Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ *Khó mà thương yêu được một lần thứ hai người mà mình đã hết thương yêu.
La Rocheffoucauld
Results 1 to 3 of 3

Chủ Đề: Con chó xấu xí

  1. #1
    Join Date
    Jan 2012
    Bài Viết
    1,714
    Thanks
    0
    Được Cám Ơn 3 Lần
    Trong 3 Bài Viết

    Con chó xấu xí

    CON CHÓ XẤU XÍ




    Nó là một con chó xấu xí! Xấu đến nỗi trong nhà chẳng ai buồn đặt cho nó một cái tên. Nó không được là tôtô, kiki, cũng chẳng là quýt, là cún, là gì gì cả. Gọi nó người ta chỉ việc “êu, êu…” như gọi bất cứ một con chó nào là nó đến. Mãi đến lúc nó chết, đôi khi nhắc đến, vợ tôi mới gọi nó bằng cái tên nghe rất đỗi thương yêu: “Con Mực nhà ta… Ngày Tây nhảy dù Việt Bắc, con Mực nhà ta… Ngày con Hiền mới chập chững biết đi, con Mực nhà ta…”

    Khốn nạn, cái “con Mực nhà ta” ấy, thực ra từ lúc mua, đến lúc chết, nó phải chịu sự ghét bỏ, hắt hủi của mọi người trong nhà tôi y như đứa trẻ, con một người làm lẽ thứ năm, thứ bảy trong một gia đình giàu có, đông con mà bố mẹ chết rồi phải ở với anh, chị con bà cả vậy.

    Ngày ấy con bé đầu lòng của tôi chưa đầy tuổi tôi, vợ tôi cần có một con chó nhép để cho nó “dọn”. Cái trò đàn bà hay tham rẻ, chỉ tính đến chuyện được việc. Nhà tôi mua nó đâu có ba hào chỉ.

    Tôi bực mình lắm. Cứ thoáng trông thấy nó, tôi đã lộn ruột lên rồi. “Chó gầy khổ mắt người nuôi!” Ừ thì trong lúc kháng chiến này cũng chẳng nên kén chọn, cầu kì đến những giống chó đồ, chó kiểu làm gì, nhưng đã nuôi cái của giống má trong nhà, ít ra cũng phải sạch mắt thì mới coi được. Đằng này, con chó nhà tôi mua, nom nó thảm hại quá. Nó không còn thể gọi là con chó được nữa. Nó bằng cái nắm đấm thế này, vừa bé, vừa lường, còm dóm như con chuột chù ốm ấy. Nhất là những hôm đang lạnh bỗng dưng trở nắng, con chó nhà tôi ra sân ngồi sưởi thì, giời đất cha mẹ ơi, không còn thể sao khươm được. Bẩn mắt quá!

    Nó ngồi gù gù ngoài bóng nắng như anh nghiện thiếu thuốc. Cái mặt gục xuống, rớt rãi chảy ra, hai con mắt ướt nhoèn hai cục nhử trắng nhã. Cái lưng khòm khòm nổi lên từng đốt, từng đốt xương sống.

    Cái con chó khốn khổ ấy nó không còn đủ cả lông để che kín thân thể nữa. Lông nó lường ăn rụng từng đám lơ phơ, nham nhở và đỏ bẻm như đám cỏ ấy. Da lưng, da bụng, da cổ trật ra sần sùi, cóc cáy, đến cả cái đuôi cũng không đủ lông. Đuôi nó thun lủn một mẩu xám xịt như đuôi con chuột cống già.

    Dưới ánh nắng mùa hanh rát ràn rạt, lớp da răn rúm bọc ngoài cái thân hình gầy gùa, lủng củng những xương của nó, lúc lúc lại thấy rùng lên. Nó khẽ rên ư ử một cách sung sướng và thê thảm…

    Tôi bảo nhà tôi đem mà vứt mẹ nó đi, không có cho ai thì cho. Nhà tôi chỉ cười:

    - Cho là thế nào? Để tăng gia đấy.

    Nhà tôi cũng biết trót mua phải con chó xấu quá, nên mỗi bận tôi kì kèo chỉ cười, nói quấy quá cho xong lần. Còn con chó thì hình như nó cũng biết thân phận nó, biết tôi ghét nó, mỗi lần thấy bóng tôi từ xa, cu cậu đã lui lủi lỉnh đi chỗ khác. Nó cúi gằm mặt xuống, mắt lấm lét nhìn trộm, cái đuôi thun lủn một mẩu thịt cháy thì khẽ ngoáy ngoáy mừng nịnh. Tôi càng ghét.

    Cho mãi đến hôm có Đặng ở đoàn kịch của tỉnh đi qua tạt vào thăm, con chó ấy mới được yên thân với số phận Đặng quyết định cho nó và, từ đấy tôi cũng thôi không kì kèo nhà tôi nữa.

    Đặng là một tay bợm rượu. Anh em bạn chơi vẫn gọi anh ta là Đặng cồn. Người anh ta lúc nào nom cũng ủ dột. Mặt trắng bự, mắt ướt nhoèn, lưng gù, cặp kính trắng thõng xuống đến cánh mũi. Cái miệng chảy thễu ra lúc nào cũng thấy đánh tóp ta, tóp tép như cóc thèm muỗi. Thường khi cả ngày chẳng thấy anh ta nói một câu, ấy hễ mà ngồi vào mâm rượu là cả người anh ta bỗng tỉnh táo, linh hoạt và cái khuôn mặt bệch bạc, rụng hết lông mày của anh phút chốc rạng rỡ hẳn lên. Lúc ấy sao mà anh ta nói chuyện có duyên đến thế! Anh gọi chó là “hươu thềm”, là “nàng thơ của cụ Lỗ Trí Thâm”. Chó vàng anh gọi là “ka ki”, chó đen anh gọi là “nhung Thượng Hải”. Những con chó thui nhoáng mỡ treo lủng lẳng trước quán hàng anh gọi là “leo coóc” v. v…

    Hôm Đặng vào chơi tôi, con chó ấy đang ngồi phơi nắng ở giữa sân. Cũng như mọi bận, vừa thấy động bóng người, cu cậu đã lử khử đứng dậy, cúi đầu lặng lẽ lui lủi xuống bếp. Nhưng mà Đặng đã nhìn thấy nó rồi. Anh ta tiếng rằng hấp him, cặp bà lời nhưng lắm cái lại tinh ra phết.

    Vừa thoáng thấy con nhãi nhép ấy, anh ta bỗng reo lên:

    - A ha, nhà này vừa sắm được của quý!

    Nhà tôi ngồi trong bếp nhìn ra chưa hiểu nhà mình sắm được cái của quý gì, Đặng đã ngồi sà xuống đất, nheo mắt khẽ gọi:

    - Êu, chậc, chậc chậc!…

    Tiếng gọi nghe thật dịu dàng, âu yếm. Con chó đứng lại lưỡng lự, nghi ngờ. Từ ngày về nhà này có bao giờ nó được nghe cái tiếng gọi thương yêu đến như thế.

    - Êu, chậc chậc chậc!…

    Con chó sướng quá, ngoáy tít cái đuôi trụi, dặt dẹo trên bốn cái khoeo gầy quay trở lại. Đến gần Đặng, nó nằm rạp xuống, thè lưỡi ra liếm liếm, và khẽ rít lên ư ử.

    Đặng cúi xuống nghiêng nghé cặp kính nhìn con chó hồi lâu, anh gật gù, tấm tắc khen:

    - Hay! Hay lắm! Sáng kiến của bà Hiền phải không?

    Nhà tôi thấy Đặng chú ý đến con chó mình mua một cách đặc biệt như vậy cũng hởi lòng hởi dạ. Nhà tôi cười bảo anh ta:

    - Vâng tôi mua đấy anh ạ. Thế mà nhà tôi cứ bảo đem cho…

    - Cho là thế nào! - Đặng trợn mắt lên cướp lời. - Chị cứ để đấy cho tôi. Ba tháng nữa tôi giở lại, được vô khối là việc.

    Đặng nháy tôi một cái, làm dáng điệu đang thủ một cái chày sau lưng, miệng ngọt ngào gọi “êu, chậc…” rồi thình lình anh trợn mắt, mím môi bổ xuống không khí một cái thật mạnh:

    - A lê hấp! Cho một chày, chị biết chửa?

    Đặng cười ré lên một hồi ròn khanh khách. Con chó dưới chân Đặng cồn giật thót người, cúp đuôi chạy vút đi. Đặng càng cười đắc ý.

    Đi với Đặng cồn còn có Nhược Dự. Bận nào Đặng đến nhà tôi, Nhược Dự cũng đi theo. Anh ta là người khó hiểu, khôn ngoan và kín đáo. Ngồi nói chuyện với anh ta khó mà biết được ý thật của anh ta như thế nào. Bao giờ anh ta cũng nói theo ý của người khác và nếu gặp một ý nào đối chọi lại lập tức anh ta rụt lại ngay. Lúc nào anh ta cũng khoác bên ngoài cái vẻ lờ mờ, rụt rè như một người lạc lõng, hiểu rất ít về thời cục.

    Hồi mới chạy lên trên này, Nhược Dự còn để cái đầu trọc. Cái đầu sinh ra từ ngày còn Nhật chưa có dịp chuyển sang đầu thường, nhưng chỉ mấy tháng sau tóc anh đã mọc rất dài, không những thế anh còn để cả bộ râu dài lượt mượt như một ông cụ nữa. Bộ râu lạc lõng trên cái mặt non choẹt, trắng nhẫy nom như râu đóng kịch. Có bộ râu ấy, anh có thể rền rĩ, than thở với mấy ông xã đội trưởng rằng mình già yếu không thể đi canh gác, hay đi phá đường được; hoặc từ chối một vài việc gì đấy mà uỷ ban muốn nhờ anh ta giúp đỡ. Trước ngày, Nhược Dự cũng có viết văn. Anh ta viết những truyện “ái tình” lâm li, sướt mướt với một thứ văn chương uốn éo, quen thuộc, rẻ tiền. Anh ta làm văn chẳng khác gì người thợ kim hoàn quen tay làm đồ mĩ kí. Vì thế, từ ngày khởi nghĩa anh không viết gì được nữa, mà anh ta cũng chẳng nghĩ gì đến chuyện tiếp tục viết văn.

    Tuy vậy, cả nhà anh ta, từ bà cả già mõ bán bún riêu ngoài quán đình Bùi, đến cô vợ hai còn trẻ măng chuyên việc bếp núc, hầu hạ chồng và con chồng ở nhà đều như còn luẩn quẩn, mê luyến với cái không khí của một thời “oanh liệt” của ông chồng trước kia… Trước mặt người lạ, họ đối đãi, nói năng với nhau hoa mĩ, kiểu cách như người trong truyện cả. Nghĩa là nghe nó ngớ ngẩn, giả dối rất chướng tai!

    Người như vậy, kháng chiến cũng không bỏ. Biết Nhược Dự trước kia có viết văn, cơ quan tôi mấy bận cử người về đón anh đi công tác. Bận nào Nhược Dự cũng có bộ mặt rầu rĩ, băn khoăn vì nỗi hoàn cảnh anh ta bó buộc, vì anh ta nặng gánh gia đình, vì anh ta bệnh tật, đau yếu luôn. Phải loanh quanh ở nhà như vậy anh ta lấy làm xấu hổ và khổ tâm lắm lắm.

    Người địa phương vì thế ghét vợ chồng anh ta thậm tệ. Giữa cuộc kháng chiến bùng nổ, không ai có thể ưa một anh đàn ông sức dài vai rộng mà chỉ thấy cập kè với hai bà vợ và nhởn nhơ với một ngôi hàng. Người ta làm vợ chồng anh khó chịu, tức tối ngấm ngầm, có khi phải tủi hổ.

    Mỗi lần Đặng có việc đi qua tạt vào chơi, vợ chồng Nhược Dự rất mừng. Trong số bè bạn ngày trước chỉ có Đặng là chịu chuyện được vợ chồng nhà này. Nhược Dự vớ được Đặng như người chết đuối vớ được cọc. Mỗi lần gặp nhau lại rượu. Trên mâm rượu “tha hương ngộ cố”… ít ra anh ta cũng nói được đại ba câu cảm khái vụn, ngâm ngợi một vài bài thơ than thở cho thân, cho thì. Có lần rượu vào anh ta rũ xuống mà khóc.

    Hôm Nhược Dự theo Đặng đến nhà tôi chơi, thấy Đặng có ý kiến về con chó ghẻ như vậy, anh ta liền “bốc” ngay. Anh ta ca tụng các món thịt cầy, ca tụng cái đạo của những ai biết thưởng thức thịt cầy, cuối cùng anh ta hẹn ba tháng nữa, Đặng trở lại sẽ hội ẩm một chầu thịt cầy có thể gọi là “phanh dương, tể ngựu…”

    - Cô hai nhà moa sẽ đội sang một cái quả sơn đầy bún với hai cây rượu đặt thật trứ danh. Các toa sẽ thưởng thức của bà cả nhà moa món giò chó, món thịt chó hầm cách thuỷ, món thịt chó hấp… À, các toa đã được nghe bà cả nhà moa ngâm “Hồ trường” chưa? Này “en” mà ngà ngà mấy chén vào, ngâm “Hồ trường” thì lạ lùng hết sức… Buồn mà thấm vô cùng…

    Thực tình trong lúc này, tôi chẳng thấy hay ho gì những cái trò ấy. Nhưng thôi, con chó như thế, nó cũng yên với cái phận của nó rồi. Tôi cũng thôi không còn phải băn khoăn, kì kèo, ca thán gì về nó nữa. Trong những ngày chờ đợi nó béo, lớn lên, tôi như đã quên nó, coi như không có nó trong gia đình. Đôi lần gặp Đặng, anh ta có nhắc nhở, tôi mới nhớ ra và trả lời một cách mù mờ rằng: con chó ấy có dễ nó cũng kha khá lên rồi. Thật ra tôi có biết bây giờ con chó nó gầy, béo ra sao đâu. Một phần vì độ ấy cơ quan tôi đã chuyển sâu vào rừng, tôi ít khi về nhà; một phần vì con chó ấy cứ thoáng thấy bóng tôi, nó đã lui lủi lỉnh đi, nằm bẹp ở xó xỉnh nào rồi.

    Một buổi chiều, tôi vừa ở cơ quan ra thì gặp Đặng khoác ba lô, chống cái gậy hèo khật khưỡng đi tới. Thấy tôi, anh ta mừng quá, phì cả hơi rượu vào mũi tôi, nói choang choang giữa rừng:

    - À, mày… Thằng Hiền! Thế nào, to chưa? To rồi chứ còn gì?

    Tôi đứng ngây ra không hiểu Đặng hỏi tôi cái gì to chửa. Anh ta phì cười, phát đen đét vào vai tôi:

    - Bố khỉ, bố đần!… Con chó ốm nhà mày ấy, to chửa? Khử được rồi chứ còn gì?

    Tôi gật đầu cười “à à…”. Ra cái tay bợm rượu này không lúc nào nó quên được con chó!

    - Tao đã bảo vợ chồng nhà Nhược Dự rồi. Hai chai bố trong suốt như nước suối…

    Anh nháy tôi một cái, ngấp ngó cặp kính thõng xuống tận mũi, nhìn tôi:

    - Kể ra vợ chồng chúng nó cũng có khí… nhạt đấy. Mặc mẹ, được việc cho mình thì thôi, hả?

    Anh ta cười khá lên một dịp ròn tan.

    - Chủ nhật hả! Chủ nhật này mày về, ta làm một chầu văn hoá cao!

    Đặng bắt tay tôi, hỉ hả chống gậy lên đường. Nhưng sự đời có mấy khi chiều những ý muốn đã định trước. Đặng vừa đi hôm trước thì hôm sau có tin giặc nhảy dù Thái Nguyên, rồi có tin giặc từ Bắc Giang đánh lên, Bắc Ninh đánh sang. Lối Kim Tràng, Cầu Xim, Cầu Đồng; bên núi Hia, núi Đót; dưới chợ Lữ, bến Lủi, bến Phà, đâu đâu cũng có giặc cả rồi. Người các mạn dưới đánh trâu, bò, bồng bế, gồng gánh chạy giặc dạt lên đen kín cả ngoài cánh đồng.

    Cơ quan tôi đã chuẩn bị từ trước, vừa có tin giặc nhảy dù Thái Nguyên, lập tức chuyển sâu thêm nữa vào rừng, sang một địa điểm tỉnh khác. Tôi được anh em đồng ý cho về thu xếp gia đình rồi sẽ theo cơ quan sau. Anh em ai cũng biết cảnh nhà tôi neo bấn, chỉ có một mình vợ tôi với đứa con gái nhỏ, lại ở vào giữa vùng giặc đang đánh lên, một mình vợ tôi sẽ không biết xoay xoả như thế nào trong cái tình thế khó khăn, bối rối ấy được. Tôi về chuyến ấy, có ý định sẽ đưa gia đình theo cơ quan, ở một trại ấp hẻo lánh nào đấy cách cơ quan tôi chừng độ dăm bảy cây số cho tiện sự đi về thăm nom.

    Con chó của tôi như thế không thể “làm một chầu văn hoá cao” như Đặng hẹn nữa, và cái số phận của nó cũng vì cuộc chạy giặc ấy mà thay đổi.

    Đêm ấy tôi từ cơ quan về đến nhà thì vợ con tôi đã chạy cả rồi. Hàng ấp cũng không còn nhà nào ở lại. Xóm ngõ vắng tanh, súng giặc nghe rền từng chập. Nghe rõ tiếng liên thanh ùng ục và, từng phát súng trường lẻ tẻ rít vào không khí.

    Tôi biết vợ con tôi đã chạy vào đồng Kĩnh. Từ mấy tháng nay, mỗi bận tôi về nhà, hay viết thư về cho nhà, tôi đều căn dặn vợ tôi lúc nào cũng phải hết sức gọn gàng, phòng giặc đánh lên, hoặc nhảy dù là có thể bế con chạy ngay được. Trường hợp tôi chưa về kịp, mẹ con hãy chạy vào nhà cụ bếp Móm trong đồng Kĩnh làm chỗ liên lạc, tôi sẽ về đón. Ở trong ấy gần rừng, hẻo lánh dễ chạy, mà cụ bếp Móm lại là chỗ đi lại quen biết từ trước, nhỡ xảy gặp khó khăn có thể nhờ cậy được.

    Tôi đảo về qua nhà, đi vẩn vơ ngoài cái sân bỏ vắng mấy lượt, rồi cắm đầu đi thẳng vào đồng Kĩnh. Bấy giờ đã khuya lắm. Đêm tối vẫn rùng rùng bóng người, bóng trâu bò chạy giặc. Người ở vùng dưới chạy lên đây, người ở đây lại chạy mãi vào những mạn ven rừng. Trong các búi cây, bờ ruộng, khe suối, rệ đồi, trong các lều quán ven đường, chỗ nào cũng thấy nhan nhản những người. Chỗ nào cũng nghe tiếng trẻ khóc, tiếng gọi thưa, tiếng than thở, chửi rủa. Ruột gan tôi càng rối lên.

    Vào đến nhà cụ bếp Móm, tôi giục nhà tôi thổi cơm ăn, chuẩn bị đi ngay đêm nay. Bây giờ tôi mới chợt nghĩ đến con chó. Tôi thấy nó vương vướng. Đem nó theo gia đình lúc này thật chẳng được tích sự gì, rất phiền, mà rất có thể nguy hiểm. Mà bỏ nó lại thì… thật ra trong lòng tôi cũng áy náy. Trong cái lúc chạy giặc này, trong cái lúc con người ta đang phấn đấu giành lấy sự sống, sự đoàn tụ, yên vui, phải bỏ lại bất cứ một vật gì đã có trong gia đình mình cũng đều thấy xót xa như phải bỏ lại một con người và có cảm giác như đấy là một cuộc chia li phũ phàng giữa cái sống và cái chết.

    Con chó ấy, từ trước vẫn sợ tôi, thoáng thấy bóng tôi là tránh cho thật xa, đêm nay hình như nó cũng thấy có những cái gì khác hẳn, cái gì như là tan nát, thấy tôi về, nó mừng quá, nó quên cả cái thói quen sợ tôi của nó, nó chạy bổ ra với tôi, mừng rối rít. Nó quấn lấy tôi, dều dễu theo tôi, nằm phục dưới chân tôi mà hít hít, ngửi ngửi rên lên những tiếng ư ử sung sướng, thân thiết. Thì ra những lúc gian nguy, chẳng những con người, đến con vật cũng quên hết những ghét bỏ, hiềm khích cũ mà gần gũi, thương yêu nhau, thấy cần phải nương tựa vào nhau mà sống. Tôi bỗng đâm ra lưỡng lự không biết đối xử với con chó này như thế nào, bỏ nó lại, hay là mang nó đi?…

    Người chạy giặc vẫn kéo lên mỗi lúc một đông. Có tốp tiếp tục đi mãi vào trong mạn rừng, có tốp nghỉ lại ở đây. Cái túp nhà ông cụ bếp Móm chặt nèn những người. Trong số những người mới đến tôi thấy có cả ba vợ chồng Nhược Dự, tôi mừng quá, chạy ra hỏi tin giặc. Nhược Dự với cô vợ hai không nói gì. Đêm nay anh ta thay đổi hẳn, gặp tôi anh ta cũng chẳng thấy nhích lên được một nét vui nào. Anh ta chỉ lầm lầm cái mặt và thở dài. Sự lo lắng, chán nản, oán trách hiện lên đầy mặt. Anh ta đối với tôi lúc này lại như có vẻ hờ hững, khó chịu. Trái lại chị vợ cả lại nói rất nhiều, cặp môi ăn trầu thuốc thâm đen của chị cuốn lên. Chị nói bằng mắt, bằng tay, bằng nét mặt, bằng tất cả cái sắc sảo của một tay buôn lọc lõi. Có lúc chị nói liên liến một hồi như cái máy khâu đạp cố rồi đột nhiên ngừng lại, đưa mắt dò la đánh giá người nghe, có lúc chị nói khoan thai thẽ thọt như thể giọng mẹ chồng ngồi kể xấu nàng dâu. Có lúc chị giả giọng ba bốn người trò chuyện đối đáp với nhau. Chị vừa nói vừa cười ròn khanh khách. Kể chuyện giặc đánh lên, giặc đốt làng mà giọng chị nghe văn hoa, hồ hởi như chuyện vừa kiếm được món hời.

    - Tại anh Nhược Dự đấy, kêu là chiều tối rồi, nó không lên nữa, để sáng sớm mai hẵng chạy còn kịp chán. Thế mà ai ngờ nó đi đêm anh ạ. Nó đốt cái quán ở đình Bùi của tôi rồi. Tiếc quá.

    - Nó lên đình Bùi rồi chị?

    Chị bổ cái mặt chị vào mặt tôi:

    - Chả có hai lần đình Bùi! Nó đến Nhã Nam rồi anh ạ. Thật cả là một sự điêu linh. Cũng chỉ tại mấy bố du kích nhà ta thôi anh ạ. Súng ống chẳng có, có mấy khẩu súng kíp còm cũng đậm đọp bắn nó. Nó mấy cáu, nó mấy đốt cho. Nó đốt đình Bùi, đốt Cao Thượng, bây giờ nó đang đốt Nhã Nam đấy. Vợ chồng tôi vừa chạy giặc, vừa ngoảnh lại nhìn ngọn lửa quân xâm lăng tàn bạo nó đốt nhà, đốt cửa của đồng bào mà trái tim của vợ chồng tôi tưởng chừng như sắp sửa tan vỡ ra từng mảnh… hé, hé, hé…

    Chị ngửa cổ, bưng miệng cười khé lên. Mặt anh chồng cứ nhăn như bị. Nhược Dự vốn là người kín đáo, giữ gìn, có điều gì hậm hực, không được như ý, anh ta chỉ hậm hực riêng với mình, hoặc quá lắm thì anh hậm hực với hai bà vợ của anh. Cái lối văn hoa giả khôn, giả dại của bà vợ anh, thường ngày làm cho cái cửa hàng bún riêu của vợ chồng anh đông khách, người ta ngồi ăn hàng và xem một người ăn nói lạ tai như vậy cũng thấy hay hay, nhưng hôm nay, nghe vợ nói năng như vậy Nhược Dự ta khổ tâm quá, khổ tâm lắm. Anh khổ tâm không phải cái lối nói ba hoa, giả dối của vợ mà có lẽ anh khổ tâm vì bà vợ của anh không biết giữ mồm giữ miệng, nói những điều mà anh chỉ dám nói trong cổ họng. Anh ta vội hỏi tôi một câu, có ý lái khéo câu chuyện sang hướng khác:

    - Lâu nay toa có sáng tác được cái gì mới không?

    Hình như thấy câu nói của mình lạc lõng không hợp với tình thế lúc này, anh ta hỏi thêm:

    - Lâu nay toa có gặp Đặng không? Toa có biết luý chạy đâu không?

    Tôi chưa kịp trả lời, Nhược Dự đã quay ra nói gì nho nhỏ với bà cả. Hình như anh không cần thiết câu trả lời của tôi cho lắm. Tình hình lúc ấy đột nhiên lại thấy lộn xộn. Người ở ngoài chạy dồn vào, người ở đây lại nhốn nháo kéo nhau đi. Tin người tản cư nghe mỗi lúc một khác, những tin không biết từ đâu truyền đi rất nhanh. Lúc có tin giặc đã đến Nhã Nam, lúc có tin giặc ở Thái Nguyên đánh sâu vào rừng lùng các cơ quan, lúc lại có tin giặc ở Thái Nguyên đốt phá Thác Huống, Đá Gân. Mạn Vĩnh Yên, Phúc Yên cũng có tin giặc vào đến chân Tam Đảo. Con đường tôi và vợ con tôi phải đi qua đêm nay cũng có tin giặc đánh đến nơi rồi. Đằng nào cũng phải vượt thôi!

    - Này mình ạ… - Tôi nhìn nhà tôi đắn đo một lúc. - Cái con chó nhà ta ấy, tôi thấy, tôi nghĩ không thể đem nó đi được đâu.

    - Sao, mình bảo gì cơ?

    Nhà tôi ngồi nắm nắm cơm bằng chiếc khăn tay trên mặt cái sàng, ngẩng lên nhìn tôi sửng sốt. Tôi ngập ngừng nói thêm:

    - Cái con chó nhà ta ấy, tôi thấy không thể đem nó đi theo mình đêm nay được đâu.

    - Sao lại không đem nó đi được! Mình nói tôi chẳng hiểu ra sao cả.

    Nhà tôi cau mặt lại một cách khó chịu:

    - Nuôi nó ngần ấy ngày giời, gặp lúc như thế này lại định bỏ nó! Mình nghĩ thế nào, lại tính thế? Chả thà là thịt nó đi như anh Đặng nói lại đi một nhẽ.

    Tôi nín lặng chẳng biết nói với nhà tôi như thế nào, trong lòng thật cũng thấy hổ thẹn với những ý nghĩ của mình. Ngoài kia, ba bốn đám lửa đốt làng, đốt phố rừng rực trong đêm tối. Những đám lửa nom gần lắm rồi.

    Tôi càng nôn nao, bối rối, tôi nói với nhà tôi như dỗ dành, như phân trần:

    - Có phải rằng tôi muốn để lại nó đâu, nhưng mà giặc thì nó đánh đến nơi rồi, xung quanh mình chỗ nào cũng có tin giặc, mình đem nó đi làm sao được… Thôi, đành nhẽ là phải gửi nó lại… Sau này giặc yên, về ta lại đem nó về…

    Nhà tôi cắm cúi nắm nắm cơm không trả lời. Nắm xong, nhà tôi lẳng lặng thu xếp, bỏ vào quang gánh, rồi đi vào trong nhà. Nét mặt nhà tôi lúc ấy nom lầm lì và buồn bã vô cùng. Lát sau nhà tôi và cụ bếp Móm từ trong nhà đi ra. ông lão bước nhanh về phía tôi, xăm xắm:

    - Thôi được, hai bác không đem được nó đi thì để lại, tôi trông nom cho, anh em mình, lo gì. À hà, con chó này đang ngon thịt đây…

    “Quái thật, làm sao ai nhìn đến con chó cũng nghĩ đến chuyện thịt?” Tôi thấy hơi khó chịu.

    Ông lão chắp hai tay sau đít, cười gật gật ngắm nghía con chó. Chừng như con chó ấy nó cũng thấy có điều gì khác ý, nó vội rúc vào chân tôi liếm liếm, ngửi ngửi, hai chân nó đập đập vào chân tôi, ngoáy đuôi mừng mừng.

    Nhà tôi chẳng nói chẳng rằng, một tay cầm cái xích, một tay nắm gáy lôi tuột nó ra, xích nghiến lại. Con chó giật mình, hoảng quá nó chồm lên và càng cố lăn vào chân tôi, trốn tránh, giãy giụa, kêu ăng ẳng.

    Ông cụ bếp vui tính thấy thế cứ nhe bộ lợi ra cười kha khá, còn nhà tôi thì hai mắt càu cạu, môi mím chặt lôi sềnh sệch con chó ra một cách phũ phàng. Nhà tôi buộc nó vào gốc mít gần đấy. Con chó lăn lộn trong cái xích căng thẳng, cái xích vít cổ nó lại, nó cố nhoai về phía tôi mà không được, nó tru lên từng hồi. Trong ánh lửa cháy bập bùng ở bếp hắt ra, tôi thấy mắt nó có hai đốm lửa nhỏ tí. Hai đốm lửa ấy nhìn vào tôi oán trách, cầu khẩn, lúc lại thấy như thù hằn, giận dữ. Tôi cúi mặt xuống, không dám nhìn vào con chó ấy nữa. Khốn nạn thân nó, bây giờ chắc nó biết chủ nó bỏ nó. “Thôi, để chuyến này chạy giặc về, tao sẽ nuôi mày, tao không dám phụ mày, tao không thịt mày nữa đâu”…

    Nhà tôi đã thu xếp quang gánh, đồ đạc xong. Đứa con gái nhỏ của chúng tôi ngồi gọn bên một thúng, xung quanh nó quây chăn, tã cho ấm, phía trên che một cái chiếu cuộn khum khum như cái mái lều. Một bên là nồi niêu bát đĩa, tương muối và các thức cần dùng khác. Bây giờ nhà tôi mới cầm một bọc gạo vừa mới san ở trong bị ra, đi đến trước mặt cụ bếp Móm:

    - Thôi, chúng cháu đi đây…

    Nước mắt nhà tôi bỗng giàn ra, nhà tôi đứng im trước mặt cụ bếp nghẹn ngào không nói được. Tiếng con chó vẫn kêu ăng ẳng và, tiếng cái xích căng ra xoắn vào thân cây mít lục cục.

    - Cháu… gửi lại cụ một ít gạo đây, nhờ cụ trông nom nó giúp cháu… Sau này thiếu đủ như thế nào, về cháu sẽ xin thưa lại với cụ…

    - Được! Được! Chỗ tôi với hai bác ấy mà.

    Ông cụ bếp cười, xua xua tay, gạt đi.

    Nhà tôi khẽ chào ông cụ, bước vội về phía quang gánh. Tôi cũng đứng dậy khoác ba lô, ôm bọc chăn màn chào cụ bếp, bước theo nhà tôi. Từng chặp súng máy nổ rền ngoài đêm tối. Và, đám lửa đốt làng, đốt phố ở mé Cao Thượng càng khuya nom càng rừng rực ngất trời. Bao giờ cho giặc rút? Bao giờ cho vợ con tôi được sống yên ổn dưới một mái nhà? Tôi thèm một cái mái nhà…

    “Ắng!… Ắng! Ắng!…” Tiếng con chó lồng lộn, cuống quýt đằng sau bước chân tôi. Nó như gọi tôi, nó như kêu cứu, như than khóc, oán trách. Tôi lẳng lặng bước qua chỗ vợ chồng Nhược Dự đang đứng. Rõ ràng anh ta biết tôi đi nhưng lại lờ đi như không nhìn thấy. Ra khỏi ngõ tôi thoảng nghe tiếng chị vợ cả nói với chồng:

    - Vợ chồng nhà ấy họ đi đấy à? Này, họ bỏ lại con chó cậu ạ.

    Và tiếng anh chồng dấm dẳn:

    - Đến người cũng chả chắc giữ được nữa là con chó!…

    Tôi xóc lại cái quai ba lô, bước theo hút cái bóng nhà tôi đang đi xăm xắm xuống đồi.

    Đêm “thu đông” lạnh buốt. Rải rác trong những búi sim, mua rậm, bóng những người chạy giặc nằm ngả ngốn, chụm đầu vào nhau nói chuyện rì rầm. Trâu bò hàng đàn sồn sột gậm cỏ thầm trong tối. Tiếng con chó tự trong nhà cụ bếp Móm đưa ra vẫn nghe rõ mồn một “Ắng!… Ắng! Ắng!…”. Tiếng con chó da diết, nhọn hoắt xói vào ruột gan tôi. “Thôi để chuyến này về tao nuôi. Tao sẽ nuôi mày, tao không bỏ mày đâu…”.

    Tôi nhủ thầm với tôi một lần nữa như vậy.

    *
    * *

    Hai tháng sau tôi về. Giặc rút lâu rồi. Cuộc tấn công rầm rộ của chúng nó ngày ấy ai ngờ lại là cuộc đánh tháo cho đám quân mắc nghẽn ở giữa rừng già trong thị xã Bắc Cạn. Chúng nó tràn lên đâu trong vòng chỉ có nửa tháng thì rút hết. Vợ con tôi cũng đã dọn về nhà cả rồi.

    Dọc đường từ cơ quan về thăm gia đình hôm ấy tôi rất vui. Bao nhiêu nỗi vui dồn đến chen chúc rộn ràng trong ý nghĩ. Mấy tháng ở cơ quan, ngày lại ngày trông ra chỉ thấy cây già và núi thẳm bưng bít xung quanh, bây giờ về xuôi, tôi lại được thấy trời rộng, sông dài và những cánh đồng bát ngát. Tôi lại sắp được gặp vợ, gặp con tôi.

    Mỗi bước chân, bao nhiêu vui sướng. Nhưng mà tôi đã quên mất con chó khốn khổ ấy. Nhà tôi thấy tôi về, mừng quá cũng không kịp nhắc đến nó. Sau một trận giặc đánh lên, cái sống cái chết kề bên bây giờ mới được đoàn tụ, ai mà còn kịp nghĩ đến một con chó xấu xí!

    Một hôm tôi chợt thấy cặp kính trắng lấp loáng của Đặng cồn từ đầu ngõ đi vào, bấy giờ tôi mới giật mình, sực nhớ đến con chó. Tôi quay lại hỏi nhà tôi:

    - À, mình này! Con chó nhà ta đâu nhỉ? Mình chưa vào trong cụ bếp dắt nó về à?

    Nhà tôi đứng ngẩn ra một lúc. Có lẽ nhà tôi cũng không ngờ rằng tôi đã về bằng ấy ngày giời rồi vẫn không nói chuyện con chó ấy với tôi.

    - Nó chết rồi!… - Nhà tôi nói khe khẽ.

    - Chết rồi? Làm sao mà chết được?…

    Tôi trố mắt lên hỏi lại. Nhà tôi cúi mặt xuống, thở dài:

    - Nó chết thương lắm cơ mình ạ. Không phải nó chết trong cụ bếp Móm đâu. Nó về nhà ta nó chết đấy.

    Nhà tôi ngừng lại, cắn môi chớp chớp hai mắt nhìn ra ngoài sân. Lát sau, nhà tôi đứng dậy mời Đặng vào trong nhà, rót nước mời anh rồi mới tiếp tục câu chuyện.

    Chao ôi! Con chó xấu xí ấy, của tôi! Con chó từ lúc mua, đến lúc chết không được một lần vuốt ve! Nó đã chết một cách thảm thương và trung hậu quá. Từ hôm vợ chồng tôi gửi lại nó cho ông cụ bếp Móm, con chó không chịu ăn uống gì. Nó chỉ kêu. Nó kêu suốt ngày, suốt đêm. Một đêm, ông cụ bếp không thấy con chó kêu nữa, thì ra nó đã xổng xích đi đâu mất rồi.

    Hôm nghe tin giặc rút, ở trong khe đồn Khau Vắt dọn về, nhà tôi tạt vào nhà cụ bếp Móm định đem con chó về nhân thể, nhưng vào đến nơi thì nó không còn đấy nữa. Lúc ấy nhà tôi cũng yên trí là con chó mất rồi. Chắc chắn nó sẽ lạc vào một trại ấp nào đấy và người ta làm thịt nó.

    Nhưng khi nhà tôi về đến nhà. Bà con xóm giềng vừa chạy sang láo quáo thăm hỏi thì, ở ngoài vườn sau, có mấy tiếng chó hú lên thảm thương và ghê rợn.

    Từ sau bụi dứa rậm rạp, con chó khốn khổ ấy lảo đảo đi ra. Người nó run lên bần bật. Nó gầy quá, chỉ còn một dúm xương da xộc xệch, rụng hết lông. Nó đói quá, đi không vững nữa. Nó đi ngã rụi bên này, rụi bên kia. Rồi nó không còn đủ sức mà đi nữa. Nó nằm bệt trên đất, rúm người lại, lết lết lê dần về phía nhà tôi.

    Lúc ấy cả người nó chỉ còn có cái đuôi là còn ngó ngoáy được để mừng chủ và, cái lưỡi liếm liếm vào tay chủ. Khốn nạn con chó! Được gặp chủ nó mừng quá. Từ trong hai con mắt đờ đẫn của nó mấy giọt nước chảy ra. Lát sau thì nó không liếm được nữa, cái đuôi ngoáy yếu dần, yếu dần rồi im hẳn. Nó chết.

    Tôi tối sầm mặt lại, vừa thương xót con chó, vừa thấy xấu hổ. Quả thật tôi chỉ là một thằng tồi. Một thằng ích kỉ. Tôi chỉ nghĩ đến mình và vợ con mình. Đến như con chó mình nuôi, mình đối xử với nó có được như cái tình nghĩa của nó đối xử với mình đâu?

    Đặng vẫn ngồi im. Từ lúc đến, đến lúc nghe xong câu chuyện, Đặng vẫn ngồi im. Hình như câu chuyện con chó ấy của nhà tôi kể làm anh có điều gì áy náy, nghĩ ngợi.

    - Này, lâu nay cậu có được tin gì về vợ chồng Nhược Dự không?

    Lúc lâu sau Đặng chợt ngẩng lên nhìn tôi hỏi. Cặp môi mỏng dính của anh kéo xệch một bên lên thành một nụ cười. Anh tự trả lời câu anh vừa hỏi:

    - Nó dinh tê rồi! Nghe nói vào trong ấy nó viết báo, viết truyện chửi kháng chiến, chửi bọn mình đểu lắm.

    Cả hai chúng tôi cùng im lặng. Cái im lặng trang nghiêm ghẻ lạnh, thật khó chịu.


    Đôi khi nhớ - Chỉ là quên một nửa
    Mà lảng quên - là nhớ đến tột cùng
    Đôi khi khóc - Chỉ là buồn một nửa
    Mà nụ cười -là tê tái sầu thương


  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    VII

    Kỳ phùng địch thủ

    Văn Bình tỉnh dậy trong gian phòng tràn ngập ánh sáng. Chàng nheo mắt trước hai ngọn đèn măng sông lớn đặt trên bàn. Chàng cảm thấy đau rần ở bả vai và cổ, miệng buồn nôn, và dạ dầy nôn nao. Cảm giác này thường có sau khi bị đánh vào gáy bất tỉnh và thức dậy.

    Văn Bình nhìn chung quanh. Trong phòng không có ai. Chàng đang nằm trên băng ca vải, thứ dùng ngoài mặt trận để vận chuyển thương binh. Ánh đèn sáng quắc làm chàng bâng khuâng không biết là đêm hay ngày, nhưng chàng đoán là ngày vì lúc chàng chạy ra gần cửa động thì đêm đã gần tàn. Chàng bị mê man vì trúng đạn tiểu liên chứa thuốc ngủ cực mạnh.

    Bị địch bắt là thường trong nghề gián điệp nên Văn Bình không lo ngại. Miễn chàng còn sống, chưa bị tàn phế là được. Văn Bình mắm môi, duỗi chân tay. Chàng thấy mệt mỏi chứ không nhức nhối. Sung sướng, chàng mỉm cười. Với sức khỏe chưa bị hao tổn, chàng còn hy vọng chuyển bại thành thắng. Căn phòng có lẽ được xây dưới hầm đá vì tứ phía chàng không nhìn thấy vách núi. Tường bằng gạch đỏ, nền nhà lót đá lớn, chỉ có một cánh cửa duy nhất. Tì tay xuống băng ca, Văn Bình ngồi dậy. Một tiếng reo khoái trá nổi lên :

    -Kìa, hắn đã tỉnh.

    Lòng Văn Bình tràn đầy hối tiếc. Chàng đinh ninh trong phòng vắng vẻ ngờ đây bọn gác bên ngoài nhìn trộm qua khe cửa. Nếu biết chàng tỉnh, chúng sẽ không để yên. Sớm muộn chàng sẽ bị lôi lên phòng tra tấn. Cơ quan Hắc Y nổi tiếng trên thế giới về những thủ đoạn và dụng cụ tra tấn dã man. Dĩ nhiên chàng sẽ không khai nhưng chàng không hiểu sẽ chịu đựng được bao lâu.

    Ba tên lính gác vạm vỡ sồng sộc tiến vào, tay cầm tiểu liên. Một tên quát :

    -Tỉnh rồi hả. Nằm yên !

    Kháng cự với 3 khẩu tiểu liên đã nạp đạn sẵn không phải dễ nên Văn Bình lặng lẽ đưa tay chịu trói. Hai tên trí súng cầm chừng, tên thứ ba dùng dây ni lông nhỏ, bền như sợi thép để trói. Chàng nghiến răng khi dây lòi tói ác ôn ăn sâu vào da thịt. Dao thật sắc mới cắt được loại dây ni lông đặc biệt. Văn Bình vốn giỏi về ngoại công, chỉ cần gồng mình lên gân là bứt tung được dây thừng, nhưng đối với dây ni lông đặc biệt thì bất lực. Phương chi chàng bị trói theo kiểu Diên an. Trói theo kiểu Diên an nghĩa là trói 2 cánh tay quật ra sau lưng, cùi tay dính vào nhau, rồi sợi dây thừng vòng quanh cổ. nạn nhân luôn luôn nghẹt thở và không dám cử động mạnh vì sợi dây quanh cổ có tác dụng quái ác như cái thòng lọng.

    Chàng vừa bị trói giật cánh khuỷu thì một trái thôi sơn không biết từ đâu đến giáng mạnh giữa mặt chàng. Bọn gác đinh ninh miếng đòn phủ đầu này làm chàng nao núng. Chúng không ngờ là chàng còn nửa tỉnh nửa mê, và quả đấm trừng trị ngẫu nhiên trở thành thùng nước lạnh dội xuống người làm chàng tỉnh lại hoàn toàn. Chàng bị dựng đứng trong kềm tay của 2 tên gác lực lưỡng. Tên thứ ba bắt đầu tra tấn chàng một cách khoa học. Trước hết hắn thoi ngay vào mặt, sau đó mới nện sống bàn tay vào khớp xương, ngực và bụng.

    Văn Bình nhắm mắt chịu đau. Không phải lần đầu chàng bị đòn thù nên chàng không thèm rên la. Bỗng một mùi thơm quen thuộc thoảng vào mũi chàng. Dầu bị đau đìếng, chàng vẫn ngẩng đầu lên. Chàng bắt gặp tia mắt kỳ lạ của Tiểu Phi đang ngó chàng chăm chú. Mặt nàng lạnh ngắt như tảng băng Bắc cực. Sự thản nhiên của nàng làm Văn Bình giận sôi. Tiểu Phi mặc đồ chẽn, như y phục vũ nữ trên sân khấu. Áo quần bằng nhung đen óng ánh dán chặt da thịt làm nổi bật những đường cong tóe lửa của tấm thân cân đối như tượng nặn. Nhìn nàng, Văn Bình quên hết đau đớn.

    Tiểu Phi cười gằn:

    -Đây mới là trận đòn sơ kiến. Sau này anh sẽ được đối xử đặc biệt hơn nữa.

    Văn Bình cũng cười –cái cười ghê rợn- của người đàn ông không sợ tra tấn và chết chóc :

    -Hừ, không ngờ phía sau bộ mặt đẹp đẽ của cô lại là con thú thô bạo.

    Tiểu Phi nhổ nước bọt vào mặt chàng. Ba tên lính nhìn Tiểu Phi dường như đợi lệnh. Nàng nhún vai :

    -Các anh tặng cho tù nhân một bài học xứng đáng nữa.

    Rồi nàng ung dung ra ngoài. Trong phòng, Văn Bình lại bị tiếp tục ăn đòn tàn nhẫn. Chàng tiếp tục nghiến răng chịu đau nhưng chàng vẫn rình rập cơ hội trả đũa. Thừa cơ một tên vô ý, tay hắn nắm vai chàng không chặt, chàng vùng mạnh, nhoài chân phóng tạt một ngọn cước. Đòn đá của chàng vừa thần tốc lại vừa ác liệt khiến đối phương ngã lộn nhào, máu đổ đầy miệng. Tên thứ hai định quay bá súng giáng vào đầu chàng, song chàng đã bung ra đòn song phi, quét luôn khiến hắn rạp xuống đất.

    Văn Bình sắp triệt hạ tên còn lại song hắn đã kịp đánh trộm vào sau gáy chàng. Bị tấn công bất thần, chàng bủn rủn chân tay và té xỉu. Nhưng chàng chỉ bị đau điếng chứ không bất tỉnh. Chàng có cảm giác nền nhà xoay nghiêng vạn vật đảo tròn như chong chóng. Chàng định ôm đầu song hai tay đã bị trói chặt. Chàng đành nhắm nghiền mắt lại. Chàng bị đạp một cái vào giữa trán đau thừa sống thiếu chết. Máu đào chảy ri rỉ. Chàng thiếp đi dần dần.

    Chàng chỉ tỉnh lại khi nước lạnh đổ đầy người. Qua những đom đóm đen đỏ múa nhảy trước mắt, chàng nhận ra một khuôn mặt quen thuộc, vô cùng quen thuộc. Gương mặt này chàng đã gặp ít nhất hai, ba lần. Là điệp viên chuyên nghiệp, chàng chỉ gặp ai lần đầu là khắc sâu hình dáng vào trí óc, suốt đời không quên. Người đàn ông đứng trước mắt không có nét nào đặc biệt, ngoại trừ vầng trán hói khá rộng, cặp mắt đeo kiếng cận thị dày cộm và điếu thuốc lá thơm dài ngoằng ngày đêm vắt vẻo trên cái miệng dường như chỉ muốn ngậm kín, không muốn nói thành tiếng.

    Văn Bình nhớ rõ như mới xảy ra hồi hôm qua. Hắn là Woòng, đại tá Woòng, thủ lãnh điệp báo nguy hiểm của Bắc kinh. Hồi ấy, chàng thâm nhập lục địa Trung quốc, đặt chân lên bờ biển Phúc kiến sau khi rời Đài loan trên chiếc tàu ngầm bỏ túi. Chàng có trách nhiệm liên lạc với du kích quân quốc gia hoạt động trên đại lục. Đội lốt cán bộ mậuy dịch từ Hoa Bắc xuống, Văn Bình lẻn vào thành phố Thượng Hải điều khiển một vụ phá hoại đại qui mô khiến một nhà máy chế tạo võ khí hạng nặng bốc cháy và tan ra tro. Chàng chưa kịp tẩu thoát thì sa lưới công an cộng sản. Mặc dầu chàng đóng kịch khéo léo, bọn Hắc Y vẫn phăng ra chàng, và chàng bị giải đến văn phòng đại tá Woòng, tổng giám đốc phản gián Thượng Hải.

    Suốt ba ngày ba đêm liên tiếp, Woòng đích thân tra tấn chàng, song chàng nghiến răng không khai. Chàng tưởng định mạng bắt chàng bỏ thây nơi đất khách quê người, nhưng vào phút chót, khi sắp kiệt lực, chàng lại may mắn gặp một cô gái đa tình. Nàng là em ruột đại tá Woòng. Tạt qua phòng giam, nàng tình cờ thấy chàng và đem lòng yêu. Văn Bình rủ nàng đi trốn. Đêm ấy, trời tối như mực tàu, Văn Bình bẻ chấn song sắt bằng cái cưa nhỏ xíu do người đẹp gởi vào. Ra đến sân lao, chàng hạ sát 3 tên lính gác trong vòng 3 phút không gây tiếng động nhỏ.

    Nàng đợi chàng sau tường nhà giam trên lưng con ngựa bạch. Chàng phóng một mạch vào rừng với nàng ngồi sau. Vì ngựa hí ầm ỹ lọt vào tai đơn vị tuần tiểu, nên đại tá Woòng sai nhân viên đuổi theo ráo riết. Cho dẫu ngựa ngậm thẻ, đại tá Woòng cũng biết vì trong số bọn gác bị giết có một tên còn thoi thóp. Hắn bò lại đìện thoại gọi về phòng riêng đại tá Woòng.

    Văn Bình xuyên rừng ra bờ biển. Sóng vỗ rì rào phía dưới. Đằng sau, đoàn xe díp công an chiếu đèn pha sáng rực một vùng. Văn Bình muốn đi xa nhưng con ngựa đã thở phì phò. Đến khúc rẽ, con vật đáng thương ngã gục. Văn Bình đành dắt em gái đại tá Woòng chạy ngược lên đỉnh núi hiểm trở. Nếu trời chậm sáng, cả hai có hy vọng thoát hiểm. Ác hại cho chàng là chân trời đã bắt đầu rạng đông. Nàng trúng đạn vào đùi, chàng phải cõng trên vai trốn vào thạch động hun hút. Một tên công an lò dò đi qua, Văn Bình đoạt khẩu súng máy rồi án ngữ cửa động. Chàng kháng cự từ sáng đến chiều mà không đầu hàng. Tên địch nào ló đầu ra là chàng bắn chết. Đại tá Woòng không dám oanh kích sợ em gái thiệt mạng. Vô hình chung, đại tá Woòng đã cứu Văn Bình. Máu chảy nhiều, người con gái mảnh khảnh nằm sóng sượt trên tảng đá, mắt lạc thần. Nàng vẫn yêu chàng. Nàng không hối tiếc đã bỏ nhà, bỏ anh để theo chàng.

    Chàng có thể lợi dụng lúc hoàng hôn đổ xuống để đào tẩu song chàng nhất quyết ở lại. Chàng không lìa bỏ được nàng. Nhưng đến nửa đêm nàng tắt thở. Trước khi chết, nàng đã chỉ con đường bí mật trốn ra biển. Chàng sốc nàng lên vai –nhưng lần này nàng chỉ là cái xác không hồn- men theo thạch động khúc khuỷu. Chàng làm đúng lời nàng trối trăng : nàng xuất thân từ một gia đình ngư phủ, nàng mê bãi biển, mê phiêu lưu trên đại dương, nên khi chết nàng muốn trở về với đại dương. Văn Bình thả nàng xuống nước biển lạnh buốt, lòng chàng thắt lại trong cơn đau đớn ê chề.

    Trong khi đại tá Woòng bố trí cuộc bao vây, sửa soạn tấn công thì Văn Bình đã lặng lẽ chèo thuyền ra khơi. Đêm hôm ấy, chàng đến điểm hẹn và gặp tiềm thủy đĩnh. Chàng thoát chết, nhưng lòng chàng vẫn ở lại lao thất Thượng Hải với hình ảnh cô gái Trung hoa đa tình.

    Đại tá Woòng giương cặp mắt cận thị nhìn Văn Bình. Chàng hơi phập phồng lo ngại nhưng chàng trấn tĩnh được ngay. Chàng không tin là Woòng có thể nhận ra chàng. Sau chuyến công tác tại lục địa, chàng đã thay đổi diện mạo ba, bốn lần.

    Đại tá Woòng vẫn giữ giọng nói đay nghiến ngày nọ. Hắn hỏi thuộc viên :

    -Tên gián điệp tỉnh chưa ?

    Một người đáp :

    -Thưa rồi.

    -Nó chịu khai chưa ?

    -Thưa chưa.

    -Bắt nó khai đi, còn đợi gì nữa ?

    Đại tá Woòng nói xong quày quả ra ngoài. Ra đến cửa, không hiểu sao hắn quay lại, nhìn kỹ Văn Bình lần nữa. Hắn buột miệng :

    -Quái, trông mặt thằng này quen quá ! Đã biết nó là ai chưa ?

    Văn Bình giật mình thon thót. Tiểu Phi đã biết rõ về chàng . Chàng cảm thấy dại dột đã xưng tên thật với nàng. Nếu đại tá Woòng phăng ra tung tích chàng, hắn sẽ không cho chàng sống thêm phút nào nữa.

    -Thưa chưa.

    Đại tá Woòng gắt :

    -Báo cho Vương Sinh chưa ?

    -Thưa chưa.

    Woòng thuận tay tát trái tên thuộc viên như trời giáng :

    -Mày diễn trò hay sao mà hễ tao hỏi là cứ trả lời chưa ?

    Tên lính mặc đồ đen bị đánh bạt vào vách đá. Hắn lóp ngóp bò dậy, chưa hoàn hồn thì đại tá Woòng đạp tiếp một cái nữa nên thân, máu tuôn đầy khuôn mặt ngơ ngác. Đại tá Woòng quát :

    -Cút đi, đồ ăn hại.

    Cơn nóng giận của đại tá Woòng đã vô tình hỗ trợ cho Văn Bình. Bị thượng cấp quát đuổi, bọn lính gác lủi thủi kéo ra ngoài. Trong phòng chỉ còn lại mình chàng với mùi thuốc lá thơm hắc phảng phất. Chàng cựa mình nhè nhẹ để thử mực độ dẻo dai của gân cốt. Toàn thân chàng đau rần, chàng vừa quay mặt nhấc đầu thì có cảm giác như trái tim bị kim nhọn đâm lút. Chàng cố gắng thở ra hít vào thật đều như lực sĩ sửa soạn chạy đua nước rút 100 thước trên sân vận động.

    Đèn măng sông vẫn tỏa ánh sáng xanh xanh. Văn Bình nằm dán xuống băng ca vải khi nghe tiếng chân người trở vào. Qua kẽ mắt, chàng thấy một tên lính gầy khô, mặt choắt bằng hai ngón tay tréo. Tên lính vừa uống rượu xong, hơi men nồng nặc. Hắn kéo ghế lại gần băng ca, đặt súng xuống đất. Nhìn quanh không thấy ai, hắn rút trong túi dết ra một chai rượu nhỏ, trịnh trọng mở nút, đưa lên miệng nốc một hơi. Uống xong, hắn xuýt xoa ra vẻ khoái trá. Đoạn lại xì xụp tiếp cho đến khi rượu hết sạch. Văn Bình không thể trì hoãn nữa. Chàng đợi hắn cúi xuống, cất chai vào túi dết mới vùng dậy nhanh như tên bắn. Tên lính chưa kịp hiểu ất giáp thì bàn tay chàng đã xòe ra chém xuống. Nếu chàng không mất sức sau cuộc tra tấn thì phát atêmi đã bửa đôi đầu tên lính. Nhưng dầu sao nghệ thuật cao cường của một võ sư dầy kinh nghiệm chiến trận như chàng đã có thể bù lại sức khỏe bị suy tổn. Tên lính ngã lăn, khẩu súng bị hất đổ. Văn Bình trườn theo, bàn tay rón lấy khẩu tiểu liên. Có súng máy, chàng vững tâm hơn. Chàng lột áo chẽn đen của tên lính mặc vào người. Nạn nhân bé nhỏ nên chàng không thể cài nút song chàng không bao giờ quan tâm đến thời trang nữa vì tên lính khác đã lùi lũi bước vào. Bắt gặp Văn Bình lúi húi trước xác chết, hắn khựng lại như võ sĩ trên đài sắp bị nốc ao. Văn Bình húc đầu vào bụng hắn thật mạnh. Bị đánh bất thần, hắn té ngửa. Văn Bình đè hắn xuống, quạt vả tới tấp. Hắn chỉ kêu lên được một tiếng « trời ơi » rồi nín thinh.

    Văn Bình phủi tay đứng dậy. Chỉ có một lối ra vào duy nhất. Chàng rón rén bước ra nhưng một tiếng động khả nghi làm chàng chùn chân. Chàng sực nhớ là bọn gác trong phòng gồm 3 tên. Còn bên ngoài chàng không nhớ bao nhiêu. Chàng bèn nép vào tường nghe ngóng. Một tên lính vạm vỡ ló mặt ra, chàng đợi hắn bước qua cửa mới hạ bá súng tiểu liên. Chàng giết người êm ru, ngoại trừ tiếng kêu của bá súng đập tan sọ nạn nhân, không còn âm thanh nào nữa. Chất óc trắng nhờn pha lẫn máu đỏ phọt tung tóe bắn cả vào mặt chàng. Tuy quen, chàng cũng buồn nôn. Khi ấy chàng mới nhớ là bụng đói cồn cào. Chàng chưa ăn hột cơm nào vào bụng, nước cũng chưa được uống hớp nào nên cuống họng chàng khô ran.

    Chàng núp sau cửa hồi lâu. Tứ phía vắng tanh, không một bóng người. Thản nhiên, chàng tắt đèn măng sông, căn phòng chìm vào tối đen. Xong xuôi, chàng lách ra ngoài. Nhờ cặp mắt dạ hành, chàng nhìn xuyên qua màn đêm dễ dàng. Con đường thuôn nhỏ và ngoằn ngèo dẫn chàng sâu vào hầm núi hun hút. Gió lạnh thốc lại từng hồi mang mùi hôi tanh lộn mửa. Được một quãng, có đèn le lói sáng. Chàng mỉm cười khi thấy một tên lính bồng súng gác. Đối với bọn lính ốm o, xanh mét vì đói ăn và thiếu vận động này, chàng chỉ búng nhẹ là chúng ngã gục. Chàng tiến đến sau lưng tên lính êm như lá rụng. Và nện bá súng vào gáy.

    Nhưng Văn Bình đã đoán lầm.

    Đối phương không thuộc loại giá áo túi cơm mà chàng đã gặp. Tuy mã ngoài xanh rớt mồng tơi, gió thổi là xỉu, tên lính lại có phản ứng nhanh nhẹn và tinh tế khác thường. Nghe tiếng gío, hắn ngồi thụp xuống. Vì khinh địch, Văn Bình hụt đòn và mất trớn. Nếu không dầy công luyện tập chàng đã lao luôn vào khoảng không. Trong khi ấy, đối phương xỉa mạnh lưỡi lê nhọn hoắt vào bụng chàng. Văn Bình bước tréo một bộ để tránh. Nhát thứ hai đã phóng tới, chàng liền quay súng gạt cánh tay tên lính. Nhưng nền đất trơn như thoa mỡ khiến Văn Bình trượt ngã, khẩu súng rớt xuống. Tuy vậy, chàng vẫn đủ thời gian giờ tránh nhát lưỡi lê đâm xẹt vào mặt. Chàng ưỡn người, lưỡi lê sáng loáng lệch nhẹ ra ngoài, cách mắt chàng chưa đầy một phân.

    Hú vía ! Văn Bình xuống tấn tung quyền đánh trả. Hắn nâng súng lên đỡ. Văn Bình phóng ra một ngọn độc cước. Hắn cũng né thoát. Song hắn không ngờ được Văn Bình có tài tuyệt vời. Bàn chân này vừa cất lên thì bàn chân kia đã vung ra, và ít ai đủ bản lãnh chống lại được ngón song phi độc nhất vô nhị của chàng. Nhưng một lần nữa, tài né đòn của tên lính đã được biểu diễn một cách tuyệt vời. Hắn ngửa người trong một thế võ Thiếu lâm kỳ diệu, ngọn cước nhằm phá vỡ xương hàm đối phương đã trật mục phiêu và sướt nhẹ qua vai. Văn Bình chưa kịp thu chân về, tên lính đã xỉa lưỡi lê vào họng chàng. Chàng đứng yên, chờ mũi nhọn xẹt gần cổ mới vung bàn tay nhanh như điện chớp đánh bật võ khí của địch đồng thời nâng cao đầu gối với dụng ý tấn công vào bao tử.

    Tên lính rủa một tiếng tục tĩu, buông tay cho khẩu súng rớt xuống, song không phải để trốn chạy mà là để sửa soạn cho ba đợt phản quyền, bàn tay trái xòe rộng đánh vào mặt chàng, chân phải nhằm đan điền còn cùi trỏ tay phải thọc thẳng vào huyệt huyền cơ trên cườm tay chàng. Ba đòn đánh cùng một lượt này là thế « Hiện long tàng hổ » của Thiếu lâm quyền, chỉ trúng một đòn chàng cũng có thể bị trọng thương. Tuy nhiên, nếu Văn Bình đã vận công thì đối phương phải có nghệ thuật bậc thầy mới tạo nổi thương tích, bằng không chỉ như gãi ngứa. Tên lính nhảy lùi để tỏ vẻ kinh ngạc vì cả ba đòn đều trúng má, đan điền và cườm tay mà Văn Bình vẫn nhởn nhơ như không. Hơn thế nữa, chàng lại mỉm cười tiến lên, đấm vòng vào ngực và bụng địch. Đó là thế « Phiên lôi cổn thiên », luôn luôn đi song hành với thế « Hiện long tàng hổ ». Lẽ ra tên lính phải tiếp tục tấn công bằng thế này mới đúng quyền pháp. Sự ngạc nhiên đổi thành kinh hoàng khi hắn thấy Văn Bình biến thế « Phiên lôi cổn thiên » bỗng rụt lại. Hắn hoa mắt, chưa kịp đối phó thì Văn Bình đã khèo chân làm hắn ngã còng queo trên đất. Chàng khoèo chân rất nhẹ mà tên lính vẫn đau điếng như thể xương ống quyển bị búa tạ đập trúng.

    Văn Bình dựng hắn dậy, gõ cạnh bàn tay vào lưỡng quyền. Tên lính kêu van ai ái bằng tiếng tàu.

    Văn Bình vả miệng hắn :

    -Mày có im không ?

    Hắn câm họng lại ngay. Nhưng rồi lại rên rỉ một cách vô cùng đau đớn. Ánh đèn le lói chiếu hắt vào khuôn mặt xương xẩu và đen đủi của tên lính tàu thiểu số. Văn Bình kềm ngón tay vào khớp xương bả vai hắn, miệng hỏi :

    -Nhà giam ở đâu ?

    Chàng người tiếng tàu rất đúng giọng. Tên lính mở to mắt sửng sốt nhìn Văn Bình nhưng lì lợm không đáp. Chàng dọa :

    -Nếu mày ngậm miệng bắt buộc tao phải bẻ gãy xương vai của mày.

    Tên lính vẫn nín thinh. Văn Bình ấn ngón tay cái, tên lính thét lên. Rắc một tiếng, xương quai xanh bị bóp gãy đôi. Văn Bình thêm một miệng đòn khoa học nữa vào bụng. Hắn quằn quại trên vũng máu và không kêu la nữa. Văn Bình dằn từng tiếng :

    -Mày muốn sống hay muốn chết ? Muốn sống phải dẫn tao đến hầm giam người, bằng không …

    Tên lính run rẩy :

    -Tôi … tôi xin …

    Văn Bình bóp khớp xương gãy :

    -Mày có nói hay không ?

    Nạn nhân ú ớ :

    -Cóóó …

    Văn Bình lôi hắn đứng lên, đẩy đi trước. Trong tia sáng nhợt nhạt, hắn trông thảm hại như đống giẻ rách đẫm máu. Văn Bình nhặt súng, tháo vứt lưỡi lê, rồi lặng lẽ theo sau. Chàng dặn tên lính :

    -Một lần cuối, tao báo cho mày biết mày chỉ khỏi chết nếu chịu đưa tao đến nhà giam. Trên đường đến lao thất, mày phải ngậm tăm, không được cất tiếng. Nếu mày không tuân, tao sẽ giết chết như ruồi.

    Tên lính lắp bắp :

    -Thưưưa, thưưưa … tôôôi xiiin tuân.

    Hắn dẫn Văn Bình đi sâu mãi vào bên trong. Con đường dưới hầm đá vắng tanh. Gió núi hun hút thổi phà hơi lạnh vào mặt chàng. Chàng cảm thấy mỏi mệt lạ thường. Chàng mỏi mệt vì dư vị các cuộc tra tấn còn đọng lại các khớp xương, thớ thịt. Nhưng chàng cũng mỏi mệt phần nào vì đói.

    Tên lính đứng lại, Văn Bình hỏi :

    -Mày định lừa tao ?

    Hắn đáp, giọng van lơn :

    -Tôi đâu dám phỉnh phờ ông. Ông rẽ sang bên tả đếm đúng 10 bước thì thấy một cánh cửa. Ngoài cửa có hai người gác. Bên trong chỉ có một người.

    -Cả thảy 3 người ?

    -Vâng. Ông hạ cả ba mới lọt được vào nhà tù. Tôi đã giữ đúng lời cam kết, xin ông buông tha.

    Văn Bình nhìn hắn thương hại :

    -Kể ra mày phải chết để giữ bí mật, nhưng thôi, tao cũng đại xá cho mày.

    Nói đoạn chàng phóng nhẹ atêmi vào thái dương hắn. Chàng đã tính kỹ lưỡng, ngón đòn tuyệt diệu này sẽ làm đối phương mê man trong vòng một giờ đồng hồ. Thời gian ấy đã đủ cho chàng hoàn thành kế hoạch và rút khỏi mật khu.

    Tên lính gieo người xuống đất như bao gạo vô tri giác. Theo lời dặn, Văn Bình quẹo trái. Trước mặt chàng, 2 tên lính gác mặc đồ đen đang ngồi ngủ gà ngủ gật bên cánh cửa gỗ đóng kín. Mỉm cười khinh bỉ, Văn Bình tiến lại. Chàng đến sau lưng mà cả hai không nghe động. Chàng nắm lấy lưng áo của chúng rồi dộng vào nhau bốp một tiếng khô khan. Cả hai ngã chổng kềnh, không kêu được một tiếng.

    Cửa hé mở. Chắc tên gác trong phòng vừa nghe tiếng động. Bất chấp trở ngại, Văn Bình ung dung bước vào. Chàng xuất hiện trên ngưỡng cửa lẫm liệt như thiên thần. Đối phương là một thanh nên cao gần 2 thước, cởi trần, bắp thịt cuồn cuộn. Vai hắn dầy gấp đôi vai chàng, ngực hắn nhô ra tròn trịa, bụng nhỏ thó, tăng thêm vẻ đẹp lực sĩ cân đối. Hắn mặc quần ngắn, thắt lưng da to tướng, đeo la liệt dao rừng, lựu đạn và súnglục. Da hắn đen sì, trông như sắt. Mắt hắn to tướng và dữ tợn, người yếu bóng vía nhìn hắn phải run bần bật hoặc bất tỉnh vì sợ hãi.

    Nhưng Văn Bình vẫn thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Trong đời điệp viên ngang dọc, chàng từng đọ sức với những cây thịt đồ sộ hơn nhiều. Giới dô vật Sumô ở Nhật cân từ 140 kí trở lên mà chàng coi như trò chơi, đôi khi chỉ cần nắm vai là hất tung năm, bảy thước. Chàng từng thi tài với nhiều võ sĩ vô địch.Trái đấm có thể đánh ngã con bò mộng của chàng đã làm nhiều quán quân quyền Anh sứt mũi, vỡ miệng. Nghệ thuật đặc biệt của Văn Bình là lấy yếu đánh mạnh, lấy nhanh đánh chậm. Vì vậy chàng chỉ là võ sư đệ tứ đẳng đai huyền đen mà tài ba chàng không thua kém những bậc thầy đệ lục trở lên.

    Thái độ ngạo nghễ của Văn Bình làm gã cao lớn tức giận. Hắn phồng bộ ngực lông lá, co tay cho bắp thịt nổi tròn, rồi mỉm cười khinh bỉ :

    -Mày vào đây làm gì ? Mày biết đây là chỗ chết không ?

    Văn Bình nghiêng chào :

    -Biết. Biết nên mới đến.

    Vừa nói, chàng vừa xuống tấn bái tổ khôi hài theo võ Thiếu lâm. Gã bị thịt kia cười khà khà rồi hoành tay, giáng vào đầu chàng. Đối với người Việt thì Văn Bình là hạng cao –vì ít ra chàng cũng cao hơn thước bảy- nhưng đứng bên hắn, chàng chỉ là chú lùn. Chàng ước lượng hắn nặng trên một tạ, và trái đấm của hắn thừa sức phá xụp bức tường xi măng kiên cố.

    Muốn cho hắn biết tay, Văn Bình không thèm đỡ. Chờ quả thôi sơn đến gần đầu, chàng mới lách nhẹ. Văn Bình trêu tức :

    -Hụt rồi. Sao không nhắm trúng ?

    Theo kinh nghiệm, kẻ có thân hình to lớn quá khổ thường tự ái hão. Bị trêu tức, họ thường không giữ được bình tĩnh và trở nên loạc choạc. Nghe Văn Bình riễu, hắn rít lên một tiếng có thể làm vách núi đổ nghiêng, và tung ra phát atêmi mạnh như vũ bão. Văn Bình lùi lại tránh đòn. Chàng không dám miệt thị hắn nữa. Văn Bình lại lùi thêm một bước. Chàng định lập kế lừa hắn rượt theo để hạ độc thủ bằng ngón song phi thần sầu. Song chàng quên bẵng là ở thắt lưng hắn còn dao, còn súng. Gã khổng lồ thuận tay rút dao và mỉm cười đắc chí :

    -Hừ, để cho mày nếm thử.

    Văn Bình nhăn mặt :

    -Đồ hèn. To lớn như xe tăng mà phải dùng khí giới.

    Hắn múa dao vòng tròn :

    -Tao không có thời giờ khí khái xằng. Nếu mày muốn lưu thân thì giơ tay đầu hàng. Bằng không, tao sẽ xin mày túi mật.

    Văn Bình không đáp. Chàng đăm đăm ngó hắn không chớp. Hắn nhảy sồ lại và đâm thẳng yết hầu chàng. Chàng tránh né gọn gàng đồng thời đạp xéo vào huyệt fukutô trên dùi non. Tức khắc gân đùi hắn co rúm. Hắn loạng choạng trên nền nhà. Văn Bình tiến sát người hắn, xòe bàn tay phạt ngang mạng mỡ. Bị đánh vào yếu huyệt, hắn đau buốt thấu tạng phủ. Nếu là người khác thì đã bất tỉnh, nhưng nhờ sức khỏe vô song hắn chỉ kêu đau nhưng chưa té ngã. Miếng đòn đau làm hắn hăng máu, quật mạnh cánh tay vào vai chàng. Văn Bình đảo người nhưng vì hắn phản công thần tốc trong khi chàng lừng khừng nên bị chạm đòn vào hông. Chàng chếnh choáng như say rượu, phải dựa lưng vào tường. Quã gã cao lớn có sức mạnh dị thường. Nếu hắn đánh giữa ngực, chàng đã hồn du địa phủ. Thừa cơ, Văn Bình nổ đom đóm mắt, hắn đánh dấn thêm, đấm vèo vào mặt chàng. Chàng bị trúng xương càm, tưởng như hàm dưới vỡ tan. Chàng lảo đảo và ngã ngồi xuống.

    Hắn reo mừng như đứa trẻ. Văn Bình nhịn đau chờ đối phương ngồi xuống mới ra tay. Hắn lượm con dao bị rớt, dắt vào thắt lưng rồi vạch mi mắt chàng xem xét. Cơ hội ngàn năm một thuở đã tới, chàng vận khí lên đầu ngón tay, chọc ngược lên mắt đối phương. Ngón tay của Văn Bình đã được luyện thành dùi sắt. Ba mũi dùi đâm xuyên thịt, gần tử huyệt utô ở giữa hai mắt, máu vọt có vòi. Gã cao lớn rú lên thảm thiết. Văn Bình đạp luôn trúng bụng. Hắn ngã lộn hai vòng trên đất, một tay vẫn che mặt. Văn Bình hạ độc thủ ngay màng tang. Óc hắn bị rung chuyển dữ dội. Rồi thần kinh bị tê liệt. Hắn nằm ngửa nhìn lên không, cặp mắt ốc nhồi mở trừng trừng chứa đầy ngơ ngác. Hắn ngơ ngác là đúng vì từ khi làm người đến nay, hắn chưa từng thua ai. Ngay cả những lần tỉ thí ngang ngửa trên võ đài. Xuống âm ti, hắn còn mang theo ân hận và tủi nhục.

    Văn Bình gượng dậy. Miếng đòn vào hông còn làm chàng ê ẩm. Chàng nhìn chung quanh. Căn phòng xây bằng đá ong trống trơn, chỉ có ngọn đèn bão đặt trên chiếc bàn xiêu vẹo. Văn Bình cầm đèn ra xô cửa. Đó là cửa hầm. Văn Bình đã nghe nói nhiều đến nhưng nhà hầm giam người bí mật trong mật khu R. Giờ đây chàng mới được chứng kiến tận mắt. Chàng hít thật dài cho dưỡng khí tràn đầy lồng ngực trước khi tuột xuống hầm sâu.

    Ngọn đèn bão lắc lư như muốn tắt khi Văn Bình đặt chân lên nhưng bậc đá ướt át và bẩn thỉu. Mùi hôi thối nghẹt thở theo gió bay lại. Bóng chàng chiếu hắt lên nền tường đen sì, lung linh như con ma cụt đầu. Văn Bình đứng lại, nâng ngọn đèn bão lên khỏi đầu để nhìn được xa hơn. Trước mặt chàng hiện ra một quang cảnh vô cùng thương tâm. Một thiếu phụ trần truồng co quắp trên đất. Nghe động, nàng nhỏm dậy. Máu me phủ khắp người nàng. Nàng thốt lên một câu ai oán :

    -Đồng chí đấy ư ?

    Văn Bình lặng thinh. Chàng biết thiếu phụ là một trong những nữ binh chuyên bán vui cho đàn ông trong các mật khu do Quốc tế Tình báo Sở thiết lập. Thiếu phụ bị ném xuống hầm có lẽ vì phạm lỗi. Theo lệ thường, phạm nhân bị lột truồng để khỏi tìm cách trốn.

    Văn Bình đáp, giọng đầy thương xót :

    -Không, tôi không phải là lính gác. Tôi đến để cứu cô.

    Thiếu phụ thở dài :

    -Ông là ai mà đến cứu tôi ? Tôi ở dưới hầm từ bốn tháng nay. Tôi bị lao phổi nặng, thế nào cũng chết. Dầu tôi khỏe mạnh cũng vô ích, ông ạ. Vì …

    Thiếu phụ ngưng bặt. Đoạn nàng nghẹn ngào :

    -Ông có nhìn thấy mắt tôi không ?

    Văn Bình bàng hoàng như vừa tỉnh cơn ác mộng. Chàng bàng hoàng vì mắt thiếu phụ chỉ còn tròng trắng đục lờ lờ. Đôi mắt ấy ngày xưa hẳn là đẹp lắm. Chàng còn thấy làn mi dài, lông mày hình cánh cung, dư ảnh của thời oanh liệt khiến biết bao chàng trai say đắm. Giờ đây chỉ còn lại hai lỗ trống hốc gớm ghiếc, luôn luôn nheo lại như sợ ánh sáng và sợ thực tại phũ phàng.

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •