Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Muốn đoạt được hạnh phúc trong gia đình, muốn có một người bạn đời lý tưởng, việc đó không quan trọng bằng tự hỏi chính mình đã là người lý tưởng chưa đã?
Lelend Foster Wood
Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12
Results 11 to 14 of 14

Chủ Đề: Con Kỳ Lân Cuối Cùng

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Con Kỳ Lân Cuối Cùng

    Con Kỳ Lân Cuối Cùng

    Tác giả : Peter S. Beagle + Doãn Quốc Sỹ

    Nguyên tác: THE LAST UNICORN của Peter S. Beagle



    New York xuất bản lần Thứ Tư, 1972.

    Copyright © 1968 by Peter S. Beagle

    Bản dịch Việt văn của Doãn Quốc Sỹ, do Hiện Đại Thư Xã xuất bản, với sự chấp thuận của tác giả Peter S. Beagle.

    HIỆN ĐẠI THƯ XÃ

    28, Phùng Khắc Khoan SAIGON - Đt: 93771


    TỰA CỦA DỊCH GIẢ

    Đầu xuân năm nay, (1973), tôi được anh bạn thân trao cho cuốn THE LAST UNICORN với lời giới thiệu trước rằng đây là một trong những best-sellers hiện thời. Tôi vốn không tin cẩn những best-sellers nên cũng chỉ hững hờ đọc mươi trang đầu, nhưng rồi kế đó tôi đọc miết mải và đọc kỹ. Peter S. Beagle là một trong những tác giả Tây Phương hiếm hoi thấu hiểu tinh thần Dịch lý âm trung chi dương, dương trung chi âm, và tinh thần phá chấp, vô cầu cực kỳ thanh thoát của Thiền. Tôi dịch THE LAST UNICORN với một tinh thần tri kỷ.

    Hãy xin ghi chú rất nhanh quan điểm dịch của tôi. Tôi muốn tác phẩm được thật gần gũi với độc giả Việt Nam, nên chủ trương dịch thật thoát nghĩa. Rất nhiều khi tôi phải thêm lời vào cho tròn trịa ý của nguyên tác, và cũng đôi khi tôi tước bỏ đi một vài ý nhỏ xét ra chỉ làm rườm lời tối nghĩa với độc giả Việt Nam. Đặc biệt những bài thơ, những bài đồng dao trong tác phẩm, hầu hết tôi chỉ giữ lấy ý chính, còn hoàn toàn sáng tác lại theo lời Việt, tinh thần Việt. Tất cả những thay đổi nhào nặn nhỏ đó chỉ để phục vụ nguyên tác, luôn luôn theo sát nguyên tác về ý, cũng như về giọng điệu. Đặc biệt cách viết và trình bày đối thoại, tôi cố ý giữ đúng theo dáng dấp nguyên bản, vì đó là nét đặc biệt của văn chương Anh ngữ mà tôi muốn chúng ta làm quen dưới hình thức Việt ngữ.

    Còn về nội dung CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG - THE LAST UNICORN ra sao đây? Tôi không dại gì tiết lộ trước tình tiết câu truyện ra đây để các độc giả mất thú bất ngờ, chỉ xin ghi mấy cảm nghĩ nhân đọc và dịch CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG mà nẩy sinh. Những cảm nghĩ rất rời rạc, tôi cố ý vậy và cũng chẳng thể nào khác hơn, nhưng khi các bạn đọc xong tác phẩm những cảm nghĩ rời rạc đó sẽ kháp lại thành một hệ thống tô đậm mang nhiều ý nghĩa hơn. Xin được tuần tự nêu như sau đây:

    - Kỳ lân, lý tưởng chân thiện mỹ, nay với người đời chỉ còn là một huyền thoại thôi hay sao? Có thực người đời ngày nay sa đọa đến nỗi không những quay đi, mà còn cười mũi vào những gì là lý tưởng chân thiện mỹ, nhìn con kỳ lân cuối cùng mà cho là con ngựa cái trắng? Biết kính trọng kỳ lân, mỉa mai thay, lại là lũ gà, vịt, ngan, ngỗng, và bất kỳ con vật lớn nhỏ nào. Nhận được ra kỳ lân chỉ có mấy người: Schmendrick và Molly vốn yêu kỳ lân; Bà Má Định Mạng và Vua Haggard, kẻ thì muốn dùng kỳ lân như phương tiện, kẻ thì muốn độc quyền kỳ lân.

    Kể ra giữa đám người trần mắt thịt nhìn kỳ lân ra ngựa cái, thì kẻ nhận ra kỳ lân, dù với tâm trạng nào, cũng vẫn là những cặp mắt tri kỷ. Có điều Bà Má Định Mạng ở vào trường hợp tài bất cập chí, thực tội nghiệp, như đứa trẻ cố sử dụng cây trùy lớn hơn mình và bị trùy đè bẹp. Giá trị phù phép của Bà Bá Định Mạng nhẹ như hình nộm mà lại nhốt giữ hai trái núi Thái Sơn của Thiện (lân) và của Ác (ác điểu Celaeno). Bùa phép chỉ là thứ bụi phấn vô cùng mong manh phủ ngoài, khi được tự do, những thứ thiệt cỡ lớn đó chỉ sẽ rùng mình là phủi đi hết, có còn gì nữa đâu. Sự thực nung chảy tà thuyết. Bi kịch của những kẻ tài bất cập chí, đi vào tà đạo lừa người và tự lừa mình bằng ảo thuật là ở đó. Chúng ta há chẳng đương sống trong thời đại yêu thuật của tuyên truyền chính trị? Vua Haggard mới đích thực là phù thủy thứ thiệt đại diện cho Ác, kẻ muốn độc quyền kỳ lân, kẻ có một chính sách vô úy, dùng Con Bò Mộng Đỏ làm phương tiện khủng bố, đẩy hiệu năng tới mức vô tiền tuyệt hậu. Chỉ còn chút xíu nữa, bắt nốt con kỳ lân cuối cùng, là ông ta làm bá chủ, dìm cả thế giới vào vùng ảo thuật đen của ông, trong đó tất cả những vì sao lý tưởng đều bị dập tắt ngấm.

    Trong thế cheo leo chỉ còn đường tơ kẽ tóc đó, phải làm thế nào để cứu mình và cứu người? Thực ra chẳng ai cứu nổi mình, nếu mình không có ý chí tự cứu mình trước. Điều này chẳng mới lạ gì, nhưng không vì thế, mà chúng ta không nhắc nhở luôn, khi có dịp. Trí nhớ con người nào hơn gì thỏ, dao năng mài mới sắc. Vai trò của chàng ảo thuật gia tưởng như nửa mùa, Schmendrick là ở đó. Chàng là hiện thân của nếp sống nghệ sĩ, chân thành trong thiên nhiên, tiên tri tiên giác dưới hình thức lẩm cà lẩm cẩm, đã dạy ta một cách trọn vẹn nhất về cái nhìn toàn diện và nếp sống vô cầu. Kỳ lân tiếc nuối khi phải trở về với bất tử, Schmendrick tràn trề hạnh phúc khi được trở lại kiếp phù du có sống có chết, nhưng chính vì có sống có chết mà trở thành sống động và quyến rũ muôn vàn, trong đó thiện ác đều có vai trò của chúng. Cái nhìn sâu sắc nhất của Peter S. Beagle chính là ở điểm này.

    Tình yêu tất nhiên có sự hiện diện và đóng giữ vai trò tích cực lớn lao của nó. Nếu như con kỳ lân cuối cùng không qua kinh nghiệm làm người có sống có chết, có tình yêu trong cõi vô thường, con kỳ lân tất cũng bị dồn nốt xuống biển để cho vua Haggard hoàn toàn làm chủ thế giới bằng thứ ảo thuật đen của ông, dưới trướng là thứ phương tiện vô biên, sự khủng bố của Con Bò Mộng Đỏ. Chính tình yêu là điểm le lói cuối cùng nổ tung thành cả một vùng hào quang cứu lấy thế giới chỉ còn cách sự diệt vong có đường tơ kẽ tóc. Lý tưởng đơn thuần cao vòi vọi của kỳ lân vẫn có thể bị con Bò Mộng Đỏ dễ dàng nhận chìm, nhưng tình yêu thì không, dù là chỉ là một điểm nhỏ. Tình yêu thắp bừng ngọn đèn bất úy, điều kiện cần và đủ để thắng Khủng Bố dưới mọi hình thức mà cứu lấy thế giới này.

    Cái Ác luôn luôn còn đó. Cái Ác không bao giờ bị tiêu diệt. Chỉ có chúng ta là có thể bị tiêu diệt nếu để mất tình yêu. Đó là bức thông điệp tác giả CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG muốn để lại cho chúng ta.

    Tất cả tình tiết truyện, nhân vật truyện, đối thoại, đều như xuất hiện trong một giấc mộng bàng hoàng, không hẳn là ác mộng mà chìm đắm miên man trong suy tư cho tới khi bừng tỉnh giữa ánh sáng, âm thanh, và hình ảnh quen thuộc thường nhật.

    Thoạt vào truyện, quả tình, chúng ta có cảm tưởng như thế giới ngày nay hết chỗ cho kỳ lân, sau đó mới hay chẳng phải thế đâu. Mê có thể trải nhiều kiếp, nhưng ngộ có thể chỉ trong sát na liền. Thiện - Ác, Phúc - Tội chẳng hai! Như nước kia, gió thổi động thì thành sóng, gió dứt, sóng vẫn là nước, cũng là ý trong Pháp Bảo Đàn kinh mà ra. Nhưng tuổi trẻ nào cũng khao khát được chiêm ngưỡng lý tưởng tuyệt đối, được ôm ấp, được thờ phụng cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ tuyệt đối. Đành vậy chứ biết sao bây giờ. Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mạng. Đường đời là thế, chẳng thể đốt giai đoạn được.

    Điều thành công - điểm cuối cùng tôi muốn ghi nhận nơi đây - của tác giả CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG là đã khiến chúng ta phải lúng túng một cách đáng yêu khi đọc truyện này, lúng túng trong việc loay hoay tìm cách đặt những hình ảnh tượng trưng trong truyện sao cho khít khao với những hình ảnh ngoài đời. Ta cứ phải loay hoay hoài, nghĩa là phải suy nghĩ hoài, vì có cái gì trong lý tưởng tìm được chỗ nằm khít khao ngoài thế giới thực tai đâu. Tìm tòi, suy nghĩ hoài, thấy được một ít, tiếp tục tìm tòi suy nghĩ... Một tác phẩm mà đặt được những câu hỏi, những vấn đề vừa đứng đắn vừa ỡm ờ, vừa rõ ràng, vừa huyền ảo như vậy, ta còn đòi hỏi gì hơn?

    DOÃN QUỐC SỸ



    1
    Con Lân sống trong rừng Tử Đinh Hương (Lilac), sống hoàn toàn cô độc. Lân sống đã lâu đời lắm rồi, lâu đời như một lão bà cổ kính, nhưng lân nào có lưu ý đến điều đó. Lân không còn giữ được màu trắng phau phau của bọt biển như thuở nào, giờ đây màu trắng của lân lâng lâng như màu tuyết đổ trong một đêm trăng. Nhưng đôi mắt lân thì còn sáng, còn tinh, khi lân chạy dáng vẫn nhẹ như chiếc bóng lướt trên mặt biển.

    Thực ra lân không hề đơn giản là một thứ linh mã có sừng như nhiều người đã từng thấy trong các hình vẽ cổ; lân nhỏ hơn, móng toác, và dáng dấp cực kỳ uyển chuyển, ngựa làm sao sánh kịp, họa chăng hươu và dê có được đôi chút trong dáng nhảy giễu cợt. Cổ lân thật thon, thật dài khiến đầu lân tựa như nhỏ đi; bộ bờm thường rủ xuống khoảng giữa lưng, xốp như bông gạo, lồng lộng như mây. Tai nhọn, chân thon với một cụm lông xinh trắng như tuyết ở khoảng mắt cá, vào khoảng cao giữa đôi mắt là chiếc sừng lấp lánh ánh xà cừ ngay cả trong khoảng đêm đen dày đặc. Lân giết rồng bằng sừng đó, chữa cho nhà vua khỏi vết thương nhiễm độc cũng bằng sừng đó, mà rung cây cho hạt dẻ rụng xuống để mấy chú gấu nhỏ ăn cũng bằng sừng đó.

    Giống lân bất tử. Bản tính của lân thích sống một mình trong khoảng rừng nào đó, thường là rừng có khoảng nước trong đủ để lân tự soi thấy bóng mình, bởi lân cũng có chút kiêu ngạo hiểu rằng mình là sinh vật đẹp nhất và quyền phép nhất thế gian. Lân hiếm khi đi thành cặp, và chẳng nơi chốn nào kỳ diệu hơn nơi chốn chứng kiến một lân nhi ra đời. Vào những lần cuối cùng lân gặp đồng loại, những con lân còn tơ vẫn đeo đuổi lân, kêu gọi lân bằng giọng nghe lạ hoắc; nhưng rồi sau đó lân không còn ý niệm về thời gian, năm, tháng, mùa. Khu rừng lân ở bao giờ cũng bốn mùa xuân bất tận, và lân đi tha thẩn dưới bóng những cây dẻ gai lớn, thật lớn, ngắm hoài hoài đám thú, đám cầm sống dưới hang đất, sống trong bụi cây, làm tổ trên ngọn cây, trên mặt đất... Lân đã ngắm liên tiếp thế hệ này qua thế hệ khác những họ hàng nhà sói, nhà thỏ, lân quan sát chúng săn đuổi con mồi, ân ái nhau, sinh con đẻ cái, rồi chết. Và vì lân chẳng hề bận tâm làm những việc đó bao giờ nên lân cứ quan sát chúng hoài mà không chán.

    Một ngày kia có hai người thợ săn cưỡi ngựa mang theo cung dài vào rừng săn nai. Lân bèn lướt theo hai người, lướt rất thận trọng, thính tai đến như ngựa mà cũng không biết. Trông thấy con người, lân lại có cảm giác như xưa, một cảm giác lẫn lộn vừa âu yếm vừa hãi hùng. Không bao giờ lân muốn người phát giác thấy mình, tuy nhiên lân lại muốn tới gần để ngắm người cưỡi ngựa và nghe người nói chuyện.

    "Tôi không ưa cái cảm giác đi vào khu rừng này," người đứng tuổi lẩm bẩm lên tiếng. "Những sinh vật sống tại khu rừng có kỳ lân bao giờ cũng biết chút ít pháp thuật, đặc biệt thuật tàng hình. Chúng ta đừng hòng săn được con mồi nào ở đây."

    "Đã từ lâu rồi, làm gì còn giống kỳ lân kia chứ, ấy là hãy cho rằng xưa quả có giống kỳ lân," người thứ hai nói. "Đây chỉ là một khu rừng như muôn ngàn khu rừng khác."

    "Vây sao ở đây lá không rụng, không có cả tuyết rơi nữa? Tôi dám cá với anh rằng vẫn còn một con kỳ lân sót lại trên cõi đời này - tôi nghiêng mình kính cẩn trước sinh vật lâu đời cổ kính đó - và bao lâu kỳ lân còn sống trong khu rừng này, những tay thợ săn như chúng ta đừng hòng săn được gì, dù là một con chim bạc má nhỏ. Cứ việc quất cho ngựa chạy đi, chạy nữa đi, anh sẽ thấy. Tôi hiểu kỳ lân quá mà!"

    "Toàn chuyện hão trong sách vở hết," người kia trả lời. "Toàn chuyện cổ tích, chuyện trong Kinh Thi. Há chẳng phải thuở ba vua trị vì cũng đã có những lời đồn đại rằng kỳ lân ở xứ này, kỳ lân ở xứ nọ sao? Nhưng nào có ai thấy kỳ lân bao giờ? Anh cũng chẳng hơn cóc gì tôi, có biết kỳ lân mồm ngang mũi dọc ra sao đâu. Toàn chuyện sách vở ráo trọi."

    Người thợ săn thứ nhất im lặng giây lâu và người thứ hai huýt sao cho mình nghe, tiếng sáo gay gắt, rồi người thứ nhất lên tiếng, "Bà cụ tổ mẫu tôi đã từng một lần gặp lân. Hồi tôi còn nhỏ cụ thường kể lại chuyện đó cho nghe."

    "Ồ, vậy à? Thế cụ có bắt kỳ lân bằng dây cương vàng không?"

    "Không, cụ không có dây cương vàng. Mà cũng chẳng cần phải dây cương vàng mới bắt được lân. Đó là chuyện cổ tích! Chỉ cần lòng mình trong sạch là đủ!"

    "Phải, phải." Chàng thợ săn ít tuổi hơn cười khúc khích, "Thế cụ bà có cưỡi kỳ lân không? Cưỡi không yên cương, tất nhiên lãng đãng dưới rừng cây, như một nữ sơn thần thuở khai thiên lập địa."

    "Cụ tổ mẫu tôi vốn sợ những con vật lớn," người đi săn thứ nhất trả lời, "Cụ không cưỡi con lân, nhưng cụ ngồi thật yên lặng, và con lân ngả đầu vào lòng cụ thiu thiu ngủ. Cụ tổ mẫu tôi cứ ngồi yên bằn bặt như vậy cho đến khi kỳ lân thức giấc."

    "Thế kỳ lân giống cái gì? Người xưa cho rằng kỳ lân vốn cực kỳ dữ tợn, mình ngựa đầu hươu, chân voi, đuôi gấu; khi rống lên, tiếng trầm, có một sừng màu huyền dài khoảng vài tấc, theo người Trung Hoa thì..."

    "Cụ tổ mẫu tôi chỉ nói rằng kỳ lân tỏa ra mùi hương thơm lắm. Cụ vốn không ưa mùi bất kỳ một con vật nào, kể cả mèo hay bò, cụ kêu là mùi chúng hoang dại. Vậy mà cụ ưa mùi kỳ lân. Đã có lần cụ khóc khi nhắc lại chuyện đó với tôi. Đã đành cụ già lắm rồi và người già thường dễ mủi lòng khi hoài niệm đến cái gì thuở còn trẻ.

    "Thôi hãy quay trở lại, chúng ta sang săn một khu rừng khác," người thợ săn thứ hai đột nhiên nói. Lân vội lẩn ngay vào một bụi rậm, đợi cho hai người quay ngựa và phóng xa được một quãng mới lại tiếp tục lướt theo. Hai người yên lặng cho ngựa chạy đều đến gần ven rừng thì người thợ săn thứ hai lên tiếng, "Tại sao những linh vật đó lại mất đi, anh có biết không, nếu quả thật xưa có chúng?"

    "Nào ai biết được. Thời thế xoay vần! Liệu anh có cho rằng thời thế này hợp với kỳ lân?"

    "Dĩ nhiên là không rồi, nhưng tôi tự hỏi trước chúng ta có ai tự hào là thời mình hợp với thời kỳ lân xuất hiện? Nay nhớ lại thì hình như tôi đã có lần được nghe kể chuyện... nhưng lần đó tôi lại say bí tỉ đến díu cả hai mắt lại, hoặc giả lan man nghĩ sang chuyện khác. Nhưng mà thôi, cũng chẳng sao. Còn đủ ánh sáng để săn nếu chúng ta lẹ lên một chút, lẹ lên nào!"

    Họ thoát ra khỏi rừng thúc ngựa phi nước đại, lướt nhanh về phía xa. Trước khi cả hai khuất bóng, người thợ săn thứ nhất quay đầu lại, nói như thể nói với chính bóng con lân mà chàng đang thực mục sở thị, "Hãy ở lại nơi ngươi đang ở, hỡi linh vật đáng thương! Thế giới bên ngoài này chẳng có chỗ nào xứng cho ngươi đâu. Hãy ở lại nơi rừng sâu ngươi trú ngụ, giữ cho cây xanh hoa nở, giữ cho những loài vật bằng hữu sống bên ngươi được trường thọ. Đừng chú ý làm chi đến đám thiếu nữ, vì rồi đây họ cũng chẳng thể trở nên gì khác hơn là những bà già lẩm cẩm, thôi chúc ngươi may mắn."

    Lân đứng lặng khoảng ven rừng và thốt thành tiếng: "Ta là con kỳ lân duy nhất cuối cùng." Đó là những lời đầu tiên lân thốt ra kể đã từ trên một trăm năm nay. Có thể như thế lắm. Lân nghĩ vậy và cũng chẳng ngại gì về nếp sống đơn độc nơi đây, chẳng bao giờ gặp một đồng loài nào khác, bởi lân luôn luôn nghĩ rằng tất nhiên còn những lân khác ở những nơi khác trên cõi đời, với những ý nghĩ đó há chẳng đủ sao. "Nhưng dù sao ta cũng cần biết đồng loại của ta có bị tuyệt diệt không. Nếu quả thực như vậy thì rồi tất đến lượt ta, tránh sao thoát. Ý nghĩ đó làm lân hoảng sợ và muốn chạy. Bóng lân lấp lánh lướt nhẹ dưới bóng rừng, lướt qua những khoảng rừng trống sáng đến khó chịu, có cỏ, có bóng đổ xuống đu đưa; lân nhận thức cực kỳ tinh tường mọi vật xung quanh, từ tiếng cỏ lướt chạm dưới chân, đến thoáng chim gõ mõ vù bay màu xanh loáng bạc, trong khi gió lùa tung từng đợt lá vàng. "Chao ôi, ta thực chẳng bao giờ nên dời khỏi nơi này, chẳng bao giờ cả, không, nếu quả thực chỉ còn mình ta là con lân cuối cùng trên cõi đời này. Ta quen sống ở đây quá rồi, ta biết từng mùi, từng vị, hiểu thấu bất kỳ cái gì hiện hữu nơi đây. Dù đi đâu chăng nữa, ta còn biết tìm những gì khác ngoài chính những thứ đó?"

    Nhưng khi lân ngừng chạy, dừng lại, đứng lặng, nghe tiếng quạ đen, và tiếng lũ sóc cãi nhau trên đầu, lân lại tự hỏi. "Ừ mà ngộ như đám đồng loại của ta đã kéo nhau đi tới một nơi xa nào đó và đương ẩn núp chờ đợi ta thì sao?"

    Ngay giây phút đầu tiên nghi ngờ đó đã làm cho lân thấy mất bình yên; rồi từ lúc manh nha ý tưởng sẽ dời khu rừng này, lân bỗng thấy bứt rứt không thể dừng lại bất kỳ nơi nào mà lại không muốn di chuyển ngay sang một nơi khác. Lân hết đi ngược lại đi xuôi ven hồ, dáng bứt rứt, không vui. Giống kỳ lân đâu có phải băn khoăn, chọn lựa. Lân nói không, rồi lại nói có, rồi lại nói không hết ngày rồi đêm, và lần đầu tiên lân cảm thấy giây phút bò lên mình như những con sâu, "Việc gì phải đi đâu. Đã từ lâu con người không hề gặp bóng kỳ lân, đâu có nghĩa là giống kỳ lân tuyệt diệt. Mà dầu sự thể có vậy đi nữa thì ta cũng chẳng đi đâu. Ta cứ ở đây."

    Nhưng rồi vào một đêm ấm trời kia, lân sực tỉnh giấc nồng và tự nhủ. "Có chứ." Và lân vùng chạy nhanh xuyên ngang rừng, cố gắng không muốn nhìn thấy gì, ngửi thấy gì, cố gắng không muốn cảm thấy bốn vó đương lướt trên mặt đất. Đám cầm thú đang di chuyển trong đêm, mấy anh cú, mấy chú cáo, mấy bác hươu cùng ngửng đầu lên khi lân lướt qua, nhưng lân không hề để ý tới chúng. Ta phải đi, đi thật nhanh, lân nghĩ, nhưng ta sẽ trở lại ngay, càng sớm càng hay. Có lẽ ta cũng chẳng phải đi xa lắm đâu. Dù có gặp đồng loại hay không, ta cũng trở về ngay, càng sớm càng hay. Con đường từ ven rừng vươn ra xa lấp loáng như ánh nước, nhưng từ lúc dời khỏi rừng cây, đặt bước trên đó, lân mới cảm thấy hết nông nỗi đoạn trường. Lân đã muốn quay trở lại, nhưng rồi hít một hơi dài để giữ lấy hơi rừng còn lẩn quất đâu đây, lân ngậm lấy hơi rừng thân yêu đó nơi miệng như ngậm một bông hoa, cố gắng lâu được chừng nào hay chừng ấy.

    °

    Con đường dài thăm thẳm trườn ra vô tận, qua những làng mạc, những phố nhỏ, qua miền đồng bằng, qua miền sơn cước, qua miền sỏi đá khô cằn, qua cánh đồng cỏ xanh mướt, nhưng con đường có bao giờ chịu dừng chân lại bất kỳ nơi nào đâu, con đường trườn hoài, trườn hoài vào vô tận, thúc đây, cuốn hút bước chân lân, không ngớt, chẳng để lân được một phút nghỉ ngơi mà nghển cổ lắng nghe không khí như xưa. Đôi mắt lân giờ đây mờ bụi, bờm rủ cũng bị khô cứng vì bụi.

    Nhớ lại thuở còn sống ở trong rừng, thời gian trôi lững lờ bên lân, giờ đây chạy mải miết trên con đường thiên lý, lân thấy chính mình đương phải trườn qua thời gian. Lá cây đổi màu, bộ lông loài thú cũng khi rậm khi thưa; mây trời bay khi chậm khi nhanh theo sức gió, khi ửng hồng, khi vàng lộng với ánh mặt trời, khi xám ngoét, khi tím bầm với gió bão. Không khi nào lân tìm thấy dấu vết của đồng loại, qua những ngôn ngữ khác nhau, lân cũng chẳng hề nghe thấy thiên hạ nhắc nhở đến đồng loại mình.

    Vào một buổi sớm kia, lân đã toan rẽ khỏi con đường để ngủ, thì trông thấy một người đương cặm cụi cuốc vườn. Đáng lẽ phải ẩn mình đi, thì lân lại đứng nguyên đấy ngắm, cho đến khi người đó đứng thẳng lên và nhận ra lân. Hắn béo quá, mỗi bước tiến lại làm má hắn rung rinh. "Ồ," hắn nói. "Ồ, trông mi thật đẹp."

    Khi hắn rút dây lưng ra, thắt một cái nơ, và bắt đầu vụng dại tiến lên, lân thấy vui hơn là sợ. Hắn hiểu lân là gì và hắn đương làm gì: cuốc đất trồng xu hào, và đuổi theo một vật gì lấp lánh sáng và chạy nhanh hơn hắn. Lân lẹ làng bước né sang bên khi hắn vừa bắt đầu tiến tới như thể chính bước chân hắn phát ra gió và gió thổi lân ra khỏi tầm tay của hắn. "Thuở xưa, khi muốn săn ta, họ tổ chức chuông trống, xờ xí trịnh trọng và tưng bừng," lân nói với hắn. "Người xưa hiểu rằng phải tổ chức săn huy hoàng như vậy mới quyến rũ được ta đến gần. Vậy mà cũng chưa hề một lần họ bắt được ta."

    "Sao ta trượt ngã hoài," hắn nói. "Đứng lại nào, hỡi vật xinh đẹp kia."

    Lân nghĩ thầm trong khi hắn lồm cồm bò dậy, "Ta không hiểu nếu như bắt được ta ngươi sẽ làm gì." Hắn nhảy tới lần nữa, và lân đã lẹ làng lùi xa như làn mưa bụi. "Ta ngờ rằng vị tất ngươi đã tự hiểu mình," lân nói.

    "A, đứng yên, chóng ngoan." Khuôn mặt hắn nhễ nhại mồ hôi với những ngấn dọc cát bụi, hơi thở hổn hển. Hắn vừa thở dốc vừa nói: "Đẹp. Con ngựa cái xinh đẹp làm sao."

    "Con ngựa cái?" Tiếng lân thét lên lanh lảnh khiến hắn đứng sững lại, hai tay bịt vội tai. "Con ngựa cái?" lân hỏi, "ta, một con ngựa? Vậy ra từ nãy đến giờ ngươi vẫn coi ta là ngựa, vẫn nhìn ta là ngựa?"

    "Con ngựa thật đẹp", con người béo bệu đó vừa thở hổn hển vừa dựa vào hàng rào, một tay lau mặt. "Chải cho mi, tắm cho mi, lập tức mi sẽ thành con ngựa cái đẹp nhất." Hắn lại lăm le tiến lên với sợi dây lưng. "Phải cho mi đi dự thi hội chợ," hắn nói. "Nào, hãy dừng lại!"

    "Một con ngựa," lân nói. "Một con ngựa cái với khoảng bờm rủ trắng, đó là con vật ngươi đương rượt bắt." Trong khi hắn tiến tới gần, lân bất chợt dùng sừng móc lấy dây lưng, giật mạnh khỏi tay hắn, rồi hất tung lên cho văng ra xa, rơi vào một luống cúc vàng. "Ta mà là một con ngựa ư?" lân càu nhàu. "Là ngựa này!"

    Trong một khoảng khắc, người đó tiến tới thật gần lân, và đôi mắt mở to của lân nhìn thẳng vào đôi mắt của hắn, đôi mắt nhỏ, mệt nhọc, ngạ, nhiên. Rồi lân quay đi, phóng mình lên đường, phóng nhanh đến nỗi những ai trông thấy đều thốt lên, "Cha, con ngựa kìa, ngựa ấy mới là ngựa!" Một cụ ông bình tĩnh nói với cụ bà: "Đó là loại ngựa Ả Rập đấy, bà nó ạ, tôi đã từng một lần ở trên chiếc tầu biển có con ngựa Ả Rập."

    Kể từ đó, lân hết sức tránh đi qua những thị trấn, trừ trường hợp bần cùng bất đắc dĩ lắm không có lối nào đi quành. Tuy vậy mà vẫn còn gặp một số người rắp tâm rượt bắt, và vẫn là lề lối rượt bắt một ngựa cái, không hề có chuyện săn đuổi linh đình và trang trọng một con kỳ lân như ngày xưa. Họ rượt đuổi bằng dây thừng, bằng lưới, họ lấy những thỏi đường làm mồi nhử, huýt sáo gọi lân bằng những tên quen thuộc của loài ngựa. Đôi khi lân cũng chạy chậm một chút để tụi ngựa tiến tới đủ gần mà nhận ra mùi hương lân; lập tức lũ ngựa chồm lên, lùi vội lại, chạy miết, và đoàn kỵ mã thì kinh hoàng. Ngựa bao giờ cũng nhận biết ra lân.

    "Sao có thể như vậy nhỉ?" lân tự hỏi. "Cứ cho rằng con người đã quên hẳn loài kỳ lân đi; cứ cho rằng bản tính con người nay đã thay đổi và đâm ra ghét kỳ lân, hễ gặp là tìm cách giết. Nhưng lân không thể quan niệm nổi con người không chịu nhìn kỹ, chỉ trông mà không ngắm, đến nỗi lẫn kỳ lân với loài khác. Có thật lân giống các loài khác? Làm sao thân cây, căn nhà, con ngựa mà lại giống lân cho được?"

    Đôi khi lân nghĩ, "Tuy con người không còn nhận ra lân, rất có thể loài kỳ lân vẫn còn trên cõi đời này, và sống yên vui trong quên lãng đó." Nghĩ vậy thôi, chứ thực ra ngoài mọi hy vọng, mọi phù hoa, lân cho rằng con người thay đổi, thế giới loài người cũng thay đổi chính vì loài kỳ lân đã mất. Tuy nhiên lân tiếp tục rong ruổi trên đường trường, mặc dầu cứ mỗi ngày qua đi, lân lại càng thiết tha tự nhủ rằng giá như lân vẫn ở lại khu rừng cũ đừng đi đâu cả thì vẫn hơn.

    Rồi một chiều kia có một chú bướm theo gió lao đao bay lại lấp lánh trên đỉnh sừng lân, chú bướm có đôi cánh nhung xẫm màu phấn bụi với những đốm vàng, trông chú mỏng như cánh hoa bay. Múa rỡn trên sừng lân, chú chào lân, cặp râu cong rung động. "Tôi là một kẻ bê tha lang thang. Chào bà bạn."

    Lần đầu tiên trong cuộc viễn du này, lân bật cười. "Chú bướm, chú bay lang thang đi đâu vào một ngày lộng gió như hôm nay? Chú không sợ bị lạnh và chết yểu trước kỳ hạn sao?"

    "Tử thần lấy đi những gì người ta muốn giữ," bướm nói, "để lại những gì người ta muốn bỏ. Gió cứ việc thổi lộng nữa đi và làm nẻ toác đôi má bà bạn. Tôi hơ tay sưởi ấm trước ngọn lửa của đời, lòng luôn luôn thơ thới hân hoan." Bướm hấp háy như mắt cú trên sừng lân.

    "Chú bướm, chú có biết ta là ai chăng?" lân hỏi, lòng tràn trề hy vọng. Và bướm đáp, "Biết lắm chứ, bà bạn là người bán cá. Bà bạn là tất cả của tôi, bà bạn là ánh sáng mặt trời của tôi, bà bạn già, luống tuổi, chín chắn, bà bạn có khuôn mặt muối ướp, ốm ho." Bướm ngưng lại, rung rinh đôi cánh trước gió, thủ thỉ tiếp, "Tên bà bạn là chiếc chuông vàng treo trong tim tôi. Tôi muốn thân thể tôi tan ra thành nhiều mảnh một khi được gọi tên bà bạn."

    "Hãy nói tên ta, chú bướm," giọng lân khẩn khoản. Nếu quả thực chú biết tên ta, hãy nói lên nghe thử." "Bà bạn là chú lùn quay rơm thành vàng," bướm vui vẻ đáp, rồi nhún nhảy trên sừng lân mà ca rằng,

    "Về đi thôi, hỡi chàng Bình Bá về thôi.

    Đi mà chẳng đặng thì thôi ta về.

    Gắng lên chàng Vĩnh Sơn ơi.

    Gắng lên bắt ánh sao rơi trên trời.

    Đất kia đứng lặng, máu chảy lang thang,

    Gọi ta là quỷ nhập tràng cũng xong."

    Đôi mắt bướm càng sáng lên dưới ánh hồng quang của sừng lân.

    Lân thở dài và nặng nề tiến lên vừa vui vừa thất vọng. Thế cũng phải, lân tự nhủ. Làm sao mình lại có thể đợi bướm nói đúng tên mình nhỉ? Tất cả những điều chú ta nói đều là bài thơ khúc hát chú nghe được. Loài bướm thi sĩ nói thì được, nhưng chả giữ vững được cái gì, vả lại điều này cũng dễ hiểu, bướm thường chết yểu mà.

    Vẻ bướm nghênh ngang trước mắt lân, rồi vừa quay tít vừa cất tiếng ca,

    "Một hai ba, tcha tcha tcha,

    Đừng khéo dỗ ngọt bánh đa,

    Lối mòn sỏi cát, nẻo xa bóng chiều.

    Chán phè câu chuyện nói điêu,

    Tìm vui ta hát ta trêu cô nàng.

    Yêu ai chân bước vỗi vàng,

    Đuổi con cú ọ đuổi đàn yêu tinh.

    Lơ thơ tơ liễu buông mành,

    Què chân đến đó bất bình mà chi."

    Tiếng bướm ca văng vẳng như tiếng tiền đồng gieo trên mâm bạc.

    Bướm ngao du nhởn nhơ cùng lân suốt quãng ngày tàn đó, rồi khi mặt trời đã xế đỉnh non Tây, cả vòm trời bát ngát vẩy tê tê hồng, thì bướm dời sừng lân, bay bổng lên cao, lơ lửng trước lân, "Tôi phải dông thôi," giọng bướm lễ độ. Lân ngước nhìn, qua ánh chiều tà thấy rõ những đường gân đen nổi trên đôi cánh nhung của bướm.

    "Vĩnh biệt chú bướm," lân nói. "Hy vọng rằng chú còn được nghe nhiều bài ca khác nữa," lân nghĩ chẳng có cách nào chúc bướm hay hơn thế. Tưởng rằng bướm chia tay tức khắc, nhưng không, bướm chẳng hề vội vã tuy hơi có vẻ bứt rứt trong ánh trời chiều. "Về đi thôi," lân giục bướm. "Lạnh rồi, về mau đi thôi. Bay phất phơ hoài bên ngoài gió lạnh thế này, chú chịu sao thấu." Bướm vẫn bay lửng lơ, miệng ngâm thơ khẽ: sau đó giọng bướm bỗng rành rọt, "Kỳ lân. Hình giống con ngựa, có một sừng, tính cực hiền, vì vậy người ta còn gọi là nhân thú. Người xưa nói kỳ lân xuất hiện để báo sắp có thần nhân ra đời.

    Ô này, ta là chú bếp nhà ai,

    Ta là thuyền trưởng ở ngoài biển khơi.

    Cánh buồm no gió chơi vơi.

    Lấy ai bầu bạn cho nguôi nỗi lòng."

    Cánh bướm tưng bừng và kiêu hãnh. Đã có những ánh đom đóm đầu tiên vây quanh, ngỡ ngàng.

    Lân sửng sốt nghe bướm sau cùng nói đến tên mình như vậy nên cũng bỏ qua việc bướm trước đây đã đả động đến ngựa. "Ồ, thì ra, chú biết ta!" lân reo vui như vậy, hơi thở mạnh thổi tung bướm ra xa dễ thường đến sáu, bảy thước. Khi bướm lao đao bay lại, lân nài nỉ, "Chú bướm, nếu quả thật chú đã nhận biết ra ta, vậy chứ trước đây chú có gặp đồng loại ta lần nào chăng. Làm cách nào gặp được đồng loại ta đây, đi lối nào?"

    Bướm hát trong ánh chiều chạng vạng:

    "Bướm hỡi bướm, cõi trần đã chán,

    Đường lợi danh luống nản chân bon.

    Cuồng điên theo gió thả hồn.

    Rượu say ta hát trăng tròn mặc trăng."

    Bướm lại đậu trên sừng lân một lần nữa, run rẩy.

    "Làm ơn cho ta hay đi bướm!" lân nói. "Ta chỉ cần biết liệu có còn những kỳ lân khác trên cõi đời này chăng. Hãy nói cho ta hay điều đó chú bướm. Ta tin lời chú. Nói đi chú, để ta còn quay trở lại khu rừng của ta ngay. Ta đi đã quá lâu rồi."

    Bướm lại ngâm nga: "Núi ca tít từng mây,

    Lũng sâu thẳm địa ngục,

    Giữ cho lòng hăng say, Vượt gian nguy khổ cực."

    Bướm bỗng ngừng lại, rồi giọng trầm xuống, nghiêm trọng hẳn:

    "Không, không, nghe tôi hay chẳng nghe tôi, hãy nghe này! Nếu can đảm, bà bạn sẽ tìm gặp được đồng loại mình. Trước đây, đã lâu lắm rồi, tất cả kỳ lân đều bị con Bò Mộng Đỏ săn đuổi, bám sát, và dồn xuôi theo các ngả đường. Đừng hốt hoảng rụng rời, đừng yên vui nửa vời." Cánh bướm nghiêng nghiêng chạm lướt lên da lân.

    "Con Bò Mộng Đỏ," lân hỏi. "Con Bò Mộng Đỏ như thế nào vậy?"

    Bướm bắt đầu hát:

    "Hãy theo ta xuống đây, hãy theo ta xuống đây, hãy theo ta xuống đây, hãy theo ta xuống đây." Nhưng sau đó bướm lắc đầu lia lịa, kể, "Đó là con bò mộng đầu tiên của loài bò mộng, uy nghi lắm, sừng như sừng bò rừng, nó dùng sừng đó để dồn kỳ lân tới khoảng tận cùng của đất liền. Nghe đây, nghe cho lẹ."

    "Ta vẫn nghe mà," lân kêu lớn. Đồng loại ta hiện ở đâu, và con Bò Mộng Đỏ ra sao?"

    Nhưng bướm đã lao sát tới tai lân, cười sặc sụa và cất tiếng hát:

    "Trong ác mộng ta bò quanh đất,

    Lũ vện, vàng bé oắt sủa vang.

    Rắn phun nọc độc rộn ràng,

    Ăn mày xuống phố, ốc vàng hến xanh."

    Bướm còn đi lả lướt thêm mấy đường trước mắt lân, trong ánh hoàng hôn, rồi bay lạng ra xa dần, bay sâu vào khoảng chiều tím ngát ven đường, vừa bay vừa ca như khiêu khích,

    "Này chú thiêu thân, Ta hay chú vậy,

    Tay nắm lấy tay,

    Xin đừng nghĩ bậy..."

    Hình ảnh cuối cùng lân còn giữ được của bướm là chiếc cánh nhỏ lao vút vào đám lá cây. Cũng có thể là lân hoa mắt trông lầm, vì vào giờ chạng vạng đó, trông đâu cũng thấy thấp thoáng những cánh bướm.

    Dầu sao thì chú bướm cũng đã nhận ra ta; lân buồn rầu nghĩ vậy. Thế cũng là có ý nghĩa rồi. Nhưng rồi lân lại tự nhủ, Không, vẫn chưa có ý nghĩa gì hết, trừ phi phải có người làm bản nhạc; hay bài thơ về giống kỳ lân mới chắc. Nhưng còn con Bò Mộng Đỏ là cái gì vậy? Một bài hát khác chăng, ta chắc vậy.

    Bước lân chầm chậm, bóng đêm bắt đầu phủ dầy. Trời thấp xuống với màu đen gần như trong vắt, trừ một khoảng vàng lộng, đó là khoảng chị Hằng lẩn sau cụm mây dầy. Lân hát khẽ một bài ca mà một cô gái trước đây lâu lắm đã nhiều lần hát trong khu rừng cũ của lân:

    Bao giờ chim sẻ với mèo

    Sống chung hòa thuận, tôi chiều ý anh.

    Bao giờ cá chán biển xanh

    Nhảy lên ở cạn, tôi anh một nhà

    Lân không hiểu lời ca, nhưng bài ca làm lân nhớ khu rừng nhà kinh khủng. Hình như khi lân bước chân ra đi trời vừa sang thu thì phải.

    Sau cùng lân phủ phục xuống, nằm dài trên cỏ lạnh, thiu thiu ngủ. Lân vốn cực kỳ thận trọng, nhưng khi đã ngủ thì ngủ thật say. Quả thực nếu không mơ thấy mình đã trở lại cố hương thì lân đã thức giấc ngay khi nghe tiếng bánh xe và tiếng chuông leng keng đang tiến tới gần, mặc dầu bánh xe quấn giẻ để lăn cho êm, chuông bọc len để kêu vừa đủ. Lân mơ về chốn xa, quá xa, xa hơn vùng chuông kêu nhiều lắm, vì vậy lân vân thiêm thiếp nằm đó, không thức giấc.

    Có chín xe ngựa bốn bánh, hết thẩy đều phủ vải đen và kéo bởi những con ngựa đen gầy, mỗi lần gió thổi tung tấm rèm đen lên, những chấn song lộ ra như hàng răng đen ngòm. Xe dẫn đầu trên có một mụ già mập lùn ngồi cầm cương ngựa, dọc theo phần hông được phủ kín của xe là tấm biển có viết dòng chữ lớn: GÁNH XIỆC NỬA ĐÊM CỦA BÀ MÁ VẬN MẠNG. Và bên dưới là dòng chữ nhỏ hơn: Những sinh

    vật thuần sống về đêm được mang ra ánh sáng.

    Khi chiếc xe tiến ngang khoảng lân đang thiêm thiếp giấc nồng, mụ già vội ghìm con hắc mã. Tất cả những xe sau cùng phải dừng lại, đợi mụ già uốn mình nhảy xuống, yểu điệu một cách dễ ghét. Lướt nhanh đến sát lân, mụ cúi nhìn kỹ giây lâu rồi nói, "Lạy trời, có lẽ là ta đã được gặp con vật cuối cùng của loài này." Lời nói của mụ để lại một dư vị vừa đường mật vừa gay cấn.

    "Liệu hắn có biết," mụ vừa nói vừa cười, nhe những chiếc răng nhọn như những viên sỏi. "Sức mấy mà ta nói cho hắn biết." Mụ quay mặt nhìn lại đoàn xe màu đen, bật móng tay làm hiệu hai lần. Hai người điều khiển hai xe số hai và số ba nhảy xuống, cùng tiến lại phía mụ; một người dáng lùn, da mặt đen, vẻ lạnh lùng như mụ; người kia thì cao, gầy, vẻ ngơ ngác cương quyết, bên ngoài khoác một chiếc áo bành-tô màu đen cũ, đôi mắt màu xanh.

    "Ông bạn thấy gì nào?" mụ hỏi người lùn. "Rukh, ông bạn thấy vật gì nằm đây nào?"

    "Con ngựa chết," hắn trả lời. "À mà không, không chết. Cứ cho là thuộc loại bà con với loài rồng đi, hay với loài quái vật đầu người mình sư tử cũng được." Tiếng cười khúc khích của hắn nghe như tiếng que diêm quẹt."

    "Điên! Ông bạn thật điên," Bà Má Định Mạng nói với hắn thế. Rồi bà quay sang người kia, "Còn ý kiến ông bạn này thì sao, hỡi ông bạn phù thủy, ông bạn tiên tri, ông bạn làm trò quỷ thuật. Với con mắt phù thủy ông bạn nhìn thấy gì nào?" Bà Má và Rukh cười ầm lên, nhưng tiếng cười đó ngừng bặt khi mụ nhận thấy người cao lớn vẫn còn dán mắt vào lân. "Thế nào, ảo thuật gia, ông trả lời đi chứ!" Mụ lầu bầu, nhưng người cao lớn vẫn không quay đầu. Mụ vươn bàn tay như càng cua ra, nắm lấy cằm y quay mạnh lại. Đôi mắt y đối chiếu với cái nhìn vàng vọt của mụ.

    "Con ngựa," y lẩm bẩm. "Một con ngựa cái trắng."

    Bà Má Định Mạng nhìn y giây lâu. "Ông bạn ảo thuật gia, ông cũng điên nốt," mụ cất tiếng cười hi hi, "nhưng cung cách điên của ông còn tồi tệ hơn, nguy hiểm hơn. Rukh nói dối vì tham, nhưng ông bạn nói dối vì sợ. Hoặc đó là lòng tốt chăng?" Người đàn ông không nói năng gì. Bà Má Định Mạng cười tủm.

    "Ừ thì đây là con ngựa cái trắng đi, " mụ nói. "Tôi muốn nó gia nhập vào gánh xiệc của mình. Cái chuồng thứ chín còn trống đấy."

    Để tôi đi kiếm thừng," Rukh nói. Hắn vừa toan quay đi thì mụ ngăn hắn lại.

    "Chỉ có một thứ thừng là có thể buộc được nó," mụ nói. "Đó là thứ thừng mà các thần linh đã dùng để trói con sói Fenris, thừng làm bằng hơi thở của cá, nước rãi của chim, râu của đàn bà, tiếng kêu của mèo, thần kinh hệ của gấu, và còn một thứ nữa. À tôi nhớ ra rồi - rễ núi. Không có những thứ đó cũng chẳng có giống người lùn nào bện thừng cho ta. 1 Thôi thì với tài nghệ của chúng ta, đành thay thứ thừng vi diệu đó bằng cũi sắt vậy. Để tôi niệm chú giữ cho nó ngủ như thế này," nói đoạn mụ làm điệu đan những sợi tơ không khí, miệng lẩm bẩm niệm thần chú. Nhường như có mùi khét lẹt bao quanh lân.

    "Nào bây giờ hãy nhốt nó vào cũi," mụ nói với hai người đàn ông. "Con vật sẽ ngủ say cho đến khi mặt trời lên dù ta có ồn ào đến mấy, trừ khi quý vị ngu xuẩn mó tay vào nó. Hãy giở cái cũi sắt thứ chín ra và quây chấn song sắt quanh nó, nhưng cẩn thận đó! Bàn tay nào vuốt bờm nó tức khắc sẽ biến thành móng chân lừa, có hối cũng không kịp." Mụ lại nhìn người đàn ông cao gầy bằng con mắt riễu cợt. "Ông bạn phù thủy, e rằng những trò vặt đó của ông rồi đây cũng chỉ thực hiện được một cách khó khăn hơn mất thôi," mụ vừa nói vừa thở phào. "Vào việc ngay đi, trời chẳng còn tối được bao lâu nữa đâu."

    Mụ đi lướt trở lại vùng có bóng xe đổ xuống như thể mụ chỉ vừa ra để xem giờ. Khi mụ đã đủ xa khỏi tầm nghe, Rukh nhổ nước bọt và nói, vẻ ngạc nhiên, "Tôi không hiểu mụ già lo lắng cái gì kia chứ. Chúng ta mó vào con vật thì làm sao nào?"

    Ảo thuật gia đáp lời hắn bằng một giọng nhẹ sớt phải lắng tai mới nghe nổi. "Tay người chạm vào làm thức giấc con vật. Ma quỷ đã khiến nó ngủ say như vậy. Mà Bà Má Định Mạng thì không khiến được ma quỷ."

    "Nhưng mụ lại muốn chúng ta tin là có," Rukh cười nửa miệng. "Đụng vào, tay biến thành móng lừa, cha a a!" Nhưng hắn cũng thục hai tay sâu vào túi. "Thần chú với chẳng thần chú, đó chỉ là con ngựa cái trắng già chứ gì.

    Nhưng ảo thuật gia đã đi về phía toa xe cuối cùng, "Lẹ lên nào," ông ta nói. "Trời sáng đến nơi rồi." Họ rỡ cái chuồng thứ chín, rỡ chấn song, rỡ sàn, rỡ mái, rồi dựng lại quanh lân để nhốt nó. Rukh giằng mạnh cái cửa để kiểm soát xem đã được khóa thật kỹ chưa, đúng lúc những lùm cây xanh phía trời đông bắt đầu nổi bật thì lân mở bừng đôi mắt. Hai người vội lẩn đi, nhưng ảo thuật gia còn ngoái cổ lại quan sát lân đứng dậy trừng trừng nhìn những chấn song sắt, đầu lắc lắc như đầu một con ngựa trắng già.

    --------------------------------
    1 Theo thần thoại Bắc Âu. (Chú thích của người dịch)

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    11
    Hoàng tử Lir đã trở lại sau ba ngày ra đi diệt con quỷ, cái Rìu Lớn của Quận Công Alban đeo ở sau lưng, đầu con quỷ bị hạ treo lủng lẳng ở yên ngựa. Lần này chàng không dâng chiến công lên nàng Amalthea, không hớt hải đến trình diện nàng ngay với đôi bàn tay còn vết màu quái vật của chàng. Chàng đã quyết định vào ngay buổi chiều hôm đó, khi nói chuyện với Molly ở nhà bếp, rằng từ nay chàng sẽ không quấy rầy nàng Amalthea nữa, mà chỉ lặng lẽ tưởng nhớ đến nàng, lặng lẽ phục vụ nàng một cách hăng hái cho đến chết, nhưng không bao giờ nài nỉ được nói chuyện với nàng, mong hưởng sự cảm phục và tình yêu của nàng. "Tôi sẽ vô danh như không khí nàng thở," chàng nói, "và hình như sức mạnh kia vẫn giữ nàng trên trái đất." Vài phút sau chàng tiếp, "Thỉnh thoảng tôi làm bài thơ tặng nàng, có thể tôi sẽ luồn những bài thơ đó qua khe cửa phòng nàng, có thể tôi thả chúng ở bất kỳ đâu để may ra nàng có dịp đọc tới. Nhưng không bao giờ tôi ký tên ở dưới những bài thơ đó cả."

    "Như thế mới thật là cao quý," Molly đáp lời chàng, và cũng cảm thấy nhẹ lòng rằng từ đây chàng không còn theo đuổi Amalthea theo kiểu như xưa nữa. Kể cũng vui mà cũng hơi buồn. "Con gái thích thơ hơn là rồng chết, với gươm thần," Molly góp thêm ý kiến. "Khi tôi còn là con gái, tôi cũng vậy. Lý do tôi đi theo Cully vì..."

    Nhưng Hoàng tử Lir đã ngắt lời nàng bằng giọng cương quyết, "Không, đừng vạch đường hy vọng cho tôi, tôi phải học cách sống không cần hy vọng, như cha tôi, và có lẽ vì thế mà sau cùng chúng ta hiểu được nhau." Hoàng tử thục tay vào túi, Molly nghe sột soạt có tiếng giấy bên trong. "Thật ra tôi cũng đã làm được vài bài thơ nói về hy vọng, nói về nàng, bà có thể đưa mắt nhìn qua nếu bà muốn."

    "Tôi rất sung sướng được đọc thơ đó. Nhưng hoàng tử nghĩ sao là từ nay, thôi quách, đừng đi chiến đấu với loại hắc hiệp sĩ, và cưỡi ngựa vượt qua vòng lửa?" Molly nói vậy để đùa, nhưng nàng cũng biết ngay rằng nếu sự thể như vậy thì cũng đáng tiếc lắm thay. Những cuộc phiêu lưu hào hùng đó đã làm cho chàng đẹp lên nhiều, và cũng cứu nhân độ thế nữa chứ. Và còn điều này nữa, khi chàng đi vào hiểm nguy như vậy, chàng cho ta một cảm giác hồi hộp về sự sống chết bất ngờ của những vị anh hùng. Hoàng tử thì lắc đầu, vẻ bối rối.

    "Ồ giả sử như tôi rửa tay treo kiếm, điều đó cũng chẳng phải dùng để khoe khoang với nàng. Nhưng sự thực là khi mình đã đi vào con đường cứu khốn phò nguy rồi, nó thành một cái nghiệp mà mình phải đi cho trọn, không thể phó mặc được. À bà đã đọc xong bài thơ thứ nhất của tôi chưa đấy, bà có thích bài đó không?

    "Gợi cảm lắm," Molly nói. "Nhưng này hoàng tử, bụi vần với nỗi có được không?

    "Được chứ, hơi chệch một tí, đó vần thôn, không phải vần chính."

    Vừa lúc đó Schmendrick bước tới ngưỡng cửa. Molly hỏi, "Này ông bạn chữ gành viết thế nào? G-a-n-h- h-u-y-ề-n, hay g-h-a-n-h huyền?"

    "G-h-a-n-h huyền," Schmendrick trả lời vẻ mệt mỏi. "Gành thì cũng như ghềnh chứ gì, mà ghềnh thì đích thị g-h-ề-n-h huyền."

    Molly múc cho ảo thuật gia một bát súp, và ông ta ngồi xuống. Đôi mắt ông khắc khổ, mờ mịt, một bên mi giần giật.

    "Tôi không thể làm trò này lâu hơn được nữa," ông chậm rãi nói. "Không phải vì nơi gớm ghiếc này, cũng không phải vì tôi cứ phải ngồi nghe nhà vua nói, tôi thích thế là đằng khác, nhưng vì các trò rẻ tiền tôi làm để giải trí ông ta. Đêm qua tôi làm suốt đêm. Tôi đâu có cần để ý đến ông ta muốn tôi làm trò quỷ thuật thứ thiệt, hay chỉ là thứ như cầu hồn, cầu cơ bình thường. Khổ một điều kể cả những trò tầm thường đó tôi cũng vẫn cứ lầm lẫn, thất bại. Bảo làm cái này thì rút cục ra cái nọ.

    "Nhưng mà đó chính là điều ông ta muốn," Molly phản đối lại. "Nếu ông ta muốn ảo thuật thứ thiệt thì ông ta lưu dụng ông già Mabruk chứ." Thấy Schmendrick dướn lông mày nhìn lên, Molly vội nói thêm, "Không phải là tôi khoái loại Mabruk thứ thiệt đó. Vả lại cũng chẳng còn bao lâu nữa chúng ta sẽ tìm ra lối xuống sào huyệt Con Bò Mộng Đỏ. Con mèo đã bảo cho tôi cách tìm ra đường rồi."

    Molly hạ giọng xuống thành lời thì thầm và cả hai cùng đưa lẹ đuôi mắt về phía Hoàng tử Lir; nhưng quả thực ông hoàng nầy lúc đó chẳng quan tâm gì đến họ, chàng đương làm thơ, loay hoay lựa vần một cách khá vất vả. Chàng khẽ đập đập cán bút vào môi vừa suy nghĩ vừa lẩm bẩm, "Thành, hừm, phải vần với mong manh, long lanh, bập bềnh..." Chàng chọn chữ gập ghềnh và ghi vội xuống trang giấy.

    "E rằng chúng ta chẳng thể tìm ra đường được đâu," giọng Schmendrick bình tĩnh. "Dù là con mèo nói thật, điều mà tôi rất ngờ, Haggard cũng chẳng để chúng ta có thì giờ nghiên cứu điều tra về chiếc đầu lâu và cái đồng hồ. Bà bạn có thấy không, ông ta cứ càng ngày càng nhèn thêm thật nhiều việc cho bạn, chính là để bạn hết còn thì giờ tha thẩn, dòm ngó. Bạn nghĩ sao về việc ông ta cứ giữ lấy tôi bên cạnh, bắt làm những trò vớ vẩn rẻ tiền, hà chẳng cùng một mục đích đó? Bạn Molly ạ, ông ta biết, tôi chắc vậy, ông ta biết nàng là gì, tuy ông ta vẫn chưa tin hẳn đâu, nhưng khi ổng đã xác tin rồi, ổng sẽ biết cách đối phó. Ông ta biết. Đôi khi cứ trông mặt ông thôi cũng đủ thấy rằng tôi đoán không sai đâu."

    Hoàng tử Lir đương vấp phải một vần khác, lẩm bẩm, "Chờ mong nay thỏa nỗi niềm. Yêu nhau mãi mãi

    mà thêm, càng thêm, biết tìm. Hừ, khó thực."

    Schmendrick nghển người, nghiêng đầu qua bàn. "Chúng ta không thể ở đây đợi ngày ông ta hạ thủ. Chỉ còn một đường hy vọng là phải thoát thân ban đêm, và bằng lối biển. Có thể tôi sẽ tìm cách xoay xở được một chiếc thuyền nhỏ. Các kỵ giáp binh thì chỉ chú trọng canh về phía kia, nơi có cổng lớn."

    "Nhưng còn những kỳ lân lâm nạn trước đây nữa, nàng lặn lội đến đây chỉ vì việc ấy, mà đích thị là những kỳ lân lâm nạn xưa đều tập trung ở đây cả." Xem chừng Molly cũng phần nào cho rằng sự tìm kiếm kia là vô vọng, nên nàng đâm cáu với Schmendrick. "Này, thế nào về phép ảo thuật của ông bạn, ông bạn đã suy nghĩ tìm tòi đến đâu rồi. Liệu nàng có đến nỗi chết trong hình hài thế nhân như vậy chăng, và ông cứ sống nhăn răng như vậy mãi chăng? Coi bộ ông bạn còn muốn giúp Con Bò Mộng Đỏ nuốt chửng nàng nữa."

    Ảo thuật gia ngồi phịch xuống, khuôn mặt lợt lạt và nhăn nheo như những ngón tay của người thợ giặt ngâm nước nhiều. "Thực ra điều đó không sao đâu, dù ở hình thể này hay hình thể nọ," ông như nói thầm với chính mình. "Nàng bây giờ không là kỳ lân nữa, nhưng là một thiếu nữ trong cõi nhân sinh có sống có chết, kẻ đã khiến anh chàng ngốc kia thở ngắn thở dài và đương loay hoay làm thơ tặng. Có thể là rồi đây rút cục Haggard cũng cóc khám phá được ra nàng là gì, vì nàng đã trở thành con gái ông ta. Thế kể cũng vui." Ông gạt bát súp sang bên, chưa hề đụng tới một muỗng, và gục mặt vào đôi bàn tay, nói tiếp, "Nếu chúng ta không tìm thấy được những kỳ lân lâm nạn cũ, thì chắc chắn tôi cũng không thể khiến nàng trở lại hình thể cũ được. Trong tôi có pháp thuật khỉ khô gì đâu."

    "Schmendrick," Molly muốn nói thêm điều gì, nhưng ảo thuật gia đã đứng phắt dậy và đi vút ra khỏi nhà bếp, mặc dầu không phải vì ông ta nghe thấy vua Haggard kêu mình. Hoàng tử Lir vẫn không hề ngẩng đầu lên, tiếp tục sửa câu gieo vần. Molly treo ấm nước trên lò lửa, sửa soạn trà cho những người lính canh.

    "Tôi làm gần xong bài thơ rồi, chỉ còn đoạn cuối," Lir khoe với Molly. "Bà có muốn nghe những đoạn tôi vừa sáng tác xong chăng? Hay đợi tôi hoàn tất đã?"

    "Thế nào cũng được," nàng đáp. Thế là hoàng tử đọc nhưng Molly có tâm địa nào mà nghe đâu. May thay lúc ấy đám kỵ giáp binh bước vào. Chàng chưa đọc hết và cũng ngượng không dám hỏi ý kiến Molly trước mặt đám kỵ giáp binh. Khi đám lính canh đã ra đi rồi, chàng lại đương vùi đầu sáng tác một bài khác. Mãi khuya lắm ông hoàng mới tạm rút lui về phòng ngủ. Còn lại một mình Molly ngồi bên bàn, tay ôm con mèo lông sặc sỡ.

    Bài thơ mới hoàng tử đương làm thuộc loại thủ vĩ ngâm. Trên đường về phòng mình, hoàng tử khoái chí lắm. Chàng nghĩ, "Bài thơ đầu ta sẽ luồn dưới khe cửa phòng nàng, còn bài thứ hai để dành đến mai." Ông hoàng đương xét lại ý định không ký tên dưới những bài thơ sáng tác nhưng giờ đây thì chàng có ý định sẽ dùng bút hiệu "Chàng Hiệp Sĩ Tương Tư," Vừa nghĩ đến đó thì chàng nhận ra nàng Amalthea đương thoăn thoắt xuống bực trong bóng tối. Khi chợt nhận ra chàng, nàng thốt một tiếng kêu nhỏ ngỡ ngàng và ngừng lại khoảng ba bực trên cao cách chàng.

    Nàng bận một chiếc áo mà một kỵ giáp binh đã lẻn xuống thành phố Hagsgate ăn trộm được vào một đêm nào đó. Tóc nàng xõa xuống ngang vai, chân đi đất. Bất ngờ gặp nàng như vậy, Hoàng tử Lir cảm thấy luống cuống ngượng ngùng, đến nỗi chàng đánh rơi bài thơ và cũng quên khuấy cả mọi dự tính, chàng còn định quay chạy đi là đàng khác. Nhưng chàng sự nhớ dầu sao mình cũng là anh hùng, vì vậy chàng hùng dũng tiến thẳng lên, cúi chào nàng cực kỳ lịch thiệp, "Xin chào công nương."

    Nàng Amalthea nhìn chàng chăm chú trong bóng đêm, nàng thò tay ra, nhưng chưa kịp đặt lên người chàng đã vội rụt lại. Nàng hỏi thầm, "Ông là ai: Rukh, phải chăng?"

    "Tôi là Lir," chàng trả lời, và thốt nhiên thấy sờ sợ. "Nàng không nhận ra tôi sao?" Nhưng nàng đã quay trở lại, tiếng bước chân nàng đi mơ hồ như tiếng chân loài thú. Ngay như dáng nàng đi, đầu cúi xuống, trông cũng từa tựa như dáng con dê hay con hươu gì đó. Chàng nói, "Tôi là Lir."

    "Mụ già," nàng Amalthea nói. "Trăng lặn. A." Nàng hơi rùng mình, và sau đó nàng thực sự nhận ra chàng, toàn thân nàng còn mơ hồ run rẩy, và nàng vẫn không tiến lại gần chàng hơn.

    "Nàng đương mơ," giọng chàng vẫn giữ được vẻ hùng dũng của hiệp sĩ. "Ôi ước chi ta biết được nàng đương mơ thấy gì."

    "Trước đây em đã mơ thấy điều đó rồi," nàng chậm rãi trả lời chàng. "Em mơ thấy mình bị nhốt trong một cái chuồng, quanh em còn nhiều những con vật khác cũng bị nhốt trong chuồng. Lại có một mụ già nữa. Nhưng thôi, em không muốn làm phiền chàng. Em đã từng mơ như thế nhiều lần rồi."

    Nàng muốn tạm biệt chàng lúc đó, nhưng chàng đã nói với nàng bằng thứ giọng chỉ những bậc cái thế anh hùng mới có, thứ giọng âu yếm, chở che, đùm bọc như tình mẹ thương. "Một giấc mộng mà cứ trở đi trở lại hoài tất có ý nghĩa một sứ điệp báo trước mình một cái gì sẽ xảy ra. Xin nàng kể rõ thêm nữa, tôi sẽ gắng tìm lời giải mộng cho nàng."

    Nghe vậy nàng dừng bước hẳn, nhìn chàng đầu hơi ngoái lại, vẫn với dáng điệu của một con vật mảnh khảnh, bỡ ngỡ, chăm chú nhìn tự trong bụi rậm nhìn ra. Nhưng đôi mắt nàng còn là đôi mắt lạc lõng một người đương cố nhớ ra điều gì mình đương cần. Giá như lúc đó chàng chớp mắt, có thể nàng đã rời bỏ chàng mà đi ngay, nhưng chàng đã biết cách giữ nàng lại bằng tia nhìn thẳng, chăm chú, như chàng vẫn nhìn thẳng như vậy để thôi miên những quái vật, giữ chúng đứng yên bất động. Nhìn đôi bàn chân không, đi đất của nàng, tim chàng nhói buốt còn hơn là bị sừng quái vật húc phải, nhưng quả thật chàng luôn luôn xứng danh là một đấng anh hùng.

    Nàng Amalthea thủ thỉ nói, "Trong mộng, em thấy những toa xe đen, có chấn song sắt, có những con thú, đặc biệt có con quái vật đôi cánh lấp lánh như kim khí dưới trăng. Có một người cao lớn với đôi mắt xanh và đôi bàn tay rướm máu."

    "Người đàn ông cao lớn có thể là ông chú nàng, ảo thuật gia," Hoàng tử Lir vừa suy nghĩ vừa nói. "Điều đó rõ rồi. Còn đôi tay rướm máu thì bỏ qua đi, không quan trọng, xin nàng tha lỗi cho vì đã nói vậy. Thế nàng chỉ mơ có vậy thôi sao?"

    "Em không thể kể hết cho chàng nghe được" nàng nói. "Giấc mộng chưa hết. Chưa bao giờ hết cả." Sự sợ hãi trở lại trong ánh mắt nàng như hòn đá rơi xuống hồ sâu: mọi sự mờ ảo và quay cuồng, và những bóng chạy trốn tán loạn. Nàng nói, "Em đã dời bỏ một nơi dung thân tuyệt hảo, để đi vào vùng đêm tối mênh mang. Cũng có ban ngày nữa, và em đi dưới hàng cây giẻ gai, mưa rơi giăng mắc và xót xa. Lại có cả những cánh bướm, những tiếng dịu ngọt, những lối đi lốm đốm, và những đường phố như xương cá, và quái vật biết bay xà xuống giết chết mụ già. Em đương chạy và chạy hoài trong vùng lửa lạnh, rồi em quay lại, chân biến thành chân loài thú."

    Hoàng tử Lir ngắt lời, "Xin nàng đừng kể thêm gì nữa." Giấc mộng nàng kể như biến thành hình thể âm u ngăn cách chàng với nàng. Chàng không còn muốn tìm hiểu ý nghĩa của chúng.

    "Xin nàng đừng nói nữa," chàng nhắc lại.

    "Em phải tiếp tục chứ," nàng Amalthea nói, "Vì những giấc mộng đó không bao giờ hết cả. Kể cả khi em thức giấc, đi đứng, ăn uống em cũng không thể nói rõ cái gì là thật, cái gì là em đương mơ. Em nhớ lại cái chắc là không hề xảy ra, và em quên cái đương xảy đến. Mọi người nhìn em như thể em đương nhiên quen biết họ, em quả thực có quen họ trong mộng thật, và lửa hình như bao giờ cũng lan tới gần em, kể cả lúc em đã thức giấc."

    "Xin nàng đừng kể nữa," chàng nói một cách tuyệt vọng. "Một mụ phù thủy đã xây cái lâu đài này. Kể chuyện ác mộng ở đây, ác mộng có thể thành sự thực." Thật ra không phải những giấc mộng đó của nàng làm chàng e ngại, chàng sợ vì trong khi nàng kể lại như vậy mà tuyệt nhiên nàng không hề nhỏ lệ. Là một anh hùng, chàng hiểu những giọt lệ của mỹ nhân và biết cách an ủi - thường là giết một cái gì - nhưng vẻ kinh hoàng điềm đạm của nàng bỗng làm chàng bối rối và nhụt chí khí trong khi khuôn mặt nàng làm sụp đổ khoảng cách danh dự mà chàng muốn giữ vững giữa hai người. Khi chàng cất lời nói nữa thì lần nầy giọng chàng trở thành non dại, vấp váp.

    "Tôi sẽ theo đuổi nàng một cách dễ thương hơn, nhưng vẫn chưa biết cách theo đuổi ra sao cho thích hợp với nàng. Những đầu rồng, những chiến công hiển hách của tôi làm nàng phát ngấy, nhưng tôi chẳng có gì khác để dâng nàng. Tôi đã trở thành anh hùng từ lâu rồi, và trước khi chưa là anh hùng, tôi chả là gì cả, hay chỉ là một thằng con trai đần độn, yếu đuối của cha tôi. Có lẽ giờ đây tôi thành tẻ nhạt theo một thể thức mới chăng. Nhưng tôi hiện ở đây, nàng đừng để uổng xin cho hay tôi có thể giúp nàng được điều gì, không cần phải kinh thiên động địa, nhưng hữu ích thôi."

    Nàng Amalthea mỉm cười cùng chàng, đó là lần đầu tiên nàng mỉm cười với chàng từ khi nàng tới lâu đài này. Một nụ cười mỉm, mong manh như vành trăng thượng tuần long lanh in ngần trên vòm trời, nhưng quả thực đã khiến Hoàng tử muốn nghiêng người về phía đó để tự sưởi ấm cho mình, chàng còn muốn khum khum hai bàn tay hứng lấy nụ cười mà thổi lên cho sáng thêm nữa, nếu như chàng dám có cử chỉ đó.

    "Xin chàng hát cho em nghe một bài," nàng nói. "Cũng là một việc hào hùng lắm nếu chàng cất giọng hát ở khoảng vắng lạnh đêm trường này, đồng thời hữu ích nữa. Xin hãy hát cho em một bài, hát lớn lên, hãy dìm cho chết đuối mọi ác mộng của em vào âm thanh sảng khoái của chàng. Và em có thể nhớ lại những gì em phải nhớ. Xin hãy hát ngay đi, hỡi ông hoàng của em. Đó chẳng phải là một hành động anh hùng quả cảm quen thuộc của chàng, em biết, nhưng điều đó làm vui lòng em biết bao."

    Thế là Hoàng tử Lir cất giọng hát, giọng hát tràn đầy sinh khí, và trông kia, dọc theo bực thang những con vật nhỏ ẩm ướt, ít khi được trông thấy, đương tới tấp chạy về mọi ngả để tìm chốn ẩn thân. Giọng hát của chàng như mang ánh dương quang tới. Chàng hát theo ngẫu hứng, và đây là bài hát vui, tếu chàng sực nhớ ra để sưởi ấm và soi sáng đêm trường:


    Chợt lớn lên thành chàng trai trẻ

    Được các nàng vừa nể vừa ưa

    Bướm ông ong bướm mây mưa

    Có bao giờ nói mình ưa cô nào


    Mặc cô gái má đào mơn mởn

    Mặc cho tình gió rợn mưa đong

    Chờ ai lòng nhủ với lòng

    Duyên tình như thể gương lồng bóng hoa


    Ngày tháng vẫn la đà trôi miết

    Bướm hoa càng da diết phù du

    Ái ân, cười nói, vui đùa

    Mà sao tình vẫn hững hờ với duyên


    Lòng tự nhủ thuyền quyên đến muộn

    Như hoa vàng thêm đượm chiều đông

    Đợi chờ vẫn đợi chờ mong

    Hưởng vui vẫn chuyện bướm ong qua ngày


    Rồi một buổi hương trời xuất hiện

    Người tôi mơ thoắt đến cùng thơ

    Phụ tình quen thói như xưa

    Vàng thau lẫn lộn giấc mơ tan tành


    Hỡi ơi, dẫu ân tình tuy mạnh

    Thôi hư còn ương ngạnh gấp đôi

    Bướm ong ong bướm quen rồi

    Sở Khanh trắc nết khiến người ra đi.


    Nàng Amalthea cất tiếng cười ròn khanh khách khi Hoàng tử vừa hát xong. Bóng tối âm u như lùi xa, như chạy trốn khỏi hai người. "Thật là hữu ích," nàng nói. "Cám ơn Hoàng tử của em."

    "Tôi cũng không hiểu sao mình lại chọn hát bài này." Hoàng tử Lir ngượng ngùng giải thích. "Một trong những người lính của cha tôi thường hát bài đó cho tôi nghe; tôi không tin tình ý nói trong bài ca là đúng đâu. Tôi nghĩ rằng tình yêu phải mạnh hơn thói quen và hoàn cảnh chứ, mình có thể chờ đợi lâu đến đâu chăng nữa, khi người ước mơ tới, mình phải nhận ra ngay là chính nàng đó." Nàng Amalthea lại mỉm cười, nhưng không trả lời. Chàng hoàng tử tiến thêm một bước tới gần nàng.

    Tự thấy cảm phục mình về cử chỉ bạo dạn đó, chàng nói khẽ, "Tôi muốn đi vào giấc mộng của nàng ôi, nếu tôi có thể làm được việc đó, để gìn giữ nàng, tôi muốn diệt trừ đến tận gốc tận rễ những gì ám ảnh nàng, quấy phá nàng. Nhưng làm sao tôi vào được giấc mộng của nàng, nếu nàng không mộng thấy tôi."

    Trước khi nàng kịp trả lời chàng, nếu như nàng có ý muốn trả lời, thì cả hai cùng nghe thấy tiếng bước chân vang lên từ những bực thang xoáy ốc phía dưới, và giọng khàn khàn của vua Haggard. "Ta nghe thấy tiếng hắn hát. Có cái gì làm hắn hát vậy."

    Kế đó là tiếng Schmendrick ảo thuật gia của nhà vua, đáp bằng một giọng nhẫn nhục, "Thưa ngài đó là vài khúc anh hùng ca, hoàng tử vẫn hát mỗi khi ra đi tìm chiến thắng hào hùng, hay mỗi khi trở về với thành quả vinh quan. Xin Bệ Hạ yên lòng."

    "Hắn có chịu cất tiếng hát ở lâu đài nầy bao giờ đâu," nhà vua nói. "Chắc là trên con đường phiêu lưu điên khùng hắn hát luôn, vì đó là thói quen của các vị anh hùng mà. Nhưng lần này hắn lại hát ngay ở đây, mà không phải là những khúc anh hùng ca hay những bài biểu lộ tình tự theo truyền thống hiệp sĩ, đây là bài hát huê tình rõ ràng. Con bé ấy đâu rồi? Ta biết chắc là hắn hát bài huê tình, dù không nghe rõ lời ca, vì ta nghe tiếng đá chuyển động trong lòng đất dưới chân di chuyển của Con Bò Mộng Đỏ. Con bé

    ấy đâu rồi?"

    Chàng hoàng tử và Amalthea nhìn nhau trong bóng đêm, lúc đó chàng và nàng như đứng sát bên nhau mặc dầu cả hai cùng không hề chuyển dịch. Họ cùng sợ bị nhà vua bắt gắp. Phía trên họ là khoảng dẫn vào một hành lang; họ bèn quay người, cùng chạy về phía đó, trước mặt tối mò mò. Bước chân của nàng thì câm lặng như lời hứa câm lặng nàng vừa trao cho chàng bằng ánh mắt, nhưng đôi ủng nặng nề chàng mang thì thực tình vang lên rang rảng như bất kỳ đài ủng của hiệp sĩ nào vẫn vang trên sàn đá như vậy. Vua Haggard không đuổi theo. Ảo thuật gia thì thầm, "Chuột, thưa ngài, chuột, không còn nghi ngờ gì nữa. May thay về thứ bùa chú." Tiếng nhà vua vang dọc theo hành lang đôi trẻ vừa chạy khuất. "Để cho chúng chạy. Với ta, chúng chạy như vậy là phải đạo."

    Khi hai người ngừng chạy, đứng lại khoảng nào, họ lại nhìn nhau.

    °

    Thế là mùa đông đằng đẵng cũng qua đi, không phải để sang một mùa xuân lá xanh hoa nở gì, mà sang một mùa hạ hung tàn ngắn ngủi tại lãnh địa này của vua Haggard. Đời sống tại lâu đài tiếp tục qua trong câm lặng, nơi đây không ai ủ ấp một niềm hy vọng gì trong lòng. Molly Grue làm bếp, giặt giũ, lau sàn đá, khâu vá giáp trụ, mài gươm giáo; nàng bổ củi, xay bột, tắm cho ngựa, rửa chuồng, nấu chảy vàng bạc ăn trộm về rồi cất vào rương cho nhà vua. Sau cùng vào mỗi buổi tối, trước khi lên giường ngủ, nàng thường còn phải đọc vài bài thơ mới sáng tác của Hoàng tử Lir và sửa cho chàng đôi lỗi chính tả.

    Schmendrick thì làm trò hề, làm ảo thuật, khi nhà vua ra lệnh. Ảo thuật gia chán ghét những trò đó lắm rồi, ông biết nhà vua thừa hiểu vậy, nhưng lại lấy thế làm khoái. Ông có đề nghị với Molly nên trốn thoát khỏi lâu đài trước khi Haggard khám phá ra sự thật về nàng Amalthea, nhưng khi có thì giờ rảnh ông cũng chẳng thiết tìm cách khám phá ra con đường hầm bí mật dẫn tới sào huyệt Con Bò Mộng Đỏ. Hình như ông đành chịu đầu hàng, không phải nhà vua, mà một kẻ địch nào đó già dặn hơn, độc ác hơn. Nó quả đã thắng ông sau một mùa đông qua đi tại chốn này.

    Nàng Amalthea thì vẻ đẹp cứ ngày một rỡ ràng, mặc cho đời sống chốn nàng ở ngày một tàn bạo hơn, tăm tối hơn. Những kỵ-giáp-binh già nua run rẩy, ướt sũng nước mưa ngoài tháp canh, hay đi ăn trộm trở về, gặp nàng giữa lối điều cảm thấy như trẻ lại và lòng nở ra hoa. Có thể nàng mỉm cười với họ, nói với họ đôi lời dịu dàng, nhưng khi nàng đã khuất xa, họ lại thấy tòa lâu đài đen tối ủ ê hơn bao giờ hết với tiếng gió bên ngoài lồng lộng trong bầu trời âm u. Vì nhan sắc của nàng nay đã là nhan sắc của thế nhân, người già chẳng tìm được chút an ủi nào nơi đó. Họ chỉ còn có thể tự sưởi ấm bên ngọn lửa nhỏ dưới nhà bếp kia.

    Nhưng giữa nàng Amalthea và Hoàng tử Lir thì khác hẳn. Họ đi chơi với nhau, nói chuyện ríu rít với nhau, cùng nhau cất tiếng hát say sưa vui vẻ, cứ y như lâu đài của Vua Haggard đây là cả một khu rừng xuân xanh mướt, ngút ngàn, với tiếng suối reo đây đó. Họ cùng nhau trèo lên những đỉnh tháp cong queo mà họ coi như những đỉnh đồi thơ mộng, ăn giữa trời với nhau trên mặt đá sù sì mà họi coi như thảm cỏ xanh mướt. Trên đầu họ luôn luôn là vòm trời màu chì, nhưng họ cần quái gì. Họ lướt nhanh, lên lên xuống xuống theo cầu thang cứ y như họ đang cùng nhau thỏa thuê bơi lột theo dòng suối. Chàng nói với nàng những điều chàng biết, suy nghĩ về chúng rồi lại suy nghĩ phát biểu giúp nàng nữa và nàng lắng nghe không hề phản đối. Không phải là nàng muốn lừa gạt chàng, nhưng vì quả thực khi đứng trước tòa lâu đài và chàng, nàng không nhớ một cái gì cả. Nàng chỉ biết khai mạc và bế mạc cuộc vui họp mặt bằng chính Hoàng tử Lir - trừ trong giấc mơ, và những giấc mơ đó của nàng cũng tàn lụi rất mau chóng, như chính lời chàng thường bảo.

    Giờ thì họ ít nghe thấy tiếng gầm của Con Bò Mộng Đỏ ra đi vào lúc màn đêm đã buông xuống. Nhưng đôi khi nếu chợt nghe thấy, nàng vẫn tỏ vẻ sợ hãi rụng rời, và tường đá, và mùa đông như lại muốn bao phủ vùi rập đôi trẻ. Vào trường hợp đó, chàng muốn âu yếm cầm tay nàng và an ủi nhưng chàng biết nàng vẫn còn rất sợ sự đụng chạm đó.

    Vào một chiều kia, nàng Amalthea leo lên đỉnh ngọn tháp cao nhất, ngóng đợi Hoàng tử Lir về. Chàng ra đi thanh toán tên anh rể của một con quỷ mà chàng đã hạ sát. Ấy, dạo này đôi khi chàng vẫn ra đi thực hiện một vài cuộc mạo hiểm như vậy. Trên đầu nàng lúc đó, mây chất như núi; một màu trắng bẩn, nhưng trời vẫn không mưa. Tít dưới xa, biển lướt rộng về phía chân trời mờ khói theo từng vệt, chỗ thì lấp loáng bạc, chỗ thì màu lá cây, chỗ thì màu nâu như rông, những con chim gớm ghiếc kia không chịu ngưng nghỉ, chúng bay lên bay xuống khi thì từng hai con, quay cuồng trên sóng nước rồi lại quay về đậu vênh vang trên bãi cát, hướng về phía lâu đài của Vua Haggard trên bờ đá cao làm điệu như vừa cười khà khà, vừa kêu thành lời, "Nói như vậy đó, nói như vậy đó." Thủy triều thấp, và có thể sắp dâng cao.

    Nàng Amalthea bắt đầu hát. Giọng nàng đu đưa trong gió lạnh như giọng một loài chim lạ.

    "Tôi là công chúa con vua

    Lớn lên với tháng ngày qua tuổi đời

    Tù nhân cho cái thân tôi

    Da xiềng, thịt xích, nào vơi mối sầu

    Nhớ ai gió thổi bên lầu

    Thương ai trăng dãi qua cầu ngẩn ngơ.

    Nàng không hề nhớ là đã nghe hát bài này trước đây, lời ca như bàn tay lũ trẻ cố níu kéo nàng trở lại chỗ mà chúng muốn được xem nữa. Nàng cựa vai như để xua đuổi chúng.

    "Nhưng ta đâu có già," nàng tự nhủ, "và ta đâu có là tù nhân. Ta là công nương Amalthea mà Hoàng tử Lir yêu dấu. Hoàng tử đã lọt được vào giấc mộng của ta rồi kia mà, chẳng có điều gì khiến ta phải nghi ngờ, kể cả khi ngủ. Ta đã học được bài hát sầu đó ở đâu vậy? Ta là công nương Amalthea, thường chỉ biết những bài hát do Hoàng tử Lir dạy."

    Nàng đặt tay lên khoảng cái dấu ở giữa trán. Tiếng triều biển dạt dào đâu đây, êm ả như vòng đai hoàng đạo; tiếng những con chim gớm ghiếc kêu lên the thé. Nàng hơi bối rối khi thấy cái dấu vẫn còn đó.

    "Kính chào Bệ Hạ," nàng nói, tuy lúc đó chẳng hề có một tiếng động nào. Có tiếng cười phía sau và nàng quay lại nhìn nhà vua. Ngoài bộ giáp ông còn khoác tấm áo choàng màu xám, nhưng đầu để trần. Những vết nhăn đen trên khuôn mặt chứng tỏ thời gian đã cương quyết để lại con dấu, tuy nhiên trông ông còn vạm vỡ hơn, man rợ hơn con ông nhiều.

    "Nàng có vẻ tưng bừng thích nghi mau lẹ với hiện tại và trì độn với dĩ vãng," nhà vua nói. "Người ta bảo tình yêu làm đàn ông lẹ lên, làm đàn bà chậm đi. Ta sẽ bắt giữ nàng lại nếu như nàng còn say đắm hơn nữa."

    Nàng mỉm cười nhưng đáp lời: Nàng thường không biết nói sao với ông già có đôi mắt xám lợt ấy, nàng ít khi gặp ông ta, trừ đôi khi vào trường hợp nàng đang chia sẻ những giây phút cô quạnh nhất với Hoàng tử Lir. Vừa lúc đó có tia lấp lánh của giáp trụ ánh lên tự đáy sâu thung lũng, và tiếng vó ngựa vấp trượt, mệt mỏi đập trên đá. "Hoàng nam của Bệ hạ đã trở về."

    Vua Haggard tiến tới đứng cạnh nàng bên bờ thành thấp, nhưng ông không hề chú ý ngắm khuôn mặt nhỏ xíu còn ở tít dưới xa của đứa con trở về. Ông hỏi, "Này chứ ta với nàng thì cần gì phải chú ý tới Lir nhỉ. Hắn chẳng phải là con ta, cũng chẳng phải thuộc về ta. Ta đã mang hắn về đây từ thuở hắn còn đỏ hỏn bị ai đó bỏ rơi, thuở đó ta nghĩ rằng chưa bao giờ mình sung sướng chỉ vì vừa chưa bao giờ mình có con. Thoạt việc chăn nuôi hắn cũng là cái thú, nhưng rồi niềm vui cũng chóng tàn. Cái gì đến với ta cũng chỉ cho ta hưởng những niềm vui chóng tàn, duy có một điều cho đến bây giờ với ta cũng chưa hề trở thành nhàm chán." Khuôn mặt độc ác của nhà vua cùng đượm vẻ nham hiểm như cái lưới vừa bung ra để bất ngờ chụp xuống. "Lir có khám phá ra điều đó cũng không giúp ích gì cho nàng. Mà cho đến nay hắn cũng chưa hề biết cái đó."

    Bỗng nhiên cả tòa lâu đài rung lên như dây đàn, con vật nằm ở dưới đáy móng hầm sâu vừa cựa mình thức giấc. Nàng Amalthea dễ dàng lấy lại thăng bằng, vì đã quá quen với điều này, và hỏi khẽ, "Con Bò Mộng Đỏ. Nhưng tại sao ngài lại nghĩ rằng tôi đến để ăn trộm Con Bò Mộng? Tôi có vương quốc nào đâu để giữ nó? Tôi chinh phục nó, lấy trộm nó thì dùng được việc gì? Nó ăn chắc khỏe dữ?"

    "Đừng có ngạo ta, nàng" vua đáp. "Con Bò Mộng Đỏ cũng như chàng trai kia, cả hai chẳng hề là của ta. Con Bò Mộng Đỏ không ăn gì cả, và cũng chẳng thể bị mất trộm. Nó phục vụ bất kỳ kẻ nào không biết sợ là gì." Nàng Amalthea thoáng thấy vẻ tiên tri tiên giác lướt trên khuôn mặt dài, xám của ông, lướt trên vừng trán của ông. "Đừng có ngạo ta," ông nói. "Tại sao nàng lại giả bộ như quên mất điều nàng đương tìm kiếm, đợi ta phải nhắc nàng chăng? Ta thừa biết nàng đến đây để tìm gì, nàng cũng thừa biết ta có giữ thứ đó. Cứ lấy cái đó đi, có giỏi thì cứ lấy đi, nhưng đừng làm bộ đầu hàng." Những vết nhăn trên mặt ông đều xuất hiện như những lưỡi dao sắc.

    Hoàng tử Lir cưỡi ngựa trên đường về, miệng cất tiếng hát vang. Nàng Amalthea chưa nghe rõ được lời ca của chàng. Nàng điềm đạm nói với nhà vua, "Thưa ngài, Con Bò Mộng Đỏ đã giúp ngài chiếm hữu được những gì? Đàn súc vật, ngai vàng, vương quốc chăng? Duy tôi chỉ ưng có một vật đó là vật mà ngài không có quyền giữ. Tất cả kho tàng ngài có, trong đó không có chàng, tôi thành thực chúc ngài giữ lấy mà an hưởng. Kính chào ngài."

    Nàng định đi về phía cầu thang, vua đã đứng chặn đường. Nàng ngừng lại, nhìn vua với đôi mắt đen tối như vết chân loài thú in trên tuyết. Vị lão vương mỉm cười, nàng Amalthea thấy lạnh người giây lát vì nàng chợt tưởng tượng thấy như nàng và nhà vua có phần nào giống nhau. Vua nói, "Ta biết nàng. Ta gần như đoán ra ngay, khi thoạt thấy nàng từ xa lại với tên hề và người nấu bếp của nàng. Kế đó nhất cử nhất động nàng đều tự tố cáo rõ như ban ngày. Từ dáng đi, từ vẻ nhìn, từ cách quay đầu, từ cách thở, từ cách đứng yên bất động - ta đều quan sát rất kỹ. Nàng làm ta ngạc nhiên một thời gian, nhưng giờ thì hết rồi."

    Ông ta ngoái nhìn ra phía biển, đi thẳng tới khoảng thành thấp, dáng lanh lẹ dị thường, như một chàng trai trẻ. Ông nói, "Triều bắt đầu lên. Hãy lại đây mà trông. Lại đây." Giọng nói của ông rất nhẹ, nhưng cũng đủ khiến lũ chi gớm ghiếc trên bãi biển kia ngừng kêu. "Lại đây," tiếng ông trở nên giữ dằn. "Lại đây, ta không đặt tay lên nàng đâu mà sợ."

    Tiếng Hoảng tử Lir hát:

    "Thương nàng lắm lắm nàng ôi,

    Thương nàng biết thuở nào nguôi hỡi nàng..."

    Chiếc đầu khủng khiếp treo lủng lẳng nơi yên ngựa của chàng như đập theo nhịp trầm. Nàng Amalthea tới đứng bên vua.

    Trời vần vũ mây, nàng ngắm nước triều dâng cao dần, những đợt sóng nhấp nhô như muôn vàn thân cây trồi lên ngang biển. Càng gần tới bãi cát, những đợt sống càng như khom lưng nhô cao hơn nữa rồi lao mình hung dữ lên bãi cát, trông cảnh đó chẳng khác cảnh một đoàn súc vật vừa bị sập bẫy vội lồng lộn nhảy qua một đoàn súc vật vừa bị sập bẫy vội lồng lộn nhảy qua một bức tường để thoát thân, nhưng rút cục bị bật trở lại, bèn nhe răng múa vuốt cố nhảy một lần nữa, thêm lần nữa, và cứ thế cho đến lúc chân chồn móng vỡ. Trong khi đó lũ chim gớm ghiếc càng cất tiếng kêu the thé muôn phần rùng rợn. Nàng ngắm những đợt sóng từ xa ùa lại màu xám và xanh như chim bồ câu, nhưng khi chúng va vào bãi cát, vỡ tung thành bọt thì biến thành máu trắng xóa, trắng như cụm tóc của chính nàng đương phất phơ trước mắt.

    Một tiếng nói lớn, lạ lùng ngay bên tai nàng, "Đó, chúng đó." Vua Haggard chỉ xuống khoảng bọt biển trắng xóa, rồi cất tiếng cười sằng sặc, nhắc lại, "Đó, chúng đó. Nàng có dám nói đó không phải là đồng loại của nàng chăng? Nàng có dám nói nàng không đến đây để tìm chúng chăng? Nàng có dám nói nàng chỉ đến đây trú ngụ nơi đây qua một mùa đông để tìm tình yêu thôi chăng?"

    Ông ta không hề đợi câu trả lời, mà quay đi tiếp tục ngắm sóng biển. Khuôn mặt ông đổi màu một cách kỳ dị: sự sảng khoái làm bừng màu da xẫm, làm tròn gò má xương xẩu, làm phẳng những nếp nhăn vòng cung hai bên miệng. "Chúng là của ta," ông nói, "Chúng thuộc quyền sở hữu của ta. Con Bò Mộng Đỏ đã bắt chúng về từng con một, từng con một, và ta yêu cầu Bò Mộng dẫn chúng theo đường ra biển. Còn có chỗ nào tuyệt hảo hơn để giam giữ kỳ lân bằng biển? Con Bò Mộng Đỏ vẫn có đó, thức hay ngủ, canh giữ chúng.

    Từng bị Con Bò Mộng Đỏ quần cho mất nhuệ khí, giờ đây chúng đành cam chịu sống dưới biển. Vẫn theo nước triều mon men đến gần bờ đấy nhưng tuyệt nhiên không dám lên khỏi mặt nước. Chúng sợ Con Bò Mộng!"

    Gần có tiếng Hoàng tử Lir hát.

    Yêu nàng dám tiếc gì đâu

    Núi cao, biển rộng, sông sâu chẳng nề.

    Nàng Amalthea bám chặt lấy bờ thành mong hoàng tử sớm tới với nàng, vì nàng cho rằng vua Haggard điên mất rồi. Bên dưới kia vẫn chỉ là bãi biển nhỏ, hẹp, với những tảng đá và triều dâng, thế thôi, có gì khác đâu.

    "Ta thích ngắm chúng. Vui không thể tả được." giọng của nhà vua như trẻ thơ cất tiếng hát. "Ta chắc chắn đố là niềm vui thật. Lần đầu tiên cảm thấy vui, ta chợt nghĩ rằng ta sẽ chết. Buổi sớm đó, ta thấy hai kỳ lân, con đực đang uống nước ở dòng suối, con cái ngả đầu lên lưng con đực. Ta nghĩ rằng ta sẽ chết.

    Ta bảo Con Bò Mộng Đỏ rằng ta cần chúng, ta cần tất cả lũ chúng, không sót một con. Thế là Bò Mộng đi bắt chúng, cứ từng con một, từng con một bị dẫn về. Thực ra Con Bò Mộng Đỏ chỉ biết tuân lịnh thôi. Ta bảo nó đi bắt ong hay đi bắt cá sấu thì nó cũng tuân lệnh y như vậy. Nó chỉ cần phân biệt cái ta muốn và cái ta không muốn, thế thôi."

    Ông ta chợt quên khuấy nàng khi cúi nhìn qua bức thành thấp, lúc đó nàng có thể lẩn đi được. Nhưng nàng vẫn đứng nguyên. Giấc mộng cũ kỹ nào đó như chợt thức giấc bao phủ lấy nàng, dù đang thanh thiên bạch nhật. Triều biển tiếp tục lên, sóng biển xô vào đá tan tác, và tiếng Hoàng tử Lir ca theo nhịp vó ngựa.

    "Yêu nàng lắm lắm nàng ôi,

    Yêu nàng biết thuở nào nguôi hỡi nàng."

    "Thưở ban đầu gặp chúng, ta còn là chàng trai trẻ." Vua Haggard nói. "Nay thì đã già rồi, từ đó tới nay ta đã bắt nhốt biết bao nhiêu là kỳ lân trong vùng biển dưới kia. Nhưng ta cũng luôn luôn hiểu rằng chẳng có cái gì đáng ngự trị trong trái tim ta, bởi có cái gì vĩnh cửu đâu. Và ta đã có lý, bằng chứng, ta mỗi ngày một già. Tuy nhiên cứ mỗi lần đứng ngắm đám kỳ lân, thật tình ta cảm thấy như mình trẻ lại ngoài ý muốn, trở lại thuở thanh xuân lần đầu tiên bắt gặp chúng trong rừng."

    Nương theo lời nói của Vua Haggard, nàng Amalthea tự nhủ rằng trong mộng nàng vẫn đứng và nhìn xuống bốn chân loài thú trắng phau của mình, lại có một vệt cháy bỏng ở trên trán, vệt bỏng đó nay vẫn còn. Nhưng nước triều vẫn xô vào bờ kia, có thấy con kỳ lân nào đâu. Nhà vua điên rồi. Ông tiếp tục nói, "Không hiểu lũ chúng sẽ ra sao sau ngày ta qua đời. Con Bò Mộng Đỏ sẽ quên chúng ngay tức khắc, ta biết rõ điều đó lắm, nó ra đi tìm một ông chủ mới nhưng chúng nó biết lợi dụng lúc đó mà ùa lên bờ chăng. Ta mong rằng không, như vậy chúng sẽ thuộc về ta vĩnh viễn."

    Nhà vua quay lại ngắm nàng Amalthea, đôi mắt vừa dịu dàng vừa tham lam y như đôi mắt Hoàng tử Lir ngày nào ngắm nàng. Ông nói. "Ngươi là con kỳ lân cuối cùng. Con Bò Mộng Đỏ bắt trượt vì ngươi đã hóa thành cô gái như thế này, nhưng điều đó qua mắt ta sao nổi. Ta hỏi thực ngươi làm cách nào mà hóa thành thiếu nữ như vậy. Cái anh chàng ảo thuật gia của người chắc chắn không làm nổi trò đó, biến kem thành bơ hắn cũng không làm nổi.

    Nếu như lúc đó nàng buông tay ra khỏi bờ thành, có thể nàng ngã khuỵu, nhưng nàng đã điềm tĩnh trả lời,

    "Thưa ngài, tôi không hiểu ngài nói gì. Tôi có trông thấy gì ở sóng biển kia đâu."

    Khuôn mặt nhà vua rúm ró lại, như thể nàng nhìn ông qua làn lửa. Ông hỏi thầm, "Có thật ngươi đã tự quên mình rồi chăng? Này, như vậy thì thật hèn mạt như thể chính ngươi là con người vậy. Ta sẽ đích thân ném ngươi xuống kia giữa đám đồng loại nếu ngươi tự phủ nhận như vậy." Ông tiến thêm một bước tới nàng, và nàng nhìn ông ta với đôi mắt mở lớn, không sao nhúch nhích nổi một li.

    Tiếng triều biển ầm ầm chan hòa trong đầu óc nàng cùng với tiếng ca của Hoàng tử Lir và tiếng than khóc trước khi chết của một người tên là Rukh. Khuôn mặt của vua Haggard nhìn xuống khuôn mặt nàng như nhát búa sắp bổ xuống, ông ta lẩm bẩm. "Có thể thế lắm, ta đâu có lầm. Tuy nhiên sao đôi mắt nàng giờ đây cũng tầm thường như đôi mắt hắn - như bất kỳ đôi mắt nào chưa hề bao giờ thực mục sở thị kỳ lân, chẳng bao giờ trông thấy gì cả ngoài cái bóng mình trong gương. Ngươi định lừa ta đây. Sao lại có thể thế được? Ta không còn thấy màu lá xanh trong đôi mắt này nữa."

    Vừa lúc đó, nàng nhắm nghiền mắt lại, nhưng khép vào nhãn giới nhiều hơn là những gì có thức bên ngoài. Con vật có đôi cánh đồng với khuôn mặt của mụ phù thủy đanh ác đương lắc lư gần đó, cười nói líu lo, và con bướm chấp cánh liệng bay chao chát. Con Bò Mộng Đỏ rượt đuổi lặng lẽ qua rừng, dùng đôi sừng lợt lạt của nó gạt những cành cây lớn sang bên. Nàng biết lúc vua Haggard bỏ đi, nhưng nàng vẫn chưa mở mắt.

    Có thể là một thời khắc khá lâu qua đi, cũng có thể là ngay lúc đó, nàng nghe tiếng ảo thuật gia nói phía sau, "Hãy đứng yên, xin hãy đứng yên, mọi sự qua rồi." Nàng không rõ mình có thốt ra lời nào không.

    "Trong khoảng bể kia kìa," ảo thuật gia tiếp. "Trong khoảng bể kia kìa. Đừng nghĩ lan man mà làm gì. Chính tôi đã từng ngồi đây ngắm triều lên mà có bao giờ thấy gì đâu. Sở dĩ Haggard bảo là thấy vì ông ta hễ cứ muốn cái gì là thấy cái đó." Ảo thuật gia bật tiếng cười hào hứng nghe như tiếng rìu bổ chắc nịch vào gỗ. Đừng nghĩ lan man mà làm gì. Đây là một lâu đài phù thủy, do đó khó mà nhìn được cái gì gần gũi, chưa phải lúc - mà bạn thì lúc nào cũng cứ chăm chăm nhìn hoài nhìn hủy." Ông lại cất tiếng cười, lần này dịu dàng hơn, nói, "Được rồi chúng ta sẽ tìm ra chúng bây giờ. Nào hãy theo tôi."

    Nàng quay về phía ảo thuật gia mấp máy môi muốn nói mà không thốt nên lời. Ảo thuật gia chợt chăm chú nhìn lên khuôn mặt nàng, và nói bằng giọng lo lắng, "Chết chưa, sao khuôn mặt bạn ướt đẫm thế này. Hy vọng đó là nước bắn vào. Chứ như nếu bạn đã nhân hóa đến mức biết không như người thì thật vô phương - không thể có một bùa phép gì ở trên đời này mà có thể - ồ, chắc là nước bắn vào đấy. Hãy theo tôi, bạn. Đó là nước bắn vào thì hơn

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    12
    Tại khu tiền đình mênh mông của tòa lâu đài, chiếc đồng hồ gõ sáu tiếng. Thực ra lúc đó đã quá nửa đêm được mười một phút, nhưng ánh sáng nơi đây tiếng vậy mà nhờ nhờ chỉ gọi là tối hơn khoảng sáu giờ sáng hay khoảng giữa trưa một chút thôi. Vả lại những ai sống trong tòa lâu đài này đều nói giờ căn cứ vào sự khác nhau trong bóng tối. Đồng hồ chỉ điểm giờ vào lúc khu tiền đình lạnh lẽo quá muốn tìm đôi chút hơi ấm, tối tăm quá muốn tìm đôi chút ánh sáng, khi bầu không khí nơi đây ẩm mốc và ngưng đọng, tường đá hôi rình mùi nước đọng, vì làm gì có luồng gió nào thổi qua nơi đây. Đó là về ban ngày.

    Nhưng về đêm, vì có vài loại cây giữ lấy khí nóng ánh sáng suốt ban ngày, ủ hơi ấm phía mặt sau lá, nên sau khi mặt trời lặn đã lâu rồi, bóng tối nơi đây vẫn còn tưng bừng, sinh động. Khi khí lạnh tràn lấn tái chiếm lại dần khu tiền đình, những con vật nhỏ ngủ ban ngày thức giấc đi đi lại lại, kêu rúc rích, gãi sồn sột trong các góc tối. Rồi hơi ẩm mốc bắt đầu bốc tỏa tự sâu thăm thẳm bên dưới thềm đá. Đêm khuya đó.

    "Cho một chút ánh sáng đi," Molly Grue nói. "Làm ơn cho một chút ánh sáng được không?" Schmendrick thì thầm một câu gì ngắn gọn và có vẻ nhà nghề. Một lúc sau chẳng thấy có gì lạ cả, chợt một thứ ánh sáng kỳ dị nông choèn tỏa ra phủ lấy sàn đá, hàng ngàn cánh sáng lốm đốm tỏa ra tứ phía cùng tiếng kêu the thé. Những con vật đêm đều như mang ánh sáng của loài đom đóm. Chúng vút chạy đi, vút chạy lại, chợt hiện, chợt mất, do đó bóng tối khu tiền đình càng trở nên lạnh lẽo.

    "Trời, thà ông bạn đừng làm thế này còn hơn," Molly nói. "Thôi, tắt đi có được không? Trông kìa, những con vật màu đỏ tía với... với chân dài thì phải kìa."

    "Không, tôi không thể tắt được nữa," Schmendrick trả lời. "Cứ yên chí lớn mà. Cái đầu lâu đâu?"

    Nàng Amalthea có thể trông thấy nó nhăn răng ở trên cột đá kia, nhỏ như trái chanh trong bóng tối, và mờ như trăng bình minh. Nó chẳng nói một lời nào cả từ lúc nàng từ trên tháp xuống đây.

    "Kia rồi," ảo thuật gia nói. Ông rảo bước về phía đầu lâu, chằm chằm nhìn sâu vào đôi hố mắt nứt nẻ, vụn nát của nó một hồi lâu, đầu gật bù, miệng lẩm bẩm niệm chú. Molly Grue theo dõi, thỉnh thoảng lại liếc nhìn nàng Amathea. Sau cùng Schmendrick bảo, "Được rồi. Chớ đứng gần quá như vậy."

    "Liệu có thứ bùa chú khiến đầu lâu biết nói không?" Molly hỏi. Ảo thuật gia vươn dài những ngón tay ra, đáp lại bằng một nụ cười đầy thẩm quyền.

    "Có những bùa chú khiến mọi vật nói được. Những tay phù thủy đại tài đều là những vị biết lắng nghe một cách tinh tế. Họ có cách khiến tất cả những vật sống cũng như chết nói được với họ. Là một phù thủy thì phần lớn phải biết nhìn, biết nghe." Ông hít một hơi thở dài, chợt quay nhìn phía khác, hai bàn tay xoa vào với nhau, tiếp, "Còn ngoại giả đều là kỹ thuật hết. Được rồi. Nào chúng ta làm."

    Ông chợt quay lại đối diện với đầu lâu, đặt một tay lên đỉnh sọ miệng lẩm nhẩm như chuyện trò, như ra lệnh. Lời nói tuy thầm thì nhưng chững chạc như tiếng chân của những người lính canh gặp nhau trong đêm. Nhưng đầu lâu chẳng hề trả lời gì.

    "Lạ nhỉ," ảo thuật gia thốt khẽ. Ông không đặt tay lên đỉnh sọ nữa, tiếp tục niệm chú, lần này âm thanh lời nói rõ hơn, đượm vẻ tỉ tê dỗ ngon dỗ ngọt. Cái sọ vẫn yên lặng, tuy nhiên Molly thoáng thấy như nó vừa thức giấc. Trong vùng ánh sáng lấp loáng lướt nhanh của lũ sau bọ ban đêm, mái tóc của nàng Amalthea như một bông hoa lồng lộng. Nàng đứng đó không hàm hồ, chẳng dửng dưng, nhưng yên lặng, thứ yên lặng đôi khi gặp ở bãi chiến trường. Nàng chăm chú ngắm Schmendrick niệm hết thần chú này sang thần chú khác trước cái sọ trắng hếu, nó vẫn yên lặng như nàng Amalthea vậy. Lời thần chú sau bao giờ cũng được thì thầm bằng một giọng thiết tha tuyệt vọng hơn lời thần chú trước, và cứ như vậy lũy tiến lên, mà đầu lâu nhất định không chịu nói. Cứ như nhận xét của Molly Grue thì đầu lâu có nghe, có hiểu đấy nhưng cố tình riễu cợt. Molly cho đến chết cũng không thể lầm được thứ yên lặng có tình riễu cợt đó.

    Đồng hồ điểm đến tiếng thứ hai mươi chín thì Molly lẫn không đếm tiếp được nữa. Đồng hồ còn tiếp tục gõ nữa. Schmendrick thốt nhiên giơ cả hai nắm tay lên chỉ vào mặt đầu lâu hét lớn, "Được lắm, được lắm, nói với người thà nói với đùi gối còn hơn. Ngươi nghĩ sao, ta sẽ đấm ngươi một cái vào mắt." Lời nói sau cùng của ảo thuật gia lạc hẳn giọng vì giận, nghe thật thiểu não.

    "Được lắm!" đầu lâu nói. "Cứ việc gầm lên mà đánh thức Haggard dậy. Tưởng bở!" Tiếng đầu lâu nói nghe như tiếng những cành cây chạm vào nhau trong gió thôi, ông ta đâu có ngủ nhiều, ông bạn biết đấy."

    Molly thốt lên một tiếng kêu khẽ thống khoái, và cả nàng Amalthea nữa cũng tiến gần thêm một bước. Schmendrick còn nắm chặt quả đấm, nét mặt tiếng vậy không tỏ lộ vẻ thắng thế. Đầu lâu nói. "Hỏi đi thôi, hãy hỏi tôi xem muốn gặp Con Bò Mộng Đỏ phải đi đường nào. Chớ lầm mà hỏi ý kiến tôi. Tôi là tên canh gác cho nhà vua, canh gác con đường dẫn xuống sào huyệt Con Bò Mộng Đỏ. Kể cả Hoàng tử Lir cũng không biết con đường bí mật đó, nhưng tôi biết." Molly e dè hỏi, "Quả ông canh gác con đường đó, sao ông không báo động cho nhà vua? Sao ông lại có ý giúp bọn tôi?

    Đầu lâu cười lục cục. "Tôi ở trên trụ đá này đã quá lâu rồi. Tôi vốn là trưởng đoàn cận vệ thân tín của nhà vua cho đến ngày ông ta chặt cổ tôi chẳng có gì duyên cớ. Đó là vào thuở ông ta ưa đường lối tàn bạo muốn tìm hiểu xem đó có phải là điều ông ta thực sự khoái. Sau khi đã chặt đầu tôi rồi ông ta mới hay đó không phải là điều ông ta thích. Ông bèn đặt đầu tôi lên đây cho giữ nhiệm vụ canh gác. Đó, trường hợp của tôi như vậy, kể ra tôi cũng chẳng cần phải trung thành với nhà vua làm gì cho lắm."

    Schmendrick thấp giọng nói, "Hãy giải giúp bọn tôi lời đố. Hãy chỉ cho chúng tôi biết đường đi tới Con

    Bò Mộng Đỏ."

    "Không," đầu lâu trả lời, rồi cười như điên.

    "Sao không?" Molly thét, giận dữ. "Trò chơi gì vậy?" Xương quai hàm vàng khè của đầu lâu không hề động đậy, nhưng tiếng cười ằng ặc còn kéo dài một lúc sau. Kể cả những con vật đêm đương đi lại tới tấp cũng ngừng lại một lúc.

    "Tôi chết rồi," đầu lâu nói. "Vâng, tôi chết rồi và cắm trên cao trong khoảng tối để canh gác cho Vua Haggard. Tôi chỉ còn một điều giải trí duy nhất là chọc giận kẻ sống vậy mà cũng chẳng mấy khi tôi gặp được những dịp may đó. Thật là điều thiệt thòi cho tôi quá lắm vì thuở sinh thời tôi vốn là tên rất ưa chọc giận thiên hạ. Thứ lỗi cho tôi nhé. Mai lại đến, biết đâu mai tôi chẳng nói."

    "Nhưng chúng tôi không có thì giờ!" Molly phân trần. Schmendrick hích nhẹ Molly một cái, nhưng nàng đương đà nói, nàng tiến thẳng tới gần đầu lâu nhìn vào hai hố mắt nài nỉ, "Chúng tôi không có thì giờ. Chúng tôi tới đây đã quá muộn rồi."

    "Chúng tôi không có thì giờ," đầu lâu trầm ngâm nhắc lại. "Có thì giờ cũng chẳng hay hớm gì đâu. Vội vội vã vã, bổ sấp bổ ngửa, cuống cuồng, vô phương cứu chữa, quên cái này, chậm cái nọ, cái quá lớn không thích ứng được với nơi quá nhỏ, đời là như vậy chứ gì, luôn luôn so với điều kia thì điều này là chậm. Phớt tỉnh đi."

    Molly lăm le năn nỉ tiếp, nhưng Schmendrick đã nắm mạnh cánh tay, kéo nàng sang một bên, nói lớn và lẹ, "Thôi im đi, đừng nói thêm một lời nào nữa. Tất cả câu đố chỉ có thế thôi mà."

    "Chưa chắc," đầu lâu bảo ông. "Tôi có thể nói chuyện với các bạn bao lâu cũng được, nhưng tôi sẽ chẳng mách thêm các bạn điều gì đâu. Ồ giá như các bạn được gặp tôi thuở sinh thời mới phải."

    Schmendrick không thèm để ý nghe, mà hỏi Molly, "Rượu vang đâu nhỉ? Để tôi nghĩ xem mình nên dùng rượu vang vào việc gì nào."

    "Tôi không tìm thấy rượu," nàng bứt rứt đáp. "Tìm khắp trong lâu đài mà chẳng kiếm ra một giọt." Ảo thuật gia nhìn chằm chằm vào nàng trong cái im lặng mênh mông. "Tôi tìm," nàng nhắc lại.

    Schmendrick từ giơ cả hai tay lên rồi lại buông xuống, nói, "Được, đành vậy, nếu như bạn không kiếm được ra rượu. Tôi có ảo giác, nhưng không bột làm sao gột nên hồ, tôi chẳng thể làm ra rượu bằng không khí."

    Đầu lâu cười sằng sặc, rồi nhận xét, "Vạn sự chẳng cái gì tự tạo, chẳng cái gì tự diệt với hầu hết các ảo thuật gia."

    Tự nếp gấp ở tấm áo của mình, Molly lấy ra một chiếc bình lấp lánh sáng trong bóng tối. Nàng nói, "Này ông bạn, có một chút nước đây, có thể khởi sự được đó..." Schmendrick và đầu lâu cùng hướng về nàng. "Được, đủ lệ bộ rồi đó," nàng nói lớn. "Ông bạn không làm ra được gì mới, nhưng điều đó chẳng sao."

    Nàng nhìn xéo về phía nàng Amalthea. Schmendrick cầm lấy chiếc bình tự tay Molly, ngắm nghía kỹ càng, miệng lẩm bẩm những tiếng lạ lùng. Sau cùng ông ta nói, "Sao không, như là bạn biết đây là thứ trò phổ thông, đã từng một thời rất được hâm mộ, nhưng ngày nay thì cũng khá cổ lỗ." Ông múa tay trên miệng bình, niệm chú trong không khí.

    "Ông bạn làm gì vậy?" Đầu lâu cất tiếng hỏi hăng say. "Hây, hãy làm cái đó gần tôi nè, tôi chẳng trông thấy gì cả." Ảo thuật gia quay sang phía khác, âu yếm ôm bình vào ngực, hơi cúi xuống, bắt đầu hát nho nhỏ, Molly có cảm tưởng như đương nghe tiếng than còn nổ lách tách trong lò sau khi lửa tắt đã từ lâu.

    "Không phải là thứ đặc biệt cho lắm," ông ta nói "Vâng thường thôi." Molly trang trọng gật đầu. Schmendrick tiếp, "Vẫn như mọi khi tôi làm, ngọt quá, uống sao được." Ông ta tiếp tục niệm chú, nhỏ hơn, trong khi đầu lâu luôn luôn than phiền là chẳng trông thấy gì, chẳng nghe thấy gì. Molly nói khẻ với nàng Amalthea điều gì, nhưng Amalthea lơ đãng nhìn đi nơi khác, không trả lời.

    Lời niệm chú ngừng bặt, Schmendrick nâng miệng bình lên môi, thoạt hít hít ngửi, rồi nói nhỏ, "Lạt quá, lạt quá gần như chẳng có hương vị gì. Chẳng bao giờ dùng ảo thuật mà làm nên rượu ngon cả." Ông nghiêng bình uống, rồi lắc bình, ngắm bình chằm chằm, rồi mỉm cười dốc ngược bình xuống. Không một giọt nước đổ ra.

    "Được rồi đó," Schmendrick nói một cách tưng bừng, liếm lưỡi khô lên môi khô và nhắc lại, "Được rồi, làm xong rồi đó." Vẫn mỉm cười, ông giơ tay để ném chiếc bình.

    "Ấy đừng - hây, hãy đợi đã!" Tiếng đầu lâu hốt hoảng phản đối đến nỗi Schmendrick phải ngừng tay. Ông ta và Molly cùng quay lại nhìn đầu lâu đương cuống cuồng lo mất bình rượu, dáng điệu đầu lâu rẫy nẩy, đỉnh đầu va vào cọc đá kêu lóc cóc, giọng cầu khẩn than van, "Xin đừng ném, ông bạn điên hay sao, ai lại ném bình rượu vang đi như thế bao giờ. Ông bạn chê thì cho tôi."

    Một suy tư thoáng hiện trên vẻ mặt Schmendrick như một áng mây khói lướt nhẹ trên nền trời trong vắt của một ngày khô ráo. Ông chậm rãi hỏi, "Rượu vang với bạn thì ích gì, bạn có lưỡi đâu mà thưởng thức, bạn có thực quản đâu mà mong dẫn rượu xuống dạ dày cho các con tì con vị thưởng thức. Ông bạn chết đã năm mươi năm, nửa thế kỷ qua như vậy liệu ông bạn còn nhớ vị rượu, còn khoái rượu?"

    "Chết đã năm mươi năm, tôi còn biết làm gì hơn?" Đầu lâu không còn bứt rứt nữa; giọng dịu xuống. "Ông bạn ơi tôi nhớ còn kỹ hơn bạn tưởng. Chỉ cần cho tôi một ngụm, một hớp thôi, tôi sẽ thưởng thức hương vị rượu đến tận cùng thống khoái, ngoài sức tưởng tượng của bạn. Tôi đã có thời gian để suy nghĩ mà. Tôi nhớ rõ hương vị rượu vang mà. Hãy đưa cho tôi bình rượu đó."

    Schmendrick lắc đầu, nhăn răng cười, rồi nói. "Ông bạn cũng khá hùng biện đấy, nhưng tôi vẫn cảm thấy mếch lòng." Lần thứ ba, ông ta nâng cao bình rượu rỗng lên, và đầu lâu rên rỉ nghe thật thê thảm.

    Cảm thấy tội nghiệp Molly Grue cất tiếng nói, "Nhưng đó đâu là... " Ảo thuật gia đã kịp dẵm lên chân nàng, và nói lớn "Ông bạn hẳn phải nhớ lối vào hầm Con Bò Mộng Đỏ như ông bạn nhớ hương vị rượu vang, vậy chúng ta có thể mặc cả với nhau được rồi." Ông mân mê bình rượu bằng hai ngón tay.

    "Được rồi!" Đầu lâu nói. "Đồng ý đấy, nhưng cho tợp một ngụm đã. Mau lên. Trời ơi sao bây giờ tôi lại khát rượu hơn thuở sinh thời đến thế. Cho tợp một ngụm, mau lên đi, ông bạn, rồi tôi sẽ nói tất cả những gì ông bạn muốn biết." Xương quai hàm đầu lâu như đương trẹo trọ, hàm răng thì rung lên.

    "Cho ông ta đi," Molly nói khẽ với Schmendrick. Nàng có cảm tưởng hai hố mắt của đầu lâu tràn ứ lệ đến nơi rồi. Nhưng Schmendrick vẫn cương quyết lắc đầu.

    "Tôi sẽ biếu ông bạn cả bình rượu này," ông nói với đầu lâu. "Nhưng phải là sau khi ông bạn đã chỉ đường cho bọn tôi tới Con Bò Mộng Đỏ."

    Đầu lâu thở dài nhưng không còn ngần ngừ nữa. "Đường đi qua chiếc đồng hồ kia kìa. Thế là xong nhé cho tôi uống đi nào."

    "Đi qua chiếc đồng hồ." Ảo thuật gia nhìn về phía góc xa thăm thẳm của khoảng tiền đình, nơi chiếc đồng hồ lớn được dựng ở đó, bóng cao đen và và mỏng, trong ánh sáng chạng vạng. Kiếng trên mặt đồng hồ đã vỡ, và chiếc kim ngắn chỉ giờ đã mất. Dưới làn kính xám mờ những bộ phận máy có thể trông thấy đương co rút, vặn vẹo như con cá mắc cạn. Schmendrick hỏi, "Có phải khi nào đồng hồ điểm đúng giờ, thì cửa tự mở, để lột một lối xuống bí mật?" Giọng ảo thuật gia đượm vẻ nghi ngờ, vì đồng hồ nhỏ quá khó có thể che dấu một lối đi.

    "Tôi không biết gì hơn nữa," đầu lâu đáp. "Nếu ông bạn có ý đợi cho chiếc đồng hồ này điểm đúng giờ, thì ông bạn cứ việc mà đợi cho đến ngày tóc rụng răng long. Việc gì mà phải phức tạp hóa một bí quyết đơn giản như vậy. Cứ việc mà bước qua đồng hồ, và Con Bò Mộng Đỏ ở phía bên kia."

    "Nhưng theo lời con mèo nói thì..." Schmendrick nói, rồi tiến thẳng tới phía chiếc đồng hồ. Bóng tối làm cho người ta có cảm giác ông ta đương xuống đồi bóng nhỏ dần, người khom xuống. Khi tới chiếc đồng hồ ông tiếp tục đi như thể đồng hồ quả thực chỉ là cái bóng. Bỗng ông có cảm tưởng như mũi vấp phải cái gì.

    "Thực vô lý," ông ta lạnh lùng nói với đầu lâu khi ông đã quay lại. "Ông bạn định bịp tôi hả? Có thể đường xuống Con Bò Mộng Đỏ qua cái đồng hồ kia, nhưng còn phải biết thêm điều gì khác nữa chứ. Bạn hãy nói rõ cho bọn tôi nghe đi, nếu không tôi đổ rượu xuống sàn cho tha hồ mà ngắm. Tôi tưởng tượng ra mùi vị. Hãy nói mau lên ông bạn!"

    Đầu lâu lại cất tiếng cười, lần này tiếng cười đượm vẻ suy tư dễ thương. "Hãy nhớ lại những lời tôi đã nói với bạn về thời gian. Thuở sinh thời tôi cũng như ông bạn giờ đây hoàn toàn tin tưởng rằng thời gian là một thực thể ít nhất cũng vững chắc như thân hình của chính mình. Ta nói bây giờ là một giờ cứ y như thể mình sờ mó được thời gian đó, ta nói hôm nay là thứ hai cứ y như thể mình chỉ được vị trí ngày đó trên bản đồ, rồi tôi sống vội vã từ phút này sang phút khác, ngày lại ngày; năm tiếp năm, cứ như thể là đường di chuyển từ một nơi chốn này sang một nơi chốn khác. Và cũng y hệt mọi người khác tôi trở thành tù nhân trong một căn nhà xây tường lợp ngói bằng giờ, bằng phút, bằng giây, chẳng bao giờ tự giải phóng nổi, cho đến ngày chết mới thoát ra ngoài được, vì có còn cánh cửa nào khác nữa đâu. Bây giờ thì tôi hiểu, tôi hiểu rằng mình có thể bước qua tường được lắm chứ."

    Molly chớp chớp mắt ngạc nhiên, Schmendrick thì gật gù, nói, "Được, điều đó một ảo thuật gia có thể làm được, nhưng còn cái đồng hồ?"

    "Cái đồng hồ này chẳng bao giờ gõ đúng giờ cả," đầu lâu nói. "Haggard đã tranh đoạt được công trình đó từ lâu rồi, vào cái ngày mà ông ta muốn giữ lấy dòng thời gian. Nhưng điều cần thiết là chính ông bạn phải hiểu rằng mình có thể cóc cần đồng hồ. Thây xác nó muốn gõ bao nhiêu tiếng thì gõ, hãy làm chủ lấy thời gian, tự chọn giờ điểm đúng và hợp với chính mình. Khi mà ông bạn đã hiểu như thế rồi thì giờ nào cũng là giờ đúng và hợp với ông bạn."

    Vào đúng lúc đó, đồng hồ điểm bốn tiếng. Tiếng thứ tư chưa kịp hết ngân vang thì có tiếng vang ầm bỡ ngỡ đâu từ phía dưới sâu sàn đá vẳng lên. Không phải là tiếng gầm man rợ quen thuộc hàng đêm của Con Bò Mộng Đỏ vào lúc nó ngủ mơ, đây là thứ tiếng vang bỡ ngỡ, dò hỏi, tựa như Conn Bò Mộng Đỏ vừa chợt thức giấc vì cảm thấy có điều gì mới sắp manh nha trong đêm tối. Từng phiến đá lát sàn vang lên mơ hồ như tiếng rắn phun, bóng tối như run rẩy, trong khi những con vật đêm bé bỏng tẩu thoát tán loạn về các góc khuất của tiền đình. Molly biết chắc chắn là Vua Haggard sắp tới rồi.

    "Cho tôi uống rượu vang đi," đầu lâu nói. "Tôi đã nói đủ rồi đấy." Schmendrick lẳng lặng nghiêng bình rượu, rót bình không, vào cái miệng rỗng của đầu lâu. Tiếng uống ừng ực, tiếng thở dài khoái trá, tiếng mút chùn chụt. Sau cùng đầu lâu "à" lên một tiếng, "À, đó mới là rượu vang thứ thiệt. Tuyệt! Ông bạn còn hay hơn ảo thuật gia ấy chớ. Nào, thế ông bạn đã hiểu rõ lời tôi giải thích về thời gian chưa nào."

    "Vâng, hiểu rồi," Schmendrick đáp. "Tôi cũng nghĩ như vậy." Con Bò Mộng Đỏ lại làm vang tiếng kêu lạ lùng như lần trước, và đầu lâu lại va xương lách cách vào trụ đá. Schmendrick nói, "Không. Tôi không hiểu. Còn đường nào khác nữa không?"

    "Có cái gì thế này?" Molly nghe có tiếng chân bước; rồi lại thôi; rồi tiếng thở khe khẽ, thận trọng. Nàng không thể quyết đoán được tiếng đó từ phía nào vẳng lại. Schmendrick quay lại nhìn nàng, khuôn mặt ông mờ những xáo trộn, nghi vấn, như chiếc thông phong ám khói bên trong, cũng có chút ánh sáng nữa nhưng là thứ ánh sáng của chiếc đèn bão đương lắc lư heo hút giữa trận cuồng phong.

    "Tôi nghĩ rằng đã hiểu," ông nói, "nhưng cũng nghĩ rằng chưa chắc đã hiểu gì. Để tôi thử."

    "Tôi vẫn còn cho đó là cái đồng hồ thật," Molly nói. "Dầu sao cũng được đi, tôi có thể bước qua cái đồng hồ thật." Nàng nói thế thoạt để ảo thuật gia vững tâm, nhưng khi nói xong nàng cảm thấy toàn thân như bừng sáng và nhận định rằng nàng đã nói đúng. "Tôi biết chúng ta sẽ phải đi tới đâu và điều đó cũng tốt như thể mình biết giờ hàng ngày."

    Đầu lâu ngắt lời nàng, "Để tôi cho các bạn thêm ít lời khuyên, vì rượu ngon quá." Schmendrick trông ủ dột như kẻ phạm lỗi. Đầu lâu tiếp, "Hãy đập tôi vỡ nát đi, hãy thẳng tay ném tôi xuống sàn đá cho tan thành từng mảnh. Đừng hỏi vì sao, hãy làm thế đi." Những lời an ủi sau cùng này, đầu lâu nói nhanh và lướt nhẹ thành lời nói thầm.

    Cả Schmendrick và Molly cùng nói, "Sao? Sao vậy?" Đầu lâu nhắc lại lời thỉnh cầu. Schmendrick hỏi, "Sao ông bạn lại nói vậy. Làm sao chúng tôi có thể đập tan ông bạn xuống sàn đá cho được?"

    "Làm ngay đi!" đầu lâu vật nài. "Làm ngay đi!" Nhịp thở kỳ dị như tự bốn phía ùa gần tới, có thêm nhịp một đôi chân bước.

    "Không," Schmendrick nói. "Ông bạn điên rồi." Ảo thuật gia quay lại tiến về phía chiếc đồng hồ mờ ảo. Molly nắm lấy cánh tay lạnh của nàng Amalthea mà cùng bước theo ảo thuật gia. Amalthea bị nàng kéo theo như một cánh diều trắng của trẻ con chơi.

    "Thế cũng được," đầu lâu buồn bã nói. "Tôi đã báo trước cho các bạn." Rồi bằng một giọng hét lớn đầy kinh hoàng, đầu lâu hô hoán lên, "Cứu tôi với, hỡi đức vua! Lính canh đâu, tới với tôi. Có kẻ trộm, có kẻ cướp, có kẻ bố ráp tấn công, quân bắt cóc, quân phá nhà, quân giết người, quân làm bạc giả. Vua Haggard! Hô, Vua Haggard đâu!"

    Bây giờ thì tiếng chân rầm rập vang lại từ bốn phía tiếng các kỵ giáp binh gọi nhau ơi ới. Không một ánh đuốc được đốt lên; vì chưa có lệnh nhà vua. Mà Vua Haggard thì hãy còn yên lặng. Ba tên ăn trộm đứng lính quýnh đó chưa biết sẽ quyết định bề nào, há hốc miệng nhìn đầu lâu.

    "Rất tiếc." đầu lâu nói. "Tôi phải làm vậy, phản bội. Tôi phải..." Vừa lúc đó đôi hố mắt đầu lâu như thất lạc tinh thần khi hướng về phía nàng Amalthea. Nó nói khẽ, "Ồ, không, ngươi không thể đi được, như vậy ta phản bội quá lắm, ta không thể phản bội đến mức ấy được."

    "Chạy đi," Schmendrick giục giã, y như ông đã giục lân ngày nào khi mở chuồng gánh xiệc. Tiếng đầu lâu đã tru tréo lên, "Kỳ lân, kỳ lân, ới Vua Haggard, kỳ lân đi xuống hầm Con Bò Mộng Đỏ kìa! Chú ý cái đồng hồ, Haggard - nhà vua đâu? Kỳ lân! Kỳ lân kìa!"

    Kế đó là tiếng nhà vua ráo rác, giận dữ, "Tên điên, tên phản bội, chính mi đã tiết lộ chứ còn ai nữa." tiếng chân của nhà vua dồn dập chạy tới và Schmendrick càu nhàu giận dữ, kế đó là tiếng nứt rạn, xào xạo, rồi tiếng khối xương cũng lăn lông lốc trên nền đá cũ. Ảo thuật gia tiếp tục chạy.

    Khi cả ba đứng trước chiếc đồng hồ, họ ngỡ ngàng hết sức, không ra ngờ vực mà cũng không ra hiểu biết. Các kỵ giáp binh đã có mặt cả tại khu tiền đình. Tiếng bước chân vội vã vang đi dội lại loạn xà ngầu tự bốn phía, trong khi đó Vua Haggard tiếp tục la lối sỉ vả họ. Nàng Amalthea không một chút ngại ngần, bước thẳng vào chiếc đồng hồ và biến mất, như mặt trăng biến mất sau đám mây, sau đám mây chứ không phải trong đám mây, trăng biến mất sau đám mây, cách xa ngàn vạn dặm.

    Molly thì lẩm cẩm nghĩ rằng Amalthea là một nữ lâm thần mà thời gian chỉ là cây cỏ. Nhìn qua làn kính mờ và lỗ chỗ, bộ phận quả lắc, bộ phận chuông, tất cả như lắc lư, như bốc cháy. Không có cái cửa vào, chỉ là một thông lộ rỉ của đống máy móc đương chuyển động như rong biển. Mắt Molly nhìn xa hơn nữa chỉ thấy mờ mờ ảo ảo như mưa giăng.

    Tiếng Vua Haggard gầm lên, "Giữ chúng lại! Phá cái đồng hồ đi!" Molly quay đầu lại, định bảo với Schmendrick rằng có thể là nàng đã hiểu ý đầu lâu định nói gì rồi; nhưng ảo thuật gia đã biến mất trước mặt nàng, cả khu tiền đình của tòa lâu đài Haggard cũng biến mất, và nàng đương đứng cạnh nàng Amalthea tại một nơi lạnh lẽo.

    Tiếng Vua Haggard vẳng lại từ xa, rất xa, hình như không phải là chính nhà vua nói, mà là Molly nhớ lại tiếng ông ta nói. Nàng ngoái cổ nhìn lại thấy thêm khuôn mặt Hoàng tử Lir xuất hiện. Sau lưng hoàng tử tỏa ra một đám sương mù lấp lánh và rung động, không có gì là giống bộ máy mòn và rỉ của cái đồng hồ cả. Không thấy Schmendrick đâu.

    Hoàng tử Lir cúi chào Molly, nhưng lại nói với nàng Amalthea, "Nàng định ra đi một mình không cho tôi theo sao? Nàng như không có vẻ gì nghe tôi nói."

    Nàng đáp lời hoàng tử giọng khẽ nhưng rõ, "Có lẽ em phải quay trở lại. Em không rõ làm sao em tới được đây, em không rõ em là ai, nhưng em nên quay trở lại mới phải."

    "Không," hoàng tử nói, "nàng chẳng bao giờ nên quay lại nữa."

    Nhưng hoàng tử chưa kịp nói gì thêm, Molly đã xen vào, giọng lạ lùng kinh hãi, "Tất cả những cái đó không cần! Schmendrick đâu đã." Hai người cùng nhìn Molly bằng một vẻ kính cẩn không bút nào tả siết. Toàn thân Molly rung lên, "Schmendrick đâu? Các bạn không quay lại thì tôi quay lại vậy." Và nàng bứt rứt bước quanh.

    Ảo thuật gia đã tự đám mây mờ tiến tới, đầu cúi xuống như thể ông ta đương đi ngược chiều gió mạnh, một tay giữ lấy thái dương, và khi tay đó buông ra, một tia máu chảy nhẹ xuống.

    "Không sao đâu," ảo thuật gia nói khi nhận ra máu mình đã dính sang hai bàn tay Molly Grue. "Không sao đâu, tôi đã tưởng không qua lọt cửa đồng hồ." Ông cúi chào Hoàng tử Lir. "Tôi còn nhớ Hoàng tử đi bên tôi trong bóng tối. Sao Hoàng tử đi vào đồng hồ dễ dàng vậy, chính đầu lâu đã nói là Hoàng tử cũng không biết đường kia mà."

    Hoàng tử ngẩn người hỏi, "Đường nào vậy? Tôi có cần biết gì đâu? Tôi chỉ thấy nàng chạy vào khoảng nào thì tôi theo ngay nàng vào khoảng đó."

    Tiếng cười của Schmendrick va vào các thành hầm lởm chởm như gai đâm, giờ thì họ đã quen với bóng tối và nhận ra thành hầm thăm thẳm. Ảo thuật gia nói. "Đúng vậy, có một vài thứ cứ theo tự nhiên mà đúng giờ đúng giấc." Ông ta lại bật cười, lắc lắc cái đầu làm máu lại phọt ra. Molly xé một mảnh áo của nàng để băng vết thương cho ảo thuật gia.

    "Tội nghiệp những ông già đó," ảo thuật gia nói. "Họ không muốn làm tôi bị thương, và tôi cũng không muốn làm họ bị thương. Chúng tôi cứ né tránh nhau loanh quanh đấy, xin lỗi nhau, và Haggard thì gầm lên và tôi va vào cái đồng hồ. Tôi biết đó không phải là cái đồng hồ thật, nhưng tôi cảm thấy như nó có thật, điều đó mới khổ chớ. Rồi Haggard tiến tới với thanh gươm của ông ta đâm tôi." Ảo thuật gia nhắm mắt lại để Molly băng đầu cho, rồi lại tiếp, "Haggard, tôi bắt đầu thấy mến ông ta. Tôi còn cảm thấy như vậy. Trông ông có vẻ kinh hoàng quá đỗi." Tiếng nói vang vọng, mờ ảo của nhà vua và đoàn kỵ giáp binh như trở nên lớn hơn.

    "Tôi không hiểu," Hoàng tử Lir nói "Sao cha tôi lại kinh hoàng? Sao cha tôi..." Vừa lúc đó về phía chiếc đồng hồ cũ, mọi người nghe thấy tiếng thét kinh hoàng ngoài sức tưởng tượng của con người và một tiếng đổ bể cựa lớn. Vùng sương mờ ảo tan đi tức khắc và một vùng bóng tối câm lặng đổ xuống bao phủ lấy mọi người.

    "Haggard đã phá chiếc đồng hồ," Schmendrick nói. Thế là hết đường quay lại rồi. Bây giờ chỉ còn một con đường đi ra, con đường của Con Bò Mộng Đỏ." Một cơn gió nặng nề dày đặc bắt đầu nổi dậy.


  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    13
    Kể ra đường cũng đủ rộng đê cho họ đi song song với nhau, nhưng họ lại đi theo hàng một, kẻ trước người sau. Nàng Amalthea đi trước tiên theo ý nàng chọn. Hoàng tử Lir, Schmendrick và Molly Grue tuần tự theo sau, cứ theo rõi ánh tóc của nàng Amalthea mà đi, trong khi chính nàng thì chẳng còn thứ ánh sáng nào để tự soi đường cho mình. Tuy nhiên nàng đi một cách dễ dàng tưởng như đây là con đường quen thuộc của nàng.

    Cả bọn không hề xác định được vị trí là họ hiện ở đâu. Gió lạnh thì có thực, mùi nồng nặc phả lại thì có thực, bóng tối dày đặc hơn khoảng đồng hồ nhiều. Mặt đường là một sự thật cụ thể làm tím bầm những bàn chân, và làm ngộp thở vào những chỗ đá, đất vụn lăn xuống hai bên đường hầm. Đến như lối đi dựng đứng và ngoằn ngoèo, vòng vo thì khỏi còn nói chuyện mơ mộng vào đâu nữa; khi thì dốc thẳng xuống, khi thì hơi ngược lên; khi thì vươn ra hơi chung chúc, khi thì muốn chừng như vòng vo quành lại khoảng ngay dưới tòa lâu đài mà bên trên hẳn là Haggard còn đương nổi giận bên chiếc đồng hồ ngả nghiên và chiếc đầu lâu run rẩy. Một công trình phù thủy, Schmendrick nghĩ vậy, và không một công trình phù thủy nào sau hết lại thực cả. Ảo thuật gia nghĩ tiếp rằng dầu sao đường hầm này cũng là công trình phù thủy sau chót. Kể ra mọi sự cũng đã thực lắm rồi.

    Trong khi họ đi nghiêng ngả lật đật như vậy, ảo thuật gia kể lướt cho Hoàng tử Lir nghe những đoạn đường phiêu lưu qua. Thoạt là chuyện của chính ông và con đường định mệnh lạ lùng của ông; kế đó là chuyện gánh xiệc xụp đổ, và ông ra đi với kỳ lân; rồi chuyện gặp Molly Grue để cả ba lại tiếp tục cuộc hành trình; tới thành phố Hagsgate thì gặp Drinn nghe chuyện cả thành phố với lâu đài cùng bị phù chú. Kể tới đây, ảo thuật gia ngưng lại, chưa kể tiếp đoạn Con Bò Mộng Đỏ xuất hiện, chưa kể tiếp đoạn đêm đó tận cùng, may mắn hay bất hạnh, bằng lời niệm chú và một cô gái trần truồng xuất hiện bỡ ngở, lúng túng với cơ thể mình như con bò sa lầy. Ông ta hy vọng rằng hoàng tử chú tâm về sự đản sinh lạ lùng của chàng hơn là nguồn gốc do lai của nàng Amalthea.

    Hoàng tử Lir ngạc nhiên mà rằng, "Tôi cũng đã nghe nói từ lâu rằng tôi không phải là con của Vua Haggard, nhưng vẫn gắng sức giữ tròn chữ hiếu. Tôi là kẻ thù bất cộng đới thiên với bất kỳ kẻ nào âm mưu phản loạn, nên ai bảo là tôi muốn lật đổ nhà vua thì chỉ là lời nói của một mụ già lẩm cẩm. Còn về chuyện kia, tôi không tin rằng ngày nay còn kỳ lân và Vua Haggard cũng chẳng bao giờ nhìn thấy con kỳ lân nào. Làm sao một người đã được nhìn kỳ lân dù chỉ một lần - không thể hàng ngàn kỳ lân theo triều biển dập dìu - như Vua Haggard mà lại suốt đời buồn thiu như vậy. Tôi sẽ ra sao nếu như tôi cũng một lần được nhìn thấy kỳ lân, rồi sau đó không bao giờ được nhìn lại nữa." Tới đây, hoàng tử ngừng lại hơi lúng túng, chàng cảm thấy như câu chuyện sắp tới một điểm sầu hận nào đó. Molly có hữu ý nghiêng tai vừa tiến bước vừa lắng nghe câu chuyện giữa hai người, nhưng nàng Amalthea có theo dõi câu chuyện hay không thì không rõ.

    "Tuy nhiên nhà vua có một niềm vui dấu diếm đâu đó trong đời ông," Schmendrick nhận định rõ thêm. "Hoàng tử không hề nhận thấy một dấu hiệu nào sao - không hề nhận thấy dấu hiệu đó xuất hiện ở đôi mắt vua sao? Tôi đã nhận thấy đó. Suy nghĩ một lát đi, Hoàng tử Lir."

    Hoàng tử yên lặng, và bọn họ đi ngoằn ngoèo trong khoảng bóng tối nham nhở bao quanh. Họ không thể biết rõ rằng họ đương đi lên hay đương đi xuống nữa, đôi khi không rõ cả có phải là đường đi vào khúc quanh không. Chẳng hề có một tiếng động nhỏ của Con Bò Mộng Đỏ, nhưng khi Schmendrick sờ vào khuôn mặt ẩm ướt của mình, thì mùi Con Bò Mộng Đò phát tiết ra tự những ngón tay đó.

    Hoàng tử Lir nói, "Đôi khi nhà vua đứng lên tháp, khuôn mặt ông như thoáng có một cái gì. Không phải là một tia sáng mà là một vẻ trong sáng. Thuở đó tôi còn nhỏ, tôi nhớ không bao giờ nhà vua nhìn tôi hay nhìn bất cứ cái gì khác bằng tia nhìn trong sáng đó. Và tôi mơ thấy." Hoàng tử lúc này đi rất chậm, kéo lê bước chân tiếp, "Tôi thường mơ đi mơ lại thấy mình đứng bên một cửa sổ khoảng nửa đêm và trông thấy

    Con Bò Mộng, trông thấy Con Bò Mộng Đỏ." Chàng không nói dứt lời.

    "Trông thấy Con Bò Mộng Đỏ dồn đàn kỳ lân xuống biển," Schmendrick nói. "Đó không phải là giấc mơ Haggard đã bắt được hết kỳ lân, giữ chúng trôi dạt theo triều biển, lấy thế làm niềm vui lớn, nhưng vẫn còn sót một kỳ lân." Schmendrick hít mạnh hơi thở. "Đó là nàng Amalthea."

    "Đúng vậy," Hoàng tử Lir. "Đúng vậy, tôi biết."

    Schmendrick nhìn chằm chằm vào hoàng tử, giận dữ hỏi, "Hoàng tử bảo biết là nghĩa làm sao. Làm sao hoàng tử biết được nàng Amalthea là kỳ lân? Nàng đâu có thể nói điều đó cho hoàng tử hay, vì chính nàng cũng không tự nhớ điều đó kia mà. Từ ngày hoàng tử chiếm ngự trí tưởng tượng của nàng, nàng chỉ nghĩ rằng mình là một người đàn bà trong cõi nhân thế có sống có chết." Ông ta thừa biết rằng sự thực quanh co, nói một đàng phải hiểu một nẻo, nhưng điều đó không sao với ông lúc đó. Ông nhắc lại câu hỏi, "Làm sao hoàng tử bảo là biết?"

    Hoàng tử Lir dừng bước quay lại nhìn ảo thuật gia. Khoảng đó tối quá, Schmendrick chỉ nhận thấy ánh mắt mát dịu tỏa ra tự cái nhìn của hoàng tử.

    "Thì cũng mãi tới bây giờ tôi mới biết nàng là gì," hoàng tử nói. Nhưng ngay từ ngày gặp nàng lần đầu tiên tôi đã linh cảm rằng àng là một thứ gì lạ lùng hơn điều tôi thấy. Bảo nàng là kỳ lân, ngư-mỹ-nhân, ma-cà-rồng, hay gì gì đi nữa cũng không làm tôi ngạc nhiên, chẳng làm tôi sợ hãi, tôi yêu người tôi yêu, thế thôi."

    "Đó là một tình cảm đáng quý mến," Schmendrick nói. "Nhưng khi tôi hóa cho nàng trở lại hình thể kỳ lân để nàng chiến đấu với Con Bò Mộng Đỏ giải phóng cho đồng loại."

    "Tôi yêu người tôi yêu." Hoàng tử Lir nhắc lại giọng chắc nịch.

    Trước khi, ảo thuật gia đáp thêm gì, nàng Amalthea đã đứng nép vào giữa họ, tuy rằng không ai chú ý thấy nàng lùi lại lúc nào. Trong bóng tối nàng le lói, run lên như nước gợn và nói, "Tôi không đi xa hơn nữa."

    Câu đó nàng nói với hoàng tử, nhưng chính Schmendrick đáp lời nàng, "Không có chọn lựa nào khác, chúng ta chỉ có thể tiến tới thôi." Molly Grue tới gần hơn, vẻ nhìn lo lắng, nét mặt bứt rứt. Ảo thuật gia nói tiếp, "Chúng ta chỉ có thể tiến tới thôi."

    Nàng Amalthea không nhìn thẳng vào ảo thuật gia, nàng nói với Hoàng tử Lir, "Ông ta đừng biến đổi em nữa. Chàng hãy giữ đừng để ông ta niệm chú biến đổi em nữa. Con Bò Mộng không chú ý đến người - chúng ta có thể cứ lặng lặng tiến qua, rồi đi xa nó. Con Bò Mộng chỉ truy lùng kỳ lân thôi. Xin chàng hãy bảo ông ta đừng biến em trở lại thành kỳ lân."

    Hoàng tử Lir bẻ khục những ngón tay. Schmendrick nói, "Điều đó đúng. Chúng ta có thể thoát Con Bò Mộng Đỏ ngay bây giờ, như trước đây bọn tôi đã thoát nó. Nhưng như vậy là chúng ta sẽ vĩnh viễn không bao giờ còn dịp may nào khác nữa. Như thế là tất cả những kỳ lân trên thế gian này sẽ vĩnh viễn bị Con

    Bò Mộng Đỏ cầm tù nơi đây, trừ một kỳ lân thoát nạn, nhưng kỳ lân này sẽ chết đi. Nàng sẽ già, sẽ chết."

    "Vạn vật đều có ngày tận số," nàng vẫn nói với Hoàng tử Lir. "Vạn vật đều có ngày chết, đó là điều tốt chứ sao. Em muốn chết theo khi chàng chết. Đừng để ông ta phù chú em, đừng để ông ta biến em trở lại thành bất tử. Em không là kỳ lân, không là sinh vật kỳ diệu. Em là người. Em yêu chàng."

    Chàng trả lời nàng giọng êm ả, "Tôi không được rõ nhiều về bùa chú, chỉ biết cách phá bùa chú thôi. Nhưng có điều chắc chắn dù có là phù thủy đại tài đến mấy cũng bất lực trước hai kẻ đã cương quyết gắn bó gìn giữ lấy nhau - huống chi đây lại chỉ là... Schmendrick. Nàng là của tôi rồi. Tôi phải gìn giữ lấy nàng."

    Sau cùng, nàng quay lại nhìn ảo thuật gia; dù trong bóng tối, còn nhận thấy vẻ hãi hùng trong đôi mắt nàng. "Không," nàng nói. "Không, hai ta không đủ mạnh đâu. Ông ta nhất định sẽ biến hóa em, và sau đó chúng ta sẽ vĩnh viễn mất nhau. Em sẽ không yêu chàng nữa khi em là kỳ lân, và chàng vẫn tiếp tục yêu em vì thế chẳng đặng đừng. Em sẽ đẹp hơn bất kỳ một vật gì trên thế gian, và sẽ sống trường cửu."

    Schmendrick bắt đầu nói, nhưng tiếng ông thốt ra làm nàng sợ rúm người lại, "Tôi chưa có cái đó. Tôi chưa có cái đó mà." Nàng hết nhìn hoàng tử lại nhìn ảo thuật gia giọng nói như mơn man vết thương,

    "Khi ông ta biến đổi em sẽ để cho Con Bò Mộng Đỏ dồn xuống biển với những kỳ lân khác. Như vậy ít ra em cũng được ở gần chàng."

    Tất cả những điều đó chẳng cần thiết đâu." Schmendrick nói nhẹ nhàng khiến chính ông phải tự bật cười. "Tôi ngờ rằng tôi chẳng khiến nàng trở lại kỳ lân được đâu, dù nàng có muốn vậy. Ngay như thầy tôi xưa, Nikos đại nhân cũng chưa bao giờ biến người thành kỳ lân - và nàng bây giờ thật sự thành người rồi. Nàng có thể yêu, có thể sợ hãi, có thể cấm việc này, ngăn việc nọ, và còn hơn thế nữa. Hãy để chuyện đó kết thúc ở đây. Hãy đê cuộc tìm kiếm kết thúc nơi đây. Liệu thế giới có tồi tệ hơn khi mất hế kỳ lân không, và liệu thế giới có thật khá hơn nếu tất cả những kỳ lân bị cầm tù kia được giải phóng? Thêm một người đàn bà hiền thục ở cõi đời này cũng là tương xứng với một kỳ lân mất đi. Thôi xin kết thúc nơi đây, nàng hãy cưới hoàng tử và sống sung sướng với nhau mãi mãi."

    Đường đi trở nên sáng dần, và Schmendrick tưởng tượng như Con Bò Mộng Đỏ đương lén tới, rất thận trọng rồi bất thần nhảy xổ tới vồ thật chính xác. Ánh gò má của Molly Grue không còn, vì nàng đã quay đi. Nàng Amalthea nói, "Đúng vậy, ước vọng của tôi quả đúng như vậy."

    Nhưng cùng lúc đó, Hoàng tử Lir thốt, "Không được."

    Lời nói tự động buột khỏi miệng chàng như khi người ta hắt hơi vậy. Đúng lúc vấn đề nguy hiểm được đặt lên giữa đường tơ kẽ tóc, giọng chàng khi đó là giọng một chàng trai đần độn chợt lúng túng muôn vàn bởi một tặng vật vừa vĩ đại vừa nguy hiểm. "Không được," chàng nhắc lại, lần này tiếng nói của chàng vang lên rền rĩ, tiếng của một đấng quân vương nặng lòng sầu hận, không phải ở điều mình ao ước mà không có, mà là ở điều mình muốn hiến tặng mà làm sao có.

    "Hỡi công nương của tôi" chàng nói. "Tôi là một anh hùng. Đó là một nghề không hơn không kém như dệt vải, như nấu rượu. Và cũng như mọi nghề; nó có xảo thuật của nó, phải khổ công luyện tập, và biết đường lối thích nghi. Có cách nhận ra phù thủy và dòng nước độc có cách nhận biết tử điểm của con rồng để hạ thủ nó một cách dễ dàng. Nhưng bí quyết đích thực của người anh hùng là biết đến trật tự của sự việc. Anh chàng chăn chiên không thể chân ướt chân ráo vừa vào chuyện đã cưới ngay được nàng công chúa, người dì ghẻ hiểm độc chưa thể bị khinh miệt, trừng phạt khi chưa hề phạm một tội ác nào. Việc nào việc nấy phải được xảy ra đúng lúc. Sự tìm kiếm không thể bán đồ nhi phế, lời tiên tri không thể bỏ mặc đấy như thể bỏ mặc trái rơi cho thối nát đi; những kỳ lân có thể bị mắc nạn nhưng không thể bị giam hãm vĩnh viễn như vậy. Kết thúc có hậu không thể đặt ngang xương vào giữa chừng câu chuyện được."

    Nàng Amalthea không nói gì, nhưng Schmendrick lên tiếng, "Sao không? Ai bảo vậy?"

    "Những người anh hùng bảo vậy," Hoàng tử Lir rầu rĩ trả lời. "Những người anh hùng am hiểu trật tự câu chuyện, những người anh hùng biết rõ điều này hơn điều kia, cũng như những người thợ mộc biết rõ mặt gỗ." Chàng giơ tay ra, tiến thêm một bước về nàng Amalthea. Nàng không lùi, trái lại ngẩng cao đầu lên, chính hoàng tử phải nhìn lảng về phía khác.

    "Nàng đã dạy cho tôi biết nhiều," chàng nói. "Không bao giờ nhìn nàng mà tôi không cảm thấy nức lòng về những ngọt bùi của một thế giới hòa thuận, và những sầu khổ phải chịu đựng trong một thế giới ung rữa. Tôi đã trở thành anh hùng để phục vụ nàng, hay phục vụ những gì giống nàng. Và cũng để tìm ra đường lối khởi sự một cuộc đàm thoại." Nhưng nàng Amalthea không nói với chàng một lời nào cả.

    Một thứ ánh sáng trắng bệch tràn vào con đường hầm khiến mọi người nhìn rõ được nhau, khuôn mặt người nào người nấy trắng bệch như sáp và đượm vẻ sợ hãi. Kể cả vẻ đẹp của nàng Amalthea cũng bị dìm cho phai mờ đi dưới thứ ánh sáng ngu đần, đói khát này.

    "Con Bò Mộng đã tới," Hoàng tử Lir nói. Chàng quay lại và bước theo triền dốc đường hầm, dáng lẫm liệt đặc biệt của một vị anh hùng. Nàng Amalthea bước theo chàng, dáng đi thanh thoát và cao quý, đúng phong độ của những nàng công chúa. Molly Grue đứng sát bên ảo thuật gia, nắm tay ảo thuật gia như thể nàng vẫn đặt tay lên lân mỗi khi nàng cảm thấy cô đơn. Ảo thuật gia cúi xuống mỉm cười với nàng, và có vẻ tự bằng lòng lắm.

    Molly nói, "Hãy để nàng theo con đường của nàng. Hãy để nàng như vậy."

    "Hãy nói điều đó với Lir," ông ta đáp lời một cách vui vẻ. "Phải chăng tôi là kẻ đã nói rằng nàng nên đứng ra đương đầu với Con Bò Mộng Đỏ, bởi vì đó là con đường đúng đắn và thích hợp nhất? Tôi không cần bận tâm đến việc bố trí cứu cấp cho đúng lúc, kết thúc có hậu theo đúng thường lệ. Đó là việc của Lir."

    "Nhưng ông bạn đã khiến hoàng tử hành động như vậy," Molly nói. "Ông bạn thừa biết điều chàng ao ước nhất đời là thấy nàng từ bỏ cuộc tìm kiếm kia để ở lại với chàng. Lẽ ra chàng lấy đó làm toại nguyện, thì chính ông bạn đã xui khiến, nhắc nhỏ rằng chàng vốn là anh hùng, và bây giờ chàng đành phải hành động như những anh hùng. Chàng yêu nàng, và ông bạn đã gài bẫy chàng."

    "Tôi, không bao giờ, Schmendrick nói, "Bà bạn hãy bình tĩnh, chàng có thể nghe thấy lời bà bạn nói." Molly cũng cảm thấy tâm trí nhẹ bồng, muốn phát khùng vì Con Bò Mộng đến gần. Ánh sáng và mùi của nó phát ra giờ đây như một vùng biển quánh đặc trong đó nàng dãy dụa một cách tuyệt vọng như những kỳ lân bất tử kia. Đường bắt đầu dốc nghiêng về phía trước đi vào vùng ánh sáng sâu thăm thẳm; xa hơn nữa Hoàng tử Lir và nàng Amalthea tiếp tục đi tới tai họa bình tĩnh như cây nến tự thiêu lụi dần. Molly Grue tủm tỉm cười thầm.

    Nàng tiếp tục, "Tôi biết điều đó cũng lại ông bạn đầu têu nốt. Ông bạn không thể trở thành thế nhân có sống có chết, trừ phi ông bạn nhớ được lời thần chú khiến nàng trở lại kỳ lân. Phải thế không? Ông bạn cóc cần điều gì sẽ xảy đến cho nàng, hay cho người khác, cho đến khi ông bạn trở thành một ảo thuật gia thứ thiệt đâu, dù ông bạn có hóa được Con Bò Mộng thành con ễnh ương, vì đó chỉ là thủ thuật. Hình như ông bạn không chú trọng cái gì ngoài ảo thuật, như vậy cũng đủ xếp hạng ông bạn rồi phải không? Schmendrick, tôi cảm thấy choáng váng, tôi phải ngồi lại đây mất."

    Schmendrick phải dìu nàng đi một quãng, vì nàng cương quyết không chịu bước. Đôi mắt xanh của ảo thuật gia cứ như rung chuông trong đầu nàng. "Đúng vậy, tôi chẳng chú trọng gì ngoài ảo thuật. Tôi muốn tập hợp tất cả những kỳ lân trên thế giới, như Haggard vậy, để may ra điều đó nâng tài ảo thuật của tôi cao thêm một phân nửa sợi tóc. Điều đó đúng. Tôi không được ngay thẳng cho lắm. Tôi chỉ thích ảo thuật." Giọng ông khắc khổ và rầu rĩ.

    "Có thật thế không?" Molly hỏi, vẫn lảo đảo trong nỗi lo sợ của nàng, và ngắm ánh sáng bập bềnh ngay bên. "Điều đó thật đáng ghê sợ," giọng nàng cực kỳ hốt hoảng. "Có thật ông bạn thích như vậy không?"

    "Không," ảo thuật gia đáp ngay, hay chỉ chậm một chút xíu. "Không, điều đó không đúng đâu. Làm sao tôi có thể thế được trong khi chính tôi còn nhiều hệ lụy nhường kia, như bà bạn thấy đấy. Nhưng mà này, bà bạn phải đi đi thôi. Nó kia kìa. Nó kia kìa."

    Molly nhận ra đôi sừng của nó trước. Nàng thoạt phải che mặt, nhưng đôi sừng lợt lạt của nó vẫn xuyên qua tay, qua mi mắt, qua tâm trí nàng. Hoàng tử Lir và nàng Amalthea cùng đứng hiên ngang trước đôi sừng, trong khi lửa tràn lan trên thành tường và vút lên cao trong bóng tối vô tận. Hoàng tử Lir đã rút gươm, nhưng lửa nóng làm chàng phải buông tay và gươm rơi xuống vỡ tan như khối băng. Con Bò Mộng Đỏ dậm chân, và tất cả mọi người đều ngã xuống.

    Schmendrick đã tưởng Con Bò Mộng sẽ nằm đợi nơi sào huyệt của nó, hay ít ra cũng ở một khoảng trống nào để còn có chỗ giao đấu. Ai dè nó lại đứng chặn ngang lối đi như thế kia; và giờ đây thì không những nó xuất hiện án ngữ trước mặt mọi người, mà như còn thể nhập vào hai bên tường hầm, rồi cứ thế cao vút lên mãi. Tuy nhiên vẫn chưa có chuyện gì lạ xảy ra, nó vẫn chỉ là Con Bò Mộng Đỏ đứng lặng phun phì phì, thở phì phì, và lúc lắc cái đầu mù lòa. Hàm nó chẹo chọ gầm lên rền rĩ kinh hồn.

    Nào. Bây giờ đã đến lúc rồi đây, dù điều ta làm mang lại đại họa hay đại hồng phúc. Đã đến lúc phải kết thúc công việc. Ảo thuật gia từ từ đứng lên, coi Con Bò Mộng như không có đấy, ông chỉ lắng đợi được nghe lời vang vọng tự chính bản ngã ông bốc lên. Nhưng ông không thấy một mãnh lực nào thức giấc trong ông; ông không nghe thấy gì ngoài tiếng gầm trống vắng như đập vào màng tai ông. Pháp thuật không tới với ta. Ôi, thầy ta, Nikos đại nhân đã lầm. Ta vẫn chỉ là thằng ta tầm thường.

    Nàng Amalthea đã lùi lại một bước, nhưng chỉ thế thôi, nàng điềm tĩnh nhìn Con Bò Mộng Đỏ, trong khi chân trước của nó bám chặt xuống mặt đường, đôi lỗ mũi mênh mông của nó phun thành những cơn lốc mù mịt. Nó có vẻ bối rối, muốn phát khùng vì nàng, không gầm thêm một tiếng nào nữa. Nàng Amalthea đứng trong vùng ánh sáng giá lạnh, đầu hơi ngửa về phía sau để nhìn được toàn thể nó. Không ngoái nhìn sang bên, nàng chỉ lẳng lặng đưa tay ra tìm tay Hoàng tử Lir.

    Tốt, tốt. Ta chẳng làm được cái gì cả, đành cam chịu vậy. Con Bò Mộng Đỏ sẽ để cho nàng qua, nàng sẽ ra đi với Hoàng tử Lir. Thế cũng được chứ sao. Ta chỉ ân hận cho đám kỳ lân bị cầm tù dưới biển. Hoàng tử vẫn chưa nhận ra bàn tay trao gửi của nàng, nhưng trong một lúc chàng coi bộ muốn quay nhìn sang bên, muốn đặt tay lên nàng lần đầu tiên. Chàng không hề biết bàn tay nàng đã trao cho chàng, cả nàng cũng không hay điều đó nữa. Con Bò Mộng Đỏ cúi đầu xuống và xông tới tấn công.

    Nó xông tới thật bất ngờ, không có tiếng động, chỉ có dáng lướt của bốn vó, và thực sự nếu nó muốn, nó có thể dẫm nát cả bốn người trong lần tấn công dữ dội chớp nhoáng đó. Nhưng nó để cho mọi người kịp tản nép vào thành hầm, không hề làm ai thương tích cả. Mềm như lửa nó uốn mình quay lại ngay cả nơi không đủ chỗ để quay mình, và nó lại đối diện với tất cả mọi người. Mõm nó kề mặt đất, cổ nó như sóng gợn, ấy là lúc nó gầm lên.

    Mọi người chạy lên, nó theo riết, không vũ bão như lúc khởi sự tấn công, nhưng đủ nhanh để giữ cho mọi người cách biệt hẳn nhau, vô phương nương tựa vào nhau trong bóng tối hoang dại. Mặt đất nứt nẻ dưới chân nó, và mọi người hét lên kinh hoàng, nhưng họ cũng không thể nghe thấy tiếng kêu của họ nữa. Mỗi tiếng gầm của Con Bò Mộng Đỏ là đất đá lại đổ xuống rầm rầm, họ càng phải bò miết như những con bọ bị đứt đoạn. Nó vẫn bám sát lấy mọi người. Qua tiếng rống man rợ của nó, họ nghe thấy một thứ tiếng khác nữa, tiếng rên rỉ của tòa lâu đài bị rung chuyển tận góc rễ, và đã thoang thoảng đâu đây mùi biển.

    Nó biết. Nó biết rồi. Ta chỉ đánh lừa nó được một lần thôi. Lần này thì dù là đàn bà, hay kỳ lân nó cũng dồn xuống biển như đã nhận được lệnh, ta thì không có một pháp thuật gì khiến nó lãng ý. Haggard đã thắng cuộc.

    Ảo thuật gia vừa chạy vừa nghĩ vậy, mọi hy vọng đều tan biến. Đường bỗng rộng hẳn, mọi người cũng thấy mình đi vào một khoảng hang động, chắc chắn là sào huyệt của Con Bò Mộng Đỏ này. Mùi hôi thối ở đây dầy đặc và lâu đời đến nỗi đã biến thành một thứ hương vị dịu ngọt nhưng không kém phần gớm ghiếc. Hầm một màu đỏ lòm như thể ánh sáng của nó đã bào nạo mặt tường rồi lắng đọng thành cặn trong các khe kẽ. Kế tiếp lại một quãng đường hầm nữa rồi tới khoảng có ánh nước mờ mờ tan vỡ.

    Nàng Amalthea ngã xuống, không gượng lên được, như một bóng hoa tàn. Schmendrick nhảy sang một bên, cố kéo theo Molly Grue với ông. Họ gặp phải một phiến đá, nơi đây họ nép mình sát lại với nhau, Con Bò Mộng Đỏ gầm thét ngay đấy mà không quay đầu. Nó cũng vừa ngừng lại giữa hai nhịp bước, đứng im lìm. Chỉ còn nghe thấy nhịp thở của nó và tiếng sóng biển xa.

    Nàng nằm nghiêng chân co chân ruỗi bên dưới. Nàng lết chậm, không một tiếng động. Hoàng tử Lir đứng giữa nàng và Con Bò Mộng, chàng không còn khí giới nhưng hai tay vẫn giơ cao như thể còn gươm và mộc. Lại một lần nữa, trong quãng đêm trường bất tận đó, hoàng tử nói, "Không thể thế dược."

    Trông chàng như điên như dại, gần như sắp bị dẫm nát. Con Bò Mộng Đỏ không trông thấy chàng được, và có thể dẫm chết mà không biết có chàng đứng ngáng lối đi bên dưới. Lạ lùng kinh ngạc, và tình yêu, và sầu hận ngút ngàn lay động đến tận cỗi rễ tâm hồn ảo thuật gia lúc đó, tất cả những tình cảm đó ùa tới cùng một lúc tràn ngập, tràn ngập tâm hồn ông cho đến khi chính ông cảm thấy bềnh bồng trong một cái gì mênh mông mờ ảo khác hẳn những thứ đó. Ông không tin nó, nhưng nó cứ đến với ông như đã từng đến với ông hai lần trước đây, rồi sau đó lại bỏ ông hoàn toàn trống rỗng như thể nó chưa bao giờ tới. Đặc biệt lần này nó tới đầy rẫy thịt da, nó tới tràn ngập lòng tay, hố mắt, nó tới dư thừa từ bờ vai tới chân tóc, quờ đâu cũng thấy, sờ đâu cũng thấy, không còn lo tái diễn cảnh mất hết không còn, ra đi không lại; ông thấy mình đã khóc tự bao giờ, ông nghĩ, hay nói, hay hát, Ta đâu có biết phải rỗng như vậy để đầy như vậy.

    Nàng Amalthea nằm nguyên chỗ nàng bị ngã. Nàng đã cố gượng dậy mà không được, Hoàng tử Lir vẫn còn đứng đó để bảo vệ nàng, giơ cao đôi bàn tay không, chống khối hung hãn khổng lồ đương muốn đè bẹp chàng. Đầu lưỡi nhọn của chàng thè ra dính vào một bên mép trông nghiêm trọng như một đứa trẻ vừa lấy một cái gì để riêng ra cho mình. Nhiều năm về sau này, khi danh tiếng của Schmendrick đã át cả danh tiếng Nikos tiên sinh, ông cũng không bao giờ thực hiện được một pháp thuật nhỏ nào, nếu không nhớ lại hình ảnh của Hoàng tử Lir lúc đó đôi mắt lé ngược lên vì ánh sáng và lưỡi thè ra ngoài.

    Con Bò Mộng Đỏ dậm chân lần nữa, Hoàng tử ngã sấp, khi chàng đứng lên mặt nhễ nhại máu. Cùng với tiếng gầm vang rên, cái đầu mù lòa, và béo bệu của nó hục hặc cúi xuống trông như cán cân định mệnh nghiêng lệch. Hoàng tử đứng hiên ngang cheo leo vào khoảng giữa hai sừng của nó, bảo là chàng có thể bị xuyên thủng cũng được, bảo là chàng có thể bị banh cho tan xác cũng đúng, miệng hoàng tử hơi mím lại, nhưng chàng không hề cử động. Tiếng gầm của Con Bò Mộng càng rùng rợn khi nó cúi thấp sừng xuống.

    Vừa lúc đó Schmendrick bước vào khoảng trống và đọc lên vài lời. Đó là những lời ngắn gọn khó phân biệt. Chính Schmendrick cũng không nghe rõi, chúng bị chìm trong tiếng gầm khủng khiếp của Con Bò Mộng. Tuy nhiên ông hiểu thấu đáo ý nghĩa của những lời đó. Bây giờ thì ông hiểu rõ cách phải đọc chúng ra sao, và còn thấy trước rằng ông có thể sử dụng chúng bất kỳ lúc nào, đọc chúng lên luôn luôn trúng cách tùy nơi tùy lúc, vẫn giống nhau mà vẫn khác nhau, thật đơn giản mà cũng thật phức tạp. Trong khi ông đọc chúng lên một cách nhuần nhã vui tươi, ông cảm thấy tấm áo giáp hay đúng hơn tấm vải liệm bất tử tự động rơi xuống giải phóng cho ông.

    Khi vừa đọc xong lời chú thứ nhất, nàng Amalthea thốt lên một tiếng kêu nhỏ, đắng cay. Nàng cố vươn tới Hoàng tử Lir; chàng vẫn quay lưng lại đứng ở thế che chở cho nàng, không nghe thấy gì. Molly cảm thấy nhói buốt trong tim, bám chặt lấy tay Schmendrick, trong khi ảo thuật gia tiếp tục đọc. Phép lạ bừng nở, màu trắng như bọt biển, một vẻ đẹp không bờ bến tương đương với mãnh lực không bến bờ của Con Bò Mộng - nàng Amalthea còn bám lấy hình hài nhân thế một phút nữa, nhưng nàng thực đã không còn đấy nữa, khuôn mặt nàng chỉ lơ lửng đó như hơi thở lơ lửng trong bầu ánh sáng mờ đục và lạnh.

    Giá như Hoàng tử Lir đứng quay lại cho đến khi nàng đi rồi thì hay, nhưng chàng đã quay lại. Chàng thấy một kỳ lân, ánh sáng kỳ lân chiếu rọi lên chàng như chiếu vào một tấm gương, nhưng chàng lại cất tiếng gọi hình bóng phảng phất còn lại của nàng Amalthea. Tiếng chàng gọi tưng bừng đã xóa nhòa hình bóng cũ đó, nàng Amalthea hoàn toàn biến hẳn.

    Mọi việc xảy ra vừa nhanh lại vừa chậm như trong một giấc mộng. Lân đứng lặng đó ngỡ ngàng nhìn lại mấy người. Lân đẹp còn hơn lân xưa trong trí nhớ của Schmendrick nữa, vì thực ra không ai giữ lâu được hình ảnh lân trong trí bao giờ. Song le lân giờ đây không phải là lân thuở xưa, và chính Schmendrick vẫn còn như xưa. Molly Grue tiến lại với lân nói liên hồi, lân không tỏ vẻ gì là hiểu cả. Sừng lân vẫn còn mờ mờ như trong mưa.

    Với một tiếng gầm vàng rội đập vào các vách hầm bốn bề nứt rạn, muốn xụp xuống như tấm lều gánh xiệc, Con Bò Mộng Đỏ khởi sự tấn công đợt hai. Lân vụt thoát khỏi hầm, bay biến vào bóng tối. Hoàng tử Lir, khi quay lại đã đứng né sang một bên, nhưng chưa kịp lùi né thêm bước nữa Con Bò Mộng Đỏ đã lao mình đuổi theo lân, đạp chàng ngã xuống, miệng nó há ngoác ra húc vào đầu chàng.

    Molly muốn tiến tới với hoàng tử, nhưng Schmendrick đã kéo nàng theo hút Con Bò Mộng Đỏ và lân. Không trông thấy gì, chỉ nghe thấy những bước chân rượt đuổi vang ầm đầy ắp khu hầm. Choáng váng, ngẩn ngơ, Molly lật đật bước theo người bạn dũng mãnh lạ lùng, ông ta không để nàng ngã nhưng cũng không để nàng chùn chân. Trên đầu nàng luôn luôn nghe rõ tiếng tòa lâu đài rung chuyển, đu đưa theo nhịp động đất như một cái răng lung lay. Lời ca của mụ phù thủy vang vang trong trí nhớ nàng:

    Duy nhật, một người dân Hagsgate

    Làm cho tan nát lâu đài kia.

    Chợt cát lún dưới chân họ, mà mùi biển chan hòa, không khí mát lạnh, trong lành, thân ái đến nỗi cả hai cùng dừng lại và cất tiếng cả cười. Phía bên trên hai người, lâu đài của Vua Haggard nghiêng nghiêng trên bờ đá dốc, nổi bật trên vòm trời xám xanh buổi sớm, đây đó một vài đám mây màu trắng sữa. Molly biết chắc là thế nào Vua Haggard cũng đương đứng tại một tòa tháp nào đó chăm chú theo dõi họ, mà nàng không nhìn thấy. Một vài ngôi sao còn trôi nổi kia trong khoảng trời xanh mờ sát mặt biển. Thủy triều đã rút xuống, bãi biển trần trụi, ẩm ướt, lấp lánh màu sò hến, nhưng mặt biển xa thì vồng lên hình cánh cung. Molly biết là nước triều đã rút đến hết cỡ.

    Lân và Con Bò Mộng Đỏ đứng đối diện nhau, lân quay lưng về phía biển. Con Bò Mộng tiến lên từ từ, không tấn công không đụng tới lân nhưng rõ ràng cố ép lân lùi về biển. Lân không chống cự, sừng đen tối, đầu cúi xuống. Con Bò Mộng Đỏ hoàn toàn ở thế chủ động, y như ngày nào trên cánh đồng của Hagsgate, trước lúc lân biến thành nàng Amalthea. Cũng vào khoảng rạng đông tuyệt vọng như thế này, chỉ có điểm khác là ngay trên bờ biển.

    Nhưng lân chưa bị bại hẳn, lân lùi cho đến khi hai chân sau chạm phải biển. Tới đó lân sực tỉnh vọt nhảy xuyên qua Con Bò Mộng như qua một ngọn lửa cháy âm ỉ, rồi chạy dọc theo bờ biển; lẹ như tia chớp, cuốn theo hút gió, cát tung lên vun vút. Con Bò Mộng đuổi theo liền.

    "Hãy làm một cái gì," giọng Molly nói với Schmendrick bao giờ cũng lạc đ trong trường hợp như vậy. Hoàng tử Lir đã tới đứng sau họ. Trông chàng giống Vua Haggard. "Hãy làm một cái gì đi," chàng nói "Ông đã là một cao thủ rồi đó khi biến nàng trở lại thành kỳ lân như vậy - ông hãy làm một cái gì để cứu nàng, bằng không tôi sẽ giết ông." Chàng giơ cao hai bàn tay trước ảo thuật gia.

    "Tôi không thể làm được," giọng Schmendrick cực kỳ bình tĩnh. Pháp thuật của cả thế giới cũng chẳng thể giúp gì cho nàng vào lúc này. Nếu nàng không muốn chống cự lại Con Bò Mộng, thì nàng sẽ xuống biển với tất cả đồng loại dưới đó. Pháp thuật hay giết người cũng chẳng thể giúp nàng được gì hơn."

    Molly nghe từng đợt sóng nhỏ táp lên cát, triều đã bắt đầu lên. Nàng không hề thấy những kỳ lân nhào lộn trên sóng, tuy thâm tâm nàng có ý tìm và mong là có. Nếu chẳng may quá chậm mất rồi thì sao? Nếu chẳng may những kỳ lân đó đã bị đợt triều vừa rồi đẩy ra mãi tận một vùng biển nào thật sau và thật xa, nơi mà không bao giờ có thuyền bè qua lại, nơi có những rồng biển, rắn biển xuất hiện, hoặc cả một rừng rong biển kết hợp lại trôi nổi bình bồng, vào đó là vào tử lộ. Phải, nếu tất cả những kỳ lân đều đã bị dồn cả về nơi đó thì sao? Nàng sẽ không tìm thấy đồng loại, biết rằng nàng có chịu ở lại với ta?

    "Vậy thì pháp thuật dùng để làm gì?" Hoàng tử Lir hỏi một cách hung hãn. "Vâng, thưa ngài, phù thủy mà làm gì nếu không cứu được kỳ lân." Chàng phải nắm chặt lấy vai ảo thuật gia để khỏi ngã xuống.

    Schmendrick không quay đầu lại, bằng một giọng thoáng đượm chút hài hước, ông nói, "Điều đó dành cho những vị anh hùng."

    Bọn họ không trông thấy lân đâu vì bóng dáng Con Bò Mộng Đỏ to lớn quá; nhưng bỗng nhiên lân từ xa ngược đường Con Bò Mộng mà chạy vút lại phía họ. Mù lòa nhưng cũng kiên nhẫn như biển, Con Bò Mộng Đỏ vội quay lại đuổi theo, móng chân nó đào sâu xuống thành những hố lớn trên bãi cát ướt. Khói và lửa, nước bắn tung tóe và cuồng phong tung hoành, chưa phân thắng bại. Hoàng tử Lir nghe chừng hiểu ý.

    "Vâng, đúng vậy," chàng nói. "Công việc đó quả dành riêng cho những anh hùng. Thật ra phù thủy thì cũng được, nhưng anh hùng mới thực là sinh ra để chết cho kỳ lân." Chàng buông vai Schmendrick và tự mỉm cười với mình.

    "Cách lý luận của hoàng tử lầm lạc ngay từ căn bản," giọng Schmendrick nói đượm vẻ bực dọc, nhưng hoàng tử không màng nghe tới. Lân vút qua sát bên họ - hơi thở của lân phơi phới một màu trắng xanh, đầu ngửng cao - hoàng tử Lir chạy theo đường của Con Bò Mộng chạy đè lên chàng, để lại chàng nằm sõng soài trên đất phía sau, một bên mặt vùi sâu xuống cát, một cẳng chân đá lên trời ba lần rồi ngừng.

    Chàng ngã xuống không một tiếng kêu, nhưng lân thì quay lại. Con Bò Mộng Đỏ cũng ngừng khi lân ngừng, chỉ đứng ở thế uy hiếp, cố tình dồn lân xuống biển. Nó bắt đầu đu đưa thân hình và tiến lên như một con chim gù mái. Lân vẫn bất động, chăm chú nhìn vào thân hình quằn quại của Hoàng tử Lir.

    Bây giờ thì tiếng triều dâng đã rầm rộ. Sóng bạc đầu rồn rập xô tới cùng ánh bình minh rạng dần, nhưng Molly vẫn chẳng nhận thấy một kỳ lân nào khác ngoài lân của nàng. Trên đỉnh lâu đài, màu trời đỏ tía, và trên một đỉnh tháp cao nhất, Haggard đứng đó nổi bật rõ như một cây mùa đông. Molly có thể trông thấy rõ vết sẹo thẳng bên miệng ông ta, thấy rõ cả những móng tay của ông thẫm màu đi vì đã tì quá mạnh lên bờ thành thấp. Nhưng tòa lâu đài chưa thể sụp đổ được vào lúc đó. Chỉ có Lir mới khiến được chuyện đó.

    Chợt nhiên lân thét lên một tiếng, không phải là tiếng thét thách thức của lân lúc đầu khi gặp Con Bò Mộng Đỏ, đúng hơn đó chính là tiếng rên la nức nở, tiếng kêu thương sầu hận, không một linh vật bất tử nào lại kêu như thế cả. Cả tòa lâu đài rung lên, và vua Haggard ngật người về phía sau một cánh tay che ngang mặt. Con Bò Mộng Đỏ lê chân trên cát, cúi xuống, nghi ngại, bỡ ngỡ.

    Lân kêu lên một tiếng nữa, thoạt lùi lại như một nét gươm cong. Vẻ uyển chuyển đẹp của lân làm Molly khép mi lại, khi nàng mở ra vừa lúc chứng kiến cảnh lân nhảy xổ vào Con Bò Mộng Đỏ khiến nó phải né mình đổi hướng. Sừng lân rực sáng rỡ ràng và rung động như cánh bướm.

    Lân tiếp tục tấn công, và Con Bò Mộng tiếp tục lùi bước tuy bối rối nhưng vẫn lẹ như cá quẫy dưới nước. Ánh sáng sừng Con Bò Mộng luôn luôn như tia chớp, đầu đảo thật lẹ làm lân tuy tấn công mà phải loạng choạng, nhưng nó vẫn lùi bước... lùi bước xuống phía biển như lân trước đây. Lân cứ lao tới, lao thẳng tới bám sát lấy nó, muốn giết cho chết tốt ngay đó, nhưng nó luôn luôn lùi kịp. Lân như lao theo một cái bóng, lao theo một tưởng niệm nào.

    Con Bò Mộng Đỏ cứ thế mà lùi miết, không hề một lần giao đấu cho đến khi lân dồn nó đến sát mức nước biển. Tới đó, nó đứng thẳng lên, sóng biển vừa ùa tới xoáy cuộn lênh láng, quấn quít lấy chân nó, lúc rút đi cuốn theo từng đụn cát. Nó không đấu nhưng cũng không chạy trốn, và tới lúc đó thì lân hiểu rằng không bao giờ có thể hủy diệt được nó. Tuy nhiên lân vẫn đứng ở thế chuẩn bị tấn công lần nữa, trong khi Con Bò Mộng như hầm hè trong cổ họng điều gì ngạc nhiên lắm, bỡ ngỡ lắm.

    Với Molly Grue thì thế giới như ngưng đọng hẳn lại, bất động trong những giây phút băng giá đó. Cứ như thể là nàng đương đứng trên một tòa tháp còn cao hơn tòa tháp Vua Haggard đương đứng nữa, và nhìn xuống để thấy trên một khoảng bãi biển xám có hình một người đàn ông và một người đàn bà nhỏ, đồ chơi trẻ con, đặt cho đứng ngắm bằng đôi mắt gắn bó về phía Con Bò Mộng bằng đất thó và con kỳ lân xinh xẻo bằng ngà. Lại còn một con búp bê bị chôn một nửa, và một tòa lâu đài bằng cát trên đó gắn một ông vua đứng trên một tòa tháp nghiêng. Triều biển có thể ùa tới xóa tất cả phối cảnh trò chơi đó, để chỉ còn lại đàn chim biển vỗ cánh phành phạch, nhảy thành vòng tròn trên bãi cát.

    Vùa lúc đó Schmendrick lắc mạnh cánh tay nàng, nói, "Molly." Tự tít ngoài xa, những vành sóng cong đương ùa tới, đó là những vành sóng lớn chập chùng ngọn trắng mình xanh tung tóe tan thành bụi nước khi va vào những đụn cát hay những mỏm đá, lao miết lên bãi cát thành tiếng sèo sèo như lửa cháy. Lũ chim xáo xác bốc lên từng đàn, tiếng kêu hốt hoảng the thé của chúng mất hút trong tiếng sóng vang ầm như rừng thông nổi gió.

    Và trong màu trắng xóa, giữa màu trắng xóa của khoảng nước vỡ lênh láng, có cơ man nào là những thân hình uốn cong giữa những đường dọc trũng màu cẩm thạch của sóng nước, bờm của chúng, đuôi của chúng, và chòm râu lơ thơ của những con đực rực rỡ chói lòa dưới ánh mặt trời, những đôi mắt chúng đen và thăm thẳm lấp lánh như biển sâu - và màu sừng nữa, màu sà cừ long lanh, trông như những cột buồm cầu vồng dựng trên những con tầu nạm bạc.

    Nhưng tất cả vẫn chưa muốn bước lên đất liền khi mà Con Bò Mộng còn đó. Chúng còn tập trung bên dưới, quẫy động, chao chát, rập rênh theo nhịp sóng ở khoảng biển nông đó, bứt rứt, vùng vẫy, lo âu như đàn cá bị chụp lưới kéo lên bờ. Hàng trăm con đu đưa cùng nhịp sóng xô vào những con đã tới trước. Những con này không những phải đứng khựng lại mà còn hơi nhích lùi về phía sau.

    Lân cúi thấp đầu hơn nữa, và lần cuối cùng lao cả thân mình vào Con Bò Mộng Đỏ. Dù đó là khối thịt hay khối gió thì với sức lao đó cũng thừa đủ làm cho nó phải bật đi như một trái ủng. Nhưng không, nó chỉ quay đi như không hề nhận ra điều gì, và lẳng lặng bước xuống biển. Tất cả kỳ lân bên dưới vùng vẫy dạt sang hai bên nhường lối cho nó đi. Chân nó dẫm mạnh vào khoảng sóng vừa ùa tới lênh láng làm nước bắn tung lên thành một khoảng sương mù quay cuồng và hai sừng nó thành hình cầu vồng, nhưng trên bãi biển, trên cao tít thành đá bờ biển và ngược xuôi khắp vùng địa giới của Vương quốc Haggard, đất liền như cựa mình thở phào vì vừa thoát khỏi sức nặng của nó.

    Nó cứ bước từng bước dài đủng đỉnh như vậy một quãng khá dài rồi mới bắt đầu bơi. Đợt sóng cao nhất của biển cả cũng không cao hơn hai bắp vế sau của nó. Triều biển cũng phải né mình chạy trốn như thể tránh voi chẳng xấu mặt nào. Nhưng rồi sau cùng, khi đã tới lúc nó buông thả thân hình xuống mặt biển, cả một núi sóng hùng vĩ dâng lên che khuất lấy phía sau của nó, một khối phồng căng xanh và den vừa sâu vừa mềm vừa mạnh như gió. Khối nước đó tu lại trong yên lặng như từ chân trời bên này khép sang chân trời bên kia, một lát sau thì hoàn toàn phủ kín hẳn khoảng lưng thoai thoải và tấm vai u của Con Bò Mộng Đỏ. Schmendrick nâng xác ông hoàng rồi cùng Molly chạy nhanh tới khoảng sát chân bờ đá dựng. Sóng nước đổ xuống như hàng trận mưa rào liên tiếp.

    Thế là những kỳ lân dời biển cả bước lên bờ.

    Molly không hề được nhìn rõ từng con, nàng chỉ thấy liên tiếp những bước nhảy ánh sáng vun vút, và những tiếng kêu lớn chói lòa. Nàng cũng thừa khôn ngoan để hiểu rằng không một thế nhân nào nuôi tham vọng được ngắm kỹ tất cả những kỳ lân trên trái đất, nàng chỉ chú ý nhìn để cố tìm ra con lân của nàng, thế thôi. Nhưng nàng chỉ thấy là kỳ lân nhiều quá và đẹp quá. Dáng quyết liệt mù lòa như Con Bò Mộng Đỏ, Molly vùng tiến tới giơ tay đón chào.

    Thật ra những kỳ lân đó có thể dẫm chết nàng như Con Bò Mộng Đỏ đã dẫm chết Hoàng tử Lir, vì lúc đó tất cả đương say mê điên cuồng vì tự do. Nhưng Schmendrick đã cất lời nói và kỳ lân luôn luôn kịp thời né tránh Molly, né tránh xác Hoàng tử Lir và dĩ nhiên né tránh cả ảo thuật gia nữa - một vài kỳ lân vút nhảy qua đầu họ - cứ như luồng sóng biển ồ ạt lao tới gặp đá tảng thì tung lên, dãn ra rồi lại chụm lại tiếp tục cuồn cuộn miết mãi. Bốn bề bao vây lấy Molly lúc đó ào ạt những lớp sóng ánh sáng, những làn hoa ánh sáng, lạ lùng như thể nàng đương chứng kiến cảnh tuyết trắng bốc lửa, trong khi đó tiếng hàng ngàn vó kỳ lân rộn rã vang rền. Molly đứng im như tượng không cười không khóc, niềm vui hùng vĩ quá, cơ thể nàng không sao thấu triệt cho hết.

    "Nhìn lên kìa," tiếng Schmendrick. "Lâu đài đương sụp đổ."

    Nàng quay lại, nhìn lên, quả thấy những chòi tháp bị sụm xuống, vụn nát, san bằng dưới vó những kỳ lân đương băng mình qua đó, như thể chúng chỉ được xây bằng cát và triều biển vừa dâng lên xóa tan chúng như xóa những công trình dã tràng. Cả tòa lâu đài nhào lộn xuống từng tảng lớn nhưng trông xa thì chỉ như từng mảng sáp xoáy cuộn, rồi xụp đổ và tan biến trong yên lặng hoàn toàn, không để lại một chút di tích trên mặt đất, cũng như trong tâm tưởng hai người đã được chứng kiến cảnh đó. Một phút sau, hai người cảm thấy chưng hửng, bàng hoàng không sao nhớ rõ là mình đương đứng ở đâu và vừa nhìn thấy những gì.

    Nhưng Vua Haggard, con người luôn luôn tỉnh thức nhào theo tòa lâu đài đã được giải hoặc như một con dao rơi xuyên qua đám mây. Molly có nghe thấy ông ta thốt tiếng cả cười một lần, như thể điều đó chính là điều ông ta đã tiên liệu từ lâu. Ít có cái gì khiến vua Haggard phải kinh ngạc cả.


  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    14
    Khi mặt biển đã khép lại, sóng gợn muôn vàn vết chân nạm kim cương như xưa, thì nơi đây chẳng còn một vết tích nào chứng tỏ là nơi đã từng có kỳ lân bị nhốt. Như hệt lâu đài của Vua Haggard bị xóa đi trong trí nhớ vậy. Duy có một điểm là Molly nhớ rất rõ những kỳ lân.

    Về lân của nàng, Molly nghĩ lầm, "Lân ra đi không chào tạm biệt như vậy cũng phải. Ta cũng đã ngớ ngẩn, ừ, ta cũng đương ngơ ngẩn trong giây lát, có làn hơi ấm áp lùa lên má nàng, lùa vào tóc nàng như ánh xuân quang. Và Molly quay lại. Và Molly ôm lấy cổ lân, thì thầm như trong cơn mê sảng, "Trời ơi, bạn tôi ở lại, bạn tôi ở lại."

    Molly gần như phát điên lên được, hỏi "Bạn có ý ở lại không?" Lân đã lướt tới chỗ Hoàng tử Lir nằm sõng sượt, đôi mắt xanh của chàng đã chết màu. Lân đứng bên chàng dáng "nắng mưa che chở" y như chàng đã đứng trước nàng Amalthea.

    "Hoàng tử sẽ được cứu sống," Schmendrick nói khẽ. "Sừng kỳ lân là một báu vật hóa giải được thần chết." Molly nhìn sát mặt ảo thuật gia, đã từ lâu rồi nàng chưa nhìn như vậy. Nàng nhận ra quả thực ảo thuật gia đã đạt được pháp thuật chân truyền. Nàng cũng không thể nói tại sao nàng biết nữa. Chỉ biết không thấy dấu hiệu của thứ vinh quang huyênh hoang, danh dự lộ liễu. Schmendrick đích thực là ảo thuật gia như ông đã là ảo thuật gia tự bao giờ tới nay, tuy nhiên cũng lại có vẻ là vừa mới khởi sự dựng nghiệp.

    Lân đứng bên Hoàng tử Lir khá lâu, rồi mới cúi xuống dùng sừng đụng vào chàng. Cuộc tìm kiếm của lân đã thành công quá rực rỡ, nhưng ở lân cũng thoáng vẻ ủ-ê, sầu muộn mà Molly chưa từng chứng kiến. Molly chợt nhận ra rằng sự tiếc nuối đó không hẳn là chỉ vì Hoàng tử Lir, mà là tiếc nuối cuộc sống của cô gái thanh tân mà lân không thể trở lại được nữa, tiếc nuối cuộc sống của nàng Amalthea có thể kết duyên cầm sắt với hoàng tử và sống sung sướng bên nhau mãi mãi. Lân cúi đầu lần nữa, sừng lân chạm lướt lên cằm Hoàng tử Lir vụng về như cái hôn đầu.

    Chàng đã ngồi dậy, đôi mắt hấp háy, mỉm cười với cái gì trong cõi xa xôi. "Cha ơi," chàng hấp tấp nói, giọng ngỡ ngàng, "Cha ơi, con nằm mơ." Lúc đó chàng vừa nhận ra lân. Chàng vùng đứng dậy, máu lại bắt đầu chảy trên mặt. Chàng thốt, "Tôi chết rồi mà."

    Lân chạm vào người chàng lần nữa, sừng lân đặt lên khoảng ngực chàng. Cả chàng cùng lân đều run run, Hoàng tử Lir giơ cả hai tay về phía lân, và lân nói, "Ta nhớ chàng. Ta nhớ chàng."

    "Khi tôi chết," Hoàng tử Lir cất lời, nhưng lân đã cất bước ra đi. Không một viên đá kêu vang, không một bụi cây bị dẫm nát khi lân phóng mình lên thành đá dựng. Dáng lân lướt nhẹ như bóng chim bay vậy. Và khi lân quay lại với một chân làm điệu, ánh nắng rỡ ràng hai bên sườn, đầu và cổ như quá mong manh dưới sức nặng của chiếc sừng, thì cả ba đứng bên dưới bãi biển đều vẫy gọi, giọng giã từ se sắt. Lân quay đi rồi biến mất, Molly Grue thấy rõ rằng lời kêu của họ đã xuyên thẳng vào tim lân như những mũi tên. Nàng nghĩ rằng giá như nàng đừng kêu gọi như vậy thì hơn. Tội nghiệp cho lân biết chừng nào.

    Hoàng tử Lir nói, "Vừa trông thấy nàng tôi đã biết là mình chết rồi. Lần trước, khi cùng cha tôi nhìn xuống từ tháp canh, thấy nàng lần đầu, tôi cũng cảm giác như vậy." Chàng liếc mắt nhìn lên, và thở dài. Đó là tiếng thở dài duy nhất của một người duy nhất biểu lộ niềm sầu hận cho Vua Haggard.

    "Tôi là ai?" hoàng tử nói khẽ. "Lời nguyền cho rằng chính tôi là kẻ phá đổ lâu đài. Điều đó quả thật tôi có bao giờ làm đâu. Nhà vua không ưa tôi, vì tôi không phải là người ông ưa. Có phải vì tôi mà ông chịu đổ vỡ mạng vong?"

    Schmendrick đáp, "Nếu hoàng tử không tìm cách cứu lân, nàng sẽ không bao giờ quay lại tấn công Con Bò Mộng Đỏ cho đến khi nó chịu bỏ cuộc, bước xuống biển. Vì Con Bò Mộng Đỏ bước xuống biển mà nước biển dềnh lên đẩy thoát tất cả kỳ lân lên bờ, và chính những kỳ lân khi được tự do, tới tấp vượt lên thành đá dựng, đã tàn phá lâu đài. Biết rõ như vậy, hoàng tử có còn bảo là lời nguyền nói sai chăng?"

    Hoàng tử Lir chỉ lắc đầu, nhưng không nói gì.

    Molly hỏi, "Nhưng sao Con Bò Mộng Đỏ lại chạy trốn nàng? Sao nó không đứng lại và chiến đấu với lân?"

    Mọi người cùng nhìn ra biển, chẳng còn một dấu hiệu nào về nó, mặc dầu to lớn mênh mông như nó không dễ gì mà bơi mất hút ngay trong khoảng thời gian ngắn ngủi như vậy. Nhưng dù nó có bơi sang một bờ bến nào khác, hay hoàn toàn ẩn mình dưới biển sâu, thì cũng còn lâu họ mới biết được chuyện đó.

    Nó không còn xuất hiện trên địa giới này nữa.

    "Con Bò Mộng Đỏ không bao giờ chiến đấu cả," Schmendrick giải thích. "Nó chỉ chinh phục, nhưng không bao giờ chiến đấu."

    Ảo thuật gia quay lại phía Hoàng tử Lir, đặt tay lên vai chàng, nói, "Bây giờ thì hoàng tử là vua rồi." Ông cũng đặt tay lên vai Molly nữa, rồi ông làm điều gì nghe như tiếng huýt sáo, và cả ba cùng bềnh bồng bay lên không phất phơ như bông gạo, phút chốc đã cùng đặt chân trên bờ đá dựng. Molly không thấy sợ gì cả. Pháp thuật của Schmendrick đã giúp nàng bay lên nhẹ như một nốt nhạc thoát ra tự một nhạc khí trong tay nhạc sĩ. Không có gì là nguy hiểm, chẳng có gì là điên khùng, nàng chỉ thấy tiêng tiếc khi được đặt xuống, chân chạm đất.

    Không một phiến đá nào hay một dấu vết nào của tòa lâu đài cũ còn để lại. Mặt đất trên đó lâu đài được xây cũng không để lại một vết thẫm màu. Bốn chàng trai trẻ trong bộ đồ giáp trụ tả tơi bệ rạc đương đi thất tha thất thểu khoảng những dãy hành lang nay không còn, hoặc khoảng đất phẳng của khu tiền đình cũ. Khi thấy Lir, Molly, và Schmendrick, họ chạy ùa lại, cười vui vẻ, rồi quỳ xuống trước Lir và hô lớn, "Hoàng thượng muôn năm! Hoàng thượng muôn năm!"

    Lir đỏ mặt mắc cỡ muốn kéo họ đứng dậy, nói khẽ, "Đừng quá câu nệ, đừng quá câu nệ. Xin cho tôi biết các vị là ai? Hoàng tử chú ý ngắm kỹ khuôn mặt một người, rồi người kế tiếp. "Trời ơi, tôi biết các bạn, tôi biết các bạn quá mà. Nhưng sao lại có thể như thế này được?"

    Chàng trai trẻ đầu tiên nói, "Tâu Hoàng thượng, sự thật là vậy đó. Chúng tôi quả là những cựu kỵ giáp binh của Vua Haggard, đã sống tại đây qua bao năm lạnh lẽo, mệt nhọc, buồn tẻ. Chúng tôi chạy ra khỏi lâu đài; sau khi quý vị đã biến vào chiếc đồng hồ, vì lúc đó Con Bò Mộng Đỏ gầm dữ quá, và tòa lâu đài thì lung lay đến mức chúng tôi ai nấy đều chết khiếp. Chúng tôi biết đã đến ngày lời nguyền thực hiện."

    Chàng trai thứ hai tiếp, "Một đợt sóng biển cực lớn ào tới cuốn lấy tòa lâu đài, đúng y như lời mụ phù thủy đã nói trước. Tôi đã trông thấy tòa lâu đài đổ xuống từ trên mỏm thành đá dựng nhẹ như bông tuyết rơi vậy. Còn tại sao chúng tôi không bị nước cuốn theo, chúng tôi quả tình không biết nói sao."

    Chàng khác nói, "Lạ lắm, sóng chia nhau đi vòng quanh chúng tôi, chưa bao giờ tôi thấy những ngọn sóng lạ lùng như vậy, đúng là những ngọn sóng ma, nóng bỏng với những ánh sáng cầu vồn. Và trong một lúc lâu tôi thấy như thể," chàng ta dụi mắt, và mỉm cười bỡ ngỡ tiếp, "như thể là tôi vừa mơ ngủ vậy."

    Tới đó vua Lir lên tiếng hỏi, "Nhưng chuyện gì lạ đã xảy tới với các bạn vậy. Khi tôi mới sinh ra, các bạn đã là người lớn rồi, giờ đây các bạn trông lại trẻ hơn tôi, thế là làm sao? Phép lạ nào vậy?"

    Ba chàng trai đã lên tiếng thì chỉ cười và có vẻ lúng túng, người thứ tư đáp, "Phép lạ ban cho chúng tôi thật đó, thưa ngài. Có một lần chúng tôi nói với công nương Amalthea rằng chúng tôi muốn được cải lão hoàn đồng, nếu được nàng rủ lòng thương cho như vậy. Nay quả thực chúng tôi đã cầu được ước thấy. Công nương Amalthea đâu rồi, thưa ngài? Chúng tôi muốn chạy tới giúp nàng kể cả việc phải đương đầu với Con Bò Mộng Đỏ."

    Vua Lir nói, "Nàng đã đi rồi. Hãy tìm ngựa và thắng yên cho tôi." Lời nói của tân vương sắc gọn và háo hức. Các chàng kỵ giáp binh tranh nhau tuân lệnh.

    Nhưng Schmendrick, đứng phía sau, bình tĩnh nói, "Thưa ngài, ngài không nên làm thế, ngài không nên đi theo nàng."

    Vua quay lại, trông giống vua Haggard xưa, nói, "Thưa ảo thuật gia, nàng là của tôi!" Ông ngừng lại giây lâu rồi tiếp, giọng nói lần này êm đềm nhuần nhã hơn. "Nàng đã hai lần cứu tôi khỏi chết, hỏi rằng tôi còn có cách nào đền đáp lại nàng khác hơn là chết một lần thứ ba vì nàng?" Nhà vua nắm lấy cổ tay Schmendrick, xiết mạnh tưởng có thể bóp nát thành cám, nhưng ảo thuật gia không hề động đậy. Chàng Lir nói, "Tôi không phải là Vua Haggard. Tôi không hề ao ước giam giữ nàng, tôi chỉ ao ước được suốt đời theo sau nàng hàng trăm dặm, hàng ngàn đặ, hàng năm sau, có thể chẳng hề được nhớ mặt nàng, nhưng vẫn vui. Đó là quyền của tôi. Chuyện một anh hùng đương nhiên đoạn kết phải có hậu, đoạn kết đó muốn bao giờ tới thì tới."

    Nhưng Schmendrick đã đáp, "Đây chưa phải là đoạn kết cho chàng hay cho nàng. Hoàng tử giờ đây đã là vua trên một lãnh địa hoang tàn mà từ trước tới nay chỉ có sợ hãi, âu lo ngự trị. Nhiệm vụ thật sự của chàng bây giờ mới là bắt đầu, thắng đừng kiêu; bại chớ bao giờ nản. Còn như với nàng - kỳ lân - nàng là chuyện kể không có kết thúc, kết thúc vui hay kết thúc buồn. Nàng có bao giờ thuộc về bất kỳ kẻ nào còn hệ lụy trong cõi sinh tử đâu."

    Bằng một cử chỉ lạ lùng, ảo thuật gia ôm gọn lấy đầu ông vua trẻ tuổi trong vòng tay, ôm như vậy khá lâu, rồi mới tiếp bằng giọng thật dịu ngọt, "Dù sao chàng hãy vui lòng. Chưa có thế nhân nào được may mắn hưởng ân sủng của nàng như chàng, và cũng chẳng có thế nhân nào được hưởng phúc lành tưởng niệm kỳ lân như chàng. Chàng đã yêu nàng và phục vụ nàng - hãy bằng lòng như vậy và lên ngôi quân vương như vậy."

    "Nhưng đó đâu phải là điều tôi muốn!" Chàng Lir nói lớn. Ảo thuật gia không trả lời chàng thêm một tiếng nào, chỉ nhìn chàng. Đôi mắt màu xanh biếc chăm chú nhìn thẳng vào đôi mắt xanh thẫm, khuôn mặt nghiêng uy nghi đối diện với khuôn mặt chưa bao giờ đẹp và dũng cảm như vậy. Nhà vua chớp mắt như thể vừa nhìn thẳng vào mặt trời, rồi cúi xuống ngay và nói khẽ, "Vâng tôi xin lĩnh ý, ở lại làm vua trên mảnh đất mà tôi thù hận, với đám lê dân đã chịu đựng quá nhiều bất hạnh này. Ngồi trên ngôi cửu ngũ, cầm cân nảy mực như vậy tôi cũng chẳng hoan hỷ gì hơn Vua Haggard xưa."

    Một con mèo nhỏ tai khoằm không biết tự đâu nhảy ra vươn vai ngáp nhìn Molly. Nàng cúi xuống ôm nó lên áp má, nó quờ chân lên vờn rối tóc nàng. Schmendrick mỉm cười, và nói với nhà vua, "Chúng tôi phải ra đi bây giờ. Chẳng hay ngài có thể đi cùng với chúng tôi từ đây đến đường ranh giới? Chúng ta sẽ có dịp chứng kiến nhiều chuyện lạ, và hẳn là có cả dấu vết kỳ lân nữa."

    Vua Lir ra lệnh đám tùy thuộc thắng yên cương cho mình. Đám này chỉ tìm được có một con ngựa cho nhà vua, đương loay hoay không biết tính sao thì đã thấy có hai con ngựa khác tiến theo, một con màu đen và một con màu nâu đều yên cương sẵn sàng. Schmendrick lấy con ngựa đen, còn con nâu nhường cho Molly.

    Molly thoạt hơi sợ, hỏi ảo thuật gia, "Ngựa nào vậy, có phải của ông bạn? Ông bạn vừa hóa chúng ra? Pháp thuật của ông bạn bây giờ tuyệt vời đến vậy sao?" Nhà vua cũng phải thốt lời thì thầm ngạc nhiên cùng Molly.

    "Tôi tìm thấy chúng," ảo thuật gia đáp. "Nhưng nghĩa hai chữ tìm thấy của tôi khác với cách hiểu thường tình của bạn. Đừng hỏi tôi nữa."

    Ông nâng Molly lên yên, rồi nhảy lên ngựa của ông. Cả ba lên đường, bốn người kỵ giáp binh theo sau, đi chân. Chẳng ai ngoái cổ nhìn lại, vì có gì để mà nhìn đâu. Nhưng có một lần Vua Lir lên tiếng "Thực là lạ lùng cho một người sinh ra, lớn lên ở một chỗ, rồi chứng kiến mọi sự biến đổi, rồi chợt thấy mình làm vua. Tất cả những điều đó liệu có thật không? Chính tôi có thật không?" Schmendrick không trả lời.

    Vua Lir muốn đi lẹ hơn, nhưng Schmendrick giữ cho cả bọn đi theo một nhịp thảnh thơi và theo một con đường quanh co. Khi Vua Lir bứt rứt muốn thúc ngựa đi nhanh hơn, thì ảo thuật gia xin nhà vua hãy đoái đến đám kỹ binh đi bộ kia, mặc dầu suốt cuộc hành trình bọn người này tuyệt nhiên không cảm thấy mệt chút nào. Molly thì hiểu ngay rằng thâm ý của ảo thuật gia là cố tình đi chậm để nhà vua có dịp ngắm kỹ giang sơn của mình. Và đây cũng là một ngạc nhiên dành cho Molly, nàng nhận thấy cảnh vật quả rất đáng được ngắm nhìn. Vì mùa xuân đã từ từ xuất hiện trên mảnh đất khô cằn này của Vua Haggard trước đây. Nếu là khách lạ mới tới thì chẳng thể nhận ra sự đổi thay đó, nhưng Molly thì nhận rõ. Màu cỏ non e thẹn nhú lên thanh nhẹ như khói, những cây cằn bắt đầu đơm hoa nảy lộc một cách thận trọng như thể quân đội cử đội thám báo đi trước dò đường, những dòng nước trước đây khô cạn nay bắt đầu rềnh lên lấp lánh chảy, và những con vật nhỏ tới tấp xuất hiện, tưng bừng kêu gọi nhau. Từng đợt hương vị dâng lên: cỏ lợt và bùn đen, mật và hồ đào, bạc hà và cỏ khô và rừng táo chín mõm; và kể cả ánh nắng chói chang ban trưa cũng vẫn lẩn quất một cái gì diụ dàng, một hương vị gì kích thích mà Molly đã phải nhận ra rằng vẫn có đấy khắp nơi nơi. Nàng cưỡi ngựa đi ngang bên Schmendrick, say sưa ngắm mùa xuân đến và suy nghĩ sao mùa xuân đến với nàng chậm thế và cũng trường cửu thế.

    "Những kỳ lân đã qua đây," nàng nói khẽ với ảo thuật gia. "Có phải đó là vì kỳ lân đã qua đây, hay vì

    Haggard đã bị lật đổ và Con Bò Mộng Đỏ đã khuất nẻo? Điều nào đúng?"

    "Tất cả đều đúng!" Ảo thuật gia trả lời. "Tất cả đều đúng cùng một lúc. Đây không phải chỉ là một mùa xuân mà là năm mươi mùa xuân; và không chỉ có hai đại họa vừa được trừ khử mà muôn vàn nhức nhối nhỏ nữa cũng vừa được thanh toán. Bạn cứ việc, chờ mà xem."

    Và ông nói riêng với vua Lir, "Đây không phải là lần đầu tiên mùa xuân hạ cố tới thăm miền này. Đất miền này vốn phì nhiêu như vậy từ lâu rồi, chỉ đợi có một ông vua ra vua là thức tỉnh. Ngài hãy trông đất đai đương mềm đi trước mắt ngài ra sao kìa."

    Vua Lir không nói gì, nhưng đôi mắt ông hết nhìn tả lại nhìn hữu trong khi vó ngựa vẫn bước đều, quả thực chỗ nào đôi mắt cũng gặp được cảnh đơm hoa kết trái. Ngay như thung lũng của thành phố Hagsgate nơi từng ghi dấu những kỷ niệm hãi hùng mà nay cũng đã thấy bao nhiêu thứ hoa không trồng mà mọc: loa kèn, tầm xuân, thạch lựu, phù dung... Khoảng những vết chân Bò Mộng để lại đất trở nên xốp hẳn cây mọc xanh um.

    Nhưng khi họ đi vào địa phận Hagsgate thì một cảnh đồi trệ man rợ lạ lùng xuất hiện dưới mắt họ. Lúc đó khoảng quá trưa đã lâu rồi. Ruộng cày hoàn toàn bị dẫm nát, tàn phá, vườn cây ăn quả, vườn nho cũng hoàn toàn bị dày xéo san bằng đến không còn một thân cây đứng vững. Cảnh tàn phá tận tình đến nỗi ai nấy có cảm tưởng như đích thân Con Bò Mộng Đỏ qua đây thực hiện cảnh đó. Nhưng Molly thì nghĩ rằng sau năm mươi năm trĩu nặng những âu lo, sức tàn phá một sớm một chiều bột phát tất nhiên phải thế, cũng như bao nhiêu mùa xuân bị kìm hãm ở phần đất còn lại kia, khi được giải tỏa thì sự phồn thịnh tất nhiên cũng phải thế. Đất bị dẫm nát đều nhuốm một màu tro kỳ lạ dưới ánh chiều tà. Vua Lir cất tiếng hỏi, "Cái gì thế vậy?"

    Nhưng ảo thuật gia chỉ đáp, "Xin ngài cứ tiếp tục cho ngựa chạy, xin tiếp tục cho ngựa chạy."

    Mặt trời ngả hẳn về Tây khi họ cho ngựa bước qua chiếc cổng vào tỉnh đã bị đổ lật nhào. Họ cho ngựa đi xuôi theo đường phố ngổn ngang tắc nghẽn với đủ thứ: bảng hiệu, đồ đạc, kiếng vỡ, mảnh tường đổ, cửa sổ, lò sưởi, ghế, đồ bếp, mái nhà, bồn tắm, giường ngủ, bàn trang điểm. Không một nhà nào tại Hagsgate còn đứng nguyên, những gì có thể vỡ được đều đã vỡ. Cả thành phố trông như vừa bị những bàn chân khổng lồ dẫm nát.

    Dân chúng Hagsgate đứng, ngồi lổn nhổn ở các bực cửa ngắm cảnh đổ vỡ. Trông họ lúc nào cũng như những kẻ nghèo xác xơ kể cả thuở họ còn phú túc. Giờ đây tai nạn xập xuống, trông họ không nghèo hơn chút nào, trái lại còn đượm vẻ thảnh thơi nhẹ nợ. Họ không để ý thấy Vua Lir cưỡi ngựa tới, cho đến khi nhà vua cất tiếng hỏi, "Ta đã lên ngôi vua. Điều gì đã xảy đến với các ngươi vậy?"

    Kẻ thì nói, "Thưa ngài động đất," kẻ khác lại phủ chính, "Thưa ngài đó là một trận bão, một trận gió Đông Bắc tự biển thổi tới, tàn phá trọn vẹn thành phố, kế đó mưa đá đổ xuống nghe như tiếng vó ngựa rộn rã." Có kẻ lại cho rằng đó là sóng thần từ biển ào tới tàn phá, một thứ sóng thần trắng như hoa mai, nặng như cẩm thạch lạ lùng hết cỡ ở chỗ không làm ai chết đuối, nhưng nghiền nát hết thảy. Vua Lir lắng nghe hết lời họ nói và mỉm cười nghiêm khắc.

    Khi tất cả đã nói xong vua mới lên tiếng, "Các ngươi nghe đây, Vua Haggard đã chết, và lâu đài của ông đã xụp đổ. Ta là Lir, đứa con của thành phố Hagsgate này, đã bị bỏ rơi khi vừa lọt lòng mẹ. Các ngươi cố tình bỏ rơi ta như vậy để lời nguyền của mụ phù thủy không thể thực hiện nổi." Nhà vua chỉ tay lên khắp cảnh hoang tàn, tiếp, "Hỡi những người dân ngu đần, cơ cực, những kỳ lân đã trở lại đó - những kỳ lân mà các ngươi đã chứng kiến khi Con Bò Mộng Đỏ dồn xuống biển mà cố tình mắt điếc tai ngơ giả bộ không biết. Chính những kỳ lân đó đã lật đổ tòa lâu đài, và dẫm nát thành phố này, nhưng đích thực phải nói là chính lòng tham và sự hèn nhát của các người đã là nguyên nhân cho tai họa."

    Toàn thể dân chúng nghe xong, cúi đầu nhẫn nhục thở dài, nhưng một bà trung niên đã tiến lên một bước và đáp đôi lời khá thông minh. "Thưa ngài quở trách chúng tôi như vậy cũng hơi bất công, mong ngài tha lỗi cho. Như chúng tôi thì biết làm gì để cứu kỳ lân. Chúng tôi sợ Con Bò Mộng Đỏ. Chúng tôi còn có thể làm được gì hơn?"

    "Chỉ một lời nói thôi cũng đủ," Vua Lir đáp lời họ. "Chỉ một lời nói thôi cũng đủ. Các ngươi đã không biết điều đó."

    Vừa lúc Vua Lir sắp sửa thúc cho ngựa đi, thì một giọng nói yếu ớt, bệnh hoạn thốt lên, "Lir, hỡi bé Lir con của ta, vua của ta! Schmendrick và Molly nhận ra kẻ đương vừa lê chân khập khiễng, vừa thở hổn hển gọi, chính là Drinn. Hắn cố tình làm ra vẻ già nua lụ khụ.

    "Ông là ai?" nhà vua hỏi. "Ông muốn gì nào?"

    Drinn bám lấy bàn đạp yên ngựa của nhà vua, gục mũi lên ủng. "Hoàng thượng, con trai của tôi, không nhận ra tôi sao? Nhưng tôi làm sao mà xứng đáng để Hoàng thượng nhận ra cho được. Tôi là cha của Hoàng thượng đây, người cha đáng thương; người cha vui mừng quá đỗi. Tôi là kẻ đã đặt hoàng nhi ở khoảng chợ đêm đông năm nào, cách đây lâu lắm rồi, để mở đường cho một định mệnh hào hùng. Tôi đã khôn ngoan biết chừng nào, nhưng cũng đau lòng sót ruột biết chừng nào, và cho đến nay lại được kiêu hãnh biết chừng nào. Ôi, con trai tôi, đứa con bé bỏng của tôi." Drinn không khóc được ra nước mắt thật, nhưng nước mũi thì có.

    Không thốt một lời, Vua Lir thúc ngựa cho lùi khỏi đám dân chúng. Già Drinn buông thõng hai tay xuống, rít lên. "Đó, có con có cái là như thế đó. Hỡi người con vong ân kia, ngươi nỡ bỏ rơi đấng sinh thành trong cơn hoạn nạn này ư, khi mà chỉ cần một lời nói của nhà phù thủy cưng kia là mọi sự lại tề chỉnh đâu vào đó. Cứ việc mà khinh tôi, nếu người muốn, nhưng tôi đã đóng trọn vai trò của tôi khiến người được như ngày nay, và điều đó hẳn người không chối được. Ác cũng có vai trò thích hạp của ác chứ."

    Nhà vua còn muốn quay đi, nhưng Schmendrick đã nắm lấy cánh tay người, hơi nghiêng đầu nói khẻ, "Nói thế mà đúng đó, ngài cũng biết đấy. Nhưng với ông ta với tất cả bọn họ - lẽ ra câu chuyện phải biến chuyển một cách khác kia, và ai dám đoan chắc rằng kết cục lại có hậu như thế này. Là đấng quân vương của họ, ngài nên cai trị họ cùng với lòng nhân như cai trị những thần dân can đảm và trung thành khác. Quả thực họ đã đóng một vai trò trong định mệnh ngài."

    Vua Lir bèn giơ tay lên trước đám thần dân Hagsgate, và họ hích khuỷu tay bảo nhau hãy yên lặng. Nhà vua nói, "Ta còn phải rong ruổi nốt quãng đường này với mấy người bạn của ta đây. Nhưng để những kỵ giáp binh ở lại giúp các ngươi xây dựng lại thành phố. Chỉ một thời gian ngắn ta sẽ trở về giúp thêm một tay. Nếu Hagsgate chưa tái thiết, chưa hồi phục, ta chưa xây lại lâu đài trên kia."

    Đám thần dân Hagsgate than phiền một cách đắng cay rằng, lẽ ra Schmendrick mà ra tay giúp họ bằng pháp thuật của ông thì công việc nhẹ tưa lông hồng. Nhưng Schmendrick bảo họ rằng, "Tôi không thể giúp các bạn như vậy, dù tôi có muốn đi chăng nữa. Thuật phù thủy cũng có lệ luật của nó chứ, như luật tạo hóa với thủy triều lên xuống, với bốn mùa đổi thay. Pháp thuật đã giúp quý vị phú túc một thời, trong khi các nơi khác lãnh phần bất hạnh khốn khó; nhưng nay thì thời gian phú túc đã bế mạc, quý vị phải khởi sự đi thôi. Đâu là đất đai bỏ hoang dưới triều Haggard đều có thể trở lại xanh tốt, phì nhiêu. Quý vị phải trồng trọt lại những mẫu đất, gây dựng lại vườn nho, cây trái. Nhưng xin quý vị nhớ cho một điều, tất cả những thứ đó sẽ chẳng bao giờ lên xanh, sẽ chẳng bao giờ đơm hoa kết trái, nếu chính quý vị không tìm thấy ở đó niềm vui, cởi mở, vô cầu."

    Ảo thuật gia nhìn đám dân chúng không với lòng giận hờn mà với lòng trắc ẩn. Ông tiếp, "Nếu tôi ở địa vị các bạn, tôi nhất định phải sinh con đẻ cái chứ."

    Kế đó ảo thuật gia hỏi Vua Lir, "Xin ngài cho biết chúng ta sẽ nghỉ đêm ở đây, hay tiếp tục đi cho đến sáng?"

    Nhà vua đã cho quay ngựa và đi ra khỏi thành phố điêu tàn. Mãi lâu sau Molly và ảo thuật gia mới phóng lên với nhà vua, và còn lâu hơn nữa cả ba mới dừng lại ngủ.

    Cứ như thế họ đi kinh lý trong địa giới của Vua Lir ngày càng thêm thích thú. Mùa xuân lan tràn trước họ như lửa gặp gió, cỏ non xanh rờn chân trời, phủ kín hết những vùng trần trụi, khắp nơi đất cát tái sinh như lân đã cải tử hoàn sinh cho Lir. Đủ các loài thú, từ loài gấu đến loài ong đều hoặc khệnh khạng, hoặc hối hả, rong chơi giữa thiên nhiên suốt dọc được họ đi. Chim chó từ đâu kéo về hàng đàn rợp trời, cá cũng tụ từng đàn, uốn mình rung rinh dưới làn nước xuôi miết. Hoa dại mọc tới tấp xuôi theo các triền đồi cứ như là lũ tù vượt ngục. Cả dải đất tưng bừng trong hồi sinh khiến cả ba khách bộ hành cùng nằm đấy mà không ngủ được.

    Dân chúng nhiều làng mà trước đây đã có lần Molly và Schmendrick đi qua đều chào đón họ một cách thận trọng hơn, bớt nghiêm khắc hơn. Chỉ có những người nhiều tuổi nhất trong bọn họ mới có lần được biết mùa xuân, và phần nhiều thấy cây cỏ bỗng xanh tươi lan rộng tùm lum, họ lại đâm e ngại rằng đó là triệu chứng của một thứ dịch thời khí. Vua Lir báo cho họ biết là Vua Haggard đã chết và Con Bò Mộng Đỏ đã ra đi vĩnh viễn. Sau này khi đã cho xây xong lâu đài, nhà vua mong sẽ có dịp được tiếp họ. Rồi ba người lại tiếp tục đi. Vua nói, "Cũng phải một thời gian họ mới làm quen được với cảnh mới của mùa xuân cỏ xanh hoa nở."

    Ở bất kỳ nơi nào họ dừng bước, nhà vua cũng loan tin cho hay là mọi băng trộm cướp đều được hưởng đại xá, mọi người hãy trở lại cuộc sống lương thiện. Molly ước ao tin đó sớm loan truyền đến tai Cully và thuộc hạ. Quả nhiên khi tin đó tới, cả đám thuộc hạ đều giải tán, chỉ trừ có Cully và Jack Jingly. Đám thuộc hạ đó sau cùng này nghe nói đều là những tay hát dạo lang thang khá nổi tiếng trong các tỉnh.

    Vào một đêm kia ba người đã tới khoảng ranh giới xa nhất của vương quốc Lir, và như thường lệ họ sửa soạn chốn nghỉ qua đêm trên cỏ xanh. Sớm hôm sau đôi bên sẽ tạm biệt, nhà vua sẽ trở về Hagsgate. Trong bóng tối nhà vua nói, "Các bạn đi rồi, tôi ở lại đây cô đơn lắm. Thực ra thì tôi muốn ra đi lang thang với các bạn, vua viếc mà làm quái gì."

    "Rồi ngài sẽ vui với chức vụ của mình," Schmendrick đáp. "Những chàng trai trẻ anh dũng nhất tại các làng mạc sẽ chạy tới tìm ngài, ngài sẽ huấn luyện họ thành hiệp sĩ, thành anh hùng. Những vị thừa hành khôn ngoan nhất sẽ tới làm cố vấn cho ngài; những nhạc sĩ tài ba, những tay xiếc lành nghề, những nhà kể chuyện tuyệt kỹ sẽ tìm tới ngài xin hưởng hoàng ân. Và rồi tất nhiên sẽ có nàng công chúa xuất hiện kịp thời, có thể là nàng chạy trốn khỏi người cha hay người anh cực kỳ hiểm độc, có thể là nàng tới xin ngài ra tay tế độ diệt trừ kẻ thoán đoạt phụ hoàng, có thể do ngài bất chợt nghe vọng tiếng nàng bị nhốt trong một đồn lũy tường cao hào sâu nào đó thoát ra."

    "Tôi chẳng chú ý đến điều đó đâu, ông bạn," Vua Lir nói. Qua đi giây lâu im lặng, ai nấy tưởng nhà vua đã ngủ, ông bỗng tiếp, "Ước gì tôi được gặp nàng một lần nữa để giải tỏa hết nỗi lòng cho nàng hay. Chắc chắn nàng không sao tưởng tượng được hết những điều tôi muốn kể. Ông bạn đã hứa với tôi là tôi sẽ được gặp nàng kia mà."

    Ảo thuật gia trả lời vua sắc gọn, "Tôi chỉ hứa với ngài rằng ngài sẽ được chứng kiến những dấu vết kỳ lân. Thì đó ngài đã chứng kiến tất cả rồi. Không một nơi nào khác trên cõi đời lại hên hơn vương quốc này, vì đã được kỳ lân đi qua trong tự do. Còn về ngài, nỗi lòng của ngài, những điều ngài đã nói ra hay không nói ra, nàng đều nhớ hết khi mọi sự đã được thuật lại thành truyện cổ tích. Xin ngài cứ nghĩ như vậy và bình tâm." Nhà vua không nói thêm một lời nào sau đó, và Schmendrick thì hối hận là mình đã chợt nói những điều vừa rồi.

    Giây lau, Schmendrick tiếp, "Nàng đã chạm vào ngài hai lần, lần thứ nhất để cải tử hoàn sinh, lần thứ hai cho riêng ngài." Vua Lir vẫn không trả lời, và ảo thuật gia cũng chẳng rõ rằng nhà vua có nghe mình nói hay không.

    Schmendrick mơ thấy lân tới đứng bên ông khi trăng vừa mọc. Làn gió đêm phe phẩy bờm lân, và ánh trăng lấp lánh trên chiếc đầu xinh xắn trắng như bông tuyết. Ảo thuật gia biết đó chỉ là một giấc mộng, nhưng cũng sung sướng vô ngần được gặp lại lân. Ông nói, "Trong bạn đẹp biết chừng nào. Tôi chưa bao giờ nói thực với bạn như vậy." Ông muốn nhỏm dậy đánh thức Vua Lir và Molly, nhưng đôi mắt lân chợt nhìn ông như đôi cánh chim bối rối, nhát sợ. Do đó ông hiểu rằng nếu như ông ngồi nhỏm dậy lúc đó để đánh thức hai bạn, thì chính ông sẽ sực tỉnh giấc mơ hoa, và hình ảnh lân sẽ tan biến tức khắc. Vì vậy ông chỉ nói, "Họ càng ngày càng yêu càng nhớ bạn, dù tôi có làm gì đi nữa."

    "Chính vì vậy mà," lân trả lời, và ảo thuật gia cũng không nhớ rõ là lân đã trả lời ra sao. Ông nằm rất yên, hy vọng sẽ nhớ rõ được hình đôi vành tai nhỏ xinh của lân vào hồi sớm khi thức giấc. Lân tiếp, "bây giờ ông bạn là một nhà phù thủy chính hiệu có sống có chết rồi, đúng như ý nguyện sở cầu. Ông bạn có vui không?"

    "Vui chứ," ảo thuật gia đáp và bật cười yên lặng. "Tôi chẳng phải là Vua Haggard đáng thương đã đánh mất mọi lạc thú tình cảm. Tuy nhiên phù thủy cũng có ba bảy đường, có phép thuật đen, có phép thuật trắng, và loại trung gian xam xám quãng giữa, thiếu gì - và bây giờ thì tôi hiểu rằng tất cả đều mắm-sốt như nhau cả. Hoặc giả tôi quyết định là kẻ mà người đời gọi là thầy phù thủy tốt, thầy phù thủy khôn ngoan - thứ phù thủy ưa giúp đỡ các đấng anh hùng, kịp thời phá hoại loại phù thủy gian tà, ngăn cấm loại quân vương bạo ngược, giác ngộ loại cha mẹ khắc nghiệt; có thể làm ra mưa, chữa khỏi mọi chứng bện nan y, gọi mèo tự ngọnc cây cao xuống - hoặc giả tôi chọn nghề phù thủy bào chế ra các loại thuốc nước, hương thơm, thuốc bột, bùa ngải, với những sách phù thủy đóng bằng da người, với căn phòng mù mịt sương khói, rì rầm lời phù chú bí ân, nhưng như vậy để làm gì? Đời người thì quá ngắn, với pháp thuật đó tôi giúp ích được bao nhiêu, làm hại được bao nả? Vâng, sau cùng tôi đã chiếm được quyền năng, nhưng địa cầu thì quá lớn, quyền năng thì quá mọn, mong gì chuyện lấp biển vá trời, mặc dầu ông bạn Lir của tôi vẫn nghĩ rằng tôi thuộc loại ghê gớm lắm." Và ảo thuật gia lại bật cười trong mộng, lần này cười mà hơi đượm buồn.

    Lân nói, "Đúng vậy. ông bạn là người, mà người thì chả làm được cái gì lớn chuyện cho lắm." Giọng lân chợt chậm và dằn, "Ông bạn muốn chọn thứ gì nào?"

    Lần thứ ba ảo thuật gia cất tiếng cười, "Ồ, tôi ưa loại ảo thuật tốt lành, không có gì khả nghi, vì chính đó là loại bạn thích hơn cả. Tôi không nghĩ rằng rồi đây tôi sẽ còn được gặp lại bạn, nhưng tôi sẽ gắng làm những điều mà tôi biết là bạn ưa. Còn bạn, bạn sẽ cư ngụ nơi nào trong cuộc đời này của tôi? Tôi nghĩ hẳn bạn sẽ trở lại khu rừng cũ."

    Lân hơi quay đi một chút, đôi bờ vai lung linh sáng, những con thiêu thân, mối cánh, những con trùng nhỏ vô danh khác bay tới nhảy múa trong vùng ánh sáng của sừng lân trông thật dễ thương. Con mèo của Molly thì cứ chà xát hoài khoảng giữa hai chân trước.

    "Những bạn đồng loại khác của tôi thì đã tản mát ìm về các khu rừng cũ," lân nói. "Đi rất kín đáo, từng một một để tránh con mắt dòm ngó của thế nhân. Tôi cũng sẽ trở về khu rừng của tôi, nhưng biết rằng rồi đây tôi có còn được yên vui bình thản như xưa. Tôi đã qua một thời sống như một thế nhân, và một phần nào trong cơ thể tôi cũng đã nhiễm tính chất hữu sinh hữu diệt của thế nhân, lúc nào cũng như tràn căng nước mắt, ôm đầy ước mơ, sợ chết, chẳng bao giờ chết. Tôi không còn giống các bạn đồng loại tôi nữa, bởi có kỳ lân nào mà lòng đầy tiếc nuối như tôi đâu. Thật đáng tiếc."

    Schmendrick dấu mặt đi như một đứa trẻ, dù ông là một ảo thuật gia lớn. Ông nói khẽ, "Tôi thật hối hận, hối hận. Tôi đã làm điều bất hạnh cho bạn. Có lẽ Bà Má Định Mạng, Vua Haggard và Con Bò Mộng Đỏ còn tử tế với bạn hơn tôi."

    Nhưng lân đã nhã nhặn trả lời ảo thuật gia, "Đồng loại tôi hiện đã có mặt trên khắp hoàn vũ. Không sầu hận nào thắng được niềm vui trường cửu đó của tôi, trừ một - Và tôi phải cám ơn ông bạn ở điểm đó chứ. Thôi nhé, chào tạm biệt ông bạn, ảo thuật gia đáng mến: Tôi cũng gắng trở về khu rừng cũ của tôi."

    Lân ra đi không một tiếng động, nhưng ảo thuật gia đã thức giấc, con mèo tai khoằm của Molly thì kêu lên mấy tiếng não nùng. Ông quay lại, bắt gặp đôi mắt của vua Lir và của Molly Grue cùng mở lấp lánh dưới ánh trăng. Cả ba cứ vậy mà thức đến suốt sáng, không nói một lời.

    Vào lúc rạng đông Vua Lir đứng dậy, thắng yên cương. Trước khi lên ngựa, ông nói với Schmendrick và Molly, "Tôi ước ao rằng sẽ có ngày các bạn trở lại thăm tôi." Cả hai cùng đoan chắc với nhà vua là dĩ nhiên sẽ có ngày đó, nhưng rồi nhà vua vẫn bịn rịn chưa muốn chia tay.

    "Tôi mơ thấy nàng đêm qua," nhà vua nói.

    Molly cũng vội vã tiếp, "Ấy tôi cũng vậy, đêm qua tôi mơ thấy nàng!" Schmendrick toan mở miệng nói rồi lại thôi.

    Giọng Vua Lir hơi khàn khàn, "Xin đem tình bạn của chúng ta mà thề, các bạn hãy nói thực cho tôi biết, nàng đã nói gì với các bạn."

    Hai bàn tay vua xiết chặt vào cánh tay của mỗi người, đôi bàn tay vua lạnh và bứt rứt buồn.

    Schmendrick mỉm nụ cười yếu ớt. "Thưa ngài, tôi thực hiếm khi nhớ lại những giấc mộng của mình. Với tôi thì đó thường là những chuyện tào lao, trống rỗng, chẳng có gì." Vua buông tay ra và quay lại với Molly Grue mắt nhìn còn hối hả bứt rứt.

    "Tôi sẽ chẳng bao giờ nói ra cả," Molly đáp, giọng hơi e dè, mặt đỏ rừ. "Tôi nhớ lời nàng nói với tôi nhưng đến chết tôi cũng chẳng nói với ai - kể cả với ngài." Khi nói vậy, nàng không nhìn vua mà lại nhìn Schmendrick.

    Vua Lir buông nốt bàn tay và nhảy lên mình ngựa hùng dũng đến nỗi con ngựa lùi lại, cất cao hai vó trước nổi bật trên nền trời chan hòa ánh bình minh. Vua Lier nhìn xuống Molly và Schmendrick, khuôn mặt khắc khổ, già giặn tưởng như nhà vua đã trị vì lâu bằng Vua Haggard trước.

    "Nàng không nói gì với tôi cả," Vua Lir nói. "Các bạn hiểu chứ? Nàng không nói gì với tôi cả, không nói một lời nào cả."

    Khuôn mặt nhà vua dịu đi giống khuôn mặt Vua Haggard khi chăm chú ngắm kỳ lân dưới biển. Lúc đó ông như trở lại thuở còn là chàng hoàng tử ưa ngồi dưới bếp với Molly. Ông nhắc lại, "Nàng nhìn tôi. Trong mộng nàng chỉ nhìn tôi mà không nói."

    Vua đã thúc ngựa phóng đi quên lời chào tạm biệt. Hai người còn lại nhìn theo mãi cho tới khi bóng vua khuất sau đồi. Sau cùng Molly thốt, "Tội nghiệp vua Lir!"

    "Sự việc tiến hành như vậy là được lắm," Schmendrick đáp. "Càng là bậc đại anh hùng càng gặp nhiều gian nan, sầu hận, nếu không một nửa sự nghiệp sẽ bị chìm trong quên lãng. Tất cả đều là thành phần của truyện cổ tích đấy." Giọng ảo thuật gia đượm chút ngỡ ngàng, chàng quàng nhẹ cánh tay lên vai Molly, tiếp, "Kẻ đã yêu kỳ lân chẳng thể gặp đều bất hạnh, trái lại đó là niềm hạnh phúc thân yêu nhứt đời, tuy rằng cũng phải trả giá bao cực nhọc mới được hưởng nó.

    Ngay sau đó Schmendrick dùng đến những ngón tay đẩy khẽ Molly và hỏi, "Nào xin bạn kể lại cho tôi hay lân đã nói với bạn những gì nào?" Nhưng Molly chỉ lắc đầu cười ngặt nghẽo cho đến khi mái tóc nàng xổ tung ra xõa xuống. Trong Molly lúc đó còn đẹp hơn nàng Amalthea nữa. Ảo thuật gia nói, "Được lắm, nếu bạn không nói, để khi nào gặp lại lân, tôi sẽ hỏi vậy." Và chàng quay lại huýt sáo gọi ngựa.

    Molly vẫn không thốt thêm lời nào khi ảo thuật gia thắng yên ngựa cho mình, nhưng khi chàng thắng ngựa cho Molly thì nàng đặt tay lên vai chàng hỏi, "Bạn có thật nghĩ rằng chúng ta có cơ gặp lại lân? Còn một điều tôi quên chưa nói."

    Schmendrick ngoái nhìn Molly qua vai. Ánh sáng ban mai làm đôi mắt chàng vui như cỏ dậy màu xanh, nhưng khi chàng dừng lại dưới bóng ngựa thì đôi mắt chuyển sang màu xanh thẫm đượm chút lo âu. Chàng nói, "Chính tôi sợ điều đó cho lân. Có thể cô bạn của chúng ta giờ đây cũng thành lang thang như chúng ta. Đi lang thang như thế là định mệnh của thế nhân, không thể là định mệnh của kỳ lân được. Nhưng tôi hy vọng, lẽ cố nhiên tôi hy vọng." Kế đó chàng nắm lấy tay nàng, tiếp, "Tuy nhiên, vì bạn và tôi, chúng ta đã cùng chọn một ngả đường trong muôn ngàn ngả đường cùng đưa về một đích, thì cũng có thể đó là ngả đường của một kỳ lân đã theo. Có thể chẳng bao giờ chúng ta gặp lại nàng nữa, nhưng chúng ta vẫn luôn luôn nhớ và biết nàng đã từng ở đâu. Xin theo tôi, chúng ta cùng lên đường."

    Thế là hai người khởi sự một hành trình mới đưa tới định mệnh lạ lùng và kỳ diệu của họ. Nhưng đó là chuyện về sau, vì trước hết, khi hai người vừa ra khỏi vương quốc Lir chừng mười phút thì gặp ngay một thiếu nữ đương hớt hơ hớt hải tiến tới bằng chân không. Áo nàng rách tơi tả và lấm bê bết, nhưng những nét thêu thùa, cầu kỳ, cao quý còn thấy rõ. Mặc dầu tóc nàng xõa xuống rối bời, tay bị xước, mặt bị vấy bẩn nhưng trong nàng người ta cũng biết ngay đó là một công chúa đương lâm nạn. Schmendrick vội xuống ngựa ân cần đón nàng. Cả hai tay nàng víu chặt lấy ảo thuật gia.

    "Cứu tôi với," nàng nói lớn. "Xin hãy ra tay tế độ cứu tôi với. Tôi là Công chúa Alison Jocelyn, con gái Vua Giles một đấng anh quân. Vua cha tôi vừa bị người em khát máu là Quận công Wulf ám sát một cách hèn hạ để thoán đoạt ngôi trời. Y còn bắt giam ba em tôi là các hoàng tử Corin, Colin và Calvin làm con tin, đòi tôi phải ưng thuận kết hôn với con trai y là tên Dudley bị thịt, nhưng tôi đã hối lộ được tên lính canh."

    Nghe tới đó, Schmendrick giơ một tay lên, và nàng công chúa im bặt, nhìn chàng kinh ngạc bằng đôi mắt đẹp như hoa tử-đinh-hương. Ảo thuật gia trịnh trọng nói "Hỡi nàng công chúa yêu kiều, vị anh hùng dũng cảm, chuyên ra tay tế độ phò nguy vừa đi theo ngả này," Ảo thuật gia chỉ cho nàng công chúa thấy con đường hai người ra khỏi. "Xin công chúa lấy ngựa của tôi mà đi gấp ngay cho." Ảo thuật gia khum khum hai bàn tay để nâng công chúa lên yên, nàng công chúa bơ phờ mệt nhọc, khi ngồi trên yên rồi vẻ mặt còn ngẩn ngơ, bỡ ngỡ. Schmendrick cho quay ngựa, và nói tiếp, "Công chúa đi ngay cho, sẽ bắt kịp vị anh hùng đó dễ dàng, vì chàng còn đủng đỉnh trên lưng ngựa. Đó là một vị anh hùng tuấn vĩ, thừa sức san bằng bất kỳ trở lực tà nguy nào để cứu nhân độ thế. Rồi đây tôi sẽ gửi tất cả những nàng công chúa tới chàng. Tên chàng là Lir." Đoạn chàng vỗ mạnh lên mông con ngựa cho nó cất vó chạy theo con đường vua Lir vừa dời khuất; rồi chàng cất tiếng cười, cười sặc sụa, cười ngặt nghẽo, đến nối chân tay chàng bủn rủn không leo nổi lên mình ngựa để ngồi đằng sau Molly. Một lúc sau khi đã lấy lại được hơi thở bình thường rồi, chàng mới cất tiếng hát, nàng cũng hát đối đáp lại. Và đây là bài ca hai người đã hát đối đáp suốt một quãng đường, họ vừa ra khổi một truyện cổ tích để đi vào một truyện cổ tíc khác của chính họ:

    Không là chúa chẳng là vua

    Không là lính trận mà ra chiến trường

    Chỉ là nhạc sĩ lang thang

    Yêu đàn nay lại yêu nàng là hai

    Không ưa chúa chẳng ưa vua

    Không ưa lính trận chỉ ưa tiếng đàn

    Lấy chàng nghe hát tình tang

    Còn hơn chung đỉnh giàu sang bất nghì

    Nàng ơi, thú thật tình si

    Yêu nàng, nói dối, biết gì đàn đâu

    Chàng ơi, em biết từ lâu

    Lấy em em dạy, đàn sau ngại gì.




    hết

Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-24-2019, 01:45 AM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-09-2019, 02:28 AM
  3. Cuối cùng chúng ta cũng biết vì sao con người ta lại yêu nhau
    By sophienguyen in forum Tình Dục - Giới tính
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-25-2017, 01:32 AM
  4. Con Sấu Cuối Cùng
    By giahamdzui in forum Truyện Ngắn Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 07-19-2017, 09:59 PM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 07-17-2017, 02:00 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •