cách giải quyết lương hướng trong hơn một năm qua.

    Do Nhân Kiệt hỏi:

    – Tổng cộng được bao nhiêu?

    – Có lẽ chừng một vạn lạng:

    – Đều là bạc ư?

    – Vâng!

    – Có bao gồm của các người không?

    – Không!

    – Các người mỗi người được bao nhiêu?

    – Bằng với Huỳnh kỳ hộ đàn, mỗi tháng một trăm hai mươi lạng.

    – Đủ tiêu dùng không?

    – Tỳ nữ ở đây đâu có gì tiêu tốn, tiền bạc lãnh mỗi tháng hầu hết đều gởi về gia đình ở Sơn Tây.

    – Vậy thì tốt lắm! Nàng hãy đến tài vụ hộ pháp đổi hết ra vàng, số lẻ thừa lại các người cứ chia đều nhau. Trong hơn năm qua, bổn tọa cứ đi đây đi đó suốt, không lúc nào rảnh rỗi. Thưởng cho các người chút ít, đó là tấm lòng của bổn tọa, bảo họ không nên khách sáo.

    Hầu hạ chàng gồm có bốn người, một nàng hầu, một nữ tỳ và hai hộ đàn. Sau khi được báo đều lần lượt đến bái tạ.

    Hôm sau Do Nhân Kiệt mang theo vàng một mình rời khỏi tổng đàn. Hiện chàng đã là Huỳnh kỳ thủ tịch hộ giáo, thích làm sao thì làm vậy, không sợ người nói lén mà cũng chẳng lo có kẻ theo dõi.

    Bởi hiện nay kẻ có đủ tư cách thắc mắc về hành tung của chàng chỉ có ba vị giáo chủ, nếu Thiên Hồ và Luyện Hồ hỏi đến, Dâm Hồ ắt sẽ giải thích hộ chàng. Mà trên thực tế, chàng rời khỏi tổng đàn phen này chẳng phải là để điều tra gian tế gì cả.

    Trưa hôm ấy, chàng ra khỏi vùng núi, nghỉ lại ở một tiểu trấn dưới chân núi. Tiểu trấn này chỉ có chừng năm mươi hộ dân cư, đa số là giáo đồ Thiên Ma Giáo. Nơi chàng dừng chân là một tiệm đậu hủ, trước kia chàng chỉ biết tiệm này là của người trong giáo, đến khi gặp ân sư và Tam Nghĩa ở Đại Kim Phố, mới biết chủ tiệm này cùng lúc có đến hai thân phận.

    Do Nhân Kiệt đi vào nói ra ám hiệu, vị chủ tiệm họ Trương lập tức đưa chàng vào trong một ngôi nhà lá phía sau.

    Trong nhà, một người đàn ông trung niên lực lưỡng đang xay đậu.

    Do Nhân Kiệt bước vào cười nói:

    – Vất vả quá, phổ ky!

    Người trung niên ngẩng lên, kinh ngạc lẫn vui mừng nói:

    – Ô hô, khách quí, khách quí, mời ngồi, mời ngồi! Thế nào? Lão đệ đột ngột đến đây có mang theo tin mừng gì không?

    Thì ra người trung niên ấy chính là Hắc Y Hiệp Trịnh Tráng Vi.

    Chủ tiệm họ Trương nhon nhón lui ra và cài then lại bên ngoài. Do Nhân Kiệt với Hắc Y Hiệp đã mật đàm suốt hai giờ, sau đó chàng mới rời khỏi tiệm đậu hủ vào lúc hoàng hôn. Chàng đã để lại một bao vàng và một kế hoạch toàn vẹn.

    Do Nhân Kiệt chậm rãi bước đi, lòng ngập đầy niềm khích động, một ngày trọng đại đã sắp đến, sự thành bại, tồn vong của Thiên Long Môn hoàn toàn trông cậy vào ngay đó. Sư đồ chàng phải cho những kẻ ương hèn bảo thủ biết là trên cõi đời không có việc gì khó, chỉ sợ lòng người ngại khó mà thôi.

    Trời đã tối dần, Do Nhân Kiệt quyết định nghỉ lại ở tiểu trấn này, ngày mai hãy trở về tổng đàn.

    Bọn giáo đồ trong trấn bởi đều là từ hộ đàn trở xuống, nên không một ai biết chàng là một Huỳnh kỳ hộ giáo, nơi vạt áo chàng có ba đường chỉ đen, đó chỉ là chứng tỏ chàng là người đến từ tổng đàn, phàm là hộ pháp và hộ giáo qua lại đều có phù hiệu ấy, sự khác biệt về thân phận thì vẫn dựa vào lệnh kỳ.

    Ngay khi Do Nhân Kiệt đang định đi vào một tửu lầu nhỏ do giáo đồ thiết lập, bỗng thấy một hán tử áo dài từ phía trước đi tới, nơi vạt áo của người ấy cũng có ba đường chỉ đen. Do Nhân Kiệt bất giác ngẩn người.

    Bởi trong tổng đàn phàm từ hộ pháp trở lên, mặc dù chàng không biết hết danh tánh, song đối phương thuộc đường nào, chàng chỉ cần thoáng nhìn là nhận ra ngay.

    Vậy mà người từ phía trước đi tới lại rất lạ mặt, thế chẳng đáng kinh ngạc hay sao?

    Hán tử kia cũng vậy, khi trông thấy chàng y cũng thoáng ngẩn người.

    Do Nhân Kiệt biết nhất định là có vấn đề, bèn chững bước cản trước mặt hán tử ấy, chú mục hỏi:

    – Huynh đệ thuộc đường nào vậy?

    Hán tử ấy quét mắt nhìn quanh, đoạn khẽ nói:

    – Báo cáo tổng tiêu đầu, tiểu đệ là Duẫn Đoan Huê đây!

    Do Nhân Kiệt giật mình, vội hỏi:

    – Ai đã bảo Duẫn huynh đến đây? Duẫn huynh có biết đây là đâu không?

    – Chính thượng cấp đã bảo tiểu đệ đến đây, bất đắc dĩ thôi. Đây không phải là nơi trò chuyện, hãy đi nơi khác, tiểu đệ có việc khẩn yếu báo cáo.

    Hai người ra khỏi tiểu trấn, đến một nơi hoang vắng, Do Nhân Kiệt vừa đi vừa hỏi:

    – Phía Huê Dung đã xảy ra sự kiện gì phải không?

    Duẫn Đoan Huê thở hắt ra một hơi dài:

    – Sự kiện to tát lắm!

    Do Nhân Kiệt vừa thầm vui mừng, vừa lại thắc mắc, với mưu trí của Đỗ Môn tú sĩ mà cũng xảy ra chuyện rắc rối ư? Không phải sao? Phía Thiên Ma Giáo chỉ phái đi hai người, cuối cùng là Huỳnh kỳ hộ giáo Ngũ Toàn Sơn Nhân Âm Bách Biến thảm tử, Hỏa Cơ Giải Y Lôi bị sanh cầm, ngoài ra còn việc gì nữa?

    Chàng vờ sửng sốt hỏi:

    – Duẫn huynh muốn nói...

    Duẫn Đoan Huê lại buông tiếng thở dài:

    – Gã đồ đệ của Hắc Bạch Song Quái đã mất tích rồi!

    Do Nhân Kiệt ngẩn người:

    – Đồ đệ của Hắc Bạch Song Quái mất tích thì bảo Duẫn huynh đến đây làm gì?

    – Thượng cấp quả quyết là tên tiểu tử ấy nhất định đã lọt vào tay Thiên Ma Giáo, bảo tổng tiêu đầu phải tìm cách giải cứu cho bằng được tên tiểu tử ấy, nếu cần có thể từ bỏ việc dò la nơi trú của Thiên Hồ.

    – Tên tiểu tử ấy như thế nào mà mất tích?

    – Thương thế của tiểu tử ấy được thần y tận tâm điều trị đã dần hồi phục, vốn ra y đều ở trong nội bảo, mấy hôm trước chẳng hiểu sao bỗng nhiên lại muốn ra ngoài dạo chơi, và rồi không thấy trở về nữa. Song quái hay tin đã nổi cơn thịnh nộ, nhất quyết buộc phải...

    – Song quái thật là không biết phải trái, đó là do tên đồ đệ quý báu của họ tự mình không thận trọng, sao có thể trách được người khác.

    Duẫn Đoan Huê cười méo xệch:

    – Nếu họ biết phải trái thì đâu gọi là quái vật!

    – Khi nãy nếu không gặp Do mỗ thì Duẫn huynh tính sao?

    – Vậy thì đành mạo hiểm tung ra phép nhiệm màu sau cùng thôi!

    Do Nhân Kiệt kinh ngạc:

    – Phép nhiệm màu gì?

    Duẫn Đoan Huê từ trong lòng lấy ra một chiếc hộp gấm:

    – Phép nhiệm mầu này đây!

    Do Nhân Kiệt đón lấy mở ra xem, bên trong là một chiếc Kim Hồ Lệnh, chàng sửng sốt nói:

    – Duẫn huynh định sử dụng thế nào? Truyền pháp chỉ giả ư?

    Duẫn Đoan Huê nhún vai:

    – Ngoài ra còn cách gì khác hơn nữa?

    – Duẫn huynh nên biết đây là lệnh phù của Dâm Hồ, mà Dâm Hồ thì lại rất ít khi rời khỏi tổng đàn, hiện y đang ở trong ấy. Duẫn huynh từ ngoài truyền Kim Hồ Lệnh vào, nếu bị bại lộ thì hai chúng ta đều mất mạng còn gì?

    Duẫn Đoan Huê thở dài:

    – Tiểu đệ đâu phải không nghĩ đến điều ấy, nhưng mệnh lệnh của cấp trên, biết làm sao hơn?

    Do Nhân Kiệt thầm nghiến răng, chàng sớm đã nhận thấy lão Ôn Tư Quảng là người thâm độc hơn cả Tam Hồ, vì lợi ích của bản thân, lão sẵn sàng bán rẻ tính mạng kẻ khác.

    Chàng giả vờ cười nói:

    – Thật ra đó chẳng qua chỉ là ý nghĩ của hai ta thôi! Thượng cấp chúng ta đã tính toán rất vững chắc, biết là một khi Do mỗ hiện nay muốn khỏa lấp một chút sơ hở thế này, đương nhiên không phải là khó.

    Duẫn Đoan Huê gật đầu:

    – Tiểu đệ cũng nghĩ như vậy!

    Do Nhân Kiệt thầm thở dài, đúng là một kẻ đáng tội nghiệp, ai bảo sao nghe vậy!

    Chàng đậy nắp hộp lại, hoàn trả cho Duẫn Đoan Huê, đoạn từ trong mình lấy ra một cuộn giấy nhỏ trao cho y.

    Duẫn Đoan Huê ngạc nhiên hỏi:

    – Cái gì vậy?

    – Cái gì thượng cấp chúng ta ưa thích nhất?

    Duẫn Đoan Huê sửng sốt:

    – Địa chỉ của Thiên Hồ ư?

    – Phải! Do mỗ đi ra phen này vốn là định trở về phía bên kia, bây giờ đã có nhiệm vụ mới, đành giao cho Duẫn huynh thôi!

    Thế là hai người chia tay nhau, đường ai nấy đi.

    Do Nhân Kiệt trở vào tiểu trấn nghỉ lại qua đêm, hôm sau trở về tổng đàn gặp hành động báo cáo:

    – Bổn tọa đã điều tra rất kỹ lưỡng, hiện trong tổng đàn đã không còn gian tế nữa, có thể yên tâm hành sự được rồi!

    Dâm Hồ gật đầu, hai người đều tự hiểu lấy trong lòng.

    Thiên Hồ và Luyện Hồ thấy Dâm Hồ không có chủ trương khích liệt đề xuất nữa, tưởng là sau khi bình tâm suy nghĩ, Dâm Hồ đã nguôi ngoai rồi, bèn quyết định ra đi sớm hầu thanh thủ luyện thành thần công, rồi sẽ trở về tổng đàn cùng tiến hành đại sự.

    Ngay chiều hôm ấy khi hai người rời khỏi, hai ứng tuyển viên Hắc kỳ hộ giáo của Nga Mi Đao đường quả nhiên đã dùng xe ngựa áp tải về một thiếu niên mười bảy, mười tám tuổi.

    Khi biết thiếu niên ấy chính là đồ đệ của Hắc Bạch Song Quái, Dâm Hồ vui mừng khôn xiết, lập tức truyền dụ phong cho Ứng, Tuyên hai người làm Hắc kỳ hộ giáo, đồng thời phái người mời Do Nhân Kiệt đến bàn cách xử lý.

    Do Nhân Kiệt đã có sự dự tính, bèn đề nghị:

    – Ôn Tư Quảng không thể thiếu sự trợ lực của Hắc Bạch Song Quái, và song quái lại không rời xa được ái đồ này, cũng như chúng ta không thể mất đi Giải đường chủ vậy! Do đó, theo bổn tọa thì chúng ta nên viết một bức thư, phái người mang đến Huê Dung thương lượng với Ôn Tư Quảng.

    Dâm Hồ trố mắt:

    – Mang tên tiểu tử này đổi Giải phó đường chủ ư?

    – Vâng, ngặt có Hắc Bạch Song Quái, họ Ôn bắt buộc phải chấp nhận!

    Dâm Hồ gật đầu:

    – Đúng lắm! Ừm, thế này vậy, phiền Công Tôn huynh hãy trông nom tên tiểu tử ấy vài hôm, thư tín thì do cô gia khởi thảo, sau đó nhờ Công Tôn huynh điều chỉnh lại.

    Nói xong, vội vã đứng lên đi vào trong thất.

    Do Nhân Kiệt quay sang Ứng, Tuyên hai người hỏi:

    – Hai người đã điểm huyệt nào của hắn vậy?

    Tuyên hộ giáo đáp:

    – Huyệt Kiên Tỉnh!

    Do Nhân Kiệt khoát tay:

    – Không còn việc của hai ngươi nữa, lui ra được rồi!

    Sau khi họ đi khỏi, Do Nhân Kiệt gọi lấy nàng hầu, đoạn đưa thiếu niên ấy về chỗ ở của mình.

    Trước hết chàng bảo nàng hầu mang thức ăn vào cho y ăn một bữa no nê, sau đó lại cho y ngủ một giấc thật ngon rồi mới bắt đầu tra hỏi.

    Thiếu niên ấy tên là Phương Huyền Niên, năm nay mười tám tuổi, theo song quái luyện võ đã được mười năm.

    Do Nhân Kiệt thấy y phẩm mạo đoan chính, đối đáp ung dung, bất giác sinh lòng thương hại. Thành thật mà nói, cho dù không có Duẫn Đoan Huê đến dặn bảo thì chàng cũng chẳng thể để mặc cho một thiếu niên hiền hậu đàng hoàng như vậy bị tổn hại.

    Chàng thấy Phương Huyền Niên tuy bề ngoài bình tĩnh, song hai mắt vẫn không khỏi lộ vẻ kinh hoàng, bèn dịu giọng an ủi:

    – Lão đệ bất tất sợ hãi, dẫu mai này giữa đôi bên thương lượng kết quả ra sao thì cũng không có lý do sát hại lão đệ, bổn nhân là Huỳnh kỳ thủ tịch hộ giáo phía bên này, lời hứa của bổn nhân, lão đệ hãy tuyệt đối tin tưởng.

    Phương Huyền Niên cúi đầu:

    – Đa tạ hộ giáo!

    – Kể từ khi tòng sư luyện võ, lão đệ có từng một mình đi lại trong chốn giang hồ không?

    – Không!

    – Vậy lão đệ không biết chút gì về những sự kiện trong giới võ lâm hiện nay ư?

    – Chỉ biết được chút ít!

    – Nghe ai nói vậy?

    – Nghe một vị Cát sư phụ nói lúc ở Tứ Phương Bảo!

    – Vị Cát sư phụ ấy đã nói những gì?

    – Vị ấy bảo, hồi mấy năm trước trong võ lâm có một Lệnh Hồ đại hiệp rất chính trực, nhưng sau cùng đã bị độc thủ của Thiên Ma Giáo, trong một đêm trăng tối gió cao, cả gia đình mấy trăm người thảy đều táng mạng, không một ai sống sót. Hiện nay, chủ nhân Tứ Phương Bảo chính là đang đối địch với Thiên Ma Giáo.

    – Vậy họ có cho lão đệ biết vì lẽ gì lệnh sư với họ đã đứng cùng một phía không?

    – Không!

    – Và lệnh sư cũng không đề cập đến ư?

    – Vâng!

    – Vậy nội thương của lão đệ đã hoàn toàn bình phục chưa?

    Phương Huyền Niên kinh ngạc:

    – Sao hộ giáo biết vãn sinh thọ nội thương?

    Do Nhân Kiệt mỉm cười:

    – Vì lúc lệnh sư phóng hỏa thiêu hủy Thái Bình sơn trang của Tụ Thủ Thần Y, bổn tọa cũng đang có mặt tại đó, nếu không phải vì cầu y thì lệnh sư đâu đến đó làm gì!

    – Tính khí của hai vị gia sư thật quá nóng nảy, nhưng vãn sinh rất lấy làm lạ, vì lẽ gì sau này Tụ Thủ Thần Y vẫn chịu chữa trị cho vãn sinh? Nếu là kẻ khác, nhất định là không bao giờ chịu làm như vậy. Theo vãn sinh nghĩ, có lẽ là vì vị nể Ôn đại quan nhân.

    – Đúng vậy! Đó hoàn toàn là nhờ ở Ôn đại quan nhân. Tuy nhiên, theo bổn tọa suy đoán, nội thương của lão đệ nhất định là chưa hoàn toàn tuyệt gốc.

    Phương Huyền Niên lại kinh ngạc:

    – Hộ giáo thật là nhãn lực siêu phàm!

    Do Nhân Kiệt lắc đầu cười:

    – Đó chẳng dính dáng gì đến nhãn lực cả. Sau này lão đệ lăn lộn nhiều trên chốn giang hồ thì cũng hiểu ra dễ dàng thôi!

    – Hộ giáo muốn nói...

    – Hẳn là hai vị lệnh sư hiểu rất rõ điều ấy. Thiên Ma Giáo một ngày chưa trừ diệt, thì bệnh căn của lão đệ ắt chưa được trị dứt, và cũng tương tự, một khi Thiên Ma Giáo bị tiêu diệt, cũng không ai dám bảo đảm là Tụ Thủ Thần Y chắc chắn chịu chữa cho lão đệ hoàn toàn bình phục.

    Phương Huyền Niên thừ ra một hồi, mới nhướng mắt ngập ngừng nói:

    – Hộ giáo cho là Ôn đại quan nhân và Tụ Thủ Thần Y, chẳng qua chỉ là mượn vào nội thương của vãn sinh mà lợi dụng gia sư ra sức cho họ ư?

    – Nếu như hai vị lệnh sư hôm nay từ chối tham gia vào trận tuyến của họ, lão đệ nghĩ là Tụ Thủ Thần Y sẽ còn tiếp tục điều trị cho lão đệ hay không?

    Phương Huyền Niên cúi đầu lặng thinh, hồi lâu không nói gì nữa.

    Do Nhân Kiệt khẽ buông tiếng thở dài, lại hỏi:

    – Lão đệ bị điểm huyệt, có vận khí hành công được không?

    Phương Huyền Niên gật đầu:

    – Được!

    – Khi hành công có cảm thấy gì khác lạ không?

    – Vãn sinh theo nhị vị ân sư luyện tập pho Song Long chưởng, pho chưởng pháp này tinh hoa đều ở chiêu sau cùng là “Song Long bát thức”, bởi chân lực bị hạn chế, không sao phát huy được tâm thức sau cùng đó nữa, nếu không vậy thì vãn sinh đâu bị bắt đến đây.

    – Còn về khinh công thì sao?

    Phương Huyền Niên đáp:

    – Trong vòng mười dặm không bị ảnh hưởng, hơn nữa thì sẽ có cảm giác như lực bất tòng tâm.

    Do Nhân Kiệt gật gật đầu, đứng lên đi ra đại sảnh đảo quanh một vòng, lúc này chừng khoảng canh ba, người hầu đều đã ngủ say, trong ngoài đều hết sức tĩnh lặng.

    Chàng trở vào nội thất, tiện tay cài then lại, sau đó đến giải huyệt cho Phương Huyền Niên.

    Phương Huyền Niên hết sức kinh ngạc nói:

    – Hộ giáo... định... thả vãn sinh đào tẩu ư?

    – Tổng đàn này canh phòng rất nghiêm ngặt và kiên cố, lão đệ liệu trốn thoát được chăng?

    – Vậy sao hộ giáo lại giải huyệt cho vãn sinh?

    – Giải huyệt cho lão đệ đương nhiên là để lão đệ tiện bề thoát thân, nhưng có điều là hiện chưa phải lúc, mong rằng trước khi thời cơ ấy đến, lão đệ hãy giả như vẫn còn bị khống chế, hiểu không?

    Phương Huyền Niên cảm kích gật đầu, ra vẻ đã hiểu.

    Do Nhân Kiệt đưa tay chỉ chiếc giường nói:

    – Lão đệ hãy ngủ một giấc trước đã! Bổn tọa còn có một gian thư phòng ngoài kia, ngày mai có lẽ bổn tọa không rảnh để đến với lão đệ, hãy nhớ kỹ, tuyệt đối không được để bại lộ, dù là đối với người hầu.

    Sáng hôm sau, Do Nhân Kiệt lại đến chỗ Kim Hoa Ma.

    Kim Hoa Ma đưa chàng vào trong nội thất, nôn nóng hỏi:

    – Đã bắt được một tên tiểu tử phải không?

    Do Nhân Kiệt lắc đầu, buông tiếng thở dài thậm thượt, đoạn nói:

    – Thôi đừng nhắc đến nữa!

    Kim Hoa Ma kinh ngạc:

    – Sao vậy?

    Do Nhân Kiệt lại thở dài:

    – Chính vì việc ấy mà Công Tôn mỗ với tam giáo chủ đã mất hòa khí...

    – Vì sao?

    Do Nhân Kiệt chau mày:

    – Tiểu đệ nói “Tên tiểu tử ấy đã là đồ đệ của Hắc Bạch Song Quái, vậy thì Ngọc Lang hộ giáo đã được cứu rồi...” ngờ đâu tiểu đệ chưa kịp nói hết lời, tam giáo chủ đã sầm mặt lạnh lùng bảo “Cô gia nhận thấy thân giá của tên tiểu tử ấy không chỉ có vậy thôi”!

    Kim Hoa Ma tái mặt:

    – Vậy tam giáo chủ định dùng tên tiểu tử ấy để làm gì?

    Do Nhân Kiệt cười áo não:

    – Thích lão hỏi vậy há chẳng thừa lắm ư?

    Kim Hoa Ma nghiến răng keng két, mặt mày tái ngắt, hồi lâu không thốt nên lời.

    Do Nhân Kiệt khẽ hắng giọng nói:

    – Chẳng hay Thích lão có nghĩ đến điều này chăng?

    Kim Hoa Ma ngẩng lên trố mắt hỏi:

    – Điều gì?

    – Tiểu đệ thấy... Ngọc Lang hộ giáo dường như nên đổi một chỗ dưỡng thương khác, hơn là cứ ở mãi trong tổng đàn...

    Kim Hoa Ma chơm chớp mắt, liền hiểu ra, bèn vội gật đầu nói:

    – Phải, phải... lão phu cũng có ý ấy... Đa tạ Công Tôn huynh đã... chỉ điểm cho... Nếu Công Tôn huynh không bận việc gì, trưa nay hãy ở lại đây uống chung rượu được chăng?

    Vào lúc trưa chiều, Kim Hoa Ma mặt mày tươi rói tiễn Do Nhân Kiệt ra về. Do Nhân Kiệt rời khỏi Huyết Chưởng đường, lại đến gặp Dâm Hồ.

    Dâm Hồ đã thảo xong bức thư, quả nhiên thư viết rất sâu sắc. Xem xong, Do Nhân Kiệt luôn miệng khen hay.

    Sau khi phái người đưa thư đi, Do Nhân Kiệt lại viện cớ đến tiểu trấn dưới chân núi một lần nữa.

    Đêm hôm sau, trong tổng đàn Thiên Ma Giáo bỗng xảy ra một việc hết sức khủng khiếp.

    Đó là khi Do Nhân Kiệt từ ngoài vào, bỗng nhận được thiếp mời của Kim Hoa Ma, người cùng được mời gồm có Kim Bút đường chủ Kiều Bán Sơn, Nga Mi Đao đường chủ Tang Nguyên Hương, cùng toàn thể hộ giáo, trên thiếp mời ghi rõ là mừng thọ sáu mươi của Kim Hoa Ma.

    Kết quả, sau ba tuần rượu, tất cả mọi người dự thảy đều trúng độc ngã lăn, miệng sùi bọt trắng, bất tỉnh nhân sự.

    Cùng trong lúc ấy, hai Huỳnh kỳ hộ pháp Huyết Chưởng đường đã lẻn vào chỗ ở của Do Nhân Kiệt, khống chế Phương Huyền Niên mang đi mất.

    Khi Dâm Hồ hay tin từ nội cung ra đến thì Kim Hoa Ma cùng một số tâm phúc đã chẳng rõ đi đâu mất biệt. Cũng may trong rượu chỉ là thuốc mê, khi được cứu chữa thảy đều hồi tỉnh. Sau khi biết rõ sự thật, mọi người đều toét miệng mắng chửi lão ma không thôi.

    Dâm Hồ Vu Mã Ngũ Lang giận run, trong tổng đàn chỉ có ba đường, chẳng ngờ bỗng chốc đã phản lại hai, vậy cũng không đến đỗi, điều trọng yếu nhất là để mất ái đồ của Hắc Bạch Song Quái, mai này lấy gì để trao đổi Giải phó đường chủ đây?

    Kiều Bán Sơn nhảy cẫng rống lên:

    – Tổ bà cái lũ khốn kiếp! Tam giáo chủ hãy hạ lệnh đi, mỗ tức khắc dẫn đường đuổi theo, nếu mà không bắt được lão tặc ấy mang về, Hắc Thiên Vương chẳng kể là do cha mẹ sinh thành!

    Dâm Hồ liền khoát tay:

    – Được, đi mau! Nếu không đuổi kịp lão tặc thì hãy truyền dụ của cô gia đến các phân đàn, nội trong nửa tháng phải san bằng hết tất cả ngân hiệu Thích Lý của lão tặc đó!

    Sau khi Hắc Thiên Vương Kiều Bán Sơn dẫn người đuổi theo, Dâm Hồ liền chỉ phái Huyết Kiếm Phiêu Hoa Tiêu Anh thay thế chức đường chủ Huyết Chưởng đường và định ngày mai sẽ cử hành hội nghị toàn giáo, phân phối lại nhân sự và chỉnh đốn triệt để biên chế Tam Đường.

    Đêm hôm ấy đã khiến cho thời gian ngủ tuy ít còn chừng hai canh, song Do Nhân Kiệt lại ngủ một giấc ngon lành và cảm thấy thoải mái hơn bao giờ hết.

    Giờ đây, sứ mạng của chàng đa số đã đạt thành, các phần tử tinh anh của Thiên Ma Giáo đã bị diệt trừ gần hết, kể từ nay lại chuyển sang một giai đoạn khác, vì để đối phó với nhóm người Đỗ Môn tú sĩ, chàng chẳng thể không giữ lại cho Thiên Ma Giáo một chút thực lực, ngỏ hầu triệt tiêu lẫn nhau.

    Còn về Phương Huyền Niên, chàng chẳng qua đã mượn tay Kim Hoa Ma đưa y ra khỏi tổng đàn. Chàng đã giải huyệt cho y và bắt liên lạc với Hắc Y Hiệp Trịnh Tráng Vi, cho dù Phương Huyền Niên chẳng thể tự mình thoát thân được, thì ân sư và Tam Nghĩa cũng sẽ tìm cách giải cứu giữa đường, chàng không cần bận tâm đến việc ấy nữa.

    Ngày mai, sau khi hội nghi quái quỷ kia kết thúc là chàng đã có thể chính thức từ giã tổng đàn Thiên Ma Giáo này. Hiện giờ, điều khiến chàng phân vân là sau khi rời khỏi tổng đàn Thiên Ma Giáo, chàng sẽ phải đi về đâu?

    Hôm ở tiểu trấn, chàng vốn đã bàn bạc xong xuôi với Hắc Y Hiệp, đợi khi nào Thiên Ma Giáo khởi binh tấn công Quân Sơn, sư đồ chàng và Tam Nghĩa sẽ cùng đến Nhạc Dương ngồi không hưởng lợi, nắm lấy thời cơ thích đáng lần lượt tiêu diệt hết dư đản của hai tà giáo ấy.

    Chẳng ngờ sự viẹc lại xảy ra ngoài dự liệu, ái đồ của Hắc Bạch Song Quái bỗng bị Thiên Ma Giáo bắt giữa, khiến kế hoạch dự định bắt buộc phải sửa đổi.

    Sau khi chàng bộc lộ mặt thật nói rõ nguyên nhân và hậu quả việc song quái bị Thiên Đạo Giáo lợi dụng, Phương Huyền Niên đã tự tay viết một thư để lại, vì để bức thư ấy có thể đến tay song quái, cho dù chàng biết rõ Quân Sơn chẳng phải là một nơi tốt lành, song cũng đành mạo hiểm đến đó một phen.

    Hôm sau, trong tổng đàn Thiên Ma Giáo, đại hội đã được cử hành đúng như đã định, hội trường được đổi ra khoảng đất trống ngoài sơn cốc, một hội nghị nhốn nháo bừa bộn như vậy tất nhiên là chẳng có được kết quả gì.

    Tuy nhiên, mục đích triệu tập lần hội nghị này của Dâm Hồ cũng chẳng phải để thảo luận gì cả, chẳng qua vì Huyết Chưởng đường và Kim Bút đường hiện nay đã quá lộn xộn, y định tổng kết nhân số ba đường rồi chia đều ra mà thôi.

    Sau khi hội nghị kết thúc, Do Nhân Kiệt gặp Dâm Hồ đưa ra hai kiến nghị, một là tức tốc phái người đi mời đại giáo chủ và nhị giáo chủ về tổng đàn, hai là để chàng dẫn theo hai Hắc kỳ hộ giáo mới được thăng nhiệm xuống núi tiếp viện cho Hắc Thiên Vương Kiều Bán Sơn.

    Dâm Hồ đương nhiên là ưng thuận ngay. Thế là, Do Nhân Kiệt liền thu xếp qua loa, chỉ mang theo những gì thật cần thiết, cùng hai Hắc kỳ hộ giáo lên đường ngay đêm hôm ấy.

    Hai Hắc kỳ hộ giáo ấy, một là Hắc Tâm Phán Quan Ứng Kỳ Xương, và một là Trường Tụ Lang Quân Tuyên Công Nghĩa. Hai người vốn là Huỳnh kỳ hộ pháp thuộc Nga Mi Đao đường, bởi phen này bắt được Phương Huyền Niên nên được thăng làm hộ giáo sau Đoạt Hồn Kim Tiêu Tiền Xung Ngô và Phong Vân Chưởng Tố Nguyên Bồi.

    Do Nhân Kiệt sở dĩ trước lúc ra đi đã chọn hai người này theo cùng đương nhiên là phải có nguyên nhân. Chàng đã sớm biết họ lúc còn ở Nga Mi Đao đường, tuy hai người võ công chẳng phải bậc nhất, song còn hiểm độc đáng sợ hơn cả Ngũ Toàn Sơn Nhân và Hắc Thiên Vương.

    Trước đây, chàng từng có hỏi thăm gã Huỳnh kỳ hộ đàn hầu cận về lai lịch và xuất thân của hai Hắc kỳ hộ giáo này, nghe gã Huỳnh kỳ hộ đàn ấy nói, Trường Tụ Lang Quân Tuyên Công Nghĩa nguyên là một tiểu phổ ky của một tiêu cục ở Kim Lăng, bởi tay áo dài múa hay nên quen biết rất nhiều người quyền quý. Kết quả chỉ mấy năm trời, vị tiêu cục chủ bởi bồi thường quá nhiều nên gia tài khách kiệt, trong khi ấy Tuyên Công Nghĩa chỉ một đêm đã trở thành hào phú, sự lắc léo bên trong dĩ nhiên là chẳng khó hiểu ra.

    Sau khi Tuyên Công Nghĩa làm chủ tiêu cục ấy, do biết cách giao thiệp với giới hắc đạo, tài thế mỗi ngày một thêm phát triển, và y vốn đã biết chút ít võ công, bởi giàu có cần phải tự bảo, nên lại cố gắng rèn luyện thêm vài năm nữa, sau cùng y đã luyện thành một pho chưởng pháp, bỗng chốc đã đứng trong hàng ngũ danh thủ võ lâm.

    Về sau, khi Kim Bút đại hiệp Lệnh Hồ Huyền cùng Kim Bút Tứ Hữu càn quét giới tà phái hắc đạo, Tuyên Công Nghĩa sợ Kim Lăng công tử Hồ Dật vạch trần tội ác, mới đầu nhập Thiên Ma Giáo. Lúc bấy giờ đang trong thời kỳ tổ chức, cũng giống như Kim Hoa Ma, dùng tài lực để đổi lấy một chiếc ghế hộ pháp.

    Còn Hắc Tâm Phán Quan Ứng Kỳ Xương thì xuất thân từ một tên hộ khoái, thuở niên thiếu từng được dị nhân truyền thụ võ công cũng khá cao cường, từ lúc làm bộ khoái trong huyện đường Lạc Dương, nhờ có năng lực xuất chúng nên rất được quan huyện trọng vọng, từ đó y bắt đầu lợi dụng quyền thế.

    Hễ người trong giới hắc đạo mà lọt vào tay y, nếu có tài sắc lo lót thì y sẽ tìm cách phóng thích, còn như không, việc nhỏ hóa to, không mất mạng thì cũng bị lột da, chính vì vậy mà y đã có ngoại hiệu Hắc Tâm Phán Quan.

    Ứng Kỳ Xương này tuy không lớn chức, song tiền tài thì tích lũy rất nhiều. Năm nọ, có lẽ y đã hết thời vận, trong khi tiến hành tra phá một vụ án trộm, y đã sinh tâm thèm muốn vợ của tên trộm, chẳng ngờ người đàn bà ấy là một nữ ma vương, luyện được một pho Truy Hồn Đinh bách phát bách trúng, ngay khi y ghìm ngựa dừng thương, tâm thần đang ngây ngất thì bất ngờ một mũi Truy Hồn Đinh bay đến, y trở tay không kịp liền ngã gục.

    Bởi có điều e ngại nên người đàn bà ấy đã không lấy mạng y. Sau đó, y tự biết không thể nào tiếp tục đứng chân tại đó nữa, bèn đang đêm đến Cửu Cung Sơn đầu nhập Thiên Ma Giáo.

    Sau khi được biết sự tích xấu xa của hai Hắc kỳ hộ giáo này, Do Nhân Kiệt kể từ đó đã có ý định trừ đi, nay cơ hội đã đến, lẽ dĩ nhiên chàng chẳng thể bỏ qua.

    Ứng Kỳ Xương và Tuyên Công Nghĩa đâu biết số chết đã đến, lại còn hết sức vui mừng bởi được Huỳnh kỳ thủ tịch hộ giáo lưu tâm đến, nghĩ rằng nếu được theo bên chàng, tiền đồ ắt sẽ vô tận.

    Hôm ấy, ba người đã đến phân đàn Gia Ngư. Sau khi hỏi thăm, được biết ba hôm trước, Kim Hoa Ma với Kiều Bán Sơn quả có dẫn theo một số người lần lượt đi ngang qua đây, nhưng hai nhóm người đều không dừng chân ở phân đàn, nên phân đàn không hề biết trong tổng đàn đã xảy ra đại sự như vậy.

    Thật ra, Kim Hoa Ma sẽ đưa Phương Huyền Niên đến đâu, Do Nhân Kiệt hiểu rõ hơn ai hết. Sở dĩ chàng giả vờ tra hỏi là muốn qua đó làm giảm sự chú ý của Tam Hồ, sau này chàng đột ngột mất tích sẽ không lần ra được đầu mối.

    Rời khỏi Gia Ngư, ba người tiếp tục tiến bước về phía Nhạc Dương.

    Hôm ấy, họ đến Lâm Tương, Do Nhân Kiệt nhận thấy đã đến lúc hạ thủ rồi.

    Trước tiên, chàng bảo Trường Tụ Lang Quân Tuyên Công Nghĩa đến phân đàn ở ngoài thành hỏi về hành tung của Hắc Thiên Vương Kiều Bán Sơn. Sau đó, chàng bảo Hắc Tâm Phán Quan đi vào trong rừng trúc ở sau viện với thủ pháp Đại Cầm Nã do Kỳ Chính Thủ dạy cho kềm chế cổ tay trái y, sau khi kể rõ hết tội trạng mới một chưởng kết liễu tính mạng Hắc Tâm Phán Quan.

    Lát sau, Trường Tụ Lang Quân về đến, báo cáo là phân đàn không hề biết gì về tin tức liên quan đến Kim Hoa Ma và Hắc Thiên Vương.

    Sau cùng y hỏi:

    – Ứng Kỳ Xương đâu?

    – Ứng hộ giáo bảo là vào trong rừng trúc phía sau dạo chơi, chẳng hiểu sao đến giờ vẫn chưa thấy về đến?

    Trường Tụ Lang Quân chau mày:

    – Y thật là thanh thản, trong lúc này mà còn có hứng thú đi dạo chơi, để Tuyên mỗ đi gọi y về, tuyến đường này đã không có tin tức, mọi người phải cùng nhau bàn bạc mới phải.

    Do Nhân Kiệt đứng lên nói:

    – Chúng ta cùng đi xem thử!

    Vào đến trong rừng trúc, Trường Tụ Lang Quân phát hiện tử thi của Hắc Tâm Phán Quan, tiếng kinh hãi chưa kịp thốt ra khỏi miệng thì tử huyệt sau gáy đã bị điểm trúng.

    Do Nhân Kiệt mai táng hai người tại chỗ, sau đó ung dung trở vào khách điếm, rồi lại đi đến phân đàn ở ngoài thành, gặp phân đàn chủ hỏi:

    – Ứng hộ giáo và Tuyên hộ giáo có đến đây hay không?

    Phân đàn chủ Lâm Tương ngạc nhiên nói:

    – Tuyên hộ giáo chẳng phải mới vừa từ đây về sao?

    – Còn Ứng hộ giáo?

    Phân đàn chủ lắc đầu:

    – Ứng hộ giáo không thấy đến đây!

    Do Nhân Kiệt ngẫm nghĩ một hồi, vờ sầm mặt nói:

    – Bổn tọa thấy hai người này nhất định đã có vấn đề, hãy cấp tốc báo về tổng đàn, cứ bảo đó là lệnh của bổn tọa, bảo tổng đàn hỏa tốc tăng phái nhân thủ đến Lâm Tương trợ sức, nếu hai người nếu không phải đã bội phản, thì chắc là vùng này không được an ninh, nếu đúng là tình hình bất an ninh thì trách nhiệm của quý phân đàn chẳng phải nhẹ, bổn tọa cần phải điều tra kỹ càng mới được!

    Đoạn chàng với bộ mặt đầy giận dữ sải bước rời khỏi phân đàn để lại muôn vàn lo lắng và kinh hoàng cho phân đàn chủ ấy từ từ nếm trải.

    Do Nhân Kiệt ra khỏi phân đàn Lâm Tương, vào trọ trong một khách điếm khác, đến khi trời tối mới rón rén ra khỏi thành, lên đường đến Nhạc Dương.

    Vào lúc trời vừa hừng sáng, chàng gõ cửa một hiệu bạc trong thành Nhạc Dương, đưa ra chiếc Ngọc Diệp Kim Hoa Lệnh, liền được cung kính dẫn vào một gian thượng phòng nơi hậu viện.

    Chừng nửa giờ sau, Kim Hoa Ma được tin đến nơi.

    Do Nhân Kiệt vừa thấy khí sắc của lão ma, biết ngay Phương Huyền Niên đã bình an thoát thân, chàng không muốn giả vờ quá mức, bèn thẳng thắn nói:

    – Tên tiểu tử ấy đã gặp rắc rối phải không?

    Kim Hoa Ma tức tối giậm chân, hồi lâu mới hậm hực nói:

    – Lão tặc Liễu Tử Phong thật là khốn kiếp, chẳng dính dáng gì đến lão mà lão cũng nhúng tay vào, đã cùng mấy lão quỷ ở Thiên Sơn giữa đường cướp mất tên tiểu tử ấy...

    Do Nhân Kiệt thầm cười khẩy, lão ma đầu chỉ biết oán trách người ta mà không chịu tự xét mình, với bao tội ác lão đã gây ra, nếu lão nhân gia ấy không vị tình biểu huynh đệ thì đến mười Kim Hoa Ma cũng đã mất mạng từ lâu rồi, song ngoài miệng vẫn khuyên giải:

    – Thích lão không nên nóng giận, tên tiểu tử ấy vốn không nằm trong kế hoạch của chúng ta, giờ mất đi cũng chẳng hề gì, việc này để Công Tôn mỗ lo liệu được rồi!

    Kim Hoa Ma nguôi giận phần nào, bỗng hỏi:

    – Sau khi lão phu rời khỏi, tình hình trong giáo ra sao? Vu Mã Ngũ Lang có phái người đuổi theo không?

    – Tiểu đệ đến đây chính là vì việc ấy, người phụng mệnh đuổi theo là Hắc Thiên Vương Kiều Bán Sơn, có lẽ y đã dẫn theo khoảng hơn hai mươi người.

    – Tốt lắm! Lão phu đang bực tức không nơi phát tiết, tên đần độn ấy đến đây thật là đúng lúc, để hắn nếm thử thủ đoạn của lão phu một phen cho biết.

    – Thích lão đương nhiên là chẳng bận tâm đến hạng ấy, nhưng còn một việc khác, Thích lão cần phải lo toan trước mới được!

    – Việc gì?

    – Nếu Kiều Bán Sơn không tìm gặp Thích lão, có thể họ sẽ nhắm vào các hiệu bạc của Thích lão, Thích lão nên nghĩ cách ứng phó sớm là hơn!

    Kim Hoa Ma giật mình kinh hãi:

    – Bọn họ định làm vậy thật ư?

    Do Nhân Kiệt gật đầu:

    – Thật hoàn toàn, và không lâu lắm đâu!

    Kim Hoa Ma cuống lên:

    – Vậy thì phiền lão đệ dẫn người đến các hiệu bạc kết toán giùm lão phu được chăng?

    Do Nhân Kiệt thầm nhủ, nếu là Ác Quân Bình thật, đây quả là một công việc cầu mong mà chẳng được, nhưng thiếu gia đây thì không có thời gian rảnh rỗi đến vậy đâu!

    Kim Hoa Ma thấy chàng lặnh thinh, lại giục:

    – Thế nào?

    Do Nhân Kiệt buông tiếng thở dài:

    – Lẽ ra là tiểu đệ phải ra sức, nhưng có điều tiểu đệ chỉ một lòng nghĩ đến sức khỏe của Ngọc Lang lão đệ, nhận thấy việc kết thúc hiệu bạc tuy rằng quan trọng, nhưng vẫn không thiết yếu bằng lấy được dược phương của Tụ Thủ Thần Y.

    Kim Hoa Ma phấn chấn tinh thần:

    – Vậy lão đệ đã có cách lấy được dược phương rồi phải không?

    Do Nhân Kiệt gật đầu:

    – Vâng! Tiểu đệ đang định cải trang đến Huê Dung một chuyến, tìm ra căn cứ địa của đối phương trước hầu tùy cơ hành sự.

    Kim Hoa Ma vội nói:

    – Vậy thì lão phu phái người khác cũng được!

    Đoạn lão ma ra lệnh bày tiệc khoản đãi chàng.

    Do Nhân Kiệt nghỉ lại trong hiệu bạc một ngày, hôm sau bảo là đến Huê Dung, song thật ra là chàng lại đi đến Quân Sơn.

    Sau khi Do Nhân Kiệt giả làm một ngư dân lên bờ tại Quân Sơn, nhờ vào dấu tay và ám hiệu, trên đường không gặp một cản trở nào, thuận lợi đi đến ngôi miếu hoang ở hậu sơn.

    Vào đến đại điện, khi vừa định bấm nút cơ quan, chàng bỗng thoáng động tâm, bèn vội từ trong lòng lấy ra phong thư và Ngọc Diệp Kim Hoa Lệnh mang giấu dưới đáy khám Phật. Sau đó mới phát động cơ quan, chậm rãi đi xuống bí động.

    Đi vào gian đại sảnh dưới lòng đất, chàng trông thấy Tụ Thủ Thần Y với Thần Hành Vô Ảnh đang ngồi chơi cờ, còn Đỗ Môn tú sĩ thì choàng tay qua vai một mỹ nhân, ngồi bên lẳng lặng xem hai người giao chiến.

    Mỹ nhân trong vòng tay Đỗ Môn tú sĩ chẳng phải ai khác, chính là Hỏa Cơ Giải Y Lôi! Bởi tuy chàng đã cải trang, nhưng không thay đổi diện mạo, nhìn bề ngoài vẫn là Ác Quân Bình Công Tôn Tiết chính hiệu.

    Đỗ Môn tú sĩ thấy Hỏa Cơ sửng sờ ra đó, cười ha hả nói:

    – Ôn mỗ nói thế nào? Nàng bảo không tin trong Thiên Ma Giáo có nhân vật cấp hộ giáo là người của phía Ôn mỗ, bây giờ đã tin chưa nào?

    Do Nhân Kiệt tiến tới lần lượt chào ba lão ma, đoạn quay sang Hỏa Cơ vòng tay thi lễ.

  6. #45
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hỏa Cơ đỏ bừng mặt lẩm bẩm:

    – Nô gia vẫn không sao tin được... Thật là quái lạ, y ở bên ấy... luôn trung thành tận tụy, đưa ra nhiều kế sách cho Thiên Ma Giáo, không hề có chút sơ hở, nô gia không tin một con người có thể ngụy trang xác thực đến vậy!

    Đỗ Môn tú sĩ lại cười ha hả nói:

    – Nàng phải cảm tạ y mới đúng! Nếu y mà không giả dạng xác thực thì nàng ngày hôm nay đâu có ở đây? Ha ha ha ha! Ha ha ha ha!

    Hỏa Cơ đỏ bừng mặt, nhưng đó là thẹn thùng chứ không phải xấu hổ.

    Do Nhân Kiệt thầm nghĩ, Dâm Hồ mà trông thấy cảnh tượng này, chẳng rõ sẽ cảm thấy ra sao?

    Đỗ Môn tú sĩ chỉ tay nói:

    – Hãy ra phía sau rửa mặt, từ nay không cần xuất hiện với bộ mặt ấy nữa rồi!

    Hỏa Cơ lại sửng sờ:

    – Sao? Người này... không phải Ác Quân Bình ư?

    Đỗ Môn tú sĩ cười to:

    – Đây gọi là trong trò có trò, chính là một kiệt tác đắc ý nhất trong đời Ôn mỗ; người này thật là ai, lát nữa nàng sẽ rõ ngay!

    Do Nhân Kiệt rửa xong mặt trở ra.

    Hỏa Cơ quả nhiên kinh ngạc đến tột độ, trố to mắt nhìn Do Nhân Kiệt từ đầu đến chân hết lượt này đến lượt khác, như không dám tin Ác Quân Bình Công Tôn Tiết với chàng thanh niên anh tuấn trước mắt lại là một người.

    Do Nhân Kiệt hiểu rất rõ, bất luận ở trong tổng đàn Thiên Ma Giáo hay ở trước mặt Đỗ Môn tú sĩ bây giờ, ánh mắt của đối phương đều có thể mang đến họa sát thân cho kẻ bị nhìn, do đó chàng lại quay người đi đến bên bàn cờ, cười nói:

    – Hai vị tiền bối thắng bại thế nào?

    Đỗ Môn tú sĩ đi theo cười tiếp lời:

    – Thôi được rồi, hai vị đã đấu nhau suốt cả đêm, cũng nên ngưng nghỉ dưỡng thần đi thôi!

    Tụ Thủ Thần Y đứng lên nói:

    – Được, được, tạm ngưng cái đã, lát nữa hãy đấu tiếp!

    Thần Hành Vô Ảnh đưa tay cản lại nói:

    – Không được!

    Tụ Thủ Thần Y trố mắt:

    – Sao lại không được?

    – Hết ván này rồi muốn đi đâu thì đi!

    – Hai ta hễ mỗi lần chơi là mấy mươi ván, lâu lâu một ván chưa kết thúc thì có gì đáng kể chứ?

    – Thôi đi, lão phu khó khăn lắm mới...

    Tụ Thủ Thần Y cười ha hả:

    – Nói tiếp đi, khó khăn lắm mới sao hả? Ha ha ha ha, khó khăn lắm chơi suốt cả đêm mới giành được chút ưu thế trong ván cờ này phải không?

    Thần Hành Vô Ảnh nắm lấy tay áo không chịu buông nói:

    – Bất luận thế nào, ván cờ này cũng phải chơi cho song đã!

    Đỗ Môn tú sĩ khoát tay cười nói:

    – Cứ chơi cho xong đi, đã chơi suốt cả đêm rồi, chỉ một ván nữa thì có gì là đáng kể?

    Đoạn quay sang Hỏa Cơ nói:

    – Nàng hãy ra sau bảo chuẩn bị rượu thịt, sẵn tiện phái người đi tìm Hà sư phụ, cho y biết là Do tổng tiêu đầu đã về đến rồi!

    Hỏa Cơ lãnh mệnh bỏ đi, trước khi đi còn lén ném cho Do Nhân Kiệt một cái liếc mắt.

    Do Nhân Kiệt tảng lờ, nhưng lòng không khỏi than thầm, rõ là một người đàn bà vô sỉ và không biết chết sống, trước mặt tình nhân mới mà còn dám lẳng lơ thế này!

    Tụ Thủ Thần Y ngồi trở xuống, ngẩng lên cười nói:

    – Ván này tuy xem ra lão huynh có phần chiếm ưu thế, nhưng chưa chắc đã giành được phần thắng, hà tất phải quan trọng hóa như vậy chứ?

    Thần Hành Vô Ảnh trỏ vào bàn cờ nói:

    – Thôi, đi đi!

    Tụ Thủ Thần Y thoáng nhìn trên bàn cờ, đoạn đưa tay đi cờ, thế là ván cờ bỏ dở lại được tiếp tục.

    Đỗ Môn tú sĩ mỉm cười ngoắc tay với Do Nhân Kiệt nói:

    – Chúng ta đến kia ngồi đi!

    Sau khi yên vị, Đỗ Môn tú sĩ hỏi:

    – Tại sao chưa mang được tên tiểu tử ấy ra, phải chăng đã bị Thiên Hồ mang về Thanh Thạch lãnh, chưa có cơ hội hạ thủ?

    Do Nhân Kiệt lắc đầu:

    – Sự việc diễn biến hoàn toàn vượt ngoài dự tính!

    – Sao nào?

    – Khi được Duẫn Đoan Huê sư phụ báo tin, ba hôm sau tên tiểu tử ấy bỗng bị Kim Hoa Ma Thích Bổn Vũ cướp mang đi mất, hiện nay trong tổng đàn Thiên Ma Giáo đã rối bời lên vì việc ấy...

    Đỗ Môn tú sĩ kinh ngạc:

    – Sao? Kim Hoa Ma đánh cướp tên tiểu tử ấy để làm gì?

    – Thích lão ma có một người con trai tên là Thích Ngọc Lang, ngoại hiệu Hoa Hoa công tử, cũng là một hộ giáo, chẳng rõ đã bị mắc chứng nghi nan gì, nhưng theo lời lão ma thì chứng bệnh của Thích Ngọc Lang chỉ Thi tiền bối mới có khả năng chữa trị. Do đó, theo vãn bối suy đoán, lão ma sở dĩ làm vậy có lẽ là để cứu mạng đứa con trai yêu quý của lão.

    – Lão ma ấy hiện ở đâu?

    – Không nghe tin tức, nhưng vãn bối đoán không lầm, trong vài hôm sắp tới, không chừng lão ma sẽ tự động phái người đến đây thương lượng cũng nên.

    Đỗ Môn tú sĩ gật đầu không nói gì. Song một võ sư từ ngoài đi vào, hai tay dâng lên một phong thư. Do Nhân Kiệt nhận ra ngay đó chính là phong thư Dâm Hồ đã gởi đi hôm trước, chẳng ngờ hôm nay mới đến nơi.

    Đỗ Môn tú sĩ xé mở phong thư ra xem vội bất giác buông tiếng cười mũi, khoát tay với gã võ sư nói:

    – Hãy bắt kẻ đưa thư chém ngay, sau đó mang thủ cấp đến Gia Ngư cũng như lần trước!

    Gã võ sư đi khỏi, Đỗ Môn tú sĩ mới tiện tay trao thư cho Do Nhân Kiệt.

    Do Nhân Kiệt đón lấy, ơ hờ lướt nhìn qua, đoạn trao trả nói:

    – Bức thư này vãn bối đã xem qua rồi!

    Ngay khi ấy, Hà Đại Bảo tất tả từ ngoài chạy vào, trông thấy Do Nhân Kiệt, y như gặp người thân thiết, mừng rỡ reo lên:

    – Lão đệ đã về đến rồi ư?

    Do Nhân Kiệt tươi cười đứng lên, hai người ôm chầm lấy vỗ vai nhau hết sức thân thiết. Hồi lâu mới bỏ nhau ra ngồi xuống ghế.

    Lát sau, tiệc rượu đã được bày ra, ván cờ giữa Tụ Thủ Thần Y với Thần Hành Vô Ảnh cũng vừa kết thúc.

    Thần Hành Vô Ảnh cười rất giòn rã, có lẽ đã gỡ lại được một ván cờ.

    Sau bữa tiệc, Do Nhân Kiệt say túy lúy.

    Hôm sau, Do Nhân Kiệt tỉnh lại, cởi chiếc hầu bao ra xem xét thật kỹ, sau đó gọi Hà Đại Bảo vào hỏi:

    – Hôm qua Hà đại ca đã dìu tiểu đệ vào đây phải không?

    Hà Đại Bảo lắc đầu:

    – Không, mỗ cũng say khướt, ngay chính mình cũng chả biết đã về phòng bằng cách nào nữa là. Tại sao lão đệ lại hỏi vậy?

    – Không có sao cả!

    Do Nhân Kiệt lòng thầm cười khẩy, chàng dự liệu chẳng sai, Ôn Tư Quảng đã thừa lúc chàng say rượu, lục soát trong người chàng.

    Hà Đại Bảo chau mày nói:

    – Mỗ khát nước quá, lão đệ có muốn uống chút trà nóng không?

    – Vâng, Hà đại ca hãy đi pha trà, nhân tiện xem quanh đây có ai không, nếu có phát hiện gì, cứ làm ngơ như không trông thấy, đại ca có hiểu ý tiểu đệ không?

    Hà Đại Bảo gật đầu:

    – Hiểu!

    Lát sau, trà nóng mang đến, Do Nhân Kiệt khẽ hỏi:

    – Thế nào?

    Hà Đại Bảo lắc đầu:

    – Quanh đây không một bóng người! Nghe đâu lão Ôn Tư Quảng đã đến Huê Dung, họ Thi và họ Thái thì chơi cờ ở tiền sảnh, chỉ có bảy tám tên võ sư chơi bài trong sương phòng phía trước.

    – Trong thời gian tiểu đệ vắng mặt, họ đã đối xử với đại ca ra sao?

    – Cũng khá tử tế!

    – Hằng ngày làm những việc gì?

    – Chỉ ăn uống và ngủ thôi!

    – Có được tự do đi lại không?

    – Đi đâu? Động chút là cơ quan máy móc, cái thì đẩy lên, cái thì kéo xuống, có cái còn phải bấm dài bấm ngắn một hồi lâu, hễ nhìn thấy là đầu óc mỗ muốn nổ tung ra, ngoài lối ra vào khách sảnh, phòng ngủ và nhà bên, mỗ chẳng muốn đi đâu cả!

    – Vậy là đại ca chẳng biết chút gì về tình hình tại đây ư?

    – Mỗ chỉ biết ba tên, mỗi tên đều có đến mấy vợ!

    – Các võ sư thường xuyên ra vào có nhiều không?

    – Rất ít!

    – Ít đến mức nào?

    – Cơ hồ cả ngày không thấy một bóng người, hệt như hoàn toàn cách biệt với thế gian bên ngoài vậy!

    Do Nhân Kiệt ngẫm nghĩ một hồi, gật đầu nói:

    – Tiểu đệ biết rồi!

    Hà Đại Bảo ngơ ngác:

    – Lão đệ biết gì?

    – Lão Ôn Tư Quảng nhất định sẽ chia lòng núi ra làm nhiều khu vực khác nhau, phạm vi sinh hoạt của chúng ta bây giờ chỉ là một bộ phận nhỏ, khi cần giải quyết sự vụ trọng yếu hoặc tiếp kiến các tâm phúc khác, hẳn là ở một nơi khác. Kể từ khi đại ca có mặt tại đây, cũng chưa từng gặp Duẫn Đoan Huê phải không?

    – Mỗ chưa hề gặp một người nào trong tiêu cục cả!

    – Còn Hắc Bạch Song Quái?

    – Phải hai lão quái vật lưng khòm, râu dài trông giống như Nam Cực tiên ông hay không?

    Do Nhân Kiệt mừng rỡ:

    – Phải, hai người ấy hiện ở đâu?

    – Ở một nơi khác, thủ tục ra vào hết sức phiền phức, mỗ chỉ theo hai võ sư vào đó một lần thôi!

    – Vào đó chi vậy?

    – Dọn dẹp phòng khách cho hai lão ấy!

    – Đại ca còn nhớ lồi vào không?

    – Không nhớ rõ!

    Do Nhân Kiệt ngẫm nghĩ chốc lát, lại hỏi:

    – Vậy việc ăn uống mỗi ngày ba bữa do ai mang vào?

    – À, một nữ nhân hay mặc áo đỏ thường ở trong đại sảnh xem họ Thi với họ Thái chơi cờ ấy!

    Do Nhân Kiệt thoáng kinh ngạc:

    – Hỏa Cơ ư?

    Hà Đại Bảo lắc đầu:

    – Mỗ không rõ y thị là cái gì cơ!

    Do Nhân Kiệt lẩm bẩm:

    – Lạ thật, chẳng rõ Ôn Tư Quảng thủ đoạn cao minh hay là Hỏa Cơ có điểm độc đáo, chẳng mấy chốc đã thân mật đến mức như vậy...

    – Thân mật cái mốc xì!

    – Hà đại ca nói vậy là sao?

    – Y thị đúng là một người đàn bà hạ tiện, bất kỳ ai cũng làm chồng được cả!

    Do Nhân Kiệt ngạc nhiên:

    – Ngay cả ngoại hiệu của y thị, Hà đại ca cũng không biết, sao lại biết y thị bất kỳ ai cũng làm chồng được?

    – Mỗ đã chính mắt trông thấy!

    – Hà đại ca đã thấy gì?

    – Thấy y thị hễ có cơ hội là liếc mắt đưa tình lão họ Thi!

    – Hà đại ca không nhìn lầm chứ?

    – Hứ, mỗ đầu óc tối tăm, nhưng đôi mắt thì sáng lắm!

    – Cho dù Ôn Tư Quảng không có mặt, nhưng chả lẽ y thị không sợ Thái Công Minh trông thấy hay sao?

    – Lão họ Thái hễ châu đầu vào bàn cờ là ngay cả cha mẹ họ gì cũng quên mất, hơn nữa y thị lại đứng sau lưng lão, làm sao mà trông thấy được?

    Do Nhân Kiệt trầm ngâm, chàng nhận thấy bên trong hẳn là phải có vấn đề. Rất rõ ràng, đây quyết không phải chỉ đơn thuần là vấn đề tình dục nam nữ. Dâm Hồ với Ôn Tư Quảng bất luận khía cạnh nào cũng hơn hẳn Tụ Thủ Thần Y. Hỏa Cơ đâu phải không rõ sự tình, không biết lợi hại, cho dù y thị quen thói dâm loàn, nhưng thà tìm bọn võ sư thường còn an toàn và đáng tin cậy hơn lão già họ Thi. Vậy có thể nào là vì y thị bị dược vật của Ôn Tư Quảng khống chế, định cám dỗ lão họ Thi hầu được giải thoát chăng? Chàng càng nghĩ càng nhận thấy rất có khả năng như vậy...

    Do Nhân Kiệt đang suy tư, bỗng nghe ngoài vườn văng vẳng có tiếng bình bình vọng vào, như có người đang đập phá gì đó.

    Do Nhân Kiệt kinh ngạc nói:

    – Có phải bọn võ sư đánh bạo xung đột với nhau đó không?

    Hà Đại Bảo lắc đầu cười:

    – Không phải đâu!

    – Vậy đó là tiếng động gì?

    – Hai lão quái vật đập phá đồ đạc đó mà!

    – Vẫn thường như vậy ư?

    – Ngày nào cũng một hai lần, may là đồ đạc và vách tường đều bằng đá, không thì đã sụp đổ từ lâu rồi!

    Do Nhân Kiệt khẽ buông tiếng thở dài, bất giác sinh lòng thương hại, Kim Hoa Ma vì con trai, song quái vì ái đồ, đó đều là lẽ thường tình, chỉ khác là Kim Hoa Ma do tự chuốc lấy, còn song quái thì là tai bay vạ gió, chàng có thể bao che dối gạt Kim Hoa Ma nhưng chàng chẳng thể phó mặc cho song quái ngày dài sống trong đau khổ.

    Thế là, chàng bèn ngồi dậy trên giường nói:

    – Hà đại ca hãy ở lại đây, tiểu đệ ra ngoài chốc lát!

    Hà Đại Bảo đứng lên theo:

    – Mỗ cũng muốn ra ngoài đi dạo một lát!

    Do Nhân Kiệt lắc đầu:

    – Hà đại ca đừng đi theo, tiểu đệ có chút việc cần làm!

    – Việc gì vậy?

    Do Nhân Kiệt chợt nghĩ đến một vấn đề, nếu chàng trao thư của Phương Huyền Niên cho song quái, nhất định song quái sẽ bỏ đi ngay, và như vậy, Ôn Tư Quảng chắc chắn sẽ nghĩ cho chàng, sau đó chàng bỏ đi cũng chẳng mấy khó khăn, nhưng còn Hà Đại Bảo thì sao? Vả lại, song quái từ lâu ở chốn thâm sơn, ít tiếp xúc với nhân tình thế sự, quanh Quân Sơn toàn là bọn tay sai của Ôn Tư Quảng, không có mệnh lệnh của lão ta, bằng võ lực liệu thoát ra được chăng?

    Do đó, chàng bất giác chững bước hỏi:

    – Số vàng kia còn không vậy?

    Hà Đại Bảo chỉ tay xuống gầm giường:

    – Đều ở cả dưới gầm giường đấy! Từ khi lão đệ đi khỏi, lương hướng hằng tháng vẫn được phát, mỗ gom hết vào một chỗ, tổng cộng bao nhiêu mỗ cũng chả biết!

    – Hà đại ca có từng ra ngoài lần nào không?

    Hà Đại Bảo cười:

    – Có đến thành Nhạc Dương vui với các ả thanh lâu một đêm!

    – Chỉ một mình ư?

    – Không, hai người!

    – Ai nữa vậy?

    – Mỗ cũng chả biết hắn, chính lão Ôn Tư Quảng đã bảo hắn đi theo, tiền bạc mạnh ai nấy trả, mỗ cũng chả cần thắc mắc...

    Do Nhân Kiệt gật đầu:

    – Đại ca hãy đến gần đây, tiểu đệ có điều muốn nói.

    Đoạn chàng kề tai Hà Đại Bảo thầm thì một hồi, Hà Đại Bảo vừa nghe vừa gật đầu. Sau đó, Hà Đại Bảo cởi áo ngoài ra, lấy hết vàng dưới gầm giường gói lại buộc vào lưng. Xong xuôi, Hà Đại Bảo đi ra trước, tìm gặp gã võ sư hôm trước và cố lôi kéo đi.

    Do Nhân Kiệt chờ cho Hà Đại Bảo đi khỏi một hồi mới rời khỏi thạch thất.

    Chàng theo hành lang đi ra tiền sảnh, khi ngang qua cánh cửa đá kia, trong bóng tối cạnh cửa bỗng thò ra hai cánh tay thon mềm, từ sau ôm vòng qua vai và bịt chặt đôi mắt chàng, đồng thời, một giọng trong trẻo khẽ vang lên:

    – Hãy đoán xem nô gia là ai?

    Do Nhân Kiệt vốn có thể vùng khỏi dễ dàng, song chàng đã đoán ra đối phương là ai, nên đứng yên bất động, lạnh lùng nói:

    – Không cần phải đoán, tại hạ chỉ thấy phương giá quả là to gan!

    Hỏa Cơ kề miệng vào tai chàng nói:

    – Sợ gì kia chứ?

    – Phương giá biết đây không phải tổng đàn Thiên Ma Giáo chứ?

    Hỏa Cơ cưỡi khẽ:

    – Vậy tôn giá có biết ý Ôn đại tú tài kia chỉ có thể nhìn mà không thể ăn, chỉ có bề ngoài thôi hay không?

    Do Nhân Kiệt ngẩn người:

    – Phương giá nói sao?

    Hỏa Cơ khẽ khúc khích cười:

    – Tôn giá không biết thật sự hay giả vờ? Có cần nô gia nói rõ...

    – Vậy thì lão giữ phương giá lại để làm gì?

    – Lão ta bảo Tụ Thủ Thần Y đã bào chế thuốc cho lão, hiện chỉ còn thiếu hai món thuốc, khi nào có đủ lão sẽ mạnh như long như hổ...

    Do Nhân Kiệt ngắt lời:

    – Phương giá như thế này, nếu bị võ sư kia vào bắt gặp, phương giá nghĩ là lão họ Ôn không dám giết chết phương giá ư?

    Hỏa Cơ thản nhiên cười:

    – Nhưng không phải một mình nô gia, mà là cả hai chúng ta!

    – Chuyện đùa!

    – Sao lại là chuyện đùa?

    – Ôn Tư Quảng biết kẻ này không phải hạng người như vậy!

    – Vậy thì nô gia sẽ làm cho lão tin, nữ nhân chỉ cần một giọt nước mắt là mạnh hơn trăm ngàn lời biện hộ của nam nhân.

    – Đa tạ phương giá đã nhắc nhở, khi nào Ôn Tư Quảng về đến, vì để tự bảo vệ, tại hạ đành nói rõ với lão ta trước!

    Hỏa Cơ lại cười:

    – Tôn giá không bao giờ làm vậy đâu!

    – Vì sao?

    – Mỗi người lòng tự hiểu lấy!

    – Phương giá tưởng kẻ này đã bị mê hoặc bởi sắc đẹp của phương giá ư?

    Hỏa Cơ vẫn lại cười:

    – Đương nhiên là tôn giá không bao giờ chịu thừa nhận điều ấy. Thế nhưng, ngoài ra nô gia còn có lý do khác, tin là tôn giá không bao giờ tố cáo với Ôn Tư Quảng!

    – Lý do gì?

    – Tuy chưa tìm ra nguyên nhân, nhưng nô gia có đầy đủ lý do tin là tôn giá thật ra cũng chẳng phải một dạ trung thành với Thiên Đạo Giáo.

    – Ngón ấy của phương giá không sử dụng được ở đây đâu!

    – Chưa chắc! Tôn giá nên nhớ là một người bộ hạ trung thành, không bao giờ lại gọi thẳng tên họ của thượng cấp, và còn nói lão này lão nọ!

    Do Nhân Kiệt giật mình, chàng không ngờ đối phương lại tinh tế đến vậy, cũng may là chàng đã không có hành động quyết liệt, bằng không y thị thẹn quá hóa giận, trở cào đập cho chàng một phát cũng nên.

    Hỏa Cơ di chuyển hai tay xuống cổ chàng, kéo lui một bước vào trong tối, khẽ cười nói:

    – Thế nào? Họ Ôn đã đến Huê Dung, hai lão kia đang chơi cờ, còn các võ sư đều đang đánh bạc, chưa đến bữa ăn trưa thì chẳng một ai nghĩ đến nô gia, và cũng chẳng một ai nghĩ đến chàng...

    Do Nhân Kiệt bỗng kêu lên:

    – Ồ, Hà sư phụ sao lại quay trở về?

    Hỏa Cơ giật nảy mình, vội buông tay ra, Do Nhân Kiệt không dám chậm trễ, tức tốc tung mình qua khỏi cửa đá, nhanh như tên bắn chui ra khỏi đường hầm, sải bước vào đại sảnh.

    Thần Hành Vô Ảnh Thái Công Minh ngẩng lên, ngoắc tay cười nói:

    – May quá, lão đệ hãy đến xem ván cờ này mau!

    Do Nhân Kiệt đành đến gần cười nói:

    – Tiền bối đã thắng ư?

    Tụ Thủ Thần Y bỗng đập mạnh cờ xuống “bốp” một tiếng. Thần Hành Vô Ảnh biến sắc mặt, lẩm bẩm mắng:

    – Mẹ kiếp, thật không ngờ lại còn có nước này!

    Tụ Thủ Thần Y cười ha hả nói:

    – Đánh cờ thú vị nhất chính là như vậy, biến hóa vô cùng!

    Do Nhân Kiệt rất nực cười nhưng cố nén, đành giả lả nói vài câu rồi đi ra ngoài đại điện, từ dưới khám Phật lấy ra phong thư của Phương Huyền Niên và Ngọc Diệp Kim Hoa Lệnh, sau đó ở bên ngoài cho đến giờ cơm mới trở xuống, đi về phía nhà bếp.

    Hỏa Cơ tay xách một chồng hộp thức ăn, vừa định mang đến chỗ Hắc Bạch Song Quái.

    Do Nhân Kiệt lẽ phép cúi mình chào y thị và nói:

    – Tại hạ xách hộ cho nương nương được chăng?

    Hỏa Cơ rất tự nhiên cười nói:

    – Thiếp làm sao dám từ chối!

    Do Nhân Kiệt mừng rỡ, vội đón lấy chồng hộp thức ăn trong tay đối phương.

    Ra khỏi nhà bếp, Hỏa Cơ ngoảnh lại nguýt mắt nói:

    – Có phải đã giả Ác Quân Bình quá lâu nên đâm ra nghi không?

    Do Nhân Kiệt nghiêm túc nói:

    – Có lẽ do nương nương làm phó đường chủ đã lâu nên chẳng bận tâm đến rất nhiều điều, tính mạng của tại hạ chưa đến đổi rẻ rúng đến vậy đâu!

    Hỏa Cơ đảo mắt nhìn quanh, đoạn khẽ nói:

    – Vậy có một kế vẹn toàn, tôn giá có muốn nghe không?

    Do Nhân Kiệt lắc đầu:

    – Tại hạ chẳng nghĩ ra được có kế gì vạn toàn cả!

    Hỏa Cơ truyền âm:

    – Hai người cùng bỏ đi!

    Do Nhân Kiệt kinh ngạc:

    – Nương nương không hề bị khống chế ư?

    Hỏa Cơ truyền âm đáp:

    – Lão ta đã cưỡng bức nô gia uống vào một loại độc dược mãn tính, mỗi ngày phải uống một viên thuốc giải mới có thể giữ được công lực, bằng không sẽ trở thành một người bình thường...

    – Sau khi rời khỏi đây, nương nương đi đâu mà tìm thuốc giải?

    – Nô gia đã quyết định phó mặc cho số trời!

    – Nương nương không sợ bị mất hết công lực ư?

    – Chỉ cần tôn giá ưng thuận, nô gia sẵn sàng chấp nhận. Bao năm qua cứ chém giết mãi, nô gia cũng đã chán lắm rồi, bây giờ chỉ bằng vào một câu nói của tôn giá thôi!

    Do Nhân Kiệt hết sức thắc mắc, chàng thật không dám tin hạng nữ nhân như Thủy Hỏa Song Cơ mà lại không chút quý tiếc một thân võ công của mình. Nhưng dù thế nào chàng cũng không muốn đạt thành mục đích giải cứu song quái trong trường hợp như vậy, có lẽ những lời nói của Hỏa Cơ đã xuất phát từ đáy lòng, chàng có thể một chưởng bổ chết y thị, nhưng không thể dùng lời ngon tiếng ngọt để lừa dối tình cảm chân thật của một người.

    Hỏa Cơ thấy chàng lặng thinh, lại giục:

    – Đã quyết định chưa?

    Do Nhân Kiệt lắc đầu, vừa định nói thì bỗng thấy hai người từ phía trước đi tới, đi đầu là Đỗ Môn tú sĩ Ôn Tư Quảng, theo sau là Vô Ảnh Thần Trảo Hầu Huyền Kinh, sư gia trong Huê Dung biệt phủ.

    Có lẽ Đỗ Môn tú sĩ đã gặp Vô Ảnh Thần Trảo giữa đường nên lại quay trở về.

    Vô Ảnh Thần Trảo trước tiên cất tiếng:

    – Lão đệ đã về đó ư?

    Do Nhân Kiệt mỉm cười khom mình:

    – Vâng, Hầu sư gia vẫn khỏe!

    Đỗ Môn tú sĩ khoát tay:

    – Hãy trao hộp cho nàng ta, lão đệ đến đây, chúng ta có việc cần bàn.

    Do Nhân Kiệt trao chồng hộp thức ăn cho Hỏa Cơ, lòng nơm nớp lo âu, cố trấn tỉnh theo hai người đi vào một gian thạch thất ở dãy phía tây.

    Ba người sau khi yên vị, Đỗ Môn tú sĩ trước hết quay sang Vô Ảnh Thần Trảo hỏi:

    – Hầu sư gia hãy thuật lại nghe xem!

    Vô Ảnh Thần Trảo từ trong lòng lấy ra một bức địa đồ, mở ra nói:

    – Tin tức do Do lão đệ đã cung cấp hoàn toàn chính xác, sào huyệt của Thiên Hồ quả đúng là ở Hoàng Mai Thanh Thạch Lãnh. Lão phu sau khi điều tra kỹ lưỡng, kết quả được biết lối ra vào nằm ở phía sau một bức đá núi, và cũng đã tìm ra được cách mở cửa bí mật. Theo ý lão phu nơi ấy đã không có lối ra vào thứ hai, chúng ta không cần phải tốn công nhiều, chỉ cần đặt hỏa dược cho nổ sập lối ra, hai lão ma hồ ắt sẽ bị vùi chôn trong ấy, chẳng hay giáo chủ có đồng ý không?

    Do Nhân Kiệt nghe vậy mới cảm thấy yên tâm.

    Đỗ Môn tú sĩ gật đầu nói:

    – Cũng được!

    Đoạn lại quay sang Do Nhân Kiệt hỏi:

    – Do lão đệ thấy cách ấy dùng được chăng?

    Do Nhân Kiệt ngẫm nghĩ một hồi, đoạn ngẩng lên nói:

    – Vãn bối có điều này, nói ra xin Hầu sư gia chớ trách!

    Đỗ Môn tú sĩ tiếp lời:

    – Không sao, có gì lão đệ cứ nói, đây là chúng ta nghiên cứu vấn đề, đương nhiên càng chu đáo càng tốt.

    Do Nhân Kiệt đưa mắt nhìn Hầu Huyền Kinh nói:

    – Sư gia mới vừa nói là theo kết quả điều tra của sư gia, nơi ấy không có lối ra thứ hai, e rằng có thể là không đúng.

    Vô Ảnh Thần Trảo gật đầu:

    – Phải, lẽ thường thì chẳng thể như vậy!

    Đỗ Môn tú sĩ tiếp lời:

    – Nếu sào huyệt còn có lối ra vào khác thì việc sử dụng hỏa dược khó có thể thu được hiệu quả mong muốn, Do lão đệ có phương cách gì bổ khuyết chăng?

    Do Nhân Kiệt lại ngẫm nghĩ một hồi:

    – Cách tốt nhất đương nhiên là tìm ra được lối ra vào khác và phong bế hết rồi mới hành động, nhưng có điều về mặt thời gian thì...

    Đỗ Môn tú sĩ tiếp lời:

    – Phải rồi! Hành động phải thần tốc, chậm trễ có thể sinh biến. Hầu sư gia đã không thể tìm ra được các lối ra nào khác, có phái người đi nữa thì cũng vô ích. Do lão đệ còn phương cách gì tốt hơn nữa không?

    Do Nhân Kiệt gật đầu:

    – Nếu không thì cứ theo cách của Hầu sư gia, vẫn cho đổ sụp động phía trước, phái người vây chặt xung quanh, chui ra tên nào giết tên đó!

    Đỗ Môn tú sĩ gật đầu:

    – Quả là diệu kế!

    Vô Ảnh Thần Trảo trầm ngâm:

    – Cách ấy tuy tốt, nhưng thực hành e chẳng dễ dàng, võ công của Tam Hồ cao thâm khôn lường, nhất là Thiên Hồ Vi Sĩ Lôi...

    Do Nhân Kiệt bỗng hỏi:

    – Cả song quái cũng không phải địch thủ của Thiên Hồ ư?

    Vô Ảnh Thần Trảo cười thiểu não:

    – Hai lão quái vật ấy rất cố chấp, khi chưa trao trả tên đồ đệ quý báu cho họ, lão đệ nghĩ hai lão quái ấy chịu ra tay ư?

    Do Nhân Kiệt mỉm cười:

    – Do mỗ lại phải xin sư gia bỏ qua cho. Sư gia nếu muốn hai lão quái vật ngoan ngoãn vâng lời, chả lẽ không tìm ra được những lời lẽ nào khác thật ư?

    Vô Ảnh Thần Trảo ngớ người:

    – Những lời lẽ nào?

    Do Nhân Kiệt cười:

    – Nếu ái đồ của họ đã bị Thiên Ma Giáo phái người bắt đi, nay sanh cầm Thiên Hồ và Luyện Hồ chính là để trao đổi với đối phương, như vậy chả lẽ hai lão quái vật ấy điềm nhiên được sao?

    Đỗ Môn tú sĩ vỗ tay reo:

    – Tuyệt, tuyệt!

    Vô Ảnh Thần Trảo gật đầu:

    – Không nên chậm trễ, lão phu lập tức đến nói xem thử!

    Đoạn liền đứng lên, tất tả ra khỏi phòng.

    Do Nhân Kiệt trông theo Vô Ảnh Thần Trảo bỏ đi, vẫn thản nhiên ngồi đó, tựa hồ chàng chỉ là suy luận theo thực tế sự việc, không nhất thiết phải gặp song quái. Bởi chàng biết lão Đỗ Môn tú sĩ này không như Tam Hồ, chỉ cần khinh xuất một chút là có thể bị lão ta đoán ra tâm ý ngay.

    Sau chừng một tuần trà nóng, Vô Ảnh Thần Trảo bỗng chau chặt mày đi vào, lắc đầu nguây nguẩy nói:

    – Chẳng còn cách nào hơn...

    Đỗ Môn tú sĩ ngạc nhiên hỏi:

    – Hai lão quái vật ấy phản ứng thế nào?

    Vô Ảnh Thần Trảo buông tiếng thở dài, bực tức nói:

    – Lão quái Hắc Long bảo là đối phó với Tam Hồ thế nào đó là việc của chúng ta, lão chỉ biết là do chúng ta để mất thì chúng ta phải tìm về thôi!

    Đỗ Môn tú sĩ lại hỏi:

    – Còn lão quái Bạch Long nói sao?

    – Lão quái Bạch Long lúc đầu không hề lên tiếng, sau cùng chỉ nói một câu, chỉ cần các người trao tiểu đồ ra, hai lão già này sẽ tức khắc nghe theo sự sai bảo của các người, bây giờ mà muốn bọn lão phu bán mạng thì không được đâu.

    Đỗ Môn tú sĩ quay sang Do Nhân Kiệt hỏi:

    – Lão đệ thấy phải làm sao?

    Do Nhân Kiệt chau mày:

    – Hầu sư gia nói chẳng sai, hai lão quái vật ấy quả là cố chấp quá mức! Ôi! Làm sao ư? Đành phải phái người khác thôi!

    Vô Ảnh Thần Trảo như lẩm bẩm nói một mình:

    – Biết phái ai khác đây?

    Do Nhân Kiệt chỉ tay ra tiền sảnh:

    – Hãy phiền hai vị ngoài kia vất vả một phen được chăng?

    Đỗ Môn tú sĩ buông tiếng cười khẩy:

    – Hai người ấy ư? Hắc hắc, thôi đi!

    Do Nhân Kiệt vờ ngạc nhiên:

    – Sao vậy?

    Đỗ Môn tú sĩ lại cười khẩy:

    – Nếu có yến tiệc ở phía bên ấy, bảo họ đến dự thì còn được!

    Vô Ảnh Thần Trảo bỗng ngẩng lên nói:

    – Tài ăn nói của lão đệ, trước nay lão phu rất bội phục, có thể nhờ lão đệ đến đó thử một phen chăng?

    Đỗ Môn tú sĩ vội tiếp lời:

    – Đúng rồi, lão đệ hãy đến đó thử xem!

    Do Nhân Kiệt lắc đầu:

    – Chẳng ích lợi gì đâu!

    Đỗ Môn tú sĩ van vỉ:

    – Xin lão đệ hãy cố gắng cho, thành hay không đó là việc khác!

    Do Nhân Kiệt ngẫm nghĩ một hồi:

    – Thế này vậy, Hầu sư gia mới vừa từ đó về, nếu vãn bối đến đó ngay, rất có thể chưa kịp mở miệng là đã bị mắng xối xả rồi, chi bằng hãy chờ đến bữa ăn tối, bảo nhà bếp làm thêm mấy món thức ăn và một ấm rượu ngon để vãn bối mang vào. Sau đó vãn bối ở bên hầu tiếp, chờ cho hai lão quái lên tiếng trước, vãn bối sẽ lựa lời giải thích lợi hại, như vậy sẽ ổn hơn!

    Vô Ảnh Thần Trảo trước tiên tán thành:

    – Đúng, đúng, ý kiến hay lắm!

  7. #46
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 15

    Sở Tuy Đông Nhưng Vẫn Bị Tần Diệt
    Bàn luận xong, ba người cùng ra ngoài tiền sảnh ăn trưa với Tụ Thủ Thần Y và Thần Hành Vô Ảnh. Đến tối, Hỏa Cơ mới cùng Do Nhân Kiệt mang rượu và thức ăn vào cho Hắc Bạch Song Quái.

    Hắc Long lão quái đưa tay chỉ Do Nhân Kiệt hỏi:

    – Tiểu tử này là ai?

    Hỏa Cơ quay sang làm mặt xấu trêu Do Nhân Kiệt, bụm miệng nói:

    – Này, tiểu tử, ngươi là ai?

    Do Nhân Kiệt khom mình nói:

    – Vãn bối Do Nhân Kiệt, là một tổng tiêu đầu ở đây, phụng mệnh giáo chủ đến hầu tiếp nhị vị tiền bối, nhị vị tiền bối có gì xin cứ sai bảo.

    Bạch Long lão quái đưa mắt nhìn chàng từ đầu đến chân hỏi:

    – Ngươi năm nay bao nhiêu tuổi?

    – Mười chín!

    Hắc Long lão quái thở dài xen lời:

    – Chỉ lớn hơn Huyền Nhiên hai tuổi!

    Bạch Long lão quái bỗng trừng mắt nhìn Hỏa Cơ:

    – Thị còn đứng đó làm gì hả?

    Hỏa Cơ thè lưỡi, lại quay sang làm mặt xấu với Do Nhân Kiệt, đoạn quay người ra khỏi thạch thất.

    Bạch Long lão quái ngoảnh lại hỏi:

    – Vị lão đệ này có thể uống một chung không?

    Do Nhân Kiệt mỉm cười khom mình:

    – Vãn bối tửu lượng rất kém, uống nhiều không được, chỉ có thể miễn cưỡng hầu tiếp năm ba chung thôi, mong là sẽ không làm mất hứng nhị vị tiền bối.

    Hắc Long lão quái ngoắc tay:

    – Được, được, hãy ngồi xuống đây!

    Do Nhân Kiệt vâng lời xếp bằng ngồi xuống. Song quái bởi tha thiết mong nhớ ái đồ, nay gặp Do Nhân Kiệt tưởng chừng như hình bóng của ái đồ, hai người đều cảm thấy quý mến khôn tả. Nên sau khi Do Nhân Kiệt ngồi xuống, song quái ngồi đối mặt nhìn nhau, bất giác ngây ra như phỗng đá.

    Do Nhân Kiệt lấy đũa chấm rượu viết lên mặt bàn thật nhanh:

    “Có điều cần báo cho nhị vị tiền bối biết, xin chớ lên tiếng để phòng tai vách mạch rừng”! Sau đó đưa tay chỉ vào dĩa thức ăn, miệng mời dùng nhưng trái lại chỉ vào giòng chữ trên mặt bàn.

    Song quái xem xong dòng chữ ấy đều lộ vẻ kinh ngạc.

    Bạch Long lão quái truyền âm nói:

    – Bọn lão phu đã xem thấy rồi! Lão đệ cứ yên tâm!

    Do Nhân Kiệt đưa phong thư của Phương Huyền Niên qua gầm bàn, trao vào tay Hắc Long lão quái, đồng thời nháy mắt ra hiệu bảo đối phương hãy chờ chốc lát hãy mở ra xem.

    Sau đó, chàng sử dụng cả miệng lẫn tay, một mặt giải thích, một mặt tiến hành bút đàm với song quái, sau cùng song quái đã hoàn toàn hiểu rõ tình trạng hiện nay của ái đồ.

    Trong khi bút đàm, chàng luôn nhắc nhở song quái không nên quá nóng vội, do đó bữa ăn kéo dài đến gần hết canh hai mới kết thúc.

    Hôm sau, chàng báo cáo “tin mừng” với Đỗ Môn tú sĩ, nào ngờ đối phương đồng thời lại cho chàng biết một “tin xấu”, Hà Đại Bảo đã cùng một võ sư đến Nhạc Dương uống rượu rồi không thấy trở về nữa.

    Ngoài ra, một người báo tin khác cho biết, hiệu bạc Thích Ký của Kim Hoa Ma trong thành Nhạc Dương đã đột nhiên đóng cửa, song phân đàn Thiên Ma Giáo ở ngoài thành thì lại liên tiếp gia tăng, hiện đã có hơn trăm người, và đa số là cấp hộ giáo.

    Qua tổng hợp hai sự kiện ấy, chứng tỏ Hà Đại Bảo và võ sư kia chắc chắn đã gặp bất trắc rồi!

    Sau khi hay tin “chẳng lành” ấy, Do Nhân Kiệt đã giả vờ như bị một đòn đả kích nặng nề, suốt cả buổi chẳng nói lấy một lời.

    Đỗ Môn tú sĩ hết lời an ủi chàng, bảo nhất định sẽ báo thù cho hai người. Sau đó, Vô Ảnh Thần Trảo Hầu Huyền Kinh cùng Hắc Bạch Song Quái và mấy tên võ sư hăm hở lên đường phá hủy sào huyệt của Thiên Hồ.

    Đỗ Môn tú sĩ có lẽ bị ảnh hưởng bởi sự tăng cường lực lượng của Thiên Ma Giáo tại Nhạc Dương, nên sau khi nhóm Vô Ảnh Thần Trảo ra đi không bao lâu, đã cùng Thần Hành Vô Ảnh Thái Công Minh cấp tốc đến Huê Dung.

    Do Nhân Kiệt vốn định nhân cơ hội trở về Tứ Hải tiêu cục, nhưng nghĩ lại sau cùng đã tạm thời bỏ ý định ấy.

    Hắc Bạch Song Quái và Hà Đại Bảo đều đã được an bài, một mình chàng ở lại hổ huyệt thêm vài hôm nữa thì cũng chẳng hề gì.

    Quả vậy, nếu Ôn Tư Quảng vẫn tin cậy chàng, bằng vào võ công hiện nay, chàng có thể rời khỏi bất kỳ lúc nào. Bằng trái lại, nếu Ôn Tư Quảng đã sinh lòng ngờ vực, chàng muốn bỏ đi cũng chẳng thể được. Còn như chàng không dằn lòng được, chỉ khiến Đỗ Môn tú sĩ ra tay sớm hơn mà thôi.

    Giờ đây trong căn cứ Quân Sơn này, nhân vật chủ yếu chỉ còn lại một mình Tụ Thủ Thần Y. Lão tìm Do Nhân Kiệt chơi cờ, Do Nhân Kiệt chẳng tiện từ chối.

    Trong khi chơi cờ, Do Nhân Kiệt mấy phen định hạ thủ kết liễu cuộc đời của lão thần y vô lương tâm này, song nghĩ đến Phương Huyền Niên và những người khác, có thể sau này còn nhờ đến lão ta, nên mới từ bỏ ý định ấy.

    Chơi xong, Do Nhân Kiệt về phòng nghỉ ngơi, nào ngờ chàng vừa mới bước vào phòng, cánh cửa đá sau lưng liền đóng sầm lại.

    Chàng quay phắt lại nhìn, thì ra lại là nữ nhân dâm tiện kia!

    Do Nhân Kiệt sầm mặt hằn học nói:

    – Thiết tưởng thiếu gia không giết được phương giá hay sao?

    Hỏa Cơ thản nhiên gật đầu:

    – Đương nhiên, với thân thủ của môn hạ Tiêu Dao, muốn lấy mạng Dương Châu Song Cơ đâu có gì là khó!

    Do Nhân Kiệt sửng sờ:

    – Ngươi nói cái gì hả?

    Hỏa Cơ bình thản nói:

    – Hai ta tuy chính tà khác nhau, nhưng hoàn cảnh hiện nay thì lại giống như nhau, vì sự an toàn chung, đành cùng nắm tay nhau hợp tác thôi!

    Do Nhân Kiệt làm mặt lạnh:

    – Phương giá nói gì tại hạ chẳng hiểu?

    Hỏa Cơ nhoẽn cười:

    – Vậy sao thiếu hiệp còn chưa động thủ đi!

    Do Nhân Kiệt cười khẩy:

    – Động thủ chỉ là việc sớm hay muộn thôi! Tại hạ chẳng tin, nếu tại hạ không cho phép mà phương giá ra khỏi được đây!

    Hỏa Cơ nhếch môi cười:

    – Nếu thiếp mà không ra khỏi được đây thì đâu bao giờ bước chân vào!

    Quả vậy, sự thật hết sức rõ ràng, y thị chẳng lý do gì lại tự chui đầu vào chỗ chết.

    Y thị đã chờ trong phòng này mà không sợ bị sát hại, tất nhiên là phải có sở cậy!

    Thế nhưng, điều mà Do Nhân Kiệt muốn biết, chính là y thị đã cậy vào gì?

    Hỏa Cơ Giải Y Lôi thấy mình đã chiếm thượng phong, lại cười nói:

    – Bây giờ đã có thể bình tâm tĩnh trí nói chuyện với nhau rồi chứ?

    Do Nhân Kiệt hất hàm:

    – Tại hạ có rất nhiều thời gian, phương giá muốn nói gì cứ việc phát huy hết sức.

    Tuy nhiên, tại hạ mong là những lời nói không cần thiết thì nên tiết kiệm là hơn!

    Hỏa Cơ đến ngồi xuống giường, ung dung nói:

    – Việc đầu tiên thiếp muốn cho thiếu hiệp biết là, trừ phi thiếu hiệp tức khắc động thủ, bằng không người trước tiên gặp nguy hiểm trong tổng cơ quan này sẽ là thiếu hiệp, vị cao túc của Tiêu Dao Thư Sinh, chứ không phải Hỏa Cơ Giải Y Lôi này đâu!

    – Chính lão họ Ôn đã cho phương giá biết thiếu gia là môn hạ của Tiêu Dao Thư Sinh ư?

    – Hoàn toàn ngược lại!

    – Vậy là sao?

    – Phải nói là thiếp đang định cho lão họ Ôn biết điều ấy mới đúng!

    Do Nhân Kiệt ngớ người:

    – Phương giá muốn nói...

    Hỏa Cơ nhoẽn cười tiếp lời:

    – Không sai, cho đến lúc này lão họ Ôn vẫn chưa hay biết gì hết, nếu như thiếu hiệp tiếp tục cố chấp thì chưa biết chừng...

    Do Nhân Kiệt cười khẩy:

    – Đa tạ phương giá đã nhắc nhở, tại hạ còn kịp giết người diệt khẩu!

    Đoạn một bước sấn tới, vung chưởng bổ ra nhanh như gió.

    Hỏa Cơ tủm tỉm cười ngồi yên bất động. Một chưởng của Do Nhân Kiệt vốn chỉ mang tính chất thăm dò, thấy vậy biết là có vấn đề, bèn vội dừng tay lại.

    Hỏa Cơ cười nói:

    – Sao bỗng dưng lại sinh lòng từ bi thế này?

    Do Nhân Kiệt cười khẩy:

    – Vì tại hạ bỗng nghĩ đến có lẽ phương giá còn điều muốn nói.

    Hỏa Cơ gật đầu:

    – Không sai, thiếp quả là còn có điều muốn nói, đó là nếu Giải Y Lôi này chưa chết, thiếu hiệp hoặc giả còn có thể sống thêm được vài hôm nữa!

    Do Nhân Kiệt cười khẩy:

    – Còn gì nữa không?

    Hỏa Cơ lắc đầu:

    – Hết rồi! Thiếu hiệp nếu muốn động thủ thì xin cứ tự tiện!

    – Tại hạ có một nhược điểm lớn là hay do dự thiếu quả quyết, phương giá có thể nào nói rõ hơn về sự lợi hại được mất do bởi việc tại hạ động thủ chăng?

    Hỏa Cơ gật đầu:

    – Được thôi!

    Đoạn nhoẽn miệng cười nói tiếp:

    – Thật ra đó cũng rất là đơn giản, một là thiếu hiệp có thể giết thiếp, nhưng lại không thể giấu được thi thể của thiếp. Hai là cho dù thiếu hiệp có thể dọn dẹp sạch sẽ thi thể của thiếp, nhưng cũng quyết không thể đặt chân vào được phòng ngủ của thiếp.

    – Phương giá muốn nói là phương giá đã để lại di thư, trong ấy viết rõ nếu một mai phương giá gặp nạn, hoặc mất tích, hung thủ sẽ là ai phải không?

    – Đó chỉ là phần đầu thôi!

    – Phần sau có thể cho biết được chăng?

    – Phần sau thiếp viết rất lấp lửng, chỉ bảo Ôn Tư Quảng cấp tốc tìm cách ngăn song quái đi, và sau đó dọ hỏi song quái về nội dung bút đàm của các người vào đêm qua.

    Do Nhân Kiệt sửng sờ, vừa căm tức vừa hối hận, hồi lâu không thốt nên lời.

    Hỏa Cơ như rất thích thú trước dáng vẻ bực tức của chàng, chúm chím cười hỏi:

    – Thế nào hả?

    Do Nhân Kiệt giọng sắc lạnh:

    – Phương giá có nghĩ đến một điều khác nữa chăng?

    Hỏa Cơ thoáng ngạc nhiên:

    – Điều gì?

    – Tại hạ giết phương giá xong, lập tức bỏ đi ngay được chứ?

    – Một ý nghĩ thật thú vị!

    – Phương giá còn gì để nói nữa không?

    – Hết rồi! Kính chúc thiếu hiệp thượng lộ bình an!

    Do Nhân Kiệt đảo tròn mắt, đoạn buông tiếng thở dài thậm thượt rồi nói:

    – Kể như phương giá đã thắng, hãy cho biết ý muốn chính đi!

    Thì ra qua những lời chúc mai mỉa của Hỏa Cơ, Do Nhân Kiệt mới chợt hiểu ra đối phương đã nói không sai, cảnh ngộ hai người giống như nhau, đều bị giam lỏng trong lòng đất này. Sự thật hết sức rõ ràng, Hỏa Cơ tuy bị dược vật khống chế, nhưng võ công vẫn còn, một dịp may hiếm có như lúc này, nếu có thể thoát thân thì y thị còn ở lại đây làm gì? Vậy có nghĩa là, chẳng thể thoát thân được!

    Hỏa Cơ cũng buông tiếng thở dài:

    – Thiếu hiệp dẫu sao cũng là người sáng suốt, mặc dù tỉnh ngộ muộn một chút, nhưng sau cùng vẫn nhận thức được sự lợi hại, vậy cũng là khá lắm rồi!

    Đoạn nghiêm túc nói tiếp:

    – Lão họ Ôn muộn nhất là trưa mai sẽ về đến, hai ta nếu không muốn vùi xương trong lòng đất này thì hãy sớm liệu bề rời khỏi.

    Do Nhân Kiệt thoáng chau mày:

    – Phương giá phải chăng đã có cách thoát thân rồi?

    Hỏa Cơ gật đầu:

    – Đúng vậy! Thiếp đã tính toán rồi, nếu muốn thuận lợi rời khỏi đây. Chỉ có cách là cậy vào lão họ Thi ở ngoài kia thôi!

    Do Nhân Kiệt trố mắt:

    – Khống chế uy hiếp ư?

    Hỏa Cơ gật đầu:

    – Đúng vậy, ngoài ra không còn phương cách nào khác!

    – Nếu như hoàn cảnh của lão họ Thi cũng giống như chúng ta thì sao?

    Hỏa Cơ thoáng ngẩn người:

    – Có thể chăng?

    – Khó thể khẳng định được!

    Hỏa Cơ thoáng lưỡng lự:

    – Lão họ Ôn chẳng việc gì là không dám làm, điều lo ngại của thiếu hiệp cũng chẳng phải là không có thể, nhưng việc đã đến nước này, dù muốn dù không cũng phải mạo hiểm một phen thử xem...

    Do Nhân Kiệt khoát tay:

    – Hãy khoan! Có một điều chúng ta cần phải nói rõ trước.

    Hỏa Cơ ngạc nhiên chững bước:

    – Lát nữa hãy nói không được ư?

    Do Nhân Kiệt lắc mạnh đầu:

    – Không được!

    – Vậy thì nói đi!

    – Xin phương giá nên nhớ hành động hôm nay của chúng ta chẳng qua là do sự biến tòng quyền, một khi rời khỏi Quân Sơn là sẽ chia tay ngay. Từ nay bất kỳ gặp lại nhau tại đâu, thì nợ nần cũng phải thanh toán, phương giá vẫn xin cẩn thận!

    Hỏa Cơ mỉm cười:

    – Nếu không chia tay thì sao?

    Do Nhân Kiệt sầm mặt lạnh lùng:

    – Nếu phương giá không có câu trả lời dứt khoát, tại hạ thà chấp nhận ở lại đây một mình phó mặc cho số mệnh.

    Hỏa Cơ dằn dỗi:

    – Thôi, được rồi! Đi nào, tính mạng như chỉ mành treo chuông mà còn ở đó làm dáng, nếu sau này còn gặp lại nhau, chưa biết ai sẽ là người phải cẩn thận đấy!

    Do Nhân Kiệt đến mở cửa đá chờ Hỏa Cơ đi khỏi trước, một lúc sau chàng mới đi ra ngoài tiền sảnh.

    Trong tiền sảnh, Tụ Thủ Thần Y đang chơi cờ với một võ sư chưa từng gặp qua bao giờ, còn Hỏa Cơ Giải Y Lôi thì đứng sau lưng gã võ sư ấy bàng quan.

    Tụ Thủ Thần Y ngước lên nhìn chàng cười nói:

    – Ngay cả vị Hà sư phụ này còn chơi khá hơn lão đệ, hãy đến xem để mà học hỏi, vài hôm nữa hai ta sẽ lại đấu nhau.

    Hỏa Cơ ngoảnh lại, nháy mắt ra hiệu thật nhanh, ra ý là cứ động thủ, gã bên này đã bị y thị khống chế rồi.

    Do Nhân Kiệt ánh mắt sắc bén, thấy Hỏa Cơ đang dùng chân cọ xát trên mình gã võ sư ấy, đối phương mặt đỏ bừng như say rượu, không hề biết cái chết đã cận kề.

    Do Nhân Kiệt thấy vậy vừa ghê tởm vừa nực cười, bèn ung dung đến gần cười nói:

    – Đây là ván thứ mấy?

    – Thứ tư!

    – Thắng bại thế nào?

    – Ba ván đầu lão phu đều thắng, còn ván này thì đối phương đang chiếm ưu thế, bây giờ phải xem lão phu có nghĩ ra được tuyệt chiêu hay không mới mong đảo ngược được thế cờ!

    Do Nhân Kiệt chỉ tay xuống bàn cờ nói:

    – Đi nước này có nên chăng?

    Tụ Thủ Thần Y vội đưa tay cản:

    – Không được nói ra!

    Do Nhân Kiệt thừa cơ chộp lấy tay lão ta, rồi cười nói:

    – Đúng, nếu nói ra thì đại thần y đâu chịu ngoan ngoãn hàng phục!

    Hỏa Cơ chẳng chút chần chừ, vung chưởng bổ mạnh xuống, gã võ sư liền ngoẹo đầu sang bên, ngã gục xuống đất.

    Tụ Thủ Thần Y kinh hãi la to:

    – Các ngươi tạo phản hả?

    Do Nhân Kiệt siết mạnh tay, cười khẩy nói:

    – Ngón này gọi là Ngũ đinh bá quan, một trong ba tuyệt chiêu trong pho Đại Cầm Nã lừng danh của Kỳ Chính Thủ Viên Trung Hòa, lão nhị trong Thiên Sơn Tam Nghĩa, người tinh thông mạch lý như các hạ, hẳn phải biết huyệt Hội Tông quan trọng thế nào đối với cơ thể con người. Các hạ nếu không muốn tàn phế thì hãy ngồi yên là hơn!

    Tụ Thủ Thần Y tưởng chàng đã bị mê hoặc bởi nhan sắc của Hỏa Cơ, bèn lớn tiếng nói:

    – Lão đệ tuyệt đối không nên để mắc lừa ả này, ả ta dâm đảng có tiếng, ai cũng lấy được, cả Thi mỗ mà ả ta cũng muốn...

    Hỏa Cơ chẳng chút tức giận, tủm tỉm cười nói:

    – Đại y sư có thể trao thuốc giải ra trước chăng?

    – Thị phải bảo vị lão đệ này buông tay ra trước mới được.

    Hỏa Cơ lắc đầu:

    – Không cần! Theo thiếp được biết, có một số dược hoàn quan trọng, đại y sư luôn mang theo bên mình.

    Tụ Thủ Thần Y chơm chớp mắt:

    – Nếu lão phu trao ra thuốc giải, các ngươi có chịu ngưng tay ngay hay không?

    Hỏa Cơ lắc đầu cười:

    – Hãy từ từ từng bước một, bây giờ không phải lúc đại y sư đặt điều kiện đâu!

    Tụ Thủ Thần Y vô phương đành thò tay trái vào lòng, lấy ra một chiếc túi da màu đen, đặt lên bàn nói:

    – Hãy tự lấy đi! Trong chiếc lọ màu vàng đó, mỗi lần uống ba viên với rượu nóng, trong vòng ba hôm không được động tĩnh, kiêng kỵ...

    Do Nhân Kiệt siết mạnh tay ngắt lời:

    – Đồ đệ của song quái cần uống loại thuốc nào trong số đó mới khôi phục được công lực?

    Tụ Thủ Thần Y lắc đầu:

    – Loại thuốc ấy không có đây!

    Do Nhân Kiệt hỏi vặn:

    – Vậy chứ ở đâu?

    – Trong phòng lão phu!

    – Nếu như các hạ ở lại đây, phái người khác đi lấy, bằng cách nào mới lấy được?

    – Hãy đến nói với ả đại nha đầu trong phòng là lấy lọ thuốc số chín, ả ta sẽ lấy cho ngay!

    Do Nhân Kiệt quay sang Hỏa Cơ nói:

    – Làm phiền một phen được chăng?

    Hỏa Cơ gật đầu:

    – Thiếp cũng đang định vào trong lấy rượu nóng, lời nói của lão độc vật này chưa chắc đã đáng tin cậy, uống ngay tại đây để xem dược tính thế nào thì ổn hơn!

    Hỏa Cơ đi khỏi, Tụ Thủ Thần Y bỗng thấp giọng nói:

    – Lão đệ nên nghĩ kỹ lại là hơn, ả ta thật hết sức dâm độc, lão đệ đi theo ả ta chắc chắn sẽ khốn khổ, phải biết Ôn giáo chủ trước nay rất hậu đãi lão đệ...

    Do Nhân Kiệt tiện tay điểm khóa năm huyệt đạo Dương Cương, Y Xá, Vị Thương, Kiên Tỉnh và Thừa Cân, đoạn buông tay ra cười nói:

    – Ôn giáo chủ đã hậu đãi tại hạ như thế nào?

    Tụ Thủ Thần Y ngỡ đã có cơ hội xoay chuyển tình thế, vội nói:

    – Chẳng hạn như lão đệ vừa mới vào, Ôn giáo chủ đã cho giữ chức tổng tiêu đầu, hiện nay mọi sự thảy đều bàn bạc với lão đệ. Xem lão đệ như là cánh tay tả hữu, thử hỏi kẻ khác có được như vậy không? Hơn nữa, lão đệ sở dĩ đầu vào đây và chẳng quản nguy hiểm đến tính mạng tiềm nhập Thiên Ma Giáo, mục đích chẳng ngoài việc báo thù cho Kim Bút đại hiệp, nếu hôm nay lại đồng lõa với Hỏa Cơ thì vong linh của Kim Bút đại hiệp dưới chốn suối vàng làm sao có thể nhắm mắt?

    Do Nhân Kiệt thản nhiên:

    – Theo lời của Hỏa Cơ, không có mệnh lệnh của Ôn giáo chủ, chẳng một ai có thể rời khỏi nơi đây, kể cả Do mỗ... có thật như vậy không?

    – Tuyệt đối không có như vậy!

    – Vậy là tại hạ đã bị mắc mưu rồi!

    – Cho nên lão phu khuyên lão đệ hãy chờ Hỏa Cơ trở ra, bắt ngay lấy ả ta, lão phu cam đoan sẽ tìm lý do khỏa lấp việc này với Ôn giáo chủ.

    – Nếu tại hạ không thử một phen thì làm sao biết được là Hỏa Cơ đã nói dối?

    – Đó thì tùy ở lão đệ tin hay không thôi! Nói tóm lại, lão đệ nên biết lão phu hoàn toàn là vì hảo ý, lão phu là người ăn ngay nói thật, rồi đây lão đệ cứ hỏi kẻ khác.

    – Tại hạ sẽ ghi nhớ điều ấy...

    Ngay khi ấy, Hỏa Cơ bước vào, trông thấy Do Nhân Kiệt đã buông tay Tụ Thủ Thần Y ra, bất giác giật mình kinh hãi, song nhìn kỹ thấy lão ngồi yên như phổng đá, mặt vàng như nghệ và trán đẫm mồ hôi, y thị mới yên tâm.

    Do Nhân Kiệt hỏi:

    – Có lấy được thuốc chưa? Thuốc giải uống vào có hiệu nghiệm không?

    Hỏa Cơ gật đầu, đồng thời trao ra một chiếc lọ màu xanh.

    Do Nhân Kiệt đón lấy mở nắp ra ngửi, nghe mùi thuốc rất thơm, nhất thời cũng không sao khẳng định được thật hay giả.

    Hỏa Cơ đứng bên cười nói:

    – Thuốc trong ấy nhiều lắm, sao không mời đại y sư uống trước vài viên thử xem?

    Do Nhân Kiệt nghĩ cũng có lý, bèn lấy ra ba viên dược hoàn, bỏ vào miệng Tụ Thủ Thần Y, cười nói:

    – Có hứng thú chăng?

    Tụ Thủ Thần Y lặng thinh nuốt lấy.

    Do Nhân Kiệt gật đầu nói:

    – Tốt lắm, ít ra đây cũng không phải một lọ độc dược!

    Đoạn cất chân đá mở huyệt Thừa Cân của đối phương, mỉm cười nói tiếp:

    – Xin đại y sư hãy nghe cho rõ, rời khỏi được Quân Sơn, mọi sự đều dễ thương lượng, bằng không, cho dù tôn giá y thuật thần thông cũng chẳng thể nào cứu vãn được tính mạng mình, đứng lên đi nào.

    Thế là, Hỏa Cơ dẫn trước, Tụ Thủ Thần Y đi giữa, Do Nhân Kiệt đoạn hậu, nối tiếp nhau vượt qua đường hầm, ra khỏi ngôi miếu hoang.

    Khi sắp đến bờ hồ, Do Nhân Kiệt hỏi:

    – Lát nữa đây chúng ta gọi thuyền bằng cách nào?

    Tụ Thủ Thần Y khẽ thở dài:

    – Nơi bắp chân lão phu có buộc một lá cờ nhỏ, lấy ra chỉ cần quơ một cái là có thuyền đến ngay.

    Do Nhân Kiệt lấy cờ ra cầm tay nghiêm mặt nói:

    – Tôn giá đã bảo Ôn giáo chủ rất hậu đãi Do mỗ, xem Do mỗ như cánh tay tả hữu, vậy chứ loại cờ nhỏ này, sao Do mỗ chưa được trông thấy bao giờ?

    Tụ Thủ Thần Y lại buông tiếng thở dài cúi đầu lặng thinh.

    Sau khi lên thuyền, Hỏa Cơ truyền âm hỏi:

    – Giải quyết lão tặc này như thế nào đây?

    Do Nhân Kiệt ngẫm nghĩ một hồi, đoạn nói:

    – Lát nữa phương giá cứ đi đường mình, lão tặc này giao cho tại hạ dẫn đi được rồi!

    Hỏa Cơ môi thoáng mấp máy, toan nói lại thôi.

    Hai giờ sau, thuyền cặp bờ thì trời đã tối, Hỏa Cơ đứng thừ ra trên bờ một hồi, sau cùng khẽ buông tiếng thở dài, quay người bỏ đi trước.

    Tụ Thủ Thần Y thấy hai người chia tay nhau đường ai nấy đi, dường như hết sức ngạc nhiên.

    Do Nhân Kiệt áp giải lão đi được một quãng đường, thấy phía trước có một cỗ xe trống chạy đến, bèn đón lại thuê chuyên chở.

    Sau khi lên xe, Do Nhân Kiệt dặn bảo:

    – Hãy đến Vân Khê!

    Tụ Thủ Thần Y ngạc nhiên hỏi:

    – Lão đệ định đưa lão phu đến đâu vậy?

    Do Nhân Kiệt thản nhiên hỏi ngược lại:

    – Thế tôn giá muốn đi đâu?

    Tụ Thủ Thần Y nhăn nhó:

    – Lão phu chẳng muốn đi đâu hết, nếu như lão đệ chịu nương tay cho, điều kiện gì lão phu cũng chấp nhận hết!

    Do Nhân Kiệt mỉm cười:

    – Tôn giá hãy nói nghe thử, tôn giá có thể chấp nhận những điều kiện gì?

    – Nếu lão đệ muốn học y thuật, lão phu sẵn sàng truyền hết sở học!

    Do Nhân Kiệt cười mai mỉa:

    – Y thuật của tôn giá đành rằng rất đáng ngưỡng mộ, nhưng có điều tại hạ không hề muốn có một vị sư phụ như tôn giá!

    Tụ Thủ Thần Y cười thiểu não:

    – Không thì nếu lão đệ muốn biết mọi bí mật của Ôn Tư Quảng, lão phu cũng sẵn sàng phụng cáo tận tường.

    Do Nhân Kiệt lắc đầu:

    – Đó không kể được là điều kiện!

    Tụ Thủ Thần Y ngẩn người:

    – Vì sao?

    Do Nhân Kiệt cười nói:

    – Vì chỉ cần không phóng thích tôn giá, sớm muộn gì tôn giá cũng phải khai hết ra!

    Tụ Thủ Thần Y lặng thinh một hồi, như gom hết can đảm, bỗng thấp giọng nói:

    – Lão phu còn một báu vật nữa!

    Do Nhân Kiệt mỉm cười:

    – Còn một quyển bí kíp võ học Kim Bút tung hoành thất thập nhị thức, còn gọi là Tung Hoành Phổ nữa không phải?

    Tụ Thủ Thần Y sửng sờ:

    – Lão đệ...

    – Do mỗ chính là cựu chủ nhân của quyển bí kíp ấy đây!

    Tụ Thủ Thần Y thất thanh:

    – Thì ra...

    – Tục ngữ có câu “Gieo giống nào gặt quả ấy”, tôn giá ngày nay gặp hậu quả thế này, thật chẳng oán được kẻ khác. Khi xưa nếu như tôn giá đừng tính toán thù lao, cứu sống Kim Bút đại hiệp thì ngày nay tôn giá đâu phải nương tựa vào kẻ khác như chó mất chủ thế này, và thậm chí sau cùng chưa chắc đã giữ được tính mạng?

    – Vậy sao ngươi lại buông tha cho ả Giải Y Lôi thối tha kia?

    – Buông tha cho y thị thì sao?

    – Chả lẽ lão đệ không biết ả ta cũng là một hung thủ chính trong vụ thảm sát và thiêu hủy Thiên Long phủ khi xưa hay sao?

    Do Nhân Kiệt thản nhiên mỉm cười:

    – Bậc đại trượng phu phải thị phi rõ ràng, ân oán phân minh. Hôm nay nếu không có y thị thì Do mỗ cũng chẳng rời khỏi được Quân Sơn. Do mỗ không được hạ sát y thị, đó là một trong các điều kiện thỏa thuận. Qua ngày hôm nay, hãy bảo y thị đi qua trước mặt thiếu gia thử xem!

    – Vậy lão đệ định xử trí lão như thế nào?

    – Đến lúc rồi tôn giá sẽ tự biết. Nói tóm lại, nhất định sẽ công bằng hơn so với cách cư xử của tôn giá đối với những kẻ đã cần tôn giá chữa trị trước đây!

    Tụ Thủ Thần Y thấy chàng miệng lưỡi sắc bén, và lại biết rõ về mình như vậy, hiểu là nói nhiều cũng vô ích, bèn không nói gì thêm nữa.

    Xe ngựa đi được chừng một canh, Do Nhân Kiệt thò đầu ra hỏi:

    – Đã đến đâu rồi vậy?

    Gã xa phu ngoảnh lại đáp:

    – Vừa qua khỏi thành Lăng Cơ, sắp đến trấn Thảo Kiều, công tử định nghỉ trọ phải không?

    Do Nhân Kiệt gật đầu:

    – Phải, khi nào đến trấn Thảo Kiều, hãy tạm ngừng lại. Tại hạ cần ghé thăm một người bạn.

    Hỏa Cơ nói chẳng sai, Đỗ Môn tú sĩ và Thần Hành Vô Ảnh quả nhiên đã về đến Quân Sơn vào trưa hôm sau.

    Thế nhưng, cả căn cứ dưới lòng đất vẫn như trước nhưng người đã đổi khác.

    Đỗ Môn tú sĩ chỉ có Tụ Thủ Thần Y là biết rõ “chứng tật” của lão, đầu tiên tưởng là Tụ Thủ Thần Y nhất thời bị nữ sắc mê hoặc, đã cướp Hỏa Cơ mang đi, song đến khi lục soát kỹ phòng ngũ của ba người mất tích, mới biết là không phải là vậy Trong phòng của Tụ Thủ Thần Y tất cả các loại sách y dược và dược liệu quý thảy đều còn nguyên vẹn. Còn trong phòng Do Nhân Kiệt và Hỏa Cơ, mọi tài vật quý giá đều đã không cánh mà bay.

    Sau cùng, hai người đã tìm được phong thư để lại trong phòng Hỏa Cơ.

    Theo nhận định của Thần Hành Vô Ảnh thì bức thư của Hỏa Cơ vẫn có giá trị đáng tin, nên đề nghị lập tức phái người đuổi theo song quái và Vô Ảnh Thần Trảo, bởi y suy đoán có thể Hỏa Cơ cũng là bị bắt cóc.

    Đỗ Môn tú sĩ lắc đầu liên hồi, cho rằng nhận xét của Thần Hành Vô Ảnh quả là ngây thơ.

    Thần Hành Vô Ảnh bất phục nói:

    – Nếu không vậy, thì họ để lại bức thư này là nghĩa lý gì?

    Đỗ Môn tú sĩ cười khẩy:

    – Nghĩa lý gì ư? Đó là muốn hai ta trúng mai phục táng mạng chứ còn gì nữa?

    – Vậy chả lẽ lại để mặc cho họ ra đi một cách tự do tự tại thế này hay sao?

    – Nếu là kẻ khác, có thể như vậy, nhưng gặp phải họ Ôn này e rằng không dễ dàng như vậy đâu.

    – Ôn huynh có kế hoạch gì?

    – Thái huynh cứ chờ đó mà xem!

    Đỗ Môn tú sĩ nói xong, ra lệnh cho một nữ tỳ đi gọi đến tám võ sư đều với trang phục ngư dân đến. Lão chia tám võ sư ấy ra làm bốn nhóm, giao cho mỗi nhóm một nhiệm vụ khác nhau.

    Tám võ sư nhận kế hoạch xong, đã lần lượt lên đường ngay ngày hôm ấy, hai nhóm đến Huê Dung, còn hai nhóm đến Nhạc Dương.

    Hai hôm sau, hai nhóm võ sư đến Nhạc Dương có một nhóm trở về trước báo cáo, bảo là có một gã xa phu tên là Tam Quải Tử đã có đưa một thiếu niên và một lão nhân râu dài đến trấn Thảo Kiều, xe là do thiếu niên ấy thuê, vốn bảo là đến Vân Khê, nhưng sau cùng lại xuống xe tại trấn Thảo Kiều.

    Đỗ Môn tú sĩ đưa mắt nhìn Thần Hành Vô Ảnh, mắt mộ vẻ đắc ý cười khẩy nói:

    – Ôn mỗ nói thế nào?

    Thần Hành Vô Ảnh quay sang gã võ sư ấy hỏi:

    – Trên xe chỉ có hai người thôi ư?

    – Vâng, chúng thuộc hạ cũng có đi đến nơi xuống xe của hai người ấy, bí mật dọ hỏi các tiệm quán gần đó. Nghe đâu hai người sau khi xuống xe, có vào một khách điếm bên kia đường, nhưng không bao lâu sau lại viện lý do hồi phòng lại, rồi sau đó chẳng rõ đã đi đâu mất.

    Thần Hành Vô Ảnh tức tối mắng:

    – Tên tiểu tử rõ là xảo quyệt!

    Đỗ Môn tú sĩ buông tiếng cười khẩy:

    – Thảo Kiều chẳng qua chỉ là một nơi to cở bàn tay. Ôn mỗ chẳng tin tên tiểu tử ấy trốn đi đâu được.

    Hắc Thiên Vương chau mày lẩm bẩm:

    – Hỏa Cơ đã không đi cùng hai người, nguyên nhân vì sao, thật khó thể hiểu nổi!

    Đỗ Môn tú sĩ cười khẩy:

    – Lo gì kia chứ? Khi nào bắt được tên tiểu tử ấy là sẽ rõ hết mọi sự. Ôn mỗ chẳng thiếu gì thủ đoạn, rồi đây sẽ cho tên tiểu tử ấy tha hồ nếm trải.

    Đoạn quay sang hai gã võ sư khoát tay nói:

    – Hai ngươi lui ra được rồi!

    Hai gã võ sư lui khỏi, Thần Hành Vô Ảnh khẽ hỏi:

    – Theo ý Ôn huynh, có cần phái ngay người đến Huê Dung và Nhạc Dương để điều Tứ Đại kim cang hoặc Trường Bạch lục tuyệt đến đây chuẩn bị dùng đến hay không?

    Đỗ Môn tú sĩ ngẫm nghĩ một hồi:

    – Chưa cần thiết, chờ xem tình hình rồi hãy liệu!

    Thần Hành Vô Ảnh khẽ nói:

    – Tên tiểu tử ấy đột nhiên bắt lão Thi mang đi, việc chẳng phải tầm thường. Có thể việc tiểu tử ấy đầu nhập vào tiêu cục, đó là do ý của ba lão tặc ở Thiên Sơn. Nếu Thái mỗ đoán không lầm hành động này của tiểu tử ấy rất có thể là do trong số ba lão tặc có người bị lâm bệnh nặng. Phía Thiên Ma Giáo có lẽ không phát động nhanh chóng, chi bằng nhân cơ hội này tập trung lực lượng, trừ diệt họa tâm phúc này trước.

    Đỗ Môn tú sĩ gật đầu:

    – Rất có lý!

    Thần Hành Vô Ảnh phấn khởi:

    – Vậy tiểu đệ ra phái người đi ngay!

    Vị trang chủ Đại Thiên sơn trang này thấy chủ trương của mình được áp dụng, lập tức tỏ vẻ hết sức hớn hở.

    Ngay khi lão vừa đứng lên toan đi ra ngoài, nơi cửa chợt tối, rồi thì hai võ sư loạng choạng khiêng vào một mảnh ván gỗ, trên ấy là một người đang nằm, môi rỉ máu tươi và hơi thở yếu ớt, chính là Vô Ảnh Thần Trảo Hầu Huyền Minh, đại sư gia trong giáo.

    Đỗ Môn tú sĩ sửng sốt đứng phắt dậy, chạy vội tới hỏi:

    – Hầu huynh không sao chứ?

    Vô Ảnh Thần Trảo giọng đứt quãng nói:

    – Chỉ là một chút nội thương... không quan... trọng lắm... mau... mau nhờ Thi phó giáo chủ... phong bế... huyệt đạo...

    Thần Hành Vô Ảnh đứng gần hơn hết, nghe vậy liền vung chỉ nhanh như gió điểm vào huyệt “thần hôn” của lão.

    Vô Ảnh Thần Trảo người khẽ run lên, đoạn liền nhắm nghiền mắt lại.

    Đỗ Môn tú sĩ hết sức nao núng, không ngừng xoa tay nói:

    – Thế này... biết làm sao đây?

  8. #47
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Thần Hành Vô Ảnh ngẫm nghĩ một hồi, đoạn nói:

    – Bọn nha đầu của lão họ Thi chẳng rõ có biết dùng thuốc hay không?

    Đỗ Môn tú sĩ lắc đầu:

    – Vô ích! Lão ấy dùng thuốc không bao giờ kê toa, ngay cả lọ thuốc cũng đều ghi bằng ám hiệu, điểm độc ác của lão ta chính là ở đó.

    Thần Hành Vô Ảnh nhíu mày:

    – Tiểu đệ đã kiến nghị với Ôn huynh từ lâu, bảo lão ta kê ra vài toa thuốc đề phòng khi cần đến. Ôn huynh chẳng chịu nghe, bảo là sợ tổn thương hòa khí. Bây giờ biết làm sao đây? Về mặt này tiểu đệ mù tịt, đại phu thường chưa chắc đã chữa được, hơn nữa thời gian cũng chưa chắc kịp. Ôi, thật là đau đầu!

    Đỗ Môn tú sĩ đi quanh trong phòng hai lượt, bỗng đứng lại, quay sang hai võ sư kia nói:

    – Tăng sư phụ hãy đến chỗ Đông nương nương lấy chút Hộ Tâm hoàn mang về đây trước, còn Phùng sư phụ hãy tức tốc đến Nhạc Dương, truyền lệnh đòi Tứ Đại Kim Cang, thiết can, phi đao, song kích và hắc tâm vào canh ba đêm nay tề tập đợi lệnh, đi mau!

    Thì ra Vô Ảnh Thần Trảo tuy chỉ là một mưu sĩ mang tính cách thanh khách nhưng lại được Đỗ Môn tú sĩ trọng vọng hơn hẳn hai phó giáo chủ Thần Hành Vô Ảnh và Tụ Thủ Thần Y.

    Trước đó Thần Hành Vô Ảnh đề nghị phái người đến trấn Thảo Kiều tìm diệt Thiên Sơn Tam Nghĩa, Đỗ Môn tú sĩ tuy chấp thuận nhưng hết sức miễn cưỡng.

    Giờ đây, vị Thiên Đạo giáo chủ này vì cứu vãn tính mạng cho người tâm phúc đắc lực, dù có ngăn cản cũng chẳng thể được.

    Hai võ sư lãnh mệnh ra đi, Đỗ Môn tú sĩ lại quay sang Thần Hành Vô Ảnh nói:

    – Ôn mỗ định tối nay sẽ đích thân đến Nhạc Dương một chuyến, về phía Huê Dung, xin Thái huynh hãy nhọc tâm nhiều hơn. Thái huynh hẳn rất rõ tính nết của Trường Bạch Lục Tuyệt, chỉ cần không thiếu rượu và đàn bà, thảy đều hết sức ngoan ngoãn vâng lời. Thái huynh hãy bảo với họ là khi nào Song Cơ đến tay, Ôn mỗ nhất định sẽ giữ tròn lời hứa.

    Thần Hành Vô Ảnh gật đầu:

    – Vâng, tiểu đệ đã rõ!

    Trong khi đó, nhóm Hắc Thiên Vương Kiều Bán Sơn cũng đã có mặt trong thành Nhạc Dương. Vị tân nhiệm Kim Bút đường chủ rất được tam giáo chủ trọng vọng này đã huênh hoang trước mặt Dâm Hồ là nhất định sẽ bắt được cha con Kim Hoa Ma mang về tổng đàn, nhưng trên đường đi chớ hề gặp bóng ma nào, y không khỏi bực tức đến cực độ.

    Trước tiên, y đi đến phân đàn Thiên Ma Giáo trong thành, gọi phân đàn chủ đến hỏi:

    – Cha con Kim Hoa Ma gần đây có xuất hiện trong vùng Nhạc Dương này hay không?

    Gã phân đàn chủ thành thật báo cáo:

    – Hiệu bạc Thích Ký trong thành bỗng nhiên đã đóng cửa hồi mấy hôm trước, như vậy có lẽ là từng đến qua.

    Hắc Thiên Vương đập bàn giận dữ quát:

    – Vậy sao ngươi không chịu nói sớm?

    Gã phân đàn chủ cười dở khóc dở, song y biết rõ vị Huỳnh kỳ hộ giáo này rất là ngang ngược, nói sao là đúng vậy, chẳng biết phải trái là gì cả.

    Bèn đành cúi mình nhận tội:

    – Dạ vâng, ti chức đã thiếu sót, những xin đường chủ rộng lòng lượng thứ cho.

    Hắc Thiên Vương quắc mắt:

    – Vậy ngươi có biết hai cha con họ đã đi đâu rồi không?

    Gã phân đàn chủ vốn định trả lời không biết, song chợt nghĩ đến câu trả lời này rất có thể sẽ khiến y rơi đầu, bèn bấm bụng nói dối:

    – Chẳng rõ là có đáng tin cậy hay không, nghe nói là đã đến thành Lăng Ky...

    Hắc Thiên Vương chớ hề suy nghĩ, lập tức đứng phắt dậy, khoát tay nói:

    – Nào, các ngươi hãy đuổi theo mau!

    Mười mấy hộ pháp theo cùng dĩ nhiên chẳng thiếu kẻ sáng suốt, nhưng có điều không ai muốn chuốc khổ vào thân.

    Thế là mọi người liền xô ghế đứng lên, lại tiếp tục đi về phía thành Lăng Ky.

    Khi đến thành Lăng Ky thì trời đã tối, đành phải tạm dừng chân nghỉ trọ. Ăn uống qua loa xong, liền phái người chia nhau ra ngoài thăm dò tin tức, hệt như một đàn ong bay bừa bãi.

    Các hộ pháp thận trọng hơn, tuy biết là hành động này chẳng khác nào mò kim đáy biển, song vẫn lặn lội khắp phố lớn hẻm nhỏ, hệt như đi dạo chơi. Còn một số xảo quyệt thì cứ chui quách vào trong thanh lâu, đó là kinh nghiệm đã có được trên đường, tha hồ phong lưu đến khi gân cốt bải hoải quay về như vậy lại càng ra vẻ tận tụy hơn.

    Sau khách điếm là một ngôi Tam Quan miếu, cách nơi trọ của nhóm Hắc Thiên Vương chỉ vài mươi bước, chính là địa điểm hẹn gặp của Đỗ Môn tú sĩ với Tứ Đại Kim Cang.

    Trời xui đất khiến có một Bạch kỳ hộ pháp họ Lục, sau khi đã hoang đàng trong thanh lâu, chỉ muốn được ngủ một giấc cho thỏa, nhưng khi về đến cửa khách điếm, mới sực nhớ là còn quá sớm, bèn băng qua con hẻm nhỏ, trông thấy ngôi Tam Quan miếu, nghĩ là một nơi yên tĩnh, liền vào trong ngủ say sưa.

    Chẳng rõ đã trải qua bao lâu, y bỗng giật mình tỉnh giấc bởi tiếng bước chân rậm rịch, rồi thì một giọng thô lỗ cất lên hỏi:

    – Giáo chủ đã đến chưa?

    Một người khác tiếp lời:

    – Đã giao hẹn đúng canh ba, có lẽ sắp đến rồi.

    Rồi đến một giọng lảnh lót nói:

    – Giáo chủ chúng ta đôi khi cũng thận trọng quá mức. Cửu Cung Tam Hồ là cái thá gì, cứ kéo quách đến tàn sát một phen. Vậy chẳng giản tiện hơn ư?

    Gã hộ pháp họ Lục toàn thân toát mồ hôi lạnh. Ôi chà, cả ba vị giáo chủ mà bọn này còn xem chẳng ra gì, bọn họ là thần thánh ở đâu thế này?

    Y thật muốn từ trong khám thờ thò đầu ra xem, nhưng lại không đủ can đảm, mà thậm chí cũng chẳng dám động đậy sợ gây ra tiếng động bị đối phương phát giác.

    Chỉ nghe một giọng xa lạ sắc lạnh nói:

    – Sài huynh không nên nói vậy...

    Tiếng nói rất yếu ớt như vừa qua cơn trọng bệnh, song trong giọng điệu như có kèm theo một lưỡi đao vô hình, mỗi tiếng nói đều gây cảm giác ghê rợn.

    Giọng lảnh lót dường như không phục nói:

    – Vậy Cổ lão đại thử nói nghe xem, Tam Hồ có gì là lợi hại nào?

    Người họ Cổ buông tiếng thở dài:

    – Tục ngữ có câu, chỉ cách ba hôm là đã khác xa, huống hồ đã mười mấy hai mươi năm? Chẳng kể ai khác, chẳng hạn như bốn chúng ta đây, hồi mười lăm, mười sáu năm trước, thử hỏi có mấy ai biết đến danh tánh chúng ta?

    Người họ Sài tiếp lời:

    – Cũng như nhau thôi, ngày nay lại có mấy ai biết đến danh tánh của chúng ta chứ?

    Người họ Cổ buông giọng sắc lạnh:

    – Chẳng bao lâu nữa họ sẽ biết!

    Người có giọng thô lỗ lên tiếng trước tiên bỗng hỏi:

    – Nghe giáo chủ nói Thiên Hồ Vi Sĩ Lôi và Luyện Hồ Thường Vân Sanh hiện đang cùng luyện một môn thần công, Cổ lão đại có đoán ra được họ luyện trò chơi gì không?

    Người họ Cổ lạnh lùng nói:

    – Việc gì lại phải đoán? Cổ mỗ đã nói từ lâu, trừ phi Lệnh Hồ Huyền tái sinh và học được hết ba pho tuyệt kỹ La Hán quyền, Kỳ Chính cầm nã thủ và Bách Biến Chưởng pháp của ba lão quỷ ở Thiên Sơn. Có lẽ còn có thể đối chọi với chúng ta.

    Bằng không, với tâm huyết đã đổ vào Tứ Quỷ bảo quyển trong mười mấy năm qua của chúng ta. Dù Tam Hồ liên thủ đấu với một trong Tứ Đại Kim Cang chúng ta, chưa chắc đã giành được phần hơn.

    Người tự nãy giờ im lặng bỗng với giọng ồ ề kêu lên:

    – Hay quá, giáo chủ đã đến...

    Gã hộ pháp họ Lục không bỏ lỡ thời cơ, vội lăn người xuống khám thờ, từ hậu viện chạy ra khỏi miếu.

    Y bọc vòng về đến khách điếm, mọi người vẫn chưa ngủ, Hắc Thiên Vương thấy y ra chiều hốt hoảng, bất giác sinh nghi, bèn quát hỏi:

    – Lục hộ pháp đã đi đâu?

    Lục hộ pháp vốn không muốn bày tỏ sự việc vừa qua, song nhất thời lại không bịa ra được lý do về muộn, đành phải thú thật ra hết.

    Thế nhưng, điều tai hại là vì sợ làm cho vị đại đường chủ này nổi giận. Y lại sửa đổi nội dung cuộc đàm thoại của Tứ Đại Kim Cang, chỉ nói là có mấy người đã bí mật tụ tập trong Tam Quan miếu. Nghe giọng điệu như là người của Thiên Đạo Giáo, vì sợ lỡ qua cơ hội nên vội về đây ngay.

    Thử nghĩ với tính khí của Hắc Thiên Vương, khi nghe được tin này làm sao có thể dằn nén nổi?

    Thế là vị đại đường chủ này như thể vừa trúng bảng vàng, mừng đến nhảy cẫng lên nói:

    – Hay quá! Nào, nào! Lục hộ pháp hãy dẫn đường mau!

    Lục hộ pháp bất giác rùng mình, song lại chẳng dám từ khước, đành cố gom hết can đảm, ưỡn ngực nói:

    – Vâng, mọi người hãy theo Lục mỗ!

    Nhưng trong bụng lại nghĩ:

    “Chỉ mình ta là biết sự lợi hại, lát nữa cần bỏ trốn cũng chẳng đến đỗi không có cơ hội, hãy cố nhẫn nại trước đã”.

    Khi họ đến Tam Quan miếu, có lẽ Đỗ Môn tú sĩ vừa mới dặn bảo xong, ngay lúc Tứ Đại Kim Cang từ trong miếu đi ra.

    Bởi ánh trăng sáng, đôi bên cách nhau ba bốn trượng đã trông thấy rõ ràng.

    Hắc Thiên Vương trước nay giao thủ với người không bao giờ phí phạm một lời, hễ chạm mặt là động thủ ngay, song lần này lại phá lệ.

    Thì ra vì y thấy năm người này nhìn bề ngoài đều rất là nho nhã lịch sự. Thậm chí ngay cả gã hộ giáo họ Lục cũng không khỏi đâm ra phân vân, trong năm người này có Tứ Đại Kim Cang mà y đã nghe tiếng nói khi nãy chăng?

    Đỗ Môn tú sĩ Ôn Tư Quảng vốn đã giống như một tú tài danh phù kỳ thực, bốn người theo sau ai nấy cũng đều đầy khí khái thư sinh.

    Đôi bên đứng dàn thành một hàng ngang, Hắc Thiên Vương trỏ tay nói:

    – Các người là ai hả?

    Đỗ Môn tú sĩ ngoảnh sang Tứ Đại Kim Cang cười nói:

    – Bốn vị hãy tự báo danh đi! Người vừa nói đó là Kiều Bán Sơn, ngoại hiệu Hắc Thiên Vương, trước kia là Huỳnh kỳ hộ giáo, nay là đường chủ Kim Bút đường trong Thiên Ma Giáo, một thân ngạnh công cái thế tuyệt luân, xem ra đành phải trễ nải một lúc rồi.

    Tứ Đại Kim Cang chỉ mỉm miệng cười, không một ai lên tiếng.

    Đỗ Môn tú sĩ cười nói tiếp:

    – Bốn vị cứ luôn oán than là không ai biết đến đại danh của mình, bây giờ có cơ hội lại không chịu lên tiếng, thôi thì kẻ này đành thưa hộ cho vậy.

    Người đứng sát bên Đỗ Môn tú sĩ bỗng khẽ buông tiếng thở dài nói:

    – Nói ra danh tánh thì có ích lợi gì? Họ đâu thể chuyển cáo với người khác được nữa!

    Hắc Thiên Vương cười khẩy:

    – Rõ là còn ngông cuồng hơn họ Kiều này nữa!

    Đỗ Môn tú sĩ trỏ người vừa lên tiếng, tủm tỉm cười nói:

    – Bất luận Kiều đại đường chủ có còn cơ hội chuyển cáo với người khác hay không, phép lịch sự cũng chẳng thể thiếu sót. Vị này chính là Hắc Tâm Kim Cang Cổ Đồng, lão đại trong Tứ Đại Kim Cang.

    Đoạn trỏ ba người kia nói tiếp:

    – Còn ba vị kia là lão nhị, Song Kích Kim Cang Vạn Thang, lão tam Phi Đao Kim Cang Sài Hỏa Liệt và lão tứ Thiết Can Kim Cang Tần Thông Thiên.

    Giới thiệu xong, Đỗ Môn tú sĩ lại quay sang Hắc Thiên Vương cười nói:

    – Kiều đại đường chủ còn gì dặn bảo nữa không?

    Hắc Thiên Vương tuy biết kẻ đang đứng trước mặt chính là Thiên Đạo Giáo chủ Đỗ Môn tú sĩ Ôn Tư Quảng, song cậy vào một thân công lực đắc thiên độc hậu nên không chút e sợ.

    Nghe vậy bèn cười khẩy nói:

    – Còn nữa thì là hãy nạp mạng đây!

    Đoạn ngoảnh qua quát:

    – Người ta đã biết phép lịch sự vậy thì chúng ta cũng chớ nên cậy nhiều thắng ít.

    Cung hộ pháp, hãy ra hầu tiếp vị Ôn đại giáo chủ này trước đi!

    Người đó là một Huỳnh kỳ hộ pháp tên là Cung Đại Hải, ngoại hiệu Ngọc Thước Lang Quân. Người này nguyên là một tên đại đạo cưỡng dâm trong giới hắc đạo Hà Bắc, ngoài một pho võ học chiêu pháp xuất thần quỷ mạt, một thân khinh công đáng đứng đầu trong giới hộ pháp toàn bang.

    Hắc Thiên Vương sở dĩ chọn y vì Ngọc Thước Lang Quân này dáng vẻ cũng rất nho nhã, muốn mang ra so sánh với đối phương. Hãy xem nếu luận về nhân phẩm, Thiên Ma Giáo cũng có vậy.

    Đỗ Môn tú sĩ với thân phận một giáo chủ của một tôn giáo, dĩ nhiên đâu chịu giao thủ với một hộ pháp. Song lão biết rõ bọn hộ pháp này thảy đều là hạng ghê gớm trong giới hắc đạo trước kia. Tứ Đại Kim Cang thành tựu tuy cao, song nếu xảy ra hỗn chiến cũng khó mà giành được ưu thế. Cho nên sau khi Ngọc Thước Lang Quân tiến ra, lão với giọng hết sức dịu dàng quay sang Song Kích Kim Cang Vạn Thang gật đầu nói:

    – Phải đó, Vạn lão nhị, lần lượt từng người thì mới bộc lộ được chân tài thực học, hãy ra hầu tiếp vị Cung hộ pháp này đi!

    Song Kích Kim Cang giơ cao đôi kích trong tay sải bước tiến ra, nhìn Ngọc Thước Lang Quân cười nói:

    – Các hạ định chơi đùa chừng bao lâu?

    Ngọc Thước Lang Quân thoáng ngẩn người:

    – Tôn giá nói vậy là sao?

    Song Kích Kim Cang cười ngạo nghễ:

    – Trước nay động thủ với người, tại hạ hiếm khi vượt quá ba chiêu. Nếu như các hạ khó nhắm mắt, Vạn mỗ có thể vị tình kéo dài thêm vài ba chiêu nữa.

    Ngọc Thước Lang Quân cả giận quát:

    – Láo!

    Đồng thời phóng bước sấn tới, vung thước nhắm mặt đối phương quét tới.

    Song Kích Kim Cang lách người, tránh xa bảy tám thước, song kích vẫn cặp sát khuỷu tay, không hề đỡ gạt.

    Ngọc Thước Lang Quân lại vung thước lao tới, chiêu xuất như gió, chớp mắt đã biến hóa năm lần khác nhau.

    Song Kích Kim Cang thụp người, xoay người tunh mình ngược ra sau, lại quay về đúng chỗ đứng trước đây.

    Mọi người đứng xem kể cả hai phía thảy đều gật đầu, chỉ một mình Ngọc Thước Lang Quân dường như không hề chú ý đến điều ấy. Lại quay người vung thước lao tới tấn công lần thứ ba.

    Song Kích Kim Cang phen này không khách sáo nữa, đoản kích tay trái vung ra, đón lấy ngọc thước, đoản kích tay phải đưa tới, trực chỉ vào tim đối phương.

    Ngọc Thước Lang Quân thấy kích chiêu đối phương không có gì kỳ diệu, ngọc thước hạ thấp xuống, vừa định quét tới phản công trước ngực đối phương, ngờ đâu ngọn đoản kích của đối phương vụt dài ra hơn ba thước, nhanh và mạnh hơn cả lúc xuất thủ.

    Khi thấy nguy thì đã muộn, một tiếng kinh hoàng chưa kịp thốt ra khỏi miệng, mũi kích đã xuyên thấu vào tim.

    Thì ra Song Kích Kim Cang đã buộc một sợi xích nhỏ vào mỗi đầu của cán, sợi xích ấy quấn nơi cổ tay, dài hơn tám thước, khi cần có thể phóng kích đi, công dụng như là ám khí. Ngọc Thước Lang Quân không biết điều ấy, tất nhiên là bị trúng phải.

    Song Kích Kim Cang sau khi đắc thủ, quay người cười nói:

    – Tiếp theo đến lượt vị nào đây?

    Hắc Thiên Vương giận dữ gầm lên:

    – Đến lượt lão tử ngươi đây!

    Đồng thời thân hình như ngọn hắc tháp đã lao tới như bay.

    Liền theo đó sau lưng có người lớn tiếng hô:

    – Nào, mọi người cùng tiến lên!

    Phi Đao Kim Cang cười lanh lảnh nói:

    – Cùng tiến lên thì được, nhưng bỏ trốn thì không thể được!

    “Vù” một tiếng, một ngọn phi đao lấp lánh ánh bạc đã bay vút ra. Lập tức, một người hự lên ngã gục. Đó chính là Bạch kỳ hộ pháp họ Lục, người vừa mới lớn tiếng hô vang.

    Vị Lục hộ pháp này vốn định khi cuộc hỗn chiến diễn ra sẽ âm thầm bỏ trốn, nào ngờ bị Phi Đao Kim Cang tinh mắt trông thấy, rốt cuộc sợ chết lại bị chết sớm hơn.

    Bên này, các hộ pháp tam kỳ đã không còn thời gian để bận tâm đến việc ấy, lần lượt tuốt binh khí ra, trong tiếng quát tháo nhất tề xông tới.

    Đỗ Môn tú sĩ không tham chiến mà cũng không có ý bỏ đi, chấp hai tay sau lưng chầm chậm thoái lui, như định đứng trên bậc thềm quan chiến. Có hai tên hộ pháp định giở trò đánh rắn đập đầu, nào ngờ vừa mới lao tới, hai ngọn phi đao đã chia ra bay đến.

    Phi Đao Kim Cang cười nói:

    – Nếu không muốn lãnh phi đao thì đừng có ý định xấc xược với giáo chủ bọn ta!

    Hai hộ pháp bởi nóng lòng tham công, chỉ lo xông về phía Đỗ Môn tú sĩ, chẳng ngờ hai ngọn phi đao bay đến nhanh như chớp. Rốt cuộc một người bị phi đao xuyên thủng yết hầu, gục chết ngay tức khắp, còn người kia bởi chân trái có tật nên người thoáng chồm tới trước, nhờ vậy chỉ bị phi đao bóc đi một mảng da sau gáy.

    Đến lúc này phía Thiên Ma Giáo đã có ba hộ pháp táng mạng, còn phía Tứ Đại Kim Cang thì vẫn chưa có chút tổn thương nào.

    Thế nhưng, phen này Hắc Thiên Vương đã dẫn theo đến mười lăm hộ pháp, mất ba vẫn còn mười hai, về nhân số cũng còn chiếm ưu thế hơn.

    Trong Tứ Đại Kim Cang chỉ một mình Hắc Tâm Kim Cang là chưa dùng đến binh khí. Khi Hắc Thiên Vương phi thân lao tới, Song Kích Kim Cang liền lùi sang bên, để cho Hắc Tâm Kim Cang đón tiếp vị Kim Bút đường chủ này.

    Còn mười hai hộ pháp Thiên Ma Giáo thì chia làm ba nhóm, với bốn chọi một, chia nhau giáp công Song Kích, Phi Đao và Thiết Can ba người.

    Bốn hộ pháp vây đánh Phi Đao Kim Cang Sài Hỏa Liệt đều biết đối phương phi đao lợi hại, nên không một ai dám khinh suất, thảy đều dốc sức tấn công với chiêu thức hiểm độc, không để cho đối phương rảnh tay, đến đỗi Phi Đao Kim Cang tuy có tuyệt kỹ phi đao, nhất thời cũng chẳng thi triển được.

    Cảnh ngộ của Song Kích Kim Cang Vạn Thanh cũng chẳng khác gì, cái chết của Ngọc Thước Lang Quân Cung Đại Hải đã khiến bốn hộ pháp giáp công sinh lòng cảnh giác, luôn lưu ý đôi đoản kích trong tay đối phương, không để cho đối phương có cơ hội phóng ra. Song Kích Kim Cang Vạn Thang tuy võ công cao hơn bốn hộ pháp Thiên Ma, nhưng song thủ bất địch tứ quyền, lúc này cũng chỉ cố gắng cầm cự mà thôi.

    Chỉ có Thiết Can Kim Cang Tần Thông Thiên với cây gậy sắt trong tay vung ngang quét dọc, bóng gậy loang loáng, rít gió vụt vù, khiến bốn tên hộ pháp không sao xáp đến gần, có thể nói là một người đắc thế nhất trong cuộc hỗn chiến.

    Bên kia, Hắc Thiên Vương Kiều Bán Sơn hệt như một con trâu điên, một pho chưởng pháp triển khai, chỉ công không thủ, hoàn toàn với lối đánh thí mạng.

    Hắc Tâm Kim Cang Cổ Đồng người chập chờn như cánh bướm vờn hoa, chỉ thủ không công, đấu pháp hoàn toàn trái ngược với đối phương.

    Đỗ Môn tú sĩ đứng trên bậc thềm trước miếu, chắp tay đảo mắt nhìn quanh, lúc nhìn bên này, lúc lại nhìn bên kia, khi thì gật đầu ra chiều khen ngợi, khi lại lắc đầu lộ vẻ không bằng lòng, thần thái hết sức thanh thản.

    Lúc này đã sắp hết canh tư, Đỗ Môn tú sĩ ngước lên nhìn trời, đôi mày thoáng chau lại, như bắt đầu cảm thấy nóng ruột.

    Ngay khi ấy, trong trận chiến đột nhiên xảy ra một tai nạn nhỏ, và rồi đã gây nên thảm biến liên tiếp theo sau đó.

    Nguyên do là một hộ pháp giáp công Thiết Can Kim Cang, bởi tối qua đã vui với một ả thanh lâu quá độ, trận chiến kéo dài đã khiến y thở hồng hộc và hai chân bải hoải, dần cảm thấy có phần lực bất tòng tâm, chỉ bởi tránh né chậm một chút, bị Thiết Can Kim Cang quét trúng một gậy vào nách, người liền bay bổng lên không, xui khiến làm sao lại rơi xuống ngay đầu một hộ pháp đang giáp công Song Kích Kim Cang.

    Tên hộ pháp ấy vội vung binh khí lên gạt, tuy đánh bạt được tử thi đồng bọn, song bản thân lại lộ toang phần trước. Song Kích Kim Cang đoản kích tiện tay đâm tới, liền xuyên thủng ngực tên hộ pháp ấy, một luồng máu phún ra như suối, khi y ngã xuống đất, lại làm vấp chân một hộ pháp đang giáp công Phi Đao Kim Cang, khiến người đó loạng choạng, đâm ngay vào lòng Hắc Tâm Kim Cang.

    Hắc Tâm Kim Cang Cổ Đồng liền thừa cơ song chưởng đẩy ra, xô tên hộ pháp xấu số đó đến trước mặt Hắc Thiên Vương Kiều Bán Sơn.

    Hắc Thiên Vương gầm vang một tiếng, cũng chẳng màng là người nhà, vung chưởng giáng xuống, sau đó tung chân đá tử thi sang bên. Y không nghĩ đến đó là gian kế của kẻ địch, ngay khi tử thi bay sang bên, chợt thấy bóng người nhấp nhoáng, Hắc Tâm Kim Cang đã lao tới trước mặt.

    Hắc Tâm Kim Cang quả là danh phủ kỳ thực, một người có trái tim đen đúng nghĩa, y biết đối phương da rắn thịt dày, một chưởng tầm thường khó thu được hiệu quả trí mạng, nên hai ngón tay chỉa thẳng ra, với chiêu “Song long thám châu” móc mắt Hắc Thiên Vương.

    Hắc Thiên Vương đau đớn gầm vang như hổ đói, tung mình lên đâm đầu lao tới, toan thí mạng cùng chết với đối phương.

    Hắc Tâm Kim Cang đâu cam chịu vậy, lẹ làng lách người sang bên, Hắc Thiên Vương hụt hẫng, đâm đầu thẳng vào bậc cấp, “ầm” một tiếng vỡ sọ chết ngay tức khắc.

    Chín hộ pháp Thiên Ma Giáo thấy đầu lĩnh đã táng mạng, thế là sau một tiếng huýt dài, đua nhau quay người tìm đường tháo chạy.

    Phi Đao Kim Cang cười the thé nói:

    – Để xem các ngươi chân ai dài nhất.

    Vút! Vút! Vút! Ba ngọn phi đao bay ra như tia chớp, những tiếng rú thảm vang lên liên hồi, lại thêm ba hộ pháp Thiên Ma Giáo ngã gục.

    Đỗ Môn tú sĩ bước xuống bậc thềm, mỉm cười khoát tay nói:

    – Thôi, thôi. Sài lão tam hôm nay đã liên tiếp hạ năm tên, kể ra cũng đủ mãn nguyện rồi!

    Hắc Tâm Kim Cang liếc nhìn tử thi Hắc Thiên Vương, khẽ buông tiếng thở dài nói:

    – Tên tiểu tử đần độn này quả không hổ là một đường chủ, vừa rồi nếu không nhờ một gậy của lão tứ, hôm nay thật chưa biết ai chết bởi tay ai...

    Đỗ Môn tú sĩ cười ngắt lời:

    – Lại nữa rồi, tên tiểu tử này chẳng qua chỉ nhờ vào sức mạnh man rợ thôi, đâu sánh bằng được với tên họ Âm hôm trước, nếu Sài lão tam không vì môn Cửu Cung Mê Hồn Bộ, chỉ thủ không công, quần thảo với hắn nên mới kéo dài thời gian, chứ không thì hắn đâu thể cầm cự nổi đến mười chiêu của huynh đệ.

    Đoạn lại quay sang Phi Đao Kim Cang khoát tay cười nói:

    – Đã không còn sớm nữa, hãy mau nhặt lại mấy ngọn phi đao lên đường đi thôi!

    Một cuộc chiến thảm khốc qua đi, trước Tam Quan miếu lại trở về với sự yên lặng.

    Lúc này, trong cành lá rậm trên một ngọn cổ tùng cao to, bỗng có người buông tiếng thở dài rồi thấp giọng nói:

    – Tuồng hát đã kết thúc, chúng ta cũng nên đi thôi!

    Rồi thì từ trên cây lần lượt phóng xuống bốn bóng người. Đó chính là Kim La Hán Triệu Phú, Kỳ Chính Thủ Viên Trung Hòa, Bách Biến Chưởng Ngôn Cập Nghĩa và Do Nhân Kiệt.

    Sau khi hạ xuống đất, Kim La Hán quay sang Do Nhân Kiệt hỏi:

    – Liễu lão nhi bảo bọn này đến gặp ở đâu?

    – Khách điếm Túy Tiên!

    – Vậy thì đi mau!

    Kỳ Chính Thủ vừa đi vừa hỏi:

    – Theo lão đại thấy, bốn tên khi nãy, liệu chúng ta có đối phó nổi không?

    Kim La Hán lắc đầu:

    – Chưa biết chừng...

    – Nếu có thêm được Hắc Bạch Song Quái, có lẽ không đến đỗi nào...

    Kỳ Chính Thủ chau mày:

    – Nhắc đến Hắc Bạch Song Quái, Viên mỗ lại phải oán trách Liễu lão nhi, lại nhằm trong lúc này bảo sư đồ họ ba người trở về Đại Hồng Sơn, thật chẳng hiểu nổi dụng tâm của lão ta.

    Kim La Hán nghiêm mặt nói:

    – Lão nhị, chẳng phải ngu huynh phê phán đệ, đó là đệ đã không hiểu con người của Liễu lão nhi. Hiện nay, bất luận Thiên Ma Giáo hay Thiên Đạo Giáo đều muốn khống chế đồ đệ để sai khiến sư phụ, nếu chúng ta vì cứu thoát đồ đệ mà giữ Song Quái lại để giúp sức, thử hỏi như vậy có khác nào thủ đoạn của Thiên Ma Giáo và Thiên Đạo Giáo? Phen này Liễu lão nhi xử sự như vậy, thật khiến Triệu mỗ phục đến sát đất.

    Kỳ Chính Thủ buông tiếng thở dài:

    – Nhưng mà...

    Do Nhân Kiệt cười ngắt lời:

    – Hai vị tiền bối xin đừng cãi nhau về những việc đã qua nữa, tiện đây vãn bối muốn thỉnh giáo một điều. Ý vãn bối định sau khi Dâm Hồ xuất binh, sẽ lại với thân phận Ác Quân Bình trở về tổng đàn Thiên Ma Giáo, với cương vị thủ tịch hộ giáo hạ lệnh phá hủy tổng đàn thành bình địa, chẳng hay ba vị tiền bối nghĩ sao?

    Bách Biến Chưởng lắc đầu nguầy nguậy:

    – Như vậy mạo hiểm quá!

    Do Nhân Kiệt cười:

    – Có gì là mạo hiểm?

    Bách Biến Chưởng nghiêm giọng:

    – Không có Hỏa Cơ thì còn có thể, bây giờ Hỏa Cơ đã biết ngươi là kẻ giả mạo, đến nữa há chẳng chuốc lấy cái chết còn gì?

    Do Nhân Kiệt thản nhiên cười:

    – Đành rằng vậy, nhưng vãn bối lại nghĩ khác. Vãn bối bây giờ đến đó, có lẽ Dâm Hồ và Thủy Hỏa Song Cơ đã đi rồi. Hỏa Cơ không bao giờ lại đi tuyên bố điều bí mật này với những ma đồ khác. Vả lại, Hỏa Cơ không bao giờ ngờ đến vãn bối lại dám cả gan trở vào hang hùm lần nữa. Do đó, vãn bối nhận thấy hành động này chẳng có gì là mạo hiểm cả!

    Kim La Hán trầm ngâm:

    – Việc này để khi gặp Liễu lão nhi, mọi người cùng bàn bạc kỹ lưỡng rồi quyết định cũng chẳng muộn.

    Mọi người từ cửa bắc vào thành, theo bờ thành đi về hướng đông, lát sau đã đến khách điếm Túy Tiên nằm gần cửa đông thành.

    Khách điếm này là do một nhân vật hiệp nghĩa trong võ lâm trước kia đã quy ẩn thành lập, bốn người không cần lên tiếng báo, từ sau khách điếm vượt tường vào.

    Bốn người xô mở cửa một gian thượng phòng bên phía tây, Kim La Hán đi đầu khẽ cất tiếng hỏi:

    – Liễu lão nhi đã đến chưa?

    Trong phòng yên lặng, không có tiếng trả lời.

    Kim La Hán bật lên một tiếng sửng sốt, ngoảnh lại nói:

    – Trời sắp sáng rồi, sao vẫn chưa đến thế này?

    Kỳ Chính Thủ bật hỏa tập lên cười nói:

    – Liễu lão nhi viết giấy để lại chỉ bảo chúng ta chờ ở đây, nhưng không hẹn giờ giấc, dĩ nhiên chúng ta phải đến trước rồi.

    Đoạn đi đến góc phòng, thắp cháy ngọn đèn dầu trên vách.

    Bách Biến Chưởng quét mắt nhìn, bỗng sửng sốt khẽ kêu lên:

    – Liễu lão nhi đã từng đến đây rồi!

    Mọi người ngoảnh sang nhìn, thấy trên chiếc bàn đặt sát vách có một mảnh giấy để dưới khay trà, thảy đều bất giác ngớ người.

    Kim La Hán đến cầm lên xem, thấy trên giấy vỏn vẹn chỉ có mấy chữ:

    “Gặp giấy này tức tốc trở về Thảo Kiều!”.

    Kim La Hán xem xong, trao mảnh giấy cho mọi người và lẩm bẩm:

    – Lạ thật, khi Liễu lão nhi hộ tống sư đồ song quái rời khỏi, đã bảo là sẽ gặp lại nhau tại đây, bây giờ lại bảo chúng ta đến Thảo Kiều làm gì thế này?

    Kỳ Chính Thủ và Bách Biến Chưởng chau chặt mày, nhất thời cũng chẳng nghĩ ra được vì nguyên nhân gì.

    Do Nhân Kiệt bỗng nói:

    – Qua giọng điệu trên giấy này của ân sư, tình hình dường như hết sức khẩn cấp, chúng ta nên đi ngay là hơn!

    Thế là bốn người phi thân ra khỏi khách điếm, đang đêm đi đến Thảo Kiều.

    Trong một thôn nhỏ cách trấn Thảo Kiều không xa, vào lúc trời hừng sáng, bỗng xuất hiện năm người khách bất ngờ.

    Năm người ấy chẳng phải ai khác, chính là Đỗ Môn tú sĩ Ôn Tư Quảng cùng nhóm tâm phúc đắc lục Tứ Đại Kim Cang từ thành Lăng Ky đến.

    Nơi chúng xuất hiện là một trang viện nằm ở thôn bắc.

    Đỗ Môn tú sĩ cùng Tứ Đại Kim Cang sau khi vào nhà, hai hán tử trung niên dáng vẻ nông dân lập tức hơ hải theo vào.

    Đỗ Môn tú sĩ quét mắt nhìn hai người ấy, sầm mặt lạnh lùng nói:

    – Vùng Thảo Kiều này gần đây vẫn bình yên chứ?

    Hai gã hán tử sợ sệt khom mình nói:

    – Nhờ hồng phúc của giáo chủ...

    Đỗ Môn tú sĩ không chờ hai người dứt lời, vung tay xáng cho mỗi người ba cát tái tai. Sau đó lại quát:

    – Hạn định cho các ngươi trước giờ ngọ phải tìm cho ra nơi ẩn náu của lão quỷ Tiêu Dao Thư Sinh và Thiên Sơn Tam Nghĩa, bằng không chớ trách bổn giáo chủ thiên diện vô tình!

    Hai hán tử vâng dạ rối rít, đoạn vội quay người ra khỏi trang, phóng nhanh về phía trấn Thảo Kiều.

    Hắc Tâm Kim Cang Cổ Đồng chau mày nói:

    – Cổ mỗ thấy hai tên ấy chưa chắc sẽ làm được việc, chi bằng hãy để bốn huynh đệ bọn này chia nhau dò tìm có lẽ còn nhanh hơn...

    Đỗ Môn tú sĩ lắc đầu:

    – Bọn họ không phải là thiếu năng lực, chẳng qua do bình thường thiếu quản thúc nên đã không làm việc tận tụy đó thôi. Các vị đã phải vất vả cả đêm, cũng đã mỏi mệt lắm rồi, lát nữa đây không chừng còn có một cuộc kịch chiến, nên tìm chỗ nghỉ ngơi là hơn!

    Lúc gần giờ ngọ, Đỗ Môn tú sĩ và Tứ Đại Kim Cang ăn trưa xong, đang ngồi trong nhà uống trà trò chuyện, hai hán tử ra đi hồi sáng bỗng có một người vội vả trở về, thở hổn hển nói:

    – Bẩm giáo chủ... thuộc hạ... thuộc...

    Đỗ Môn tú sĩ chú mắt lạnh lùng nói:

    – Không tìm được chứ gì?

    – Không phải, đã tìm... tìm...

    Hắc Tâm Kim Cang Cổ Đồng xem lời:

    – Đã tìm gặp rồi phải không?

    Hán tử ấy vội gật đầu:

    – Vâng... vâng... đã tìm... tìm...

    Y càng luống cuống thì càng không sao nói tiếp được.

    Đỗ Môn tú sĩ dịu giọng nói:

    – Đã tìm gặp rồi phải không? Tốt lắm! Không cần phải vội, hãy nghỉ ngơi một lát rồi thư thả nói cho tận tường hơn.

    Gã hán tử thở mạnh một hồi, đoạn mới nói:

    – Việc là thế này, thuộc hạ với Đinh Nhị khi đến Thảo Kiều, gặp một tiểu huynh đệ báo cáo, bảo là trong quán đậu hủ của Hồ Hạt Tử có ở trọ một nhóm người rất khả nghi...

    – Bọn họ ra sao?

    – Dạ, thuộc hạ sắp nói đến đây. Lúc bấy giờ, thuộc hạ và Đinh Nhị nghe được tin ấy, lập tức giả vờ cần mua đậu hủ, tìm lấy một cái giỏ xách to, đến quán Hồ Hạt Tử, rồi sau đó thuộc hạ lại giả vờ đi tiểu, vội vã ra sau quán...

    – Hay lắm, sau đó thế nào?

    – Thuộc hạ vừa vào đến hậu viện, đã trông thấy mấy lão già ấy đứng dưới giàn đậu, dường như đang bàn bạc việc gì đó, thấy tất cả đều mặt mày tiu nghỉu, ra vẻ hết sức lo lắng, thuộc hạ sợ bại lộ nên không dám nghe lén...

    – Cẩn thận như vậy rất đúng, vóc dáng và diện mạo hoàn toàn đúng như lời mô tả của Hầu sư gia, chính là Thiên Sơn Tam Nghĩa và lão quỷ Tiêu Dao Thư Sinh.

    – Chỉ có bốn lão già ấy thôi ư?

    – Không, bên cạnh còn có một gã tiểu tử rất anh tuấn và một gã trung niên to khỏe nữa!

    – Tất cả sáu người phải không?

    – Vâng, ngoài ra trong nhà củi gần đó dường như có người bị đánh đập, đang đau đớn rên rỉ...

    Đỗ Môn tú sĩ gật đầu, thở dài nói:

    – Thật tội nghiệp cho lão Thi, có lẽ phen này đã phải no đòn.

    Gã hán tử sửng sốt:

    – Đó là Thi phó giáo chủ ư?

    Đỗ Môn tú sĩ không đếm xỉa đến y, ngoảnh đi quắt mắt nhìn Tứ Đại Kim Cang đoạn lẩm bẩm nói:

    – Thật là rắc rối...

    Hắc Tâm Kim Cang Cổ Đồng bỗng hỏi:

    – Giáo chủ muốn nói là bốn lão già ấy ở cùng một nơi, lo bốn huynh đệ bọn này không ứng phó nổi chứ gì?

    Đỗ Môn tú sĩ trầm ngâm:

    – Dù sao đó cũng là điều rất đáng lo ngại, cho dù bốn vị không bại, nhưng muốn cứu người e chẳng phải dễ dàng.

    Song Kích Kim Cang Vạn Thang xem lời:

    – Hãy đi Huê Dung điều Trường Bạch Lục Tuyệt đến, thế nào?

    Đỗ Môn tú sĩ lắc đầu:

    – Không kịp đâu!

    Phi Đao Kim Cang Sài Hỏa Liệt bỗng nói:

    – Sài mỗ có một ý kiến, chẳng hay giáo chủ nghĩ sao?

    Đỗ Môn tú sĩ gật đầu:

    – Sài huynh có cao kiến gì?

    Phi Đao Kim Cang chậm rãi nói:

    – Bây giờ đến đó tạm thời đừng lộ hình tích, để Sài mỗ lén vào hậu viện trước, xuất kỳ bất ý dùng phi đao hạ gục một hai người, sau đó mọi người hãy cùng xông vào, bốn huynh đệ bọn này cự địch, giáo chủ dẫn thuộc hạ lo việc cứu người.

    Đỗ Môn tú sĩ ngẫm nghĩ một hồi, đoạn gật đầu nói:

    – Cũng đành vậy thôi!

    Đoạn quay sang gã hán tử hỏi:

    – Còn Đinh Nhị đâu?

    – Đinh Nhị cùng hai tiểu huynh đệ hiện đang canh chừng gần quán đậu hủ, phòng đối phương bỏ đi nơi khác.

    Đỗ Môn tú sĩ đứng lên:

    – Được rồi, chúng ta quyết định như vậy, đi thôi!

    Chếch bên đối diện quán đậu hủ của Hồ Hạt Tử là một tiệm tạp hóa. Đinh Nhị mua lấy một gói đậu phộng và hai cân rượu, vừa uống vừa liếc mắt theo dõi phía đối diện.

    Lúc này bỗng có người vỗ nhẹ lên vai, khiến y giật nẩy mình, quay phắt lại nhìn, thì ra là Tôn Lục trở về báo tin khi nãy, mới hoàn hồn chau mày khẽ nói:

    – Mẹ kiếp, sao ngươi...

    Tôn Lục khẽ ngắt lời:

    – Giáo chủ đã dẫn người đến, ở bên cạnh đây, bảo ngươi qua hỏi chuyện.

    Đinh Nhị sửng sốt:

    – Giáo chủ đã đến ư?

    Tôn Lục kinh ngạc:

    – Lạ chưa! Giáo chủ bảo chúng ta dọ thám chính là muốn đấu với bọn lão già kia một phen, bây giờ đã tìm gặp, lẽ nào lại không đến?

    Đinh Nhị mặt mày trắng nhợt:

    – Tính mạng của... hai ta... phen này có lẽ... tiêu rồi!

    Tôn Lục kinh hãi:

    – Sao vậy?

    Đinh Nhị run giọng:

    – Khi nãy bọn lão già kia bỗng lần lượt bỏ đi hết rồi. Đinh mỗ đang lo đến nẩu ruột, sợ giáo chủ nghĩ hai ta nói dối...

    Tôn Lục ngớ người:

    – Vậy còn gã tiểu tử?

    – Cũng bỏ đi rồi, chỉ còn lại gã trung niên to khỏe thôi! Đinh mỗ đang toan tính, nếu bọn lão già kia không quay lại, hai ta chi bằng bỏ trốn thôi...

    Tôn Lục thừ ra một hồi, đoạn khẽ thở dài nói:

    – Đây đâu phải lỗi do hai ta, tốt hơn hai ta hãy qua đó thưa thật với giáo chủ, bây giờ dù muốn bỏ trốn cũng chẳng còn kịp.

    Thật bất ngờ, khi nghe xong báo cáo của họ, Đỗ Môn tú sĩ lại hết sức vui mừng, hối hả hỏi:

    – Bọn lão già kia bỏ đi đã bao lâu rồi?

    – Chỉ mới đây thôi!

    Đỗ Môn tú sĩ lại hỏi:

    – Đã đi về hướng nào ra khỏi trấn?

    – Tất cả đều đi về hướng tây, ra chiều rất vội vã!

    – Vậy là bây giờ trong quán cnỉ còn lại Hồ Hạt Tử với gã trung niên phải không?

    – Dạ vâng!

    Đỗ Môn tú sĩ quay sang Tứ Đại Kim Cang hớn hở khoát tay nói:

    – Dịp may hiếm có, đi mau!

    Tứ Đại Kim Cang vừa định cất bước, Đỗ Môn tú sĩ bỗng lại khoát tay nói:

    – Hãy khoan!

    Hắc Tâm Kim Cang quay lại hỏi:

    – Giáo chủ còn gì dặn bảo nữa?

    Đỗ Môn tú sĩ thoáng ngẫm nghĩ:

    – Mục đích chính của chúng ta phen này là giải cứu Thi phó giáo chủ, không động thủ là thượng sách, bọn lão già kia hẳn không quay lại nhanh chóng, tốt hơn nên phái một người đi xem xét động tĩnh trước rồi hãy hành động.

    Tôn Lục sốt sắng nói:

    – Thuộc hạ có thể viện lý do nhà có thân thích đến chơi, khi nãy mua ăn không đủ, cần mua thêm một ít nữa.

    Đỗ Môn tú sĩ gật đầu:

    – Hay lắm, ngươi hãy đi mau!

    Tôn Lục ra đi một hồi, quay về hí hửng nói:

    – Hay quá, hai gã kia đang chơi cờ trong quán, khi thuộc hạ vào đến, vì một nước cờ hai người đang cãi vã nhau dữ dội, Hồ Hạt Tử bảo là y mắt kém, không thấy rõ đối phương phóng mã ăn xa, nắm chặt con cờ không chịu buông ra, đòi hoàn lại một nước...

    Y chưa dứt lời, Đỗ Môn tú sĩ đã cùng Tứ Đại Kim Cang đã đi ra khỏi cửa.

    Khi Thiết Can Kim Cang Tần Thông Thiên cõng Tụ Thủ Thần Y từ trong nhà củi ra, trong quán phía trước vẫn còn nghe văng vẳng tiếng cãi vã nhau, kẻ đòi hoàn, người không chịu, chỉ thiếu điều động thủ đánh nhau.

    Khi xe ngựa ra khỏi trấn Thảo Kiều một quãng, Đỗ Môn tú sĩ mới nôn nóng giải khai hết huyệt đạo khắp người Tụ Thủ Thần Y.

    Tụ Thủ Thần Y mở bừng mắt, khi trông rõ cảnh tượng xung quanh, chẳng chút lộ vẻ vui mừng, chỉ khẽ buông tiếng thở dài não ruột, đoạn lại chầm chậm nhắm nghiền mắt.

    Đỗ Môn tú sĩ giọng đượm chút áy náy khẽ nói:

    – Thi huynh không bị nội thương chứ?

    Tụ Thủ Thần Y lại buông tiếng thở dài, hồi lâu mới buồn bã nói:

    – Không hề gì, khi về đến chẳng thiếu gì thuốc, có điều nỗi nhục phen này thật khó thể nhẫn nhịn, lão phu đã nói rồi, ả đàn bà ấy là một mầm họa...

    Đỗ Môn tú sĩ kinh ngạc:

    – Thi huynh muốn nói, biến cố phen này hoàn toàn là do ả tiện nhân ấy ư?

    Tụ Thủ Thần Y lắc đầu, uể oải nói:

    – Bỏ đi thôi, đừng nhắc đến nữa!

    Đỗ Môn tú sĩ im lặng một hồi, bỗng ngẩng lên hỏi:

    – Thi huynh có trông thấy tên đồ đệ của Hắc Bạch Song Quái không?

    Tụ Thủ Thần Y lạnh lùng lặng thinh.

    Chừng nửa giờ sau, xe ngựa đã đến bờ hồ Động Đình, khi một chiếc thuyền nhỏ cặp vào, Đỗ Môn tú sĩ mới quay sang Tứ Đại Kim Cang nói:

    – Bốn vị hãy trở về chỗ cũ đi!

    Phi Đao Kim Cang tình cờ quét mắt nhìn bỗng kinh ngạc kêu lên:

    – Ủa, bọn nào đang đến thế kia?

    Đỗ Môn tú sĩ quay người chăm chú nhìn kỹ, đoạn quay lại khoát tay nói:

    – Đó là Kim Hoa Ma Thích Bổn Vũ, hãy mau khiêng Thi phó giáo chủ lên thuyền, pho Huyết Hoa chưởng của lão dâm ma đó cũng khá là khó đối phó.

    Quả đúng là Kim Hoa Ma Thích Bổn Vũ, theo sau lão ma là mười mấy hộ giáo Thiên Ma.

    Kim Hoa Ma đứng lại ngoài ba trượng quét mắt nhìn thật nhanh, đoạn ôm quyền cao giọng nói:

    – Vị này có lẽ là Ôn giáo chủ phải không?

    Đỗ Môn tú sĩ ôm quyền đáp:

    – Không dám! Bỉ nhân chính là Ôn Tư Quảng, chẳng hay Thích đại đường chủ có điều chi kiến giáo?

    Kim Hoa Ma ngửa mặt cười to:

    – Đường chủ ư? Vinh dự ấy Thích mỗ không có phúc phận nhận lãnh, đã là của kẻ khác lâu rồi!

    Thật ra Đỗ Môn tú sĩ đâu phải không biết điều ấy, do chẳng qua vì phép lịch sự mà gọi như vậy thôi.

    Kim Hoa Ma ngưng cười, chú mục nói tiếp:

    – Ôn giáo chủ xưa nay đã nổi danh là người biết hết mọi sự kể cả quá khứ lẫn vị lai, hẳn là phải biết dụng ý của Thích mỗ đến đây phen này chứ?

    Đỗ Môn tú sĩ gật đầu:

    – Đúng vậy, việc lệnh lang lâm bệnh, Ôn mỗ vừa được nghe cách đây vài hôm!

    Kim Hoa Ma trầm giọng:

    – Nếu bây giờ Thích mỗ đưa ra một thỉnh cầu, xin Thi phó giáo chủ một thang thuốc, Ôn giáo chủ có chịu thành toàn cho chăng?

    Đỗ Môn tú sĩ đảo tròn tròng mắt:

    – Thích lão tiền bối nếu không có lòng ngờ vực, xin hãy cho lui tùy tùng, dời bước đến Quân Sơn thư thả bàn tính, thế nào?

    Lão thầm nghĩ, Hỏa Cơ đi mất, Kim Hoa Ma lại đến, kể ra cũng chẳng thiệt thòi gì.

    Kim Hoa Ma bởi thương con nóng lòng, nghe vậy chẳng chút do dự, khoát tay nói:

    – Các ngươi hãy về trước đi!

    Đỗ Môn tú sĩ cũng quay lại, nháy mắt với Tứ Đại Kim Cang nói:

    – Vạn lão nhị và Sài lão tam hãy ở lại, Cổ lão đại và Tần lão tứ hãy cùng Thích lão tiền bối đi chung một thuyền.

    Sau khi lên thuyền, Đỗ Môn tú sĩ khẽ hỏi:

    – Vừa rồi Thi huynh đã nghe hết cả rồi chứ?

    Tụ Thủ Thần Y gật đầu:

    – Rồi!

    – Công lực của tên tiểu tử ấy, có thuốc khôi phục được chăng?

    Tụ Thủ Thần Y gật đầu:

    – Có!

    – Phải cần bao lâu?

    – Nếu bệnh tình không quá nghiêm trọng, chỉ cần hai ba thang thuốc là đủ!

    – Vậy chẳng mau chóng quá ư?

    – Đó là tùy ở giáo chủ, cùng một chứng bệnh, lão phu có thể chữa khỏi tức khắc, mà cũng có thể chữa đến bốn năm năm!

    Đỗ Môn tú sĩ mỉm cười:

    – Cũng như cách Thi huynh đã chữa trị cho tên đồ đệ của song quái chứ gì?

    – Phải!

    Đỗ Môn tú sĩ gật đầu:

    – Phương cách ấy Ôn mỗ hết sức thích thú!

    – Nếu vậy thì giáo chủ sẽ được thưởng thức thêm một lần nữa!

    Thuyền đến Quân Sơn vào lúc nửa đêm. Khi xuống đến dưới lòng đất, Đỗ Môn tú sĩ mới khoát tay bảo Hắc Tâm Kim Cang và Thiết Can Kim Cang lui ra.

    Thu xếp Kim Hoa Ma xong, Đỗ Môn tú sĩ liền đưa Tụ Thủ Thần Y vào bí thất thăm Vô Ảnh Thần Trảo Hầu Huyền Kinh.

    Nào ngờ hai người đẩy cửa bước vào, đưa tay sờ thử, Vô Ảnh Thần Trảo đã tắt thở tự bao giờ.

    Đỗ Môn tú sĩ đứng thừ ra như phổng đá, hồi lâu mới quay lại gắt giọng quát:

    – Từ sư phụ, hãy đến đây!

    Một võ sư tất tả chạy vào.

    Đỗ Môn tú sĩ trỏ tử thi quát hỏi:

    – Người đã chết, khi nãy vào sao không báo cáo?

    Võ sư họ Từ kinh hoàng:

    – Tiểu nhân vừa mới thay phiên...

    Đỗ Môn tú sĩ lạnh lùng ngắt lời:

    – Phiên trực trước đó là ai với ai?

    Từ võ sư run giọng:

    – Tiền sư phụ và Do sư phụ!

    Đỗ Môn tú sĩ khoát tay:

    – Hãy gọi hai người ấy đến đây!

    – Dạ vâng!

    Từ võ sư lui ra, lát sau trở vào, theo sau chỉ có một võ sư họ Do.

    Đỗ Môn tú sĩ sầm mặt hỏi:

    – Tiền sư phụ đâu?

    Do võ sư cúi đầu đáp:

    – Tiền sư phụ đã... đã đi...

    Đỗ Môn tú sĩ trố mắt:

    – Đi đâu hả?

  9. #48
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Do võ sư mắt nhìn xuống đất:

    – Y tự biết đã gây nên họa tày trời, vừa nghe giáo chủ về đến, lập tức dùng đao tự tuyệt, trước khi chết còn nói là rất có lỗi với giáo chủ và Hầu sư gia.

    Đỗ Môn tú sĩ vừa kinh ngạc vừa tức giận:

    – Sao? Vậy có nghĩa là Hầu sư gia đã chết bởi tay hắn ư?

    Do võ sư thở dài:

    – Đó cũng chỉ có thể nói là Tiền sư phụ đã quá mau miệng thôi! Lúc hoàng hôn, Hầu sư gia đã hồi tỉnh và nằng nặc bảo chúng tiểu nhân đi mời Thi phó giáo chủ đến, khi tiểu nhân vừa định điểm huyệt của Hầu sư gia, Tiền sư phụ đã vô ý nói ra Thi phó giáo chủ đã gặp nạn, Hầu sư gia nghe xong, chỉ buông ra một tiếng thở dài rồi tắt thở ngay, tiểu nhân toan ngăn cản thì không còn kịp nữa...

    Đỗ Môn tú sĩ nghe xong, không ngớt giậm chân và chửi mắng. Tụ Thủ Thần Y phải hết sức khuyên ngăn mới dần bình tâm lại.

    Hôm sau, Kim Hoa Ma tự tay viết một bức thư, Đỗ Môn tú sĩ phái ba võ sư đắc lực đi rước Hoa Hoa công tử đến Quân Sơn.

    Tụ Thủ Thần Y quả danh bất hư truyền, sau khi tự uống thuốc của mình vào, tinh thần liền tức thì bình phục.

    Đỗ Môn tú sĩ cho đến lúc này mới như chợt nhớ ra, hỏi Tụ Thủ Thần Y:

    – Theo báo cáo của Đinh Nhị và Tôn Lục, lúc hai người vào trong quán của Hồ Hạt Tử, đã trông thấy Thiên Sơn Tam Nghĩa và Liễu lão đầu đang tụ tập dưới giàn đậu ở hậu viện, chẳng rõ bàn bạc việc gì, thảy đều mặt mày tiu nghỉu, ra chiều hết sức lo lắng, Thi huynh có biết bọn họ đã gặp rắc rối gì không?

    Tụ Thủ Thần Y ngẫm nghĩ một hồi nói:

    – Lão phu không nghe rõ hết, chỉ nghe loáng thoáng là Liễu lão nhi có một nghĩa tôn nữ ở miền quê Ba Đông, gần đây nghe tin báo là đã gặp tai biến...

    Đỗ Môn tú sĩ vỗ tay đánh bốp nói:

    – Vậy thì hay quá!

    Tụ Thủ Thần Y ngớ người:

    – Gì mà hay?

    Đỗ Môn tú sĩ hớn hở:

    – Thi huynh còn nhớ hai võ sư đã đi hái thuốc hôm trước không?

    Tụ Thủ Thần Y ngơ ngẩn:

    – Việc này có liên quan gì đến hai võ sư đó chứ?

    Đỗ Môn tú sĩ mỉm cười:

    – Sao lại không liên quan? Hai người một đến Vương Ốc, một đến Vu sơn, từ đây đến Vu Sơn phải đi ngang qua Ba Đông, vậy chứng tỏ ả nha đầu kia chín phần mười là đã lọt vào tay vị Ngũ sư phụ ấy rồi!

    Tụ Thủ Thần Y gật đầu:

    – Có thể lắm!

    Đoạn lại lắc đầu nói:

    – Nếu như Ngũ sư phụ mang về đây chỉ là một tử thi thì cũng chẳng có ích lợi gì!

    Đỗ Môn tú sĩ vội nói:

    – Không đâu! Không đâu! Vị Ngũ sư phụ ấy rất khôn ngoan thận trọng, hành sự rất có mực thước, lúc đầu có thể là vì thèm muốn nhan sắc của ả nha đầu ấy, trong lúc nguy cấp, ả nha đầu ấy nhất định đã báo ra danh hiệu của Liễu lão nhi hầu có thể thoát thân. Ngũ sư phụ một khi đã biết rõ ả ta là nghĩa tôn nữ của Liễu lão nhi, lẽ nào còn vì thú vui nhất thời mà để phí phạm một con tin quý giá như vậy? Do đó Ôn mỗ dám đoan chắc, nội trong vài hôm sắp tới, nhất định sẽ có tin mừng báo về.

    Tụ Thủ Thần Y gật đầu:

    – Những mong là vậy! Nếu không giáo chủ sẽ đánh mất cơ hội thưởng thức một thủ pháp thần diệu khác của lão phu.

    Đỗ Môn tú sĩ kinh ngạc:

    – Thủ pháp gì vậy?

    Tụ Thủ Thần Y nhếch môi cười:

    – Đến lúc ấy hãy nói!

    Ngay khi ấy, bỗng thấy một võ sư từ ngoài bước nhanh vào, đến gần Đỗ Môn tú sĩ, chẳng rõ đã thầm thì những gì, Đỗ Môn tú sĩ gật đầu đồng ý, võ sư ấy liền lập tức lui ra.

    Chờ võ sư ấy đi khỏi, Đỗ Môn tú sĩ ngước nhìn Tụ Thủ Thần Y, cười nói:

    – Thi huynh còn có thủ pháp thần diệu gì, bây giờ có thể thi thố được rồi!

    Tụ Thủ Thần Y kinh ngạc:

    – Ngũ sư phụ đã về đến ư?

    Đỗ Môn tú sĩ chỉ tay ra cửa:

    – Hãy xem kia là ai?

    Chỉ thấy hai người vừa bước vào là một võ sư trung niên mặt đầy bụi đường và một thiếu niên dáng vẻ tiều tụy.

    Chẳng cần phải hỏi, thiếu niên này nhất định chính là Kim Tố Liên, nghĩa tôn nữ của Tiêu Dao Thư Sinh.

    Võ sư họ Ngũ tham kiến hai vị chính phó giáo chủ xong, sau đó báo cáo về sự hái thuốc và bắt được Kim Tố Liên, quả nhiên gần đúng như dự đoán của Đỗ Môn tú sĩ.

    Đỗ Môn tú sĩ nghe báo cáo xong, hết sức khen ngợi võ sư họ Ngũ.

    Sau đó Đỗ Môn tú sĩ quay sang Tụ Thủ Thần Y nói:

    – Thư gởi Liễu lão nhi, Thi huynh định tự động bút phải không?

    Tụ Thủ Thần Y lắc đầu:

    – Lão phu đã nói rồi, còn có cách khác khiến Liễu lão nhi mau khuất phục hơn một bức thư nữa!

    Đỗ Môn tú sĩ bán tín bán nghi:

    – Không gởi thư thì lão ta đâu thể biết được ả nha đầu này đã nằm trong tay chúng ta, cách khác dù tốt hơn thì có ích gì?

    Tụ Thủ Thần Y vuốt râu mỉm cười:

    – Gửi thư sao bằng gởi người?

    Tụ Thủ Thần Y lại cười đắc ý, nhưng không giải thích, lại quay sang võ sư họ Ngũ nói:

    – Ngũ sư phụ, phiền hãy đến chỗ ở của lão phu, bảo ả nha đầu tên Như Ý lấy vài viên Định Thần Hoàn mang đến đây!

    Đỗ Môn tú sĩ nhẹ gật đầu, như đã hiểu ra dụng ý của Tụ Thủ Thần Y.

    Võ sư họ Ngũ đi khỏi, Tụ Thủ Thần Y quay nhìn Kim Tố Liên, khẽ buông tiếng đằng hắng rồi dịu giọng nói:

    – Kim cô nương, nếu lão phu...

    Kim Tố Liên ngước mặt lên, như không nghe thấy.

    Tụ Thủ Thần Y lại khẽ hắng giọng nói:

    – Kim cô nương, nếu lão phu lập tức phái người đưa cô nương đến chỗ lệnh tổ, khi gặp lão nhân gia ấy, cô nương có thể chuyển cáo giùm lão phu vài lời chăng?

    Kim Tố Liên lặng thinh đứng yên, vẫn không chút biểu lộ gì.

    Tụ Thủ Thần Y cười khan hai tiếng chữa thẹn, rồi cũng chẳng nói gì thêm nữa.

    Lát sau, một thiếu nữ áo vàng mang Định Thần Hoàn đến, Tụ Thủ Thần Y vừa định hạ lệnh ép uống, Kim Tố Liên bỗng xòe tay ra, lạnh lùng nói:

    – Đưa đây, bổn cô nương tự uống lấy được rồi!

    Sau khi uống thuốc không lâu, Kim Tố Liên mặt mày trắng bệch, người không ngừng run lẩy bẩy. Cái gọi là Định Thần Hoàn, thì ra chỉ là lừa bịp.

    Tụ Thủ Thần Y quay đi cười ha hả nói:

    – Thế nào? Vậy mạnh hơn là một bức thư giấy trắng mực đen nhiều rồi chứ? Thử nghĩ xem, Liễu lão nhi phải trơ mắt nhìn đứa cháu gái cưng yêu này đau đớn rên rỉ mà chẳng làm gì được, mùi vị ấy sẽ ra sao? Ha ha ha ha!

    Đỗ Môn tú sĩ khen:

    – Quả là tuyệt diệu!

    Đoạn lại ngước lên hỏi:

    – Loại thuốc này của Thi huynh có hiệu lực bao lâu?

    Tụ Thủ Thần Y cười đắc ý:

    – Bảy bảy bốn mươi chín ngày!

    – Qua khỏi thời gian đó thì sao?

    – Hắc hắc, thì dù mười Tụ Thủ Thần Y, e cũng chỉ còn cách mua quan tài tẩm liệm mà thôi!

    Đỗ Môn tú sĩ khoát tay:

    – Xong rồi, hãy mang ả nha đầu này đi mau!

    Hai võ sư kéo Kim Tố Liên đi khỏi, Đỗ Môn tú sĩ mới đứng thẳng lên, vừa định đến gặp Kim Hoa Ma thì một huỳnh y võ sư bỗng vội vã bước vào.

    Đỗ Môn tú sĩ chững bước hỏi:

    – Việc gì đó?

    Võ sư ấy hơ hãi nói:

    – Huê Dung báo tin về, tiêu cục của chúng ta tối qua đã bị quái hỏa...

    Đỗ Môn tú sĩ ngắt lời:

    – Sau đó thế nào?

    – Sau đó không bao lâu, phân đàn chúng ta ở ngoài thành cũng bị quái hỏa thiêu rụi...

    – Đôi bên thương vong thế nào?

    – Phía ta chỉ có một vị bạch y võ sư Hướng sư phụ bị bỏng nhẹ, đó là sau khi đã phát hỏa, Hướng sư phụ đã ra khỏi phòng, nhưng sực nhớ là dưới gầm giường còn có một quyển sổ nợ...

    Đỗ Môn tú sĩ ngạc nhiên:

    – Sổ nợ gì?

    – Nghe đâu vị Hướng sư phụ ấy thường ngày không ăn chơi bài bạc, hết sức tiết kiệm nên có dành dụm được chút ít.

    – Y đã đem cho vay lấy lãi phải không?

    – Dạ vâng!

    Đỗ Môn tú sĩ cười cười, lại hỏi:

    – Còn phía đối phương?

    – Nghe đâu chỉ chạy thoát được ba tên.

    Đỗ Môn tú sĩ gật đầu:

    – Tốt lắm! Vụ giao dịch này đã không thiệt thòi. Ngươi hãy dặn người đưa tin là bảo Thái phó giáo chủ tìm một nơi khác là xong.

    Võ sư ấy vừa đi khỏi, lại một võ sư khác vào đến.

    Đỗ Môn tú sĩ ngẩng lên, vừa bực vừa mừng nói:

    – À, Cốc sư phụ!

    Võ sư họ Cốc mới vào cũng mặt đầy bụi đường như võ sư họ Ngũ.

    Y tham kiến hai vị giáo chủ xong, liền từ trong mình lấy ra một cái túi da, cung kính trao cho Đỗ Môn tú sĩ và nói:

    – Nhờ hồng phúc của giáo chủ, đã tìm được đây!

    Đỗ Môn tú sĩ chuyền tay trao cho Tụ Thủ Thần Y và nôn nóng hỏi:

    – Thi huynh mau xem thử có hợp dùng được không?

    Tụ Thủ Thần Y mở túi da, từ trong lấy ra hai ngọn cây nhỏ màu vàng, đưa lên mũi ngửi, ra chiều hài lòng gật đầu nói:

    – Thượng phẩm, thượng phẩm!

    Đỗ Môn tú sĩ vui mừng đến xoa tay liên hồi:

    – Phen này tốt quá, hai loại dược vật đều đã tìm được rồi!

    Tụ Thủ Thần Y đứng lên:

    – Giáo chủ hãy chờ một lát.

    Đỗ Môn tú sĩ vội nói:

    – Được rồi, được rồi! Làm phiền Thi huynh nhiều quá, khi nào thuốc nấu xong, xin phái người đến gọi một tiếng, tiểu đệ chỉ ở phía trước, không đi đâu hết.

    Tụ Thủ Thần Y cùng thiếu nữ áo vàng về đến chỗ ở, bắt đầu lo điều chế thuốc.

    Lát sau, thuốc đã nấu xong, thiếu nữ áo vàng từ trong tay áo lấy ra một chiếc lọ ngọc, quét mắt nhìn quanh, đoạn khẽ hỏi:

    – Có cần pha chút ít vào không?

    Tụ Thủ Thần Y lưỡng lự:

    – Điều ấy...

    Thiếu nữ áo vàng khẽ nói tiếp:

    – Lão gia chẳng đã từng bảo, lão họ Ôn cằm dài mắt hung, chỉ có thể cùng hoạn nạn chứ không thể cùng an lạc hay sao?

    Tụ Thủ Thần Y gật đầu:

    – Không sai...

    – Đã vậy thì không nhân cơ hội hiếm có này bố trí trước một nước cờ, lão gia sau này làm sao tự bảo vệ được?

    Tụ Thủ Thần Y lại ngẫm nghĩ một hồi, sau cùng kiên quyết gật đầu nói:

    – Vậy cũng đúng, hãy pha vào đi!

    Đêm hôm ấy, Hoa Hoa công tử được đón đến Quân Sơn.

    Không chờ đến trời sáng, Kim Hoa Ma đã giục Đỗ Môn tú sĩ kéo Tụ Thủ Thần Y xuống giường.

    Tụ Thủ Thần Y thăm mạch xong, vuốt râu chậm rãi nói:

    – Phục nguyên chẳng phải là không có hy vọng, nhưng trong thời gian ngắn e khó đạt hiệu quả, phải cần một thời gian rất lâu. Ngoài ra còn mấy loại dược vật...

    Kim Hoa Ma nghe ái tử có hy vọng khôi phục công lực, liền nhẹ người được nửa phần, bèn nóng ruột xen lời:

    – Vậy theo phó giáo chủ, phải cần bao lâu mới có thể phục nguyên?

    Tụ Thủ Thần Y ngẫm nghĩ chốc lát:

    – Nhanh nhất cũng phải chừng ba tháng.

    Kim Hoa Ma thở dài:

    – Cũng đành phải chờ thôi.

    Trong ba ngày tiếp theo, cảnh báo không ngớt đưa về.

    Bảo là trong thành Nhạc Dương, Thiên Ma Giáo đồ ngày một gia tăng, hiện đã lên đến ngàn người.

    Cùng trong lúc ấy, phía Huê Dung lại bình lặng đến lạ thường.

    Đỗ Môn tú sĩ sau khi suy nghĩ thật kỹ, cho rằng phía Huê Dung đã không còn giá trị bố phòng, để tập trung lực lượng, quyết định điều Thần Hành Vô Ảnh Thái Công Minh và Trường Bạch Lục Tuyệt từ Huê Dung về Quân Sơn.

    Trường Bạch Lục Tuyệt vừa đến, Quân Sơn liền náo nhiệt lên.

    Lục Tuyệt tuy là anh em ruột nhưng tướng mạo mỗi người một khác. Sáu người chia nhau lấy tên là Long, Hổ, Anh, Hào, Tuấn, Kiệt. Lão đại Công Tôn Long què chân, lão nhị Công Tôn Hổ lưng gù, lão tam Công Tôn Anh chột mắt, lão tứ Công Tôn Hào sứt môi, lão ngũ Công Tôn Tuấn mũi tẹt, lão lục Công Tôn Kiệt là người có nghi biểu khá hơn hết, song lại có đôi tai to đặc biệt.

    Sáu anh em đó nếu đổi lại là Trường Bạch Lục Tàn thì có lẽ phù hợp hơn.

    Thế nhưng, qua sự tiếp đón ân cần của Đỗ Môn tú sĩ đã dành cho họ, chứng tỏ về mặt võ công nhất định không kém hơn Tứ Đại Kim Cang.

    Đúng như Đỗ Môn tú sĩ đã nói, sáu anh em này ngoài việc giết người, sở thích của họ chỉ có hai thứ:

    rượu và đàn bà.

    Sau khi sáu người đặt chân đến Quân Sơn, việc đầu tiên là bắt thăm để quyết định thứ tự hưởng dụng Thủy Hỏa Song Cơ. Kết quả, lão tam Công Tôn Anh bắt được Thủy Cơ Tam Nguyên Nương, lão tứ Công Tôn Hào bắt được Hỏa Cơ Giải Y Lôi.

    Hai người khoái trá cười vang, nốc rượu lia lịa để chúc mừng. Bởi quá hân hoan, một ấm rượu chỉ uống được nửa phần, nửa phần kia thảy đều trút hết ra ngoài...

    Thấm thoát bốn ngày lại qua đi. Trường Bạch Lục Tuyệt nhất là lão tam Công Tôn Anh và lão tứ Công Tôn Hào không ngớt đòi kéo đến Nhạc Dương, cùng Thiên Ma Giáo quyết một phen sống mái.

    Đỗ Môn tú sĩ không sao giải thích được việc lao sư động chúng với bọn ma vương sát nhân đó, đành dùng rượu và mỹ nhân vỗ về họ.

    Lục Tuyệt bởi thèm muốn Thủy Hỏa Song Cơ từ lâu, nên đã mất hứng thú đối với bọn mỹ nữ bên cạnh. Đỗ Môn tú sĩ chẳng còn cách nào hơn, đành nói với bọn họ là những người có mặt tại Nhạc Dương thảy đều là hạng hộ pháp tam kỳ, Tam Hồ và Song Cơ đều chưa thấy lộ diện, Lục Tuyệt mới chịu tạm yên.

    Trong những ngày như trước lúc dông bảo kéo đến ấy, kẻ bận rộn nhất tại Quân Sơn phải kể là phó giáo chủ Tụ Thủ Thần Y Thi Đức Tu.

    Hằng ngày lão đều phải nấu thuốc cho Đỗ Môn tú sĩ, lại phải trông nom Hoa Hoa công tử. Cho dù Đỗ Môn tú sĩ đã có bảo là chỉ cần dùng phương pháp trì hoãn đối với Hoa Hoa công tử, không nên chữa cho phục nguyên quá nhanh, song Kim Hoa Ma tính nóng như lửa. Nếu sau khi đã uống vào ba thang thuốc mà bệnh tình chẳng chút thuyên giảm, lỗ tai của lão cũng khó thể yên tĩnh. Do đó, lão đành phải trổ ra chút chân tài.

    Đối với Tụ Thủ Thần Y, điều ấy chẳng có gì là khó. Bảy tám ngày sau, Hoa Hoa công tử đã có thể ăn uống nhiều hơn và xuống giường đi lại, có điều chưa thể vận khí hành công mà thôi.

    Kim Hoa Ma thấy vậy hết sức vui mừng, để tỏ lòng cảm kích, lão đã vỗ ngực hứa khi nào đôi bên giao chiến, lão sẽ dự trận tiên phong cho dù táng mạng cũng chẳng hối tiếc.

    Chứng bệnh của bản thân Đỗ Môn tú sĩ dự định phải uống năm thang thuốc, ba ngày đổi một toa khác, sau nửa tháng sẽ ngưng thuốc khỏi bệnh.

    Sáng hôm ấy, khi Đỗ Môn tú sĩ vừa uống xong chén thuốc thứ tám, Tụ Thủ Thần Y thấy trong nhà không người, bèn khẽ hỏi:

    – Mấy hôm nay cảm thấy thế nào?

    Đỗ Môn tú sĩ cười bẽn lẽn gật đầu:

    – Đã có chút phản ứng rồi...

    – Đó là một giai đoạn trọng yếu, mong giáo chủ hãy cố gắng kềm chế, không nên hấp tấp kẻo bao công sức tiêu tan...

    Đỗ Môn tú sĩ vội gật đầu:

    – Tiểu đệ biết rồi!

    Ngay khi ấy bỗng Thần Hành Vô Ảnh Thái Công Minh tay cầm một phong thư đi vào.

    Đỗ Môn tú sĩ liền hỏi:

    – Phía Nhạc Dương đã gửi về phải không?

    – Vâng!

    – Người mang thư đã ra về chưa?

    – Không thấy người mang thư, đây là do một võ sư tuần tra đã nhặt được bên bờ hồ.

    Đỗ Môn tú sĩ chau mày, như có vẻ không vui vì việc canh phòng chểnh mảng, song cũng chẳng nói gì, đón lấy phong thư xé ra xem.

    Chỉ thấy trong thư viết là:

    “Thư gửi Ôn đại giáo chủ, được biết đại giáo chủ tuy mang danh là đấng tu mi nhưng không phải nam tử trượng phu, tự hiệu Đỗ Môn thật đáng hổ thẹn. Xưa nay ma đạo bất lưỡng lập, bổn giáo đã đưa hết toàn bộ lực lượng đến Nhạc Dương để chuẩn bị nhất chiến, đại giáo chủ cớ sao vẫn chưa thấy lộ diện? Nay hạn kỳ ba hôm, đến lúc ấy nếu không thấy pháp giáo, sẽ bêu xấu tôn giá khắp thiên hạ, xin chớ tự chuốc nhục vào thân. Thiên Ma Giáo chủ Vi Sĩ Lôi, Thường Vân Sanh, Vu Mã Ngũ Lang đồng khải!”.

    Đỗ Môn tú sĩ xem xong, sắc mặt thoạt đỏ thoạt trắng, thầm nghiến răng không ngớt. Người lão căm hận không phải Cửu Cung Tam Hồ mà là người đàn bà dâm tiện Hỏa Cơ Giải Y Lôi.

    Lão thật chẳng bao giờ ngờ y thị lại mặt dày mày dạn đến vậy, ngay cả cái điều bỉ ổi thế kia mà cũng đi nói với Tam Hồ.

    Nghĩ đến đây, Đỗ Môn tú sĩ không khỏi vô cùng hối hận, lão hối hận vì khi bắt được Hỏa Cơ đã không giao cho Trường Bạch Lục Tuyệt ngay.

    Thần Hành Vô Ảnh trố mắt hỏi:

    – Trong thư đã nói gì vậy?

    Đỗ Môn tú sĩ tiện tay xé nát lá thư, cười khẩy nói:

    – Ngoài cái trò khiêu chiến định kỳ, còn có được trò mới lạ gì nữa?

    – Hạn định vào lúc nào?

    – Trong vòng ba hôm!

    – Tại đâu?

    – Nhạc Dương!

    – Giáo chủ định trả lời họ thế nào?

    – Không thèm đếm xỉa đến!

    Thần Hành Vô Ảnh ngẩn người, song liền gật đầu nói:

    – Phải rồi, dĩ bách biến ứng vạn biến. Nếu bọn họ có giỏi thì cứ kéo đến đây xem thử!

    Đỗ Môn tú sĩ ngẩng lên:

    – Bức thư này đã nhặt được ở đâu, Thái huynh hãy đi điều tra xem, rồi sau đó mang người trực canh tối qua giao cho võ sư chấp pháp tra hỏi thật kỹ xem có sự thông đồng hay không?

    Thần Hành Vô Ảnh gật đầu, quay người lui ra.

    Ba hôm nhanh chóng qua đi, Cửu Cung Tam Hồ chờ ở Nhạc Dương thấy phía Quân Sơn không có phản ứng, trưa ngày thứ tư lại phái người mang đến một phong thư.

    Phen này sứ giả đưa thư đã đến một cách công khai, trang phục và thuyền đều giống như ngư dân mà phía Thiên Đạo Giáo đã phái đến Nhạc Dương.

    Khi võ sư canh phòng nhận lấy thư, phát giác có điều khác lạ thì thuyền đối phương đã quay mũi lướt đi như bay.

    Bức thư thứ nhì viết là:

    “Đỗ Môn tú sĩ họ Ôn, các hạ đã rụt cổ như rùa, không dám thò đầu ra, phải chăng 'lòng có thừa mà sức chẳng đủ'? Chỉ uổng có bề ngoài, thật là đáng tiếc! Qua việc đưa thư chứng tỏ các hạ phải biết Quân Sơn đã không còn là nơi độc bá nữa. Nay kỳ hẹn thêm ba ngày nữa, mong hãy suy nghĩ cạn kẽ để tự giữ mình, một khi 'thiên đạó đổi lại là “thiên thiên”, mỹ danh vang truyền khắp thiên hạ đó chẳng phải do lỗi bọn này, xin hãy nhớ lấy! Tri danh bất chú.”.

    Đỗ Môn tú sĩ xem xong bức thư thư nhì này, đanh mặt trầm ngâm hồi lâu, khóe môi bỗng hé nở một nụ cười hiểm độc.

    Lão ngẩng lên nhìn vị võ sư đưa thư khoát tay nói:

    – Hãy đi mời Đa Nhục Cương Thi Thân Nhật Phú sư phụ đến đây!

    Lát sau, Đa Nhục Cương Thi Thân Nhật Phú người đã từng là Huỳnh kỳ hộ pháp trong Nga Mi Đao đường của Thiên Ma Giáo, nay là huỳnh kỳ võ sư Thiên Đạo Giáo, được triệu đến.

    Đỗ Môn tú sĩ hỏi:

    – Thiên Hồ Vi Sĩ Lôi có một nghĩa nữ tên là Vưu Thu Hoa phải không?

    Đa Nhục Cương Thi cung kính đáp:

    – Dạ vâng!

    – Thiên Hồ có thương yêu ả nghĩa nữ đó không?

    – Hết sức thương yêu.

    – Theo Thân sư phụ thì ả ta phen này có theo Tam Hồ đến Nhạc Dương không?

    – Có lẽ có!

    – Dựa vào đâu?

    – Ả nha đầu ấy võ công cao cường, là một Huỳnh kỳ hộ giáo xuất sắc duy nhất còn lại trong giáo. Hiện nay giang hồ tam kỳ chẳng còn được mấy người, chẳng lý gì lại không đến.

    – Nhan sắc ả ta ra sao?

    – Khá xinh đẹp!

    – Còn đức tính?

    – Rất hờ hững về quan hệ nam nữ.

    – Ồ!

    – Nhưng y thị lại có một cái tật khá đặc biệt!

    – Tật gì?

    – Thích ăn tim người!

    Đỗ Môn tú sĩ kinh ngạc:

    – Một ả nha đầu trẻ tuổi thế kia, từ đâu mà tiêm nhiễm cái tật ấy?

    Đa Nhục Cương Thi mỉm cười:

    – Thuộc hạ không rõ. Chỉ biết là y thị mỗi tháng phải ăn ít nhất là hai lần tim người và cách ăn mỗi lần một khác.

    – Nếu không ăn thì sao?

    – Thì cảm thấy toàn thân bải hoải và hay cáu kỉnh, nếu lâu ngày sẽ sinh bệnh thật sự.

    (mất trang, tập trang -) Thần Hành Vô Ảnh Thái Công Minh đến hỏi về tình hình tăng cường sự bố phòng sau đó đi đến chỗ hai cha con Kim Hoa Ma.

    Trong phòng Kim Hoa Ma, ngoài Tụ Thủ Thần Y tại tọa, còn có hai võ sư đang đứng, họ chính là Tả Thủ Thần Kiếm Chu Tử Minh và Bát Thủ Nhân Viên Khổng Nghĩa Dương được rút từ Tứ Hải tiêu cục ở Huê Dung về.

    Tụ Thủ Thần Y như đang dặn dò gì đó với hai người, thấy Đỗ Môn tú sĩ đi vào, liền nói:

    – Giáo chủ đến thật đúng lúc...

    Đỗ Môn tú sĩ nhẹ gật đầu:

    – À, việc gì vậy?

    – Bệnh của Thích công tử còn thiếu hai món dược liệu, lão phu định phái họ đi một chuyến, và vừa định phái người đi mời giáo chủ đến bàn bạc...

    – Sao lại phải phái họ, phái hai hắc y võ sư không được sao?

    – Lão phu đã hỏi thăm trước rồi, chỉ họ hai người một đến từ Hoa Sơn và một đến từ Long Môn, quen đường thuộc lối hơn.

    Đỗ Môn tú sĩ gật đầu:

    – Vậy thì phái họ đi là phải!

    Thấm thoát ba ngày lại trôi qua. Tứ Đại Kim Cang đã không phụ kỳ vọng của Đỗ Môn tú sĩ, vào tối ngày thứ tư, họ đã gáp giải Lãnh Nguyệt Tiên Tử Vưu Thu Hoa đến Quân Sơn.

    Đỗ Môn tú sĩ mừng khôn xiết, vội đến gặp Tụ Thủ Thần Y.

    Hai chính phó giáo chủ chẳng rõ đã to nhỏ gì với nhau, sau cùng chỉ thấy Tụ Thủ Thần Y vuốt râu suy nghĩ một hồi, đoạn gật đầu nói:

    – Không còn trở ngại gì đâu, miễn là...

    Đỗ Môn tú sĩ vội tiếp lời:

    – Điều ấy tiểu đệ biết, tiểu đệ cũng đâu phải thật sự có hứng thú với ả ta. À, xem này, ngay cả thư từ tiểu đệ cũng đã viết xong rồi đây.

    Tụ Thủ Thần Y đón lấy xem, chỉ thấy viết:

    “Thư gửi Tam Hồ, thật hết sức có lỗi đã phúc đáp chậm trễ. Ôn mỗ có phải bậc nam nhi trượng phu hay không, Vưu cô nương của quý giáo có thể chứng minh cho.

    Nếu việc này được công bố khắp thiên hạ, Ôn mỗ thật vô vàng cảm kích. Tục ngữ có câu 'nhất dạ phu thê bách dạ ân'! Vưu cô nương không hề bị tổn thương, giải khai huyệt đạo là sẽ vô sự. Cẩn bút!”.

    Tụ Thủ Thần Y xem xong gật đầu nói:

    – Có lẽ đây chính là sự báo ứng về việc thích ăn tim người của ả nha đầu ấy, nếu ngày mai thả ả ta về thì càng hay.

    Đỗ Môn tú sĩ hớn hở rời khỏi. Tụ Thủ Thần Y chống cằm suy tư một hồi. Bỗng từ dưới gầm giường kéo ra một chiếc rương mây, lấy vài quyển sách dược và một số dược liệu quý bỏ vào rương, sau đó vội vã đi đến chỗ ở của Thần Hành Vô Ảnh Thái Công Minh.

    Thần Hành Vô Ảnh thấy Tụ Thủ Thần Y bỗng đến vào lúc đêm khuya thế này, không khỏi kinh ngạc hỏi:

    – Đã xảy ra việc gì vậy?

    Tụ Thủ Thần Y thấp giọng:

    – Thái huynh có biết là tên đồ đệ của Song quái lại bị chúng ta bắt về rồi không?

    – Thật ư? Người hiện ở đâu?

    Tụ Thủ Thần Y hối hả:

    – Đương nhiên là thật, người hiện đang ở thành Lăng Ky, do Tứ Đại Kim Cang đã bắt được. Bởi Thiết Can Kim Cang hạ thủ quá nặng nên tiểu tử ấy thọ thương chẳng nhẹ, giáo chủ bảo hai ta đến đó chẩn trị và nhân tiện đưa tiểu tử ấy về Quân Sơn.

    – Giáo chủ đâu?

    – Chẳng rõ Duẫn sư phụ đã tìm đâu được một ả cô nương mang về, xem ra rất có khả năng trở thành tân nương. Này, nhanh một chút được không?

    – Được rồi, được rồi! Để lấy bộ cờ mang theo đã!

    Hai vị phó giáo chủ đương nhiên là thông hành không bị ngăn cản. Tuy vậy vẫn có một võ sư trực canh.

    Sau khi hai người đi qua một chốt canh ngầm, y đã lén lút vào cung dưới lòng đất định báo cáo với Đỗ Môn tú sĩ.

    Thế nhưng, tên võ sư ấy sau cùng đã bị một võ sư khác cản lại ở bên ngoài phòng Đỗ Môn tú sĩ.

    Võ sư kia nói:

    – Giáo chủ uống thuốc xong vừa mới ngủ, bất luận việc gì cũng phải đợi đến ngày mai hãy báo. Kể cả việc Thiên Ma Giáo kéo đến tấn công cũng không ngoại lệ!

    Thế là Tụ Thủ Thần Y và Thần Hành Vô Ảnh đã thuận lợi lên được một chiếc thuyền nhỏ. Thần Hành Vô Ảnh lập tức lấy cờ ra đòi chơi suốt đêm.

    Trong lúc chơi cờ, Tụ Thủ Thần Y ngẩng lên cười hỏi:

    – Có một điều Thi mỗ đã muốn thỉnh giáo Thái huynh từ lâu, chẳng hay Thái huynh có thể kiến cáo chăng?

    Thần Hành Vô Ảnh buột miệng:

    – Điều gì?

    Tụ Thủ Thần Y mỉm cười:

    – Giữa Thái huynh với Thiên Sơn Tam Nghĩa thật ra vì lẽ gì mà thế bất lưỡng lập như vậy?

    Thần Hành Vô Ảnh khoát tay:

    – Thôi, lo chơi cờ đi!

    Tụ Thủ Thần Y cười:

    – Thật ra dù Thái huynh không nói thì Thi mỗ cũng đã biết, bây giờ chẳng qua là muốn Thái huynh chứng thực đó thôi.

    Thần Hành Vô Ảnh trợn to mắt:

    – Ai nói vậy?

    – Giáo chủ!

    – Ồ! Giáo chủ... đã nói sao?

    – Giáo chủ bảo Thái huynh vốn là một thư đồng trong nhà Thiên Sơn lão nhân, sư phụ của Tam Nghĩa. Về sau bởi có việc không trong sạch với một thị nữ, đã bị Thiên Sơn lão nhân quở phạt, Thái huynh ôm hận trong lòng. Vào một đêm thừa lúc Tam Nghĩa đi vắng, đã lén phóng hỏa đốt nhà, và trước khi bỏ đi còn lấy theo một quyển bí kíp khinh công, cho nên Tam Nghĩa về mặt võ công thành tựu tuy cao, song khinh công thì lại kém xa Thái huynh. Đồng thời vì Thiên Sơn lão nhân bấy giờ tuổi đã quá cao, đã bị thiêu chết trong biển lửa. Từ đó, Tam Nghĩa đã thề quyết một ngày còn sống ắt sẽ chính tay hạ sát Thái huynh, hầu tạ ơn ân sư dưới chốn suối vàng. Giáo chủ còn nói, trong những năm qua, sở dĩ Thái huynh có thể trốn khỏi tai mắt của Tam Nghĩa là bởi Thái huynh thật sự không phải họ Thái mà là họ Hô Diên...

    Thần Hành Vô Ảnh mặt đỏ bừng, đập bàn quát:

    – Tại sao bây giờ lại đi bươi móc những việc ấy chứ?

    Tụ Thủ Thần Y hay tay xua lia lịa:

    – Thôi được, thôi được! Không nói nữa, không nói nữa! Chơi cờ tiếp đi!

    Thuyền cặp bờ vào lúc trời hừng sáng. Hai người sau khi lên bờ, Tụ Thủ Thần Y đi trước dẫn đường đến một tiệm tạp hóa.

    Thần Hành Vô Ảnh ngạc nhiên hỏi:

    – Tứ Đại Kim Cang chẳng phải ở gần Tam Quan miếu hay sao?

    Tụ Thủ Thần Y cười bí ẩn:

    – Thiên Ma Giáo tai mắt nhạy bén đâu kém gì bổn giáo, sao lại có thể ở mãi một nơi được chứ?

    Bởi trời mới mờ sáng, tiệm tạp hóa ấy vẫn chưa mở cửa.

    Tụ Thủ Thần Y bèn tiến tới, co ngón tay gõ lên cửa theo ám hiệu. Sau đó lại chờ thêm một hồi nữa, bên trong vẫn không hề có tiếng đáp lại.

    Thần Hành Vô Ảnh thắc mắc hỏi:

    – Thi huynh không nhớ lầm chứ?

    Tụ Thủ Thần Y lắc đầu quả quyết:

    – Không thể lầm được, đúng là nhà này.

    Vừa dứt lời, cửa tiệm đang im lìm bỗng mở toang ra.

    Thần Hành Vô Ảnh ngẩng lên nhìn, liền tái mặt thoái lui, thảng thốt nói:

    – Nguy rồi! Thi huynh, chúng ta đã bị mắc lừa...

    Thì ra người vừa xuất hiện nơi cửa chính là Bách Biến Chưởng Ngôn Cập Nghĩa, lão tam trong Thiên Sơn Tam Nghĩa.

    Chỉ nghe sau lưng có tiếng cười hề hề nói:

    – Không, Thái phó giáo chủ, kẻ mắc lừa chỉ có một mình tôn giá chứ không phải chúng ta!

    Thần Hành Vô Ảnh quay phắt lại nhìn, lập tức hồn phi phách tán.

    Vị Tụ Thủ Thần Y đứng phía sau tay vẫn xách rương thuốc, song gương mặt thì bỗng chốc đã trẻ đi mấy mươi tuổi, và gương mặt ấy chẳng chút xa lạ đối với Thần Hành Vô Ảnh, đó chính là Do Nhân Kiệt.


  10. #49
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi kết

    Dông Tố Qua Đi Trời Lại Sáng
    Thần Hành Vô Ảnh cắn răng, vừa định liều mạng kháng cự thì cánh tay của Bách Biến Chưởng đã đặt lên bả vai lão, muốn động thủ thì cũng đã muộn rồi.

    Bắt giam Thần Hành Vô Ảnh xong, Do Nhân Kiệt hỏi:

    – Hoa Sơn tả thủ thần kiếm Chu hiệp và Long Môn bát thủ nhân viên Khổng hiệp hai vị ấy đã tìm đến đây chưa?

    Bách Biến Chưởng gật đầu:

    – Rồi! Hai người đều bảo sớm đã nhận thấy bộ mặt đạo đức giả của Đỗ Môn tú sĩ, chỉ khổ nổi nhất thời không sao thoát thân được, họ chẳng thể nào ngờ Tụ Thủ Thần Y lại do ngươi giả mạo. Sau khi lên thuyền, nhận được mảnh giấy viết của ngươi đưa đến, thật vui mừng và cảm kích khôn tả.

    – Còn Tố Liên?

    Bách Biến Chưởng cười:

    – Ả nha đầu ấy hả? Ả ta đã mắng chửi ngươi rất là thậm tệ!

    Do Nhân Kiệt cười bông đùa:

    – Mắng chửi “Nhân Kiệt ca ca” hay là “lão tặc râu dài trời đánh”?

    Hai người cùng cười phá lên.

    Trong sương phòng có người giọng ngái ngủ phàn nàn:

    – Này, trời chưa sáng, nói khẽ một chút được không?

    Do Nhân Kiệt ngạc nhiên:

    – Ồ, có phải...

    Bách Biến Chưởng cười lớn tiếng nói:

    – Này, kẻ mà ngươi muốn đánh đã đến rồi đây, hãy ra đánh mau!

    Người trong phòng “à” một tiếng, theo sau lại “ầm” một cái như là từ trên giường lăn xuống, rồi thì cửa bật mở, một người cao to lực lưỡng chạy ra, chính là Hà Đại Bảo.

    Do Nhân Kiệt đứng lên cười nói:

    – Xin lỗi! Xin lỗi! Báo hại Hà đại ca đã hoài công một chuyến đến Ba Đông.

    Hà Đại Bảo đến gần, đấm mạnh một quyền vào vai chàng, toét miệng cười nói:

    – Đòi đánh chỉ là trong lúc tức giận thôi. Huynh đệ, mỗ vừa đến đây là hiểu hết mọi sự ngay. Lão đệ tốt lắm, bây giờ thì chúng ta đã hoàn toàn tự do rồi.

    Bị y la ó lên thế này, cả hậu viện thảy đều thức giấc. Những người lần lượt xuất hiện gồm có Tiêu Dao Thư Sinh, Kim La Hán, Kỳ Chính Thủ, Tả Thủ Thần Kiếm, Bát Thủ Nhân Viên, Hồ Hạt Tử, Dương Đại Ma, chỉ thiếu mỗi Thiên Sơn Hắc Y Hiệp Trịnh Tráng Vi.

    Do Nhân Kiệt thấy những người thân quen đã tụ hợp gần đầy đủ, hết sức vui mừng, lần lượt chào hỏi xong, chàng nhìn ân sư hỏi:

    – Còn Trịnh hiệp đâu?

    – Đã đến Nhạc Dương rồi!

    – Để xem xét động tĩnh đôi bên ư?

    Tiêu Dao Thư Sinh gật đầu, đoạn hỏi chàng về quá trình trở lại Quân Sơn vừa qua.

    Do Nhân Kiệt kể lại xong, Tiêu Dao Thư Sinh gật đầu nói:

    – Phen này ngươi đã cứu được Tố Liên và mời đến Chu hiệp và Khổng hiệp, đồng thời còn lừa bắt được Thái Công Minh. Chủ yếu cũng nhờ vào sự hợp tác của Thi Đức Tu, đủ thấy họ Thi đã có lòng hối cải. Chỉ cần lão ta cứu sống một ngàn người đúng như lời đã hứa, sau này hãy để yên cho lão ta được rồi.

    Tại Quân Sơn, Đỗ Môn tú sĩ sáng hôm sau nghe bảo hai vị phó giáo chủ đã đang đêm bỏ đi, nhất thời tột cùng hoang mang, chẳng thể nào hiểu ra được nguyên nhân.

    Lão bình tĩnh phân tích, Tụ Thủ Thần Y là do lão đã mạo hiểu cứu về, đâu lẽ nào lại quay về với kẻ địch.

    Bằng chứng mạnh mẽ nhất là nếu Tụ Thủ Thần Y có mưu đồ gì khác, lẽ ra là phải giở trò trong thuốc, vậy mà sự thật lại trái ngược. Tụ Thủ Thần Y đã hết sức nhiệt tình chữa khỏi chứng bệnh thầm kín lâu năm cho lão.

    Tụ Thủ Thần Y có thể nào chạy sang phía Thiên Ma Giáo chăng? Điều này càng không thể có.

    Sáng nay lão đã phóng thích Lãnh Nguyệt Tiên Tử Vưu Thu Hoa về Nhạc Dương, phía Thiên Ma Giáo không cần hỏi cũng biết chứng bệnh của lão do ai đã chữa khỏi, chạy sang đó khác nào tự chui đầu vào chỗ chết còn gì?

    Còn về Thần Hành Vô Ảnh thì càng đơn thuần hơn, chỉ cần rời khỏi Quân Sơn, bất luận gặp Thiên Ma Giáo hay Thiên Sơn Tam Nghĩa đều chỉ có một con đường chết mà thôi.

    Đỗ Môn tú sĩ xưa nay vốn tự phụ túc trí đa mưu, phen này kể như hoàn toàn bế tắc, lão hỏi hai nàng hầu họ đều bảo là không biết. Lại hỏi những chạm gác bên ngoài, mọi người đều nói như nhau, bảo hai người đi rất ung dung, cười nói vui vẻ, chẳng người nào có vẻ bị đối phương uy hiếp cả.

    Sau cùng hỏi chiếc ngư thuyền đã chuyên chở hai người, ngư gia ấy nói bởi hai người đều là phó giáo chủ nên đã không hề sinh nghi, chỉ biết là họ đã chong đèn chơi cờ trong khoang thuyền, thỉnh thoảng có cãi nhau vài tiếng, rồi lại hòa thuận. Sau cùng đã lên bờ gần thành Lăng Ky, lúc rời khỏi thuyền cũng chẳng có hiện tượng gì khác lạ.

    Việc hai phó giáo chủ đi mất, nghiêm khắc mà nói, sự tổn thất đối với Thiên Đạo Giáo cũng không nghiêm trọng lắm, bởi võ công của họ rất giới hạn, không đương cự nổi với bất kỳ người nào trong Tứ Đại Kim Cang hoặc Trường Bạch Lục Tuyệt.

    Vấn đề nan giải của Đỗ Môn tú sĩ hiện giờ là biết ăn nói thế nào với Kim Hoa Ma đây?

    Hiện nay, hai cha con Kim Hoa Ma là một lực lượng chẳng thể xem thường.

    Ngoài pho Huyết Hoa Chưởng của lão ma đã đạt đến trình độ lư hỏa thuần thanh, có thể dùng để đối phó với Thiên Ma Giáo, quan trọng nhất là lão ma còn có một số thuộc hạ đắc lực. Nếu không giành lấy được lão ma thì kể như mất luôn số thuộc hạ ấy.

    Sau cùng lão đã quyết định nói dối một phen, giữ lấy cục diện rồi hẵng liệu.

    Thế là lão một mặt bảo ả nha đầu tên Như Ý theo toa cũ dùng thuốc, một mặt nói với Kim Hoa Ma là vì phía Huê Dung tình hình bất ổn, lão đã phái hai người đến đó, có lẽ mười mấy hôm nữa sẽ trở về. Trước lúc ra đi, Tụ Thủ Thần Y đã có bốc sẵn thuốc để lại, không hề trở ngại đến việc điều trị.

    Sau đó, lão quyết định trong vòng mười ngày sẽ quyết chiến với Thiên Ma Giáo.

    Bởi giấy không thể nào gói được lửa, lời nói dối chỉ có hiệu quả trong nhất thời, lão chẳng thể để uổng phí phần lực lượng của Kim Hoa Ma, cần phải tranh thủ lợi dụng.

    Phía bên kia, Cửu Cung Tam Hồ ở Nhạc Dương khi hay tin Lãnh Nguyệt Tiên Tử mất tích là đã phừng phừng lửa giận, nay người đã trở về, Tam Hồ xem xong thư đối phương, càng thêm ngùn ngụt lửa căm thù, thật muốn xuất binh tấn công ngay, băm vằm Đỗ Môn tú sĩ ra làm muôn mảnh thì mới hả dạ.

    Để khích lệ sĩ khí, Tam Hồ đã thăng chức cho Huyết Kiếm Phiêu Hoa Tiêu Anh, Ngân Tu Tẩu Tôn Tòng Ngô và Tý Ngọ Tẩu Triệu Tử Bân lên làm Huỳnh kỳ hộ giáo.

    Còn Hắc kỳ hộ giáo Đoạt Hồn Kim Tiêu và Phân Vân Chưởng thì được giữ chức đường chủ Kim Bút đường và Huyết Chưởng đường.

    Thất Tinh Kiếm Ngô Văn Khâm và Độc Châm Tam Nương Dương Hoa Lan cũng được thăng từ Huỳnh kỳ hộ pháp lên Hắc kỳ hộ giáo. Hai người phụ trách hiệp trợ cho Thủy Hỏa Song Cơ lo việc tuần tra và chuẩn bị thuyền bè.

    Hôm ấy, Tam Hồ không còn nhẫn nhịn được nữa, vừa định gọi Thủy Hỏa Song Cơ đến để hỏi xem thuyền bè đã chuẩn bị xong chưa, hầu lập tức hạ lệnh tấn công. Bỗng thấy Thất Tinh Kiếm và Độc Châm Tam Nương vội vã đi vào.

    Hai người trao một phong thư cho Tam Hồ, Tam Hồ đón lấy mở ra xem, lập tức đều đứng thừ ra tại chỗ, thì ra đó là một bức địa đồ thành Lăng Ky.

    Trong địa đồ rõ nét hơn hết là Tam Quan miếu, rồi một đường chéo dẫn đến một khoảng trống, chú thích một dòng chữ nhỏ là “Nơi thường xuyên ra vào của kẻ đã bắt cóc Vưu hộ giáo.”.

    Tam Hồ sửng sờ nhìn nhau, bất ngờ đến độ hồi lâu chẳng thốt nên lời.

    Sau cùng, Thiên Hồ Vi Sĩ Lôi cất tiếng hỏi:

    – Cái này ở đâu có vậy?

    Độc Châm Tam Nương vội đáp:

    – Do Diêu cô nương, thị tỳ của Tam đường chủ đã nhặt được trong vườn.

    Thiên Hồ gật đầu:

    – Được rồi, hai người hãy lui ra!

    Hai người đi khỏi, Thiên Hồ quay sang Luyện Hồ và Dâm Hồ hỏi:

    – Theo lão nhị và lão tam, đây có thể là cạm bẫy của Ôn Tư Quảng hay không?

    Dâm Hồ ngẫm nghĩ một hồi, đoạn nói:

    – Tục ngữ có câu thà tin là có, hơn tin là không. Cho dù là cạm bẫy thì chẳng qua cũng chỉ là một cuộc chém giết, đối với chúng ta thì cũng đang mong được như vậy.

    Cho nên, theo tiểu đệ thì không nên để lỡ qua một cơ hội, hãy tức tốc tập hợp lực lượng tấn công ngay đêm nay là hơn.

    Luyện Hồ Thường Vân Sanh gật đầu tiếp lời:

    – Thường mỗ tán thành ý kiến của lão tam!

    Luyện Hồ và Dâm Hồ đã tin, dĩ nhiên Thiên Hồ chẳng có lý do gì phản đối. Thế là quyết định do Luyện Hồ đích thân suất lĩnh Tý Ngọ Tẩu và Ngân Tu Tẩu cùng mười ba vị hộ pháp chia làm ba toán bao vây Tam Quan miếu trước canh hai đêm ấy.

    Huyết Kiếm Phiêu Hoa Tiêu Anh thì dẫn theo ba mươi hộ pháp khác mai phục ở ngoài thành để sẵn sàng tiếp ứng.

    Trời dần tối, trong một gian sương phòng đổ nát phía sau Tam Quan miếu, Tứ Đại Kim Cang đang uống rượu chuyện vãn. Phi Đao Kim Cang Sài Hỏa Liệt đã ngà say, nhất thời cao hứng đã với giọng như chó tru hát lên, nghe hết sức chói tai.

    Thiết Can Kim Cang Tần Thông Thiên chau mày nói:

    – Lão tam, hãy làm ơn buông tha cho mọi người được không?

    Phi Đao Kim Cang càng cao giọng hát thêm một lúc nữa mới chịu ngưng, đoạn quay lại trừng mắt nói:

    – Mẹ kiếp, ngươi có nghe qua điệu hát Tứ Xuyên bao giờ chưa?

    Thiết Can Kim Cang lắc đầu:

    – Tứ Xuyên thì có từng đến, nhưng chưa từng nghe điệu hát Tứ Xuyên bao giờ, bởi Tần mỗ còn muốn sống thêm vài năm nữa.

    Phi Đao Kim Cang hét lên:

    – Ê, tiểu tử, ngươi nói vậy là sao hả?

    Song Kích Kim Cang Vạn Thang cười khuyên giải:

    – Thôi, lão tam đừng nghe lão tứ, y mà biết gì kia chứ? Ta với lão đại thì ưa điệu hát đó lắm. Nào, hãy hát tiếp đi!

    Phi Đao Kim Cang tuy không hát tiếp nữa, song ra chiều rất vui bởi đã có tri âm, quay sang Song Kích Kim Cang hỏi:

    – Lão nhị từng nghe qua điệu hát Tứ Xuyên rồi ư?

    Song Kích Kim Cang cười cười:

    – Tuy chưa từng nghe bao giờ, nhưng lại lĩnh hội được cái hay của điệu hát ấy!

    Phi Đao Kim Cang ngạc nhiên:

    – Ồ, nói nghe thử xem!

    Song Kích Kim Cang hất hàm về phía Hắc Tâm Kim Cang cười nói:

    – Hãy hỏi lão đại xem!

    Phi Đao Kim Cang lại quay sang Hắc Tâm Kim Cang hỏi:

    – Lão đại cũng từng nghe qua điệu hát Tứ Xuyên ư?

    Hắc Tâm Kim Cang Cổ Đồng khẽ hắng giọng:

    – Phải, ta với lão nhị cho rằng cái hay nhất của điệu hát ấy là khi nào ngươi dùng hết hai mươi bốn ngọn phi đao, sau đó chỉ cần cất giọng hát lên, cam đoan kẻ địch sẽ ôm đầu bịt tai bỏ chạy ngay...

    Thiết Can Kim Cang và Song Kích Kim Cang không nén được, cùng cười phá lên.

    Phi Đao Kim Cang tức tối la oai oái nói:

    – Được rồi, được rồi, các ngươi...

    Hắc Tâm Kim Cang bỗng biến sắc mặt, thổi tắt đèn ngay.

    Phi Đao Kim Cang ngớ người, Song Kích Kim Cang cùng Thiết Can Kim Cang cũng liền ngưng cười.

    Ba người vừa định lên tiếng hỏi nguyên nhân, Hắc Tâm Kim Cang đã thấp giọng quát:

    – Hãy tản ra, có bằng hữu tìm đến rồi!

    Trên mái điện phía trước có người cười hăng hắc nói:

    – Đã làm cụt hứng bốn vị thật hết sức có lỗi, hắc hắc hắc!

    Hắc Tâm Kim Cang thấp giọng căn dặn:

    – Lão tam hãy chui qua mái nhà ra ngoài trước, dùng phi đao hạ gục vài tên để bẻ gãy kiêu chí của bọn họ rồi hãy tính!

    Phi Đao Kim Cang liền khẽ nhún mình vọt lên, gỡ ngói chui lên mái nhà.

    Tiếp theo, Hắc Tâm Kim Cang khoát tay, Song Kích Kim Cang và Thiết Can Kim Cang cùng rút binh khí ra, đứng nép vào ngạch cửa, loáng cái lách ra ngoài, đứng dựa dưng vào dưới mái hiên, chầm chậm quét mắt nhìn quanh, xem xét tình thế để phòng bị mai phục.

    Sau đó, Hắc Tâm Kim Cang mới ung dung bước ra khỏi phòng, đi ra giữa sân vườn, ngước lên mái điện lạnh lùng hỏi:

    – Các vị bằng hữu thuộc phe phái nào?

    Luyện Hồ Thường Vân Sanh vừa định trả lời, trên mái dãy phòng phía đông bỗng vang lên hai tiếng rú thảm, rồi thì hai Bạch kỳ hộ pháp từ trên mái nhà lăn xuống như quả cầu xẹp.

    Tiếp theo, Phi Đao Kim Cang lảnh lót cười vang nói:

    – Hãy thò đầu ra đi chứ, các vị bằng hữu!

    Luyện Hồ quét mắt nhìn quanh, đoạn ngoảnh lại quát to:

    – Triệu hộ giáo hãy sang kia canh chừng tên sử dụng phi đao!

    Tý Ngọ Tẩu Triệu Tử Bân được lệnh lập tức cùng hai Huỳnh kỳ hộ pháp tung mình lao về phía Phi Đao Kim Cang.

    Hắc Tâm Kim Cang gật đầu nói:

    – À, thật hết sức vinh hạnh, ra là Thường nhị giáo chủ!

    Một Huỳnh kỳ hộ giáo đứng sau Luyện Hồ là Ngân Tu Tẩu Tôn Tòng Ngô lúc này không chờ dặn bảo, từ trên mái đã phi thân xuống, bởi đối phương đã ám toán trước, chẳng cần phải khách sáo nữa, nên khi chân vừa chạm đất, lập tức vung chưởng công thẳng vào ngực Hắc Tâm Kim Cang.

    Hắc Tâm Kim Cang buông tiếng cười khẩy, ung dung lách người như không có việc gì xảy ra, vẫn ngước lên mái điện bình thản nói:

    – Đêm nay trăng sáng thế này, Thường giáo chủ sao không đích thân xuống đây đùa giỡn vài chiêu xem thử?

    Thái độ ấy đối với Ngân Tu Tẩu quả là một sỉ nhục to tát, vị Huỳnh kỳ hộ giáo này đâu thể chịu nổi, bèn lẹ làng biến chiêu, chòm râu bạc với tà áo cùng tung bay, bỗng triển khai một môn thân pháp kỳ dị, hệt như một chiếc dù xoay tít, phù trùm Hắc Tâm Kim Cang trong bóng chưởng chập chùng.

    Luyện Hồ thấy vậy không ngớt gật đầu, ra chiều hết sức tán thưởng về môn thân pháp của Ngân Tu Tẩu.

    Hắc Tâm Kim Cang kinh ngạc kêu lên:

    – Ủa, lão quỷ thì ra...

    Nhưng bỗng ngưng bặt, bởi nếu mà nói ra “lão quỷ thì ra cũng biết Cửu Cung Mê Hồn Bộ” thì chẳng khác nào cũng cho đối phương biết đó chính là môn sở trường của y.

    Hôm trước sở dĩ y đã xem thường Hắc Thiên Vương Kiều Bán Sơn chính là vì đối phương tuy hung mãnh, nhưng không phá được môn Cửu Cung Mê Hồn Bộ của y, y hoàn toàn chiếm thế thượng phong, có thể hạ thủ kết thúc cuộc chiến bất cứ lúc nào.

    Nay kẻ địch trước mặt cũng biết môn thân pháp này, chỗ dựa kể như đã mất, đành phải phân thắng bại bằng vào võ công thôi.

    Bên kia, Phi Đao Kim Cang thấy Tý Ngọ Tẩu cùng hai hộ pháp với tay không vòng từ bên kia mái điện lao đến, bất giác lại buông tiếng cười lảnh lót nói:

    – Hãy xem đây các vị bằng hữu!

    Vút! Vút!

    Trong tiếng cười, hai ngọn phi đao đã bay ra như tia chớp, nhưng không phải nhắm vào Tý Ngọ Tẩu, mà là Huỳnh kỳ hộ pháp hai bên tả hữu.

    Tý Ngọ Tẩu vội hét to:

    – Thụp đầu xuống mau!

    Song Huỳnh kỳ hộ pháp bên phải vẫn chậm mất một bước, phi đao chớp nhoáng bay qua, một cái tai phải của y đã bị tiện lìa.

    Tý Ngọ Tẩu đứng lại quét mắt nhìn, bỗng khoát tay quát:

    – Các ngươi hãy lui về đi!

    Phi Đao Kim Cang cười nói:

    – Vị lão ca này khá lắm, đó là một hành động thông minh nhất!

    Tý Ngọ Tẩu ngẩng lên lạnh lùng nói:

    – Tôn giá có nhận biết lão phu là ai không?

    Phi Đao Kim Cang thản nhiên ném một ngọn phi đao lên không, ngọn phi đao lộn hai vòng trên không, đoạn đưa tay bắt lấy, ơ hờ nói:

    – Không muốn thỉnh giáo...

    Tý Ngọ Tẩu khẽ buông tiếng cười khẩy:

    – Tốt lắm, nếu tôn giá mà biết lão phu là ai thì đâu còn dám tự phụ về mấy ngọn phi đao hoen rỉ đó nữa!

    Phi Đao Kim Cang trố mắt:

    – Vậy là sao?

    Tý Ngọ Tẩu cười khẩy:

    – Tôn giá sẽ rõ ngay đây!

    Bỗng vung tay, một chòm sáng xanh biếc bay ra!

    Thì ra Tý Ngọ Tẩu này sở dĩ có danh hiệu Tý Ngọ Tẩu, chính à có thủ pháp ném ám khí cực kỳ lợi hại và trên ám khí thảy đều có tẩm kịch độc. Tý Ngọ có nghĩa là từ giờ Tý không qua khỏi được giờ Ngọ.

    Phi Đao Kim Cang đã thành danh nhờ vào phi đao, hai người đều sở trường về ám khí, nên vừa thấy tư thế ném độc đinh của Tý Ngọ Tẩu, biết ngay đã gặp sát tinh, song vì chỗ đứng là trên mái nhà, không dễ tránh né như dưới đất bằng, chớp nhoáng chòm sáng xanh đã bay đến trước mặt.

    Giá mà Phi Đao Kim Cang nhẫn nhịn được, ngửa người thoái lui, thậm chí chẳng quản thọ thương chút ít khi lăn xuống, sau đó hãy tái chiến thì cũng chưa biết thắng bại sẽ về tay ai. Thế nhưng, y lại nghĩ mình dùng phi đao hạ địch, nay lại bị kẻ khác tấn công bằng ám khí, thật là một nhục nhã to lớn, nên dù biết rõ ám khí đối phương có tẩm kịch độc, trong lúc tránh né vẫn gắng sức ném ra một ngọn phi đao.

    Trong tình huống như vậy, đương nhiên phi đao ném ra khó thể chuẩn xác được.

    Thế nhưng, sự đời luôn rất trớ trêu, chính vì ngọn phi đao của Phi Đao Kim Cang không chuẩn xác mà Tý Ngọ Tẩu lại bị táng mạng.

    Thì ra Tý Ngọ Tẩu đã biết rõ đường lối xuất thủ của Phi Đao Kim Cang và cũng biết đối phương là người hiểm độc, trong khi né tránh ắt có phi đao ném ra, nên vừa thấy Phi Đao Kim Cang vung tay, liền tung mình sang phía trái.

    Rốt cuộc, Phi Đao Kim Cang cố nhiên không thoát khỏi chùm độc đinh của Tý Ngọ Tẩu, nhưng Tý Ngọ Tẩu trời xui đất khiến lại phóng ngay vào ngọn phi đao lạc mục tiêu của đối phương, xuyên qua cổ họng chết ngay tức khắc.

    Hai thi thể cùng lao xuống giữa sân, Ngân Tu Tẩu và Hắc Tâm Kim Cang đang kịch chiến đều giật mình kinh hãi, đôi bên dường như đều không ngờ người của đối phương lại lợi hại đến vậy.

    Vì sân vườn không rộng, hai người bắt buộc phải tạm đình thủ dang ra. Ngân Tu Tẩu nhất thời chưa kịp nhận định phương vị, tung mình ngược ra sau, xui khiến sao lại nhằm vào chỗ ẩn thân của Song Kích Kim Cang và Thiết Can Kim Cang.

    Song Kích Kim Cang và Thiết Can Kim Cang đâu chịu bỏ lỡ cơ hội, Song Kích Kim Cang buông tiếng cười khẩy, song kích vuột tay bay ra, sớm hơn cây gậy sắt của Thiết Can Kim Cang một bước, hai mũi kích đều cắm phập vào giữa trán Ngân Tu Tẩu.

    Ngân Tu Tẩu buông tiếng thét vang, vụt quay người gắng sức phóng ra một chưởng, trúng ngay cây gậy sắt của Thiết Can Kim Cang vừa từ phía sau đánh tới.

    Một chưởng này của Ngân Tu Tẩu đã được tung ra trước khi chết, chân lực toàn thân dồn hết vào, kình lực đâu phải tầm thường.

    Thiết Can Kim Cang nhất thời không kềm giữ được, gậy sắt trong tay trầm xuống, “bốp” một tiếng trúng vào đùi mình, xương đùi liền lập tức gãy đôi.

    Luyện Hồ Thường Vân Sanh thấy chỉ chốc lát đã mất đi hai Huỳnh kỳ hộ giáo, không khỏi phừng phừng lửa giận, một tiếng lệnh hạ, tám hộ pháp khác liền cầm binh khí lục đục lao xuống.

    Bản thân Luyện Hồ đón lấy Hắc Tâm Kim Cang, sáu hộ pháp bao vây Song Kích Kim Cang, hai Hắc kỳ hộ pháp còn lại cầm đao lao đến dưới mái hiên, vung đao bổ lia lịa vào Thiết Can Kim Cang đang thọ thương nằm dưới đất, chốc lát đã trở thành một đống thịt nhầy nhụa.

    Luyện Hồ tuy không am tường về Cửu Cung Mê Hồn Bộ, song công lực thâm hậu hơn Hắc Tâm Kim Cang một bậc, nên hai người trong nhất thời khó phân thắng bại.

    Bên kia, bởi nhân số chênh lệch và nhóm hộ pháp Thiên Ma Giáo này lại là những cao thủ được tuyển chọn kỹ lưỡng, nên trận chiến vừa diễn ra thì Song Kích Kim Cang đã bị rơi vào thế bất lực.

    Cũng may là Song Kích Kim Cang về thân pháp khá có hỏa hầu, lượn lách nhanh nhẹn, khiến sáu hộ pháp nhất thời cũng chẳng làm gì được. Tuy nhiên, cục diện rất rõ rệt, nếu thời gian kéo dài, nhất định là sẽ có lợi cho phía Thiên Ma Giáo, điều ấy Hắc Tâm Kim Cang và Song Kích Kim Cang đều hiểu rất rõ. Cho nên hai người tâm ý giống nhau, đều muốn tìm cơ hội thoát thân.

    Luyện Hồ Thường Vân Sanh là đấng giáo chủ chí tôn, vậy mà lại quá lâu không thắng nổi một kẻ không có danh tiếng thế này, không khỏi phừng lửa giận, chưởng thức mỗi lúc càng thêm hung mãnh.

    Hắc Tâm Kim Cang biết lúc này mà không bỏ chạy, e rằng sẽ không còn cơ hội nữa, bèn cũng chẳng thèm lên tiếng kêu gọi, vụt công ra ba chưởng mãnh liệt như là nguy cấp liều mạng, song thực tế là định đẩy lùi Luyện Hồ vài bước hầu thừa cơ thoát thân.

    Luyện Hồ không biết là kế, đương nhiên đâu chịu đánh đỗi tính mạng với đối phương. Ngay khi Luyện Hồ thoái lui, Hắc Tâm Kim Cang tung mình như tên bắn lên mái nhà phía đông, mắt thấy đã sắp thoát thân, nhưng chẳng hiểu sao, Hắc Tâm Kim Cang bỗng buông tiếng chửi rủa, người chao đảo rồi lại phóng trở xuống.

    Luyện Hồ thấy mình cơ hồ mắc lừa càng thêm tức giận, cũng chẳng thèm nghĩ đến vì sao kẻ địch lại quay về, sấn tới vung song chưởng tấn công ngay.

    Hắc Tâm Kim Cang không còn sự lựa chọn nào khác, đành hít sâu một hơi không khí, dồn hết công lực toàn thân vung song chưởng lên nghênh đón.

    “Bùng” một tiếng rền rĩ, Luyện Hồ lùi sau ba bước, ngã ngồi xuống đất, Hắc Tâm Kim Cang thì hai chân rời khỏi mặt đất, bay ra xa chừng tám thước, va vào bờ tường.

    Luyện Hồ Thường Vân Sanh há miệng phún ra một ngụm máu tươi, hiển nhiên đã thọ thương chẳng nhẹ.

    Hắc Tâm Kim Cang vốn chỉ bị chấn động nội phủ, vì sợ chân khí tản lạc nên nhất thời chưa dám động đậy, so thương thế thì không trầm trọng bằng Luyện Hồ.

    Thế nhưng lại bị hai Hắc kỳ hộ pháp vung đao lao đến, chém loạn xạ vào Hắc Tâm Kim Cang, rốt cuộc y cũng nối gót theo sau Thiết Can Kim Cang, trở thành một đống thịt nhầy nhụa.

    Giờ đây chỉ còn lại mỗi Song Kích Kim Cang, lúc này cũng đã thọ thương nhiều chỗ, song so ra chiến quả của y đêm nay là rực rỡ nhất trong số Tứ Đại Kim Cang, vì sáu hộ pháp giáp công đã bị y giết chết hai và một bị đoản kích xuyên thấu qua vai, tuy chưa tắt thở, song cách cái chết cũng chẳng xa lắm.

    Tiếng rú thảm của Hắc Tâm Kim Cang trước lúc chết vọng vào tai Song Kích Kim Cang, hung tính của y liền được khơi dậy, như bỗng chốc xóa bỏ hết mọi sự e ngại, quên mất toàn thân thương tích, cũng quên mất Tứ Đại Kim Cang chỉ còn lại một mình y...

    Song kích tung bay, kỳ chiêu liên hoàn công ra, ba hộ pháp còn lại chỉ thoáng chốc lại một chết một thọ thương, mà toàn thân Song Kích Kim Cang cũng đã bị nhuộm đỏ, trở thành một người máu.

    Hai Hắc kỳ hộ pháp giết chết Hắc Tâm Kim Cang xong, vốn định đến dìu đỡ Luyện Hồ, song Luyện Hồ đã gắng gượng khoát tay, bảo họ đến tiếp tay với Huỳnh kỳ hộ pháp kia.

    Hai người phụng mệnh gia nhập trận chiến. Ngay khi ấy, Song Kích Kim Cang và Huỳnh kỳ hộ pháp kia cùng ngã ngửa ra sau.

    Thì ra trước ngực Song Kích Kim Cang đã bị một ngọn Nga Mi Đao cắm vào, và Huỳnh kỳ hộ pháp kia thì bị đôi đoản kích của Song Kích Kim Cang cắm vào ngực, cán kích hãy còn rung động.

    Một cuộc chiến đẫm máu đến đây đã tạm kết thúc. Tứ Đại Kim Cang thảy đều thảm tử, phía Thiên Ma Giáo cũng chỉ còn lại hai Hắc kỳ hộ pháp và Luyện Hồ đã thọ trọng thương.

    Luyện Hồ gắng gượng đứng lên nói:

    – Ta về đi thôi!

    Đột nhiên trên mái nhà phía đông vang lên tiếng cười to nói:

    – Nếu đi được thì vừa rồi Hắc Tâm Kim Cang đã bỏ đi rồi! Về ư? Thật đáng tiếc, chờ kiếp sau thì có thể được!

    Rồi thì hai bên máinhà cùng xuất hiện mỗi bên một người, phía tây là Hắc Y Hiêp Trịnh Tráng Vi, phía đông là Do Nhân Kiệt ôm bút trước ngực.

    Luyện Hồ Thường Vân Sanh ngước lên thấy Do Nhân Kiệt ôm bút hiên ngang đứng dưới ánh trăng, bất giác lùi sau một bước, trỏ tay thất thanh nói:

    – Ngươi... ngươi... ngươi là...

    Do Nhân Kiệt mỉm cười:

    – Môn hạ Thiên Long, truyền nhân Tiêu Dao, Kim Bút thần hiệp Do tổng tiêu đầu Tứ Hải tiêu cục và cũng từng là Huỳnh kỳ Công Tôn Tiết tổng hộ giáo của quý giáo đây!

    Luyện Hồ thừ ra một hồi, đoạn khẽ thở dài nói:

    – Thế là hết!

    Dứt lời, đột nhiên tay phải vung lên, một chưởng vỗ vào Thiên Linh Cái.

    Hai Hắc kỳ hộ pháp còn vọng tưởng đào tẩu, thấy trên mái điện chính diện không có người, liền tung mình lao về phía ấy.

    Ngờ đâu, hai người chân chưa chạm vào mái ngói, bỗng nghe một tiếng quát to:

    – Cút xuống ngay!

    Liền thì ánh kiếm lóe lên, hai thân người đã bị tiện làm bốn lăn xuống, kể ra tay chính là Tả Thủ Thần Kiếm Chu Tử Minh.

    Do Nhân Kiệt buột miệng khen:

    – Kiếm nhanh tuyệt!

    Tả Thủ Thần Kiếm cười ha hả:

    – Đó chẳng qua là xuất kỳ bất ý thôi!

    Do Nhân Kiệt quét mắt nhìn quanh, đoạn nói:

    – Nhóm hộ pháp do Huyết Kiếm Phiêu Hoa suất lĩnh có lẽ sắp đến rồi, chúng ta hãy tản ra theo kế hoạch hành động, nhớ là sau khi trời sáng, gặp lại nhau ở chỗ cũ, tiểu đệ xin đi trước một bước!

    Sáng hôm sau, khi Huyết Kiếm Phiêu Hoa Tiêu Anh báo cáo tin chẳng lành với Thiên Hồ và Dâm Hồ. Phía Quân Sơn của Đỗ Môn tú sĩ cũng nhận được một phong thư, trong ấy chỉ có bảy chữ “Tứ Đại Kim Cang đã rồi đời”!

    Đỗ Môn tú sĩ đanh mặt ngẩng lên nói:

    – Người đưa thư đã nói sao?

    Võ sư ấy buông thõng hai tay cung kính đáp:

    – Bảo đó là một thiếu niên anh tuấn tay cầm lệnh kỳ phó giáo chủ, dáng vẻ hết sức nghiêm nghị, trao thư xong là quay người bỏ đi ngay.

    Đỗ Môn tú sĩ ngẫm nghĩ một hồi, gật đầu nói:

    – Thôi được rồi, hãy gọi Lục Tuyệt đến đây!

    Lát sau, Trường Bạch Lục Tuyệt đã được gọi đến.

    Đỗ Môn tú sĩ ôn tồn nói:

    – Tứ Đại Kim Cang mới vừa phái người mang thư đến, bảo là Song Cơ đã đến rồi, đó là một tin mừng lớn, sáu huynh đệ các vị quả là có diễm phúc!

    Trường Bạch Lục Tuyệt nhảy cẫng lên reo mừng một hồi, Đỗ Môn tú sĩ lại nói tiếp:

    – Tuy nhiên, các vị phải biết, hai ả dâm phụ ấy là món nghiêm cấm của Dâm Hồ, một ngày Tam Hồ chưa chết, đừng ai hòng...

    Lão tam Công Tôn Anh và lão tứ Công Tôn Hổ tranh nhau nói:

    – Đó thì giáo chủ yên tâm, cái khác thì bọn này không giỏi, còn như nói về giết người phóng hỏa thì đó chính là sở trường của sáu huynh đệ bọn này. Tam Hồ cũng chẳng phải nhân vật ghê gớm gì, đến lúc ấy giáo chủ chỉ cần phái người canh giữ Song Cơ, đừng để cho hai ả trốn mất, cứ giao Tam Hồ cho bọn này thu dọn được rồi!

    Cái mà Đỗ Môn tú sĩ muốn nghe, chính là những lời nói ấy.

    Bởi lão sợ Lục Tuyệt chỉ một lòng tưởng nhớ hai tỷ muội Song Cơ, không có hứng thú với bọn Tam Hồ, giờ nghe vậy dĩ nhiên là vui mừng khôn xiết.

    Bèn nghiêm mặt nói tiếp:

    – Tứ Đại Kim Cang quả cao ngạo khó thành đại sự, kẻ mà bổn giáo chủ thật sự trông cậy vẫn là sáu huynh đệ các vị, nay Song Cơ đã đến Nhạc Dương, việc không nên chậm trễ, bổn giáo chủ định để cho các vị nghỉ ngơi một đêm cho khỏe, ngày mai sẽ đưa các vị qua hồ, mong là mọi người tối nay uống rượu ít một chút, sáng mai thức sớm!

    Lục Tuyệt đồng thanh ưng thuận hớn hở lui ra.

    Về đến chỗ ở, lão ngũ Công Tôn Tuấn nói:

    – Nghe được tin mừng lớn này, huynh đệ chúng ta phải nghĩ cách ăn mừng một phen mới được.

    Lão lục Công Tôn Kiệt gãi chiếc tai to tướng nói:

    – Tiểu đệ đề nghị uống một ly...

    Lão đại Công Tôn Long vội ngăn cản:

    – Không được! Giáo chủ mới vừa căn dặn, bảo chúng ta đừng uống rượu, sáng mai thức sớm đầy đủ tinh thần mới làm việc tốt hơn. Bây giờ mà uống rượu, nếu bị giáo chủ hay biết thì còn ra quái gì nữa?

  11. #50
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Lão nhị Công Tôn Hổ cười hề hề nói:

    – Lão đại đã nghe lầm rồi!

    Lão đại Công Tôn Long thoáng ngẩn người:

    – Nghe lầm gì?

    Lão nhị Công Tôn Hổ cười:

    – Giáo chủ nói là mong mọi người uống ít một chút, chứ đâu phải tuyệt đối không được uống, lão lục đề nghị uống một ly thì đâu có nằm trong điều cấm.

    Lão tam Công Tôn Anh và lão tứ Công Tôn Hổ đồng thanh nói:

    – Đúng, đúng! Uống ít một chút thôi...

    Thế là sáu anh em bắt đầu uống chút chút hết sức chậm chạp, nhưng rốt cuộc với thời gian gấp đôi mọi khi, cả bọn thảy đều say khướt.

    Phía Nhạc Dương, Thiên Hồ Vi Sĩ Lôi đã ra lệnh cho Thất Tinh Kiếm Ngô Văn Khâm và Độc Châm Tam Nương Dương Hoa Lan nội trong một ngày đêm lo liệu xong ba mươi chiếc thuyền to.

    Ba mươi chiếc thuyền to được chia làm ba đội, Thiên Hồ Vi Sĩ Lôi và Dâm Hồ Vu Mã Ngũ Lang đích thân suất lĩnh đội giữa.

    Huỳnh kỳ hộ giáo Huyết Kiếm Phiêu Hoa thì suất lĩnh Độc Châm Tam Nương, Thất Tinh Kiếm, Thần Ưng Ứng Kỳ Xương và Ác Hùng Tuyên Công Nghĩa bốn Hắc kỳ hộ giáo làm tả dực.

    Kim Bút đường chủ Đoạt Hồn Kim Tiêu Tiền Xung Ngô cùng Huyết Chưởng đường chủ Phân Vân Chưởng Tổ Nguyên Bồi làm hữu dực.

    Ngoài ra còn từ trong số hộ pháp tam kỳ chọn ra một trăm năm mươi người sở trường về ám khí, chia ra mỗi thuyền năm người, để bổ khuyết cho việc giao chiến trên mặt nước, bởi trên ba mươi chiếc thuyền, đại đa số không biết bơi lội.

    Lãnh Nguyệt Tiên Tử Vưu Thu Hoa và Thủy Hỏa Song Cơ thì suất lĩnh mấy trăm hộ pháp và hộ đàn còn lại mai phục dọc theo bờ hồ để sẵn sàng cứu viện.

    Phía Thiên Ma Giáo tuy mất một Luyện Hồ Thường Vân Sanh cùng mấy hộ giáo và nhiều hộ pháp, song về nhân số và thanh thế vẫn trội hơn phía Quân sơn. Đỗ Môn tú sĩ nếu không nhờ vào mưu kế chắc chắn thì không phải là đối thủ của Tam Hồ.

    Nay đôi bên đều có lý do riêng, đều buộc phải lập tức quyết chiến một phen mới được. Trong trận chiến này, bên nào thắng sẽ là bá chủ trong chốn võ lâm, nhưng thật ra rồi đây bên nào sẽ thắng?

    Ba mươi chiếc thuyền to rầm rộ tiến về phía Quân Sơn. Trên đường, Thiên Hồ và Dâm Hồ sợ Đỗ Môn tú sĩ nắm được nhược điểm của phía bên này nên đã hạ lệnh hễ gặp thuyền nào đi ngay qua gần đó là đuổi theo giết hết. Tổng kết chỉ trong chặng đường mấy mươi dặm đã có đến hơn trăm ngư dân vô tội bị sát hại.

    Vào lúc hoàng hôn, Quân Sơn đã hiện ra trong tầm mắt.

    Thiên Hồ và Dâm Hồ thấy trời đã tối dần, nghĩ là không thuộc địa hình, chẳng tiện giao chiến ban đêm, bèn hạ lệnh cho ba mươi chiếc thuyền tập trung lại buông neo cách bờ chừng nửa dặm, một mặt phái mấy hộ pháp giỏi bơi lội chia phiên canh gác, đề phòng bị ám toán.

    Nhưng kể cũng lạ, Quân Sơn mọi khi đèn đuộc sáng rực, đêm nay trời vừa tối đã yên lặng như tờ, hệt như một hoang đảo chưa từng có người đặt chân đến.

    Tuy nhiên, Thiên Hồ và Dâm Hồ chẳng chút lấy làm ngạc nhiên, nếu đỗi chỗ cho nhau thì họ cũng làm vậy thôi. Tình thế rất rõ rệt, đối phương lực lượng có hạn, thủ tiện lợi hơn công, cậy vào mai phục thủ thắng, đó là đường lối duy nhất mà đối phương có thể áp dụng.

    Một đêm bình yên vô sự. Hôm sau, nhị Hồ vì thận trọng vẫn không dám mạo muội lên bờ. Sau một hồi bàn bạc, cuối cùng đã quyết định cho ba mươi chiếc thuyền dàn ra tiến dọc theo bờ, vừa để quan sát động tĩnh vừa để tìm nơi thuận lợi lên bờ.

    Nhị Hồ đã định một nguyên tắc, tuyệt đối không tiến vào theo sơn cốc, nơi nào rộng rãi thì lên bờ tại đó, sau cùng họ đã tìm được một nơi như ý muốn.

    Nhị Hồ hạ lệnh cho Thần Ưng Ứng Kỳ Xương và Ác Hùng Tuyên Công Nghĩa cùng vài hộ pháp tinh thông thủy tính mà võ công bình thường ở lại giữ thuyền.

    Lệnh cho Huyết Kiếm Phiêu Hoa, Đoạt Hồn Kim Tiêu, Phân Vân Chưởng, Độc Châm Tam Nương và Thất Tinh Kiếm, chia làm năm toán với hơn trăm hộ pháp bao vây tiến tới, khi nào phát hiện nơi ẩn nấp của địch, lập tức phóng pháo hiệu liên lạc.

    Còn bản thân Nhị Hồ thì cùng vài hộ pháp giỏi về ám khí đứng trên một ngọn núi cao, dùng lệnh kỳ chỉ huy đốc chiến.

    Toán người đi đầu là do Huyết Kiếm Phiêu Hoa suất lĩnh. Đang tiến tới bỗng nghe “vù” một tiếng, một mũi tên lén bay tới, một hộ pháp bên trái lập tức ngã gục.

    Huyết Kiếm Phiêu Hoa giật mình kinh hãi, vội giơ cao tay ra hiệu dừng lại. Y quay người lao đến bên hộ pháp ấy, đang khi xem xét, phía sau lại vang lên một tiếng rú thảm, một hộ pháp bên phải lại trúng tên táng mạng.

    Hai mũi tên đó đã từ đâu bắn ra?

    Các hộ pháp người này nhìn người kia, không một ai biết điểm phát xuất của hai mũi tên kia.

    Huyết Kiếm Phiêu Hoa phi thân lên trên cao, phóng mắt nhìn quanh toàn là người của phía mình, ngoài ra chẳng có một bóng ma nào cả.

    Huyết Kiếm Phiêu Hoa quay sang một hộ pháp đứng gần trầm giọng nói:

    – Hãy đi xin ý kiến giáo chủ, mau!

    Hộ pháp ấy liền tức thì phóng đi về phía ngọn núi chỗ Nhị Hồ đang đứng. Nào ngờ vừa được mấy bước, bỗng chững người, hai tay ôm lấy vùng tim lảo đảo rồi từ từ ngã lăn ra đất.

    Huyết Kiếm Phiêu Hoa tức giận, sau cùng kiên quyết quát:

    – Phóng pháo hiệu!

    Vèo! Bộp! Một luồng sáng lam chói lọt bay vút lên không. Nhưng nào ngờ trong cùng một lúc, xung quanh tiếng lốp bốp liên hồi, bốn luồng sáng lam xuất hiện trên không, thì ra bốn toán kia cũng đều gặp tình trạng như nhau.

    Thiên Hồ và Dâm Hồ đứng trên cao thấy năm nơi cùng lúc phóng pháo hiệu, bất giác chau mày lại, không biết chỉ huy thế nào mới phải.

    Thiên Hồ tức tối lẩm bẩm:

    – Thật không ngờ lão họ Ôn lại khó đối phó hơn Lệnh Hồ Huyền, phen này đã không để Giải phó đường chủ theo cùng thật là thất sách!

    Dâm Hồ bỗng reo lên:

    – Có rồi!

    Thiên Hồ vội hỏi:

    – Có gì vậy?

    Dâm Hồ hớn hở nói:

    – Tiểu đệ nhớ dường như Giải phó đường chủ có nói là lão họ Ôn có một lối ra vào ở sau đại điện một ngôi miếu hoang...

    – Lối ra vào đã không chỉ một chỗ, tìm gặp thì có ích lợi gì?

    – Ít ra cũng biết được địa điểm của tổng cơ quan, sau đó ước lượng địa thế quanh đó, đặt nhiều hỏa dược vào nơi trọng yếu, tiểu đệ không tin là lão họ Ôn còn có thể chui rúc ở trong ấy được.

    Thiên Hồ gật đầu:

    – Hay lắm!

    Dâm Hồ ngẫm nghĩ một hồi, lại nói:

    – Tiểu đệ nhớ Giải phó đường chủ dường như còn có nói, vị trí của ngôi miếu hoang nằm ở đối diện Huê Dung, từ một hạp cốc đi vào...

    Thiên Hồ thoáng ngạc nhiên:

    – Hạp cốc ư?

    Dâm Hồ thấp giọng nói:

    – Hy sinh vài người không thành vấn đề!

    Thiên Hồ ngẫm nghĩ một hồi, đoạn gật đầu nói:

    – Thôi được, đành vậy thôi!

    Thế là Thiên Hồ vung vẫy lệnh kỳ, ra hiệu cho năm toán cùng rút lui. Sau khi tập hợp kiểm điểm, đã mất đi hơn ba mươi người.

    Nhị Hồ bảo mọi người trở về thuyền lại tiếp tục theo bờ hồ mà đi.

    Sau cùng, Dâm Hồ chỉ tay nói:

    – Có lẽ chính là chỗ kia!

    Thiên Hồ hạ lệnh dừng lại, phen này phía Hắc kỳ hộ pháp Thần Ưng Ứng Kỳ Xương và Ác Hùng Tuyên Công Nghĩa dẫn theo hai mươi hộ pháp tiên phong vào cốc.

    Sau đó, phái Độc Châm Tam Nương Dương Hoa Lan dẫn theo mười hộ pháp chia nhau mang cuốc và hỏa dược theo sau toán đầu. Nếu không trở ngại gì, mọi ngươi sẽ tập hợp tại trước ngôi miếu hoang chờ lệnh.

    Ở lại giữ thuyền là Huyết Kiếm Phiêu Hoa Tiêu Anh.

    Sau khi nhóm Ứng Kỳ Xương và Tuyên Công Nghĩa vào cốc, Thiên Hồ và Dâm Hồ lập tức chia nhau cùng Đoạt Hồn Kim Tiêu và Phân Vân chưởng dẫn theo mười mấy người giỏi về khinh công, lên trên hai bên sườn cốc tiến vào.

    Ứng Kỳ Xương và Tuyên Công Nghĩa thận trọng từng bước tiến vào cốc, đi được chừng hơn nửa dặm, hai bên núi bỗng có tiếng rì rầm vang lên rồi thì vô số đá to từ trên lăn xuống thật là kinh khiếp.

    Ứng Kỳ Xương và Tuyên Công Nghĩa đi trước dày dạn kinh nghiệm giang hồ, gặp biến cố đột ngột thế này, tuy hốt hoảng song vẫn cố giữ được bình tĩnh, thấy loạn thạch là từ phía sau rơi xuống, nên liền tức thì tung mình lướt tới trước, quả nhiên không hề bị thương tổn.

    Hai người hộ pháp đi sau bởi khi nãy đã trải qua một phen kinh hoàng, vừa thấy lại trúng mai phục, thảy đều ôm đầu quay người bỏ chạy trở ra.

    Thế là đúng như sự mong muốn của đối phương, kẻ trút đá phía trên chỉ cần có vậy, rốt cuộc những người chạy chậm đa số chỉ bị thương nhẹ, còn những kẻ chạy nhanh thì thảy đều bị đá đè tan xương nát thịt, chết một cách thê thảm.

    Tiếp theo sau phía trên vang lên tiếng cười vang dội, song tiếng cười đắc ý đó thoáng chốc đã trở thành tiếng rú thảm liên hồi và lần lượt từng người bay bỗng lên không, hệt như diều đứt dây rơi xuống sơn cốc.

    Hiên nhiên Thiên Hồ và Dâm Hồ đã dẫn người kịp thời đến nơi.

    Ứng Kỳ Xương và Tuyên Công Nghĩa ngoảnh lại nhìn, chỉ còn năm sáu hộ pháp đã may mắn sống sót, nhưng đa số đều đã thọ thương.

    Cũng may là Độc Châm Tam Nương dẫn theo mười hộ pháp lúc này đều đã đến nơi, thế là hai nhóm nhập vào một tiếp tục tiến tới. Từ đó không còn gặp một sự cản trở nào nữa. Họ thuận lợi ra khỏi hạp cốc, quả nhiên trông thấy một ngôi miếu hoang.

    Trong ba Hắc kỳ hộ giáo, Độc Châm Tam Nương tư cách kỳ cựu hơn, nên tạm thời giữ trách nhiệm chỉ huy.

    Y thị ra lệnh cho Ứng Kỳ Xương và Tuyên Công Nghĩa mỗi người dẫn theo hai hộ pháp đảm trách việc canh phòng, còn bản thân y thị thì lo việc đôn đốc các hộ pháp khác xem xét lại hỏa dược và dụng cụ đào đất, chờ Thiên Hồ và Dâm Hồ đến.

    Lát sau, Nhị Hồ đã dẫn người đến nơi.

    Dâm Hồ Vu Mã Ngũ Lang hạ lệnh:

    – Ứng hộ giáo và Tuyên hộ giáo hãy dẫn theo mười người vào miếu lục soát, chú ý phía sau đại điện, xem xét có nút bí mật gì hay không, nếu có lập tức báo ngay.

    Hai người nhận lệnh, liền cùng mười hộ pháp tay cầm binh khí xông vào trong miếu.

    Lát sau, từ trong miếu vọng ra tiếng quát tháo chém giết nhau ầm ĩ.

    Đoạt Hồn Kim Tiêu kinh hãi la lên:

    – Nguy tai!

    Vừa định xông vào tiếp viện, nhưng Dâm Hồ bỗng trầm giọng quát:

    – Tiềm đường chủ không được vọng động!

    Dâm Hồ vừa dứt lời, tiếng quát tháo trong miếu cũng bỗng im bặt. Sau đó, một người máu từ trong miếu chạy ra, chính là Hắc kỳ hộ giáo Thần Ưng Ứng Kỳ Xương.

    Ứng Kỳ Xương chạy ra đến cửa miếu, chỉ kêu được một câu:

    – Trong miếu có... hắc y...

    Rồi thì ngã úp xuống đất chết ngay.

    Dâm Hồ khoát tay, gằn giọng quát:

    – Tản ra, từ trên cao tiến vào!

    Hơn hai mươi hộ pháp còn lại lần lượt lên, từ bốn phương tám hướng lao vào trong miếu.

    Thế nhưng, trong miếu chỉ có mười mấy tử thi ngổn ngang ở ngoài sân, ngoài ra không một bóng người.

    Dâm Hồ cười khẩy nói:

    – Để xem các ngươi còn lẩn trốn được bao lâu nữa!

    Sau đó dùng tay ra dấu với Độc Châm Tam Nương. Độc Châm Tam Nương hiểu ý, lập tức dẫn theo năm hộ pháp im lìm phi thân xuống sân miếu.

    Các hộ pháp khác không chờ dặn bảo, cùng lấy ám khí cầm, sẵn sàng ra tay.

    Năm hộ pháp phanh chóng triển khai công việc châm hỏa dược, một hộ pháp vô ý chạm vào nút cơ quan, một phiến đá trên bậc thềm bỗng im lìm bật lên.

    Hộ pháp ấy mừng rỡ reo lên:

    – Đã tìm thấy rồi, cơ quan ở đây...

    Vút một tiếng, trong động bỗng bay ra một ngọn phi tiêu, cắt đứt câu nói của y và cũng cướp mất tính mạng của y.

    Độc Châm Tam Nương vụt lướt tới, vung tay ném một nắm độc châm vào trong hang động, bên trong chỉ hự lên một tiếng khô khan rồi thì không còn động tịnh gì nữa.

    Thiên Hồ và Dâm Hồ thấy đã tìm được chỗ ra vào bí mật, không khỏi vui mừng khôn xiết, một mặt ra lệnh bảo nhóm Đoạt Hồn Kim Tiêu canh chừng cửa động, một mặt bảo năm hộ pháp ném hết hỏa dược vào trong động, sau đó ra lệnh lui hết ra ngoài chỉ để lại hai hộ pháp lo việc châm ngòi.

    Lát sau, chỉ nghe một tiếng nổ vang rền như trời long đất lở, tiếp theo một luồng khói đen bốc lên mịt trời.

    Bọn Thiên Ma Giáo cười vang ra chiều hả dạ. Ngay khi ấy, trong đường sơn cốc không xa bỗng có vài bóng người lao đến như tên bắn, bọn ma đồ tưởng là người của đối phương bọc đường khéo léo đến, liền chuẩn bị nghênh chiến. Xong nhìn kỹ thì ra là người nhà, thảy đều thở phào như trút được gánh nặng.

    Thiên Hồ Vi Sĩ Lôi trầm giọng hỏi:

    – Ngoài kia đã xảy ra việc gì?

    Nhóm người mới đến gồm ba người, một hộ pháp hổn hển đáp:

    – Có hai chiếc thuyền nhỏ vừa đến...

    Dâm Hồ đanh mặt tiếp lời:

    – Đừng có cuống lên như vậy, hãy từ từ nói cho rõ ràng, hai chiếc thuyền đó thế nào?

    Hộ pháp ấy điều hòa hơi thở xong nói tiếp:

    – Hai chiếc thuyền đó đều treo cờ Huỳnh kỳ hộ giáo của bổn giáo, Tiêu hộ giáo tưởng là người do phía Nhạc Dương phái đến...

    Thiên Hồ sốt ruột giục:

    – Kết quả thế nào?

    – Tiêu hộ giáo vì thận trọng, tuy nhận ra người đứng trước mũi thuyền rất giống Thần Lực Thái Bảo Tôn Tông Uy hộ pháp Huyết Chưởng đường, song vẫn không cho hai chiếc thuyền đó đến gần. Nào ngờ khi Tiêu hộ giáo đang gạn hỏi họ vì sao lại đến đây, thì thuyền bên này bỗng bốc khói khắp nơi và còn có cả mùi hỏa dược. Sau đó bỗng thấy ba người phóng xuống nước bơi nhanh đến hai chiếc thuyền kia, hai chiếc thuyền kia lập tức giương buồm, xuôi gió đi về phía thành Lăng Ky, bên chúng ta vì phải lo cứu hỏa nên đành phải để mặc họ bỏ đi...

    Thiên Hồ giậm chân lia lịa:

    – Toàn một lũ vô dụng! Ôi!

    Dâm Hồ hối hả hỏi:

    – Kết quả đã bị cháy mất mấy chiếc thuyền?

    Hộ pháp ấy sợ sệt:

    – Lúc chúng thuộc hạ phụng mệnh đến đây báo tin, lửa đang còn cháy lan, hôm nay gió lại to, cũng chưa biết là có thể cứu được bao nhiêu...

    Thiên Hồ không chờ y nói dứt đã khoát tay, dẫn trước phóng đi ra ngoài.

    Khi Thiên Hồ và Dâm Hồ dẫn người ra đến bờ hồ thì trên mặt hồ chỉ còn lại những mảnh ván cháy nám, bập bềnh trôi theo sông nước...

    Số hộ pháp để lại giữ thuyền chẳng phải ít, nhưng tinh thông thủy tính chỉ có vài người, lo được bên này lại không lo được bên kia. Rốt cuộc thảy đều ướt như chuột lột mà cũng chẳng cứu chữa được một chiếc thuyền nào cả.

    Vậy biết làm sao? Hỏa dược, binh khí, áo quần và thực phẩm thảy đều chìm xuống đáy nước, một hai ngày còn tạm có thể cầm cự được, nhưng lâu ngày thì làm sao chịu đựng nổi?

    Hơn nữa, trận nổ vừa rồi chẳng qua chỉ phong bế một lối ra vào cơ quan dưới lòng đất của đối phương, chứ chưa tiêu diệt được toàn bộ lực lượng kẻ địch, trong tình huống này làm sao có thể đương cự nổi?

    Có kẽ bắt đầu oán trách lẽ ra không nên quá tàn bạo đã giết hại những ngu dân vô tội trên đường đến đây, đến đổi bây giờ muốn tìm một người báo tin cũng chẳng có.

    Dâm Hồ Vu Mã Ngũ Lang như chợt nhớ ra gì đó, quay sang Huyết Kiếm Phiêu Hoa hỏi:

    – Vậy kẻ đã nói chuyện với Tiêu hộ pháp có phải đúng là Thần Lực Thái Bảo Tôn Tông Uy hộ pháp của bổn giáo không?

    Huyết Kiếm Phiêu Hoa tức tối đáp:

    – Đương nhiên là không phải!

    – Là thuộc hạ của Ôn Tư Quảng ư?

    Huyết Kiếm Phiêu Hoa lắc đầu:

    – Cũng không giống!

    Dâm Hồ kinh ngạc:

    – Chả lẽ...

    Huyết Kiếm Phiêu Hoa chau mày:

    – Khi ba người đốt thuyền chúng đã leo lên thuyền đối phương, dường như tên đó có nói là “cá mè một lứa, rồi đây để xem các ngươi ai sống dai hơn ai”...

    Dâm Hồ vỗ mạnh vào đầu gối la lên:

    – Trai cò tranh nhau, ngư ông đắc lợi! Vậy là chúng ta đều mắc mưu hai sư đồ lão Tiêu Dao rồi!

    Thiên Hồ thở dài:

    – Đó chính là một sự sai lầm to lớn của chúng ta, trước nay chúng ta cứ nghĩ là họ người ít thế cô, chẳng xem họ vào đâu.

    Huyết Kiếm Phiêu Hoa tiếp lời:

    – Lẽ ra chúng ta nên bắt tay từ chỗ dễ dàng trước, tiêu diệt hai sư đồ Tiêu Dao Thư Sinh rồi hãy tính toán với lão họ Ôn mới đúng.

    Dâm Hồ cười chua chát:

    – Bây giờ nói về việc đó thì còn ích gì nữa!

    Huyết Kiếm Phiêu Hoa đăm mắt nhìn về phía Nhạc Dương lẩm bẩm:

    – Giờ đây chỉ còn trông vào Vưu hộ giáo và hai vị Nga Mi Đao đường chủ thấy chúng ta lâu quá chưa trở về, phái người đến thám thính nữa thôi.

    Còn tình hình phía Nhạc Dương hiện tại ra sao?

    Đỗ Môn tú sĩ dẫn theo Trường Bạch Lục Tuyệt và võ sư lái thuyền vòng đường đến Huê Dung, cải trang xong đang đêm đến Nhạc Dương ngay.

    Hôm sau, sau khi thám thính mới biết Tam Hồ đã mất một, còn Thiên Hồ và Dâm Hồ đã dẫn theo rất nhiều người đi thuyền đến Quân Sơn rồi.

    Sau khi hay tin, Đỗ Môn tú sĩ hết sức thất vọng, nhưng Lục Tuyệt thì trái lại, họ nghe nói nơi đây chỉ còn lại Song Cơ với Lãnh Nguyệt Tiên Tử, ba người đều là nữ nên vui sướng đến nhảy cẫng lên.

    Đỗ Môn tú sĩ sau đó nghĩ phía Quân Sơn có Kim Hoa Ma, Nhất Kiếm Phong Quang và nhóm võ sư Duẫn Đoan Huê, bằng vào những địa đạo kiên cố và phức tạp, nhất thời không đến đỗi thất thủ, giờ đã đến đây rồi cứ nhân cơ hội thuận lợi này càn quét đối phương một phen cũng tốt.

    Lão chỉ lo lắng một điều, đó là khi Trường Bạch Lục Tuyệt đã nắm được trong tay ba nữ nhân kia, phải chăng còn có tinh thần tiếp tục bán sức liều mạng cho lão nữa chăng?

    Tuy nhiên, Lục Tuyệt giờ đã biết tin, dĩ nhiên muốn bỏ qua cũng chẳng thể được, đành bấm bụng cùng Trường Bạch Lục Tuyệt đi ra ngoài thành.

    Một nhóm chín người kể cả hai huỳnh y võ sư giờ đã trở thành những người buôn bán tơ lụa, hai huỳnh y võ sư giả làm xa phu, mỗi người đánh một chiếc xe ngựa, chuẩn bị dùng để chở Thủy Hỏa Song Cơ và Lãnh Nguyệt Tiên Tử.

    Lúc này chừng sau giờ ngọ, nhóm người bước lên Nhạc Dương lầu chiếm lấy một chiếc bàn đặt cạnh cửa sổ, vừa ăn uống vừa quan sát tình hình hoạt động của giáo đồ Thiên Ma Giáo bên dưới.

    Hai huỳnh y võ sư giả làm xa phu thì đi loanh quanh gần đó, định qua những người buôn bán hàng rong dò la hành tung của Thủy Hỏa Song Cơ và Lãnh Nguyệt Tiên Tử.

    Một gã bán táo đã vô ý cho biết Song Cơ và Lãnh Nguyệt Tiên Tử như là đang ở Hồ gia trang, một võ sư liền lên lầu khẽ báo cáo với Đỗ Môn tú sĩ.

    Đỗ Môn tú sĩ gật đầu, thế rồi qua loa ăn uống xong, cùng Lục Tuyệt xuống lầu chia nhau ngồi vào hai chiếc xe ngựa, thẳng tiến Hồ gia trang.

    Hồ gia trang là một thôn nhỏ nằm bên bờ hồ, từ một con đường nhỏ rẽ vào, qua khỏi một chiếc cầu đá mới đến nơi.

    Hai bên con đường nhỏ trồng đầy tầng liễu hết sức râm mát. Xe ngựa đi được một quãng, từ trong bóng râm hai bên đường bỗng phóng ra hai đại hán cầm đao, đứng giữa đường cản hai xe ngựa lại.

    Đó là việc nằm trong dự liệu, doanh trại của hai đại đường chủ và một Huỳnh kỳ hộ giáo dĩ nhiên là phải canh phòng nghiêm ngặt rồi.

    Đỗ Môn tú sĩ ngồi trên chiếc xe đầu thản nhiên vén rèm lên, xòe tay ra, trên lòng bàn tay là một con hồ ly nhỏ bằng vàng hết sức linh động. Đó chính là Kim Hồ Lệnh phù của Dâm Hồ Vu Mã Ngũ Lang.

    Hai hộ pháp Thiên Ma Giáo trông thấy lập tức hạ đao xuống, cung kính thi lễ rồi chia ra ẩn mình sau bóng râm.

    Cứ thế, bằng vào chiếc Kim Hồ Lệnh đó, họ liên tiếp thông qua mọi trạm gác, khi đến đầu cầu thì mới gặp trở ngại.

    Người canh gác nơi đầu cầu là Xú Tỳ Hoàng Mỹ Tư và Dâm Tỳ Diêu Bách Hợp, hai nàng này không như những hộ pháp trước, xem Kim Hồ Lệnh như là thánh thần.

    Xú Tỳ Hoàng Mỹ Tư đến gần đón lấy Kim Hồ Lệnh, xem xét thật kỹ một hồi, sau cùng ngẩng lên trố mắt hỏi:

    – Các vị trực thuộc đường nào?

    – Phân đàn Huê Dung!

    – À, thảo nào chưa từng gặp bao giờ. Còn mấy vị trong xe là thân phận gì?

    – Hộ đàn tam kỳ!

    – Đến đây có việc gì?

    – Phụng lệnh yết kiến hai vị đường chủ có điều cơ mật diện báo.

    Xú Tỳ hết nhìn hai chiếc xe ngựa lại nhìn chiếc Kim Hồ Lệnh trên tay, bởi không thấy có gì khả nghi, đã có ý muốn cho qua.

    Chẳng ngờ Công Tôn Hổ trên xe tưởng là Xú Tỳ có ý làm khó, không nén được lửa giận, buột miệng nói:

    – Mẹ kiếp, người xấu thường gây rắc rối...

    Đỗ Môn tú sĩ định ngăn cản thì đã muộn, thế là đã bại lộ chân tướng. Bởi trong Thiên Ma Giáo, đừng nói chỉ là một hộ đàn thấp bé, ngay như hộ pháp cho đến hộ giáo, dễ thường cũng không dám xúc phạm đến bốn ả thị tỳ này.

    Chỉ thấy Xú Tỳ lập tức biến sắc mặt, vung tay ném chiếc Kim Hồ Lệnh vào mặt Công Tôn Hổ.

    Trong xe chật chội, Công Tôn Hổ không có chỗ tránh né, chiếc Kim Hồ Lệnh liền trúng vào góc trán.

    Xú Tỳ vừa ném ra Kim Hồ Lệnh, liền tung mình trở lên cầu, lớn tiếng nói:

    – Mau đi báo cáo với Vưu hộ giáo, bọn này chẳng tốt lành gì đâu!

    Dâm Tỳ nghe vậy lập tức quay người, phóng như bay vào trong trang.

    Đỗ Môn tú sĩ trầm giọng quát:

    – Ngăn nha đầu kia lại mau!

    Thật ra, trước khi lão lên tiếng, Công Tôn Long đã từ trong xe phóng ra.

    Song thật không may, vị lão đại này bởi chân có tật, tuy võ công cao, nhưng khinh công thì lại không phải là sở trường.

    Kết cuộc đã không ngăn Dâm Tỳ lại được, mà chỉ giam hãm Xú Tỳ trong bóng chưởng quyền phong.

    Mười mấy hộ pháp canh gác trên đường nghe tiếng quát tháo, liền lục tục cầm đao kéo đến.

    Đỗ Môn tú sĩ hết sức rầu rĩ, bằng vào võ công của Lục Tuyệt, phen này tuy không đến đỗi bại, nhưng muốn bắt sống Song Cơ thì e chẳng phải dễ dàng.

    Thế nhưng, Trường Bạch Lục Tuyệt thì chẳng hề bận tâm, sáu anh em họ ngoài rượu và đàn bà, ưa thích nhất chính là việc chém giết.

    Lúc này sáu anh em đều hết sức hăng say, vừa chém giết vừa la hét ầm ĩ.

    Đỗ Môn tú sĩ chưa cho hai người huỳnh kỳ võ sư tham gia vào cuộc chiến, bảo hai người tháo ngựa khỏi xe và dắt ra xa, như chuẩn bị khi khẩn cấp dùng để thoát thân.

    Trường Bạch Lục Tuyệt thần lực quả là bất phàm, chỉ vài hiệp mười mấy hộ pháp đã ngã gục hơn nửa số.

    Xú Tỳ Hoàng Mỹ Tư cũng chẳng phải tay vừa, đã cầm cự đến giờ vẫn chưa táng mạng dưới chưởng lực của Công Tôn Long, vậy không có nghĩa là Công Tôn Long kém cỏi, mà là y thị thật quá thông minh, thấy đối phương hai vai không đều nhau, bèn hiểu ra nhược điểm của kẻ địch, nên y thị đã sử dụng kỹ xảo khéo léo ứng phó, cố kéo dài thời gian hầu chờ chủ nhân đến cứu viện.

    Ngay khi ấy, Thủy Hỏa Song Cơ và Lãnh Nguyệt Tiên Tử đã dẫn theo hơn ba mươi hộ pháp từ trong trang ồ ạt tiến ra.

    Trường Bạch Lục Tuyệt vừa thấy Song Cơ và Lãnh Nguyệt Tiên Tử xuất hiện, liền bỏ mặc mấy hộ pháp đang giao chiến, quay người lao về phía Song Cơ và Lãnh Nguyệt Tiên Tử.

    Thủy Cơ Tam Nguyên Nương đứng lại, sửng sốt kêu lên:

    – Ủa, sáu tên xấy xí kia từ đâu đến thế này?

    Lão đại Công Tôn Long cười hề hề nói:

    – Mỹ nhân ơi, con người không thể xét qua tướng mạo, đừng xem huynh đệ bọn này nghi biểu không ra gì, nhưng công phu khác thì ngàn người mới được một...

    Y bởi cách gần nhất, miệng nói sỗ sàng, một chưởng bức lui Xú Tỳ, quay người lao về phía Thủy Cơ, tay phải vươn ra chộp vào đôi nhũ hoa y thị.

    Sau lưng Thủy Cơ lập tức có hai hộ pháp lao tới, vung đao đón lấy Công Tôn Long.

    Công Tôn Long thấy họ cản trở hành động của mình, liền toét miệng chửi mắng, bỗng lộn nhào xuống đất, hệt như cơn gió lốc lăn đến bên chân một hộ pháp trong số ấy, vung chưởng nhanh như chớp bổ ra. Hộ pháp ấy không kịp trở tay, gót chân liền vỡ nát, song y vẫn chưa thỏa mãn, lại lăn tới bồi thêm một chưởng, hộ pháp ấy chết ngay tức khắc. Hộ pháp kia vừa định viện thủ, chẳng ngờ ngọn đơn đao của đồng bọn bị đối phương chộp lấy, lúc này chỉ thấy ánh bạc loáng lên, ngọn đơn đao đã bay đến trước mặt, muốn đỡ gạt cũng chẳng còn kịp nữa.

    Công Tôn Long chỉ chốc lát đã khử được hai hộ pháp, vô cùng đắc ý.

    Song đến khi y đứng bật dậy, Song Cơ đã bị lão tam Công Tôn Anh và lão tức Công Tôn Hổ chia nhau nghênh chiến, ngoảnh lại tìm Lãnh Nguyệt Tiên Tử, nàng ta cũng đã lọt vào tay lão nhị Công Tôn Hổ.

    Ngoài ra, lão ngũ Công Tôn Tuấn và lão lục Công Tôn Kiệt thì giao chiến với hơn ba mươi hộ pháp.

    Với thành tực võ học của Trường Bạch Lục Tuyệt, lúc này nếu lão đại Công Tôn Long mà chịu tham gia vào vòng chiến của Công Tôn Tuấn và Công Tôn Kiệt, thì cuộc chiến hôm nay khá có lợi cho sáu anh em họ.

    Thế nhưng, vị lão đại này mức độ hiếu sắc cũng đứng đầu Lục Tuyệt, lúc này y chỉ một lòng muốn bắt lấy một người đàn bà, chớ không hề nghĩ đến tình thế toàn diện, nên khi y quét mắt nhìn quanh, sau cùng đã dừng lại trên mình Tứ Tỳ, như thể vừa phát hiện được kho tàng, ré to một tiếng đầy hoan hỉ, lao ngay về phía Tứ Tỳ.

    Đỗ Môn tú sĩ đứng dưới bóng râm từ xa thấy vậy lắc đầu nói:

    – Đỗ mỗ giao đại sự cho đám sắc quỷ này thật là một sai lầm to tát, nếu biết trước có ngày hôm nay, chi bằng khi trước...

    Hai võ sư đứng bên, một người bỗng sửng sốt khẽ nói:

    – Giáo chủ hãy xem kia!

    Đỗ Môn tú sĩ liền quay sang nhìn, thì ra trên một bờ ruộng không xa bỗng xuất hiện mấy nông phu tay cầm cuốc cào và đầu đội mũ rơm.

    Mùa này trông thấy nông phu trên đồng ruộng vốn chẳng có gì lạ, song điều lạ là bọn nông phu ấy lại quá là to gan, trông thấy bên này đang ác chiến đẫm máu, chẳng những không chút sợ hãi mà còn đứng đó xầm xì bàn tán, dường như đang phê bình với nhau vậy.

    Đỗ Môn tú sĩ biến sắc mặt, khẽ nói:

    – Nguy rồi, đó là bọn lão quỷ ở Thiên Sơn, ta đi mau!

    Hai võ sư đồng thanh nói:

    – Có cần kêu gọi Lục Tuyệt không?

    Đỗ Môn tú sĩ cười khẩy:

    – Khi khác hãy tính!

    Rồi liền tung mình lên lưng ngựa, chộp lấy dây cương giục ngựa phóng đi như bay.

    Hai huỳnh kỳ võ sư dĩ nhiên đâu chịu ở lại chờ chết, thế là hai người một ngựa, cũng theo sau phóng chạy.

    Lão ngũ Công Tôn Tuấn đang giao chiến với bọn hộ pháp nhác thấy, lớn tiếng nói:

    – Này, lão lục hãy xem kia... giáo chủ sao lại bỏ đi thế này?

    Lão lục Công Tôn Kiệt thở hổn hển:

    – Mặc y... chúng ta... mau giết sạch bọn này... để... để đem hai ả này... về...

    về... Ối da!

    Y chỉ lo nói nên chiêu thức thoáng chậm đi, bỗng bị mũi đao của một hộ pháp quét trúng mạn sườn, máu tươi liền nhuộm đỏ một mảng áo to.

    Lão ngũ Công Tôn Tuấn như không lưu ý đến tiếng thét đau đớn của Công Tôn Kiệt, lại nói tiếp:

    – Đâu chỉ có hai, lão lục!

    Công Tôn Kiệt phấn chấn tinh thần:

    – Vậy thì bao nhiêu?

    – Sáu, không kể ả xấu xí kia!

    – Tuyệt quá... sáu... với sáu... vui, vui quá!

    Công Tôn Kiệt như quên khuấy vết thương đang không ngừng tuôn máu trong lúc cao hứng lại vung chưởng với hai chiêu kỳ diệu, liên tiếp hạ gục hai hộ pháp Thiên Ma.

    Bọn hộ pháp Thiên Ma Giáo công hai anh em này trước sau đã gục ngã mười hai người, trong khi ấy chỉ có lão lục Công Tôn Kiệt bởi nói chuyện phân thần bị trúng một đao mà thôi.

    Bên kia, lão nhị Công Tôn Hổ với Lãnh Nguyệt Tiên Tử Vưu Thu Hoa kẻ tám cân người nửa lạng, bất phân thắng bại.

    Công Tôn Hổ công lực tuy thâm hậu, song Lãnh Nguyệt Tiên Tử là nghĩa nữ của Thiên Hồ Vi Sĩ Lôi, về mặt võ công từng được Thiên Hồ chỉ điểm rất nhiều, pho Ngọc Nữ kiếm pháp chỉ hơn chứ không kém Thủy Hỏa Song Cơ, nên Công Tôn Hổ dù đã cố gắng hết sức, nhất thời cũng chẳng làm gì được nàng ta.

    Còn về trận chiến giữa Thủy Hỏa Song Cơ với Công Tôn Anh và Công Tôn Hổ thì đã gần bộc lộ thế hơn kém, võ công của Thủy Cơ vốn cao hơn Hỏa Cơ một bậc, người tiếp chiêu với Thủy Cơ là Công Tôn Anh, lại là kém nhất trong Lục Tuyệt, bởi Công Tôn Anh vốn luyện về ám khí, từ khi bị kẻ thù ném mù một mắt, ám khí ra tay không còn chuẩn xác nữa, thế là chẳng còn sở trường nào cả, nên sau mấy mươi hiệp đã dần lộ vẻ không còn chịu nổi nữa.

    Lão tứ Công Tôn Hào tiếp chiêu với Hỏa Cơ sở trường về quyền pháp, và cũng là người có võ công cao nhất trong Lục Tuyệt, lại thêm Hỏa Cơ võ công vốn đã không bằng Thủy Cơ, nên cuộc chiến hoàn toàn trái ngược với bên Thủy Cơ và Công Tôn Anh.

Trang 5 / 6 ĐầuĐầu ... 3456 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-31-2020, 11:44 PM
  2. Kim Bút Thần Hiệp
    By giavui in forum Truyện Kiếm Hiệp
    Trả Lời: 139
    Bài Viết Cuối: 05-24-2020, 12:57 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-30-2019, 12:38 AM
  4. Nghĩ về chuyện cầm bút và bồi bút
    By khieman in forum Văn Hóa - Văn Nghệ
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-26-2016, 08:14 PM
  5. Thần Điêu Hiệp Lữ - Kim Dung
    By giavui in forum Audio Kiếm Hiệp
    Trả Lời: 3
    Bài Viết Cuối: 12-27-2013, 09:38 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •