Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Hạnh phúc giống như tiếng vang, chỉ nghe được tiếng trả lời mà không bao giờ thấy đến.
Carmen Sylva
Trang 2 / 5 ĐầuĐầu 1234 ... Cuối Cuối
Results 11 to 20 of 44

Chủ Đề: Bạch Nhật Quỷ Hồn

  1. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Nhất Bất Thông cười mát:
    - Lão phu với Bạch Y Hầu là chỗ thâm giao, lẽ nào lại không đến? Có chút lễ mọn xin nhận cho!
    Lâm quản gia xua tay:
    - Xin đa tạ hảo ý! Nhưng tiếc rằng Hầu gia đã ra nghiêm lệnh, không nhận bất cứ lễ vật gì. Người cố tránh việc cạnh tranh, lấy lòng của quan lại địa phương.
    Hận Thiên nghe nói vạy, lòng thầm cảm phục khí tiết của Bạch Y Hầu.
    Chu Minh thì cười ha hả:
    - Lão phu biết tính Mộ Dung Thiên, chỉ mang cho có lệ mà thôi. Không nhận thì lão phu đem về vậy.
    Lâm quản gia đưa hai người đến một bàn gần sảnh. Lát nữa, bàn tiệc của lão Hầu Gia và phu thê Mộ Dung Thiên sẽ đặt ngay trên thềm đại sảnh. Từ vị trí này, bọn Hận Thiên quan sát rất thuận lợi.
    Giờ Ngọ qua hai khắc, quan khách đã đông đủ, và chủ nhân cũng xuất hiện. Đi trước là lão Hầu Gia Mộ Dung Cẩn, tuổi đã bát tuần mà vẫn còn tráng kiện, sắc diện hồng hào, mắt sáng như sao. Theo sau lão hầu gia là phu thê Mộ Dung Thiên và một chàng trai tuổi đôi chín, gương mặt khá giống Bạch Y Hầu.
    Hận Thiên chăm chú nhìn kỹ hai dung mạo kia, quay sang nói nhỏ với Chu Minh:
    - Chu đại thúc! Mặt của Mộ Dung Thiên rất giống bức họa chân dung của gia phụ. Và nữ nhân kia cũng không khác gì gia mẫu. Xem ra đại thúc đã có lý.
    Chu Minh nheo mắt đáp:
    - Công tử cứ bình tâm, lát nữa sẽ biết đựơc thực hư thôi.
    Lúc này toàn trường im lặng vì lão hầu gia đã mở lời. Lão tươi cười nói sang sảng:
    - Kính cáo chư vị, mười tám năm trước túc nữ và nội tôn của lão phu bị kẻ gian bắt cóc. Khuyển tử Mộ Dung Thiên khổ công truy tìm, cuối cùng đã đưa được thê tử về đây. Lão phu vô cùng hoan hỉ và đã cho tổ chức bữa tiệc mọn này để ăn mừng. Lão phu xin cảm tạ chư vị thân hữu đã đến uống chén rượu nhạt để chung vui. Xin cứ tùy tiện đừng khách sáo.
    Mọi người vỗ tay, đua nhau đứng lên nói lời chúc tụng. Rượu và thức ăn mau chóng được dọn ra. Lão hầu gia nâng chén mời cử tọa.
    Trên bàn chủ vị, chỉ có lão Hầu gia và gi đình Bạch Y Hầu.
    Nhất Bất Thông đứng lên cười khanh khách hỏi:
    - Xin Bạch y Hầu cho biết kẻ nào đã cả gan bắt cóc Hầu Tước phu nhân và tiểu hầu gia vậy?
    Bạch y Hầu thuở nhỏ có lên chùa Thiếu Lâm học quyền cước, vì gia học của Mộ Dung chỉ có nội công và kiếm pháp. Do đó, khi Mộ Dung Thiên thành danh, liền được võ lâm phong làm Trung Nhạc đại kỳ nhân, dù núi Tung Sơn cách Lạc Dương đến hơn trăm dặm.
    Nhưng Bạch Y Hầu lúc nào cũng nhớ mình là đệ tử tục gia của Thiếu Lâm Tự, nên đã gởi thiệp mời phái Thiếu Lâm đến dự. Tất nhiên là Thiện Hội Thiền Sư, cùng ba vị cao tăng thủ tòa, hoan hỉ có mặt. Giờ đây, nghe Chu Minh hỏi vậy, Thiện Võ đại sư thủ tòa La Hán Đường liền phụ hoạ:
    - Đúng vậy! Bần tăng cũng đang thắc mắc về việc ấy.
    Bạch Y Hầu đứng lên vui vẻ đáp:
    - Hai mươi mốt năm trước, tại hạ giết gã cường đạo Lý Đại Hổ ở ngoại thành Trường An. Việc ấy võ lâm đểu đã biết. Chính vì vậy Ngọc Diện Bà Bà đã lén bắt thê tử của tại hạ về giam ở núi Tần Lĩnh. Nhưng Bà Bà còn chút nhân tính nên đã không sát hại và hành hạ họ, mà còn giúp chuyết thê nuôi dạy khuyển tử Hãn Thanh. Tháng trước, tại hạ được cao nhân chỉ giáo nên đã đến sơn cốc trong dãy Tần Lĩnh cứu được thê tử. Tiếc rằng Ngọc Diện Bà Bà đã nhanh chân đào tẩu, tại hạ thấy vợ con vẫn thang kiện nên chẳng nỡ truy sát, sự việc là như thế.
    Mọi người nghe xong, ồ lên khen ngợi Bạch Y Hầu là người nhân đức.
    Nhất Bất Thông mừng rỡ, ghé tai Hận Thiên thì thầm:
    - Lão này ló đuôi chồn rồi, may mà lão phu từng gặp qua Lý Đại Hổ biết rõ gã mồ côi cha mẹ từ nhỏ, chẳng có liên quan gì đến Ngọc Diện Bà Bà.
    Nói xong, Nhất Bất Thông đứng lên cười khanh khách:
    - Ai bảo với Hầu gia rằng Lý Đại Hổ là con của Ngọc Diện Bà Bà Tiền Lan? Gã mồ côi song thân từ năm mười tuổi, cô dì chú bác cũng chẳng có người nào.
    Nhất Bất Thông Chu Minh nổi tiếng thông thiên triệt địa, lời nói nặng như núi, khiến mọi người không thể không tin.
    Bạch Y Hầu tái mặt gượng cười:
    - Việc này do chuyết thê kể lại, chứ thực ra tại hạ cũng không hề biết.
    Nam Cung Nhược Thủy nghiêm giọng:
    - Chính Ngọc Diện Bà Bà đã nói thế và trong sơn cốc còn có cả bàn thờ Lý Đại Hổ. Đấy là bằng cớ xác thực hơn lời nói suông của các hạ.
    Lão Hầu gia Mộ Dung Cẩn đã nhiều lần đàm đạo với Nhất Bất Thông, mến lão như con cháu, nên mở lời quở trách:
    - Chu Minh. Sao trong ngày vui của bổn phủ, ngươi lại nói năng vu vơ như vậy?
    Nhất Bất Thông chính sắc nói:
    - Mong lão Hầu Gia bình tâm để vãn bối làm sáng tỏ việc này. Nếu không sự nghiệp họ Mộ Dung sẽ lọt vào tay người ngoài đấy.
    Mộ Dung Cẩn biết rõ tài trí và bản chất của Nhất Bất Thông liền sinh lòng cảnh giác. Lão giả đò nổi giận, hầm hầm đứng lên, vừa đi vừa chỉ mặt Chu Minh mà mắng:
    - Thật uổng công lão phu đã yêu mến mi. Sao dám đặt điểu để phá rối đại yến?
    Lão Hầu Gia rảo bước, cứ như sắp đánh cho Nhất Bất Thông một trận, chỉ chốc lát đã đến sát bàn họ Chu. Nhưng lão lại không làm như vậy, mà chỉ bảo:
    - Lão phu đứng đây giám sát, nếu ngươi không làm rõ ngọn ngành, đừng trách lão phu nóng tính.
    Chu Minh giơ ngón cái khen:
    - Lão bá tuy già mà rất thông minh, quyết đoán. Nếu người còn ở trên ấy, tính mạng khó bảo toàn.
    Bạch Y Hầu lạnh lùng bảo:
    - Chu Minh! Lão định bày trò gì đây?
    Nhất Bất Thông không thèm đáp, chỉ Hận Thiên và nói với lão Hầu gia:
    - Lão bá thử nhìn chàng trai trẻ này xem có phải dòng dõi Mộ Dung hay không?
    Mộ Dung Cẩn giật mình chăm chú nhìn Hận Thiên. Dung mạo và cốt cánh tôn quí như rồng phụng của chàng khiến lão linh cảm rằng đây mới xứng là cháu nội của mình.
    Lão hỏi lại Chu Minh:
    - Té ra Chu hiền điệt cho rằng hai mẹ con đang đứng bên cạnh Thiên nhi là giả hay sao? Nhưng là vợ chồng sao có thể nhận lầm được?
    Chu Minh cười mát:
    - Có thể Mộ Dung Thiên kia cũng là kẻ giả mạo. Lão bá cứ an tọa, xem qua những kỷ vật rồi sẽ rõ trắng đen.
    Mộ Dung Cẩn ngồi xuống cạnh Hận Thiên. Chàng liền mở hộp lễ vật, cho lão Hầu Gia xem những viên bảo ngọc và nữ trang mà thân mẫu để lại.
    Tất nhiên, lão đã nhận ra ngay vì đó là những thứ mà Hầu tước lão phu nhân đã ban cho con dâu.
    Nhưng là bậc lão thành thì thận trọng, Mộ Dung Cẩn nghiêm sắc mặt bảo Chu Minh:
    - Vật thì đã đúng nhưng ngươi phải chứng minh cho rõ. Lão phu cho phép ngươi tra hỏi Thiên nhi và vợ con hắn.
    Lão Hầu gia đứng lên, vòng tay dõng dạc nói:
    - Kính cáo chư vị! Nhất Bất Thông Chu Minh có đem đến một số bằng chứng để khẳng định rằng thê tử của Mộ Dung Thiên là kẻ giả mạo. Lão phu vì tông môn họ Mộ Dung nên đã cho phép họ Chu chứng minh sự thực. Chư vị cứ bình tâm ăn uống, chờ xem kết quả.
    Mọi người xôn xao bàn tán, không ngờ bữa tiệc hôm nay lại có nhiều trò éo le như vậy. Bạch Y Hầu biến sắc nói:
    - Chẳng lẽ phụ thân không tin vào nhận xét của hài nhi?
    Mộ Dung Cẩn cười nhạt:
    - Vàng thật không sợ lửa, ngươi cứ đứng yên đó và trả lời những câu hỏi của họ Chu.
    Nhất Bất Thông cao giọng:
    - Trước tiên, lão phu sẽ xác định thân phận của Bạch Y Hầu, rồi sẽ đến hai người còn lại. Hiểu con không ai bằng cha, xin mời lão Hầu Gia kiểm tra Mộ Dung Thiên.
    Mộ Dung Cẩn trầm giọng:
    - Thiên nhi hãy đọc đoạn đầu khẩu quyết của chiêu cuối cùng trong pho Mộ Dung kiếm pháp.
    Bạch Y Hầu mỉm cười đọc ngay. Lão Hầu Gia ngửa cổ cười dài, tiếng cười chất chứa lòng phẫn hận vô biên. Mộ Dung Cẩn quát vang:
    - Gia nhân đâu! Vây chặt ba đứa ấy lại!
    Bạch Y Hầu tái mặt biện bạch:
    - Phụ thân sao vậy? Hài nhi đã đọc đúng từng chữ của chiêu Kiếm Tỏa Vân Thiên rồi mà?
    Lão Hầu Gia cười khẩy:
    - Võ lâm vẫn tưởng rằng Mộ Dung kiếm pháp chỉ có ba mươi sáu chiêu nhưng thực ra, còn một chiêu thứ ba mươi bảy, chỉ truyền cho trưởng tử, người sẽ được tập tước Hầu. Bọn ngươi bắt được Thiên nhi, học được kiếm pháp của họ Mộ Dung, nhưng lại bị y giấu đi chiêu cuối cùng.
    Chợt lão gầm lên:
    - Con trai ta đâu?
    Biết âm mưu đã bại lộ, giả Bạch Y Hầu cười khanh khách:
    - Mộ Dung Thiên giỏi lắm, trúng tà pháp mà vẫn lừa được bọn ta. Nhưng nếu lão Hầu Gia muốn y toàn mạng thì hãy đem tấm tàng trân đồ ra trao đổi.
    Toàn trường chấn động, các cao thủ võ lâm vội đứng lên, quyết không để bọn tà ma đào thoát.
    Nhưng thực ra, khi Bạch Y Hầu còn nằm trong tay phe đối phương, chẳng ai dám giết ba kẻ giả mạo kia cả.
    Lão Hầu Gia biến sắc:
    - Vì sao bọn ngươi biết họ Mộ Dung có tàng trân đồ mà bày ra độc kế này?
    Giả Bạch Y Hầu chỉ cười mát. Nhất Bất Thông gằn giọng:
    - Ngươi tưởng là giấu được vai trò nội gián của Lãng Đãng Hồng Nhan Chúc Tây Sương hay sao?
    Mũi tên đã bắn trúng đích, gã gian tặc kia chấn động, ai cũng thấy rõ.
    Lão Hầu Gia căm hận rít lên:
    - Té ra là con tiện nhân ấy.
    Hận Thiên thì hiếu kỳ nhìn nữ nhân kia mãi. Thứ nhất đó chính là dung mạo của thân mẫu chàng, thứ hai, chàng thắc mắc không hiểu hóa trang cách nào mà giống đến như vậy. Hận Thiên lại nhìn gã Mộ Dung Hãn Thanh giả.
    Hình như gã đang sợ hãi nên bối rối gãi tai hoài.
    Bàn tay gã vô tình đưa trúng vào giọt nắng chiếu xuyên qua cành lá. Da tay gã trắng muốt và hiện rõ một sợi lông màu đỏ hung.
    Hình ảnh này khiến Hận Thiên xao xuyến, nhưng không sao nhớ ra được điều liên quan.
    Lúc này, gã Bạch Y Hầu giả mạo đang bực bội hỏi:
    - Lão Hầu Gia có ưng thuận điều kiện trao đổi ấy không? Xin cho tại hạ biết ý kiến.
    Gương mặt hồng hào của Mộ Dung Cẩn giờ đây trắng bệch. Lão nhìn lên tàn cây, suy nghĩ đắn đo.
    Phương trượng Thiếu Lâm tự hắng giọng:
    - A Di Đà Phật. Nay đối phương đã nắm được sinh mệnh Bạch Y Hầu, theo thiển ý của lão nạp thì lão Hầu Gia nên chấp nhận điều kiện ấy. Mạng người quan trọng hơn cuả cải.
    Mộ Dung Cẩn quay lại, thở dài:
    - Thiền sư và chư vị đâu biết rằng tấm họa đồ kia quan hệ rất lớn đến vận mệnh Trung Nguyên. Nếu lọt vào tay kẻ ác thì võ lâm sẽ tanh máu, và không chừng giang sơn còn đổi chủ nữa.
    Cử toa. chấn động đồng thanh nói:
    - Mong lão Hầu Gia giải thích cho rõ hơn.
    Mộ Dung Cẩn rầu rĩ kể:
    - Rất xa ngoài khơi Đông Hải có một đảo rộng ước ngàn dặm vuông. Đấy là nơi tụ hội của linh khí đất trời, vàng ngọc rải đầy mặt đất, kỳ hoa dị thảo tốt tươi. Khi gia tổ phụ lạc đến nơi ấy thì dân trên đảo chỉ độ ngàn người. Họ rất chất phác, dễ sai khiến bởi những vật dụng đẹp mắt như gấm lụa, nữ trang, chén đĩa bằng sứ. Không hiểu thực phẩm nơi ấy có đặc tính gì mà toàn thân họ mọc một lớp vẩy rất bền chắc, đao kiếm không xâm phạm nổi. Về võ nghệ, dường như tổ tiên của họ là một đại cao thủ Trung Nguyên lưu lạc, nên đao pháp và khinh công của dân trên đảo rất cao cường, mỗi người đều có bản lĩnh ngang với một cao thủ nhất lưu ở Trung thổ. Do cuộc sống bán khai, họ rất hiếu sát khi uống rượu. Với tình trạng ấy, chỉ cần một kẻ có dã tâm đến được Bồng Lai Đảo, thu gom vàng ngọc, và đưa đám người man rợ kia vào Trung thổ, thử hỏi còn ai khống chế nổi nữa.
    Mọi người ồ lên lo lắng, nhưng cũng có kẻ rất muốn đến được chống thần tiên ấy, vàng bao giờ cũng hấp dẫn.
    Lão Hầu Gia bỗng cao giọng:
    - Chính vì lẽ ấy, lão phu thà hy sinh ái tử, chứ không bao giờ giao tấm họa đồ kia. Hơn nữa, lão phu đã đem đến Bắc Kinh, gởi vào quốc khố, muốn lấy ra cũng chẳng dễ dàng.
    Mấy trăm quan khách sững người trước quyết định của Lão Hầu Gia. Lão đã vì võ lâm, vì giang sơn mà hy sinh con trai, còn ai dám nói gì nữa?
    Mộ Dung Cẩn trợn mắt:
    - Giết ba kẻ ấy cho ta!
    Lão ra lệnh giết chứ không bắt sống, tức là đã kiên quyết bỏ núm ruột của mình.
    Đám gia nhân Hầu Phủ đều là con cháu họ Mộ Dung được chân truyền kiếm pháp nên bản lĩnh rất cao cường. họ đông đến gần trăm nên ba người kia khó mà toàn mạng.
    Nhưng Hận Thiên lại đứng lên, ngăn lại:
    - Khoan đã!
    Bọn gia đinh ngơ ngác dừng tay nhìn chủ nhân. Lão Hầu Gia gật đầu, ý bảo họ nên chờ đợi. Rồi ông hỏi Hận Thiên:
    - Thanh nhi có ý gì muốn nói?
    Như vậy là lão Hầu Gia đã công nhận Hận Thiên là cháu nội của mình.
    Chàng nghe lòng dâng lên niềm hạnh phúc khi tìm lại được người thân. Hận Thiên cung kính đáp:
    - Bẩm nội tổ! Xin người cho phép tiểu tôn toàn quyền định việc sống chết của ba tên gian tặc.
    Lão Hầu Gia cười bi thiết:
    - Đựơc! Lão phu chấp thuận! Dầu tha hay giết bọn chúng thì cha ngươi cũng phải chết.
    Quần hào nghe rõ cuộc đối thoại, biết chàng trai xinh đẹp kia là đứa con thất lạc của Bạch Y Hầu, liền nhốn nháo nhón chân để nhìn.
    Mộ Dung Cẩn sang sảng nói:
    - Kính cáo chư vị! Chàng thiếu niên này mới đích thực là Mộ Dung Hãn Thanh, hậu duệ của lão phu.
    Mọi người cùng nói:
    - Cung hỉ lão Hầu Gia.
    Hận Thiên chờ họ im tiếng, rời bàn bước đến thềm sảnh, chỉ mặt gã thiếu niên kia và bảo:
    - Ngươi đã dám giả mạo ta để xâm nhập Hầu Phủ, xem ra cũng lớn mật.
    Ta thương người còn đang tuổi hoa niên, nên vẽ ra cho ngươi một con đường sống. Nếu ngươi qua được mười chiêu, ta sẽ xin với lão Hầu Gia, tha cho cả ba người.
    Toàn trường thắc mắc, cho rằng vị tiểu Hầu Gia này muốn khoe tài.
    Con sâu con kiến còn ham sống, huống hồ gì một người trẻ tuổi. Vì vậy, gã thiếu niên mừng rỡ chấp thuận ngay:
    - Quân tử nhứt ngôn. Mong ngươi nhớ giữ lời.
    Vòng vây lập tức dãn ra, để gã đi qua, đến khoảng sân đã được Nhất Bất Thông bảo mọi người dọn dẹp bàn ghế. Sắc diện của cặp gian tế trên thềm sáng lên đôi chút.
    Họ cũng sợ chết nên rất hy vọng gã thiếu niên kia thắng cuộc, và họ tin vào bản lãnh của gã.
    Chàng Mộ Dung Hãn Thanh giả kia ấp úng hỏi mượn một thanh trường kiếm. Cả ba kẻ gian này không ngờ âm mưu lại sớm bị bại lộ như vậy nên chẳng ai mang theo vũ khí. Hơn nữa, đây là tiệc mừng, họ là chủ nhà, đeo kiếm sao tiện.
    Hận Thiên bảo một gã gia đinh nhà Mộ Dung:
    - Phiền các hạ cho y mượn kiếm.
    Người này vui vẻ nói:
    - Xin tiểu Hầu Gia đừng xưng hô như vậy. Thuộc hạ chỉ ở vai cháu mà thôi.
    Mộ Dung Cẩn là tộc trưởng, tuổi đã tám mươi nên chắt chít đều lớn tuổi hơn Hận Thiên.
    Gã gia đinh nói xong, trao kiếm của mình cho gã thiếu niên. Hận Thiên mỉm cười thân ái với đối thủ:
    - Tên ngươi là gì?

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Gã rất hy vọng Hận Thiên thương tình mà nương tay, nên lẹ miệng đáp ngay:
    - Ta là Tăng Thiếu Hoa.
    Hận Thiên gật gù nói nhỏ:
    - Ngươi thấy ở Lạc Dương này có vui hơn Vạn Hoa Cung hay không?
    Thiếu Hoa gật đầu:
    - Đương nhiên chốn phồn hoa phải vui hơn chốn núi rừng. Ýa! Sao công tử lại biết nhà ta ở vạn Hoa Cung?
    Hận Thiên cười xòa, vung chưởng tấn công. Ngay chiêu đầu chàng đã dùng tuyệt học Kim Sa Ấn, tám đạo chưởng kình vàng nhạt liên tiếp vỗ vào lưới kiếm, chặn đứng chiêu thức của đối phương. Hận Thiên ập đến, thò tả hữu chụp lấy cổ tay cầm kiếm, và hữu thủ búng liền ba đạo chỉ phong vào các huyệt Bộ Lang, Đại Bao, Chương Môn của họ Tăng. Chàng trai tội nghiệp kia đứng trơ như phỗng, nhìn Hận Thiên bằng cặp mắt kinh hoàng.
    Hận Thiên tước kiếm trên tay đối thủ cười bảo:
    - Ta mời ngươi ở lại Lạc Dương chơi ít ngày, chờ phụ thân ngươi là Hồng Phát Ma Quân đến nhận về.
    Quần hùng ồ lên sửng sốt, không ngờ Hận Thiên lại mau chóng tìm ra lai lịch kẻ thù.
    Lão Hầu Gia gật gù, tỏ ý hài lòng trước tài trí của cháu đích tôn. Chàng thiếu niên này xem ra còn xuất chúng hơn cả cha là Mộ Dung Thiên.
    Lúc này Tăng Thiếu Hoa buồn bã nói:
    - Phụ thân ta là người tàn nhẫn, chưa chắc đã chịu đem Bạch Y Hầu đến chuộc ta ra. Người thà hy sinh con chứ không chịu bỏ tấm họa đồ quỉ quái kia.
    Hận Thiên bỗng sinh lòng thương hại gã thiếu niên bất hạnh, dù gã là con của gã đại cừu. Được sự giáo huấn của bậc kỳ nhân là Bất Biệt Cư Sĩ, nên lòng chàng rất quang minh, thác lạc, không giận cá chém thớt bao giờ cả.
    Hận Thiên dịu giọng:
    - Ta sẽ không giam cầm ngươi mà chỉ tạm thời phong tỏa võ công và hứa sẽ đối xử tốt.
    Thiếu Hoa mừng rỡ, nhìn chàng cảm kích, Hận Thiên ra sau lưng gã, điểm nhanh một số huyệt đạo. Thiếu Hoa cử động lại bình thường, nhưng chân khí ngưng trệ nơi đan điền, không luân chuyển được nữa.
    Lão Mộ Dung Thiên giả cười nhạt:
    - Nay ngươi đã bắt được thiếu Cung chủ làm con tin thì hãy thả hai chúng ta về bẩm báo lại.
    Hận Thiên không đáp, bước đến chỉ mặt nữ nhân:
    - Bà xuống đây cho ta xem thử gương mặt kia là thực hay giả. Nếu là thực ta sẽ vì vong hồn mẫu thân mà tha mạng cho.
    Nữ nhân thoáng mừng, chạy xuống ngay. Vòng tay nói:
    - Tiện nhân vốn là một tỳ nữ trong Vạn Hoa Cung, vì có dung mạo giống với lệnh đường nên được chọn để đóng vai này. Đây là mặt thực, chẳng hề giả trá chút nào cả.
    Hận Thiên nghiêm giọng:
    - Ta sẽ hỏi bà một câu, phải thành thực trả lời. Dẫu kết quả thế nào, ta cũng cho bà về Vạn Hoa Cung.
    - Xin công tử cứ hỏi!
    Hận Thiên chậm rãi nói:
    - Bà hãy cho ta biết Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên còn sống hay đã chết?
    Đôi mắt chàng sáng rực như nhìn thấu lòng người khiến nữ nhân kia sợ hãi cúi đầu đáp:
    - Hầu Gia đã tự sát cách nay nửa năm rồi.
    Cử tọa rú lên đau đớn và lão Hầu Gia gầm vang như mãnh hổ thọ thương:
    - Thiên nhi!
    Hận Thiên bùi ngùi nói:
    - Ta cũng đoán ra điều ấy. Bạch Y Hầu còn đủ tỉnh táo để giấu khẩu quyết của chiêu Kiếm Tỏa Phong Vân, tất sẽ đủ sức tự sát.
    Nữ nhân ấp úng:
    - Mong tiểu Hầu Gia giữ lời cho!
    Hận Thiên gật đầu:
    - Bà yên tâm trở về Vạn Hoa Cung bảo Tăng lão quỉ mang xác Bạch Y Hầu đến chuộc Tăng Thiếu Hoa về. ã! Còn lão đứng kia thân phận thế nào?
    Nữ nhân muốn thoát cho mau nên chẳng giấu:
    - Ông ấy là mã Vịnh, Lục Hộ Pháp Vạn Hoa Cung.
    Họ Mã tức giận mắng:
    - Tiểu Quân! Sao ngươi dám đem việc của bổn cung tiết lộ ra?
    Hận Thiên cười nhạt quát:
    - Giết lão cho ta!
    Bọn gia đinh nhà Mộ Dung lao vào như hổ đói. Mã Vịnh tay không dù võ công cao cường cũng chỉ chống đỡ được nửa khắc là bỏ mạng. Đám hán tử vừa bằm xác họ Mã vừa khóc thương Bạch Y Hầu.
    Tiếng khóc của họ lan ra khắp Hầu phủ.
    Lão Hầu Gia ngửa cổ cười thống thiết:
    - Lão phu thề sẽ làm cỏ Vạn Hoa Cung.
    Hận Thiên điềm đạm bảo Tiểu Quân:
    - Bà đi đi!
    Tiểu Quân cảm động hạ giọng thì thầm:
    - Thiếu Hoa chỉ là đứa cháu mồ côi, được Cung chủ nhận làm con nuôi. Y không có tội tình gì, mong tiểu Hầu Gia rộng lượng với y.
    Hận Thiên giật mình dặn lại:
    - Bà đừng cho Ma Quân biết mình đã tiết lộ chuyện này.
    Tiểu Quân gật đầu, quay gót rời khỏi Hầu phủ. Bà ta đi khỏi quan khách nhao nhao hiến kế:
    - Sao lão Hầu Gia không cho người bám theo để biết địa điềm của Vạn Hoa Cung?
    Mộ Dung Cẩn nghe có lý, nhìn Hận Thiên dọ hỏi. Lão khâm phục cháu nội mình sát đất nên tin rằng Hận Thiên đã có chủ ý.
    Nhất Bất Thông vòng tay đáp thay:
    - Bẩm lão bá! Vạn Hoa Cung thực hiện âm mưu vĩ đại này, tất phải cho người bám sát bên ngoài đề phòng Mã Vịnh làm phản, chiếm họa đồ làm của riêng. Nếu chúng ta theo dõi Tiểu Quân, bà sẽ bị bọn kia sát hại để bịt đầu mối, chúng ta cứ chờ nhận lại thi hài Bạch Y Hầu rồi sẽ tính chuyện báo thù.
    Hận Thiên gật đầu tán thành:
    - Nội tổ! Hài nhi cho rằng Chu đại thúc liệu việc rất chính xác.
    Chàng bước đến kề tai Mộ Dung Cẩn nói nhỏ vài câu, lão Hầu Gia hài lòng gật đầu.
    Hận Thiên nắm tay Tăng Thiếu Hoa đưa về bàn. Chàng ân cần bảo:
    - Ngươi chưa được miếng nào, chắc đói lắm phải không?
    Gã ngượng ngùng gật đầu. Hận Thiên ân cần gắp thức ăn và thúc giục Thiếu Hoa động đũa:
    - Ún đi! Đừng rụt rè như con gái vậy.
    Quan khách lần lượt đến chia buồn với lão Hầu Gia rồi cáo biệt. Tin Bạch Y Hầu chết thảm trong Vạn Hoa Cung đã khiến họ chẳng mặt mũi nào mà ở lại ăn uống nữa. Phương trượng Thiếu Lâm tự Thiện Hội thiền sư bùi ngùi nói:
    - Bạch Y Hầu là đệ tử Thiếu Lâm. Bổn tự xin tận lực chờ lão Hầu Gia sai khiến.
    Mộ Dung Cẩn nói vài lời khách sáo rồi tiễn khách ra cửa.
    Hầu phủ đóng cửa im lìm suốt hai ngày, nhưng chẳng ai biết rằng các gia nhân nhà Mộ Dung đang âm thầm rời phủ, đi về hướng Tây. Họ giả làm khách thương hồ hoặc thường dân đang tất tả về quê ăn tết. Mục tiêu của họ là rặng Mẫu Sơn ở phía Bắc Tứ Xuyên.
    Dĩ nhiên sau đó cả lão Hầu Gia, Nhất Bất Thông Chu Minh và Hận Thiên cũng đi theo. Họ khởi hành sau tỳ nữ Tiểu Quân hai ngày, nên chắc chắn bọn Vạn Hoa Cung không thể ngờ được. Hận Thiên đã không để lộ ra việc mình đã biết tọa lạc của Vạn Hoa Cung.
    Khi nghe Tiểu Quân nói Tăng Thiếu Hoa chỉ là con mồi, Hận Thiên đã bàn với lão Hầu Gia và Chu Minh tiến hành cuộc tập kích thần tốc này. Hồng Phát Ma Quân sẽ không dại gì cho người mang xác Bạch Y Hầu đến Lạc Dương để đổi lấy đứa con hờ. Vì như thế sẽ mang tội sát hại vương công triều đình, dễ bị quan quân Tứ Xuyên vây bắt. Bọn đệ tử được cử đi chắc gì đã chịu được đòn tra tấn của nha môn, tất sẽ khai ra địa điểm Mẫu Sơn.
    Nhất Bất Thông đã cực lực tán thưởng kế hoạch này, và bảo Hận Thiên cố thuyết phục Tăng Thiếu Hoa hỗ trợ. Gã biết rõ đường đi nước bước trong Vạn Hoa Cung, nên việc đột kích sẽ dễ dàng hơn.
    Tăng Thiếu Hoa rất mến Hận Thiên và chán ghét người cha nuôi độc ác nên đã nhận lời. Gã chỉ bắt chàng hứa tha mạng cho Tăng phu nhân và những nữ tỳ vô tội trong Vạn Hoa Cung. Hận Thiên đã nhận lời.
    Giữa tháng chạp, đoàn quân của Hầu phủ tiến vào rặng Mẫu Sơn. Theo sau là ngàn quân bản hộ của Tứ Xuyên. Họ đi cách ba dặm để không bị nghi ngờ.
    Do có sự chỉ điểm của Tăng Thiếu Hoa nên các trạm cảnh giới từ xa của Vạn Hoa Cung đều bị tiêu diệt gọn. Hơn trăm cao thủ nhà Mộ Dung áp sát cửa sơn cốc mà bên trong không hề hay biết.
    Vạn Hoa Cung đang tất bật chuẩn bị sửa sang, dọn dẹp để đón năm mới.
    Khắp sơn cốc muôn hoa khoe sắc, khí hậu thật ấm áp khác thường.
    Khi họ nhận ra nguy cơ thì đã quá muộn, sơn cốc tràn ngập những kiếm thủ mặc áo choàng lông trắng muốt, chém giết không nương tay. Lại thêm quân triều đình ập vào, trống lệnh vang trời khiến lòng người khiếp đảm.
    Bọn đệ tử Vạn Hoa Cung dù rất kiên dũng nhưng lại không vũ khí nên bị giết rất nhanh. Hơn nửa số quì xuống xin hàng, nhất là bọn nữ nhân yếu đuối.
    Bọn Hận Thiên xông vào tòa đại sảnh ở cuối sơn cốc để tìm Hồng Phát Ma Quân thì gặp lão chạy ra.
    Màu tóc đỏ hung trên đầu lão khiến lửa thù trong lòng Hận thiên bốc lên cao ngùn ngụt. Chàng trợn mắt gầm vang:
    - Tăng lão quỉ, hãy đền mạnh song thân ta.
    Dứt lời, chàng vung kiếm xuất chiêu Tùng Phong Trạch Liễu, lao đến như ánh chớp. Hồng Phát Ma Quân nhếch mép cười ngạo nghễ, vung kiếm đón chiêu. Công lực lão thâm hậu khôn lường, chiêu thức lại quỉ dị vô song, nên đã chận đứng được đường kiếm của đối phương. Hận Thiên nghe tay tê chồn, tự lượng sức lực không bằng, đành cố bình tâm giao đấu. Chàng liên tiếp tung ra những chiêu kiếm ảo diệu, chờ cơ hội. Sở học của Bất Biệt Cư Sĩ bao la như biển nên pho Nhất Nguyên Kiếm Pháp tinh kỳ, bác tạp khôn lường. Tên chiêu thức chỉ đặt ra để dạy Hận Thiên cho dễ chứ hoàn toàn không quan trọng. Khi chàng đạt đến mức tùy tâm nhi phát thì biến hóa ra cả ngàn chiêu.
    Hận Thiên thông minh tuyệt thế lại có thiên bẩm võ học rất cao, nhờ vậy đã tiếp thu trọn vẹn pho Nhất Nguyên Tâm Kiếm. Nhưng chàng còn trẻ nên kém phần khí lực, đấy là việc đương nhiên. Hồng Phát Ma Quân cũng là một kiếm sĩ nên rất hiếu kỳ trước pho kiếm pháp vô thượng, đánh cầm chừng để tìm hiểu lộ số, Nhưng vốn liếng của Hận Thiên dường như vô hạn. Chẳng chiêu nào giống chiêu nào, khiến lão hoang mang thất vọng.
    Ma Quân tấn mạnh một chiêu sấm sét, đẩy lùi đối thủ rồi gằn giọng:
    - Tiểu oa nhi! Bổn Cung chủ sẽ hóa kiếp ngươi, để sớm được đoàn tụ với song thân.
    Dứt lời, lão vung kếim hóa thành muôn ngàn kiếm ảnh, chụp lấy Hận Thiên. Lão Hầu Gia kinh hãi xông đến tấn công vào mé tả để cứu cháu nội.
    Mộ Dung kiếm pháp đã bị Ma Quân học hỏi, chỉ còn có chiêu thứ ba mươi bảy. Vì vậy Mộ Dung Cẩn dùng ngay chiêu kiếm ấy để tập kích.
    Hồng Phát Ma Quân trợn mắt cử tả thủ, vỗ ra một đạo chưởng kình xanh nhạt, hùng mạnh tuyệt luân, chặn đứng đường kiếm của đối phương. Lão Hầu Gia quen cảnh an nhàn, chỉ luyện võ để dưỡng sinh nên công lực thụt lùi chứ không tăng theo tuổi tác.
    Dẫu sao hành động của Mộ Dung Cẩn cũng tạo cơ hội cho Hận Thiên.
    Chàng ôm kiếm lao vút vào kiếm ảnh, xuất chiêu Tử Sinh Bất Diệt. Đây là chiêu đổi mạng, gác ngoài việc sống chết của bản thân, chỉ có công mà không thủ, do vậy, khí thế cực kỳ mãnh liệt.
    Mũi kiếm của Hận Thiên xuyên qua kiếm ảnh, đâm thủng ngực phải đối phương nhưng bản thân cũng trúng ba kiếm vào ngực và đùi. Ma Quân đau đớn rên rỉ, tung mình đào tẩu vào đại sảnh. Hận Thiên nén đau, xạ theo một mũi Sách Hồn Tiễn, cắm ngập vào lưng kẻ thù. Đòn tấn công bất ngờ này đã thành công mĩ mãn. Chất kỳ độc của Vũ Di phái nhanh chóng lan vào tâm mạch khiến chân khí Ma Quân bế tắc, chỉ chạy thêm được vài trượng là ngã quị. Hận Thiên khập khiễng bước đến, nghiến răng:
    - Tăng Dương! Ngươi hãm hại song thân ta phải chia lìa, rồi chết thảm nơi rừng núi. Thiên mỗ sẽ phân thây ngươi ra!
    Chàng nhớ đến tử trạng của mẫu thân nên nhát kiếm đầu tiên đâm vào hạ thể đối phương. Tăng Dương đau đớn rú lên thảm khốc, như bị heo chọc tiết, máu hồng phun thành vòi.
    Nhưng nhát thứ hai lại chặt phăng thủ cấp, giúp lão sớm lìa đời chứ không tiếp tục hành hạ nữa. Lòng nhân hậu của chàng đã thắng được lửa hận thù man rợ.
    Dù sức chịu đựng hơn hẳn người thường, nhờ luyện công phu Thiên Ma Bách Luyện. Hận Thiên cũng lảo đảo vì mất máu.
    Lão Hầu Gia kinh hãi chạy đến đỡ cháu nội:
    - Thanh nhi có sao không?
    Lão đặt chàng xuống mặt cỏ, rạch nát y phục để xem thương tích. Lão ngạc nhiên khi thấy miệng vết thương không mở rộng mà khép lại như thể da thịt Hận Thiên có tính đàn hồi.
    Cuộc chiến trong cốc cũng đã kết thúc, Nhất Bất Thông và các môn nhân nhà Mộ Dung chạy đến vây quanh.
    Họ Chu quì xuống, rắc thuốc Kim Sang rồi băng bó cho Hận Thiên. Lão còn cho chàng uống năm viên linh đan rất thơm tho. Xong xuôi, Chu Minh xoa tay hỉ hả:
    - Lão bá yên tâm! Tiểu Hầu Gia luyện môn ngoại công đặc dị của Vũ Di phái từ năm sáu tuổi nên cơ thể khác với thường nhân, chỉ mấy ngày sau là lành lặn như xưa.
    Hận Thiên đã tỉnh lại, mỉm cười hỏi thăm:
    - Chu đại thúc! Chẳng hay có tìm được Lãng Đãng Hồng Nhan Chúc Tây Sương hay không?
    Chu Minh nhăn mặt:
    - Mụ tiện nhân ấy không có mặt ở đây. Tăng phu nhân khai rằng hình như Chúc Tây Sương đi Hà Bắc đã hơn tháng nay. Bà còn nói thêm rằng sau lưng Hồng Phát Ma Quân còn có một nhân vật chủ nữa nhưng không rõ là ai!
    Lão Hầu Gia ra lệnh rút quân, dặn thêm viên lãnh binh Tứ Xuyên áp giải hàng binh về đại lao, và không được đụng đến bọn nữ nhân trong Vạn Hoa Cung.
    Họ về đến Lạc Dương đúng ngày mùng tám Tết, không vui xuân mà tổ chức tang lễ cho Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên.
    Lần này thì hào kiệt bốn phương lũ lượt kếo đến, trước là dự tang lễ, sau để biết mặt tiểu Hầu Gia Mộ Dung Hãn Thanh, người đã giết chết Hồng Phát Ma Quân và phá tan Vạn Hoa Cung.

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 5

    Lâu Thượng Ngộ Oan Gia
    Lộ Bán Phùng Thiết Địch

    Cuối tháng giêng, Hãn Thanh tức Hận Thiên để lại một phong thư tạ lỗi với lão Hầu gia, rồi âm thầm lên đường đi Trực Cô. Chàng tin rằng Hải Hà Tiên Tử mới là kẻ thù đích thực. Hơn nữa Lăng Đăng Hồng Nhan Chúc Tây Sương cũng là người đáng phải đền tội.
    Theo lời kể của Tăng phu nhân Cung chủ phu nhân Vạn Hoa Cung thì năm xưa, Chúc Tây Sương nhân lúc tiệc thôi nôi vừa tàn, bỏ xuân dược vào trà, cho Bạch Y Hầu uống, rồi gầy cuộc ái ân trong thư phòng. Mụ biết chắc Phùng Lệ Phi không thấy trượng phu đâu sẽ đi tìm. Quả nhiên, độc kế thành công, Mông Diện La Sát đến nơi chứng kiến cảnh tượng phượng đảo loan điên, nổi giận bỏ đi.
    Bạch Y Hầu ngủ đến sáng mới tỉnh giấc, không nhớ gì chuyện đêm qua, tưởng thê tử bị bắt cóc nên đi tìm, và sa vào tay Vạn Hoa Cung. Lần này cũng chính bàn tay Chúc Tây Sương hạ thủ bằng mê dược.
    Nhắc lại, lão Hầu gia thấy cháu đích tôn đi mất, lòng vô cùng lo lắng, cho gọi Nhất Bất Thông Chu Minh đến. Họ Chu gãi đầu suy nghĩ rồi nói:
    - Lão bá! Vãn bối cho rằng Tiểu Hầu Gia đã đi Hà Bắc để tìm Lãng Đãng Hồng Nhan. Chúng ta cứ cho người kiểm tra các cửa thành sẽ rõ.
    Đám môn nhân nhà Mộ Dung lập tức được lệnh bủa ra điều tra. Quả thực Tiểu Hầu Gia đã ra bằng cửa Đông thành, đi về hướng Trịnh Châu.
    Mộ Dung Cẩn liền chọn ra năm mươi kiếm thủ hạng nhất, bắt Nhất Bất Thông đưa họ đi theo để hỗ trợ cháu cưng của mình.
    Để khích lệ lòng người, lão Hầu gia thưởng trước cho mỗi môn nhân ngàn lượng bạc, ai cũng hoan hỉ, thề sẽ xả thân vì Tiểu Hầu Gia (Tác giả xin nói sơ qua về lai lịch của giòng họ Mộ Dung. Cái tên Mộ Dung nghe đẹp đẽ và êm tai nhưng lại không phải là người Hán chính gốc Cửu Châu. Họ chính là một chi phái của rợ Tiên Ty, xuất xứ từ vùng núi Tiên Ty ở Nội Mông. Đầu thời Đông Hán, chi phái Mộ Dungcòn gọi là Thổ Cốc hồn từ miền tây Liêu Minh ngày nay, di chuyển sang phía tây, đến vùng ém Sơn, Nội Mông. Kế đó lại dời đến giữa vùng Cam Túc, Thanh Hải. Trải qua hơn ba trăm năm, sau khi bị Thổ Phồn tiêu diệt, phần lớn người Mộ Dung lưu tán khắp nơi và bị đồng hóa thành người Hán) Do vậy, khi cao tổ của lão Hầu gia Mộ Dung Cẩn dựng được sự nghiệp thì có rất nhiều người đồng tộc đến nương tựa. Đám môn nhân này là cháu chắt của những người ấy nên hết dạ trung thành với lão Hầu Gia. Người Tiên Ty mang cả một phần huyết thống hung nô, tính tình cương trực, dũng cảm, không biết sợ chết là gì. Ngoài kiếm pháp, họ còn giỏi cả thuật kỵ mã và xạ tiễn.
    Nhất Bất Thông cũng lo lắng cho Hãn Thanh, liền đốc thúc đám kiếm thủ Mộ Dung phi nước đại. Nhưng cước trình của quái mã rất nhanh nên họ khó mà bắt kịp được.
    Trở lại với Hãn Thanh, quả thực là đang đi đến Trịnh Châu, rồi từ đấy ngược lên hướng Bắc.
    Kể từ nay mong độc giả làm quen với cái tên mới của Hận Thiên. Thực ra, chính bản thân chàng trai cũng lạ lẫm với bốn chữ Mộ Dung Hãn Thanh.
    Chàng đã mang tên Nam Cung Hận Thiên suốt mười tám năm ròng, giờ phải thay tên đổi họ, lòng thoáng bâng khuâng, tưởng như đánh mất một vật gì thân thiết.
    Hãn Thanh có nghĩa đen là mồ hôi của tre xanh, nghĩa bóng là sử sách.
    Người xưa chép sử vào thẻ tre nên trong bài thơ Qua Sông Linh Đinh, Văn Thiên Từơng thời Nam Tống đã có hai câu thơ:
    Nhân Sinh tự cổ Thùy Vô Tử Kưu thủ đan tâm chiếu Hãn Thanh!
    Dịch thơ:
    Người đời sau trứơc ai không chết.
    Cốt để lòng son rạng sử xanh.
    Lão hầu gia Mộ Dung Cẩn đặt cho cháu nội đích tôn cái tên Hãn Thanh, ý mong mỏi chàng sẽ khiến danh tiếng họ Mộ Dung lưu danh sử sách.
    "Chim có tổ, người có tông" Hận Thiên đành phải trở lại là Hãn Thanh.
    Là đồng thời phải chấp nhận thân phận Tiểu Hầu Gia.
    Nhưng do chịu ảnh hưởng của Bất Biệt Cư Sĩ, Hãn Thanh xem danh lợi như phù vân, vẫn áo vải thô, tóc búi suông, chẳng có kim khôi tượng trưng cho chức tước. Trưa hôm sau, Hãn Thanh đến Trịnh Châu. Chàng đủ thời gian vượt Hoàng Hà vào buổi chiều nên ghé vào phạn điếm dùng cơm. Lần đầu xuất đạo, Hãn Thanh chỉ dựa vào kinh nghiệm của mẫu thân mà phiêu bạt.
    Chàng tìm kiếm Túy Tiên Lâu, vì ngày xưa Mông Diện La Sát đã từng ghé qua.
    Phùng Nương là người sánh ăn, thích thưởng thức những món ngon vật lạ các nơi. Đến đâu bà cũng chọn những món đặc biệt của địa phương ấy. Vô tình Hãn Thanh lại trở thành người lịch duyệt.
    Chàng gọi vài món và một bầu rượu nhỏ. Sau khi giết được Hồng Phát Ma Quân, trả thù cho thân mẫu, lòng Hãn Thanh thư thái hơn trước. Mười mấy năm xem Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên là cừu nhân, đột nhiên phải gọi là cha, làm sao chàng có cảm tình ngay với lão được? Nhưng phận làm con, chàng phải tìm cho được Lãng Đãng Hồng Nhan và Hải Hà Tiên Tử.
    Đoạn hạ du sông Hoàng Hà được xem như thuộc miền Hoa Bắc. Tuy khí hậu ở đất Trịnh Châu này có ấm hơn Sơn Tây một chút, nhưng vào thời điểm đầu tháng hai, tuyết vẫn còn rơi lất phất từng hạt nhỏ như hoa ngâu. Mặt trời xuân chỉ nhạt nhòa. Dù đã gần đúng Ngọ.
    Trịnh Châu nằm trên đường trục chính Bắc Nam, nên lượng người ngựa qua lại rất đông. Dần dần, Túy Tiên Lâu chật ních người, và có khá nhiều khách võ lâm. Một số nhận ra Tiểu Hầu Gia nhà Mộ Dung, kính cẩn chào hỏi.
    Hãn Thanh gượng cười đáp lễ. Thấy mặt chàng buồn rười rượi, họ không dám đến ngồi chung bàn.
    Giang hồ cũng có qui củ, bề bậc riêng của nó. Chẳng phải ai cũng có thể mạo muội ngồi ngang hàng của hậu duệ Bạch Y Hầu.
    Tiếng yến oanh ríu rít trên những tàng cây trong vườn quanh tửu lầu càng khiến Hãn Thanh nhớ Tiểu Thuần vô hạn. Chàng miên man tưởng nhớ, vô tình nâng chén liên tục, uống hết hai cân rượu phần thượng hạng mà không hay biết. Men rượu thấm vào huyết quản, cơ thể lâng lâng và nỗi sầu trong dạ cũng bốc cao. Hãn Thanh ngà say, buột miệng ngâm nho nhỏ:
    Chi Thượng Lưu oanh Hoà Lệ Văn.
    Tân Đề ngân gián Cựu đề ngân.
    Nhất Xuân ngư nhạn vô tiêu tức, Thiên lý quan san đáo mộng hồn.
    Vô nhất ngữ. Đối phương tôn.
    An trường đoạn đáo hoàng hôn.
    Phủ năng chích đắc đăng nhi liễn.
    Vũ đã lê hoa thấm bế môn.
    (Dịch thơ):
    Nghe tiếng oanh ca lệ nhỏ ròng Lệ nay dồn với lệ xưa đông Một xuân chim cá không tin tức Nghìn dăm chiêm bao mong gặp hồn Ngồi lặng lẽ, nhấp chén nồng Nỗi sầu phơi trải đến hoàng hôn Vừa lúc chong đèn cửa cài kín Hoa lê tầm tã trận mưa thôn.
    Đây là một bài từ theo điệu Già Cô Thiên của Hoàng Hải Tiên Sinh Tần Quán thời Bắc Tống. Năm năm học nghệ với Bất Biệt Cư Sĩ, Hãn Thanh đã quen với thi phú, thường củng ân sư ngâm vịnh. Cao Hán Ngọc không muốn đồ đệ cưng của mình chỉ là một kẻ võ biền thô lỗ nên đã khuyến khích chàng tìm hiểu thi thơ, từ phú. Hãn Thanh ngâm rất khẽ, nào ngờ lại có người nghe được mà tán thưởng:
    - Không ngờ hậu duệ của Mộ Dung Thiên lại là một bậc tao nhân mặc khách.
    Giọng nói của người ấy vang như sấm rền khiến ai cũng phải giật bắn mình. Hãn Thanh quay về hướng ấy, phát hiện một lão nhân râu tóc bạc phơ mặc đạo bào trắng thêu hình Thái Cực thân hình nhỏ bé. Mặt lão đỏ rực như gà chọi, mắt lộ, mũi lân, môi mỏng.
    Đám hào khách trong quán xì xầm:
    - Tây Nhạc lão quái Hàn Thế Đức.
    Lúc này, lão đạo sĩ đã đến bên bàn Hãn Thanh, đứng nhìn chàng gật gù, tỏ vẻ hài lòng:
    - Cốt cách, dung mạo thế này bảo sao con tiểu nha đầu Hồng Hương không ốm nặng vì tương tư?
    Hãn Thanh thủ lễ, đứng lên vòng tay:
    - Vãn bối xin bái kiến Chân nhân!
    (Núi Hoa Sơn vốn là cứ địa của một chi phái Toàn Chân, do Lục Tử Hách Đại Thông sáng lập, còn Tây Nhạc lão quái lại là đệ tử của chi Phi Long Môn chủ Khưu Xứ Cơ. Khi phái Long Môn mai một thì Hoa Sơn vẫn trường tồn. Vì vậy, Hàn Thế Đức đến tu luyện một trong năm đỉnh núi của rặng Hoa Sơng, nổi danh Tây Nhạc lão quái. Thực ra lão có hiệu là Động Thiên Chân Nhân).
    Hàn lão quái nghiêm giọng:
    - Mộ Dung tiểu tử! Đồ đệ yêu của bần đạo, Hà Hồng Hương, là một giai nhân sắc nước hương trời, bộ ngươi đui mù hay sao mà không chịu lấy? Mau theo ta về Tinh Châu để bàn bạc việc cưới hỏi!
    Thực khách xôn xao việc Viên Nguyệt Hằng Nga Hà Hồng Hương lại nặng tình với Tiểu Hầu Gia, mà bị chàng chê bỏ.
    Hãn Thanh nghe giọng điệu ngang ngược, bức người của lão quái, uất ức đáp:
    - Tại hạ cũng biết Hà tiểu thư là nữ nhân hiếm có, nhưng lòng này chẳng hề có tình cảm với nàng, sao có thể khiêm cưỡng được? Chẳng lẽ chân nhân muốn bức hôn?
    Tây Nhạc lão quái cười hô hố:
    - Bần đạo là người chỉ biết làm theo ý mình, bất chấp lòng dạ người khác.
    Ngươi khôn hồn thì mau mau tuân lệnh.
    Hãn Thanh thắc mắc:
    - Nếu tại hạ không đi thì sao?
    Hàn lão quái cười nhạt:
    - Tiểu tử tưởng giết được Hồng Phát Ma Quân là có thể lên mặt với ta hay sao? Chẳng qua, ngươi đắc thủ cũng nhờ sự hỗ trợ của lão Hầu Gia, và thủ đoạn ám toán mà thôi.
    Hãn Thanh giật mình suy nghĩ, không hiểu vì sao lão đạo sĩ này lại biết rõ nội tình cuộc chiến hôm ấy? Bọn môn nhân nhà Mộ Dung tuyệt đối chẳng bao giờ tiết lộ ra ngoài.
    Đám hào khách võ lâm ồ lên, hàm ý chê bai Tiểu Hầu Gia thiếu quang minh chính đại.
    Hãn Thanh nhớ đến lời kể của nghĩa phụ Nam Nhạc Nhất tà, hiểu rằng sự việc này có liên quan đến Hải Hà Tiên Tử. Chàng điềm nhiên đáp:
    - Tiên mẫu là Mông Diện La Sát, nổi tiếng võ lâm về thủ pháp Sách Hồn Phi Tiễn. Tại hạ là con, dùng chính vũ khí ấy mà báo thù, xin hỏi sai ở chỗ nào?
    Thực khách nghe có lý, gật gù tán thưởng. Trong võ lâm có khá nhiều người thành danh bằng công phu ám khí. Khi giao đấu với họ, đối phương phải đề phòng, không thể gọi là ám toán được.
    Tây Nhạc lão quái cứng họng, gầm lên:
    - Đừng xảo ngôn! Ta chẳng xem mấy mũi Sách Hồn Tiễn kia ra gì cả!
    Mông Diện La Sát là cái thá gì.
    Nghe lão khinh miệt thân mẫu của mình, sát khí phủ mờ gương mặt tuấn tú, Hãn Thanh gằn giọng:
    - Lão cứ bước ra ngoài sân, ta sẽ cho nếm mùi Sách Hồn Tiễn.
    Hàn lão quái cười hăng hắc:
    - Tốt lắm! Bần đạo mà không bắt sống được ngươi thì không đáng là Ngũ Nhạc Đại Kỳ Nhân.
    Hãn Thanh mỉa mai:
    - Một kẻ núp váy đàn bà như lão có tư cách gì mà nhận danh hiệu Đại Kỳ Nhân?
    Hàn Thế Đức biến sắc:
    - Sao ngươi dám nói vậy?
    Hãn Thanh cười rộ:
    - Tại hạ còn biết người đàn bà kia là Hải Hà Tiên Tử Mai Thanh Phố, lão chối cãi được chăng?
    Hàn lão quái giận dữ hỏi:
    - Ai đã tiết lộ việc này?
    Hãn Thanh nghĩ đến an nguy của nghĩa phụ liền đáp khéo:
    - Đồ đệ của Bất Biệt Cư Sĩ chẳng lẽ lại không biết chuyện cỏn con này?
    Tây Nhạc lão quái chấn động:
    - Té ra Cao Hán Ngọc còn sống sao?
    Hãn Thanh nghiêm giọng:
    - Lão hãy về bẩm báo với Hải Hà Tiên Tử rằng gia sư đã tiên đoán việc mụ ta tái xuất. Lần này người sẽ chặt nốt cánh tay còn lại của mụ.
    Đám hào khách hân hoan, không ngờ lại nghe được một bí mật động trời. Họ bắt đầu nhìn Tây Nhạc lão quái bằng con mắt khác.
    Hàn Chân Nhân hổ thẹn đến run người, gầm lên:
    - Ngươi đã nói quá nhiều nên không còn đường sống nữa.
    Dứt lời lão vung chưởng đánh liền. Cửu ém Thần Chưởng tuy phát ra nhẹ nhàng êm thấm nhưng lại độc ác phi thường. Hãn Thanh không đón chiêu, tung mình qua lan can. Rơi xuống sân gạch rộng rãi.
    Tây Nhạc lão quái lập tức lướt theo, từ trên cao giáng xuống tám đạo chưởng kình mãnh liệt. Hãn Thanh tự biết mình công lực thua kém, nên đảo bước tránh chiêu.
    Pho Cửu Cung Mê Bộ này chính là tuyệt học của Bất Biệt Cư Sĩ truyền cho Vũ Di Tiên Nương, nên cực kỳ ảo diệu, giúp chàng dễ dàng thoát khỏi phạm vi khống chế của chưởng kia.
    Chưởng phong đánh hụt mục tiêu vào mặt sân gạch, vang lên tiếng nổ kinh hồn, đập vỡ những viên gạch và ấn chúng lún xuống.
    Thực khách đã kéo cả ra lan can quan chiến, thấy uy lực của Cửu ém Thần Chưởng, thầm lo lắng cho Tiểu Hầu Gia.
    Hãn Thanh vẫn điềm nhiên nắm chặt chuôi kiếm, dựng đứng trước ngực, lướt theo phương vị của Cửu Cung, chờ cơ hội xuất thủ.
    Thanh trường kiếm trên tay chàng chính là bảo vật gia truyền của dòng họ Mộ Dung. Lão hộ pháp Vạn Hoa Cung đã đem về Hầu Phủ khi giả làm Bạch Y Hầu. Theo gia qui, thanh Hầu Tước Kiếm này đương nhiên thuộc về Tiểu Hầu Gia Mộ Dung Hãn Thanh.
    Chàng đã dùng nó để chiến đấu với Hồng Phát Ma Quân, và giờ đây mang theo bên mình. Sau lần đụng độ Phi Phủ trận của Phù Dung Hội, Hãn Thanh biết mình chưa đủ sức biến ngắn thành dài như sư phụ. Đối với Bất Biệt Cư Sĩ, trường đoản chẳng khác nhau.

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tây Nhạc lão quái xuất liền chín chiêu mà không đánh trúng đối phương, liền đổi đấu pháp, sử dụng hư chiêu nhiều hơn, để tiết kiệm khí lực.
    Cửu ém Thần Chưởng lợi hại ở chỗ chưởng kình phát ra êm ái, khi đến gần thì đối thủ mới hay biết.
    Nhưng Tây Nhạc lão quái quên mất rằng còn có những bông tuyết trong không gian chung quanh, giúp Hãn Thanh nhận ra hư thực. Chàng thấy lão vung chưởng mà màn mưa tuyết không xao động, liền rung kiếm lao vào như ánh chớp, dùng phép ngự kiếm xuất chiêu Sở Phách Nan Hồi ( Hồn nước Sở khó về ) Tây Nhạc lão quái biến sắc rút tay về vỗ liền sáu chưởng. Nhưng Hãn Thanh đã chiếm được tiên cơ, tranh thủ giây phút ngắn ngủi ấy mà nhập nội.
    Kiếm kình xé nát chưởng phong dũng mãnh ập đến, dù hư lực của Cửu ém Thần Chưởng đã khiến Hãn Thanh thọ thương. Công phu Thiên Ma Bách Luyện đã giúp chàng chịu đựng, vượt qua lưới chưởng, đâm thủng ngực đối phương.
    Hàn lão quái kinh hoàng đảo bộ lùi nhanh. Vì vậy, vết thương không sâu.
    Nhưng từ tay tả Hãn Thanh một mũi Sách Hồn Tiễn đã bay ra cắm vào đùi kẻ địch. Lão quái nghe vết thương tê dại, tung mình đào tẩu mất dạng.
    Khách quan chiến reo hò như sấm dậy, hoan hô Tiểu Hầu Gia. Chàng trai mười chín tuổi này đã đả thương một trong Ngũ Đại Kỳ Nhân rất oanh liệt.
    Hãn Thanh lau máu miệng, nuốt vội bốn viên linh đan, rồi ngồi xuống vận khí trị thương.
    Hành động rất mạo hiểm vì ngay lúc này, nếu có kẻ tấn công thì chàng khó có thoát chết. Nhưng hàn khí của Cửu ém Thần Chưởng đã sắp lan vào đến tâm mạch, Hãn Thanh không thể chần chừ. Nhất nguyên chân khí trị được mọi chưởng thương, nhưng không được quá trễ.
    Không may rằng quả thực có kẻ địch nhân dịp này mà lấy mạng Hãn Thanh. Từ ngoài tường vây có hai bóng người nhảy vào. Y phục của họ là thường dân nhưng thanh lưỡng nguyệt phủ trên tay đã tố cáo lai lịch Phù Dung Hội.
    Chì cần nhìn ánh mắt đầy sát khí và nụ cười hiểm độc trên môi họ, đám thực khách cũng đoán ra ý định của hai sát thủ kia, lòng thầm lo lắng cho Tiểu Hầu Gia. Nhưng gây hấn với Phù Dung Hội là việc chẳng phải ai cũng dám làm.
    Chỉ còn ba trượng nữa là tính mạng Hãn Thanh khó vãn hồi. Nào ngờ, trong tình thế chỉ mành treo chuông ấy, có người từ trên lan can lầu nhảy xuống, đứng cạnh Hãn Thanh, rút tiểu kiếm thủ thế.
    Đó là một hán tử có thân hình tầm thước, áo lông cừu đen, nón rộng vành sùm sụp che kín nửa trên gương mặt. Thanh kiếm trên tay gã dài hơn bình thường độ một gang, và bản cũng nhỏ hơn.
    Thanh danh của người võ lâm thường gắn liền với vũ khí. Vì vậy đám hào khách trên lầu ồ lên:
    - Thương Tâm Kiếm én Khiếu Hồ!
    Họ én là một tay độc hành đại đạo khét tiếng vùng Thiểm Bắc, tuổi gần bốn mươi, kiếm pháp cực kỳ độc ác, và cái tâm cũng tàn nhẫn vô song. Danh hiệu Thương Tâm Kiếm kia là do gã tự xưng trong những ngày xuất đạo không hiểu để ám chỉ cõi lòng tan nát của mình, hay hàm ý rằng kiếm của gã thường đâm thủng tim người khác?
    Có thể là cả hai nghĩa vì đôi mắt Thương Tâm Kiếm chỉ còn có một con, và chân gã bị thọt, bước thấp bước cao. Hai điểm tàn phế ấy cộng với sắc diện lạnh như băng, đã nói lên rằng lòng gã mang nặng mối oan cừu với ai đó.
    Giờ đây, từ dưới vành nón rộng, con mắt độc nhất của én Khiếu Hồ đang bắn ra những tia sát khí, nhìn bọn sát thủ Phù Dung.
    Hai gã này đã biết tiếng Thương Tâm Kiếm, sinh lòng ái ngại, dừng bước.
    Gã mé tả gằn giọng:
    - én Khiếu Hồ! Mong các hạ hãy suy nghĩ kỹ trước khi can thiệp vào việc riêng của Phù Dung Hội.
    Thương Tâm Kiếm cười nhạt:
    - Tại hạ cũng đang có chuyện muốn thanh toán với gã tiểu tử này, và là người đến trước. Nhị vị muốn gì cũng phải chờ tại hạ giải quyết xong việc của mình cái đã.
    Lời nói của họ én rất hợp lý, vì gã có mặt bên cạnh Hãn Thanh trước đối phương. Hai tên sát thủ nhìn nhau phân vân. Gã mé hữu lại nói:
    - Nếu én các hạ cũng có ý muốn giết tiểu tử này thì bổn hội xin nhường ra tay trước.
    Thương Tâm Kiếm thản nhiên đáp:
    - Xin cảm tạ! Tại hạ chờ y hành công sẽ ra tay cũng không muộn.
    Quần hào ồ lên, bàn tán xem họ én có oán thù gì với dòng họ Mộ Dung.
    Phải chăng gã từng bị Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên biến thành tàn tật?
    Hai gã Phù Dung bối rối:
    - Võ công của Mộ Dung tiểu tử cao siêu quán thế, đã thương cả Tay Nhạc lão quái. Nếu để y hồi phục thì ai mà giết nổi?
    Thương Tâm Kiếm gật gù:
    - Tại hạ không có thói quen đánh lén, đành phải chịu vậy. Người kiếm sĩ thà chết chứ không muối mặt dùng thủ đoạn hạ lưu.
    Thực khách vỗ tay tán thưởng nhân cách của họ én, ác cảm cũng giảm đi nhiều.
    Hai tên kia giận tím mặt, thì thầm bàn tán, và một gã rút còi sắt thổi mạnh. ém thanh cao vút kia bay đi rất xa, có lẽ là để gọi tiếp viện.
    Nửa khắc sau, có thêm mười tay búa nữa xuất hiện.Y phục của họ hỗn tạp, đủ mọi giới trong xã hội, thì ra họ đã cải dạng trà trộn vào dân thường mà hoạt động. Cán thanh Lưỡng Nguyệt Phủ gồm bốn đoạn ống đồng, có thể thu ngắn được để giấu kín trong áo. Nhất là thời tiết này, ai cũng khoác áo lông.
    Một trong hai gã Phù Dung Hội bước đến trước đắc ý nói:
    - én Khiếu Hồ! Giờ thì ngươi đã chịu lui ra chưa?
    Thương Tâm Kiếm dường như ngán sợ vì phe đối phương quá động. Gã thở dài, tra kiếm vào vỏ, hai tay chống nạnh, lạnh lùng nói:
    - Thôi được! Phù Dung Hội dùng số đông để thủ thắng, thì tại hạ cũng đành phải.
    én Khiếu Hồ vừa nói đến đây thì hai tay gã bất ngờ vung ra. Sáu mũi liễu điệp phi đao cắm vào ngực bọn Phù Dung Hội. Họ én ra tay đột ngột, trong lúc đối phương tưởng gã đã bỏ cuộc nên kết quả mới mỹ mãn như vậy. Hơn nữa, Lưỡng Nguyệt Phủ khá nặng nề, khó mà phản ứng cho nhanh được.
    Nửa quân số Phù Dung Hội bị loại khỏi vòng chiến, sáu gã còn lại gầm lên, vung búa tấn công. Thương Tâm Kiếm bình tĩnh múa kiếm che chở cho Hãn Thanh. Thanh kiếm của gã dài hơn Lưỡng Nguyệt Phủ nên rất có lợi thế.
    Tuy chân khập khiễng nhưng bộ pháp khinh công của họ én rất linh hoạt, gã xoay quanh Hãn Thanh như chong chóng, liên tiếp tung ra những đợt tập kích. Sau vài lần như vậy, bọn sát thủ Phù Dung Hội đổi chiến thuật, cho ba tên cầm chân Thương Tâm Kiếm, số còn lại tấn công Hãn Thanh. Lúc này Tiểu Hầu Gia vẫn còn trong trạng thái vô ngã, không hề biết việc gì đang xảy ra.
    én Khiếu Hồ phải vất vả lắm mới bảo toàn mạng sống cho Hãn Thanh.
    Gã liên tiếp phóng ra những ngọn phi đao, uy hiếp ba gã phía sau, không cho chúng đến gần.
    Nhưng rồi phi đao cũng hết, Thương Tâm Kiếm tuyệt vọng gầm vang như con thú bị thương, vung kiếm lao vào ba gã phía sau, cô chặng chúng lại.
    Chiêu kiếm này nhanh như chớp giật, khiến đối phương sợ hãi lùi ngay. én Khiếu Hồ tung mình trở lại,tấn công bọn bên kia.
    Lối đánh này rất hao tổn chân khí, chỉ vào lần như vậy là họ én kiệt lực, cước bộ không còn nhanh nhẹn nữa.
    Lúc này, sáu gã Phù Dung Hội mới vận toàn lực xông vào. Sáu lưỡi búa loang loáng đan lưới trùm kín cả Thương Tâm Kiếm lẫn Hãn Thanh.
    én Khiếu Hồ nghiến răng múa tít trường kiếm, quyết đổi mạng với đối phương rồi chết chung cùng người được mình bảo vệ.
    Thực khách kinh hãi rú lên, tưởng sắp phải chứng kiến cảnh hai người bị tan xương nát thịt.
    Nào ngờ, khi mũi kiếm của họ én vừa chạm vào lưỡi búa, phát ra những tiếng tinh tang, thì cả sáu tên bỗng khựng lại, ôm ngực rú lên thảm khốc, rồi ngã quị.
    Đám người trên lan can mừng rỡ reo hò vang dội, hết lời tán thưởng kiếm pháp siêu phàm của én Khiếu Hồ. Nhưng thấy Tiểu Hầu Gia Mộ Dung Hãn Thanh đứng lên, họ mới biết mình lầm.
    Hãn Thanh vòng tay nói với Thương Tâm Kiếm:
    - ¢n cứu mạng của én các hạ, Thanh tôi xin ghi lòng tạc dạ..
    Họ én không đáp, bước đến chỗ nhổ sáu mũi Sách Hồn Tiễn trên các tử thi, chăm chú xem xét rồi bước lại trao cho Hãn Thanh. Gã nghiêm giọng:
    - Hai mươi năm trước, tại hạ nhờ một mũi Sách Hồn Tiễn này mà thoát chết và giết được kẻ đại cừu. Nay cứu được công tử, xem như món nợ với Mông Diện La Sát đã sòng phẳng, xin cáo biệt.
    Hãn Thanh thấy thái độ lạnh nhạt của y, chẳng dám nói nhiều, chỉ cung kính tiễn đưa.
    Ngay chiều hôm ấy, Hãn Thanh sang đến bờ Bắc Hoàng Hà, đi thêm ba chục dặm mới dừng chân nơi lữ quán ven đường.
    Đêm ấy, chàng thao thức mãi, cuối cùng quyết định không đi Trực Cô nữa, mà sẽ trở lại núi Hằng Sơn. Sau trận đấu với Tây Nhạc lão quái Hàn Thế Đức, chàng tự hiểu rằng bản lĩnh của mình chưa đủ để tiêu diệt Hải Hà Tiên Tử Mai Thanh Phố. Trước đây, chàng rất tự hào, cho rằng mình đã tiếp thu hết sở học của ân sư, không hề sợ bất cứ ai. Chính vì vậy, chàng đã nói thác đi là được Cư Sĩ ban cho bửu bối để Nam Nhạc Nhất Tà yên tâm. Thực ra, Bất Biệt Cư Sĩ không hề tiên đoán được sự tái xuất của Mai Thanh Phố.
    Hãn Thanh là người thông đạt liền chấp nhận gác mối thù lại vài năm, chờ đủ sức mới báo phục. Vả lại, chàng rất nhớ Tiểu Thuần, hy vọng khi bầu bạn với thi hài, sẽ được gặp lại nàng.
    Sau khi đã có chủ ý, Hãn Thanh thư thái nhắm mắt ngủ say. Mờ sáng, chàng thức dậy, rời lữ điếm đi lên hướng Bắc. Đầu giờ Tỵ, Hãn Thanh đã đến ngã ba. Chàng rẽ trái đi Sơn Tây, quái mã phi nước đại, tốc độ nhanh như gió vì đường bằng phẳng và vắng vẻ.
    Giữa giờ Ngọ, Hãn Thanh đã đi được vài chục dặm. Vùng đất này tuy vẫn thuộc Hà Nam, nhưng lại là chân của Cao Nguyên Sơn Tây, địa hình bắt đầu lên cao, đường quan đạo xuyên qua cánh rừng già rậm rạp.
    Hãn Thanh cũng không muốn bị bọn Phù Dung Hội quấy rầy nên phóng ngựa rất nhanh để chúng không có thời gian bố trí mai phục.
    Nhưng đã là oan gia thì thường hay chạm mặt. Ngay bìa rừng bên mé tả là hai mươi gã sát thủ cầm Lưỡng Nguyệt Phủ. Chúng không chờ đợi Hãn Thanh mà đang vây đánh một lão già râu tóc hoa râm. Trên người lão nhân áo vàng kia cũng đã có mấy vết thương đẫm máu, và trên mặt cỏ quanh lão rải rác mấy xác người áo xanh, có lẽ là thủ hạ của Hoàng Y lão giả, vì bọn Phù Dung Hội đều mặc áo đen.
    Thanh tiêu sắt đen nhánh, dài như trường kiếm của lão già áo vàng kia rất lợi hại, ngang nhiên va chạm với búa thép, vang lên những tiếng ong ong ngân dài trong trẻo.
    Hãn Thanh và Phù Dung Hội đã ở vào hai thế thủy hỏa bất tương dung.
    Hơn nữa, dung mạo đoan chính của lão Hoàng Y kia chứng tỏ không phải là kẻ ác, đáng được giúp đỡ. Hãn Thanh liền tung mình rời yên ngựa, nhảy xổ vào hàng ngũ Phù Dung. Hai tay chàng rải liền tám mũi Sách Hồn Tiễn loại đủ tám tên ở vòng ngoài cùng. Đối với bọn ác độc này, Hãn Thanh chẳng hề khách sáo, câu nệ qui củ giang hồ.
    Đòn tập kích sau lưng kia được nối tiếp bằng chiêu Võng Tảo Thiên Ngư, kiếm kình mở rộng theo hướng nằm ngang, đâm thủng ngực thêm bốn tên nữa.
    Hãn Thanh muốn giữ kín hành tung nên quyết không tha mạng nào, xuất thủ vô cùng tàn nhẫn và mau lẹ.
    Chiêu thứ ba, chàng chặt phăng cánh búa, tiện đứt yết hầu hai sát thủ, và tay tả xạ liền một mũi Sách Hồn Tiển vào gã thứ ba.
    Bọn Phù Dung Hội chỉ còn có năm tên, bỏ Hoàng Y lão giả, xông vào tấn công kẻ mới đến. Chúng đau lòng trước cái chết của đồng đảng nên không còn biết sợ nữa.
    Hãn Thanh ôm kiếm lao vào hai gã mé hữu, xuất chiêu Tùng Phong Trạch Liễu. Mũi kiếm điểm nhanh vào lưỡi búa đẩy lệch đi và xuyên qua khe hở mà chặt phăng hai thủ cấp.
    Ba gã còn lại ập vào tấn công hậu tâm Hãn Thanh. Nào ngờ, thân hình chàng bốc lên cao như chiếc pháo thăng thiên, lộn người xuống mà hạ thủ.
    Thanh trường kiếm vun vút xé không gian, hoá thành muôn ngàn kiếm ảnh mịt mờ, như mưa đổ. Tầm sát thương của chiêu Lạc Vũ Bình Sa này khá rộng nên hai gã sát thủ bị tiện nửa hộp sọ. Gã cuối cùng quay lưng đào tẩu, nhưng không thoát được mũi Sách Hồn Tiễn từ tay đối phương.
    Hãn Thanh giết một hơi hơn hai chục mạng người, lòng cũng bất nhẫn thở dài thườn thượt, đi thu hồi lại những mũi Sách Hồn Tiễn phi tiễn.
    Lúc này Hoàng Y Lão Giả cũng đã tự băng bó xong. Lão bước đến vòng tay nói:
    - Lão phu là Thiết Địch Thần Y Bạch Nguyên Giáp, dám hỏi đại danh của thiếu hiệp?
    Mông Diện La Sát Phùng Lệ Phi là người đàn bà có tâm lý vô cùng phức tạp, cực đoan. Lúc hành tẩu giang hồ, có khi bà ta giết người như ngoé, có khi bà lại hào hiệp ra tay tương trợ đồng đạo.
    Tính cách mâu thuẫn cực đoan ấy đã khiến bà căm ghét trượng phu đến nỗi dạy con phải thù cha. Nhưng Hãn Thanh ngày mỗi lớn lên, trở thành người bà yêu quí nhất, khiến bà không còn giữ nguyên kế hoạch độc ác ban đầu, là để sau này cha con giết nhau.
    Mông Diện La Sát tận tâm giáo dưỡng con thơ, chờ ngày trưởng thành, đưa về Lạc Dương, vạch mặt người chồng phóng đãng. Dân tộc Cao Sơn chủ trương một vợ một chồng nên ngoại tình là một tội rất lớn.
    Chính vì vậy, Phùng Nương đã truyền cho Hãn Thanh những kinh nghiệm, kiến văn của mình. Giờ đây, nghe đối phương báo danh, chàng biết ngay lão là vị đại phu giỏi nhất võ lâm, Hãn Thanh vòng tay đáp:
    - Vãn bối là Mộ Dung Hãn Thanh, xin bái kiến Bạch lão bá!

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    - Té ra là Tiểu Hầu Gia! Lão phu nghe giang hồ tuyền tụng đã lâu, không ngờ nay lại đựơc công tử cứu mạng.
    Hãn Thanh hỏi lại:
    - Vì sao lão bá lại có hiềm khích với Phù Dung Hội?
    Họ Bạch thở dài đáp:
    - Làm gì có hiềm khích. Phù Dung Hội định bắt sống lão phu để tra hỏi một báu vật liên thành thôi.
    Hãn Thanh nghe vậy, không tiện thân cận với lão, vòng tay cáo từ:
    - Vãn bối có việc gấp phải đi ngay.
    Bạch Thần y mỉm cười:
    - Công tử không muốn nghe lão phu nói về bảo vật kia sao?
    Hãn Thanh chính sắc đáp:
    - Đó là bí mật của lão bá, vãn bối chẳng nên biết làm gì.
    Bạch lão lộ vẻ buồn rầu:
    - Chắc gì lão phu đã toàn mạng khi về đến nhà, chẳng thà tiết lộ cho công tử biết, nhanh chân đoạt lấy kỳ trân kia, trước khi lão phu phải nói ra vì không chịu nổi đòn tra khảo.
    Hãn Thanh khẳng khái nói:
    - Vậy vãn bối sẽ hộ tống lão bá hồi gia. Xin hỏi quí trang tọa lạc tại địa phương nào?
    Bạch lão mừng rỡ bảo:
    - Bách Thảo sơn trang của lão phu ở dưới chân núi Phúc Sơn, gần ranh giới tỉnh Hà Nam, Sơn Tây. Nếu công tử đã có lòng đưa Phật đến tận Tây Thiên thì trước hết xin hãy chôn dùm xác của sáu gã đệ tử, rồi chúng ta lên đường.
    Hãn Thanh vui vẻ làm theo ý Bạch Thần Y, tìm chỗ đất mềm đào nhanh một hố, bỏ cả sáu thử thi xuống vùi nông.
    Chàng còn mang cả hai mươi xác của bọn Phù Dung Hội quăng vào rừng để khỏi chấn động bách tính đi đường.
    Xong việc thì đã cuối giờ Mùi. Hãn Thanh nghe đói bụng liền gượng cười:
    - Bạch lão bá! CHúng ta nên tìm chỗ ăn uống rồi hãy đi.
    Bạch Thần Y móc lưng lấy ra một lọ sành, đưa cho chàng:
    - Trong này có mười viên Tịnh Cốc Toàn Sinh đan. Ngoài tác dụng trị thương thần diệu, còn giúp người ta nhịn đói mà vẫn khoẻ mạnh. Đoạn đường này rất vắng vẻ, phải đi hơn bốn mươi dặm mới có quán xá. Công tử cứ nuốt một viên sẽ no cả ngày.
    Hãn Thanh lấy ra một viên, đậy nắp định trả lại. Bạch Thần Y mỉm cười:
    - Công tử cứ giữ lấy, lão phu còn rất nhiều. Giang hồ là chốn hiểm nghèo, sau này lỡ có bị thương tích, công tử chỉ cần bóp nát ra đắp vào là sẽ rất mau lành.
    Hãn Thanh nói lời cảm tạ rồi mời họ Bạch cùng lên lưng quái mã. Ngựa của ông đã bị trúng tên chết sạch.
    Đà nhi là linh vật khoẻ phi thường. Dù cõng hai người vẫn chạy rất nhẹ nhàng. Thiết Địch Thần Y khen ngợi:
    - Con vật này được lai tạo giữa giống Huyết Hãn Thần Câu của nước Đại Uyển với loại Bạch Đà Mông Cổ, có được đặc tính ưu việt của cả loài ngựa và lạc đà.
    Hãn Thanh thầm phục lão là người uyên bác. Thần y chuyển sang kể chuyện của mình:
    - Hai mươi năm trước, lão phu chưa lập gia thất nên còn bôn tẩu giang hồ. Một hôm, đi ngang chân núi Cung Nam Sơn, gặp một lão nhân cổ quái bị độc xà cắn sắp chết, liền ra tay chữa trị. Sau khi thoát chết, ông ta bèn tặng cho lão phu một bức họa đồ đưa đến ém Dương Linh Cảnh, nơi mà trời đất giao hòa, sinh ra một loại kỳ trân hãn thế là Băng Hỏa Quả, ai ăn vào sẽ tăng tiến bốn mươi năm công lực.
    Hãn Thanh nhân lúc lão đổi hơi, hỏi lại:
    - Bạch lão bá! Vì sao người đến được chốn ấy trước tiên lại không hái linh quả, mà còn vẽ họa đồ để lại?
    Bạch Thần Y mỉm cười:
    - Báu vật của thiên địa đâu phải ai cũng lấy được. Linh Cảnh là nơi ém Dương tụ hội, có quỉ thần canh giữ, phải là người bổn mạng tôn quí mới qua được cửa. Trương Trọng Cảnh Đại Thần Y thời Đông Hán đến được ém Dương Linh Cảnh, nhìn thấy băng Hỏa Quả mà đành ôm hận quay về. Ông ta vẽ lại họa đồ, để lại cho con cháu, xem ai là người có phúc phận. Lão nhân cổ quái kia chính là hậu duệ của Trương thần y.
    Hãn Thanh đọc sách rất nhiều nên biết lai lịch của Trương Trọng Cảnh.
    Họ Trương là một danh y cuối thời Đông Hán, từng viết hai quyển Thương Hàn Luận và Kim Quỉ yến lược. Hai quyển y kinh kia đã trở thành báu vật trong nền y thuật Trung Hoa.
    Chàng cười mát bảo:
    - Nếu vậy thì vãn bối cũng đâu thể vào được Linh Cảnh!
    Bạch Nguyên Giáp lắc đầu:
    - Công tử mang thân phận Hầu Gia, khác hẳn thường nhân, có thể được quỉ thần nể mặt.
    Hãn Thanh nhớ đến Quỉ hồn của Tiểu Thuần, im lặng không tranh cãi nữa. Bạch Thần Y bèn tiết lộ địa điểm cùa ém Dương Linh Cảnh và cách đi vào. Bản thân họ Bạch đã từng đến đấy nhưng không sao qua được cửa ải cuối cùng. Hãn Thanh ghi nhớ trong lòng, rồi hỏi lại:
    - Việc lão bá biết đường đến linh địa rất bí mật, vì sao bọn Phù Dung Hội lại biết?
    Bạch Thần Y chua xót nói:
    - Công tử rất tinh minh. Bí mật này chỉ có lão phu và chuyết thê biết được thôi. Như vậy là chính nàng ta đã bán rẻ lão phu cho Phù Dung Hội. Lần này lão phu đi Trịnh Châu thăm bằng hữu cũng chỉ mình nàng ta rõ. Về đến Bách Thảo Sơn Trang, lão phu sẽ vạch mặt con tiện nhân ấy.
    Hãn Thanh trầm ngâm suy nghĩ rất lâu, lo lắng cho tính mạng của thần y. Chàng dọ hỏi:
    - Chẳng hay Bạch bá mẫu năm nay được bao nhiêu niên kỷ?
    Bạch Nguyên Giáp ngượng ngùng đáp:
    - Nàng ta mới ba mươi tám, thua lão phu đến hai mươi lăm tuổi.
    Hãn Thanh mỉm cười:
    - Phải chăng Bạch bá mẫu rất ít khi rời khỏi Bách Thảo Sơn Trang?
    Chàng hỏi như vậy vì đoán rằng họ Bạch già cả mà có vợ trẻ đẹp tất sẽ giữ rịt lấy.
    Bạch Thần Y thú nhận:
    - Quả thực là nàng ta chẳng hề đi đâu cả trừ những lúc có lão phu đồng hành.
    Hãn Thanh đủ hiểu rằng bà ta còn có một đồng đảng nữa trong trang.
    Chàng vui vẻ bảo:
    - Vãn bối muốn ở lại quí trang vài ngày để học hỏi thêm y thuật, liệu có được chăng?
    Bạch lão hoan hỉ đáp:
    - Công tử là ân nhân của lão phu, có ở cả đời cũng chẳng sao.
    Cổ nhân có câu "nhân vô thập toàn". Bạch Nguyên Giáp tuy rất giỏi về y đạo nhưng lại chẳng hề có chút tâm cơ đối nhân xử thế. Hãn Thanh sợ lão mất mạng trong tay những kẻ phản bội nên quyết đến Bách Thảo Sơn Trang điều tra cho rõ ngọn ngành.
    Chiều hôm sau, hai người về đến núi Phúc Sơn, Bách Thảo Sơn Trang nằm ngay chân núi hướng Đông. Có lẽ Thiết Địch Thần Y rất giàu nên bức tường vây quanh sơn trang cao đến hai trượng, và được xây bằng đá núi rất kiên cố. Nhà cửa trong ấy cũng đều dùng đá làm vật liệu chính, chỉ có tòa đại lâu hai tầng ở giữa là bằng gỗ.
    Vừa về đến cổng, Bạch Thần Y đã hỏi hai gã gia đinh gác cửa:
    - Phu nhân có trong nhà không?
    Một gã cười đáp:
    - Bẩm trang chủ có ạ!
    Dường như Bạch lão không có ý định làm to chuyện, nên chẳng nói gì, đi thẳng vào mộc lâu. Hãn Thanh giao quái mã cho bọn gia đinh rồi cũng đi theo chủ nhân.
    Tầng dưới của tòa mộc lâu chính là khách sảnh. Một người độ tuổi năm mươi, dung mạo anh tuấn, bước ra tươi cười chào đón:
    - Tiểu đệ mừng sư huynh hồi trang!
    Bạch Thần Y giới thiệu người ấy với Hãn Thanh:
    - Mộ Dung công tử! Đây là Thẩm Khởi Vĩ, tiểu sư đệ của lão phu.
    Hãn Thanh vòng tay xưng danh tánh. Họ Thẩm hân hoan nói:
    - Cửu ngưỡng! Cửu ngưỡng! Uy danh của Tiểu Hầu gia lẫy lừng thiên hạ, không ngờ nay lại giá lâm chốn hủ lậu này.
    Hãn Thanh quen lối sống đời sơn dã mộc mạc nên không có cảm tình với những kẻ hoa ngôn, xảo ngữ. Chàng sinh lòng cảnh giác, chỉ mỉm cười.Thẩm Khởi Vĩ mời hai người an tọa rồi gọi tỳ nữ pha trà. Bạch Thần Y nóng nảy bảo:
    - Sư đệ mau vào hậu sảnh mời đại tẩu ra đây.
    Họ Thẩm mau mắn đứng lên đi ngay. Lát sau lão trở ra với khay trà trên tay, vui vẻ bảo:
    - ® tỳ nữ Tiểu Thanh nói rằng đại tẩu đang tắm, lát nữa sẽ lên ngay.
    Lão đặt khay trà xuống, châm đầy ba chung, mời hai người uống. Hãn Thanh chưa kịp nâng chén thì nghe văng vẳng tiếng nói quen thuộc của Tiểu Thuần:
    - Trong trà có mê dược!
    Hãn Thanh toát mồ hôi, thức ngộ rằng Thẩm Khởi Vĩ chính là đồng đảng của Bạch Phu nhân. Chàng vươn tay điểm nhanh vào bốn huyệt trên ngực họ Thẩm, khiến lão trơ như tượng gỗ.
    Bạch Nguyên Giáp ngơ ngác:
    - Công tử làm gì vậy?
    Chàng cười mát:
    - Lão bá hãy xem trong chung trà kia có gì lạ hay không?
    Thần Y nâng chung trà ngửi và nếm một hút. Lão kinh hãi nhổ ra ngay:
    - Khốn nạn thật, đây là loại Nhuyễn Cân Tán của giới hắc đạo.
    Hãn Thanh hỏi ngay:
    - Lão bá còn ai là người có thể tin cậy được?
    Bạch Thần Y buồn rầu nói:
    - May ra đại đệ tử của lão phu vẫn giữ dạ trung thành. Y được lão phu nuôi dưỡng từ thuở ấu thơ.
    Lão đứng lên, bước ra cửa sảnh gọi vang:
    - Bạch Phương!
    Lát sau, một hán tử tam tuần chạy đến ứng hầu:
    - Sư phụ có điều chi phân phó?
    Bạch Thần Y nghiêm giọng:
    - Lòng dạ của ngươi đối với lão phu thế nào?
    Bạch Phương thất kinh đáp:
    - Đồ nhi được ân sư giáo dưỡng từ nhỏ, một lòng kính trọng người như từ phụ.
    Thấy nét mặt y rất thành khẩn, Bạch lão dịu giọng:
    - Nay Thẩm sư đệ cấu kết cùng sư nương ngươi hãm hại lão phu. Ngươi định thế nào?
    Bạch Phương nghiến răng:
    - Đệ tử đã phát hiện họ dan díu với nhau, nhưng thấy sư phụ quá ưu ái phu nhân nên chẳng dám nói ra. Nay sự việc đã đến nước này, đồ nhi cùng các đệ tử sẽ bắt hai người ấy cho sư phụ xử quyết.
    Bạch Thần Y gật đầu:
    - Vậy ngươi hãy báo động toàn trang, phong toa? cửa ra vào, rồi cùng lão phu vào hậu sảnh. Ai là vây cánh của bọn gian phu dâm phụ thì giết ngay!
    Ba hôm sau, Hãn Thanh rời Bách Thảo Sơn Trang, tiếp tục đi sang đất Sơn Tây. Việc của Thiết Địch Thần Y đã giải quyết xong. Biết họ Bạch không đủ tàn nhẫn để hạ sát sư đệ và người đàn bà xinh đẹp, dâm đãng kia, chàng đã vung kiếm đâm chết cả hai. Hãn Thanh cũng thừa hưởng tính cực đoan của Mông Diện La Sát, Chàng rất căm hận những kẻ phản trắc nên hạ thủ không thương tiếc. Nếu chàng không quyết đoán như vậy, chắc chắn bạch Thần y sẽ tha cho họ, và trước sau gì cũng ngộ hại lần nữa.
    Họ Bạch tuy đau lòng nhưng cũng thầm cảm ơn Hãn Thanh. Lão ân cần mời mọc chàng ở lại thêm vài ngày. Nhưng lòng chàng nóng như lửa đốt, chỉ muốn đi ngay Hằng Sơn để về với Tiểu Thuần, nên chỉ ở lại có ba ngày.
    Đêm qua, Bạch Thần Y đã khuyên Hãn Thanh cải trang và gởi Quái mã lại Bách Thảo Sơn Trang, để tránh sự truy sát của Phù Dung Hội. Cũng như những kẻ đang dòm ngó đến tấm họa đồ Bồng Lai Đảo của họ Mộ Dung.
    Chàng là người nối dõi duy nhất, nếu bị bắt thì lão Hầu Gia sẽ phải trao bản đồ ra để chuộc. Mộ Dung Cẩn dám hy sinh Mộ Dung Thiên vì còn có cháu nội.
    Nay cháu nội lâm nguy, ông sẽ phải đầu hàng.
    Hãn Thanh nghe hợp lý, liền nhận lấy hai chiếc mặt nạ da người và con tuấn mã của họ Bạch. Giờ đây, chàng có dung mạo của một hán tử tam tuần, mặt chất phác hiền lành.

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 6

    Quả Phụ Hữu Trượng Phu
    Hoa Sơn Vô Tây Nhạc

    Với gương mặt mới Hãn Thanh ung dung rong ruỗi, không hề gặp trở ngại nào, và mười mấy ngày sau chàng đến thành Tinh Châu.
    Mới là giữa giờ Thìn, Hãn Thanh ghé vào Kỳ Trân phạn điếm để dùng điểm tâm. Ở đây, chàng phát hiện có rất nhiều khách võ lâm. Một số chàng đã gặp trên đường đi, nhưng không lưu ý đến.
    Giờ đây, họ đang xôn xao bàn tán về việc động trời. Đó là việc Hải Hà Tiên Tử đã chính thức tái xuất giang hồ, dương danh Thần Tiên Giáo. Tứ Đại Kỳ Nhân trong Ngũ Nhạc được phong làm phó giáo chủ. Thần Tiên Giáo đang xây dựng tổng đàn ngay trên ngọn Bách Sơn, thuộc dãy Tung Sơn và chỉ cách núi Thiếu Thất của Thiếu Lâm Tự mười dặm. Nghe nói, Thần Tiên Giáo đã gởi thiệp mời đồng đạo võ lâm đến dự lễ khai giáo vào tết Đoan Ngọ năm nay!
    Tin thứ hai là việc Kiếm Bang ở Nam Kinh dốc lực lượng truy lùng Tiểu Hầu Gia Mộ Dung Hãn Thanh, để báo phục cho ái tử. Thanh Y Thần Kiếm Từ Đinh Vân đã bị Tiểu Hầu Gia giết cách đây năm năm.
    Tin thứ ba chính là việc Tây Nhạc Lão Quái bị Tiểu Hầu Gia đả bại ở Trịnh Châu. Hàn Chân Nhân đã phải cắt một miếng thịt đùi để không bỏ mạng vì chất độc của mũi Sách Hồn Tiễn. Nhưng nói chung, lão chỉ bị thương nhẹ và đã bình phục. Lão Quái căm hận Tiểu Hầu Gia nên đã đến Hà gia trang bắt Viên Nguyệt Hằng Nga Hà Hồng Hương, đem về Hoa Sơn gả cho bang chủ Tây Bang Hứa Hữu Tinh. Lão còn đả thương Tinh Châu Tài Thần Hà Hồng Tập và khá nhiều người của Hà gia trang! Ngày hai mươi sáu tháng này, đám cưới sẽ được cử hành tại Đạo Quán của Hàn Lão Quái!
    Hãn Thanh không hề yêu thương Viên Nguyệt Hằng Nga, nhưng phẫn nộ trước hành vi ngang ngược của Tây Nhạc Lão Quái, nên quyết định đi Hoa Sơn giải cứu Hà Hồng Hương. Chàng đoán rằng Phi Châm Môn cũng không chịu khoanh tay, liền rời Kỳ Trân phạn điếm, đi đến Hà gia trang!
    Xeo xéo cổng nhà họ Hà có một quán trà. Hãn Thanh vào đấy gọi một ấm trà Thiết Quan ém, nhâm nhi từng hớp nhỏ, mắt chăm chú hướng về Hà gia trang!
    Vài khắc sau, Hãn Thanh nhận ra Nhất Bất Thông Chu Minh và năm mươi cao thủ Mộ Dung phủ thúc ngựa đi vào nhà họ Hà. Chàng biết ngay họ được lệnh của lão Hầu Gia đuổi theo bảo vệ mình. Một cảm giác hạnh phúc thoáng dâng trong hồn!
    Hãn Thanh rất khâm phục thuật truy tung của họ Chu, không ngờ lão ta mau chóng tìm ra lộ trình của mình. Chàng suy nghĩ một lúc, quyết định đi Hoa Sơn, âm thầm giải cứu Hà Hồng Hương trước ngày đám cưới. Nay Chu Minh đã có mặt ở đây, chàng không thể vào Hà gia trang nữa rồi. Đôi mắt tin tường của Nhất Bất Thông sẽ nhận ra thanh Hầu Tước Kiếm.
    Hãn Thanh rời trà thất, đi về hướng Tây. Núi Hoa Sơn cách Tinh Châu độ hai ngày đường! Đoạn này đặc biệt gập ghềnh, hiểm trở, lên dốc, xuống đèo, hai bên là rừng già hay đồi núi!
    Đường quan đạo vì vậy mà vắng vẻ, mãi quá giờ Mùi Hãn Thanh mới gặp được một quán nhỏ, thức ăn chỉ có bánh bao và thịt trâu luộc. Sau khi nhét đầy chiếc dạ dày trống rổng, Hãn Thanh tiếp tục bôn hành. Thêm hai chục dặm, trước mặt chàng hiện ra đến năm, sáu con đường. Hãn Thanh bối rối suy luận rồi chọn lối chính Tây. Chàng hối hận vì đã không hỏi lão chủ quán, nên giờ đành chọn hú họa.
    Tiếc rằng người lữ khách đã đi sai đường, khi vầng ô quang tắt lịm, Hãn Thanh vẫn chưa thấy bóng một căn nhà nào. Đêm ấy, chàng phải ngủ trên chạng ba một cây cỗ thụ Ở bìa rừng.
    Không biết mình đi lạc. Sáng ra, chàng tiếp tục tiến lên, nửa canh giờ sau, đường lộ hẹp dần, dẫn đến một cổng làng. Thôn xóm này khá đông đúc, nằm dựa vào một dãy núi thấp có màu sắc rất kỳ lạ. Ngoài những chỗ bị rừng và tuyết che phủ, lác đác có những mảnh đen nhánh, lấp lánh dưới ánh dương quang.
    Kiến văn của Hãn Thanh rất bác tạp, lập tức nhận ra dãy núi kia là một mỏ thạch than (than đá) lộ thiên khổng lồ.
    Trong Sơn Hải Kinh, một trước tác thời Tiền Tần, đã từng nói về những mỏ than đá ở Tứ Xuyên và Thiểm Tây. Vào thời Tây Hán, người Trung Hoa đã biết dùng than đá để luyện gang.
    Thực ra, cao nguyên Sơn Tây mới là mỏ than vĩ đại của Trung Hoa, hầu như nơi nào cũng có, nhưng tập trung nhiều nhất ở Đại Đồng phía Bắc Sơn Tây.
    Toàn bộ kkhu vực thôn xóm kia nằm trong một vùng trũng dưới chân núi. Từ mảnh đất cao trước cổng làng, Hãn Thanh có thể nhìn bao quát cảnh vật. Chàng thấy mọi người rời nhà vác cuốc đi ra những thuở ruộng kê chung quanh làng, và lũ trẻ chạy nhảy vui đùa khắp chốn.
    Hãn Thanh cau mày tự hỏi vì sao nơi đây chỉ toàn là nữ nhân mà không có bóng đàn ông nào? Chẳng lẽ họ cứ ngủ vùi để cho vợ mình phải đảm đương việc đồng áng?
    Chàng nhịn đói cả đêm hôm qua nên thúc ngựa đi vào, để hỏi xin chén cơm đở dạ.
    Đám tiểu đồng nhận ra khách lạ, chạy đến nhìn Hãn Thanh chăm chú, chúng đông đến ba bốn chục đứa, và đột nhiên có đứa bé gái oà lên khóc gọi:
    - Cha! Cha!
    Hãn Thanh ngượng ngùng xuống ngựa, ẵm cô bé lên, lạ thay, những đứa nhỏ kia cũng bật khóc, níu áo chàng đòi bế!
    Hãn Thanh vô cùng bối rối, ngồi xuống để chúng ôm lấy mình. Và từ trong căn nhà trang gần đấy, có một phụ nhân tuổi tam tuần chạy ra. Nàng bật cười, bảo lũ trẻ:
    - Bọn ngươi quả là ngốc nghếch, đây là người lạ Ở phương xa đến, nào phải cha của ai đâu?
    Đám tiểu hài tiu nghỉu, thất vọng, rời khỏi Hãn Thanh. chàng đứng lên vòng tay nói:
    - Tại hạ định đi núi Hoa Sơn, vì không biết đường nên đi lạc đến đây!
    Dám hỏi đại tẩu đây là địa phương nào vậy?
    Nữ nhân vui vẻ đáp:
    - Làng này có tên là Quả Phụ Thôn. Các hạ muốn đến Hoa Sơn thì phải đi chếch về hướng Tây Nam mới đúng.
    Người phụ nữ này tuy y phục quê mùa, mộc mạc, nhưng đôi mắt tinh anh, sáng sủa, ăn nói ra vẻ người có học.
    Hãn Thanh giật mình:
    - Chẳng lẽ những đứa trẻ này đều không có cha?
    Nữ nhân cười buồn:
    - Có cũng như không, vì toàn bộ nam nhân trong làng đều bị bọn hồ ly ở bên kia núi bắt đi toàn bộ cả rồi! Mỗi năm họ chỉ được về nhà ba ngày tết, sau đó lại ra đi.
    Hãn Thanh nhíu mày:
    - Họ không đi không được hay sao?
    Nữ nhân gật đầu:
    - Kẻ nào ở lại thêm một ngày đều bị hồ ly giết chết!
    Hãn Thanh nhìn những mái đầu xanh chung quanh, nghe lòng sôi giận.
    Chàng cười nhạt bảo:
    - Tại hạ chuyên nghề tiêu diệt tà ma, chồn quỷ. Mong đại tẩu cho xin vài chén cơm lót lòng, sau đó, tại hạ sẽ giết sạch đám hồ ly, trả phụ thân cho đám tiểu hài này!
    Nữ nhân mỉm cười:
    - Mời túc hạ vào nhà, tiện thiếp chỉ có bánh kê hấp mà thôi.
    Hãn Thanh dắt ngựa đi theo nàng, lũ trẻ tò mò bám đuôi, đứng lố nhố ngoài sân. Chỉ có một đứa bé vào nhà, vì nó là con của nữ nhân kia. Cậu bé đắc ý nói với đám còn lại:
    - Tụi mày thấy chưa, ông ấy vào nhà tao tức là cha của tao đấy! Lát nữa tao sẽ bảo ông ấy cho tao cỡi ngựa!
    Có đứa rụt rè nói:
    - Tiểu Lâm! Mày bảo cha mày cho tao cỡi ngựa nhé! Tao sẽ cho mày con chim sáo!
    Thế là cả bọn nhao nhao thương lượng với Tiểu Lâm. Đứa nào cũng đưa ra đồ chơi tốt nhất của mình để đổi lấy việc cỡi ngựa.
    Tất nhiên Tiểu Lâm chấp nhận cả, không từ chối một ai. Giờ đây, nó là cậu bé hạnh phúc nhất làng. Vì có cha và có thật nhiều vật lạ.
    Cuộc làm ăn của Tiểu Lâm rất ồn ào, lọt vào tai Hãn Thanh và mẹ nó. Hai người nhìn nhau mỉm cười. Hãn Thanh chợt nhận ra người đàn bà kia nhìn mình với ánh mắt nồng nàn, khao khát. Ở vùng cao nguyên giá lạnh này, cảnh cô đơn trống vắng quả là đáng sợ.
    Hãn Thanh không giận nàng mà cảm thấy như mình có lỗi. Chàng thề sẽ trả lại trượng phu cho những nữ nhân đáng thương này. Mẹ Tiểu Lâm cười hỏi:
    - Chẳng hay danh tính của túc hạ là gì? Chuyết phu họ Trương.
    Theo phong tục Trung Hoa, đàn bà xuất giá thường được xưng hô theo họ của chồng mình. Hãn Thanh kính cẩn đáp:
    - Tại hạ là Mộ Dung Hãn Thanh.
    Chàng cắm cúi ăn thêm chiếc bánh kê, cố tránh ánh mắt của người đối diện. Trương nương thở dài bảo:
    - Túc hạ cứ ăn cho no rồi lên đường đi Hoa Sơn. Bọn chồn tinh kia pháp thuật thông thần, túc hạ không làm gì được chúng đâu.
    Hãn Thanh hỏi lại:
    - Đại tẩu có biết chúng gồm bao nhiêu người hay không? Và chúng bắt các nam nhân trong thôn để làm gì?
    Trương nương rầu rĩ đáp:
    - Chúng xuất hiện cách nay hơn bốn năm, chỉ trong một đêm đã bắt hơn trăm trai tráng trong làng, như vậy là chúng rất đông. Còn bắt để làm gì thì không rõ. Mỗi lần được thả về ăn tết, đám nam nhân đều câm như hến, chẳng ai mở miệng nói câu nào. Có điều, tiện thiếp nhận ra bàn tay họ chai sạm và trên thân thể chằng chịt những vết roi. Mỗi năm, số người về nhà càng ít đi.
    Có lẽ những người yếu sức đã lần lượt bỏ mạng.
    Hãn Thanh nghiêm giọng:
    - Sao chư vị không đi báo quan?
    Nữ nhân cười nhạt:
    - Hai năm trước, có người đã vác sớ lặn lội đến huyện đường kêu khóc.
    Quan tri huyện hứa sẽ cho quân tra xét nhưng chẳng hề có ai đến cả. Còn người đàn bà dũng cảm kia đã chết ngay khi về đến nhà.
    Hãn Thanh đã no nê, đứng lên nói:
    - Mong đại tẩu chỉ giáo đường đến hang ổ hồ ly!
    Trương nương buồn bã đáp:
    - Túc hạ cứ đi đến chân núi sẽ thấy một khe hẹp. Theo đường ấy sẽ sang đến bên kia.
    Hãn Thanh vòng tay chào, xách kiếm bước ra. Tiểu Lâm chạy ngay đến:
    - Cha! Hài nhi muốn được cỡi ngựa!
    Hãn Thanh ngượng ngùng quay lại nói với Trương nương:
    - Con tuấn mã này rất hiền! Đại tẩu có thể đặt Tiểu Lâm lên yên dắt đi chơi.
    Nói xong, chàng thi triển khinh công lướt đi như bay. Trương nương và lũ trẻ tròn mắt nhìn theo. Nàng lẩm bẩm:
    - Chẳng lẽ người này lại biết pháp thuật?
    Tiểu Lâm reo len:
    - Má ơi! Phụ thân hài nhi biết bay!
    Trương nương thẹn thùng mắng con:
    - Ta đã bảo người ấy không phải là cha mi cơ mà!
    Nhưng trong lòng nàng rộn lên một ước mơ thầm kín. Chồng nàng là Trương Tam đã mãi mãi không về nữa! Hai xuân rồi, nàng mỏi mắt trông chờ mà chẳng thấy đâu.
    Hãn Thanh theo lời dặn của Trương nương, đến chân dãy núi thấp, quả nhiên tìm ra một khe hẹp, chiều ngang chỉ có bốn trượng. Chàng rút Hầu Tước Kiếm để đề phòng độc xà. Con đường này mỗi năm chỉ được xử dụng một lần nên đầy cỏ và bụi rậm.
    Đi hết chiều dài gần dặm của khe núi, trước mắt Hãn Thanh hiện ra một thung lũng rộng, được vây quang bởi núi đồi. Và trên sườn đồi hướng Bắc thấp thoáng những bóng người đang đào xới.
    Đám công nhân kia đều ở trần, và được săn sóc bằng những người áo trắng, tay cầm roi da dài ngoằng. Hãn Thanh nhận ra bọn đốc công toàn là nữ nhân. Tuy nhiên, họ khá tàn nhẫn, liên tục quất vào lưng đám nam nhân, thủ pháp dùng roi rất linh diệu.
    Hãn Thanh đảo mắt nhìn sang cánh rừng hướng Đông, nơi có những tòa nhà gỗ xinh xắn. Có lẽ đấy là chỗ ở của đám hồ ly áo trắng. Cách đấy không xa, là những lán cỏ dài, dành cho đám công nhân đáng thương.
    Hãn Thanh tiến về phía cánh rừng, lập tức bị hai nữ lang bạch y chặn lại.
    Một ả lạnh lùng hỏi:
    - Ngươi là ai mà dám lần mò vào chốn này?
    Chàng cười mát đáp:
    - Ta là Trung Nguyên Đại Pháp Sư, nghe nói chốn này có chồn tinh nên đến kiếm vài bộ lông về may áo ngự hàn!
    Hai ả biến sắc, vung kiếm chém ngay. Đường kiếm của họ nhanh nhẹn và hiểm ác khôn lường.
    Hãn Thanh ái ngại việc đối phương là nữ nhân nên bất nhẫn, không dùng kiếm mà dở pho Cửu Cung Thần Thức ra đối phó. Thân hình chàng nhấp nhô trong lưới kiếm. Song thủ chập chờn như ma ảnh, chụp lấy hai cổ tay nõn nà, vặn trật khớp mà đoạt vũ khí của đối phương.
    Bất Biệt Cư Sĩ là tình lang của Vũ Di Tiên Nương. Vì vậy, những gì Hãn Thanh học được thời thơ ấu, đều là tuyệt kỹ của Cao Hán Ngọc! Tuy Cư Sĩ không nổi danh về quyền chưởng, nhưng với tài trí của ông, pho Củu Cung Thần Thức cũng lợi hại tuyệt luân!
    Hai ả bạch y đau đớn rú lên, nhảy lùi lại, và nhất tề tung độc phấn vào mặt Hãn Thanh. Chàng cười nhạt, vỗ liên hai chưởng đạo Kim Sa Ấn. Chưởng ảnh vàng nhạt xuyên qua màn độc vụt giáng vào ngực đối phương. Tuy chàng chỉ dồn có bốn thành công lực nhưng cũng đủ đánh cho hai nàng hộc máu.
    Lúc này, từ trong những tòa mộc xá, túa ra mấy chục ả áo trắng. Đi đầu là một mỹ nhân tuổi độ hai mươi ba, phong vận lẳng lơ, mặt đẹp như hoa, tóc bới cao, trang điểm bằng châu báu sáng rực.
    Nàng ta khoác mảnh lông điêu, để hở áo sa mỏng bên trong, và đôi gò bồng đảo đều đặn trông rất quyến rũ.
    Nhưng người đẹp không cười mà cất giọng lạnh lẽo như băng:
    - Ngươi là cao thủ của môn phái nào?
    Hãn Thanh trầm giọng hỏi lại:
    - Còn chư vị là ma quỷ phương nào mà dám ngang nhiên bắt cóc lương dân về làm lao dịch?
    Nữ lang động nộ, phất tay ra hiệu:
    - Giết gã cho ta!
    Đám thiếu nữ thủ hạ ùa vào ngay, sắc diện lộ vẻ độc ác. Hãn Thanh không hề bối rối, thi triển pho khinh công Cửu Cung Mê Bộ, di chuyển trong vòng vây, thủ cước liên tục tung ra những đòn ảo diệu.
    Đám nữ nhân nối nhau la lên oai oái vì khớp tay bị bẻ lọi. Chỉ hơn nửa khắc, đã có mười mấy nàng bị loại khỏi vòng chiến.
    Nữ lang áo sa mỏng biến sắc rút kiếm nhập trận. Vũ khí của nàng tỏa ánh lam, chứng tỏ đã được tẩm đầy chất độc.
    Hãn Thanh không dám coi thường, vội rút kiếm chống đỡ. Chàng kinh hãi nhận ra công lực đối phương còn thâm hậu hơn mình. Bản lãnh nàng ta cao siêu gấp bội các thủ hạ, đường kiếm hiểm ác phi thường.
    Nhưng Hãn Thanh là truyền nhân của thiên hạ đệ nhất kiếm. Tuy hơi kém sút phần chân khí nhưng kiếm chiêu linh diệu, tinh kỳ hơn đối phương.
    Thanh trường kiếm trong tay chàng đảo lộn như thần long luôn tìm ra chỗ sơ hở mà điểm vào.
    Nữ lang áo sa liên tiếp gặp nguy hiểm, mồ hôi toát ra ướt trán. Nàng tấn mạnh một chiêu, tung mình về phía sau, quát khẽ:
    - Khoan đã!

  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hãn Thanh đình bộ, lạnh lùng bảo:
    - Vì các nàng là nữ nhân, ta không nỡ giết! Hãy tự phế võ công rồi rời khỏi nơi này ngay!
    Chàng ngạc nhiên khi thấy nữ lang áo sa nở nụ cười mê hoặc:
    - Thiếp là Lạc Bình, dám hỏi phương danh của bậc anh hùng?
    Nàng vừa nói vừa cởi áo lông, để lộ tấm thân khêu gợi ẩn hiện dưới lớp sa. Và rồi, những mảnh sa kia cũng rơi xuống mặt cỏ xanh.
    Cơ thể mượt mà kia lồ lộ phơi bày dưới mặt trời xuân, uốn éo bước đến.
    Hãn Thanh lúng túng, không dám nhìn vào pho tượng mỹ miều, chẳng biết phải đối phó thế nào!
    Lạc Bình bật cười khanh khách, lướt đến tấn công. Tiếng cười của nàng khiến huyết mạch Hãn Thanh căng phồng. Lạc Bình hoàn toàn không phòng thủ, ưỡn ngực như mời gọi đối phương hạ thủ. Nàng đứng trên gió nên mùi u hương tỏa vào mũi Hãn Thanh, càng tăng phần quyến rũ.
    Chàng không đủ nhẫn tâm để thọc kiếm vào da thịt mịn màng kia, đành chống đỡ và tránh né. Chỉ sau vài chục chiêu, Hãn Thanh đã hoàn toàn bị hạ phong, đường kiếm rối loạn, lộ sơ hở rất nhiều. Chàng là một chàng trai mới lớn, khí huyết phương cương, khó mà chống cự lại mị lực của Ngũ Đài Ma Cơ.
    Lạc Bình tuy mới nổi danh vài năm trở lại đây nhưng đã không ít nam nhân bỏ mạng dưới tay nàng. Tiếng cười của Ma Cơ chính là công phu Lạc Hồn Tiếu, và mùi u hương từ cơ thể nàng là một loại xuân dược hãn thế.
    Biết đối phương đã thấm đòn, Ngũ Đài Ma Cơ nhếch mép cười độc ác, lao đến như ánh chớp. Mũi kiếm của nàng nhắm vào ngực Hãn Thanh, quyết chẳng để chàng sống sót.
    Dù đang mê muội, bản năng cầu sinh cũng giúp Hãn Thanh tung người né tránh, nên chỉ bị đâm thủng bắp tay trái. Chàng được Mông Diện La Sát trui rèn bằng công phu Thiên Ma Bách Luyện, khi cơ thể bị đau đớn, lập tức có phản ứng ngay. Da thịt chàng săn lại, kịp lấy lưỡi kiếm, và đầu óc tỉnh táo trở lại. Chàng nghiến răng vung cước quất vào bụng dưới Ngũ Đài Ma Cơ, ả hự lên, văng ngược ra sau, máu miệng phun thành vòi.
    Bọn nữ lang áo trắng kinh hãi vội chạy đến bảo vệ chủ nhân và tấn công Hãn Thanh. Chàng nghe vết thương ngứa ngáy vì chất độc, vội điểm huyệt phong bế kinh mạch tay trái.
    Biết mình đã lâm cảnh hiểm, Hãn Thanh đành phải nặng tay để thanh toán gấp chiến trường, hầu tìm chỗ trục độc. Thanh Hầu Tước Kiếm vun vút như bánh xe thép chạt phăng những cánh tay cầm kiếm của đối phương.
    Chất độc lan dần trong máu, càng khiến chàng thêm hung hãn nhu thú dữ. Đám thủ hạ của Ngũ Đài Ma Cơ rên la thảm khốc, không còn dám diên trì, vội rủ nhau đào tẩu.
    Hãn Thanh không đuổi theo, bước đến bên Lạc Bình. ® uống linh đan nên thương thế đỡ nhiều, không còn ói máu nữa, nhưng vẫn chưa đứng lên được. Nhìn đôi mắt đỏ ngầu của Hãn Thanh, Ma Cơ sợ khiếp vía, gượng cười van xin:
    - Mong đại hiệp tha mạng, thiếp xin dâng thuốc giải độc!
    Hãn Thanh lạnh lùng bảo:
    - Ta không cần thuốc giải, chỉ muốn giết nàng để trừ hại cho bách tính mà thôi!
    Ma Cơ bật khóc, van lạy như tế sao:
    - Mong đại hiệp khai ân! Tiện thiếp chỉ tuân mệnh sư phụ mà hành sự chứ đâu muốn giam mình ở chốn hoang vu này làm gì? Lạc Bình xin làm nô tỳ, suốt đời hầu đại hiệp!
    Hãn Thanh nghe tiếng khóc nỉ non, không đành lòng xuống tay. Chàng nghiêm nghị bảo Ma Cơ:
    - Lạc cô nương, nay tại hạ vì đức hiếu sinh của trời đất mà tha mạng cho nàng, nhưng cô nương phải lập trọng thệ, suốt đời không được làm ác nữa!
    Lạc Bình mừng rỡ thề ngay:
    - Tiện thiếp Lạc Bình xin hoàng thiên chứng giám, từ nay hướng thiện xin một dạ trung thành với chủ nhân!
    Hãn Thanh cau mày:
    - Ta chỉ cần nàng phục thiện, việc làm nô bộc không nên nói đến!
    Ma Cơ buồn bã nói:
    - Chắc đại hiệp chê tiện thiếp là phường phóng đãng! Thực ra thân này vẫn còn là xử nữ! Do luyện tà công nên phong vận mới lả lơi thế thôi!
    Nàng dừng lại, giương cặp mắt ai oán nói:
    - Thuốc giải để trong khuê phòng. Tiện thiếp đi không nổi, dám phiền đại hiệp giúp một tay!
    Hãn Thanh đỏ mặt, cúi xuống nhặt chiếc áo lông trùm lên tấm thân trắng trẻo kia, rồi bồng nàng đi vào tòa nhà gỗ trong rừng.
    Ma Cơ thỏ thẻ:
    - Xin đại hiệp cho biết phương danh?
    Chàng không quen nói dối nên thành thực đáp:
    - Tại hạ là Mộ Dung Hãn Thanh!
    Ma Cơ giật mình rồi cười khúc khích:
    - Thì ra Tiểu Hầu Gia mang mặt nạ!
    Nàng thò tay lột mảnh da hóa trang, lặng người trước vẻ anh tuấn phi phàm của chàng trai.
    Ngũ Đài Ma Cơ tự hào nhan sắc mình tựa tiên nga, nên khó khăn trong việc chọn tình quân. Dù nàng mang danh Ma Nữ nhưng vẫn được đám hào hiệt võ lâm mê như điếu đổ. Nay gặp Hãn Thanh võ nghệ cao siêu, dung mạo anh tuấn tuyệt luân, lòng xuân nữ rộn ràng. Nàng nhìn say đắm gương mặt chàng, cố nén tiếng thở dài. Nàng hối hận vì đã xử dụng Ma Tiếu Mê Hương Khúc, phô bày thân thể, khiến Hãn Thanh ngộ nhận là dâm nữ.
    Vào đến khuê phòng, Lạc Bình vội lấy thuốc giải độc cho Hãn Thanh uống, và băng bó vết thương. Tất nhiên nàng đã mặc y phục chỉnh tề trông rất đoan trang thùy mị.
    Hãn Thanh phục hồi công lực, lập tức chữa vết nội thương của Ngũ Đài Ma Cơ. Nàng rất cảm động và càng nặng tình với chàng trai xinh đẹp, anh hùng.
    Lạc Bình pha thuốc giải Lạc Phách Tán vào lu nước lớn. Rồi cùng Hãn Thanh ra gọi gần trăm gã công nhân si ngốc vào. Họ vẫn cặm cụi làm việc, không hề đế ý đến trận chiến lúc nãy.
    Bọn nam nhân của thôn Quả Phụ uống xong, lăn ra ngủ vùi, mấy khắc sau mới tỉnh lại, sợ hãi bỏ chạy cả về làng.
    Hãn Thanh cũng từ giả Ngũ Đài Ma Cơ. Nàng buồn bã nói:
    - Gia sư là Kim Thạch Tà Tẩu đã tìm ra mỏ bảo ngọc này, và bắt tiện thiếp phải coi sóc việc khai thác. Nay công tử đến đây cũng là giải thoát cho tiện thiếp. Kẻ bạc mệnh này mồ côi từ nhỏ, ngoài Ngũ Đài Sơn, chẳng còn chốn để dung thân. Nếu trở lại đó, trước sau gì cũng sa vào mỏ tà ma. Mong công tử cho tiện thiếp theo hầu.
    Ánh mắt nàng rất thiết tha và đôi dòng châu chảy dài trên gương mặt đẹp não nùng. Hãn Thanh thoáng nghe lòng bâng khuâng, thương nàng cũng mồ côi như mình. Chàng thở dài bảo:
    - Thôi được! Tạm thời cô nương cứ tháp tùng tại hạ, khi nào muốn ly khai xin cứ tùy tiện!
    Ngũ Đài Ma Cơ hoan hỉ nghiêng mình vái tạ:
    - Nô tỳ Lạc Bình xin bái kiến công tử!
    Nàng mỉm cười nói tiếp:
    - Phía sau có suối nước nóng, mời công tử ra đấy tắm gội!
    Sau trận chiến, y phục Hãn Thanh dính đầy máu, cơ thể nhớp mồ hôi, liền nghe lời Lạc Bình. Tay trái chàng đang băng bó nên cử động khó khăn, đàng đứng ngâm dưới làn nước nóng ấm, để mặc Ma Cơ hầu hạ. Nàng mặc nguyên y phục, tắm gội cho Hãn Thanh. Chàng luyện võ từ nhỏ nên thân hình rắn chắc, cường tráng, bắp thịt nổi từng múi rất đẹp.
    Lạc Bình run rẩy kỳ cọ, mặt đỏ hồng vì thẹn. Hãn Thanh nhận ra điều ấy, cười hỏi:
    - Sao lúc thoát y nàng không biết xấu hổ?
    Ma Cơ lí nhí đáp:
    - Thực ra nô tỳ cũng rất thẹn thùng, chỉ vì lòng hiếu sát mạnh hơn đấy thôi! Nhưng đấy là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, chẳng bao giờ nô tỳ dùng đến Ma Tiếu Mê Hương Khúc nữa.
    Hãn Thanh nhớ đến Viên Nguyệt Hằng Nga Hà Hồng Hương, buột miệng nói:
    - Té ra ta là người đầu tiên chiêm ngưỡng thân hình tuyệt mỹ của nàng?
    Lạc Bình ngượng ngùng gật đầu, dáng điệu rất đáng yêu.
    Hãn Thanh vui vẻ kể cho nàng nghe việc mình giải cứu Hà Hồng Hương.
    Ma Cơ bật cười khanh khách, ngây thơ như một sơn nữ!
    Chiều ngày hai mươi bốn tháng hai, có đôi kỵ sĩ lững thững đi vào trấn Hoa Sơn. Nam tuổi tam tuần, dung mạo hiền lành. Nữ thắt hai bím tóc dài, vọ phục xanh bó sát thân hình óng ả. Nàng xinh đẹp đến nỗi khách nhân qua lại trên đường phải suýt xoa khen ngợi và nhìn không chớp mắt. Xem ra hán tử kia không xứng đôi với một nàng tiên như vậy!
    Ngũ Đài Ma Cơ thành danh với mái tóc bới cao kiêu sa và y phục hở hang, mỏng manh. Nay với hai bím tóc và võ phục kín đáo, khó ai dám nghĩ nàng lại là ả ma nữ khét tiếng năm xưa! Vả lại, sắc diện nàng giờ đây thủy mị, ngoan hiền, chẳng một nét lẳng lơ, phóng túng! Lạc Bình đã đoạn tuyệt với quá khứ, lấy tên Trinh Nô để bày tỏ lòng dạ của mình.
    Như vậy nam nhân kia chính là Mộ Dung Hãn Thanh. Hai người ghé vào Sơn Tây Đại Lữ Điếm nghỉ trọ, định đêm xuống sẽ đột nhập Động Thiên Quán trên ngọn Vân Phong của rặng Hoa Sơn.
    Bọn tiểu nhị hoan hỉ đón chào thượng khách. Đây là lữ điếm sang trọng nhất vùng núi Hoa Sơn nên chưởng quỷ chẳng bao giờ hỏi han nhiều. Nghe khách khai sao lão ghi vậy, thực giả chẳng quan trọng! Hơn nữa, nhìn hai thanh trường kiếm trên lưng đôi nam nữ này, lão đoán họ đến dự hôn lễ của Động Thiên Đạo Quán.
    Vì cho rằng họ là phu thê nên lão thản nhiên bảo tiểu nhị đưa khách vào một phòng thượng hạng.
    Hãn Thanh khẽ cau mày nhưng không đòi thêm phòng nữa! Chàng đã xem Lạc Bình là tỳ nữ của mình nên không chấp nhất tiểu tiết. Ngũ Đài Ma Cơ mừng thầm, soạn hành lý, chuẩn bị cho Hãn Thanh tắm gội.
    Vết thương ở bắp tay trái chưa lành hẳn. Chàng vẫn cần sự chăm sóc của người khác. Hơn nữa, chàng bắt đầu thích thú đôi bàn tay mềm mại của nữ nhân. Nó khiến chàng nhớ lại ngày còn thơ dại, được thân mẫu nâng niu.
    Tuyết đã thôi rơi nhưng trời vẫn lạnh cắt da, được ngâm mình trong nước nóng quả là điều tuyệt diệu. Phòng tắm kín đáo nên mùi u hương từ cơ thể Lạc Bình tỏa ngát. Hãn Thanh hiếu kỳ hỏi:
    - Trinh Nô! Vì sao người nàng lại có mùi thơm kỳ lạ như vậy?
    Lạc Bình thẹn thùng đáp:
    - Nô tỳ luyện tà công, được ân sư ban cho một mảnh Long Diên Hương.
    Nhờ vậy, công lực tăng tiến mười năm và da thịt tỏa mùi thơm nhè nhẹ! Khi thi triển Ma Tiếu Mê Hương Khúc, mùi hương sẽ đậm đà hơn!
    Hãn Thanh gật đầu khen:
    - Nàng quả là người hiếm có trên đời!
    Chàng tắm xong, bước ra ngoài gọi một mâm cơm, chờ Lạc Bình tắm xong sẽ cùng ăn.
    Hơn khắc sau, Ngũ Đài Ma Cơ bước ra. Mái tóc xỏa dài vì chưa khô hẳn và bộ áo vải trắng tinh khiến nàng trông rất giống Trịnh Thiếu Thuần. Hãn Thanh thở dài, nhìn nàng mà nhớ đến người xưa!
    Lạc Bình nào biết điều ấy, sung sướng vì được chàng ngắm nghía, vui vẻ bới cơm, rót rượu. Hãn Thanh chỉ ăn hai chén đã no ngang, buông đũa rót rượu, uống liền ba chung đầy. Trong lúc Lạc Bình ăn nhỏ nhẹ như mèo, Hãn Thanh đã uống được tám chung. Thấy ánh mắt chàng ngày càng thắm thiết, nàng thẹn thùng nói:
    - Công tử cứ nhìn mãi như vậy, làm sao nô tỳ nuốt nổi!
    Hãn Thanh buồn bã nói:
    - Hôm nay, trông nàng rất giống người vợ quá cố của ta!
    Lạc Bình giật mình:
    - Nô tỳ chưa hề nghe võ lâm nhắc đến việc công tử lập gia thất!
    Hãn Thanh cười thảm:
    - Vong thê tên Trịnh Tiểu Thuận, từ trần đã được hai năm. Xác nàng vẫn còn quàng ở núi Hằng Sơn. Ta định cứu xong Hà Hồng Hương sẽ đi đến đấy!
    Lạc Bình ấp úng:
    - Nô tỳ không ngờ công tử lại có nỗi thương tâm to lớn như vậy. Dám hỏi Trịnh nương là người ở đâu, vì sao lại bạc mệnh như vậy?
    Hãn Thanh chẳng biết giải thích thế nào, chỉ nói một câu:
    - Tiểu Thuần là ma chớ không phải là người! Hồn nàng lúc nào cũng quanh quẩn bên ta!
    Lạc Bình tuy mang danh Ma Cơ nhưng lại sợ ma. Nàng co rúm người, liếc quanh như muốn tìm Tiểu Thuần, miệng trách móc:
    - Công tử đừng làm nô tỳ sợ hãi!
    Lạc Bình kéo ghế ngồi sát Hãn Thanh. Và ngay lúc ấy, một ngọn gió lạ lạnh lẽo thổi vào, khiến ngọn nến sáp ong chập chờn như sắp tắt, dù cửa nẻo đều đóng kín. Lạc Bình rú lên ôm chặt lấy Hãn Thanh. Nhưng chàng lại mừng rỡ gọi:
    - Tiểu Thuần! Tiểu Thuần!
    Tiếc rằng chẳng có ai lên tiếng, thấy Ma Cơ run lên bần bật, Hãn Thanh mỉm cười an ủi:
    - Trịnh tỷ tỷ là người nhân hậu, hiền lành, có gì mà nàng phải sợ?
    Lạc Bình ngượng ngùng buông chàng ra. Hai người bàn bạc kế hoạch đột nhập Văn Phong đến tận chiều. Đêm qua, họ ngủ chập chờn trong một chiếc chòi rách ven đường, giờ đây ai cũng mệt mỏi. Ngũ Đài Ma Cơ che miệng ngáp, nhình Hãn Thanh với vẻ van nài! Chàng hiểu ý, bảo nàng:
    - Trịnh Nô đi ngủ đi! Canh ba chúng ta mới khởi hành mà! Ta cũng phải ngã lưng một chút!
    Lạc Bình gọi tiểu nhị dọn chén bát, rồi bẽn lẽn nằm xuống mép giường, chờ Hãn Thanh ngủ say, nàng lăn vào, nằm sát chàng để đở sợ.
    Cuối canh ba có hai bóng đen lướt như bay trên núi Vân Phong. Động Thiên Đạo Quán không một ánh đèn, nằm lưng chừng núi.

  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hãn Thanh và Lạc Bình ngủ quên nên đến trễ. Chính vì vậy họ phát hiện có một toán người đang đi trước mình. Hơn trăm gã hắc y êm thấm tiến dần đến khu rừng tùng vây quanh đạo quán.
    Hãn Thanh luyện phóng ám khí từ năm bảy tuổi nên nhãn lực tinh tường, dù chỉ có ánh sao trời lấp lánh. Chàng nhận ra bộ pháp quen thuộc của bọn môn nhân nhà Mộ Dung, mừng rỡ bám theo. Chàng tin rằng với sự hỗ trợ của họ, việc giải cứu Viên Nguyệt Hằng Nga sẽ dễ dàng hơn. Chàng và Ma Cơ giữ khoảng cách mười trượng với toán người của Nhất Bất Thông. Như vậy là Phi Châm Môn đã nhờ đến lực lượng Hầu Phủ để tập kích sào huyệt của Tây Nhạc Lão Quái.
    Chàng ngạc nhiên khi thấy họ tiến rất nhanh, và không gặp trở ngại nào.
    Nhưng sau bước chân của họ là hàng chục xác người. Nhìn vũ khí cũng biết chúng là thủ hạ Phù Dung Hội!
    Ngũ Đài Ma Cơ hít mạnh vài cái rồi thì thầm:
    - Công tử! Không hiểu sao đám người đi trước lại có được Vô Hình Chi Độc của Thiết Địch Thần Y!
    Chàng hạ giọng đáp:
    - Họ là cao thủ của Mộ Dung Hầu Phủ và Phi Châm Môn, được thống lãnh bởi Nhất Bất Thông Chu Minh. Họ Chu là bằng hữu của Bạch Thần Y, tất nhiên sẽ có loại kỳ độc ấy.
    Nửa khắc sau, phe Chu Minh đã vượt qua phòng tuyến cuối cùng, tiến vào khu vực phía sau đạo quán. Mục tiêu của họ chính là tòa nhà xây bằng đá núi. Chắc chắn nơi đây phải là nơi giam giữ Hà Hồng Hương, vì những công trình khác đều bằng gỗ.
    Nhưng khi còn cách thạch lao hơn mười trượng, bọn Chu Mình nằm cả lại, chỉ cho một người vào dọ thám. Gã này có khinh công cực kỳ linh hoạt, thoắt ẩn thoắt hiện, nương theo những bụi hoa mà áp sát mục tiêu.
    Thấy không ai canh gác, gã hí hoáy mở khóa sắt. Tài nghệ đạo chích của gã thật đáng khen, chỉ nháy mắt đã vô hiệu hóa được hai ổ khóa. Gã đẩy mạnh cánh cửa rồi nép sang một bên, nhờ vậy mà thoát chết vì từ bên trong có bốn lưỡi búa phóng ra nhu ánh chớp.
    Và rồi đèn đuốc sáng rực, tiếng chuông báo động gõ vang. Mấy chục gã sát thủ Phù Dung Hội từ trong ùa ra, nhưng gã hắc y đã nhanh chân tung mình lên nóc thạch lao! Dưới ánh đuốc, vóc dáng gã khá giống Tiểu Hầu Gia Mộ Dung Hãn Thanh.
    Tây Nhạc Lão Quái đã ra đến. Lão cười ghê rợn bảo:
    - Mộ Dung Tiểu Cẩu! Lão phu đã tiên đoán thế nào ngươi cũng đến đây.
    Đêm nay, lão phu sẽ bắt sống ngươi để lấy họa đồ Kim Ngọc Bồng Lai Đảo!
    Gã hắc y bịt mặt cười ha hả, vung tay rải liền mấy trái cầu trắng, tiếng nổ tuy nhỏ nhưng ụi phấn mịt mù, tỏa mùi hăng hắc!
    Hàn Lão Quái kinh hãi quát vang:
    - Mau lùi lại!
    Nhưng tiếc rằng đã có mấy chục tên lảo đảo gục ngã. Và đồng thời bọn Chu Minh từ phía sau ập đến. Độc châm của Phi Châm Môn rải như mưa, loại thêm một số sát thủ nữa.
    Năm mươi cao thủ nhà Mộ Dung lao vào như mãnh hổ, bản lãnh của họ hơn hẳn bọn sát thủ Phù Dung. Lối đánh kiêu dũng, hung hãn của họ càng khiến đối phương khiếp đãm. Dòng máu Hung Nô đang cuồn cuộn trong huyết quản người Tiên Ty, khiến họ không biết sợ là gì.
    Tây Nhạc Lão Quái bị bốn tay đầu não của Phi Châm Môn vây đánh, nhưng xem ra họ không xứng là địch thủ của họ Hàn. Chưởng Kình của Lão Quái hùng mạnh tuyệt luân, đánh bạt cả kiếm lẫn người. Bọn Hà Hồng Tập, Chu Minh, Triệu Huy Phong và Vương Nghĩa Quỳnh phải liều mạng tương trợ lẫn nhau mới tạm duy trì được cuộc chiến.
    Hãn Thanh nói với Ngũ Đài Ma Cơ:
    - Trinh Nô, nàng thử đi một vòng, tìm xem Hà cô nương bị giam ở chốn nào. Ta sẽ tiêu diệt lão họ Hàn kia!
    Nói xong, chàng lướt vòng ra phía sau thạch lao, tung mình lên mái ngói, vung chưởng đánh thủng rồi nhảy xuống, thấy chẳng có tù nhân nào, chàng lo lắng chạy ra cửa trước, đề khí bốc lên cao hơn trượng bủa lưới kiếm xuống đầu Tây Nhạc Lão Quái. Chiêu Nguyệt Trầm Thu Thủy này chuyên dùng để tấn công từ trên xuống. Kiếm quang bàng bạc như ánh trăng, nhờ phản chiếu của đuốc, sa xuống tựa vầng nguyệt rơi rụng mặt hồ thu.
    Phép Ngự Kiếm chẳng mấy người học được, vì vậy mà Hàn Lão Quái nhận ra ngay Hãn Thanh. Lão vội đề khí, nhún chân bay chếch lên cao, tránh thế công của bốn kẻ địch phía dưới. Và rồi lão cử chưởng giáng mạnh vào màn kiếm ảnh của Hãn Thanh.
    Phách không chưởng là tuyệt học thượng thừa của môn võ học Trung Hoa, có thể dùng chân khí đả thương người ở khoảng cách xa. Nay Hàn Thế Đức có đến gần hoa giáp công lực, chưởng kình càng bội phần mãnh liệt. Lão lại căm hận đối phương thấu xương nên dồn hết toàn lực vào song thủ.
    Nào ngờ, chiêu tuyệt kiếm này lại biến hóa khôn lường, chỉ nháy mắt đã xoay dọc thành chiếc mâm dẹp, xé toang chưởng kình, ập vào người đối phương. Mũi kiếm đâm thủng yết hầu và rạch thẳng xuống bụng.
    Phủ tạng Tây Nhạc Lão Quái lộ hẳn ra ngoài, lão rú lên thảm khốc, rơi xuống mặt đất, mắt trợn trừng kinh ngạc và oán hận.
    Hãn Thanh đắc thủ nhưng cũng phải trả giá khá đắt. Cửu ém Thần Chưởng đã khiến chàng hộc máu thành vòi, thân trên lạnh giá tê cứng, và ngực đau đớn vô cùng!
    Chàng vội nuốt liền hai viên Tịnh Cốc Toàn Sinh Đan của Thiết Địch Thần Y rồi ngồi điều tức. Bọn Chu Minh đã nhận ra Tiểu Hầu Gia, mừng rỡ vây chặt để bảo vệ.
    Cuộc chiến chung quanh cũng đã sắp kết thúc vì bọn sát thủ Phù Dung Hội thương vong rất nhiều. Bọn còn lại đều đào tẩu cả. Hà Hồng Tập vội quát thủ hạ lục soát, tìm cho được Hà tiểu thư. May thay, một gã hắc y nhỏ thó đã cõng Viên Nguyệt Hằng Nga chạy đến. Thấy Hãn Thanh ngồi vận khí mà máu miệng cứ ứa ra, gã vội trao Hà Hồng Hương cho Vương Nghĩa Quỳnh, phó môn chủ của Phi Châm Môn, rồi quỳ xuống cạnh Hãn Thanh.
    Hà Hồng Tập mừng rỡ hỏi:
    - Các Hạ là cao nhân phương nào mà lại cứu được khuyển nữ?
    Gã lột khăn che mặt, để lộ dung nhan kiều diễm rồi ngượng ngùng đáp:
    - Tiện nữ là nô tỳ của Tiểu Hầu Gia! Công tử đã sai nô tỳ đi tìm Hà tiểu thư, may mà không nhục mệnh!
    Tinh Châu Tài Thần thấy nàng xinh đẹp và có phần quyến rũ hơn ái nữ của mình, lòng vô cùng thắc mắc.
    Tuyệt đại hồng nhan ở đất Sơn Tây chỉ có hai người, Nhất Bất Thông kiến văn rộng như biển, trí nhớ lại phi thường. Ông từng gặp Ngũ Đài Ma Cơ nên vẫn chưa quên, liền hỏi:
    - Phải chăng cô nương họ Lạc?
    Ma Cơ thản nhiên đáp:
    - Tiện nữ là Mộ Dung Trinh Nô!
    Chu Minh bán tín bán nghi nhưng không dám hỏi thêm.
    Vương Tứ Nương không làm sao cho Hà Hồng Hương tỉnh lại được, liền hỏi Chu Minh:
    - Nhị ca! Hương nhi vẫn mê man bất tỉnh!
    Nhất Bất Thông thăm mạch cho cháu gái, lắc đầu chịu thua. Ngũ Đài Ma Cơ nói ngay:
    - Hà tiểu thư bị cho uống Thập Nhất Túy, phải đưa về gặp Thiết Địch Thần Y mới giải được!
    Chu Minh nghe xong càng khẳng định nàng là đại ma nữ Lạc Bình. Sư phụ nàng, Kim Thạch Tà Tẩu tinh thông nhiều môn tuyệt học như kiến trúc, địa chất, thiên văn, hàng hải, y thuật và độc dược. Mộc Tiểu Luân học gì cũng giỏi hơn người, kiến thức sâu sắc, chứ không phải chỉ có bề rộng như Nhất Bất Thông!
    - Tuy trò chuyện nhưng mọi người đều dán mắt quan sát Hãn Thanh.
    Lúc này mồ hôi chàng toát ra như tắm, đến nỗi chiếc mặt nạ da người rơi ra.
    Cuối canh năm, Hãn Thanh mới hồi phục, đứng lên. Đám môn nhân nhà Mộ Dung hân hoan quỳ cả xuống:
    - Chúng đệ tử mừng Tiểu Hầu Gia thoát hiểm!
    Bọn họ băng bó đầy người nhưng chỉ là những vết thương nhẹ và không ai bỏ mạng. Hãn Thanh phủ dụ họ vài câu rồi quay sang bái kiến Chu Minh cùng ba lão nhân của Phi Châm Môn. Nhìn thấy Viên Nguyệt Hằng Nga nằm trong lòng Vương Tứ Nương, chàng hài lòng khen ngợi Lạc Bình:
    - Trinh Nô giỏi lắm!
    Ngũ Đài Ma Cơ sung sướng cúi đầu. Hãn Thanh quay sang nói với Chu Minh:
    - Mong Chu đại thúc đưa ngay anh em về Lạc Dương để bảo vệ lão Hầu Gia, bất tất phải đi theo tại hạ làm gì! Nghe nói Thần Tiên Giáo đã có kế hoạch vào quốc khố để tìm bản đồ Bồng Lai Đảo. Nếu họ thất bại sẽ tìm cách bắt lão Hầu Gia, dùng tà pháp mà mê hoặc!
    Những điều này đều do Ngũ Đài Ma Cơ tiết lộ cho Hãn Thanh nghe. Kim Thạch Tà Tẩu chính là tình nhân của Hải Hà Tiên Tử, và đóng vai trò quân sư cho mụ ta!
    Nhất Bất Thông rầu rĩ hỏi lại:
    - Sao công tử không nghĩ đến an nguy của bản thân mình?
    Hãn Thanh cười đáp:
    - Với dung mạo giả này, ai nhận ra được mà phải sợ?
    Quả thực là nghệ thuật chế tác mặt nạ da người đã bị thất truyền. Hai chiếc mà Thiết Địch Thần Y đã tặng cho Hãn Thanh đáng xem là báu vật. Nó rất tinh xảo và giống như thật, khó ai khám phá ra được.
    Hãn Thanh nói thêm:
    - Tại hạ đi lên hướng Bắc có chút việc riêng, chắc chắn sẽ về Lạc Dương trước ngày khai đàn của Thần Tiên Giáo ở Tung Sơn!
    Nhất Bất Thông lo lắng cho lão Hầu Gia nên đồng ý rút quân, chỉ nhắc nhở Hãn Thanh bảo trọng.
    Chàng không để Phi Châm Môn mở lời cảm tạ, lạnh lùng cáo từ đi ngay!
    Hà môn chủ cay đắng nói:
    - Chỉ vì mụ già ngu xuẩn mà lão phu hụt mất chàng rể quý. Tội nghiệp cho Hương nhi!
    Nhất Bất Thông cười khà khà:
    - Đại ca chớ lo! Tiểu đệ đã có diệu kế để tác hợp mối lương duyên này Hà Hồng Tập hoan hỉ bảo:
    - Diệu kế gì, nhị đệ mau nói cho ta rõ!
    Chu Minh nghiêm giọng:
    - Lão Hầu Gia đang muốn cho Hãn Thanh lập gia thất. Nay ta đưa Hồng Hương đến Lạc Dương để kề cận lão Hầu Gia. Nếu Hương nhi chiếm được lòng thương yêu của Mộ Dung Cẩn, chẳng lẽ Tiểu Hầu Gia dám cãi lời nội tổ?
    Hà môn chủ và hai em hết lời khen ngợi Nhất Bất Thông, quyết định sẽ theo kế ấy mà thi hành!

  9. #18
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 7

    Thủy Biên Nhân Quỷ Vi Phu Phụ
    Bán Dạ Tân Lang Đáo Hoàng Tuyền

    Ngũ Đài Ma Cơ sinh trưởng và thành danh ở đất Sơn Tây nên rất thông thuộc địa hình, đường sá. Nàng đưa Hãn Thanh lên hướng Bắc bằng lối tắt, không cần phải ghé qua Tinh Châu.
    Đường núi gập ghềnh nhưng cảnh thiên nhiên vô cùng diễm lệ. Hoa xuân nở rộ khắp nơi, thú rừng nhộn nhịp mùa giao phối.
    Với tài nghệ của hai người, chẳng lo thiếu thịt ăn, nước uống đã có suối nguồn. Đêm đến, họ gầy đống củi, nằm bên nhau trò chuyện. Hãn Thanh thản nhiên ôm lấy thân hình mềm mại của Lạc Bình mà ngủ. Chàng luôn nghĩ đến hồn ma của Tiểu Thuần nên chẳng động tình trước mùi u hương quyến rũ và da thịt mượt mà của Ma Cơ. Tuy nhiên, tình cảm trong lòng chàng mỗi ngày một thắm thiết.
    Hãn Thanh đã kể hết mối tình của mình với hồn ma cho Lạc Bình nghe.
    Nàng sa lệ thương xót Tiểu Thuần chứ không bài bác chàng là người hoang tưởng. Cuộc tình kia tuy mang màu sắc ma quái nhưng đẹp biết bao, thường nhân luyến ái chẳng thể nào được như vậy!
    Năm ngày sau, hai người ra đến đường quan đạo, cách Tinh Châu hơn trăm dặm. Từ đây đến Hằng Sơn, Hãn Thanh không có kẻ thù nên chẳng hóa trang làm gì. Sau khi giết được Tây Nhạc Lão Quái, chàng tự tin vào sở học của mình. Tuy công lực còn yếu kém, nhưng nếu biến hóa, xử dụng đúng lúc sẽ đạt kết quả tốt. Nhưng điều ấy cũng nói lên nhược điểm của chàng, vì kẻ địch chẳng phải một người, đâu ai chờ chàng hồi phục mới tấn công? Hãn Thanh ước ao tìm được Hồng Sắc Mãng Xà để hoàn thành công phu Thiên Ma Bách Luyện và tăng thêm mười năm chân khí!
    Chàng đã nói điều này với Ngũ Đài Ma Cơ. Chính vì thế, khi đi ngang dãy núi Ngũ Đài Sơn, Lạc Bình thỏ thẻ nói:
    - Công tử! Nô tỳ còn một nhủ nương ở dưới chân núi Ngũ Đài. Lần này, nô tỳ ly khai môn phái, trước sau gì gia sư cũng biết, lúc ấy sẽ di hại đến nhũ nương. Nhân lúc gia sự bận việc xây dựng tổng đàn ở Tung Sơn, và nội tình chưa đổ bể, nô tỳ sẽ về núi Nam Đài, bảo nhũ nương dọn nhà đi nơi khác.
    Đồng thời, nô tỳ sẽ lục tìm trong thư các của gia sư, may ra biết được Hồng Sắc Mãng Xà ở địa phương nào. Sau đó, nô tỳ sẽ đến Hằng Sơn tìm công tử!
    Hãn Thanh cân nhắc, biết nàng không hề gặp nguy hiểm, liền chấp thuận:
    - Trinh Nô cứ đi, nhưng nhớ bảo trọng! Nàng hãy bảo nhũ nương về Hầu Tước phủ ở Lạc Dương mà nương náu. Sau này, nàng mới có dịp cận kề mà phụng dưỡng!
    Lạc Bình mừng rỡ, nhìn chàng say đắm, đôi mắt nhung huyền ướt rượt như hoa đào:
    - Công tử định đưa cả nô tỳ về Hầu Phủ sao?
    Hãn Thanh cười mát:
    - Chẳng lẽ nàng không muốn thế? Ta sẽ giữ nàng cho đến khi xuất giá mới thôi!
    Ma Cơ thẹn thùng nói:
    - Nô tỳ sẽ mãi mãi theo hầu công tử, chẳng đi đâu cả!
    Câu nói và ánh mắt nói lên mối tình tha thiết của nàng khiến Hãn Thanh xao xuyến đến tận cùng. Nếu không bị chìm đắm trong cuộc tình ma mị với Tiểu Thuần, chàng đã sớm nhận rõ vị trí của Lạc Bình trong tim mình!
    Hãn Thanh bối rối nhìn theo bóng Lạc Bình xa dần về hướng Đông, lòng bỗng nghe trống vắng. Cảm giác ấy càng tăng khi một mình chàng dong ruổi đến Hằng Sơn. Xuân đã về, cảnh vật bên đường tươi thắm, rực rỡ hơn nhưng sai chàng vẫn cảm thấy buồn!
    Con người là giống đa tình nhất thế gian, bảo sao Hãn Thanh không rung động trước nhan sắc và tâm tình của Ma Cơ!
    Hãn Thanh ra roi phi nước đại, nửa tháng sau mới đến Hằng Sơn. Thấy bìa rừng có căn thảo xá mới, chàng ghé vào gởi ngựa. Chủ nhà là một gã tiều phu lực lưỡng, tuổi tam tuần. Vợ gã và đứa con sáu tuổi cũng chạy ra xem khách lạ.
    Hãn Thanh vòng tay nói:
    - Tại hạ có việc phải vào núi. Mong đại huynh chăm sóc dùm tuấn mã!
    Phong thái chàng rất tôn quý uy nghiêm, dù khiêm tốn vẫn lộ rõ giòng dõi vương hầu. Gã tiều phu vội đáp:
    - Công tử yên tâm, tiểu nhân xin tận lực!
    Hãn Thanh trao cho gã nén bạc mười lượng rồi dặn dò:
    - Khi nào có một nữ lang thắt bím đến hỏi thăm, mong đại huynh chỉ lên ngọn núi thấp kia!
    Gã tiều phu run rẩy nhận bạc, vái dài:
    - Công tử quả là hào phóng. Lỗ Nhị xin đa tạ!
    Đôi mắt của gã cũng sáng lên vì nén bạc trắng. Đối với người nghèo, dù làm lụng cực khổ năm năm cũng không dư được mười lượng!
    Lỗ Nhị rụt rè hỏi:
    - Phải chăng công tử định lên ngọn núi thấp kia?
    Gã vừa nói vừa chỉ về phía ấy. Hãn Thanh gật đầu và Lã Nhị thì thầm:
    - Bẩm công tử! Ngọn núi ấy có tên là Bách Mộc Phong, vì khu rừng chung quanh và trên sườn núi có rất nhiều cây bách. Từ sáu năm trước, ở đấy đã xuất hiện một con ma áo trắng. Mấy tháng trước, chàng công tử họ Hà, nam tử của lão Thần Tiên Bắc Nhạc, xua chó lên núi Bách Mộc săn bắn, bị ma bắt hồn nên đến nay vẫn chưa hồi tỉnh. Lão Thần Tiên đã lập đàn nơi chân núi để trấn yểm quỷ hồn!
    Hãn Thanh cau mày:
    - Thế con ma ấy còn làm hại ai khác nữa không?
    Lỗ Nhị lắc đầu:
    - Con ma ấy rất hiền lành, nếu không thì tiểu nhân đâu dám dựng nhà chốn này! Có lẽ do vị Hà công tử kia làm náo loạn nơi tu luyện nên Quỷ Hồn mới trách phạt!
    Hãn Thanh thở phào, cười bảo:
    - Thực ra con ma ấy rất xinh đẹp và đáng yêu!
    Trong lúc vợ chồng Lỗ Nhị còn ngơ ngác, chàng xách bọc hành lý phi thân về hướng Bách Mộc Sơn. Khi đi hết đoạn đường mòn xuyên rừng Bách, đến bãi cỏ trống tiếp giáp sườn núi, chàng phát hiện một đài gỗ cao. Trên mộc đài vẫn còn cờ xí, bát nhang và một hình nhân bằng rơm, mặc áo giấy.
    Hình nhân này bị dán hai đạo bùa vẽ những nét ngoằn ngoèo, giống chữ nhưng không phải chữ. Đạo gia gọi lối chữ vẽ bùa này là Văn Triện, Đan Thư hay Mặc Triện.
    Hãn Thanh đã từng đọc qua vài quyển trong Đạo Tạng, nên biết về nghi thức Nhượng Tai Kỳ Phúc, trấn quỷ trừ ma của các đạo sĩ.
    Chàng cười nhạt, lột hai lá bùa chữ đỏ ra khỏi hình nộm, xé vụn, rồi nhảy xuống đất, vận toàn lực xô ngã pháp đàn!
    Xong xuôi, chàng mới yên tâm thượng sơn. Lên đến bình đài, Hãn Thanh giật mình khi thấy cửa hang đã mở rộng, và những tảng đá nằm lăn lóc bên cạnh. Chàng kinh hãi, lao nhanh vào động khẩu, vui mừng nhận ra thi hài của Trịnh Tiểu Thuần vẫn còn nằm ngay ngắn trên thạch sàn! Làn da trắng bệch, nhợt nhạt nhưng vẫn mịn màng, mềm mại chứ không có mùi hôi!
    Hãn Thanh quy cạnh giường đá, gục đầu vào ngực Tiểu Thuần mà khóc vùi:
    - Trịnh nương! Ta sẽ đưa thi hài nàng về Lạc Dương để phu thê được gần gũi!
    Việc Bắc Nhạc Quỷ Trảo dựng đàn trấn yếm khiến chàng lo ngại, quyết định đưa xác Tiểu Thuần rời Bách Mộc Phong ngay! Nếu để lão lên đến tận nơi này thi sẽ không để yên cho Tiểu Thuần!
    Hãn Thanh từng nghe nghĩa phụ Nam Nhạc Nhất Tà kể rằng Hà Tu Nghệ còn khó chơi hơn Tây Nhạc Lão Quái. Chàng đơn thân độc mã, dù có đả bại được lão ta cũng dám bỏ mạng vì đám đệ tử!
    Hãn Thanh thu xếp hành lý của Tiểu Thuần rồi bồng nàng xuống núi, đến nhà Lẫn Nhị lấy ngựa.
    Vợ chồng họ Lỗ thấy chàng ẳm một nữ nhân áo trắng, tóc dài, mặt nhợt nhạt như xác chết, sợ hãi run lên cầm cập. Hãn Thanh trấn an:
    - Nhị vị đừng sợ! Đây là chuyết thê! Tại hạ sẽ mang nàng về nhà!
    Hãn Thanh cáo biệt, bồng Tiểu Thuần nhảy lên ngựa, ra roi đi ngược về hướng Nam. Dọc đường chàng vẫn để ý nhìn xem có thấy Ngũ Đài Ma Cơ đi lên hay không! Qúa trưa! Hãn Thanh đến một đại trấn có tên là Vinh Xương trấn, nghe đói bụng, chàng ghé vào phạn điếm dùng bữa.
    Thực khách và tiểu nhị đều trố mắt nhìn chàng công tử đẹp trai đang bồng một nữ nhân tóc dài. Thi thể Tiểu Thuần mềm mại và không có mùi hôi thối nên họ chỉ nghĩ rằng nàng mắc bệnh chứ chưa chết hẳn.
    Hãn Thanh ngồi xuống, vẫn đặt ái thê trong lòng, nghiêm giọng gọi cơm rượu. Ở vùng Bắc Hoàng Hà, do không trồng được lúa nên lê thứ thường ăn bánh bao thay cho cơm. Nhờ vậy, Hãn Thanh chỉ dùng một tay cũng có thể bốc thịt và bánh.
    ún xong chàng vẫy lão chưởng quỷ. Lão rụt rè bước đến:
    - Chẳng hay công tử có diều chi chỉ bào?
    Chàng dịu giọng:
    - Chuyết thê đột ngột lâm bệnh dọc đường, phiền lão mua giúp một xe độc mã, mui kín, loại tốt nhất, giá cả không thành vấn đề!
    Lão ta mừng rỡ đáp:
    - May quá! Lão phu có một cỗ xe chạy rất êm nhưng ít khi dùng đến. Nếu công tử cần, lão phu xin nhượng lại!
    Chàng gật đầu:
    - Hay lắm! Phiền lão cho người thắng ngựa của tại hạ vào xe!
    Ba khắc sau, cỗ xe đã sẵn sàng. Cái xe giá năm chục lạng cũng không đắt vì xe còn tốt và rất êm ái!
    Hãn Thanh bảo lão mua giùm nệm bông, chăn gối, lót vào sàn xe. Tất nhiên phải dỡ bỏ ghế ngồi!
    Chàng thanh toán bằng bạc trắng, vì đến thời này thì Đại Minh Thông Hành Bảo Sao loại tiền giấy của triều đình đã không còn giá trị nữa. Vàng bạc lại trở thành tiền tệ trong nước!
    Có xe ngựa, Hãn Thanh mua thêm lương khô, nước uống để phòng khi đường dài không có quán ăn. Đêm đêm, chàng đậu xe ở bìa rừng, ôm lấy xác Tiểu Thuần mà ngủ.
    Thấy thi thể nàng không bị hư hoại, Hãn Thanh vẫn nuôi hy vọng hồi sinh, ngày nào cũng nhỏ máu vào miệng và tiến hành thủ thuật châm cứu.
    Mùa xuân đến, tuyết trên núi ta dần, tạo thành hàng ngàn dòng suối nhỏ trong mát. Hãn Thanh thường ghé vào rừng tắm gội, thay y phục cho ái thê.
    Gần cuối tháng ba, Hãn Thanh chỉ còn cách chỗ chia tay với Ngũ Đài Ma Cơ chừng vài trăm dặm. Chàng rất lo lắng khi không thấy nàng đâu.
    Nhưng chàng lại tự an ủi rằng Lạc Bình võ nghệ cao siêu, cơ trí tinh minh, tất sẽ không sao. Hơn nữa, việc nàng ly khai sư môn cũng chưa ai biết cả.
    Thấy mái tóc óng ả của Tiểu Thuần phủ đầy bụi đường, Hãn Thanh vận công phu nghe ngóng, phát hiện tiếng thác reo, liền rẻ ngựa vào cánh rừng mé hữu. Xe chỉ vào được vài chục trượng là không còn đường để đi. Hãn Thanh xuống xe, ẵm Tiểu Thuần và mang hành lý đi sâu thêm nữa. Quả nhiên giữa rừng có dòng thác chảy xuống từ vách đá cao. Chân thác là một hồ nước nhỏ, bờ Đông là Thạch Bàn bằng phẳng, cao hơn mực nước một sải tay. Vì vậy nước của thác tràn ra thành dòng suối chảy về phía Nam.
    Hãn Thanh đặt Tiểu Thuần lên Thạch Bàn, cởi hết xiêm áo rồi bồng xuống hồ nước. Chàng tắm gội cho ái thê mà nước mắt tuôn như suối.
    Chàng đã quá quen thuộc với thân thể dấu yêu này, nhẹ nhàng gột sạch bụi đất. Thấy móng tay nàng dài hơn trước rất nhiều, chàng vô cùng sung sướng, tin rằng sẽ có ngày Tiểu Thuần sống lại!
    Tắm xong, chàng bồng nàng trở lên, đặt lên trên chiếc áo choàng. Thân hình trắng như ngọc bích tuyệt đẹp nhưng chỉ gợi cho Hãn Thanh cảm giác yêu mến và tôn sùng.
    Hãn Thanh cởi bộ y phục ướt đẫm của mình, trở xuống tự tắm rửa.
    Chàng bơi ra giữa hồ, nơi mực nước ngập ngang ngực để gội đầu.
    Nào ngờ, thân dưới của chàng dột nhiên bị quấn chặt bởi một con vật dài ngoằng, trơn tuột. Và khi nó thò đầu lên khỏi mặt hồ, ngoác chiếc mõm rộng đầy răng ngược, chàng mới nhận ra đấy là một con trăn khổng lồ.
    Hãn Thanh đang gội đầu nên hai tay giơ cao, không bị mãng xà quấn lấy.
    Chàng chụp ngay cổ con vật xiết mạnh, lực đạo ở song thủ của Hãn Thanh mạnh đến mấy trăm cân, chỉ chốc lát đã vặn gẫy cổ mãng xà.
    Thân hình nó lỏng ra, rời khỏi con mồi. Hãn Thanh rất thích món rắn nướng liền kéo lên bờ. Chàng mừng rỡ rú lên khi thấy con trăn này có lớp vẩy đỏ hung. Nó chính là con Hồng Sắc Mãng Xà mà chàng mong ước.
    Hãn Thanh rút kiếm chặt phăng chót đuôi con vật, và kê miệng hút mạnh luồng máu quý giá. Chàng uống đến căng bụng mới buông ra.
    Lát sau, đan điền nóng như có lửa đốt, Hãn Thanh vội ngồi xếp bằng, dùng Nhất Nguyên Chân Khí dẩn dắt nhiệt lượng kia vào kinh mạch.
    Nửa giờ sau, dược lực của máu rắn ta hết, cơ thể Hãn Thanh sung mãn phi thường. Chàng liền xả công, mở mắt ra. Chàng ngồi điều tức cạnh thi hài Tiểu Thuần nên nhìn thấy ngay. Một cảm giác thèm khát ghê gớm xâm chiếm tâm hồn chàng và chân khí lập tức rối loạn, mạch máu căng phồng như sắp vỡ tung.
    Hãn Thanh kinh hoàng, vội nhẩm khẩu quyết tĩnh tâm, cố điều hòa kinh mạch và trấn áp lửa dục. Nhưng chàng chỉ uổng công vì sự thèm khát nhục dục càng lúc càng tăng. Chàng hiểu rằng máu mãng xà đã đưa đến hiện tượng này, nếu không ân ái ngay sẽ chết vì tẩu hỏa nhập ma.
    Nhưng Hãn Thanh không thể nào xúc phạm đến người mình yêu kính.
    Chàng bò lại gần Tiểu Thuần, khóc mà nói rằng:
    - Trời đã định cho đôi ta kiếp sau mới nên chồng vợ. Nay lửa dục sắp biến ta thành kẻ vô lương. Thanh này sẽ tự sát để khỏi tổn thương danh tiết của cả hai.
    Nói xong, chàng cầm thanh Hầu Tước Kiếm, đâm mạnh vào ngực. Nào ngờ, tử thi ngồi bật dậy, chụp lấy tay chàng, đoạt kiếm vất ra xa rồi mỉm cười:
    - Ôi chàng ngốc của ta!
    Hãn Thanh vui mưng khôn xiết, gầy ngay cuộc ái ân nồng nhiệt.
    Đến tận hoàn hôn chàng mới tỉnh lại, nhận ra Tiểu Thuần đã biến mất, kinh hãi gọi vang. Nhưng người ngọc đã biệt tăm, dù trên mảnh áo choàng vẫn còn dấu tiết trinh. Và cạnh đấy là mấy dòng chữ:
    "Tướng công nhã giám! Thiếp rất yêu chàng nhưng ngại thân phận xấu xa, chẳng dám cùng chàng sánh bước. Nếu chàng không chê bỏ xin đến đất Phong Đô Tứ Xuyên đúng ngày rằm tháng bảy sang năm, qua cửa Quỷ Môn Quan hội ngộ! Lạc Bình là cô gái rất tốt. Chàng đừng chê bỏ! Thiếp không ghen đâu!
    Bạch Nhật Quỷ Hồn tái bút " Hãn Thanh tuy buồn ly biệt nhưng lại mừng vì còn có cơ hội sum vầy.
    Chàng mặc y phục và nướng thịt Hồng Sắc Mãng Xà mà ăn.
    Chàng suy nghĩ mãi về trận ái ân lúc nãy, nhớ rõ mồn một những cử chỉ nồng nàn của mỹ nhân. Những vết cào trên lưng chàng chứng tỏ Tiểu Thuần cũng cảm xúc mạnh mẽ, và lúc ấy, da thịt nàng ấm áp, hồng hào chứ không trắng bệch. Phải chăng nàng là người bằng xương bằng thịt?
    Nhưng nếu là người thì lẽ nào nàng bám theo chàng để hỗ trợ mà không bị phát hiện? Và sau cuộc mây mưa, vì sao nàng lại bỏ đi?
    Dẫu sao, đối với chàng thì ma hay người cũng chẳng quan trọng. Chàng quyết chờ đến sang năm sẽ đi Tứ Xuyên tìm Tiểu Thuần.
    Theo truyền thuyết của Đạo Giáo thì cửa xuống âm ty ở tại đất Phong Châu, tỉnh Tý Xuyên. Tuy không lấy gì làm bằng cớ nhưng các tín đồ Thien Sư Giáo đều tin như vậy!
    Hãn Thanh đọc lại thư của Tiểu Thuần, mỉm cười khi thấy nàng rộng lượng dung nạp cả Ngũ Đài Ma Cơ! Chàng chợt lo lắng cho Lạc Bình, vác xác mãng xà theo làm lương thực, trở ra xe đi ngay, chàng biết thịt loại rắn này rất quý nên không muốn bỏ phí. Lúc nãy chàng đã nuốt mật và ăn hết tim gan của nó!
    Bốn ngày sau, Hãn Thanh đến ngã ba, nơi chàng chia tay với Ngũ Đài Ma Cơ. Thịt rắn đã hết, lại đang là đầu giờ Ngọ, Hãn Thanh ghé vào quán bên đường dùng bữa!
    Phạn điếm này rất rộng, chiếm cả một khu đất ngay ngã ba đường. Nó chia làm hai phần chay mặn khác nhau, tuy chung một chủ nhân.
    Ai ăn chay thì bước vào Duyên Giác Trai Đường. Ai phá giới thì đã có rượu thịt của Bình An Tửu Điếm.
    Hôm nay chẳng phải là ngày trai giới nên chỉ có tửu điếm là đông khách.
    Hãn Thanh ngạc nhiên nhận ra thực khách toàn là hào kiệt giang hồ.
    Từ ngày rời Hoa Sơn đi lên hướng Bắc, Hãn Thanh không hề cạo râukhiến dung mạo chàng già dặn và đổi khác. Chàng mang giòng máu Tiên Ty nên đa mao, chưa đến hai mươi tuổi mà râu mép, râu cằm rậm rạp, phủ xuống tận tai. Phải là người quen thuộc mới dám khẳng định chàng trai râu ria này là Tiểu Hầu Gia!
    Tuy nhiên, lúc này Hãn Thanh trông rất uy vũ, hiên ngang, chứ không măng sữa như lúc trước. Mọi người nhìn chàng nhưng không nhận ra, tiếp tục trò chuyện rôm rả. Hãn Thanh ngồi xuống một bàn trống gọi thức ăn rồi lắng nghe. Thì ra đám hào khách này là cao thủ vùng Thiểm Tây, Sơn Tây, đến Kim Thạch Sơn Trang dự hôn lễ. Tân lang là Mộc Kỳ Dương, nam tử của Kim Thạch Tà Tẩu. Còn cô dâu là Ngũ Đài Ma Cơ Lạc Bình.
    Hãn Thanh choáng váng, không ngờ sự tình lại tệ hại như vậy. Chàng biết Lạc Bình yêu mình tha thiết, không có lý nào lại lấy Mộc công tử. Như vậy là nàng đã bị ép duyên! Chàng cố bình tâm nghe tiếp, được biết rằng bang chủ Tây Bang Hứa Hữu Tinh và bang chủ Kiếm Bang Từ Cư Chính đã quy phục Thần Tiên Giáo, nhận chức phó giáo chủ!
    Ba lão kỳ nhân trong Ngũ Nhạc giờ đây đã đổi chức danh thành Khách Khanh Hộ Giáo.
    Hãn Thanh nhớ đến Nam Hồ Ngư Nữ Diệp Tuyết Hoa. Dù đã xa cách hơn năm năm, chàng vẫn còn nhớ rõ dung mạo kiều diễm và thùy mị của nàng.
    Hãn Thanh lơ đãng nhìn ra cửa, thấy có thêm khách vào quán. Người ấy chính là Thương Tâm Kiếm én Khiếu Hồ, kẻ đã cứu mạng chàng ở Tinh Châu hồi đầu tháng hai!
    Họ én không nhận ra Tiểu Hầu Gia, điềm nhiên ngồi xuống bàn gần đấy.
    Trang phục của gã vẫn như ngày nào, áo cừu đen và nón rộng vành. Tuy ăn uống,gã vẫn không chịu lột nón, chỉ hất cho cao lên một chút, để vành nón không chạm tô canh trước mặt.
    Thương Tâm Kiếm là người độc lai, độc vãng, nên chẳng ai hỏi han đến gã. Hãn Thanh vẫn nhớ ơn tương trợ, định sang cùng họ én đối ầm. Nhưng tiếng vó ngựa dập dồn khiến chàng phải nhìn ra ngoài. Toán kỵ mã này đông đến mười mấy người, và toàn là đạo sĩ. Đi đầu là một đạo nhân tuổi thất tuần, râu tóc bạc như mây, vóc dáng cao gầy, da đen sạm. Trán lão hơi thấp nhưng lưỡng quyền nhô cao, đôi mắt dài nhỏ lấp loáng hàn quang!
    Quần hào xôn xao bàn tán:
    - Không ngờ Bắc Nhạc Quỷ Trảo cũng đến dự đám cưới con trai Tà Tẩu.
    Có cả ái tử của lão là Bạch Diện Vũ Sĩ Hồ Lai Minh nữa!
    Thi ra gã hán tử tam tuần mặt trắng đi sau lưng Quỷ Trảo chính là gã công tử đã bị Tiểu Thuần bắt hồn. Có lẽ gã đã bình phục nên dáng điệu rất cao ngạo, hiên ngang!
    Thanh danh của Hà Tu Nghệ rất lớn, vì vậy quần hào đều đứng lên vòng tay chào hỏi. Chỉ có Thương Tâm Kiếm và Hãn Thanh ngồi yên.
    Bắc Nhạc Quỷ Trảo vốn xuất thân từ Thiên Sư Giáo ở phương Nam, vì xích mích với giáo chủ nên ly khai môn phái đến Hằng Sơn lập đạo quán. Lão có đạo danh là Ngọc Thanh Chân Nhân, tự xưng là Bắc Phương Chính Nhất Quán Chủ, truyền bá đạo giáo. Giáo qui của phái Chính Nhất tức Thiên Sư Giáo không cấm lấy vợ, ăn thịt, nên được rất nhiều tín đồ gia nhập.
    Quỷ Trảo tươi cười vòng tay đáp lễ quần hùng. Riêng Hà Lai Minh quắc mắt nhìn Hãn Thanh và Thương Tâm Kiếm.
    Nếu không nghĩ rằng họ cũng là khách cùng đi dự đại hỉ thì gã đã phát tác rồi.
    Bạch Diện Cư Sĩ học được tám thành chân truyền của pho Quỷ Trảo, hai bàn tay không sợ đao kiếm nên mục hạ vô nhân, chẳng coi ai ra gì cả!
    Danh hiệu Vũ Sĩ của Hà Lai Minh không có nghĩa như Từ Võ Sĩ, mà chính là một chức sắc trong hệ thống đạo giáo Chân Quân, Chân Nhân, Vũ Sĩ...
    Bọn Quỷ Trảo ngồi chưa ấm chỗ thì lại có thêm một đoàn nhân mã nữa xuất hiện.
    Hãn Thanh không nhận ra lai lịch họ nhưng bàn gần đấy đã mau miệng khoe khoang kiến văn:
    - Phó giáo chủ Thần Tiên Giáo Hứa Hữu Tinh!
    Như vậy, chàng trai cụt tay đi cạnh lão chính là gã dâm tặc Hứa Duy Dương, kẻ từng bắt cóc Viên Nguyệt Hằng Nga Hà Hồng Hương! Giờ đây lột bỏ lớp hóa trang vàng võ, trông gã khá anh tuấn, nhưng sắc diện xanh xao, hiểm ác!
    Ở tuổi tam thập mà bị thiến mất dương vật, bảo sao gã không oán hận cuộc đời!
    Tây Bang hùng cứ miền Nam đất Thiểm Tây nên các hào khách Thiểm Tây đều đứng lên chào!
    Hứa Hữu Tinh đáp lễ qua loa rồi bước đến bái kiến Bắc Nhạc Quỷ Trảo.
    Danh phận Khách Khanh Hộ Giáo và Phó giáo chủ cũng ngang nhau, nhưng Hà Tu Nghệ thuộc hàng bô lão võ lâm nên họ Hứa phải chịu lép.
    Hãn Thanh thấy rõ vẻ gượng gạo của hai lão ma. Họ cùng ở dưới trướng Hải Hà Tiên Tử nhưng dường như chẳng ưa nhau. Phu Tử từng nói:
    "Tiểu Nhân đồng nhi bất hòa!" bọn lang sói hợp đàn săn bắt, nhưng lại luô sẵn sàng cắn xé nhau để tranh miếng ngon.
    Hứa Hữu Tinh nguyên bang chủ Tây Bang tuổi chỉ độ sáu mươi, dung mạo anh tuấn:
    trán cao, mắt sáng, mũi diều, môi mỏng, thần thái uy nghiêm.
    Thoạt nhìn, chẳng ai dám cho rằng lão là kẻ gian hùng đáng sợ, dám tổ chức Phù Dung Hội để cướp bóc, giết người!

  10. #19
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Bản lãnh của mấy trăm sát thủ Phù Dung đã chứng tỏ được tài thao lược của Hứa Hữu Tinh. Chính nhờ lực lượng tinh nhuệ này, lão đã được Hải Hà Tiên Tử lôi kéo, ban cho chức Phó giáo chủ!
    Lúc này, Thương Tâm Kiếm én Khiếu Hồ đã ăn xong, vẫy tiểu nhị tính tiền rồi đứng lên rời quán.
    Hứa Hữu Tinh vẫn ngoan cố phủ nhận mối liên quan với Phù Dung Hội, nên tảng lờ như không có thù hận gì với Thương Tâm Kiếm. Kẻ có dã tâm to lớn thường chẳng dại gì khoác lấy ác danh!
    Hơn nũa trên vai én Khiếu Hồ là một bọc vải chứa hộp lễ vật vuôn vức.
    Gã là khách mời của Kim Thạch Tà Tẩu, tất sư môn có quan hệ với Mộc Tiến Luân. Họ Hứa dù rất căm ghét nhưng không dám làm càn! Nếu không có Thương Tâm Kiếm thì Tây Bang đã giết được Tiểu Hầu Gia rồi!
    Mộ Dung Hãn Thanh cũng nhận ra họ én cũng đang đến Ngũ Đài Sơn dự hôn lễ, trong đầu liền nảy ra kế hoạch mới. Chàng cũng đứng lên kêu tính tiền rồi rời tửu quán, đuổi theo Thương Tâm Kiếm.
    Đến một đoạn đường vắng, chàng thúc ngựa chạy song song với én Khiếu Hồ rồi nói:
    - én các hạ! Tại hạ là Mộ Dung Hãn Thanh đây! Mong các hạ ghé vào trong rừng, tại hạ có chuyện muốn nói!
    Thương Tâm Kiếm quay sang nhìn chăm chú, rồi đi theo Hãn Thanh.
    Hai người vào khá sâu để người ngoài không thấy được. Khi đến bãi cỏ trống mới dừng cương! Họ én lạnh lùng hỏi:
    - Chẳng hay Tiểu Hầu Gia có điều chi chỉ giáo?
    Hãn Thanh nghiêm giọng:
    - Ngũ Đài Ma Cơ vốn là tỳ nữ của tại hạ, nhưng thực ra, hai bên đã phát sinh lòng luyến ái. Nay nàng đột nhiên xuất giá, e rằng có điều uẩn khúc! Tại hạ muốn được tháp tùng én các hạ đến Ngũ Đài Sơn xem sao! Nếu nàng thực tâm muốn lấy Mộc Kỳ Dương, tại hạ sẽ không ngăn cản. Bằng ngược lại, tại hạ sẽ đem nàng đi khỏi nơi ấy!
    Ánh mắt Thương Tâm Kiếm lộ vẻ thích thú, gằn giọng hỏi lại:
    - Chẳng lẽ Tiểu Hầu Gia lại dám lấy một Ma Nữ về làm vợ?
    Hãn Thanh cười mát:
    - Các hạ quên rằng ta là đệ tử của ai sao? Gia sư suốt đời không phân biệt thiện ác, chính tà, xem danh lợi như phù vân, Thanh này cũng vậy thôi!
    Họ én hỏi tiếp:
    - Mộ Dung là dòng họ có thanh danh cao quý nhất võ lâm, liệu lão Hầu Gia có chấp nhận không? Hay lại là phải bắt Ma Cơ giấu mặt về làm dâu như lệnh đường ngày xưa?
    Hãn Thanh cười rộ:
    - Tại hạ không giống như gia phụ, chẳng bao giờ bắt ái thê phải chịu thiệt. Nếu lão Hầu Gia không chấp nhận, Thanh này sẽ đưa nàng về Vũ Di Sơn, chẳng cần đến tước Hầu nữa!
    Lúc này hai người đã xuống ngựa, đứng đối diện nhau. Thương Tâm Kiếm ngửa cổ cười dài, dơ ngón cái khen ngợi:
    - Hảo trượng phu! én mỗ không phục Bạch Y Hầu nhưng xin cúi đầu trước các hạ!
    Gã bỗng chỉnh sắc nói:
    - Tại hạ muốn kết bằng hữu với công tử!
    - Tại hạ cũng mong muốn nhu vậy!
    Hai người ôm lấy nhau cười khanh khách.
    Họ bàn bạc một hồi rồi trở ra đường quan đạo. Dung mạo Hãn Thanh giờ đây khác hẳn. Chàng đã cạo râu và mang tấm mặt nạ thứ hai, trở thành một chàng trai tuổi đôi mươi, tuy không anh tuấn nhưng cũng dễ coi.
    Họ thúc ngựa phi mau, chỉ hơn canh giờ sau đã đến chân ngọn Nam Đài, nơi có tòa Kim Thạch Sơn Trang của Tà Tẩu.
    Thương Tâm Kiếm xuống ngựa trình thiệp mời cho gã giáo đồ Thần Tiên Giáo đang gác cổng. Gã không xem, chỉ vào trong:
    - Nhị vị cứ để ngựa lại đây, vào đến cửa đại sảnh sẽ có người nhận thiệp và lễ vật!
    Hai người trao cương ngựa, xách tay nải đi theo con đường trải đá dăm, xuyên qua một cánh rừng hòe.
    Vì đang là mùa xuân nên rừng hòe xanh tốt, râm mát. Đến mùa hạ, hoa nở rộ, vàng rực và tỏa hương thơm ngào ngạt khiến lòng người say đắm. Hoa lại rụng đầy mặt đất trông như tấm thảm thêm cực kỳ diễm lệ.
    Hết rừng hòe là vào đến khuôn viên Sơn Trang. Tiền trang là một tòa mộc lâu hai tầng đồ sộ, nằm ở cuối sân gạch rộng mênh mông. Nơi đây dường như là khách sảnh và diễn võ đường.
    Hai bên tả hữu của sân là những tòa tiểu xá xinh đẹp, cách nhau độ hai trượng và được nối liền bằng những hành lang dài, lợp ngói!
    Sân gạch được chia dọc làm ba bởi hai hàng cây Du cao lớn rậm rạp. Đây là loại Lang Nha Du, có lá hình răng sói, thuộc loại hiếm trong dòng họ Du.
    Chung quanh sân cũng có dăm chục cây Đậu Khổng Tước, còn gọi là Đậu Đỏ Biển, thuộc họ Hồng Đậu. Mùa xuân là hoa đâm cành nảy lộc nên cây cối xum xuê, che mát cả Sơn Trang. Đến tháng sáu, cây Khổng Tước Đậu sẽ chi chít những bông hoa trắng nuốt hay vàng nhạt.
    Giống Hồng Đậu thường chỉ mọc ở phía Nam Trung Hoa, không hiểu sao Kim Thạch Tà Tẩu lại khổ công vun bón để trồng cho bằng được ở chốn này.
    Hãn Thanh nói lên thắc mắc ấy và được Thương Tâm Kiếm giải thích:
    - Mộc sư bá là bậc kỳ nhân siêu việt, nhưng lại có tật lớn là say mê bảo thạch đến điên cuồng. Hạt của loại Hồng Đậu cứng chắc, sặc sỡ và không bao giờ phai màu, trông chẳng khác gì châu ngọc, thường được dùng làm đồ trang sức như vòng cổ hoặc vòng tay hoặc khảm nạm lên nhẫn, trâm cài đầu, đàn, vỏ kiếm... Đấy là những lý do mà sư bá trồng những cây Khổng Tước Đậu này!
    Hãn Thanh giật mình:
    - Té ra Kim Thạch Tà Tẩu lại là sư bá của én huynh!
    Thương Tâm Kiếm mỉm cười:
    - Gia sư là bạn học đồng môn với Tà Tẩu, do tính tình đạm bạc, coi thường danh lợi nên không xuất đạo.
    Hai người vượt qua sân gạch vào đến đại sảnh. Người tiếp họ là một lão nhân tuổi lục tuần, mày thô, mắt lộ. Lão xem bái thiếp, vui vẻ nói:
    - Té ra nhị vị là đệ tử của sư đệ trang chủ, thật là quý hóa!
    Lão bèn cho người đưa Thương Tâm Kiếm và Hãn Thanh vào một trong những tiểu xá ở phía Bắc sân gạch.
    Đêm hôm ấy, Hãn Thanh lập tức tiến hành cuộc do thám khu hậu viện, cố tìm cho ra nơi giam giữ Ngũ Đài Ma Cơ.
    Chàng nương theo bóng đêm, thám sát toàn bộ những công trình nằm phía sau mộc lâu.
    Khu vực này gồm hàng trăm tòa tiểu xá giống nhau, khiến Hãn Thanh khó mà biết được đâu là nơi cư trú của tân nương.
    Theo bản năng, Hãn Thanh trèo lên ngọn cây Khổng Tước Đậu, dõi mắt quan sát khắp nơi. May cho chàng là những cây Hồng Đậu này được sự ưu ái của Tà Tẩu nên đều rất xanh tốt, tàn lá xum xuê và cao vút.
    Hãn Thanh chợt chú ý đến một nam nhân dong dõng cao, y phục sang trọng, được dẩn đường bởi hai tỳ nữ áo xanh. Gã đàn ông này dừng chân trước một tòa nhà, thản nhiên đẩy cửa bước vào, còn hai tỳ nữ ở lại bên ngoài.
    Hãn Thanh linh cảm rằng hán tử kia là Mộc Kỳ Dương, liền bám theo sát gót. Giờ đây, chàng đã có thêm mười năm công lực nên khinh công tăng tiến vượt bậc chỉ trong chớp mắt, Hãn Thanh ập đến điểm huyệt hai ả nữ tỳ khiến họ đứng im như tượng gỗ.
    Chàng nhẹ nhàng đẩy cửa bước vào trong. Tiếng người đối thoại chính là điểm chỉ dẫn đường đi. Hãn Thanh lướt nhanh như gió thoảng đến phòng cuối cùng của tiểu xá. Chàng nép bên vách dùng nước bọt thấm thủng lớp giấy nhìn vào trong.
    Hãn Thanh mừng rỡ nhận ra Ngũ Đài Ma Cơ Lạc Bình đang nằm bất động trên giường bát bửu, và hán tử áo xanh kia đang ngồi cạnh mép giường.
    Gã ta tuổi độ ba mươi ba, dung mạo dể coi nhưng vẻ yêu mị lộ rõ, không sao giấu nổi.
    Hãn Thanh càng tin chắc gã ta là Mộc Kỳ Dương, liền thu mình, nhẫn nại quan sát.
    Chàng thấy hán tử áo xanh kia cười khanh khách:
    - Lạc hiền muội! Mai mới là ngày long phụng hòa duyên, ngu huynh sợ muội buồn nên mới đến an ủi! Sao hiền muội không nói gì hết?
    Lạc Bình cười mát:
    - Nếu Mộc thiếu gia muốn đàn tình thuyết ái, xin hãy giải huyệt cho tiểu muội!
    Mộc Kỳ Dương cười nhạt:
    - Võ công của hiền muội chỉ kém ngu huynh một bậc, dù yêu thương nàng ta cũng chẳng dám mạo muội ra tay!
    Nhờ câu đối thoại này, Hãn Thanh mới biết Lạc Bình bị điểm huyệt.
    Ngũ Đài Ma Cơ cay đắng nói:
    - Mộc thiếu gia là bậc kỳ nam tử, hà tất lại cưỡng bức lương duyên? Lòng này đã có đối tượng, thà chết chứ không đổi thay! Mộc thiếu gia đừng ép uổng cho hoài công!
    Mộc Kỳ Dương tái mặt:
    - Chẳng lẽ ta không bằng người ấy?
    Lạc Bình cười thảm:
    - Không phải do tài mạo hơn thua, chẳng qua lòng này đã trót trao!
    Mộc Kỳ Dương bật cười gian xảo:
    - Nếu nàng đã nói vậy thì bổn thiếu gia đành phải học câu "Tiên hạ thủ vi cường". Đêm nay nàng sẽ thuộc về ta!
    Dứt lời, gã nhanh chóng lột bỏ xiêm y Lạc Bình. Ngũ Đài Ma Cơ tuyệt vọng thè lưỡi định cắn nát mà tự sát nhưng cũng bị Kỳ Dương khóa cứng xương hàm.
    Thânn hình ngà ngọc của mỹ nhân lồ lộ dưới ánh nến, khiến Mộc Kỳ Dương phỡn chí, lửa dục bốc cao trăm trượng.
    Gã cười hăng hác thò tay vuốt ve đôi gò bồng đảo cao vút của Ma Cơ.
    Nhưng gã bỗng nhận ra trên mảnh vách đối diện có thêm một bóng người.
    Mộc Kỳ Dương kinh hãi quay lưng vỗ liền một chưởng. Người kia thản nhiên vung hữu thủ đỡ đòn. Hai bàn tay vừa chạm nhau thì một lưỡi thép đã xuyên qua ngực trái đâm thủng tim Mộc Kỳ Dương. Gã rùng mình ngã quỵ dưới chân giường.
    Lục Thân vừa mừng vừa sợ, nhìn chăm chú vào người bịt mặt! Nàng rất xấu hổ vì tình trạng lõa lồ của mình nhưng không cách nào cử động được!
    Hắc y nhân chính là Mộ Dung Hãn Thanh. Sau khi giết Mộc Kỳ Dương, chàng bước đến giường, định hỏi han và giải huyệt cho Lạc Bình.
    Nhưng thân hình ngà ngọc của nàng phơi bày lồ lộ trước mắt. Khiến lửa dục trong lòng chàng bốc lên ngùn ngụt. Hãn Thanh lại tự xem Lạc Bình như thê thiếp nên không úy kỵ, chàng thả hồn theo dục vọng, úp mặt vào ngực Ma Cơ, hít mùi hương trinh tiết từ da thịt mỹ nhân.
    Ngũ Đài Ma Cơ kinh hoàng rú lên những tiếng não nùng. Đôi xương hàm bị trật khớp, tiếng kêu ú ớ không thành lời. Nhưng như thế cũng đủ đánh thức lương tri của Hãn Thanh. Chàng hổ thẹn mặt vội y phục vào cho Lạc Bình rồi cõng nàng trên lưng mà đào thoát khỏi khu hậu viện, trở về căn tiểu xá ở mé tả sân gạch.
    Thương Tâm Kiếm mau mắn mở cửa phòng, đón Hãn Thanh vào. Thấy trên lưng chàng có người, gã thở phào:
    - Không ngờ công tử lại cứu được Ngũ Đài Ma Cơ nhanh như vậy!
    Hãn Thanh cười khổ:
    - Tiểu đệ đã giết thiếu trang chủ Mộc Kỳ Dương! Chúng ta làm sao thoát khỏi nơi này mới là điều quan trọng!
    Chàng đặt Lạc Bình xuống giường, én Khiếu Hồ tế nhị bước ra. Hãn Thanh lột khăn che mặt và mặt nạ giả ra, rồi tiến hành việc giải huyệt cho Ma Cơ. Trước tiên, chàng trả khớp hàm răng của nàng về chỗ cũ. Lạc Bình bật khóc:
    - Công tử! Nô tỳ những tưởng kiếp này chẳng còn được gặp mặt nhau!
    Hãn Thanh mỉm cười:
    - Ta xin lỗi vì đã giết chết tình quân của nàng!
    Lạc Bình liếc chàng sắc như dao:
    - Công tử có đền được cho nô tỳ không?
    Ánh mắt nàng tình tứ, rực rỡ lửa yêu thương, khiến Hãn Thanh say đắm; Trong lúc này, nàng xinh đẹp và quyến rũ hơn cả Trịnh Tiểu Thuần và Viên Nguyệt Hằng Nga Hà Hồng Hương!
    Hãn Thanh chợt cảm thấy mình có lỗi với người vợ ma quái. Chàng đã quá quen với lời giáo huấn của Mông Diện La Sát, nên việc đa thê dường như là tội lỗi. Dù Tiểu Thuần đã mở lời chấp thuận Lạc Bình, nhưng lòng chàng vẫn áy náy khôn nguôi!
    Hãn Thanh gượng cười hỏi han, rồi giải huyệt cho Ngũ Đài Ma Cơ, Bất Biệt Cư Sĩ tinh thông cội nguồn võ học, từ một mà suy ra vạn pháp, vì vậy, thủ thuật điểm huyệt của Tà Tẩu không làm khó được chàng.
    Hãn Thanh nghiêm giọng:
    - Chỉ lát nữa đây cái chết của Mộc Kỳ Dương và sự mất tích của nàng sẽ bị phát hiện. Trinh Nô mau mặc y phục của ta và mang mặt nạ này vào, nhân lúc nhốn nháo, cùng Thương Tâm Kiếm én Khiếu Hồ thoát ra!
    Tuy không hiểu rõ đầu đuôi kế hoạch, Ma Cơ cũng ngoan ngoãn vâng lời. Nàng liếc chàng rồi trút bỏ xiêm y chẳng chút ngượng ngùng. Thân hình khêu gợi thon dài kia khiến trống ngực Hãn Thanh đánh thình thịch. Chàng nghe lửa dục lại xông lên, thở dài quay đi. Hãn Thanh biết mình ăn quá nhiều thịt rắn Hồng Sắc Mãng Xà nên dục tính mạnh mẽ, lúc nào cũng khao khát ái ân, lòng không thanh tĩnh như xưa nữa. Chàng tự nhủ từ nay phải thận trọng, nếu không sẽ biến thành kẻ tham dâm hiếu sắc!
    Ma Cơ thấp hơn Hãn Thanh nên mặc y phục của chàng không vừa. Tuy nhiên trong đêm tối khó ai nhận ra. Nhưng điều nan giải nhất chính là đôi gò bồng đảo cao vút của mỹ nhân. Lạc Bình thẹn thùng, ngúng nguẩy chỉ vào ngực mình nói:
    - Công tử! Thế này thì dấu được ai? Công tử phải giúp nô tỳ bó lại thôi!
    Hãn Thanh ngượng ngùng dùng kiếm cắt tấm vảo bao nệm bông thành người dải rộng độ gang tay.
    Ma Cơ cởi áo, đứng đối diện, da thịt trắng muốt, thơm tho khiến lòng quân tử xuyến xao. Hãn Thanh hổ thẹn nói:
    - Ta đã may mắn tìm được Hồng Sắc Mãng Xà, luyện thành Thiên Ma Bách Luyện công phu, nhưng lòng dục lại sục sôi, không còn đáng mặt quân tử nữa! Từ nay, nàng chớ nên lõa thể trước mặt ta!
    Lạc Bình thản nhiên nói:
    - Nô tỳ đã nguyện suốt đời hầu hạ công tử, nào tiếc gì tấm thân này!
    Hãn Thanh cứng họng, lặng lẽ xiết chặt những dải vải, bó ngực nàng lại.
    Xong xuội, chàng búi lại tóc cho Ma Cơ rồi mở cửa gọi Thương Tâm Kiếm.
    Họ én cười hỏi:
    - Công tử đã có lương sách gì chưa?
    Hãn Thanh gật đầu:
    - Tại hạ sẽ xông ra cửa chính của sơn trang, én huynh cùng Lạc Bình trà trộn vào toán quân truy sát mà trốn đi. Xin hẹn gặp nhau ở Lạc Dương!
    Thương Tâm Kiếm ngần ngừ:
    - Hay là công tử để ta đóng vai dụ địch cho!
    Hãn Thanh cười mát:
    - Khinh công của én huynh tuy cao cường nhưng không bằng tiểu đệ đâu!
    Chàng đưa cho gã tấm mặt nạ thứ hai:
    - Trước sau gì thì Tà Tẩu cũng sinh nghi khi thấy én huynh không quay lại. Hãy dùng dung mạo này để tránh sự truy sát của Thần Tiên Giáo!
    Ma Cơ lo lắng:
    - Mong công tử bảo trọng!
    Chàng gật đầu:
    - Nàng cứ yên tâm về Hầu Phủ với lão Hầu Gia. Tín vật này sẽ giúp nàng chứng minh quan hệ với ta!
    Chàng bèn trao cho nàng một mảnh kim bài nhỏ hơn bàn tay. Đây chính là Hầu Tước Kim Bài của dòng họ Mộ Dung!
    Hãn Thanh mau mắn bỏ hai chiếc gối vào chăn cuộn lại, trông giống như một hình người rồi vác lên vai!
    Chàng lần ra ngoài, trèo lên một cây Khổng Tước Đậu mà chờ. Lát sau, tiếng chiêng báo động vang rền khắp sơn trang, đèn đuốc sáng rực!
    Biết rõ đã đến lúc, Hãn Thanh nhảy xuống, lao vút về phía cổng chính.
    Bộn thiu? hạ Thần Tiên Giáo phát hiện xông ra chặn lại. Thanh Hầu Tước Kiếm trong tay Hãn Thanh chớp lên, hóa thành chiếc chong chóng thép gạt phăng vũ khí đối phương và tiện đứt những bàn tay hung hãn.
    Sau khi tăng thêm mười năm công lực, bản lãnh chàng lợi hại hơn xưa một bậc, kiếm pháp cũng nhanh nhẹn tuyệt luân.
    Thủ thức Trăm Uyển Lưu Sinh trong Nhất Nguyên Kiếm Pháp xuất phát từ lòng nhân hậu. Đối phương chỉ bị chặt đứt cổ tay, mất khả năng làm ác nhưng sinh mạng vẫn còn. Khi thi thố trong cuộc loạn chiến với số đông, kết quả càng kỳ diệu!
    Chưa đầy nửa khắc, Hãn Thanh đã vượt qua rừng hòe, đến cổng chính của sơn trang bỏ lại sau lưng mấy chục tên tàn phế và tiếng rên la thảm khốc.
    Đám giáo đồ gác cửa trước mặt chàng có đến hai mươi người, chúng liều chết cầm chưng để lực lượng phía sau đến kịp. Nhưng Hãn Thanh được mền gối che chở sau lưng nên chẳng úy kỵ, lao vào phá vòng. Chàng vận toàn lực xuất chiêu Kình Ngư Phân Lãng, kiếm phong vun vút xé nát phòng tuyến đối phương, giết liền bốn tên. Hãn Thanh nương theo kiếm chiêu lướt đến sát cổng, vung kiếm chặt đứt dây thiết luyện, lách ra ngoài.
    Lúc này Kim Thạch Tà Tẩu và các đại cao thủ đã xuống đến phía sau họ là một đoàn kỵ sĩ. Thấy hung thủ đã thoát vào bóng đêm, Tà Tẩu giận dữ quát:
    - Mau đuổi theo bắt cho được gã!
    Đoàn kỵ sĩ dạ vang, thúc ngựa phi mau. Trên tay họ là kiếm tuốt trần và đuốc nhựa thông. Trong đám ấy có cả Thương Tâm Kiếm và gã sư đệ trẻ tuổi.
    Toàn bộ nhân thủ của sơn trang lần lượt rời căn cứ, tỏa đi khắp nơi, cố tìm cho được kẻ đã giết Mộc thiếu gia và bắt cóc Ngũ Đài Ma Cơ!
    Kim Thạch Tà Tẩu căm hận rít lên:
    - Ngày mốt mới là ngày đại hỉ, trong trang không hề có người lạ mặt, chỉ toàn là thân hữu. Vật gã khốn kiếp kia làm sao vào được mà hạ thủ?
    Hứa Hữu Tinh trầm giọng:
    - Bản lãnh của hung thủ quả đáng sợ! Gã vác trên vai một người mà vẫn chạy như bay, lại thêm kiếm pháp lợi hại tuyệt luân, không ai cầm chân nổi!
    Tà Tẩu giật mình vì một ý niệm nào đó, cao giọng nói:
    - Tất cả người giáo đồ bị thương hãy đến đây!
    Bọn chúng đã được băng bó, nhưng vẫn nghe đau đớn phi thường vì xương cổ tay bị chặt đứt. Nghe gọi chúng thất thểu bước đến, đứng xếp hàng trước mặt Tà Tẩu.
    Mộc Tiến Luân tháo băng xem xét vết thương rồi thở dài:
    - Đây chính là thủ pháp Trăm Uyển Lưu Sinh của Bất Biệt Cư Sĩ. Năm xưa, Mai giáo chủ cũng bị Cao Hán Ngọc chặt đứt bàn tay phải như thế này đây!
    Hứa Hữu Tinh kinh hãi nói:
    - Chẳng lẽ hung thủ lại là Tiểu Hầu Gia Mộ Dung Hãn Thanh? Nhưng gã ấy làm gì có được một thân công lực thâm hậu như thế?
    Tà Tẩu cười nhạt:
    - Cứ bắt được gã rồi sẽ biết ngay! Mong Phó giáo chủ phát tín hiệu báo động toàn giáo, chặn mọi ngõ đường về Lạc Dương!
    Hứa Hữu Tinh gật đầu:
    - Quân sư yên tâm, nếu đúng là Mộ Dung tiểu tử thì gã không thoát khỏi Thiên La Địa Võng của bổn giáo đâu!

  11. #1
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    Forget và Forgive - Nguyễn đạt Thịnh

    .

    Forget và Forgive
    Nguyễn đạt Thịnh


    Tôi đọc 2 chữ rất thông thường Forgive và Forget trong một cái email trao đổi ngày mùng 4 tháng Chạp 2014 giữa 2 người tù khổ sai cải tạo ngày trước; người thứ nhất -tên A- gửi cho B -người thứ nhì bài viết BỆNH TẬT TRONG TRẠI CẢI TẠO của bác sĩ Trần Mộng Lâm.

    Ông Lâm cũng là một tù nhân khổ sai của Việt Cộng, ông viết lại nhiều chuyện ký ức có thật, và khiếp đảm đến rợn người.




    Bác sĩ Trần Mộng Lâm


    Xin đăng lại nguyên văn câu chuyện BỆNH TẬT TRONG TRẠI CẢI TẠO do một người tù viết, được 2 người tù khác trao đổi với nhau.

    BỆNH TẬT TRONG TRẠI CẢI TẠO
    Bác sĩ Trần Mộng Lâm

    Cố Bác Sỹ Trần Vỹ, cựu bộ trưởng Bộ Y Tế thời Đệ nhất Cộng Hòa, người thầy rất đáng kính của tôi, viết trong cuốn hồi ký Tù Nhân Chính Trị của ông về cái chết của một người bạn đồng đội, chết trong trại tập trung 52-A ngoài Bắc: Đại Tá Đỗ Kiến N., cựu quận trưởng một quận Saigon (Sự thật đại tá Đỗ Kiến Nhiễu là đô trưởng Sài Gòn-Chợ Lớn). Người khá vạm vỡ, anh ấy thuộc thành phần những người chịu đựng rất khó khăn việc ăn uống thiếu thốn. Anh ấy phì ra, bị phù tất cả người và đi đứng khó khăn.

    Cán bộ y tế ngây thơ cứ tưởng rằng chỉ cần kiêng muối cho cơ thể là làm biến mất bệnh phù, đã cho anh ăn đường. Điều này đã làm cho anh suy yếu thêm. Một buổi sáng, sau một đêm lạnh hơn thường lệ trong mùa, không thấy anh cử động khi tới giờ thức dậy, nhiều bạn bè nằm gần đến đánh thức anh nhưng anh không trả lời, dù còn thở một cách yếu ớt! Đại Tá Đỗ Kiến N. đã chết sau đó.

    Thầy Trần Vỹ viết tiếp: Vì sao N chết? Vì đói, Tất cả các bạn tù thì thầm. Vì bệnh phù thủng, cán bộ công an tuyên bố.

    Ba chục năm đã qua đi kể từ cái chết đó. Ngày hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại giai đoạn bi thảm này để suy nghĩ về những bệnh tật trong trại cải tạo.

    Người tù cải tạo suy yếu từ thể xác đến tinh thần nên rất dễ mắc bệnh.Sức đề kháng của cơ thể họ xuống thấp một cách trầm trọng nên một cơn gió, một sự thay đổi thời tiết tầm thường cũng là một lý do đủ để làm người tù bỏ mạng hay liệt giường liệt chiếu nhiều tháng trời. Một cách tổng quát, ta có thể chia ra những bệnh tật trong tù ra làm ba nhóm bệnh chính:

    1) Nhóm bệnh thứ nhất gây ra bởi sự thiếu dinh dưỡng.

    Tôi đã ở trong trại cải tạo nhiều năm trời nên đã hiểu một cách rất rõ thế nào là cái đói trong những ngày tháng đen tối đó. Hãy nghe BS Trần Vỹ kể chuyện tù tội của ông: Một buổi xế trưa, khi đến bệnh xá để lấy thuốc cho các bạn tôi, tôi đã thấy cách một vài thước trước cửa vào, một người thường phạm đã suy mòn, ngồi ngay dưới đất bụi bậm, năn nỉ không ngừng với giọng rên rỉ:

    - Ối ông cán bộ ơi, xin hãy thương sót tôi, hãy cho tôi ngay bây giờ chén cơm và cái trứng mà ông sẽ để lên quan tài khi tôi chết. Tôi đói quá, tôi không cần chúng sau khi tôi chết.

    Quả đúng là như vậy, cái đói đưa tới cái chết một cách dễ dàng. Người Y Sỹ nào cũng biết được là sự thiếu sinh tố B1 có thể làm người ta chết. Một sự thiếu sinh tố A có thể làm người ta mù, thiếu sinh tố B12 sinh ra thiếu máu, vân vân và vân vân. Nếu sự thiếu thốn đó ngắn hạn, người ta có thể chịu đựng được nhưng nếu bị cải tạo năm này qua năm khác, làm sao tránh được những cái chết thê thảm như cái chết của Đại Tá Đỗ Kiến N. như đã mô tả ở trên.

    2) Nhóm bệnh thứ nhì cũng rất quan trọng là những bệnh nhiễm trùng:

    Khi bị đưa vào U Minh để cưỡng bách lao động vào năm 1976, hai chân tôi nổi đầy những vết ghẻ lở. Vết thương này chưa lành thì lại có các vết thương khác nổi lên. Cho đến nay những vết thẹo vẫn còn đầy nơi hai cẳng chân của tôi.

    Cuối năm 1976, tôi được chỉ định làm y sỹ cho những người tù đồng bọn. Một đàn anh của tôi, cựu dân biểu của một tỉnh mà tôi quên mất tên, Kiến Phong thì phải, hai mắt và da bỗng trở nên vàng khè, nước đái sậm đen như nước mắm. Tôi biết anh bị đau gan nặng mà đề nghị gửi đi bệnh viện cán bộ không cho, nên cứ phải nhìn anh thoi thóp giữa đồng không mông quạnh của rừng núi Cà Mau. Không hiểu vì sao mà anh ta không chết, và bệnh đau gan cũng không gây nên một cơn dịch đau gan như tôi sợ. Có lẽ vì đa số chúng tôi đã có được kháng thể trong người từ lâu rồi mà không hay, không biết.

    Thầy Trần Vỹ kể lại trong sách đã nêu: Trong số những bệnh nhân có một cựu thiếu tá đã làm việc tại phủ Thủ Tướng. Anh ấy đã sốt nhiều ngày và bị đau ở ngực. Tôi đã áp tai vào lưng anh. Lúc bấy giờ tôi nghe rõ những dấu hiệu của chứng viêm phổi nhưng người ta nói không có gì trầm trọng và chích cho anh sinh tố B1. Tôi khuyên anh nên hỏi xin các bạn tù vài viên thuốc kháng sinh. Tôi không bao giờ biết được anh ta có tìm được kháng sinh hay không nhưng anh ta tiếp tục đi tới cái chòi nhỏ « bệnh xá » và vài ngày sau anh ta qua đời.

    Thật sanh mạng một người tù cải tạo rẻ như bèo.

    Người chỉ huy cũ của tôi, cựu Trung Tá Y Sỹ chỉ huy trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ trong thời gian bị cải tạo ngoài Bắc đã phải mổ gấp một trường hợp sưng ruột dư, cấp tánh cho một bạn tù trong những điều kiện rất là trung cổ, khi nghe kể lại trong lần anh ghé Montréal thăm chúng tôi, tôi còn rợn tóc gáy, nổi da gà. Nghĩa là chẳng có dao mổ, chẳng có khử trùng gì cả. Biết làm sao hơn, không mổ thì cầm chắc cái chết. Ông thầy của tôi mát tay nên đã cứu được bệnh nhân tuy anh khiêm nhường nói là: Thằng ấy số nó chưa chết .

    3) Nhóm bệnh thứ ba là nhóm bệnh thuộc về tâm thần.

    Sự tuyệt vọng gây nên những chứng bệnh mà chúng tôi gọi là Depression majeure. Người bệnh không còn thiết sống nữa. Những trường hợp tự tử tôi nghe kể lại rất nhiều tuy không chứng kiến, lý do là thời gian cải tạo của tôi tương đối ngắn, chỉ không bằng một phần nhỏ thời gian tù tội của những người khác.

    Tuy nhiên có một trường hợp mà tôi là nhân chứng đàng hoàng. Một cựu đại úy được đưa vào cưỡng bách lao động với tôi tại Kim Quy, Đá Bạc thuộc tỉnh Cà Mau. Anh ta vốn là lính kiểng, con nhà giàu, học xong bị động viên và vào quân đội mà thôi chứ tôi nghĩ cũng chưa từng giết ai bao giờ. Vào tù được ít lâu thì vợ bỏ theo cán bộ CS, trung úy công an gì đó. Cha mẹ già yếu lo buồn sau đó cũng qua đời. Ít lâu sau anh lại nhận được tin đứa con trai 5 tuổi cũng chết luôn không hiểu tại sao.

    Một đêm cuối tháng 12 chúng tôi đang nằm ngủ trong những cái chòi dựng tạm bợ giữa núi rừng Cà Mâu thì bỗng thấy tiếng ai gào lên trong đêm trường tịch mịch « ĐM HCM, ĐM HCM »

    Anh bạn đồng tù của tôi đã phát điên lên vì đau khổ.

    Ba mươi năm đã qua đi từ những kỷ niệm đau thương đó. Lòng tôi bây giờ giá lạnh. Tôi không còn hận thù gì những người đã từng làm cán bộ quản giáo của tôi. Tôi biết là họ cũng như tôi chỉ là những phần tử thụ động .Tôi sẵn sàng tha thứ cho những khuôn mặt một thời hét ra lửa mửa ra khói đó nhưng làm sao quên được những người bất hạnh? Sinh ra không đúng thời, sống không đúng chỗ.
    BS Trần Mộng Lâm

    A hỏi B "Có thể forget hay forgive được không?"

    B trả lời "Tôi đã chứng kiến quá nhiều cái chết của anh em đồng cảnh tội tù; cái chết nào cũng thê thảm, cái chết nào cũng đau thương. Đã gần 40 năm mà thỉnh thoảng tôi vẫn nằm mơ thấy mình còn ở trong tù. Thật khiếp đảm.

    Lý trí đưa ra nhiều lập luận bảo mình quên đi, và chính bản thân tôi cũng mong là mình quên đi được, tha thứ đám mọi rợ đó được. Nhưng làm cách nào để forget, để forgive? Khó trên sức tôi.

    Tôi không có tài như bác sĩ Lâm viết lại những việc làm khốn nạn của bọn mặt người dạ thú, nhưng trong suốt 17 năm dài, tôi chứng kiến tận mắt những thảm cảnh địa ngục đó. Đang ngủ, giật mình là hốt hoảng, nhìn thấy những khuôn mặt độc ác của chúng nó câng câng, thích thú trong lúc hành hạ anh em mình.

    Tôi không quên những hành động độc ác được, cũng không tha chúng nó được, dù tôi không đủ sức làm gì chúng nó.
    Xin kể lại cuộc thảo luận của 3 người tù khổ sai: bác sĩ Lâm, anh A, và anh B.
    Nguyễn đạt Thịnh

Trang 2 / 5 ĐầuĐầu 1234 ... Cuối Cuối

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •